®¹i häc quèc gia hµ néi Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ ***** Nghiªm quý hµo

TÝN DôNG §ÇU T¦ PH¸T TRIÓN CñA NHμ n−íc

cho c¸c ch−¬ng tr×nh kinh tÕ lín vμ

dù ¸n kinh tÕ träng ®iÓm ë viÖt nam

Chuyªn ngμnh: Kinh tÕ chÝnh trÞ

M· sè: 62 31 01 01

LuËn ¸n tiÕn sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ

Ng−êi h−íng dÉn khoa häc : pgs.ts ph¹m v¨n dòng

Hμ Néi - 2015

MỤC LỤC

1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM. ........... 30

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... .i DANH MỤC BẢNG, BIỂU ..................................................................................... ii MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM ........................................................ 30

1.1.1. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. .......................................... .30

1.1.2. Các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm .................. 33

1.1.3. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm .................................................................... .41

1.2. TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ............................... 63

1.1.4. Hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm.................................... 54

1.2.1. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới ................................................................................................................ .63

1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................... .71

2.1. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM ........................................................................................... .78

Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM ....................................................................... 78

2.1.1. Môi trường pháp lý .............................................................................. 78

2.1.2. Chính sách tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm .......................................................................... .83

2.1.3. Bản chất của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ................................................ .91

2.1.4. Năng lực của Tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm................................... .94

2.2. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA ... 99

2.2.1. Tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn ............... 99

2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA ................................................................................................... 117

2.2.2. Tín dụng đầu tư phát triển cho các dự án kinh tế trọng điểm ............ 114

2.3.1. Mức độ huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển nền kinh tế ................................................................................................................... 117

2.3.2. Tín dụng ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong việc hình thành, gia tăng giá trị tài sản cố định, cơ sở vật chất của nền kinh tế ............................................................................................. 119

2.3.3. Hỗ trợ các ngành, lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then chốt, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ................................................ 121

2.3.4. Hỗ trợ phát triển địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, khu vực nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo an sinh xã hội .................................. 124

2.3.5. Bảo toàn, phát triển và sử dụng vốn của Tổ chức cho vay ................ 128

3.1. BỐI CẢNH MỚI ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ...................................................................................... 134

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TD ĐTPT CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................................................... 134

3.1.1. Bối cảnh quốc tế ................................................................................. 134

3.2. QUAN ĐIỂM VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ............................................................................................................... 143

3.1.2. Bối cảnh trong nước ........................................................................... 137

3.2.1. TD ĐTPT là rất cần thiết cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ........................................................................................ 143

3.2.2. Xây dựng các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thật sự khoa học là điều kiện, cơ sở nâng cao hiệu quả của TD ĐTPT cho hoạt động tín dụng này ......................................................................................... 149

3.3. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ......... 152

3.2.3. Xây dựng mô hình cung ứng hợp lý; tăng cường kiểm tra, kiểm soát là nhân tố trực tiếp quyết định hiệu quả TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự ánkinh tế trọng điểm ........................................................... .150

3.3.1. Nhóm giải pháp về hoạch định các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ........................................................................................ 152

3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách đối với TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ... 155

3.3.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động, tổ chức thực hiện và quản lý TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm. ............................................................................................................. 161

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 167

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 169

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 170

PHỤ LỤC ............................................................................................................... 178

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ tiếng Anh/tiếng nước ngoài

Từ viết tắt CAR Capital Adequacy Ratio Nghĩa tiếng Việt Hệ số an toàn vốn

CDB China Development Bank Ngân hàng Phát triển Trung

Quốc

Chính phủ CP

Công nghiệp hóa CNH

Hiện đại hóa HĐH

DBJ Development Bank of Japan Ngân hàng Phát triển Nhật Bản

Doanh nghiệp nhà nước DNNN

Đầu tư phát triển ĐTPT

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc dân

KfW Kreditanstalt fur Wiederaufbau Ngân hàng Tái thiết Đức

Nghị định NĐ

Nghị quyết NQ

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHNN

Ngân hàng thương mại NHTM

Ngân hàng Phát triển Việt Nam NHPT

Ngân sách Nhà nước NSNN

ODA Official Development Assistance Vốn hỗ trợ phát triển chính thức

Quyết định QĐ

Tổ chức tín dụng TCTD

Tín dụng đầu tư phát triển TD

ĐTPT

Tín dụng nhà nước TDNN

Trái phiếu Chính phủ TPCP

VDB Vietnam Development Bank Ngân hàng Phát triển Việt Nam

WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng Trang Bảng

Tỷ trọng dư nợ tương ứng với các mức lãi suất cho vay trong 88 1

tổng dư nợ

2 Tỷ lệ số trả nợ vốn huy động đến hạn trong tổng số vốn huy động 91

mới hàng năm

Vốn TD ĐTPT cho vay Chương trình kiên cố hóa kênh mương 102 3

Phân loại tổng số 1.016 con tàu thuộc Chương trình đóng tàu 111 4

đánh bắt cá xa bờ

5 Số lượng các dự án trọng điểm (nhóm A) trong tương quan với 114

các nhóm dự án khác được tài trợ vốn TD ĐTPT

6 Dư nợ cho vay và tỷ trọng cho vay các dự án trọng điểm (nhóm 115

A) trong tổng số vốn cho vay TD ĐTPT

7 Tỷ trọng vốn TD ĐTPT trên GDP 118

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC

Tên phụ lục Trang Phụ

lục

01 Đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển qua các thời kỳ 177

(2000 – 2014)

02 Một số dự án trọng điểm ngành điện vay vốn tín dụng đầu tư phát 182

triển

03 Một số dự án trọng điểm ngành phân bón vay vốn tín dụng đầu tư 183

phát triển

04 Một số dự án trọng điểm ngành luyện kim, khoáng sản vay vốn 184

tín dụng đầu tư phát triển

PHẦN MỞ ĐẦU

1. GIỚI THIỆU CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Sự cần thiết của nghiên cứu, lý do lựa chọn đề tài

Trong quá trình phát triển, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nhu cầu

vốn để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng và các dự án chiến lược,

trọng điểm quốc gia là rất thiết yếu, cấp bách trong khi đó nguồn vốn đầu tư từ

ngân sách nhà nước không đáp ứng đủ do nguồn thu nhỏ bé, bội chi thường xuyên.

Ở các nước này, hệ thống ngân hàng thương mại với chức năng chủ yếu là huy

động và cho vay ngắn hạn nên không sẵn lòng tài trợ cho các công trình, dự án

trọng điểm có thời gian cho vay dài, khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao. Đồng thời,

thị trường vốn trung và dài hạn chưa phát triển để có thể hỗ trợ cho việc huy động

nguồn lực một cách dễ dàng. Trong khi đó, các nhà đầu tư tư nhân không muốn

hoặc không có khả năng tài trợ cho các công trình, dự án trọng điểm đòi hỏi vốn

đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài.

Để khắc phục, sửa chữa những thất bại thị trường đối với một số ngành

nghề, lĩnh vực có tính chất thiếu yếu, nền tảng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước song lại khó thu hút vốn đầu tư tư nhân, nhiều quốc gia trên

thế giới đã can thiệp vào nền kinh tế thông qua việc sử dụng công cụ tín dụng đầu

tư phát triển của Nhà nước để huy động nguồn tài chính bù đắp thâm hụt ngân sách

và thực hiện đầu tư vốn cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

cho những lĩnh vực, ngành nghề then chốt hoặc những lĩnh vực, ngành nghề có ý

nghĩa bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc sử dụng đầu tư của nhà nước nói chung,

đầu tư của nhà nước thông qua hình thức tín dụng đầu tư phát triển cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như một phương thức can thiệp của Nhà

nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại nhằm khắc phục các khuyết tật thị

trường, điều tiết vĩ mô, ổn định nền kinh tế đã được thực hiện hiệu quả ở nhiều

quốc gia. Hơn nữa, việc sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo dựng hệ thống an

1

sinh xã hội hiệu quả… đã trở thành một lựa chọn thích hợp ở nhiều quốc gia, nhất

là ở các quốc gia đang phát triển nơi mà nguồn vốn ngân sách nhà nước dành cho

đầu tư phát triển luôn trong tình trạng eo hẹp, khó khăn.

Trong thời gian qua, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam đã

thực hiện tài trợ vốn đầu tư vào nhiều lĩnh vực then chốt, quan trọng của nền kinh

tế, có tác động đến thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; các lĩnh vực,

ngành nghề khó thu hồi vốn; các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,

đặc biệt khó khăn… thông qua các chương trình kinh tế lớn, dự án trọng điểm của

Chính phủ. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thời gian

qua cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, xảy ra tình trạng tín dụng đầu tư ở một

số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế không thực hiện được mục tiêu như mong

muốn, gây lãng phí nguồn lực xã hội; một số chương trình kinh tế lớn như chương

trình đánh bắt cá xa bờ, chương trình mía đường, … đã thất bại, phá sản.

Xuất phát từ vai trò, sứ mệnh của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

nói chung và thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam thời gian qua, câu

hỏi nghiên cứu mà Luận án đặt ra là: Hoạt động tín dụng này ở Việt Nam thời gian

qua có hiệu quả kinh tế - xã hội như thế nào? Có những giải pháp nào nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt động tín dụng này ở Việt Nam trong thời gian tới?

Từ cách đặt vấn đề như nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề "Tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và các

dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho Luận án.

1.2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

Từ việc xây dựng khung khổ lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng đầu

tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt

Nam; đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng này ở Việt Nam thời gian qua, luận

án đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng này

trong thời gian tới.

Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ cụ thể như sau:

- Xây dựng khung khổ lý luận về tín dụng đầu tư phát triển cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm và vai trò của hoạt động tín dụng này

trong nền kinh tế thị trường; xác định một số chỉ tiêu cơ bản làm cơ sở cho khung

2

phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng này; nghiên cứu kinh nghiệm quốc

tế và rút ra một số bài học kinh nghiệm phù hợp và có thể áp dụng cho Việt Nam

trong quản lý, triển khai hoạt động tín dụng đầu tư của nhà nước nói chung, hoạt

động tín dụng đầu tư cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

nói riêng.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thời gian qua ở Việt Nam; chỉ ra

những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.

- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín

dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở

Việt Nam trong thời gian tới.

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động cho vay vốn tín dụng đầu tư

phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

ở Việt Nam trong thời gian qua do Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện.

Dưới góc độ Kinh tế chính trị, hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho

chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm này được nghiên cứu với tư

cách là một công cụ kinh tế - tài chính của Nhà nước để can thiệp vào nền kinh tế

nhằm góp phần khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, định hướng sự phát

triển của nền kinh tế.

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

*Phạm vi nội dung

Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức tín

dụng nhà nước, ban đầu ra đời và đi vào hoạt động với hình thức tín dụng đầu tư

(cho vay các dự án đầu tư phát triển). Hiện nay, hoạt động tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước bao gồm tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu (cho vay ngắn

hạn theo các hợp đồng xuất khẩu).

Trong đó, hình thức tín dụng đầu tư bao gồm nghiệp vụ cho vay đầu tư và

hỗ trợ sau đầu tư. Nghiệp vụ hỗ trợ sau đầu tư (là việc Nhà nước hỗ trợ một phần

lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn của tổ chức tín dụng để đầu tư dự án, sau khi dự án

đã hoàn thành đưa vào sử dụng và trả được nợ vay) chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, khoảng

3

vài chục tỷ đồng trên tổng số hàng chục ngàn tỷ đồng vốn tín dụng đầu tư giải

ngân hàng năm. Và trên thực tế, hầu như chỉ có nghiệp vụ cho vay đầu tư thực hiện

tài trợ vốn cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

Từ thực tế đó, Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ là hình thức tín

dụng đầu tư, cụ thể là nghiệp vụ cho vay đầu tư trong tín dụng đầu tư, chủ yếu là

cho vay đầu tư vào các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Luận

án không nghiên cứu các hình thức tín dụng đầu tư phát triển khác như tín

dụng xuất khẩu của Nhà nước, hỗ trợ sau đầu tư…

Phạm vi giới hạn trên phù hợp với yêu cầu đề ra là nghiên cứu cơ sở lý luận,

thực trạng và đề xuất các kiến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh

tế trọng điểm ở Việt Nam.

Ngoài ra, Luận án xem xét, tham khảo kinh nghiệm quốc tế ở một số quốc

gia có hoạt động cho vay tín dụng chính sách, tín dụng chỉ định (về bản chất tương

tự như hoạt động cho vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam)

nhằm rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Hoạt động tài trợ phát triển thông qua hình thức tín dụng chính sách được

nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và điều

kiện tiếp cận tài liệu, Luận án lựa chọn một số quốc gia có các định chế tài trợ phát

triển thực hiện nhiệm vụ cho vay tín dụng chính sách tiêu biểu cho các giai đoạn,

các mô hình khác nhau trong quá trình hình thành, phát triển các định chế tài trợ

phát triển trên thế giới và tiêu biểu cho các trình độ phát triển kinh tế khác nhau

trên thế giới, có những kinh nghiệm phù hợp mà Việt Nam có thể áp dụng. Cụ thể

như sau:

- Định chế tài trợ phát triển ở Trung Quốc (Ngân hàng Phát triển Trung

Quốc) tiêu biểu cho mô hình định chế tài trợ phát triển ở một nước đang phát triển,

có hệ thống chính trị và tổ chức nhà nước tương đồng với Việt Nam, được thành

lập năm 1994 và có đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Trung

Quốc thời kỳ cải cách hệ thống tài chính và mở rộng công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội thị trường ở Trung Quốc những năm gần đây.

- Định chế tài trợ phát triển ở Nhật Bản (Ngân hàng Phát triển Nhật Bản)

tiêu biểu cho mô hình định chế tài trợ phát triển ở một nước tư bản chủ nghĩa phát

4

triển, nằm ở châu Á, được thành lập cuối những năm 40, đầu những năm 50 thế kỷ

20, đã có những đóng góp to lớn trong việc triển khai thực hiện các chính sách

công nghiệp của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2 và quá trình công nghiệp

hóa thành công của Nhật Bản những năm 60-70 thế kỷ 20 cũng như tiếp tục có

những đóng góp trong quá trình phát triển của Nhật Bản hiện nay.

- Định chế tài trợ phát triển ở CHLB Đức (Ngân hàng Phát triển Đức) tiêu

biểu cho mô hình định chế tài trợ phát triển ở một nước tư bản chủ nghĩa phát triển

ở trình độ cao, công nghiệp hóa rất sớm song đến nay vẫn đang tiếp tục được sử

dụng như một công cụ đắc lực của Chính phủ trong sự nghiệp phát triển kinh tế -

xã hội ở quốc gia này.

*Phạm vi không gian và thời gian

Tín dụng nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua bao gồm một số hình

thức tín dụng khác nhau như tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thực

hiện qua một số ngân hàng thương mại nhà nước và hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển

nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam; tín dụng nhà nước cho người nghèo và các

đối tượng chính sách khác được thực hiện qua hệ thống Ngân hàng Chính sách xã

hội; tín dụng của nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương do

các Quỹ đầu tư phát triển địa phương ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương thực hiện…

Từ năm 2000, hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (hay còn

được gọi là tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển) đã được chính thức ghi nhận

riêng tại một văn bản pháp lý cao nhất là Nghị định của Chính phủ về tín dụng đầu

tư phát triển của Nhà nước. Đồng thời, cũng từ năm 2000, hình thức tín dụng đầu

tư phát triển của Nhà nước đã được Chính phủ chính thức giao cho một đầu mối

duy nhất là Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam) thống

nhất tổ chức thực hiện từ 01/01/2000 đến nay.

Do vậy, Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước do Quỹ Hỗ trợ phát triển trước đây (tổ chức

tiền thân của Ngân hàng Phát triển Việt Nam) và Ngân hàng Phát triển Việt Nam

hiện nay thực hiện từ 01/01/2000 đến năm 2013.

1.4. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận án

5

sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

*Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp

Đây là hai phương pháp được sử dụng trong toàn bộ luận án. Phương pháp

phân tích được sử dụng trước hết để xem xét những ưu nhược điểm của những

quan niệm về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Sau đó, phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái

quát những vấn đề liên quan đến khung lý luận về tín dụng đầu tư phát triển nói

chung, tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm nói riêng cũng như xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động

tín dụng này.

Phương pháp phân tích còn được sử dụng để phân tích thực trạng tín dụng

đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở nước

ta, theo khung khổ lý luận và thực tiễn đã xây dựng ở chương 1. Sau đó phương

pháp tổng hợp được sử dụng để chỉ ra những ưu nhược điểm của hoạt động này.

Trên cơ sở những vấn đề được bàn ở chương 1 và 2, luận án sử dụng phương pháp

tổng hợp để đề xuất các quan điểm và giải pháp ở chương 3. Sau đó, phương pháp

phân tích được sử dụng để lý giải vì sao tác giả lại đưa ra các quan điểm và giải

pháp đó.

*Phương pháp lô gich và phương pháp lịch sử

Để xây dựng khung khổ lý thuyết về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, phương pháp lô

gich được sử dụng để làm rõ những mối quan hệ bên trong của các khái niệm,

phạm trù liên quan đến vấn đề này. Phương pháp này còn được sử dụng để kết nối

chương 1 với chương 2 và chương 3: việc phân tích thực trạng ở chương 2 và đề

xuất quan điểm ở chương 3 được dựa trên khung khổ lý thuyết và thực tiễn ở

chương 1.

Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu ở chương 2, khi phân tích thực

trạng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự

án kinh tế trọng điểm ở nước ta. Thực tế của hoạt động này chính là những minh

chứng cho các lập luận, nhận xét, đánh giá.

*Phương pháp trừu tượng hóa khoa học

Thực tiễn liên quan đến tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cho các

6

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam rất phong phú, đa

dạng. Để làm rõ bản chất của hoạt động này ở nước ta, những ưu nhược điểm của

nó, phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng để loại bỏ những hiện

tượng bề ngoài, những yếu tố ngẫu nhiên không bản chất để nghiên cứu.

*Các phương pháp khác

Trong quá trình phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng này, luận

án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như so sánh, thống kê, mô tả, nghiên

cứu tình huống, tham khảo… để chỉ ra những kết quả, đánh giá những thành công,

hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó trong hoạt động cho vay tín dụng đầu

tư phát triển vào các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt

Nam thời gian qua và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động tín dụng này trong thời gian tới.

Nguồn số liệu, dữ liệu được sử dụng trong luận án là từ các báo cáo hoạt

động hàng năm của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, báo cáo đánh giá 3 năm, 5

năm hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, một số bài báo về hoạt động

của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Ngoài ra, luận án cũng sử dụng một số số liệu

từ Báo cáo của Thanh tra Nhà nước về hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt

Nam công bố năm 2012; các chỉ tiêu, số liệu trong các quyết định của Thủ tướng

Chính phủ có liên quan đến một số chương trình kinh tế lớn thực hiện bằng nguồn

vốn tín dụng đầu tư phát triển; một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trong các báo cáo của

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội

hàng năm tại các kỳ họp Quốc hội…

Trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ, luận án chưa có điều kiện để tiếp cận

số liệu cũng như đưa ra được một khung phân tích đánh giá, đo lường hiệu quả

kinh tế - xã hội một cách đầy đủ về các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm đã thực hiện ở Việt Nam thời gian qua – vốn có bản chất là một công

việc vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi công sức, trí tuệ, thời gian và kinh phí

khổng lồ, cần thiết được thực hiện bởi các cơ quan liên ngành của nhà nước. Điều

này đặc biệt càng đúng trong bối cảnh các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm thường có quy mô đầu tư lớn, địa bàn thực hiện rộng, phạm vi tác

động, ảnh hưởng trên một vùng dân cư, lãnh thổ rộng lớn hoặc có tác động, ảnh

hưởng, lan tỏa đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác chịu ảnh hưởng, tác động của

7

dự án kinh tế trọng điểm đóng vai trò nền tảng, tạo ra các yếu tố đầu vào cho việc

hình thành, phát triển của các ngành, lĩnh vực ấy. Ngoài ra, một đặc trưng lớn khác

cần xem xét là thời gian thực hiện các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm thường kéo dài (từ 5-10 năm đến 15 năm) và có độ trễ lớn trong hiệu quả, tác

động kinh tế - xã hội. Đây cũng là một rào cản trong nghiên cứu, đánh giá hiệu quả

về hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm.

Mặt khác, để đánh giá tương đối chính xác hiệu quả cũng như sự đóng góp,

tác động kinh tế - xã hội của các dự án, chương trình kinh tế này, rất cần xây dựng

được các tiêu chí đánh giá, thẩm tra, các tiêu chí đánh giá kết quả “đầu ra” trong

quá trình hình thành, xây dựng, quyết định chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư,

thẩm định, phê duyệt các chương trình, dự án này cũng như đòi hỏi xây dựng một

hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật do nhà nước ban hành chính thức, thống nhất,

rõ ràng, khoa học, hợp lý, tiên tiến về hiệu quả, tác động kinh tế - xã hội khi thực

hiện các chương trình, dự án kinh tế trọng điểm. Sau đó, sau khi các chương trình,

dự án được thực hiện xong, cần thực hiện các cuộc điều tra, khảo sát, đánh giá

công phu, với chi phí thực hiện hết sức tốn kém, huy động nhiều nguồn lực để xác

định, đánh giá hiệu quả của các chương trình, dự án này. Chưa kể, trong nhiều

trường hợp, kết quả của việc điều tra, khảo sát, đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội

của các chương trình, dự án còn chịu sự tác động, chi phối của các cá nhân và các

cấp quản lý vì những lý do khác nhau…

Chính vì vậy, trong phạm vi nguồn số liệu, tài liệu thu thập được, luận án đã

sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để rút ra các kết luận nghiên cứu

khoa học của luận án. Đồng thời, các nghiên cứu tình huống, phụ lục về kết quả

thực hiện một số chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm được sử dụng

trong việc minh chứng cho các đánh giá về thành công, hạn chế và nguyên nhân

của các hạn chế đó trong hoạt động cho vay tín dụng đầu tư phát triển vào các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam thời gian qua. Trên

cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

tín dụng này trong thời gian tới.

8

1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Đề tài nghiên cứu "Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các

chương trình kinh tế lớn và các dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam" có một số

điểm mới và đóng góp mới như sau:

- Nếu các nghiên cứu từ trước đến nay mới chỉ bàn đến tín dụng nhà nước

hoặc tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển nói chung thì Luận án đã lần đầu tiên

đề cập đến tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam thời gian qua.

- Luận án đã hệ thống hóa, bổ sung và làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận về

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung, xây dựng mới khung khổ lý

luận về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn

và dự án kinh tế trọng điểm, bao gồm: khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết của các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm; khái niệm, đặc điểm và vai trò

của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự

án kinh tế trọng điểm. Đồng thời, Luận án đã làm rõ quan điểm về hiệu quả kinh tế

- xã hội đối với hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương

trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm, đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản nhằm

đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng này.

- Luận án đã đánh giá một cách đầy đủ về đặc điểm, tính chất, ưu nhược

điểm, mặt mạnh và hạn chế của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Luận án đã chỉ ra rằng, tính

chất cho vay theo chỉ đạo là lợi thế để tín dụng đầu tư phát triển đóng vai trò công

cụ của Nhà nước trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong

từng thời kỳ, song cũng chính tính chất này tiềm ẩn và là nguyên nhân chủ yếu dẫn

đến những sai lầm mang tính chủ quan đưa đến những thất bại của các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thời gian qua.

- Bằng kết quả nghiên cứu của luận án, Luận án đã trả lời câu hỏi nghiên

cứu được đưa ra và khẳng định rằng: mặc dù còn một số dự án, chương trình chưa

hiệu quả, song thông qua các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm,

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã đóng vai trò là một công cụ đắc lực để

Nhà nước định hướng thị trường, góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế, chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước, phát triển nông nghiệp, nông

9

thôn, hỗ trợ các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn,

vùng sâu, vùng xa, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện và nâng cao mức sống của

người dân, qua đó góp phần thực hiện các mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.

2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

2.1.1. Nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

Các công trình nghiên cứu về tài chính, tín dụng ngân hàng và hoạt động

của các ngân hàng thương mại đã được công bố tương đối nhiều. Tuy nhiên, do

tính đặc thù về mục đích, đối tượng, phạm vi, phương thức hoạt động mà lĩnh vực

tín dụng nhà nước không có nhiều nghiên cứu, trong đó công trình nghiên cứu về

tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển có số lượng khá khiêm tốn, biệt là các luận

án tiến sĩ.

Để làm rõ những đóng góp của các công trình đã công bố về tín dụng nhà

nước cho đầu tư phát triển cũng như vạch ra những khoảng trống nghiên cứu trong

lĩnh vực này, có thể khái quát lại các kết quả nghiên cứu đi trước theo một số

nhóm vấn đề như sau:

*Khái niệm, nội dung hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước

- Đề tài khoa học cấp bộ “Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý tín dụng

nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam” của nhóm tác giả TS.Thái Bá Cẩn –

TS.Lê Xuân Hiếu, Viện Nghiên cứu tài chính, Bộ Tài chính (2001) có đối tượng

nghiên cứu là phân tích, đánh giá, nhận xét những mặt được và chưa được về chính

sách, cơ chế quản lý tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển hiện hành, rút ra

những vấn đề bất cập để làm căn cứ đề xuất giải pháp hoàn thiện cho thời gian tới.

Vì vậy, trong đề tài đã đề cập đến khái niệm và nội dung tín dụng nhà nước cho

đầu tư phát triển. Nội dung tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển được nhóm tác

giả đề cập gồm các vấn đề cơ bản như: đặc điểm của tín dụng nhà nước cho đầu tư

phát triển; tính lịch sử của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển; các hình thức

hoạt động tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển; vai trò của tín dụng nhà nước

cho đầu tư phát triển trong việc điều tiết kinh tế; các nguyên tắc trong quản lý của

10

tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển.

- Luận án tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín

dụng “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước” của

tác giả Trần Công Hòa, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2007) có giải

quyết các vấn đề về khái niệm và nội dung hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.

Trong đó, nội dung hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước bao gồm:

các hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (cho vay đầu tư, bảo lãnh tín

dụng đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư), tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước, đặc điểm của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

- Luận án tiến sĩ Kinh tế Chuyên ngành Tài chính, lưu thông tiền tệ và tín

dụng “Hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng Nhà nước bằng trái phiếu

Chính phủ ở Việt Nam” của Lê Quang Cường, Trường Đại học Kinh tế Thành phố

Hồ Chí Minh (2007) mặc dù bàn về trái phiếu chính phủ nhằm góp phần tăng tính

khả thị của trái phiếu chính phủ để góp phần huy động vốn vay cho nhà nước và

phát triển thị trường trái phiếu chính phủ song trong phần cơ sở lý luận tổng quan

về tín dụng nhà nước bằng trái phiếu chính phủ, tác giả cũng đã luận giải một số

vấn đề liên quan đến tín dụng nhà nước. Cụ thể, tác giả đã đưa ra các nội dung

như: khái quát về nguồn gốc ra đời, phát triển và sự cần thiết của tín dụng nhà

nước; khái niệm, bản chất và đặc điểm của tín dụng nhà nước; vai trò của tín dụng

nhà nước trong nền kinh tế thị trường; các hình thức huy động vốn tín dụng nhà

nước và mối quan hệ giữa các hình thức huy động vốn tín dụng nhà nước; các

phương thức huy động vốn tín dụng nhà nước bằng trái phiếu chính phủ.

- Luận án tiến sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế tài chính Ngân hàng “Hoàn

thiện nội dung và phương pháp thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước” của tác giả Nguyễn Chí Trang, Học viện Tài

chính (2009) lấy đối tượng nghiên cứu tập trung vào hai nội dung chính là nội

dung thẩm định dự án đầu tư và phương pháp thẩm định dự án đầu tư. Tuy vậy, do

phạm vi nghiên cứu là các dự án đầu tư từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của

Nhà nước nên trong phần cơ sở lý luận - những vấn đề chung về dự án đầu tư và

thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước -

có nội dung khái quát về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, gồm: khái niệm;

các hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; đặc điểm của hoạt động tín

11

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

- Luận án “Tín dụng Nhà nước đối với phát triển kinh tế các tỉnh Tây

Nguyên” của Vũ Mạnh Bảo, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

(2011) có đối tượng nghiên cứu là vấn đề “Tín dụng nhà nước đối với phát triển

kinh tế các tỉnh Tây Nguyên” với phạm vi nghiên cứu là hoạt động tín dụng nhà

nước tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam và các chi nhánh khu vực Tây Nguyên,

bao gồm các hình thức tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của Nhà

nước, cho vay lại vốn ODA…Do vậy, trong phần cơ sở lý luận về tín dụng nhà

nước, tác giả đã luận bàn về một số vấn đề liên quan đến tín dụng nhà nước nói

chung như: khái niệm tín dụng nhà nước trong cơ chế thị trường; đặc điểm của tín

dụng nhà nước; phân loại tín dụng nhà nước; điểm khác biệt giữa tín dụng nhà

nước với tín dụng ngân hàng và vốn ngân sách nhà nước; vai trò của tín dụng nhà

nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.

- Luận án “Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt

Nam” của tác giả Trương Thị Hoài Linh (2011) lấy hiệu quả hoạt động của Ngân

hàng Phát triển Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu. Do vậy, luận án không nghiên

cứu về khái niệm và nội dung hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

*Hiệu quả của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

- Đề tài khoa học cấp bộ “Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý tín dụng

nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam” của nhóm tác giả TS.Thái Bá Cẩn –

TS.Lê Xuân Hiếu, Viện Nghiên cứu tài chính, Bộ Tài chính (2001) lấy chính sách,

cơ chế quản lý tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển làm đối tượng nghiên cứu

nên đề tài không đề ra nhiệm vụ nghiên cứu về hiệu quả tín dụng nhà nước cho đầu

tư phát triển. Đề tài tập trung đi sâu vào phân tích chính sách, cơ chế quản lý tín

dụng nhà nước cho đầu tư phát triển, từ đối tượng cho vay, mức vốn cho vay, thời

hạn cho vay đến lãi suất cho vay, bảo đảm tiền vay…để từ đó đề ra các giải pháp

hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý tín dụng đầu tư nhà nước.

- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín

dụng “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước” của

tác giả Trần Công Hòa, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2007) đã đưa ra

khái niệm về hiệu quả nói chung và quan niệm về hiệu quả hoạt động tín dụng đầu

tư phát triển của Nhà nước. Theo đó, tác giả chủ trương xem xét hiệu quả hoạt

12

động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đòi hỏi phải được đánh giá một cách

tổng thể về mọi phương diện, theo phạm vi quản lý, hiệu quả có thể được xem xét

ở cấp độ vĩ mô và ở cấp vi mô (doanh nghiệp); mặt khác tác giả cũng cho rằng

hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cũng được xem xét

trên các khía cạnh: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Tác giả cũng đã xây dựng

hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của

Nhà nước bao gồm:

+ Hiệu quả đối với nền kinh tế quốc dân: thúc đẩy sự phát triển của nền

kinh tế, đánh giá thông qua các chỉ tiêu tổng quát trên giác độ nền kinh tế bao gồm

cả về kinh tế và xã hội.

+ Hiệu quả hoạt động của tổ chức tài trợ: các chỉ tiêu phản ánh khả năng

huy động và tài trợ tín dụng, an toàn tín dụng, khả năng tăng trưởng và phát triển

bền vững với mục tiêu cao nhất là an toàn, giảm thiểu sự hỗ trợ của Nhà nước và

thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.

+ Hiệu quả hoạt động của các dự án, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp: các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất kinh doanh (lãi, lỗ),

doanh thu, khả năng hoàn trả vốn vay...

- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín

dụng “Hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng Nhà nước bằng trái phiếu

Chính phủ ở Việt Nam” của Lê Quang Cường, Trường Đại học Kinh tế Thành phố

Hồ Chí Minh (2007) tập trung nghiên cứu về trái phiếu chính phủ nói chung và

phương thức phát hành trái phiếu chính phủ ở Việt Nam thời gian qua nói riêng

nên không có nội dung đề cập đến hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước.

- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế tài chính - ngân hàng “Hoàn

thiện nội dung và phương pháp thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước” của Nguyễn Chí Trang, Học viện Tài chính

(2009) có mục tiêu là nghiên cứu cơ sở về nội dung và phương pháp thẩm định dự

án đầu tư, phân tích, đánh giá thực trạng về nội dung và phương pháp thẩm định

dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Vì vậy tác

giả chỉ tập trung phân tích về dự án đầu tư, thẩm định dự án đầu tư và nội dung

13

thẩm định dự án đầu tư, phương pháp thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Phát

triển Việt Nam. Luận án không đề cập đến các nội dung về hiệu quả tín dụng đầu

tư phát triển của Nhà nước.

- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế tài chính, ngân hàng “Tín

dụng Nhà nước đối với phát triển kinh tế các tỉnh Tây Nguyên” của Vũ Mạnh Bảo,

Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh (2011) nhằm mục tiêu nghiên

cứu một cách có hệ thống về tín dụng nhà nước; khảo sát hoạt động tín dụng nhà

nước tại các Chi nhánh NHPT ở Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk-Đăk

Nông, Lâm Đồng). Trên cơ sở lý luận và khảo sát thực tế, quy hoạch phát triển

Tây Nguyên giai đoạn 2010-2020, tác giả đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm

phát triển tín dụng nhà nước một cách có hiệu quả trên địa bàn Tây Nguyên. Tuy

vậy, tác giả cũng đã có nghiên cứu về hiệu quả tín dụng nhà nước qua việc đưa ra

quan niệm về hiệu quả tín dụng nhà nước và một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín

dụng nhà nước (bao gồm các hình thức của tín dụng nhà nước như tín dụng đầu tư

phát triển, tín dụng xuất khẩu, cho vay lại vốn ODA…). Theo tác giả, hiệu quả tín

dụng nhà nước bao gồm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội mà các dự án đầu tư

mang lại. Tác giả đã xây dựng một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng nhà nước

bao gồm:

+ Đối với nền kinh tế: gồm hiệu quả kinh tế (tác động đến tốc độ tăng

trưởng kinh tế GDP; đóng góp cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế; giá trị kim

ngạch xuất khẩu tăng thêm; giá trị đóng góp cho NSNN tăng thêm); hiệu quả xã

hội (công ăn việc làm tăng thêm, mức thu nhập tăng thêm, tỷ lệ xóa đói giảm

nghèo, bảo vệ môi trường, số hộ thay đổi phong tục tập quán canh tác, hiệu quả đối

với doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế).

+ Đối với tổ chức quản lý tín dụng nhà nước: nợ xấu/tổng dư nợ; nợ khó

đòi/tổng dư nợ; nợ khó đòi ròng/tổng dư nợ; vòng quay vốn tín dụng xuất khẩu

(ngắn hạn); thời gian cho vay trung dài hạn bình quân của tổ chức tín dụng.

+ Đối với các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế tiếp nhận và sử dụng vốn

tín dụng nhà nước: hiệu quả hoạt động tín dụng nhà nước là một bộ phận trong

hiệu quả của doanh nghiệp, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với hiệu quả sản

xuất kinh doanh hay hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp mà có quan hệ

14

mật thiết với các loại hiệu quả này. Việc đánh giá hiệu quả này có thể được xem

xét qua các chỉ tiêu định tính, định lượng về kết quả hoạt động sản xuất kinh

doanh, khả năng trả nợ của dự án, số việc làm tạo ra, đóng góp cho xã hội…

- Luận án tiến sĩ Kinh tế chuyên ngành Kinh tế tài chính ngân hàng “Nâng

cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam” của Trương Thị

Hoài Linh (2011) có mục tiêu nghiên cứu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu tập

trung vào hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam nên luận án

không đề cập đến nội dung hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

* Đề xuất các giải pháp và kiến nghị

- Đề tài khoa học cấp bộ “Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý tín dụng

nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam” của nhóm tác giả TS.Thái Bá Cẩn –

TS.Lê Xuân Hiếu, Viện Nghiên cứu tài chính, Bộ Tài chính (2001) nghiên cứu

toàn diện về hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý tín dụng nhà nước cho đầu tư

phát triển ở Việt Nam. Đề tài có phạm vi nghiên cứu bao hàm tất cả các mặt

nghiệp vụ của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển, gồm: hoạt động cho vay

đầu tư của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển; hoạt động hỗ trợ lãi suất sau

đầu tư của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển; hoạt động bảo lãnh tín dụng

nhà nước cho đầu tư phát triển. Chính vì vậy, các giải pháp và kiến nghị, đề xuất

của đề tài xoay quanh vấn đề hoàn thiện chính sách cơ chế cho vay đầu tư, hoàn

thiện chính sách cơ chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; hoàn thiện chính sách cơ chế bảo

lãnh tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển. Luận án không đề xuất các giải pháp,

kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của tín dụng đầu tư phát triển.

- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín

dụng “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước” của

tác giả Trần Công Hòa, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2007) có phạm

vi nghiên cứu là hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại

Việt Nam giai đoạn 2000-2006, lấy Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát

triển Việt Nam) làm trọng tâm nghiên cứu. Do vậy, sau khi phân tích thực trạng

hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam, tác giả đã

đưa ra 5 nhóm giải pháp lớn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư

phát triển của Nhà nước và một số kiến nghị điều kiện thực hiện các giải pháp đối

với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, doanh nghiệp. 5 nhóm giải pháp của tác

15

giả gồm: (i) ổn định môi trường KT-XH và hoàn thiện hệ thống luật pháp; (ii) hoàn

thiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; (iii) hoàn thiện mô hình

tổ chức hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam; (iv) xây dựng chiến lược

phát triển dài hạn cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam; (v) nâng cao năng lực quản

trị rủi ro của NHPT.

- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín

dụng “Hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng Nhà nước bằng trái phiếu

Chính phủ ở Việt Nam” của Lê Quang Cường, Trường Đại học Kinh tế Thành phố

Hồ Chí Minh (2007) có liên quan đến tín dụng Nhà nước qua khía cạnh phương

thức huy động vốn tín dụng Nhà nước bằng trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, do

phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn trong khuôn khổ hình thức huy động vốn tín dụng

nhà nước bằng trái phiếu Chính phủ nên các kiến nghị, giải pháp của đề tài tập

trung vào hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng nhà nước bằng trái phiếu

Chính phủ ở Việt Nam, đề tài không có các giải pháp, kiến nghị về nâng cao hiệu

quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

- Luận án tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành kinh tế tài chính, ngân hàng “Hoàn

thiện nội dung và phương pháp thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước” của Nguyễn Chí Trang, Học viện Tài chính

(2009) nhằm mục tiêu nghiên cứu và hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm

định dự án đầu tư nên các giải pháp, kiến nghị được tác giả nêu ra trong đề tài

xoay quanh việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư như xây dựng Quy

chế thẩm định dự án đầu tư mới; đề nghị lựa chọn áp dụng một số phương pháp

thẩm định dự án đầu tư….Đề tài không có các giải pháp, kiến nghị về nâng cao

hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

- Luận án tiến sĩ Kinh tế chuyên ngành Kinh tế tài chính, ngân hàng “Tín

dụng Nhà nước đối với phát triển kinh tế các tỉnh Tây Nguyên” của Vũ Mạnh Bảo,

Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh (2011) có mục đích nghiên

cứu cuối cùng là đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục tình trạng việc

phát triển tín dụng nhà nước trên địa bàn Tây Nguyên còn hạn chế (thể hiện qua số

dư nợ, tổng mức cung ứng vốn tín dụng nhà nước trong toàn hệ thống NHPT còn

rất thấp…), qua đó để phát triển tín dụng nhà nước một cách có hiệu quả trên địa

bàn Tây Nguyên. Chính vì vậy, các giải pháp, kiến nghị của đề tài tập trung vào

16

việc phát triển tín dụng nhà nước trên địa bàn Tây Nguyên như: hoàn thiện cơ chế,

chính sách và điều hành tín dụng nhà nước có tính đến đặc thù Tây Nguyên; đổi

mới điều hành tác nghiệp tín dụng nhà nước của các chi nhánh NHPT trên địa bàn

với mục tiêu phát triển an toàn, bền vững; tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng

nhà nước, trước hết là đột phá trong công tác thẩm định, đổi mới trong khâu giám

sát; nâng cao năng lực tiếp cận tín dụng nhà nước đối với doanh nghiệp trên địa

bàn. Đề tài không đề cập đến các giải pháp, kiến nghị về nâng cao hiệu quả hoạt

động tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển.

- Luận án tiến sĩ kinh tế Kinh tế chuyên ngành Kinh tế tài chính ngân hàng

“Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam” của Trương

Thị Hoài Linh (2011) nhằm đến các mục đích chủ yếu là: nghiên cứu những cơ sở

lý luận cơ bản về Ngân hàng Phát triển và vai trò của Ngân hàng Phát triển đối với

nền kinh tế, hoạt động của NHPT, xây dựng tiêu chí về hiệu quả của NHPT; phân

tích và và đánh giá thực trạng hoạt động của NHPT; đưa ra các đề xuất các giải

pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHPT. Do mục đích nêu

trên, luận án chỉ đề cập đến các giải pháp, kiến nghị về nâng cao hiệu quả hoạt

động của NHPT. Luận án không đề cập đến các giải pháp, kiến nghị về nâng cao

hiệu quả của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển.

2.1.2. Nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các

chương trình kinh tế lớn và các dự án kinh tế trọng điểm

Trong các công trình nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

được nghiên cứu sinh tham khảo đến nay chưa thấy có nghiên cứu nào về tín dụng

đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm.

Trong các công trình nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

nêu ở trên, có thể tìm thấy khái niệm “chương trình kinh tế lớn”, “dự án kinh tế

trọng điểm” ở một vài công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, đây mới chỉ là các cụm từ

được nhắc đến một cách ngẫu nhiên, không gắn với tên đề tài nghiên cứu, không

phục vụ trực tiếp cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận án đó. Chẳng hạn, trong

luận án tiến sĩ “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước” của Trần Công Hòa, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2007), cụm

từ chương trình kinh tế lớn của Nhà nước xuất hiện trong một đoạn của luận án

như sau: “Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm thực hiện hỗ trợ vốn,

17

khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất thuộc các ngành, lĩnh

vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến

khích đầu tư. Đó chính là đầu tư mới, sửa chữa, thay thế khôi phục tài sản cố định,

cải tiến kỹ thuật, đổi mới quy trình công nghệ, xây dựng mới các công trình hạ

tầng kinh tế kỹ thuật và xã hội có khả năng thu hồi vốn trực tiếp” [28, tr. 83].

2.2. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan

2.2.1. Về tín dụng nhà nước

Qua các công trình mà nghiên cứu sinh tiếp cận, tham khảo, có thể thấy, các

nghiên cứu về tín dụng nhà nước hoặc được đề cập dưới tên gọi/thuật ngữ khác

như tài chính công, tín dụng công hoặc tín dụng chỉ định, tín dụng chính sách của

các tác giả ở nước ngoài không nhiều.

Vấn đề tín dụng nhà nước (hoặc được gọi bằng các tên gọi như tín dụng

chính sách, tín dụng chỉ định, tín dụng ưu đãi…) thường được tìm thấy trong các

luận giải về các chủ đề liên quan đến chính sách công nghiệp, chính sách kinh tế vĩ

mô khác.

Bên cạnh đó, có thể tìm thấy một số ít nghiên cứu về tài trợ phát triển nói

chung (có ý nghĩa như tài trợ chính sách) cũng như về các định chế tài trợ phát

triển - thường được gọi dưới tên ngân hàng phát triển – với tư cách là một công cụ

tài chính tín dụng, hoạt động cho vay chính sách, tập trung vốn phục vụ cho các

chính sách phát triển công nghiệp, thúc đẩy công nghiệp hóa ở các nước đang phát

triển, kém phát triển. Các nghiên cứu này chủ yếu do các nhà kinh tế học hoặc hiệp

hội các định chế tài trợ phát triển nghiên cứu và công bố.

Với mục đích “xem xét lại những nhân tố quan trọng quyết định tới thành

tựu của Đông Á từ giác độ quốc gia hoặc khu vực và chỉ ra kinh nghiệm của những

năm 90, hoặc đã thay đổi, hoặc tái khẳng định ra sao những quan điểm chính thống

đầu những năm 90 (của thế kỷ 20) vốn thường được thấy trong Sự thần kỳ Đông Á,

(Ngân hàng Thế giới 1993) [38] và nhiều ấn phẩm khác”, Shahid Yusuf [82] đã

đưa ra kết luận của ông về chính sách công nghiệp ở các nước Đông Á đã được

hậu thuẫn bởi chính sách tài chính của Chính phủ như thế nào, cụ thể là tín dụng

chỉ định (của Chính phủ), đối với sự phát triển của các ngành công nghiệp ở các

quốc gia Đông Á.

Theo đó, thập kỷ 80 của thế kỷ 20 khép lại với việc nhấn mạnh điểm yếu

18

của chính sách “chọn kẻ thắng cuộc” bằng cách hỗ trợ những người thắng cuộc

này các khoản tín dụng theo chỉ định từ hệ thống ngân hàng và bảo vệ chúng

bằng hàng rào thuế quan. Thập kỷ 90 của thế kỷ 20 chứng kiến sự thoái trào của

chính sách công nghiệp ở Đông Á, vì các nước này nhận ra lợi thế của việc mở cửa

và chấp nhận các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới…Nghiên cứu về

các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á trong thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ 20 đã cho

thấy các khoản đầu tư lãng phí vào các ngành luyện kim, hóa chất, phương tiện

vận tải. Các khoản đầu tư này dưới hình thức tín dụng chỉ định cho các nhóm

doanh nghiệp đã được lựa chọn trước và một số nhà máy đã mọc lên theo sự chỉ

đạo của Chính phủ. Các khoản tín dụng chỉ định và những ưu đãi về thuế đã nuôi

dưỡng các tập đoàn công nghiệp khổng lồ (ở Hàn Quốc gọi là chaebol) [82, tr.27].

Shahid Yusuf cũng viết, Cho và Kim (1995) cũng chỉ ra rằng, việc sử dụng

tín dụng theo chỉ định của Chính phủ Hàn Quốc trong một thời gian dài đã gây

nên nhiều thiệt hại do nhiều lý do khác nhau. Trong một thị trường độc quyền

nhóm, các khoản cho vay của ngân hàng được ngầm hiểu có sự đồng bảo hiểm của

Chính phủ sẽ khuyến khích các ngân hàng cho vay và khuyến khích các công ty

đầu tư vào các dự án rủi ro. Các ngân hàng thương mại ở Hàn Quốc đã hoạt động

gần giống như các ngân hàng phát triển, và kết cục là, phải gánh vác các khoản nợ

khê đọng khổng lồ tương đương gần 20% GDP [82, tr.28-29].

Ở Thái Lan, mặc dù chính phủ Thái Lan không sử dụng hình thức tín dụng

chỉ định nhiều như ở Hàn Quốc nhưng những bảo lãnh ngầm dành cho hệ thống

ngân hàng do mối quan hệ mật thiết giữa chính phủ - doanh nghiệp – ngân hàng đã

làm nảy sinh những vấn đề lợi dụng bảo lãnh, cố ý làm liều không kém phần

nghiêm trọng [82, tr.29].

Ở Philipines, các khoản tín dụng ưu đãi cũng như chính sách công khác

đều chịu ảnh hưởng của những nhóm người có quyền thế trong xã hội có mối quan

hệ tốt với chính phủ, còn quốc gia thì không nhận được gì từ hoạt động này [82,

tr.30].

Takatoshi Ito [32] khi luận giải nguyên nhân của hiện tượng thần kỳ châu

Á, cũng nhắc đến việc sử dụng chính sách công nghiệp ở Đông Á mà trong đó có

sự đóng góp của tài trợ chính sách (cho vay chính sách hay tín dụng chính sách)

làm nên thành công của các nước Đông Á. Tác giả viết: đối với những nước đang

19

nỗ lực đuổi kịp các nước tiên tiến thì việc nhận biết những ngành công nghiệp nào

cần thúc đẩy là tương đối dễ dàng, vì họ có thể xác định được những lợi thế so

sánh và có thể nhập khẩu công nghệ, thường là thông qua đầu tư trực tiếp nước

ngoài. Mô hình đàn nhạn bay có thể chỉ ra những ngành công nghiệp “chính xác”

cần thúc đẩy trong từng giai đoạn phát triển kinh tế nhất định. Hàn Quốc và Đài

Loan đã theo mô hình công nghiệp hóa của Nhật Bản, bắt đầu từ công nghiệp nhẹ,

tiến sang công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất, rồi công nghiệp điện tử và

đến công nghệ cao. Hàn Quốc đã thúc đẩy công nghiệp nặng và công nghiệp hóa

chất, những ngành tạo cơ sở hạ tầng công nghiệp, bằng cách tài trợ theo chính

sách [32, tr.80-82].

Joseph E.Stiglitz [59] chỉ ra một thực tế là việc hầu như tất cả các nền kinh

tế trong khu vực đều có chính sách công nghiệp cho thấy rằng, những chính sách

như vậy là một phần quan trọng trong chiến lược tăng trưởng của họ. Một trong

những cách chính để theo đuổi chính sách công nghiệp là thông qua sự can thiệp

vào thị trường tài chính. Sự can thiệp sẽ giúp khắc phục những thất bại thị trường

đặc trưng trên thị trường vốn. Và một trong những động lực chính tạo nên sự thần

kỳ Đông Á chính là chính sách công nghiệp và vai trò của Chính phủ trong đó có

việc tài trợ chính sách cho một số ngành công nghiệp then chốt hoặc định hướng

xuất khẩu [59, tr.652].

Theo Joseph E.Stiglitz, điều rõ ràng là chính phủ có can thiệp vào sự phân

bổ nguồn lực. Thí dụ, một số chính phủ đã thúc đẩy xuất khẩu bằng cách cấp tín

dụng cho những nhà xuất khẩu thành công và chỉ định tín dụng vào một số ngành

chọn lọc. Việc một số ngành được hỗ trợ đã tăng trưởng, và trong nhiều trường

hợp còn trở thành nền móng cho nền kinh tế của các nước khi tiến vào thiên niên

kỷ mới, cũng là một điều dễ thấy [59, tr.650].

Nghiên cứu “Ngân hàng phát triển trong thiên niên kỷ mới: Đánh giá ngân

hàng phát triển tại các quốc gia được lựa chọn và một số bài học cho tương lai”

của Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản (JERI) phối hợp với Ngân hàng Phát triển

Nhật Bản (DBJ) xuất bản năm 1999 [87] là một báo cáo nghiên cứu tương đối toàn

diện về các định chế tài trợ phát triển (DFI) và vai trò của nó ở các quốc gia được

lựa chọn. Báo cáo đã cho thấy các vấn đề xoay quanh ngân hàng phát triển đã tiến

triển một cách tuần tự, phản ánh mức độ phát triển công nghiệp ở mỗi quốc gia

20

liên quan. Tuy nhiên, vào lúc này (1999), vai trò của các ngân hàng phát triển đã

thu hút được sự chú ý nhiều hơn ở mọi nơi trên thế giới do sự cần thiết của tài trợ

đầu tư và xu hướng thành lập các ngân hàng phát triển tại các nền kinh tế chuyển

đổi và cùng lúc đó là xu hướng xác định lại vai trò của các ngân hàng phát triển

thậm chí ở cả các nước công nghiệp hóa. Nghiên cứu đã chỉ ra những nhân tố cơ

bản quyết định sự cần thiết đối với các ngân hàng phát triển, trong đó có trường

hợp một thị trường tài chính đã thất bại và đòi hỏi phải có sự can thiệp của Chính

phủ. Báo cáo đã cung cấp cho người đọc hiểu biết sâu sắc về vai trò của các ngân

hàng phát triển cũng như những nhân tố dẫn đến việc thành công và thất bại của

họ.

Điều đáng chú ý là tất cả các ngân hàng phát triển tại các quốc gia được lựa

chọn (Nhật Bản; các nước Đông Á (Singapore, Hàn Quốc, Malaisia, Thái Lan,

Philipine, Indonesia); Trung Quốc; Ngân hàng tái thiết Đức (KfW); Ngân hàng

Phát triển Châu Âu) đã đóng một vai trò chủ yếu cho sự nghiệp phát triển và từ đó

tạo ra những ý tưởng cho việc phân tích và rút ra những bài học. Qua nghiên cứu,

các định chế tài trợ phát triển ở Nhật Bản, Đức và các nước Đông Á được thành

lập nhằm cung cấp các khoản vay kỳ hạn cho việc tái thiết đất nước sau chiến tranh

hoặc sau khi giành được độc lập.

Trong giai đoạn đầu của việc tái thiết và công nghiệp hóa, các tổ chức tài

chính tư nhân vận hành một cách non nớt và không cung cấp đầy đủ nguồn vốn

cho phát triển, trong khi đó thị trường vốn chưa phát triển, trong bối cảnh này, các

định chế tài trợ phát triển đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các

nguồn tài trợ dài hạn để đầu tư vốn cho các ngành nghề, dự án cơ sở hạ tầng và các

lĩnh vực nơi mà sự thất bại của thị trường xảy ra. Qua vai trò này, các định chế tài

trợ phát triển đã góp phần vào việc phát triển kinh tế cao tại các nước Đông Á và

châu Âu.

Quá trình phát triển kinh tế ở các nước Đông Á được tiến hành đồng thời

với quá trình công nghiệp hóa. Chính sách công nghiệp của Chính phủ thông qua

các DFI đóng vai trò như một trong những công cụ chuyển từ chính sách thay thế

hàng nhập khẩu ban đầu sang chính sách khuyến khích xuất khẩu. Thậm chí một

số DFI được yêu cầu có vai trò lớn hơn nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tài

chính hoặc mở rộng khả năng cung cấp các khoản tài trợ cho cơ sở hạ tầng, các

21

chức năng mà khu vực tín dụng nhà nước ở Việt Nam đã và đang được chỉ định

cho tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển ở Việt Nam là Ngân hàng Phát

triển Việt Nam đảm nhận.

