®¹i häc quèc gia hµ néi Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ ***** Nghiªm quý hµo
TÝN DôNG §ÇU T¦ PH¸T TRIÓN CñA NHμ n−íc
cho c¸c ch−¬ng tr×nh kinh tÕ lín vμ
dù ¸n kinh tÕ träng ®iÓm ë viÖt nam
Chuyªn ngμnh: Kinh tÕ chÝnh trÞ
M· sè: 62 31 01 01
LuËn ¸n tiÕn sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ
Ng−êi h−íng dÉn khoa häc : pgs.ts ph¹m v¨n dòng
Hμ Néi - 2015
MỤC LỤC
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM. ........... 30
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... .i DANH MỤC BẢNG, BIỂU ..................................................................................... ii MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM ........................................................ 30
1.1.1. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. .......................................... .30
1.1.2. Các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm .................. 33
1.1.3. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm .................................................................... .41
1.2. TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ............................... 63
1.1.4. Hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm.................................... 54
1.2.1. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới ................................................................................................................ .63
1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................... .71
2.1. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM ........................................................................................... .78
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM ....................................................................... 78
2.1.1. Môi trường pháp lý .............................................................................. 78
2.1.2. Chính sách tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm .......................................................................... .83
2.1.3. Bản chất của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ................................................ .91
2.1.4. Năng lực của Tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm................................... .94
2.2. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA ... 99
2.2.1. Tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn ............... 99
2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA ................................................................................................... 117
2.2.2. Tín dụng đầu tư phát triển cho các dự án kinh tế trọng điểm ............ 114
2.3.1. Mức độ huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển nền kinh tế ................................................................................................................... 117
2.3.2. Tín dụng ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong việc hình thành, gia tăng giá trị tài sản cố định, cơ sở vật chất của nền kinh tế ............................................................................................. 119
2.3.3. Hỗ trợ các ngành, lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then chốt, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ................................................ 121
2.3.4. Hỗ trợ phát triển địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, khu vực nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo an sinh xã hội .................................. 124
2.3.5. Bảo toàn, phát triển và sử dụng vốn của Tổ chức cho vay ................ 128
3.1. BỐI CẢNH MỚI ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ...................................................................................... 134
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TD ĐTPT CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................................................... 134
3.1.1. Bối cảnh quốc tế ................................................................................. 134
3.2. QUAN ĐIỂM VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ............................................................................................................... 143
3.1.2. Bối cảnh trong nước ........................................................................... 137
3.2.1. TD ĐTPT là rất cần thiết cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ........................................................................................ 143
3.2.2. Xây dựng các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thật sự khoa học là điều kiện, cơ sở nâng cao hiệu quả của TD ĐTPT cho hoạt động tín dụng này ......................................................................................... 149
3.3. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ......... 152
3.2.3. Xây dựng mô hình cung ứng hợp lý; tăng cường kiểm tra, kiểm soát là nhân tố trực tiếp quyết định hiệu quả TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự ánkinh tế trọng điểm ........................................................... .150
3.3.1. Nhóm giải pháp về hoạch định các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ........................................................................................ 152
3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách đối với TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ... 155
3.3.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động, tổ chức thực hiện và quản lý TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm. ............................................................................................................. 161
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 167
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 169
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 170
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 178
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ tiếng Anh/tiếng nước ngoài
Từ viết tắt CAR Capital Adequacy Ratio Nghĩa tiếng Việt Hệ số an toàn vốn
CDB China Development Bank Ngân hàng Phát triển Trung
Quốc
Chính phủ CP
Công nghiệp hóa CNH
Hiện đại hóa HĐH
DBJ Development Bank of Japan Ngân hàng Phát triển Nhật Bản
Doanh nghiệp nhà nước DNNN
Đầu tư phát triển ĐTPT
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc dân
KfW Kreditanstalt fur Wiederaufbau Ngân hàng Tái thiết Đức
Nghị định NĐ
Nghị quyết NQ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHNN
Ngân hàng thương mại NHTM
Ngân hàng Phát triển Việt Nam NHPT
Ngân sách Nhà nước NSNN
ODA Official Development Assistance Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
Quyết định QĐ
Tổ chức tín dụng TCTD
Tín dụng đầu tư phát triển TD
ĐTPT
Tín dụng nhà nước TDNN
Trái phiếu Chính phủ TPCP
VDB Vietnam Development Bank Ngân hàng Phát triển Việt Nam
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng Trang Bảng
Tỷ trọng dư nợ tương ứng với các mức lãi suất cho vay trong 88 1
tổng dư nợ
2 Tỷ lệ số trả nợ vốn huy động đến hạn trong tổng số vốn huy động 91
mới hàng năm
Vốn TD ĐTPT cho vay Chương trình kiên cố hóa kênh mương 102 3
Phân loại tổng số 1.016 con tàu thuộc Chương trình đóng tàu 111 4
đánh bắt cá xa bờ
5 Số lượng các dự án trọng điểm (nhóm A) trong tương quan với 114
các nhóm dự án khác được tài trợ vốn TD ĐTPT
6 Dư nợ cho vay và tỷ trọng cho vay các dự án trọng điểm (nhóm 115
A) trong tổng số vốn cho vay TD ĐTPT
7 Tỷ trọng vốn TD ĐTPT trên GDP 118
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Tên phụ lục Trang Phụ
lục
01 Đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển qua các thời kỳ 177
(2000 – 2014)
02 Một số dự án trọng điểm ngành điện vay vốn tín dụng đầu tư phát 182
triển
03 Một số dự án trọng điểm ngành phân bón vay vốn tín dụng đầu tư 183
phát triển
04 Một số dự án trọng điểm ngành luyện kim, khoáng sản vay vốn 184
tín dụng đầu tư phát triển
PHẦN MỞ ĐẦU
1. GIỚI THIỆU CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Sự cần thiết của nghiên cứu, lý do lựa chọn đề tài
Trong quá trình phát triển, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nhu cầu
vốn để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng và các dự án chiến lược,
trọng điểm quốc gia là rất thiết yếu, cấp bách trong khi đó nguồn vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước không đáp ứng đủ do nguồn thu nhỏ bé, bội chi thường xuyên.
Ở các nước này, hệ thống ngân hàng thương mại với chức năng chủ yếu là huy
động và cho vay ngắn hạn nên không sẵn lòng tài trợ cho các công trình, dự án
trọng điểm có thời gian cho vay dài, khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao. Đồng thời,
thị trường vốn trung và dài hạn chưa phát triển để có thể hỗ trợ cho việc huy động
nguồn lực một cách dễ dàng. Trong khi đó, các nhà đầu tư tư nhân không muốn
hoặc không có khả năng tài trợ cho các công trình, dự án trọng điểm đòi hỏi vốn
đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài.
Để khắc phục, sửa chữa những thất bại thị trường đối với một số ngành
nghề, lĩnh vực có tính chất thiếu yếu, nền tảng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước song lại khó thu hút vốn đầu tư tư nhân, nhiều quốc gia trên
thế giới đã can thiệp vào nền kinh tế thông qua việc sử dụng công cụ tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước để huy động nguồn tài chính bù đắp thâm hụt ngân sách
và thực hiện đầu tư vốn cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
cho những lĩnh vực, ngành nghề then chốt hoặc những lĩnh vực, ngành nghề có ý
nghĩa bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc sử dụng đầu tư của nhà nước nói chung,
đầu tư của nhà nước thông qua hình thức tín dụng đầu tư phát triển cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như một phương thức can thiệp của Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại nhằm khắc phục các khuyết tật thị
trường, điều tiết vĩ mô, ổn định nền kinh tế đã được thực hiện hiệu quả ở nhiều
quốc gia. Hơn nữa, việc sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo dựng hệ thống an
1
sinh xã hội hiệu quả… đã trở thành một lựa chọn thích hợp ở nhiều quốc gia, nhất
là ở các quốc gia đang phát triển nơi mà nguồn vốn ngân sách nhà nước dành cho
đầu tư phát triển luôn trong tình trạng eo hẹp, khó khăn.
Trong thời gian qua, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam đã
thực hiện tài trợ vốn đầu tư vào nhiều lĩnh vực then chốt, quan trọng của nền kinh
tế, có tác động đến thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; các lĩnh vực,
ngành nghề khó thu hồi vốn; các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,
đặc biệt khó khăn… thông qua các chương trình kinh tế lớn, dự án trọng điểm của
Chính phủ. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thời gian
qua cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, xảy ra tình trạng tín dụng đầu tư ở một
số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế không thực hiện được mục tiêu như mong
muốn, gây lãng phí nguồn lực xã hội; một số chương trình kinh tế lớn như chương
trình đánh bắt cá xa bờ, chương trình mía đường, … đã thất bại, phá sản.
Xuất phát từ vai trò, sứ mệnh của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
nói chung và thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam thời gian qua, câu
hỏi nghiên cứu mà Luận án đặt ra là: Hoạt động tín dụng này ở Việt Nam thời gian
qua có hiệu quả kinh tế - xã hội như thế nào? Có những giải pháp nào nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động tín dụng này ở Việt Nam trong thời gian tới?
Từ cách đặt vấn đề như nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề "Tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và các
dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho Luận án.
1.2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Từ việc xây dựng khung khổ lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng đầu
tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt
Nam; đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng này ở Việt Nam thời gian qua, luận
án đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng này
trong thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Xây dựng khung khổ lý luận về tín dụng đầu tư phát triển cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm và vai trò của hoạt động tín dụng này
trong nền kinh tế thị trường; xác định một số chỉ tiêu cơ bản làm cơ sở cho khung
2
phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng này; nghiên cứu kinh nghiệm quốc
tế và rút ra một số bài học kinh nghiệm phù hợp và có thể áp dụng cho Việt Nam
trong quản lý, triển khai hoạt động tín dụng đầu tư của nhà nước nói chung, hoạt
động tín dụng đầu tư cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thời gian qua ở Việt Nam; chỉ ra
những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở
Việt Nam trong thời gian tới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động cho vay vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
ở Việt Nam trong thời gian qua do Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện.
Dưới góc độ Kinh tế chính trị, hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho
chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm này được nghiên cứu với tư
cách là một công cụ kinh tế - tài chính của Nhà nước để can thiệp vào nền kinh tế
nhằm góp phần khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, định hướng sự phát
triển của nền kinh tế.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
*Phạm vi nội dung
Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức tín
dụng nhà nước, ban đầu ra đời và đi vào hoạt động với hình thức tín dụng đầu tư
(cho vay các dự án đầu tư phát triển). Hiện nay, hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước bao gồm tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu (cho vay ngắn
hạn theo các hợp đồng xuất khẩu).
Trong đó, hình thức tín dụng đầu tư bao gồm nghiệp vụ cho vay đầu tư và
hỗ trợ sau đầu tư. Nghiệp vụ hỗ trợ sau đầu tư (là việc Nhà nước hỗ trợ một phần
lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn của tổ chức tín dụng để đầu tư dự án, sau khi dự án
đã hoàn thành đưa vào sử dụng và trả được nợ vay) chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, khoảng
3
vài chục tỷ đồng trên tổng số hàng chục ngàn tỷ đồng vốn tín dụng đầu tư giải
ngân hàng năm. Và trên thực tế, hầu như chỉ có nghiệp vụ cho vay đầu tư thực hiện
tài trợ vốn cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
Từ thực tế đó, Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ là hình thức tín
dụng đầu tư, cụ thể là nghiệp vụ cho vay đầu tư trong tín dụng đầu tư, chủ yếu là
cho vay đầu tư vào các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Luận
án không nghiên cứu các hình thức tín dụng đầu tư phát triển khác như tín
dụng xuất khẩu của Nhà nước, hỗ trợ sau đầu tư…
Phạm vi giới hạn trên phù hợp với yêu cầu đề ra là nghiên cứu cơ sở lý luận,
thực trạng và đề xuất các kiến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh
tế trọng điểm ở Việt Nam.
Ngoài ra, Luận án xem xét, tham khảo kinh nghiệm quốc tế ở một số quốc
gia có hoạt động cho vay tín dụng chính sách, tín dụng chỉ định (về bản chất tương
tự như hoạt động cho vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam)
nhằm rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Hoạt động tài trợ phát triển thông qua hình thức tín dụng chính sách được
nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và điều
kiện tiếp cận tài liệu, Luận án lựa chọn một số quốc gia có các định chế tài trợ phát
triển thực hiện nhiệm vụ cho vay tín dụng chính sách tiêu biểu cho các giai đoạn,
các mô hình khác nhau trong quá trình hình thành, phát triển các định chế tài trợ
phát triển trên thế giới và tiêu biểu cho các trình độ phát triển kinh tế khác nhau
trên thế giới, có những kinh nghiệm phù hợp mà Việt Nam có thể áp dụng. Cụ thể
như sau:
- Định chế tài trợ phát triển ở Trung Quốc (Ngân hàng Phát triển Trung
Quốc) tiêu biểu cho mô hình định chế tài trợ phát triển ở một nước đang phát triển,
có hệ thống chính trị và tổ chức nhà nước tương đồng với Việt Nam, được thành
lập năm 1994 và có đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Trung
Quốc thời kỳ cải cách hệ thống tài chính và mở rộng công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội thị trường ở Trung Quốc những năm gần đây.
- Định chế tài trợ phát triển ở Nhật Bản (Ngân hàng Phát triển Nhật Bản)
tiêu biểu cho mô hình định chế tài trợ phát triển ở một nước tư bản chủ nghĩa phát
4
triển, nằm ở châu Á, được thành lập cuối những năm 40, đầu những năm 50 thế kỷ
20, đã có những đóng góp to lớn trong việc triển khai thực hiện các chính sách
công nghiệp của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2 và quá trình công nghiệp
hóa thành công của Nhật Bản những năm 60-70 thế kỷ 20 cũng như tiếp tục có
những đóng góp trong quá trình phát triển của Nhật Bản hiện nay.
- Định chế tài trợ phát triển ở CHLB Đức (Ngân hàng Phát triển Đức) tiêu
biểu cho mô hình định chế tài trợ phát triển ở một nước tư bản chủ nghĩa phát triển
ở trình độ cao, công nghiệp hóa rất sớm song đến nay vẫn đang tiếp tục được sử
dụng như một công cụ đắc lực của Chính phủ trong sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội ở quốc gia này.
*Phạm vi không gian và thời gian
Tín dụng nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua bao gồm một số hình
thức tín dụng khác nhau như tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thực
hiện qua một số ngân hàng thương mại nhà nước và hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển
nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam; tín dụng nhà nước cho người nghèo và các
đối tượng chính sách khác được thực hiện qua hệ thống Ngân hàng Chính sách xã
hội; tín dụng của nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương do
các Quỹ đầu tư phát triển địa phương ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương thực hiện…
Từ năm 2000, hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (hay còn
được gọi là tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển) đã được chính thức ghi nhận
riêng tại một văn bản pháp lý cao nhất là Nghị định của Chính phủ về tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước. Đồng thời, cũng từ năm 2000, hình thức tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước đã được Chính phủ chính thức giao cho một đầu mối
duy nhất là Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam) thống
nhất tổ chức thực hiện từ 01/01/2000 đến nay.
Do vậy, Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước do Quỹ Hỗ trợ phát triển trước đây (tổ chức
tiền thân của Ngân hàng Phát triển Việt Nam) và Ngân hàng Phát triển Việt Nam
hiện nay thực hiện từ 01/01/2000 đến năm 2013.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận án
5
sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
*Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp
Đây là hai phương pháp được sử dụng trong toàn bộ luận án. Phương pháp
phân tích được sử dụng trước hết để xem xét những ưu nhược điểm của những
quan niệm về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Sau đó, phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái
quát những vấn đề liên quan đến khung lý luận về tín dụng đầu tư phát triển nói
chung, tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm nói riêng cũng như xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động
tín dụng này.
Phương pháp phân tích còn được sử dụng để phân tích thực trạng tín dụng
đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở nước
ta, theo khung khổ lý luận và thực tiễn đã xây dựng ở chương 1. Sau đó phương
pháp tổng hợp được sử dụng để chỉ ra những ưu nhược điểm của hoạt động này.
Trên cơ sở những vấn đề được bàn ở chương 1 và 2, luận án sử dụng phương pháp
tổng hợp để đề xuất các quan điểm và giải pháp ở chương 3. Sau đó, phương pháp
phân tích được sử dụng để lý giải vì sao tác giả lại đưa ra các quan điểm và giải
pháp đó.
*Phương pháp lô gich và phương pháp lịch sử
Để xây dựng khung khổ lý thuyết về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, phương pháp lô
gich được sử dụng để làm rõ những mối quan hệ bên trong của các khái niệm,
phạm trù liên quan đến vấn đề này. Phương pháp này còn được sử dụng để kết nối
chương 1 với chương 2 và chương 3: việc phân tích thực trạng ở chương 2 và đề
xuất quan điểm ở chương 3 được dựa trên khung khổ lý thuyết và thực tiễn ở
chương 1.
Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu ở chương 2, khi phân tích thực
trạng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự
án kinh tế trọng điểm ở nước ta. Thực tế của hoạt động này chính là những minh
chứng cho các lập luận, nhận xét, đánh giá.
*Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Thực tiễn liên quan đến tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cho các
6
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam rất phong phú, đa
dạng. Để làm rõ bản chất của hoạt động này ở nước ta, những ưu nhược điểm của
nó, phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng để loại bỏ những hiện
tượng bề ngoài, những yếu tố ngẫu nhiên không bản chất để nghiên cứu.
*Các phương pháp khác
Trong quá trình phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng này, luận
án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như so sánh, thống kê, mô tả, nghiên
cứu tình huống, tham khảo… để chỉ ra những kết quả, đánh giá những thành công,
hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế đó trong hoạt động cho vay tín dụng đầu
tư phát triển vào các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt
Nam thời gian qua và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tín dụng này trong thời gian tới.
Nguồn số liệu, dữ liệu được sử dụng trong luận án là từ các báo cáo hoạt
động hàng năm của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, báo cáo đánh giá 3 năm, 5
năm hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, một số bài báo về hoạt động
của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Ngoài ra, luận án cũng sử dụng một số số liệu
từ Báo cáo của Thanh tra Nhà nước về hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt
Nam công bố năm 2012; các chỉ tiêu, số liệu trong các quyết định của Thủ tướng
Chính phủ có liên quan đến một số chương trình kinh tế lớn thực hiện bằng nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển; một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trong các báo cáo của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội
hàng năm tại các kỳ họp Quốc hội…
Trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ, luận án chưa có điều kiện để tiếp cận
số liệu cũng như đưa ra được một khung phân tích đánh giá, đo lường hiệu quả
kinh tế - xã hội một cách đầy đủ về các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm đã thực hiện ở Việt Nam thời gian qua – vốn có bản chất là một công
việc vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi công sức, trí tuệ, thời gian và kinh phí
khổng lồ, cần thiết được thực hiện bởi các cơ quan liên ngành của nhà nước. Điều
này đặc biệt càng đúng trong bối cảnh các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm thường có quy mô đầu tư lớn, địa bàn thực hiện rộng, phạm vi tác
động, ảnh hưởng trên một vùng dân cư, lãnh thổ rộng lớn hoặc có tác động, ảnh
hưởng, lan tỏa đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác chịu ảnh hưởng, tác động của
7
dự án kinh tế trọng điểm đóng vai trò nền tảng, tạo ra các yếu tố đầu vào cho việc
hình thành, phát triển của các ngành, lĩnh vực ấy. Ngoài ra, một đặc trưng lớn khác
cần xem xét là thời gian thực hiện các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm thường kéo dài (từ 5-10 năm đến 15 năm) và có độ trễ lớn trong hiệu quả, tác
động kinh tế - xã hội. Đây cũng là một rào cản trong nghiên cứu, đánh giá hiệu quả
về hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm.
Mặt khác, để đánh giá tương đối chính xác hiệu quả cũng như sự đóng góp,
tác động kinh tế - xã hội của các dự án, chương trình kinh tế này, rất cần xây dựng
được các tiêu chí đánh giá, thẩm tra, các tiêu chí đánh giá kết quả “đầu ra” trong
quá trình hình thành, xây dựng, quyết định chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư,
thẩm định, phê duyệt các chương trình, dự án này cũng như đòi hỏi xây dựng một
hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật do nhà nước ban hành chính thức, thống nhất,
rõ ràng, khoa học, hợp lý, tiên tiến về hiệu quả, tác động kinh tế - xã hội khi thực
hiện các chương trình, dự án kinh tế trọng điểm. Sau đó, sau khi các chương trình,
dự án được thực hiện xong, cần thực hiện các cuộc điều tra, khảo sát, đánh giá
công phu, với chi phí thực hiện hết sức tốn kém, huy động nhiều nguồn lực để xác
định, đánh giá hiệu quả của các chương trình, dự án này. Chưa kể, trong nhiều
trường hợp, kết quả của việc điều tra, khảo sát, đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội
của các chương trình, dự án còn chịu sự tác động, chi phối của các cá nhân và các
cấp quản lý vì những lý do khác nhau…
Chính vì vậy, trong phạm vi nguồn số liệu, tài liệu thu thập được, luận án đã
sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để rút ra các kết luận nghiên cứu
khoa học của luận án. Đồng thời, các nghiên cứu tình huống, phụ lục về kết quả
thực hiện một số chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm được sử dụng
trong việc minh chứng cho các đánh giá về thành công, hạn chế và nguyên nhân
của các hạn chế đó trong hoạt động cho vay tín dụng đầu tư phát triển vào các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam thời gian qua. Trên
cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
tín dụng này trong thời gian tới.
8
1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài nghiên cứu "Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các
chương trình kinh tế lớn và các dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam" có một số
điểm mới và đóng góp mới như sau:
- Nếu các nghiên cứu từ trước đến nay mới chỉ bàn đến tín dụng nhà nước
hoặc tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển nói chung thì Luận án đã lần đầu tiên
đề cập đến tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam thời gian qua.
- Luận án đã hệ thống hóa, bổ sung và làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận về
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung, xây dựng mới khung khổ lý
luận về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn
và dự án kinh tế trọng điểm, bao gồm: khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết của các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm; khái niệm, đặc điểm và vai trò
của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự
án kinh tế trọng điểm. Đồng thời, Luận án đã làm rõ quan điểm về hiệu quả kinh tế
- xã hội đối với hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương
trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm, đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản nhằm
đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng này.
- Luận án đã đánh giá một cách đầy đủ về đặc điểm, tính chất, ưu nhược
điểm, mặt mạnh và hạn chế của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Luận án đã chỉ ra rằng, tính
chất cho vay theo chỉ đạo là lợi thế để tín dụng đầu tư phát triển đóng vai trò công
cụ của Nhà nước trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong
từng thời kỳ, song cũng chính tính chất này tiềm ẩn và là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến những sai lầm mang tính chủ quan đưa đến những thất bại của các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thời gian qua.
- Bằng kết quả nghiên cứu của luận án, Luận án đã trả lời câu hỏi nghiên
cứu được đưa ra và khẳng định rằng: mặc dù còn một số dự án, chương trình chưa
hiệu quả, song thông qua các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm,
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã đóng vai trò là một công cụ đắc lực để
Nhà nước định hướng thị trường, góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước, phát triển nông nghiệp, nông
9
thôn, hỗ trợ các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn,
vùng sâu, vùng xa, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện và nâng cao mức sống của
người dân, qua đó góp phần thực hiện các mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
2.1.1. Nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Các công trình nghiên cứu về tài chính, tín dụng ngân hàng và hoạt động
của các ngân hàng thương mại đã được công bố tương đối nhiều. Tuy nhiên, do
tính đặc thù về mục đích, đối tượng, phạm vi, phương thức hoạt động mà lĩnh vực
tín dụng nhà nước không có nhiều nghiên cứu, trong đó công trình nghiên cứu về
tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển có số lượng khá khiêm tốn, biệt là các luận
án tiến sĩ.
Để làm rõ những đóng góp của các công trình đã công bố về tín dụng nhà
nước cho đầu tư phát triển cũng như vạch ra những khoảng trống nghiên cứu trong
lĩnh vực này, có thể khái quát lại các kết quả nghiên cứu đi trước theo một số
nhóm vấn đề như sau:
*Khái niệm, nội dung hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước
- Đề tài khoa học cấp bộ “Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý tín dụng
nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam” của nhóm tác giả TS.Thái Bá Cẩn –
TS.Lê Xuân Hiếu, Viện Nghiên cứu tài chính, Bộ Tài chính (2001) có đối tượng
nghiên cứu là phân tích, đánh giá, nhận xét những mặt được và chưa được về chính
sách, cơ chế quản lý tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển hiện hành, rút ra
những vấn đề bất cập để làm căn cứ đề xuất giải pháp hoàn thiện cho thời gian tới.
Vì vậy, trong đề tài đã đề cập đến khái niệm và nội dung tín dụng nhà nước cho
đầu tư phát triển. Nội dung tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển được nhóm tác
giả đề cập gồm các vấn đề cơ bản như: đặc điểm của tín dụng nhà nước cho đầu tư
phát triển; tính lịch sử của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển; các hình thức
hoạt động tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển; vai trò của tín dụng nhà nước
cho đầu tư phát triển trong việc điều tiết kinh tế; các nguyên tắc trong quản lý của
10
tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển.
- Luận án tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín
dụng “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước” của
tác giả Trần Công Hòa, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2007) có giải
quyết các vấn đề về khái niệm và nội dung hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.
Trong đó, nội dung hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước bao gồm:
các hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (cho vay đầu tư, bảo lãnh tín
dụng đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư), tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước, đặc điểm của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Luận án tiến sĩ Kinh tế Chuyên ngành Tài chính, lưu thông tiền tệ và tín
dụng “Hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng Nhà nước bằng trái phiếu
Chính phủ ở Việt Nam” của Lê Quang Cường, Trường Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh (2007) mặc dù bàn về trái phiếu chính phủ nhằm góp phần tăng tính
khả thị của trái phiếu chính phủ để góp phần huy động vốn vay cho nhà nước và
phát triển thị trường trái phiếu chính phủ song trong phần cơ sở lý luận tổng quan
về tín dụng nhà nước bằng trái phiếu chính phủ, tác giả cũng đã luận giải một số
vấn đề liên quan đến tín dụng nhà nước. Cụ thể, tác giả đã đưa ra các nội dung
như: khái quát về nguồn gốc ra đời, phát triển và sự cần thiết của tín dụng nhà
nước; khái niệm, bản chất và đặc điểm của tín dụng nhà nước; vai trò của tín dụng
nhà nước trong nền kinh tế thị trường; các hình thức huy động vốn tín dụng nhà
nước và mối quan hệ giữa các hình thức huy động vốn tín dụng nhà nước; các
phương thức huy động vốn tín dụng nhà nước bằng trái phiếu chính phủ.
- Luận án tiến sĩ Kinh tế Chuyên ngành Kinh tế tài chính Ngân hàng “Hoàn
thiện nội dung và phương pháp thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước” của tác giả Nguyễn Chí Trang, Học viện Tài
chính (2009) lấy đối tượng nghiên cứu tập trung vào hai nội dung chính là nội
dung thẩm định dự án đầu tư và phương pháp thẩm định dự án đầu tư. Tuy vậy, do
phạm vi nghiên cứu là các dự án đầu tư từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước nên trong phần cơ sở lý luận - những vấn đề chung về dự án đầu tư và
thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước -
có nội dung khái quát về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, gồm: khái niệm;
các hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; đặc điểm của hoạt động tín
11
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Luận án “Tín dụng Nhà nước đối với phát triển kinh tế các tỉnh Tây
Nguyên” của Vũ Mạnh Bảo, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh
(2011) có đối tượng nghiên cứu là vấn đề “Tín dụng nhà nước đối với phát triển
kinh tế các tỉnh Tây Nguyên” với phạm vi nghiên cứu là hoạt động tín dụng nhà
nước tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam và các chi nhánh khu vực Tây Nguyên,
bao gồm các hình thức tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của Nhà
nước, cho vay lại vốn ODA…Do vậy, trong phần cơ sở lý luận về tín dụng nhà
nước, tác giả đã luận bàn về một số vấn đề liên quan đến tín dụng nhà nước nói
chung như: khái niệm tín dụng nhà nước trong cơ chế thị trường; đặc điểm của tín
dụng nhà nước; phân loại tín dụng nhà nước; điểm khác biệt giữa tín dụng nhà
nước với tín dụng ngân hàng và vốn ngân sách nhà nước; vai trò của tín dụng nhà
nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
- Luận án “Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt
Nam” của tác giả Trương Thị Hoài Linh (2011) lấy hiệu quả hoạt động của Ngân
hàng Phát triển Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu. Do vậy, luận án không nghiên
cứu về khái niệm và nội dung hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
*Hiệu quả của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
- Đề tài khoa học cấp bộ “Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý tín dụng
nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam” của nhóm tác giả TS.Thái Bá Cẩn –
TS.Lê Xuân Hiếu, Viện Nghiên cứu tài chính, Bộ Tài chính (2001) lấy chính sách,
cơ chế quản lý tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển làm đối tượng nghiên cứu
nên đề tài không đề ra nhiệm vụ nghiên cứu về hiệu quả tín dụng nhà nước cho đầu
tư phát triển. Đề tài tập trung đi sâu vào phân tích chính sách, cơ chế quản lý tín
dụng nhà nước cho đầu tư phát triển, từ đối tượng cho vay, mức vốn cho vay, thời
hạn cho vay đến lãi suất cho vay, bảo đảm tiền vay…để từ đó đề ra các giải pháp
hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý tín dụng đầu tư nhà nước.
- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín
dụng “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước” của
tác giả Trần Công Hòa, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2007) đã đưa ra
khái niệm về hiệu quả nói chung và quan niệm về hiệu quả hoạt động tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước. Theo đó, tác giả chủ trương xem xét hiệu quả hoạt
12
động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đòi hỏi phải được đánh giá một cách
tổng thể về mọi phương diện, theo phạm vi quản lý, hiệu quả có thể được xem xét
ở cấp độ vĩ mô và ở cấp vi mô (doanh nghiệp); mặt khác tác giả cũng cho rằng
hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cũng được xem xét
trên các khía cạnh: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Tác giả cũng đã xây dựng
hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước bao gồm:
+ Hiệu quả đối với nền kinh tế quốc dân: thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế, đánh giá thông qua các chỉ tiêu tổng quát trên giác độ nền kinh tế bao gồm
cả về kinh tế và xã hội.
+ Hiệu quả hoạt động của tổ chức tài trợ: các chỉ tiêu phản ánh khả năng
huy động và tài trợ tín dụng, an toàn tín dụng, khả năng tăng trưởng và phát triển
bền vững với mục tiêu cao nhất là an toàn, giảm thiểu sự hỗ trợ của Nhà nước và
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
+ Hiệu quả hoạt động của các dự án, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp: các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất kinh doanh (lãi, lỗ),
doanh thu, khả năng hoàn trả vốn vay...
- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín
dụng “Hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng Nhà nước bằng trái phiếu
Chính phủ ở Việt Nam” của Lê Quang Cường, Trường Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh (2007) tập trung nghiên cứu về trái phiếu chính phủ nói chung và
phương thức phát hành trái phiếu chính phủ ở Việt Nam thời gian qua nói riêng
nên không có nội dung đề cập đến hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước.
- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế tài chính - ngân hàng “Hoàn
thiện nội dung và phương pháp thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước” của Nguyễn Chí Trang, Học viện Tài chính
(2009) có mục tiêu là nghiên cứu cơ sở về nội dung và phương pháp thẩm định dự
án đầu tư, phân tích, đánh giá thực trạng về nội dung và phương pháp thẩm định
dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Vì vậy tác
giả chỉ tập trung phân tích về dự án đầu tư, thẩm định dự án đầu tư và nội dung
13
thẩm định dự án đầu tư, phương pháp thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Phát
triển Việt Nam. Luận án không đề cập đến các nội dung về hiệu quả tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước.
- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế tài chính, ngân hàng “Tín
dụng Nhà nước đối với phát triển kinh tế các tỉnh Tây Nguyên” của Vũ Mạnh Bảo,
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh (2011) nhằm mục tiêu nghiên
cứu một cách có hệ thống về tín dụng nhà nước; khảo sát hoạt động tín dụng nhà
nước tại các Chi nhánh NHPT ở Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk-Đăk
Nông, Lâm Đồng). Trên cơ sở lý luận và khảo sát thực tế, quy hoạch phát triển
Tây Nguyên giai đoạn 2010-2020, tác giả đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm
phát triển tín dụng nhà nước một cách có hiệu quả trên địa bàn Tây Nguyên. Tuy
vậy, tác giả cũng đã có nghiên cứu về hiệu quả tín dụng nhà nước qua việc đưa ra
quan niệm về hiệu quả tín dụng nhà nước và một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín
dụng nhà nước (bao gồm các hình thức của tín dụng nhà nước như tín dụng đầu tư
phát triển, tín dụng xuất khẩu, cho vay lại vốn ODA…). Theo tác giả, hiệu quả tín
dụng nhà nước bao gồm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội mà các dự án đầu tư
mang lại. Tác giả đã xây dựng một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng nhà nước
bao gồm:
+ Đối với nền kinh tế: gồm hiệu quả kinh tế (tác động đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế GDP; đóng góp cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế; giá trị kim
ngạch xuất khẩu tăng thêm; giá trị đóng góp cho NSNN tăng thêm); hiệu quả xã
hội (công ăn việc làm tăng thêm, mức thu nhập tăng thêm, tỷ lệ xóa đói giảm
nghèo, bảo vệ môi trường, số hộ thay đổi phong tục tập quán canh tác, hiệu quả đối
với doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế).
+ Đối với tổ chức quản lý tín dụng nhà nước: nợ xấu/tổng dư nợ; nợ khó
đòi/tổng dư nợ; nợ khó đòi ròng/tổng dư nợ; vòng quay vốn tín dụng xuất khẩu
(ngắn hạn); thời gian cho vay trung dài hạn bình quân của tổ chức tín dụng.
+ Đối với các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế tiếp nhận và sử dụng vốn
tín dụng nhà nước: hiệu quả hoạt động tín dụng nhà nước là một bộ phận trong
hiệu quả của doanh nghiệp, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với hiệu quả sản
xuất kinh doanh hay hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp mà có quan hệ
14
mật thiết với các loại hiệu quả này. Việc đánh giá hiệu quả này có thể được xem
xét qua các chỉ tiêu định tính, định lượng về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh, khả năng trả nợ của dự án, số việc làm tạo ra, đóng góp cho xã hội…
- Luận án tiến sĩ Kinh tế chuyên ngành Kinh tế tài chính ngân hàng “Nâng
cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam” của Trương Thị
Hoài Linh (2011) có mục tiêu nghiên cứu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu tập
trung vào hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam nên luận án
không đề cập đến nội dung hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
* Đề xuất các giải pháp và kiến nghị
- Đề tài khoa học cấp bộ “Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý tín dụng
nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam” của nhóm tác giả TS.Thái Bá Cẩn –
TS.Lê Xuân Hiếu, Viện Nghiên cứu tài chính, Bộ Tài chính (2001) nghiên cứu
toàn diện về hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý tín dụng nhà nước cho đầu tư
phát triển ở Việt Nam. Đề tài có phạm vi nghiên cứu bao hàm tất cả các mặt
nghiệp vụ của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển, gồm: hoạt động cho vay
đầu tư của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển; hoạt động hỗ trợ lãi suất sau
đầu tư của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển; hoạt động bảo lãnh tín dụng
nhà nước cho đầu tư phát triển. Chính vì vậy, các giải pháp và kiến nghị, đề xuất
của đề tài xoay quanh vấn đề hoàn thiện chính sách cơ chế cho vay đầu tư, hoàn
thiện chính sách cơ chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; hoàn thiện chính sách cơ chế bảo
lãnh tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển. Luận án không đề xuất các giải pháp,
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của tín dụng đầu tư phát triển.
- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín
dụng “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước” của
tác giả Trần Công Hòa, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2007) có phạm
vi nghiên cứu là hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại
Việt Nam giai đoạn 2000-2006, lấy Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát
triển Việt Nam) làm trọng tâm nghiên cứu. Do vậy, sau khi phân tích thực trạng
hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam, tác giả đã
đưa ra 5 nhóm giải pháp lớn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước và một số kiến nghị điều kiện thực hiện các giải pháp đối
với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, doanh nghiệp. 5 nhóm giải pháp của tác
15
giả gồm: (i) ổn định môi trường KT-XH và hoàn thiện hệ thống luật pháp; (ii) hoàn
thiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; (iii) hoàn thiện mô hình
tổ chức hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam; (iv) xây dựng chiến lược
phát triển dài hạn cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam; (v) nâng cao năng lực quản
trị rủi ro của NHPT.
- Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín
dụng “Hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng Nhà nước bằng trái phiếu
Chính phủ ở Việt Nam” của Lê Quang Cường, Trường Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh (2007) có liên quan đến tín dụng Nhà nước qua khía cạnh phương
thức huy động vốn tín dụng Nhà nước bằng trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, do
phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn trong khuôn khổ hình thức huy động vốn tín dụng
nhà nước bằng trái phiếu Chính phủ nên các kiến nghị, giải pháp của đề tài tập
trung vào hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng nhà nước bằng trái phiếu
Chính phủ ở Việt Nam, đề tài không có các giải pháp, kiến nghị về nâng cao hiệu
quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Luận án tiến sĩ Kinh tế, chuyên ngành kinh tế tài chính, ngân hàng “Hoàn
thiện nội dung và phương pháp thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước” của Nguyễn Chí Trang, Học viện Tài chính
(2009) nhằm mục tiêu nghiên cứu và hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm
định dự án đầu tư nên các giải pháp, kiến nghị được tác giả nêu ra trong đề tài
xoay quanh việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư như xây dựng Quy
chế thẩm định dự án đầu tư mới; đề nghị lựa chọn áp dụng một số phương pháp
thẩm định dự án đầu tư….Đề tài không có các giải pháp, kiến nghị về nâng cao
hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Luận án tiến sĩ Kinh tế chuyên ngành Kinh tế tài chính, ngân hàng “Tín
dụng Nhà nước đối với phát triển kinh tế các tỉnh Tây Nguyên” của Vũ Mạnh Bảo,
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh (2011) có mục đích nghiên
cứu cuối cùng là đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục tình trạng việc
phát triển tín dụng nhà nước trên địa bàn Tây Nguyên còn hạn chế (thể hiện qua số
dư nợ, tổng mức cung ứng vốn tín dụng nhà nước trong toàn hệ thống NHPT còn
rất thấp…), qua đó để phát triển tín dụng nhà nước một cách có hiệu quả trên địa
bàn Tây Nguyên. Chính vì vậy, các giải pháp, kiến nghị của đề tài tập trung vào
16
việc phát triển tín dụng nhà nước trên địa bàn Tây Nguyên như: hoàn thiện cơ chế,
chính sách và điều hành tín dụng nhà nước có tính đến đặc thù Tây Nguyên; đổi
mới điều hành tác nghiệp tín dụng nhà nước của các chi nhánh NHPT trên địa bàn
với mục tiêu phát triển an toàn, bền vững; tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng
nhà nước, trước hết là đột phá trong công tác thẩm định, đổi mới trong khâu giám
sát; nâng cao năng lực tiếp cận tín dụng nhà nước đối với doanh nghiệp trên địa
bàn. Đề tài không đề cập đến các giải pháp, kiến nghị về nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển.
- Luận án tiến sĩ kinh tế Kinh tế chuyên ngành Kinh tế tài chính ngân hàng
“Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam” của Trương
Thị Hoài Linh (2011) nhằm đến các mục đích chủ yếu là: nghiên cứu những cơ sở
lý luận cơ bản về Ngân hàng Phát triển và vai trò của Ngân hàng Phát triển đối với
nền kinh tế, hoạt động của NHPT, xây dựng tiêu chí về hiệu quả của NHPT; phân
tích và và đánh giá thực trạng hoạt động của NHPT; đưa ra các đề xuất các giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHPT. Do mục đích nêu
trên, luận án chỉ đề cập đến các giải pháp, kiến nghị về nâng cao hiệu quả hoạt
động của NHPT. Luận án không đề cập đến các giải pháp, kiến nghị về nâng cao
hiệu quả của tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển.
2.1.2. Nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các
chương trình kinh tế lớn và các dự án kinh tế trọng điểm
Trong các công trình nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
được nghiên cứu sinh tham khảo đến nay chưa thấy có nghiên cứu nào về tín dụng
đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm.
Trong các công trình nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
nêu ở trên, có thể tìm thấy khái niệm “chương trình kinh tế lớn”, “dự án kinh tế
trọng điểm” ở một vài công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, đây mới chỉ là các cụm từ
được nhắc đến một cách ngẫu nhiên, không gắn với tên đề tài nghiên cứu, không
phục vụ trực tiếp cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận án đó. Chẳng hạn, trong
luận án tiến sĩ “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước” của Trần Công Hòa, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2007), cụm
từ chương trình kinh tế lớn của Nhà nước xuất hiện trong một đoạn của luận án
như sau: “Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm thực hiện hỗ trợ vốn,
17
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất thuộc các ngành, lĩnh
vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến
khích đầu tư. Đó chính là đầu tư mới, sửa chữa, thay thế khôi phục tài sản cố định,
cải tiến kỹ thuật, đổi mới quy trình công nghệ, xây dựng mới các công trình hạ
tầng kinh tế kỹ thuật và xã hội có khả năng thu hồi vốn trực tiếp” [28, tr. 83].
2.2. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan
2.2.1. Về tín dụng nhà nước
Qua các công trình mà nghiên cứu sinh tiếp cận, tham khảo, có thể thấy, các
nghiên cứu về tín dụng nhà nước hoặc được đề cập dưới tên gọi/thuật ngữ khác
như tài chính công, tín dụng công hoặc tín dụng chỉ định, tín dụng chính sách của
các tác giả ở nước ngoài không nhiều.
Vấn đề tín dụng nhà nước (hoặc được gọi bằng các tên gọi như tín dụng
chính sách, tín dụng chỉ định, tín dụng ưu đãi…) thường được tìm thấy trong các
luận giải về các chủ đề liên quan đến chính sách công nghiệp, chính sách kinh tế vĩ
mô khác.
Bên cạnh đó, có thể tìm thấy một số ít nghiên cứu về tài trợ phát triển nói
chung (có ý nghĩa như tài trợ chính sách) cũng như về các định chế tài trợ phát
triển - thường được gọi dưới tên ngân hàng phát triển – với tư cách là một công cụ
tài chính tín dụng, hoạt động cho vay chính sách, tập trung vốn phục vụ cho các
chính sách phát triển công nghiệp, thúc đẩy công nghiệp hóa ở các nước đang phát
triển, kém phát triển. Các nghiên cứu này chủ yếu do các nhà kinh tế học hoặc hiệp
hội các định chế tài trợ phát triển nghiên cứu và công bố.
Với mục đích “xem xét lại những nhân tố quan trọng quyết định tới thành
tựu của Đông Á từ giác độ quốc gia hoặc khu vực và chỉ ra kinh nghiệm của những
năm 90, hoặc đã thay đổi, hoặc tái khẳng định ra sao những quan điểm chính thống
đầu những năm 90 (của thế kỷ 20) vốn thường được thấy trong Sự thần kỳ Đông Á,
(Ngân hàng Thế giới 1993) [38] và nhiều ấn phẩm khác”, Shahid Yusuf [82] đã
đưa ra kết luận của ông về chính sách công nghiệp ở các nước Đông Á đã được
hậu thuẫn bởi chính sách tài chính của Chính phủ như thế nào, cụ thể là tín dụng
chỉ định (của Chính phủ), đối với sự phát triển của các ngành công nghiệp ở các
quốc gia Đông Á.
Theo đó, thập kỷ 80 của thế kỷ 20 khép lại với việc nhấn mạnh điểm yếu
18
của chính sách “chọn kẻ thắng cuộc” bằng cách hỗ trợ những người thắng cuộc
này các khoản tín dụng theo chỉ định từ hệ thống ngân hàng và bảo vệ chúng
bằng hàng rào thuế quan. Thập kỷ 90 của thế kỷ 20 chứng kiến sự thoái trào của
chính sách công nghiệp ở Đông Á, vì các nước này nhận ra lợi thế của việc mở cửa
và chấp nhận các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới…Nghiên cứu về
các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á trong thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ 20 đã cho
thấy các khoản đầu tư lãng phí vào các ngành luyện kim, hóa chất, phương tiện
vận tải. Các khoản đầu tư này dưới hình thức tín dụng chỉ định cho các nhóm
doanh nghiệp đã được lựa chọn trước và một số nhà máy đã mọc lên theo sự chỉ
đạo của Chính phủ. Các khoản tín dụng chỉ định và những ưu đãi về thuế đã nuôi
dưỡng các tập đoàn công nghiệp khổng lồ (ở Hàn Quốc gọi là chaebol) [82, tr.27].
Shahid Yusuf cũng viết, Cho và Kim (1995) cũng chỉ ra rằng, việc sử dụng
tín dụng theo chỉ định của Chính phủ Hàn Quốc trong một thời gian dài đã gây
nên nhiều thiệt hại do nhiều lý do khác nhau. Trong một thị trường độc quyền
nhóm, các khoản cho vay của ngân hàng được ngầm hiểu có sự đồng bảo hiểm của
Chính phủ sẽ khuyến khích các ngân hàng cho vay và khuyến khích các công ty
đầu tư vào các dự án rủi ro. Các ngân hàng thương mại ở Hàn Quốc đã hoạt động
gần giống như các ngân hàng phát triển, và kết cục là, phải gánh vác các khoản nợ
khê đọng khổng lồ tương đương gần 20% GDP [82, tr.28-29].
Ở Thái Lan, mặc dù chính phủ Thái Lan không sử dụng hình thức tín dụng
chỉ định nhiều như ở Hàn Quốc nhưng những bảo lãnh ngầm dành cho hệ thống
ngân hàng do mối quan hệ mật thiết giữa chính phủ - doanh nghiệp – ngân hàng đã
làm nảy sinh những vấn đề lợi dụng bảo lãnh, cố ý làm liều không kém phần
nghiêm trọng [82, tr.29].
Ở Philipines, các khoản tín dụng ưu đãi cũng như chính sách công khác
đều chịu ảnh hưởng của những nhóm người có quyền thế trong xã hội có mối quan
hệ tốt với chính phủ, còn quốc gia thì không nhận được gì từ hoạt động này [82,
tr.30].
Takatoshi Ito [32] khi luận giải nguyên nhân của hiện tượng thần kỳ châu
Á, cũng nhắc đến việc sử dụng chính sách công nghiệp ở Đông Á mà trong đó có
sự đóng góp của tài trợ chính sách (cho vay chính sách hay tín dụng chính sách)
làm nên thành công của các nước Đông Á. Tác giả viết: đối với những nước đang
19
nỗ lực đuổi kịp các nước tiên tiến thì việc nhận biết những ngành công nghiệp nào
cần thúc đẩy là tương đối dễ dàng, vì họ có thể xác định được những lợi thế so
sánh và có thể nhập khẩu công nghệ, thường là thông qua đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Mô hình đàn nhạn bay có thể chỉ ra những ngành công nghiệp “chính xác”
cần thúc đẩy trong từng giai đoạn phát triển kinh tế nhất định. Hàn Quốc và Đài
Loan đã theo mô hình công nghiệp hóa của Nhật Bản, bắt đầu từ công nghiệp nhẹ,
tiến sang công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất, rồi công nghiệp điện tử và
đến công nghệ cao. Hàn Quốc đã thúc đẩy công nghiệp nặng và công nghiệp hóa
chất, những ngành tạo cơ sở hạ tầng công nghiệp, bằng cách tài trợ theo chính
sách [32, tr.80-82].