Vai trò của các DFI là cung cấp các nguồn vốn cần thiết và đầy đủ dựa trên

các chính sách quốc gia cho các lĩnh vực mà khu vực tài chính tư nhân không thể

đáp ứng đủ. Đây là một nguyên tắc căn bản không tính tới những thay đổi về môi

trường kinh tế xã hội. Tuy nhiên, DFI còn có sứ mệnh thay đổi vai trò của mình để

phù hợp với mức độ công nghiệp hóa của đất nước. Bên cạnh việc tài trợ cho các

ngành nghề truyền thống, các lĩnh vực đầu tư mới như phát triển cơ sở hạ tầng xã

hội, bảo vệ môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là đối tượng

tài trợ của các DFI.

Tóm lại, chức năng không đổi của các DFI là cung cấp các khoản tài trợ

phát triển nhằm phối hợp một cách hài hòa với khu vực tài chính tư nhân để đạt

được các mục tiêu về chính sách quốc gia một cách hiệu quả [90].

Michael P.Todaro [79] đưa ra định nghĩa: Những ngân hàng phát triển là

những tổ chức tài chính nhà nước và tư nhân chuyên cung cấp những quỹ trung và

dài hạn để thành lập và/hoặc mở rộng những xí nghiệp công nghiệp. Lý do ra đời

các ngân hàng phát triển, theo Todaro, là bởi các ngân hàng (ngân hàng thương

mại và ngân hàng tiết kiệm) đang tồn tại thường tập trung vào việc cung cấp các

khoản cho vay tương đối ngắn hạn vì những mục đích thương mại. Hơn nữa,

những ngân hàng này thường đề ra những điều kiện vay không phù hợp với việc

xây dựng các xí nghiệp mới và tài trợ cho các dự án quy mô lớn. Vốn kinh doanh

thực sự cho các ngành công nghiệp mới ít được chú ý. Để tạo khả năng cho sự tăng

trưởng công nghiệp trong những nền kinh tế khan hiếm vốn tài chính, những ngân

hàng phát triển đã tìm cách gây vốn, ban đầu tập trung vào hai nguồn chủ yếu: (1)

những khoản vay song phương và đa phương của các cơ quan viện trợ quốc gia

như Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ, các tổ chức tài trợ quốc tế như Ngân hàng Thế

giới, và (2) những khoản vay của chính phủ nước họ. Trong nhiều trường hợp,

những hoạt động của ngân hàng phát triển đã vượt quá vai trò của ngân hàng

truyền thống là cho những khách hàng đáng tin cậy vay tiền. Những hoạt động của

Ngân hàng phát triển thường bao gồm trực tiếp tham gia vào việc kinh doanh, quản

lý và thúc đẩy trong những xí nghiệp mà họ tài trợ - kể cả những tập đoàn do chính

22

phủ sở hữu và quản lý. Do đó, Ngân hàng phát triển đang giữ một vai trò ngày

càng quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa của nhiều nước kém phát triển.

[79, tr.507]

Nicholas Bruck [88, pp.9] cho rằng, tài trợ phát triển là một khái niệm rộng

hơn trong định nghĩa về một ngân hàng phát triển. Ngân hàng phát triển là một tổ

chức tài chính mà phạm vi hoạt động của nó chỉ được giới hạn trong các chức năng

và nhiệm vụ của nó. Tài trợ phát triển, ngoài những chức năng nhiệm vụ cụ thể của

một ngân hàng phát triển, còn bao hàm những mối quan hệ của tổ chức này với các

cơ quan chính phủ và địa phương, với các cơ quan hoạch định địa phương, mối

liên hệ với các chương trình phát triển quốc gia và với các lĩnh vực, ngành công

nghiệp, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, xã hội và các quá trình phát triển khác. Nghiên

cứu này đã chỉ ra sự phát triển của các ngân hàng phát triển trước Thế chiến thứ II,

sau Thế chiến thứ II và tình hình các ngân hàng phát triển ngày nay, bao gồm các

thông tin về số lượng các ngân hàng phát triển, sự khác biệt giữa các ngân hàng

phát triển, cũng như tầm quan trọng của các ngân hàng phát triển trong nền kinh tế

. Theo tác giả, trong lý thuyết tài trợ phát triển ngày nay, khái niệm “phát triển”

được kết hợp với khái niệm “ngân hàng” để xây dựng một cơ chế tài trợ và thực

hiện các dự án phát triển thường được gọi là “ngân hàng phát triển”.

William Diamond [89] đã dẫn lại các phát biểu phổ biến về ngân hàng phát

triển như: “nhiệm vụ của một ngân hàng phát triển là “phát triển”, hay nói rằng:

“đảm nhận trách nhiệm đẩy mạnh các chính sách phát triển của quốc gia là nhân tố

đặc biệt khiến một ngân hàng trở thành ngân hàng phát triển” hoặc rằng: “các hoạt

động của ngân hàng phát triển phải đóng góp vào lợi ích quốc gia”…để dẫn dắt

cho phần luận bàn của tác giả về chiến lược hay chính sách hoạt động của ngân

hàng phát triển. Tác giả đã thông qua các trường hợp ở Hàn Quốc, Iran, Ấn Độ,

Châu Phi để đi đến kết luận về việc ngân hàng phát triển cần phải thay đổi, định

hướng lại và xác định lại nhiệm vụ của mình nhằm đáp ứng sự thay đổi nhanh

chóng của môi trường xung quanh [89, tr.41].

2.2.2. Về tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và

dự án kinh tế trọng điểm

Cho đến nay, nghiên cứu sinh chưa tiếp cận được công trình nghiên cứu của

nước ngoài nào nghiên cứu trực tiếp về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cho

23

các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

2.3. Những kết quả chính rút ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu và

những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu

2.3.1. Khái niệm, nội dung tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho

các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm

* Khái niệm tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

Sau khi nghiên cứu, tham khảo các công trình, tài liệu nghiên cứu có liên

quan đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, có thể rút ra một số kết quả chủ

yếu như sau:

Một là, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra khái niệm

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án

kinh tế trọng điểm.

Hai là, khái niệm tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã được một vài

công trình nghiên cứu quan tâm, đề cập tới ở các mức độ khác nhau song nhìn

chung nội dung các khái niệm đã có vẫn chưa phản ánh đầy đủ tính chất, đặc điểm

và vai trò của hình thức tín dụng này.

Khái niệm tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển được nhóm tác giả Thái

Bá Cẩn – Lê Xuân Hiếu [3] quan niệm như sau: “Tín dụng nhà nước là các hoạt

động vay – trả giữa Nhà nước với các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế, phục

vụ cho mục đích của Nhà nước”. Khái niệm này chủ yếu mới nêu được phạm vi

của hình thức tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển mà chưa thể hiện được các

khía cạnh về đặc điểm, tính chất của hình thức tín dụng này.

Trần Công Hòa [28] định nghĩa: tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là

sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các hình thức tín dụng để tài trợ đầu tư các dự

án phát triển thuộc lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích. Khái niệm này đã nêu

được cách thức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong khi đó lại

chưa nêu được đặc điểm của hình thức tín dụng này so với các hình thức tín dụng

khác.

Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến khái niệm tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm nêu

24

trên, vấn đề đặt ra là:

- Hoàn chỉnh khái niệm về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo

hướng khắc phục được những khiếm khuyết trong các khái niệm đã có, nhằm bao

quát được phạm vi, cách thức, tính chất, đặc điểm, vai trò, mục đích của hình thức

tín dụng này.

- Phát triển, xây dựng mới khái niệm về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm.

* Nội dung tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương

trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm

Qua tham khảo các công trình, tài liệu nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước cho thấy:

Thứ nhất, cho đến nay, chưa có công trình, tài liệu nào nghiên cứu về tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án

kinh tế trọng điểm. Các nghiên cứu hiện có mới dùng lại ở các nội dung về tín

dụng nhà nước hoặc tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung.

Thứ hai, do phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, cách tiếp cận và

mục đích của các nghiên cứu khác nhau nên kết quả nghiên cứu của các công trình

đã có về tín dụng nhà nước hoặc tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cũng

phản ánh các mức độ khác nhau về nội dung tín dụng nhà nước hoặc nội dung tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

Chẳng hạn, ở các nghiên cứu của Lê Quang Cường [19] và Vũ Mạnh Bảo

[1], do phạm vi nghiên cứu được các tác giả đặt ra là hình thức tín dụng nhà nước

nói chung chứ không chỉ khu biệt ở hình thức tín dụng đầu tư phát triển nên các

nội dung như đặc điểm, vai trò của tín dụng nhà nước được đề cập có tính khái

quát chung và phản ánh cho tất cả các hình thức tín dụng nhà nước bao gồm tín

dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, cho vay lại nguồn vốn

ODA, huy động vốn cho NSNN bằng trái phiếu Chính phủ qua hệ thống Kho bạc

Nhà nước…

Nghiên cứu của Trần Công Hòa [28] có đối tượng nghiên cứu trực tiếp là

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nghiên cứu của Nguyễn Chí Trang [80]

có đối tượng nghiên cứu gián tiến liên quan đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước. Do vậy, trong các nghiên cứu này, đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển

25

của Nhà nước đã được các tác giả nghiên cứu, đề cập một cách tương đối tập

trung. Song nội dung vai trò của tín dụng đầu tư phát triển trong các nghiên cứu

này lại không được các tác giả đề cập đến.

Khái quát lại, bên cạnh các kết quả nghiên cứu đã có về bản chất, sự ra đời,

đặc điểm, vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, có thể rút ra một số

khoảng trống chưa được nghiên cứu và cần thực hiện là:

- Một là, xây dựng mới các nội dung chưa được nghiên cứu về chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như:

+ Khái niệm về chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm;

+ Đặc điểm của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm;

+ Sự cần thiết của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

- Hai là, xây dựng mới các nội dung chưa có về tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như:

+ Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm; đánh giá ưu nhược điểm của tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm.

+ Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

- Ba là, đối với các kết quả nghiên cứu đã có về tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước, cần bổ sung hoàn thiện thêm các nội dung mà các nghiên cứu đã có

chưa đề cập hoặc đề cập chưa đầy đủ, hoàn chỉnh. Ví dụ, đối với đặc điểm của tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, các nghiên cứu hiện có mới chỉ dừng lại ở

việc liệt kê một số sự khác biệt giữa hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước với các hình thức tín dụng khác. Các nghiên cứu này chưa thực hiện được

việc khái quát hóa và chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa tín dụng đầu tư phát triển của

Nhà nước với các hình thức tín dụng khác tập trung ở các đặc điểm chủ yếu như:

mục tiêu hoạt động, mục đích cho vay, đối tượng cho vay, lãi suất cho vay, huy

động vốn và nguồn vốn cho vay, chủ thể nhà nước trong quan hệ tín dụng…

2.3.2. Đánh giá hiệu quả của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

26

cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

Qua nội dung đánh giá hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

trong các công trình nghiên cứu đã tham khảo, có thể rút ra một số kết quả chính

sau:

Thứ nhất, chưa có công trình nghiên cứu nào thực hiện việc đánh giá hiệu

quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự

án kinh tế trọng điểm. Các nghiên cứu đã có mới chỉ đánh giá hiệu quả tín dụng

nhà nước hoặc hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

Thứ hai, đã có công trình nghiên cứu của Vũ Mạnh Bảo [1] và công trình

nghiên cứu của Trần Công Hòa [28]) thực hiện việc đánh giá hiệu quả tín dụng nhà

nước hoặc tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Các tác giả này đã đưa ra quan

niệm về hiệu quả tín dụng nhà nước hoặc hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của

Nhà nước. Đồng thời các tác giả cũng đã xây dựng nên một số chỉ tiêu đánh giá

hiệu quả tín dụng nhà nước hoặc tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

Trong 02 công trình nghiên cứu nêu trên, quan niệm của các tác giả tương

đối giống nhau về hiệu quả của hoạt động tín dụng nhà nước hoặc hiệu quả của

hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Cụ thể, cả 02 công trình nghiên

cứu nêu trên đều cho rằng, cần phải xem xét hiệu quả tín dụng nhà nước/tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước trên cả bình diện vĩ mô và vi mô, cả về hiệu quả

kinh tế và hiệu quả chính trị - xã hội. Tác giả của 02 công trình nghiên cứu trên

đều đưa ra tiêu chí đánh giá hiệu quả tín dụng nhà nước/tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước tập trung vào 03 đối tượng chính là: hiệu quả đối với nền kinh tế

quốc dân; hiệu quả đối với tổ chức thực hiện quản lý tín dụng nhà nước/tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước; hiệu quả của doanh nghiệp, dự án tiếp nhận và sử

dụng vốn tín dụng nhà nước/tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

Trên cơ sở kết quả rút ra từ nội dung đánh giá hiệu quả tín dụng đầu tư phát

triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

trong các công trình nghiên cứu được tham khảo trên đây, một số vấn đề cần tiếp

tục làm rõ và xây dựng mới là:

- Tham khảo, kế thừa có chọn lọc quan niệm về hiệu quả tín dụng nhà nước,

hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để nghiên cứu xây dựng mới

quan niệm về hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương

27

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

- Từ quan niệm mới về hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm này, xây dựng mới tiêu

chí đánh giá hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

2.3.3. Các kiến nghị, giải pháp đối với tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

Kết quả chủ yếu có thể rút ra về nội dung kiến nghị, giải pháp đối với tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án

kinh tế trọng điểm từ các nghiên cứu đã được tham khảo là:

Một là, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào đưa ra các kiến nghị, giải pháp

đối với việc nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

Hai là, trong số các nghiên cứu đã được tham khảo, chỉ có công trình

nghiên cứu của Trần Công Hòa [28] đã đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Các nghiên cứu khác không

có các kiến nghị, giải pháp về nâng cao hiệu quả tín dụng nhà nước hoặc tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước.

Ba là, các vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu và xây dựng mới là:

- Tiếp thu, kế thừa có chọn lọc các kiến nghị, giải pháp về nâng cao hiệu

quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã được nêu ra ở công trình nghiên

cứu của các tác giả đi trước.

- Xây dựng mới các kiến nghị, giải pháp về nâng cao hiệu quả tín dụng đầu

tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm. Trong đó, các kiến nghị, giải pháp cần đi sâu, làm rõ và tập trung vào nội

dung nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm chứ không dừng lại ở các kiến nghị, giải

pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung như đã

được đề cập ở các công trình nghiên cứu trước.

3. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Luận án gồm Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

28

nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm.

Chương 2. Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam.

Chương 3. Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư

phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng

29

điểm ở Việt Nam trong thời gian tới./.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN

CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN

VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM

1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC

CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG

ĐIỂM

1.1.1. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước

1.1.1.1. Khái niệm

Tín dụng thường được quan niệm là một phạm trù kinh tế và đồng thời là

sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người cho

vay và người đi vay theo những cơ chế nhất định về thời gian vay, lãi suất vay…

Tín dụng ra đời khi xã hội có phân công lao động, sản xuất và trao đổi hàng

hóa, trong quá trình trao đổi hàng hóa đã phát sinh các quan hệ vay mượn để thanh

toán, ban đầu bằng hiện vật – hàng hóa, sau này chuyển sang vay mượn bằng tiền

tệ. Như vậy, tín dụng, hiểu theo nghĩa hẹp là một quan hệ kinh tế hình thành trong

quá trình chuyển hóa giá trị giữa hình thái hiện vật và hình thái tiền tệ từ người này

sang người khác theo nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi trong một thời hạn thỏa thuận

nhất định. Tín dụng, hiểu theo nghĩa rộng, là quan hệ gồm hoạt động huy động vốn

và cho vay.

Tín dụng tồn tại và phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau,

các phương thức sản xuất khác nhau, song về bản chất, bao giờ tín dụng cũng biểu

hiện là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng (vay mượn) một lượng giá trị nào

đó (dưới hình thức hiện vật hoặc tiền tệ) từ người sở hữu sang người sử dụng trong

thời hạn nhất định nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng vốn tạm thời cho quá

trình tái sản xuất và đời sống theo nguyên tắc hoàn trả với một lượng giá trị lớn

hơn. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng, phong phú và

ngày càng phát triển, mở rộng về chủ thể tham gia, về quan hệ tín dụng, về đối

tượng và quy mô, hình thức tín dụng.

Tùy vào tiêu thức phân loại được lựa chọn mà người ta có thể phân loại tín

30

dụng thành các loại tín dụng, các hình thức tín dụng khác nhau. Căn cứ vào thời

hạn tín dụng, có các loại tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung, dài hạn. Căn cứ vào

đối tượng tín dụng, có các loại tín dụng vốn lưu động, tín dụng vốn cố định. Căn

cứ vào mục đích sử dụng vốn có các loại tín dụng sản xuất, tín dụng lưu thông

hàng hóa, tín dụng tiêu dùng. Căn cứ vào chủ thể tín dụng, có các loại tín dụng

thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước.

Theo Nguyễn Ngọc Hùng [31]: Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng, mà

trong đó nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của ngân sách

nhà nước, đồng thời là người cho vay để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của

mình trong quản lý kinh tế - xã hội và phát triển quan hệ đối ngoại.

Theo Thái Bá Cẩn [2]: Tín dụng nhà nước là các hoạt động vay – trả giữa

Nhà nước với các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế, phục vụ cho mục đích của

Nhà nước.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (Bách khoa toàn thư tự do) đưa ra định

nghĩa: Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với doanh nghiệp,

các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm

thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn

thu không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để Nhà nước hỗ trợ cho các ngành

kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ

quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mô.

Tác giả Thái Bá Cẩn [2] cũng đưa ra định nghĩa: Tín dụng nhà nước cho

đầu tư phát triển là tín dụng đầu tư của Nhà nước cho vay đầu tư với lãi suất ưu

đãi theo kế hoạch của Nhà nước, hoặc theo mục tiêu, định hướng của Nhà nước.

Khái quát lại, có thể hiểu: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một

hình thức tín dụng nhà nước, thể hiện quan hệ tín dụng giữa Nhà nước và các tổ

chức, đơn vị, trong đó Nhà nước vừa là người đi vay để bù đắp thiếu hụt ngân

sách, đồng thời vừa là người cho vay để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội theo mục

tiêu, định hướng của Nhà nước”.

1.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển

Tín dụng đầu tư phát triển (TD ĐTPT) là một loại hình tín dụng, vì vậy, tín

dụng đầu tư phát triển cũng hoạt động theo nguyên tắc vay – trả, song xuất phát từ

bản chất và mục đích riêng của mình mà hoạt động TDĐTPT có những đặc điểm

31

riêng, phân biệt nó với các hình thức tín dụng ngân hàng thương mại (NHTM).

Tín dụng ngân hàng thương mại

Đặc điểm Mục tiêu hoạt động

Mục tiêu hoạt động của tín dụng ngân hàng thương mại là nhằm hướng tới mục tiêu lợi nhuận của các tổ chức tín dụng đặt ra.

Tín dụng ngân hàng thực hiện kinh doanh tiền tệ, cung ứng thường xuyên một trong số các nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.

Tín dụng đầu tư phát triển TD ĐTPT là nhằm thực hiện các mục tiêu do Nhà nước đặt ra, nhằm hướng tới các lợi ích của nền kinh tế quốc dân; đầu tư vào những lĩnh vực mà tư nhân không muốn làm, NHPT không muốn hoặc không có khả năng cho vay. TD ĐTPT hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà hướng tới mục tiêu cuối cùng là hiệu quả kinh tế - xã hội của các dự án đầu tư phát triển nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, phục vụ phát triển kinh tế xã hội đất nước trong từng thời kỳ.

Mục đích cho vay

Tín dụng ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại (NHTM) chủ yếu cấp tín dụng cho tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn trung hạn, ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất ban đầu, vốn lưu động, vốn mua hàng hóa, vật tư phục vụ sản xuất, kinh doanh, thương mại hoặc nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân.

Mục đích cho vay của TD ĐTPT là để thực hiện các hạng mục, các công trình xây dựng cơ bản, nhà xưởng, hình thành tài sản cố định hoặc thanh toán cho các hợp đồng xây lắp, cung cấp vật tư, thiết bị, máy móc chuyên dụng gắn liền với các dự án đầu tư phát triển nhằm đầu tư, hình thành tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật chất kinh tế xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước.

Đối tượng cho vay

TD ĐTPT cho vay vào các dự án đầu tư phát triển được nhà nước khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi thuộc Danh mục các dự án vay vốn TD ĐTPT được ban hành theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ.

Đối tượng cho vay của tín dụng NHTM là tất cả các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thuộc mọi ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng…

lãi suất

Lãi suất cho vay

Lãi suất cho vay vốn TDĐTPT là lãi suất ưu đãi theo chỉ đạo của Chính phủ, quy định trong từng thời kỳ.

Lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD), NHTM thị trường, theo thỏa thuận giữa bên cho vay và bên vay.

Huy động vốn, nguồn vốn cho vay

Nguồn vốn thực hiện TDĐTPT từ các nguồn: ngân sách nhà nước, nguồn vốn huy động, nguồn vốn nhận ủy thác nguồn vốn ODA...Trong đó, nguồn vốn huy động là nguồn vốn quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn thực hiện TDĐTPT.

Để có vốn thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng, các TCTD, NHTM mại huy động vốn bằng các hình thức như: nhận tiền gửi (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác) của các khách hàng, cá nhân; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong và ngoài nước.

Trong hoạt động huy động vốn TDĐTPT, không có hình thức huy động vốn thông qua nhận tiền gửi thường xuyên của khách hàng, cá nhân.

Trong các hình thức huy động vốn, nhận tiền gửi là hình thức huy động vốn chủ yếu của các TCTD, NHTM.

Huy động vốn bằng phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong nguồn vốn cho vay TD ĐTPT.

Luôn có một bên tham gia là chủ thể Nhà nước (đại diện là tổ chức được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện TDĐTPT).

Chủ thể nhà nước là không bắt buộc, theo đó, bên cho vay có thể là tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã…được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ

Chủ thể nhà nước trong quan hệ

32

tín dụng

chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật hợp tác xã dưới hình thức công ty cổ phần, công ty TNHH, liên doanh, 100% vốn nước ngoài…

Tổ chức tín dụng, NHTM là doanh nghiệp thực hiện một số hoặc tất cả cả các hoạt động ngân hàng.

Tổ chức thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT không phải là doanh nghiệp, không đăng ký kinh doanh theo hình thức doanh nghiệp mà thường được tổ chức dưới hình thức một đơn vị sự nghiệp công của Chính phủ.

Hình thức tổ chức có thể là một trong các hình thức sau: công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty TNHH một thành viên 100% vốn chủ sở hữu, hợp tác xã… và phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.

Tổ chức thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT hoạt động theo luật riêng hoặc vừa hoạt động theo quy định của luật ngân sách nhà nước, vừa hoạt động theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, ngân hàng.

Địa vị pháp lý, mô hình tổ chức, giấy phép hoạt động, đăng ký kinh doanh của tổ chức cho vay

Tổ chức tín dụng hoạt động theo Giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp phép và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.

1.1.2. Các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm

1.1.2.1. Khái niệm

*Dự án

Dự án là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã

hội hiện đại. Dự án được nhiều lĩnh vực, ngành nghề và các nhóm, các tập hợp

hoạt động, nghiên cứu đưa ra khái niệm.

Dự án thường được hiểu là một tập hợp các đề xuất nhằm thực hiện một

phần hay toàn bộ công việc nhằm đạt được mục tiêu, yêu cầu nào đó trong một

khoảng thời gian xác định với một sự ràng buộc nhất định về nguồn lực thực hiện.

Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (WB): Dự án (Project) là một tập

hợp các hoạt động có liên quan đến nhau nhằm đạt được một hoặc một số mục tiêu

xác định, được thực hiện trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định, dựa

trên những nguồn lực xác định. Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án hỗ trợ kỹ

thuật.

Theo Luật đầu tư năm 2005: Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn

trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong

khoảng thời gian xác định [53].

Theo tính chất sở hữu của chủ đầu tư dự án, dự án đầu tư được phân chia

thành dự án của thành phần kinh tế nhà nước và dự án của các thành phần kinh tế

33

ngoài nhà nước.

Theo quy mô vốn đầu tư và theo tính chất quan trọng của dự án đối với việc

phát triển một ngành, lĩnh vực hoặc đối với nền kinh tế, dự án đầu tư được phân

chia thành các dự án có quy mô nhỏ, trung bình, lớn (tương ứng với tên gọi dự án

nhóm C, dự án nhóm B, dự án nhóm A) và dự án quan trọng quốc gia.

Dự án kinh tế được phân biệt với các dự án mang tính chất xã hội, từ thiện,

tôn giáo…hay các dự án thuần túy bảo vệ môi trường, cảnh quan là ở tính mục

đích kinh tế của dự án.

Dự án kinh tế là dự án đầu tư trong lĩnh vực kinh tế, nhằm thực hiện các

mục tiêu mang tính kinh tế.

*Dự án kinh tế trọng điểm

Dự án trọng điểm có mặt ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Dự án trọng điểm được dùng để chỉ các dự án có tính chất, vai trò quan trọng hơn

so với các dự án khác.

Theo quy định hiện hành [16] về quản lý đầu tư xây dựng công trình (trước

kia thường gọi là đầu tư xây dựng cơ bản), căn cứ trên tiêu chí mức vốn đầu tư cho

dự án hoặc căn cứ vào tính chất quan trọng của dự án mà các dự án được phân loại

thành dự án nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C nhằm phục vụ công tác quản lý

dự án, quản lý đầu tư (ví dụ để phân cấp quyết định chủ trương đầu tư, phân cấp

quyết định đầu tư…).

Các dự án nhóm A (có tổng mức vốn đầu tư quy mô lớn hơn cả hoặc có tính

chất, ý nghĩa quan trọng) là dự án, công trình trọng điểm của một ngành, lĩnh vực,

bộ, ngành, địa phương, cần tập trung vốn đầu tư, quản lý, triển khai.

Dự án kinh tế trọng điểm là các dự án ĐTPT có quy mô vốn đầu tư lớn hoặc

có ý nghĩa quan trọng (các dự án nhóm A) trong lĩnh vực kinh tế, trực tiếp tạo ra

các sản phẩm chiến lược, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các ngành, lĩnh vực

then chốt, có tác dụng thúc đẩy quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế hoặc cơ cấu thu

nhập của một bộ phận dân cư. Các dự án ĐTPT này thường nằm trong kế hoạch

phát triển kinh tế quốc gia.

*Chương trình kinh tế

- Chương trình theo nghĩa thông thường trong từ điển tiếng Việt là: “toàn bộ

nói chung những dự kiến hoạt động theo một trình tự nhất định và trong một thời

34

gian nhất định, nêu một cách vắn tắt” [81].

- Chương trình với nghĩa là một khung kế hoạch tổng thể về thời gian, địa

điểm, quy mô, phương thức thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm đạt được một số

mục tiêu xác định đã được áp dụng và triển khai để quản lý các dự án thuộc các

lĩnh vực kinh tế - xã hội thông qua hình thức Chương trình mục tiêu, Chương trình

đầu tư của Chính phủ trong một ngành, lĩnh vực, vùng miền, một hoạt động kinh

tế, xã hội…như là một công cụ để quản lý, tổ chức thực hiện các hoạt động đầu tư,

hoạt động kinh tế - xã hội, cộng đồng…

- Các chương trình đầu tư của Chính phủ trong một ngành, lĩnh vực, vùng

miền, một hoạt động kinh tế - xã hội được các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan

quản lý TD ĐTPT của Nhà nước gọi là “Chương trình kinh tế”.

- Chương trình kinh tế thường được hiểu là tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ,

kế hoạch tổng thể về thời gian, địa điểm, quy mô thực hiện các dự án ĐTPT trong

một giai đoạn nhất định nhằm đạt được một số mục tiêu đề ra của Chương trình để

thực hiện Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong từng thời

kỳ.

*Chương trình kinh tế lớn

Chương trình kinh tế lớn thường là một chương trình phát triển kinh tế của

Nhà nước, mang tính dài hạn, có quy mô lớn hoặc có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết

trong một giai đoạn nhất định, đem lại những thay đổi cơ bản cho một ngành, lĩnh

vực, vùng, miền, thậm chí liên vùng hoặc trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc

gia nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra của Chương trình, qua đó thực hiện một số

mục tiêu xác định trong Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội quốc gia

từng thời kỳ.

1.1.2.2. Đặc điểm của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm

*Chương trình kinh tế lớn được nhận diện bởi một số đặc trưng sau:

* Hình thức của chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn gồm một

tập hợp các dự án thành phần trong tổng thể kế hoạch thực hiện mục tiêu của

Chương trình.

* Tính chất của chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn thường

có mức độ tập trung nguồn lực, ưu đãi cao, thể hiện ý đồ, mong muốn của chính

35

quyền nhằm thể chế hóa đường lối kinh tế của quốc gia trong một thời kỳ cho một

ngành, lĩnh vực, vùng miền, phục vụ các Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.

* Nội dung hoạt động của chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn

có bản chất là “bản kế hoạch tổng thể” bao gồm các nội dung về mục tiêu, nhiệm

vụ, giải pháp, cơ chế tài chính, huy động nguồn lực, tổ chức thực hiện, tiến độ thực

hiện để thực hiện mục tiêu đề ra của Chương trình.

* Phạm vi (không gian) thực hiện của chương trình kinh tế lớn: chương

trình kinh tế lớn có địa bàn, phạm vi thực hiện quy mô lớn, mang tính liên ngành,

liên lĩnh vực hoặc liên tỉnh, liên vùng hoặc có thể trên toàn lãnh thổ quốc gia.

* Thời gian thực hiện chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn có

thời gian thực hiện “trong một thời kỳ nhất định”, có thời gian xác định, thường từ

5 – 10 năm (có trường hợp dài hơn) hoặc chia thành các giai đoạn thực hiện, có thể

tương ứng với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 10 năm của đất nước.

* Thẩm quyền phê duyệt chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn

được phê duyệt bởi cấp có thẩm quyền (Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ) và

thường được ban hành căn cứ vào các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của

Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Nghị quyết (NQ) của Chính phủ về thực hiện

nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước theo các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

5 năm, 10 năm hoặc có thể là nhiệm vụ đột xuất, cấp bách.

Chương trình kinh tế lớn phân biệt với Chương trình mục tiêu quốc gia

ở một số khía cạnh sau:

* Chủ thể thực hiện:

+ Chương trình mục tiêu quốc gia thường được giao cho một bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (là các cơ quan quản lý nhà nước) làm cơ quan

quản lý, chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức triển khai thực hiện Chương trình.

+ Chương trình kinh tế lớn là một “cơ chế” để thực hiện các mục tiêu đề ra

của Chương trình kinh tế lớn đó. Do vậy, thường không có một bộ, cơ quan ngang

bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được giao làm cơ quan quản lý, chịu trách nhiệm

điều hành, tổ chức triển khai thực hiện Chương trình. Thay vào đó, mỗi cơ quan,

bộ ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

36

trung ương liên quan có nhiệm vụ riêng. Trong đó, cơ quan thực hiện nhiệm vụ TD

ĐTPT (là tổ chức tài chính tín dụng) được giao nhiệm vụ cho vay vốn TD ĐTPT

của Nhà nước để triển khai, thực hiện Chương trình.

* Nguồn vốn thực hiện:

+ Nguồn vốn thực hiện các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia chủ

yếu là nguồn vốn NSNN (vốn cấp phát), một phần khác có thể huy động thêm từ

vốn tín dụng trong và ngoài nước, huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân

và cộng đồng để thực hiện Chương trình.

+ Nguồn vốn thực hiện các dự án thuộc Chương trình kinh tế lớn chủ yếu là

nguồn vốn TD ĐTPT của Nhà nước (vốn tín dụng), một phần khác từ NSNN

(trung ương, địa phương), vốn tự có của chủ đầu tư.

Đặc điểm của Dự án kinh tế trọng điểm

Dự án kinh tế trọng điểm là các dự án ĐTPT có quy mô lớn, có ý nghĩa

quan trọng, then chốt nhằm mục đích phát triển một ngành, lĩnh vực nằm trong

tổng thể kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia từng thời kỳ

nhất định.

Theo quy định về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình hiện hành [16],

dự án đầu tư xây dựng công trình được phân loại theo hai nhóm tiêu chí chủ yếu là:

(i) theo quy mô và tính chất; (ii) theo nguồn vốn đầu tư.

Căn cứ phân loại theo quy mô và tính chất, các dự án bao gồm:

+ Dự án, công trình quan trọng quốc gia: do Quốc hội xem xét, quyết định

chủ trương đầu tư [56].

+ Các dự án còn lại: chia thành 3 nhóm: nhóm A, nhóm B, nhóm C [16]

Các dự án kinh tế trọng điểm là các dự án đầu tư phát triển thuộc nhóm A,

có quy mô lớn hoặc có tính chất, ý nghĩa quan trọng thuộc các lĩnh vực đầu tư then

chốt, trọng điểm của nền kinh tế.

Các dự án nhóm A được xác định theo tổng mức đầu tư của dự án ở từng

ngành, lĩnh vực cụ thể như sau [16]:

- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác dầu

khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến

khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt,

37

đường quốc lộ), xây dựng khu nhà ở: có tổng mức vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng.

+ Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thủy lợi, giao thông (khác dự án

giao thông có tổng mức vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng như nêu trên), cấp thoát

nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện

tử, tin học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu

chính, viễn thông: có tổng mức vốn đầu tư trên 1.000 tỷ đồng.

+ Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy

tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi

trồng thủy sản, chế biến nông, lâm, thủy sản: có tổng mức vốn đầu tư trên 700 tỷ

đồng.

+ Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh,

truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch,

thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác: có tổng mức vốn đầu tư

trên 500 tỷ đồng.

Ngoài ra, các dự án đầu tư xây dựng công trình: sản xuất chất độc hại, chất

nổ; hạ tầng khu công nghiệp; các dự án thuộc lĩnh vực bảo vệ an ninh, quốc phòng

có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng thì không kể

mức vốn đầu tư là bao nhiêu, đều được xếp vào dự án nhóm A.

1.1.2.3. Sự cần thiết của các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế

trọng điểm

Vai trò, sự cần thiết của các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng

điểm trong nền kinh tế thể hiện chủ yếu qua các khía cạnh chủ yếu sau:

Thứ nhất, các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là

phương thức tập trung vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước để thực

thi các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong từng thời kỳ

Qua thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều quốc gia trên thế giới có thể

thấy, giữa tăng trưởng và vốn đầu tư có mối quan hệ khá chặt chẽ. Để đạt được

mức tăng trưởng cao, cần thiết phải có mức tích lũy và mức chi đầu tư lớn, ngược

lại, để có mức đầu tư lớn và duy trì trong dài hạn nhất thiết phải thông qua tỷ lệ

tăng trưởng cao và ổn định, liên tục. Do vậy, vốn đầu tư là nguồn lực quan trọng

cơ bản cho tăng trưởng, phát triển và công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH)

đất nước. Bên cạnh chính sách huy động vốn thích hợp cần phải có chính sách sử

38

dụng vốn có hiệu quả mới đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng và phát triển đất

nước. Do đó, cơ cấu đầu tư (đầu tư vào đâu) luôn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi

và làm thế nào để tạo ra được một cơ cấu đầu tư hợp lý đảm bảo đạt được tốc độ

phát triển kinh tế nhanh và bền vững luôn là yêu cầu đặt ra cho các chính phủ.

Nhu cầu ĐTPT của toàn bộ nền kinh tế là rất lớn. Trong đó nhiều lĩnh vực

đầu tư của nền kinh tế có thể huy động vốn từ các doanh nghiệp trong và ngoài

nước song cũng có nhiều lĩnh vực đầu tư, do nhu cầu vốn lớn, khả năng thu hồi

vốn chậm, lợi nhuận thấp, không hấp dẫn đầu tư từ khu vực doanh nghiệp, nhưng

lại là các lĩnh vực cần thiết, nhà nước buộc phải sử dụng nguồn vốn đầu tư từ

NSNN hoặc TD ĐTPT của Nhà nước để tạo đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

đảm bảo nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững. Vì vậy, nhà nước cần có các

hoạt động chi tiêu công, trong đó có chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN

hoặc TD ĐTPT của Nhà nước để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,

đầu tư phát triển sản xuất các ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng của nền kinh tế

nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, ổn định vĩ mô.

Mặt khác, thực tế cũng cho thấy, thị trường không hoàn hảo, đặc biệt là ở

các nền kinh tế thị trường sơ khai, các nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh tế kế

hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, nơi mà sự vận động của thị trường

chưa diễn ra mạnh mẽ và tuân theo các quy luật thị trường, dẫn tới sự phân bổ

nguồn lực không tối ưu. Chính vì vậy, theo quan điểm của các nhà kinh tế ủng hộ

sự can thiệp của chính phủ, sự can thiệp của nhà nước vào quá trình phân bổ nguồn

lực của nền kinh tế nhằm tạo ra cú hích chung cho nền kinh tế, đẩy nhanh tiến trình

CNH, HĐH nền kinh tế thông qua các chương trình ưu tiên, các dự án ưu tiên cho

lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển một số ngành công nghiệp then chốt

là việc làm tất yếu, nhất là trong các nền kinh tế thị trường non kém này.

Do vậy, trong bối cảnh NSNN chi cho ĐTPT còn hạn hẹp, phải giải quyết

nhiều nhiệm vụ chi và cơ cấu nền kinh tế còn nhiều sơ khai, mức độ hiện đại hóa,

đồng bộ hóa còn thấp, thì các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm sẽ

là phương thức tập trung vốn đầu tư, giúp nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước

để thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, từng thời

kỳ của đất nước.

Thứ hai, các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là

39

phương tiện thực hiện có hiệu quả đường lối, chiến lược phát triển, chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH nhờ sức lan tỏa rộng, tác động sâu

đến các ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, then chốt của nền kinh tế

Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH đất nước,

bên cạnh việc phải đối mặt với tình trạng khan hiếm vốn, các quốc gia còn phải

đứng trước các thách thức trong việc lựa chọn các ngành, nghề, lĩnh vực cần thiết

phải phát triển nhằm tận dụng được lợi thế về tài nguyên, nguồn nhân lực cũng

như các điều kiện phát triển khác nhằm đảm bảo phát triển nền kinh tế nhanh và

bền vững.

Để thúc đẩy phát triển nhanh nền kinh tế, đa số các quốc gia lựa chọn phát

triển một số ngành ưu tiên, có tính chất quan trọng, nền tảng, có tác dụng tạo ra các

yếu tố đầu vào, “bánh mỳ” cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển, tăng cường cơ

sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất cho nền kinh tế, tăng tỷ trọng đầu tư cho

công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó là lý do nhiều quốc gia đã thực hiện

các chương trình ưu tiên, tập trung vốn tài trợ phát triển một số ngành công nghiệp

then chốt cơ bản như hóa chất, cơ khí, luyện kim, cán kéo thép, điện năng, vật liệu

xây dựng, đóng tàu biển, ô tô, xe máy…Việc phát triển một số ngành công nghiệp

cơ bản, then chốt này vừa tạo ra máy móc, nguyên liệu, vật tư cung cấp cho các

ngành, lĩnh vực khác, vừa tạo ra thị trường tiêu thụ lớn cho các loại vật tư, nguyên

liệu, nhân công, qua đó, kéo các ngành, lĩnh vực khác như công nghiệp nhẹ, nông

nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp phát triển, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng CNH, HĐH nền kinh tế.

Bên cạnh việc thực hiện tập trung vốn cho các dự án kinh tế trọng điểm,

then chốt cho các lĩnh vực công nghiệp cơ bản quan trọng của nền kinh tế, chính

phủ các nước cũng đã thực hiện nhiều chương trình kinh tế lớn để thực hiện mục

tiêu thúc đẩy phát triển các khu vực khó thu hút vốn đầu tư như nông – lâm

nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng cho khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng

xa, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện và bảo vệ

môi trường. Với đặc điểm có địa bàn, phạm vi thực hiện lớn, mang tính liên ngành,

liên vùng, lãnh thổ và có thời gian thực hiện dài, tập trung vốn lớn, cơ chế vận

hành đặc thù, tạo ra sức lan tỏa lớn, các chương trình kinh tế lớn đã thực sự trở

thành công cụ hiệu quả của các quốc gia trong việc thực thi mục tiêu can thiệp của

40

Nhà nước vào nền kinh tế nhằm giảm bớt các khiếm khuyết của thị trường, đảm

bảo công bằng xã hội. Thông qua các chương trình kinh tế lớn, Nhà nước cung cấp

hoặc tạo ra cơ chế để khuyến khích, thu hút nguồn lực thực hiện việc cung cấp các

hàng hóa công cộng (như kết cấu hạ tầng, nước sạch, vệ sinh môi trường, y tế công

cộng…), hạn chế các ngoại ứng (ngoại sinh) tiêu cực như ô nhiễm môi trường, xử

lý rác thải, nước thải, khuyến khích các ngoại ứng tích cực như giáo dục, phổ cập

giáo dục, dạy nghề, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường…

1.1.3. TDĐTPT của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh

tế trọng điểm

1.1.3.1. Khái niệm

Trong quá trình thực hiện chức năng của một nhà nước, các chính phủ

thường đóng vai trò trung tâm của quá trình phân phối các nguồn lực xã hội thông

qua hoạt động tài chính công, thu – chi NSNN. Trong tài chính công, các khoản

chi tiêu công của chính phủ có vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các

hoạt động cung ứng hàng hóa công thiết yếu cho xã hội mà khu vực tư không có

khả năng cung cấp hoặc cung cấp không hiệu quả, qua đó tái phân phối thu nhập

của xã hội, khắc phục các khuyết tật của thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế tăng

trưởng ổn định, hiệu quả và tạo lập sự công bằng xã hội.

Căn cứ vào mục đích chi tiêu của chính phủ, chi tiêu công có thể được phân

chia thành chi xây dựng cơ sở hạ tầng, chi quản lý hành chính, chi an ninh quốc

phòng…hoặc được phân chia thành chi thường xuyên, chi ĐTPT. Cách phân loại

tương đối phổ biến là phân chia chi tiêu công của chính phủ thành chi thường

xuyên và chi cho ĐTPT.

Chi ĐTPT của chính phủ bao gồm các hoạt động chi từ NSNN, chi từ một

số quỹ ngoài NSNN và tín dụng nhà nước. Nhìn chung, quy mô, kết cấu các khoản

chi này phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế - xã hội, phụ thuộc vào mục tiêu

phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ phát triển.

Tín dụng nhà nước (TDNN) chủ yếu được sử dụng cho các khoản mục chi

đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; chi duy trì hoạt động các doanh

nghiệp nhà nước; chi dự trữ nhà nước; chi ĐTPT sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế;

chi xóa đói giảm nghèo; phát triển bền vững, bảo vệ môi trường…Tín dụng nhà

41

nước cho ĐTPT nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thông qua các dự

án kinh tế trọng điểm, các chương trình kinh tế lớn, quan trọng thường chiếm một

tỷ trọng lớn trong tổng chi TDNN.

Mục đích của TDNN cho ĐTPT thường tập trung hỗ trợ để thực hiện các dự

án ĐTPT thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các chương trình kinh tế lớn

của Nhà nước và các vùng khó khăn, cần khuyến khích đầu tư. Bản chất của TD

ĐTPT của Nhà nước thể hiện quan hệ tín dụng giữa Nhà nước và các tổ chức, đơn

vị, doanh nghiệp trong nền kinh tế, trong đó Nhà nước đóng vai trò vừa là người đi

vay để bù đắp thiếu hụt NSNN, vừa là người cho vay để ĐTPT vào các dự án,

chương trình kinh tế theo định hướng, mục tiêu của Nhà nước.

Tóm lại, TD ĐTPT của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm thường được quan niệm là một hình thức TDNN, thực hiện

chức năng tài chính công của Nhà nước, được thể hiện dưới dạng quan hệ tín dụng

giữa một bên là Nhà nước với một bên là các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp trong

nền kinh tế, trong đó Nhà nước vừa là người đi vay để bù đắp thiếu hụt NSNN,

vừa là người cho vay để đầu tư các dự án phát triển, các chương trình kinh tế lớn

nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Nhà nước trong

từng thời kỳ.

1.1.3.2. Đặc điểm của TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự

án kinh tế trọng điểm

Là một hình thức TDNN, vì vậy TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm vừa có các đặc điểm thể hiện bản chất của hình thức

TDNN, vừa có các đặc điểm thể hiện đặc thù của hình thức TDNN cho ĐTPT nói

chung và TDNN cho ĐTPT đối với các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm nói riêng.

Thứ nhất, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm mục tiêu phát

triển kinh tế - xã hội quốc gia

Đây là một đặc điểm quan trọng nhất và cơ bản nhất của hoạt động

TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Bởi lẽ, đặc

điểm này sẽ chi phối cơ chế hoạt động, vận hành, tổ chức thực hiện hoạt động

TDĐTPT cho các chương trình, dự án nêu trên.

Do “sứ mệnh” là công cụ của nhà nước để thực hiện mục tiêu phát triển

42

kinh tế xã hội quốc gia trong từng thời kỳ nên hầu hết các chương trình, dự án này

đã không đặt tính kinh tế đơn thuần, mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Từ đó, hoạt

động TDĐTPT cho việc thực hiện các chương trình, dự án này mang đặc tính

không vì mục tiêu lợi nhuận và để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội

quốc gia trong từng thời kỳ.

Để thực hiện được mục tiêu này, hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình,

dự án sẽ vận hành theo một cơ chế mà trong đó các tiêu chí đánh giá, xem xét thẩm

định và chấp thuận cho vay sẽ gồm cả các chỉ tiêu về tài chính, cả các chỉ tiêu về

kinh tế xã hội chứ không thuần túy chỉ xem xét hiệu quả về mặt tài chính như thẩm

định, chấp thuận cho vay trong hoạt động tín dụng NHTM thông thường. Điều đó

cũng đồng nghĩa với việc có những dự án, chương trình, nếu xét về hiệu quả tài

chính theo cơ chế thị trường, không đạt hiệu quả về mặt tài chính, thậm chí hiệu

quả âm, về nguyên tắc sẽ không được tài trợ vốn TDĐTPT của nhà nước. Song do

mục đích cho vay để phát triển kinh tế xã hội quốc gia, nên trong trường hợp việc

đầu tư dự án/chương trình có thể không sinh lời cho tổ chức cho vay, hoặc bản

thân hoạt động đầu tư của dự án/chương trình không sinh lời nhưng hoạt động đầu

tư của dự án/chương trình lại có tác động trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng,

miền, hoặc có hiệu quả về mặt xã hội thì dự án vẫn có thể được lựa chọn.

Thứ hai, duy trì một số cơ chế ưu đãi về lãi suất cho vay, tài sản bảo

đảm tiền vay nhằm thực hiện chính sách hỗ trợ ĐTPT, góp phần điều tiết vĩ

mô nền kinh tế theo định hướng của nhà nước

Lãi suất cho vay TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm thường thấp hơn mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường cùng thời kỳ

thể hiện chính sách ưu đãi của nhà nước đối với các chương trình, dự án đầu tư

nhằm tạo thuận lợi và hấp dẫn các chủ đầu tư dự án, qua đó nhà nước thực hiện

được mục tiêu điều tiết nền kinh tế phát triển theo định hướng của nhà nước. Đồng

thời với cơ chế lãi suất thấp, TDĐTPT của nhà nước nói chung, trong đó có TD

ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thường có mức

bảo đảm tiền vay thấp cùng một số điều kiện tín dụng thuận lợi khác. Các cơ chế

này, một mặt thể hiện chính sách ưu đãi của nhà nước, mặt khác là để phù hợp với

tính chất của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm chủ yếu thực

43

hiện ở những ngành, lĩnh vực có nhiều rủi ro hoặc ở những vùng có điều kiện kinh

tế xã hội còn nhiều khó khăn nhằm đảm bảo điều kiện khả thi cao hơn cho việc

thực hiện các chương trình, dự án này.

Thứ ba, thuận lợi trong huy động được nguồn vốn lớn, tập trung, dài

hạn, đáp ứng yêu cầu vốn cho vay các dự án ĐTPT

Trong hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại thông thường, hình thức

huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi từ tổ chức, dân cư là chủ yếu, tỷ lệ huy động

vốn bằng cách phát hành trái phiếu chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nguồn vốn của

các NHTM. Do đó, phần lớn vốn cho vay của các NHTM là vốn ngắn hạn, một

phần vốn trung và dài hạn.

Với ưu thế là một hình thức TDNN, gắn liền với uy tín và quyền lực kinh tế

chính trị của nhà nước, dễ dàng tạo được hệ số tín nhiệm cao đối với các nhà đầu

tư trái phiếu trong và ngoài nước, trên cơ sở vị thế cao nhất của nhà nước trong

nền kinh tế và khả năng vỡ nợ thấp nhất của nhà nước so với các chủ thể khác

trong nền kinh tế, đã tạo nên lợi thế cho hoạt động TDĐTPT nói chung và TD

ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng trong

việc huy động được nguồn vốn lớn, tập trung, dài hạn thông qua việc phát hành

trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu Chính phủ (TPCP) bảo lãnh. Đây là điều kiện

tiền đề cho việc đáp ứng đầy đủ, kip thời nhu cầu vốn cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm với thuộc tính đòi hỏi nguồn vốn lớn, tập trung, dài

hạn.

Thứ tư, việc huy động nguồn vốn lớn, dài hạn có thể gây áp lực đẩy mặt

bằng lãi suất huy động chung trên thị trường lên cao, gia tăng gánh nặng cho

NSNN trong cấp bù lãi suất

Bên cạnh yếu tố thuận lợi trong huy động được nguồn vốn lớn, tập trung,

dài hạn, đáp ứng yêu cầu vốn cho vay các dự án ĐTPT, hoạt động huy động vốn

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm cũng có

những mặt hạn chế của nó.

Một là, việc huy động vốn TDĐTPT cần được đặt trong tổng thể quan hệ

với các kênh huy động khác, bảo đảm cân đối tích lũy, tiêu dùng, đầu tư trong nền

kinh tế. Chẳng hạn, khi tăng cường huy động vốn TDĐTPT cho các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm sẽ hạn chế việc huy động vốn trong xã hội

44

cho các hoạt động đầu tư khác do nguồn lực chung của quốc gia là có hạn, mức độ

tích lũy, tiết kiệm của nền kinh tế là có hạn. Khi xuất hiện nhiều nhu cầu huy động

vốn, nhất là huy động vốn TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh

tế trọng điểm với số lượng lớn, tập trung sẽ có nguy cơ đẩy mặt bằng lãi suất lên,

ảnh hưởng đến mặt bằng giá cả chung trên thị trường.

Hai là, càng đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường, NSNN càng phải tăng

chi cấp bù chênh lệch lãi suất. Về bản chất, TDĐTPT của nhà nước nói chung, TD

ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm cũng là một

khoản chi từ NSNN. Việc huy động vốn TD ĐTPT để cho vay các chương trình/dự

án và NSNN thực hiện việc cấp bù chênh lệch lãi suất là một hình thức giảm cấp

phát không hoàn lại vốn đầu tư từ NSNN. Tuy nhiên, khi quy mô huy động vốn để

cho vay TDĐTPT càng lớn thì mức cấp bù từ NSNN càng tăng. Đặc biệt, trong

giai đoạn thị trường tài chính gặp khó khăn, nguồn vốn khan hiếm, sẽ khó huy

động được nguồn vốn có kỳ hạn dài. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối

giữa huy động và sử dụng vốn, mất cân đối về kỳ hạn vốn (chẳng hạn vốn huy

động có kỳ hạn ngắn 3 – 5 – 7 năm, vốn cho vay có kỳ hạn dài 5 – 7 – 10 – 12 – 15

năm), làm tăng chi phí huy động vốn, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của tổ

chức cho vay TDĐTPT của nhà nước. Đồng thời khi lãi suất huy động trên thị

trường cao sẽ làm cho chênh lệch giữa lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay

vốn cao thì mức bù của NSNN tăng cao theo.

Ngoài ra, với tính chất huy động vốn tập trung, số lượng huy động lớn, thời

gian vay vốn dài, nếu việc sử dụng vốn không diễn ra theo đúng kế hoạch, công tác

giải ngân chậm, không toàn dụng nguồn vốn đã huy động, mất cân đối tạm thời

giữa huy động và cho vay có thể gây lãng phí trong sử dụng vốn, làm tăng chi phí

hoạt động TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

Thứ năm, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận làm giảm trách

nhiệm quản lý, giảm hiệu quả hoạt động tín dụng

Đặc điểm của hoạt động TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm không vì mục tiêu lợi nhuận một mặt tạo thuận lợi cho việc xem

xét, lựa chọn trong quá trình thẩm định, chấp thuận cho vay đối với các chương

trình/dự án; mặt khác cũng chính đặc điểm hoạt động này tiềm ẩn nguy cơ làm

giảm trách nhiệm quản lý, giảm hiệu quả hoạt động tín dụng này. Nguy cơ này thể

45

hiện qua các khía cạnh sau.

Một là, do hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên hoạt động của tổ

chức cho vay không gắn với mục tiêu, động cơ lợi nhuận, từ đó, hoạt động của tổ

chức cho vay sẽ mang tính chất là một tổ chức quản lý tín dụng hơn là một tổ chức

hoạt động ngân hàng và hoạt động thẩm định, chấp thuận cho vay, quản lý, thu hồi

nợ vay không gắn với yếu tố lợi nhuận sẽ làm tăng nguy cơ quan liêu hóa, hành

chính hóa, giảm trách nhiệm quản lý đồng vốn cho vay.