Joseph E.Stiglitz [59] chỉ ra một thực tế là việc hầu như tất cả các nền kinh
tế trong khu vực đều có chính sách công nghiệp cho thấy rằng, những chính sách
như vậy là một phần quan trọng trong chiến lược tăng trưởng của họ. Một trong
những cách chính để theo đuổi chính sách công nghiệp là thông qua sự can thiệp
vào thị trường tài chính. Sự can thiệp sẽ giúp khắc phục những thất bại thị trường
đặc trưng trên thị trường vốn. Và một trong những động lực chính tạo nên sự thần
kỳ Đông Á chính là chính sách công nghiệp và vai trò của Chính phủ trong đó có
việc tài trợ chính sách cho một số ngành công nghiệp then chốt hoặc định hướng
xuất khẩu [59, tr.652].
Theo Joseph E.Stiglitz, điều rõ ràng là chính phủ có can thiệp vào sự phân
bổ nguồn lực. Thí dụ, một số chính phủ đã thúc đẩy xuất khẩu bằng cách cấp tín
dụng cho những nhà xuất khẩu thành công và chỉ định tín dụng vào một số ngành
chọn lọc. Việc một số ngành được hỗ trợ đã tăng trưởng, và trong nhiều trường
hợp còn trở thành nền móng cho nền kinh tế của các nước khi tiến vào thiên niên
kỷ mới, cũng là một điều dễ thấy [59, tr.650].
Nghiên cứu “Ngân hàng phát triển trong thiên niên kỷ mới: Đánh giá ngân
hàng phát triển tại các quốc gia được lựa chọn và một số bài học cho tương lai”
của Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản (JERI) phối hợp với Ngân hàng Phát triển
Nhật Bản (DBJ) xuất bản năm 1999 [87] là một báo cáo nghiên cứu tương đối toàn
diện về các định chế tài trợ phát triển (DFI) và vai trò của nó ở các quốc gia được
lựa chọn. Báo cáo đã cho thấy các vấn đề xoay quanh ngân hàng phát triển đã tiến
triển một cách tuần tự, phản ánh mức độ phát triển công nghiệp ở mỗi quốc gia
20
liên quan. Tuy nhiên, vào lúc này (1999), vai trò của các ngân hàng phát triển đã
thu hút được sự chú ý nhiều hơn ở mọi nơi trên thế giới do sự cần thiết của tài trợ
đầu tư và xu hướng thành lập các ngân hàng phát triển tại các nền kinh tế chuyển
đổi và cùng lúc đó là xu hướng xác định lại vai trò của các ngân hàng phát triển
thậm chí ở cả các nước công nghiệp hóa. Nghiên cứu đã chỉ ra những nhân tố cơ
bản quyết định sự cần thiết đối với các ngân hàng phát triển, trong đó có trường
hợp một thị trường tài chính đã thất bại và đòi hỏi phải có sự can thiệp của Chính
phủ. Báo cáo đã cung cấp cho người đọc hiểu biết sâu sắc về vai trò của các ngân
hàng phát triển cũng như những nhân tố dẫn đến việc thành công và thất bại của
họ.
Điều đáng chú ý là tất cả các ngân hàng phát triển tại các quốc gia được lựa
chọn (Nhật Bản; các nước Đông Á (Singapore, Hàn Quốc, Malaisia, Thái Lan,
Philipine, Indonesia); Trung Quốc; Ngân hàng tái thiết Đức (KfW); Ngân hàng
Phát triển Châu Âu) đã đóng một vai trò chủ yếu cho sự nghiệp phát triển và từ đó
tạo ra những ý tưởng cho việc phân tích và rút ra những bài học. Qua nghiên cứu,
các định chế tài trợ phát triển ở Nhật Bản, Đức và các nước Đông Á được thành
lập nhằm cung cấp các khoản vay kỳ hạn cho việc tái thiết đất nước sau chiến tranh
hoặc sau khi giành được độc lập.
Trong giai đoạn đầu của việc tái thiết và công nghiệp hóa, các tổ chức tài
chính tư nhân vận hành một cách non nớt và không cung cấp đầy đủ nguồn vốn
cho phát triển, trong khi đó thị trường vốn chưa phát triển, trong bối cảnh này, các
định chế tài trợ phát triển đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các
nguồn tài trợ dài hạn để đầu tư vốn cho các ngành nghề, dự án cơ sở hạ tầng và các
lĩnh vực nơi mà sự thất bại của thị trường xảy ra. Qua vai trò này, các định chế tài
trợ phát triển đã góp phần vào việc phát triển kinh tế cao tại các nước Đông Á và
châu Âu.
Quá trình phát triển kinh tế ở các nước Đông Á được tiến hành đồng thời
với quá trình công nghiệp hóa. Chính sách công nghiệp của Chính phủ thông qua
các DFI đóng vai trò như một trong những công cụ chuyển từ chính sách thay thế
hàng nhập khẩu ban đầu sang chính sách khuyến khích xuất khẩu. Thậm chí một
số DFI được yêu cầu có vai trò lớn hơn nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tài
chính hoặc mở rộng khả năng cung cấp các khoản tài trợ cho cơ sở hạ tầng, các
21
chức năng mà khu vực tín dụng nhà nước ở Việt Nam đã và đang được chỉ định
cho tổ chức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển ở Việt Nam là Ngân hàng Phát
triển Việt Nam đảm nhận.
Vai trò của các DFI là cung cấp các nguồn vốn cần thiết và đầy đủ dựa trên
các chính sách quốc gia cho các lĩnh vực mà khu vực tài chính tư nhân không thể
đáp ứng đủ. Đây là một nguyên tắc căn bản không tính tới những thay đổi về môi
trường kinh tế xã hội. Tuy nhiên, DFI còn có sứ mệnh thay đổi vai trò của mình để
phù hợp với mức độ công nghiệp hóa của đất nước. Bên cạnh việc tài trợ cho các
ngành nghề truyền thống, các lĩnh vực đầu tư mới như phát triển cơ sở hạ tầng xã
hội, bảo vệ môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là đối tượng
tài trợ của các DFI.
Tóm lại, chức năng không đổi của các DFI là cung cấp các khoản tài trợ
phát triển nhằm phối hợp một cách hài hòa với khu vực tài chính tư nhân để đạt
được các mục tiêu về chính sách quốc gia một cách hiệu quả [90].
Michael P.Todaro [79] đưa ra định nghĩa: Những ngân hàng phát triển là
những tổ chức tài chính nhà nước và tư nhân chuyên cung cấp những quỹ trung và
dài hạn để thành lập và/hoặc mở rộng những xí nghiệp công nghiệp. Lý do ra đời
các ngân hàng phát triển, theo Todaro, là bởi các ngân hàng (ngân hàng thương
mại và ngân hàng tiết kiệm) đang tồn tại thường tập trung vào việc cung cấp các
khoản cho vay tương đối ngắn hạn vì những mục đích thương mại. Hơn nữa,
những ngân hàng này thường đề ra những điều kiện vay không phù hợp với việc
xây dựng các xí nghiệp mới và tài trợ cho các dự án quy mô lớn. Vốn kinh doanh
thực sự cho các ngành công nghiệp mới ít được chú ý. Để tạo khả năng cho sự tăng
trưởng công nghiệp trong những nền kinh tế khan hiếm vốn tài chính, những ngân
hàng phát triển đã tìm cách gây vốn, ban đầu tập trung vào hai nguồn chủ yếu: (1)
những khoản vay song phương và đa phương của các cơ quan viện trợ quốc gia
như Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ, các tổ chức tài trợ quốc tế như Ngân hàng Thế
giới, và (2) những khoản vay của chính phủ nước họ. Trong nhiều trường hợp,
những hoạt động của ngân hàng phát triển đã vượt quá vai trò của ngân hàng
truyền thống là cho những khách hàng đáng tin cậy vay tiền. Những hoạt động của
Ngân hàng phát triển thường bao gồm trực tiếp tham gia vào việc kinh doanh, quản
lý và thúc đẩy trong những xí nghiệp mà họ tài trợ - kể cả những tập đoàn do chính
22
phủ sở hữu và quản lý. Do đó, Ngân hàng phát triển đang giữ một vai trò ngày
càng quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa của nhiều nước kém phát triển.
[79, tr.507]
Nicholas Bruck [88, pp.9] cho rằng, tài trợ phát triển là một khái niệm rộng
hơn trong định nghĩa về một ngân hàng phát triển. Ngân hàng phát triển là một tổ
chức tài chính mà phạm vi hoạt động của nó chỉ được giới hạn trong các chức năng
và nhiệm vụ của nó. Tài trợ phát triển, ngoài những chức năng nhiệm vụ cụ thể của
một ngân hàng phát triển, còn bao hàm những mối quan hệ của tổ chức này với các
cơ quan chính phủ và địa phương, với các cơ quan hoạch định địa phương, mối
liên hệ với các chương trình phát triển quốc gia và với các lĩnh vực, ngành công
nghiệp, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, xã hội và các quá trình phát triển khác. Nghiên
cứu này đã chỉ ra sự phát triển của các ngân hàng phát triển trước Thế chiến thứ II,
sau Thế chiến thứ II và tình hình các ngân hàng phát triển ngày nay, bao gồm các
thông tin về số lượng các ngân hàng phát triển, sự khác biệt giữa các ngân hàng
phát triển, cũng như tầm quan trọng của các ngân hàng phát triển trong nền kinh tế
. Theo tác giả, trong lý thuyết tài trợ phát triển ngày nay, khái niệm “phát triển”
được kết hợp với khái niệm “ngân hàng” để xây dựng một cơ chế tài trợ và thực
hiện các dự án phát triển thường được gọi là “ngân hàng phát triển”.
William Diamond [89] đã dẫn lại các phát biểu phổ biến về ngân hàng phát
triển như: “nhiệm vụ của một ngân hàng phát triển là “phát triển”, hay nói rằng:
“đảm nhận trách nhiệm đẩy mạnh các chính sách phát triển của quốc gia là nhân tố
đặc biệt khiến một ngân hàng trở thành ngân hàng phát triển” hoặc rằng: “các hoạt
động của ngân hàng phát triển phải đóng góp vào lợi ích quốc gia”…để dẫn dắt
cho phần luận bàn của tác giả về chiến lược hay chính sách hoạt động của ngân
hàng phát triển. Tác giả đã thông qua các trường hợp ở Hàn Quốc, Iran, Ấn Độ,
Châu Phi để đi đến kết luận về việc ngân hàng phát triển cần phải thay đổi, định
hướng lại và xác định lại nhiệm vụ của mình nhằm đáp ứng sự thay đổi nhanh
chóng của môi trường xung quanh [89, tr.41].
2.2.2. Về tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình kinh tế lớn và
dự án kinh tế trọng điểm
Cho đến nay, nghiên cứu sinh chưa tiếp cận được công trình nghiên cứu của
nước ngoài nào nghiên cứu trực tiếp về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cho
23
các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
2.3. Những kết quả chính rút ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu và
những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu
2.3.1. Khái niệm, nội dung tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho
các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm
* Khái niệm tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
Sau khi nghiên cứu, tham khảo các công trình, tài liệu nghiên cứu có liên
quan đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, có thể rút ra một số kết quả chủ
yếu như sau:
Một là, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra khái niệm
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án
kinh tế trọng điểm.
Hai là, khái niệm tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã được một vài
công trình nghiên cứu quan tâm, đề cập tới ở các mức độ khác nhau song nhìn
chung nội dung các khái niệm đã có vẫn chưa phản ánh đầy đủ tính chất, đặc điểm
và vai trò của hình thức tín dụng này.
Khái niệm tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển được nhóm tác giả Thái
Bá Cẩn – Lê Xuân Hiếu [3] quan niệm như sau: “Tín dụng nhà nước là các hoạt
động vay – trả giữa Nhà nước với các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế, phục
vụ cho mục đích của Nhà nước”. Khái niệm này chủ yếu mới nêu được phạm vi
của hình thức tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển mà chưa thể hiện được các
khía cạnh về đặc điểm, tính chất của hình thức tín dụng này.
Trần Công Hòa [28] định nghĩa: tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là
sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các hình thức tín dụng để tài trợ đầu tư các dự
án phát triển thuộc lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích. Khái niệm này đã nêu
được cách thức thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong khi đó lại
chưa nêu được đặc điểm của hình thức tín dụng này so với các hình thức tín dụng
khác.
Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến khái niệm tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm nêu
24
trên, vấn đề đặt ra là:
- Hoàn chỉnh khái niệm về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo
hướng khắc phục được những khiếm khuyết trong các khái niệm đã có, nhằm bao
quát được phạm vi, cách thức, tính chất, đặc điểm, vai trò, mục đích của hình thức
tín dụng này.
- Phát triển, xây dựng mới khái niệm về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm.
* Nội dung tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương
trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm
Qua tham khảo các công trình, tài liệu nghiên cứu về tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước cho thấy:
Thứ nhất, cho đến nay, chưa có công trình, tài liệu nào nghiên cứu về tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án
kinh tế trọng điểm. Các nghiên cứu hiện có mới dùng lại ở các nội dung về tín
dụng nhà nước hoặc tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung.
Thứ hai, do phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, cách tiếp cận và
mục đích của các nghiên cứu khác nhau nên kết quả nghiên cứu của các công trình
đã có về tín dụng nhà nước hoặc tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cũng
phản ánh các mức độ khác nhau về nội dung tín dụng nhà nước hoặc nội dung tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Chẳng hạn, ở các nghiên cứu của Lê Quang Cường [19] và Vũ Mạnh Bảo
[1], do phạm vi nghiên cứu được các tác giả đặt ra là hình thức tín dụng nhà nước
nói chung chứ không chỉ khu biệt ở hình thức tín dụng đầu tư phát triển nên các
nội dung như đặc điểm, vai trò của tín dụng nhà nước được đề cập có tính khái
quát chung và phản ánh cho tất cả các hình thức tín dụng nhà nước bao gồm tín
dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, cho vay lại nguồn vốn
ODA, huy động vốn cho NSNN bằng trái phiếu Chính phủ qua hệ thống Kho bạc
Nhà nước…
Nghiên cứu của Trần Công Hòa [28] có đối tượng nghiên cứu trực tiếp là
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nghiên cứu của Nguyễn Chí Trang [80]
có đối tượng nghiên cứu gián tiến liên quan đến tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước. Do vậy, trong các nghiên cứu này, đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển
25
của Nhà nước đã được các tác giả nghiên cứu, đề cập một cách tương đối tập
trung. Song nội dung vai trò của tín dụng đầu tư phát triển trong các nghiên cứu
này lại không được các tác giả đề cập đến.
Khái quát lại, bên cạnh các kết quả nghiên cứu đã có về bản chất, sự ra đời,
đặc điểm, vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, có thể rút ra một số
khoảng trống chưa được nghiên cứu và cần thực hiện là:
- Một là, xây dựng mới các nội dung chưa được nghiên cứu về chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như:
+ Khái niệm về chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm;
+ Đặc điểm của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm;
+ Sự cần thiết của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
- Hai là, xây dựng mới các nội dung chưa có về tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như:
+ Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm; đánh giá ưu nhược điểm của tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm.
+ Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
- Ba là, đối với các kết quả nghiên cứu đã có về tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước, cần bổ sung hoàn thiện thêm các nội dung mà các nghiên cứu đã có
chưa đề cập hoặc đề cập chưa đầy đủ, hoàn chỉnh. Ví dụ, đối với đặc điểm của tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, các nghiên cứu hiện có mới chỉ dừng lại ở
việc liệt kê một số sự khác biệt giữa hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước với các hình thức tín dụng khác. Các nghiên cứu này chưa thực hiện được
việc khái quát hóa và chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước với các hình thức tín dụng khác tập trung ở các đặc điểm chủ yếu như:
mục tiêu hoạt động, mục đích cho vay, đối tượng cho vay, lãi suất cho vay, huy
động vốn và nguồn vốn cho vay, chủ thể nhà nước trong quan hệ tín dụng…
2.3.2. Đánh giá hiệu quả của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
26
cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
Qua nội dung đánh giá hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
trong các công trình nghiên cứu đã tham khảo, có thể rút ra một số kết quả chính
sau:
Thứ nhất, chưa có công trình nghiên cứu nào thực hiện việc đánh giá hiệu
quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự
án kinh tế trọng điểm. Các nghiên cứu đã có mới chỉ đánh giá hiệu quả tín dụng
nhà nước hoặc hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Thứ hai, đã có công trình nghiên cứu của Vũ Mạnh Bảo [1] và công trình
nghiên cứu của Trần Công Hòa [28]) thực hiện việc đánh giá hiệu quả tín dụng nhà
nước hoặc tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Các tác giả này đã đưa ra quan
niệm về hiệu quả tín dụng nhà nước hoặc hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước. Đồng thời các tác giả cũng đã xây dựng nên một số chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả tín dụng nhà nước hoặc tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Trong 02 công trình nghiên cứu nêu trên, quan niệm của các tác giả tương
đối giống nhau về hiệu quả của hoạt động tín dụng nhà nước hoặc hiệu quả của
hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Cụ thể, cả 02 công trình nghiên
cứu nêu trên đều cho rằng, cần phải xem xét hiệu quả tín dụng nhà nước/tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước trên cả bình diện vĩ mô và vi mô, cả về hiệu quả
kinh tế và hiệu quả chính trị - xã hội. Tác giả của 02 công trình nghiên cứu trên
đều đưa ra tiêu chí đánh giá hiệu quả tín dụng nhà nước/tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước tập trung vào 03 đối tượng chính là: hiệu quả đối với nền kinh tế
quốc dân; hiệu quả đối với tổ chức thực hiện quản lý tín dụng nhà nước/tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước; hiệu quả của doanh nghiệp, dự án tiếp nhận và sử
dụng vốn tín dụng nhà nước/tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Trên cơ sở kết quả rút ra từ nội dung đánh giá hiệu quả tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
trong các công trình nghiên cứu được tham khảo trên đây, một số vấn đề cần tiếp
tục làm rõ và xây dựng mới là:
- Tham khảo, kế thừa có chọn lọc quan niệm về hiệu quả tín dụng nhà nước,
hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để nghiên cứu xây dựng mới
quan niệm về hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương
27
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
- Từ quan niệm mới về hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm này, xây dựng mới tiêu
chí đánh giá hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
2.3.3. Các kiến nghị, giải pháp đối với tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
Kết quả chủ yếu có thể rút ra về nội dung kiến nghị, giải pháp đối với tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án
kinh tế trọng điểm từ các nghiên cứu đã được tham khảo là:
Một là, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào đưa ra các kiến nghị, giải pháp
đối với việc nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
Hai là, trong số các nghiên cứu đã được tham khảo, chỉ có công trình
nghiên cứu của Trần Công Hòa [28] đã đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Các nghiên cứu khác không
có các kiến nghị, giải pháp về nâng cao hiệu quả tín dụng nhà nước hoặc tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước.
Ba là, các vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu và xây dựng mới là:
- Tiếp thu, kế thừa có chọn lọc các kiến nghị, giải pháp về nâng cao hiệu
quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã được nêu ra ở công trình nghiên
cứu của các tác giả đi trước.
- Xây dựng mới các kiến nghị, giải pháp về nâng cao hiệu quả tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm. Trong đó, các kiến nghị, giải pháp cần đi sâu, làm rõ và tập trung vào nội
dung nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm chứ không dừng lại ở các kiến nghị, giải
pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung như đã
được đề cập ở các công trình nghiên cứu trước.
3. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Luận án gồm Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
28
nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm.
Chương 2. Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng
29
điểm ở Việt Nam trong thời gian tới./.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN
VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC
CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG
ĐIỂM
1.1.1. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm
Tín dụng thường được quan niệm là một phạm trù kinh tế và đồng thời là
sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người cho
vay và người đi vay theo những cơ chế nhất định về thời gian vay, lãi suất vay…
Tín dụng ra đời khi xã hội có phân công lao động, sản xuất và trao đổi hàng
hóa, trong quá trình trao đổi hàng hóa đã phát sinh các quan hệ vay mượn để thanh
toán, ban đầu bằng hiện vật – hàng hóa, sau này chuyển sang vay mượn bằng tiền
tệ. Như vậy, tín dụng, hiểu theo nghĩa hẹp là một quan hệ kinh tế hình thành trong
quá trình chuyển hóa giá trị giữa hình thái hiện vật và hình thái tiền tệ từ người này
sang người khác theo nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi trong một thời hạn thỏa thuận
nhất định. Tín dụng, hiểu theo nghĩa rộng, là quan hệ gồm hoạt động huy động vốn
và cho vay.
Tín dụng tồn tại và phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau,
các phương thức sản xuất khác nhau, song về bản chất, bao giờ tín dụng cũng biểu
hiện là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng (vay mượn) một lượng giá trị nào
đó (dưới hình thức hiện vật hoặc tiền tệ) từ người sở hữu sang người sử dụng trong
thời hạn nhất định nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng vốn tạm thời cho quá
trình tái sản xuất và đời sống theo nguyên tắc hoàn trả với một lượng giá trị lớn
hơn. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng, phong phú và
ngày càng phát triển, mở rộng về chủ thể tham gia, về quan hệ tín dụng, về đối
tượng và quy mô, hình thức tín dụng.
Tùy vào tiêu thức phân loại được lựa chọn mà người ta có thể phân loại tín
30
dụng thành các loại tín dụng, các hình thức tín dụng khác nhau. Căn cứ vào thời
hạn tín dụng, có các loại tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung, dài hạn. Căn cứ vào
đối tượng tín dụng, có các loại tín dụng vốn lưu động, tín dụng vốn cố định. Căn
cứ vào mục đích sử dụng vốn có các loại tín dụng sản xuất, tín dụng lưu thông
hàng hóa, tín dụng tiêu dùng. Căn cứ vào chủ thể tín dụng, có các loại tín dụng
thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước.
Theo Nguyễn Ngọc Hùng [31]: Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng, mà
trong đó nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của ngân sách
nhà nước, đồng thời là người cho vay để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của
mình trong quản lý kinh tế - xã hội và phát triển quan hệ đối ngoại.
Theo Thái Bá Cẩn [2]: Tín dụng nhà nước là các hoạt động vay – trả giữa
Nhà nước với các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế, phục vụ cho mục đích của
Nhà nước.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (Bách khoa toàn thư tự do) đưa ra định
nghĩa: Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm
thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn
thu không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để Nhà nước hỗ trợ cho các ngành
kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ
quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mô.
Tác giả Thái Bá Cẩn [2] cũng đưa ra định nghĩa: Tín dụng nhà nước cho
đầu tư phát triển là tín dụng đầu tư của Nhà nước cho vay đầu tư với lãi suất ưu
đãi theo kế hoạch của Nhà nước, hoặc theo mục tiêu, định hướng của Nhà nước.
Khái quát lại, có thể hiểu: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một
hình thức tín dụng nhà nước, thể hiện quan hệ tín dụng giữa Nhà nước và các tổ
chức, đơn vị, trong đó Nhà nước vừa là người đi vay để bù đắp thiếu hụt ngân
sách, đồng thời vừa là người cho vay để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội theo mục
tiêu, định hướng của Nhà nước”.
1.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển
Tín dụng đầu tư phát triển (TD ĐTPT) là một loại hình tín dụng, vì vậy, tín
dụng đầu tư phát triển cũng hoạt động theo nguyên tắc vay – trả, song xuất phát từ
bản chất và mục đích riêng của mình mà hoạt động TDĐTPT có những đặc điểm
31
riêng, phân biệt nó với các hình thức tín dụng ngân hàng thương mại (NHTM).
Tín dụng ngân hàng thương mại
Đặc điểm Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động của tín dụng ngân hàng thương mại là nhằm hướng tới mục tiêu lợi nhuận của các tổ chức tín dụng đặt ra.
Tín dụng ngân hàng thực hiện kinh doanh tiền tệ, cung ứng thường xuyên một trong số các nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
Tín dụng đầu tư phát triển TD ĐTPT là nhằm thực hiện các mục tiêu do Nhà nước đặt ra, nhằm hướng tới các lợi ích của nền kinh tế quốc dân; đầu tư vào những lĩnh vực mà tư nhân không muốn làm, NHPT không muốn hoặc không có khả năng cho vay. TD ĐTPT hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà hướng tới mục tiêu cuối cùng là hiệu quả kinh tế - xã hội của các dự án đầu tư phát triển nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, phục vụ phát triển kinh tế xã hội đất nước trong từng thời kỳ.
Mục đích cho vay
Tín dụng ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại (NHTM) chủ yếu cấp tín dụng cho tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn trung hạn, ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất ban đầu, vốn lưu động, vốn mua hàng hóa, vật tư phục vụ sản xuất, kinh doanh, thương mại hoặc nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân.
Mục đích cho vay của TD ĐTPT là để thực hiện các hạng mục, các công trình xây dựng cơ bản, nhà xưởng, hình thành tài sản cố định hoặc thanh toán cho các hợp đồng xây lắp, cung cấp vật tư, thiết bị, máy móc chuyên dụng gắn liền với các dự án đầu tư phát triển nhằm đầu tư, hình thành tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật chất kinh tế xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước.
Đối tượng cho vay
TD ĐTPT cho vay vào các dự án đầu tư phát triển được nhà nước khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi thuộc Danh mục các dự án vay vốn TD ĐTPT được ban hành theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ.
Đối tượng cho vay của tín dụng NHTM là tất cả các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thuộc mọi ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng…
lãi suất
Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay vốn TDĐTPT là lãi suất ưu đãi theo chỉ đạo của Chính phủ, quy định trong từng thời kỳ.
Lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD), NHTM thị trường, theo thỏa thuận giữa bên cho vay và bên vay.
Huy động vốn, nguồn vốn cho vay
Nguồn vốn thực hiện TDĐTPT từ các nguồn: ngân sách nhà nước, nguồn vốn huy động, nguồn vốn nhận ủy thác nguồn vốn ODA...Trong đó, nguồn vốn huy động là nguồn vốn quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn thực hiện TDĐTPT.
Để có vốn thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng, các TCTD, NHTM mại huy động vốn bằng các hình thức như: nhận tiền gửi (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác) của các khách hàng, cá nhân; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong và ngoài nước.
Trong hoạt động huy động vốn TDĐTPT, không có hình thức huy động vốn thông qua nhận tiền gửi thường xuyên của khách hàng, cá nhân.
Trong các hình thức huy động vốn, nhận tiền gửi là hình thức huy động vốn chủ yếu của các TCTD, NHTM.
Huy động vốn bằng phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong nguồn vốn cho vay TD ĐTPT.
Luôn có một bên tham gia là chủ thể Nhà nước (đại diện là tổ chức được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện TDĐTPT).
Chủ thể nhà nước là không bắt buộc, theo đó, bên cho vay có thể là tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã…được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ
Chủ thể nhà nước trong quan hệ
32
tín dụng
chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật hợp tác xã dưới hình thức công ty cổ phần, công ty TNHH, liên doanh, 100% vốn nước ngoài…
Tổ chức tín dụng, NHTM là doanh nghiệp thực hiện một số hoặc tất cả cả các hoạt động ngân hàng.
Tổ chức thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT không phải là doanh nghiệp, không đăng ký kinh doanh theo hình thức doanh nghiệp mà thường được tổ chức dưới hình thức một đơn vị sự nghiệp công của Chính phủ.
Hình thức tổ chức có thể là một trong các hình thức sau: công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty TNHH một thành viên 100% vốn chủ sở hữu, hợp tác xã… và phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Tổ chức thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT hoạt động theo luật riêng hoặc vừa hoạt động theo quy định của luật ngân sách nhà nước, vừa hoạt động theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Địa vị pháp lý, mô hình tổ chức, giấy phép hoạt động, đăng ký kinh doanh của tổ chức cho vay
Tổ chức tín dụng hoạt động theo Giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp phép và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.
1.1.2. Các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm
1.1.2.1. Khái niệm
*Dự án
Dự án là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã
hội hiện đại. Dự án được nhiều lĩnh vực, ngành nghề và các nhóm, các tập hợp
hoạt động, nghiên cứu đưa ra khái niệm.
Dự án thường được hiểu là một tập hợp các đề xuất nhằm thực hiện một
phần hay toàn bộ công việc nhằm đạt được mục tiêu, yêu cầu nào đó trong một
khoảng thời gian xác định với một sự ràng buộc nhất định về nguồn lực thực hiện.
Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (WB): Dự án (Project) là một tập
hợp các hoạt động có liên quan đến nhau nhằm đạt được một hoặc một số mục tiêu
xác định, được thực hiện trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định, dựa
trên những nguồn lực xác định. Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án hỗ trợ kỹ
thuật.
Theo Luật đầu tư năm 2005: Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn
trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong
khoảng thời gian xác định [53].
Theo tính chất sở hữu của chủ đầu tư dự án, dự án đầu tư được phân chia
thành dự án của thành phần kinh tế nhà nước và dự án của các thành phần kinh tế
33
ngoài nhà nước.
Theo quy mô vốn đầu tư và theo tính chất quan trọng của dự án đối với việc
phát triển một ngành, lĩnh vực hoặc đối với nền kinh tế, dự án đầu tư được phân
chia thành các dự án có quy mô nhỏ, trung bình, lớn (tương ứng với tên gọi dự án
nhóm C, dự án nhóm B, dự án nhóm A) và dự án quan trọng quốc gia.
Dự án kinh tế được phân biệt với các dự án mang tính chất xã hội, từ thiện,
tôn giáo…hay các dự án thuần túy bảo vệ môi trường, cảnh quan là ở tính mục
đích kinh tế của dự án.
Dự án kinh tế là dự án đầu tư trong lĩnh vực kinh tế, nhằm thực hiện các
mục tiêu mang tính kinh tế.
*Dự án kinh tế trọng điểm
Dự án trọng điểm có mặt ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Dự án trọng điểm được dùng để chỉ các dự án có tính chất, vai trò quan trọng hơn
so với các dự án khác.
Theo quy định hiện hành [16] về quản lý đầu tư xây dựng công trình (trước
kia thường gọi là đầu tư xây dựng cơ bản), căn cứ trên tiêu chí mức vốn đầu tư cho
dự án hoặc căn cứ vào tính chất quan trọng của dự án mà các dự án được phân loại
thành dự án nhóm A, dự án nhóm B, dự án nhóm C nhằm phục vụ công tác quản lý
dự án, quản lý đầu tư (ví dụ để phân cấp quyết định chủ trương đầu tư, phân cấp
quyết định đầu tư…).
Các dự án nhóm A (có tổng mức vốn đầu tư quy mô lớn hơn cả hoặc có tính
chất, ý nghĩa quan trọng) là dự án, công trình trọng điểm của một ngành, lĩnh vực,
bộ, ngành, địa phương, cần tập trung vốn đầu tư, quản lý, triển khai.
Dự án kinh tế trọng điểm là các dự án ĐTPT có quy mô vốn đầu tư lớn hoặc
có ý nghĩa quan trọng (các dự án nhóm A) trong lĩnh vực kinh tế, trực tiếp tạo ra
các sản phẩm chiến lược, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các ngành, lĩnh vực
then chốt, có tác dụng thúc đẩy quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế hoặc cơ cấu thu
nhập của một bộ phận dân cư. Các dự án ĐTPT này thường nằm trong kế hoạch
phát triển kinh tế quốc gia.
*Chương trình kinh tế
- Chương trình theo nghĩa thông thường trong từ điển tiếng Việt là: “toàn bộ
nói chung những dự kiến hoạt động theo một trình tự nhất định và trong một thời
34
gian nhất định, nêu một cách vắn tắt” [81].
- Chương trình với nghĩa là một khung kế hoạch tổng thể về thời gian, địa
điểm, quy mô, phương thức thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm đạt được một số
mục tiêu xác định đã được áp dụng và triển khai để quản lý các dự án thuộc các
lĩnh vực kinh tế - xã hội thông qua hình thức Chương trình mục tiêu, Chương trình
đầu tư của Chính phủ trong một ngành, lĩnh vực, vùng miền, một hoạt động kinh
tế, xã hội…như là một công cụ để quản lý, tổ chức thực hiện các hoạt động đầu tư,
hoạt động kinh tế - xã hội, cộng đồng…
- Các chương trình đầu tư của Chính phủ trong một ngành, lĩnh vực, vùng
miền, một hoạt động kinh tế - xã hội được các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan
quản lý TD ĐTPT của Nhà nước gọi là “Chương trình kinh tế”.
- Chương trình kinh tế thường được hiểu là tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ,
kế hoạch tổng thể về thời gian, địa điểm, quy mô thực hiện các dự án ĐTPT trong
một giai đoạn nhất định nhằm đạt được một số mục tiêu đề ra của Chương trình để
thực hiện Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong từng thời
kỳ.
*Chương trình kinh tế lớn
Chương trình kinh tế lớn thường là một chương trình phát triển kinh tế của
Nhà nước, mang tính dài hạn, có quy mô lớn hoặc có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết
trong một giai đoạn nhất định, đem lại những thay đổi cơ bản cho một ngành, lĩnh
vực, vùng, miền, thậm chí liên vùng hoặc trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc
gia nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra của Chương trình, qua đó thực hiện một số
mục tiêu xác định trong Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội quốc gia
từng thời kỳ.
1.1.2.2. Đặc điểm của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm
*Chương trình kinh tế lớn được nhận diện bởi một số đặc trưng sau:
* Hình thức của chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn gồm một
tập hợp các dự án thành phần trong tổng thể kế hoạch thực hiện mục tiêu của
Chương trình.
* Tính chất của chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn thường
có mức độ tập trung nguồn lực, ưu đãi cao, thể hiện ý đồ, mong muốn của chính
35
quyền nhằm thể chế hóa đường lối kinh tế của quốc gia trong một thời kỳ cho một
ngành, lĩnh vực, vùng miền, phục vụ các Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
* Nội dung hoạt động của chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn
có bản chất là “bản kế hoạch tổng thể” bao gồm các nội dung về mục tiêu, nhiệm
vụ, giải pháp, cơ chế tài chính, huy động nguồn lực, tổ chức thực hiện, tiến độ thực
hiện để thực hiện mục tiêu đề ra của Chương trình.
* Phạm vi (không gian) thực hiện của chương trình kinh tế lớn: chương
trình kinh tế lớn có địa bàn, phạm vi thực hiện quy mô lớn, mang tính liên ngành,
liên lĩnh vực hoặc liên tỉnh, liên vùng hoặc có thể trên toàn lãnh thổ quốc gia.
* Thời gian thực hiện chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn có
thời gian thực hiện “trong một thời kỳ nhất định”, có thời gian xác định, thường từ
5 – 10 năm (có trường hợp dài hơn) hoặc chia thành các giai đoạn thực hiện, có thể
tương ứng với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 10 năm của đất nước.
* Thẩm quyền phê duyệt chương trình kinh tế lớn: chương trình kinh tế lớn
được phê duyệt bởi cấp có thẩm quyền (Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ) và
thường được ban hành căn cứ vào các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của
Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Nghị quyết (NQ) của Chính phủ về thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước theo các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm, 10 năm hoặc có thể là nhiệm vụ đột xuất, cấp bách.
Chương trình kinh tế lớn phân biệt với Chương trình mục tiêu quốc gia
ở một số khía cạnh sau:
* Chủ thể thực hiện:
+ Chương trình mục tiêu quốc gia thường được giao cho một bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (là các cơ quan quản lý nhà nước) làm cơ quan
quản lý, chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức triển khai thực hiện Chương trình.
+ Chương trình kinh tế lớn là một “cơ chế” để thực hiện các mục tiêu đề ra
của Chương trình kinh tế lớn đó. Do vậy, thường không có một bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được giao làm cơ quan quản lý, chịu trách nhiệm
điều hành, tổ chức triển khai thực hiện Chương trình. Thay vào đó, mỗi cơ quan,
bộ ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
36
trung ương liên quan có nhiệm vụ riêng. Trong đó, cơ quan thực hiện nhiệm vụ TD
ĐTPT (là tổ chức tài chính tín dụng) được giao nhiệm vụ cho vay vốn TD ĐTPT
của Nhà nước để triển khai, thực hiện Chương trình.
* Nguồn vốn thực hiện:
+ Nguồn vốn thực hiện các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia chủ
yếu là nguồn vốn NSNN (vốn cấp phát), một phần khác có thể huy động thêm từ
vốn tín dụng trong và ngoài nước, huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân
và cộng đồng để thực hiện Chương trình.
+ Nguồn vốn thực hiện các dự án thuộc Chương trình kinh tế lớn chủ yếu là
nguồn vốn TD ĐTPT của Nhà nước (vốn tín dụng), một phần khác từ NSNN
(trung ương, địa phương), vốn tự có của chủ đầu tư.
Đặc điểm của Dự án kinh tế trọng điểm
Dự án kinh tế trọng điểm là các dự án ĐTPT có quy mô lớn, có ý nghĩa
quan trọng, then chốt nhằm mục đích phát triển một ngành, lĩnh vực nằm trong
tổng thể kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia từng thời kỳ
nhất định.
Theo quy định về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình hiện hành [16],
dự án đầu tư xây dựng công trình được phân loại theo hai nhóm tiêu chí chủ yếu là:
(i) theo quy mô và tính chất; (ii) theo nguồn vốn đầu tư.
Căn cứ phân loại theo quy mô và tính chất, các dự án bao gồm:
+ Dự án, công trình quan trọng quốc gia: do Quốc hội xem xét, quyết định
chủ trương đầu tư [56].
+ Các dự án còn lại: chia thành 3 nhóm: nhóm A, nhóm B, nhóm C [16]
Các dự án kinh tế trọng điểm là các dự án đầu tư phát triển thuộc nhóm A,
có quy mô lớn hoặc có tính chất, ý nghĩa quan trọng thuộc các lĩnh vực đầu tư then
chốt, trọng điểm của nền kinh tế.
Các dự án nhóm A được xác định theo tổng mức đầu tư của dự án ở từng
ngành, lĩnh vực cụ thể như sau [16]:
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác dầu
khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến
khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt,
37
đường quốc lộ), xây dựng khu nhà ở: có tổng mức vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng.
+ Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thủy lợi, giao thông (khác dự án
giao thông có tổng mức vốn đầu tư trên 1.500 tỷ đồng như nêu trên), cấp thoát
nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện
tử, tin học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu
chính, viễn thông: có tổng mức vốn đầu tư trên 1.000 tỷ đồng.
+ Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ, thủy
tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản, chế biến nông, lâm, thủy sản: có tổng mức vốn đầu tư trên 700 tỷ
đồng.
+ Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh,
truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch,
thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác: có tổng mức vốn đầu tư
trên 500 tỷ đồng.
Ngoài ra, các dự án đầu tư xây dựng công trình: sản xuất chất độc hại, chất
nổ; hạ tầng khu công nghiệp; các dự án thuộc lĩnh vực bảo vệ an ninh, quốc phòng
có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng thì không kể
mức vốn đầu tư là bao nhiêu, đều được xếp vào dự án nhóm A.
1.1.2.3. Sự cần thiết của các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế
trọng điểm
Vai trò, sự cần thiết của các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng
điểm trong nền kinh tế thể hiện chủ yếu qua các khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là
phương thức tập trung vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước để thực
thi các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong từng thời kỳ
Qua thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều quốc gia trên thế giới có thể
thấy, giữa tăng trưởng và vốn đầu tư có mối quan hệ khá chặt chẽ. Để đạt được
mức tăng trưởng cao, cần thiết phải có mức tích lũy và mức chi đầu tư lớn, ngược
lại, để có mức đầu tư lớn và duy trì trong dài hạn nhất thiết phải thông qua tỷ lệ
tăng trưởng cao và ổn định, liên tục. Do vậy, vốn đầu tư là nguồn lực quan trọng
cơ bản cho tăng trưởng, phát triển và công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH)
đất nước. Bên cạnh chính sách huy động vốn thích hợp cần phải có chính sách sử
38
dụng vốn có hiệu quả mới đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng và phát triển đất
nước. Do đó, cơ cấu đầu tư (đầu tư vào đâu) luôn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi
và làm thế nào để tạo ra được một cơ cấu đầu tư hợp lý đảm bảo đạt được tốc độ
phát triển kinh tế nhanh và bền vững luôn là yêu cầu đặt ra cho các chính phủ.
Nhu cầu ĐTPT của toàn bộ nền kinh tế là rất lớn. Trong đó nhiều lĩnh vực
đầu tư của nền kinh tế có thể huy động vốn từ các doanh nghiệp trong và ngoài
nước song cũng có nhiều lĩnh vực đầu tư, do nhu cầu vốn lớn, khả năng thu hồi
vốn chậm, lợi nhuận thấp, không hấp dẫn đầu tư từ khu vực doanh nghiệp, nhưng
lại là các lĩnh vực cần thiết, nhà nước buộc phải sử dụng nguồn vốn đầu tư từ
NSNN hoặc TD ĐTPT của Nhà nước để tạo đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đảm bảo nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững. Vì vậy, nhà nước cần có các
hoạt động chi tiêu công, trong đó có chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN
hoặc TD ĐTPT của Nhà nước để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
đầu tư phát triển sản xuất các ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng của nền kinh tế
nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, ổn định vĩ mô.
Mặt khác, thực tế cũng cho thấy, thị trường không hoàn hảo, đặc biệt là ở
các nền kinh tế thị trường sơ khai, các nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, nơi mà sự vận động của thị trường
chưa diễn ra mạnh mẽ và tuân theo các quy luật thị trường, dẫn tới sự phân bổ
nguồn lực không tối ưu. Chính vì vậy, theo quan điểm của các nhà kinh tế ủng hộ
sự can thiệp của chính phủ, sự can thiệp của nhà nước vào quá trình phân bổ nguồn
lực của nền kinh tế nhằm tạo ra cú hích chung cho nền kinh tế, đẩy nhanh tiến trình
CNH, HĐH nền kinh tế thông qua các chương trình ưu tiên, các dự án ưu tiên cho
lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển một số ngành công nghiệp then chốt
là việc làm tất yếu, nhất là trong các nền kinh tế thị trường non kém này.
Do vậy, trong bối cảnh NSNN chi cho ĐTPT còn hạn hẹp, phải giải quyết
nhiều nhiệm vụ chi và cơ cấu nền kinh tế còn nhiều sơ khai, mức độ hiện đại hóa,
đồng bộ hóa còn thấp, thì các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm sẽ
là phương thức tập trung vốn đầu tư, giúp nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước
để thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, từng thời
kỳ của đất nước.
Thứ hai, các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là
39
phương tiện thực hiện có hiệu quả đường lối, chiến lược phát triển, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH nhờ sức lan tỏa rộng, tác động sâu
đến các ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, then chốt của nền kinh tế
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện CNH, HĐH đất nước,
bên cạnh việc phải đối mặt với tình trạng khan hiếm vốn, các quốc gia còn phải
đứng trước các thách thức trong việc lựa chọn các ngành, nghề, lĩnh vực cần thiết
phải phát triển nhằm tận dụng được lợi thế về tài nguyên, nguồn nhân lực cũng
như các điều kiện phát triển khác nhằm đảm bảo phát triển nền kinh tế nhanh và
bền vững.
Để thúc đẩy phát triển nhanh nền kinh tế, đa số các quốc gia lựa chọn phát
triển một số ngành ưu tiên, có tính chất quan trọng, nền tảng, có tác dụng tạo ra các
yếu tố đầu vào, “bánh mỳ” cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển, tăng cường cơ
sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất cho nền kinh tế, tăng tỷ trọng đầu tư cho
công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó là lý do nhiều quốc gia đã thực hiện
các chương trình ưu tiên, tập trung vốn tài trợ phát triển một số ngành công nghiệp
then chốt cơ bản như hóa chất, cơ khí, luyện kim, cán kéo thép, điện năng, vật liệu
xây dựng, đóng tàu biển, ô tô, xe máy…Việc phát triển một số ngành công nghiệp
cơ bản, then chốt này vừa tạo ra máy móc, nguyên liệu, vật tư cung cấp cho các
ngành, lĩnh vực khác, vừa tạo ra thị trường tiêu thụ lớn cho các loại vật tư, nguyên
liệu, nhân công, qua đó, kéo các ngành, lĩnh vực khác như công nghiệp nhẹ, nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp phát triển, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH nền kinh tế.
Bên cạnh việc thực hiện tập trung vốn cho các dự án kinh tế trọng điểm,
then chốt cho các lĩnh vực công nghiệp cơ bản quan trọng của nền kinh tế, chính
phủ các nước cũng đã thực hiện nhiều chương trình kinh tế lớn để thực hiện mục
tiêu thúc đẩy phát triển các khu vực khó thu hút vốn đầu tư như nông – lâm
nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng cho khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện và bảo vệ
môi trường. Với đặc điểm có địa bàn, phạm vi thực hiện lớn, mang tính liên ngành,
liên vùng, lãnh thổ và có thời gian thực hiện dài, tập trung vốn lớn, cơ chế vận
hành đặc thù, tạo ra sức lan tỏa lớn, các chương trình kinh tế lớn đã thực sự trở
thành công cụ hiệu quả của các quốc gia trong việc thực thi mục tiêu can thiệp của
40
Nhà nước vào nền kinh tế nhằm giảm bớt các khiếm khuyết của thị trường, đảm
bảo công bằng xã hội. Thông qua các chương trình kinh tế lớn, Nhà nước cung cấp
hoặc tạo ra cơ chế để khuyến khích, thu hút nguồn lực thực hiện việc cung cấp các
hàng hóa công cộng (như kết cấu hạ tầng, nước sạch, vệ sinh môi trường, y tế công
cộng…), hạn chế các ngoại ứng (ngoại sinh) tiêu cực như ô nhiễm môi trường, xử
lý rác thải, nước thải, khuyến khích các ngoại ứng tích cực như giáo dục, phổ cập
giáo dục, dạy nghề, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường…
1.1.3. TDĐTPT của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh
tế trọng điểm
1.1.3.1. Khái niệm
Trong quá trình thực hiện chức năng của một nhà nước, các chính phủ
thường đóng vai trò trung tâm của quá trình phân phối các nguồn lực xã hội thông
qua hoạt động tài chính công, thu – chi NSNN. Trong tài chính công, các khoản
chi tiêu công của chính phủ có vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các
hoạt động cung ứng hàng hóa công thiết yếu cho xã hội mà khu vực tư không có
khả năng cung cấp hoặc cung cấp không hiệu quả, qua đó tái phân phối thu nhập
của xã hội, khắc phục các khuyết tật của thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế tăng
trưởng ổn định, hiệu quả và tạo lập sự công bằng xã hội.
Căn cứ vào mục đích chi tiêu của chính phủ, chi tiêu công có thể được phân
chia thành chi xây dựng cơ sở hạ tầng, chi quản lý hành chính, chi an ninh quốc
phòng…hoặc được phân chia thành chi thường xuyên, chi ĐTPT. Cách phân loại
tương đối phổ biến là phân chia chi tiêu công của chính phủ thành chi thường
xuyên và chi cho ĐTPT.
Chi ĐTPT của chính phủ bao gồm các hoạt động chi từ NSNN, chi từ một
số quỹ ngoài NSNN và tín dụng nhà nước. Nhìn chung, quy mô, kết cấu các khoản
chi này phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế - xã hội, phụ thuộc vào mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ phát triển.
Tín dụng nhà nước (TDNN) chủ yếu được sử dụng cho các khoản mục chi
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; chi duy trì hoạt động các doanh
nghiệp nhà nước; chi dự trữ nhà nước; chi ĐTPT sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế;
chi xóa đói giảm nghèo; phát triển bền vững, bảo vệ môi trường…Tín dụng nhà
41
nước cho ĐTPT nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thông qua các dự
án kinh tế trọng điểm, các chương trình kinh tế lớn, quan trọng thường chiếm một
tỷ trọng lớn trong tổng chi TDNN.
Mục đích của TDNN cho ĐTPT thường tập trung hỗ trợ để thực hiện các dự
án ĐTPT thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các chương trình kinh tế lớn
của Nhà nước và các vùng khó khăn, cần khuyến khích đầu tư. Bản chất của TD
ĐTPT của Nhà nước thể hiện quan hệ tín dụng giữa Nhà nước và các tổ chức, đơn
vị, doanh nghiệp trong nền kinh tế, trong đó Nhà nước đóng vai trò vừa là người đi
vay để bù đắp thiếu hụt NSNN, vừa là người cho vay để ĐTPT vào các dự án,
chương trình kinh tế theo định hướng, mục tiêu của Nhà nước.
Tóm lại, TD ĐTPT của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm thường được quan niệm là một hình thức TDNN, thực hiện
chức năng tài chính công của Nhà nước, được thể hiện dưới dạng quan hệ tín dụng
giữa một bên là Nhà nước với một bên là các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp trong
nền kinh tế, trong đó Nhà nước vừa là người đi vay để bù đắp thiếu hụt NSNN,
vừa là người cho vay để đầu tư các dự án phát triển, các chương trình kinh tế lớn
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Nhà nước trong
từng thời kỳ.
1.1.3.2. Đặc điểm của TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự
án kinh tế trọng điểm
Là một hình thức TDNN, vì vậy TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm vừa có các đặc điểm thể hiện bản chất của hình thức
TDNN, vừa có các đặc điểm thể hiện đặc thù của hình thức TDNN cho ĐTPT nói
chung và TDNN cho ĐTPT đối với các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm nói riêng.
Thứ nhất, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội quốc gia
Đây là một đặc điểm quan trọng nhất và cơ bản nhất của hoạt động
TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Bởi lẽ, đặc
điểm này sẽ chi phối cơ chế hoạt động, vận hành, tổ chức thực hiện hoạt động
TDĐTPT cho các chương trình, dự án nêu trên.
Do “sứ mệnh” là công cụ của nhà nước để thực hiện mục tiêu phát triển
42
kinh tế xã hội quốc gia trong từng thời kỳ nên hầu hết các chương trình, dự án này
đã không đặt tính kinh tế đơn thuần, mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Từ đó, hoạt
động TDĐTPT cho việc thực hiện các chương trình, dự án này mang đặc tính
không vì mục tiêu lợi nhuận và để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
quốc gia trong từng thời kỳ.
Để thực hiện được mục tiêu này, hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình,
dự án sẽ vận hành theo một cơ chế mà trong đó các tiêu chí đánh giá, xem xét thẩm
định và chấp thuận cho vay sẽ gồm cả các chỉ tiêu về tài chính, cả các chỉ tiêu về
kinh tế xã hội chứ không thuần túy chỉ xem xét hiệu quả về mặt tài chính như thẩm
định, chấp thuận cho vay trong hoạt động tín dụng NHTM thông thường. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc có những dự án, chương trình, nếu xét về hiệu quả tài
chính theo cơ chế thị trường, không đạt hiệu quả về mặt tài chính, thậm chí hiệu
quả âm, về nguyên tắc sẽ không được tài trợ vốn TDĐTPT của nhà nước. Song do
mục đích cho vay để phát triển kinh tế xã hội quốc gia, nên trong trường hợp việc
đầu tư dự án/chương trình có thể không sinh lời cho tổ chức cho vay, hoặc bản
thân hoạt động đầu tư của dự án/chương trình không sinh lời nhưng hoạt động đầu
tư của dự án/chương trình lại có tác động trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng,
miền, hoặc có hiệu quả về mặt xã hội thì dự án vẫn có thể được lựa chọn.
Thứ hai, duy trì một số cơ chế ưu đãi về lãi suất cho vay, tài sản bảo
đảm tiền vay nhằm thực hiện chính sách hỗ trợ ĐTPT, góp phần điều tiết vĩ
mô nền kinh tế theo định hướng của nhà nước
Lãi suất cho vay TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm thường thấp hơn mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường cùng thời kỳ
thể hiện chính sách ưu đãi của nhà nước đối với các chương trình, dự án đầu tư
nhằm tạo thuận lợi và hấp dẫn các chủ đầu tư dự án, qua đó nhà nước thực hiện
được mục tiêu điều tiết nền kinh tế phát triển theo định hướng của nhà nước. Đồng
thời với cơ chế lãi suất thấp, TDĐTPT của nhà nước nói chung, trong đó có TD
ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thường có mức
bảo đảm tiền vay thấp cùng một số điều kiện tín dụng thuận lợi khác. Các cơ chế
này, một mặt thể hiện chính sách ưu đãi của nhà nước, mặt khác là để phù hợp với
tính chất của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm chủ yếu thực
43
hiện ở những ngành, lĩnh vực có nhiều rủi ro hoặc ở những vùng có điều kiện kinh
tế xã hội còn nhiều khó khăn nhằm đảm bảo điều kiện khả thi cao hơn cho việc
thực hiện các chương trình, dự án này.
Thứ ba, thuận lợi trong huy động được nguồn vốn lớn, tập trung, dài
hạn, đáp ứng yêu cầu vốn cho vay các dự án ĐTPT
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại thông thường, hình thức
huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi từ tổ chức, dân cư là chủ yếu, tỷ lệ huy động
vốn bằng cách phát hành trái phiếu chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nguồn vốn của
các NHTM. Do đó, phần lớn vốn cho vay của các NHTM là vốn ngắn hạn, một
phần vốn trung và dài hạn.
Với ưu thế là một hình thức TDNN, gắn liền với uy tín và quyền lực kinh tế
chính trị của nhà nước, dễ dàng tạo được hệ số tín nhiệm cao đối với các nhà đầu
tư trái phiếu trong và ngoài nước, trên cơ sở vị thế cao nhất của nhà nước trong
nền kinh tế và khả năng vỡ nợ thấp nhất của nhà nước so với các chủ thể khác
trong nền kinh tế, đã tạo nên lợi thế cho hoạt động TDĐTPT nói chung và TD
ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng trong
việc huy động được nguồn vốn lớn, tập trung, dài hạn thông qua việc phát hành
trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu Chính phủ (TPCP) bảo lãnh. Đây là điều kiện
tiền đề cho việc đáp ứng đầy đủ, kip thời nhu cầu vốn cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm với thuộc tính đòi hỏi nguồn vốn lớn, tập trung, dài
hạn.
Thứ tư, việc huy động nguồn vốn lớn, dài hạn có thể gây áp lực đẩy mặt
bằng lãi suất huy động chung trên thị trường lên cao, gia tăng gánh nặng cho
NSNN trong cấp bù lãi suất
Bên cạnh yếu tố thuận lợi trong huy động được nguồn vốn lớn, tập trung,
dài hạn, đáp ứng yêu cầu vốn cho vay các dự án ĐTPT, hoạt động huy động vốn
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm cũng có
những mặt hạn chế của nó.
Một là, việc huy động vốn TDĐTPT cần được đặt trong tổng thể quan hệ
với các kênh huy động khác, bảo đảm cân đối tích lũy, tiêu dùng, đầu tư trong nền
kinh tế. Chẳng hạn, khi tăng cường huy động vốn TDĐTPT cho các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm sẽ hạn chế việc huy động vốn trong xã hội
44
cho các hoạt động đầu tư khác do nguồn lực chung của quốc gia là có hạn, mức độ
tích lũy, tiết kiệm của nền kinh tế là có hạn. Khi xuất hiện nhiều nhu cầu huy động
vốn, nhất là huy động vốn TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh
tế trọng điểm với số lượng lớn, tập trung sẽ có nguy cơ đẩy mặt bằng lãi suất lên,
ảnh hưởng đến mặt bằng giá cả chung trên thị trường.
Hai là, càng đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường, NSNN càng phải tăng
chi cấp bù chênh lệch lãi suất. Về bản chất, TDĐTPT của nhà nước nói chung, TD
ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm cũng là một
khoản chi từ NSNN. Việc huy động vốn TD ĐTPT để cho vay các chương trình/dự
án và NSNN thực hiện việc cấp bù chênh lệch lãi suất là một hình thức giảm cấp
phát không hoàn lại vốn đầu tư từ NSNN. Tuy nhiên, khi quy mô huy động vốn để
cho vay TDĐTPT càng lớn thì mức cấp bù từ NSNN càng tăng. Đặc biệt, trong
giai đoạn thị trường tài chính gặp khó khăn, nguồn vốn khan hiếm, sẽ khó huy
động được nguồn vốn có kỳ hạn dài. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối
giữa huy động và sử dụng vốn, mất cân đối về kỳ hạn vốn (chẳng hạn vốn huy
động có kỳ hạn ngắn 3 – 5 – 7 năm, vốn cho vay có kỳ hạn dài 5 – 7 – 10 – 12 – 15
năm), làm tăng chi phí huy động vốn, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của tổ
chức cho vay TDĐTPT của nhà nước. Đồng thời khi lãi suất huy động trên thị
trường cao sẽ làm cho chênh lệch giữa lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay
vốn cao thì mức bù của NSNN tăng cao theo.
Ngoài ra, với tính chất huy động vốn tập trung, số lượng huy động lớn, thời
gian vay vốn dài, nếu việc sử dụng vốn không diễn ra theo đúng kế hoạch, công tác
giải ngân chậm, không toàn dụng nguồn vốn đã huy động, mất cân đối tạm thời
giữa huy động và cho vay có thể gây lãng phí trong sử dụng vốn, làm tăng chi phí
hoạt động TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
Thứ năm, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận làm giảm trách
nhiệm quản lý, giảm hiệu quả hoạt động tín dụng
Đặc điểm của hoạt động TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm không vì mục tiêu lợi nhuận một mặt tạo thuận lợi cho việc xem
xét, lựa chọn trong quá trình thẩm định, chấp thuận cho vay đối với các chương
trình/dự án; mặt khác cũng chính đặc điểm hoạt động này tiềm ẩn nguy cơ làm
giảm trách nhiệm quản lý, giảm hiệu quả hoạt động tín dụng này. Nguy cơ này thể
45
hiện qua các khía cạnh sau.
Một là, do hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên hoạt động của tổ
chức cho vay không gắn với mục tiêu, động cơ lợi nhuận, từ đó, hoạt động của tổ
chức cho vay sẽ mang tính chất là một tổ chức quản lý tín dụng hơn là một tổ chức
hoạt động ngân hàng và hoạt động thẩm định, chấp thuận cho vay, quản lý, thu hồi
nợ vay không gắn với yếu tố lợi nhuận sẽ làm tăng nguy cơ quan liêu hóa, hành
chính hóa, giảm trách nhiệm quản lý đồng vốn cho vay.
Hai lài, do không vì mục tiêu lợi nhuận, nên các tiêu chí đánh giá, xem xét
khi thẩm định và chấp thuận cho vay đối với các chương trình, dự án được vay vốn
không chỉ bao gồm cả các chỉ tiêu về tài chính mà bao gồm cả các chỉ tiêu về kinh
tế xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình xem xét, đánh giá hiệu quả của một chương
trình, dự án thì việc xem xét, đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của chương trình/dự
án khó khăn, phức tạp hơn việc xem xét, đánh giá hiệu quả tài chính của chương
trình/dự án. Bởi lẽ, các chỉ tiêu, công thức tính toán hiệu quả tài chính đối với một
chương trình/dự án tương đối rõ ràng và được thừa nhận, áp dụng thống nhất, rộng
rãi. Trong khi đó, các chỉ tiêu, công thức tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của từng
dự án có cơ sở và cách tính toán khác nhau, dựa trên các mục tiêu, định hướng,
nhiệm vụ của từng dự án khác nhau. Vì vậy, nếu các tiêu chí đánh giá, thẩm định
tính kinh tế xã hội của dự án không đầy đủ, tin cậy, khoa học, khách quan và dễ
dàng kiểm định thì sẽ làm tăng nguy cơ kết luận thẩm định mang tính chủ quan,
định tính. Từ đó, các dự án kém hiệu quả, thiếu tính khả thi có thể được thông qua,
làm giảm hiệu quả hoạt động tín dụng cho các chương trình/dự án này.
Thứ sáu, hoạt động cho vay theo chỉ đạo dễ xảy ra sai lầm chủ quan,
không hiệu quả
Thông thường, đối tượng cho vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng
thương mại là tất cả các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu
vay vốn thuộc mọi ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội nhằm
đáp ứng nhu cầu vay vốn cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng…
Khác với hoạt động tín dụng NHTM, hoạt động TD ĐTPT cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm có đối tượng cho vay là các dự án, các
chương trình kinh tế được Nhà nước ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ thuộc Danh mục
các dự án vay vốn được Chính phủ ban hành để thực hiện mục tiêu, định hướng
46
phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Danh mục các dự án, chương trình kinh tế do Chính phủ ban hành trong
từng thời kỳ, về bản chất, là một sản phẩm chủ quan, theo tính toán, dự báo của
các cơ quan hoạch định chính sách, các cơ quan quản lý nhà nước thiết kế và trình
Chính phủ ban hành. Chính vì vậy, danh mục đối tượng vay vốn, phạm vi đối
tượng được vay vốn, điều kiện để trở thành đối tượng được vay vốn, liều lượng ưu
đãi cho vay (về thời gian cho vay, lãi suất cho vay, tài sản bảo đảm tiền vay…) đều
là sản phẩm chủ quan, dự báo chủ quan, được ban hành chủ yếu theo quy trình
mệnh lệnh, hành chính, phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, thường
không dựa vào các điều tra, thống kê mang tính xã hội học, thị trường. Do đó, danh
mục đối tượng cho vay này ít hoặc thậm chí là không mang “hơi thở”, tín hiệu từ
thị trường, không phản ánh cung – cầu của thị trường và không tuân theo các quy
luật khách quan của thị trường.
Kết quả là, việc cho vay vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự
án kinh tế trọng điểm theo danh mục do Chính phủ ban hành luôn tiềm ẩn nguy cơ
sai lầm, chủ quan, kém hiệu quả. Chẳng hạn, việc soạn thảo, ban hành danh mục
đối tượng cho vay có thể tạo ra phạm vi đối tượng cho vay quá rộng, tràn lan dẫn
tới việc sử dụng lãng phí nguồn vốn khan hiếm của quốc gia, làm giảm hiệu quả
hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình, dự án này.
Mặt khác, cũng do đặc tính chủ quan trong thiết kế, ban hành cơ chế, chính
sách cho vay mà có thể có trường hợp, ngay sau khi ban hành danh mục đối tượng
cho vay đã trở nên lạc hậu. Vì thế, sự cần thiết, cấp bách phải tập trung đầu tư, cho
vay một số đối tượng nào đó đã không còn, trong khi một số đối tượng khác cần
thiết phải cho vay lại chưa có mặt trong danh mục đối tượng cho vay. Tuy nhiên,
danh mục đối tượng cho vay thường được ban hành bởi một văn bản ở tầm Nghị
định của Chính phủ hoặc Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nên trong trường
hợp phạm vi đối tượng cho vay đã trở nên bất hợp lý thì việc điều chỉnh, thay đổi,
bổ sung danh mục đối tượng cho vay này cũng không dễ dàng thực hiện trong một
thời gian ngắn (do quy trình soạn thảo, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp
luật phải tuân theo quy trình, thủ tục, đòi hỏi thời gian nhất định về lấy ý kiến tham
gia của các cơ quan có liên quan…).
Thực tế này dẫn đến tình trạng, đã phát hiện bất hợp lý cần phải điều chỉnh
47
song cơ quan cho vay vẫn phải tiếp tục thực hiện việc cho vay đối với các đối
tượng đã được quy định trong danh mục đối tượng cho vay. Chưa kể, do việc thiết
kế, ban hành danh mục đối tượng cho vay mang tính chủ quan, không phản ánh
tình hình thị trường, cung cầu về vốn trên thị trường, không dự báo chính xác được
xu hướng cung cầu sản phẩm trên thị trường, cộng với độ trễ về thời gian của các
dự án đầu tư công trình, xây dựng cơ bản dẫn đến tình trạng khi sản phẩm của dự
án ra đời bị lạc hậu về chủng loại, mẫu mã, dư thừa về số lượng sản phẩm cung
ứng ra thị trường…
1.1.3.3. Vai trò, sự cần thiết của hoạt động TDĐTPT cho các chương
trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế
*Là giải pháp huy động vốn giúp bù đắp thiếu hụt NSNN, khai thác các
nguồn vốn trong xã hội, đáp ứng nhu cầu cho ĐTPT
Thứ nhất, tín dụng nhà nước nói chung, TDĐTPT của Nhà nước nói riêng
thoạt tiên ra đời nhằm thực hiện chức năng cơ bản là bù đắp thiếu hụt ngân sách
nhà nước do chi tiêu thường xuyên. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, mở rộng
chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế, TDĐTPT của nhà nước được sử dụng
tích cực hơn, bù đắp các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu
tư phát triển kinh tế, thực hiện chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước.
Để bù đắp thiếu hụt NSNN, các quốc gia phải đối mặt với các lựa chọn như
tăng thuế để bù đắp thiếu hụt, vay nợ, in thêm tiền… Tuy nhiên, những biện pháp
này đều để lại những hậu quả, tác động ngoại ý cho nền kinh tế. Chính vì vậy,
trong giai đoạn mà NSNN còn thường xuyên bị bội chi, tích lũy không đủ bù cho
chi tiêu đầu tư phát triển thì tín dụng đầu tư của Nhà nước là một kênh huy động
có hiệu quả nguồn lực để bù đắp thiếu hụt của NSNN, đáp ứng nhu cầu vốn cho
đầu tư cho phát triển. Nhờ cơ chế tín dụng, nhà nước có thể huy động được nguồn
vốn lớn để đầu tư phát triển kinh tế. Đồng thời, các chủ thể khác trong nền kinh tế
được nhận lại, phân phối lại một phần tài nguyên vốn của xã hội từ NSNN thông
qua cơ chế tín dụng đầu tư của nhà nước. Qua đó, TDĐTPT có tác dụng tích cực
đối với việc tạo dựng và phân bổ nguồn vốn xã hội một cách có hiệu quả.
Thứ hai, trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, vốn đầu tư
luôn là nguồn lực quan trọng đối với mỗi quốc gia. Trong đó, nhu cầu vốn ĐTPT
trung và dài hạn cho xây dựng kết cấu hạ tầng và các ngành, lĩnh vực quan trọng,
48
then chốt của nền kinh tế thông qua các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, các chương trình kinh tế, dự án
kinh tế trọng điểm chủ yếu để ĐTPT cơ sở vật chất kinh tế - xã hội, hệ thống cơ sở
hạ tầng, hình thành các ngành công nghiệp cơ bản, mũi nhọn nhằm cung cấp các
yếu tố, nguyên liệu “đầu vào” quan trọng cho nền kinh tế.
Thông thường, nhu cầu vốn trung và dài hạn này được đáp ứng bởi nguồn
vốn NSNN chi cho ĐTPT, nguồn vốn huy động tiết kiệm của doanh nghiệp, dân
cư. Tuy nhiên, các nguồn vốn này rất hạn hẹp, nhất là ở các nước đang chuyển đổi,
các nền kinh tế đang phát triển do một số nguyên nhân. Cụ thể:
Một là, hệ thống NHTM chủ yếu huy động vốn từ nguồn tiền gửi tiết kiệm
của doanh nghiệp, dân cư nên thường là nguồn vốn ngắn hạn. Kỳ hạn cho vay
(thường là ngắn hạn) của các NHTM không phù hợp với các dự án xây dựng kết
cấu hạ tầng đòi hỏi quy mô vốn lớn, sử dụng vốn trong thời gian dài. Nếu sử dụng
nguồn vốn có kỳ hạn ngắn 1-3 năm để cho vay 10-15 năm sẽ tạo ra nguy cơ rủi ro
thanh khoản cho hệ thống ngân hàng.
Hai là, tại các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế chuyển đổi, thị
trường vốn trung và dài hạn chưa hình thành hoặc kém phát triển do các điều kiện
để phát triển thị trường vốn chưa chín muồi.
Ba là, việc thu hút đầu tư nước ngoài ở các nước này còn hạn chế, nhất là
thu hút đầu tư vào các ngành, lĩnh vực kinh tế ưu tiên, làm cơ sở nền tảng cho việc
thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác phát triển.
Bốn là, nguồn chi từ NSNN cho ĐTPT còn hạn chế. Mặc dù nhận thức
được tầm quan trọng của việc tăng chi ĐTPT, đặc biệt là đầu tư cho kết cấu hạ
tầng song do thu ngân sách còn nghèo nàn và phải ưu tiên dành cho các khoản chi
có tính cấp bách không kém như chi thường xuyên, duy trì bộ máy nhà nước nên
chi đầu tư phát triển từ NSNN thường không đáp ứng được yêu cầu của nhà nước.
Các lý do nêu trên đã tạo ra khoảng chênh lệch khá lớn giữa cung và cầu
trên thị trường vốn trung và dài hạn. Trong bối cảnh đó, để có thể thực hiện được
công cuộc ĐTPT, nhằm tập trung được một nguồn vốn đầu tư lớn với thời gian sử
dụng dài, nhà nước đã sử dụng TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm để tạo lập một kênh huy động vốn trong và ngoài nước nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Khi sử dụng hình thức
49
TDĐTPT, thông qua việc phát hành các công cụ nợ của nhà nước như TPCP hoặc
TPCP bảo lãnh, nhà nước đã huy động được nguồn vốn một cách tập trung với thời
hạn dài, chi phí tương đối rẻ để tài trợ cho các dự án ĐTPT.
Như vậy, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm trước hết là để giải quyết vấn đề thiếu hụt NSNN chi cho ĐTPT, giúp nhà
nước huy động được vốn để tài trợ cho các dự án ĐTPT, đặc biệt là các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, cần có nguồn vốn lớn, tập trung, thời
hạn sử dụng vốn dài, lãi suất vay thấp.
*Là công cụ kinh tế - tài chính của Nhà nước để định hướng thị trường,
tham gia điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội quốc gia trong từng thời kỳ
Kinh tế thị trường là bước phát triển cao của nền kinh tế sản xuất hàng hóa
với nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường thường phải đối mặt với
những thất bại thị trường: các nguồn lực không được phân bổ một cách có hiệu
quả; nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường ngày càng tăng; phân hóa
giàu nghèo ngày càng lớn; mất cân đối trong phát triển kinh tế xã hội giữa các
vùng miền… Những thất bại của thị trường và định hướng phát triển quốc gia là
những lý do cơ bản cho sự can thiệp của nhà nước vào thị trường.
Trong thực tế, điều tiết và can thiệp vào nền kinh tế là yêu cầu khách quan
của mọi nền kinh tế, mọi quốc gia qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử. Sự khác
biệt ở các nước khác nhau và trong từng thời kỳ phát triển là ở mức độ, phạm vi,
cách thức, phương tiện để can thiệp vào nền kinh tế.
Cho đến nay, các nhà kinh tế đều thống nhất rằng, trên thực tế chưa bao giờ
tồn tại một kiểu kinh tế thị trường hoàn toàn thoát ly vai trò nhà nước. Bên cạnh
thành tựu và tác dụng to lớn của mình, kinh tế thị trường còn có những khuyết tật,
đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước để giải quyết những khiếm khuyết của
thị trường. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước can thiệp vào nền kinh
tế nhằm khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường, giúp nền kinh tế vận
hành trơn tru, ổn định, phát triển cân đối, hợp lý, bền vững, khuyến khích công
bằng, bảo đảm an sinh xã hội thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô cơ
bản như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách ngoại thương, chính
50
sách đầu tư, chính sách tín dụng đầu tư phát triển…
Cùng với sự tiến triển của vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường, tài
chính nhà nước, trong đó bộ phận lớn nhất và quan trọng nhất là tài chính công,
bao gồm NSNN và TDNN, là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước
để đảm bảo tính hiệu quả, khuyến khích công bằng, tăng cường và ổn định kinh tế
vĩ mô. Cụ thể, tài chính công, trong đó có TDNN cho ĐTPT không chỉ đóng vai
trò huy động các nguồn lực tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu cho an ninh
quốc phòng, duy trì bộ máy nhà nước mà nó còn có vai trò quan trọng trong việc
thực hiện chức năng quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bên cạnh các công cụ
quản lý, điều tiết vĩ mô khác, thông qua hoạt động chi đầu tư phát triển, TDĐTPT
đã trở thành công cụ tài chính quan trọng của nhà nước can thiệp vào nền kinh tế
nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế, ổn định và đảm bảo công bằng xã hội.
Với tư cách là một bộ phận của chính sách tài khóa, đồng thời là một bộ
phận của chính sách đầu tư, một hình thái đặc biệt của TDĐTPT, hoạt động
TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói chung
đóng vai trò vừa là cách thức (giải pháp), vừa là phương tiện (công cụ) của nhà
nước để điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường hiện đại nhằm mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, thể hiện qua một số khía cạnh sau.
Một là, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng
điểm là công cụ tài trợ vốn cho các chương trình, lĩnh vực kinh tế trọng điểm để
tăng cường cơ sở vật chất kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
CNH, HĐH là tất yếu đối với các nước đang phát triển. Nội dung trọng tâm
của quá trình này là thực hiện tập trung nguồn lực đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho nền kinh tế mà trong đó chủ yếu là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, các lĩnh vực kinh tế ưu tiên,
đưa công nghiệp trở thành ngành có tỷ trọng đóng góp cao trong cơ cấu kinh tế.
Muốn đạt được mục tiêu này, nhà nước cần phải thực hiện đầu tư vào các chương
trình, dự án kinh tế trọng điểm, then chốt, có tác dụng tạo ra các động lực phát
triển, làm “đầu tàu” cho phát triển các ngành, lĩnh vực khác, cung cấp các yếu tố
“đầu vào” cho các ngành, lĩnh vực khác, qua đó để điều chỉnh cơ cấu kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Việc thực hiện các chương trình, dự án này đòi hỏi nguồn vốn lớn, sử dụng
51
trong thời gian dài, điều kiện vay vốn ưu đãi. Chính vì vậy, trong điều kiện nguồn
vốn còn hạn chế, khan hiếm và ngày càng trở nên đắt đỏ, nhất là ở các nước có nền
kinh tế đang phát triển, thì TDĐTPT của nhà nước, với đặc tính là nguồn vốn tập
trung, dài hạn, lãi suất ưu đãi… đã trở thành công cụ quan trọng, thiết yếu để tài
trợ cho việc thực hiện các chương trình, dự án kinh tế trọng điểm.
Hai là, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng
điểm hỗ trợ đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, các vùng kinh tế kém phát triển,
vùng sâu, vùng xa.
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư thường tập trung vốn đầu tư
vào những ngành có lợi nhuận cao, thu hồi lợi nhuận nhanh hay đầu tư vào những
vùng có điều kiện hạ tầng kinh tế xã hội thuận lợi. Trong lúc đó, chiến lược phát
triển kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối, đồng bộ giữa các ngành, các
vùng. Nói cách khác, bên cạnh mục tiêu hiệu quả tài chính, chiến lược phát triển
kinh tế đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các mục tiêu kinh tế xã hội như thay đổi cơ
cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo tăng trưởng
kinh tế một cách bền vững.
Tuy nhiên, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung, nhất là kết cấu hạ
tầng nông nghiệp, nông thôn (giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng, trạm
bơm tưới tiêu…) có đặc điểm là đầu tư vốn lớn, khó thu hồi vốn, lợi nhuận thấp,
rủi ro cao (do còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thiên tai, thời tiết diễn biến khó
lường), khu vực tư nhân, cả trong và ngoài nước không muốn hoặc ít tham gia đầu
tư. Đặc biệt, đối với các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những nơi mà cơ sở hạ tầng như điện,
thông tin liên lạc, nước sạch, đường sá, các dịch vụ giáo dục, y tế, chăm sóc sức
khỏe còn thiếu, kém phát triển, nguồn nhân lực tại chỗ không đáp ứng được yêu
cầu của các nhà đầu tư.
Để khuyến khích, hỗ trợ các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực,
vùng miền này, bên cạnh các ưu đãi khác về giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế,
cần có thêm những ưu đãi khác như tín dụng đầu tư của nhà nước với các ưu đãi về
thời hạn cho vay dài, lãi suất thấp, tài sản thế chấp ít… Do vậy, TDĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm có tác dụng hỗ trợ đầu tư cho
nông nghiệp, nông thôn, các vùng kinh tế kém phát triển, vùng sâu, vùng xa. Thậm
52
chí, trong một số trường hợp, khó thu hút vốn đầu tư, nhà nước cần phải tự mình
đứng ra, thông qua vốn TDĐTPT để tài trợ vốn thực hiện đầu tư cho nông nghiệp,
nông thôn, vùng kinh tế kém phát triển để xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo các
điều kiện để phát triển kinh tế xã hội các lĩnh vực, vùng miền này. Qua các hoạt
động ưu đãi đầu tư hoặc đầu tư của nhà nước bằng TDĐTPT, nhà nước thực hiện
được vai trò điều tiết vĩ mô, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, phát triển hài hòa giữa các vùng miền.
Ba là, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
là giải pháp thu hút đầu tư, tài trợ vốn cho các lĩnh vực y tế, giáo dục, nhà ở, đảm
bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, cải thiện và nâng cao mức sống người dân.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội là
mối quan tâm của hầu hết các nhà nước trên thế giới. Song trong nền kinh tế thị
trường, việc cung cấp các hàng hóa công cộng như nước sạch, y tế công cộng…và
hạn chế các ngoại ứng (ngoại sinh) tiêu cực như ô nhiễm môi trường, rác thải,
nước thải, khuyến khích các ngoại ứng (ngoại sinh) tích cực như giáo dục, phổ cập
giáo dục, đưa trẻ đến trường, dạy nghề…, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi
trường, bảo vệ những người dễ bị tổn thương… là những lĩnh vực mà khu vực tư
nhân không muốn tham gia do tính phi lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp, kém hiệu
quả, khó thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế nếu không có sự hỗ trợ, ưu đãi
của Nhà nước. Trách nhiệm của các nhà nước là nhà nước có thể tự mình cung cấp
hoặc ban hành các quy định nhằm khuyến khích, hỗ trợ các lực lượng thị trường
tham gia cung cấp các hàng hóa công cộng, các dự án phục vụ an sinh xã hội. Do
vậy, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là một
trong các giải pháp quan trọng để thực hiện và hỗ trợ, thu hút các lực lượng thị
trường tham gia tài trợ vốn đầu tư cho các lĩnh vực y tế, giáo dục, nhà ở, đảm bảo
an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, cải thiện và nâng cao mức sống người dân.
*Góp phần thay đổi phương thức tài trợ cho đầu tư phát triển, nâng
cao hiệu quả đầu tư nhà nước
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng được mở rộng về quy mô, tăng cường
về số lượng, chất lượng sức sản xuất, NSNN ngày càng cần được bồi đắp để chi
tiêu tương ứng cho các nhu cầu về xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế
và xã hội nhằm đáp ứng cho các hoạt động kinh tế xã hội ngày càng gia tăng của
53
các chủ thể trong nền kinh tế, nếu tiếp tục sử dụng hình thức cấp phát không hoàn
lại từ nguồn vốn NSNN cho ĐTPT, thì khả năng đáp ứng vốn của nhà nước cho
ĐTPT sẽ rất hạn chế.
Trong bối cảnh đó, việc phát triển hình thức TD ĐTPT trong nền kinh tế thị
trường đi liền với việc thay đổi phương thức tài trợ cho ĐTPT, thay vì chỉ thực
hiện các khoản chi ĐTPT bằng cơ chế cấp phát vốn ngân sách, không hoàn lại và
không ràng buộc nghĩa vụ trả nợ vay, hình thức TD ĐTPT, với đặc tính hoàn trả
của cơ chế tín dụng, giúp nhà nước có điều kiện để quay vòng, truy hoàn nguồn
vốn đầu tư. Mặt khác, cơ chế vay – trả tạo ra sức ép đối với các chủ đầu tư thực
hiện việc sử dụng vốn TD ĐTPT một cách hiệu quả, qua đó đảm bảo cho việc mở
rộng đầu tư của nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư của nhà nước và
hiệu quả đầu tư chung của xã hội. Do vậy, TD ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn đóng vai trò góp phần thay
đổi phương thức tài trợ cho đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước.
1.1.4. Hiệu quả hoạt động TDĐTPT của Nhà nước cho các chương trình kinh
tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm
1.1.4.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động TDĐTPT cho các chương trình
kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm
*Quan niệm về hiệu quả
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế đặc trưng trong nền kinh tế sản xuất hàng
hóa. Hiệu quả kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa kết quả kinh tế thu được và chi
phí bỏ ra của một chủ thể nhất định. Hiệu quả kinh tế được đo lường bằng kết
quả/chi phí. Trong cơ chế thị trường, mọi chủ thể kinh tế đều phải quan tâm tới
hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả xã hội phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích về mặt xã hội thu được
và chi phí bỏ ra của một chủ thể nhất định. Hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra
trong một môi trường xã hội nhất định. Do đó, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu doanh nghiệp chỉ quan tâm tới hiệu quả kinh tế,
không quan tâm tới hiệu quả xã hội thì sự tồn tại và phát triển sẽ không bền vững.
Xuất phát từ chức năng của mình, nhà nước phải quan tâm cả hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xã hội. Chẳng hạn, khi đầu tư, nhà nước vừa phải quan tâm đến khả năng
54
bảo toàn vốn, khả năng sinh lời của đồng vốn; vừa phải quan tâm đến tác động của
nó trên các khía cạnh: giải quyết vấn đề việc làm, công bằng xã hội, môi trường…
Đó chính là hiệu quả kinh tế - xã hội.
Hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả tổng hợp, là lợi ích kinh tế và lợi ích
xã hội mà một chủ thể nhận được so với các chi phí bỏ ra. Với tư cách người đại
diện cho xã hội, mọi hoạt động của nhà nước đều phải được quan tâm đến hiệu quả
kinh tế - xã hội.
*Quan niệm về hiệu quả hoạt động TDĐTPT cho các chương trình kinh
tế lớn và các dự án kinh tế trọng điểm
Mục tiêu của hoạt động TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án
kinh tế trọng điểm, trong đó bao gồm mục tiêu của tổ chức được giao thực hiện
nhiệm vụ này, là nhằm hướng đến lợi ích của nền kinh tế quốc dân, phục vụ các
mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
Phương thức hoạt động TDĐTPT chủ yếu là cho vay theo các chương trình
kinh tế, các dự án được ưu tiên, khuyến khích trong một số ngành, lĩnh vực then
chốt, trọng điểm theo quy định của Chính phủ và một số chương trình cho vay
khác theo chỉ định của Chính phủ để thực hiện chính sách TD ĐTPT của quốc gia,
không vì mục tiêu lợi nhuận, không hoạt động theo phương thức kinh doanh như
các tổ chức tín dụng, ngân hàng. TD ĐTPT của Nhà nước còn nhằm thực hiện các
mục tiêu xã hội như: tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người nghèo; cải thiện
điều kiện sống của người dân, phát triển giáo dục – đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực, phát triển con người…
Với mục tiêu và phương thức hoạt động như vậy, hiệu quả của hoạt động
TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm và hiệu quả
hoạt động của tổ chức thực hiện hình thức tín dụng này không nhằm đến hiệu quả
kinh tế đơn thuần, mà phải là hiệu quả kinh tế - xã hội. Đây là quan điểm xuất phát
từ lợi ích quốc gia mà nhà nước là người đại diện.
Từ những phân tích trên đây về hiệu quả hoạt động TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, tác giả cho rằng: hiệu quả hoạt
động TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm chính là
hiệu quả tổng hợp, cả về kinh tế và xã hội, được xét trong phạm vi toàn bộ nền
kinh tế; là mối quan hệ giữa lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, của toàn xã
55
hội và chi phí của nền kinh tế quốc dân, của xã hội bỏ ra.
Trong khuôn khổ nội dung nghiên cứu của một đề tài luận án, trên cơ sở
cách tiếp cận và quan niệm hiệu quả hoạt động TDĐTPT cho các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như trình bày ở trên, dưới góc độ coi hoạt
động tín dụng này là một hình thức tín dụng có tính chất đặc thù, hoạt động trong
lĩnh vực ngân hàng nhưng phi lợi nhuận, nhằm thực hiện chính sách TDĐTPT
quốc gia, Luận án thực hiện việc đánh giá hiệu quả của hoạt động TD ĐTPT cho
các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm theo hướng:
+ Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong đóng góp vào sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
+ Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động của tổ chức cho vay
với tư cách là công cụ của Chính phủ trong thực hiện hoạt động TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
1.1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động TDĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm
Nhóm chỉ tiêu đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước
Để đánh giá hiệu quả hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn,
dự án kinh tế trọng điểm, trước hết cần đánh giá kết quả, sự đóng góp của hoạt
động tín dụng này vào sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội quốc gia theo các mục
tiêu đề ra.
Hoạt động TD ĐTPT nói chung và TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm có mục tiêu đề ra là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển
của một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, then chốt, chương trình kinh tế lớn nhằm
thực hiện chính sách TD ĐTPT, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia trong từng thời kỳ.
Do vậy, nhóm chỉ tiêu này cho biết kết quả, sự đóng góp của hoạt động tín
dụng này vào nền kinh tế quốc dân và sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia
trong từng thời kỳ như thế nào thông qua hoạt động tài trợ vốn của nó, thể hiện ở
các chỉ tiêu cụ thể sau:
- Mức độ đóng góp trong huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã
56
hội quốc gia
Tốc độ tăng trưởng kinh tế có quan hệ mật thiết, hữu cơ với tỷ lệ vốn đầu tư
s g = k
của toàn bộ nền kinh tế và hệ số vốn – sản lượng tăng thêm theo công thức:
Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng kinh tế; s là tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư; k là
tỷ lệ vốn - sản lượng.
Ở các nền kinh tế mà mô hình của sự phát triển còn phụ thuộc nhiều vào
vốn thì việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Với tư cách là một công cụ tài chính của Chính phủ, là giải pháp khai thác,
huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển, TD ĐTPT nói
chung và TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
trước hết là để giải quyết vấn đề thiếu hụt NSNN chi cho đầu tư phát triển, giúp
nhà nước huy động thêm vốn để tài trợ cho các dự án, chương trình kinh tế lớn,
trọng điểm, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế.
Do vậy, chỉ tiêu này cho biết mức độ đóng góp của nguồn vốn TD ĐTPT
cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong huy động nguồn
lực cho đầu tư phát triển của quốc gia.
= Tỷ lệ mức độ đóng góp của nguồn vốn TD ĐTPT Tổng số vốn huy động được Tổng vốn đầu tư toàn xã hội cùng thời kỳ
(CT1.1)
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ đóng góp của nguồn vốn TD ĐTPT
trong nền kinh tế và sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia càng lớn và
ngược lại.
- Mức độ gia tăng giá trị tài sản cố định, tăng cường cơ sở vật chất cho nền
kinh tế
Bản chất của hoạt động TD ĐTPT nói chung là cho vay để đầu tư vào các
dự án đầu tư phát triển. Theo các nhà kinh tế đầu tư, đầu tư phát triển là bộ phận cơ
57
bản của đầu tư, là hoạt động sử dụng vốn trong hiện tại, nhằm tạo ra những tài sản
vật chất và trí tuệ mới, năng lực sản xuất mới và duy trì những tài sản hiện có,
nhằm tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Kết quả trực tiếp thu được của
hoạt động đầu tư phát triển được phản ánh qua mức độ đạt được của quá trình thi
công xây dựng công trình, nhà máy, làm gia tăng tài sản vật chất, tài sản trí tuệ,
nguồn nhân lực không chỉ cho chủ đầu tư mà cho cả nền kinh tế. Công trình hay
hạng mục công trình hoặc các đối tượng xây dựng khác có khả năng phát huy tác
dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hóa hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho
xã hội) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, có thể đưa vào sử dụng ngay
được gọi là tài sản cố định.
Chính vì vậy, vốn TD ĐTPT cho vay vào các dự án đầu tư phát triển thuộc
các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, mà trong đó chủ yếu dành
cho việc mua sắm trang thiết bị, máy móc, xây dựng nhà xưởng, công trình chủ
yếu là cho vay để hình thành nên tài sản cố định của các dự án đầu tư phát triển.
Tài sản cố định được đầu tư xong và được đưa vào sử dụng sẽ làm gia tăng
năng lực sản xuất của doanh nghiệp, của ngành kinh tế; từ đó làm gia tăng sản
lượng, doanh thu, lợi nhuận cho dự án, doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế
của địa phương, vùng và toàn bộ nền kinh tế. Do đó, chỉ tiêu mức độ gia tăng giá
trị tài sản cố định đánh giá hiệu quả và mức đóng góp của hoạt động TD ĐTPT
cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm vào nền kinh tế, phục
vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Giá trị tài sản cố định được hình
thành và gia tăng qua các thời kỳ càng lớn càng chứng tỏ mức độ đóng góp của
hoạt động tín dụng này đối với nền kinh tế và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
quốc gia càng lớn.
AV TD ĐTPT AV Mức độ gia tăng giá trị = tài sản cố định
(CT1.2.)
Trong đó: AV TD ĐTPT là giá trị tài sản cố định tăng thêm trong kỳ nhờ
được tài trợ vốn TD ĐTPT; AV là tổng giá trị tài sản cố định tăng thêm trong kỳ
58
của nền kinh tế.
- Mức độ hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH
CNH, HĐH nền kinh tế là tất yếu trong quá trình phát triển của mọi quốc
gia. Nội dung chủ yếu của CNH, HĐH là tập trung nguồn lực phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, hình thành, xây dựng các ngành công nghiệp cơ bản, mũi
nhọn, tạo dựng thế mạnh của nền kinh tế, góp phần đưa tỷ trọng đóng góp của
công nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế quốc gia.
Để thực hiện quá trình CNH, HĐH, mỗi quốc gia có đường lối, bước đi
riêng của mình song không thể bỏ qua tiến trình đầu tư vốn cho các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nhằm hình thành nên các ngành công nghiệp
có tính chất động lực, tạo nền tảng phát triển cho các ngành, lĩnh vực khác, có tác
dụng “kéo” các ngành, lĩnh vực khác phát triển. Qua đó, có tác dụng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Mức độ đóng góp vào phát triển các ngành, = lĩnh vực công nghiệp then chốt Tỷ lệ vốn TD ĐTPT đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt Tổng số vốn TD ĐTPT cho vay trong cùng thời kỳ
(CT 1.3)
Chỉ tiêu vốn TD ĐTPT đầu tư cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh
tế trọng điểm vào nền kinh tế nói chung cũng như vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh
vực then chốt nói riêng càng lớn, càng tập trung bao nhiêu càng cho thấy mức độ
đóng góp lớn bấy nhiêu của nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong đóng góp vào việc hỗ trợ phát triển các ngành,
lĩnh vực then chốt, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
- Mức độ hỗ trợ đầu tư phát triển các địa bàn có điều kiện khó khăn, các
lĩnh vực khó thu hồi vốn, đảm bảo an sinh xã hội
Bên cạnh nhiệm vụ tập trung cho vay đầu tư vào các chương trình/dự án
kinh tế lớn, trọng điểm nhằm xây dựng, hình thành, phát triển một số ngành, lĩnh
59
vực công nghiệp then chốt, có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo triển khai
đường lối CNH, HĐH của một quốc gia, TD ĐTPT còn được sử dụng như một
công cụ đắc lực của các Chính phủ trong thực hiện mục tiêu hỗ trợ các địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các lĩnh vực khó thu hồi vốn, lĩnh vực nông
nghiệp nông thôn… Nhờ đó, cơ cấu ngành, vùng kinh tế sẽ hợp lý hơn; góp phần
đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội giữa các vùng, miền,
lĩnh vực.
Chỉ tiêu vốn TD ĐTPT tài trợ vào các lĩnh vực này càng nhiều, càng có
nhiều chương trình, dự án trong lĩnh vực này và nhiều chương trình/dự án này
hoàn thành, đi vào hoạt động, có hiệu quả, thành công cho biết đóng góp của
nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình/dự án kinh tế lớn, trọng điểm đã phát
huy hiệu quả, thực thi được mục tiêu đề ra trong các lĩnh vực này.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động của tổ
chức cho vay
Bên cạnh việc xem xét, đánh giá kết quả, mức độ đóng góp của hoạt động
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm vào nền kinh
tế quốc dân và sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, còn cần xem xét,
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động của tổ chức cho vay với tư
cách là công cụ của Chính phủ trong thực hiện hoạt động TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
Việc xem xét, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động, tính
lành mạnh của tổ chức cho vay trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT nói
chung và hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm nói riêng là cần thiết. Bởi lẽ:
Thứ nhất, để đạt được mục tiêu là công cụ thực hiện chính sách hỗ trợ đầu
tư phát triển của Nhà nước, Tổ chức cho vay phải thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm
an toàn hoạt động ngân hàng, bảo toàn vốn, quản lý và sử dụng vốn đúng mục
đích, có hiệu quả các nguồn vốn được giao và huy động của tổ chức. Trường hợp
ngược lại sẽ trực tiếp làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của tổ chức,
làm giảm hiệu quả hoặc dẫn đến không thực hiện được mục tiêu của Chính phủ
trong thực hiện cho vay các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
Do vậy, trước khi hoàn thành nhiệm vụ là công cụ của Chính phủ, Tổ chức
60
cho vay phải hoàn thành nhiệm vụ, đảm bảo được các chỉ số cơ bản của một định
chế tài chính. Nói cách khác, Tổ chức thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT phải là một
ngân hàng và hiệu quả hoạt động của nó được xem xét, đánh giá theo các tiêu chí
của một tổ chức hoạt động ngân hàng bao gồm các tiêu chí cơ bản về đảm bảo an
toàn hoạt động, bảo toàn vốn, quản lý và sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả.
Tuy nhiên, do mục đích, tính chất của hoạt động TD ĐTPT cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói chung nên các tiêu chí đánh giá hiệu
quả an toàn hoạt động, bảo toàn vốn, quản lý và sử dụng vốn của tổ chức cho vay
đối với hình thức tín dụng này có các đặc thù riêng, tương ứng với tính chất hoạt
động phi lợi nhuận của nó.
Thứ hai, trong quá trình hoạt động, Tổ chức cho vay phải đảm bảo hạn chế
cấp bù NSNN. Một đặc thù quan trọng trong hoạt động TD ĐTPT nói chung và
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng là
khi thực hiện nhiệm vụ cho vay TD ĐTPT của Nhà nước, Tổ chức cho vay được
NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất. Mức cấp bù được xác định trên cơ sở chênh lệch
giữa lãi suất hòa đồng các nguồn vốn cho vay và lãi suất cho vay. Vì vậy, hiệu quả
sử dụng vốn của tổ chức cho vay trong thực hiện hoạt động TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm cũng được thể hiện qua tiêu chí
mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN.