Hai lài, do không vì mục tiêu lợi nhuận, nên các tiêu chí đánh giá, xem xét

khi thẩm định và chấp thuận cho vay đối với các chương trình, dự án được vay vốn

không chỉ bao gồm cả các chỉ tiêu về tài chính mà bao gồm cả các chỉ tiêu về kinh

tế xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình xem xét, đánh giá hiệu quả của một chương

trình, dự án thì việc xem xét, đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của chương trình/dự

án khó khăn, phức tạp hơn việc xem xét, đánh giá hiệu quả tài chính của chương

trình/dự án. Bởi lẽ, các chỉ tiêu, công thức tính toán hiệu quả tài chính đối với một

chương trình/dự án tương đối rõ ràng và được thừa nhận, áp dụng thống nhất, rộng

rãi. Trong khi đó, các chỉ tiêu, công thức tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của từng

dự án có cơ sở và cách tính toán khác nhau, dựa trên các mục tiêu, định hướng,

nhiệm vụ của từng dự án khác nhau. Vì vậy, nếu các tiêu chí đánh giá, thẩm định

tính kinh tế xã hội của dự án không đầy đủ, tin cậy, khoa học, khách quan và dễ

dàng kiểm định thì sẽ làm tăng nguy cơ kết luận thẩm định mang tính chủ quan,

định tính. Từ đó, các dự án kém hiệu quả, thiếu tính khả thi có thể được thông qua,

làm giảm hiệu quả hoạt động tín dụng cho các chương trình/dự án này.

Thứ sáu, hoạt động cho vay theo chỉ đạo dễ xảy ra sai lầm chủ quan,

không hiệu quả

Thông thường, đối tượng cho vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng

thương mại là tất cả các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu

vay vốn thuộc mọi ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội nhằm

đáp ứng nhu cầu vay vốn cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng…

Khác với hoạt động tín dụng NHTM, hoạt động TD ĐTPT cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm có đối tượng cho vay là các dự án, các

chương trình kinh tế được Nhà nước ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ thuộc Danh mục

các dự án vay vốn được Chính phủ ban hành để thực hiện mục tiêu, định hướng

46

phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.

Danh mục các dự án, chương trình kinh tế do Chính phủ ban hành trong

từng thời kỳ, về bản chất, là một sản phẩm chủ quan, theo tính toán, dự báo của

các cơ quan hoạch định chính sách, các cơ quan quản lý nhà nước thiết kế và trình

Chính phủ ban hành. Chính vì vậy, danh mục đối tượng vay vốn, phạm vi đối

tượng được vay vốn, điều kiện để trở thành đối tượng được vay vốn, liều lượng ưu

đãi cho vay (về thời gian cho vay, lãi suất cho vay, tài sản bảo đảm tiền vay…) đều

là sản phẩm chủ quan, dự báo chủ quan, được ban hành chủ yếu theo quy trình

mệnh lệnh, hành chính, phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, thường

không dựa vào các điều tra, thống kê mang tính xã hội học, thị trường. Do đó, danh

mục đối tượng cho vay này ít hoặc thậm chí là không mang “hơi thở”, tín hiệu từ

thị trường, không phản ánh cung – cầu của thị trường và không tuân theo các quy

luật khách quan của thị trường.

Kết quả là, việc cho vay vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự

án kinh tế trọng điểm theo danh mục do Chính phủ ban hành luôn tiềm ẩn nguy cơ

sai lầm, chủ quan, kém hiệu quả. Chẳng hạn, việc soạn thảo, ban hành danh mục

đối tượng cho vay có thể tạo ra phạm vi đối tượng cho vay quá rộng, tràn lan dẫn

tới việc sử dụng lãng phí nguồn vốn khan hiếm của quốc gia, làm giảm hiệu quả

hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình, dự án này.

Mặt khác, cũng do đặc tính chủ quan trong thiết kế, ban hành cơ chế, chính

sách cho vay mà có thể có trường hợp, ngay sau khi ban hành danh mục đối tượng

cho vay đã trở nên lạc hậu. Vì thế, sự cần thiết, cấp bách phải tập trung đầu tư, cho

vay một số đối tượng nào đó đã không còn, trong khi một số đối tượng khác cần

thiết phải cho vay lại chưa có mặt trong danh mục đối tượng cho vay. Tuy nhiên,

danh mục đối tượng cho vay thường được ban hành bởi một văn bản ở tầm Nghị

định của Chính phủ hoặc Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nên trong trường

hợp phạm vi đối tượng cho vay đã trở nên bất hợp lý thì việc điều chỉnh, thay đổi,

bổ sung danh mục đối tượng cho vay này cũng không dễ dàng thực hiện trong một

thời gian ngắn (do quy trình soạn thảo, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp

luật phải tuân theo quy trình, thủ tục, đòi hỏi thời gian nhất định về lấy ý kiến tham

gia của các cơ quan có liên quan…).

Thực tế này dẫn đến tình trạng, đã phát hiện bất hợp lý cần phải điều chỉnh

47

song cơ quan cho vay vẫn phải tiếp tục thực hiện việc cho vay đối với các đối

tượng đã được quy định trong danh mục đối tượng cho vay. Chưa kể, do việc thiết

kế, ban hành danh mục đối tượng cho vay mang tính chủ quan, không phản ánh

tình hình thị trường, cung cầu về vốn trên thị trường, không dự báo chính xác được

xu hướng cung cầu sản phẩm trên thị trường, cộng với độ trễ về thời gian của các

dự án đầu tư công trình, xây dựng cơ bản dẫn đến tình trạng khi sản phẩm của dự

án ra đời bị lạc hậu về chủng loại, mẫu mã, dư thừa về số lượng sản phẩm cung

ứng ra thị trường…

1.1.3.3. Vai trò, sự cần thiết của hoạt động TDĐTPT cho các chương

trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế

*Là giải pháp huy động vốn giúp bù đắp thiếu hụt NSNN, khai thác các

nguồn vốn trong xã hội, đáp ứng nhu cầu cho ĐTPT

Thứ nhất, tín dụng nhà nước nói chung, TDĐTPT của Nhà nước nói riêng

thoạt tiên ra đời nhằm thực hiện chức năng cơ bản là bù đắp thiếu hụt ngân sách

nhà nước do chi tiêu thường xuyên. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, mở rộng

chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế, TDĐTPT của nhà nước được sử dụng

tích cực hơn, bù đắp các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu

tư phát triển kinh tế, thực hiện chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước.

Để bù đắp thiếu hụt NSNN, các quốc gia phải đối mặt với các lựa chọn như

tăng thuế để bù đắp thiếu hụt, vay nợ, in thêm tiền… Tuy nhiên, những biện pháp

này đều để lại những hậu quả, tác động ngoại ý cho nền kinh tế. Chính vì vậy,

trong giai đoạn mà NSNN còn thường xuyên bị bội chi, tích lũy không đủ bù cho

chi tiêu đầu tư phát triển thì tín dụng đầu tư của Nhà nước là một kênh huy động

có hiệu quả nguồn lực để bù đắp thiếu hụt của NSNN, đáp ứng nhu cầu vốn cho

đầu tư cho phát triển. Nhờ cơ chế tín dụng, nhà nước có thể huy động được nguồn

vốn lớn để đầu tư phát triển kinh tế. Đồng thời, các chủ thể khác trong nền kinh tế

được nhận lại, phân phối lại một phần tài nguyên vốn của xã hội từ NSNN thông

qua cơ chế tín dụng đầu tư của nhà nước. Qua đó, TDĐTPT có tác dụng tích cực

đối với việc tạo dựng và phân bổ nguồn vốn xã hội một cách có hiệu quả.

Thứ hai, trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, vốn đầu tư

luôn là nguồn lực quan trọng đối với mỗi quốc gia. Trong đó, nhu cầu vốn ĐTPT

trung và dài hạn cho xây dựng kết cấu hạ tầng và các ngành, lĩnh vực quan trọng,

48

then chốt của nền kinh tế thông qua các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, các chương trình kinh tế, dự án

kinh tế trọng điểm chủ yếu để ĐTPT cơ sở vật chất kinh tế - xã hội, hệ thống cơ sở

hạ tầng, hình thành các ngành công nghiệp cơ bản, mũi nhọn nhằm cung cấp các

yếu tố, nguyên liệu “đầu vào” quan trọng cho nền kinh tế.

Thông thường, nhu cầu vốn trung và dài hạn này được đáp ứng bởi nguồn

vốn NSNN chi cho ĐTPT, nguồn vốn huy động tiết kiệm của doanh nghiệp, dân

cư. Tuy nhiên, các nguồn vốn này rất hạn hẹp, nhất là ở các nước đang chuyển đổi,

các nền kinh tế đang phát triển do một số nguyên nhân. Cụ thể:

Một là, hệ thống NHTM chủ yếu huy động vốn từ nguồn tiền gửi tiết kiệm

của doanh nghiệp, dân cư nên thường là nguồn vốn ngắn hạn. Kỳ hạn cho vay

(thường là ngắn hạn) của các NHTM không phù hợp với các dự án xây dựng kết

cấu hạ tầng đòi hỏi quy mô vốn lớn, sử dụng vốn trong thời gian dài. Nếu sử dụng

nguồn vốn có kỳ hạn ngắn 1-3 năm để cho vay 10-15 năm sẽ tạo ra nguy cơ rủi ro

thanh khoản cho hệ thống ngân hàng.

Hai là, tại các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế chuyển đổi, thị

trường vốn trung và dài hạn chưa hình thành hoặc kém phát triển do các điều kiện

để phát triển thị trường vốn chưa chín muồi.

Ba là, việc thu hút đầu tư nước ngoài ở các nước này còn hạn chế, nhất là

thu hút đầu tư vào các ngành, lĩnh vực kinh tế ưu tiên, làm cơ sở nền tảng cho việc

thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác phát triển.

Bốn là, nguồn chi từ NSNN cho ĐTPT còn hạn chế. Mặc dù nhận thức

được tầm quan trọng của việc tăng chi ĐTPT, đặc biệt là đầu tư cho kết cấu hạ

tầng song do thu ngân sách còn nghèo nàn và phải ưu tiên dành cho các khoản chi

có tính cấp bách không kém như chi thường xuyên, duy trì bộ máy nhà nước nên

chi đầu tư phát triển từ NSNN thường không đáp ứng được yêu cầu của nhà nước.

Các lý do nêu trên đã tạo ra khoảng chênh lệch khá lớn giữa cung và cầu

trên thị trường vốn trung và dài hạn. Trong bối cảnh đó, để có thể thực hiện được

công cuộc ĐTPT, nhằm tập trung được một nguồn vốn đầu tư lớn với thời gian sử

dụng dài, nhà nước đã sử dụng TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm để tạo lập một kênh huy động vốn trong và ngoài nước nhằm

đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Khi sử dụng hình thức

49

TDĐTPT, thông qua việc phát hành các công cụ nợ của nhà nước như TPCP hoặc

TPCP bảo lãnh, nhà nước đã huy động được nguồn vốn một cách tập trung với thời

hạn dài, chi phí tương đối rẻ để tài trợ cho các dự án ĐTPT.

Như vậy, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm trước hết là để giải quyết vấn đề thiếu hụt NSNN chi cho ĐTPT, giúp nhà

nước huy động được vốn để tài trợ cho các dự án ĐTPT, đặc biệt là các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, cần có nguồn vốn lớn, tập trung, thời

hạn sử dụng vốn dài, lãi suất vay thấp.

*Là công cụ kinh tế - tài chính của Nhà nước để định hướng thị trường,

tham gia điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã

hội quốc gia trong từng thời kỳ

Kinh tế thị trường là bước phát triển cao của nền kinh tế sản xuất hàng hóa

với nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường thường phải đối mặt với

những thất bại thị trường: các nguồn lực không được phân bổ một cách có hiệu

quả; nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường ngày càng tăng; phân hóa

giàu nghèo ngày càng lớn; mất cân đối trong phát triển kinh tế xã hội giữa các

vùng miền… Những thất bại của thị trường và định hướng phát triển quốc gia là

những lý do cơ bản cho sự can thiệp của nhà nước vào thị trường.

Trong thực tế, điều tiết và can thiệp vào nền kinh tế là yêu cầu khách quan

của mọi nền kinh tế, mọi quốc gia qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử. Sự khác

biệt ở các nước khác nhau và trong từng thời kỳ phát triển là ở mức độ, phạm vi,

cách thức, phương tiện để can thiệp vào nền kinh tế.

Cho đến nay, các nhà kinh tế đều thống nhất rằng, trên thực tế chưa bao giờ

tồn tại một kiểu kinh tế thị trường hoàn toàn thoát ly vai trò nhà nước. Bên cạnh

thành tựu và tác dụng to lớn của mình, kinh tế thị trường còn có những khuyết tật,

đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước để giải quyết những khiếm khuyết của

thị trường. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước can thiệp vào nền kinh

tế nhằm khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường, giúp nền kinh tế vận

hành trơn tru, ổn định, phát triển cân đối, hợp lý, bền vững, khuyến khích công

bằng, bảo đảm an sinh xã hội thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô cơ

bản như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách ngoại thương, chính

50

sách đầu tư, chính sách tín dụng đầu tư phát triển…

Cùng với sự tiến triển của vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường, tài

chính nhà nước, trong đó bộ phận lớn nhất và quan trọng nhất là tài chính công,

bao gồm NSNN và TDNN, là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước

để đảm bảo tính hiệu quả, khuyến khích công bằng, tăng cường và ổn định kinh tế

vĩ mô. Cụ thể, tài chính công, trong đó có TDNN cho ĐTPT không chỉ đóng vai

trò huy động các nguồn lực tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu cho an ninh

quốc phòng, duy trì bộ máy nhà nước mà nó còn có vai trò quan trọng trong việc

thực hiện chức năng quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bên cạnh các công cụ

quản lý, điều tiết vĩ mô khác, thông qua hoạt động chi đầu tư phát triển, TDĐTPT

đã trở thành công cụ tài chính quan trọng của nhà nước can thiệp vào nền kinh tế

nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế, ổn định và đảm bảo công bằng xã hội.

Với tư cách là một bộ phận của chính sách tài khóa, đồng thời là một bộ

phận của chính sách đầu tư, một hình thái đặc biệt của TDĐTPT, hoạt động

TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói chung

đóng vai trò vừa là cách thức (giải pháp), vừa là phương tiện (công cụ) của nhà

nước để điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường hiện đại nhằm mục tiêu phát

triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, thể hiện qua một số khía cạnh sau.

Một là, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng

điểm là công cụ tài trợ vốn cho các chương trình, lĩnh vực kinh tế trọng điểm để

tăng cường cơ sở vật chất kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

CNH, HĐH là tất yếu đối với các nước đang phát triển. Nội dung trọng tâm

của quá trình này là thực hiện tập trung nguồn lực đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất

kỹ thuật cho nền kinh tế mà trong đó chủ yếu là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế

xã hội, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, các lĩnh vực kinh tế ưu tiên,

đưa công nghiệp trở thành ngành có tỷ trọng đóng góp cao trong cơ cấu kinh tế.

Muốn đạt được mục tiêu này, nhà nước cần phải thực hiện đầu tư vào các chương

trình, dự án kinh tế trọng điểm, then chốt, có tác dụng tạo ra các động lực phát

triển, làm “đầu tàu” cho phát triển các ngành, lĩnh vực khác, cung cấp các yếu tố

“đầu vào” cho các ngành, lĩnh vực khác, qua đó để điều chỉnh cơ cấu kinh tế,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.

Việc thực hiện các chương trình, dự án này đòi hỏi nguồn vốn lớn, sử dụng

51

trong thời gian dài, điều kiện vay vốn ưu đãi. Chính vì vậy, trong điều kiện nguồn

vốn còn hạn chế, khan hiếm và ngày càng trở nên đắt đỏ, nhất là ở các nước có nền

kinh tế đang phát triển, thì TDĐTPT của nhà nước, với đặc tính là nguồn vốn tập

trung, dài hạn, lãi suất ưu đãi… đã trở thành công cụ quan trọng, thiết yếu để tài

trợ cho việc thực hiện các chương trình, dự án kinh tế trọng điểm.

Hai là, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng

điểm hỗ trợ đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, các vùng kinh tế kém phát triển,

vùng sâu, vùng xa.

Trong nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư thường tập trung vốn đầu tư

vào những ngành có lợi nhuận cao, thu hồi lợi nhuận nhanh hay đầu tư vào những

vùng có điều kiện hạ tầng kinh tế xã hội thuận lợi. Trong lúc đó, chiến lược phát

triển kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối, đồng bộ giữa các ngành, các

vùng. Nói cách khác, bên cạnh mục tiêu hiệu quả tài chính, chiến lược phát triển

kinh tế đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các mục tiêu kinh tế xã hội như thay đổi cơ

cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo tăng trưởng

kinh tế một cách bền vững.

Tuy nhiên, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung, nhất là kết cấu hạ

tầng nông nghiệp, nông thôn (giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng, trạm

bơm tưới tiêu…) có đặc điểm là đầu tư vốn lớn, khó thu hồi vốn, lợi nhuận thấp,

rủi ro cao (do còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thiên tai, thời tiết diễn biến khó

lường), khu vực tư nhân, cả trong và ngoài nước không muốn hoặc ít tham gia đầu

tư. Đặc biệt, đối với các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng sâu,

vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những nơi mà cơ sở hạ tầng như điện,

thông tin liên lạc, nước sạch, đường sá, các dịch vụ giáo dục, y tế, chăm sóc sức

khỏe còn thiếu, kém phát triển, nguồn nhân lực tại chỗ không đáp ứng được yêu

cầu của các nhà đầu tư.

Để khuyến khích, hỗ trợ các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực,

vùng miền này, bên cạnh các ưu đãi khác về giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế,

cần có thêm những ưu đãi khác như tín dụng đầu tư của nhà nước với các ưu đãi về

thời hạn cho vay dài, lãi suất thấp, tài sản thế chấp ít… Do vậy, TDĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm có tác dụng hỗ trợ đầu tư cho

nông nghiệp, nông thôn, các vùng kinh tế kém phát triển, vùng sâu, vùng xa. Thậm

52

chí, trong một số trường hợp, khó thu hút vốn đầu tư, nhà nước cần phải tự mình

đứng ra, thông qua vốn TDĐTPT để tài trợ vốn thực hiện đầu tư cho nông nghiệp,

nông thôn, vùng kinh tế kém phát triển để xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo các

điều kiện để phát triển kinh tế xã hội các lĩnh vực, vùng miền này. Qua các hoạt

động ưu đãi đầu tư hoặc đầu tư của nhà nước bằng TDĐTPT, nhà nước thực hiện

được vai trò điều tiết vĩ mô, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội

quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, phát triển hài hòa giữa các vùng miền.

Ba là, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

là giải pháp thu hút đầu tư, tài trợ vốn cho các lĩnh vực y tế, giáo dục, nhà ở, đảm

bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, cải thiện và nâng cao mức sống người dân.

Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội là

mối quan tâm của hầu hết các nhà nước trên thế giới. Song trong nền kinh tế thị

trường, việc cung cấp các hàng hóa công cộng như nước sạch, y tế công cộng…và

hạn chế các ngoại ứng (ngoại sinh) tiêu cực như ô nhiễm môi trường, rác thải,

nước thải, khuyến khích các ngoại ứng (ngoại sinh) tích cực như giáo dục, phổ cập

giáo dục, đưa trẻ đến trường, dạy nghề…, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi

trường, bảo vệ những người dễ bị tổn thương… là những lĩnh vực mà khu vực tư

nhân không muốn tham gia do tính phi lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp, kém hiệu

quả, khó thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế nếu không có sự hỗ trợ, ưu đãi

của Nhà nước. Trách nhiệm của các nhà nước là nhà nước có thể tự mình cung cấp

hoặc ban hành các quy định nhằm khuyến khích, hỗ trợ các lực lượng thị trường

tham gia cung cấp các hàng hóa công cộng, các dự án phục vụ an sinh xã hội. Do

vậy, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là một

trong các giải pháp quan trọng để thực hiện và hỗ trợ, thu hút các lực lượng thị

trường tham gia tài trợ vốn đầu tư cho các lĩnh vực y tế, giáo dục, nhà ở, đảm bảo

an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, cải thiện và nâng cao mức sống người dân.

*Góp phần thay đổi phương thức tài trợ cho đầu tư phát triển, nâng

cao hiệu quả đầu tư nhà nước

Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng được mở rộng về quy mô, tăng cường

về số lượng, chất lượng sức sản xuất, NSNN ngày càng cần được bồi đắp để chi

tiêu tương ứng cho các nhu cầu về xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế

và xã hội nhằm đáp ứng cho các hoạt động kinh tế xã hội ngày càng gia tăng của

53

các chủ thể trong nền kinh tế, nếu tiếp tục sử dụng hình thức cấp phát không hoàn

lại từ nguồn vốn NSNN cho ĐTPT, thì khả năng đáp ứng vốn của nhà nước cho

ĐTPT sẽ rất hạn chế.

Trong bối cảnh đó, việc phát triển hình thức TD ĐTPT trong nền kinh tế thị

trường đi liền với việc thay đổi phương thức tài trợ cho ĐTPT, thay vì chỉ thực

hiện các khoản chi ĐTPT bằng cơ chế cấp phát vốn ngân sách, không hoàn lại và

không ràng buộc nghĩa vụ trả nợ vay, hình thức TD ĐTPT, với đặc tính hoàn trả

của cơ chế tín dụng, giúp nhà nước có điều kiện để quay vòng, truy hoàn nguồn

vốn đầu tư. Mặt khác, cơ chế vay – trả tạo ra sức ép đối với các chủ đầu tư thực

hiện việc sử dụng vốn TD ĐTPT một cách hiệu quả, qua đó đảm bảo cho việc mở

rộng đầu tư của nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư của nhà nước và

hiệu quả đầu tư chung của xã hội. Do vậy, TD ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn đóng vai trò góp phần thay

đổi phương thức tài trợ cho đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước.

1.1.4. Hiệu quả hoạt động TDĐTPT của Nhà nước cho các chương trình kinh

tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm

1.1.4.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động TDĐTPT cho các chương trình

kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm

*Quan niệm về hiệu quả

Hiệu quả là một phạm trù kinh tế đặc trưng trong nền kinh tế sản xuất hàng

hóa. Hiệu quả kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa kết quả kinh tế thu được và chi

phí bỏ ra của một chủ thể nhất định. Hiệu quả kinh tế được đo lường bằng kết

quả/chi phí. Trong cơ chế thị trường, mọi chủ thể kinh tế đều phải quan tâm tới

hiệu quả kinh tế.

Hiệu quả xã hội phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích về mặt xã hội thu được

và chi phí bỏ ra của một chủ thể nhất định. Hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra

trong một môi trường xã hội nhất định. Do đó, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội

có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu doanh nghiệp chỉ quan tâm tới hiệu quả kinh tế,

không quan tâm tới hiệu quả xã hội thì sự tồn tại và phát triển sẽ không bền vững.

Xuất phát từ chức năng của mình, nhà nước phải quan tâm cả hiệu quả kinh tế và

hiệu quả xã hội. Chẳng hạn, khi đầu tư, nhà nước vừa phải quan tâm đến khả năng

54

bảo toàn vốn, khả năng sinh lời của đồng vốn; vừa phải quan tâm đến tác động của

nó trên các khía cạnh: giải quyết vấn đề việc làm, công bằng xã hội, môi trường…

Đó chính là hiệu quả kinh tế - xã hội.

Hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả tổng hợp, là lợi ích kinh tế và lợi ích

xã hội mà một chủ thể nhận được so với các chi phí bỏ ra. Với tư cách người đại

diện cho xã hội, mọi hoạt động của nhà nước đều phải được quan tâm đến hiệu quả

kinh tế - xã hội.

*Quan niệm về hiệu quả hoạt động TDĐTPT cho các chương trình kinh

tế lớn và các dự án kinh tế trọng điểm

Mục tiêu của hoạt động TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án

kinh tế trọng điểm, trong đó bao gồm mục tiêu của tổ chức được giao thực hiện

nhiệm vụ này, là nhằm hướng đến lợi ích của nền kinh tế quốc dân, phục vụ các

mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.

Phương thức hoạt động TDĐTPT chủ yếu là cho vay theo các chương trình

kinh tế, các dự án được ưu tiên, khuyến khích trong một số ngành, lĩnh vực then

chốt, trọng điểm theo quy định của Chính phủ và một số chương trình cho vay

khác theo chỉ định của Chính phủ để thực hiện chính sách TD ĐTPT của quốc gia,

không vì mục tiêu lợi nhuận, không hoạt động theo phương thức kinh doanh như

các tổ chức tín dụng, ngân hàng. TD ĐTPT của Nhà nước còn nhằm thực hiện các

mục tiêu xã hội như: tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người nghèo; cải thiện

điều kiện sống của người dân, phát triển giáo dục – đào tạo, phát triển nguồn nhân

lực, phát triển con người…

Với mục tiêu và phương thức hoạt động như vậy, hiệu quả của hoạt động

TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm và hiệu quả

hoạt động của tổ chức thực hiện hình thức tín dụng này không nhằm đến hiệu quả

kinh tế đơn thuần, mà phải là hiệu quả kinh tế - xã hội. Đây là quan điểm xuất phát

từ lợi ích quốc gia mà nhà nước là người đại diện.

Từ những phân tích trên đây về hiệu quả hoạt động TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, tác giả cho rằng: hiệu quả hoạt

động TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm chính là

hiệu quả tổng hợp, cả về kinh tế và xã hội, được xét trong phạm vi toàn bộ nền

kinh tế; là mối quan hệ giữa lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, của toàn xã

55

hội và chi phí của nền kinh tế quốc dân, của xã hội bỏ ra.

Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của một đề tài luận án, trên cơ sở

cách tiếp cận và quan niệm hiệu quả hoạt động TDĐTPT cho các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như trình bày ở trên, dưới góc độ coi hoạt

động tín dụng này là một hình thức tín dụng có tính chất đặc thù, hoạt động trong

lĩnh vực ngân hàng nhưng phi lợi nhuận, nhằm thực hiện chính sách TDĐTPT

quốc gia, Luận án thực hiện việc đánh giá hiệu quả của hoạt động TD ĐTPT cho

các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm theo hướng:

+ Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong đóng góp vào sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.

+ Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động của tổ chức cho vay

với tư cách là công cụ của Chính phủ trong thực hiện hoạt động TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

1.1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động TDĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm

 Nhóm chỉ tiêu đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước

Để đánh giá hiệu quả hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn,

dự án kinh tế trọng điểm, trước hết cần đánh giá kết quả, sự đóng góp của hoạt

động tín dụng này vào sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội quốc gia theo các mục

tiêu đề ra.

Hoạt động TD ĐTPT nói chung và TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm có mục tiêu đề ra là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển

của một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, then chốt, chương trình kinh tế lớn nhằm

thực hiện chính sách TD ĐTPT, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc

gia trong từng thời kỳ.

Do vậy, nhóm chỉ tiêu này cho biết kết quả, sự đóng góp của hoạt động tín

dụng này vào nền kinh tế quốc dân và sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia

trong từng thời kỳ như thế nào thông qua hoạt động tài trợ vốn của nó, thể hiện ở

các chỉ tiêu cụ thể sau:

- Mức độ đóng góp trong huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã

56

hội quốc gia

Tốc độ tăng trưởng kinh tế có quan hệ mật thiết, hữu cơ với tỷ lệ vốn đầu tư

s g = k

của toàn bộ nền kinh tế và hệ số vốn – sản lượng tăng thêm theo công thức:

Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng kinh tế; s là tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư; k là

tỷ lệ vốn - sản lượng.

Ở các nền kinh tế mà mô hình của sự phát triển còn phụ thuộc nhiều vào

vốn thì việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển đóng một vai trò hết sức

quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.

Với tư cách là một công cụ tài chính của Chính phủ, là giải pháp khai thác,

huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển, TD ĐTPT nói

chung và TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

trước hết là để giải quyết vấn đề thiếu hụt NSNN chi cho đầu tư phát triển, giúp

nhà nước huy động thêm vốn để tài trợ cho các dự án, chương trình kinh tế lớn,

trọng điểm, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế.

Do vậy, chỉ tiêu này cho biết mức độ đóng góp của nguồn vốn TD ĐTPT

cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong huy động nguồn

lực cho đầu tư phát triển của quốc gia.

= Tỷ lệ mức độ đóng góp của nguồn vốn TD ĐTPT Tổng số vốn huy động được Tổng vốn đầu tư toàn xã hội cùng thời kỳ

(CT1.1)

Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ đóng góp của nguồn vốn TD ĐTPT

trong nền kinh tế và sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia càng lớn và

ngược lại.

- Mức độ gia tăng giá trị tài sản cố định, tăng cường cơ sở vật chất cho nền

kinh tế

Bản chất của hoạt động TD ĐTPT nói chung là cho vay để đầu tư vào các

dự án đầu tư phát triển. Theo các nhà kinh tế đầu tư, đầu tư phát triển là bộ phận cơ

57

bản của đầu tư, là hoạt động sử dụng vốn trong hiện tại, nhằm tạo ra những tài sản

vật chất và trí tuệ mới, năng lực sản xuất mới và duy trì những tài sản hiện có,

nhằm tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Kết quả trực tiếp thu được của

hoạt động đầu tư phát triển được phản ánh qua mức độ đạt được của quá trình thi

công xây dựng công trình, nhà máy, làm gia tăng tài sản vật chất, tài sản trí tuệ,

nguồn nhân lực không chỉ cho chủ đầu tư mà cho cả nền kinh tế. Công trình hay

hạng mục công trình hoặc các đối tượng xây dựng khác có khả năng phát huy tác

dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hóa hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho

xã hội) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, có thể đưa vào sử dụng ngay

được gọi là tài sản cố định.

Chính vì vậy, vốn TD ĐTPT cho vay vào các dự án đầu tư phát triển thuộc

các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, mà trong đó chủ yếu dành

cho việc mua sắm trang thiết bị, máy móc, xây dựng nhà xưởng, công trình chủ

yếu là cho vay để hình thành nên tài sản cố định của các dự án đầu tư phát triển.

Tài sản cố định được đầu tư xong và được đưa vào sử dụng sẽ làm gia tăng

năng lực sản xuất của doanh nghiệp, của ngành kinh tế; từ đó làm gia tăng sản

lượng, doanh thu, lợi nhuận cho dự án, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế

của địa phương, vùng và toàn bộ nền kinh tế. Do đó, chỉ tiêu mức độ gia tăng giá

trị tài sản cố định đánh giá hiệu quả và mức đóng góp của hoạt động TD ĐTPT

cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm vào nền kinh tế, phục

vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Giá trị tài sản cố định được hình

thành và gia tăng qua các thời kỳ càng lớn càng chứng tỏ mức độ đóng góp của

hoạt động tín dụng này đối với nền kinh tế và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội

quốc gia càng lớn.

AV TD ĐTPT AV Mức độ gia tăng giá trị = tài sản cố định

(CT1.2.)

Trong đó: AV TD ĐTPT là giá trị tài sản cố định tăng thêm trong kỳ nhờ

được tài trợ vốn TD ĐTPT; AV là tổng giá trị tài sản cố định tăng thêm trong kỳ

58

của nền kinh tế.

- Mức độ hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt, thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH

CNH, HĐH nền kinh tế là tất yếu trong quá trình phát triển của mọi quốc

gia. Nội dung chủ yếu của CNH, HĐH là tập trung nguồn lực phát triển kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội, hình thành, xây dựng các ngành công nghiệp cơ bản, mũi

nhọn, tạo dựng thế mạnh của nền kinh tế, góp phần đưa tỷ trọng đóng góp của

công nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế quốc gia.

Để thực hiện quá trình CNH, HĐH, mỗi quốc gia có đường lối, bước đi

riêng của mình song không thể bỏ qua tiến trình đầu tư vốn cho các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nhằm hình thành nên các ngành công nghiệp

có tính chất động lực, tạo nền tảng phát triển cho các ngành, lĩnh vực khác, có tác

dụng “kéo” các ngành, lĩnh vực khác phát triển. Qua đó, có tác dụng chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.

Mức độ đóng góp vào phát triển các ngành, = lĩnh vực công nghiệp then chốt Tỷ lệ vốn TD ĐTPT đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt Tổng số vốn TD ĐTPT cho vay trong cùng thời kỳ

(CT 1.3)

Chỉ tiêu vốn TD ĐTPT đầu tư cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh

tế trọng điểm vào nền kinh tế nói chung cũng như vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh

vực then chốt nói riêng càng lớn, càng tập trung bao nhiêu càng cho thấy mức độ

đóng góp lớn bấy nhiêu của nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong đóng góp vào việc hỗ trợ phát triển các ngành,

lĩnh vực then chốt, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.

- Mức độ hỗ trợ đầu tư phát triển các địa bàn có điều kiện khó khăn, các

lĩnh vực khó thu hồi vốn, đảm bảo an sinh xã hội

Bên cạnh nhiệm vụ tập trung cho vay đầu tư vào các chương trình/dự án

kinh tế lớn, trọng điểm nhằm xây dựng, hình thành, phát triển một số ngành, lĩnh

59

vực công nghiệp then chốt, có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo triển khai

đường lối CNH, HĐH của một quốc gia, TD ĐTPT còn được sử dụng như một

công cụ đắc lực của các Chính phủ trong thực hiện mục tiêu hỗ trợ các địa bàn có

điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các lĩnh vực khó thu hồi vốn, lĩnh vực nông

nghiệp nông thôn… Nhờ đó, cơ cấu ngành, vùng kinh tế sẽ hợp lý hơn; góp phần

đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội giữa các vùng, miền,

lĩnh vực.

Chỉ tiêu vốn TD ĐTPT tài trợ vào các lĩnh vực này càng nhiều, càng có

nhiều chương trình, dự án trong lĩnh vực này và nhiều chương trình/dự án này

hoàn thành, đi vào hoạt động, có hiệu quả, thành công cho biết đóng góp của

nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình/dự án kinh tế lớn, trọng điểm đã phát

huy hiệu quả, thực thi được mục tiêu đề ra trong các lĩnh vực này.

 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động của tổ

chức cho vay

Bên cạnh việc xem xét, đánh giá kết quả, mức độ đóng góp của hoạt động

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm vào nền kinh

tế quốc dân và sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, còn cần xem xét,

đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động của tổ chức cho vay với tư

cách là công cụ của Chính phủ trong thực hiện hoạt động TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

Việc xem xét, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động, tính

lành mạnh của tổ chức cho vay trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT nói

chung và hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm nói riêng là cần thiết. Bởi lẽ:

Thứ nhất, để đạt được mục tiêu là công cụ thực hiện chính sách hỗ trợ đầu

tư phát triển của Nhà nước, Tổ chức cho vay phải thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm

an toàn hoạt động ngân hàng, bảo toàn vốn, quản lý và sử dụng vốn đúng mục

đích, có hiệu quả các nguồn vốn được giao và huy động của tổ chức. Trường hợp

ngược lại sẽ trực tiếp làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của tổ chức,

làm giảm hiệu quả hoặc dẫn đến không thực hiện được mục tiêu của Chính phủ

trong thực hiện cho vay các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

Do vậy, trước khi hoàn thành nhiệm vụ là công cụ của Chính phủ, Tổ chức

60

cho vay phải hoàn thành nhiệm vụ, đảm bảo được các chỉ số cơ bản của một định

chế tài chính. Nói cách khác, Tổ chức thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT phải là một

ngân hàng và hiệu quả hoạt động của nó được xem xét, đánh giá theo các tiêu chí

của một tổ chức hoạt động ngân hàng bao gồm các tiêu chí cơ bản về đảm bảo an

toàn hoạt động, bảo toàn vốn, quản lý và sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả.

Tuy nhiên, do mục đích, tính chất của hoạt động TD ĐTPT cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói chung nên các tiêu chí đánh giá hiệu

quả an toàn hoạt động, bảo toàn vốn, quản lý và sử dụng vốn của tổ chức cho vay

đối với hình thức tín dụng này có các đặc thù riêng, tương ứng với tính chất hoạt

động phi lợi nhuận của nó.

Thứ hai, trong quá trình hoạt động, Tổ chức cho vay phải đảm bảo hạn chế

cấp bù NSNN. Một đặc thù quan trọng trong hoạt động TD ĐTPT nói chung và

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng là

khi thực hiện nhiệm vụ cho vay TD ĐTPT của Nhà nước, Tổ chức cho vay được

NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất. Mức cấp bù được xác định trên cơ sở chênh lệch

giữa lãi suất hòa đồng các nguồn vốn cho vay và lãi suất cho vay. Vì vậy, hiệu quả

sử dụng vốn của tổ chức cho vay trong thực hiện hoạt động TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm cũng được thể hiện qua tiêu chí

mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN.

Trên cơ sở cách tiếp cận như trên về đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và an

toàn hoạt động của Tổ chức cho vay, với tư cách là công cụ của Chính phủ trong

thực hiện hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm, các chỉ tiêu cụ thể được sử dụng để đánh giá như sau:

- Mức độ thực hiện bảo toàn và phát triển vốn

Vốn là một điều kiện sống còn, tiên quyết trong hoạt động của một ngân

hàng. Vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các

chức năng của một ngân hàng. Vốn vừa là phương tiện, vừa là đối tượng kinh

doanh của một tổ chức hoạt động ngân hàng.

Tổ chức cho vay TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm, về bản chất, không phải là một ngân hàng thương mại (hoạt động vì

mục tiêu lợi nhuận) mà là một hình thức Ngân hàng của Chính phủ, một Quỹ đầu

tư phát triển của Chính phủ (hoạt động không vì mục đích lợi nhuận). Do vậy, chỉ

61

tiêu thực hiện bảo toàn và phát triển vốn của tổ chức cho vay TD ĐTPT không

được xem xét dưới lăng kính của một ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh

vốn, cung ứng các dịch vụ ngân hàng nhằm mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu

không thực hiện được nhiệm vụ bảo toàn, phát triển vốn thì tổ chức cho vay sẽ mất

vốn, giảm vốn, không còn vốn để thực hiện nhiệm vụ cho vay. Vì vậy, bảo toàn và

phát triển vốn là điều kiện tiền đề để thực hiện nhiệm vụ của tổ chức cho vay.

Đối với các NHTM, quy định pháp luật của nhiều nước và thông lệ quốc tế

đã quy định rõ tỷ lệ an toàn vốn, xác định trên cơ sở vốn tự có so với tài sản có quy

đổi theo tỷ trọng rủi ro của từng loại tài sản. Đây là hệ số cơ bản để đánh giá mức

đủ vốn cho ngân hàng hoạt động an toàn. Một ngân hàng có đủ vốn là yếu tố đầu

tiên đảm bảo cho ngân hàng đó hoạt động an toàn. Tỷ lệ này phải đạt mức tối thiểu

theo quy định ở mức phổ biến là 9%.

Đối với các ngân hàng phát triển - là tổ chức thực hiện cho vay TD ĐTPT

nói chung, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

nói riêng – thường chưa có quy định mang tính pháp định về tỷ lệ an toàn vốn

(CAR). Do vậy, mức độ bảo toàn và phát triển vốn của tổ chức cho vay TD ĐTPT

chủ yếu được xác định, tính toán trên cơ sở quan hệ giữa vốn chủ sở hữu của tổ

chức cho vay so với tổng dư nợ cho vay TD ĐTPT.

= Mức độ bảo toàn và phát triển vốn TD ĐTPT Tổng vốn chủ sở hữu Tổng dư nợ cho vay TD ĐTPT

(CT1.4)

Tỷ lệ này cao biểu hiện tính đủ vốn, biểu hiện sự ổn định, lành mạnh và

hoạt động hiệu quả của một tổ chức cho vay TD ĐTPT và ngược lại.

* Tỷ lệ nợ xấu (NPL ratio)

Cùng với chỉ tiêu đủ vốn hoạt động thì chất lượng tài sản có cao là yếu tố

quan trọng đảm bảo cho ngân hàng hoạt động an toàn. Chất lượng tài sản có được

phản ánh tập trung trước hết ở chất lượng của hoạt động tín dụng. Một ngân hàng

có chất lượng hoạt động tín dụng cao thể hiện qua việc thu nợ gốc và lãi đúng hạn,

bảo toàn được vốn cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn thấp…thì ngân hàng đó được đánh giá

cơ bản là hoạt động an toàn, hiệu quả. Tỷ lệ nợ quá hạn, đặc biệt là tỷ lệ nợ quá

62

hạn được phân loại vào các nhóm 3,4,5 so với tổng dư nợ là một chỉ số quan trọng

để đánh giá chất lượng tín dụng, mức độ tín dụng xấu hay tốt và qua đó đánh giá

mức độ hoạt động an toàn, hiệu quả của một ngân hàng.

= Tỷ lệ nợ xấu (nợ quá hạn được phân loại vào nhóm 3,4,5) Dư nợ xấu trong kỳ đánh giá Tổng dư nợ trong kỳ đánh giá

(CT1.5)

- Mức cấp bù chênh lệch lãi suất

Một trong những lý do cơ bản và là mục đích quan trọng của sự ra đời hình

thức TD ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh

tế trọng điểm là nhằm bù đắp sự thiếu hụt tạm thời của NSNN. Chính vì vậy, có

thể coi TD ĐTPT là một hình thức ứng trước vốn NSNN cho đầu tư phát triển

thông qua hình thức tín dụng, cho vay và thu hồi vốn gốc, lãi. Chi phí của hình

thức đầu tư vốn NSNN này là số cấp bù chênh lệch lãi suất cho tổ chức thực hiện

TD ĐTPT và phí quản lý, vận hành của tổ chức thực hiện TD ĐTPT. Do mức cấp

bù được xác định trên cơ sở chênh lệch giữa lãi suất hòa đồng các nguồn vốn đi

vay và lãi suất cho vay nên mức cấp bù chênh lệch lãi suất trên tổng dư nợ cho vay

càng lớn chứng tỏ chi phí của NSNN cho hình thức TD ĐTPT càng lớn và ngược

lại. Điều đó có nghĩa là, khi mức cấp bù chênh lệch lãi suất trên tổng dư nợ TD

ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm càng nhỏ thì hiệu

quả sử dụng vốn của tổ chức cho vay hình thức tín dụng này nói riêng và hiệu quả

của hoạt động tín dụng này nói chung càng lớn và ngược lại.

1.2. TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC TẠI MỘT SỐ QUỐC

GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

1.2.1. TDĐTPT của Nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới

Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, một số quốc gia đã thành lập một cơ cấu tài

chính - tín dụng mới với nhiệm vụ được đặt ra là tái thiết lại nền kinh tế, tập trung

nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng, tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực ưu

tiên cao, một số ngành công nghiệp then chốt của nền kinh tế nhằm nhanh chóng

tạo tiền đề cho các ngành kinh tế khác phát triển, thúc đẩy xuất khẩu, tạo nguồn

63

tích lũy, đẩy mạnh công nghiệp hóa.

Việc xây dựng và phát triển các công cụ tài chính – tín dụng của mình giúp

các Chính phủ để huy động và phân bổ có hiệu quả nguồn lực của quốc gia nhằm

nhanh chóng công nghiệp hóa nền kinh tế ở một số quốc gia, thường được thực thi

dưới tên gọi chính sách công nghiệp ở các quốc gia này, bằng cách sử dụng cơ chế

tài trợ theo định hướng chính sách của Chính phủ hay còn được gọi là tài trợ phát

triển thông qua các ngân hàng phát triển (NHPT).

Dưới đây là kết quả tìm hiểu về hoạt động của các ngân hàng phát triển nói

riêng - tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng chính sách (tài trợ phát triển) – cũng

như hoạt động tín dụng chính sách nói chung, trong đó có hoạt động tín dụng chính

sách cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở một số quốc gia

tiêu biểu gồm CHLB Đức, Nhật Bản, Trung Quốc.

1.2.1.1. CHLB Đức [90]

Hoạt động tài trợ chính sách hay tài trợ phát triển (tương tự như hình thức

tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam) ở CHLB Đức ra đời khá sớm,

ngay sau chiến tranh thế giới thứ 2. Vào tháng 11/1948, nước Đức đã thành lập

Ngân hàng Tái thiết Đức (tiếng Đức: Kreditanstalt fur Wiederaufbau) - KfW -

nhằm tạo dựng một công cụ mạnh triển khai công cuộc tái thiết đất nước. Chức

năng ban đầu của KfW là cung cấp các khoản vay dài hạn để tái thiết các ngành

công nghiệp cơ bản như thép, than thông qua nguồn vốn đặc biệt được lập từ một

phần của Chương trình khôi phục châu Âu (ERP) mà được biết tới dưới tên gọi

chung là Kế hoạch Marshall.

Năm 1952 KfW bắt đầu cho vay trung dài hạn tài trợ xuất khẩu. Năm 1961,

Luật KfW được sửa đổi nhằm mở rộng hoạt động thành “tái thiết hoặc thúc đẩy

nền kinh tế Đức” và cho phép KfW triển khai chương trình cho vay toàn diện trong

nước nhằm phát triển các vùng, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và

vừa và các dự án khác phục vụ nền kinh tế. Cùng thời gian đó, KfW bắt đầu

chương trình cho vay vốn của Chính phủ Đức cho các nước đang phát triển.

Năm 1973, KfW bổ sung thêm chức năng bảo lãnh tín dụng. Kể từ thập kỷ

80, KfW tập trung vào cho vay các dự án bảo vệ môi trường và cho các chính

quyền địa phương vay. Đối với cho vay nước ngoài, KfW tập trung vào việc mở

64

rộng phạm vi hoạt động thông qua tài trợ xuất khẩu.

Với việc nước Đức tái thống nhất vào năm 1990, KfW tập trung vào

chương trình tái thiết khu vực Đông Đức trước đây. Năm 1994, KfW bắt đầu

Chương trình sáng tạo như là một công cụ để hỗ trợ hoạt động nghiêu cứu và triển

khai trong nước.

Đến nay, chức năng chủ yếu của KfW là:

- Tài trợ cho các khoản vay mà cho đến nay các tổ chức tín dụng khác

không có khả năng huy động vốn cần thiết để tài trợ, cho vay đối với các dự án

phục vụ cho công cuộc tái thiết hoặc thúc đẩy nền kinh tế Đức;

- Tài trợ cho các khoản vay liên quan đến các hoạt động xuất khẩu của các

doanh nghiệp trong nước; và:

- Thực hiện bảo lãnh trong khuôn khổ các nghiệp vụ trên;

- Tài trợ cho các khoản vay nhằm phục vụ việc tài trợ các dự án giúp cho

các nước khác;

- Cho vay đối với các công ty nước ngoài thực hiện đầu tư ở Đức và cho các

công ty Đức vay vốn để đầu tư ra nước ngoài;

- Thực hiện tài trợ xuất khẩu dài hạn;

- Cho vay ODA cho các nước đang phát triển.

KfW được thành lập theo Luật Ngân hàng KfW và không chịu sự điều

chỉnh của Luật Ngân hàng Đức (tương tự như Luật các tổ chức tín dụng ở Việt

Nam).

Bên cạnh nguồn vốn điều lệ được cấp ban đầu (vốn pháp định của KfW do

Chính phủ Liên bang đóng góp 80% và 20% là do chính quyền các Bang đóng

góp), nguồn vốn hoạt động chủ yếu của KfW là từ việc phát hành trái phiếu.

Các hoạt động cho vay của KfW đều có lãi suất ưu đãi, trừ hoạt động tài trợ

xuất khẩu. Lãi suất cho vay do Chính phủ liên bang quyết định.

KfW là một tổ chức tài chính công của Liên bang Đức, do Bộ Tài chính

Liên bang giám sát trực tiếp. Cơ cấu tổ chức của KfW gồm hai bộ phận: Hội đồng

Giám sát và Ban Giám đốc điều hành. Hội đồng giám sát là cơ quan quản lý cao

nhất của KfW, có chức năng giám sát, hoạch định chiến lược và chính sách hoạt

động của KfW, phân bổ nguồn vốn cho các hoạt động của ngân hàng, chỉ định cơ

65

quan kiểm toán, phê duyệt các khoản vay lớn…

Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ Kinh tế & Lao động Liên bang luân phiên

nhau giữ chức chủ tịch và phó chủ tịch của Hội đồng này. Hội đồng gồm các thành

viên là Bộ trưởng một số bộ của Liên bang; 5 đại diện do Thượng viện cử; 7 đại

diện do Hạ viện cử; Đại diện của các ngân hàng thế chấp, tiết kiệm, ngân hàng

HTX, ngân hàng công nghiệp, tổ chức tín dụng công nghiệp; Đại diện của các

chính quyền tất cả các bang, các hiệp hội ngành nghề công nghiệp, thủ công

nghiệp, nhà cửa, nông nghiệp; đại diện của Công đoàn.

1.2.1.2. Nhật Bản [91]

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đứng trước sự suy giảm sản xuất đang lan

rộng, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định thông qua và thực hiện một Chương trình

sản xuất ưu tiên nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp

chế tạo và khai khoáng. Chính sách này được thực hiện nhằm làm tăng sản lượng

của ngành khai khoáng và công nghiệp chế tạo thông qua việc mở rộng năng lực

sản xuất của hai ngành then chốt là than và thép. Để khuyến khích sản xuất ưu tiên,

Chính phủ Nhật Bản đã sử dụng nhiều công cụ tài khóa và tiền tệ khác nhau, bao

gồm cả các biện pháp điều tiết trực tiếp và biện pháp mang tính chính sách như tài

trợ vốn qua Ngân hàng tài chính tái thiết (RFB), một định chế tài trợ chính sách

đầu tiên của Nhật Bản được thành lập vào năm 1947. Để đáp ứng cho Chương

trình sản xuất ưu tiên, RFB đã cung cấp nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế Nhật

Bản thời bấy giờ. RFB cung cấp hơn 80% tổng nguồn vốn đầu tư cho các ngành

công nghiệp chủ chốt như than, thép, hóa chất, năng lượng, tàu biển, dệt may. Phần

lớn nhu cầu vốn đầu tư cho các ngành sản xuất ưu tiên được đáp ứng bởi RFB và

cùng với đó là sự hỗ trợ về giá đã khiến cho chương trình sản xuất ưu tiên được

triển khai thành công, mang lại sự phục hồi nhanh chóng cho sản xuất công nghiệp

ở Nhật Bản sau chiến tranh. Vào tháng 3/1949, RFB buộc phải dừng hoạt động cho

vay do có nhiều ý kiến cho rằng chính các giải pháp tài trợ cho các ngành ưu tiên

và sự hỗ trợ về giá cho các ngành này được coi là nguyên nhân dẫn đến tình trạng

lạm phát tăng cao.

Để giải quyết tình trạng khan hiếm nguồn vốn, ngày càng trở nên trầm trọng

hơn khi cuộc chiến tranh Triều Tiên nổ ra năm 1950, Chính phủ Nhật Bản đã quyết

66

định thành lập một số định chế tài trợ chính sách với chức năng cung cấp nguồn

vốn ổn định cho các ngành công nghiệp, trong đó có NHPT Nhật Bản được thành

lập vào tháng 4 năm 1951.

Nhiệm vụ chủ yếu của NHPT Nhật Bản ngay sau khi thành lập là tài trợ cho

việc khôi phục cơ sở hạ tầng công nghiệp và phát triển các ngành công nghiệp chủ

chốt khác như than, thép, vận tải biển…Tiếp đó trong suốt thời kỳ tái thiết nền

kinh tế, thập kỷ 50 của thế kỷ XX, thông qua NHPT Nhật Bản, nguồn vốn tín dụng

nhà nước ở Nhật Bản đã đóng vai trò chủ đạo trong tập trung tài trợ cho các ngành

công nghiệp cơ bản then chốt của nền kinh tế như năng lượng, sắt thép, than, tàu

biển…Việc hiện đại hóa các ngành công nghiệp này và mở rộng đầu tư nhằm tới

mục tiêu tháo gỡ các nút thắt cổ chai trong sản xuất để gia tăng sản lượng xuất

khẩu, tăng trưởng bền vững, đồng thời tạo điều kiện đổi mới các ngành công

nghiệp khác.

Cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60 thế kỷ XX, với chính sách tập trung vào

tăng trưởng công nghiệp hơn nữa và sự phát triển liên vùng cân đối, chính sách tín

dụng ưu đãi của Nhật Bản tiếp tục ưu tiên tập trung ưu đãi phát triển các ngành

công nghiệp non trẻ như chế tạo máy, điện tử, sợi hóa học, dệt tổng hợp cũng như

các ngành hóa dầu, công nghiệp sản xuất ô tô…nhằm nâng đỡ, tạo đà cho tăng

trưởng kinh tế; đồng thời tập trung cho vay để phát triển kinh tế địa phương nhằm

điều chỉnh chênh lệch vùng miền.

Trong giai đoạn cuối những năm 1960, đầu những năm 1970 (1966 – 1971),

khi Nhật Bản chuyển sang một giai đoạn tăng trưởng cao, tín dụng nhà nước qua

NHPT Nhật Bản bắt đầu tập trung tài trợ cho cạnh tranh quốc tế phù hợp với

chuyển dịch sang một hệ thống kinh tế mở. Đồng thời, tập trung cho các dự án

phát triển xã hội và cải thiện mức sống quốc gia. Các lĩnh vực ưu tiên trong giai

đoạn này bao gồm các dự án phát triển đô thị, phát triển vùng và chống ô nhiễm

môi trường cũng như các biện pháp khác nhằm giảm bớt tác động của quá trình

tăng trưởng nóng.

Đầu những năm 1970 cho tới đầu những năm 1980, NHPT Nhật Bản

chuyển hướng tập trung vào việc dự trữ tài nguyên và các hoạt động bảo đảm cung

năng lượng ổn định, một hoạt động có vị trí rất quan trọng đối với nền kinh tế sau

67

cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Một trong những trọng tâm khác của Ngân hàng trong

thời kỳ này là những điều chỉnh đối với sự mất cân đối trong tăng trưởng kinh tế

và yêu cầu nâng cao mức sống của người dân.

Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 (1985 – 1995), trọng tâm ưu

tiên của Chính phủ thông qua NHPT Nhật Bản tập trung vào cải thiện nguồn vốn

xã hội, phát triển công nghệ sáng tạo, tái cấu trúc công nghiệp Nhật Bản và thích

ứng với quá trình quốc tế hóa. Trong giai đoạn 1999 đến nay NHPT Nhật Bản

(DBJ) tập trung vào 3 lĩnh vực hoạt động chủ yếu là: (1) phát triển khu vực, (2) cải

thiện mức sống (bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai), (3) tài trợ cho các

ngành quan trọng, mang tính chiến lược, đóng góp cho sự phát triển bền vững của

nền kinh tế Nhật Bản.

DBJ được thành lập và hoạt động theo Luật Ngân hàng Phát triển Nhật Bản.

DBJ được tổ chức là một cơ quan của Chính phủ. Ngân hàng phát triển Nhật Bản

không thuộc sự quản lý của Ngân hàng trung ương Nhật Bản. Bộ Tài chính là cơ

quan chịu trách nhiệm toàn bộ với các khoản nợ của DBJ. Là một ngân hàng của

Chính phủ, DBJ không phải thực hiện quy định tỷ lệ vốn đầy đủ hay bất kỳ quy

định nào khác có liên quan của các cơ quan quản lý tiền tệ. DBJ không phải xác

định trước mức dự trữ như các ngân hàng thương mại.

Nguồn vốn hoạt động ban đầu của DBJ do Chính phủ (thông qua Bộ tài

chính) cấp và được cung cấp ổn định từ các nguồn vốn dài hạn từ các quỹ tín thác

của Chính phủ huy động từ Quỹ tiết kiệm bưu điện, quỹ phúc lợi, quỹ bảo hiểm

nhân thọ…Ngoài ra, DBJ còn huy động vốn từ thị trường quốc tế thông qua phát

hành trái phiếu có bảo lãnh của Chính phủ.

Lãi suất cho vay của DBJ không phải do Ngân hàng trung ương Nhật Bản

định ra. Trên cơ sở tham khảo lãi suất trái phiếu Chính phủ, ý kiến của các bộ

ngành liên quan, đặc biệt là Bộ tài chính, cũng như xem xét các mức lãi suất do các

ngân hàng thương mại, JDB đưa ra lãi suất cho vay của mình.

1.2.1.3. Trung Quốc [92]

Công cuộc đổi mới hệ thống tài chính ở Trung Quốc được bắt đầu vào tháng

12/1978, song hành cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Để giải

quyết các vấn đề tồn tại từ những cải cách tài chính trong những năm 1980, vào

tháng 11 năm 1993, tại kỳ họp mở rộng của BCH TW Đảng cộng sản Trung Quốc,

68

BCH TƯ Đảng cộng sản Trung Quốc đã ban hành chủ trương đối với những vấn

đề tồn đọng để xây dựng kinh tế thị trường XHCN với một loạt biện pháp như: (i)

thành lập một hệ thống ngân hàng trung ương vững mạnh; (ii) thành lập ngân hàng

chính sách và tách bạch hoạt động giữa hai ngành ngân hàng chính sách và ngân

hàng thương mại; (iii) hình thành thị trường tiền tệ và tự do hóa lãi suất; (iv) cải

cách hệ thống quản lý ngoại hối.

Một trong những kết quả quan trọng của chủ trương nói trên là việc khai

sinh 3 ngân hàng chính sách: Ngân hàng phát triển Trung Quốc (CDB) ra đời vào

ngày 17/3/1994; Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc được thành lập ngày

26/4/1994 và Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Trung Quốc được thành lập ngày

18/11/1994. Trong đó CDB đảm trách việc quản lý tín dụng cho các dự án tầm

trung và lớn.

Hoạt động tài trợ chính sách ở Trung Quốc được sử dụng nhằm thực thi các

chính sách của Chính phủ đảm bảo các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ

phát triển. CDB được sử dụng như một công cụ để huy động các nguồn vốn trong

nước và nước ngoài phù hợp với các mục tiêu và kế hoạch chiến lược cho phát

triển kinh tế quốc gia; quản lý ngân sách cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng

trọng điểm của nhà nước, các ngành cơ bản, các ngành xương sống, các ngành mới

và công nghệ cao để thúc đẩy sự phát triển nhanh, lành mạnh và bền vững của nền

kinh tế quốc dân; các dự án đổi mới cơ sở hạ tầng và kĩ thuật trong các lĩnh vực

như giao thông vận tải, khai thác than, dầu mỏ, điện lực, nguyên liệu thô, ô tô, dệt

may, lắp máy, điện tử, nông lâm nghiệp; nỗ lực góp phần hài hòa, giảm khoảng

cách chênh lệch về mức độ phát triển kinh tế giữa miền Trung và phía Tây đất

nước với miền duyên hải phía Đông…

Trước năm 1997, CDB thi hành các chính sách tiền tệ và tài khóa của chính

quyền trung ương bằng cách kiểm soát tổng số lượng đầu tư, hạn chế cho vay đối

với các dự án bất hợp lý, ưu tiên cung cấp vốn cho các dự án có triển vọng và lợi

nhuận cao. Trong một môi trường kinh tế thiếu những giới hạn tổng quát, CDB

đóng vai trò quan trọng trong giảm bớt áp lực lạm phát, kiềm chế xu hướng tăng

trưởng quá nóng của lĩnh vực đầu tư tài sản cố định, cũng như đạt được sự “tiếp

đất nhẹ nhàng” thành công của nền kinh tế.

Sau năm 1997, khi thị trường người mua gia tăng, nền kinh tế Trung Quốc

69

chuyển từ thời kỳ thiếu thốn sang thời kỳ thặng dư cấu trúc ở mức thấp, với tổng

cầu còn khá yếu. Vào lúc đó, chính phủ Trung Quốc chủ trương chính sách thúc

đẩy nhu cầu trong nước nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, và đưa ra những biện

pháp như tăng phát hành trái phiếu kho bạc cho việc xây dựng các công trình cơ sở

hạ tầng giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Từ năm 2000 đến nay, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, để phù hợp với

các cam kết với WTO, Trung Quốc tiếp tục thực hiện một số cải cách nhằm điều

chỉnh vai trò điều tiết của nhà nước đối với thị trường theo hướng tăng cường giám

sát của nhà nước đối với các các ngành năng lượng, viễn thông, tài chính, ngân

hàng, bảo hiểm, duy trì và bảo đảm xã hội phát triển hài hòa, tăng cường phúc lợi

xã hội, bảo vệ môi trường.

Trong giai đoạn 2001 – 2010 và các năm gần đây, CDB vẫn tiếp tục trung

thành với nguyên tắc hoạt động là công cụ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô

của Chính phủ, thực thi các kế hoạch trung và dài hạn của Chính phủ, hỗ trợ cho

tăng trưởng kinh tế thông qua định hướng giữ ổn định tỷ lệ tài trợ cho các lĩnh vực

năng lượng, giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng đô thị; tiếp tục thúc đẩy sự phát

triển khu vực phía tây; tiếp tục hỗ trợ tích cực các dự án công nghiệp công nghệ

cao trọng điểm; hỗ trợ cho vay các dự án cạnh tranh có hiệu quả cao và triển vọng

thị trường tốt như viễn thông, khí tự nhiên và các dự án hóa dầu; tiếp tục hỗ trợ có

chọn lọc cho các dự án sản xuất sản phẩm và nguyên liệu thô quan trọng; cải thiện

môi trường sinh thái và chất lượng sống của người dân; tiếp tục hỗ trợ tín dụng cho

các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như xây dựng các thị trấn nhỏ. Định hướng

hoạt động của CDB cho thấy, CDB chuyển dần từ tài trợ cho các lĩnh vực công

nghiệp, sang lĩnh vực xã hội, phát triển vùng, hạ tầng cơ sở hướng tới phát triển

bền vững.

CDB là ngân hàng 100% sở hữu nhà nước. Với vai trò là cơ quan phục vụ

các mục tiêu chính sách do nhà nước đề ra, CDB không hướng tới việc tối đa hóa

lợi nhuận. Mục tiêu chính của CDB là đạt được lợi nhuận và bảo toàn vốn. Để

kiểm soát hoạt động của CDB, một Ủy ban giám sát bao gồm các cán bộ cấp cao

của Ủy ban Phát triển và Kế hoạch Nhà nước, Ủy ban Kinh tế và Thương mại Nhà

nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Văn phòng Kiểm toán

quốc gia, Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế và một số vị trí được Hội đồng Nhà

70

nước bổ nhiệm để chịu trách nhiệm giám sát CDB.

Vốn điều lệ của CDB do Bộ tài chính cấp. Nguồn vốn hoạt động cơ bản của

CDB là phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh tới các định chế tài chính

trong nước (với tỷ lệ chiếm hơn 90% tổng vốn tài trợ). Giai đoạn đầu, việc phát

hành trái phiếu hoàn toàn dựa vào đặt mua bắt buộc. Từ 1998, CDB bắt đầu thực

hiện cơ chế huy động vốn theo định hướng thị trường theo hình thức phát hành trái

phiếu đấu thầu cạnh tranh. Đáng lưu ý là trong cơ cấu vốn chủ sở hữu của CDB,

vốn được cấp từ NSNN vẫn chiếm trên 50%, cho thấy CDB vẫn được hỗ trợ tài

chính rất mạnh từ Chính phủ.

Lãi suất cho vay của CDB tại thời điểm thành lập 1994 thấp hơn lãi suất

cho vay của Ngân hàng trung ương Trung Quốc ban hành là 20%. Các năm sau đó,

lãi suất cho vay của CDB gần giống như lãi suất cho vay của các ngân hàng

thương mại với các thỏa thuận ưu đãi về lãi suất theo cách cấp bù chênh lệch lãi

suất. Việc cấp bù chênh lệch lãi suất được thực hiện với từng dự án.

1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

1.2.2.1. Bài học về sử dụng TDĐTPT như một công cụ của Chính phủ để

phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ

Thứ nhất, TD ĐTPT được sử dụng để tập trung tài trợ cho các dự án công

nghiệp then chốt, trọng điểm quốc gia phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Trên cơ sở nghiên cứu bối cảnh hình thành, ra đời và cơ chế vận hành hoạt

động tín dụng chính sách ở một số quốc gia nêu trên, có thể thấy, mục tiêu hoạt

động của các ngân hàng phát triển nói riêng, hoạt động tài trợ chính sách, tài trợ

phát triển nói chung ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó tiêu biểu là các quốc

gia được nghiên cứu ở trên là cung cấp tài chính cho các dự án thuộc các lĩnh vực

ưu tiên cao của Chính phủ, phục vụ các chính sách phát triển kinh tế của đất nước

trong từng thời kỳ. Ttín dụng chính sách ở các quốc gia nêu trên thường được sử

dụng để tập trung đầu tư cho các dự án công nghiệp trọng điểm, các dự án thuộc

các ngành công nghiệp cơ bản, then chốt như điện, than, đóng tàu biển…Trường

hợp của Nhật Bản, CHLB Đức trong bối cảnh tái thiết đất nước, khôi phục và phát

triển công nghiệp sau chiến tranh thế giới thứ 2 khá tiêu biểu cho nhận định này. Ở

Trung Quốc, ngay sau khi thành lập, CDB tập trung tài trợ cho các dự án xây dựng

cơ sở hạ tầng trọng điểm quốc gia, các ngành xương sống, các dự án quy mô lớn

71

và vừa như: Dự án đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang; dự án đường sắt Bắc

Kinh – Cửu Long; Dự án nhà máy thủy điện đập vòm Nhị Than, Dự án bảo vệ

nguồn nước đập Tiểu Lăng Đế, Dự án đường sắt Nam Ninh – Côn Minh, các dự án

sân bay quốc tế tại 2 thành phố Bắc Kinh và Thượng Hải, tuyến tàu điện ngầm Bắc

Kinh – Phục Hưng – Bát Vương Phần, nhà máy điện hạt nhân tại Đại Á Loan

(Quảng Đông) và Quảng Tây. Những dự án trọng điểm quốc gia được CDB cho

vay chiếm hơn 70% trong tổng số dự án CDB tài trợ [92].

Thứ hai, TD ĐTPT được tập trung hỗ trợ các ngành, lĩnh vực mới, tiên

phong, công nghệ cao, thúc đẩy xuất khẩu, tạo việc làm

Ở CHLB Đức, từ cuối thập niên 1950, tín dụng chính sách của Chính phủ

thông qua KfW đã bắt đầu cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho hỗ trợ xuất

khẩu; từ thập kỷ 1960 trở đi, KfW mở rộng phạm vi hoạt động của KfW tham gia

vào chương trình cho vay khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa; từ thập kỷ

1980, KfW tập trung cho vay các chính quyền địa phương để mở rộng chương

trình hỗ trợ xuất khẩu tại nước ngoài. Và từ những năm 1990, KfW bắt đầu đưa ra

chương trình đổi mới nhằm khuyến khích nghiên cứu và phát triển trong nước.

Ở Nhật Bản, giai đoạn đầu tiên sau khi thành lập, DBJ tài trợ cho các dự án

có tầm ảnh hưởng quan trọng đến việc triển khai thực hiện công cuộc tái thiết sau

chiến tranh, khôi phục và mở rộng công nghiệp hóa như các dự án trong các lĩnh

vực then chốt, các ngành cơ bản của nền kinh tế như điện, than, đóng tàu, sắt thép.

Từ những năm cuối 1950, đầu 1960 khi Nhật Bản chuyển trọng tâm công nghiệp

hóa sang những ngành non trẻ, triển vọng như chế tạo máy, điện tử, sợi tổng hợp,

hóa dầu thì đây chính là đối tượng tài trợ chính sách của Chính phủ Nhật Bản

thông qua Ngân hàng Phát triển Nhật Bản. Cuối thập niên 1970 và đầu thập kỷ

1980, tài trợ chính sách ở Nhật Bản được chuyển trọng tâm vào các dự án bảo tồn

năng lượng, đảm bảo cung cấp ổn định năng lượng sau cú sốc của cuộc khủng

hoảng dầu lửa những năm 1973. Tài trợ chính sách cũng được sử dụng để phục vụ

chính sách ưu tiên của Chính phủ Nhật Bản những năm cuối thập kỷ 1980 và đầu

1990 nhằm khai thác các nguồn lực của khu vực tư nhân để cải thiện nguồn vốn

phúc lợi, điều chỉnh cơ cấu công nghiệp trong nước và thích ứng với quá trình

quốc tế hóa.

Ở Trung Quốc, bên cạnh các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm quốc gia, các

72

dự án trong các ngành sản xuất mới và lĩnh vực công nghệ cao để thúc đẩy sự phát

triển nhanh, bền vững của nền kinh tế quốc dân cũng là đối tượng được CDB tập

trung tài trợ.

Thứ ba, TD ĐTPT chuyển dần từ hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực công

nghiệp sang hỗ trợ thực hiện các dự án thuộc lĩnh vực xã hội, môi trường, đảm

bảo an sinh xã hội, phát triển bền vững

Ở cả ba quốc gia được nghiên cứu cho thấy, sau một thời gian nhất định,

TD ĐTPT có xu hướng chuyển dần từ các ngành, lĩnh vực công nghiệp cơ bản,

then chốt sang cho vay các dự án, lĩnh vực có tính chất đảm bảo an sinh xã hội,

bảo vệ môi trường, giảm chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền, phát triển hài

hòa, bền vững kinh tế xã hội quốc gia.

Từ cuối thập kỷ 1990, đầu những năm 2000 đến nay, KfW chuyển trọng

tâm sang tập trung tài trợ cho các dự án tạo việc làm, xây dựng nhà ở, thúc đẩy

doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo vệ môi trường. Từ cuối thập kỷ 1990 và từ những

năm 2000 đến nay, trọng tâm ưu tiên của tài trợ chính sách ở Nhật Bản hướng vào

việc phát triển các khu vực cải thiện mức sống dân cư (như bảo vệ môi trường,

phòng chống thiên tai), các ngành quan trọng mang tính chiến lược. Trường hợp

Trung Quốc càng minh chứng rõ cho quan điểm này. Nếu tổng số vốn cho vay các

dự án trọng điểm quốc gia của CDB chiếm một phần quan trọng trong tổng dư nợ

cho vay của CDB thì số vốn ưu tiên cho vay đầu tư vào các khu vực miền Trung

và phía Tây ở Trung Quốc cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số vốn cho vay

của CDB. Bên cạnh tiếp tục giữ ổn định tỷ lệ tài trợ cho các dự án thuộc các lĩnh

vực năng lượng, giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng đô thị, từ những năm 2000 đến

nay, CDB cũng tích cực tập trung tài trợ cho các dự án phát triển xã hội như giáo

dục đào tạo, dạy nghề, y tế, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao mức

sống người dân…

1.2.2.2. Bài học về thiết kế, xây dựng khung khổ pháp lý, cơ chế vận hành

đảm bảo triển khai hoạt động TD ĐTPT thành công

Thứ nhất, tạo lập khung pháp lý có hiệu lực cao cho hoạt động TD ĐTPT

Điều dễ nhận thấy là, dù ở một quốc gia có trình độ phát triển cao (như

CHLB Đức, Nhật Bản) hay ở một nước đang phát triển (Trung Quốc) thì khung

73

pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động tài trợ chính sách ở các quốc gia này đều là

một văn bản pháp lý có hiệu lực cao, một đạo luật riêng, độc lập với luật về hoạt

động ngân hàng, các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại.

Đạo luật riêng này cho phép các tổ chức tài trợ phát triển có thể nhận được

những ưu tiên, hỗ trợ đặc biệt của Chính phủ, tạo điều kiện cho các tổ chức này

tránh được những ràng buộc chặt chẽ của các đạo luật chi phối hoạt động của các

ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng thông thường khác nhằm hiện thực hóa

các chính sách ưu tiên của Chính phủ.

Thứ hai, Chính phủ hỗ trợ rất mạnh về nguồn vốn cho hoạt động TD ĐTPT

Hầu hết các tổ chức tài trợ phát triển trên thế giới đều là các tổ chức tài

chính nhà nước do vậy, nguồn vốn cơ bản đầu tiên của các ngân hàng phát triển là

vốn ngân sách nhà nước do Chính phủ cấp qua Bộ Tài chính. Quan trọng hơn,

trong cơ cấu vốn chủ sở hữu, nguồn vốn được cấp từ NSNN chiếm tỷ trọng rất lớn,

(trường hợp ở Trung Quốc chiếm đến trên 50%), là cơ sở tạo sự bền vững, an toàn

tài chính và thanh khoản cho các tổ chức cho vay này, đồng thời cho thấy sự hỗ trợ

tài chính rất mạnh từ các Chính phủ. Bên cạnh đó, các tổ chức tài trợ phát triển

cũng thường nhận được sự hỗ trợ mạnh từ Chính phủ trong giai đoạn đầu với việc

chỉ định các nguồn cung cấp vốn huy động, dài hạn từ các tổ chức tài chính, các

quỹ tài chính của Chính phủ như tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm (trường hợp Nhật

Bản) hoặc thông qua hình thức phát hành trái phiếu đặt mua bắt buộc như trường

hợp Trung Quốc.

Các đặc điểm về sự hỗ trợ mạnh của Chính phủ cho nguồn vốn hoạt động

của các tổ chức tài trợ phát triển nêu trên mang tính tiên quyết do tính chất hoạt

động tài trợ chính sách của các tổ chức này chủ yếu là tài trợ cho các dự án trong

các ngành công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án trọng điểm quốc gia, có

quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian sử dụng vốn dài, thu hồi chậm, rủi ro cao và khả

năng sinh lời thấp hoặc không có lợi nhuận.

Thứ ba, có cơ chế giám sát chặt chẽ đảm bảo sử dụng đúng mục đích, hiệu

quả đồng vốn đầu tư từ NSNN cho hoạt động TD ĐTPT

Về bản chất, hoạt động cho vay TD ĐTPT của các tổ chức tài trợ phát triển

là hoạt động đầu tư vốn Nhà nước, vốn NSNN cho sự nghiệp đầu tư phát triển kinh

tế xã hội ở các quốc gia. Đặc trưng thể hiện rõ nhất tính chất này là ngoài nguồn

74

vốn chủ sở hữu được cấp từ NSNN, nguồn vốn huy động của các tổ chức này chủ

yếu là trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, về bản chất

là nguồn vốn NSNN. Đồng thời, khi cho vay, phần chênh lệch giữa lãi suất huy

động và lãi suất cho vay tiếp tục được cấp bù từ vốn NSNN.

Chính vì vậy, hoạt động TD ĐTPT cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo sử

dụng hiệu quả. Trường hợp của CDB, cơ chế giám sát sử dụng vốn là kế hoạch cho

vay hàng năm được Quốc hội phê chuẩn, việc phân bổ sử dụng vốn do Ủy ban Kế

hoạch Nhà nước thực hiện, cơ quan giám sát thường xuyên là Hội đồng giám sát

bao gồm các thành viên của các bộ, ngành liên quan. Trường hợp của KfW cơ chế

giám sát sử dụng vốn là kế hoạch cho vay hàng năm được Quốc hội phê chuẩn, cơ

quan giám sát là Hội đồng giám sát gồm 37 thành viên là đại diện của các bộ,

ngành, đại diện của các bang, các hiệp hội, công đoàn và một số nghị sỹ do

Thượng viện và Hạ viện cử. Cơ chế giám sát như nêu trên vừa đảm bảo cho các tổ

chức tài trợ phát triển này thực hiện tốt nhiệm vụ là công cụ của Chính phủ phát

triển kinh tế xã hội đặt trong tổng thể kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia

vừa đảm bảo cho việc sử dụng nguồn lực công một cách chặt chẽ, đúng pháp luật,

có hiệu quả.

Qua nghiên cứu ba trường hợp tiêu biểu cho các thể chế chính trị, khu vực

địa lý và trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau là CHLB Đức, Nhật Bản,

Trung Quốc, có thể nhận thấy:

Xuất phát từ định hướng nhiệm vụ của mình, các tổ chức tài trợ phát triển

nói chung thường cấp tín dụng cho các dự án dưới hình thức tín dụng trung và dài

hạn, chủ yếu cho các dự án trong danh mục của chính phủ quy định, ưu tiên trong

từng thời kỳ phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động của các tổ chức tài trợ phát

triển này theo nguyên tắc bổ sung thay vì cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng

thương mại vì chủ yếu các khoản cho vay của các ngân hàng phát triển thường là

các khoản cho vay có thời hạn cho vay dài, đầu tư vào các lĩnh vực chịu nhiều rủi

ro và sử dụng nhiều vốn mà các ngân hàng thương mại thường không đủ tiềm lực

tài chính hoặc không muốn cho vay.

Ban đầu, các tổ chức tài trợ phát triển huy động vốn và cấp tín dụng nhằm

tiếp sức cho các ngành công nghiệp non trẻ, thâm dụng vốn trở thành các ngành

công nghiệp mũi nhọn, có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh

75

tế. Sau thời kỳ công nghiệp hoá, việc cho vay các dự án thâm dụng vốn, không

sinh lời hoặc khả năng sinh lời thấp, thời hạn hoàn vốn dài như các dự án đầu tư

kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, đầu tư vào các vùng miền, địa bàn khó khăn nhằm

làm giảm sự chênh lệch giữa các vùng, miền, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao

mức sống người dân...được coi là chức năng chủ đạo của các NHPT vì các ngân

hàng thương mại không đủ tiềm lực để cho vay hoặc không muốn cho vay.

Việc tập trung và chuyển dịch tài trợ vào các ngành, lĩnh vực trong nền kinh

tế qua các thời kỳ khác nhau đã phản ánh các mục tiêu chính sách phù hợp với

từng giai đoạn, thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Chính việc chuyển đổi trọng tâm

hỗ trợ thực hiện các ưu tiên của Chính phủ trong từng thời kỳ, đảm bảo sự phát

triển bền vững và công bằng xã hội, tín dụng chính sách đã đảm đương vai trò là

công cụ của Chính phủ trong việc khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị

trường. Đây là điểm khác biệt căn bản nhất giữa tín dụng chính sách và tín dụng

ngân hàng thương mại.

Nói cách khác, đặc trưng cơ bản và chức năng chủ yếu của hoạt động tài

trợ phát triển ở các quốc gia, thông qua các tổ chức tài trợ phát triển (ngân hàng

phát triển), đóng vai trò là công cụ tài chính của Chính phủ nhằm thực hiện các

nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, tham gia điều tiết vĩ mô nền

kinh tế, khắc phục các khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường.

*

* *

TD ĐTPT của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm là một hình thức tín dụng nhà nước, trong đó Nhà nước vừa là người đi

vay để bù đắp thiếu hụt NSNN, vừa là người cho vay để đầu tư các dự án phát

triển, các chương trình kinh tế lớn nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo

định hướng của Nhà nước trong từng thời kỳ.

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là

công cụ của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế - xã hội nên hoạt động này không

vì lợi nhuận. Nhưng là hình thức tín dụng nên hoạt động vẫn phải quan tâm đến

hiệu quả. Đó là hiệu quả kinh tế - xã hội.

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm mang

76

tính phổ biến trên thế giới. Kinh nghiệm triển khai hình thức tín dụng nhà nước, tín

dụng chính sách cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở một

77

số quốc gia trên thế giới là bài học rất bổ ích cho Việt Nam.

Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN

CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN

VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM

2.1. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG

ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ

ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM

2.1.1. Môi trường pháp lý

Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là quá trình hình

thành môi trường pháp lý cho hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước là bộ phận quan trọng đầu tiên cấu thành môi trường pháp lý cho hoạt động

tín dụng này ở Việt Nam thời gian qua.

Trong mấy chục năm vừa qua, việc thực hiện các chương trình kinh tế lớn

và các dự án kinh tế trọng điểm là một nội dung cơ bản trong triển khai và hiện

thực hóa đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.

Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế là hai mặt rất cơ bản của nền kinh

tế quốc dân. Sự phát triển, hoàn thiện và mối quan hệ giữa hai mặt này quyết định

toàn bộ sự vận động và phát triển của nền kinh tế. Trong đó, cơ cấu kinh tế quyết

định cơ chế quản lý và cơ chế quản lý có tác động trở lại, góp phần hoàn thiện cơ

cấu kinh tế [58]. Chính vì vậy, ngay từ những nhiệm kỳ Đại hội đầu tiên, Đảng và

Nhà nước ta đã sớm nhận thức và xác định rõ về yêu cầu phải chuyển đổi, xây

dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình phát triển nền kinh tế.

Từ Đại hội VI, tư duy kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã có sự

thay đổi lớn theo hướng trên cơ sở nhiệm vụ và mục tiêu tổng quát về đổi mới kinh

tế, Đảng ta xác định việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế và có sự điều chỉnh lớn

về cơ cấu đầu tư. Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng cơ cấu kinh tế

công – nông nghiệp tiên tiến, hiện đại đã được điều chỉnh theo hướng thiết thực

hơn với việc tập trung xây dựng và thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn là: chương

trình sản xuất lương thực, thực phẩm; chương trình sản xuất hàng tiêu dùng;

78

chương trình sản xuất hàng xuất khẩu. Ba chương trình kinh tế lớn nêu trên là sự

cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước

ta trong giai đoạn này. Có thể nói, đây là những chương trình kinh tế lớn đầu tiên ở

nước ta.

Trong các năm tiếp theo, các đại hội VII, VIII và IX cũng đã đưa ra quan

điểm, mục tiêu, nhiệm vụ về thực hiện việc cơ cấu lại nền kinh tế, tiến hành CNH,

HDH trong đó chú trọng CNH, HDH nông nghiệp, nông thôn. Đại hội VIII khẳng

định: “Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn

diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thủ sản; phát

triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. NQ số 06-NQ-TW

của Bộ Chính trị ban hành tháng 11/1998 về một số vấn đề phát triển nông nghiệp

và nông thôn, khẳng định: “đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn

là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình

hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp

nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã

hội chủ nghĩa (XHCN)”.

Tiếp tục hoàn thiện đường lối CNH, HDH nông nghiệp, nông thôn, Hội

nghị lần thứ 5 Khóa IX đã ban hành NQ về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn thời kỳ 2001- 2010, trong đó nêu những nội dung tổng quát, quan điểm,

mục tiêu phát triển, những chủ trương và giải pháp lớn để đẩy nhanh CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn.

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 đề ra các mục tiêu cụ thể

trong đó có mục tiêu: “Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,

quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông

an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hóa một bước. Mạng lưới giao thông

nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững

chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa…” [22].

Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-

2005 cũng đã đưa ra định hướng phát triển và các nhiệm vụ chủ yếu với một trong

những định hướng lớn và nhiệm vụ trọng yếu của thời kỳ này là: “Tăng nhanh vốn

đầu tư phát triển kinh tế xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao

sức cạnh tranh. Hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng. Đầu tư

79

thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng

còn nhiều khó khăn” [22]. Chủ trương và chính sách đầu tư phát triển của Đảng và

Nhà nước qua kênh TDĐTPT của Nhà nước trong thời kỳ 2001 – 2005 đã phản

ánh rõ nét định hướng chủ trương của thời kỳ này.

Cụ thể, chính sách đầu tư nhà nước được điều chỉnh theo hướng tăng đầu tư

phát triển kết cấu hạ tầng, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi

cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc

thành phần kinh tế khác đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, qua đó nâng cao

hiệu quả đầu tư nhà nước. Nhà nước tiếp tục xóa bỏ bao cấp trong ĐTPT. Nguồn

vốn NSNN tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các dự án không

có khả năng thu hồi vốn; hỗ trợ cho các vùng khó khăn, các chương trình mục tiêu

quốc gia, các chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước. Nhà nước chỉ hỗ trợ

đầu tư vào một số dự án ở những ngành, lĩnh vực và những vùng ưu tiên phát triển

trong từng thời kỳ. Cùng với chính sách đầu tư, chính sách thị trường vốn và tiền

tệ giai đoạn này cũng được làm rõ theo hướng giảm mạnh các hình thức bao cấp về

vốn, tín dụng. Cải cách hệ thống NHTM, tách chức năng tín dụng chính sách ra

khỏi chức năng kinh doanh của các NHTM quốc doanh [22].

Phù hợp với đường lối, chủ trương và cơ chế, chính sách và giải pháp nêu

trên, chính sách TDĐTPT của Nhà nước được ban hành và thể hiện tập trung tại

NĐ số 43/1999/ND-CP ngày 29/6/1999 về TDĐTPT của Nhà nước, có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/01/2000.

Thứ nhất, chính sách TDĐTPT nêu rõ mục tiêu là “hỗ trợ các dự án đầu tư

phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình

kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư”.

Thứ hai, từ mục tiêu nêu trên, đối tượng hỗ trợ TDĐTPT của Nhà nước

trong thời kỳ này tập trung vào các dự án đầu tư tại các vùng khó khăn thuộc một

số ngành, lĩnh vực theo danh mục của Chính phủ, chủ yếu tập trung cho sản xuất

điện, khai thác khoáng sản, hóa chất cơ bản, phân bón, chế tạo máy công cụ, máy

động lực phục vụ nông nghiệp, các dự án trồng rừng, các dự án cơ sở hạ tầng giao

thông, cấp nước, các dự án nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi bò sữa…

Thực hiện đường lối phát triển kinh tế và chính sách ĐTPT trong giai đoạn

2001 – 2005 nêu trên, một loạt các chương trình kinh tế lớn nhằm mục tiêu phục

80

vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được triển khai trong giai đoạn này như

Chương trình kiên cố kênh mương; Chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và

nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long; Chương trình trồng 5 triệu ha rừng

giai đoạn I (1998 – 2005). Đồng thời, trong giai đoạn này, các dự án kinh tế trọng

điểm như tập trung đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng, ngành điện, khai thác

khoáng sản, luyện kim, công nghiệp chế biến phục vụ nông nghiệp, nông thôn…đã

được triển khai nhằm thực hiện chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội

đã được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ IX.

Đại hội Đảng lần thứ X đã tổng kết 20 năm đổi mới và 10 năm chuyển sang

thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội cũng

chỉ ra những yếu kém, bất cập như: cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa tương

xứng với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và

khoa học, công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH. Trên cơ sở đó,

Đại hội đã đề ra đường lối công nghiệp hóa trong giai đoạn 2006 – 2010.

Một là đối với nông nghiệp, nông thôn, chủ trương là: “Tăng đầu tư từ ngân

sách nhà nước và đa dạng hóa các nguồn vốn để phát triển mạnh kết cấu hạ tầng nông

thôn. Đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng để hoàn thành chương trình cụm tuyến dân cư

vùng ngập lũ ở đồng bằng sông Cửu Long. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông

thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển

đường ô tô tới thôn, bản, ấp; phấn đấu đến năm 2010, trên 90% hộ dân cư nông thôn

có điện sinh hoạt, 75% dân cư nông thôn có nước sạch”. Hai là, trong lĩnh vực công

nghiệp: “Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản

phẩm quan trọng của nền kinh tế như: lọc hóa dầu, khai thác quặng và luyện thép,

phân bón, hóa chất, xi măng, khai thác bô xit và sản xuất alumin, bột giấy gắn với

trồng rừng, một số sản phẩm cơ khí chế tạo”. Ba là, đối với xây dựng kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội: “Nhà nước ưu tiên ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy

nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem

đây là một khâu đột phá để phát triển đất nước hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp

theo…Tập trung các nguồn lực để ưu tiên đầu tư hoàn chỉnh cơ bản hệ thống giao

thông đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường hàng không đáp ứng yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thủy

lợi có nhu cầu cấp bách, gắn với phát triển thủy điện. Phát triển nhanh nguồn điện với

cơ cấu hợp lý, hoàn chỉnh hệ thống truyền tải, bảo đảm sự vận hành an toàn, hiệu quả,

đáp ứng đủ điện cho yêu cầu phát triển, cả ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và

hải đảo” [25].

81

Tương ứng với đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về CNH,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này như đã nêu ở trên, chính sách

TDĐTPT của Nhà nước thời kỳ 2006 – 2010 cũng bám sát và phản ánh đường lối,

chủ trương đó. Trong đó, đối tượng cho vay, ngoài việc tiếp tục cho vay vào các

dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như giai đoạn trước,

giai đoạn này tập trung hơn cho các dự án thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế -

xã hội (dự án đầu tư đường bộ, đường sắt; dự án đầu tư xây dựng công trình cấp

nước sạch phục vụ công nghiệp và sinh hoạt; dự án đầu tư công trình xử lý nước

thải, rác thải tại các khu đô thị, KCN…); công nghiệp (dự án đầu tư chế biến sâu từ

quặng khoáng sản, sản xuất alumin…; dự án sản xuất động cơ diesel từ 300 CV trở

lên; dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa...; dự án

đầu tư sản xuất DAP và phân đạm…).

Triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách TDĐTPT

của Nhà nước về CNH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế như nêu trên, trong giai đoạn

2006 – 2010 một số chương trình kinh tế lớn đã được triển khai như: Tiếp tục triển

khai Chương trình kiên cố hóa kênh mương, phát triển đường giao thông nông

thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn đến

hết năm 2015 theo Quyết định (QĐ) số 13/2009/QĐ-TTg; Triển khai giai đoạn II

của Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng

sông Cửu Long; Triển khai giai đoạn II Chương trình trồng 5 triệu ha rừng; Triển

khai Chương trình cơ khí trọng điểm; Triển khai Chương trình đầu tư, cải tạo, mở

rộng, nâng cấp và xây mới giải quyết cấp bách tình trạng quá tải tại các bệnh viện

lớn, tuyến cuối của ngành y tế.

Đặc biệt, trong giai đoạn này, đã triển khai nhiều dự án kinh tế trọng điểm

lớn, có ý nghĩa tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực của nền

kinh tế. Tiêu biểu như các dự án sản xuất phân đạm ở Càu Mau; dự án sản xuất

phân đạm từ than cám ở Ninh Bình; dự án sản xuất phân DAP ở Lào Cai; dự án

khai thác và chế biến khoáng sản Núi Pháo, Thái Nguyên; hàng loạt các dự án

nguồn điện như: dự án thủy điện Bản Chát, dự án thủy điện Huội Quảng, dự án

82

thủy điện Lai Châu, dự án thủy điện Sơn La…

Tuy nhiên, khung pháp lý, cơ chế chính sách đối với hoạt động TD ĐTPT

cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn nhiều bất cập. Hành

lang pháp lý chưa đủ rõ, hiệu lực pháp lý thấp làm giảm hiệu quả của hoạt động

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

Hoạt động của các tổ chức tín dụng là NHTM, hợp tác xã tín dụng, quỹ tín

dụng nhân dân đã được điều chỉnh bằng Pháp lệnh ngân hàng từ năm 1989 và hiện

nay là Luật các tổ chức tín dụng (TCTD). Tuy nhiên, chính sách TD ĐTPT đã

được thực thi trong thực tế hơn 10 năm qua song cho đến nay, văn bản pháp lý cao

nhất điều chỉnh chủ trương, chính sách có ý nghĩa quan trọng này đối với sự phát

triển kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế đó chuyển

sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng

XHCN, vẫn là một văn bản ở tầm Nghị định của Chính phủ.

Trong thực tế hoạt động ở các nền kinh tế thị trường phát triển (Đức, Nhật

Bản) hoặc ngay ở các nền kinh tế thị trường mới nổi (Hàn Quốc, Indonesia,

Philippines), các nền kinh tế chuyển đổi (Nga, Trung Quốc), hoạt động của ngân

hàng chính sách về ĐTPT ở các quốc gia này đều được điều chỉnh bởi một luật

riêng, đặc biệt.

Việc thiếu vắng một văn bản ở tầm pháp lý cao như luật hoặc pháp lệnh về

tín dụng đầu tư phát triển ở Việt Nam để điều chỉnh hoạt động của một tổ chức có

tính chất là một ngân hàng chính sách trong hỗ trợ phát triển đầu tư của quốc gia

với tính chất hoạt động đặc thù, khác biệt với các NHTM dẫn đến có nhiều hạn chế

trong triển khai huy động nguồn lực, cho vay, xử lý rủi ro... làm giảm hiệu quả

hoạt động TD ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm nói riêng.

2.1.2. Chính sách TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trực

tiếp chịu sự chi phối của chính sách nhà nước về vấn đề này. Các cơ chế, chính

sách cụ thể của Nhà nước về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong từng

thời kỳ có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động tín dụng này.

Thứ nhất, cơ chế cho vay theo chỉ định làm gia tăng khả năng khó bảo

83

toàn, phát triển vốn và gia tăng mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN.

Trong thời gian qua, nhất là giai đoạn 2008-2013, trong bối cảnh nền kinh

tế gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng, suy thoái kéo dài, TD ĐTPT đã được Chính

phủ sử dụng như là một công cụ tài chính công hỗ trợ tăng trưởng, kích cầu, chống

suy giảm kinh tế. Trong khi nguồn thu và chi NSNN không tăng tương ứng với

nhu cầu của nền kinh tế, kênh TD ĐTPT đã được huy động tối đa theo hướng khối

lượng TD ĐTPT được Chính phủ giao thực hiện hàng năm ngày càng tăng mạnh.

Trong khi vốn điều lệ nhỏ, nhưng nhu cầu cung ứng vốn cho nền kinh tế tăng

mạnh, vốn TD ĐTPT chủ yếu cung cấp cho các dự án lớn, thời gian thu hồi vốn

dài, càng làm tăng sự giãn cách giữa vốn điều lệ và tổng tài sản, tổng dư nợ cung

cấp cho nền kinh tế và gia tăng mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN.

Điển hình như Chương trình cho vay kiên cố hóa kênh mương. Trong các

năm 2006-2008, số vốn Chính phủ giao NHPT huy động để cho vay Chương trình

kiên cố hóa kênh mương là khoảng 1.000 tỷ đồng/năm, năm 2011 là 2.000 tỷ đồng,

thì từ năm 2012 đến 2015 là 3.000 tỷ đồng/năm. Ngay trong năm 2012, do tình

hình cấp bách cần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường,

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012, giao NHPT huy

động bổ sung 2.000 tỷ đồng cho vay đầu tư kiên cố hóa kênh mương, phát triển

đường giao thông nông thôn, trạm bơm điện sản phục vụ sản xuất nông nghiệp, cơ

sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và làng nghề ở nông thôn. Như vậy, tổng cộng

nguồn vốn huy động cho Chương trình kiên cố hóa kênh mương năm 2012 là

5.000 tỷ đồng.

Tiếp đó, vẫn trong năm 2012, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục có chỉ đạo tại

Công văn số 1589/TTg-KTTH ngày 03/10/2012 tăng vốn tín dụng đầu tư giai đoạn

2013-2015 lên mức 5.000 tỷ đồng/năm. Sang năm 2013, để tiếp tục các giải pháp

thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, tháo gỡ khó

khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, Chính phủ đã

ban hành Nghị quyết số 13/TTg-KTTH ngày 07/01/2013, chỉ đạo NHPT huy động

bổ sung 10.000 tỷ đồng cho vay đầu tư kiên cố hóa kênh mương, ngoài mức 5.000

tỷ đồng hàng năm đã được phê duyệt tại CV 1589/TTg-KTTH nói trên. Như vậy

số vốn cho đầu tư kiên cố hóa kênh mương năm 2013 là 15.000 tỷ đồng, gấp 3 lần

84

năm 2012, gấp 7 lần năm 2011 và gấp 15 lần so với năm 2010 trở về trước [43].

Trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng bảo toàn và phát triển vốn của

NHPT còn nhiều yếu kém, trước hết là do NHPT được tổ chức lại và kế thừa

quyền, nghĩa vụ đối với tài sản, vốn, các chương trình, dự án cho vay từ thời Quỹ

hỗ trợ phát triển trước đây, trong đó có nhiều chương trình cho vay có tính chất

bao cấp của Nhà nước chứ không phải là cho vay theo cơ chế tín dụng thị trường.

Nhiều chương trình, dự án đã phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu từ thời Quỹ Hỗ trợ phát

triển và chủ trương cho vay xuất phát từ thời kỳ trước đó (trước năm 2000) như

Chương trình mía đường, Chương trình đánh bắt cá xa bờ, Chương trình tăng tốc

ngành dệt may, Chương trình đóng tàu biển… với tổng nợ xấu là 5.268 tỷ đồng

[47].

Một số chương trình kinh tế cho vay theo chỉ đạo trong thời kỳ 2000 – 2013

như chương trình cho vay đóng tàu biển của Vinashin cũng đã để lại nhiều hậu quả

trong bảo toàn vốn, cho vay TD ĐTPT. Riêng nợ khoanh, khó thu hồi của

Vinashin theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là trên 2.900 tỷ đồng [47].

Thứ hai, cơ chế tín dụng ưu đãi chứa đựng nhiều rủi ro dẫn đến tỷ lệ nợ

quá hạn cao.

Cơ chế ưu đãi trong cho vay tín dụng ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng được thể hiện qua các

cơ chế về đối tượng cho vay, lãi suất cho vay…

* Đối tượng cho vay

Đối tượng cho vay TD ĐTPT nói chung và đặc biệt là TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm hàm chứa nhiều rủi ro. Qua

nghiên cứu thực tế quy định của Nhà nước trong Danh mục các đối tượng được

vay vốn TD ĐTPT qua các thời kỳ (Xem Phụ lục số 01: Đối tượng cho vay vốn

TD ĐTPT qua các thời kỳ, 2000 – 2014) có thể thấy, đối tượng được vay vốn TD

ĐTPT thường xuyên thay đổi, mở rộng. Cụ thể:

+ Đối tượng cho vay vốn TD ĐTPT qua các thời kỳ không cố định, ổn định

liên tục mà thường xuyên được thay đổi qua các thời kỳ được quy định trong chính

sách TD ĐTPT của Nhà nước. Một đối tượng thuộc một ngành, lĩnh vực nào đó

trong giai đoạn này có thể tiếp tục hoặc không tiếp tục là đối tượng cho vay vốn

85

TD ĐTPT trong giai đoạn sau đó.

+ Đối tượng cho vay được mở rộng liên tục (thể hiện qua số lượng loại đối

tượng trong danh mục) trong thời kỳ từ 2000- 2011 và sau đó có sự điều chỉnh

theo hướng giảm từ năm 2011 đến nay. Đồng thời, sự mở rộng đối tượng cho vay

trong giai đoạn 2000 – 2011 còn được thể hiện ở chỗ: nếu giai đoạn 2000 – 2004,

các loại đối tượng trong danh mục chỉ được ưu đãi khi đầu tư vào các vùng địa bàn

khó khăn theo quy định của Chính phủ hướng dẫn Luật khuyến khích đầu tư trong

nước (sửa đổi) năm 1998 thì trong giai đoạn 2004-2011, không chỉ ở địa bàn có

điều kiện khó khăn mà ở tất cả các địa bàn trong cả nước, các dự án đầu tư thuộc

các loại đối tượng trong danh mục được vay vốn TD ĐTPT.

Đối tượng cho vay vốn TD ĐTPT là một đặc trưng tiêu biểu thể hiện chính

sách ưu đãi của Nhà nước vì vậy đối tượng hỗ trợ vốn TDĐTPT của Nhà nước chủ

yếu tập trung vào các dự án lớn, sản xuất hàng xuất khẩu… trong đó hầu hết các

dự án đều thuộc các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó

khăn, cần khuyến khích đầu tư nên các chủ đầu tư rất khó huy động đủ nguồn vốn

thương mại để tham gia đầu tư; các NHTM cũng ngần ngại cho vay. Do đó đây

thường là nhóm dự án có độ rủi ro cao hơn mức rủi ro trung bình trên thị trường.

Mặt khác, cơ chế chính sách cho vay vốn TDĐTPT của Nhà nước được sửa

đổi, bổ sung từ NĐ số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 đến NĐ số 106/2004/NĐ-

CP ngày 01/4/2004, NĐ số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006, NĐ số

106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008, hiện nay là NĐ số 75/2011/NĐ-CP ngày

30/8/2011, do sửa đổi, bổ sung, thay thế nhiều lần nên có những chương trình, dự

án thuộc đối tượng cho vay của nghị định trước phải dừng lại vì không thuộc đối

tượng của nghị định sau, điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến việc cho vay và

thu nợ trong hoạt động TD ĐTPT.

Điều đáng nói hơn, mặc dù cơ chế chính sách được sửa đổi, bổ sung nhiều

lần, song cho đến nay, có thể nói đối tượng cho vay vốn TDĐTPT vẫn còn rộng,

trong đó quy định hiện tại cho phép mọi dự án thuộc tất cả các lĩnh vực ở vùng

kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn thuộc đối tượng vay vốn, điều này cũng hàm

chứa rủi ro cao trong cho vay TD ĐTPT.

* Lãi suất cho vay

Lãi suất TD ĐTPT nói chung, lãi suất TD ĐTPT cho các chương trình kinh

86

tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng cũng là một đặc trưng cho cơ chế tín

dụng ưu đãi. Tuy nhiên, lãi suất TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm được duy trì ở mức thấp so với thị trường trong một thời gian

dài dẫn đến việc bị khách hàng, chủ đầu tư chiếm dụng vốn, làm tăng tỷ lệ nợ quá

hạn. Qua nghiên cứu, có thể thấy cơ chế thực hiện lãi suất cho vay vốn TDĐTPT

của Nhà nước qua các thời kỳ từ năm 2000 đến nay có những hạn chế sau:

+ Cơ chế lãi suất cố định trong suốt thời hạn vay vốn gây khó khăn khi thực

hiện cho cả Nhà nước, tổ chức cho vay và người đi vay vốn TDĐTPT của Nhà

nước. Do lãi suất được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng và được giữ

nguyên trong cả thời hạn vay vốn, mặc dù tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, chủ đầu

tư tính toán khả năng sinh lời và trả nợ vốn vay song cũng tạo ra những khó khăn

khi thực hiện cho cả Nhà nước, tổ chức cho vay và người đi vay. Chẳng hạn, khi

lãi suất trên thị trường có biến động theo hướng tăng, gánh nặng cấp bù từ NSNN

sẽ tăng lên do phải cấp bù chênh lệch lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay

nhiều hơn (lãi suất huy động vốn tăng lên trong khi lãi suất cho vay ra không thay

đổi). Người đi vay sẽ có động cơ tìm mọi cách trì hoãn, không trả nợ vốn vay để

tiếp tục chiếm dụng vốn TDĐTPT do vào tại thời điểm lãi suất thị trường tăng cao,

nếu vay vốn trên thị trường, người đi vay sẽ phải chi phí nhiều hơn cho trả lãi vay.

Tổ chức cho vay sẽ gặp khó khăn khi tổ chức thu hồi nợ vay đáo hạn, làm tăng

nguy cơ nợ xấu, nợ quá hạn tăng lên, mất cân đối về nguồn vốn huy động (thiếu

hụt từ phần thu hồi nợ vay), đồng thời tăng chi phí huy động vốn trên thị trường để

bù đắp cho phần thiếu hụt do không thu hồi được nợ vay theo đúng kế hoạch thu

hồi nợ vay.

+ Cơ chế lãi suất áp dụng cho tất cả các đối tượng vay vốn, mang tính “cào

bằng”, không phân biệt mức sinh lời và độ rủi ro của từng dự án vay vốn

TDĐTPT. Do lãi suất được ấn định với một mức lãi suất cụ thể trong văn bản về

TDĐTPT của nhà nước, áp dụng cho tất cả các đối tượng vay vốn TDĐTPT của

nhà nước, không căn cứ vào độ rủi ro và mức sinh lời của từng dự án, khả năng tài

chính của từng chủ đầu tư và khả năng trả nợ của từng dự án đã tạo ra sự “cào

bằng” về mức hỗ trợ của nhà nước cho các chủ đầu tư. Đồng thời không gắn trách

nhiệm của chủ đầu tư đối với từng dự án vay vốn, nhất là đối với các dự án có độ

rủi ro cao, khả năng sinh lời thấp, khả năng tài chính của chủ đầu tư, khả năng trả

87

nợ của dự án kém.

+ TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói

riêng, TD ĐTPT nói chung là hình thức tín dụng ưu đãi của Nhà nước, trong đó ưu

đãi thông qua lãi suất cho vay thấp là một trong những ưu đãi chủ yếu. Tuy nhiên,

với mức lãi suất cho vay được quy định ở mức thấp trong một thời gian dài so với

lãi suất cho vay trên thị trường và được giữ nguyên, không thay đổi trong suốt cả

đời dự án là không hợp lý. Nền kinh tế Việt Nam trải qua thời kỳ khó khăn do ảnh

hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới liên tục từ 2008 đến nay, kinh

tế kinh tế vĩ mô chưa ổn định, lạm phát, lãi suất ngân hàng cao (có thời điểm lãi

suất cho vay trên thị trường bình quân lên đến gần 20%/năm) đã ảnh hưởng lớn

đến khả năng huy động vốn đáp ứng nhu cầu vay vốn TD ĐTPT. Mặt khác, hiệu

quả sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư vay vốn tín dụng đầu tư giảm thấp, dẫn

đến việc các chủ đầu tư lợi dụng, chiếm dụng vốn TD ĐTPT cũng như ảnh hưởng

đến việc trả nợ vốn vay TD ĐTPT, là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm

cho tỷ lệ nợ quá hạn tăng cao.

Bảng 2.1. Tỷ trọng dư nợ tương ứng với các mức lãi suất

cho vay trong tổng dư nợ

Các mức lãi suất

Dư nợ trên trong tổng dư nợ cho vay

(%/năm)

Dưới 8,4 Trong đó: - Từ 6,6 đến 8,4 trở xuống

(%/tổng dư nợ) 85,6 55

- Từ 6,6 trở xuống

30,6

Nguồn: NHPT [42].

Ngoài ra, nhiều quy định, thủ tục pháp lý liên quan đến hoạt động cho vay

TD ĐTPT nói chung và TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm cũng góp phần làm tình trạng tỷ lệ nợ xấu gia tăng. Chẳng hạn, hệ

thống các quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan

trong việc quản lý, quy hoạch, kế hoạch, quản lý đầu tư …(như việc cấp phép mỏ,

tài nguyên khoáng sản của dự án, đánh giá tác động môi trường, giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất…) chậm ban hành, hướng dẫn, cấp phép; trách nhiệm của

88

doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ tín dụng…chưa đầy đủ, chưa nghiêm

nên khi xảy ra rủi ro khó xử lý, không rạch ròi, nghiêm minh về trách nhiệm tài

chính.

Các quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản tuy đã có nhiều đổi mới

song trình tự, thủ tục còn rườm rà, qua nhiều khâu và mất nhiều thời gian, cùng với

các vướng mắc về giải phóng mặt bằng, cấp phép khai thác mỏ, tài nguyên…có

liên quan đã ảnh hưởng trực tiếp tới tiến độ thực hiện đầu tư dự án, kéo dài thời

gian thực hiện dự án, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, khả năng trả nợ của dự án.

Một số chính sách, điều kiện hoạt động chưa được hướng dẫn, ban hành kịp

thời như việc cấp giấy phép tham gia hoạt động ngoại hối, việc hướng dẫn phân

loại nợ theo quy định, cơ chế trích lập dự phòng rủi ro chưa hoàn thiện, chưa được

tham gia thị trường liên ngân hàng, thị trường mở…gây ảnh hưởng, hạn chế tới

việc quản lý, sử dụng vốn và chủ động trong xử lý nợ, ảnh hưởng đến hoạt động

TDĐTPT.