Trên cơ sở cách tiếp cận như trên về đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và an
toàn hoạt động của Tổ chức cho vay, với tư cách là công cụ của Chính phủ trong
thực hiện hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm, các chỉ tiêu cụ thể được sử dụng để đánh giá như sau:
- Mức độ thực hiện bảo toàn và phát triển vốn
Vốn là một điều kiện sống còn, tiên quyết trong hoạt động của một ngân
hàng. Vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các
chức năng của một ngân hàng. Vốn vừa là phương tiện, vừa là đối tượng kinh
doanh của một tổ chức hoạt động ngân hàng.
Tổ chức cho vay TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm, về bản chất, không phải là một ngân hàng thương mại (hoạt động vì
mục tiêu lợi nhuận) mà là một hình thức Ngân hàng của Chính phủ, một Quỹ đầu
tư phát triển của Chính phủ (hoạt động không vì mục đích lợi nhuận). Do vậy, chỉ
61
tiêu thực hiện bảo toàn và phát triển vốn của tổ chức cho vay TD ĐTPT không
được xem xét dưới lăng kính của một ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh
vốn, cung ứng các dịch vụ ngân hàng nhằm mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu
không thực hiện được nhiệm vụ bảo toàn, phát triển vốn thì tổ chức cho vay sẽ mất
vốn, giảm vốn, không còn vốn để thực hiện nhiệm vụ cho vay. Vì vậy, bảo toàn và
phát triển vốn là điều kiện tiền đề để thực hiện nhiệm vụ của tổ chức cho vay.
Đối với các NHTM, quy định pháp luật của nhiều nước và thông lệ quốc tế
đã quy định rõ tỷ lệ an toàn vốn, xác định trên cơ sở vốn tự có so với tài sản có quy
đổi theo tỷ trọng rủi ro của từng loại tài sản. Đây là hệ số cơ bản để đánh giá mức
đủ vốn cho ngân hàng hoạt động an toàn. Một ngân hàng có đủ vốn là yếu tố đầu
tiên đảm bảo cho ngân hàng đó hoạt động an toàn. Tỷ lệ này phải đạt mức tối thiểu
theo quy định ở mức phổ biến là 9%.
Đối với các ngân hàng phát triển - là tổ chức thực hiện cho vay TD ĐTPT
nói chung, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
nói riêng – thường chưa có quy định mang tính pháp định về tỷ lệ an toàn vốn
(CAR). Do vậy, mức độ bảo toàn và phát triển vốn của tổ chức cho vay TD ĐTPT
chủ yếu được xác định, tính toán trên cơ sở quan hệ giữa vốn chủ sở hữu của tổ
chức cho vay so với tổng dư nợ cho vay TD ĐTPT.
= Mức độ bảo toàn và phát triển vốn TD ĐTPT Tổng vốn chủ sở hữu Tổng dư nợ cho vay TD ĐTPT
(CT1.4)
Tỷ lệ này cao biểu hiện tính đủ vốn, biểu hiện sự ổn định, lành mạnh và
hoạt động hiệu quả của một tổ chức cho vay TD ĐTPT và ngược lại.
* Tỷ lệ nợ xấu (NPL ratio)
Cùng với chỉ tiêu đủ vốn hoạt động thì chất lượng tài sản có cao là yếu tố
quan trọng đảm bảo cho ngân hàng hoạt động an toàn. Chất lượng tài sản có được
phản ánh tập trung trước hết ở chất lượng của hoạt động tín dụng. Một ngân hàng
có chất lượng hoạt động tín dụng cao thể hiện qua việc thu nợ gốc và lãi đúng hạn,
bảo toàn được vốn cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn thấp…thì ngân hàng đó được đánh giá
cơ bản là hoạt động an toàn, hiệu quả. Tỷ lệ nợ quá hạn, đặc biệt là tỷ lệ nợ quá
62
hạn được phân loại vào các nhóm 3,4,5 so với tổng dư nợ là một chỉ số quan trọng
để đánh giá chất lượng tín dụng, mức độ tín dụng xấu hay tốt và qua đó đánh giá
mức độ hoạt động an toàn, hiệu quả của một ngân hàng.
= Tỷ lệ nợ xấu (nợ quá hạn được phân loại vào nhóm 3,4,5) Dư nợ xấu trong kỳ đánh giá Tổng dư nợ trong kỳ đánh giá
(CT1.5)
- Mức cấp bù chênh lệch lãi suất
Một trong những lý do cơ bản và là mục đích quan trọng của sự ra đời hình
thức TD ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh
tế trọng điểm là nhằm bù đắp sự thiếu hụt tạm thời của NSNN. Chính vì vậy, có
thể coi TD ĐTPT là một hình thức ứng trước vốn NSNN cho đầu tư phát triển
thông qua hình thức tín dụng, cho vay và thu hồi vốn gốc, lãi. Chi phí của hình
thức đầu tư vốn NSNN này là số cấp bù chênh lệch lãi suất cho tổ chức thực hiện
TD ĐTPT và phí quản lý, vận hành của tổ chức thực hiện TD ĐTPT. Do mức cấp
bù được xác định trên cơ sở chênh lệch giữa lãi suất hòa đồng các nguồn vốn đi
vay và lãi suất cho vay nên mức cấp bù chênh lệch lãi suất trên tổng dư nợ cho vay
càng lớn chứng tỏ chi phí của NSNN cho hình thức TD ĐTPT càng lớn và ngược
lại. Điều đó có nghĩa là, khi mức cấp bù chênh lệch lãi suất trên tổng dư nợ TD
ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm càng nhỏ thì hiệu
quả sử dụng vốn của tổ chức cho vay hình thức tín dụng này nói riêng và hiệu quả
của hoạt động tín dụng này nói chung càng lớn và ngược lại.
1.2. TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC TẠI MỘT SỐ QUỐC
GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
1.2.1. TDĐTPT của Nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, một số quốc gia đã thành lập một cơ cấu tài
chính - tín dụng mới với nhiệm vụ được đặt ra là tái thiết lại nền kinh tế, tập trung
nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng, tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực ưu
tiên cao, một số ngành công nghiệp then chốt của nền kinh tế nhằm nhanh chóng
tạo tiền đề cho các ngành kinh tế khác phát triển, thúc đẩy xuất khẩu, tạo nguồn
63
tích lũy, đẩy mạnh công nghiệp hóa.
Việc xây dựng và phát triển các công cụ tài chính – tín dụng của mình giúp
các Chính phủ để huy động và phân bổ có hiệu quả nguồn lực của quốc gia nhằm
nhanh chóng công nghiệp hóa nền kinh tế ở một số quốc gia, thường được thực thi
dưới tên gọi chính sách công nghiệp ở các quốc gia này, bằng cách sử dụng cơ chế
tài trợ theo định hướng chính sách của Chính phủ hay còn được gọi là tài trợ phát
triển thông qua các ngân hàng phát triển (NHPT).
Dưới đây là kết quả tìm hiểu về hoạt động của các ngân hàng phát triển nói
riêng - tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng chính sách (tài trợ phát triển) – cũng
như hoạt động tín dụng chính sách nói chung, trong đó có hoạt động tín dụng chính
sách cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở một số quốc gia
tiêu biểu gồm CHLB Đức, Nhật Bản, Trung Quốc.
1.2.1.1. CHLB Đức [90]
Hoạt động tài trợ chính sách hay tài trợ phát triển (tương tự như hình thức
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở Việt Nam) ở CHLB Đức ra đời khá sớm,
ngay sau chiến tranh thế giới thứ 2. Vào tháng 11/1948, nước Đức đã thành lập
Ngân hàng Tái thiết Đức (tiếng Đức: Kreditanstalt fur Wiederaufbau) - KfW -
nhằm tạo dựng một công cụ mạnh triển khai công cuộc tái thiết đất nước. Chức
năng ban đầu của KfW là cung cấp các khoản vay dài hạn để tái thiết các ngành
công nghiệp cơ bản như thép, than thông qua nguồn vốn đặc biệt được lập từ một
phần của Chương trình khôi phục châu Âu (ERP) mà được biết tới dưới tên gọi
chung là Kế hoạch Marshall.
Năm 1952 KfW bắt đầu cho vay trung dài hạn tài trợ xuất khẩu. Năm 1961,
Luật KfW được sửa đổi nhằm mở rộng hoạt động thành “tái thiết hoặc thúc đẩy
nền kinh tế Đức” và cho phép KfW triển khai chương trình cho vay toàn diện trong
nước nhằm phát triển các vùng, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và
vừa và các dự án khác phục vụ nền kinh tế. Cùng thời gian đó, KfW bắt đầu
chương trình cho vay vốn của Chính phủ Đức cho các nước đang phát triển.
Năm 1973, KfW bổ sung thêm chức năng bảo lãnh tín dụng. Kể từ thập kỷ
80, KfW tập trung vào cho vay các dự án bảo vệ môi trường và cho các chính
quyền địa phương vay. Đối với cho vay nước ngoài, KfW tập trung vào việc mở
64
rộng phạm vi hoạt động thông qua tài trợ xuất khẩu.
Với việc nước Đức tái thống nhất vào năm 1990, KfW tập trung vào
chương trình tái thiết khu vực Đông Đức trước đây. Năm 1994, KfW bắt đầu
Chương trình sáng tạo như là một công cụ để hỗ trợ hoạt động nghiêu cứu và triển
khai trong nước.
Đến nay, chức năng chủ yếu của KfW là:
- Tài trợ cho các khoản vay mà cho đến nay các tổ chức tín dụng khác
không có khả năng huy động vốn cần thiết để tài trợ, cho vay đối với các dự án
phục vụ cho công cuộc tái thiết hoặc thúc đẩy nền kinh tế Đức;
- Tài trợ cho các khoản vay liên quan đến các hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp trong nước; và:
- Thực hiện bảo lãnh trong khuôn khổ các nghiệp vụ trên;
- Tài trợ cho các khoản vay nhằm phục vụ việc tài trợ các dự án giúp cho
các nước khác;
- Cho vay đối với các công ty nước ngoài thực hiện đầu tư ở Đức và cho các
công ty Đức vay vốn để đầu tư ra nước ngoài;
- Thực hiện tài trợ xuất khẩu dài hạn;
- Cho vay ODA cho các nước đang phát triển.
KfW được thành lập theo Luật Ngân hàng KfW và không chịu sự điều
chỉnh của Luật Ngân hàng Đức (tương tự như Luật các tổ chức tín dụng ở Việt
Nam).
Bên cạnh nguồn vốn điều lệ được cấp ban đầu (vốn pháp định của KfW do
Chính phủ Liên bang đóng góp 80% và 20% là do chính quyền các Bang đóng
góp), nguồn vốn hoạt động chủ yếu của KfW là từ việc phát hành trái phiếu.
Các hoạt động cho vay của KfW đều có lãi suất ưu đãi, trừ hoạt động tài trợ
xuất khẩu. Lãi suất cho vay do Chính phủ liên bang quyết định.
KfW là một tổ chức tài chính công của Liên bang Đức, do Bộ Tài chính
Liên bang giám sát trực tiếp. Cơ cấu tổ chức của KfW gồm hai bộ phận: Hội đồng
Giám sát và Ban Giám đốc điều hành. Hội đồng giám sát là cơ quan quản lý cao
nhất của KfW, có chức năng giám sát, hoạch định chiến lược và chính sách hoạt
động của KfW, phân bổ nguồn vốn cho các hoạt động của ngân hàng, chỉ định cơ
65
quan kiểm toán, phê duyệt các khoản vay lớn…
Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ Kinh tế & Lao động Liên bang luân phiên
nhau giữ chức chủ tịch và phó chủ tịch của Hội đồng này. Hội đồng gồm các thành
viên là Bộ trưởng một số bộ của Liên bang; 5 đại diện do Thượng viện cử; 7 đại
diện do Hạ viện cử; Đại diện của các ngân hàng thế chấp, tiết kiệm, ngân hàng
HTX, ngân hàng công nghiệp, tổ chức tín dụng công nghiệp; Đại diện của các
chính quyền tất cả các bang, các hiệp hội ngành nghề công nghiệp, thủ công
nghiệp, nhà cửa, nông nghiệp; đại diện của Công đoàn.
1.2.1.2. Nhật Bản [91]
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đứng trước sự suy giảm sản xuất đang lan
rộng, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định thông qua và thực hiện một Chương trình
sản xuất ưu tiên nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp
chế tạo và khai khoáng. Chính sách này được thực hiện nhằm làm tăng sản lượng
của ngành khai khoáng và công nghiệp chế tạo thông qua việc mở rộng năng lực
sản xuất của hai ngành then chốt là than và thép. Để khuyến khích sản xuất ưu tiên,
Chính phủ Nhật Bản đã sử dụng nhiều công cụ tài khóa và tiền tệ khác nhau, bao
gồm cả các biện pháp điều tiết trực tiếp và biện pháp mang tính chính sách như tài
trợ vốn qua Ngân hàng tài chính tái thiết (RFB), một định chế tài trợ chính sách
đầu tiên của Nhật Bản được thành lập vào năm 1947. Để đáp ứng cho Chương
trình sản xuất ưu tiên, RFB đã cung cấp nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế Nhật
Bản thời bấy giờ. RFB cung cấp hơn 80% tổng nguồn vốn đầu tư cho các ngành
công nghiệp chủ chốt như than, thép, hóa chất, năng lượng, tàu biển, dệt may. Phần
lớn nhu cầu vốn đầu tư cho các ngành sản xuất ưu tiên được đáp ứng bởi RFB và
cùng với đó là sự hỗ trợ về giá đã khiến cho chương trình sản xuất ưu tiên được
triển khai thành công, mang lại sự phục hồi nhanh chóng cho sản xuất công nghiệp
ở Nhật Bản sau chiến tranh. Vào tháng 3/1949, RFB buộc phải dừng hoạt động cho
vay do có nhiều ý kiến cho rằng chính các giải pháp tài trợ cho các ngành ưu tiên
và sự hỗ trợ về giá cho các ngành này được coi là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
lạm phát tăng cao.
Để giải quyết tình trạng khan hiếm nguồn vốn, ngày càng trở nên trầm trọng
hơn khi cuộc chiến tranh Triều Tiên nổ ra năm 1950, Chính phủ Nhật Bản đã quyết
66
định thành lập một số định chế tài trợ chính sách với chức năng cung cấp nguồn
vốn ổn định cho các ngành công nghiệp, trong đó có NHPT Nhật Bản được thành
lập vào tháng 4 năm 1951.
Nhiệm vụ chủ yếu của NHPT Nhật Bản ngay sau khi thành lập là tài trợ cho
việc khôi phục cơ sở hạ tầng công nghiệp và phát triển các ngành công nghiệp chủ
chốt khác như than, thép, vận tải biển…Tiếp đó trong suốt thời kỳ tái thiết nền
kinh tế, thập kỷ 50 của thế kỷ XX, thông qua NHPT Nhật Bản, nguồn vốn tín dụng
nhà nước ở Nhật Bản đã đóng vai trò chủ đạo trong tập trung tài trợ cho các ngành
công nghiệp cơ bản then chốt của nền kinh tế như năng lượng, sắt thép, than, tàu
biển…Việc hiện đại hóa các ngành công nghiệp này và mở rộng đầu tư nhằm tới
mục tiêu tháo gỡ các nút thắt cổ chai trong sản xuất để gia tăng sản lượng xuất
khẩu, tăng trưởng bền vững, đồng thời tạo điều kiện đổi mới các ngành công
nghiệp khác.
Cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60 thế kỷ XX, với chính sách tập trung vào
tăng trưởng công nghiệp hơn nữa và sự phát triển liên vùng cân đối, chính sách tín
dụng ưu đãi của Nhật Bản tiếp tục ưu tiên tập trung ưu đãi phát triển các ngành
công nghiệp non trẻ như chế tạo máy, điện tử, sợi hóa học, dệt tổng hợp cũng như
các ngành hóa dầu, công nghiệp sản xuất ô tô…nhằm nâng đỡ, tạo đà cho tăng
trưởng kinh tế; đồng thời tập trung cho vay để phát triển kinh tế địa phương nhằm
điều chỉnh chênh lệch vùng miền.
Trong giai đoạn cuối những năm 1960, đầu những năm 1970 (1966 – 1971),
khi Nhật Bản chuyển sang một giai đoạn tăng trưởng cao, tín dụng nhà nước qua
NHPT Nhật Bản bắt đầu tập trung tài trợ cho cạnh tranh quốc tế phù hợp với
chuyển dịch sang một hệ thống kinh tế mở. Đồng thời, tập trung cho các dự án
phát triển xã hội và cải thiện mức sống quốc gia. Các lĩnh vực ưu tiên trong giai
đoạn này bao gồm các dự án phát triển đô thị, phát triển vùng và chống ô nhiễm
môi trường cũng như các biện pháp khác nhằm giảm bớt tác động của quá trình
tăng trưởng nóng.
Đầu những năm 1970 cho tới đầu những năm 1980, NHPT Nhật Bản
chuyển hướng tập trung vào việc dự trữ tài nguyên và các hoạt động bảo đảm cung
năng lượng ổn định, một hoạt động có vị trí rất quan trọng đối với nền kinh tế sau
67
cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Một trong những trọng tâm khác của Ngân hàng trong
thời kỳ này là những điều chỉnh đối với sự mất cân đối trong tăng trưởng kinh tế
và yêu cầu nâng cao mức sống của người dân.
Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 (1985 – 1995), trọng tâm ưu
tiên của Chính phủ thông qua NHPT Nhật Bản tập trung vào cải thiện nguồn vốn
xã hội, phát triển công nghệ sáng tạo, tái cấu trúc công nghiệp Nhật Bản và thích
ứng với quá trình quốc tế hóa. Trong giai đoạn 1999 đến nay NHPT Nhật Bản
(DBJ) tập trung vào 3 lĩnh vực hoạt động chủ yếu là: (1) phát triển khu vực, (2) cải
thiện mức sống (bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai), (3) tài trợ cho các
ngành quan trọng, mang tính chiến lược, đóng góp cho sự phát triển bền vững của
nền kinh tế Nhật Bản.
DBJ được thành lập và hoạt động theo Luật Ngân hàng Phát triển Nhật Bản.
DBJ được tổ chức là một cơ quan của Chính phủ. Ngân hàng phát triển Nhật Bản
không thuộc sự quản lý của Ngân hàng trung ương Nhật Bản. Bộ Tài chính là cơ
quan chịu trách nhiệm toàn bộ với các khoản nợ của DBJ. Là một ngân hàng của
Chính phủ, DBJ không phải thực hiện quy định tỷ lệ vốn đầy đủ hay bất kỳ quy
định nào khác có liên quan của các cơ quan quản lý tiền tệ. DBJ không phải xác
định trước mức dự trữ như các ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn hoạt động ban đầu của DBJ do Chính phủ (thông qua Bộ tài
chính) cấp và được cung cấp ổn định từ các nguồn vốn dài hạn từ các quỹ tín thác
của Chính phủ huy động từ Quỹ tiết kiệm bưu điện, quỹ phúc lợi, quỹ bảo hiểm
nhân thọ…Ngoài ra, DBJ còn huy động vốn từ thị trường quốc tế thông qua phát
hành trái phiếu có bảo lãnh của Chính phủ.
Lãi suất cho vay của DBJ không phải do Ngân hàng trung ương Nhật Bản
định ra. Trên cơ sở tham khảo lãi suất trái phiếu Chính phủ, ý kiến của các bộ
ngành liên quan, đặc biệt là Bộ tài chính, cũng như xem xét các mức lãi suất do các
ngân hàng thương mại, JDB đưa ra lãi suất cho vay của mình.
1.2.1.3. Trung Quốc [92]
Công cuộc đổi mới hệ thống tài chính ở Trung Quốc được bắt đầu vào tháng
12/1978, song hành cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Để giải
quyết các vấn đề tồn tại từ những cải cách tài chính trong những năm 1980, vào
tháng 11 năm 1993, tại kỳ họp mở rộng của BCH TW Đảng cộng sản Trung Quốc,
68
BCH TƯ Đảng cộng sản Trung Quốc đã ban hành chủ trương đối với những vấn
đề tồn đọng để xây dựng kinh tế thị trường XHCN với một loạt biện pháp như: (i)
thành lập một hệ thống ngân hàng trung ương vững mạnh; (ii) thành lập ngân hàng
chính sách và tách bạch hoạt động giữa hai ngành ngân hàng chính sách và ngân
hàng thương mại; (iii) hình thành thị trường tiền tệ và tự do hóa lãi suất; (iv) cải
cách hệ thống quản lý ngoại hối.
Một trong những kết quả quan trọng của chủ trương nói trên là việc khai
sinh 3 ngân hàng chính sách: Ngân hàng phát triển Trung Quốc (CDB) ra đời vào
ngày 17/3/1994; Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc được thành lập ngày
26/4/1994 và Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Trung Quốc được thành lập ngày
18/11/1994. Trong đó CDB đảm trách việc quản lý tín dụng cho các dự án tầm
trung và lớn.
Hoạt động tài trợ chính sách ở Trung Quốc được sử dụng nhằm thực thi các
chính sách của Chính phủ đảm bảo các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ
phát triển. CDB được sử dụng như một công cụ để huy động các nguồn vốn trong
nước và nước ngoài phù hợp với các mục tiêu và kế hoạch chiến lược cho phát
triển kinh tế quốc gia; quản lý ngân sách cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
trọng điểm của nhà nước, các ngành cơ bản, các ngành xương sống, các ngành mới
và công nghệ cao để thúc đẩy sự phát triển nhanh, lành mạnh và bền vững của nền
kinh tế quốc dân; các dự án đổi mới cơ sở hạ tầng và kĩ thuật trong các lĩnh vực
như giao thông vận tải, khai thác than, dầu mỏ, điện lực, nguyên liệu thô, ô tô, dệt
may, lắp máy, điện tử, nông lâm nghiệp; nỗ lực góp phần hài hòa, giảm khoảng
cách chênh lệch về mức độ phát triển kinh tế giữa miền Trung và phía Tây đất
nước với miền duyên hải phía Đông…
Trước năm 1997, CDB thi hành các chính sách tiền tệ và tài khóa của chính
quyền trung ương bằng cách kiểm soát tổng số lượng đầu tư, hạn chế cho vay đối
với các dự án bất hợp lý, ưu tiên cung cấp vốn cho các dự án có triển vọng và lợi
nhuận cao. Trong một môi trường kinh tế thiếu những giới hạn tổng quát, CDB
đóng vai trò quan trọng trong giảm bớt áp lực lạm phát, kiềm chế xu hướng tăng
trưởng quá nóng của lĩnh vực đầu tư tài sản cố định, cũng như đạt được sự “tiếp
đất nhẹ nhàng” thành công của nền kinh tế.
Sau năm 1997, khi thị trường người mua gia tăng, nền kinh tế Trung Quốc
69
chuyển từ thời kỳ thiếu thốn sang thời kỳ thặng dư cấu trúc ở mức thấp, với tổng
cầu còn khá yếu. Vào lúc đó, chính phủ Trung Quốc chủ trương chính sách thúc
đẩy nhu cầu trong nước nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, và đưa ra những biện
pháp như tăng phát hành trái phiếu kho bạc cho việc xây dựng các công trình cơ sở
hạ tầng giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Từ năm 2000 đến nay, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, để phù hợp với
các cam kết với WTO, Trung Quốc tiếp tục thực hiện một số cải cách nhằm điều
chỉnh vai trò điều tiết của nhà nước đối với thị trường theo hướng tăng cường giám
sát của nhà nước đối với các các ngành năng lượng, viễn thông, tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, duy trì và bảo đảm xã hội phát triển hài hòa, tăng cường phúc lợi
xã hội, bảo vệ môi trường.
Trong giai đoạn 2001 – 2010 và các năm gần đây, CDB vẫn tiếp tục trung
thành với nguyên tắc hoạt động là công cụ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
của Chính phủ, thực thi các kế hoạch trung và dài hạn của Chính phủ, hỗ trợ cho
tăng trưởng kinh tế thông qua định hướng giữ ổn định tỷ lệ tài trợ cho các lĩnh vực
năng lượng, giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng đô thị; tiếp tục thúc đẩy sự phát
triển khu vực phía tây; tiếp tục hỗ trợ tích cực các dự án công nghiệp công nghệ
cao trọng điểm; hỗ trợ cho vay các dự án cạnh tranh có hiệu quả cao và triển vọng
thị trường tốt như viễn thông, khí tự nhiên và các dự án hóa dầu; tiếp tục hỗ trợ có
chọn lọc cho các dự án sản xuất sản phẩm và nguyên liệu thô quan trọng; cải thiện
môi trường sinh thái và chất lượng sống của người dân; tiếp tục hỗ trợ tín dụng cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như xây dựng các thị trấn nhỏ. Định hướng
hoạt động của CDB cho thấy, CDB chuyển dần từ tài trợ cho các lĩnh vực công
nghiệp, sang lĩnh vực xã hội, phát triển vùng, hạ tầng cơ sở hướng tới phát triển
bền vững.
CDB là ngân hàng 100% sở hữu nhà nước. Với vai trò là cơ quan phục vụ
các mục tiêu chính sách do nhà nước đề ra, CDB không hướng tới việc tối đa hóa
lợi nhuận. Mục tiêu chính của CDB là đạt được lợi nhuận và bảo toàn vốn. Để
kiểm soát hoạt động của CDB, một Ủy ban giám sát bao gồm các cán bộ cấp cao
của Ủy ban Phát triển và Kế hoạch Nhà nước, Ủy ban Kinh tế và Thương mại Nhà
nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Văn phòng Kiểm toán
quốc gia, Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế và một số vị trí được Hội đồng Nhà
70
nước bổ nhiệm để chịu trách nhiệm giám sát CDB.
Vốn điều lệ của CDB do Bộ tài chính cấp. Nguồn vốn hoạt động cơ bản của
CDB là phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh tới các định chế tài chính
trong nước (với tỷ lệ chiếm hơn 90% tổng vốn tài trợ). Giai đoạn đầu, việc phát
hành trái phiếu hoàn toàn dựa vào đặt mua bắt buộc. Từ 1998, CDB bắt đầu thực
hiện cơ chế huy động vốn theo định hướng thị trường theo hình thức phát hành trái
phiếu đấu thầu cạnh tranh. Đáng lưu ý là trong cơ cấu vốn chủ sở hữu của CDB,
vốn được cấp từ NSNN vẫn chiếm trên 50%, cho thấy CDB vẫn được hỗ trợ tài
chính rất mạnh từ Chính phủ.
Lãi suất cho vay của CDB tại thời điểm thành lập 1994 thấp hơn lãi suất
cho vay của Ngân hàng trung ương Trung Quốc ban hành là 20%. Các năm sau đó,
lãi suất cho vay của CDB gần giống như lãi suất cho vay của các ngân hàng
thương mại với các thỏa thuận ưu đãi về lãi suất theo cách cấp bù chênh lệch lãi
suất. Việc cấp bù chênh lệch lãi suất được thực hiện với từng dự án.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.2.2.1. Bài học về sử dụng TDĐTPT như một công cụ của Chính phủ để
phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ
Thứ nhất, TD ĐTPT được sử dụng để tập trung tài trợ cho các dự án công
nghiệp then chốt, trọng điểm quốc gia phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trên cơ sở nghiên cứu bối cảnh hình thành, ra đời và cơ chế vận hành hoạt
động tín dụng chính sách ở một số quốc gia nêu trên, có thể thấy, mục tiêu hoạt
động của các ngân hàng phát triển nói riêng, hoạt động tài trợ chính sách, tài trợ
phát triển nói chung ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó tiêu biểu là các quốc
gia được nghiên cứu ở trên là cung cấp tài chính cho các dự án thuộc các lĩnh vực
ưu tiên cao của Chính phủ, phục vụ các chính sách phát triển kinh tế của đất nước
trong từng thời kỳ. Ttín dụng chính sách ở các quốc gia nêu trên thường được sử
dụng để tập trung đầu tư cho các dự án công nghiệp trọng điểm, các dự án thuộc
các ngành công nghiệp cơ bản, then chốt như điện, than, đóng tàu biển…Trường
hợp của Nhật Bản, CHLB Đức trong bối cảnh tái thiết đất nước, khôi phục và phát
triển công nghiệp sau chiến tranh thế giới thứ 2 khá tiêu biểu cho nhận định này. Ở
Trung Quốc, ngay sau khi thành lập, CDB tập trung tài trợ cho các dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng trọng điểm quốc gia, các ngành xương sống, các dự án quy mô lớn
71
và vừa như: Dự án đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang; dự án đường sắt Bắc
Kinh – Cửu Long; Dự án nhà máy thủy điện đập vòm Nhị Than, Dự án bảo vệ
nguồn nước đập Tiểu Lăng Đế, Dự án đường sắt Nam Ninh – Côn Minh, các dự án
sân bay quốc tế tại 2 thành phố Bắc Kinh và Thượng Hải, tuyến tàu điện ngầm Bắc
Kinh – Phục Hưng – Bát Vương Phần, nhà máy điện hạt nhân tại Đại Á Loan
(Quảng Đông) và Quảng Tây. Những dự án trọng điểm quốc gia được CDB cho
vay chiếm hơn 70% trong tổng số dự án CDB tài trợ [92].
Thứ hai, TD ĐTPT được tập trung hỗ trợ các ngành, lĩnh vực mới, tiên
phong, công nghệ cao, thúc đẩy xuất khẩu, tạo việc làm
Ở CHLB Đức, từ cuối thập niên 1950, tín dụng chính sách của Chính phủ
thông qua KfW đã bắt đầu cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho hỗ trợ xuất
khẩu; từ thập kỷ 1960 trở đi, KfW mở rộng phạm vi hoạt động của KfW tham gia
vào chương trình cho vay khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa; từ thập kỷ
1980, KfW tập trung cho vay các chính quyền địa phương để mở rộng chương
trình hỗ trợ xuất khẩu tại nước ngoài. Và từ những năm 1990, KfW bắt đầu đưa ra
chương trình đổi mới nhằm khuyến khích nghiên cứu và phát triển trong nước.
Ở Nhật Bản, giai đoạn đầu tiên sau khi thành lập, DBJ tài trợ cho các dự án
có tầm ảnh hưởng quan trọng đến việc triển khai thực hiện công cuộc tái thiết sau
chiến tranh, khôi phục và mở rộng công nghiệp hóa như các dự án trong các lĩnh
vực then chốt, các ngành cơ bản của nền kinh tế như điện, than, đóng tàu, sắt thép.
Từ những năm cuối 1950, đầu 1960 khi Nhật Bản chuyển trọng tâm công nghiệp
hóa sang những ngành non trẻ, triển vọng như chế tạo máy, điện tử, sợi tổng hợp,
hóa dầu thì đây chính là đối tượng tài trợ chính sách của Chính phủ Nhật Bản
thông qua Ngân hàng Phát triển Nhật Bản. Cuối thập niên 1970 và đầu thập kỷ
1980, tài trợ chính sách ở Nhật Bản được chuyển trọng tâm vào các dự án bảo tồn
năng lượng, đảm bảo cung cấp ổn định năng lượng sau cú sốc của cuộc khủng
hoảng dầu lửa những năm 1973. Tài trợ chính sách cũng được sử dụng để phục vụ
chính sách ưu tiên của Chính phủ Nhật Bản những năm cuối thập kỷ 1980 và đầu
1990 nhằm khai thác các nguồn lực của khu vực tư nhân để cải thiện nguồn vốn
phúc lợi, điều chỉnh cơ cấu công nghiệp trong nước và thích ứng với quá trình
quốc tế hóa.
Ở Trung Quốc, bên cạnh các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm quốc gia, các
72
dự án trong các ngành sản xuất mới và lĩnh vực công nghệ cao để thúc đẩy sự phát
triển nhanh, bền vững của nền kinh tế quốc dân cũng là đối tượng được CDB tập
trung tài trợ.
Thứ ba, TD ĐTPT chuyển dần từ hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực công
nghiệp sang hỗ trợ thực hiện các dự án thuộc lĩnh vực xã hội, môi trường, đảm
bảo an sinh xã hội, phát triển bền vững
Ở cả ba quốc gia được nghiên cứu cho thấy, sau một thời gian nhất định,
TD ĐTPT có xu hướng chuyển dần từ các ngành, lĩnh vực công nghiệp cơ bản,
then chốt sang cho vay các dự án, lĩnh vực có tính chất đảm bảo an sinh xã hội,
bảo vệ môi trường, giảm chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền, phát triển hài
hòa, bền vững kinh tế xã hội quốc gia.
Từ cuối thập kỷ 1990, đầu những năm 2000 đến nay, KfW chuyển trọng
tâm sang tập trung tài trợ cho các dự án tạo việc làm, xây dựng nhà ở, thúc đẩy
doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo vệ môi trường. Từ cuối thập kỷ 1990 và từ những
năm 2000 đến nay, trọng tâm ưu tiên của tài trợ chính sách ở Nhật Bản hướng vào
việc phát triển các khu vực cải thiện mức sống dân cư (như bảo vệ môi trường,
phòng chống thiên tai), các ngành quan trọng mang tính chiến lược. Trường hợp
Trung Quốc càng minh chứng rõ cho quan điểm này. Nếu tổng số vốn cho vay các
dự án trọng điểm quốc gia của CDB chiếm một phần quan trọng trong tổng dư nợ
cho vay của CDB thì số vốn ưu tiên cho vay đầu tư vào các khu vực miền Trung
và phía Tây ở Trung Quốc cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số vốn cho vay
của CDB. Bên cạnh tiếp tục giữ ổn định tỷ lệ tài trợ cho các dự án thuộc các lĩnh
vực năng lượng, giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng đô thị, từ những năm 2000 đến
nay, CDB cũng tích cực tập trung tài trợ cho các dự án phát triển xã hội như giáo
dục đào tạo, dạy nghề, y tế, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao mức
sống người dân…
1.2.2.2. Bài học về thiết kế, xây dựng khung khổ pháp lý, cơ chế vận hành
đảm bảo triển khai hoạt động TD ĐTPT thành công
Thứ nhất, tạo lập khung pháp lý có hiệu lực cao cho hoạt động TD ĐTPT
Điều dễ nhận thấy là, dù ở một quốc gia có trình độ phát triển cao (như
CHLB Đức, Nhật Bản) hay ở một nước đang phát triển (Trung Quốc) thì khung
73
pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động tài trợ chính sách ở các quốc gia này đều là
một văn bản pháp lý có hiệu lực cao, một đạo luật riêng, độc lập với luật về hoạt
động ngân hàng, các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại.
Đạo luật riêng này cho phép các tổ chức tài trợ phát triển có thể nhận được
những ưu tiên, hỗ trợ đặc biệt của Chính phủ, tạo điều kiện cho các tổ chức này
tránh được những ràng buộc chặt chẽ của các đạo luật chi phối hoạt động của các
ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng thông thường khác nhằm hiện thực hóa
các chính sách ưu tiên của Chính phủ.
Thứ hai, Chính phủ hỗ trợ rất mạnh về nguồn vốn cho hoạt động TD ĐTPT
Hầu hết các tổ chức tài trợ phát triển trên thế giới đều là các tổ chức tài
chính nhà nước do vậy, nguồn vốn cơ bản đầu tiên của các ngân hàng phát triển là
vốn ngân sách nhà nước do Chính phủ cấp qua Bộ Tài chính. Quan trọng hơn,
trong cơ cấu vốn chủ sở hữu, nguồn vốn được cấp từ NSNN chiếm tỷ trọng rất lớn,
(trường hợp ở Trung Quốc chiếm đến trên 50%), là cơ sở tạo sự bền vững, an toàn
tài chính và thanh khoản cho các tổ chức cho vay này, đồng thời cho thấy sự hỗ trợ
tài chính rất mạnh từ các Chính phủ. Bên cạnh đó, các tổ chức tài trợ phát triển
cũng thường nhận được sự hỗ trợ mạnh từ Chính phủ trong giai đoạn đầu với việc
chỉ định các nguồn cung cấp vốn huy động, dài hạn từ các tổ chức tài chính, các
quỹ tài chính của Chính phủ như tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm (trường hợp Nhật
Bản) hoặc thông qua hình thức phát hành trái phiếu đặt mua bắt buộc như trường
hợp Trung Quốc.
Các đặc điểm về sự hỗ trợ mạnh của Chính phủ cho nguồn vốn hoạt động
của các tổ chức tài trợ phát triển nêu trên mang tính tiên quyết do tính chất hoạt
động tài trợ chính sách của các tổ chức này chủ yếu là tài trợ cho các dự án trong
các ngành công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án trọng điểm quốc gia, có
quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian sử dụng vốn dài, thu hồi chậm, rủi ro cao và khả
năng sinh lời thấp hoặc không có lợi nhuận.
Thứ ba, có cơ chế giám sát chặt chẽ đảm bảo sử dụng đúng mục đích, hiệu
quả đồng vốn đầu tư từ NSNN cho hoạt động TD ĐTPT
Về bản chất, hoạt động cho vay TD ĐTPT của các tổ chức tài trợ phát triển
là hoạt động đầu tư vốn Nhà nước, vốn NSNN cho sự nghiệp đầu tư phát triển kinh
tế xã hội ở các quốc gia. Đặc trưng thể hiện rõ nhất tính chất này là ngoài nguồn
74
vốn chủ sở hữu được cấp từ NSNN, nguồn vốn huy động của các tổ chức này chủ
yếu là trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, về bản chất
là nguồn vốn NSNN. Đồng thời, khi cho vay, phần chênh lệch giữa lãi suất huy
động và lãi suất cho vay tiếp tục được cấp bù từ vốn NSNN.
Chính vì vậy, hoạt động TD ĐTPT cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo sử
dụng hiệu quả. Trường hợp của CDB, cơ chế giám sát sử dụng vốn là kế hoạch cho
vay hàng năm được Quốc hội phê chuẩn, việc phân bổ sử dụng vốn do Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước thực hiện, cơ quan giám sát thường xuyên là Hội đồng giám sát
bao gồm các thành viên của các bộ, ngành liên quan. Trường hợp của KfW cơ chế
giám sát sử dụng vốn là kế hoạch cho vay hàng năm được Quốc hội phê chuẩn, cơ
quan giám sát là Hội đồng giám sát gồm 37 thành viên là đại diện của các bộ,
ngành, đại diện của các bang, các hiệp hội, công đoàn và một số nghị sỹ do
Thượng viện và Hạ viện cử. Cơ chế giám sát như nêu trên vừa đảm bảo cho các tổ
chức tài trợ phát triển này thực hiện tốt nhiệm vụ là công cụ của Chính phủ phát
triển kinh tế xã hội đặt trong tổng thể kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia
vừa đảm bảo cho việc sử dụng nguồn lực công một cách chặt chẽ, đúng pháp luật,
có hiệu quả.
Qua nghiên cứu ba trường hợp tiêu biểu cho các thể chế chính trị, khu vực
địa lý và trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau là CHLB Đức, Nhật Bản,
Trung Quốc, có thể nhận thấy:
Xuất phát từ định hướng nhiệm vụ của mình, các tổ chức tài trợ phát triển
nói chung thường cấp tín dụng cho các dự án dưới hình thức tín dụng trung và dài
hạn, chủ yếu cho các dự án trong danh mục của chính phủ quy định, ưu tiên trong
từng thời kỳ phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động của các tổ chức tài trợ phát
triển này theo nguyên tắc bổ sung thay vì cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng
thương mại vì chủ yếu các khoản cho vay của các ngân hàng phát triển thường là
các khoản cho vay có thời hạn cho vay dài, đầu tư vào các lĩnh vực chịu nhiều rủi
ro và sử dụng nhiều vốn mà các ngân hàng thương mại thường không đủ tiềm lực
tài chính hoặc không muốn cho vay.
Ban đầu, các tổ chức tài trợ phát triển huy động vốn và cấp tín dụng nhằm
tiếp sức cho các ngành công nghiệp non trẻ, thâm dụng vốn trở thành các ngành
công nghiệp mũi nhọn, có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh
75
tế. Sau thời kỳ công nghiệp hoá, việc cho vay các dự án thâm dụng vốn, không
sinh lời hoặc khả năng sinh lời thấp, thời hạn hoàn vốn dài như các dự án đầu tư
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, đầu tư vào các vùng miền, địa bàn khó khăn nhằm
làm giảm sự chênh lệch giữa các vùng, miền, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao
mức sống người dân...được coi là chức năng chủ đạo của các NHPT vì các ngân
hàng thương mại không đủ tiềm lực để cho vay hoặc không muốn cho vay.
Việc tập trung và chuyển dịch tài trợ vào các ngành, lĩnh vực trong nền kinh
tế qua các thời kỳ khác nhau đã phản ánh các mục tiêu chính sách phù hợp với
từng giai đoạn, thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Chính việc chuyển đổi trọng tâm
hỗ trợ thực hiện các ưu tiên của Chính phủ trong từng thời kỳ, đảm bảo sự phát
triển bền vững và công bằng xã hội, tín dụng chính sách đã đảm đương vai trò là
công cụ của Chính phủ trong việc khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị
trường. Đây là điểm khác biệt căn bản nhất giữa tín dụng chính sách và tín dụng
ngân hàng thương mại.
Nói cách khác, đặc trưng cơ bản và chức năng chủ yếu của hoạt động tài
trợ phát triển ở các quốc gia, thông qua các tổ chức tài trợ phát triển (ngân hàng
phát triển), đóng vai trò là công cụ tài chính của Chính phủ nhằm thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, tham gia điều tiết vĩ mô nền
kinh tế, khắc phục các khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường.
*
* *
TD ĐTPT của Nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm là một hình thức tín dụng nhà nước, trong đó Nhà nước vừa là người đi
vay để bù đắp thiếu hụt NSNN, vừa là người cho vay để đầu tư các dự án phát
triển, các chương trình kinh tế lớn nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo
định hướng của Nhà nước trong từng thời kỳ.
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là
công cụ của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế - xã hội nên hoạt động này không
vì lợi nhuận. Nhưng là hình thức tín dụng nên hoạt động vẫn phải quan tâm đến
hiệu quả. Đó là hiệu quả kinh tế - xã hội.
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm mang
76
tính phổ biến trên thế giới. Kinh nghiệm triển khai hình thức tín dụng nhà nước, tín
dụng chính sách cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở một
77
số quốc gia trên thế giới là bài học rất bổ ích cho Việt Nam.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN
VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM
2.1. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN, DỰ
ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM
2.1.1. Môi trường pháp lý
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là quá trình hình
thành môi trường pháp lý cho hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước là bộ phận quan trọng đầu tiên cấu thành môi trường pháp lý cho hoạt động
tín dụng này ở Việt Nam thời gian qua.
Trong mấy chục năm vừa qua, việc thực hiện các chương trình kinh tế lớn
và các dự án kinh tế trọng điểm là một nội dung cơ bản trong triển khai và hiện
thực hóa đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế là hai mặt rất cơ bản của nền kinh
tế quốc dân. Sự phát triển, hoàn thiện và mối quan hệ giữa hai mặt này quyết định
toàn bộ sự vận động và phát triển của nền kinh tế. Trong đó, cơ cấu kinh tế quyết
định cơ chế quản lý và cơ chế quản lý có tác động trở lại, góp phần hoàn thiện cơ
cấu kinh tế [58]. Chính vì vậy, ngay từ những nhiệm kỳ Đại hội đầu tiên, Đảng và
Nhà nước ta đã sớm nhận thức và xác định rõ về yêu cầu phải chuyển đổi, xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình phát triển nền kinh tế.
Từ Đại hội VI, tư duy kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã có sự
thay đổi lớn theo hướng trên cơ sở nhiệm vụ và mục tiêu tổng quát về đổi mới kinh
tế, Đảng ta xác định việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế và có sự điều chỉnh lớn
về cơ cấu đầu tư. Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng cơ cấu kinh tế
công – nông nghiệp tiên tiến, hiện đại đã được điều chỉnh theo hướng thiết thực
hơn với việc tập trung xây dựng và thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn là: chương
trình sản xuất lương thực, thực phẩm; chương trình sản xuất hàng tiêu dùng;
78
chương trình sản xuất hàng xuất khẩu. Ba chương trình kinh tế lớn nêu trên là sự
cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước
ta trong giai đoạn này. Có thể nói, đây là những chương trình kinh tế lớn đầu tiên ở
nước ta.
Trong các năm tiếp theo, các đại hội VII, VIII và IX cũng đã đưa ra quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ về thực hiện việc cơ cấu lại nền kinh tế, tiến hành CNH,
HDH trong đó chú trọng CNH, HDH nông nghiệp, nông thôn. Đại hội VIII khẳng
định: “Đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn
diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thủ sản; phát
triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. NQ số 06-NQ-TW
của Bộ Chính trị ban hành tháng 11/1998 về một số vấn đề phát triển nông nghiệp
và nông thôn, khẳng định: “đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn
là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN)”.
Tiếp tục hoàn thiện đường lối CNH, HDH nông nghiệp, nông thôn, Hội
nghị lần thứ 5 Khóa IX đã ban hành NQ về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn thời kỳ 2001- 2010, trong đó nêu những nội dung tổng quát, quan điểm,
mục tiêu phát triển, những chủ trương và giải pháp lớn để đẩy nhanh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 đề ra các mục tiêu cụ thể
trong đó có mục tiêu: “Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông
an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hóa một bước. Mạng lưới giao thông
nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững
chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa…” [22].
Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-
2005 cũng đã đưa ra định hướng phát triển và các nhiệm vụ chủ yếu với một trong
những định hướng lớn và nhiệm vụ trọng yếu của thời kỳ này là: “Tăng nhanh vốn
đầu tư phát triển kinh tế xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao
sức cạnh tranh. Hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng. Đầu tư
79
thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm; hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng
còn nhiều khó khăn” [22]. Chủ trương và chính sách đầu tư phát triển của Đảng và
Nhà nước qua kênh TDĐTPT của Nhà nước trong thời kỳ 2001 – 2005 đã phản
ánh rõ nét định hướng chủ trương của thời kỳ này.
Cụ thể, chính sách đầu tư nhà nước được điều chỉnh theo hướng tăng đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi
cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế khác đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, qua đó nâng cao
hiệu quả đầu tư nhà nước. Nhà nước tiếp tục xóa bỏ bao cấp trong ĐTPT. Nguồn
vốn NSNN tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các dự án không
có khả năng thu hồi vốn; hỗ trợ cho các vùng khó khăn, các chương trình mục tiêu
quốc gia, các chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước. Nhà nước chỉ hỗ trợ
đầu tư vào một số dự án ở những ngành, lĩnh vực và những vùng ưu tiên phát triển
trong từng thời kỳ. Cùng với chính sách đầu tư, chính sách thị trường vốn và tiền
tệ giai đoạn này cũng được làm rõ theo hướng giảm mạnh các hình thức bao cấp về
vốn, tín dụng. Cải cách hệ thống NHTM, tách chức năng tín dụng chính sách ra
khỏi chức năng kinh doanh của các NHTM quốc doanh [22].
Phù hợp với đường lối, chủ trương và cơ chế, chính sách và giải pháp nêu
trên, chính sách TDĐTPT của Nhà nước được ban hành và thể hiện tập trung tại
NĐ số 43/1999/ND-CP ngày 29/6/1999 về TDĐTPT của Nhà nước, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2000.