Thứ ba, cơ chế huy động vốn thực hiện TD ĐTPT còn nhiều hạn chế gây

ảnh hưởng đến khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế.

Trong giai đoạn trước, từ 1990 - 1999, từ khi có chủ trương ĐTPT kinh tế

xã hội qua kênh tín dụng đầu tư của nhà nước, vốn TDNN cho ĐTPT đều dựa vào

nguồn NSNN, theo đó, hàng năm NSNN phải cân đối vốn cho ĐTPT qua hai hình

thức cấp phát vốn NSNN và vốn tín dụng đầu tư nhà nước theo kế hoạch đầu tư

của nhà nước.

Từ 1/1/2000, với quy định mới về cơ chế thực hiện TDĐTPT của nhà nước,

nguồn vốn TDNN được mở rộng hơn, ngoài vốn NSNN, nguồn vốn thu nợ hàng

năm, Quỹ hỗ trợ phát triển cũng được huy động vốn từ nguồn vay các Quỹ tài

chính của nhà nước như Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài, Quỹ tiết kiệm bưu điện,

Quỹ bảo hiểm xã hội, vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ, vốn do Quỹ hỗ trợ

phát triển huy động, vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ giao cho Quỹ

hỗ trợ phát triển sử dụng để cho vay lại. Tuy nhiên, qua thời gian, từ năm 2000 đến

2013, cơ chế huy động vốn để thực hiện TD ĐTPT có nhiều thay đổi. Cụ thể:

- Nguồn vốn huy động theo chỉ định (từ Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ tiết

kiệm bưu điện, Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài..) ngày càng có xu hướng giảm do

mức lãi suất tiền gửi trả cho các tổ chức này thường thấp hơn nhiều so với mức lãi

89

suất gửi tiền ở các ngân hàng thương mại. Hàng năm Chính phủ thường chỉ định

huy động từ Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ tiết kiệm bưu điện… Song dần dần, không

còn việc chỉ định huy động từ các tổ chức này. Từ năm 2012, Công ty tiết kiệm

bưu điện đã được sáp nhập vào Ngân hàng TMCP Liên Việt để trở thành Ngân

hàng TMCP Bưu điện Liên Việt.

- Nguồn vốn huy động từ thị trường gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất là NHPT

không được huy động tiền gửi trong dân cư mà chỉ được huy động bằng hình thức

phát hành TPCP hoặc TPCP bảo lãnh. Hình thức huy động này gặp nhiều khó khăn

do bị cạnh tranh bởi các kênh huy động vốn khác như thị trường chứng khoán, thị

trường bất động sản và đặc biệt là các NHTM với lợi thế linh hoạt hơn về kỳ hạn,

lãi suất huy động phù hợp với yêu cầu đa dạng của người gửi tiền. Thứ hai là hình

thức huy động vốn của NHPT còn chưa đa dạng. Ngoài hình thức huy động chỉ

định từ các tổ chức tài chính, nguồn vốn huy động từ thị trường chủ yếu là thông

qua phát hành trái phiếu, việc thực hiện phát hành các giấy tờ có giá khác chưa

được thực hiện cũng làm giảm khả năng huy động vốn từ thị trường của NHPT.

- Việc huy động nguồn vốn có kỳ hạn dài (trên 10 năm trở lên) còn nhiều

hạn chế. Sự hạn chế này có nguyên nhân là do thị trường vốn chưa phát triển, thị

trường chủ yếu chấp nhận loại trái phiếu có kỳ hạn 3-5 năm; thị trường tiền tệ thời

gian qua có nhiều biến động mạnh, lạm phát tăng cao, lãi suất huy động tiền gửi

cao, thiếu ổn định, cùng với tình trạng suy thoái kinh tế trầm trọng nên không

những khó huy động vốn mà việc huy động được nguồn vốn với kỳ hạn dài càng

khó khăn hơn, huy động được số lượng rất ít. Trong khi đó đối tượng cho vay TD

ĐTPT chủ yếu là các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm lại đòi hỏi

nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Từ đó gia tăng chênh lệch kỳ hạn giữa

nguồn vốn và sử dụng vốn.

Do thị trường tài chính khó khăn nên việc huy động vốn chủ yếu là kỳ hạn

3-5 năm (thời hạn bình quân 3 năm chiếm đến 55-60% tổng nguồn vốn huy động

và chiếm khoảng 60-70% tổng nguồn vốn cho vay), trong khi đó thời hạn cho vay

bình quân là 10 năm (có chương trình, dự án thời hạn cho vay là 12-15 năm) nên

NHPT phải phát hành trái phiếu mới để đáo hạn cũ. Chênh lệch kỳ hạn vốn và sử

dụng vốn ngày càng tăng cao và ngày càng có xu hướng doãng rộng hơn. Năm

2008 tỷ lệ này là 29 tháng thì đến 7/2011 đã tăng lên 32,5 tháng, trong khi xu

90

hướng cho vay vào các dự án lớn, thời hạn thu hồi vốn dài vẫn là đặc trưng chủ

yếu của NHPT. Chính vì vậy, nếu thị trường thuận lợi thì có thể huy động được

vốn, song có lúc thị trường khó khăn sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động, từ

đó đe dọa khả năng thanh khoản của ngân hàng.

Mặc dù doanh số huy động bình quân các năm qua khá cao (23%/năm)

nhưng không phải toàn bộ số vốn này được đưa vào giải ngân cho tín dụng mà một

phần đáng kể trong đó được sử dụng để hoàn trả vốn huy động đến hạn trả. Riêng

trong giai đoạn 2006-2010, số trả nợ vốn huy động đến hạn trả chiếm tới 59% số

vốn huy động mỗi năm.

Bảng 2.2. Tỷ lệ số trả nợ vốn huy động đến hạn

trong tổng số vốn huy động mới hàng năm

Đơn vị: %

2003 26

2004 54

2005 89

2006 71

2007 59

2008 27

2009 89

2010 41,2

Năm Số trả nợ vốn HĐ đến hạn trả/tổng số vốn HĐ

Nguồn: NHPT [42]. 2.1.3. Bản chất của hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự

án kinh tế trọng điểm

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là

hoạt động tín dụng không vì mục tiêu lợi nhuận. Mô hình hoạt động tín dụng chính

sách không vì mục tiêu lợi nhuận làm giảm trách nhiệm quản lý, giảm hiệu quả, an

toàn trong hoạt động tín dụng; giảm hiệu quả cho vay, xử lý, thu hồi nợ.

Trong hoạt động tín dụng NHTM, kế hoạch hoạt động kinh doanh hàng

năm của một tổ chức tín dụng ngân hàng thường được xây dựng từ kế hoạch tăng

trưởng doanh thu, dư nợ, lợi nhuận phải đạt yêu cầu của các cổ đông.

Trong hoạt động TD ĐTPT, kế hoạch hoạt động cho vay vốn TD ĐTPT cho

các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là một bộ phận của kế hoạch

đầu tư phát triển của Nhà nước, nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược về phát

triển kinh tế - xã hội theo cơ cấu ngành, lĩnh vực và vùng miền. Kế hoạch TD

ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm được NHPT xây

91

dựng; Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư thẩm định; Bộ Kế hoạch và đầu tư

tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong kế hoạch phát triển

kinh tế xã hội hàng năm.

Do thực hiện theo kế hoạch được xây dựng hàng năm, TD ĐTPT không

tránh được tính quan liêu, bao cấp. Trong nhiều trường hợp, tình hình kinh tế xã

hội có sự thay đổi song hoạt động TD ĐTPT vẫn thực hiện huy động vốn, cho vay

theo kế hoạch.

Là hoạt động tín dụng không vì mục tiêu lợi nhuận nên trách nhiệm quản lý,

giám sát hoạt động tín dụng này không gắn với các chỉ tiêu kinh doanh, lời lỗ như

trong hoạt động của một ngân hàng, tổ chức kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng.

Từ đó, trách nhiệm trong hoạt động cho vay vốn, trong xử lý, thu hồi nợ vay của

từng con người trong bộ máy này đều mang dáng dấp của một cơ quan quản lý

hành chính tín dụng hơn là một tổ chức tín dụng ngân hàng, kinh doanh tiền tệ. Đó

cũng là lý do làm cho mô hình tổ chức bộ máy quản lý, giám sát hoạt động TD

ĐTPT cho các chương trình kinh tế, dự án kinh tế trọng điểm còn thiếu khoa học,

chưa chặt chẽ, làm giảm hiệu quả, an toàn trong hoạt động tín dụng.

Để thực hiện giám sát hoạt động TD ĐTPT nói chung, hoạt động TD ĐTPT

cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng, trong mô hình

tổ chức bộ máy của NHPT, bộ máy giám sát được tổ chức dưới hình thức Hội

đồng quản lý và Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản lý. Hội đồng quản lý bao

gồm các thành viên là các Thứ trưởng của Bộ Tài chính, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch

và đầu tư, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, còn lại Chủ tịch Hội đồng quản lý

và các ủy viên khác trong Hội đồng quản lý đều là các chức danh của NHPT như

Tổng giám đốc NHPT, ủy viên chuyên trách, trưởng ban kiểm soát.

Trong thực tế, bộ máy giám sát hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như trên khó có thể có hiệu quả khi một số

chức danh ủy viên Hội đồng quản lý chỉ là các chức danh kiêm nhiệm và hoạt

động của NHPT được điều hành bởi các chức danh Chủ tịch, Tổng giám đốc

NHPT. Các quyết định và quyền lực điều hành hàng ngày thuộc về chủ tịch, tổng

giám đốc NHPT. Nói cách khác, bộ máy giám sát hoạt động tín dụng này còn

mang tính hình thức và thiếu thực chất. Việc phân định trách nhiệm, quyền hạn

giữa Hội đồng quản lý và Ban điều hành còn có điểm chưa rõ ràng (như thẩm

92

quyền ban hành cơ chế, thủ tục trong nội bộ ngân hàng cũng như công tác quản

trị). Việc phân cấp quản lý đặc biệt là thẩm quyền quyết định lãi suất cho vay,

quyết định xử lý rủi ro chưa được giao cho NHPT. Vì vậy, những hạn chế trong

việc quản lý, sử dụng vốn và chủ động trong xử lý nợ là khó tránh khỏi.

Tính chất hoạt động phi lợi nhuận cũng là nguyên nhân tác động đến mô

hình tổ chức công tác thẩm định còn bất cập, nội dung và chất lượng thẩm định

chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định trong tình hình mới. Cụ thể:

- Tổ chức bộ máy thẩm định chưa hợp lý, đội ngũ cán bộ thẩm định còn

thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn. Hầu hết các chi nhánh NHPT không tổ

chức phòng thẩm định riêng mà bộ phận thẩm định nằm trong phòng tổng hợp.

Thực trạng này cho thấy nhận thức và tổ chức bộ máy thực thi về thẩm định chưa

được đặt đúng tầm quan trọng của công tác này.

Ngay tại Hội sở sở chính và các chi nhánh, cán bộ làm công tác thẩm định

vẫn chưa đủ về số lượng, luôn bị thay đổi và bị điều động làm nhiệm vụ khác. Đội

ngũ cán bộ làm công tác thẩm định có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực thẩm

định và tín dụng chưa nhiều; một số chi nhánh chưa sắp xếp đủ cán bộ thẩm định

dự án đầu tư, mặt khác, nhiều cán bộ mới vào nghề, không đúng nghề cho nên

chưa kịp hoặc khó khăn để tích lũy kinh nghiệm trong lĩnh vực thẩm định và tín

dụng. Trong khi đó, qua thực tế cho thấy, công tác thẩm định dự án đầu tư đòi hỏi

phải có kiến thức tổng hợp nhiều lĩnh vực khác nhau bên cạnh trình độ chuyên sâu

về nghiệp vụ. Phần lớn cán bộ trẻ khi được tuyển dụng vào làm việc chưa chú ý tới

tính chuyên ngành về thẩm định dự án đầu tư. Trong quá trình làm việc tại NHPT,

các cán bộ này chưa được đào tạo và đào tạo lại một cách đầy đủ và thường xuyên.

Trong thực tế, các dự án đầu tư vay vốn TD ĐTPT lại thuộc rất nhiều

ngành, nghề, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ y tế, giáo dục, xử lý nước

thải, xử lý rác thải, sản xuất nước sạch, xây dựng nhà ở, chế biến nông lâm sản,

thủy hải sản, cơ khí, luyện kim, cán kéo thép, khai khoáng, điện năng, dầu khí,

đóng tàu biển, chăn nuôi, trồng rừng…

- Hệ thống thu thập và xử lý thông tin của NHPT chưa đáp ứng được yêu

cầu của công tác thẩm định. Công tác thẩm định đòi hỏi phải có thông tin chính

xác, đầy đủ, kịp thời về nhiều lĩnh vực như pháp luật, kinh tế, tiền tệ, chỉ số lạm

phát hàng năm, chủng loại sản phẩm, chỉ số giá cả hàng hóa trong và ngoài

93

nước…liên quan đến dự án đầu tư. Tuy nhiên, hệ thống thông tin kinh tế quốc gia

còn nhiều yếu kém, dữ liệu nghèo nàn, thiếu cập nhật, thiếu chính xác. Thậm chí

ngay cả cơ quan thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC) cũng không

cung cấp được thông tin có chất lượng và đầy đủ về tình hình tài chính, khả năng

phát triển của chủ đầu tư có nhu cầu vay vốn. Vì vậy, cán bộ thẩm định không khai

thác được những thông tin cần thiết phục vụ công tác thẩm định để so sánh, đối

chiếu các chỉ tiêu của dự án với các định mức kinh tế kỹ thuật hoặc các chỉ tiêu tài

chính cùng ngành nghề của dự án xin vay vốn nhằm phân tích, đánh giá tính khả

thi, hiệu quả cùa dự án về phương diện tài chính cũng như về kinh tế xã hội [74,

tr.100].

Các dự án (trong đó có nhiều dự án trọng điểm nhóm A) của các bộ, ngành,

tập đoàn, tổng công ty lập còn sơ sài về nội dung, thiếu chính xác về số liệu, không

có các dự báo về thị trường, giá cả, khả năng tiêu thụ sản phẩm. Việc xây dựng dự

án luôn đề xuất một phương án do đó cơ quan thẩm định dự án không có cơ sở để

so sánh, lựa chọn phương án tối ưu. Do chỉ có một phương án cho nên việc áp

dụng các phương pháp thẩm định dự án như tính toán các chỉ tiêu IRR, NPV kết

quả mang lại không cao. Các cơ quan chuyên ngành chưa đưa ra được các chỉ tiêu

kinh tế kỹ thuật của từng ngành, từng vùng, lãnh thổ để làm căn cứ so sánh, đối

chiếu về hiệu quả của dự án đầu tư. Trong khi đó, công tác thiết lập hệ thống thông

tin để cung cấp kịp thời, đầy đủ phục vụ công tác thẩm định dự án đầu tư trong hệ

thống NHPT thời gian qua còn nhiều hạn chế. NHPT chưa thiết lập được hệ thống

thông tin thống nhất trong toàn quốc để hệ thống hóa các đơn giá, định mức kinh tế

kỹ thuật trên mạng máy tính. Các hồ sơ, dữ liệu, kết luận thẩm định về dự án, chủ

đầu tư chủ yếu được lưu trữ bằng bản cứng (giấy) tại các phòng, ban, chi nhánh.

Các số liệu cần thiết hàng năm chưa được lưu trữ một cách hệ thống và tin học hóa

để có thể tra cứu dễ dàng khi cần. Hầu hết thông tin do các cán bộ thẩm định tự

cập nhật, xử lý theo kinh nghiệm và thông tin cá nhân của mình.

2.1.4. Năng lực của Tổ chức thực hiện TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm

Chính sách TDĐTPT của Nhà nước mặc dù đã được định hình và bắt đầu từ

khá sớm, từ những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX, thông qua cơ chế cho vay

tín dụng trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ

94

bản từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Song phải đến khi Luật khuyến

khích đầu tư trong nước ra đời năm 1994, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1995, lần

đầu tiên, một hình thức tổ chức pháp lý để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư của

Nhà nước được đề cập đến.

Để triển khai Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994, NĐ số 29/CP

ngày 12/5/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư

trong nước đã được ban hành, trong đó tại Điều 7 NĐ nêu: Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc

gia được thành lập nhằm mục đích:

- Huy động vốn trung và dài hạn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài

nước;

- Cho vay vốn trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư trong các ngành,

nghề thuộc diện ưu đãi;

- Cho vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi đối với các dự án ở các

vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và vùng có khó khăn (theo quy định của

Chính phủ).

Như vậy, bắt đầu từ các văn bản pháp lý nêu trên, tổ chức pháp lý để thực

hiện cơ chế hỗ trợ đầu tư, khuyến khích đầu tư thông qua hoạt động cho vay tín

dụng ưu đãi đã được định hình, đó là Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia. Đồng thời, vào

tháng 12/1994, Tổng cục Đầu tư phát triển được thành lập theo NĐ số 187/CP

ngày 10/12/1994, chính thức hoạt động từ 01/01/1995, là tổ chức trực thuộc Bộ Tài

chính, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về tài chính đầu tư phát triển, tổ chức thực hiện cấp phát vốn NSNN đầu tư

và vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước đối với các dự án, mục tiêu, chương trình theo

danh mục do Chính phủ quyết định hàng năm.

*Giai đoạn 1995 – 1999 (Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia)

Trên cơ sở các quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994 và

NĐ số 29/CP ngày 12/5/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

808/QĐ-TTg ngày 9/12/1995 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia.

Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia có nhiệm vụ huy động vốn của các tổ chức, cá

nhân trong và ngoài nước; tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và cho

vay với lãi suất ưu đãi đối với các dự án ĐTPT các ngành, nghề thuộc diện ưu đãi

của mọi thành phần kinh tế và các vùng có khó khăn theo quy định của Chính phủ.

95

Tổng cục trưởng Tổng cục Đầu tư phát triển được giao làm Tổng giám đốc Cơ

quan điều hành tác nghiệp Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia. Sử dụng bộ máy của hệ

thống Tổng cục Đầu tư phát triển để tổ chức điều hành hoạt động của Quỹ hỗ trợ

đầu tư quốc gia.

Như vậy, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia là cơ quan chuyên môn đầu tiên về

thực hiện nhiệm vụ cho vay vốn TDĐTPT của Nhà nước.

Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động

trên phạm vi cả nước. Hoạt động của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia không vì mục

đích lợi nhuận, nhưng phải bảo đảm hoàn vốn và bù đắp chi phí quản lý. Quỹ được

miễn thuế, miễn nộp khoản thu về sử dụng vốn NSNN để giảm lãi suất cho vay đối

với các dự án đầu tư phát triển thuộc các ngành nghề ưu đãi và các vùng khó khăn

theo quy định của Chính phủ.

* Giai đoạn 2000 – 2006 (Quỹ Hỗ trợ phát triển)

Sau một thời gian thực hiện, Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994 đã

được sửa đổi, bổ sung. Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa X, Quốc hội đã thông qua

Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi), thay thế cho Luật khuyến khích

đầu tư trong nước 1994. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) có hiệu lực

thi hành từ ngày 01/01/1999.

Để triển khai thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi),

Chính phủ đã ban hành NĐ số 51/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 quy định chi tiết

thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). Theo đó, tại Điều 10 NĐ

số 51/1999/NĐ-CP quy định: Chính phủ thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển để thực

hiện việc hỗ trợ ĐTPT của Nhà nước thông qua các hình thức cho vay đầu tư; hỗ

trợ sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư theo pháp luật hiện hành quy định về

TDĐTPT của Nhà nước. Bãi bỏ Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 09/12/1995 của

Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia.

Đặc biệt, trên cơ sở thực tiễn triển khai công tác tín dụng nhà nước cho đầu

tư phát triển, với chủ trương tiếp tục mở rộng đầu tư cho nền kinh tế, hỗ trợ cho

phát triển, Nhà nước đã pháp lý hóa các chủ trương, chính sách về TDĐTPT và tập

hợp thành một văn bản riêng ở tầm nghị định của Chính phủ về TDĐTPT. Chính

vì vậy, ngày 29/6/1999, Chính phủ ban hành NĐ số 43/1999/NĐ-CP về TDĐTPT

của Nhà nước. Đây là văn bản pháp lý cao nhất từ trước đến thời điểm này được

96

ban hành quy định riêng về TDĐTPT của Nhà nước. Theo đó, mục đích của

TDĐTPT của nhà nước là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần

kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và

các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.

Đồng thời, Chính phủ ban hành NĐ số 50/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999,

thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển để huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và

quản lý các nguồn vốn của nhà nước dành cho TDĐTPT để thực hiện chính sách

hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước. Quỹ Hỗ trợ phát triển đi vào hoạt động từ

01/01/2000, kế thừa vốn điều lệ của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, tiếp tục quản lý

cho vay và thu hồi nợ đối với các dự án được hệ thống Tổng cục đầu tư phát triển,

hệ thống Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia cho vay trước đây. Tổng cục Đầu tư phát triển

giải thể, chấm dứt hoạt động vào ngày 31/12/1999.

Và như vậy, bắt đầu từ 01/01/2000, về mặt pháp lý, chỉ còn một đầu mối

duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện chính sách TDĐTPT của nhà

nước là Quỹ Hỗ trợ phát triển. Quỹ hỗ trợ phát triển là một tổ chức tài chính Nhà

nước hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo đảm hoàn vốn và bù đắp chi phí.

* Giai đoạn từ 2006 đến nay (Ngân hàng Phát triển Việt Nam)

Sau hơn 6 năm hoạt động, để tiếp tục thích ứng với những yêu cầu, đòi hỏi

mới của nền kinh tế, đồng thời nhằm đáp ứng những cam kết của Việt Nam khi hội

nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức

thương mại thế giới (WTO), Chính phủ quyết định tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát

triển thành một tổ chức mới với mô hình, chức năng nhiệm vụ như một ngân hàng

đặc biệt, ngân hàng của Chính phủ về cho vay vốn tín dụng đầu tư, tín dụng xuất

khẩu của Nhà nước.

Tháng 5/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 108/2006/QĐ-

TTg ngày 19/5/2006, thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT) trên cơ sở

tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát triển để thực hiện chính sách TDĐTPT và tín dụng

xuất khẩu của Nhà nước. NHPT kế thừa mọi quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ, tài

sản, tổ chức bộ máy từ Quỹ hỗ trợ phát triển. NHPT chính thức đi vào hoạt động từ

01/7/2006 đến nay.

Do tổ chức cho vay được hình thành và phát triển theo hình thức kế thừa,

chuyển đổi khá nhiều lần (trung bình cứ khoảng 5 năm) như trên trong một thời

97

gian chưa dài, trong khi lại đóng vai trò là công cụ của Chính phủ trong thực hiện

chính sách tín dụng ĐTPT nói riêng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong

từng thời kỳ nói chung nên mô hình hoạt động, tổ chức bộ máy của mỗi thời kỳ, cơ

chế thực thi chính sách TD ĐTPT qua mỗi thời kỳ đã ảnh hưởng nhiều đến tổ chức

và hoạt động của tổ chức cho vay này.

Chính sách và mô hình tổ chức thực hiện quản lý rủi ro tín dụng tại cơ quan

cho vay TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

(NHPT) chưa được xây dựng và thực hiện bài bản; chưa tách bạch được các chức

năng quản lý rủi ro, cho vay và tác nghiệp theo khuyến cáo của Basel và thông lệ

hoạt động tín dụng. Tại Hội sở chính NHPT, chưa phân định rõ ràng trách nhiệm

và chức năng trong quản lý rủi ro giữa bộ phận thẩm định, phê duyệt tín dụng,

quản lý tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng.

Bộ máy quản lý rủi ro độc lập cũng chưa được hình thành. Ngay trong khâu

phân tích và thẩm định hồ sơ tín dụng – rủi ro liên quan đến khách hàng, NHPT

chưa xây dựng xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ làm căn cứ thực

hiện việc đánh giá và đo lường rủi ro của khoản cho vay bằng các chỉ tiêu tài chính

và phi tài chính thông qua việc chấm điểm năng lực tài chính, năng lực sản xuất

kinh doanh, khả năng thanh toán...của chủ đầu tư dự án, khách hàng vay vốn, để từ

đó định ra chính sách cho vay đối với khách hàng, chủ đầu tư dự án.

Tổ chức bộ máy quản trị nội bộ chưa hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu quản trị

điều hành tác nghiệp và phòng chống rủi ro; chưa theo kịp yêu cầu phát triển và an

toàn hoạt động. Bản thân hoạt động tín dụng luôn chứa đựng nguy cơ rủi ro tiềm

ẩn. Chính vì vậy, quy trình quản lý tín dụng cần được xây dựng và tổ chức thực

hiện nghiêm ngặt các khâu từ thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân, kiểm tra,

giám sát trước, trong và sau khi giải ngân, quản lý thu hồi nợ, xử lý rủi ro...Tuy

nhiên, trong thực tế, quy trình quản lý tín dụng ở NHPT chưa được thiết kế phù

hợp, khoa học. Thể hiện qua việc bộ máy quản lý của các ban ở Hội sở chính đối

với các chi nhánh cho vay trong toàn quốc còn khá lỏng lẻo, chưa nắm bắt đầy đủ

thông tin, báo cáo về khách hàng, dự án. Thông tin quản lý chủ yếu từ dưới lên

theo đường công văn, thiết lập dữ liệu thủ công, chưa có hệ thống thông tin quản lý

tín dụng được tin học hóa toàn ngành. Bộ máy quản lý tín dụng và quản lý rủi ro

tín dụng còn chưa được tách bạch rõ theo thông lệ và khuyến cáo của Ủy ban Basel

98

và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về tín dụng.

2.2. HOẠT ĐỘNG TD ĐTPT CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN

VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm là

một bộ phận chủ đạo trong hoạt động TD ĐTPT ở Việt Nam thời gian qua. Kết

quả hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm thời gian qua như sau.

2.2.1. TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn

Sau khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội

V của Đảng đã xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh phát triển

hàng tiêu dùng, công nghiệp nặng phát triển ở mức độ hợp lý, tập trung cao độ

phục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng, đồng thời chú ý thỏa

đáng một số công trình có tính chất bắc cầu cho chặng đường sau. Những công

trình có tính chất bắc cầu thời bấy giờ như công trình thủy điện Sông Đà, công

trình dầu khí thềm lục địa phía nam, công trình luyện kim, công trình hóa

chất…Đến Đại hội VI, chủ trương tập trung nguồn lực thực hiện ba chương trình

kinh tế lớn đó là chương trình sản xuất lương thực – thực phẩm, chương trình sản

xuất hàng tiêu dùng và chương trình sản xuất hàng xuất khẩu.

Có thể nói những dự án có tính chất bắc cầu cho chặng đường sau, những

chương trình kinh tế lớn về sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng

xuất khẩu… nêu trên chính là những dự án kinh tế trọng điểm, chương trình kinh

tế lớn đầu tiên được triển khai nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của đất

nước trong giai đoạn trước đổi mới và những năm đầu tiên sau đổi mới.

Để thực hiện chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và

Nhà nước ta trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, nhiều chương trình kinh tế lớn

của Nhà nước đã được triển khai, đem lại kết quả tích cực trong việc chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, góp phần CNH, HĐH nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, hỗ trợ

phát triển vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn.

● Chương trình kiên cố hóa kênh mương

Chủ trương phát triển kinh tế khu vực nông thôn, mở rộng giao lưu kinh tế

hàng hoá giữa các vùng dân cư, từng bước tạo điều kiện thúc đẩy công cuộc CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn, luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.

99

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã thông qua Chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, trong đó có mục tiêu phát triển nông nghiệp,

nông thôn: Xây dựng kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,

quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông

an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông

nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững

chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa...

Chủ trương này của Đảng, Nhà nước đã được cụ thể hóa, triển khai thực

hiện liên tục từ nhiều năm nay. Nhằm triển khai thực hiện tinh thần NQ số

08/1999/NQ-CP ngày 09/7/1999 và NQ số 05/2001/NQ-CP ngày 24/5/2001 của

Chính phủ, thực hiện giải pháp kích cầu đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ

tầng ở nông thôn, khắc phục các tồn tại, khó khăn trong thực hiện các mục tiêu

phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình kiên cố hóa kênh mương đã được Thủ

tướng Chính phủ đã ban hành tại QĐ số 66/2000/QĐ-TTg ngày 13/6/2000 về một

số chính sách và cơ chế tài chính thực hiện Chương trình kiên cố hóa kênh mương.

Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành QĐ số 132/2001/QĐ-TTg ngày

07/9/2001 về cơ chế tài chính thực hiện chương trình phát triển đường giao thông

nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn.

Các chương trình nói trên (gọi chung là “Chương trình Kiên cố hóa kênh

mương”) có mục tiêu nhằm khuyến khích các địa phương huy động mọi nguồn lực

và tạo cơ chế thuận lợi nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc kiên cố hóa kênh

mương các công trình thủy lợi, tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình phát

triển cơ sở hạ tầng đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản,

cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn, đáp ứng những nhu cầu cần thiết bức xúc của

địa phương, đồng thời đổi mới một bước suy nghĩ của người dân để không còn

trông chờ vào nguồn vốn của Nhà nước, từ đó nhân rộng hơn nữa phong trào Nhà

nước và nhân dân cùng làm.

Vì vậy, cơ chế tài chính để thực hiện theo hướng Nhà nước chủ trương huy

động đóng góp của nhân dân là chủ yếu (bằng tiền, hiện vật, ngày công…), nhà

nước xem xét hỗ trợ một phần, UBND các tỉnh, thành phố có trách nhiệm cân đối

ngân sách địa phương hàng năm và dành nguồn lực từ thuế sử dụng đất nông

nghiệp, một phần thủy lợi phí và các nguồn thu khác để thực hiện. Đối với các tỉnh

100

miền núi và các tỉnh có nguồn thu ngân sách không lớn, nguồn thu thuế sử dụng

đất nông nghiệp và thủy lợi phí thấp, ngân sách Trung ương hỗ trợ một phần vốn

ngân sách qua kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm của địa phương.

Ngoài phần vốn đóng góp của nhân dân và hỗ trợ của ngân sách nhà nước

nêu trên, hàng năm Nhà nước dành một khoản vốn tín dụng ưu đãi với lãi suất

bằng 0% để cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vay để thực hiện

Chương trình. Nhà nước giao Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là NHPT) thực hiện việc

cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vay vốn. NSNN bố trí nguồn để bù

khoản chênh lệch lãi suất và phí cho vay cho Quỹ Hỗ trợ phát triển theo chế độ

quy định.

Thực hiện các cơ chế, chính sách nêu trên, bắt đầu từ năm 2000, Quỹ Hỗ trợ

phát triển thực hiện cho vay để thực hiện Chương trình kiên cố hóa kênh mương và

các dự án đầu tư xây dựng đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng

thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn. Chương trình đã được triển khai ở

hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước và đặc biệt phát huy tác dụng tại các tỉnh

miền núi, các địa bàn còn nhiều khó khăn như Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai

Châu, Đắc Lăk, Lâm Đồng, Bình Phước, An Giang, Sóc Trăng….

Đến năm 2009, Thủ tướng Chính phủ có QĐ số 13/2009/QĐ-TTg ngày

21/01/2009 khẳng định việc sử dụng vốn TDĐTPT của Nhà nước để tiếp tục thực

hiện các chương trình kiên cố hóa kênh mương, phát triển đường giao thông nông

thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn đến

hết 2015, đồng thời bổ sung thêm việc cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương được sử dụng nguồn vốn TDĐTPT của Nhà nước để đầu tư trạm bơm điện

phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp khi có nhu cầu.

Bắt đầu từ năm 2000, Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là NHPT) thực hiện cho

vay để thực hiện Chương trình kiên cố hóa kênh mương và các dự án đầu tư xây

dựng đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng

làng nghề ở nông thôn.

Tổng cộng, từ năm 2000 đến năm 2012, số vốn dành cho Chương trình kiên

cố hóa kênh mương đã được NHPT đã ký hợp đồng, chuyển vốn vay cho các Sở

Tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc TW với số vốn cho vay theo hợp đồng tín

dụng là hơn 20.000 tỷ đồng, số vốn đã giải ngân cho Chương trình là hơn 19.000

101

tỷ đồng (xem Bảng 2.3).

Bảng 2.3. Vốn TD ĐTPT cho vay Chương trình kiên cố hóa kênh mương

Đơn vị tính: tỷ đồng

KH vốn từ năm 2000 Số vốn Số vốn Thu nợ Dư nợ đến năm 2012 đã ký HĐTD đã giải ngân

22.155 22.051 19.178 11.587 7.591

Nguồn: Đặc san Tài trợ dự án (03), NHPT [44]

Nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước thông qua Quỹ Hỗ trợ phát triển trước

đây và NHPT hiện nay đã giải ngân cho Chương trình hàng năm chiếm khoảng gần

10% số vốn giải ngân cho các dự án tín dụng đầu tư.

● Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng

bằng sông Cửu Long

Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng

sông Cửu Long là chương trình kinh tế trọng điểm của Chính phủ nhằm đảm bảo

cho nhân dân vùng thường xuyên bị ngập lũ ở đồng bằng sông Cửu Long có cuộc

sống an toàn, ổn định và từng bước phát triển bền vững, tránh thiệt hại về người và

của khi có lũ, không phải di dời khi có lũ xảy ra. Chương trình có ý nghĩa tổng hợp

cả về chính trị, kinh tế - xã hội, kết hợp với đảm bảo an ninh, quốc phòng, với mục tiêu

đề ra là tổ chức lại dân cư theo cụm, tuyến để bố trí 200.000 hộ với khoảng 1 triệu dân

vùng ngập lũ đến sống an toàn, ổn định và từng bước phát triển bền vững trong các

cụm, tuyến dân cư.

Chương trình được triển khai sau khi Chính phủ có Nghị quyết số

15/2000/NQ-CP ngày 6/10/2000 về một số chủ trương và giải pháp tiếp tục khắc

phục hậu quả lũ lụt, sớm ổn định đời sống nhân dân, xử lý kịp thời những vấn đề

mới nảy sinh nhằm đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh và bền vững về kinh tế - xã

hội vùng đồng bằng sông Cửu Long và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2005.

Trên cơ sở NQ số 15/2000/NQ-CP, QĐ số 173/2001/QĐ-TTg về phát triển kinh

tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2005 đã được phê duyệt.

Triển khai Quyết định này, QĐ số 1548/QĐ-TTg ngày 5/12/2001 về việc đầu tư tôn nền

102

vượt lũ để xây dựng các cụm tuyến dân cư vùng ngập sâu đồng bằng sông Cửu Long đã

được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Giai đoạn II của Chương trình được phê duyệt bổ

sung tại QĐ số 1151/QĐ-TTg ngày 26/8/2008.

Giai đoạn I của Chương trình được thực hiện trên 12 tỉnh tại đồng bằng sông

Cửu Long gồm 7 tỉnh ngập lũ và 5 tỉnh cửa sông ven biển với tổng số 1.043 cụm, tuyến

dân cư, đảm bảo cho khoảng 200.000 hộ dân vào cụm, tuyến.

Giai đoạn II của Chương trình được Chính phủ phê duyệt bổ sung từ năm 2008,

thực hiện tại 8 tỉnh ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long gồm các tỉnh: An Giang, Cần

Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Long An, Kiên Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long với tổng

số hộ dân di dời vào ở trong các dự án cụm, tuyến dân cư là 57.252 hộ dân. Mục tiêu là

tiếp tục đầu tư nhằm hoàn thiện đồng bộ và phát huy hiệu quả Chương trình xây dựng

cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long; đáp ứng nhu cầu

di dời, ổn định đời sống cho số hộ dân trong các khu vực sạt lở nguy hiểm và số hộ dân

còn lại trong vùng ngập lũ chưa được bố trí vào các cụm, tuyến dân cư trong giai đoạn I

của Chương trình, tăng cường khả năng phòng chống thiên tai, hạn chế thiệt hại khi có

lũ lụt và thiên tai xảy ra, bảo đảm người dân vùng ngập lũ có cuộc sống an toàn, ổn

định, xã hội ngày càng văn minh và không phải di dời khi có lũ lụt xảy ra.

Tổng vốn đầu tư cho cả 2 giai đoạn là gần 7.000 tỷ đồng (trong đó: giai đoạn I

có vốn đầu tư là khoảng 3.200 tỷ đồng, giai đoạn II có vốn đầu tư là trên 3.500 tỷ đồng).

Tính đến nay, tổng số vốn TDĐTPT cho Chương trình đã giải ngân qua hệ

thống NHPT cho phần tôn nền diện tích xây dựng nhà ở (cả hai giai đoạn) là 2.420 tỷ

đồng/2.473 kế hoạch đề ra; giải ngân đối với phần xây dựng kè bãi rác và chống sạt lở

là 1.150 tỷ đồng/1.341 tỷ đồng như dự kiến đề ra [45].

● Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng

Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng là một Chương trình kinh tế - xã hội – sinh

thái trọng điểm của Việt Nam với mục tiêu trồng mới 5 triệu ha rừng và bảo vệ diện

tích rừng hiện có trong thời kỳ từ năm 1998 đến năm 2010 nhằm nâng cao độ che phủ

của rừng Việt Nam lên 43% vào năm 2010.

Dự án được Quốc hội khóa X thông qua tại Nghị quyết số 08/1997/QH10 về

Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và Nghị quyết số 73/2006/QH11 về việc điều chỉnh

chỉ tiêu, nhiệm vụ của Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng giai đoạn 2006-2010.

Ngày 25/11/2011, Quốc hội đã thông qua NQ số 18/2011/QH13 về kết thúc

103

việc thực hiện NQ số 08/1997/QH10 và NQ số 73/2006/QH11 ngày 29/11/2006 về

Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, ghi nhận Dự án đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu

theo Nghị quyết 08/1997/QH10 và các chỉ tiêu, nhiệm vụ đã được điều chỉnh theo

Nghị quyết số 73/2006/QH11.

Dự án có thời gian thực hiện trên 13 năm, được chia làm 2 giai đoạn (giai đoạn

I: 1998-2005 và giai đoạn II: 2006-2010), được thực hiện trên phạm vi 61 tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương trong cả nước. Dự án có 3 mục tiêu là:

(i) Đẩy mạnh tốc độ trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chú trọng

bảo vệ vốn rừng hiện có và rừng trồng mới, phát huy có hiệu quả chức năng phòng hộ

và bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ và phát huy tính đa dạng sinh học, tạo điều

kiện cho sự phát triển bền vững của đất nước, đưa tỷ lệ che phủ lên trên 40% diện tích

của cả nước.

(ii) Tạo ra vùng nguyên liệu gắn với sự phát triển công nghiệp chế biến lâm

sản;

(iii) Tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho dân cư, góp phần thực hiện chủ trương

xóa đói giảm nghèo, phát triển sản xuất và ổn định đời sống, bảo đảm quốc phòng, an

ninh.

Nhiệm vụ của Dự án là từ năm 1998 đến năm 2010 trồng mới 5 triệu ha rừng,

trong đó có 2 triệu ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, 3 triệu ha rừng sản xuất. Ngoài ra,

khoanh nuôi, phục hồi tái sinh tự nhiên 2 triệu ha. Tổng vốn đầu tư thực hiện Dự án dự

kiến là 31.650 tỷ đồng.

Chương trình được thực hiện thông qua các khoản vay ưu đãi của các tổ chức

tín dụng dành cho các doanh nghiệp, các nông, lâm trường và các hộ gia đình đảm

nhận công tác này.

Từ mục tiêu của Dự án theo NQ của Quốc hội, tại QĐ số 661/QĐ-TTg, Thủ

tướng Chính phủ đã chỉ đạo, cụ thể hóa mục tiêu của Dự án như sau:

(1) Trồng mới 5 triệu ha rừng cùng với bảo vệ diện tích rừng hiện có, để tăng

độ che phủ của rừng lên 43%, góp phần đảm bảo an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên

tai, tăng khả năng sinh thủy, bảo tồn nguồn gen và tính đa dạng sinh học;

(2) Sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc, tạo thêm nhiều việc

làm cho người lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo, định canh, định cư, tăng thu

nhập cho dân cư sống ở nông thôn miền núi, ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an

104

ninh, nhất là ở vùng biên giới:

(3) Cung cấp gỗ làm nguyên liệu để sản xuất giấy, ván nhân tạo, đáp ứng nhu

cầu gỗ, củi và các lâm sản khác cho tiêu dùng trong nước và sản xuất hàng xuất khẩu,

cùng với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản, đưa lâm nghiệp trở thành một

ngành kinh tế quan trọng, góp phần phát triển KT-XH miền núi.

Để thực hiện Dự án, QĐ 661/QĐ-TTg đã đưa ra quy định về các mục tiêu,

nhiệm vụ và nguyên tắc chỉ đạo dự án; chính sách và giải pháp; tổ chức thực hiện và

quản lý dự án. Trong các chính sách và giải pháp thực hiện Dự án, có chính sách đầu tư

và tín dụng, cho phép các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng rừng và khoanh nuôi bảo

vệ rừng phòng hộ ở vùng ít xung yếu, rừng sản xuất (kể cả trồng cây công nghiệp lâu

năm, cây ăn quả, cây đặc sản và cây làm thuốc…) và phát triển các cơ sở chế biến lâm

sản nông sản được hưởng các chế độ ưu đãi theo quy định của Luật Khuyến khích đầu

tư trong nước (sửa đổi), được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các nguồn vốn tín

dụng ưu đãi khác, vốn ODA và các nguồn vốn vay khác.

Thực hiện Chương trình, nguồn vốn TD ĐTPT qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát

triển trước đây, nay là NHPT, đã cho vay hơn 2.200 tỷ đồng để trồng 324.580 ha rừng

(chiếm trên 23%) trên tổng diện tích 1.424.135 ha rừng được thực hiện theo Chương

trình [45].

● Chương trình đầu tư cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng giải quyết

cấp bách tình trạng quả tải tại các bệnh viện lớn, tuyến cuối

Theo báo cáo của Bộ Y tế, tình trạng quá tải tại các bệnh viện đã trở nên

phổ biến và đã kéo dài nhiều năm nay, trong đó tập trung chủ yếu ở các bệnh viện

công, bệnh viện có quy mô lớn và bệnh viện tuyến cuối. Ở các bệnh viện này, công

suất hoạt động vượt trên 200%. Tình trạng ghép đôi, ghép ba bệnh nhân/giường

khá phổ biến, đặc biệt là ở các bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), bệnh viện Phụ sản

trung ương (Hà Nội), bệnh viện Nhi trung ương (Hà Nội), bệnh viện K (Hà Nội),

bệnh viện Việt – Đức (Hà Nội), bệnh viện Trung ương Huế (Thừa Thiên Huế)….

Để tháo gỡ, giải quyết tình trạng này, Thủ tướng đã có ý kiến chỉ đạo tại

Thông báo số 220/TB-VPCP ngày 02/11/2007 của Văn phòng Chính phủ, thông

báo ý kiến kết luận chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ cấp bách

của ngành y tế, giao Bộ Y tế tổ chức sơ kết 03 năm thực hiện NQ số 46/NQ-TW

ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân

105

trong tình hình mới, trong đó có việc chỉ đạo một số bệnh viện lớn, đang trong tình

trạng quá tải xây dựng các dự án vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước nhằm đầu

tư mở rộng bệnh viện, mua sắm trang thiết bị…, giải quyết cấp bách tình trạng quá

tải tại các bệnh viện lớn, tuyến cuối.

Thực hiện chủ trương này, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên

quan xác định danh sách các bệnh viện công có nhu cầu vay vốn TDĐT để đầu tư

mở rộng, mua sắm trang thiết bị, gồm 18 bệnh viện trên phạm vi cả nước, trong đó

có 11 bệnh viện thuộc địa bàn Hà Nội, 03 dự án thuộc TP.HCM, 01 ở Thừa Thiên

Huế, 01 ở Thái Bình, 01 ở Hải Dương, 01 ở Hải Phòng (Bệnh viện Bạch Mai,

Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Phụ sản TW, Bệnh viện K, Bệnh viện Mắt TW,

Bệnh viện Nội tiết, Bệnh viện Tai Mũi Họng TW, Bệnh viện Châm cứu, Viện

Huyết học truyền máu TW, Bệnh viện TW Huế, Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện

Chợ Rẫy, Bệnh viện Răng Hàm Mặt TW Thành phố HCM, Bệnh viện Trường Đại

học Y Thái Bình, Bệnh viện Trường Đại học Y Hải Phòng, Viện Lão khoa Quốc

gia, Viện Bỏng Lê Hữu Trác, Bệnh viện Trường Đại học KTYT Hải Dương).

Với mục mục tiêu đầu tư nâng cấp và mở rộng các bệnh viện lớn thuộc

tuyến trên trọng yếu, luôn trong tình trạng quá tải, cơ sở vật chất kỹ thuật đã và

đang xuống cấp nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân, nâng cao

chất lượng dịch vụ, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xác định

danh sách các bệnh viện công có nhu cầu vay vốn tín dụng đầu tư để đầu tư mở

rộng, mua sắm trang thiết bị. Danh sách gồm 18 bệnh viện trên phạm vi cả nước,

trong đó có 11 bệnh viện thuộc địa bàn Hà Nội, 03 dự án thuộc TP.HCM, 01 ở

Thừa Thiên Huế, 01 ở Thái Bình, 01 ở Hải Dương, 01 ở Hải Phòng.

Triển khai thực hiện Chương trình trên, tính đến nay, đã có 06 bệnh viện

được tài trợ vốn TDĐTPT của Nhà nước qua NHPT với tổng số vốn vay theo hợp

đồng tín dụng là 838 tỷ đồng, đã giải ngân 561 tỷ đồng. Trong đó đã có 02 bệnh

viện tại Hà Nội đã khánh thành công trình. Đối với các dự án còn lại trong Chương

trình, hiện nay các bệnh viện không có nhu cầu vay vốn TDĐT. Các dự án này đã

được Quỹ đầu tư đô thị của thành phố cho vay theo chương trình của NSNN cấp

[46].

● Chương trình cơ khí trọng điểm

Ngày 26/12/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành QĐ số 186/2002/QĐ-TTg

106

về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm

nhìn tới năm 2020.

Mục tiêu chung của Chiến lược là ưu tiên phát triển một số chuyên ngành và sản

phẩm cơ khí trọng điểm để đáp ứng về cơ bản nhu cầu của nền kinh tế quốc dân gồm:

thiết bị toàn bộ, máy động lực, cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp và công nghiệp

chế biến, máy công cụ, cơ khí xây dựng, cơ khí đóng tàu thủy, thiết bị kỹ thuật điện –

điện tử, cơ khí ô tô – cơ khí giao thông vận tải.

Mục tiêu cụ thể của Chiến lược là đến năm 2010, ngành cơ khí đáp ứng 45-50%

nhu cầu sản phẩm cơ khí của cả nước, trong đó xuất khẩu đạt 30% giá trị sản lượng.

Tại Quyết định này, Thủ tướng đã phê duyệt các chính sách và giải pháp hỗ trợ

ngành cơ khí phát triển. Trong đó, đối với chính sách tạo vốn cho ngành cơ khí, Thủ

tướng cho phép các dự án sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm được vay vốn theo

NQ số 11/NQ-CP ngày 31/7/2000 vay vốn với mức lãi suất tín dụng 3%/năm, thời hạn

vay 12 năm, 02 năm đầu không phải trả lãi và bắt đầu trả nợ vào năm thứ 5 hoặc được

bù chênh lệch lãi suất nếu các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại.

Triển khai QĐ số 186/2002/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam, ngày 9/6/2003 Thủ tướng

Chính phủ đã ký QĐ số 112/2003/QĐ-TTg thành lập Ban chỉ đạo Chương trình sản

phẩm cơ khí trọng điểm. Ngày 16/01/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký QĐ số

10/2009/QĐ-TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và

Danh mục các sản phẩm cơ khí trọng điểm, Danh mục dự án đầu tư sản xuất sản phẩm

cơ khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.

Nội dung chủ yếu của QĐ này bao gồm các chính sách hỗ trợ cao nhất về tín

dụng đầu tư, tiêu thụ sản phẩm (kích cầu), về nghiên cứu phát triển và các chính sách có

liên quan về thuế, phí...Sự ra đời của QĐ số 10/2009/QĐ-TTg đã pháp lý hóa và cụ thể

hóa những định hướng phát triển ngành cơ khí mà Chiến lược phát triển ngành cơ khí

Việt Nam đã đề ra và được phê duyệt tại QĐ số 186/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 của Thủ

tướng Chính phủ.

Tuy nhiên, bên cạnh một số chương trình kinh tế thành công, vẫn còn một

số Chương trình, mặc dù được bắt đầu khỏi động từ những năm trước năm 2000,

song còn kéo dài đến một số năm trong giai đoạn 2000 – 2013, không thành công,

gây tổn thất cho nền kinh tế, để lại hậu quả xấu về kinh tế - xã hội như Chương

107

trình mía đường; Chương trình đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ…

● Chương trình đóng tàu đánh bắt cá xa bờ

Chương trình đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt và dịch vụ đánh bắt hải sản

xa bờ (thường được gọi là “Chương trình đóng tàu đánh bắt cá xa bờ”) được triển

khai thực hiện từ tháng 6/1997 đến năm 2003 trên địa bàn 29 tỉnh, thành phố và dự

án kinh tế thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Thủy sản nằm trong mục tiêu phát triển

kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản.

Chủ trương này được cụ thể hóa bằng các chính sách của nhà nước được

ban hành tại các Quyết định số 393/TTg-QĐ ngày 9/6/1997 và Quyết định số

159/1998/TTg-QD của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và

sử dụng vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước cho các dự án đóng mới,

cải hoán tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ (sau đây gọi chung là

các dự án đóng tàu đánh bắt cá xa bờ). (Xem hộp 1, hộp 2).

Đối tượng được vay vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch của nhà nước để

đóng tàu đánh cá xa bờ là các đơn vị kinh tế có đăng ký hành nghề đánh cá xa bờ

và thực hiện các dịch vụ đánh cá xa bờ bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh

nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã, tổ hợp

tác và ngư dân.

Vốn đầu tư cho các dự án đóng tàu đánh cá xa bờ được huy động từ nhiều

nguồn, trong đó có một phần bằng nguồn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước

hàng năm. Riêng năm 1997, mức vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước cho

các dự án này là 400 tỷ đồng.

Kết quả triển khai Chương trình

Từ năm 1997 đến 2002, ngoài một số tổ chức cho vay là các ngân hàng

thương mại quốc doanh (Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng

Nông nghiệp và phát triển nông thôn…), Tổng cục Đầu tư phát triển, Quỹ hỗ trợ

đầu tư quốc gia (thuộc Tổng cục Đầu tư phát triển) và Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là

Ngân hàng Phát triển Việt Nam) là tổ chức cho vay chủ yếu cho Chương trình đã

cho vay 1.033,418 tỷ đồng từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước

để đầu tư 756 dự án đóng mới và cải hoán 1.016 con tàu trên địa bàn 29 tỉnh, thành

phố và dự án thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Thủy sản [40]. Trong đó:

108

Giai đoạn 1997 – 1999

Trong các năm 1997-1999, căn cứ vào chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước

giao, Bộ kế hoạch và đầu tư phân bổ mức vốn tín dụng đầu tư phát triển đối với

Chương trình cho từng bộ, ngành, địa phương. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa

phương phân bổ mức vốn vay cụ thể cho từng dự án của các chủ đầu tư. Tổng cục

Đầu tư phát triển và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia căn cứ vào danh mục và mức vốn

vay cho từng dự án nêu trên đã ký hợp đồng tín dụng cho vay 867,871 tỷ đồng,

tương ứng với 850 con tàu.

Giai đoạn 2000-2002:

Trong các năm 2000-2002, căn cứ vào tổng mức vốn tín dụng đầu tư phát

triển hàng năm Thủ tướng giao cho Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ hỗ trợ phát triển

thông báo cho các bộ, ngành, địa phương phân bổ mức vốn vay cụ thể cho các dự

án đánh bắt cá xa bờ. Căn cứ danh mục và mức vốn vay do các bộ, ngành, địa

phương phân bổ, Quỹ hỗ trợ phát triển đã xem xét, duyệt cho vay 165,547 tỷ đồng

để đóng mới 166 con tàu.

Kể từ năm 2003: tạm dừng không xét duyệt cho vay dự án đánh bắt hải sản

xa bờ.

Tính đến hết năm 2007 (là năm tổ chức hội nghị toàn quốc về xử lý nợ tàu

đánh bắt cá xa bờ, sau thời điểm này không có hội nghị chính thức nào về việc này

nên không có số liệu cập nhật), số vốn vay theo hợp đồng tín dụng cho cả Chương

trình là 1.050 tỷ đồng, số vốn thực giải ngân là 1.033 tỷ đồng.[40].

Số nợ gốc đã trả là 251 tỷ đồng, số nợ lãi đã trả là 56,4 tỷ đồng.

Dư nợ gốc là 782 tỷ đồng (trong đó nợ quá hạn là 372 tỷ đồng, chiếm 48%

dư nợ).

Nợ lãi là 441 tỷ đồng (lãi đến hạn trả chưa trả là 334 tỷ đồng).

Tính đến 31/12/2007, dự kiến số nợ không thu được của cả Chương trình là

1.150 tỷ đồng, trong đó có 750 tỷ đồng nợ gốc và 400 tỷ đồng nợ lãi. Nợ quá hạn

từ Chương trình chiếm 12% tổng số nợ quá hạn của NHPT tại thời điểm

31/12/2007 [40].

Trong năm 2008, NHPT đã trình Liên bộ Bộ Tài chính – Kế hoạch và đầu

tư – Ngân hàng Nhà nước để trình Thủ tướng Chính phủ cho phép xóa nợ với tổng

số tiền đề nghị xóa là 1.179 tỷ đồng của 905 con tàu (trong đó xóa nợ gốc 705 tỷ

109

đồng; nợ lãi 474 tỷ đồng) theo hướng: Bước 1: xóa trên cơ sở loại dư nợ khỏi bảng

tổng kết tài sản, chuyển ra ngoại bảng. Bước 2: tiếp tục rà soát từng trường hợp để

xử lý cụ thể.

Cho đến nay, dư nợ còn lại chưa thu được của các dự án thuộc Chương trình

đã được nhà nước cho phép NHPT (kế thừa toàn bộ trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ

chức cho vay Chương trình trước đây là Quỹ Hỗ trợ phát triển) hạch toán ngoại

bảng, tiếp tục tiếp nhận hồ sơ của các địa phương, chủ đầu tư có đủ điều kiện theo

quy định để báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép xóa nợ (gốc và lãi) từng

trường hợp cụ thể.

Những mặt được của Chương trình

Một là, thông qua Chương trình, từ nguồn vốn vốn vay ưu đãi (1.338 tỷ

đồng, trong đó riêng hệ thống Tổng cục đầu tư phát triển, Quỹ hỗ trợ phát triển cho

vay là 1.033 tỷ đồng), ngư dân cả nước đã đóng mới và hoán cải được hơn 1.362

con tàu thành tàu đánh bắt cá xa bờ (trong đó riêng hệ thống Tổng cục đầu tư phát

triển, Quỹ hỗ trợ phát triển cho vay đóng mới và hoán cải 1.016 con tàu) [85].

Cùng với hơn 4.000 con tàu mà ngư dân tự bỏ vốn đầu tư hoặc vay thương mại từ

các nguồn khác, đội tàu đánh bắt cá xa bờ của Việt Nam đã được nâng lên thành

hơn 6.300 chiếc, góp phần tăng tổng công suất và số lượng tàu có công suất tương

đối lớn, có khả năng đánh bắt hải sản xa bờ nhằm khai thác tiềm năng của biển,

cung cấp nguyên liệu cho chế biến hải sản [85].

Hai là, việc triển khai Chương trình đã góp phần giải quyết việc làm và tăng

thu nhập cho một bộ phận ngư dân, tạo thêm việc làm cho lao động dịch vụ trên

bờ, dưới biển, lao động thu mua và chế biến thủy hải sản.

Ba là, thông qua Chương trình, đã huy động được một phần vốn trong dân

tham gia đầu tư để đóng tàu có công suất lớn, đủ điều kiện đánh bắt cá xa bờ, giảm

áp lực khai thác ven bờ, loại bỏ dần phương tiện lạc hậu, năng suất thấp, khai thác

có tính chất hủy hoại nguồn lợi hải sản ven bờ, làm tăng sản lượng phục vụ nhu

cầu trong nước và xuất khẩu.

Bốn là, điều đáng kể hơn, bằng việc đầu tư đóng mới và hoán cải hơn 1.300

con tàu đã tạo nên sự hiện diện thường xuyên hơn của đội tàu đánh bắt xa bờ ở

vùng biển xa góp phần bảo vệ an ninh trên biển, chủ quyền quốc gia và hạn chế tàu

thuyền nước ngoài đánh bắt trái phép ở vùng biển xa của Việt Nam [85].

110

Những mặt tồn tại, hạn chế của Chương trình

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc đầu tư thực hiện các dự án đóng tàu

đánh bắt cá xa bờ bộc lộ nhiều thiếu sót, yếu kém, dẫn tới hiệu quả không cao.

Thứ nhất, tỷ lệ trả nợ vốn vay của các dự án rất khiêm tốn, có những dự án

không trả được đồng vốn nào cho nhà nước. Tỷ lệ số vốn thu hồi được trên số vốn

đã cho vay ra rất thấp. Tổng số vốn nhà nước đã cho vay ra bị thất thoát, không thu

hồi được rất cao.

Từ năm 2003, trước tình trạng khó khăn trong thu hồi nợ vay, để xử lý tình

trạng không thu hồi được nợ vay vốn tín dụng ưu đãi cho vay đóng tàu đánh bắt cá

xa bờ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, biện pháp,

chỉ đạo tại các Quyết định 89/2003/QĐ-TTg ngày 08/5/2003 về một số biện pháp

xử lý nợ vay vốn tín dụng đầu tư phát triển để đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt cá

xa bờ (theo QĐ 393/TTg ngày 9/6/1997 và Quyết định số 159/1998/QĐ-TTg ngày

3/9/1998 và QĐ 64/2000/QĐ-TTg ngày 7/6/2000); Chỉ thị số 03/2006/CT-TTg

ngày 25/01/2006 về một số biện pháp tiếp tục xử lý nợ vay vốn tín dụng ĐTPT để

đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt cá xa bờ và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ.

Trong đó biện pháp chủ yếu là thu hồi tàu để đưa ra bán đấu giá, thu hồi nợ vay.

Bảng 2.4. Phân loại tổng số 1.016 con tàu thuộc Chương trình

(tính đến 31/8/2007)

Tổng số tàu thuộc Chương trình 1.016 tàu

Số tàu hoạt động có hiệu quả, trả đủ nợ vay 17 1

Số tàu chìm, đắm, mất tích, bị nước ngoài bắt 31 2

giữ

Số tàu đã bán đấu giá 777 3

Số tàu đã thu hồi, chưa bán 29 4

Số tàu còn phải thu hồi để bán 162 5

Nguồn: NHPT [40]

Kết quả, tính đến 31/8/2007, tổng số tiền thu được từ việc bán đấu giá 777

con tàu là 138 tỷ đồng, bằng khoảng 18% tổng số vốn đã giải ngân cho 777 con tàu

111

này (796 tỷ đồng). Tổng số vốn nhà nước dự kiến bị mất, không thu hồi được tại

thời điểm 31/8/2007 là hơn 1.150 tỷ đồng (gồm 750 tỷ đồng gốc và hơn 400 tỷ

đồng lãi), cao hơn cả số vốn đã cho vay ra (1.033 tỷ đồng) [40].

Thứ hai, mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, biện pháp để xử

lý, thu hồi nợ song tình trạng thu hồi nợ dứt điểm của các dự án thuộc Chương

trình này tiếp tục gặp nhiều khó khăn, kéo dài dẫn đến việc nhà nước phải thực

hiện xóa nợ, khoanh nợ với số vốn lớn.

Nguyên nhân của tình trạng khó thu hồi nợ vay, chậm thu hồi nợ vay của

các dự án thuộc Chương trình do cả chủ quan và khách quan.

Về phía khách quan, trước hết là do nhận thức của đa số các hộ ngư dân coi

đây là sự trợ cấp của Nhà nước, Nhà nước đầu tư với mục đích là đảm bảo an ninh

quốc phòng trên biển, không phải là chương trình phát triển kinh tế nên có tâm lý ỷ

lại, ý thức trả nợ vay cho nhà nước không tốt. Nhiều chủ tàu hoạt động trên vùng

biển rộng lớn, có thời gian dài không về nơi cư trú nên chính quyền địa phương

không có khả năng thu hồi tàu để xử lý nợ vay. Sau khi có Quyết định 89 về xử lý

nợ, nhiều chủ tàu có biểu hiện chây ỳ, không hợp tác, đem theo cả gia đình, bỏ đi

đánh bắt nơi xa, các cấp chính quyền địa phương không quản lý, không liên lạc

được. Hai là, phần lớn các con tàu đã sử dụng từ 7-10 năm, đã hư hỏng, xuống cấp,

giá trị của con tàu sau khi định giá bán thấp hơn nhiều so với tiền chủ đầu tư còn

nợ. Có nhiều tàu không thể bán được mặc dù đã định giá lại nhiều lần, tâm lý các

hộ ngư dân không muốn mua những con tàu sản xuất kinh doanh không hiệu quả,

các con tàu chìm, đắm, nằm bờ hoặc bị tai nạn…Ba là, nhiều con tàu đưa ra bán đã

hỏng hóc, nằm bờ, ngập nước lâu ngày, nếu ngư dân mua để có thể ra khơi đánh

bắt cần phải bỏ ra một số tiền đầu tư tiếp khá lớn để sửa chữa, nâng cấp tàu mới có

thể hoạt động được trong khi đa số ngư dân nghèo, có nhu cầu mua tàu làm

phương tiện sinh sống song không có nguồn vốn tự có, không có tài sản thế chấp,

cầm cố, phương án sản xuất kinh doanh không thuyết phục nên không đủ điều kiện

vay vốn từ các ngân hàng thương mại để mua tàu.

Về phía chủ quan, một là, về phía cơ quan cho vay. Ngày 10/6/2005 Thanh

tra Chính phủ đã có kết luận thanh tra dự án đầu tư đóng tàu đánh bắt cá xa bờ,

trong đó đã kết luận các nhóm sai phạm về lựa chọn, thẩm định và xét duyệt dự án

và lựa chọn chủ đầu tư; sai phạm về việc lập thiết kế, dự toán mẫu tàu và phê duyệt

112

dự toán cụ thể từng con tàu; sai phạm trong việc giải ngân và thanh toán tiền của tổ

chức cho vay không chặt chẽ, không đầy đủ thủ tục theo quy định. Quỹ hỗ trợ phát

triển đã chưa phối hợp thường xuyên với các bộ, ngành, địa phương, chưa đề ra

được các giải pháp hữu hiệu để thu hồi nợ vay.

Hai là, việc phân loại chủ đầu tư và xử lý bán đấu giá tàu liên quan dến

nhiều ngành, nhiều cấp, chính quyền một số địa phương còn lúng túng khi phối

hợp thực hiện nhiệm vụ chung, thậm chí nhiều địa phương còn chưa quan tâm

thường xuyên đến việc thực hiện xử lý nợ vay các dự án thuộc Chương trình.

Ba là, khi định giá tàu để bán, giá tàu được đưa ra không sát với thực tế nên

khó bán. Thực tế, hầu hết các hội đồng bán đấu giá tại các tỉnh, thành phối phải

định giá lại nhiều lần mới bán được tàu.

Bốn là, quy định điều kiện đối với người mua tàu tương đối chặt chẽ như

phải trả tiền ngay tối thiểu 50% giá trị con tàu khi bán đấu giá, phải có đủ các điều

kiện vay do tổ chức cho vay quy định…trong khi rất ít hộ ngư dân đáp ứng được

các yêu cầu này dẫn đến việc bán kéo dài, khó chọn được người mua tàu.

Năm là, việc quy định không phải thế chấp tài sản và tỷ lệ vốn tự có tham

gia đầu tư thấp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chủ đầu tư chưa

quan tâm đúng mức đến quản lý, khai thác tàu đánh bắt một cách có hiệu quả và

thiếu trách nhiệm trong việc trả nợ vay.

Thứ ba, Chương trình được thực hiện không đồng bộ về chủ trương đầu tư.

Cụ thể, Chương trình mới chỉ chú ý đến đầu tư cho việc đóng mới, cải hoán tàu

đánh bắt và tàu dịch vụ, chưa chú trọng đầu tư cho khâu đào tạo thuyền trưởng,

thuyền viên, dịch vụ hậu cần nghề cá (trên bờ, dưới biển), dự báo ngư trường…

Thứ tư, trách nhiệm quản lý của các bộ, ngành và địa phương có liên quan

còn lúng túng trong việc phối hợp từ trung ương tới địa phương trong việc tổ chức

triển khai thực hiện Chương trình, đặc biệt là khâu hướng dẫn lập, thẩm định và tổ

chức phê duyệt dự án. Có quá nhiều đầu mối liên quan đến việc duyệt, thẩm định

và lựa chọn chủ đầu tư, mẫu tàu, phê duyệt dự toán cho vay. (Xem hộp 3). Việc

thành lập các hợp tác xã, lựa chọn chủ đầu tư để thực hiện nhiều dự án không hợp

lý, nhiều chủ đầu tư không có tay nghề, kinh nghiệm nghề biển. Có tình trạng lập

hợp tác xã chỉ để vay được vốn ưu đãi của nhà nước, không quan tâm tới việc đóng

113

tàu và đánh bắt cá xa bờ.

2.2.2. TD ĐTPT cho các dự án kinh tế trọng điểm

Hầu hết các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đều có các dự án

kinh tế trọng điểm nhưng tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, công

nghiệp, xây dựng…phục vụ chủ trương CNH, HĐH đất nước trong từng thời kỳ

phát triển kinh tế xã hội. Các dự án kinh tế trọng điểm là các dự án Nhóm A, có

quy mô tương đối lớn thuộc các lĩnh vực đầu tư then chốt của nền kinh tế được xác

định theo tổng mức đầu tư [16].

Tính chung từ năm 2000 - 2013, có khoảng 117 dự án nhóm A trọng điểm

được tài trợ vốn TD ĐTPT của Nhà nước. Trong đó giai đoạn 2000 - 2006, vốn

TDĐTPT của Nhà nước qua Quỹ Hỗ trợ phát triển đã đầu tư cho 76 dự án trọng

điểm nhóm A; giai đoạn 2006 - 2013, vốn TDĐTPT qua hệ thống NHPT đã tài trợ

cho 33 dự án trọng điểm nhóm A.

Số dự án kinh tế trọng điểm nhóm A được tài trợ vốn TD ĐTPT đã có sự

tăng trưởng về số lượng qua các năm, từ 2,8% trên tổng số các loại dự án (gồm

nhóm A, nhóm B, nhóm C) được tài trợ vốn TD ĐTPT qua hệ thống NHPT tại thời

điểm năm 2006 lên 5% tại thời điểm 2011 và tiếp tục tăng lên 7% và gần 8% lần

lượt vào các năm 2012 và 2013 (xem Bảng 2.5).

Bảng 2.5. Số lượng các dự án trọng điểm (nhóm A)

trong tương quan với các nhóm dự án khác được tài trợ vốn TD ĐTPT

Loại dự án 2006 2011 2012 2013

53% 38% 33% 15%

44,2% 57% 60% 77,3%

2,8% 5% 7% 7,7% Dự án nhóm C Dự án nhóm B Dự án nhóm A (trọng điểm)

Nguồn: NHPT [41].

Dư nợ cho vay vốn TD ĐTPT vào các dự án kinh tế trọng điểm nhóm A

trong giai đoạn 2000-2006 chiếm 34% tổng dư nợ cho vay vốn TD ĐTPT qua hệ

thống Quỹ hỗ trợ phát triển và chiếm 46% tổng dư nợ cho vay vốn TD ĐTPT qua

NHPT giai đoạn 2006 – 2013. Tính chung, số vốn cho vay vào các dự án trọng

điểm nhóm A trong cả thời kỳ 2000- 2013 chiếm bình quân khoảng 41% tổng số

114

vốn cho vay TD ĐTPT trong cùng thời kỳ (Xem Bảng 2.6).

Bảng 2.6. Dư nợ cho vay và tỷ trọng cho vay

các dự án trọng điểm (Nhóm A) trong tổng số vốn TD ĐTPT

Đơn vị tính: tỷ đồng

Năm

Chỉ tiêu

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

9.870 21.877

18.600

21.686

24.295

23.107 23.200

25.000

5.449

8.686

8.834

8.954

10.239

10.398

7.800

7.500

55%

39,%

47%

41%

42%

40%

34%

30%

Tổng số vốn TD ĐTPT cho vay trong cùng kỳ Số vốn cho vay các dự án trọng điểm Tỷ trọng số vốn cho vay dự án trọng điểm trên tổng số vốn cho vay

Nguồn: NHPT [41] và Đỗ Thị Trà Linh [35].

Điều đáng kể hơn là các dự án trọng điểm được tài trợ vốn TD ĐTPT chủ

yếu tập trung ở các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng với tỷ lệ giải ngân vào lĩnh vực

này hàng năm bình quân khoảng 80%. Trong đó, vốn TDĐTPT được tập trung

nhiều nhất cho các ngành, lĩnh vực then chốt như năng lượng, điện, hóa chất, xi

măng, giao thông vận tải…

Các dự án nhóm A trọng điểm trong giai đoạn 2000 – 2006 tập trung chủ

yếu vào lĩnh vực như năng lượng, luyện kim, vật liệu xây dựng, khai thác và chế

biến khoáng sản, hạ tầng giao thông, cấp nước, công nghiệp chế biến…Các dự án

kinh tế trọng điểm tiêu biểu trong lĩnh vực năng lượng giai đoạn này như dự án

nhiệt điện Phú Mỹ, nhiệt điện Na Dương, thủy điện Tuyên Quang, thủy điện Đại

Ninh…. Các dự án tiêu biểu trong ngành luyện kim như dự án thép Thái Nguyên,

thép cán nguội Phú Mỹ…; ngành vật liệu xây dựng như dự án nhà máy xi măng

Hải Phòng, xi măng Tam Điệp, xi măng Bỉm Sơn….; ngành khai thác, chế biến

khoáng sản như dự án tổ hợp đồng Sin Quyền; lĩnh vực hạ tầng giao thông, khu

công nghiệp, cấp nước như dự án Quốc lộ 14, Quốc lộ 51, KCN Tiên Sơn, nhà

máy nước Thiện Tân, Nhơn Trạch – Đồng Nai, công nghiệp chế biến như dự án

115

sản xuất bột giấy Kon Tum, bột giấy Thanh Hóa….

Các dự án nhóm A trọng điểm được tài trợ vốn TDĐTPT trong giai đoạn

2006-2013 tiêu biểu như: dự án Phóng vệ tinh viễn thông 2 (1.092 tỷ đồng); dự án

Nhà máy đạm Cà Mau (180.000.000 USD); Nhà máy phân đạm từ than cám công

suất 560.000 tấn ure/năm tại Ninh Bình (3.440 tỷ đồng); dự án khai thác và chế

biến khoáng sản Núi Pháo, Thái Nguyên (2.377 tỷ đồng); dự án Nhà máy DAP số

2 tại Lào Cai (1.810 tỷ đồng); dự án thủy điện Huội Quảng, dự án thủy điện Bản

Chát (1.334 tỷ đồng); dự án thủy điện Lai Châu (4.602 tỷ đồng); đặc biệt là dự án

thủy điện Sơn La, công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á (4.000 tỷ đồng vốn

TDĐTPT và 400 triệu USD)…

Một số ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế được tài trợ vốn

TDĐTPT tiêu biểu như:

* Ngành điện: là ngành nhận được vốn TD ĐTPT tài trợ nhiều nhất, cả về số

dự án và số vốn cho vay trong tổng số các dự án trọng điểm nhóm A. Cụ thể, trong

tổng số các dự án ngành điện mà NHPT cho vay, có 36/117 dự án trọng điểm nhóm

A với tổng số vốn cho vay là 26.533 tỷ đồng. Số vốn TD ĐTPT cho vay vào ngành

điện theo hợp đồng tín dụng là gần 60.000 tỷ đồng, số vốn đã giải ngân gần 43.000

tỷ đồng. Số vốn TD ĐTPT đầu tư vào ngành điện chiếm khoảng 60% tổng số vốn

đầu tư của ngành điện [41]. (Xem Phụ lục số 02: Một số dự án trọng điểm ngành

điện vay vốn TD ĐTPT (có số vốn vay từ 500 tỷ đồng trở lên).

* Ngành hóa chất: nguồn vốn TD ĐTPT đã tài trợ cho 16 dự án với tổng

mức đầu tư gần 25.000 tỷ đồng, trong đó số vốn vay TD ĐTPT theo hợp đồng tín

dụng là gần 15.200 tỷ đồng [41]. Chỉ tính riêng 4 dự án trọng điểm nhóm A của

ngành hóa chất đầu tư sản xuất phân bón với tổng mức đầu tư 42.651 tỷ đồng, trong

đó nguồn vốn tín dụng đầu tư nhà nước đã đầu tư khoảng 34 % tổng mức đầu tư các

dự án này với số vốn khoảng 14.805 tỷ đồng. (Xem Phụ lục số 03: Một số dự án

kinh tế trọng điểm ngành hóa chất vay vốn TD ĐTPT).

* Ngành xi măng: vốn TD ĐTPT của Nhà nước đã đầu tư cho 32 dự án

ngành công nghiệp xi măng với tổng mức đầu tư là 52.000 tỷ đồng, trong đó số

vốn vay TD ĐTPT theo hợp đồng tín dụng là gần 18.000 tỷ đồng [41].

* Ngành giao thông: nguồn vốn TD ĐTPT đã đầu tư cho 12 dự án đóng mới

toa xe đường sắt và một số dự án hạ tầng giao thông theo hình thức BT, BOT với

116

số vốn theo hợp đồng tín dụng là gần 3.200 tỷ [41].

2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TD ĐTPT CHO CÁC CHƯƠNG

TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM

THỜI GIAN QUA

2.3.1. Mức độ huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn ĐTPT nền kinh tế

Hoạt động TD ĐTPT nói chung, hoạt động TD ĐTPT cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng trong thời gian qua đã huy

động được một lượng vốn đáng kể, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn ĐTPT nền

kinh tế.

Trong cơ cấu đầu tư xã hội, đầu tư của khu vực công (đầu tư của Nhà nước)

chiếm một tỷ lệ quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư công, theo

định nghĩa tại Luật đầu tư công, có hiệu lực từ 01/01/2015: “Đầu tư công là hoạt

động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế -

xã hội”. Nguồn vốn đầu tư công được quy định tại Luật này gồm: vốn ngân sách

nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính

quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của

các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ

nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các

khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư. Như vậy, vốn TD ĐTPT

nói chung, vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm thuộc nguồn vốn đầu tư công.

Trong giai đoạn 2001-2010, đầu tư công chiếm tỷ trọng bình quân khoảng

48,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội [33]. Trong giai đoạn 2011 – 2013, tuy nguồn

vốn đầu tư công đã được điều chỉnh giảm để tái cơ cấu đầu tư công song đầu tư

công vẫn có tỷ lệ là khoảng 39,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội [33]. Điều này cũng

có nghĩa là gần một nửa cung vốn đầu tư phát triển của quốc gia là đầu tư công.

Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội nói chung và tổng vốn đầu tư công nói

riêng, vốn TD ĐTPT của Nhà nước chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Giai đoạn 2001-

2010, nguồn vốn này chiếm khoảng 22,6% tổng vốn đầu tư công và chiếm khoảng

4,2% GDP [58]. Trong các năm 2010 – 2012, vốn TD ĐTPT có xu hướng tăng lên

117

và được duy trì ở mức khoảng 6% GDP (xem Bảng 2.7).

Bảng 2.7. Tỷ trọng vốn TD ĐTPT/GDP

Đơn vị: %

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Giai đoạn 2001-2010 4,2*

6,9**

5,8**

5,9**

Tỷ trọng vốn TD ĐTPT trên GDP

Nguồn: *Vũ Nhữ Thăng [61];

**Báo cáo của Chính phủ tại các kỳ họp Quốc hội 2010, 2011, 2012 [14].

Đáng chú ý là, nguồn vốn TDĐTPT tuy chiếm bình quân khoảng 5,2% tổng

vốn đầu tư toàn xã hội trong cả giai đoạn 2000-2013 song số vốn này (bình quân

khoảng 37% tổng mức đầu tư dự án) đã đóng vai trò là nguồn vốn “mồi”, góp phần

quan trọng thu hút các nguồn vốn của các NHTM, vốn tư nhân và nguồn vốn khác

trong xã hội tham gia đầu tư vào các dự án/chương trình kinh tế. Trong giai đoạn

2006 - 2013, bên cạnh việc đóng vai trò là một kênh huy động hiệu quả nguồn vốn

đầu tư, nguồn vồn TD ĐTPT đã thu hút thêm các nguồn vốn khác trong xã hội

tham gia đầu tư vào 2.248 dự án với tổng số vốn khoảng 382.000 tỷ đồng, tạo ra

kênh dẫn vốn quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước [41].

Trong bối cảnh NSNN còn hạn hẹp, bội chi ngân sách vẫn cao thì việc triển

khai có hiệu quả việc huy động nguồn lực thông qua hình thức TDĐTPT của nhà

nước những năm qua đã góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, hoàn thành

các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.

Kết quả huy động nguồn lực đầu tư cho các chương trình/dự án này càng có

ý nghĩa trong giai đoạn 2001 – 2010, khi mà bối cảnh kinh tế trong nước và quốc

tế có nhiều biến động theo chiều hướng bất lợi cho sự phát triển kinh tế, song Việt

Nam vẫn đạt được mức tăng GDP bình quân tương đối cao trong cả giai đoạn này.

Một trong những nhân tố chủ đạo góp phần tạo nên mức tăng trưởng GDP tương

đối lớn như trên đó chính là nhân tố vốn. Có thể nói, Việt Nam đã huy động được

nguồn lực khổng lồ cho phát triển, tăng trưởng kinh tế. Tổng mức đầu tư toàn xã

hội trong giai đoạn 2001-2010 bình quân đạt xấp xỉ 41% GDP, so với mức 30,7%

giai đoạn 1991- 2000. Chính tổng mức đầu tư toàn xã hội trong cả giai đoạn 2001-

118

2010 liên tục tăng và duy trì ở mức cao đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng

GDP bình quân cao trong giai đoạn này, với mức tăng trưởng bình quân 7,2%/năm

[14].

Bên cạnh đóng góp trong huy động vốn như kể trên, mức độ huy động

vốn đáp ứng nhu cầu ĐTPT của nền kinh tế của hoạt động TD DDTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm vẫn còn hạn chế.

Cụ thể, quy mô vốn TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh

tế trọng điểm trong tổng vốn ĐTPT của nền kinh tế còn nhỏ bé.

Tuy có mức tăng trưởng vốn lớn, quy mô tín dụng tăng mạnh, chiếm tỷ

trọng cao về tín dụng và dư nợ trong thị trường, song số vốn tài trợ TDĐTPT trong

tổng đầu tư xã hội còn hạn chế. Trong cơ cấu đầu tư của khu vực công, vốn tín

dụng đầu tư giai đoạn 2001-2013 chiếm khoảng 22% tổng vốn đầu tư từ khu vực

Nhà nước, tương đương khoảng 4,2% GDP [61]. Tổng số vốn TDĐTPT cho vay

nền kinh tế mới chỉ đáp ứng khoảng 37% nhu cầu vốn trong tổng mức đầu tư tài

sản cố định của các dự án. Riêng đối với các dự án nhóm A, số vốn tín dụng đầu tư

cam kết cho vay mới đáp ứng được khoảng 28% tổng mức đầu tư của các dự án.

Kết quả này cho thấy, vai trò của nguồn vốn TD ĐTPT nói chung và TD ĐTPT

cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế và

trong từng dự án kinh tế trọng điểm còn nhỏ bé. Điều này đồng nghĩa với việc sức

lan tỏa của nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm trong nền kinh tế còn hạn chế. Hay nói cách khác, “sứ mệnh” huy động

vốn đáp ứng nhu cầu ĐTPT, trở thành một kênh khai thác các nguồn vốn trong xã

hội cho ĐTPT, giúp bù đắp thiếu hụt NSNN chi cho ĐTPT của hoạt động TD

ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn chưa thực sự

hiệu quả như kỳ vọng, mong muốn.

2.3.2. TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

trong việc hình thành, gia tăng giá trị tài sản cố định, cơ sở vật chất kỹ thuật

của nền kinh tế

Vốn TDĐTPT cho vay vào các dự án kinh tế trọng điểm, các chương trình

kinh tế lớn được giải ngân chủ yếu cho việc mua sắm trang thiết bị, máy móc, đầu

tư các hạng mục nhà xưởng, tài sản cố định. Vì vậy, tỷ lệ giải ngân vốn TD ĐTPT

vào nền kinh tế cho thấy mức độ đóng góp vào việc hình thành, gia tăng giá trị tài

119

sản cố định trong nền kinh tế.

Trong thời gian qua, tổng nguồn vốn TDĐTPT được huy động, cho vay,

giải ngân vào nền kinh tế chiếm tỷ trọng khoảng 6% tổng vốn ĐTPT toàn xã hội.

Trong đó, vốn TD ĐTPT giải ngân cho các dự án trọng điểm (Nhóm A) và các

chương trình kinh tế lớn chiếm khoảng 70% tổng số vốn giải ngân của toàn hệ

thống. Do vậy, có thể nói, trong thời gian qua, TDĐTPT của Nhà nước cho các dự

án kinh tế trọng điểm, các chương trình kinh tế lớn đã đóng góp khoảng 4,5% tổng

giá trị tài sản cố định tăng thêm hàng năm của cả nước. Các dự án, công trình vay

vốn TDĐTPT của Nhà nước, trong đó có nhiều công trình lớn, tầm cỡ đã hoàn

thành, đi vào sản xuất hoặc đưa vào sử dụng đã góp phần tăng cường đáng kể cơ

sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của nền kinh tế. Ví dụ, các dự án được tài

trợ vốn TD ĐTPT trong ngành hóa chất hoàn thành đi vào sử dụng đã tạo ra năng

lực sản xuất mới đáng kể cho nền kinh tế, góp phần tăng thêm năng lực sản xuất

cho nông nghiệp với 1.130.000 tấn phân bón các loại và cung ứng cho thị trường

hàng triệu bộ săm lốp ô tô, điện ắc quy, axit sunfuric… , cung cấp cho ngành nông

nghiệp vật tư phân bón để sản xuất nông nghiệp với giá ổn định, thay thế nhập

khẩu, tiết kiệm hàng trăm triệu USD mỗi năm. Hầu hết các dự án vay vốn TD

ĐTPT của ngành xi măng đã hoàn thành và đi vào hoạt động với sản lượng xi

măng khoảng 20 triệu tấn xi măng và hàng triệu tấn clinker mỗi năm, góp phần tiết

kiệm nguồn ngoại tệ nhập khẩu clinker, đáp ứng nguồn xi măng chất lượng cao

cho nhu cầu xây dựng, đồng thời tạo đầu ra cho các nhà máy chế tạo thiết bị đồng

bộ, phát triển ngành cơ khí chế tạo thiết bị phục vụ cho ngành xi măng. Các dự án

vay vốn TD ĐTPT trong ngành giao thông, cơ khí giao thông đường sắt cũng đã

góp phần tăng thêm năng lực vận tải trên 13 triệu tấn hàng hóa và 7 triệu hành

khách hàng năm. Các dự án phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và vận tải biển,

tập trung hỗ trợ đầu tư cải tạo, nâng cấp, mở rộng các cơ sở đóng tàu và sản phẩm

mới, đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp đóng tàu mà trước đây Việt Nam

chưa sản xuất được. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam từ chỗ chỉ đóng và sửa

chữa các tàu nhỏ thì nay đã đóng được các loại tàu có trọng tải lớn, 12.500, 22.500,

53.000 và 70.000 DWT, tàu container 1.700 TEU, tàu chở dầu 100.000 tấn, tàu

chở dầu thô lớn, hiện đại nhất, lần đầu tiên được đóng mới tại Việt Nam, góp phần

trẻ hóa đội tàu biển, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải biển trong

120

nước.[41].

2.3.3. Hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then

chốt, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH

Nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm đã góp phần nhất định trong việc hỗ trợ phát triển một số ngành,

lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then chốt của nền kinh tế, thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.

Trong những năm qua, nguồn vốn TDĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án trọng điểm đã tập trung chủ yếu cho các lĩnh vực công nghiệp, xây

dựng, năng lượng, cơ khí…là những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, cho

thấy rõ mục tiêu hỗ trợ của TDĐTPT phù hợp với định hướng chiến lược CNH,

HĐH của Chính phủ, qua đó đã góp phần hình thành, xây dựng và phát triển các

ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cụ thể:

Thứ nhất, vốn TDĐTPT (trong đó TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm chiếm 70%) trong giai đoạn 2000 – 2013 đã tập trung

cho vay vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng với tỷ lệ giải ngân vào lĩnh vực này

bình quân 80%/năm, luôn cao hơn mức bình quân chung của toàn xã hội, góp phần

vào chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH phù hợp với chủ

trương, đường lối CNH, HĐH đất nước.

Thứ hai, vốn TDĐTPT dành cho các dự án công nghiệp trọng điểm quốc

gia (dự án Nhóm A) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng số vốn TD

ĐTPT cho vay vào nền kinh tế. Tính chung trong giai đoạn 2000 – 2013, số vốn

TD ĐTPT đã tài trợ cho tổng cộng gần 120 dự án kinh tế trọng điểm (Nhóm A) với

số vốn cho vay duy trì thường xuyên ở mức khoảng gần 50% tổng số vốn chấp

thuận cho vay của NHPT. Tỷ lệ giải ngân vốn vay vào các dự án kinh tế trọng

điểm cũng chiếm khoảng 40-45% tổng số vốn giải ngân toàn hệ thống.

Thứ ba, nguồn vốn TDĐTPT đã được tập trung chủ yếu cho vay vào các dự

án nhóm A trọng điểm thuộc các lĩnh vực công nghiệp quan trọng, then chốt của

nền kinh tế phục vụ mục tiêu CNH, HĐH đất nước theo chủ trương của Chính phủ

như ngành điện, xi măng, công nghiệp hóa chất, công nghiệp đóng tàu và vận tải

121

biển, đóng mới toa xe đường sắt, công nghiệp chế biến nông thủy sản…

Vai trò của nguồn vốn TD ĐTPT đối với việc phát triển các ngành, lĩnh vực

công nghiệp then chốt của nền kinh tế, tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội một cách rõ

rệt có thể thấy qua các dự án đầu tư cho ngành điện. Các dự án đầu tư cho ngành

điện (nguồn và lưới điện) hoàn thành đã góp phần đưa công suất phát điện tăng

thêm 6.000 MW, xây dựng mới hơn 1.000 km đường dây 500 KV, gần 3.000 km

đường dây 220 KV và 110 KV, hàng trăm trạm biến áp các loại. Các dự án đã

hoàn thành và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao như dự thủy điện Bản Vẽ,

Nghệ An; dự án thủy điện sông Ba Hạ; dự án đường dây tải điện 500 KV Phú Mỹ -

Nhà Bè- Phú Lâm; dự án thủy điện Tuyên Quang, dự án thủy điện An Khê –

Kanak…Nổi bật nhất là Dự án thủy điện Sơn La. Khi dự án hoàn thành không chỉ

giúp các tỉnh Tây Bắc phân bố lại dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng

hạ tầng thiết yếu như giao thông thủy – bộ, đường điện, trường học, bệnh viện,

viễn thông, công trình văn hóa mà còn giải quyết hàng loạt các vấn đề xã hội như

giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển nuôi trồng thủy hải

sản….Ngoài việc cung cấp hàng năm hơn 10 tỷ Kvh điện phục vụ công nghiệp, dự

án còn góp phần chống lũ về mùa mưa, chống hạn trong mùa khô cho cả vùng

đồng bằng Bắc bộ. Việc tập trung vốn TD ĐTPT cho vay đầu tư ngành điện đã

hiện thực hóa chủ trương của Đại hội X đề ra đối với định hướng phát triển các

ngành kinh tế và các vùng, trong đó kết cấu hạ tầng phát triển năng lượng đi trước

một bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an toàn năng lượng

quốc gia [25], phù hợp với định hướng phát triển công nghiệp năng lượng của

Chính phủ trong giai đoạn 2006-2010 “đầu tư tăng nhanh nguồn điện, hoàn chỉnh

hệ thống truyền tải, đáp ứng đủ điện cho nhu cầu phát triển”[15].

Như vậy, có thể khẳng định, nguồn vốn TD ĐTPT của nhà nước thông qua

các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm đã góp phần hỗ trợ phát

triển nhiều ngành, lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then chốt của nền kinh tế, góp

phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.

Tuy nhiên, mặc dù đã có những đóng góp, thành công nhất định trong hỗ trợ

phát triển các ngành, lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then chốt, chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH, song thực tế, tác động của nguồn vốn TD

122

ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm đến chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững còn chưa cao. Điều

này thể hiện qua một số khía cạnh sau.

Một là, tỷ trọng vốn TD ĐTPT đầu tư vào nền kinh tế còn nhỏ trong tổng

vốn đầu tư toàn xã hội đã hạn chế mức độ tác động của nguồn vốn này đến thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.

Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2013, tổng số vốn cho vay TD ĐTPT

nói chung vào nền kinh tế chiếm khoảng 5,2% GDP. Bình quân của cả giai đoạn

2000-2013, số vốn cho vay vào các dự án trọng điểm chiếm khoảng 41% tổng số

vốn cho vay TD ĐTPT. Điều đó có nghĩa là số vốn cho vay vào các dự án kinh tế

trọng điểm chiếm tỷ trọng khoảng 1,8% GDP. Điều đó có nghĩa là, mặc dù vốn TD

ĐTPT cho các dự án kinh tế trọng điểm đã được tập trung cho các lĩnh vực công

nghiệp, xây dựng (chiếm bình quân 80% số vốn TD ĐTPT giải ngân hàng năm cho

các dự án kinh tế trọng điểm) song với tỷ trọng trên GDP còn khiếm tốn như trên

cho thấy mức độ tác động, lan tỏa của nguồn vốn TD ĐTPT cho các dự án kinh tế

trọng điểm đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững

theo hướng CNH-HĐH còn chưa nhiều.

Hai là, mức độ tập trung vốn cho các dự án trọng điểm còn thấp làm giảm

hiệu quả tác động của nguồn vốn TD ĐTPT đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.

Mặc dù số vốn giải ngân cho các dự án nhóm A trọng điểm có bước tăng

trưởng mạnh trong giai đoạn 2006 – 2011 so với giai đoạn 2000 – 2005, tăng lên

gấp 3,5 lần từ mức 14.500 tỷ đồng (giai đoạn 2000 – 2005) lên mức 52.560 tỷ

đồng (giai đoạn 2006-2011), gấp hơn 3,5 lần so với giai đoạn 2000-2005 (14.500

tỷ đồng), song tính chung trong giai đoạn 2006 – 2013, số vốn giải ngân cho các

dự án trọng điểm nhóm A chỉ đạt mức bình quân 41% trên tổng số vốn giải ngân

trong cùng thời kỳ [41], [35].

Ngoài ra, số lượng dự án trọng điểm nhóm A còn chiếm tỷ trọng thấp trong

tổng số các dự án được tài trợ vốn TD ĐTPT; số lượng các dự án được tài trợ vốn

TD ĐTPT còn nhiều và còn dàn trải ở nhiều ngành, lĩnh vực, ngành nghề khác

nhau.

Thực trạng trên cho thấy, mặc dù mục tiêu của TD ĐTPT là hỗ trợ các dự

123

án trọng điểm thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các chương trình kinh tế

lớn song mức độ tập trung vốn cho các dự án kinh tế trọng điểm nhóm A vẫn còn

tương đối dàn trải đã làm giảm hiệu quả tác động của nguồn TD ĐTPT nói chung,

nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

nói riêng đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

CNH-HĐH.

2.3.4. Hỗ trợ phát triển địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, khu vực

nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo an sinh xã hội

Vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm tham gia đầu tư ngày càng nhiều vào một số lĩnh vực khó thu hồi vốn, hỗ

trợ các địa bàn khó khăn, đảm bảo an sinh xã hội.

Bước vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đầu tiên của thế kỷ mới, Chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 của đất nước ta đã xác định một

trong những mục tiêu cụ thể của chiến lược cần đạt là: “kết cấu hạ tầng đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ

thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại

hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ

thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần

lớn được kiên cố hóa...”. Đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, mở rộng giao

lưu kinh tế hàng hóa giữa các vùng dân cư, từng bước tạo điều kiện thúc đẩy công

cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước

quan tâm triển khai trong nhiều năm qua.

Thực hiện các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước nêu trên, nhiều chính

sách đã được cụ thể hóa, triển khai thực hiện liên tục từ nhiều năm nay, trong đó

có chính sách TD ĐTPT của Nhà nước.

Bên cạnh việc nhiệm vụ tập trung cho vay đầu tư vào các dự án, chương

trình kinh tế lớn, trọng điểm quốc gia để xây dựng, hình thành và phát triển một số

ngành, lĩnh vực công nghiệp then chốt, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm

triển khai đường lối CNH, HĐH đất nước, nguồn vốn TD ĐTPT còn được sử dụng

như một công cụ đắc lực của Nhà nước nhằm thực hiện chủ trương thúc đẩy CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ đầu tư vào

124

những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn cần

khuyến khích đầu tư thông qua các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm trong những lĩnh vực, địa bàn này.

Trong giai đoạn 2000-2013, vốn TD ĐTPT đã thực hiện hỗ trợ ĐTPT các

vùng, lĩnh vực, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn,

các lĩnh vực khó thu hút vốn đầu tư như y tế, giáo dục, xử lý rác thải, môi trường,

nước sạch…thông qua tài trợ vốn ĐTPT cho các dự án trọng điểm trong các ngành

điện (thủy điện), khai khoáng, sản xuất phân bón, hóa chất, chế biến nông lâm,

thủy hải sản, sản xuất nước sạch, chế biến xử lý rác thải…Vốn TD ĐTPT còn hỗ

trợ ĐTPT cho các địa bàn, vùng, miền này thông qua các chương trình kinh tế

trọng điểm của Chính phủ như: Chương trình kiên cố kênh mương, Chương trình

trồng rừng, Chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng

bằng sông Cửu Long, Chương trình đầu tư đóng tàu đánh bắt thủy hải sản xa bờ,

Chương trình đầu tư 1 triệu tấn đường…

Tính đến nay, vốn TDĐTPT đã tham gia đầu tư vào hơn 800 dự án với tổng

mức đầu tư gần 35.000 tỷ đồng, trong đó số vốn vay tín dụng đầu tư theo hợp đồng

tín dụng gần 24.000 tỷ đồng cho các dự án trồng rừng nguyên liệu, trồng cây công

nghiệp dài ngày, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, bảo quản và chế biến các sản

phẩm nông nghiệp, cơ khí nông nghiệp…

Thông qua các dự án trọng điểm, các chương trình kinh tế lớn đầu tư vào

lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo hướng tích cực, nâng cao đời sống nhân dân, làm thay đổi từng bước bộ

mặt nông thôn mới, tăng nhanh giá trị nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đã qua

chế biến đi xuất khẩu các thị trường quốc tế, tạo việc làm cho hàng vạn lao động

trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.

Cùng với các nguồn vốn khác của NSNN, nguồn vốn TDĐTPT đã đầu tư,

cho vay vào Chương trình kiên cố hóa kênh mương hơn 20.000 tỷ đồng; đầu tư

cho vay vào Chương trình trồng 5 triệu ha rừng hơn 2.200 tỷ đồng…

Qua hơn 10 năm thực hiện, Chương trình kiên cố hóa kênh mương, đầu tư

xây dựng giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng

làng nghề ở nông thôn, nguồn vốn TD ĐTPT đã góp phần đầu tư xây dựng mới

trên 180.000 km kênh mương, gần 300.000 km đường giao thông nông thôn được

125

bê tông hóa, xây dựng hơn 20.000 cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, đầu tư hơn

800 cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn, đầu tư hơn 420 trạm bơm phục vụ tưới

tiêu, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hơn 1 triệu lao động [44]. Chương

trình đã mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp phần CNH nông nghiệp, nông

thôn, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, có tác động rõ rệt đến sự phát triển

kinh tế nông nghiệp và đời sống nông thôn, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn,

đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, các địa bàn còn nhiều khó khăn, đặc biệt khó khăn

như Bắc Cạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Đắc Lăk, Lâm Đồng, Bình Phước,

Hậu Giang, Sóc Trăng…

Qua hơn 13 năm thực hiện, nguồn vốn TD ĐTPT tham gia Chương trình

trồng mới 5 triệu ha rừng đã giúp chủ đầu tư trồng mới gần 325.000 ha/tổng số

1.424.000 ha rừng thực hiện theo Chương trình, chiếm tỷ lệ 23% diện tích của

Chương trình [45]. Dự án thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia trồng rừng,

tạo đà cho các ngành kinh tế khác phát triển, đẩy nhanh tiến trình xã hội hóa trồng

rừng, gắn lợi ích của người dân với trồng rừng. Các khu rừng trồng sản xuất lớn

hình thành ở nhiều địa phương đã thu hút các doanh nghiệp đầu tư các cơ sở chế

biến gỗ, lâm sản. Đến nay công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản có bước phát triển

mạnh với nhiều thành phần kinh tế tham gia, từ chỗ kim ngạch xuất khẩu đạt 236

triệu USD vào năm 1998, đến năm 2010 đã đạt kim ngạch xuất khẩu 3,55 tỷ USD.

Quan trọng hơn, Dự án được thực hiện không chỉ có ý nghĩa lớn về môi trường mà

còn tham gia giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân và góp phần xóa đói

giảm nghèo bền vững, giúp nâng cao nhận thức của người dân về canh tác và sản

xuất lâm nghiệp, tạo sự chuyển biến lớn trong nhận thức về hiệu quả kinh tế - xã

hội, bảo vệ môi trường, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm về bảo vệ, phát triển

rừng ở các địa phương. Nguồn vốn TD ĐTPT thông qua Chương trình đã góp phần

thực hiện mục tiêu của dự án là bảo vệ diện tích rừng hiện có để tăng độ che phủ

rừng lên 43%, khẳng định quan điểm của Chính phủ trong việc cải thiện môi

trường, đối phó với áp lực về biến đổi khí hậu đang gia tăng; thể hiện vai trò thực

sự là một công cụ quan trọng của Chính phủ trong thực hiện các nhiệm vụ kinh tế -

xã hội – chính trị của Chính phủ.

Là một chương trình kinh tế trọng điểm của Chính phủ, đến nay Chương

trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long

126

đã hoàn thành giai đoạn I và một phần giai đoạn II. Kết quả, nguồn vốn TDĐTPT

tài trợ cho Chương trình đã tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng của hơn 900 cụm

tuyến dân cư, trên 100 tuyến đê bao, đảm bảo bố trí nơi ở an toàn cho trên 150.000

hộ dân với khoảng 800.000 người ngay trong những ngày nước lũ tràn về các tỉnh

ngập lũ thường xuyên ở đồng bằng sông Cửu Long. Chương trình đã phát huy hiệu

quả kinh tế - xã hội rất cao. Thực tiễn đã chứng minh tính đúng đắn của Chương trình.

Qua trận lũ năm 2011, có thể khẳng định Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và

nhà ở vùng ngập lũ ĐB SCL từ năm 2002 đến nay đã đạt được mục tiêu tổng quát đề ra

là đảm bảo cho các hộ dân trong vùng có điều kiện sinh sống an toàn, ổn định và từng

bước tiến tới phát triển bền vững, bảo đảm điều kiện sống chung với lũ. Chương trình

đã giúp cho 30.000 hộ nghèo được tạo điều kiện có nền nhà và nhà ở ổn định, các hộ

dân không phải di dời, chạy lũ như các năm trước, không bị thiệt hại về người và tài

sản khi nước lũ dâng cao, nhiều hộ nghèo thường xuyên bị đe dọa bởi lũ lụt, sạt lở

hàng năm nay đã có chỗ ở ổn định, an toàn. Bên cạnh hiệu quả cụ thể như nêu trên,

Chương trình thành công đã góp phần cải thiện đáng kể mức sống của người dân

vùng dự án, góp phần tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu quan trọng khác của

địa phương như xóa nhà tranh tre nứa lá tạm bợ, tăng tỷ lệ các hộ dùng điện và nước

sạch ở nông thôn; giúp người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế, giảm tỷ lệ

bệnh tật, sức khỏe cộng đồng được nâng cao; trẻ em có điều kiện thuận lợi để đến

trường; sinh hoạt cộng đồng dân cư vẫn diễn ra bình thường kể cả những năm có lũ

lớn.

Hiệu quả của Chương trình là tiền đề quan trọng để các tỉnh đồng bằng sông

Cửu Long từng bước ổn định dân cư theo hướng phát triển nông thôn mới vùng

ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp và

nông thôn theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tổ chức thực hiện có hiệu quả

chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; đẩy nhanh tốc độ phát

triển kinh tế xã hội, hình thành những cụm, tuyến dân cư giữ vững an ninh quốc

phòng và phòng thủ tuyến biên giới.

Mặc dù vốn TD ĐTPT tham gia đầu tư ngày càng nhiều vào một số lĩnh

vực khó thu hồi vốn, hỗ trợ các địa bàn khó khăn, đảm bảo an sinh xã hội, song

mức độ hỗ trợ phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền, địa bàn này còn chưa

127

cao.

Bên cạnh các đóng góp đáng kể cho nền kinh tế như nêu trên, có thể thấy

mức độ tác động và hiệu quả hỗ trợ phát triển lĩnh vực khó thu hồi vốn, các vùng,

miền, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn còn chưa

cao, thể hiện qua số vốn đầu tư vào các vùng, miền, địa bàn còn nhỏ, dàn trải.

Chẳng hạn số vốn đầu tư vào Chương trình kiên cố hóa kênh mương cho cả giai

đoạn 2000-2012 là khoảng hơn 20.000 tỷ đồng, tài trợ cho hầu hết các tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương trong cả nước và thực hiện trong gần 15 năm. Điều đó

có nghĩa là số vốn đầu tư hàng năm bình quân khoảng hơn 1.000 tỷ đồng, rải đều

cho hàng chục tỉnh, thành phố dẫn đến số lượng vốn đầu tư cho từng địa phương,

từng dự án khá nhỏ, hiệu quả tác động thực sự đến sự phát triển của vùng, miền,

lĩnh vực bị ảnh hưởng. Ngoài ra, một số chương trình được triển khai từ trước và

tiếp tục triển khai trong những năm đầu của giai đoạn 2000-2013 như Chương

trình đóng tàu đánh bắt cá xa bờ, Chương trình đầu tư xây dựng các nhà máy chế

biến đường…đã không đạt được mục tiêu đề ra, gây thua lỗ, lãng phí, không thu

hồi được vốn cho vay.

2.3.5. Bảo toàn, phát triển và sử dụng vốn của tổ chức cho vay

Mặc dù mới được thành lập từ năm 2006 nhưng Ngân hàng phát triển Việt

Nam đã từng bước hoàn thiện được cơ cấu tổ chức và bộ máy. Sau gần 10 năm

hoạt động, có thể nói rằng Ngân hàng phát triển Việt Nam đã thật sự trở thành

công cụ cung cấp TD ĐTPT của nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm.

Tuy nhiên, đây là định chế tài chính đặc biệt nên xét theo các yêu cầu thuần

túy thị trường thì NHPT khó tránh khỏi những hạn chế.

Thứ nhất, mức độ thực hiện bảo toàn và phát triển vốn kém

Theo Điều lệ hoạt động và quy chế quản lý tài chính đối với NHPT, tổ chức

này hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, thực hiện bảo toàn và phát triển

vốn, bù đắp chi phí và rủi ro hoạt động tín dụng. Hoạt động của NHPT không vì

mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải

tham gia bảo hiểm tiền gửi. NHPT được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán;

được miễn nộp thuế và các khoản nộp NSNN đối với hoạt động tín dụng đầu tư và

128

tín dụng xuất khẩu của nhà nước. Việc điều chỉnh, bổ sung vốn điều lệ tùy thuộc

yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể, bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn của NHPT và do Thủ tướng

Chính phủ xem xét, quy định.

Theo Điều lệ hoạt động của NHPT, vốn điều lệ của NHPT tại thời điểm

thành lập và đi vào hoạt động từ 01/7/2006 là 5.000 tỷ đồng từ nguồn vốn điều lệ

hiện có của Quỹ Hỗ trợ phát triển (tổ chức tiền thân của NHPT, hoạt động từ

01/01/2000). Theo quy định tại Quy chế quản lý tài chính đối với NHPT (ban hành

kèm theo Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg ngày 30/3/2007), vốn điều lệ của NHPT

là 10.000 tỷ đồng.

Trên thực tế, đến 31/12/2010, vốn điều lệ của NHPT mới được Chính phủ

cấp đủ 10.000 tỷ đồng, nhưng cũng chỉ chiếm khoảng 10% so với tổng nguồn vốn

tại thời điểm này. Trong khi đó, nguồn vốn điều lệ tiếp nhận từ Quỹ Hỗ trợ phát

triển là 5.000 tỷ đồng nhưng thực chất trong đó vốn khả dụng chỉ hơn 50% [47].

Phần còn lại là vốn tiếp nhận dư nợ của các Chương trình kinh tế triển khai từ

trước năm 2000 (thời kỳ Tổng cục Đầu tư và phát triển) như Chương trình mía

đường, Chương trình đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ…đã gần như đóng băng, mất

khả năng thanh toán, không thu hồi được nợ, đã phải xử lý trong nhiều năm qua

bằng hình thức khoanh nợ, xóa nợ. Thực trạng này dẫn đến vốn điều lệ khả dụng

của NHPT thấp hơn rất nhiều so với giá trị trên sổ sách. Việc tự tích lũy tài sản và

tăng vốn điều lệ hầu như không thực hiện được. Như vậy, có thể nói khái quát là

mức độ thực hiện nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn của NHPT thực hiện còn

nhiều yếu kém.

Thứ hai, chất lượng tín dụng thấp, tỷ lệ nợ quá hạn (nợ xấu) cao

Trong thời gian qua, quy mô, tốc độ tăng trưởng TDĐTPT tương đối cao

song lệ nợ quá hạn từ việc cho vay các dự án đầu tư cũng tăng cao. Thực tế cho

thấy số dự án có nợ quá hạn tăng, số chi nhánh cho vay có nợ quá hạn tăng, quy

mô nợ quá hạn tính bình quân trên mỗi dự án cũng tăng lên nhanh. Mặt khác, trong

suốt thời gian qua, từ năm 2000 đến 2013, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chưa

ban hành hướng dẫn phân loại nợ phù hợp với đặc thù hoạt động của NHPT theo

quy định tại NĐ của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của nhà

nước nên cách phân loại và xác định nợ xấu hoạt động TD ĐTPT qua NHPT còn

129

nhiều ý kiến khác nhau.