Thứ nhất, chính sách TDĐTPT nêu rõ mục tiêu là “hỗ trợ các dự án đầu tư
phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình
kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư”.
Thứ hai, từ mục tiêu nêu trên, đối tượng hỗ trợ TDĐTPT của Nhà nước
trong thời kỳ này tập trung vào các dự án đầu tư tại các vùng khó khăn thuộc một
số ngành, lĩnh vực theo danh mục của Chính phủ, chủ yếu tập trung cho sản xuất
điện, khai thác khoáng sản, hóa chất cơ bản, phân bón, chế tạo máy công cụ, máy
động lực phục vụ nông nghiệp, các dự án trồng rừng, các dự án cơ sở hạ tầng giao
thông, cấp nước, các dự án nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi bò sữa…
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế và chính sách ĐTPT trong giai đoạn
2001 – 2005 nêu trên, một loạt các chương trình kinh tế lớn nhằm mục tiêu phục
80
vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được triển khai trong giai đoạn này như
Chương trình kiên cố kênh mương; Chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và
nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long; Chương trình trồng 5 triệu ha rừng
giai đoạn I (1998 – 2005). Đồng thời, trong giai đoạn này, các dự án kinh tế trọng
điểm như tập trung đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng, ngành điện, khai thác
khoáng sản, luyện kim, công nghiệp chế biến phục vụ nông nghiệp, nông thôn…đã
được triển khai nhằm thực hiện chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội
đã được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ IX.
Đại hội Đảng lần thứ X đã tổng kết 20 năm đổi mới và 10 năm chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội cũng
chỉ ra những yếu kém, bất cập như: cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa tương
xứng với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và
khoa học, công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH. Trên cơ sở đó,
Đại hội đã đề ra đường lối công nghiệp hóa trong giai đoạn 2006 – 2010.
Một là đối với nông nghiệp, nông thôn, chủ trương là: “Tăng đầu tư từ ngân
sách nhà nước và đa dạng hóa các nguồn vốn để phát triển mạnh kết cấu hạ tầng nông
thôn. Đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng để hoàn thành chương trình cụm tuyến dân cư
vùng ngập lũ ở đồng bằng sông Cửu Long. Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông
thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô tô tới khu trung tâm, từng bước phát triển
đường ô tô tới thôn, bản, ấp; phấn đấu đến năm 2010, trên 90% hộ dân cư nông thôn
có điện sinh hoạt, 75% dân cư nông thôn có nước sạch”. Hai là, trong lĩnh vực công
nghiệp: “Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản
phẩm quan trọng của nền kinh tế như: lọc hóa dầu, khai thác quặng và luyện thép,
phân bón, hóa chất, xi măng, khai thác bô xit và sản xuất alumin, bột giấy gắn với
trồng rừng, một số sản phẩm cơ khí chế tạo”. Ba là, đối với xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội: “Nhà nước ưu tiên ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy
nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên cả nước, xem
đây là một khâu đột phá để phát triển đất nước hiện nay và chuẩn bị cho bước tiếp
theo…Tập trung các nguồn lực để ưu tiên đầu tư hoàn chỉnh cơ bản hệ thống giao
thông đường bộ, đường sông, đường sắt, đường biển, đường hàng không đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các công trình thủy
lợi có nhu cầu cấp bách, gắn với phát triển thủy điện. Phát triển nhanh nguồn điện với
cơ cấu hợp lý, hoàn chỉnh hệ thống truyền tải, bảo đảm sự vận hành an toàn, hiệu quả,
đáp ứng đủ điện cho yêu cầu phát triển, cả ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và
hải đảo” [25].
81
Tương ứng với đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về CNH,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn này như đã nêu ở trên, chính sách
TDĐTPT của Nhà nước thời kỳ 2006 – 2010 cũng bám sát và phản ánh đường lối,
chủ trương đó. Trong đó, đối tượng cho vay, ngoài việc tiếp tục cho vay vào các
dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như giai đoạn trước,
giai đoạn này tập trung hơn cho các dự án thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội (dự án đầu tư đường bộ, đường sắt; dự án đầu tư xây dựng công trình cấp
nước sạch phục vụ công nghiệp và sinh hoạt; dự án đầu tư công trình xử lý nước
thải, rác thải tại các khu đô thị, KCN…); công nghiệp (dự án đầu tư chế biến sâu từ
quặng khoáng sản, sản xuất alumin…; dự án sản xuất động cơ diesel từ 300 CV trở
lên; dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa...; dự án
đầu tư sản xuất DAP và phân đạm…).
Triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách TDĐTPT
của Nhà nước về CNH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế như nêu trên, trong giai đoạn
2006 – 2010 một số chương trình kinh tế lớn đã được triển khai như: Tiếp tục triển
khai Chương trình kiên cố hóa kênh mương, phát triển đường giao thông nông
thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn đến
hết năm 2015 theo Quyết định (QĐ) số 13/2009/QĐ-TTg; Triển khai giai đoạn II
của Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng
sông Cửu Long; Triển khai giai đoạn II Chương trình trồng 5 triệu ha rừng; Triển
khai Chương trình cơ khí trọng điểm; Triển khai Chương trình đầu tư, cải tạo, mở
rộng, nâng cấp và xây mới giải quyết cấp bách tình trạng quá tải tại các bệnh viện
lớn, tuyến cuối của ngành y tế.
Đặc biệt, trong giai đoạn này, đã triển khai nhiều dự án kinh tế trọng điểm
lớn, có ý nghĩa tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế. Tiêu biểu như các dự án sản xuất phân đạm ở Càu Mau; dự án sản xuất
phân đạm từ than cám ở Ninh Bình; dự án sản xuất phân DAP ở Lào Cai; dự án
khai thác và chế biến khoáng sản Núi Pháo, Thái Nguyên; hàng loạt các dự án
nguồn điện như: dự án thủy điện Bản Chát, dự án thủy điện Huội Quảng, dự án
82
thủy điện Lai Châu, dự án thủy điện Sơn La…
Tuy nhiên, khung pháp lý, cơ chế chính sách đối với hoạt động TD ĐTPT
cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn nhiều bất cập. Hành
lang pháp lý chưa đủ rõ, hiệu lực pháp lý thấp làm giảm hiệu quả của hoạt động
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng là NHTM, hợp tác xã tín dụng, quỹ tín
dụng nhân dân đã được điều chỉnh bằng Pháp lệnh ngân hàng từ năm 1989 và hiện
nay là Luật các tổ chức tín dụng (TCTD). Tuy nhiên, chính sách TD ĐTPT đã
được thực thi trong thực tế hơn 10 năm qua song cho đến nay, văn bản pháp lý cao
nhất điều chỉnh chủ trương, chính sách có ý nghĩa quan trọng này đối với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế đó chuyển
sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN, vẫn là một văn bản ở tầm Nghị định của Chính phủ.
Trong thực tế hoạt động ở các nền kinh tế thị trường phát triển (Đức, Nhật
Bản) hoặc ngay ở các nền kinh tế thị trường mới nổi (Hàn Quốc, Indonesia,
Philippines), các nền kinh tế chuyển đổi (Nga, Trung Quốc), hoạt động của ngân
hàng chính sách về ĐTPT ở các quốc gia này đều được điều chỉnh bởi một luật
riêng, đặc biệt.
Việc thiếu vắng một văn bản ở tầm pháp lý cao như luật hoặc pháp lệnh về
tín dụng đầu tư phát triển ở Việt Nam để điều chỉnh hoạt động của một tổ chức có
tính chất là một ngân hàng chính sách trong hỗ trợ phát triển đầu tư của quốc gia
với tính chất hoạt động đặc thù, khác biệt với các NHTM dẫn đến có nhiều hạn chế
trong triển khai huy động nguồn lực, cho vay, xử lý rủi ro... làm giảm hiệu quả
hoạt động TD ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm nói riêng.
2.1.2. Chính sách TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trực
tiếp chịu sự chi phối của chính sách nhà nước về vấn đề này. Các cơ chế, chính
sách cụ thể của Nhà nước về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong từng
thời kỳ có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động tín dụng này.
Thứ nhất, cơ chế cho vay theo chỉ định làm gia tăng khả năng khó bảo
83
toàn, phát triển vốn và gia tăng mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN.
Trong thời gian qua, nhất là giai đoạn 2008-2013, trong bối cảnh nền kinh
tế gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng, suy thoái kéo dài, TD ĐTPT đã được Chính
phủ sử dụng như là một công cụ tài chính công hỗ trợ tăng trưởng, kích cầu, chống
suy giảm kinh tế. Trong khi nguồn thu và chi NSNN không tăng tương ứng với
nhu cầu của nền kinh tế, kênh TD ĐTPT đã được huy động tối đa theo hướng khối
lượng TD ĐTPT được Chính phủ giao thực hiện hàng năm ngày càng tăng mạnh.
Trong khi vốn điều lệ nhỏ, nhưng nhu cầu cung ứng vốn cho nền kinh tế tăng
mạnh, vốn TD ĐTPT chủ yếu cung cấp cho các dự án lớn, thời gian thu hồi vốn
dài, càng làm tăng sự giãn cách giữa vốn điều lệ và tổng tài sản, tổng dư nợ cung
cấp cho nền kinh tế và gia tăng mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN.
Điển hình như Chương trình cho vay kiên cố hóa kênh mương. Trong các
năm 2006-2008, số vốn Chính phủ giao NHPT huy động để cho vay Chương trình
kiên cố hóa kênh mương là khoảng 1.000 tỷ đồng/năm, năm 2011 là 2.000 tỷ đồng,
thì từ năm 2012 đến 2015 là 3.000 tỷ đồng/năm. Ngay trong năm 2012, do tình
hình cấp bách cần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012, giao NHPT huy
động bổ sung 2.000 tỷ đồng cho vay đầu tư kiên cố hóa kênh mương, phát triển
đường giao thông nông thôn, trạm bơm điện sản phục vụ sản xuất nông nghiệp, cơ
sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và làng nghề ở nông thôn. Như vậy, tổng cộng
nguồn vốn huy động cho Chương trình kiên cố hóa kênh mương năm 2012 là
5.000 tỷ đồng.
Tiếp đó, vẫn trong năm 2012, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục có chỉ đạo tại
Công văn số 1589/TTg-KTTH ngày 03/10/2012 tăng vốn tín dụng đầu tư giai đoạn
2013-2015 lên mức 5.000 tỷ đồng/năm. Sang năm 2013, để tiếp tục các giải pháp
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, Chính phủ đã
ban hành Nghị quyết số 13/TTg-KTTH ngày 07/01/2013, chỉ đạo NHPT huy động
bổ sung 10.000 tỷ đồng cho vay đầu tư kiên cố hóa kênh mương, ngoài mức 5.000
tỷ đồng hàng năm đã được phê duyệt tại CV 1589/TTg-KTTH nói trên. Như vậy
số vốn cho đầu tư kiên cố hóa kênh mương năm 2013 là 15.000 tỷ đồng, gấp 3 lần
84
năm 2012, gấp 7 lần năm 2011 và gấp 15 lần so với năm 2010 trở về trước [43].
Trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng bảo toàn và phát triển vốn của
NHPT còn nhiều yếu kém, trước hết là do NHPT được tổ chức lại và kế thừa
quyền, nghĩa vụ đối với tài sản, vốn, các chương trình, dự án cho vay từ thời Quỹ
hỗ trợ phát triển trước đây, trong đó có nhiều chương trình cho vay có tính chất
bao cấp của Nhà nước chứ không phải là cho vay theo cơ chế tín dụng thị trường.
Nhiều chương trình, dự án đã phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu từ thời Quỹ Hỗ trợ phát
triển và chủ trương cho vay xuất phát từ thời kỳ trước đó (trước năm 2000) như
Chương trình mía đường, Chương trình đánh bắt cá xa bờ, Chương trình tăng tốc
ngành dệt may, Chương trình đóng tàu biển… với tổng nợ xấu là 5.268 tỷ đồng
[47].
Một số chương trình kinh tế cho vay theo chỉ đạo trong thời kỳ 2000 – 2013
như chương trình cho vay đóng tàu biển của Vinashin cũng đã để lại nhiều hậu quả
trong bảo toàn vốn, cho vay TD ĐTPT. Riêng nợ khoanh, khó thu hồi của
Vinashin theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là trên 2.900 tỷ đồng [47].
Thứ hai, cơ chế tín dụng ưu đãi chứa đựng nhiều rủi ro dẫn đến tỷ lệ nợ
quá hạn cao.
Cơ chế ưu đãi trong cho vay tín dụng ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng được thể hiện qua các
cơ chế về đối tượng cho vay, lãi suất cho vay…
* Đối tượng cho vay
Đối tượng cho vay TD ĐTPT nói chung và đặc biệt là TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm hàm chứa nhiều rủi ro. Qua
nghiên cứu thực tế quy định của Nhà nước trong Danh mục các đối tượng được
vay vốn TD ĐTPT qua các thời kỳ (Xem Phụ lục số 01: Đối tượng cho vay vốn
TD ĐTPT qua các thời kỳ, 2000 – 2014) có thể thấy, đối tượng được vay vốn TD
ĐTPT thường xuyên thay đổi, mở rộng. Cụ thể:
+ Đối tượng cho vay vốn TD ĐTPT qua các thời kỳ không cố định, ổn định
liên tục mà thường xuyên được thay đổi qua các thời kỳ được quy định trong chính
sách TD ĐTPT của Nhà nước. Một đối tượng thuộc một ngành, lĩnh vực nào đó
trong giai đoạn này có thể tiếp tục hoặc không tiếp tục là đối tượng cho vay vốn
85
TD ĐTPT trong giai đoạn sau đó.
+ Đối tượng cho vay được mở rộng liên tục (thể hiện qua số lượng loại đối
tượng trong danh mục) trong thời kỳ từ 2000- 2011 và sau đó có sự điều chỉnh
theo hướng giảm từ năm 2011 đến nay. Đồng thời, sự mở rộng đối tượng cho vay
trong giai đoạn 2000 – 2011 còn được thể hiện ở chỗ: nếu giai đoạn 2000 – 2004,
các loại đối tượng trong danh mục chỉ được ưu đãi khi đầu tư vào các vùng địa bàn
khó khăn theo quy định của Chính phủ hướng dẫn Luật khuyến khích đầu tư trong
nước (sửa đổi) năm 1998 thì trong giai đoạn 2004-2011, không chỉ ở địa bàn có
điều kiện khó khăn mà ở tất cả các địa bàn trong cả nước, các dự án đầu tư thuộc
các loại đối tượng trong danh mục được vay vốn TD ĐTPT.
Đối tượng cho vay vốn TD ĐTPT là một đặc trưng tiêu biểu thể hiện chính
sách ưu đãi của Nhà nước vì vậy đối tượng hỗ trợ vốn TDĐTPT của Nhà nước chủ
yếu tập trung vào các dự án lớn, sản xuất hàng xuất khẩu… trong đó hầu hết các
dự án đều thuộc các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó
khăn, cần khuyến khích đầu tư nên các chủ đầu tư rất khó huy động đủ nguồn vốn
thương mại để tham gia đầu tư; các NHTM cũng ngần ngại cho vay. Do đó đây
thường là nhóm dự án có độ rủi ro cao hơn mức rủi ro trung bình trên thị trường.
Mặt khác, cơ chế chính sách cho vay vốn TDĐTPT của Nhà nước được sửa
đổi, bổ sung từ NĐ số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 đến NĐ số 106/2004/NĐ-
CP ngày 01/4/2004, NĐ số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006, NĐ số
106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008, hiện nay là NĐ số 75/2011/NĐ-CP ngày
30/8/2011, do sửa đổi, bổ sung, thay thế nhiều lần nên có những chương trình, dự
án thuộc đối tượng cho vay của nghị định trước phải dừng lại vì không thuộc đối
tượng của nghị định sau, điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến việc cho vay và
thu nợ trong hoạt động TD ĐTPT.
Điều đáng nói hơn, mặc dù cơ chế chính sách được sửa đổi, bổ sung nhiều
lần, song cho đến nay, có thể nói đối tượng cho vay vốn TDĐTPT vẫn còn rộng,
trong đó quy định hiện tại cho phép mọi dự án thuộc tất cả các lĩnh vực ở vùng
kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn thuộc đối tượng vay vốn, điều này cũng hàm
chứa rủi ro cao trong cho vay TD ĐTPT.
* Lãi suất cho vay
Lãi suất TD ĐTPT nói chung, lãi suất TD ĐTPT cho các chương trình kinh
86
tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng cũng là một đặc trưng cho cơ chế tín
dụng ưu đãi. Tuy nhiên, lãi suất TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm được duy trì ở mức thấp so với thị trường trong một thời gian
dài dẫn đến việc bị khách hàng, chủ đầu tư chiếm dụng vốn, làm tăng tỷ lệ nợ quá
hạn. Qua nghiên cứu, có thể thấy cơ chế thực hiện lãi suất cho vay vốn TDĐTPT
của Nhà nước qua các thời kỳ từ năm 2000 đến nay có những hạn chế sau:
+ Cơ chế lãi suất cố định trong suốt thời hạn vay vốn gây khó khăn khi thực
hiện cho cả Nhà nước, tổ chức cho vay và người đi vay vốn TDĐTPT của Nhà
nước. Do lãi suất được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng và được giữ
nguyên trong cả thời hạn vay vốn, mặc dù tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, chủ đầu
tư tính toán khả năng sinh lời và trả nợ vốn vay song cũng tạo ra những khó khăn
khi thực hiện cho cả Nhà nước, tổ chức cho vay và người đi vay. Chẳng hạn, khi
lãi suất trên thị trường có biến động theo hướng tăng, gánh nặng cấp bù từ NSNN
sẽ tăng lên do phải cấp bù chênh lệch lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay
nhiều hơn (lãi suất huy động vốn tăng lên trong khi lãi suất cho vay ra không thay
đổi). Người đi vay sẽ có động cơ tìm mọi cách trì hoãn, không trả nợ vốn vay để
tiếp tục chiếm dụng vốn TDĐTPT do vào tại thời điểm lãi suất thị trường tăng cao,
nếu vay vốn trên thị trường, người đi vay sẽ phải chi phí nhiều hơn cho trả lãi vay.
Tổ chức cho vay sẽ gặp khó khăn khi tổ chức thu hồi nợ vay đáo hạn, làm tăng
nguy cơ nợ xấu, nợ quá hạn tăng lên, mất cân đối về nguồn vốn huy động (thiếu
hụt từ phần thu hồi nợ vay), đồng thời tăng chi phí huy động vốn trên thị trường để
bù đắp cho phần thiếu hụt do không thu hồi được nợ vay theo đúng kế hoạch thu
hồi nợ vay.
+ Cơ chế lãi suất áp dụng cho tất cả các đối tượng vay vốn, mang tính “cào
bằng”, không phân biệt mức sinh lời và độ rủi ro của từng dự án vay vốn
TDĐTPT. Do lãi suất được ấn định với một mức lãi suất cụ thể trong văn bản về
TDĐTPT của nhà nước, áp dụng cho tất cả các đối tượng vay vốn TDĐTPT của
nhà nước, không căn cứ vào độ rủi ro và mức sinh lời của từng dự án, khả năng tài
chính của từng chủ đầu tư và khả năng trả nợ của từng dự án đã tạo ra sự “cào
bằng” về mức hỗ trợ của nhà nước cho các chủ đầu tư. Đồng thời không gắn trách
nhiệm của chủ đầu tư đối với từng dự án vay vốn, nhất là đối với các dự án có độ
rủi ro cao, khả năng sinh lời thấp, khả năng tài chính của chủ đầu tư, khả năng trả
87
nợ của dự án kém.
+ TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói
riêng, TD ĐTPT nói chung là hình thức tín dụng ưu đãi của Nhà nước, trong đó ưu
đãi thông qua lãi suất cho vay thấp là một trong những ưu đãi chủ yếu. Tuy nhiên,
với mức lãi suất cho vay được quy định ở mức thấp trong một thời gian dài so với
lãi suất cho vay trên thị trường và được giữ nguyên, không thay đổi trong suốt cả
đời dự án là không hợp lý. Nền kinh tế Việt Nam trải qua thời kỳ khó khăn do ảnh
hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới liên tục từ 2008 đến nay, kinh
tế kinh tế vĩ mô chưa ổn định, lạm phát, lãi suất ngân hàng cao (có thời điểm lãi
suất cho vay trên thị trường bình quân lên đến gần 20%/năm) đã ảnh hưởng lớn
đến khả năng huy động vốn đáp ứng nhu cầu vay vốn TD ĐTPT. Mặt khác, hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư vay vốn tín dụng đầu tư giảm thấp, dẫn
đến việc các chủ đầu tư lợi dụng, chiếm dụng vốn TD ĐTPT cũng như ảnh hưởng
đến việc trả nợ vốn vay TD ĐTPT, là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm
cho tỷ lệ nợ quá hạn tăng cao.
Bảng 2.1. Tỷ trọng dư nợ tương ứng với các mức lãi suất
cho vay trong tổng dư nợ
Các mức lãi suất
Dư nợ trên trong tổng dư nợ cho vay
(%/năm)
Dưới 8,4 Trong đó: - Từ 6,6 đến 8,4 trở xuống
(%/tổng dư nợ) 85,6 55
- Từ 6,6 trở xuống
30,6
Nguồn: NHPT [42].
Ngoài ra, nhiều quy định, thủ tục pháp lý liên quan đến hoạt động cho vay
TD ĐTPT nói chung và TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm cũng góp phần làm tình trạng tỷ lệ nợ xấu gia tăng. Chẳng hạn, hệ
thống các quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan
trong việc quản lý, quy hoạch, kế hoạch, quản lý đầu tư …(như việc cấp phép mỏ,
tài nguyên khoáng sản của dự án, đánh giá tác động môi trường, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất…) chậm ban hành, hướng dẫn, cấp phép; trách nhiệm của
88
doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ tín dụng…chưa đầy đủ, chưa nghiêm
nên khi xảy ra rủi ro khó xử lý, không rạch ròi, nghiêm minh về trách nhiệm tài
chính.
Các quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản tuy đã có nhiều đổi mới
song trình tự, thủ tục còn rườm rà, qua nhiều khâu và mất nhiều thời gian, cùng với
các vướng mắc về giải phóng mặt bằng, cấp phép khai thác mỏ, tài nguyên…có
liên quan đã ảnh hưởng trực tiếp tới tiến độ thực hiện đầu tư dự án, kéo dài thời
gian thực hiện dự án, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, khả năng trả nợ của dự án.
Một số chính sách, điều kiện hoạt động chưa được hướng dẫn, ban hành kịp
thời như việc cấp giấy phép tham gia hoạt động ngoại hối, việc hướng dẫn phân
loại nợ theo quy định, cơ chế trích lập dự phòng rủi ro chưa hoàn thiện, chưa được
tham gia thị trường liên ngân hàng, thị trường mở…gây ảnh hưởng, hạn chế tới
việc quản lý, sử dụng vốn và chủ động trong xử lý nợ, ảnh hưởng đến hoạt động
TDĐTPT.
Thứ ba, cơ chế huy động vốn thực hiện TD ĐTPT còn nhiều hạn chế gây
ảnh hưởng đến khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Trong giai đoạn trước, từ 1990 - 1999, từ khi có chủ trương ĐTPT kinh tế
xã hội qua kênh tín dụng đầu tư của nhà nước, vốn TDNN cho ĐTPT đều dựa vào
nguồn NSNN, theo đó, hàng năm NSNN phải cân đối vốn cho ĐTPT qua hai hình
thức cấp phát vốn NSNN và vốn tín dụng đầu tư nhà nước theo kế hoạch đầu tư
của nhà nước.
Từ 1/1/2000, với quy định mới về cơ chế thực hiện TDĐTPT của nhà nước,
nguồn vốn TDNN được mở rộng hơn, ngoài vốn NSNN, nguồn vốn thu nợ hàng
năm, Quỹ hỗ trợ phát triển cũng được huy động vốn từ nguồn vay các Quỹ tài
chính của nhà nước như Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài, Quỹ tiết kiệm bưu điện,
Quỹ bảo hiểm xã hội, vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ, vốn do Quỹ hỗ trợ
phát triển huy động, vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ giao cho Quỹ
hỗ trợ phát triển sử dụng để cho vay lại. Tuy nhiên, qua thời gian, từ năm 2000 đến
2013, cơ chế huy động vốn để thực hiện TD ĐTPT có nhiều thay đổi. Cụ thể:
- Nguồn vốn huy động theo chỉ định (từ Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ tiết
kiệm bưu điện, Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài..) ngày càng có xu hướng giảm do
mức lãi suất tiền gửi trả cho các tổ chức này thường thấp hơn nhiều so với mức lãi
89
suất gửi tiền ở các ngân hàng thương mại. Hàng năm Chính phủ thường chỉ định
huy động từ Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ tiết kiệm bưu điện… Song dần dần, không
còn việc chỉ định huy động từ các tổ chức này. Từ năm 2012, Công ty tiết kiệm
bưu điện đã được sáp nhập vào Ngân hàng TMCP Liên Việt để trở thành Ngân
hàng TMCP Bưu điện Liên Việt.
- Nguồn vốn huy động từ thị trường gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất là NHPT
không được huy động tiền gửi trong dân cư mà chỉ được huy động bằng hình thức
phát hành TPCP hoặc TPCP bảo lãnh. Hình thức huy động này gặp nhiều khó khăn
do bị cạnh tranh bởi các kênh huy động vốn khác như thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản và đặc biệt là các NHTM với lợi thế linh hoạt hơn về kỳ hạn,
lãi suất huy động phù hợp với yêu cầu đa dạng của người gửi tiền. Thứ hai là hình
thức huy động vốn của NHPT còn chưa đa dạng. Ngoài hình thức huy động chỉ
định từ các tổ chức tài chính, nguồn vốn huy động từ thị trường chủ yếu là thông
qua phát hành trái phiếu, việc thực hiện phát hành các giấy tờ có giá khác chưa
được thực hiện cũng làm giảm khả năng huy động vốn từ thị trường của NHPT.
- Việc huy động nguồn vốn có kỳ hạn dài (trên 10 năm trở lên) còn nhiều
hạn chế. Sự hạn chế này có nguyên nhân là do thị trường vốn chưa phát triển, thị
trường chủ yếu chấp nhận loại trái phiếu có kỳ hạn 3-5 năm; thị trường tiền tệ thời
gian qua có nhiều biến động mạnh, lạm phát tăng cao, lãi suất huy động tiền gửi
cao, thiếu ổn định, cùng với tình trạng suy thoái kinh tế trầm trọng nên không
những khó huy động vốn mà việc huy động được nguồn vốn với kỳ hạn dài càng
khó khăn hơn, huy động được số lượng rất ít. Trong khi đó đối tượng cho vay TD
ĐTPT chủ yếu là các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm lại đòi hỏi
nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Từ đó gia tăng chênh lệch kỳ hạn giữa
nguồn vốn và sử dụng vốn.
Do thị trường tài chính khó khăn nên việc huy động vốn chủ yếu là kỳ hạn
3-5 năm (thời hạn bình quân 3 năm chiếm đến 55-60% tổng nguồn vốn huy động
và chiếm khoảng 60-70% tổng nguồn vốn cho vay), trong khi đó thời hạn cho vay
bình quân là 10 năm (có chương trình, dự án thời hạn cho vay là 12-15 năm) nên
NHPT phải phát hành trái phiếu mới để đáo hạn cũ. Chênh lệch kỳ hạn vốn và sử
dụng vốn ngày càng tăng cao và ngày càng có xu hướng doãng rộng hơn. Năm
2008 tỷ lệ này là 29 tháng thì đến 7/2011 đã tăng lên 32,5 tháng, trong khi xu
90
hướng cho vay vào các dự án lớn, thời hạn thu hồi vốn dài vẫn là đặc trưng chủ
yếu của NHPT. Chính vì vậy, nếu thị trường thuận lợi thì có thể huy động được
vốn, song có lúc thị trường khó khăn sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động, từ
đó đe dọa khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Mặc dù doanh số huy động bình quân các năm qua khá cao (23%/năm)
nhưng không phải toàn bộ số vốn này được đưa vào giải ngân cho tín dụng mà một
phần đáng kể trong đó được sử dụng để hoàn trả vốn huy động đến hạn trả. Riêng
trong giai đoạn 2006-2010, số trả nợ vốn huy động đến hạn trả chiếm tới 59% số
vốn huy động mỗi năm.
Bảng 2.2. Tỷ lệ số trả nợ vốn huy động đến hạn
trong tổng số vốn huy động mới hàng năm
Đơn vị: %
2003 26
2004 54
2005 89
2006 71
2007 59
2008 27
2009 89
2010 41,2
Năm Số trả nợ vốn HĐ đến hạn trả/tổng số vốn HĐ
Nguồn: NHPT [42]. 2.1.3. Bản chất của hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự
án kinh tế trọng điểm
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là
hoạt động tín dụng không vì mục tiêu lợi nhuận. Mô hình hoạt động tín dụng chính
sách không vì mục tiêu lợi nhuận làm giảm trách nhiệm quản lý, giảm hiệu quả, an
toàn trong hoạt động tín dụng; giảm hiệu quả cho vay, xử lý, thu hồi nợ.
Trong hoạt động tín dụng NHTM, kế hoạch hoạt động kinh doanh hàng
năm của một tổ chức tín dụng ngân hàng thường được xây dựng từ kế hoạch tăng
trưởng doanh thu, dư nợ, lợi nhuận phải đạt yêu cầu của các cổ đông.
Trong hoạt động TD ĐTPT, kế hoạch hoạt động cho vay vốn TD ĐTPT cho
các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm là một bộ phận của kế hoạch
đầu tư phát triển của Nhà nước, nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược về phát
triển kinh tế - xã hội theo cơ cấu ngành, lĩnh vực và vùng miền. Kế hoạch TD
ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm được NHPT xây
91
dựng; Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư thẩm định; Bộ Kế hoạch và đầu tư
tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội hàng năm.
Do thực hiện theo kế hoạch được xây dựng hàng năm, TD ĐTPT không
tránh được tính quan liêu, bao cấp. Trong nhiều trường hợp, tình hình kinh tế xã
hội có sự thay đổi song hoạt động TD ĐTPT vẫn thực hiện huy động vốn, cho vay
theo kế hoạch.
Là hoạt động tín dụng không vì mục tiêu lợi nhuận nên trách nhiệm quản lý,
giám sát hoạt động tín dụng này không gắn với các chỉ tiêu kinh doanh, lời lỗ như
trong hoạt động của một ngân hàng, tổ chức kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng.
Từ đó, trách nhiệm trong hoạt động cho vay vốn, trong xử lý, thu hồi nợ vay của
từng con người trong bộ máy này đều mang dáng dấp của một cơ quan quản lý
hành chính tín dụng hơn là một tổ chức tín dụng ngân hàng, kinh doanh tiền tệ. Đó
cũng là lý do làm cho mô hình tổ chức bộ máy quản lý, giám sát hoạt động TD
ĐTPT cho các chương trình kinh tế, dự án kinh tế trọng điểm còn thiếu khoa học,
chưa chặt chẽ, làm giảm hiệu quả, an toàn trong hoạt động tín dụng.
Để thực hiện giám sát hoạt động TD ĐTPT nói chung, hoạt động TD ĐTPT
cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng, trong mô hình
tổ chức bộ máy của NHPT, bộ máy giám sát được tổ chức dưới hình thức Hội
đồng quản lý và Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản lý. Hội đồng quản lý bao
gồm các thành viên là các Thứ trưởng của Bộ Tài chính, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch
và đầu tư, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, còn lại Chủ tịch Hội đồng quản lý
và các ủy viên khác trong Hội đồng quản lý đều là các chức danh của NHPT như
Tổng giám đốc NHPT, ủy viên chuyên trách, trưởng ban kiểm soát.
Trong thực tế, bộ máy giám sát hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm như trên khó có thể có hiệu quả khi một số
chức danh ủy viên Hội đồng quản lý chỉ là các chức danh kiêm nhiệm và hoạt
động của NHPT được điều hành bởi các chức danh Chủ tịch, Tổng giám đốc
NHPT. Các quyết định và quyền lực điều hành hàng ngày thuộc về chủ tịch, tổng
giám đốc NHPT. Nói cách khác, bộ máy giám sát hoạt động tín dụng này còn
mang tính hình thức và thiếu thực chất. Việc phân định trách nhiệm, quyền hạn
giữa Hội đồng quản lý và Ban điều hành còn có điểm chưa rõ ràng (như thẩm
92
quyền ban hành cơ chế, thủ tục trong nội bộ ngân hàng cũng như công tác quản
trị). Việc phân cấp quản lý đặc biệt là thẩm quyền quyết định lãi suất cho vay,
quyết định xử lý rủi ro chưa được giao cho NHPT. Vì vậy, những hạn chế trong
việc quản lý, sử dụng vốn và chủ động trong xử lý nợ là khó tránh khỏi.
Tính chất hoạt động phi lợi nhuận cũng là nguyên nhân tác động đến mô
hình tổ chức công tác thẩm định còn bất cập, nội dung và chất lượng thẩm định
chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định trong tình hình mới. Cụ thể:
- Tổ chức bộ máy thẩm định chưa hợp lý, đội ngũ cán bộ thẩm định còn
thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn. Hầu hết các chi nhánh NHPT không tổ
chức phòng thẩm định riêng mà bộ phận thẩm định nằm trong phòng tổng hợp.
Thực trạng này cho thấy nhận thức và tổ chức bộ máy thực thi về thẩm định chưa
được đặt đúng tầm quan trọng của công tác này.
Ngay tại Hội sở sở chính và các chi nhánh, cán bộ làm công tác thẩm định
vẫn chưa đủ về số lượng, luôn bị thay đổi và bị điều động làm nhiệm vụ khác. Đội
ngũ cán bộ làm công tác thẩm định có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực thẩm
định và tín dụng chưa nhiều; một số chi nhánh chưa sắp xếp đủ cán bộ thẩm định
dự án đầu tư, mặt khác, nhiều cán bộ mới vào nghề, không đúng nghề cho nên
chưa kịp hoặc khó khăn để tích lũy kinh nghiệm trong lĩnh vực thẩm định và tín
dụng. Trong khi đó, qua thực tế cho thấy, công tác thẩm định dự án đầu tư đòi hỏi
phải có kiến thức tổng hợp nhiều lĩnh vực khác nhau bên cạnh trình độ chuyên sâu
về nghiệp vụ. Phần lớn cán bộ trẻ khi được tuyển dụng vào làm việc chưa chú ý tới
tính chuyên ngành về thẩm định dự án đầu tư. Trong quá trình làm việc tại NHPT,
các cán bộ này chưa được đào tạo và đào tạo lại một cách đầy đủ và thường xuyên.
Trong thực tế, các dự án đầu tư vay vốn TD ĐTPT lại thuộc rất nhiều
ngành, nghề, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ y tế, giáo dục, xử lý nước
thải, xử lý rác thải, sản xuất nước sạch, xây dựng nhà ở, chế biến nông lâm sản,
thủy hải sản, cơ khí, luyện kim, cán kéo thép, khai khoáng, điện năng, dầu khí,
đóng tàu biển, chăn nuôi, trồng rừng…
- Hệ thống thu thập và xử lý thông tin của NHPT chưa đáp ứng được yêu
cầu của công tác thẩm định. Công tác thẩm định đòi hỏi phải có thông tin chính
xác, đầy đủ, kịp thời về nhiều lĩnh vực như pháp luật, kinh tế, tiền tệ, chỉ số lạm
phát hàng năm, chủng loại sản phẩm, chỉ số giá cả hàng hóa trong và ngoài
93
nước…liên quan đến dự án đầu tư. Tuy nhiên, hệ thống thông tin kinh tế quốc gia
còn nhiều yếu kém, dữ liệu nghèo nàn, thiếu cập nhật, thiếu chính xác. Thậm chí
ngay cả cơ quan thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC) cũng không
cung cấp được thông tin có chất lượng và đầy đủ về tình hình tài chính, khả năng
phát triển của chủ đầu tư có nhu cầu vay vốn. Vì vậy, cán bộ thẩm định không khai
thác được những thông tin cần thiết phục vụ công tác thẩm định để so sánh, đối
chiếu các chỉ tiêu của dự án với các định mức kinh tế kỹ thuật hoặc các chỉ tiêu tài
chính cùng ngành nghề của dự án xin vay vốn nhằm phân tích, đánh giá tính khả
thi, hiệu quả cùa dự án về phương diện tài chính cũng như về kinh tế xã hội [74,
tr.100].
Các dự án (trong đó có nhiều dự án trọng điểm nhóm A) của các bộ, ngành,
tập đoàn, tổng công ty lập còn sơ sài về nội dung, thiếu chính xác về số liệu, không
có các dự báo về thị trường, giá cả, khả năng tiêu thụ sản phẩm. Việc xây dựng dự
án luôn đề xuất một phương án do đó cơ quan thẩm định dự án không có cơ sở để
so sánh, lựa chọn phương án tối ưu. Do chỉ có một phương án cho nên việc áp
dụng các phương pháp thẩm định dự án như tính toán các chỉ tiêu IRR, NPV kết
quả mang lại không cao. Các cơ quan chuyên ngành chưa đưa ra được các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật của từng ngành, từng vùng, lãnh thổ để làm căn cứ so sánh, đối
chiếu về hiệu quả của dự án đầu tư. Trong khi đó, công tác thiết lập hệ thống thông
tin để cung cấp kịp thời, đầy đủ phục vụ công tác thẩm định dự án đầu tư trong hệ
thống NHPT thời gian qua còn nhiều hạn chế. NHPT chưa thiết lập được hệ thống
thông tin thống nhất trong toàn quốc để hệ thống hóa các đơn giá, định mức kinh tế
kỹ thuật trên mạng máy tính. Các hồ sơ, dữ liệu, kết luận thẩm định về dự án, chủ
đầu tư chủ yếu được lưu trữ bằng bản cứng (giấy) tại các phòng, ban, chi nhánh.
Các số liệu cần thiết hàng năm chưa được lưu trữ một cách hệ thống và tin học hóa
để có thể tra cứu dễ dàng khi cần. Hầu hết thông tin do các cán bộ thẩm định tự
cập nhật, xử lý theo kinh nghiệm và thông tin cá nhân của mình.
2.1.4. Năng lực của Tổ chức thực hiện TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm
Chính sách TDĐTPT của Nhà nước mặc dù đã được định hình và bắt đầu từ
khá sớm, từ những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX, thông qua cơ chế cho vay
tín dụng trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ
94
bản từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Song phải đến khi Luật khuyến
khích đầu tư trong nước ra đời năm 1994, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1995, lần
đầu tiên, một hình thức tổ chức pháp lý để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư của
Nhà nước được đề cập đến.
Để triển khai Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994, NĐ số 29/CP
ngày 12/5/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư
trong nước đã được ban hành, trong đó tại Điều 7 NĐ nêu: Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc
gia được thành lập nhằm mục đích:
- Huy động vốn trung và dài hạn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước;
- Cho vay vốn trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư trong các ngành,
nghề thuộc diện ưu đãi;
- Cho vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi đối với các dự án ở các
vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và vùng có khó khăn (theo quy định của
Chính phủ).
Như vậy, bắt đầu từ các văn bản pháp lý nêu trên, tổ chức pháp lý để thực
hiện cơ chế hỗ trợ đầu tư, khuyến khích đầu tư thông qua hoạt động cho vay tín
dụng ưu đãi đã được định hình, đó là Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia. Đồng thời, vào
tháng 12/1994, Tổng cục Đầu tư phát triển được thành lập theo NĐ số 187/CP
ngày 10/12/1994, chính thức hoạt động từ 01/01/1995, là tổ chức trực thuộc Bộ Tài
chính, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tài chính đầu tư phát triển, tổ chức thực hiện cấp phát vốn NSNN đầu tư
và vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước đối với các dự án, mục tiêu, chương trình theo
danh mục do Chính phủ quyết định hàng năm.
*Giai đoạn 1995 – 1999 (Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia)
Trên cơ sở các quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994 và
NĐ số 29/CP ngày 12/5/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
808/QĐ-TTg ngày 9/12/1995 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia.
Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia có nhiệm vụ huy động vốn của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước; tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và cho
vay với lãi suất ưu đãi đối với các dự án ĐTPT các ngành, nghề thuộc diện ưu đãi
của mọi thành phần kinh tế và các vùng có khó khăn theo quy định của Chính phủ.
95
Tổng cục trưởng Tổng cục Đầu tư phát triển được giao làm Tổng giám đốc Cơ
quan điều hành tác nghiệp Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia. Sử dụng bộ máy của hệ
thống Tổng cục Đầu tư phát triển để tổ chức điều hành hoạt động của Quỹ hỗ trợ
đầu tư quốc gia.
Như vậy, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia là cơ quan chuyên môn đầu tiên về
thực hiện nhiệm vụ cho vay vốn TDĐTPT của Nhà nước.
Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động
trên phạm vi cả nước. Hoạt động của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia không vì mục
đích lợi nhuận, nhưng phải bảo đảm hoàn vốn và bù đắp chi phí quản lý. Quỹ được
miễn thuế, miễn nộp khoản thu về sử dụng vốn NSNN để giảm lãi suất cho vay đối
với các dự án đầu tư phát triển thuộc các ngành nghề ưu đãi và các vùng khó khăn
theo quy định của Chính phủ.
* Giai đoạn 2000 – 2006 (Quỹ Hỗ trợ phát triển)
Sau một thời gian thực hiện, Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1994 đã
được sửa đổi, bổ sung. Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa X, Quốc hội đã thông qua
Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi), thay thế cho Luật khuyến khích
đầu tư trong nước 1994. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/1999.
Để triển khai thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi),
Chính phủ đã ban hành NĐ số 51/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 quy định chi tiết
thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). Theo đó, tại Điều 10 NĐ
số 51/1999/NĐ-CP quy định: Chính phủ thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển để thực
hiện việc hỗ trợ ĐTPT của Nhà nước thông qua các hình thức cho vay đầu tư; hỗ
trợ sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư theo pháp luật hiện hành quy định về
TDĐTPT của Nhà nước. Bãi bỏ Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 09/12/1995 của
Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia.
Đặc biệt, trên cơ sở thực tiễn triển khai công tác tín dụng nhà nước cho đầu
tư phát triển, với chủ trương tiếp tục mở rộng đầu tư cho nền kinh tế, hỗ trợ cho
phát triển, Nhà nước đã pháp lý hóa các chủ trương, chính sách về TDĐTPT và tập
hợp thành một văn bản riêng ở tầm nghị định của Chính phủ về TDĐTPT. Chính
vì vậy, ngày 29/6/1999, Chính phủ ban hành NĐ số 43/1999/NĐ-CP về TDĐTPT
của Nhà nước. Đây là văn bản pháp lý cao nhất từ trước đến thời điểm này được
96
ban hành quy định riêng về TDĐTPT của Nhà nước. Theo đó, mục đích của
TDĐTPT của nhà nước là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần
kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và
các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.
Đồng thời, Chính phủ ban hành NĐ số 50/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999,
thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển để huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và
quản lý các nguồn vốn của nhà nước dành cho TDĐTPT để thực hiện chính sách
hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước. Quỹ Hỗ trợ phát triển đi vào hoạt động từ
01/01/2000, kế thừa vốn điều lệ của Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, tiếp tục quản lý
cho vay và thu hồi nợ đối với các dự án được hệ thống Tổng cục đầu tư phát triển,
hệ thống Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia cho vay trước đây. Tổng cục Đầu tư phát triển
giải thể, chấm dứt hoạt động vào ngày 31/12/1999.
Và như vậy, bắt đầu từ 01/01/2000, về mặt pháp lý, chỉ còn một đầu mối
duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện chính sách TDĐTPT của nhà
nước là Quỹ Hỗ trợ phát triển. Quỹ hỗ trợ phát triển là một tổ chức tài chính Nhà
nước hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo đảm hoàn vốn và bù đắp chi phí.
* Giai đoạn từ 2006 đến nay (Ngân hàng Phát triển Việt Nam)
Sau hơn 6 năm hoạt động, để tiếp tục thích ứng với những yêu cầu, đòi hỏi
mới của nền kinh tế, đồng thời nhằm đáp ứng những cam kết của Việt Nam khi hội
nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Chính phủ quyết định tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát
triển thành một tổ chức mới với mô hình, chức năng nhiệm vụ như một ngân hàng
đặc biệt, ngân hàng của Chính phủ về cho vay vốn tín dụng đầu tư, tín dụng xuất
khẩu của Nhà nước.
Tháng 5/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 108/2006/QĐ-
TTg ngày 19/5/2006, thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT) trên cơ sở
tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát triển để thực hiện chính sách TDĐTPT và tín dụng
xuất khẩu của Nhà nước. NHPT kế thừa mọi quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ, tài
sản, tổ chức bộ máy từ Quỹ hỗ trợ phát triển. NHPT chính thức đi vào hoạt động từ
01/7/2006 đến nay.
Do tổ chức cho vay được hình thành và phát triển theo hình thức kế thừa,
chuyển đổi khá nhiều lần (trung bình cứ khoảng 5 năm) như trên trong một thời
97
gian chưa dài, trong khi lại đóng vai trò là công cụ của Chính phủ trong thực hiện
chính sách tín dụng ĐTPT nói riêng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong
từng thời kỳ nói chung nên mô hình hoạt động, tổ chức bộ máy của mỗi thời kỳ, cơ
chế thực thi chính sách TD ĐTPT qua mỗi thời kỳ đã ảnh hưởng nhiều đến tổ chức
và hoạt động của tổ chức cho vay này.
Chính sách và mô hình tổ chức thực hiện quản lý rủi ro tín dụng tại cơ quan
cho vay TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
(NHPT) chưa được xây dựng và thực hiện bài bản; chưa tách bạch được các chức
năng quản lý rủi ro, cho vay và tác nghiệp theo khuyến cáo của Basel và thông lệ
hoạt động tín dụng. Tại Hội sở chính NHPT, chưa phân định rõ ràng trách nhiệm
và chức năng trong quản lý rủi ro giữa bộ phận thẩm định, phê duyệt tín dụng,
quản lý tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng.
Bộ máy quản lý rủi ro độc lập cũng chưa được hình thành. Ngay trong khâu
phân tích và thẩm định hồ sơ tín dụng – rủi ro liên quan đến khách hàng, NHPT
chưa xây dựng xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ làm căn cứ thực
hiện việc đánh giá và đo lường rủi ro của khoản cho vay bằng các chỉ tiêu tài chính
và phi tài chính thông qua việc chấm điểm năng lực tài chính, năng lực sản xuất
kinh doanh, khả năng thanh toán...của chủ đầu tư dự án, khách hàng vay vốn, để từ
đó định ra chính sách cho vay đối với khách hàng, chủ đầu tư dự án.
Tổ chức bộ máy quản trị nội bộ chưa hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu quản trị
điều hành tác nghiệp và phòng chống rủi ro; chưa theo kịp yêu cầu phát triển và an
toàn hoạt động. Bản thân hoạt động tín dụng luôn chứa đựng nguy cơ rủi ro tiềm
ẩn. Chính vì vậy, quy trình quản lý tín dụng cần được xây dựng và tổ chức thực
hiện nghiêm ngặt các khâu từ thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân, kiểm tra,
giám sát trước, trong và sau khi giải ngân, quản lý thu hồi nợ, xử lý rủi ro...Tuy
nhiên, trong thực tế, quy trình quản lý tín dụng ở NHPT chưa được thiết kế phù
hợp, khoa học. Thể hiện qua việc bộ máy quản lý của các ban ở Hội sở chính đối
với các chi nhánh cho vay trong toàn quốc còn khá lỏng lẻo, chưa nắm bắt đầy đủ
thông tin, báo cáo về khách hàng, dự án. Thông tin quản lý chủ yếu từ dưới lên
theo đường công văn, thiết lập dữ liệu thủ công, chưa có hệ thống thông tin quản lý
tín dụng được tin học hóa toàn ngành. Bộ máy quản lý tín dụng và quản lý rủi ro
tín dụng còn chưa được tách bạch rõ theo thông lệ và khuyến cáo của Ủy ban Basel
98
và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về tín dụng.
2.2. HOẠT ĐỘNG TD ĐTPT CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN
VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm là
một bộ phận chủ đạo trong hoạt động TD ĐTPT ở Việt Nam thời gian qua. Kết
quả hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm thời gian qua như sau.
2.2.1. TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn
Sau khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội
V của Đảng đã xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh phát triển
hàng tiêu dùng, công nghiệp nặng phát triển ở mức độ hợp lý, tập trung cao độ
phục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng, đồng thời chú ý thỏa
đáng một số công trình có tính chất bắc cầu cho chặng đường sau. Những công
trình có tính chất bắc cầu thời bấy giờ như công trình thủy điện Sông Đà, công
trình dầu khí thềm lục địa phía nam, công trình luyện kim, công trình hóa
chất…Đến Đại hội VI, chủ trương tập trung nguồn lực thực hiện ba chương trình
kinh tế lớn đó là chương trình sản xuất lương thực – thực phẩm, chương trình sản
xuất hàng tiêu dùng và chương trình sản xuất hàng xuất khẩu.
Có thể nói những dự án có tính chất bắc cầu cho chặng đường sau, những
chương trình kinh tế lớn về sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu… nêu trên chính là những dự án kinh tế trọng điểm, chương trình kinh
tế lớn đầu tiên được triển khai nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của đất
nước trong giai đoạn trước đổi mới và những năm đầu tiên sau đổi mới.
Để thực hiện chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước ta trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, nhiều chương trình kinh tế lớn
của Nhà nước đã được triển khai, đem lại kết quả tích cực trong việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, góp phần CNH, HĐH nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, hỗ trợ
phát triển vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn.
● Chương trình kiên cố hóa kênh mương
Chủ trương phát triển kinh tế khu vực nông thôn, mở rộng giao lưu kinh tế
hàng hoá giữa các vùng dân cư, từng bước tạo điều kiện thúc đẩy công cuộc CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
99
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã thông qua Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, trong đó có mục tiêu phát triển nông nghiệp,
nông thôn: Xây dựng kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông
an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông
nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững
chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa...
Chủ trương này của Đảng, Nhà nước đã được cụ thể hóa, triển khai thực
hiện liên tục từ nhiều năm nay. Nhằm triển khai thực hiện tinh thần NQ số
08/1999/NQ-CP ngày 09/7/1999 và NQ số 05/2001/NQ-CP ngày 24/5/2001 của
Chính phủ, thực hiện giải pháp kích cầu đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ
tầng ở nông thôn, khắc phục các tồn tại, khó khăn trong thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình kiên cố hóa kênh mương đã được Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành tại QĐ số 66/2000/QĐ-TTg ngày 13/6/2000 về một
số chính sách và cơ chế tài chính thực hiện Chương trình kiên cố hóa kênh mương.
Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành QĐ số 132/2001/QĐ-TTg ngày
07/9/2001 về cơ chế tài chính thực hiện chương trình phát triển đường giao thông
nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn.
Các chương trình nói trên (gọi chung là “Chương trình Kiên cố hóa kênh
mương”) có mục tiêu nhằm khuyến khích các địa phương huy động mọi nguồn lực
và tạo cơ chế thuận lợi nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện việc kiên cố hóa kênh
mương các công trình thủy lợi, tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình phát
triển cơ sở hạ tầng đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản,
cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn, đáp ứng những nhu cầu cần thiết bức xúc của
địa phương, đồng thời đổi mới một bước suy nghĩ của người dân để không còn
trông chờ vào nguồn vốn của Nhà nước, từ đó nhân rộng hơn nữa phong trào Nhà
nước và nhân dân cùng làm.
Vì vậy, cơ chế tài chính để thực hiện theo hướng Nhà nước chủ trương huy
động đóng góp của nhân dân là chủ yếu (bằng tiền, hiện vật, ngày công…), nhà
nước xem xét hỗ trợ một phần, UBND các tỉnh, thành phố có trách nhiệm cân đối
ngân sách địa phương hàng năm và dành nguồn lực từ thuế sử dụng đất nông
nghiệp, một phần thủy lợi phí và các nguồn thu khác để thực hiện. Đối với các tỉnh
100
miền núi và các tỉnh có nguồn thu ngân sách không lớn, nguồn thu thuế sử dụng
đất nông nghiệp và thủy lợi phí thấp, ngân sách Trung ương hỗ trợ một phần vốn
ngân sách qua kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm của địa phương.
Ngoài phần vốn đóng góp của nhân dân và hỗ trợ của ngân sách nhà nước
nêu trên, hàng năm Nhà nước dành một khoản vốn tín dụng ưu đãi với lãi suất
bằng 0% để cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vay để thực hiện
Chương trình. Nhà nước giao Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là NHPT) thực hiện việc
cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vay vốn. NSNN bố trí nguồn để bù
khoản chênh lệch lãi suất và phí cho vay cho Quỹ Hỗ trợ phát triển theo chế độ
quy định.
Thực hiện các cơ chế, chính sách nêu trên, bắt đầu từ năm 2000, Quỹ Hỗ trợ
phát triển thực hiện cho vay để thực hiện Chương trình kiên cố hóa kênh mương và
các dự án đầu tư xây dựng đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng
thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn. Chương trình đã được triển khai ở
hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước và đặc biệt phát huy tác dụng tại các tỉnh
miền núi, các địa bàn còn nhiều khó khăn như Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai
Châu, Đắc Lăk, Lâm Đồng, Bình Phước, An Giang, Sóc Trăng….
Đến năm 2009, Thủ tướng Chính phủ có QĐ số 13/2009/QĐ-TTg ngày
21/01/2009 khẳng định việc sử dụng vốn TDĐTPT của Nhà nước để tiếp tục thực
hiện các chương trình kiên cố hóa kênh mương, phát triển đường giao thông nông
thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn đến
hết 2015, đồng thời bổ sung thêm việc cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương được sử dụng nguồn vốn TDĐTPT của Nhà nước để đầu tư trạm bơm điện
phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp khi có nhu cầu.
Bắt đầu từ năm 2000, Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là NHPT) thực hiện cho
vay để thực hiện Chương trình kiên cố hóa kênh mương và các dự án đầu tư xây
dựng đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng
làng nghề ở nông thôn.
Tổng cộng, từ năm 2000 đến năm 2012, số vốn dành cho Chương trình kiên
cố hóa kênh mương đã được NHPT đã ký hợp đồng, chuyển vốn vay cho các Sở
Tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc TW với số vốn cho vay theo hợp đồng tín
dụng là hơn 20.000 tỷ đồng, số vốn đã giải ngân cho Chương trình là hơn 19.000
101
tỷ đồng (xem Bảng 2.3).
Bảng 2.3. Vốn TD ĐTPT cho vay Chương trình kiên cố hóa kênh mương
Đơn vị tính: tỷ đồng
KH vốn từ năm 2000 Số vốn Số vốn Thu nợ Dư nợ đến năm 2012 đã ký HĐTD đã giải ngân
22.155 22.051 19.178 11.587 7.591
Nguồn: Đặc san Tài trợ dự án (03), NHPT [44]
Nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước thông qua Quỹ Hỗ trợ phát triển trước
đây và NHPT hiện nay đã giải ngân cho Chương trình hàng năm chiếm khoảng gần
10% số vốn giải ngân cho các dự án tín dụng đầu tư.
● Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng
bằng sông Cửu Long
Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng
sông Cửu Long là chương trình kinh tế trọng điểm của Chính phủ nhằm đảm bảo
cho nhân dân vùng thường xuyên bị ngập lũ ở đồng bằng sông Cửu Long có cuộc
sống an toàn, ổn định và từng bước phát triển bền vững, tránh thiệt hại về người và
của khi có lũ, không phải di dời khi có lũ xảy ra. Chương trình có ý nghĩa tổng hợp
cả về chính trị, kinh tế - xã hội, kết hợp với đảm bảo an ninh, quốc phòng, với mục tiêu
đề ra là tổ chức lại dân cư theo cụm, tuyến để bố trí 200.000 hộ với khoảng 1 triệu dân
vùng ngập lũ đến sống an toàn, ổn định và từng bước phát triển bền vững trong các
cụm, tuyến dân cư.
Chương trình được triển khai sau khi Chính phủ có Nghị quyết số
15/2000/NQ-CP ngày 6/10/2000 về một số chủ trương và giải pháp tiếp tục khắc
phục hậu quả lũ lụt, sớm ổn định đời sống nhân dân, xử lý kịp thời những vấn đề
mới nảy sinh nhằm đảm bảo yêu cầu phát triển nhanh và bền vững về kinh tế - xã
hội vùng đồng bằng sông Cửu Long và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2005.
Trên cơ sở NQ số 15/2000/NQ-CP, QĐ số 173/2001/QĐ-TTg về phát triển kinh
tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2005 đã được phê duyệt.
Triển khai Quyết định này, QĐ số 1548/QĐ-TTg ngày 5/12/2001 về việc đầu tư tôn nền
102
vượt lũ để xây dựng các cụm tuyến dân cư vùng ngập sâu đồng bằng sông Cửu Long đã
được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Giai đoạn II của Chương trình được phê duyệt bổ
sung tại QĐ số 1151/QĐ-TTg ngày 26/8/2008.
Giai đoạn I của Chương trình được thực hiện trên 12 tỉnh tại đồng bằng sông
Cửu Long gồm 7 tỉnh ngập lũ và 5 tỉnh cửa sông ven biển với tổng số 1.043 cụm, tuyến
dân cư, đảm bảo cho khoảng 200.000 hộ dân vào cụm, tuyến.
Giai đoạn II của Chương trình được Chính phủ phê duyệt bổ sung từ năm 2008,
thực hiện tại 8 tỉnh ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long gồm các tỉnh: An Giang, Cần
Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Long An, Kiên Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long với tổng
số hộ dân di dời vào ở trong các dự án cụm, tuyến dân cư là 57.252 hộ dân. Mục tiêu là
tiếp tục đầu tư nhằm hoàn thiện đồng bộ và phát huy hiệu quả Chương trình xây dựng
cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long; đáp ứng nhu cầu
di dời, ổn định đời sống cho số hộ dân trong các khu vực sạt lở nguy hiểm và số hộ dân
còn lại trong vùng ngập lũ chưa được bố trí vào các cụm, tuyến dân cư trong giai đoạn I
của Chương trình, tăng cường khả năng phòng chống thiên tai, hạn chế thiệt hại khi có
lũ lụt và thiên tai xảy ra, bảo đảm người dân vùng ngập lũ có cuộc sống an toàn, ổn
định, xã hội ngày càng văn minh và không phải di dời khi có lũ lụt xảy ra.
Tổng vốn đầu tư cho cả 2 giai đoạn là gần 7.000 tỷ đồng (trong đó: giai đoạn I
có vốn đầu tư là khoảng 3.200 tỷ đồng, giai đoạn II có vốn đầu tư là trên 3.500 tỷ đồng).
Tính đến nay, tổng số vốn TDĐTPT cho Chương trình đã giải ngân qua hệ
thống NHPT cho phần tôn nền diện tích xây dựng nhà ở (cả hai giai đoạn) là 2.420 tỷ
đồng/2.473 kế hoạch đề ra; giải ngân đối với phần xây dựng kè bãi rác và chống sạt lở
là 1.150 tỷ đồng/1.341 tỷ đồng như dự kiến đề ra [45].
● Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng là một Chương trình kinh tế - xã hội – sinh
thái trọng điểm của Việt Nam với mục tiêu trồng mới 5 triệu ha rừng và bảo vệ diện
tích rừng hiện có trong thời kỳ từ năm 1998 đến năm 2010 nhằm nâng cao độ che phủ
của rừng Việt Nam lên 43% vào năm 2010.
Dự án được Quốc hội khóa X thông qua tại Nghị quyết số 08/1997/QH10 về
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và Nghị quyết số 73/2006/QH11 về việc điều chỉnh
chỉ tiêu, nhiệm vụ của Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng giai đoạn 2006-2010.
Ngày 25/11/2011, Quốc hội đã thông qua NQ số 18/2011/QH13 về kết thúc
103
việc thực hiện NQ số 08/1997/QH10 và NQ số 73/2006/QH11 ngày 29/11/2006 về
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, ghi nhận Dự án đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu
theo Nghị quyết 08/1997/QH10 và các chỉ tiêu, nhiệm vụ đã được điều chỉnh theo
Nghị quyết số 73/2006/QH11.
Dự án có thời gian thực hiện trên 13 năm, được chia làm 2 giai đoạn (giai đoạn
I: 1998-2005 và giai đoạn II: 2006-2010), được thực hiện trên phạm vi 61 tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trong cả nước. Dự án có 3 mục tiêu là:
(i) Đẩy mạnh tốc độ trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chú trọng
bảo vệ vốn rừng hiện có và rừng trồng mới, phát huy có hiệu quả chức năng phòng hộ
và bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ và phát huy tính đa dạng sinh học, tạo điều
kiện cho sự phát triển bền vững của đất nước, đưa tỷ lệ che phủ lên trên 40% diện tích
của cả nước.
(ii) Tạo ra vùng nguyên liệu gắn với sự phát triển công nghiệp chế biến lâm
sản;
(iii) Tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho dân cư, góp phần thực hiện chủ trương
xóa đói giảm nghèo, phát triển sản xuất và ổn định đời sống, bảo đảm quốc phòng, an
ninh.
Nhiệm vụ của Dự án là từ năm 1998 đến năm 2010 trồng mới 5 triệu ha rừng,
trong đó có 2 triệu ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, 3 triệu ha rừng sản xuất. Ngoài ra,
khoanh nuôi, phục hồi tái sinh tự nhiên 2 triệu ha. Tổng vốn đầu tư thực hiện Dự án dự
kiến là 31.650 tỷ đồng.
Chương trình được thực hiện thông qua các khoản vay ưu đãi của các tổ chức
tín dụng dành cho các doanh nghiệp, các nông, lâm trường và các hộ gia đình đảm
nhận công tác này.
Từ mục tiêu của Dự án theo NQ của Quốc hội, tại QĐ số 661/QĐ-TTg, Thủ
tướng Chính phủ đã chỉ đạo, cụ thể hóa mục tiêu của Dự án như sau:
(1) Trồng mới 5 triệu ha rừng cùng với bảo vệ diện tích rừng hiện có, để tăng
độ che phủ của rừng lên 43%, góp phần đảm bảo an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên
tai, tăng khả năng sinh thủy, bảo tồn nguồn gen và tính đa dạng sinh học;
(2) Sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc, tạo thêm nhiều việc
làm cho người lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo, định canh, định cư, tăng thu
nhập cho dân cư sống ở nông thôn miền núi, ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an
104
ninh, nhất là ở vùng biên giới:
(3) Cung cấp gỗ làm nguyên liệu để sản xuất giấy, ván nhân tạo, đáp ứng nhu
cầu gỗ, củi và các lâm sản khác cho tiêu dùng trong nước và sản xuất hàng xuất khẩu,
cùng với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản, đưa lâm nghiệp trở thành một
ngành kinh tế quan trọng, góp phần phát triển KT-XH miền núi.
Để thực hiện Dự án, QĐ 661/QĐ-TTg đã đưa ra quy định về các mục tiêu,
nhiệm vụ và nguyên tắc chỉ đạo dự án; chính sách và giải pháp; tổ chức thực hiện và
quản lý dự án. Trong các chính sách và giải pháp thực hiện Dự án, có chính sách đầu tư
và tín dụng, cho phép các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng rừng và khoanh nuôi bảo
vệ rừng phòng hộ ở vùng ít xung yếu, rừng sản xuất (kể cả trồng cây công nghiệp lâu
năm, cây ăn quả, cây đặc sản và cây làm thuốc…) và phát triển các cơ sở chế biến lâm
sản nông sản được hưởng các chế độ ưu đãi theo quy định của Luật Khuyến khích đầu
tư trong nước (sửa đổi), được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các nguồn vốn tín
dụng ưu đãi khác, vốn ODA và các nguồn vốn vay khác.
Thực hiện Chương trình, nguồn vốn TD ĐTPT qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát
triển trước đây, nay là NHPT, đã cho vay hơn 2.200 tỷ đồng để trồng 324.580 ha rừng
(chiếm trên 23%) trên tổng diện tích 1.424.135 ha rừng được thực hiện theo Chương
trình [45].
● Chương trình đầu tư cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng giải quyết
cấp bách tình trạng quả tải tại các bệnh viện lớn, tuyến cuối
Theo báo cáo của Bộ Y tế, tình trạng quá tải tại các bệnh viện đã trở nên
phổ biến và đã kéo dài nhiều năm nay, trong đó tập trung chủ yếu ở các bệnh viện
công, bệnh viện có quy mô lớn và bệnh viện tuyến cuối. Ở các bệnh viện này, công
suất hoạt động vượt trên 200%. Tình trạng ghép đôi, ghép ba bệnh nhân/giường
khá phổ biến, đặc biệt là ở các bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), bệnh viện Phụ sản
trung ương (Hà Nội), bệnh viện Nhi trung ương (Hà Nội), bệnh viện K (Hà Nội),
bệnh viện Việt – Đức (Hà Nội), bệnh viện Trung ương Huế (Thừa Thiên Huế)….
Để tháo gỡ, giải quyết tình trạng này, Thủ tướng đã có ý kiến chỉ đạo tại
Thông báo số 220/TB-VPCP ngày 02/11/2007 của Văn phòng Chính phủ, thông
báo ý kiến kết luận chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ cấp bách
của ngành y tế, giao Bộ Y tế tổ chức sơ kết 03 năm thực hiện NQ số 46/NQ-TW
ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân
105
trong tình hình mới, trong đó có việc chỉ đạo một số bệnh viện lớn, đang trong tình
trạng quá tải xây dựng các dự án vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước nhằm đầu
tư mở rộng bệnh viện, mua sắm trang thiết bị…, giải quyết cấp bách tình trạng quá
tải tại các bệnh viện lớn, tuyến cuối.
Thực hiện chủ trương này, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên
quan xác định danh sách các bệnh viện công có nhu cầu vay vốn TDĐT để đầu tư
mở rộng, mua sắm trang thiết bị, gồm 18 bệnh viện trên phạm vi cả nước, trong đó
có 11 bệnh viện thuộc địa bàn Hà Nội, 03 dự án thuộc TP.HCM, 01 ở Thừa Thiên
Huế, 01 ở Thái Bình, 01 ở Hải Dương, 01 ở Hải Phòng (Bệnh viện Bạch Mai,
Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Phụ sản TW, Bệnh viện K, Bệnh viện Mắt TW,
Bệnh viện Nội tiết, Bệnh viện Tai Mũi Họng TW, Bệnh viện Châm cứu, Viện
Huyết học truyền máu TW, Bệnh viện TW Huế, Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện
Chợ Rẫy, Bệnh viện Răng Hàm Mặt TW Thành phố HCM, Bệnh viện Trường Đại
học Y Thái Bình, Bệnh viện Trường Đại học Y Hải Phòng, Viện Lão khoa Quốc
gia, Viện Bỏng Lê Hữu Trác, Bệnh viện Trường Đại học KTYT Hải Dương).
Với mục mục tiêu đầu tư nâng cấp và mở rộng các bệnh viện lớn thuộc
tuyến trên trọng yếu, luôn trong tình trạng quá tải, cơ sở vật chất kỹ thuật đã và
đang xuống cấp nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân, nâng cao
chất lượng dịch vụ, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xác định
danh sách các bệnh viện công có nhu cầu vay vốn tín dụng đầu tư để đầu tư mở
rộng, mua sắm trang thiết bị. Danh sách gồm 18 bệnh viện trên phạm vi cả nước,
trong đó có 11 bệnh viện thuộc địa bàn Hà Nội, 03 dự án thuộc TP.HCM, 01 ở
Thừa Thiên Huế, 01 ở Thái Bình, 01 ở Hải Dương, 01 ở Hải Phòng.
Triển khai thực hiện Chương trình trên, tính đến nay, đã có 06 bệnh viện
được tài trợ vốn TDĐTPT của Nhà nước qua NHPT với tổng số vốn vay theo hợp
đồng tín dụng là 838 tỷ đồng, đã giải ngân 561 tỷ đồng. Trong đó đã có 02 bệnh
viện tại Hà Nội đã khánh thành công trình. Đối với các dự án còn lại trong Chương
trình, hiện nay các bệnh viện không có nhu cầu vay vốn TDĐT. Các dự án này đã
được Quỹ đầu tư đô thị của thành phố cho vay theo chương trình của NSNN cấp
[46].
● Chương trình cơ khí trọng điểm
Ngày 26/12/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành QĐ số 186/2002/QĐ-TTg
106
về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm
nhìn tới năm 2020.
Mục tiêu chung của Chiến lược là ưu tiên phát triển một số chuyên ngành và sản
phẩm cơ khí trọng điểm để đáp ứng về cơ bản nhu cầu của nền kinh tế quốc dân gồm:
thiết bị toàn bộ, máy động lực, cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp và công nghiệp
chế biến, máy công cụ, cơ khí xây dựng, cơ khí đóng tàu thủy, thiết bị kỹ thuật điện –
điện tử, cơ khí ô tô – cơ khí giao thông vận tải.
Mục tiêu cụ thể của Chiến lược là đến năm 2010, ngành cơ khí đáp ứng 45-50%
nhu cầu sản phẩm cơ khí của cả nước, trong đó xuất khẩu đạt 30% giá trị sản lượng.
Tại Quyết định này, Thủ tướng đã phê duyệt các chính sách và giải pháp hỗ trợ
ngành cơ khí phát triển. Trong đó, đối với chính sách tạo vốn cho ngành cơ khí, Thủ
tướng cho phép các dự án sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm được vay vốn theo
NQ số 11/NQ-CP ngày 31/7/2000 vay vốn với mức lãi suất tín dụng 3%/năm, thời hạn
vay 12 năm, 02 năm đầu không phải trả lãi và bắt đầu trả nợ vào năm thứ 5 hoặc được
bù chênh lệch lãi suất nếu các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại.
Triển khai QĐ số 186/2002/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam, ngày 9/6/2003 Thủ tướng
Chính phủ đã ký QĐ số 112/2003/QĐ-TTg thành lập Ban chỉ đạo Chương trình sản
phẩm cơ khí trọng điểm. Ngày 16/01/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký QĐ số
10/2009/QĐ-TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và
Danh mục các sản phẩm cơ khí trọng điểm, Danh mục dự án đầu tư sản xuất sản phẩm
cơ khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.
Nội dung chủ yếu của QĐ này bao gồm các chính sách hỗ trợ cao nhất về tín
dụng đầu tư, tiêu thụ sản phẩm (kích cầu), về nghiên cứu phát triển và các chính sách có
liên quan về thuế, phí...Sự ra đời của QĐ số 10/2009/QĐ-TTg đã pháp lý hóa và cụ thể
hóa những định hướng phát triển ngành cơ khí mà Chiến lược phát triển ngành cơ khí
Việt Nam đã đề ra và được phê duyệt tại QĐ số 186/QĐ-TTg ngày 26/12/2002 của Thủ
tướng Chính phủ.
Tuy nhiên, bên cạnh một số chương trình kinh tế thành công, vẫn còn một
số Chương trình, mặc dù được bắt đầu khỏi động từ những năm trước năm 2000,
song còn kéo dài đến một số năm trong giai đoạn 2000 – 2013, không thành công,
gây tổn thất cho nền kinh tế, để lại hậu quả xấu về kinh tế - xã hội như Chương
107
trình mía đường; Chương trình đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ…
● Chương trình đóng tàu đánh bắt cá xa bờ
Chương trình đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt và dịch vụ đánh bắt hải sản
xa bờ (thường được gọi là “Chương trình đóng tàu đánh bắt cá xa bờ”) được triển
khai thực hiện từ tháng 6/1997 đến năm 2003 trên địa bàn 29 tỉnh, thành phố và dự
án kinh tế thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Thủy sản nằm trong mục tiêu phát triển
kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản.
Chủ trương này được cụ thể hóa bằng các chính sách của nhà nước được
ban hành tại các Quyết định số 393/TTg-QĐ ngày 9/6/1997 và Quyết định số
159/1998/TTg-QD của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và
sử dụng vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch của Nhà nước cho các dự án đóng mới,
cải hoán tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ (sau đây gọi chung là
các dự án đóng tàu đánh bắt cá xa bờ). (Xem hộp 1, hộp 2).
Đối tượng được vay vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch của nhà nước để
đóng tàu đánh cá xa bờ là các đơn vị kinh tế có đăng ký hành nghề đánh cá xa bờ
và thực hiện các dịch vụ đánh cá xa bờ bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã, tổ hợp
tác và ngư dân.
Vốn đầu tư cho các dự án đóng tàu đánh cá xa bờ được huy động từ nhiều
nguồn, trong đó có một phần bằng nguồn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước
hàng năm. Riêng năm 1997, mức vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước cho
các dự án này là 400 tỷ đồng.
Kết quả triển khai Chương trình
Từ năm 1997 đến 2002, ngoài một số tổ chức cho vay là các ngân hàng
thương mại quốc doanh (Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn…), Tổng cục Đầu tư phát triển, Quỹ hỗ trợ
đầu tư quốc gia (thuộc Tổng cục Đầu tư phát triển) và Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là
Ngân hàng Phát triển Việt Nam) là tổ chức cho vay chủ yếu cho Chương trình đã
cho vay 1.033,418 tỷ đồng từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
để đầu tư 756 dự án đóng mới và cải hoán 1.016 con tàu trên địa bàn 29 tỉnh, thành
phố và dự án thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Thủy sản [40]. Trong đó:
108
Giai đoạn 1997 – 1999
Trong các năm 1997-1999, căn cứ vào chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước
giao, Bộ kế hoạch và đầu tư phân bổ mức vốn tín dụng đầu tư phát triển đối với
Chương trình cho từng bộ, ngành, địa phương. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa
phương phân bổ mức vốn vay cụ thể cho từng dự án của các chủ đầu tư. Tổng cục
Đầu tư phát triển và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia căn cứ vào danh mục và mức vốn
vay cho từng dự án nêu trên đã ký hợp đồng tín dụng cho vay 867,871 tỷ đồng,
tương ứng với 850 con tàu.
Giai đoạn 2000-2002:
Trong các năm 2000-2002, căn cứ vào tổng mức vốn tín dụng đầu tư phát
triển hàng năm Thủ tướng giao cho Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ hỗ trợ phát triển
thông báo cho các bộ, ngành, địa phương phân bổ mức vốn vay cụ thể cho các dự
án đánh bắt cá xa bờ. Căn cứ danh mục và mức vốn vay do các bộ, ngành, địa
phương phân bổ, Quỹ hỗ trợ phát triển đã xem xét, duyệt cho vay 165,547 tỷ đồng
để đóng mới 166 con tàu.
Kể từ năm 2003: tạm dừng không xét duyệt cho vay dự án đánh bắt hải sản
xa bờ.
Tính đến hết năm 2007 (là năm tổ chức hội nghị toàn quốc về xử lý nợ tàu
đánh bắt cá xa bờ, sau thời điểm này không có hội nghị chính thức nào về việc này
nên không có số liệu cập nhật), số vốn vay theo hợp đồng tín dụng cho cả Chương
trình là 1.050 tỷ đồng, số vốn thực giải ngân là 1.033 tỷ đồng.[40].
Số nợ gốc đã trả là 251 tỷ đồng, số nợ lãi đã trả là 56,4 tỷ đồng.
Dư nợ gốc là 782 tỷ đồng (trong đó nợ quá hạn là 372 tỷ đồng, chiếm 48%
dư nợ).
Nợ lãi là 441 tỷ đồng (lãi đến hạn trả chưa trả là 334 tỷ đồng).
Tính đến 31/12/2007, dự kiến số nợ không thu được của cả Chương trình là
1.150 tỷ đồng, trong đó có 750 tỷ đồng nợ gốc và 400 tỷ đồng nợ lãi. Nợ quá hạn
từ Chương trình chiếm 12% tổng số nợ quá hạn của NHPT tại thời điểm
31/12/2007 [40].
Trong năm 2008, NHPT đã trình Liên bộ Bộ Tài chính – Kế hoạch và đầu
tư – Ngân hàng Nhà nước để trình Thủ tướng Chính phủ cho phép xóa nợ với tổng
số tiền đề nghị xóa là 1.179 tỷ đồng của 905 con tàu (trong đó xóa nợ gốc 705 tỷ
109
đồng; nợ lãi 474 tỷ đồng) theo hướng: Bước 1: xóa trên cơ sở loại dư nợ khỏi bảng
tổng kết tài sản, chuyển ra ngoại bảng. Bước 2: tiếp tục rà soát từng trường hợp để
xử lý cụ thể.
Cho đến nay, dư nợ còn lại chưa thu được của các dự án thuộc Chương trình
đã được nhà nước cho phép NHPT (kế thừa toàn bộ trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ
chức cho vay Chương trình trước đây là Quỹ Hỗ trợ phát triển) hạch toán ngoại
bảng, tiếp tục tiếp nhận hồ sơ của các địa phương, chủ đầu tư có đủ điều kiện theo
quy định để báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép xóa nợ (gốc và lãi) từng
trường hợp cụ thể.
Những mặt được của Chương trình
Một là, thông qua Chương trình, từ nguồn vốn vốn vay ưu đãi (1.338 tỷ
đồng, trong đó riêng hệ thống Tổng cục đầu tư phát triển, Quỹ hỗ trợ phát triển cho
vay là 1.033 tỷ đồng), ngư dân cả nước đã đóng mới và hoán cải được hơn 1.362
con tàu thành tàu đánh bắt cá xa bờ (trong đó riêng hệ thống Tổng cục đầu tư phát
triển, Quỹ hỗ trợ phát triển cho vay đóng mới và hoán cải 1.016 con tàu) [85].
Cùng với hơn 4.000 con tàu mà ngư dân tự bỏ vốn đầu tư hoặc vay thương mại từ
các nguồn khác, đội tàu đánh bắt cá xa bờ của Việt Nam đã được nâng lên thành
hơn 6.300 chiếc, góp phần tăng tổng công suất và số lượng tàu có công suất tương
đối lớn, có khả năng đánh bắt hải sản xa bờ nhằm khai thác tiềm năng của biển,
cung cấp nguyên liệu cho chế biến hải sản [85].
Hai là, việc triển khai Chương trình đã góp phần giải quyết việc làm và tăng
thu nhập cho một bộ phận ngư dân, tạo thêm việc làm cho lao động dịch vụ trên
bờ, dưới biển, lao động thu mua và chế biến thủy hải sản.
Ba là, thông qua Chương trình, đã huy động được một phần vốn trong dân
tham gia đầu tư để đóng tàu có công suất lớn, đủ điều kiện đánh bắt cá xa bờ, giảm
áp lực khai thác ven bờ, loại bỏ dần phương tiện lạc hậu, năng suất thấp, khai thác
có tính chất hủy hoại nguồn lợi hải sản ven bờ, làm tăng sản lượng phục vụ nhu
cầu trong nước và xuất khẩu.
Bốn là, điều đáng kể hơn, bằng việc đầu tư đóng mới và hoán cải hơn 1.300
con tàu đã tạo nên sự hiện diện thường xuyên hơn của đội tàu đánh bắt xa bờ ở
vùng biển xa góp phần bảo vệ an ninh trên biển, chủ quyền quốc gia và hạn chế tàu
thuyền nước ngoài đánh bắt trái phép ở vùng biển xa của Việt Nam [85].
110
Những mặt tồn tại, hạn chế của Chương trình
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc đầu tư thực hiện các dự án đóng tàu
đánh bắt cá xa bờ bộc lộ nhiều thiếu sót, yếu kém, dẫn tới hiệu quả không cao.
Thứ nhất, tỷ lệ trả nợ vốn vay của các dự án rất khiêm tốn, có những dự án
không trả được đồng vốn nào cho nhà nước. Tỷ lệ số vốn thu hồi được trên số vốn
đã cho vay ra rất thấp. Tổng số vốn nhà nước đã cho vay ra bị thất thoát, không thu
hồi được rất cao.
Từ năm 2003, trước tình trạng khó khăn trong thu hồi nợ vay, để xử lý tình
trạng không thu hồi được nợ vay vốn tín dụng ưu đãi cho vay đóng tàu đánh bắt cá
xa bờ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, biện pháp,
chỉ đạo tại các Quyết định 89/2003/QĐ-TTg ngày 08/5/2003 về một số biện pháp
xử lý nợ vay vốn tín dụng đầu tư phát triển để đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt cá
xa bờ (theo QĐ 393/TTg ngày 9/6/1997 và Quyết định số 159/1998/QĐ-TTg ngày
3/9/1998 và QĐ 64/2000/QĐ-TTg ngày 7/6/2000); Chỉ thị số 03/2006/CT-TTg
ngày 25/01/2006 về một số biện pháp tiếp tục xử lý nợ vay vốn tín dụng ĐTPT để
đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt cá xa bờ và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ.
Trong đó biện pháp chủ yếu là thu hồi tàu để đưa ra bán đấu giá, thu hồi nợ vay.
Bảng 2.4. Phân loại tổng số 1.016 con tàu thuộc Chương trình
(tính đến 31/8/2007)
Tổng số tàu thuộc Chương trình 1.016 tàu
Số tàu hoạt động có hiệu quả, trả đủ nợ vay 17 1
Số tàu chìm, đắm, mất tích, bị nước ngoài bắt 31 2
giữ
Số tàu đã bán đấu giá 777 3
Số tàu đã thu hồi, chưa bán 29 4
Số tàu còn phải thu hồi để bán 162 5
Nguồn: NHPT [40]
Kết quả, tính đến 31/8/2007, tổng số tiền thu được từ việc bán đấu giá 777
con tàu là 138 tỷ đồng, bằng khoảng 18% tổng số vốn đã giải ngân cho 777 con tàu
111
này (796 tỷ đồng). Tổng số vốn nhà nước dự kiến bị mất, không thu hồi được tại
thời điểm 31/8/2007 là hơn 1.150 tỷ đồng (gồm 750 tỷ đồng gốc và hơn 400 tỷ
đồng lãi), cao hơn cả số vốn đã cho vay ra (1.033 tỷ đồng) [40].
Thứ hai, mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, biện pháp để xử
lý, thu hồi nợ song tình trạng thu hồi nợ dứt điểm của các dự án thuộc Chương
trình này tiếp tục gặp nhiều khó khăn, kéo dài dẫn đến việc nhà nước phải thực
hiện xóa nợ, khoanh nợ với số vốn lớn.
Nguyên nhân của tình trạng khó thu hồi nợ vay, chậm thu hồi nợ vay của
các dự án thuộc Chương trình do cả chủ quan và khách quan.
Về phía khách quan, trước hết là do nhận thức của đa số các hộ ngư dân coi
đây là sự trợ cấp của Nhà nước, Nhà nước đầu tư với mục đích là đảm bảo an ninh
quốc phòng trên biển, không phải là chương trình phát triển kinh tế nên có tâm lý ỷ
lại, ý thức trả nợ vay cho nhà nước không tốt. Nhiều chủ tàu hoạt động trên vùng
biển rộng lớn, có thời gian dài không về nơi cư trú nên chính quyền địa phương
không có khả năng thu hồi tàu để xử lý nợ vay. Sau khi có Quyết định 89 về xử lý
nợ, nhiều chủ tàu có biểu hiện chây ỳ, không hợp tác, đem theo cả gia đình, bỏ đi
đánh bắt nơi xa, các cấp chính quyền địa phương không quản lý, không liên lạc
được. Hai là, phần lớn các con tàu đã sử dụng từ 7-10 năm, đã hư hỏng, xuống cấp,
giá trị của con tàu sau khi định giá bán thấp hơn nhiều so với tiền chủ đầu tư còn
nợ. Có nhiều tàu không thể bán được mặc dù đã định giá lại nhiều lần, tâm lý các
hộ ngư dân không muốn mua những con tàu sản xuất kinh doanh không hiệu quả,
các con tàu chìm, đắm, nằm bờ hoặc bị tai nạn…Ba là, nhiều con tàu đưa ra bán đã
hỏng hóc, nằm bờ, ngập nước lâu ngày, nếu ngư dân mua để có thể ra khơi đánh
bắt cần phải bỏ ra một số tiền đầu tư tiếp khá lớn để sửa chữa, nâng cấp tàu mới có
thể hoạt động được trong khi đa số ngư dân nghèo, có nhu cầu mua tàu làm
phương tiện sinh sống song không có nguồn vốn tự có, không có tài sản thế chấp,
cầm cố, phương án sản xuất kinh doanh không thuyết phục nên không đủ điều kiện
vay vốn từ các ngân hàng thương mại để mua tàu.
Về phía chủ quan, một là, về phía cơ quan cho vay. Ngày 10/6/2005 Thanh
tra Chính phủ đã có kết luận thanh tra dự án đầu tư đóng tàu đánh bắt cá xa bờ,
trong đó đã kết luận các nhóm sai phạm về lựa chọn, thẩm định và xét duyệt dự án
và lựa chọn chủ đầu tư; sai phạm về việc lập thiết kế, dự toán mẫu tàu và phê duyệt
112
dự toán cụ thể từng con tàu; sai phạm trong việc giải ngân và thanh toán tiền của tổ
chức cho vay không chặt chẽ, không đầy đủ thủ tục theo quy định. Quỹ hỗ trợ phát
triển đã chưa phối hợp thường xuyên với các bộ, ngành, địa phương, chưa đề ra
được các giải pháp hữu hiệu để thu hồi nợ vay.
Hai là, việc phân loại chủ đầu tư và xử lý bán đấu giá tàu liên quan dến
nhiều ngành, nhiều cấp, chính quyền một số địa phương còn lúng túng khi phối
hợp thực hiện nhiệm vụ chung, thậm chí nhiều địa phương còn chưa quan tâm
thường xuyên đến việc thực hiện xử lý nợ vay các dự án thuộc Chương trình.
Ba là, khi định giá tàu để bán, giá tàu được đưa ra không sát với thực tế nên
khó bán. Thực tế, hầu hết các hội đồng bán đấu giá tại các tỉnh, thành phối phải
định giá lại nhiều lần mới bán được tàu.
Bốn là, quy định điều kiện đối với người mua tàu tương đối chặt chẽ như
phải trả tiền ngay tối thiểu 50% giá trị con tàu khi bán đấu giá, phải có đủ các điều
kiện vay do tổ chức cho vay quy định…trong khi rất ít hộ ngư dân đáp ứng được
các yêu cầu này dẫn đến việc bán kéo dài, khó chọn được người mua tàu.
Năm là, việc quy định không phải thế chấp tài sản và tỷ lệ vốn tự có tham
gia đầu tư thấp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chủ đầu tư chưa
quan tâm đúng mức đến quản lý, khai thác tàu đánh bắt một cách có hiệu quả và
thiếu trách nhiệm trong việc trả nợ vay.
Thứ ba, Chương trình được thực hiện không đồng bộ về chủ trương đầu tư.
Cụ thể, Chương trình mới chỉ chú ý đến đầu tư cho việc đóng mới, cải hoán tàu
đánh bắt và tàu dịch vụ, chưa chú trọng đầu tư cho khâu đào tạo thuyền trưởng,
thuyền viên, dịch vụ hậu cần nghề cá (trên bờ, dưới biển), dự báo ngư trường…
Thứ tư, trách nhiệm quản lý của các bộ, ngành và địa phương có liên quan
còn lúng túng trong việc phối hợp từ trung ương tới địa phương trong việc tổ chức
triển khai thực hiện Chương trình, đặc biệt là khâu hướng dẫn lập, thẩm định và tổ
chức phê duyệt dự án. Có quá nhiều đầu mối liên quan đến việc duyệt, thẩm định
và lựa chọn chủ đầu tư, mẫu tàu, phê duyệt dự toán cho vay. (Xem hộp 3). Việc
thành lập các hợp tác xã, lựa chọn chủ đầu tư để thực hiện nhiều dự án không hợp
lý, nhiều chủ đầu tư không có tay nghề, kinh nghiệm nghề biển. Có tình trạng lập
hợp tác xã chỉ để vay được vốn ưu đãi của nhà nước, không quan tâm tới việc đóng
113
tàu và đánh bắt cá xa bờ.
2.2.2. TD ĐTPT cho các dự án kinh tế trọng điểm
Hầu hết các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đều có các dự án
kinh tế trọng điểm nhưng tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, công
nghiệp, xây dựng…phục vụ chủ trương CNH, HĐH đất nước trong từng thời kỳ
phát triển kinh tế xã hội. Các dự án kinh tế trọng điểm là các dự án Nhóm A, có
quy mô tương đối lớn thuộc các lĩnh vực đầu tư then chốt của nền kinh tế được xác
định theo tổng mức đầu tư [16].
Tính chung từ năm 2000 - 2013, có khoảng 117 dự án nhóm A trọng điểm
được tài trợ vốn TD ĐTPT của Nhà nước. Trong đó giai đoạn 2000 - 2006, vốn
TDĐTPT của Nhà nước qua Quỹ Hỗ trợ phát triển đã đầu tư cho 76 dự án trọng
điểm nhóm A; giai đoạn 2006 - 2013, vốn TDĐTPT qua hệ thống NHPT đã tài trợ
cho 33 dự án trọng điểm nhóm A.
Số dự án kinh tế trọng điểm nhóm A được tài trợ vốn TD ĐTPT đã có sự
tăng trưởng về số lượng qua các năm, từ 2,8% trên tổng số các loại dự án (gồm
nhóm A, nhóm B, nhóm C) được tài trợ vốn TD ĐTPT qua hệ thống NHPT tại thời
điểm năm 2006 lên 5% tại thời điểm 2011 và tiếp tục tăng lên 7% và gần 8% lần
lượt vào các năm 2012 và 2013 (xem Bảng 2.5).
Bảng 2.5. Số lượng các dự án trọng điểm (nhóm A)
trong tương quan với các nhóm dự án khác được tài trợ vốn TD ĐTPT
Loại dự án 2006 2011 2012 2013
53% 38% 33% 15%
44,2% 57% 60% 77,3%
2,8% 5% 7% 7,7% Dự án nhóm C Dự án nhóm B Dự án nhóm A (trọng điểm)
Nguồn: NHPT [41].
Dư nợ cho vay vốn TD ĐTPT vào các dự án kinh tế trọng điểm nhóm A
trong giai đoạn 2000-2006 chiếm 34% tổng dư nợ cho vay vốn TD ĐTPT qua hệ
thống Quỹ hỗ trợ phát triển và chiếm 46% tổng dư nợ cho vay vốn TD ĐTPT qua
NHPT giai đoạn 2006 – 2013. Tính chung, số vốn cho vay vào các dự án trọng
điểm nhóm A trong cả thời kỳ 2000- 2013 chiếm bình quân khoảng 41% tổng số
114
vốn cho vay TD ĐTPT trong cùng thời kỳ (Xem Bảng 2.6).
Bảng 2.6. Dư nợ cho vay và tỷ trọng cho vay
các dự án trọng điểm (Nhóm A) trong tổng số vốn TD ĐTPT
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
9.870 21.877
18.600
21.686
24.295
23.107 23.200
25.000
5.449
8.686
8.834
8.954
10.239
10.398
7.800
7.500
55%
39,%
47%
41%
42%
40%
34%
30%
Tổng số vốn TD ĐTPT cho vay trong cùng kỳ Số vốn cho vay các dự án trọng điểm Tỷ trọng số vốn cho vay dự án trọng điểm trên tổng số vốn cho vay
Nguồn: NHPT [41] và Đỗ Thị Trà Linh [35].
Điều đáng kể hơn là các dự án trọng điểm được tài trợ vốn TD ĐTPT chủ
yếu tập trung ở các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng với tỷ lệ giải ngân vào lĩnh vực
này hàng năm bình quân khoảng 80%. Trong đó, vốn TDĐTPT được tập trung
nhiều nhất cho các ngành, lĩnh vực then chốt như năng lượng, điện, hóa chất, xi
măng, giao thông vận tải…
Các dự án nhóm A trọng điểm trong giai đoạn 2000 – 2006 tập trung chủ
yếu vào lĩnh vực như năng lượng, luyện kim, vật liệu xây dựng, khai thác và chế
biến khoáng sản, hạ tầng giao thông, cấp nước, công nghiệp chế biến…Các dự án
kinh tế trọng điểm tiêu biểu trong lĩnh vực năng lượng giai đoạn này như dự án
nhiệt điện Phú Mỹ, nhiệt điện Na Dương, thủy điện Tuyên Quang, thủy điện Đại
Ninh…. Các dự án tiêu biểu trong ngành luyện kim như dự án thép Thái Nguyên,
thép cán nguội Phú Mỹ…; ngành vật liệu xây dựng như dự án nhà máy xi măng
Hải Phòng, xi măng Tam Điệp, xi măng Bỉm Sơn….; ngành khai thác, chế biến
khoáng sản như dự án tổ hợp đồng Sin Quyền; lĩnh vực hạ tầng giao thông, khu
công nghiệp, cấp nước như dự án Quốc lộ 14, Quốc lộ 51, KCN Tiên Sơn, nhà
máy nước Thiện Tân, Nhơn Trạch – Đồng Nai, công nghiệp chế biến như dự án
115
sản xuất bột giấy Kon Tum, bột giấy Thanh Hóa….
Các dự án nhóm A trọng điểm được tài trợ vốn TDĐTPT trong giai đoạn
2006-2013 tiêu biểu như: dự án Phóng vệ tinh viễn thông 2 (1.092 tỷ đồng); dự án
Nhà máy đạm Cà Mau (180.000.000 USD); Nhà máy phân đạm từ than cám công
suất 560.000 tấn ure/năm tại Ninh Bình (3.440 tỷ đồng); dự án khai thác và chế
biến khoáng sản Núi Pháo, Thái Nguyên (2.377 tỷ đồng); dự án Nhà máy DAP số
2 tại Lào Cai (1.810 tỷ đồng); dự án thủy điện Huội Quảng, dự án thủy điện Bản
Chát (1.334 tỷ đồng); dự án thủy điện Lai Châu (4.602 tỷ đồng); đặc biệt là dự án
thủy điện Sơn La, công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á (4.000 tỷ đồng vốn
TDĐTPT và 400 triệu USD)…
Một số ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế được tài trợ vốn
TDĐTPT tiêu biểu như:
* Ngành điện: là ngành nhận được vốn TD ĐTPT tài trợ nhiều nhất, cả về số
dự án và số vốn cho vay trong tổng số các dự án trọng điểm nhóm A. Cụ thể, trong
tổng số các dự án ngành điện mà NHPT cho vay, có 36/117 dự án trọng điểm nhóm
A với tổng số vốn cho vay là 26.533 tỷ đồng. Số vốn TD ĐTPT cho vay vào ngành
điện theo hợp đồng tín dụng là gần 60.000 tỷ đồng, số vốn đã giải ngân gần 43.000
tỷ đồng. Số vốn TD ĐTPT đầu tư vào ngành điện chiếm khoảng 60% tổng số vốn
đầu tư của ngành điện [41]. (Xem Phụ lục số 02: Một số dự án trọng điểm ngành
điện vay vốn TD ĐTPT (có số vốn vay từ 500 tỷ đồng trở lên).