Nếu áp dụng theo tiêu chí phân loại nợ của NHNN quy định đang thực hiện

cho các NHTM thì tổng nợ xấu hoạt động tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của

nhà nước tại NHPT đến 31/12/2011 chiếm 26,2%, trong đó TDĐTPT chiếm 12%

[48]. Nếu loại trừ nợ nhận bàn giao từ Quỹ Hỗ trợ phát triển và các chương trình,

dự án theo chỉ định của Chính phủ thì nợ xấu chiếm 7,5% dư nợ. Trong đó có

khoảng hơn 3.600 tỷ đồng nợ quá hạn ở một số dự án đặc thù như:

- Nhóm dự án giải thể, phá sản theo quy định của cơ quan có thẩm quyền:

52 dự án

- Nhóm dự án phải xử lý theo phán quyết của tòa án, quyết định của cơ

quan có thẩm quyền: 33 dự án

- Nhóm dự án thuộc đối tượng xử lý rủi ro mà NHPT đã trình cấp có thẩm

quyền xử lý rủi ro nhưng chưa được Bộ tài chính có ý kiến: 39 dự án

- Nhóm các dự án thuộc đối tượng bán nợ NHPT đã trình cấp có thẩm

quyền xóa nợ đối với phần chênh lệch thiếu sau khi bán nợ: 4 dự án

- Nhóm các dự án thuộc Chương trình đánh bắt cá xa bờ (chưa được hạch

toán ngoại bảng): 57 dự án.

- Nhóm các dự án nhận bàn giao từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt

Nam (BIDV) sang Tổng cục đầu tư phát triển và Quỹ Hỗ trợ phát triển, NHPT kế

thừa: 18 dự án

- Nhóm các dự án thuộc Vinashin thuộc diện khoanh nợ: 39 dự án

Báo cáo kết quả thanh tra của Thanh tra Chính phủ ngày 04/12/2012 cho

thấy, tính theo kết quả phân loại nợ của NHPT (theo quy định phân loại nợ nội bộ

của NHPT) tại thời điểm 31/12/2010 thì tổng dư nợ được phân loại nợ là 180.301

tỷ đồng. Trong đó, nợ xấu là 22.664 tỷ đồng, chiếm 12,57% tổng dư nợ phân loại.

Tính theo chuẩn phân loại nợ tại QĐ số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu tại thời điểm 31/12/2010 là 38.106 tỷ

đồng [60].

Mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau về cách phân loại nợ đối với hoạt

động TD DDTPT, trong đó có ý kiến cho rằng cách phân loại nợ theo quy định

hiện hành của NHNN không phù hợp với nội dung hoạt động TD ĐTPT do tính

chất hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, tài trợ vốn vào các ngành, lĩnh vực,

130

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm có nhiều rủi ro, thực hiện nhiều

mục tiêu kinh tế - xã hội, song nó cũng phản ánh phần nào thực trạng rủi ro tín

dụng của NHPT tăng cao.

Thứ ba, mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN ngày càng tăng

Chủ trương thực hiện TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm theo phương thức huy động vốn thị trường để cho vay và

NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất, nhằm thay đổi phương thức tài trợ vốn từ cấp

phát vốn NSNN sang cho vay có hoàn trả là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, phù

hợp với thực trạng tình hình tài chính ngân sách của nền kinh tế và thông lệ thực

thi chính sách đầu tư ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong thực tế cũng

đang đặt ra một số vấn đề là nguyên nhân làm gia tăng gánh nặng cấp bù NSNN

cho hoạt động này.

Một là, trong thời gian qua, quy mô hoạt động TDĐTPT tăng nhanh, tốc độ

tăng trưởng TD ĐTPT khoảng 17%/năm, trong khi đó, vốn điều lệ của NHPT nhỏ,

nhiệm vụ cho vay đầu tư các chương trình, dự án có quy mô ngày càng lớn, kế

hoạch TDĐTPT hàng năm được Chính phủ giao lớn, trung bình 40.000 – 45.000 tỷ

đồng/năm, do đó NHPT phải huy động vốn trên thị trường qua phát hành TPCP

với khối lượng lớn và huy động các nguồn khác để cho vay ngày càng cao (năm

2006: 30.929 tỷ đồng; năm 2010: 46.909 tỷ đồng; năm 2011: 49.500 tỷ đồng) [49].

Hai là, trong những năm gần đây, nhất là giai đoạn 2008 - 2011, do lạm

phát tăng cao, thị trường tài chính tiền tệ có nhiều biến động, vì vậy lãi suất huy

động vốn trở nên đắt đỏ, lãi suất huy động vốn từ thị trường của các NHTM và

NHPT tăng cao cũng đã làm cho số phí cấp bù từ NSNN cho chênh lệch lãi suất

huy động vốn và lãi suất cho vay của NHPT ngày càng tăng cao (lãi suất huy động

bình quân giai đoạn 2006-2009 là 9,1%; 2010-2011 là 11,5-11,8%) [49].

Ba là, để thực hiện chính sách ưu đãi của Nhà nước, lãi suất cho vay

TDĐTPT thấp hơn lãi suất thị trường, nhiều trường hợp thấp hơn rất nhiều. Đặc

biệt, theo quy định của chính sách TDĐTPT, trong giai đoạn 2000 - 2013, lãi suất

vay vốn được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng và được giữ nguyên, cố

định trong suốt thời hạn vay vốn, trong đó số dự án được vay vốn với lãi suất thấp

(dưới 8,4%) chiếm đến 85,6% tổng dư nợ của NHPT tính đến 01/01/2012 làm cho

số vốn cấp bù của NSNN có chiều hướng gia tăng (số cấp bù chênh lệch lãi suất

131

năm 2006: 1.030 tỷ đồng; năm 2011: 2.136 tỷ đồng) [49].

***

*** ***

Từ thực tế trên đây có thể khẳng định: hoạt động TD ĐTPT cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng ở Việt Nam thời gian qua là hết sức cần thiết.

Thực tiễn cho thấy, hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm trong giai đoạn 2000-2013 đã đạt được những kết quả tích cực,

góp phần huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội

đất nước; góp phần đáng kể gia tăng giá trị tài sản cố định, tăng cường cơ sở vật

chất kỹ thuật cho nền kinh tế; hỗ trợ phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp

trọng điểm, then chốt, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

CNH, HĐH; tham gia đầu tư ngày càng nhiều vào một số lĩnh vực khó thu hồi vốn,

hỗ trợ phát triển vùng sâu, vùng xa, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn,

đặc biệt khó khăn, khu vực nông nghiệp, nông thôn, góp phần khắc phục các

khuyết tật thị trường, đảm bảo an sinh xã hội.

Đồng thời, phân tích thực trạng hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng giai đoạn 2000-2013 cũng cho thấy: hiệu quả hoạt

động tín dụng này còn chưa cao, trong đó một số hạn chế chủ yếu là: quy mô vốn

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong tổng

vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế còn nhỏ bé; vốn TD ĐTPT cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm tác động chưa nhiều đến chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững; hiệu quả, mức độ đóng góp vào

đầu tư hỗ trợ phát triển vùng, miền, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,

lĩnh vực, ngành nghề khó thu hồi vốn chưa cao; mức độ thực hiện bảo toàn và phát

triển vốn kém; chất lượng tín dụng thấp, tỷ lệ nợ quá hạn (nợ xấu) cao; mức cấp bù

chênh lệch lãi suất từ NSNN ngày càng tăng.

Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân cả từ phía khách quan và chủ quan,

trong đó nổi lên một số nguyên nhân cơ bản thuộc về thể chế, chính sách, mô hình

như khung pháp lý, cơ chế chính sách đối với hoạt động TD ĐTPT cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn nhiều bất cập; mô hình tổ chức hoạt

động tín dụng, mô hình quản trị ngân hàng, quản lý tín dụng của tổ chức cho vay

132

còn nhiều khiếm khuyết và một số nguyên nhân như năng lực quản trị rủi ro còn

thấp, hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức, chất lượng, năng lực chuyên môn

nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ…

Giải quyết những hạn chế nêu trên là yêu cầu cấp bách để nâng cao hiệu quả

hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

133

nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói chung.

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG

ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH

KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM

3.1. BỐI CẢNH MỚI ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT

TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ

TRONG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1.1. Bối cảnh quốc tế

Bước vào thời kỳ 2014, 2015 đến năm 2020, đất nước ta đứng trước một

thời kỳ chiến lược mới của dân tộc trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất

nhanh, phức tạp và khó lường. Trong đó đặc điểm lớn nhất chi phối thời kỳ này

chính là quá trình toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và

hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách

thức đối với nền kinh tế nước ta.

Trong thời kỳ này, quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động

diễn ra ngày càng sâu rộng. Trong quá trình đó, vai trò của các công ty xuyên

quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi

giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự tùy thuộc lẫn

nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ

biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở

thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Quá trình tái cấu trúc

các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế kinh tế toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ,

gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng

lượng, tài nguyên. Sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất là những nước

lớn sẽ có tác động đến nước ta. Bối cảnh thế giới trong những năm 2015 – 2020

dự báo thay đổi rất nhanh và rất khó lường.

Trên bình diện toàn cầu, tình hình chính trị bất ổn ở Ucraina chưa được

giải quyết vẫn tiếp tục tác động xấu lên quan hệ giữa Nga, Châu Âu và Hoa Kỳ,

đồng thời tác động xấu tới tình hình phát triển kinh tế, quan hệ thương mại giữa

134

các quốc gia châu Âu và Nga. Các biện pháp trừng phạt lẫn nhau của Nga và

Phương Tây do khủng hoảng chính trị ở Ucraina tiếp tục tác động tiêu cực đến

nền kinh tế Eurozone. Ở bình diện khu vực, tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và

Biển Hoa Đông giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt

Nam, tranh chấp giữa Nhật Bản và Trung Quốc với nguy cơ chủ nghĩa dân tộc

cực đoan trỗi dậy có thể là lý do châm ngòi cho xung đột giữa hai nền kinh tế

lớn trên thế giới trở nên căng thẳng là các vấn đề tiếp tục gây quan ngại và khó

đoán định trong năm 2015 và các năm sau.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2014 đã được IMF điều chỉnh

hạ dự báo xuống còn 3% thay vì 3,4% trước đó đã cho thấy bức tranh tăng

trưởng kinh tế toàn cầu năm 2014 yếu hơn dự đoán [tin nhanh chứng khoán].

Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 của Eurozone dự kiến 1,1% cho khối này

đã chỉ ra thực trạng hiện nay của khối [84]. Trong khi đó, tình hình kinh tế của

các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản hoặc là đang trong tình trạng

tăng trưởng suy giảm hoặc trì trệ, đang suy thoái là những triển vọng không

mấy sáng sủa trong thời gian tới. Nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục có dấu hiệu

mất đà. Tăng trưởng kinh tế năm 2014 của Trung Quốc dự kiến đạt mức 7,3%,

thấp nhất trung bình trong 10 năm qua [84]. Các nguyên nhân gây kéo kinh tế

Trung Quốc tăng trưởng chậm lại như “núi nợ” của chính quyền địa phương và

khu vực tư nhân sau giai đoạn tăng trưởng quá nóng, nhu cầu bên ngoài còn yếu

dẫn đến xuất khẩu suy giảm, thị trường bất động sản vẫn đóng băng, bong bóng

tín dụng bắt đầu phình lên…dự kiến trong năm 2015 vẫn chưa được giải quyết

triệt để. Nền kinh tế Nhật Bản gần như không tăng trưởng trong năm 2014. Nỗ

lực bơm tiền và hạ lãi suất của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản chưa đem lại

phép màu nhằm chặn đà giảm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hiện chỉ có

Anh và Mỹ đang tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng kinh tế khá. Tuy nhiên,

thời gian duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế này kéo dài bao lâu còn tùy thuộc

vào mức độ khó khăn mà các đối tác thương mại của họ đang phải đối mặt. Nền

kinh tế Mỹ dự kiến đạt mức tăng trưởng 3,5% trong năm 2014 đánh dấu sự trở

lại ngoạn mục của nền kinh tế này [84].

135

Trên thị trường hàng hóa, kể từ tháng 6/2014, giá dầu mỏ sụt giảm xuống

mức thấp kỷ lục trong 5 năm qua và mất giá tới hơn 40% là một biến động khó

lường đối với nền kinh tế toàn cầu và gây bất lợi cho các nền kinh tế có tỷ trọng

thu xuất khẩu từ dầu thô cao [84]. Các nguyên nhân kéo giảm giá dầu trong

năm 2014 như tiến bộ kỹ thuật trong khai thác dầu đá phiến (bằng công nghệ

khoan ngang và bẻ gãy thủy lực) đang được áp dụng tại Mỹ khiến sản lượng

dầu khai thác của Mỹ tăng đáng kể; việc giữ nguyên sản lượng khai thác của

các nước thành viên OPEC bất chấp giá sụt giảm cũng như nhu cầu từ Trung

Quốc và châu Âu giảm do tăng trưởng kinh tế chậm lại tiếp tục khó có chiều

hướng thay đổi trong năm 2015 đang là thách thức chính trong việc cân đối

nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội đối với các nước có

nguồn thu phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu dầu mỏ, trong đó có Việt Nam.

Trên thị trường tiền tệ, đồng USD liên tục tăng giá đã làm cho giá trị

đồng nội tệ của nhiều quốc gia đang phát triển xuống mức thấp nhất 14 năm

qua [84]. Đồng nội tệ yếu sẽ khiến cho kim ngạch nhập khẩu trở nên đắt đỏ,

nguy cơ đẩy lạm phát và các khoản nợ bằng đồng USD tăng cao. Trong bối

cảnh nền kinh tế Việt Nam mặc dù đạt được mức kim ngạch xuất khẩu cao kỷ

lục trong năm 2014 song mức kim ngạch nhập khẩu cũng vẫn ở mức đáng lo

ngại.

Tình hình chính trị và kinh tế thế giới, khu vực như trên ảnh hưởng

không nhỏ đến việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong

năm 2015 và các năm sau. Một mặt đặt ra những thách thức gay gắt đối với sức

cạnh tranh của nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và khả năng phản

ứng chính sách trước những diễn biến phức tạp của thị trường, mặt khác đòi hỏi

phải có những giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô, thu chi NSNN, huy động và

khai thác, sử dụng nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển thích

ứng với bối cảnh quốc tế nêu trên nhằm thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh

tế xã hội đạt được các mục tiêu đã đề ra cho thời kỳ 2011-2015 và tạo nền tảng

cho việc thực hiện các mục tiêu đến năm 2020.

136

3.1.2. Bối cảnh trong nước

Những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của gần 30 năm đổi mới đã tạo

cho đất nước ta thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Từ

một quốc gia nghèo nàn và chậm phát triển, Việt Nam đã gia nhập nhóm các

nước có thu nhập trung bình thấp, nền kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng

tích cực (trong đó nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 20,6%, công nghiệp và xây

dựng chiếm 41%, dịch vụ chiếm xấp xỉ 40% GDP). Song nền kinh tế nước ta

vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn

biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Chất lượng tăng

trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối vĩ

mô chưa vững chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng

các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dài trải. Tăng trưởng kinh

tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang

phát triển theo chiều sâu. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân

lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nguy cơ tụt

hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới ngày

càng rõ.

Các yếu tố của tăng trưởng theo chiều rộng đã đến mức tới hạn; động lực

tăng trưởng phụ thuộc vào gia tăng vốn đầu tư, gia tăng số lượng lao động…đã

yếu và đang giảm dần. Trong khi đó các động lực của tăng trưởng theo chiều

sâu chưa được cải thiện để bù đắp những thiếu hụt của tăng trưởng theo chiều

rộng. Tuy vậy, gia tăng vốn đầu tư dưới các hình thức và kênh khác nhau vẫn là

công cụ chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng. Để đáp ứng yêu cầu này, chính sách

tài khóa và tiền tệ mở rộng đã phải duy trì liên tục trong nhiều năm qua, là một

trong những nguyên nhân quan trọng của lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô

trong thời gian gần đây.

Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã

hội 2001-2010, Đại hội XI đã đề ra chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ

cấu lại nền kinh tế tạo tiền đề phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020.

137

Các mục tiêu được đề ra đến năm 2020 với một số chỉ tiêu: GDP bằng

khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người đạt 3.000 USD; tỷ

trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP; giá trị sản phẩm

công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp;

chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tỷ lệ lao động

nông nghiệp khoảng 30-35% lao động xã hội…[26].

Các đột phá chiến lược trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm

2020 được đề ra gồm:

(i) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.

(ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng

cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn

kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,

công nghệ.

(iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình

hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn [26].

Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, định hướng tổng quát của phát

triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020 được coi là “đổi mới mô hình tăng

trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế”. Theo đó, các định hướng chủ đạo trong phát

triển kinh tế xã hội nước ta thời gian tới được xác định là:

+ Tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ

sản xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường XHCN;

+ Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng

sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa

chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững;

+ Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản

xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều

chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức

cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế

tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh.

138

Trên cơ sở định hướng chủ đạo này, một trong các định hướng cụ thể, cơ

bản đã được đề ra là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN; bảo đảm ổn

định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Đây được

coi là tiền đề quan trọng để thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi

mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.

Vì vậy, Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII đã thông qua nghị quyết số

10/2011/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 với

yêu cầu Chính phủ điều hành bám sát các mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ, giải

pháp đã được Đại hội XI xác định; lãnh đạo chỉ đạo tập trung, quyết liệt hơn và

có bước đi phù hợp từng bước tạo tiềm lực để thực hiện mục tiêu tổng quát, các

chỉ tiêu, 3 đột phá chiến lược và 12 định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi

mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế để thực hiện thành công Chiến

lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020.

Thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã xây dựng và Báo cáo Quốc hội

Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo

hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh. Mục tiêu của Đề án

là các chỉ tiêu cụ thể trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015

và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm đến 2020.

Nội dung của mục tiêu tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011-2020 và định

hướng đến năm 2030 nhằm hướng đến mục tiêu tổng quát và bốn mục tiêu

thành phần. Mục tiêu tổng quát của tái cơ cấu kinh tế đến năm 2020 là nâng cao

hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội, nâng cao năng suất lao động, năng suất

các yếu tố tổng hợp và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; trên cơ sở đó, hình

thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn

và có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn; thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng

từ chiều rộng sang chiều sâu, góp phần đạt được các chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã xác định; đồng thời chuyển

đổi nền kinh tế nước ta sang thời kỳ tăng trưởng dựa chủ yếu vào các nhân tố

gia tăng năng suất, gia tăng hiệu quả; từ 2020 tiếp tục củng cố và phát triển

139

vững chắc các yếu tố tăng năng suất và hiệu quả, tạo tiền đề đưa nền kinh tế

nước ta chuyển lên trình độ phát triển cao hơn vào khoảng cuối 2030.

Trong năm 2014, sau hơn 3 năm thực hiện kế hoạch 2011-2015 nhưng

nhiều chỉ tiêu thực hiện vẫn còn khá thấp so với mức đề ra cho cả thời kỳ 2011-

2015. Bước vào năm 2015, bối cảnh kinh tế trong nước có những nét chủ đạo

là:

- Kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn tuy có ổn định tốt hơn song chưa vững

chắc. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước cả năm bằng khoảng 30,1%GDP. Lạm

phát được kiểm soát. CPI cả năm 2014 dự kiến tăng dưới 3% [78]. Tăng trưởng

kinh tế cả năm 2014 dự kiến đạt 5,8%.

- Bội chi NSNN còn cao. Nợ công tăng nhanh. Việc huy động các nguồn

lực cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng yêu cầu [78].

- Tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế tuy đã được thực hiện quyết liệt song

vẫn còn chậm. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn

thấp.

+ Tái cơ cấu lại các tổ chức tín dụng: đã cơ bản hoàn thành tái cơ cấu các

ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, hoàn thành tái cơ cấu 9 ngân hàng

thương mại, giảm 5 tổ chức tín dụng, năng lực tài chính của các ngân hàng

thương mại tăng lên, an toàn hệ thống được bảo đảm. Đã xử lý 54,3% tổng số

nợ xấu được xác định trong Đề án bằng các biện pháp. Tỷ lệ nợ xấu tính đến

cuối năm 2014 ước còn 3,7-4,2% so với mức 17% vào tháng 9/2012 [78 ]. Tuy

nhiên, vẫn còn một số tổ chức tín dụng yếu kém, tình trạng sở hữu chưa minh

bạch.

+ Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai nhiều giải pháp.

Tập trung vào cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, nâng cao năng lực

quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Dự kiến cả năm cổ phần hóa được

200 doanh nghiệp trên tổng số 432 doanh nghiệp cần cổ phần hóa. Nhưng nhìn

chung, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiệu quả chưa cao. Hiệu quả sản xuất

kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp.

140

+ Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới chưa đạt mục

tiêu đề ra.

+ Tái cơ cấu đầu tư công đã được đẩy mạnh. Quốc hội đã ban hành Luật

đầu tư công. Quản lý đầu tư đã được đổi mới theo kế hoạch trung hạn, tập trung

vốn cho các công trình quan trọng, cấp thiết, sớm đưa vào sử dụng, khắc phục

tình trạng đầu tư dàn trải, tăng cường xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản, kiểm soát

chặt chẽ các dự án khởi công mới. Song kết quả tái cơ cấu đầu tư công ở một số

nơi triển khai chậm, nợ đọng xây dựng cơ bản vẫn còn lớn.

Do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng

với những yếu kém nội tại, GDP của nước ta tăng trưởng chậm lại, từ bình quân

7%/năm giai đoạn 2006-2010 xuống còn 5,8%/năm giai đoạn 2011-2015; tỷ lệ

thu NSNN giảm tương ứng từ 24,8% xuống còn 21% nhằm nuôi dưỡng nguồn

thu, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn; chi lương và các khoản chi thường

xuyên tăng từ 62,2% lên 68,2%....dẫn đến nguồn chi cho đầu tư phát triển giảm

mạnh, từ 25% trong tổng chi NSNN giai đoạn 2006-2010 xuống còn khoảng

18% giai đoạn 2011-2015 [78].

Vì vậy, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra, Đảng

và Nhà nước ta đã chủ trương chủ động tăng vay nợ cả trong và ngoài nước.

Theo đó, giai đoạn 2011-2015 kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ là 335

nghìn tỷ đồng, gấp hơn 2,5 lần giai đoạn 2006-2010, đồng thời đẩy mạnh giải

ngân vốn ODA, vốn vay ưu đãi và bảo lãnh vay để đầu tư phát triển, xây dựng

kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng thiết yếu. Do đó, nợ công tăng nhanh,

từ 51,7%GDP năm 2010 lên 60,3%GDP vào cuối năm 2014 và dự kiến là

khoảng 64% vào cuối năm 2015 [78].

Điều đáng nói hơn là trong bối cảnh nợ công đã tăng sát trần cho phép

(65%GDP), gây áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của

Chính phủ so với tổng thu NSNN năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định là

không quá 25%, nằm trong giới hạn chiến lược Quản lý nợ công). Tuy nhiên,

nếu tính cả phần vay đảo nợ, trả lãi vay thì con số này hiện đã ở mức 26% tổng

chi NSNN, trong khi đó thu NSNN có xu hướng giảm, năm 2014 là 22% [33].

141

Một số dự án đầu tư công kém hiệu quả, tình trạng tham nhũng, lãng phí

trong đầu tư xây dựng vẫn còn, có vụ việc nghiêm trọng. Tỷ trọng chi thường

xuyên tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn; tỷ trọng chi đầu tư giảm, bội chi còn

cao. Chính phủ nhận định: thực trạng này gây lo lắng, bức xúc trong xã hội, nếu

chủ quan, buông lỏng, không tiếp tục chủ động kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, sẽ

gây mất an toàn tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô.

Trong bối cảnh như nêu trên, trong ngắn hạn, nền kinh tế phải đối mặt

với hệ quả của việc tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tài khóa và tiền tệ để

kiềm chế lạm phát (mặc dù cần thiết) là cầu nội địa giảm mạnh, hàng tồn kho

lớn; kinh tế vĩ mô vẫn chưa vững chắc. Lạm phát vẫn có nguy cơ tăng trở lại.

Tăng trưởng vốn cao hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng cho vay, chênh lệch

lãi suất huy động và lãi suất cho vay còn lớn. Doanh nghiệp còn nhiều khó

khăn, khó tiếp cận được nguồn vốn. Phát triển thị trường trong nước còn gặp

nhiều khó khăn do sức mua yếu. Thị trường bất động sản đình trệ, chưa có khả

năng phục hồi sớm. Do nguồn lực còn hạn chế nên việc mở rộng diện và nâng

mức hỗ trợ các chính sách an sinh xã hội, chương trình giảm nghèo, xây dựng

nông thôn mới, tạo việc làm và cải cách tiền lương chưa đáp ứng được yêu cầu.

Trong trung hạn, việc mở rộng xuất khẩu phải đối mặt với xu hướng bảo hộ

mậu dịch gia tăng và sự cạnh tranh gay gắt của các nước xuất khẩu khác, trong

khi đó các thị trường lớn như khu vực châu Âu, Nhật Bản…có tốc độ tăng

trưởng thấp. Bên cạnh đó xu hướng toàn cầu hóa đang ngày càng được đẩy

nhanh, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng chủ động điều chỉnh cơ cấu kinh tế

để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, nhất là trong bối cảnh Việt Nam sẽ ký

kết và tham gia TPP trong năm 2015 cũng như đã và sẽ ký kết, thực hiện từ 10-

12 Hiệp định FTA trong năm 2015.

Đồng thời, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế dẫn đến trong một số năm

trước mắt, nguồn lực xã hội phải được phân bổ lại trên quy mô lớn và kết quả

của quá trình trên có thể chỉ thể phát huy tác dụng trong trung hạn. Điều đó có

nghĩa là trong những năm trước mắt, tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể không

cao như kế hoạch và thấp hơn so với trước đây trong khi tư duy, quán tính theo

142

đuổi tốc độ và cách thức tăng trưởng theo chiều rộng vẫn còn khá phổ biến,

nhất là ở các cấp chính quyền địa phương, những thay đổi để chuyển dần sang

mô hình tăng trưởng mới là chưa thực sự rõ nét.

Trên cơ sở bối cảnh quốc tế và tình hình kinh tế - xã hội đất nước như

nêu trên và căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế xã hội đất nước đến năm

2020, quan điểm, định hướng phát triển chính sách tín dụng ĐTPT nói chung và

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm trong

thời gian tới cần được xác định theo hướng phù hợp với bối cảnh và định hướng

phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước, đồng thời khắc phục được các

điểm yếu kém, tồn tại, phát huy được vai trò, các mặt tích cực, các thành tựu

của hoạt động tín dụng này trong thời gian qua nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động của TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước đạt được các mục tiêu đề ra trong giai

đoạn từ nay đến năm 2020.

3.2. QUAN ĐIỂM VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC

CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRONG ĐIỂM

Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.2.1. TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án trọng điểm là rất

cần thiết trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc

gia

Để thực hiện được mục tiêu phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một

nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ

XXI và trước mắt, đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại, Cương lĩnh đã chỉ ra những định hướng lớn về kinh tế, xã

hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong thời gian tới.

Trong đó, nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực

hiện CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài

nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và

bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát

triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các

143

ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt

trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây

dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền; thúc đẩy

phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển

các vùng có khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ

động, tích cực hội nhập kinh tế thế giới”.

Thực hiện Chiến lược CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế có xuất

phát điểm thấp, nghèo nàn lạc hậu, nền kinh tế rất cần phát triển các ngành công

nghiệp cơ bản, then chốt như các ngành công nghiệp luyện, cán kéo thép, điện

năng, vật liệu xây dựng, hóa chất, phân bón, vật tư nông nghiệp…. Tuy nhiên,

các ngành công nghiệp cơ bản thường có quy mô đầu tư vốn lớn, tỷ suất lợi

nhuận không cao, thời gian thu hồi vốn dài, thị trường đầu ra đặc thù, cần có sự

hỗ trợ tiêu thụ của nhà nước…, khó thu hút vốn đầu tư từ khu vực đầu tư nước

ngoài, khu vực tư nhân trong nước; chẳng hạn, ngành cơ khí có tỷ suất lợi

nhuận rất thấp, đòi hỏi vốn đầu tư nhiều, thời gian thu hồi vốn lâu, thị trường

hẹp.

Do đó, nhà nước cần phải thực hiện các chương trình đầu tư, các dự án

đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN hoặc từ nguồn vốn TDĐTPT

của nhà nước cho các ngành công nghiệp cơ bản, các ngành công nghiệp then

chốt của nền kinh tế như điện, than, cơ khí, hóa chất cơ bản. Thông qua việc

thực hiện các chương trình kinh tế lớn, các dự án kinh tế trọng điểm, TDĐTPT

góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của nền kinh tế,

tăng tỷ trọng đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp, thực hiện CNH, HĐH nền kinh

tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, điều tiết vĩ mô

nền kinh tế.

Cùng với việc coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công

nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế, Đảng và

Nhà nước ta chủ trương phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ

công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông

thôn mới; bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền, thúc đẩy phát triển

144

nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng

có nhiều khó khăn.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư phát triển nông nghiệp,

nông thôn, vì vậy, chủ trương phát triển khu vực kinh tế nông thôn, mở rộng

giao lưu kinh tế hàng hóa giữa các vùng dân cư, từng bước tạo điều kiện thúc

đẩy công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, luôn được Đảng và Nhà

nước đặc biệt quan tâm.

Để khuyến khích, thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, khuyến

khích đầu tư vào các vùng khó khăn, các vùng sâu, vùng xa, mặc dù Nhà nước

đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách về đất đai, thuế, tín dụng…song kết quả

thực hiện xã hội hóa đầu tư vào các khu vực này còn rất hạn chế. Lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn nói chung, nhất là kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn

(giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng, trạm bơm tưới tiêu…) có đặc

điểm là đầu tư vốn lớn, khó thu hồi vốn, lợi nhuận thấp, rủi ro cao, khu vực tư

nhân, cả trong và ngoài nước không muốn tham gia đầu tư, nhất là đối với các

địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng

xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cơ sở hạ tầng điện, thông tin liên lạc, nước

sạch, đường sá, các dịch vụ giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe còn thiếu, yếu,

chưa phát triển…

Việc thực hiện các chương trình kinh tế lớn, các dự án kinh tế trọng điểm

vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, vào các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều

kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn như các chương trình kiên cố

hóa kênh mương, chương trình trồng rừng nguyên liệu, cây công nghiệp dài

ngày, chăn nuôi, chế biến thủy hải sản, các sản phẩm nông nghiệp…. là hết sức

cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về kinh tế và xã hội và là chủ trương lớn, lâu

dài của Đảng và Nhà nước ta nhằm giảm khoảng cách chênh lệch giữa các

vùng, ổn định kinh tế - xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm qua, Nhà nước cũng đã thực hiện nhiều chương trình

kinh tế lớn, nhiều dự án kinh tế trọng điểm như Chương trình tôn nền vượt lũ,

chương trình đầu tư chống quá tải ở các bệnh viện trung ương tuyến cuối…; các

145

dự án trọng điểm trong các lĩnh vực cung cấp nước sạch, xử lý rác thải, xã hội

hóa đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng

đồng…nhằm mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, đảm bảo công

bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.

Việc thực hiện các chương trình kinh tế lớn, các dự án kinh tế trọng điểm

bằng nguồn vốn TDĐTPT của Nhà nước thể hiện quan điểm nhất quán của

Đảng và Nhà nước ta về “tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và

công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển; Phát triển nhanh, hiệu quả và

bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và

bảo vệ môi trường”. Quan điểm này cũng thể hiện vai trò của Nhà nước trong

nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như ở Việt

Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

(bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ mục tiêu phấn đấu xây dựng đất nước

ta từ nay đến giữa thế kỷ XXI là: toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu

xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã

hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở đó, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020

đã xác định quan điểm, đường lối, mục tiêu, giải pháp thực hiện các nhiệm vụ

về kinh tế, xã hội, văn hóa…để thực hiện được mục tiêu đến năm 2020 nước ta

cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại để đến giữa thế kỷ

XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội

chủ nghĩa.

Chiến lược đề ra mục tiêu đến năm 2020: GDP bằng khoảng 2,2 lần so

với năm 2010; GDP bình quân đầu người đạt 3.000 USD; tỷ trọng công nghiệp

và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP; giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo

chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp; chuyển dịch cơ cấu

kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng

30-35% lao động xã hội…[26].

146

Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, một trong những định hướng

cơ bản phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 2011-2020 đó là hoàn thiện

thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định kinh tế

vĩ mô, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó “chính sách tài

chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi

nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; phân phối lợi ích công bằng”.

Báo cáo chính trị của Đại hội XI cũng đã chỉ ra các bài học, kinh nghiệm

từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, phát triển kinh tế

- xã hội giai đoạn 2001-2010, trong đó có kinh nghiệm về coi trọng chất lượng,

hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, theo đó yêu cầu vừa nâng cao chất

lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý,

giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Muốn thực hiện được yêu cầu này, cần tăng

cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu

quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Huy động nguồn lực

cho tăng trưởng, phát triển luôn là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng của các kế

hoạch phát triển kinh tế xã hội [26].

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng số một của hầu hết

các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển. Tăng trưởng kinh tế quyết

định tốc độ phát triển của mỗi quốc gia, quyết định mức sống của dân cư và

tiềm lực kinh tế của đất nước.

Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, yếu tố vốn đóng vai trò đặc biệt quan

trọng, nhất là ở các nước có trình độ, xuất phát điểm nền kinh tế thấp như Việt

Nam. Vì vậy, trong kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước,

chỉ tiêu vốn đầu tư xã hội vào nền kinh tế luôn là chỉ tiêu kinh tế quan trọng

hàng đầu trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Tổng vốn đầu tư

toàn xã hội đã tăng đều qua các kế hoạch 5 năm. Vốn đầu tư toàn xã hội giai

đoạn 2001-2005 đạt mức trên 30%, gấp 2 lần so với giai đoạn 1996-2000. Tỷ lệ

vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 35,4% năm 2001 lên 38,7% năm

2005. Vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2006-2010 đạt 42,9% GDP, gấp 2,5 lần

147

so với giai đoạn 2001-2005. Trong giai đoạn 2011-2015, kế hoạch đề ra là vốn

đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP [14].

Để phát triển kinh tế đất nước, chỉ tính riêng giai đoạn 2011-2015 nhu

cầu vốn cho đầu tư khoảng 250-260 tỷ USD, trong đó tổng vốn đầu tư từ NSNN

dự kiến là 17,85, vốn FDI khoảng 16,5%, phần còn lại là huy động từ các

nguồn vốn xã hội khác, trong đó chủ yếu là từ hệ thống ngân hàng [47]. Dư nợ

tín dụng (bao gồm cả tín dụng ĐTPT qua NHPT) đạt mức 130% GDP và dự

báo trong 10 năm tới, ngân hàng vẫn có vị trí quan trọng trong việc luân chuyển

và cung cấp vốn cho nền kinh tế. [47]. Vì vậy, vị trí của hoạt động TD ĐTPT

trong nền kinh tế tiếp tục sẽ góp phần tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh

tế.

Mặc dù tỷ trọng vốn TDĐTPT trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã

hội đã giảm dần qua các năm gần đây nhờ đã huy động tốt các nguồn lực từ dân

cư, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, song đến nay, nguồn vốn TDĐTPT vẫn

chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội các năm 2007 - 2012, kế hoạch

vốn TDĐTPT giao cho NHPT thực hiện là: 2007: 33.800 tỷ đồng; 2008: 40.000

tỷ; 2009: 45.470 tỷ; 2010: 53.450 tỷ; 2011: 57.000 tỷ; 2012: tăng trưởng 10%.

Số vốn này chiếm khoảng 6-7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội [42].

Mặt khác, hiện nay, các ngân hàng thương mại nhà nước (trừ Ngân hàng

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã được cổ phần hóa. Các ngân hàng

thương mại, kể cả NHTM 100% vốn nhà nước, thực hiện chức năng kinh doanh

tiền tệ, cho vay theo cơ chế thương mại, thị trường. Trong khi đó, trong nền

kinh tế, luôn tồn tại các chương trình, dự án ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn khó

khăn cần được sự hỗ trợ của nhà nước, bao gồm cả các lĩnh vực khó thu hút vốn

đầu tư như phát triển nông nghiệp nông thôn, nông dân; các chương trình, dự án

thực hiện chính sách xã hội hóa, chương trình, dự án về môi trường…để đảm

bảo nền kinh tế phát triển một cách bền vững. TD ĐTPT là công cụ của Chính

phủ để thực hiện các chính sách hỗ trợ này. Kinh nghiệm của một số nước trên

thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Đức…cho thấy các nước này cũng đang

148

tiếp tục có các chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước thông qua các định chế

tài trợ chính sách như đã đề cập ở Chương 1 của luận án.

Như vậy, trong điều kiện tích lũy của NSNN còn hạn chế, bên cạnh các

kênh huy động khác, kênh huy động vốn TDĐTPT vẫn thực sự có vai trò quan

trọng, là công cụ của Chính phủ để khai thác các nguồn vốn trong xã hội để đầu

tư, thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và đảm bảo phát triển bền vững,

công bằng xã hội.

3.2.2. Xây dựng các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng

điểm thật sự khoa học là điều kiện, cơ sở nâng cao hiệu quả của TDĐTPT

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước thường đóng vai trò là

người cung cấp hàng hóa công cộng, cung cấp cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, hạn

chế các ngoại ứng tiêu cực, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, bảo đảm

an sinh xã hội, an ninh quốc phòng… Khu vực công cộng này thường hành

động dựa trên nguyên lý “chỉ làm những gì khu vực tư nhân không muốn làm,

làm không hiệu quả hoặc không có khả năng làm”.

Vì vậy, các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm với tính

chất là công cụ của Nhà nước để cân bằng với khu vực tư nhân, sửa chữa những

khuyết tật của thị trường, cần được xác định theo hướng có nội dung không

cạnh tranh với khu vực tư nhân, hay nói cách khác, những lĩnh vực, ngành

nghề, địa bàn mà khu vực kinh tế tư nhân có thể đảm đương, sẵn sàng khai thác

và có khả năng cung ứng các hàng hóa, dịch vụ có hiệu quả thì để khu vực tư

nhân đảm nhiệm. Cách xác định nội dung các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm theo nguyên tắc nêu trên sẽ giúp sử dụng nguồn lực quốc gia

có hiệu quả, đảm bảo phát huy được vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền

kinh tế thị trường hiện đại, vừa khuyến khích khu vực tư nhân phát triển, khai

thác nguồn lực đầu tư trong dân, vừa tránh lãng phí nguồn lực đầu tư công vốn

khan hiếm do nguồn vốn ngân sách có hạn.

Nguyên tắc này giúp xác định các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm thật sự là công cụ của Chính phủ trong triển khai và thực hiện các kế

hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.

149

Theo đó, với vai trò là công cụ của Chính phủ, các chương trình kinh tế lớn, dự

án kinh tế trọng điểm cần phải phục vụ và bám sát các kế hoạch, chiến lược

phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ để đảm bảo mỗi chương trình kinh tế

lớn, mỗi dự án kinh tế trọng điểm đều phải là yếu tố chủ đạo, nòng cốt để triển

khai từng nội dung, bước đi trong từng kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, địa

bàn trong tổng thể kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm, 10 năm của đất

nước. Đặc biệt là trong việc thực hiện các nội dung kinh tế xã hội thể hiện vai

trò của khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế công cộng trong điều tiết vĩ

mô nền kinh tế nói chung, trong việc thực hiện sứ mệnh tập trung đầu tư cho

các lĩnh vực, ngành nghề có hiệu quả kinh tế không cao, đòi hỏi đầu tư vốn lớn,

thời gian thu hồi vốn dài, khu vực tư nhân không muốn hoặc không đủ năng lực

để tài trợ nhưng lại là các lĩnh vực, ngành nghề then chốt, có tác động lan tỏa,

hỗ trợ và làm tiền đề để phát triển, phát huy các ngành, lĩnh vực khác hoặc tập

trung đầu tư cho các địa bàn, khu vực địa lý có điều kiện kinh tế xã hội khó

khăn, vùng sâu, vùng xa, cơ sở hạ tầng thiết yếu về kinh tế, về xã hội còn thiếu,

còn trắng mà các nhà đầu tư tư nhân ngại ngần, không sẵn sàng đầu tư nhưng

lại cần thiết để đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng…

Đồng thời các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm phải thể

hiện được các hướng ưu tiên cao trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ

trong từng thời kỳ, từng giai đoạn trong triển khai các kế hoạch, Chiến lược

phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong các thời điểm, bối cảnh nền kinh tế rơi

vào các trạng thái lạm phát, giảm phát hoặc các tình huống mà cần có sự hiện

diện của vai trò Nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế, cần có sự can thiệp

của Nhà nước vào nền kinh tế để điều chỉnh, khắc phục nhằm hoàn thành tối đa

nhiệm vụ các kế hoạch, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã đề ra cho từng

thời kỳ, từng giai đoạn.

3.2.3. Xây dựng mô hình cung ứng TDĐTPT hợp lý; tăng cường kiểm tra,

kiểm soát là nhân tố trực tiếp quyết định hiệu quả TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

150

Về bản chất, TD ĐTPT là một hình thức đầu tư vốn NSNN thực hiện

theo cơ chế tín dụng (cho vay có hoàn trả). Tín dụng đầu tư phát triển là hình

thức tín dụng chính sách được Nhà nước sử dụng để thực hiện các chính sách

kinh tế - xã hội của Nhà nước. Hoạt động TD ĐTPT được giao cho ngân hàng

chính sách về đầu tư phát triển do Chính phủ thành lập, hoạt động không vì mục

tiêu lợi nhuận.

Mô hình hoạt động cung ứng TD ĐTPT ở Việt Nam hiện nay là thông

qua hệ thống tổ chức bộ máy của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Mô hình này

phù hợp với thông lệ hoạt động tài trợ chính sách trên thế giới và phù hợp với

thực tế phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, trong định hướng hoạt động TD ĐTPT, cần lưu ý làm tốt một

số điểm sau để đảm bảo thực hiện thành công các chương trình kinh tế lớn, dự

án kinh tế trọng điểm.

Một là, cần nghiên cứu, hoàn thiện mô hình cung ứng tín dụng đầu tư

đảm bảo vận hành tốt, tránh được tình trạng quan liêu hóa, hành chính hóa bộ

máy TD ĐTPT, đồng thời đảm bảo được an toàn tín dụng, cấp tín dụng đúng

đối tượng, đúng địa chỉ, phát huy được hiệu quả đồng vốn đầu tư nhà nước.

Hai là cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi

ro, không làm gia tăng gánh nặng cho NSNN.

Các yêu cầu này xuất phát từ thực tế hiện nay hoạt động TD ĐTPT

không trực tiếp điều chỉnh bởi các quy định của Luật các TCTD trong khi một

luật điều chỉnh riêng cho hoạt động ĐTPT lại chưa được ban hành.

Trong điều kiện hoạt động TD ĐTPT chưa thực hiện đầy đủ các chuẩn

mực theo thông lệ quốc tế và quy định của Luật các TCTD đối với hoạt động

ngân hàng như các quy định về cấp tín dụng; quản lý tiền vay, bảo đảm tiền

vay; các quy định về đánh giá chất lượng tài sản có và tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn

tối thiểu; quy định về quản lý thanh khoản, các giới hạn quản lý thanh khoản,

quy định về xếp hạng tín dụng nội bộ, quy định về quản trị rủi ro trong hoạt

động của TCTD…thì cần thiết phải ban hành được các quy định nội bộ của bộ

151

máy tổ chức quản lý và thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT đảm bảo phản ánh đầy

đủ, kịp thời và bám sát đặc điểm hoạt động cung ứng TD ĐTPT vừa thực hiện

tốt việc cung ứng TD ĐTPT, vừa đảm bảo an toàn tín dụng, cho vay và thu hồi

nợ có hiệu quả.

Định hướng trong trung hạn cần nghiên cứu xây dựng luật riêng áp dụng

cho các ngân hàng chính sách, trong đó có ngân hàng chính sách hoạt động về

tín dụng đầu tư phát triển.

Trước mắt, trong điều kiện chưa ban hành được luật riêng về hoạt động

tài trợ chính sách về tín dụng đầu tư phát triển, cần tăng cường thực hiện kiểm

tra, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, xây dựng và ban hành quy trình nội bộ

về các hoạt động nghiệp vụ và thực hiện chế độ báo cáo thống kê, báo cáo hoạt

động theo các quy định, hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Xây dựng và ban hành hệ thống kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản

lý nhà nước ngành, lĩnh vực (Kế hoạch đầu tư, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước,

Lao động TBXH…) phù hợp với đặc thù hoạt động của tổ chức thực hiện

nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển.

Tiêu chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao chất lượng quản lý tín

dụng, đặc biệt là công tác thẩm định dự án, quyết định cho vay. Hoàn thiện mô

hình quản trị và tổ chức bộ máy phù hợp với đặc thù hoạt động của một ngân

hàng chính sách. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hỗ trợ cho công tác

điều hành, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng…

3.3. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ TDĐTPT CHO

CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG

ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.3.1. Nhóm giải pháp về hoạch định các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm

Thực tế cho thấy, TD ĐTPT cho một số chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm không đạt hiệu quả có nguyên nhân thuộc về bản thân các

chương trình, dự án. Do đó, việc xác định đúng đắn các chương trình kinh tế

152

lớn, dự án kinh tế trọng điểm là tiền đề đầu tiên và là giải pháp cơ bản hàng đầu

bảo đảm hiệu quả TD ĐTPT cho các chương trình, dự án này.

3.3.1.1. Xây dựng các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm

thật sự khoa học

Để đảm tính khả thi cao và thật sự khoa học trong việc xác định các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, bên cạnh các nguyên tắc: (i)

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm chỉ làm những gì mà khu vực

tư nhân không muốn hoặc không có khả năng làm và (ii) chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm đóng vai trò là công cụ của Chính phủ trong thực

hiện, triển khai các kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước

trong từng thời kỳ, việc xác định các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm trong thời gian tới cần phải thực hiện theo hướng: các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm được vận hành và đánh giá theo những

tiêu chí, thước đo phù hợp với tính chất, đặc điểm của các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói chung. Cụ thể:

Một là, các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm có tính

chính trị cao, thể hiện quan điểm, chủ trương, đường lối kinh tế của Nhà nước

trong một giai đoạn nhất định; chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm không vì mục tiêu lợi nhuận, không vì mục đích kinh tế đơn thuần;

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm có quy mô, phạm vi ảnh

hưởng lớn, có cơ chế thực hiện đặc thù.

Từ các tính chất, đặc điểm này, việc xác định các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm cần thể hiện được chủ trương phát triển kinh tế xã

hội trong một giai đoạn nhất định, được chọn lọc một cách khoa học trên cơ sở

các kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong một thời kỳ nhất

định, tạo sự ổn định tương đối và sự hấp dẫn trong hoạt động đầu tư, góp phần

nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư xã hội; đồng thời đảm bảo nguyên

tắc bổ sung, không cạnh tranh với các chương trình, dự án mà tín dụng thương

mại thông thường hoặc khu vực tư nhân có thể tài trợ nguồn lực thực hiện nhằm

153

tránh chồng dẫm, lãng phí trong phân bổ nguồn lực và đảm bảo nguyên tắc Nhà

nước chỉ nên làm những gì khu vực tư nhân không muốn hoặc không có khả

năng tham gia, thực hiện.

Do tính chất có quy mô, phạm vi ảnh hưởng lớn nên việc xác định

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm cần lưu ý đến tác động có

tính “liên tỉnh”, “liên vùng”, “liên ngành” của các chương trình, dự án nhằm

đảm bảo sự thống nhất trong quy hoạch phát triển ngành, vùng, lãnh thổ, quốc

gia cả về tính kinh tế cũng như những tác động về hành chính lãnh thổ, dân cư,

xã hội, môi trường, an ninh quốc phòng…

Hai là, hiệu quả của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm được xem xét, nhìn nhận đánh giá chủ yếu bằng kết quả của chính sách,

chủ trương của Nhà nước khi triển khai chính sách TDĐTPT nói riêng, chính

sách đầu tư của Nhà nước nói chung trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước

trong từng thời kỳ.

Vì vậy, việc xác định các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm cần được thực hiện trên lăng kính các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh

tế trọng điểm có gắn với việc thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế

xã hội hàng năm, 5 năm, 10 năm của Nhà nước hay không, việc thực hiện các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm này có tác động như thế nào

đến sự phát triển của một số ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, vùng có điều

kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, góp phần chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, phát triển bền vững, đảm bảo an sinh xã hội. Nói cách khác, cần xem

xét hiệu quả của việc thực hiện các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng

điểm trên bình diện chi phí -lợi ích kinh tế - xã hội chứ không phải vì mục tiêu

lợi nhuận, mục đích kinh tế đơn thuần.

3.3.1.2. Nâng cao chất lượng hoạch định và thiết kế các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm

Tính khoa học của các chương trình, dự án là yếu tố quan trọng bảo đảm

thành công của chúng. Để bảo đảm tính khoa học của chương trình, dự án, việc

154

hoạch định không được xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà quản lý, mà

phải căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế, chiến lược phát triển của đất nước.

Các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thường có phạm

vi ảnh hưởng lớn, có quan hệ tới nhiều lĩnh vực. Nếu thực hiện thành công, các

chương trình, dự án này sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ngược

lại, nếu thất bại, cái giá phải trả cũng không nhỏ. Do đó, việc hoạch định các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm phải rất công phu, cẩn trọng.

Để nâng cao chất lượng hoạch định, phải tập hợp được các chuyên gia

hàng đầu của đất nước, thậm chí cả các chuyên gia nước ngoài về các lĩnh vực

liên quan đến chương trình, dự án. Đồng thời, các chương trình, dự án phải

được phản biện, thẩm định công phu, nghiêm túc.

Mỗi chương trình, dự án cần có những cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm

đến cùng.

3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách

đối với hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án

kinh tế trọng điểm

Kết quả nghiên cứu ở Chương 2 đã chỉ ra rằng, trong số các nguyên nhân

làm hạn chế hiệu quả của hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn, dự án kinh tế trọng điểm, trước hết và chiếm tỷ trọng lớn nhất chính là

nguyên nhân về phía khung pháp lý, cơ chế chính sách đối với hoạt động TD

ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn nhiều bất

cập.

Trên cơ sở xác định TDĐTPT, đặc biệt là TDĐTPT cho các chương trình

kinh tế lớn, các dự án kinh tế trọng điểm là cần thiết và có ý nghĩa lâu dài đối

với nền kinh tế và là công cụ của Chính phủ thực hiện mục tiêu CNH, HĐH,

thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ,

trong thời gian tới, đối với khung pháp lý, cơ chế, chính sách cho hoạt động TD

ĐTPT cần tập trung vào hai vấn đề cơ bản là (i) xây dựng và hoàn thiện khung

pháp lý chung về hoạt động TD ĐTPT và TD ĐTPT cho các chương trình kinh

155

tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm; (ii) đổi mới và hoàn thiện các cơ chế, chính

sách trong hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm.

3.3.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý chung cho hoạt động TDĐTPT và TD

ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

Hoạt động TD ĐTPT, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án

kinh tế trọng điểm từ năm 2000 đến nay được điều chỉnh bởi các văn bản ở tầm

nghị định của Chính phủ và một số quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Quy

định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan thực thi chính sách TDĐTPT

của nhà nước ở Việt Nam (hiện nay là NHPT) được quy định tại các Quyết định

của Thủ tướng Chính phủ.

Một mặt, quy định tại các văn bản này, nhất là các quy định tại các quyết

định của Thủ tướng Chính phủ có ưu điểm là điều chỉnh kịp thời, nhanh chóng

hơn so với quy trình ban hành nghị định, pháp lệnh hoặc luật. Mặt khác, tính

pháp lý không cao của các văn bản này so với các văn bản như nghị định, pháp

lệnh hoặc luật về hoạt động ngân hàng và các lĩnh vực chuyên ngành khác có

liên quan đến hoạt động cho vay TD ĐTPT như Bộ luật dân sự, Luật đầu tư,

Luật xây dựng, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật đấu thầu, Luật ngân sách nhà

nước, Luật tài nguyên, khoáng sản, môi trường, bảo hiểm, phòng cháy chữa

cháy…dễ dẫn đến các xung đột pháp lý, chồng chéo, thậm chí trái chiều, làm

giảm hiệu lực, hiệu quả của các quy định về hoạt động cho vay TD ĐTPT, làm

tăng tính rủi ro trong hoạt động cho vay TD ĐTPT.

Kết quả khảo sát kinh nghiệm hoạt động tín dụng chính sách ở một số

nước trên thế giới được trình bày ở Chương 1 cũng đã cho thấy, hầu hết các

nước trong đó kể cả các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Nhật Bản,

Đức, Hàn Quốc, các nước đang phát triển có nền kinh tế thị trường như Thái

Lan, Indonesia, Philippines hoặc các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Nga,

Trung Quốc...đều có đạo Luật đặc biệt riêng để điều chỉnh hoạt động tín dụng

này (thường được biết đến dưới các tên gọi như tín dụng chính sách, tài trợ

156

chính sách, tài trợ phát triển) cũng như điều chỉnh hoạt động của các định chế

thực thi hoạt động tín dụng này.

Khung pháp lý cho hoạt động của tổ chức thực thi chính sách TDĐTPT ở

Việt Nam hiện nay như nêu trên là phù hợp với thời gian đầu. Tuy nhiên, tính

đến nay, thời gian triển khai hoạt động tín dụng này ở Việt Nam đã được gần 15

năm. Cho đến nay, có thể tiến hành tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và thực tiễn

hoạt động tín dụng này thời gian qua để thiết kế, xây dựng khung khổ pháp lý

phù hợp cho hoạt động tín dụng này.

Chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020 và

tầm nhìn đến năm 2030 cũng đã ghi nhận sự cần thiết phải nghiên cứu xây dựng

luật riêng áp dụng cho các ngân hàng chính sách trong đó có Ngân hàng Phát

triển Việt Nam [77].

Do vậy, để hoạt động TD ĐTPT ở Việt Nam ổn định, đáp ứng yêu cầu

điều hành vĩ mô nền kinh tế, đồng thời đảm bảo khung pháp lý về TDĐTPT có

tính pháp lý cao, đồng bộ với khung pháp lý về hoạt động của các tổ chức tín

dụng và việc giám sát hoạt động ngân hàng như Luật Ngân hàng nhà nước, Luật

các TCTD, Luật đầu tư công và các văn bản luật khác…cần thiết phải xây dựng

một văn bản ở tầm luật hoặc pháp lệnh để điều chỉnh thống nhất, có hiệu lực

cao đối với hoạt động TD ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Theo đó, trong giai đoạn 2015 - 2020 cần

nghiên cứu, xây dựng và trình Quốc hội thông qua một luật hoặc pháp lệnh về

hoạt động TDĐTPT của nhà nước, điều chỉnh hoạt động TDĐTPT của nhà

nước và hoạt động của tổ chức thực hiện chính sách TDĐTPT của nhà nước ở

Việt Nam.

Trước mắt, đối với quy định về địa vị pháp lý và quy định về tổ chức

hoạt động của tổ chức thực hiện TD ĐTPT của nhà nước cho các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, cần thiết phải xây dựng và ban hành một

văn bản pháp lý ở tầm nghị định quy định về tổ chức và hoạt động của tổ chức

thực hiện TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

nhằm đảm bảo tuân thủ quy định tại Luật các TCTD 2010, có hiệu lực thi hành

157

từ 01/01/2011, quy định về Ngân hàng chính sách có nêu: “1. Chính phủ thành

lập ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm thực

hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. 2. Chính phủ quy định về tổ

chức và hoạt động của ngân hàng chính sách” [57].

3.3.2.2. Hoàn thiện chính sách về TDĐTPT nói chung, chính sách TD ĐTPT

cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng

* Đối tượng cho vay

Về nguyên tắc, phạm vi, đối tượng vay vốn TDĐTPT cần từng bước cơ

cấu lại theo hướng trọng tâm, trọng điểm hơn, phù hợp với định hướng phát

triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Vốn TDĐTPT tham gia cùng vốn NSNN

tập trung phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu, khả năng thu hồi vốn thấp, rủi ro

cao, cần thiết có sự hỗ trợ của Nhà nước; các dịch vụ công quan trọng, một số

ngành sản xuất then chốt, đóng vai trò chủ đạo và những lĩnh vực mà tư nhân

không thể hoặc chưa thể thực hiện được.

Phát huy vai trò định hướng, dẫn dắt của đầu tư nhà nước, trong đó có

TDĐTPT để thu hút nguồn lực xã hội tham gia đầu tư phát triển kinh tế xã hội.

Coi vốn đầu tư nhà nước, bao gồm vốn TDĐTPT có chức năng là “vốn mồi” để

thu hút các nguồn lực xã hội, đầu tư của tư nhân và các thành phần kinh tế khác

vào tham gia nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế, đặc biệt là hệ thống giao thông,

đảm bảo phục vụ tốt các đột phá chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế

xã hội giai đoạn 2011-2020

Từ đó, giải pháp hoàn thiện chính sách TD ĐTPT cho các chương trình

kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm về đối tượng cho vay trong thời gian tới là:

Một là, cần thể hiện một cách rõ ràng, tập trung hơn các định hướng

chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo theo các ngành, lĩnh vực được xem là

quan trọng, các vùng cần ưu tiên, khuyến khích đầu tư.

Hai là, cơ cấu lại đối tượng vay vốn TDĐTPT theo hướng tập trung vào

các dự án lớn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác được các lợi thế

cạnh tranh theo vùng, miền; tập trung vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, hạ tầng

158

giao thông (đường bộ, đường sắt, sân bay, cảng biển…), năng lượng (trong đó

ưu tiên năng lượng sạch: điện gió, địa nhiệt, điện mặt trời…), công nghiệp cơ

khí trọng điểm, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp vật liệu mới, các chương trình

kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ, bám

biển, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, các chương trình hỗ trợ y tế, giáo

dục, cấp nước sạch, xử lý rác thải…

Tuy nhiên, cần lưu ý, để tránh tình trạng dàn trải nguồn vốn như hiện

nay, cơ cấu đối tượng vay vốn nêu trên nhất thiết phải được lựa chọn, phân định

theo từng giai đoạn, thể hiện được tính ưu tiên cao, tập trung trong từng thời kỳ

phát triển kinh tế - xã hội.

Ba là, Danh mục đối tượng vay vốn cần ổn định tương đối theo chu kỳ

phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm, đảm bảo tính khả thi

trong xây dựng dự án của chủ đầu tư, kế hoạch huy động vốn và cho vay của cơ

quan cho vay và đạt được mục tiêu hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội quốc gia

trong từng thời kỳ.

* Lãi suất cho vay

Qua nhiều lần sửa đổi, đến nay mức lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư đã

đi từ chỗ được quy định cố định, chuyển dần sang có sự tham khảo lãi suất bình

quân thị trường lãi suất của các ngân hàng thương mại, tới chỗ căn cứ vào lãi

suất trái phiếu Chính phủ và cuối cùng, hiện nay là căn cứ vào mức bình quân

các nguồn vốn huy động của NHPTVN cộng với phí hoạt động của NHPTVN.

Đồng thời, liên tục 12 năm qua, từ năm 2000 đến hết năm 2011, đối tượng được

vay vốn TD ĐTPT được hưởng lãi suất ưu đãi theo hợp đồng tín dụng ký lần

đầu và duy trì trong suốt thời hạn vay vốn. Từ năm 2012, lãi suất đã được điều

chỉnh theo từng lần giải ngân với lãi suất được công bố trong cùng thời kỳ.

Trong thời gian tới, để đảm bảo sự chủ động hơn trong việc quyết định

lãi suất cho vay, trong thời gian tới, mức lãi suất cho vay nên sửa đổi theo

hướng, trên cơ sở lãi suất sàn do Bộ tài chính ban hành, NHPT được chủ động

quyết định lãi suất theo hướng thị trường, quyết định mức lãi suất cho vay trên

cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng và rủi ro của dự án; đảm bảo

159

có sự ưu đãi nhưng vẫn có sự linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường.

NHPTVN sẽ được chủ động quyết định tài trợ cho các dự án vay vốn TDĐTPT

với các mức lãi suất đảm bảo bù đắp được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt

động và phí bảo hiểm rủi ro dựa trên nguyên tắc thị trường, hướng tới giảm dần

sự cấp bù của NSNN.

*Huy động và sử dụng vốn

Trong giai đoạn 2011-2015, ngoài số thu hồi nợ vay, mỗi năm NHPT

phải huy động thêm từ thị trường tối thiểu 60.000 tỷ đồng để đảm bảo tăng

trưởng tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước mỗi năm ở mức 10%/.

Nếu tính thêm cả số vốn để thực hiện các nhiệm vụ khác Thủ tướng Chính phủ

giao, số vốn NHPT phải huy động thêm mỗi năm bình quân ở mức 75.000 tỷ

đồng. Theo tính toán của NHPT, trong giai đoạn 2011-2015, mỗi năm NSNN sẽ

phải tiếp tục dành tối thiểu 1.500 – 2.000 tỷ đồng để cấp bù chênh lệch lãi suất

đối với số vốn cho vay tín dụng NHPT đã cam kết đến nay đang thực hiện theo

cơ chế lãi suất thấp và cố định. Trong tương lai, sự hỗ trợ của Chính phủ đối

với NHPT chủ yếu là hỗ trợ vốn điều lệ cấp ban đầu, Chính phủ bảo lãnh huy

động vốn nước ngoài, bảo đảm khả năng thanh toán nhằm đảm bảo một nguồn

vốn ổn định và dài hạn với chi phí hợp lý.

Vì vậy, để giải quyết bài toán vốn cho TDĐTPT, Nhà nước cần tăng dần

tỷ trọng vốn điều lệ của NHPT trong tổng nguồn vốn hoạt động ở mức tối thiểu

15% để đảm bảo khả năng tài chính và an toàn thanh khoản, nhằm hỗ trợ được

các dự án quy mô ngày càng lớn, thời hạn dài theo chủ trương của Chính phủ.

Để giảm bớt chênh lệch kỳ hạn vốn – sử dụng vốn, NHPT cần được phép

phát hành trái phiếu 15 năm. Đồng thời, để tăng cường nguồn vốn trong và

ngoài nước, NHPT cần được phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ hoặc vay vốn

nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Cơ cấu lại nguồn vốn và sử dụng vốn

theo hướng đảm bảo vững chắc cân đối vốn – sử dụng vốn.

NHPT được chủ động huy động vốn theo kế hoạch hàng năm được cấp

có thẩm quyền phê duyệt nhằm huy động đủ vốn cho vay. NHPT tự chịu trách

160

nhiệm cân đối vốn và được quyết định về hình thức, khối lượng, kỳ hạn và lãi

suất huy động vốn theo quy định của pháp luật.

Chính phủ ưu tiên nguồn vốn ODA và các nguồn vốn trung và dài hạn,

điều kiện ưu đãi giao cho NHPT thực hiện cho vay các chương trình, dự án

phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo quy định.

Từng bước huy động vốn thương mại trên thị trường quốc tế thông qua

các hình thức huy động theo quy định của pháp luật.

NHPT được tham gia thị trường liên ngân hàng, thị trường mở tương tự

như các tổ chức tín dụng khác theo quy định của ngân hàng nhà nước.

3.3.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động, tổ chức thực hiện và

quản lý TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng

điểm

3.3.3.1. Hoàn thiện mô hình quản trị, tổ chức thực hiện

Cần chú trọng, quan tâm đến công tác quản trị ngân hàng theo hướng

hiện đại và chuyên nghiệp, trong đó trọng tâm hai khâu then chốt là phát triển

nguồn nhân lực và công nghệ thông tin.

Nhằm tăng cường công tác quản lý, tổ chức thực hiện tốt công tác quản

lý tín dụng, cho vay TDĐTPT của Nhà nước, hoạt động quản trị và tổ chức bộ

máy của tổ chức thực hiện TDĐTPT của Nhà nước – NHPTVN – cần được

thực hiện theo hướng:

- Sửa đổi Điều lệ tổ chức và hoạt động của NHPTVN (ban hành theo

Quyết định số 110/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006) theo hướng tăng tính tự chủ,

tự chịu trách nhiệm, đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, minh bạch, rõ ràng về trách

nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ trong việc huy động vốn, quản lý, sử dụng vốn.

- Hoạt động, tổ chức bộ máy của NHPT cần được sắp xếp lại, hoàn thiện

theo hướng:

+ Tổ chức lại Hội đồng quản lý thành Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng

thành viên và Ban kiểm soát phù hợp với nguyên tắc quản trị doanh nghiệp, bảo

161

đảm đủ thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, hoạt động

theo Điều lệ và quy định của pháp luật.

+ Hoàn thiện cơ chế và tăng cường năng lực của hệ thống kiểm tra, kiểm

soát nội bộ và Ban kiểm soát.

+ Tổ chức bộ máy quản trị nội bộ phù hợp với thông lệ ngân hàng và các

nguyên tắc quản trị doanh nghiệp.

+ Bộ máy hệ thống NHPT được sắp xếp lại theo hướng tinh, gọn: tổ

chức lại bộ máy ở Hội sở chính, các chi nhánh được tổ chức theo mô hình khu

vực. Đến sau năm 2015 toàn hệ thống có 44-45 chi nhánh đầu mối; đến sau năm

2020 còn khoảng 30-35 chi nhánh đầu mối. Không thành lập thêm chi nhánh,

phòng giao dịch.

+ Tập trung làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, quy hoạch,

bổ nhiệm. Có chế tài xử lý nghiêm minh các trường hợp cán bộ, tổ chức có vi

phạm về kỷ luật tài chính, vi phạm pháp luật.

+ Không thực hiện góp vốn thành lập mới doanh nghiệp.

+ Đối với Tổng công ty phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Việt Nam

(Vidifi): sau khi hoàn thành dự án sẽ có phương án tái cơ cấu để thực hiện

nhiệm vụ quản lý, khai thác (hoặc sắp xếp lại tùy theo nhiệm vụ được giao).

- Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán phù hợp với

trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam và các chuẩn mực, thông

lệ quốc tế. Phát triển, ứng dụng các mô thức quản lý nghiệp vụ ngân hàng cơ

bản theo hướng hiện đại, tự động hóa và được tích hợp trong hệ thống quản trị

ngân hàng hoàn chỉnh và tập trung (triển khai core-banking).

3.3.3.2. Hoàn thiện cơ chế tài chính của NHPT

Cơ chế tài chính của NHPT cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo

hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giảm dần cấp bù của NSNN.

Xây dựng lộ trình tăng vốn điều lệ phù hợp dựa trên hệ số CAR theo quy

định tương tự đối với tổ chức tín dụng. Nguồn vốn tăng vốn điều lệ bao gồm

vốn NSNN và các nguồn vốn tích lũy của NHPT theo quy định.

162

Xác định hệ số giữa huy động/vốn chủ sở hữu, theo đó vốn chủ sở hữu

được xác định tối thiểu bằng 10% dư nợ bình quân tín dụng giai đoạn 2011-

2015. Trước mắt, trong giai đoạn 2013-2015, hệ số CAR phải đạt tối thiểu là

9%. Mức vốn điều lệ tối thiểu đến năm 2015 khoảng 20.000 tỷ đồng và đến sau

năm 2020 đạt 30.000 tỷ đồng.

Hoàn thiện chế độ tài chính và chế độ hạch toán kế toán, trong đó xác

định lại mức phí quản lý phù hợp hơn, tăng cường tạo nguồn để tăng quỹ dự

phòng rủi ro, hạch toán kế toán theo phương pháp dồn tích, đảm bảo phản ánh

đúng và đầy đủ các dòng thu nhập – chi phí theo thông lệ hoạt động ngân hàng.

Trong giai đoạn 2013-2015, thực hiện cơ chế khoán tài chính theo

nguyên tắc: ổn định trong một thời kỳ nhất định, trong đó phản ánh chính xác

trung thực tình hình tài chính của ngân hàng, vừa gắn với quy mô cho vay, vừa

gắn với chỉ tiêu chất lượng hiệu quả. Xây dựng phương án chi trả tiền lương để

đảm bảo chế độ đối với người lao động, tạo động lực nâng cao hiệu quả công

việc và yên tâm gắn bó với ngành.

3.3.3.3. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro, hoàn thiện cơ chế phân loại nợ,

trích lập dự phòng và xử lý rủi ro

- Xây dựng cơ chế phân loại nợ phù hợp với đặc thù hoạt động của ngân

hàng chính sách trong lĩnh vực tài trợ đầu tư phát triển, đảm bảo đánh giá đúng

chất lượng các khoản tín dụng.

- Về trích lập dự phòng rủi ro: Do đặc thù đối tượng vay tập trung vào

vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, dự án có quy mô lớn và thời hạn cho vay dài,

vì vậy việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo tiêu chí như các ngân

hàng thương mại sẽ không phù hợp với đặc thù NHPT. Nếu thực hiện trích lập

dự phòng rủi ro như các ngân hàng thương mại sẽ dẫn tới không đủ nguồn để

trích và NSNN cũng khó có đủ nguồn để bù đắp ngay.

Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ nên giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

phối hợp với Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn riêng về cơ chế phân loại nợ áp

dụng đối với NHPT, phù hợp với đặc thù hoạt động của NHPT chủ yếu cho vay

163

dài hạn. Việc trích lập dự phòng sẽ thực hiện đồng bộ với cơ chế phân loại nợ

này.

- Trong giai đoạn trước mắt, thu chi tài chính của NHPT còn tiếp tục mất

cân đối do thực hiện chính sách, không vì mục tiêu lợi nhuận nên chưa thể áp

dụng cơ chế trích lập dự phòng rủi ro như các NHTM. Do đó, cần xác định cơ

chế trích lập dự phòng rủi ro phù hợp.

Trong tương lai, NHPT sẽ thực hiện cơ chế phân loại nợ và trích dự

phòng rủi ro tương tự như các NHTM khi đủ điều kiện.

Trước mắt, nâng tỷ lệ dự phòng rủi ro từ 0,5% lên 1% dư nợ để tăng

nguồn bù đắp tổn thất, rủi ro trong quá trình cho vay.

Mức trích sẽ thực hiện tăng dần, phù hợp với khả năng tài chính và sự hỗ

trợ của NSNN. Phấn đấu đến năm 2020, thực hiện việc trích lập dự phòng rủi ro

tương tự như các NHTM.

- NHPT được chủ động sử dụng Quỹ dự phòng rủi ro để chuyển các

khoản nợ thuộc diện xử lý rủi ro từ trong bảng cân đối sang theo dõi ngoại

bảng, phù hợp với thông lệ ngân hàng, đẩy nhanh tiến độ lành mạnh hóa tài

chính của NHPT. Việc xóa nợ đối với khách hàng thực hiện theo quy chế do

Thủ tướng Chính phủ ban hành.

- Nghiên cứu cơ chế để phân cấp cho NHPT thẩm quyền xử lý rủi ro,

theo đó, NHPT được xem xét quyết định xử lý gia hạn nợ, khoanh nợ, giảm lãi.

Việc xóa nợ gốc liên bộ Tài chính - Ngân hàng – Kế hoạch và đầu tư đánh giá

tình hình trình Thủ tướng xem xet, quyết định. Được phép áp dụng các biện

pháp bán nợ, bán tài sản thế chấp để xử lý thu hồi nợ vay.

3.3.3.4. Hoàn thiện cơ chế và tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát

- Xác định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu với Nhà nước tại NHPT

theo đó xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,

các bộ, ngành (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam…) trong việc quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.

164

- Xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát của các Bộ, ngành phù hợp với

mô hình, hoạt động đặc thù của NHPT theo đó, Bộ Tài chính thực hiện kiểm

tra, giám sát, quản lý nhà nước về tài chính; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

thực hiện chức năng quản lý giám sát về tín dụng và thanh toán; Bộ Kế hoạch

và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý giám sát về đầu tư phát triển; Bộ Lao

động – Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền

lương và lao động.

- Nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và

hệ thống kiểm soát nội bộ. Tăng cường sự kiểm tra giám sát của các bộ, cơ

quan liên quan bao gồm: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam.

- Hoàn thiện mô hình quản trị và tổ chức bộ máy phù hợp với tính chất

đặc thù của ngân hàng chính sách. Chuẩn hóa và chuyên nghiệp đội ngũ cán bộ

phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm soát và phân

tích, cảnh báo rủi ro; đồng thời tăng cường kiểm tra giám sát của cơ quan quản

lý nhà nước; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân

hàng nhằm hỗ trợ tốt nhất công tác vận hàng, kiểm tra, giám sát hoạt động của

hệ thống NHPT.

- Thực hiện mô hình Hội đồng thành viên để quản trị đối với hoạt động

của NHPT như một tổ chức tín dụng 100% vốn chủ sở hữu của Nhà nước, theo

đó: xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng thành viên, Ban kiểm

soát, Ban điều hành và các bộ phận trong hệ thống NHPT. Hoàn thiện hệ thống

kiểm tra, kiểm soát nội bộ, thống nhất về tổ chức và hoạt động, phối hợp chặt

chẽ giữa Ban kiểm soát với hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ.

- Hoàn thiện mô hình tổ chức, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động

của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ.

- Nghiên cứu, xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm và phương án xử

lý đối với từng loại hình rủi ro.

***

165

*** ***

Trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới, TD ĐTPT cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở nước ta vẫn rất cần thiết. Để sử

dụng nguồn vốn này có hiệu quả, việc quán triệt những quan điểm đã nêu là hết

sức cần thiết. Những quan điểm đó cần được triển khai thông qua việc thực hiện

đồng bộ một loạt các giải pháp. Chắc chắn rằng, việc thực hiện các quan điểm

và giải pháp đã nêu sẽ làm cho TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự

án kinh tế trọng điểm thật sự là công cụ hiệu quả để phát triển kinh tế - xã hội

trên đất nước ta.

166

KẾT LUẬN

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại đã

được thừa nhận rộng rãi. Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm khắc phục

các khuyết tật của nền kinh tế thị trường, giúp nền kinh tế vận hành trơ tru, ổn

định, phát triển cân đối, hợp lý, bền vững.

TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

được xác định là giải pháp quan trọng khai thác các nguồn vốn trong xã hội cho

đầu tư phát triển và được sử dụng làm công cụ tham gia điều tiết vĩ mô nhằm

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong từng thời kỳ.

Do các nguồn lực có hạn và yêu cầu của các quy luật thị trường, hiệu quả

hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

cần được đặc biệt quan tâm. Hiệu quả của hoạt động này cần được đo lường

bằng các thước đo hiệu quả kinh tế - xã hội, bằng sự đóng góp của các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã

hội quốc gia; bằng hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động của tổ chức cho

vay với tư cách là công cụ của Chính phủ trong thực hiện hoạt động TD ĐTPT

cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.

Trong thời gian qua, hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế

lớn và dự án kinh tế trọng điểm thực hiện ở Việt Nam đã thực sự có những

đóng góp đáng kể cho nền kinh tế thông qua các chỉ tiêu huy động vốn đáp ứng

cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội quốc gia; góp phần gia tăng giá trị

tài sản cố định, tăng cường cơ sở vật chất cho nền kinh tế, đóng góp vào phát

triển các ngành, lĩnh vực công nghiệp then chốt của nền kinh tế, hỗ trợ phát

triển khu vực nông nghiệp, nông thôn, phát triển các địa bàn có điều kiện kinh

tế - xã hội khó khăn, đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, đầu tư vào các lĩnh vực

khó thu hồi vốn nhằm khắc phục các khuyết tật thị trường, đảm bảo an sinh xã

hội…

Bên cạnh đó, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế

trọng điểm có không ít hạn chế, nhiều vấn đề nảy sinh. Tham vọng gia tăng quy

mô cung ứng vốn, cấp tín dụng chỉ định vào nền kinh tế thông qua các chương

167

trình kinh tế, dự án trọng điểm để thực thi các kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội của Chính phủ đã mâu thuẫn với khả năng hấp thụ, sử dụng vốn của các chủ

đầu tư, doanh nghiệp được tài trợ vốn; yêu cầu tổ chức, quản lý và điều hành

hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm

một cách bài bản, thận trọng, an toàn hệ thống mâu thuẫn với thực tiễn mở rộng

tràn lan đối tượng cho vay, chạy theo đáp ứng các yêu cầu mang tính ngắn hạn,

thời vụ của nền kinh tế; đòi hỏi về hiệu quả của hoạt động TD ĐTPT cho các

chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm mâu thuẫn với sự lạc hậu về

mô hình tổ chức, bộ máy quản lý, khả năng đáp ứng, trình độ, năng lực tổ chức,

quản lý, trình độ cán bộ và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin… của tổ chức cho

vay.

Trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới, TD ĐTPT cho các chương

trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam vẫn rất cần thiết. Để

nâng cao tính hiệu quả và bền vững của hoạt động này, cần phải thực hiện

nghiêm túc và đồng bộ 3 quan điểm và hàng loạt các giải pháp, xuất phát từ

khung khổ lý luận và thực tiễn của đất nước.

Với những kinh nghiệm thành công và cả những hạn chế yếu kém đã

được phân tích kỹ càng, chắc chắn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn,

dự án kinh tế trọng điểm trong những năm tới sẽ đạt hiệu quả cao hơn, đóng

góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước to lớn hơn./.

168

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nghị định số 75/2011/NĐ-CP: Đổi mới về tín dụng đầu tư và xuất khẩu,

Tạp chí Tài chính, số 10 (564), 2011.

2. Tái cơ cấu đầu tư công: Nhìn từ vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà

nước, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 23 (559), 2013.

3. Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các

chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế

169

Châu Á – Thái Bình Dương, số 415, 2013.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TIẾNG VIỆT

1. Vũ Mạnh Bảo (2011), Tín dụng nhà nước đối với phát triển kinh tế các tỉnh Tây

Nguyên, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ

Chí Minh.

2. Thái Bá Cẩn (2002), Khai thác nguồn vốn tín dụng nhà nước ưu đãi cho đầu tư

phát triển, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

3. Thái Bá Cẩn – Lê Xuân Hiếu (2001), Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý

tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ,

Viện Nghiên cứu tài chính, Bộ Tài chính, Hà Nội.

4. Chính phủ (1994), Nghị định số 117/CP ngày 07/11/1994 về Điều lệ quản lý

xây dựng cơ bản.

5. Chính phủ (1994), Nghị định số 187/CP ngày 10/12/1994 về nhiệm vụ, quyền

hạn và tổ chức bộ máy Tổng cục Đầu tư phát triển.

6. Chính phủ (1995), Nghị định số 29/CP ngày 12/05/1995 quy định chi tiết thi

hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994).

7. Chính phủ (1999), Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước.

8. Chính phủ (1999), Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 về tổ chức và

hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển.

9. Chính phủ (2000), Nghị quyết số 15/2000/NQ-CP ngày 06/10/2000 về một số

chủ trương và giải pháp tiếp tục khắc phục hậu quả lũ lụt, sớm ổn định đời

sống nhân dân, xử lý kịp thời những vấn đề mới nảy sinh nhằm đảm bảo yêu

cầu phát triển nhanh và bền vững về kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu

Long.

10. Chính phủ (2004), Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 01/4/2004 về tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước.

11. Chính phủ (2006), Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín dụng

170

đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.

12. Chính phủ (2008), Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 17/9/2008 sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín

dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.

13. Chính phủ (2011), Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 về tín dụng

đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.

14. Chính phủ (2002-2012), Báo cáo của Chính phủ về tình hình, nhiệm vụ và kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm tại các kỳ họp Quốc hội, trong các

năm 2002-2012.

15. Chính phủ (2006), Báo cáo về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-

2010 tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XII.

16. Chính phủ (2009), Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lý

đầu tư xây dựng công trình.

17. Chính phủ (2012), Báo cáo Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển

đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng

lực cạnh tranh, Báo cáo số 110/BC-CP ngày 17/5/2012 tại Kỳ họp thứ 3,

Quốc hội khóa XIII.

18. Mai Ngọc Cường (2005), Lịch sử các học thuyết kinh tế: Cấu trúc hệ thống –

Bổ sung – Phân tích và nhận định mới, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà

Nội.

19. Lê Quang Cường (2007), Hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng Nhà

nước bằng trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học

Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh.

20. Nguyễn Quang Dũng (2011), “Ngân hàng Phát triển Việt Nam đóng góp tích

cực cho phát triển kinh tế, Báo Điện tử Chính phủ, 19/05/2011.

21. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số vấn đề

phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Các nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban

chấp hành Trung ương Khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 46/NQ-TW của Bộ Chính trị về

171

công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

25. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, Trường Đại học Kinh tế

quốc dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

28. Trần Công Hoà (2007), Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát

triển của nhà nước, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân,

Hà Nội.

29. Hội đồng Bộ trưởng (1990), Nghị định số 385-HĐBT ngày 7/11/1990 sửa đổi,

bổ sung, thay thế Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản đã ban hành kèm theo Nghị

định số 232-CP ngày 6/6/1981.

30. Doãn Hùng – Nguyễn Ngọc Hà – Đoàn Minh Huấn (2007), Đảng Cộng sản

Việt Nam – Những tìm tòi và đổi mới trên con đường lên chủ nghĩa xã hội

(1986-2006), Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.

31. Nguyễn Ngọc Hùng (1998), Lý thuyết tài chính tiền tệ, Trường Đại học Kinh

tế, ĐHQG TP Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Thống kê, TP HCM.

32. Takatoshi Ito (2002), “Tăng trưởng, khủng hoảng và tương lai phục hồi kinh tế

ở Đông Á”, Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,

Hà Nội, tr.71-121.

33. Lê Hải Mơ (2014), “Tái cơ cấu đầu tư công và nợ công”, Giải pháp tái cơ cấu

đầu tư công trong khuôn khổ đổi mới mô hình tăng trưởng, Hội thảo do Viện

Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương tổ chức ngày 7/11/2014, Hà Nội.

34. Trương Thị Hoài Linh (2010), Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng

Phát triển Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc

dân, Hà Nội.

35. Đỗ Thị Trà Linh (2011), “Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước cho các dự án

nhóm A: nguồn vốn quan trọng tạo ra năng lực mới cho nền kinh tế”, Đặc san

Tài trợ dự án (01), tr.6-8.

36. Đỗ Thị Trà Linh – Trần Việt Hải (2011), “Gần 40.000 tỷ đồng vốn ĐTPT của

nhà nước cho các dự án ngành năng lượng”, Đặc san Tài trợ dự án (01), tr.9-

172

11.

37. Frederic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà

xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

38. Ngân hàng Thế giới (1997), Sự thần kỳ Đông Á – tăng trưởng kinh tế và chính

sách công cộng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi –

Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

40. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2007), Báo cáo đánh giá công tác xử lý nợ

vay các dự án thuộc Chương trình đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt và dịch vụ

đánh bắt hải sản xa bờ, Quảng Nam, tháng 10/2007.

41. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động

(2006-2011), Chiến lược phát triển đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.

42. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2006-2013), Báo cáo tổng kết hàng năm giai

đoạn 2006-2013.

43. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2011), “Thông tin các dự án năng lượng sử

dụng vốn ĐTPT của Nhà nước do Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện”,

Đặc san Tài trợ dự án (01), tr.14-23.

44. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), “Chương trình kiên cố hóa kênh

mương thúc đẩy CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn”, Đặc san Tài trợ dự án

(06), tr.54-57.

45. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), “Một số dự án vay vốn TD ĐT của

Nhà nước phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”, Đặc san Tài trợ dự án

(03), tr.14-19.

46. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), “Chương trình giảm tải 18 bệnh viện

tuyến cuối và hiệu quả thiết thực của nguồn vốn tín dụng nhà nước”, Đặc san

Tài trợ dự án (06), tr.96-98.

47. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), Báo cáo số 1849/NHPT-CSPT ngày

08/06/2012 gửi Văn phòng Chính phủ v/v chuẩn bị nội dung trả lời chất vấn

Quốc hội.

48. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), Báo cáo hoạt động của NHPT giai

173

đoannj 2006-2011, dự kiến thực hiện nhiệm vụ 2012 và Chiến lược phát triển

đến năm 2020, Tài liệu báo cáo Ban Thường vụ Đảng ủy Khối DNTW, Thanh

Hóa, ngày 08/09/2012.

49. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), Báo cáo hoạt động của NHPT và định

hướng chiến lược đến năm 2020, Tài liệu báo cáo Ban Tuyên giáo Đảng ủy

Khối DNTW và các cơ quan báo chí, Hà Nội, 01/10/2012.

50. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1994), Luật Khuyến khích đầu tư

trong nước ngày 22/6/1994.

51. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1997), Nghị quyết số

05/1997/QH10 ngày 29/11/1997 về tiêu chuẩn các công trình quan trọng quốc

gia trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư.

52. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Doanh nghiệp số

60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.

53. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Đầu tư số

59/2005/QH11 ngày 29/11/2005.

54. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2007), Luật ngân sách nhà nước

ngày 16/12/2002.

55. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2009), Luật quản lý nợ công số

29/2009/QH12 ngày 17/6/2009

56. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2010), Nghị quyết số

49/2010/QH12 ngày 19/06/2010 về dự án, công trình quan trọng quốc gia

trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư.

57. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2011), Luật các tổ chức tín dụng

số 47/2010/QH12, ngày 16/6/2010.

58. Tô Huy Rứa – Hoàng Chí Bảo – Trần Khắc Việt – Lê Ngọc Tòng (2006), Quá

trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

59. Joseph E.Stiglizt (2002), “Từ thần kỳ, qua khủng hoảng, đến phục hồi: Bài học

từ bốn thập kỷ kinh nghiệm của Đông Á”, Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.639-661.

60. Thanh tra Chính phủ (2012), Thông báo kết luận thanh tra số 3212/TB-TTCP

ngày 04/12/2012 về việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Ngân hàng Phát

174

triển Việt Nam.

61. Vũ Nhữ Thăng (2010), “Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011-

2020”, Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và

tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam, Hội thảo do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

– Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức ngày 28-29/12/2010, Huế.

62. Thủ tướng Chính phủ (1995), Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 09/12/1995 về

việc thành lập Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia.

63. Thủ tướng Chính phủ (1997), Quyết định số 393/QĐ-TTg ngày 09/06/1997 về

việc ban hành Quy chế Quản lý và sử dụng vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch

nhà nước cho các dự án đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh

bắt hải sản xa bờ.

64. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 66/2000/QĐ-TTg ngày 13/06/2000

về một số chính sách và cơ chế tài chính thực hiện Chương trình kiên cố hóa

kênh mương.

65. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg ngày

07/09/2001 về cơ chế tài chính thực hiện Chương trình phát triển đường giao

thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở

nông thôn.

66. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001

về các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001 – 2005.

67. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 173/2001/QĐ-TTg ngày

06/11/2001 về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai

đoạn 2001 – 2005.

68. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 1548/QĐ-TTg ngày 05/12/2001 về

việc đầu tư tôn nền vượt lũ để xây dựng các cụm tuyến dân cư vùng ngập sâu

đồng bằng sông Cửu Long.

69. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 42/2002/QĐ-TTg ngày 19/03/2002

về quản lý và điều hành các chương trình mục tiêu quốc gia.

70. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg ngày

26/12/2002 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam

đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020.

71. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 89/2003/QĐ-TTg ngày 08/5/2003

175

về một số biện pháp xử lý nợ vay vốn đầu tư phát triển để đóng mới, cải hoán

tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ theo Quyết định số

393/QĐ-TTg ngày 09/06/1997, Quyết định số 159/1998/QĐ-TTg ngày

03/9/1998 và Quyết định số 64/2000/QĐ-TTg ngày 07/6/2000 của Thủ tướng

Chính phủ.

72. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày

19/05/2006 về việc thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

73. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 110/QĐ-TTg ngày 19/05/2006 về

việc phê duyệt Điều lệ hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

74. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 1151/QĐ-TTg ngày 26/08/2008

phê duyệt bổ sung các dự án đầu tư giai đoạn II thuộc Chương trình xây dựng

cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long.

75. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009

về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và Danh mục

các sản phẩm cơ khí trọng điểm, Danh mục dự án đầu tư sản xuất sản phẩm

cơ khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.

76. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 13/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009

77. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 về

việc phê duyệt Chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm

2012 và tầm nhìn đến năm 2030.

78. Thủ tướng Chính phủ (2014), Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn của Thủ

tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII.

79. Michael P.Todaro (1998), Kinh tế học cho thế giới thứ ba, Nhà xuất bản Giáo

dục, Hà Nội.

80. Nguyễn Chí Trang (2009), Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định dự

án đầu tư trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, Luận án

tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.

81. Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt 2005, NXB Đà Nẵng và Trung

tâm từ điển học, Hà Nội.

82. Shahid Yusuf (2002), “Sự thần kỳ Đông Á bên thềm thiên niên kỷ”, Suy ngẫm

lại sự thần kỳ Đông Á, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.1-69

83. Website: tinnhanhchungkhoan.vn/quoc-te/kinh-te-2015-my-mot-ben-va-phan-

176

con-lai-mot-ben-109545.html.

84. Website: tinnhanhchungkhoan.vn/quoc-te/kinh-te-2015-my-mot-ben-va-phan-

con-lai-mot-ben-109545.html.

85. Website:

hcmuaf.edu.vn/data//file/NVTU/Thuy%20San%20Dai%20Cuong/Tai%20lieu

%20doc%20them/2b_%20Cac%20Chuong%20trinh%20PTTS%20cua%20Bo

%20Thuy%20San%20%28cu%29.pdf

II. tμi liÖu tiÕng n−íc ngoμi

86. Association of Development Financing Institutions in Asia and the Pacific

(2001), Principles &Practices of Development Banking Volume 1.

87. Association of Development Financing Institutions in Asia and the Pacific

(2001), Principles &Practices of Development Banking Volume 2.

88. Nicholas Bruk (2001), “Development Banking Concept and Theory”,

Principles

&Practices of Development Banking Volume 1, pp.9-39.

89. William Diamond (2001), “Notes on Purposes and Strategies of Development

Banks”, Principles &Practices of Development Banking Volume 1, pp.41-60

90. Japan Economic Research Institute, Development Bank of Japan (1999),

Development banking in the new millenium.

91. Kazuyuki Mori (2001), “Development Financing in Japan: 50 – year

experience of the Development Bank of Japan”, Development Financing in

Asia& the Pacific - Its evolution & Impact, Association of Development

Financing Institutions in Asia and the Pacific Volume 2, pp.54-64.

92. Chen Yuan (2001), “Development Financing in China”, Development

Financing in Asia& the Pacific - Its evolution & Impact, Association of

Development Financing Institutions in Asia and the Pacific, Volume 2, pp.2-

177

29./.

PHỤ LỤC 01:

ĐỐI TƯỢNG CHO VAY VỐN TD ĐTPT QUA CÁC THỜI KỲ

(2000 – 2014)

1. PHỤ LỤC 1A: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong

giai đoạn 2000 – 2004 (quy định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP)

Đối tượng cho vay là các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp

(bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh nghiệp mới, cho vay đổi mới thiết bị công

nghệ mở rộng sản xuất) của các thành phần kinh tế, bao gồm:

1. Những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn theo quy định hiện hành của Chính

phủ về hướng dẫn thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) thuộc các

ngành sau đây :

a) Sản xuất điện; khai thác khoáng sản (trừ dầu khí, nước khoáng, vàng, đá quý);

hoá chất cơ bản; phân bón; thuốc trừ sâu vi sinh;

b) Chế tạo máy công cụ, máy động lực phục vụ nông nghiệp;

c) Xây dựng cơ sở chế biến : nông sản, lâm sản, thuỷ sản, xây dựng cơ sở làm muối;

d) Sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao động;

đ) Trồng rừng nguyên liệu tập trung; trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả;

e) Cơ sở hạ tầng về giao thông, cấp nước, nhà ở có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.

2. Các dự án nuôi trồng thuỷ hải sản, chăn nuôi bò sữa.

3. Các dự án thực hiện chủ trương của Chính phủ về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn

hoá, thể dục thể thao.

4. Các dự án có sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho vay lại.

5. Một số chương trình, dự án đầu tư khác theo Quyết định của Thủ tướng Chính

phủ.

178

2. PHỤ LỤC 1B: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong

giai đoạn 2004 – 2006 (quy định tại Nghị định số 106/2004/NĐ-CP)

STT

Các đối tượng vay vốn đầu tư

Địa bàn thực hiện

dự án

I- Các dự án cho vay đầu tư theo quy hoạch

được cấp có thẩm quyền phê duyệt:

01 Các dự án trồng rừng nguyên liệu giấy, bột giấy,

Địa bàn có điều kiện kinh

ván nhân tạo tập trung gắn liền với các doanh

tế-xã hội khó khăn theo

nghiệp chế biến.

danh mục B, C quy định của

Chính phủ về hướng dẫn thi

hành Luật Khuyến khích

đầu tư trong nước (sửa đổi),

sau đây gọi tắt là địa bàn B

và C.

02 Các dự án sản xuất giống gốc, giống mới sử

Không phân biệt địa bàn

dụng công nghệ cao.

03 Các dự án cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt.

Không phân biệt địa bàn

04 Các dự án đầu tư sản xuất và chế biến muối công

Không phân biệt địa bàn

nghiệp.

05 Các dự án đầu tư sản xuất kháng sinh.

Không phân biệt địa bàn

06 Các dự án đầu tư trường dạy nghề;

Khu vực nông thôn

07 Các dự án đầu tư nhà máy dệt, in nhuộm hoàn

Không phân biệt địa bàn

tất.

08

- Các dự án sản xuất phôi thép từ quặng, thép chuyên

Không phân biệt địa bàn

dùng chất lượng cao.

- Các dự án khai thác và sản xuất nhôm.

09

- Các dự án sản xuất ôtô chở khách loại 25 chỗ

Không phân biệt địa bàn

ngồi trở lên với tỷ lệ nội địa hoá tối thiểu 40%.

- Các dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt tại các cơ

sở sản xuất trong nước.

- Các dự án sản xuất và lắp ráp đầu máy xe lửa.

- Các dự án đầu tư nhà máy đóng tàu biển.

179

10 Các dự án sản xuất động cơ diesel loại từ 300CV

Không phân biệt địa bàn

trở lên.

11

- Các dự án sản xuất sản phẩm cơ khí nặng, mới.

Không phân biệt địa bàn

- Các dự án đúc với quy mô lớn.

12 Các dự án xây dựng các nhà máy thuỷ điện lớn:

Địa bàn B và C.

Phục vụ cho di dân và chế tạo thiết bị trong

nước.

13 Các dự án sản xuất phân đạm, DAP.

Không phân biệt địa bàn

14 Vốn đối ứng các dự án sử dụng vốn ODA cho

Không phân biệt địa bàn

vay lại.

II. Chương trình, mục tiêu đặc biệt của Chính

phủ thực hiện theo phương thức ủy thác:

Theo ủy quyền của Chính

- Kiên cố hoá kênh mương.

phủ.

- Cho vay phần tôn nền diện tích xây dựng nhà ở

cho các hộ dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu

Long.

- Các chương trình khác (kể cả cho vay lại vốn

ODA).

180

3. PHỤ LỤC 1C: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong

giai đoạn 2006 – 2008 (quy định tại Nghị định số 151/2006/NĐ-CP)

STT

NGÀNH NGHỀ, LĨNH VỰC

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (Không phân biệt địa bàn đầu tư)

I

Dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ, đường sắt và cầu đường sắt

1

Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ công nghiệp và sinh

2

hoạt

3

Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại các khu đô thị,

khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và

các cụm công nghiệp làng nghề

4

Dự án xây dựng quỹ nhà ở tập trung cho công nhân lao động trong khu công

nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất; ký túc xá cho sinh viên

5

Dự án đầu tư trong lĩnh vực y tế: mở rộng, nâng cấp, đầu tư thiết bị, xây dựng

mới bệnh viện

6

Dự án đầu tư mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy

nghề

7

Dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật tại làng nghề tiểu thủ công nghiệp, cụm công

nghiệp làng nghề ở nông thôn

II Nông nghiệp, nông thôn (Không phân biệt địa bàn đầu tư)

1

Dự án xây dựng mới, mở rộng cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung; cơ sở

giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung

Dự án phát triển giống thuỷ, hải sản; đầu tư hạ tầng nuôi trồng thuỷ, hải sản

2

Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm nghiệp

3

III Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư)

1

Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản:

- Phôi thép, gang có công suất tối thiểu 200 nghìn tấn/năm;

- Sản xuất Alumin có công suất tối thiểu 300 nghìn tấn/năm; sản xuất nhôm

kim loại có công suất tối thiểu 100 nghìn tấn/năm;

- Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn tấn/năm;

- Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn tấn/năm;

- Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20 nghìn tấn/năm.

Dự án sản xuất động cơ Diezel từ 300CV trở lên

2

Dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa

3

181

4

Dự án đầu tư bào chế, sản xuất thuốc kháng sinh, thuốc cai nghiện, vắc xin

thương phẩm và thuốc chữa bệnh HIV/AIDS

5

Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ công suất nhỏ hơn hoặc bằng 100MW;

xây dựng nhà máy điện từ gió

6

Dự án đầu tư sản xuất DAP và phân đạm

IV Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc

biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập

trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương

trình 120, các xã vùng bãi ngang

Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu tư ra nước

V

ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ

182

4. PHỤ LỤC 1D: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong

giai đoạn 2008 – 2011 (quy định tại Nghị định số 106/2008/NĐ-CP)

STT

NGÀNH NGHỀ, LĨNH VỰC

I

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (Không phân biệt địa bàn đầu tư)

1

Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt.

2

Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại các khu đô thị,

khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và

các cụm công nghiệp làng nghề.

3

Dự án xây dựng quỹ nhà ở tập trung cho công nhân lao động làm việc trong

khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất; ký túc xá cho sinh viên.

4

Dự án đầu tư hạ tầng, mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới và thiết bị trong lĩnh

vực xã hội hóa: giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi

trường thuộc Danh mục hưởng chính sách khuyến khích phát triển theo quyết

định của Thủ tướng Chính phủ.

II Nông nghiệp, nông thôn (Không phân biệt địa bàn đầu tư)

1

Dự án xây dựng mới và mở rộng cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập

trung.

Dự án phát triển giống thuỷ, hải sản.

2

3

Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm nghiệp.

III Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư)

1

Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản:

- Sản xuất Alumin có công suất tối thiểu 300 nghìn tấn/năm; sản xuất nhôm

kim loại có công suất tối thiểu 100 nghìn tấn/năm;

- Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn tấn/năm;

- Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn tấn/năm;

- Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20 nghìn tấn/năm.

2

Dự án sản xuất động cơ Diezel từ 300CV trở lên.

3

Dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa.

4

Dự án đầu tư sản xuất thuốc kháng sinh từ công đoạn nguyên liệu ban đầu đến

thành phẩm, thuốc cai nghiện, vắc xin thương phẩm và thuốc chữa bệnh

HIV/AIDS; sản xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn GMP.

5

Dự án đầu tư xây dựng nhà máy điện từ gió, Dự án đầu tư xây dựng nhà máy

183

phát điện sử dụng các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo.

6

Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ, với công suất nhỏ hơn hoặc bằng 50

MW thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

7

Dự án đầu tư sản xuất DAP và phân đạm.

IV Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc

biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập

trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương

trình 120, các xã vùng bãi ngang (không bao gồm các dự án thủy điện (trừ

các dự án nêu tại điểm 6 Mục III của Danh mục này), dự án nhiệt điện, sản

xuất xi măng, sắt thép; dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ, đường sắt

và cầu đường sắt).

V Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu tư ra nước

ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

184

5. PHỤ LỤC 1E: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong

giai đoạn 2011 – nay (quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP)

STT

NGÀNH NGHỀ, LĨNH VỰC

GIỚI HẠN

QUY MÔ

I

Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội (Không phân biệt địa bàn đầu

tư)

1

Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ sán xuất

Nhóm A, B

và sinh hoạt.

2

Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại các

Nhóm A, B

khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công

nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp làng nghề.

3

Dự án xây dựng nhà ở cho sinh viên thuê, dự án nhà ở cho công

Nhóm A, B

nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê, dự án nhà ở cho

và C

người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị theo quyết định của

Thủ tướng Chính phủ.

Nhóm A, B

4

Dự án đầu tư hạ tầng, mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới và thiết

bị trong lĩnh vực xã hội hóa: giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế, văn

hóa, thể thao, môi trường thuộc Danh mục hưởng chính sách

khuyến khích phát triển theo quyết định của Thủ tướng Chính

phủ.

II

Nông nghiệp, nông thôn (Không phân biệt địa bàn đầu tư)

1

Dự án nuôi, trồng thủy, hải sản gắn với chế biến công nghiệp.

Nhóm A, B

2

Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm

Nhóm A, B

nghiệp.

3

Dự án chăn nuôi gia súc, gia cầm gắn với chế biến công nghiệp.

Nhóm A, B

III Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư)

1

Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản:

Nhóm A, B

- Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn

tấn/năm;

- Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn tấn/năm;

- Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20 nghìn

tấn/năm.

185

2

Dự án đầu tư sản xuất thuốc kháng sinh, thuốc cai nghiện, vắc xin

Nhóm A, B

thương phẩm và thuốc chữa bệnh HIV/AIDS; sản xuất thuốc thú

y đạt tiêu chuẩn GMP.

3

Dự án đầu tư xây dựng nhà máy phát điện sử dụng nguồn năng

Nhóm A, B

lượng: gió, mặt trời, địa nhiệt, sinh học và các tài nguyên năng

lượng khác có khả năng tái tạo.

4

Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ, với công suất nhỏ hơn hoặc

Nhóm A, B

bằng 50 MW thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt

và C

khó khăn.

5

Dự án đầu tư sản xuất sán phẩm cơ khí trọng điểm theo Quyết

Nhóm A, B

định của Thủ tướng Chính phủ.

và C

6

Dự án thuộc danh mục các ngành công nghiệp hỗ trợ theo Quyết

Nhóm A, B

định của Thủ tướng Chính phủ.

và C

Nhóm A, B

IV Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó

và C

khăn, đặc biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc

Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc chương trình 135

và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các xã vùng bãi

ngang (không bao gồm dự án thủy điện, nhiệt điện, sản xuất

xi măng, sắt thép; dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ,

đường sắt và cầu đường sắt).

Nhóm A, B

V

Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu

tư ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

các dự án cho vay theo chương trình mục tiêu sử dụng vốn

nước ngoài.

186

Phụ lục số 02

Một số dự án trọng điểm ngành điện vay vốn TD ĐTPT

(số vốn vay từ 500 tỷ đồng trở lên)

Đơn vị tính: tỷ đồng

Tổng Số vốn vay Dự án

mức TDĐT của

37.500

Dự án thủy điện Lai Châu

4.602

36.933 4.000 và 400 triệu USD

Dự án thủy điện Sơn La

Dự án thủy điện Huội Quảng, Lai Châu

9.789

964

Dự án thủy điện Tuyên Quang

7.522

2.890

Dự án thủy điện Bản Vẽ, Nghệ An

6.763

1.270

Dự án thủy điện Đại Ninh, Bình Thuận

6.658

654

Dự án thủy điện Bản Chát, Lai Châu

6.489

1.685

Dự án thủy điện Đồng Nai 3, Lâm Đồng

5.675

895

Dự án thủy điện An Khê – KaNăk, Bình Định

5.616

992

Dự án thủy điện Sê San 4, Gia Lai

5.545

558

Dự án thủy điện sông Tranh 2, Quảng Nam

5.149

967

Dự án thủy điện Hủa Na, Nghệ An

4.865

2.240

Dự án thủy điện Sê rê pốc 3

4.855

536

Dự án thủy điện sông Ba Hạ, Phú Yên

4.274

743

Dự án nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 4, Bà Rịa-Vũng Tàu

4.261

1.694

Dự án thủy điện Xekaman 3, Lào

4.260

1.147

Dự án thủy điện Đăkrtih, Đăklăk-ĐăkNông

3.465

2.187

Dự án thủy điện A Lưới, Thừa Thiên Huế

3.224

1.656

Dự án thủy điện PleiKrông, Kon Tum

2.967

872

Dự án thủy điện Khe Bố, Nghệ An

2.453

1.640

Dự án thủy điện Nho Quế 3, Hà Giang

2.195

1.491

Dự án thủy điện Đămbri, Lâm Đồng

1.798

1.250

1.569

Dự án thủy điện KrongH’năng, Phú Yên – Đăklăk

792

Dự án nhà máy nhiệt điện Ô Môn 1, Cần Thơ

11.538

827

Nguồn: Đặc san Tài trợ dự án, số 01, 7/2011, trang 11

187

đầu tư Nhà nước

Phụ lục số 03

Một số dự án trọng điểm ngành hóa chất vay vốn TD ĐTPT

Đơn vị: tỷ đồng

Dự án, địa điểm đặt dự án, chủ đầu tư,

Tổng mức

Số vốn vay

vốn đầu tư

quy mô công suất

TDĐT của

của dự án

Nhà nước

6.356

4.125

Dự án cải tạo, mở rộng nhà máy phân đạm Hà Bắc

17.554

3.510

Dự án nhà máy đạm Cà Mau

(xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau; chủ đầu tư: Công ty

TNHH 1 thành viên phân đạm và hóa chất; công suất 800.000

10.806

3.440

Dự án nhà máy sản xuất phân đạm từ than cám Ninh Bình

(KCN Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình; chủ đầu

tư Tập đoàn hóa chất VN; công suất 560.000 tấn/năm)

2.764

1.920

Dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP Hải Phòng

(Khu kinh tế Đình Vũ, Hải Phòng; chủ đầu tư: Tập đoàn hóa

chất VN; công suất 330.000 tấn/năm)

5.171

1.810

Dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 Lào Cai

(KCN Tằng lỏong, Bảo Thắng, Lào Cai; chủ đầu tư Công ty CP

DAP số 2 – Tập đoàn hóa chất VN; công suất 330.000 tấn/năm

Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của NHPT

188

Phụ lục số 04

Một số dự án trọng điểm ngành luyện kim, khai khoáng vay vốn TD ĐTPT

Đơn vị: tỷ đồng

Dự án, địa điểm đặt dự án, quy mô công suất

Tổng mức

Số vốn vay

vốn đầu tư

TDĐT của

của dự án

Nhà nước

Dự án Mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Nhà máy Gang thép Thái

3.844

1.605

Nguyên (công suất 500.000 tấn phôi thép/năm, 23.000 tấn gang

thỏi/năm)

Dự án khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo, Thái Nguyên

8.339

2.377

(khai thác 3.500.000 tấn quặng nguyên vonfram – đa kim/năm

và các sản phẩm chế biến từ quặng 8.800 tấn vonfram trioxit,

201.000 tấn flourit, 26.000 tấn đồng, 109 kg vàng, 2.800 tấn

bismut/năm)

1.879

447

Dự án nhà máy cán thép nguội Possco, Bà Rịa – Vũng Tàu

(xây dựng nhà máy cán thép công suất 1,2 triệu tấn thép

nguội/năm, trong đó khoảng 700.000 tấn thép cán nguội sử

dụng trong sản xuất ô tô, xe máy, còn lại là thép lá cán nguội

dùng trong các ngành công nghiệp...

Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của NHPT

189