* Ngành hóa chất: nguồn vốn TD ĐTPT đã tài trợ cho 16 dự án với tổng
mức đầu tư gần 25.000 tỷ đồng, trong đó số vốn vay TD ĐTPT theo hợp đồng tín
dụng là gần 15.200 tỷ đồng [41]. Chỉ tính riêng 4 dự án trọng điểm nhóm A của
ngành hóa chất đầu tư sản xuất phân bón với tổng mức đầu tư 42.651 tỷ đồng, trong
đó nguồn vốn tín dụng đầu tư nhà nước đã đầu tư khoảng 34 % tổng mức đầu tư các
dự án này với số vốn khoảng 14.805 tỷ đồng. (Xem Phụ lục số 03: Một số dự án
kinh tế trọng điểm ngành hóa chất vay vốn TD ĐTPT).
* Ngành xi măng: vốn TD ĐTPT của Nhà nước đã đầu tư cho 32 dự án
ngành công nghiệp xi măng với tổng mức đầu tư là 52.000 tỷ đồng, trong đó số
vốn vay TD ĐTPT theo hợp đồng tín dụng là gần 18.000 tỷ đồng [41].
* Ngành giao thông: nguồn vốn TD ĐTPT đã đầu tư cho 12 dự án đóng mới
toa xe đường sắt và một số dự án hạ tầng giao thông theo hình thức BT, BOT với
116
số vốn theo hợp đồng tín dụng là gần 3.200 tỷ [41].
2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TD ĐTPT CHO CÁC CHƯƠNG
TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM
THỜI GIAN QUA
2.3.1. Mức độ huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn ĐTPT nền kinh tế
Hoạt động TD ĐTPT nói chung, hoạt động TD ĐTPT cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng trong thời gian qua đã huy
động được một lượng vốn đáng kể, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn ĐTPT nền
kinh tế.
Trong cơ cấu đầu tư xã hội, đầu tư của khu vực công (đầu tư của Nhà nước)
chiếm một tỷ lệ quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư công, theo
định nghĩa tại Luật đầu tư công, có hiệu lực từ 01/01/2015: “Đầu tư công là hoạt
động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội”. Nguồn vốn đầu tư công được quy định tại Luật này gồm: vốn ngân sách
nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính
quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của
các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ
nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các
khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư. Như vậy, vốn TD ĐTPT
nói chung, vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm thuộc nguồn vốn đầu tư công.
Trong giai đoạn 2001-2010, đầu tư công chiếm tỷ trọng bình quân khoảng
48,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội [33]. Trong giai đoạn 2011 – 2013, tuy nguồn
vốn đầu tư công đã được điều chỉnh giảm để tái cơ cấu đầu tư công song đầu tư
công vẫn có tỷ lệ là khoảng 39,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội [33]. Điều này cũng
có nghĩa là gần một nửa cung vốn đầu tư phát triển của quốc gia là đầu tư công.
Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội nói chung và tổng vốn đầu tư công nói
riêng, vốn TD ĐTPT của Nhà nước chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Giai đoạn 2001-
2010, nguồn vốn này chiếm khoảng 22,6% tổng vốn đầu tư công và chiếm khoảng
4,2% GDP [58]. Trong các năm 2010 – 2012, vốn TD ĐTPT có xu hướng tăng lên
117
và được duy trì ở mức khoảng 6% GDP (xem Bảng 2.7).
Bảng 2.7. Tỷ trọng vốn TD ĐTPT/GDP
Đơn vị: %
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Giai đoạn 2001-2010 4,2*
6,9**
5,8**
5,9**
Tỷ trọng vốn TD ĐTPT trên GDP
Nguồn: *Vũ Nhữ Thăng [61];
**Báo cáo của Chính phủ tại các kỳ họp Quốc hội 2010, 2011, 2012 [14].
Đáng chú ý là, nguồn vốn TDĐTPT tuy chiếm bình quân khoảng 5,2% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội trong cả giai đoạn 2000-2013 song số vốn này (bình quân
khoảng 37% tổng mức đầu tư dự án) đã đóng vai trò là nguồn vốn “mồi”, góp phần
quan trọng thu hút các nguồn vốn của các NHTM, vốn tư nhân và nguồn vốn khác
trong xã hội tham gia đầu tư vào các dự án/chương trình kinh tế. Trong giai đoạn
2006 - 2013, bên cạnh việc đóng vai trò là một kênh huy động hiệu quả nguồn vốn
đầu tư, nguồn vồn TD ĐTPT đã thu hút thêm các nguồn vốn khác trong xã hội
tham gia đầu tư vào 2.248 dự án với tổng số vốn khoảng 382.000 tỷ đồng, tạo ra
kênh dẫn vốn quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước [41].
Trong bối cảnh NSNN còn hạn hẹp, bội chi ngân sách vẫn cao thì việc triển
khai có hiệu quả việc huy động nguồn lực thông qua hình thức TDĐTPT của nhà
nước những năm qua đã góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, hoàn thành
các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.
Kết quả huy động nguồn lực đầu tư cho các chương trình/dự án này càng có
ý nghĩa trong giai đoạn 2001 – 2010, khi mà bối cảnh kinh tế trong nước và quốc
tế có nhiều biến động theo chiều hướng bất lợi cho sự phát triển kinh tế, song Việt
Nam vẫn đạt được mức tăng GDP bình quân tương đối cao trong cả giai đoạn này.
Một trong những nhân tố chủ đạo góp phần tạo nên mức tăng trưởng GDP tương
đối lớn như trên đó chính là nhân tố vốn. Có thể nói, Việt Nam đã huy động được
nguồn lực khổng lồ cho phát triển, tăng trưởng kinh tế. Tổng mức đầu tư toàn xã
hội trong giai đoạn 2001-2010 bình quân đạt xấp xỉ 41% GDP, so với mức 30,7%
giai đoạn 1991- 2000. Chính tổng mức đầu tư toàn xã hội trong cả giai đoạn 2001-
118
2010 liên tục tăng và duy trì ở mức cao đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân cao trong giai đoạn này, với mức tăng trưởng bình quân 7,2%/năm
[14].
Bên cạnh đóng góp trong huy động vốn như kể trên, mức độ huy động
vốn đáp ứng nhu cầu ĐTPT của nền kinh tế của hoạt động TD DDTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm vẫn còn hạn chế.
Cụ thể, quy mô vốn TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh
tế trọng điểm trong tổng vốn ĐTPT của nền kinh tế còn nhỏ bé.
Tuy có mức tăng trưởng vốn lớn, quy mô tín dụng tăng mạnh, chiếm tỷ
trọng cao về tín dụng và dư nợ trong thị trường, song số vốn tài trợ TDĐTPT trong
tổng đầu tư xã hội còn hạn chế. Trong cơ cấu đầu tư của khu vực công, vốn tín
dụng đầu tư giai đoạn 2001-2013 chiếm khoảng 22% tổng vốn đầu tư từ khu vực
Nhà nước, tương đương khoảng 4,2% GDP [61]. Tổng số vốn TDĐTPT cho vay
nền kinh tế mới chỉ đáp ứng khoảng 37% nhu cầu vốn trong tổng mức đầu tư tài
sản cố định của các dự án. Riêng đối với các dự án nhóm A, số vốn tín dụng đầu tư
cam kết cho vay mới đáp ứng được khoảng 28% tổng mức đầu tư của các dự án.
Kết quả này cho thấy, vai trò của nguồn vốn TD ĐTPT nói chung và TD ĐTPT
cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế và
trong từng dự án kinh tế trọng điểm còn nhỏ bé. Điều này đồng nghĩa với việc sức
lan tỏa của nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm trong nền kinh tế còn hạn chế. Hay nói cách khác, “sứ mệnh” huy động
vốn đáp ứng nhu cầu ĐTPT, trở thành một kênh khai thác các nguồn vốn trong xã
hội cho ĐTPT, giúp bù đắp thiếu hụt NSNN chi cho ĐTPT của hoạt động TD
ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn chưa thực sự
hiệu quả như kỳ vọng, mong muốn.
2.3.2. TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
trong việc hình thành, gia tăng giá trị tài sản cố định, cơ sở vật chất kỹ thuật
của nền kinh tế
Vốn TDĐTPT cho vay vào các dự án kinh tế trọng điểm, các chương trình
kinh tế lớn được giải ngân chủ yếu cho việc mua sắm trang thiết bị, máy móc, đầu
tư các hạng mục nhà xưởng, tài sản cố định. Vì vậy, tỷ lệ giải ngân vốn TD ĐTPT
vào nền kinh tế cho thấy mức độ đóng góp vào việc hình thành, gia tăng giá trị tài
119
sản cố định trong nền kinh tế.
Trong thời gian qua, tổng nguồn vốn TDĐTPT được huy động, cho vay,
giải ngân vào nền kinh tế chiếm tỷ trọng khoảng 6% tổng vốn ĐTPT toàn xã hội.
Trong đó, vốn TD ĐTPT giải ngân cho các dự án trọng điểm (Nhóm A) và các
chương trình kinh tế lớn chiếm khoảng 70% tổng số vốn giải ngân của toàn hệ
thống. Do vậy, có thể nói, trong thời gian qua, TDĐTPT của Nhà nước cho các dự
án kinh tế trọng điểm, các chương trình kinh tế lớn đã đóng góp khoảng 4,5% tổng
giá trị tài sản cố định tăng thêm hàng năm của cả nước. Các dự án, công trình vay
vốn TDĐTPT của Nhà nước, trong đó có nhiều công trình lớn, tầm cỡ đã hoàn
thành, đi vào sản xuất hoặc đưa vào sử dụng đã góp phần tăng cường đáng kể cơ
sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của nền kinh tế. Ví dụ, các dự án được tài
trợ vốn TD ĐTPT trong ngành hóa chất hoàn thành đi vào sử dụng đã tạo ra năng
lực sản xuất mới đáng kể cho nền kinh tế, góp phần tăng thêm năng lực sản xuất
cho nông nghiệp với 1.130.000 tấn phân bón các loại và cung ứng cho thị trường
hàng triệu bộ săm lốp ô tô, điện ắc quy, axit sunfuric… , cung cấp cho ngành nông
nghiệp vật tư phân bón để sản xuất nông nghiệp với giá ổn định, thay thế nhập
khẩu, tiết kiệm hàng trăm triệu USD mỗi năm. Hầu hết các dự án vay vốn TD
ĐTPT của ngành xi măng đã hoàn thành và đi vào hoạt động với sản lượng xi
măng khoảng 20 triệu tấn xi măng và hàng triệu tấn clinker mỗi năm, góp phần tiết
kiệm nguồn ngoại tệ nhập khẩu clinker, đáp ứng nguồn xi măng chất lượng cao
cho nhu cầu xây dựng, đồng thời tạo đầu ra cho các nhà máy chế tạo thiết bị đồng
bộ, phát triển ngành cơ khí chế tạo thiết bị phục vụ cho ngành xi măng. Các dự án
vay vốn TD ĐTPT trong ngành giao thông, cơ khí giao thông đường sắt cũng đã
góp phần tăng thêm năng lực vận tải trên 13 triệu tấn hàng hóa và 7 triệu hành
khách hàng năm. Các dự án phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và vận tải biển,
tập trung hỗ trợ đầu tư cải tạo, nâng cấp, mở rộng các cơ sở đóng tàu và sản phẩm
mới, đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp đóng tàu mà trước đây Việt Nam
chưa sản xuất được. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam từ chỗ chỉ đóng và sửa
chữa các tàu nhỏ thì nay đã đóng được các loại tàu có trọng tải lớn, 12.500, 22.500,
53.000 và 70.000 DWT, tàu container 1.700 TEU, tàu chở dầu 100.000 tấn, tàu
chở dầu thô lớn, hiện đại nhất, lần đầu tiên được đóng mới tại Việt Nam, góp phần
trẻ hóa đội tàu biển, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải biển trong
120
nước.[41].
2.3.3. Hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then
chốt, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH
Nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm đã góp phần nhất định trong việc hỗ trợ phát triển một số ngành,
lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then chốt của nền kinh tế, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Trong những năm qua, nguồn vốn TDĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án trọng điểm đã tập trung chủ yếu cho các lĩnh vực công nghiệp, xây
dựng, năng lượng, cơ khí…là những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, cho
thấy rõ mục tiêu hỗ trợ của TDĐTPT phù hợp với định hướng chiến lược CNH,
HĐH của Chính phủ, qua đó đã góp phần hình thành, xây dựng và phát triển các
ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cụ thể:
Thứ nhất, vốn TDĐTPT (trong đó TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm chiếm 70%) trong giai đoạn 2000 – 2013 đã tập trung
cho vay vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng với tỷ lệ giải ngân vào lĩnh vực này
bình quân 80%/năm, luôn cao hơn mức bình quân chung của toàn xã hội, góp phần
vào chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH phù hợp với chủ
trương, đường lối CNH, HĐH đất nước.
Thứ hai, vốn TDĐTPT dành cho các dự án công nghiệp trọng điểm quốc
gia (dự án Nhóm A) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng số vốn TD
ĐTPT cho vay vào nền kinh tế. Tính chung trong giai đoạn 2000 – 2013, số vốn
TD ĐTPT đã tài trợ cho tổng cộng gần 120 dự án kinh tế trọng điểm (Nhóm A) với
số vốn cho vay duy trì thường xuyên ở mức khoảng gần 50% tổng số vốn chấp
thuận cho vay của NHPT. Tỷ lệ giải ngân vốn vay vào các dự án kinh tế trọng
điểm cũng chiếm khoảng 40-45% tổng số vốn giải ngân toàn hệ thống.
Thứ ba, nguồn vốn TDĐTPT đã được tập trung chủ yếu cho vay vào các dự
án nhóm A trọng điểm thuộc các lĩnh vực công nghiệp quan trọng, then chốt của
nền kinh tế phục vụ mục tiêu CNH, HĐH đất nước theo chủ trương của Chính phủ
như ngành điện, xi măng, công nghiệp hóa chất, công nghiệp đóng tàu và vận tải
121
biển, đóng mới toa xe đường sắt, công nghiệp chế biến nông thủy sản…
Vai trò của nguồn vốn TD ĐTPT đối với việc phát triển các ngành, lĩnh vực
công nghiệp then chốt của nền kinh tế, tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội một cách rõ
rệt có thể thấy qua các dự án đầu tư cho ngành điện. Các dự án đầu tư cho ngành
điện (nguồn và lưới điện) hoàn thành đã góp phần đưa công suất phát điện tăng
thêm 6.000 MW, xây dựng mới hơn 1.000 km đường dây 500 KV, gần 3.000 km
đường dây 220 KV và 110 KV, hàng trăm trạm biến áp các loại. Các dự án đã
hoàn thành và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao như dự thủy điện Bản Vẽ,
Nghệ An; dự án thủy điện sông Ba Hạ; dự án đường dây tải điện 500 KV Phú Mỹ -
Nhà Bè- Phú Lâm; dự án thủy điện Tuyên Quang, dự án thủy điện An Khê –
Kanak…Nổi bật nhất là Dự án thủy điện Sơn La. Khi dự án hoàn thành không chỉ
giúp các tỉnh Tây Bắc phân bố lại dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng
hạ tầng thiết yếu như giao thông thủy – bộ, đường điện, trường học, bệnh viện,
viễn thông, công trình văn hóa mà còn giải quyết hàng loạt các vấn đề xã hội như
giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển nuôi trồng thủy hải
sản….Ngoài việc cung cấp hàng năm hơn 10 tỷ Kvh điện phục vụ công nghiệp, dự
án còn góp phần chống lũ về mùa mưa, chống hạn trong mùa khô cho cả vùng
đồng bằng Bắc bộ. Việc tập trung vốn TD ĐTPT cho vay đầu tư ngành điện đã
hiện thực hóa chủ trương của Đại hội X đề ra đối với định hướng phát triển các
ngành kinh tế và các vùng, trong đó kết cấu hạ tầng phát triển năng lượng đi trước
một bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an toàn năng lượng
quốc gia [25], phù hợp với định hướng phát triển công nghiệp năng lượng của
Chính phủ trong giai đoạn 2006-2010 “đầu tư tăng nhanh nguồn điện, hoàn chỉnh
hệ thống truyền tải, đáp ứng đủ điện cho nhu cầu phát triển”[15].
Như vậy, có thể khẳng định, nguồn vốn TD ĐTPT của nhà nước thông qua
các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm đã góp phần hỗ trợ phát
triển nhiều ngành, lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then chốt của nền kinh tế, góp
phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Tuy nhiên, mặc dù đã có những đóng góp, thành công nhất định trong hỗ trợ
phát triển các ngành, lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, then chốt, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH, song thực tế, tác động của nguồn vốn TD
122
ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững còn chưa cao. Điều
này thể hiện qua một số khía cạnh sau.
Một là, tỷ trọng vốn TD ĐTPT đầu tư vào nền kinh tế còn nhỏ trong tổng
vốn đầu tư toàn xã hội đã hạn chế mức độ tác động của nguồn vốn này đến thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2013, tổng số vốn cho vay TD ĐTPT
nói chung vào nền kinh tế chiếm khoảng 5,2% GDP. Bình quân của cả giai đoạn
2000-2013, số vốn cho vay vào các dự án trọng điểm chiếm khoảng 41% tổng số
vốn cho vay TD ĐTPT. Điều đó có nghĩa là số vốn cho vay vào các dự án kinh tế
trọng điểm chiếm tỷ trọng khoảng 1,8% GDP. Điều đó có nghĩa là, mặc dù vốn TD
ĐTPT cho các dự án kinh tế trọng điểm đã được tập trung cho các lĩnh vực công
nghiệp, xây dựng (chiếm bình quân 80% số vốn TD ĐTPT giải ngân hàng năm cho
các dự án kinh tế trọng điểm) song với tỷ trọng trên GDP còn khiếm tốn như trên
cho thấy mức độ tác động, lan tỏa của nguồn vốn TD ĐTPT cho các dự án kinh tế
trọng điểm đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững
theo hướng CNH-HĐH còn chưa nhiều.
Hai là, mức độ tập trung vốn cho các dự án trọng điểm còn thấp làm giảm
hiệu quả tác động của nguồn vốn TD ĐTPT đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
Mặc dù số vốn giải ngân cho các dự án nhóm A trọng điểm có bước tăng
trưởng mạnh trong giai đoạn 2006 – 2011 so với giai đoạn 2000 – 2005, tăng lên
gấp 3,5 lần từ mức 14.500 tỷ đồng (giai đoạn 2000 – 2005) lên mức 52.560 tỷ
đồng (giai đoạn 2006-2011), gấp hơn 3,5 lần so với giai đoạn 2000-2005 (14.500
tỷ đồng), song tính chung trong giai đoạn 2006 – 2013, số vốn giải ngân cho các
dự án trọng điểm nhóm A chỉ đạt mức bình quân 41% trên tổng số vốn giải ngân
trong cùng thời kỳ [41], [35].
Ngoài ra, số lượng dự án trọng điểm nhóm A còn chiếm tỷ trọng thấp trong
tổng số các dự án được tài trợ vốn TD ĐTPT; số lượng các dự án được tài trợ vốn
TD ĐTPT còn nhiều và còn dàn trải ở nhiều ngành, lĩnh vực, ngành nghề khác
nhau.
Thực trạng trên cho thấy, mặc dù mục tiêu của TD ĐTPT là hỗ trợ các dự
123
án trọng điểm thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các chương trình kinh tế
lớn song mức độ tập trung vốn cho các dự án kinh tế trọng điểm nhóm A vẫn còn
tương đối dàn trải đã làm giảm hiệu quả tác động của nguồn TD ĐTPT nói chung,
nguồn vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
nói riêng đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH-HĐH.
2.3.4. Hỗ trợ phát triển địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, khu vực
nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo an sinh xã hội
Vốn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm tham gia đầu tư ngày càng nhiều vào một số lĩnh vực khó thu hồi vốn, hỗ
trợ các địa bàn khó khăn, đảm bảo an sinh xã hội.
Bước vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đầu tiên của thế kỷ mới, Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 của đất nước ta đã xác định một
trong những mục tiêu cụ thể của chiến lược cần đạt là: “kết cấu hạ tầng đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ
thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại
hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ
thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần
lớn được kiên cố hóa...”. Đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, mở rộng giao
lưu kinh tế hàng hóa giữa các vùng dân cư, từng bước tạo điều kiện thúc đẩy công
cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
quan tâm triển khai trong nhiều năm qua.
Thực hiện các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước nêu trên, nhiều chính
sách đã được cụ thể hóa, triển khai thực hiện liên tục từ nhiều năm nay, trong đó
có chính sách TD ĐTPT của Nhà nước.
Bên cạnh việc nhiệm vụ tập trung cho vay đầu tư vào các dự án, chương
trình kinh tế lớn, trọng điểm quốc gia để xây dựng, hình thành và phát triển một số
ngành, lĩnh vực công nghiệp then chốt, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm
triển khai đường lối CNH, HĐH đất nước, nguồn vốn TD ĐTPT còn được sử dụng
như một công cụ đắc lực của Nhà nước nhằm thực hiện chủ trương thúc đẩy CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ đầu tư vào
124
những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn cần
khuyến khích đầu tư thông qua các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm trong những lĩnh vực, địa bàn này.
Trong giai đoạn 2000-2013, vốn TD ĐTPT đã thực hiện hỗ trợ ĐTPT các
vùng, lĩnh vực, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn,
các lĩnh vực khó thu hút vốn đầu tư như y tế, giáo dục, xử lý rác thải, môi trường,
nước sạch…thông qua tài trợ vốn ĐTPT cho các dự án trọng điểm trong các ngành
điện (thủy điện), khai khoáng, sản xuất phân bón, hóa chất, chế biến nông lâm,
thủy hải sản, sản xuất nước sạch, chế biến xử lý rác thải…Vốn TD ĐTPT còn hỗ
trợ ĐTPT cho các địa bàn, vùng, miền này thông qua các chương trình kinh tế
trọng điểm của Chính phủ như: Chương trình kiên cố kênh mương, Chương trình
trồng rừng, Chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng
bằng sông Cửu Long, Chương trình đầu tư đóng tàu đánh bắt thủy hải sản xa bờ,
Chương trình đầu tư 1 triệu tấn đường…
Tính đến nay, vốn TDĐTPT đã tham gia đầu tư vào hơn 800 dự án với tổng
mức đầu tư gần 35.000 tỷ đồng, trong đó số vốn vay tín dụng đầu tư theo hợp đồng
tín dụng gần 24.000 tỷ đồng cho các dự án trồng rừng nguyên liệu, trồng cây công
nghiệp dài ngày, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, bảo quản và chế biến các sản
phẩm nông nghiệp, cơ khí nông nghiệp…
Thông qua các dự án trọng điểm, các chương trình kinh tế lớn đầu tư vào
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng tích cực, nâng cao đời sống nhân dân, làm thay đổi từng bước bộ
mặt nông thôn mới, tăng nhanh giá trị nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đã qua
chế biến đi xuất khẩu các thị trường quốc tế, tạo việc làm cho hàng vạn lao động
trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
Cùng với các nguồn vốn khác của NSNN, nguồn vốn TDĐTPT đã đầu tư,
cho vay vào Chương trình kiên cố hóa kênh mương hơn 20.000 tỷ đồng; đầu tư
cho vay vào Chương trình trồng 5 triệu ha rừng hơn 2.200 tỷ đồng…
Qua hơn 10 năm thực hiện, Chương trình kiên cố hóa kênh mương, đầu tư
xây dựng giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng
làng nghề ở nông thôn, nguồn vốn TD ĐTPT đã góp phần đầu tư xây dựng mới
trên 180.000 km kênh mương, gần 300.000 km đường giao thông nông thôn được
125
bê tông hóa, xây dựng hơn 20.000 cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, đầu tư hơn
800 cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn, đầu tư hơn 420 trạm bơm phục vụ tưới
tiêu, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hơn 1 triệu lao động [44]. Chương
trình đã mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp phần CNH nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, có tác động rõ rệt đến sự phát triển
kinh tế nông nghiệp và đời sống nông thôn, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn,
đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, các địa bàn còn nhiều khó khăn, đặc biệt khó khăn
như Bắc Cạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Đắc Lăk, Lâm Đồng, Bình Phước,
Hậu Giang, Sóc Trăng…
Qua hơn 13 năm thực hiện, nguồn vốn TD ĐTPT tham gia Chương trình
trồng mới 5 triệu ha rừng đã giúp chủ đầu tư trồng mới gần 325.000 ha/tổng số
1.424.000 ha rừng thực hiện theo Chương trình, chiếm tỷ lệ 23% diện tích của
Chương trình [45]. Dự án thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia trồng rừng,
tạo đà cho các ngành kinh tế khác phát triển, đẩy nhanh tiến trình xã hội hóa trồng
rừng, gắn lợi ích của người dân với trồng rừng. Các khu rừng trồng sản xuất lớn
hình thành ở nhiều địa phương đã thu hút các doanh nghiệp đầu tư các cơ sở chế
biến gỗ, lâm sản. Đến nay công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản có bước phát triển
mạnh với nhiều thành phần kinh tế tham gia, từ chỗ kim ngạch xuất khẩu đạt 236
triệu USD vào năm 1998, đến năm 2010 đã đạt kim ngạch xuất khẩu 3,55 tỷ USD.
Quan trọng hơn, Dự án được thực hiện không chỉ có ý nghĩa lớn về môi trường mà
còn tham gia giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân và góp phần xóa đói
giảm nghèo bền vững, giúp nâng cao nhận thức của người dân về canh tác và sản
xuất lâm nghiệp, tạo sự chuyển biến lớn trong nhận thức về hiệu quả kinh tế - xã
hội, bảo vệ môi trường, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm về bảo vệ, phát triển
rừng ở các địa phương. Nguồn vốn TD ĐTPT thông qua Chương trình đã góp phần
thực hiện mục tiêu của dự án là bảo vệ diện tích rừng hiện có để tăng độ che phủ
rừng lên 43%, khẳng định quan điểm của Chính phủ trong việc cải thiện môi
trường, đối phó với áp lực về biến đổi khí hậu đang gia tăng; thể hiện vai trò thực
sự là một công cụ quan trọng của Chính phủ trong thực hiện các nhiệm vụ kinh tế -
xã hội – chính trị của Chính phủ.
Là một chương trình kinh tế trọng điểm của Chính phủ, đến nay Chương
trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long
126
đã hoàn thành giai đoạn I và một phần giai đoạn II. Kết quả, nguồn vốn TDĐTPT
tài trợ cho Chương trình đã tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng của hơn 900 cụm
tuyến dân cư, trên 100 tuyến đê bao, đảm bảo bố trí nơi ở an toàn cho trên 150.000
hộ dân với khoảng 800.000 người ngay trong những ngày nước lũ tràn về các tỉnh
ngập lũ thường xuyên ở đồng bằng sông Cửu Long. Chương trình đã phát huy hiệu
quả kinh tế - xã hội rất cao. Thực tiễn đã chứng minh tính đúng đắn của Chương trình.
Qua trận lũ năm 2011, có thể khẳng định Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và
nhà ở vùng ngập lũ ĐB SCL từ năm 2002 đến nay đã đạt được mục tiêu tổng quát đề ra
là đảm bảo cho các hộ dân trong vùng có điều kiện sinh sống an toàn, ổn định và từng
bước tiến tới phát triển bền vững, bảo đảm điều kiện sống chung với lũ. Chương trình
đã giúp cho 30.000 hộ nghèo được tạo điều kiện có nền nhà và nhà ở ổn định, các hộ
dân không phải di dời, chạy lũ như các năm trước, không bị thiệt hại về người và tài
sản khi nước lũ dâng cao, nhiều hộ nghèo thường xuyên bị đe dọa bởi lũ lụt, sạt lở
hàng năm nay đã có chỗ ở ổn định, an toàn. Bên cạnh hiệu quả cụ thể như nêu trên,
Chương trình thành công đã góp phần cải thiện đáng kể mức sống của người dân
vùng dự án, góp phần tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu quan trọng khác của
địa phương như xóa nhà tranh tre nứa lá tạm bợ, tăng tỷ lệ các hộ dùng điện và nước
sạch ở nông thôn; giúp người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế, giảm tỷ lệ
bệnh tật, sức khỏe cộng đồng được nâng cao; trẻ em có điều kiện thuận lợi để đến
trường; sinh hoạt cộng đồng dân cư vẫn diễn ra bình thường kể cả những năm có lũ
lớn.
Hiệu quả của Chương trình là tiền đề quan trọng để các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long từng bước ổn định dân cư theo hướng phát triển nông thôn mới vùng
ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tổ chức thực hiện có hiệu quả
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế xã hội, hình thành những cụm, tuyến dân cư giữ vững an ninh quốc
phòng và phòng thủ tuyến biên giới.
Mặc dù vốn TD ĐTPT tham gia đầu tư ngày càng nhiều vào một số lĩnh
vực khó thu hồi vốn, hỗ trợ các địa bàn khó khăn, đảm bảo an sinh xã hội, song
mức độ hỗ trợ phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền, địa bàn này còn chưa
127
cao.
Bên cạnh các đóng góp đáng kể cho nền kinh tế như nêu trên, có thể thấy
mức độ tác động và hiệu quả hỗ trợ phát triển lĩnh vực khó thu hồi vốn, các vùng,
miền, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn còn chưa
cao, thể hiện qua số vốn đầu tư vào các vùng, miền, địa bàn còn nhỏ, dàn trải.
Chẳng hạn số vốn đầu tư vào Chương trình kiên cố hóa kênh mương cho cả giai
đoạn 2000-2012 là khoảng hơn 20.000 tỷ đồng, tài trợ cho hầu hết các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trong cả nước và thực hiện trong gần 15 năm. Điều đó
có nghĩa là số vốn đầu tư hàng năm bình quân khoảng hơn 1.000 tỷ đồng, rải đều
cho hàng chục tỉnh, thành phố dẫn đến số lượng vốn đầu tư cho từng địa phương,
từng dự án khá nhỏ, hiệu quả tác động thực sự đến sự phát triển của vùng, miền,
lĩnh vực bị ảnh hưởng. Ngoài ra, một số chương trình được triển khai từ trước và
tiếp tục triển khai trong những năm đầu của giai đoạn 2000-2013 như Chương
trình đóng tàu đánh bắt cá xa bờ, Chương trình đầu tư xây dựng các nhà máy chế
biến đường…đã không đạt được mục tiêu đề ra, gây thua lỗ, lãng phí, không thu
hồi được vốn cho vay.
2.3.5. Bảo toàn, phát triển và sử dụng vốn của tổ chức cho vay
Mặc dù mới được thành lập từ năm 2006 nhưng Ngân hàng phát triển Việt
Nam đã từng bước hoàn thiện được cơ cấu tổ chức và bộ máy. Sau gần 10 năm
hoạt động, có thể nói rằng Ngân hàng phát triển Việt Nam đã thật sự trở thành
công cụ cung cấp TD ĐTPT của nhà nước cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm.
Tuy nhiên, đây là định chế tài chính đặc biệt nên xét theo các yêu cầu thuần
túy thị trường thì NHPT khó tránh khỏi những hạn chế.
Thứ nhất, mức độ thực hiện bảo toàn và phát triển vốn kém
Theo Điều lệ hoạt động và quy chế quản lý tài chính đối với NHPT, tổ chức
này hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính, thực hiện bảo toàn và phát triển
vốn, bù đắp chi phí và rủi ro hoạt động tín dụng. Hoạt động của NHPT không vì
mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải
tham gia bảo hiểm tiền gửi. NHPT được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán;
được miễn nộp thuế và các khoản nộp NSNN đối với hoạt động tín dụng đầu tư và
128
tín dụng xuất khẩu của nhà nước. Việc điều chỉnh, bổ sung vốn điều lệ tùy thuộc
yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể, bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn của NHPT và do Thủ tướng
Chính phủ xem xét, quy định.
Theo Điều lệ hoạt động của NHPT, vốn điều lệ của NHPT tại thời điểm
thành lập và đi vào hoạt động từ 01/7/2006 là 5.000 tỷ đồng từ nguồn vốn điều lệ
hiện có của Quỹ Hỗ trợ phát triển (tổ chức tiền thân của NHPT, hoạt động từ
01/01/2000). Theo quy định tại Quy chế quản lý tài chính đối với NHPT (ban hành
kèm theo Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg ngày 30/3/2007), vốn điều lệ của NHPT
là 10.000 tỷ đồng.
Trên thực tế, đến 31/12/2010, vốn điều lệ của NHPT mới được Chính phủ
cấp đủ 10.000 tỷ đồng, nhưng cũng chỉ chiếm khoảng 10% so với tổng nguồn vốn
tại thời điểm này. Trong khi đó, nguồn vốn điều lệ tiếp nhận từ Quỹ Hỗ trợ phát
triển là 5.000 tỷ đồng nhưng thực chất trong đó vốn khả dụng chỉ hơn 50% [47].
Phần còn lại là vốn tiếp nhận dư nợ của các Chương trình kinh tế triển khai từ
trước năm 2000 (thời kỳ Tổng cục Đầu tư và phát triển) như Chương trình mía
đường, Chương trình đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ…đã gần như đóng băng, mất
khả năng thanh toán, không thu hồi được nợ, đã phải xử lý trong nhiều năm qua
bằng hình thức khoanh nợ, xóa nợ. Thực trạng này dẫn đến vốn điều lệ khả dụng
của NHPT thấp hơn rất nhiều so với giá trị trên sổ sách. Việc tự tích lũy tài sản và
tăng vốn điều lệ hầu như không thực hiện được. Như vậy, có thể nói khái quát là
mức độ thực hiện nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn của NHPT thực hiện còn
nhiều yếu kém.
Thứ hai, chất lượng tín dụng thấp, tỷ lệ nợ quá hạn (nợ xấu) cao
Trong thời gian qua, quy mô, tốc độ tăng trưởng TDĐTPT tương đối cao
song lệ nợ quá hạn từ việc cho vay các dự án đầu tư cũng tăng cao. Thực tế cho
thấy số dự án có nợ quá hạn tăng, số chi nhánh cho vay có nợ quá hạn tăng, quy
mô nợ quá hạn tính bình quân trên mỗi dự án cũng tăng lên nhanh. Mặt khác, trong
suốt thời gian qua, từ năm 2000 đến 2013, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chưa
ban hành hướng dẫn phân loại nợ phù hợp với đặc thù hoạt động của NHPT theo
quy định tại NĐ của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của nhà
nước nên cách phân loại và xác định nợ xấu hoạt động TD ĐTPT qua NHPT còn
129
nhiều ý kiến khác nhau.
Nếu áp dụng theo tiêu chí phân loại nợ của NHNN quy định đang thực hiện
cho các NHTM thì tổng nợ xấu hoạt động tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của
nhà nước tại NHPT đến 31/12/2011 chiếm 26,2%, trong đó TDĐTPT chiếm 12%
[48]. Nếu loại trừ nợ nhận bàn giao từ Quỹ Hỗ trợ phát triển và các chương trình,
dự án theo chỉ định của Chính phủ thì nợ xấu chiếm 7,5% dư nợ. Trong đó có
khoảng hơn 3.600 tỷ đồng nợ quá hạn ở một số dự án đặc thù như:
- Nhóm dự án giải thể, phá sản theo quy định của cơ quan có thẩm quyền:
52 dự án
- Nhóm dự án phải xử lý theo phán quyết của tòa án, quyết định của cơ
quan có thẩm quyền: 33 dự án
- Nhóm dự án thuộc đối tượng xử lý rủi ro mà NHPT đã trình cấp có thẩm
quyền xử lý rủi ro nhưng chưa được Bộ tài chính có ý kiến: 39 dự án
- Nhóm các dự án thuộc đối tượng bán nợ NHPT đã trình cấp có thẩm
quyền xóa nợ đối với phần chênh lệch thiếu sau khi bán nợ: 4 dự án
- Nhóm các dự án thuộc Chương trình đánh bắt cá xa bờ (chưa được hạch
toán ngoại bảng): 57 dự án.
- Nhóm các dự án nhận bàn giao từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV) sang Tổng cục đầu tư phát triển và Quỹ Hỗ trợ phát triển, NHPT kế
thừa: 18 dự án
- Nhóm các dự án thuộc Vinashin thuộc diện khoanh nợ: 39 dự án
Báo cáo kết quả thanh tra của Thanh tra Chính phủ ngày 04/12/2012 cho
thấy, tính theo kết quả phân loại nợ của NHPT (theo quy định phân loại nợ nội bộ
của NHPT) tại thời điểm 31/12/2010 thì tổng dư nợ được phân loại nợ là 180.301
tỷ đồng. Trong đó, nợ xấu là 22.664 tỷ đồng, chiếm 12,57% tổng dư nợ phân loại.
Tính theo chuẩn phân loại nợ tại QĐ số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu tại thời điểm 31/12/2010 là 38.106 tỷ
đồng [60].
Mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau về cách phân loại nợ đối với hoạt
động TD DDTPT, trong đó có ý kiến cho rằng cách phân loại nợ theo quy định
hiện hành của NHNN không phù hợp với nội dung hoạt động TD ĐTPT do tính
chất hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, tài trợ vốn vào các ngành, lĩnh vực,
130
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm có nhiều rủi ro, thực hiện nhiều
mục tiêu kinh tế - xã hội, song nó cũng phản ánh phần nào thực trạng rủi ro tín
dụng của NHPT tăng cao.
Thứ ba, mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ NSNN ngày càng tăng
Chủ trương thực hiện TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm theo phương thức huy động vốn thị trường để cho vay và
NSNN cấp bù chênh lệch lãi suất, nhằm thay đổi phương thức tài trợ vốn từ cấp
phát vốn NSNN sang cho vay có hoàn trả là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, phù
hợp với thực trạng tình hình tài chính ngân sách của nền kinh tế và thông lệ thực
thi chính sách đầu tư ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong thực tế cũng
đang đặt ra một số vấn đề là nguyên nhân làm gia tăng gánh nặng cấp bù NSNN
cho hoạt động này.
Một là, trong thời gian qua, quy mô hoạt động TDĐTPT tăng nhanh, tốc độ
tăng trưởng TD ĐTPT khoảng 17%/năm, trong khi đó, vốn điều lệ của NHPT nhỏ,
nhiệm vụ cho vay đầu tư các chương trình, dự án có quy mô ngày càng lớn, kế
hoạch TDĐTPT hàng năm được Chính phủ giao lớn, trung bình 40.000 – 45.000 tỷ
đồng/năm, do đó NHPT phải huy động vốn trên thị trường qua phát hành TPCP
với khối lượng lớn và huy động các nguồn khác để cho vay ngày càng cao (năm
2006: 30.929 tỷ đồng; năm 2010: 46.909 tỷ đồng; năm 2011: 49.500 tỷ đồng) [49].
Hai là, trong những năm gần đây, nhất là giai đoạn 2008 - 2011, do lạm
phát tăng cao, thị trường tài chính tiền tệ có nhiều biến động, vì vậy lãi suất huy
động vốn trở nên đắt đỏ, lãi suất huy động vốn từ thị trường của các NHTM và
NHPT tăng cao cũng đã làm cho số phí cấp bù từ NSNN cho chênh lệch lãi suất
huy động vốn và lãi suất cho vay của NHPT ngày càng tăng cao (lãi suất huy động
bình quân giai đoạn 2006-2009 là 9,1%; 2010-2011 là 11,5-11,8%) [49].
Ba là, để thực hiện chính sách ưu đãi của Nhà nước, lãi suất cho vay
TDĐTPT thấp hơn lãi suất thị trường, nhiều trường hợp thấp hơn rất nhiều. Đặc
biệt, theo quy định của chính sách TDĐTPT, trong giai đoạn 2000 - 2013, lãi suất
vay vốn được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng và được giữ nguyên, cố
định trong suốt thời hạn vay vốn, trong đó số dự án được vay vốn với lãi suất thấp
(dưới 8,4%) chiếm đến 85,6% tổng dư nợ của NHPT tính đến 01/01/2012 làm cho
số vốn cấp bù của NSNN có chiều hướng gia tăng (số cấp bù chênh lệch lãi suất
131
năm 2006: 1.030 tỷ đồng; năm 2011: 2.136 tỷ đồng) [49].
***
*** ***
Từ thực tế trên đây có thể khẳng định: hoạt động TD ĐTPT cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng ở Việt Nam thời gian qua là hết sức cần thiết.
Thực tiễn cho thấy, hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm trong giai đoạn 2000-2013 đã đạt được những kết quả tích cực,
góp phần huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội
đất nước; góp phần đáng kể gia tăng giá trị tài sản cố định, tăng cường cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền kinh tế; hỗ trợ phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp
trọng điểm, then chốt, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH; tham gia đầu tư ngày càng nhiều vào một số lĩnh vực khó thu hồi vốn,
hỗ trợ phát triển vùng sâu, vùng xa, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn,
đặc biệt khó khăn, khu vực nông nghiệp, nông thôn, góp phần khắc phục các
khuyết tật thị trường, đảm bảo an sinh xã hội.
Đồng thời, phân tích thực trạng hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng giai đoạn 2000-2013 cũng cho thấy: hiệu quả hoạt
động tín dụng này còn chưa cao, trong đó một số hạn chế chủ yếu là: quy mô vốn
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm trong tổng
vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế còn nhỏ bé; vốn TD ĐTPT cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm tác động chưa nhiều đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững; hiệu quả, mức độ đóng góp vào
đầu tư hỗ trợ phát triển vùng, miền, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,
lĩnh vực, ngành nghề khó thu hồi vốn chưa cao; mức độ thực hiện bảo toàn và phát
triển vốn kém; chất lượng tín dụng thấp, tỷ lệ nợ quá hạn (nợ xấu) cao; mức cấp bù
chênh lệch lãi suất từ NSNN ngày càng tăng.
Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân cả từ phía khách quan và chủ quan,
trong đó nổi lên một số nguyên nhân cơ bản thuộc về thể chế, chính sách, mô hình
như khung pháp lý, cơ chế chính sách đối với hoạt động TD ĐTPT cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn nhiều bất cập; mô hình tổ chức hoạt
động tín dụng, mô hình quản trị ngân hàng, quản lý tín dụng của tổ chức cho vay
132
còn nhiều khiếm khuyết và một số nguyên nhân như năng lực quản trị rủi ro còn
thấp, hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức, chất lượng, năng lực chuyên môn
nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ…
Giải quyết những hạn chế nêu trên là yêu cầu cấp bách để nâng cao hiệu quả
hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
133
nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói chung.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH
KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM
3.1. BỐI CẢNH MỚI ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN CHO CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ
TRONG ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
Bước vào thời kỳ 2014, 2015 đến năm 2020, đất nước ta đứng trước một
thời kỳ chiến lược mới của dân tộc trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất
nhanh, phức tạp và khó lường. Trong đó đặc điểm lớn nhất chi phối thời kỳ này
chính là quá trình toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và
hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách
thức đối với nền kinh tế nước ta.
Trong thời kỳ này, quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động
diễn ra ngày càng sâu rộng. Trong quá trình đó, vai trò của các công ty xuyên
quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự tùy thuộc lẫn
nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ
biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở
thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Quá trình tái cấu trúc
các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế kinh tế toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ,
gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng
lượng, tài nguyên. Sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất là những nước
lớn sẽ có tác động đến nước ta. Bối cảnh thế giới trong những năm 2015 – 2020
dự báo thay đổi rất nhanh và rất khó lường.
Trên bình diện toàn cầu, tình hình chính trị bất ổn ở Ucraina chưa được
giải quyết vẫn tiếp tục tác động xấu lên quan hệ giữa Nga, Châu Âu và Hoa Kỳ,
đồng thời tác động xấu tới tình hình phát triển kinh tế, quan hệ thương mại giữa
134
các quốc gia châu Âu và Nga. Các biện pháp trừng phạt lẫn nhau của Nga và
Phương Tây do khủng hoảng chính trị ở Ucraina tiếp tục tác động tiêu cực đến
nền kinh tế Eurozone. Ở bình diện khu vực, tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và
Biển Hoa Đông giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt
Nam, tranh chấp giữa Nhật Bản và Trung Quốc với nguy cơ chủ nghĩa dân tộc
cực đoan trỗi dậy có thể là lý do châm ngòi cho xung đột giữa hai nền kinh tế
lớn trên thế giới trở nên căng thẳng là các vấn đề tiếp tục gây quan ngại và khó
đoán định trong năm 2015 và các năm sau.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2014 đã được IMF điều chỉnh
hạ dự báo xuống còn 3% thay vì 3,4% trước đó đã cho thấy bức tranh tăng
trưởng kinh tế toàn cầu năm 2014 yếu hơn dự đoán [tin nhanh chứng khoán].
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 của Eurozone dự kiến 1,1% cho khối này
đã chỉ ra thực trạng hiện nay của khối [84]. Trong khi đó, tình hình kinh tế của
các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản hoặc là đang trong tình trạng
tăng trưởng suy giảm hoặc trì trệ, đang suy thoái là những triển vọng không
mấy sáng sủa trong thời gian tới. Nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục có dấu hiệu
mất đà. Tăng trưởng kinh tế năm 2014 của Trung Quốc dự kiến đạt mức 7,3%,
thấp nhất trung bình trong 10 năm qua [84]. Các nguyên nhân gây kéo kinh tế
Trung Quốc tăng trưởng chậm lại như “núi nợ” của chính quyền địa phương và
khu vực tư nhân sau giai đoạn tăng trưởng quá nóng, nhu cầu bên ngoài còn yếu
dẫn đến xuất khẩu suy giảm, thị trường bất động sản vẫn đóng băng, bong bóng
tín dụng bắt đầu phình lên…dự kiến trong năm 2015 vẫn chưa được giải quyết
triệt để. Nền kinh tế Nhật Bản gần như không tăng trưởng trong năm 2014. Nỗ
lực bơm tiền và hạ lãi suất của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản chưa đem lại
phép màu nhằm chặn đà giảm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hiện chỉ có
Anh và Mỹ đang tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng kinh tế khá. Tuy nhiên,
thời gian duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế này kéo dài bao lâu còn tùy thuộc
vào mức độ khó khăn mà các đối tác thương mại của họ đang phải đối mặt. Nền
kinh tế Mỹ dự kiến đạt mức tăng trưởng 3,5% trong năm 2014 đánh dấu sự trở
lại ngoạn mục của nền kinh tế này [84].
135
Trên thị trường hàng hóa, kể từ tháng 6/2014, giá dầu mỏ sụt giảm xuống
mức thấp kỷ lục trong 5 năm qua và mất giá tới hơn 40% là một biến động khó
lường đối với nền kinh tế toàn cầu và gây bất lợi cho các nền kinh tế có tỷ trọng
thu xuất khẩu từ dầu thô cao [84]. Các nguyên nhân kéo giảm giá dầu trong
năm 2014 như tiến bộ kỹ thuật trong khai thác dầu đá phiến (bằng công nghệ
khoan ngang và bẻ gãy thủy lực) đang được áp dụng tại Mỹ khiến sản lượng
dầu khai thác của Mỹ tăng đáng kể; việc giữ nguyên sản lượng khai thác của
các nước thành viên OPEC bất chấp giá sụt giảm cũng như nhu cầu từ Trung
Quốc và châu Âu giảm do tăng trưởng kinh tế chậm lại tiếp tục khó có chiều
hướng thay đổi trong năm 2015 đang là thách thức chính trong việc cân đối
nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội đối với các nước có
nguồn thu phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu dầu mỏ, trong đó có Việt Nam.
Trên thị trường tiền tệ, đồng USD liên tục tăng giá đã làm cho giá trị
đồng nội tệ của nhiều quốc gia đang phát triển xuống mức thấp nhất 14 năm
qua [84]. Đồng nội tệ yếu sẽ khiến cho kim ngạch nhập khẩu trở nên đắt đỏ,
nguy cơ đẩy lạm phát và các khoản nợ bằng đồng USD tăng cao. Trong bối
cảnh nền kinh tế Việt Nam mặc dù đạt được mức kim ngạch xuất khẩu cao kỷ
lục trong năm 2014 song mức kim ngạch nhập khẩu cũng vẫn ở mức đáng lo
ngại.
Tình hình chính trị và kinh tế thế giới, khu vực như trên ảnh hưởng
không nhỏ đến việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong
năm 2015 và các năm sau. Một mặt đặt ra những thách thức gay gắt đối với sức
cạnh tranh của nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và khả năng phản
ứng chính sách trước những diễn biến phức tạp của thị trường, mặt khác đòi hỏi
phải có những giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô, thu chi NSNN, huy động và
khai thác, sử dụng nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển thích
ứng với bối cảnh quốc tế nêu trên nhằm thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
tế xã hội đạt được các mục tiêu đã đề ra cho thời kỳ 2011-2015 và tạo nền tảng
cho việc thực hiện các mục tiêu đến năm 2020.
136
3.1.2. Bối cảnh trong nước
Những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của gần 30 năm đổi mới đã tạo
cho đất nước ta thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Từ
một quốc gia nghèo nàn và chậm phát triển, Việt Nam đã gia nhập nhóm các
nước có thu nhập trung bình thấp, nền kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng
tích cực (trong đó nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 20,6%, công nghiệp và xây
dựng chiếm 41%, dịch vụ chiếm xấp xỉ 40% GDP). Song nền kinh tế nước ta
vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn
biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Chất lượng tăng
trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối vĩ
mô chưa vững chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng
các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dài trải. Tăng trưởng kinh
tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang
phát triển theo chiều sâu. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân
lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới ngày
càng rõ.
Các yếu tố của tăng trưởng theo chiều rộng đã đến mức tới hạn; động lực
tăng trưởng phụ thuộc vào gia tăng vốn đầu tư, gia tăng số lượng lao động…đã
yếu và đang giảm dần. Trong khi đó các động lực của tăng trưởng theo chiều
sâu chưa được cải thiện để bù đắp những thiếu hụt của tăng trưởng theo chiều
rộng. Tuy vậy, gia tăng vốn đầu tư dưới các hình thức và kênh khác nhau vẫn là
công cụ chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng. Để đáp ứng yêu cầu này, chính sách
tài khóa và tiền tệ mở rộng đã phải duy trì liên tục trong nhiều năm qua, là một
trong những nguyên nhân quan trọng của lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô
trong thời gian gần đây.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2001-2010, Đại hội XI đã đề ra chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế tạo tiền đề phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020.
137
Các mục tiêu được đề ra đến năm 2020 với một số chỉ tiêu: GDP bằng
khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người đạt 3.000 USD; tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP; giá trị sản phẩm
công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tỷ lệ lao động
nông nghiệp khoảng 30-35% lao động xã hội…[26].
Các đột phá chiến lược trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đến năm
2020 được đề ra gồm:
(i) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
(ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn
kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ.
(iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình
hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn [26].
Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, định hướng tổng quát của phát
triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020 được coi là “đổi mới mô hình tăng
trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế”. Theo đó, các định hướng chủ đạo trong phát
triển kinh tế xã hội nước ta thời gian tới được xác định là:
+ Tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường XHCN;
+ Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng
sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa
chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững;
+ Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản
xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều
chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế
tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh.
138
Trên cơ sở định hướng chủ đạo này, một trong các định hướng cụ thể, cơ
bản đã được đề ra là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN; bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Đây được
coi là tiền đề quan trọng để thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Vì vậy, Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII đã thông qua nghị quyết số
10/2011/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 với
yêu cầu Chính phủ điều hành bám sát các mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ, giải
pháp đã được Đại hội XI xác định; lãnh đạo chỉ đạo tập trung, quyết liệt hơn và
có bước đi phù hợp từng bước tạo tiềm lực để thực hiện mục tiêu tổng quát, các
chỉ tiêu, 3 đột phá chiến lược và 12 định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế để thực hiện thành công Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020.
Thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã xây dựng và Báo cáo Quốc hội
Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo
hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh. Mục tiêu của Đề án
là các chỉ tiêu cụ thể trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015
và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm đến 2020.
Nội dung của mục tiêu tái cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011-2020 và định
hướng đến năm 2030 nhằm hướng đến mục tiêu tổng quát và bốn mục tiêu
thành phần. Mục tiêu tổng quát của tái cơ cấu kinh tế đến năm 2020 là nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội, nâng cao năng suất lao động, năng suất
các yếu tố tổng hợp và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; trên cơ sở đó, hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn
và có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn; thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng
từ chiều rộng sang chiều sâu, góp phần đạt được các chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã xác định; đồng thời chuyển
đổi nền kinh tế nước ta sang thời kỳ tăng trưởng dựa chủ yếu vào các nhân tố
gia tăng năng suất, gia tăng hiệu quả; từ 2020 tiếp tục củng cố và phát triển
139
vững chắc các yếu tố tăng năng suất và hiệu quả, tạo tiền đề đưa nền kinh tế
nước ta chuyển lên trình độ phát triển cao hơn vào khoảng cuối 2030.
Trong năm 2014, sau hơn 3 năm thực hiện kế hoạch 2011-2015 nhưng
nhiều chỉ tiêu thực hiện vẫn còn khá thấp so với mức đề ra cho cả thời kỳ 2011-
2015. Bước vào năm 2015, bối cảnh kinh tế trong nước có những nét chủ đạo
là:
- Kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn tuy có ổn định tốt hơn song chưa vững
chắc. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước cả năm bằng khoảng 30,1%GDP. Lạm
phát được kiểm soát. CPI cả năm 2014 dự kiến tăng dưới 3% [78]. Tăng trưởng
kinh tế cả năm 2014 dự kiến đạt 5,8%.
- Bội chi NSNN còn cao. Nợ công tăng nhanh. Việc huy động các nguồn
lực cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng yêu cầu [78].
- Tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế tuy đã được thực hiện quyết liệt song
vẫn còn chậm. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp.
+ Tái cơ cấu lại các tổ chức tín dụng: đã cơ bản hoàn thành tái cơ cấu các
ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém, hoàn thành tái cơ cấu 9 ngân hàng
thương mại, giảm 5 tổ chức tín dụng, năng lực tài chính của các ngân hàng
thương mại tăng lên, an toàn hệ thống được bảo đảm. Đã xử lý 54,3% tổng số
nợ xấu được xác định trong Đề án bằng các biện pháp. Tỷ lệ nợ xấu tính đến
cuối năm 2014 ước còn 3,7-4,2% so với mức 17% vào tháng 9/2012 [78 ]. Tuy
nhiên, vẫn còn một số tổ chức tín dụng yếu kém, tình trạng sở hữu chưa minh
bạch.
+ Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đã được triển khai nhiều giải pháp.
Tập trung vào cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, nâng cao năng lực
quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Dự kiến cả năm cổ phần hóa được
200 doanh nghiệp trên tổng số 432 doanh nghiệp cần cổ phần hóa. Nhưng nhìn
chung, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiệu quả chưa cao. Hiệu quả sản xuất
kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp.
140
+ Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới chưa đạt mục
tiêu đề ra.
+ Tái cơ cấu đầu tư công đã được đẩy mạnh. Quốc hội đã ban hành Luật
đầu tư công. Quản lý đầu tư đã được đổi mới theo kế hoạch trung hạn, tập trung
vốn cho các công trình quan trọng, cấp thiết, sớm đưa vào sử dụng, khắc phục
tình trạng đầu tư dàn trải, tăng cường xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản, kiểm soát
chặt chẽ các dự án khởi công mới. Song kết quả tái cơ cấu đầu tư công ở một số
nơi triển khai chậm, nợ đọng xây dựng cơ bản vẫn còn lớn.
Do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng
với những yếu kém nội tại, GDP của nước ta tăng trưởng chậm lại, từ bình quân
7%/năm giai đoạn 2006-2010 xuống còn 5,8%/năm giai đoạn 2011-2015; tỷ lệ
thu NSNN giảm tương ứng từ 24,8% xuống còn 21% nhằm nuôi dưỡng nguồn
thu, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn; chi lương và các khoản chi thường
xuyên tăng từ 62,2% lên 68,2%....dẫn đến nguồn chi cho đầu tư phát triển giảm
mạnh, từ 25% trong tổng chi NSNN giai đoạn 2006-2010 xuống còn khoảng
18% giai đoạn 2011-2015 [78].
Vì vậy, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra, Đảng
và Nhà nước ta đã chủ trương chủ động tăng vay nợ cả trong và ngoài nước.
Theo đó, giai đoạn 2011-2015 kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ là 335
nghìn tỷ đồng, gấp hơn 2,5 lần giai đoạn 2006-2010, đồng thời đẩy mạnh giải
ngân vốn ODA, vốn vay ưu đãi và bảo lãnh vay để đầu tư phát triển, xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng thiết yếu. Do đó, nợ công tăng nhanh,
từ 51,7%GDP năm 2010 lên 60,3%GDP vào cuối năm 2014 và dự kiến là
khoảng 64% vào cuối năm 2015 [78].
Điều đáng nói hơn là trong bối cảnh nợ công đã tăng sát trần cho phép
(65%GDP), gây áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của
Chính phủ so với tổng thu NSNN năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định là
không quá 25%, nằm trong giới hạn chiến lược Quản lý nợ công). Tuy nhiên,
nếu tính cả phần vay đảo nợ, trả lãi vay thì con số này hiện đã ở mức 26% tổng
chi NSNN, trong khi đó thu NSNN có xu hướng giảm, năm 2014 là 22% [33].
141
Một số dự án đầu tư công kém hiệu quả, tình trạng tham nhũng, lãng phí
trong đầu tư xây dựng vẫn còn, có vụ việc nghiêm trọng. Tỷ trọng chi thường
xuyên tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn; tỷ trọng chi đầu tư giảm, bội chi còn
cao. Chính phủ nhận định: thực trạng này gây lo lắng, bức xúc trong xã hội, nếu
chủ quan, buông lỏng, không tiếp tục chủ động kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, sẽ
gây mất an toàn tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong bối cảnh như nêu trên, trong ngắn hạn, nền kinh tế phải đối mặt
với hệ quả của việc tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tài khóa và tiền tệ để
kiềm chế lạm phát (mặc dù cần thiết) là cầu nội địa giảm mạnh, hàng tồn kho
lớn; kinh tế vĩ mô vẫn chưa vững chắc. Lạm phát vẫn có nguy cơ tăng trở lại.
Tăng trưởng vốn cao hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng cho vay, chênh lệch
lãi suất huy động và lãi suất cho vay còn lớn. Doanh nghiệp còn nhiều khó
khăn, khó tiếp cận được nguồn vốn. Phát triển thị trường trong nước còn gặp
nhiều khó khăn do sức mua yếu. Thị trường bất động sản đình trệ, chưa có khả
năng phục hồi sớm. Do nguồn lực còn hạn chế nên việc mở rộng diện và nâng
mức hỗ trợ các chính sách an sinh xã hội, chương trình giảm nghèo, xây dựng
nông thôn mới, tạo việc làm và cải cách tiền lương chưa đáp ứng được yêu cầu.
Trong trung hạn, việc mở rộng xuất khẩu phải đối mặt với xu hướng bảo hộ
mậu dịch gia tăng và sự cạnh tranh gay gắt của các nước xuất khẩu khác, trong
khi đó các thị trường lớn như khu vực châu Âu, Nhật Bản…có tốc độ tăng
trưởng thấp. Bên cạnh đó xu hướng toàn cầu hóa đang ngày càng được đẩy
nhanh, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng chủ động điều chỉnh cơ cấu kinh tế
để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, nhất là trong bối cảnh Việt Nam sẽ ký
kết và tham gia TPP trong năm 2015 cũng như đã và sẽ ký kết, thực hiện từ 10-
12 Hiệp định FTA trong năm 2015.
Đồng thời, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế dẫn đến trong một số năm
trước mắt, nguồn lực xã hội phải được phân bổ lại trên quy mô lớn và kết quả
của quá trình trên có thể chỉ thể phát huy tác dụng trong trung hạn. Điều đó có
nghĩa là trong những năm trước mắt, tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể không
cao như kế hoạch và thấp hơn so với trước đây trong khi tư duy, quán tính theo
142
đuổi tốc độ và cách thức tăng trưởng theo chiều rộng vẫn còn khá phổ biến,
nhất là ở các cấp chính quyền địa phương, những thay đổi để chuyển dần sang
mô hình tăng trưởng mới là chưa thực sự rõ nét.
Trên cơ sở bối cảnh quốc tế và tình hình kinh tế - xã hội đất nước như
nêu trên và căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế xã hội đất nước đến năm
2020, quan điểm, định hướng phát triển chính sách tín dụng ĐTPT nói chung và
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm trong
thời gian tới cần được xác định theo hướng phù hợp với bối cảnh và định hướng
phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước, đồng thời khắc phục được các
điểm yếu kém, tồn tại, phát huy được vai trò, các mặt tích cực, các thành tựu
của hoạt động tín dụng này trong thời gian qua nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước đạt được các mục tiêu đề ra trong giai
đoạn từ nay đến năm 2020.
3.2. QUAN ĐIỂM VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO CÁC
CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRONG ĐIỂM
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.2.1. TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án trọng điểm là rất
cần thiết trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia
Để thực hiện được mục tiêu phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ
XXI và trước mắt, đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, Cương lĩnh đã chỉ ra những định hướng lớn về kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong thời gian tới.
Trong đó, nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực
hiện CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và
bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát
triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các
143
ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt
trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây
dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền; thúc đẩy
phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển
các vùng có khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế thế giới”.
Thực hiện Chiến lược CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế có xuất
phát điểm thấp, nghèo nàn lạc hậu, nền kinh tế rất cần phát triển các ngành công
nghiệp cơ bản, then chốt như các ngành công nghiệp luyện, cán kéo thép, điện
năng, vật liệu xây dựng, hóa chất, phân bón, vật tư nông nghiệp…. Tuy nhiên,
các ngành công nghiệp cơ bản thường có quy mô đầu tư vốn lớn, tỷ suất lợi
nhuận không cao, thời gian thu hồi vốn dài, thị trường đầu ra đặc thù, cần có sự
hỗ trợ tiêu thụ của nhà nước…, khó thu hút vốn đầu tư từ khu vực đầu tư nước
ngoài, khu vực tư nhân trong nước; chẳng hạn, ngành cơ khí có tỷ suất lợi
nhuận rất thấp, đòi hỏi vốn đầu tư nhiều, thời gian thu hồi vốn lâu, thị trường
hẹp.
Do đó, nhà nước cần phải thực hiện các chương trình đầu tư, các dự án
đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN hoặc từ nguồn vốn TDĐTPT
của nhà nước cho các ngành công nghiệp cơ bản, các ngành công nghiệp then
chốt của nền kinh tế như điện, than, cơ khí, hóa chất cơ bản. Thông qua việc
thực hiện các chương trình kinh tế lớn, các dự án kinh tế trọng điểm, TDĐTPT
góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của nền kinh tế,
tăng tỷ trọng đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp, thực hiện CNH, HĐH nền kinh
tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
Cùng với việc coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công
nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế, Đảng và
Nhà nước ta chủ trương phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ
công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông
thôn mới; bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền, thúc đẩy phát triển
144
nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng
có nhiều khó khăn.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư phát triển nông nghiệp,
nông thôn, vì vậy, chủ trương phát triển khu vực kinh tế nông thôn, mở rộng
giao lưu kinh tế hàng hóa giữa các vùng dân cư, từng bước tạo điều kiện thúc
đẩy công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, luôn được Đảng và Nhà
nước đặc biệt quan tâm.
Để khuyến khích, thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, khuyến
khích đầu tư vào các vùng khó khăn, các vùng sâu, vùng xa, mặc dù Nhà nước
đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách về đất đai, thuế, tín dụng…song kết quả
thực hiện xã hội hóa đầu tư vào các khu vực này còn rất hạn chế. Lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn nói chung, nhất là kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
(giao thông nông thôn, kênh mương nội đồng, trạm bơm tưới tiêu…) có đặc
điểm là đầu tư vốn lớn, khó thu hồi vốn, lợi nhuận thấp, rủi ro cao, khu vực tư
nhân, cả trong và ngoài nước không muốn tham gia đầu tư, nhất là đối với các
địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cơ sở hạ tầng điện, thông tin liên lạc, nước
sạch, đường sá, các dịch vụ giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe còn thiếu, yếu,
chưa phát triển…
Việc thực hiện các chương trình kinh tế lớn, các dự án kinh tế trọng điểm
vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, vào các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều
kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn như các chương trình kiên cố
hóa kênh mương, chương trình trồng rừng nguyên liệu, cây công nghiệp dài
ngày, chăn nuôi, chế biến thủy hải sản, các sản phẩm nông nghiệp…. là hết sức
cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về kinh tế và xã hội và là chủ trương lớn, lâu
dài của Đảng và Nhà nước ta nhằm giảm khoảng cách chênh lệch giữa các
vùng, ổn định kinh tế - xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, Nhà nước cũng đã thực hiện nhiều chương trình
kinh tế lớn, nhiều dự án kinh tế trọng điểm như Chương trình tôn nền vượt lũ,
chương trình đầu tư chống quá tải ở các bệnh viện trung ương tuyến cuối…; các
145
dự án trọng điểm trong các lĩnh vực cung cấp nước sạch, xử lý rác thải, xã hội
hóa đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng
đồng…nhằm mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, đảm bảo công
bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.
Việc thực hiện các chương trình kinh tế lớn, các dự án kinh tế trọng điểm
bằng nguồn vốn TDĐTPT của Nhà nước thể hiện quan điểm nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta về “tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển; Phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường”. Quan điểm này cũng thể hiện vai trò của Nhà nước trong
nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như ở Việt
Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ mục tiêu phấn đấu xây dựng đất nước
ta từ nay đến giữa thế kỷ XXI là: toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu
xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở đó, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020
đã xác định quan điểm, đường lối, mục tiêu, giải pháp thực hiện các nhiệm vụ
về kinh tế, xã hội, văn hóa…để thực hiện được mục tiêu đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại để đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Chiến lược đề ra mục tiêu đến năm 2020: GDP bằng khoảng 2,2 lần so
với năm 2010; GDP bình quân đầu người đạt 3.000 USD; tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP; giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo
chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp; chuyển dịch cơ cấu
kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng
30-35% lao động xã hội…[26].
146
Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, một trong những định hướng
cơ bản phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai đoạn 2011-2020 đó là hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định kinh tế
vĩ mô, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó “chính sách tài
chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; phân phối lợi ích công bằng”.
Báo cáo chính trị của Đại hội XI cũng đã chỉ ra các bài học, kinh nghiệm
từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, phát triển kinh tế
- xã hội giai đoạn 2001-2010, trong đó có kinh nghiệm về coi trọng chất lượng,
hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, theo đó yêu cầu vừa nâng cao chất
lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý,
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Muốn thực hiện được yêu cầu này, cần tăng
cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu
quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Huy động nguồn lực
cho tăng trưởng, phát triển luôn là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng của các kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội [26].
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng số một của hầu hết
các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển. Tăng trưởng kinh tế quyết
định tốc độ phát triển của mỗi quốc gia, quyết định mức sống của dân cư và
tiềm lực kinh tế của đất nước.
Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, yếu tố vốn đóng vai trò đặc biệt quan
trọng, nhất là ở các nước có trình độ, xuất phát điểm nền kinh tế thấp như Việt
Nam. Vì vậy, trong kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
chỉ tiêu vốn đầu tư xã hội vào nền kinh tế luôn là chỉ tiêu kinh tế quan trọng
hàng đầu trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội đã tăng đều qua các kế hoạch 5 năm. Vốn đầu tư toàn xã hội giai
đoạn 2001-2005 đạt mức trên 30%, gấp 2 lần so với giai đoạn 1996-2000. Tỷ lệ
vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 35,4% năm 2001 lên 38,7% năm
2005. Vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2006-2010 đạt 42,9% GDP, gấp 2,5 lần
147
so với giai đoạn 2001-2005. Trong giai đoạn 2011-2015, kế hoạch đề ra là vốn
đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP [14].
Để phát triển kinh tế đất nước, chỉ tính riêng giai đoạn 2011-2015 nhu
cầu vốn cho đầu tư khoảng 250-260 tỷ USD, trong đó tổng vốn đầu tư từ NSNN
dự kiến là 17,85, vốn FDI khoảng 16,5%, phần còn lại là huy động từ các
nguồn vốn xã hội khác, trong đó chủ yếu là từ hệ thống ngân hàng [47]. Dư nợ
tín dụng (bao gồm cả tín dụng ĐTPT qua NHPT) đạt mức 130% GDP và dự
báo trong 10 năm tới, ngân hàng vẫn có vị trí quan trọng trong việc luân chuyển
và cung cấp vốn cho nền kinh tế. [47]. Vì vậy, vị trí của hoạt động TD ĐTPT
trong nền kinh tế tiếp tục sẽ góp phần tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh
tế.
Mặc dù tỷ trọng vốn TDĐTPT trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội đã giảm dần qua các năm gần đây nhờ đã huy động tốt các nguồn lực từ dân
cư, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, song đến nay, nguồn vốn TDĐTPT vẫn
chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội các năm 2007 - 2012, kế hoạch
vốn TDĐTPT giao cho NHPT thực hiện là: 2007: 33.800 tỷ đồng; 2008: 40.000
tỷ; 2009: 45.470 tỷ; 2010: 53.450 tỷ; 2011: 57.000 tỷ; 2012: tăng trưởng 10%.
Số vốn này chiếm khoảng 6-7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội [42].
Mặt khác, hiện nay, các ngân hàng thương mại nhà nước (trừ Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã được cổ phần hóa. Các ngân hàng
thương mại, kể cả NHTM 100% vốn nhà nước, thực hiện chức năng kinh doanh
tiền tệ, cho vay theo cơ chế thương mại, thị trường. Trong khi đó, trong nền
kinh tế, luôn tồn tại các chương trình, dự án ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn khó
khăn cần được sự hỗ trợ của nhà nước, bao gồm cả các lĩnh vực khó thu hút vốn
đầu tư như phát triển nông nghiệp nông thôn, nông dân; các chương trình, dự án
thực hiện chính sách xã hội hóa, chương trình, dự án về môi trường…để đảm
bảo nền kinh tế phát triển một cách bền vững. TD ĐTPT là công cụ của Chính
phủ để thực hiện các chính sách hỗ trợ này. Kinh nghiệm của một số nước trên
thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Đức…cho thấy các nước này cũng đang
148
tiếp tục có các chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước thông qua các định chế
tài trợ chính sách như đã đề cập ở Chương 1 của luận án.
Như vậy, trong điều kiện tích lũy của NSNN còn hạn chế, bên cạnh các
kênh huy động khác, kênh huy động vốn TDĐTPT vẫn thực sự có vai trò quan
trọng, là công cụ của Chính phủ để khai thác các nguồn vốn trong xã hội để đầu
tư, thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và đảm bảo phát triển bền vững,
công bằng xã hội.
3.2.2. Xây dựng các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng
điểm thật sự khoa học là điều kiện, cơ sở nâng cao hiệu quả của TDĐTPT
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước thường đóng vai trò là
người cung cấp hàng hóa công cộng, cung cấp cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, hạn
chế các ngoại ứng tiêu cực, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, bảo đảm
an sinh xã hội, an ninh quốc phòng… Khu vực công cộng này thường hành
động dựa trên nguyên lý “chỉ làm những gì khu vực tư nhân không muốn làm,
làm không hiệu quả hoặc không có khả năng làm”.
Vì vậy, các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm với tính
chất là công cụ của Nhà nước để cân bằng với khu vực tư nhân, sửa chữa những
khuyết tật của thị trường, cần được xác định theo hướng có nội dung không
cạnh tranh với khu vực tư nhân, hay nói cách khác, những lĩnh vực, ngành
nghề, địa bàn mà khu vực kinh tế tư nhân có thể đảm đương, sẵn sàng khai thác
và có khả năng cung ứng các hàng hóa, dịch vụ có hiệu quả thì để khu vực tư
nhân đảm nhiệm. Cách xác định nội dung các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm theo nguyên tắc nêu trên sẽ giúp sử dụng nguồn lực quốc gia
có hiệu quả, đảm bảo phát huy được vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường hiện đại, vừa khuyến khích khu vực tư nhân phát triển, khai
thác nguồn lực đầu tư trong dân, vừa tránh lãng phí nguồn lực đầu tư công vốn
khan hiếm do nguồn vốn ngân sách có hạn.
Nguyên tắc này giúp xác định các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm thật sự là công cụ của Chính phủ trong triển khai và thực hiện các kế
hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
149
Theo đó, với vai trò là công cụ của Chính phủ, các chương trình kinh tế lớn, dự
án kinh tế trọng điểm cần phải phục vụ và bám sát các kế hoạch, chiến lược
phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ để đảm bảo mỗi chương trình kinh tế
lớn, mỗi dự án kinh tế trọng điểm đều phải là yếu tố chủ đạo, nòng cốt để triển
khai từng nội dung, bước đi trong từng kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, địa
bàn trong tổng thể kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm, 10 năm của đất
nước. Đặc biệt là trong việc thực hiện các nội dung kinh tế xã hội thể hiện vai
trò của khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế công cộng trong điều tiết vĩ
mô nền kinh tế nói chung, trong việc thực hiện sứ mệnh tập trung đầu tư cho
các lĩnh vực, ngành nghề có hiệu quả kinh tế không cao, đòi hỏi đầu tư vốn lớn,
thời gian thu hồi vốn dài, khu vực tư nhân không muốn hoặc không đủ năng lực
để tài trợ nhưng lại là các lĩnh vực, ngành nghề then chốt, có tác động lan tỏa,
hỗ trợ và làm tiền đề để phát triển, phát huy các ngành, lĩnh vực khác hoặc tập
trung đầu tư cho các địa bàn, khu vực địa lý có điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn, vùng sâu, vùng xa, cơ sở hạ tầng thiết yếu về kinh tế, về xã hội còn thiếu,
còn trắng mà các nhà đầu tư tư nhân ngại ngần, không sẵn sàng đầu tư nhưng
lại cần thiết để đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng…
Đồng thời các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm phải thể
hiện được các hướng ưu tiên cao trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ
trong từng thời kỳ, từng giai đoạn trong triển khai các kế hoạch, Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong các thời điểm, bối cảnh nền kinh tế rơi
vào các trạng thái lạm phát, giảm phát hoặc các tình huống mà cần có sự hiện
diện của vai trò Nhà nước trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế, cần có sự can thiệp
của Nhà nước vào nền kinh tế để điều chỉnh, khắc phục nhằm hoàn thành tối đa
nhiệm vụ các kế hoạch, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã đề ra cho từng
thời kỳ, từng giai đoạn.
3.2.3. Xây dựng mô hình cung ứng TDĐTPT hợp lý; tăng cường kiểm tra,
kiểm soát là nhân tố trực tiếp quyết định hiệu quả TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
150
Về bản chất, TD ĐTPT là một hình thức đầu tư vốn NSNN thực hiện
theo cơ chế tín dụng (cho vay có hoàn trả). Tín dụng đầu tư phát triển là hình
thức tín dụng chính sách được Nhà nước sử dụng để thực hiện các chính sách
kinh tế - xã hội của Nhà nước. Hoạt động TD ĐTPT được giao cho ngân hàng
chính sách về đầu tư phát triển do Chính phủ thành lập, hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận.
Mô hình hoạt động cung ứng TD ĐTPT ở Việt Nam hiện nay là thông
qua hệ thống tổ chức bộ máy của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Mô hình này
phù hợp với thông lệ hoạt động tài trợ chính sách trên thế giới và phù hợp với
thực tế phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, trong định hướng hoạt động TD ĐTPT, cần lưu ý làm tốt một
số điểm sau để đảm bảo thực hiện thành công các chương trình kinh tế lớn, dự
án kinh tế trọng điểm.
Một là, cần nghiên cứu, hoàn thiện mô hình cung ứng tín dụng đầu tư
đảm bảo vận hành tốt, tránh được tình trạng quan liêu hóa, hành chính hóa bộ
máy TD ĐTPT, đồng thời đảm bảo được an toàn tín dụng, cấp tín dụng đúng
đối tượng, đúng địa chỉ, phát huy được hiệu quả đồng vốn đầu tư nhà nước.
Hai là cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi
ro, không làm gia tăng gánh nặng cho NSNN.
Các yêu cầu này xuất phát từ thực tế hiện nay hoạt động TD ĐTPT
không trực tiếp điều chỉnh bởi các quy định của Luật các TCTD trong khi một
luật điều chỉnh riêng cho hoạt động ĐTPT lại chưa được ban hành.
Trong điều kiện hoạt động TD ĐTPT chưa thực hiện đầy đủ các chuẩn
mực theo thông lệ quốc tế và quy định của Luật các TCTD đối với hoạt động
ngân hàng như các quy định về cấp tín dụng; quản lý tiền vay, bảo đảm tiền
vay; các quy định về đánh giá chất lượng tài sản có và tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu; quy định về quản lý thanh khoản, các giới hạn quản lý thanh khoản,
quy định về xếp hạng tín dụng nội bộ, quy định về quản trị rủi ro trong hoạt
động của TCTD…thì cần thiết phải ban hành được các quy định nội bộ của bộ
151
máy tổ chức quản lý và thực hiện nhiệm vụ TD ĐTPT đảm bảo phản ánh đầy
đủ, kịp thời và bám sát đặc điểm hoạt động cung ứng TD ĐTPT vừa thực hiện
tốt việc cung ứng TD ĐTPT, vừa đảm bảo an toàn tín dụng, cho vay và thu hồi
nợ có hiệu quả.
Định hướng trong trung hạn cần nghiên cứu xây dựng luật riêng áp dụng
cho các ngân hàng chính sách, trong đó có ngân hàng chính sách hoạt động về
tín dụng đầu tư phát triển.
Trước mắt, trong điều kiện chưa ban hành được luật riêng về hoạt động
tài trợ chính sách về tín dụng đầu tư phát triển, cần tăng cường thực hiện kiểm
tra, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, xây dựng và ban hành quy trình nội bộ
về các hoạt động nghiệp vụ và thực hiện chế độ báo cáo thống kê, báo cáo hoạt
động theo các quy định, hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Xây dựng và ban hành hệ thống kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản
lý nhà nước ngành, lĩnh vực (Kế hoạch đầu tư, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước,
Lao động TBXH…) phù hợp với đặc thù hoạt động của tổ chức thực hiện
nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển.
Tiêu chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao chất lượng quản lý tín
dụng, đặc biệt là công tác thẩm định dự án, quyết định cho vay. Hoàn thiện mô
hình quản trị và tổ chức bộ máy phù hợp với đặc thù hoạt động của một ngân
hàng chính sách. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hỗ trợ cho công tác
điều hành, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng…
3.3. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ TDĐTPT CHO
CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN VÀ DỰ ÁN KINH TẾ TRỌNG
ĐIỂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.3.1. Nhóm giải pháp về hoạch định các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm
Thực tế cho thấy, TD ĐTPT cho một số chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm không đạt hiệu quả có nguyên nhân thuộc về bản thân các
chương trình, dự án. Do đó, việc xác định đúng đắn các chương trình kinh tế
152
lớn, dự án kinh tế trọng điểm là tiền đề đầu tiên và là giải pháp cơ bản hàng đầu
bảo đảm hiệu quả TD ĐTPT cho các chương trình, dự án này.
3.3.1.1. Xây dựng các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm
thật sự khoa học
Để đảm tính khả thi cao và thật sự khoa học trong việc xác định các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, bên cạnh các nguyên tắc: (i)
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm chỉ làm những gì mà khu vực
tư nhân không muốn hoặc không có khả năng làm và (ii) chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm đóng vai trò là công cụ của Chính phủ trong thực
hiện, triển khai các kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước
trong từng thời kỳ, việc xác định các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm trong thời gian tới cần phải thực hiện theo hướng: các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm được vận hành và đánh giá theo những
tiêu chí, thước đo phù hợp với tính chất, đặc điểm của các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng, TDĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói chung. Cụ thể:
Một là, các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm có tính
chính trị cao, thể hiện quan điểm, chủ trương, đường lối kinh tế của Nhà nước
trong một giai đoạn nhất định; chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm không vì mục tiêu lợi nhuận, không vì mục đích kinh tế đơn thuần;
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm có quy mô, phạm vi ảnh
hưởng lớn, có cơ chế thực hiện đặc thù.
Từ các tính chất, đặc điểm này, việc xác định các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm cần thể hiện được chủ trương phát triển kinh tế xã
hội trong một giai đoạn nhất định, được chọn lọc một cách khoa học trên cơ sở
các kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong một thời kỳ nhất
định, tạo sự ổn định tương đối và sự hấp dẫn trong hoạt động đầu tư, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư xã hội; đồng thời đảm bảo nguyên
tắc bổ sung, không cạnh tranh với các chương trình, dự án mà tín dụng thương
mại thông thường hoặc khu vực tư nhân có thể tài trợ nguồn lực thực hiện nhằm
153
tránh chồng dẫm, lãng phí trong phân bổ nguồn lực và đảm bảo nguyên tắc Nhà
nước chỉ nên làm những gì khu vực tư nhân không muốn hoặc không có khả
năng tham gia, thực hiện.
Do tính chất có quy mô, phạm vi ảnh hưởng lớn nên việc xác định
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm cần lưu ý đến tác động có
tính “liên tỉnh”, “liên vùng”, “liên ngành” của các chương trình, dự án nhằm
đảm bảo sự thống nhất trong quy hoạch phát triển ngành, vùng, lãnh thổ, quốc
gia cả về tính kinh tế cũng như những tác động về hành chính lãnh thổ, dân cư,
xã hội, môi trường, an ninh quốc phòng…
Hai là, hiệu quả của các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm được xem xét, nhìn nhận đánh giá chủ yếu bằng kết quả của chính sách,
chủ trương của Nhà nước khi triển khai chính sách TDĐTPT nói riêng, chính
sách đầu tư của Nhà nước nói chung trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước
trong từng thời kỳ.
Vì vậy, việc xác định các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm cần được thực hiện trên lăng kính các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh
tế trọng điểm có gắn với việc thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội hàng năm, 5 năm, 10 năm của Nhà nước hay không, việc thực hiện các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm này có tác động như thế nào
đến sự phát triển của một số ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, vùng có điều
kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển bền vững, đảm bảo an sinh xã hội. Nói cách khác, cần xem
xét hiệu quả của việc thực hiện các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng
điểm trên bình diện chi phí -lợi ích kinh tế - xã hội chứ không phải vì mục tiêu
lợi nhuận, mục đích kinh tế đơn thuần.
3.3.1.2. Nâng cao chất lượng hoạch định và thiết kế các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm
Tính khoa học của các chương trình, dự án là yếu tố quan trọng bảo đảm
thành công của chúng. Để bảo đảm tính khoa học của chương trình, dự án, việc
154
hoạch định không được xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà quản lý, mà
phải căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế, chiến lược phát triển của đất nước.
Các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm thường có phạm
vi ảnh hưởng lớn, có quan hệ tới nhiều lĩnh vực. Nếu thực hiện thành công, các
chương trình, dự án này sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ngược
lại, nếu thất bại, cái giá phải trả cũng không nhỏ. Do đó, việc hoạch định các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm phải rất công phu, cẩn trọng.
Để nâng cao chất lượng hoạch định, phải tập hợp được các chuyên gia
hàng đầu của đất nước, thậm chí cả các chuyên gia nước ngoài về các lĩnh vực
liên quan đến chương trình, dự án. Đồng thời, các chương trình, dự án phải
được phản biện, thẩm định công phu, nghiêm túc.
Mỗi chương trình, dự án cần có những cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm
đến cùng.
3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách
đối với hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án
kinh tế trọng điểm
Kết quả nghiên cứu ở Chương 2 đã chỉ ra rằng, trong số các nguyên nhân
làm hạn chế hiệu quả của hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn, dự án kinh tế trọng điểm, trước hết và chiếm tỷ trọng lớn nhất chính là
nguyên nhân về phía khung pháp lý, cơ chế chính sách đối với hoạt động TD
ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm còn nhiều bất
cập.
Trên cơ sở xác định TDĐTPT, đặc biệt là TDĐTPT cho các chương trình
kinh tế lớn, các dự án kinh tế trọng điểm là cần thiết và có ý nghĩa lâu dài đối
với nền kinh tế và là công cụ của Chính phủ thực hiện mục tiêu CNH, HĐH,
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ,
trong thời gian tới, đối với khung pháp lý, cơ chế, chính sách cho hoạt động TD
ĐTPT cần tập trung vào hai vấn đề cơ bản là (i) xây dựng và hoàn thiện khung
pháp lý chung về hoạt động TD ĐTPT và TD ĐTPT cho các chương trình kinh
155
tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm; (ii) đổi mới và hoàn thiện các cơ chế, chính
sách trong hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm.
3.3.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý chung cho hoạt động TDĐTPT và TD
ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
Hoạt động TD ĐTPT, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án
kinh tế trọng điểm từ năm 2000 đến nay được điều chỉnh bởi các văn bản ở tầm
nghị định của Chính phủ và một số quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Quy
định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan thực thi chính sách TDĐTPT
của nhà nước ở Việt Nam (hiện nay là NHPT) được quy định tại các Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ.
Một mặt, quy định tại các văn bản này, nhất là các quy định tại các quyết
định của Thủ tướng Chính phủ có ưu điểm là điều chỉnh kịp thời, nhanh chóng
hơn so với quy trình ban hành nghị định, pháp lệnh hoặc luật. Mặt khác, tính
pháp lý không cao của các văn bản này so với các văn bản như nghị định, pháp
lệnh hoặc luật về hoạt động ngân hàng và các lĩnh vực chuyên ngành khác có
liên quan đến hoạt động cho vay TD ĐTPT như Bộ luật dân sự, Luật đầu tư,
Luật xây dựng, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật đấu thầu, Luật ngân sách nhà
nước, Luật tài nguyên, khoáng sản, môi trường, bảo hiểm, phòng cháy chữa
cháy…dễ dẫn đến các xung đột pháp lý, chồng chéo, thậm chí trái chiều, làm
giảm hiệu lực, hiệu quả của các quy định về hoạt động cho vay TD ĐTPT, làm
tăng tính rủi ro trong hoạt động cho vay TD ĐTPT.
Kết quả khảo sát kinh nghiệm hoạt động tín dụng chính sách ở một số
nước trên thế giới được trình bày ở Chương 1 cũng đã cho thấy, hầu hết các
nước trong đó kể cả các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Nhật Bản,
Đức, Hàn Quốc, các nước đang phát triển có nền kinh tế thị trường như Thái
Lan, Indonesia, Philippines hoặc các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Nga,
Trung Quốc...đều có đạo Luật đặc biệt riêng để điều chỉnh hoạt động tín dụng
này (thường được biết đến dưới các tên gọi như tín dụng chính sách, tài trợ
156
chính sách, tài trợ phát triển) cũng như điều chỉnh hoạt động của các định chế
thực thi hoạt động tín dụng này.
Khung pháp lý cho hoạt động của tổ chức thực thi chính sách TDĐTPT ở
Việt Nam hiện nay như nêu trên là phù hợp với thời gian đầu. Tuy nhiên, tính
đến nay, thời gian triển khai hoạt động tín dụng này ở Việt Nam đã được gần 15
năm. Cho đến nay, có thể tiến hành tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và thực tiễn
hoạt động tín dụng này thời gian qua để thiết kế, xây dựng khung khổ pháp lý
phù hợp cho hoạt động tín dụng này.
Chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030 cũng đã ghi nhận sự cần thiết phải nghiên cứu xây dựng
luật riêng áp dụng cho các ngân hàng chính sách trong đó có Ngân hàng Phát
triển Việt Nam [77].
Do vậy, để hoạt động TD ĐTPT ở Việt Nam ổn định, đáp ứng yêu cầu
điều hành vĩ mô nền kinh tế, đồng thời đảm bảo khung pháp lý về TDĐTPT có
tính pháp lý cao, đồng bộ với khung pháp lý về hoạt động của các tổ chức tín
dụng và việc giám sát hoạt động ngân hàng như Luật Ngân hàng nhà nước, Luật
các TCTD, Luật đầu tư công và các văn bản luật khác…cần thiết phải xây dựng
một văn bản ở tầm luật hoặc pháp lệnh để điều chỉnh thống nhất, có hiệu lực
cao đối với hoạt động TD ĐTPT nói chung, TD ĐTPT cho các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm. Theo đó, trong giai đoạn 2015 - 2020 cần
nghiên cứu, xây dựng và trình Quốc hội thông qua một luật hoặc pháp lệnh về
hoạt động TDĐTPT của nhà nước, điều chỉnh hoạt động TDĐTPT của nhà
nước và hoạt động của tổ chức thực hiện chính sách TDĐTPT của nhà nước ở
Việt Nam.
Trước mắt, đối với quy định về địa vị pháp lý và quy định về tổ chức
hoạt động của tổ chức thực hiện TD ĐTPT của nhà nước cho các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm, cần thiết phải xây dựng và ban hành một
văn bản pháp lý ở tầm nghị định quy định về tổ chức và hoạt động của tổ chức
thực hiện TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
nhằm đảm bảo tuân thủ quy định tại Luật các TCTD 2010, có hiệu lực thi hành
157
từ 01/01/2011, quy định về Ngân hàng chính sách có nêu: “1. Chính phủ thành
lập ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm thực
hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. 2. Chính phủ quy định về tổ
chức và hoạt động của ngân hàng chính sách” [57].
3.3.2.2. Hoàn thiện chính sách về TDĐTPT nói chung, chính sách TD ĐTPT
cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm nói riêng
* Đối tượng cho vay
Về nguyên tắc, phạm vi, đối tượng vay vốn TDĐTPT cần từng bước cơ
cấu lại theo hướng trọng tâm, trọng điểm hơn, phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Vốn TDĐTPT tham gia cùng vốn NSNN
tập trung phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu, khả năng thu hồi vốn thấp, rủi ro
cao, cần thiết có sự hỗ trợ của Nhà nước; các dịch vụ công quan trọng, một số
ngành sản xuất then chốt, đóng vai trò chủ đạo và những lĩnh vực mà tư nhân
không thể hoặc chưa thể thực hiện được.
Phát huy vai trò định hướng, dẫn dắt của đầu tư nhà nước, trong đó có
TDĐTPT để thu hút nguồn lực xã hội tham gia đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Coi vốn đầu tư nhà nước, bao gồm vốn TDĐTPT có chức năng là “vốn mồi” để
thu hút các nguồn lực xã hội, đầu tư của tư nhân và các thành phần kinh tế khác
vào tham gia nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế, đặc biệt là hệ thống giao thông,
đảm bảo phục vụ tốt các đột phá chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế
xã hội giai đoạn 2011-2020
Từ đó, giải pháp hoàn thiện chính sách TD ĐTPT cho các chương trình
kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm về đối tượng cho vay trong thời gian tới là:
Một là, cần thể hiện một cách rõ ràng, tập trung hơn các định hướng
chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo theo các ngành, lĩnh vực được xem là
quan trọng, các vùng cần ưu tiên, khuyến khích đầu tư.
Hai là, cơ cấu lại đối tượng vay vốn TDĐTPT theo hướng tập trung vào
các dự án lớn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác được các lợi thế
cạnh tranh theo vùng, miền; tập trung vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, hạ tầng
158
giao thông (đường bộ, đường sắt, sân bay, cảng biển…), năng lượng (trong đó
ưu tiên năng lượng sạch: điện gió, địa nhiệt, điện mặt trời…), công nghiệp cơ
khí trọng điểm, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp vật liệu mới, các chương trình
kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ, bám
biển, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, các chương trình hỗ trợ y tế, giáo
dục, cấp nước sạch, xử lý rác thải…
Tuy nhiên, cần lưu ý, để tránh tình trạng dàn trải nguồn vốn như hiện
nay, cơ cấu đối tượng vay vốn nêu trên nhất thiết phải được lựa chọn, phân định
theo từng giai đoạn, thể hiện được tính ưu tiên cao, tập trung trong từng thời kỳ
phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, Danh mục đối tượng vay vốn cần ổn định tương đối theo chu kỳ
phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm, đảm bảo tính khả thi
trong xây dựng dự án của chủ đầu tư, kế hoạch huy động vốn và cho vay của cơ
quan cho vay và đạt được mục tiêu hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội quốc gia
trong từng thời kỳ.
* Lãi suất cho vay
Qua nhiều lần sửa đổi, đến nay mức lãi suất vay vốn tín dụng đầu tư đã
đi từ chỗ được quy định cố định, chuyển dần sang có sự tham khảo lãi suất bình
quân thị trường lãi suất của các ngân hàng thương mại, tới chỗ căn cứ vào lãi
suất trái phiếu Chính phủ và cuối cùng, hiện nay là căn cứ vào mức bình quân
các nguồn vốn huy động của NHPTVN cộng với phí hoạt động của NHPTVN.
Đồng thời, liên tục 12 năm qua, từ năm 2000 đến hết năm 2011, đối tượng được
vay vốn TD ĐTPT được hưởng lãi suất ưu đãi theo hợp đồng tín dụng ký lần
đầu và duy trì trong suốt thời hạn vay vốn. Từ năm 2012, lãi suất đã được điều
chỉnh theo từng lần giải ngân với lãi suất được công bố trong cùng thời kỳ.
Trong thời gian tới, để đảm bảo sự chủ động hơn trong việc quyết định
lãi suất cho vay, trong thời gian tới, mức lãi suất cho vay nên sửa đổi theo
hướng, trên cơ sở lãi suất sàn do Bộ tài chính ban hành, NHPT được chủ động
quyết định lãi suất theo hướng thị trường, quyết định mức lãi suất cho vay trên
cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng và rủi ro của dự án; đảm bảo
159
có sự ưu đãi nhưng vẫn có sự linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường.
NHPTVN sẽ được chủ động quyết định tài trợ cho các dự án vay vốn TDĐTPT
với các mức lãi suất đảm bảo bù đắp được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt
động và phí bảo hiểm rủi ro dựa trên nguyên tắc thị trường, hướng tới giảm dần
sự cấp bù của NSNN.
*Huy động và sử dụng vốn
Trong giai đoạn 2011-2015, ngoài số thu hồi nợ vay, mỗi năm NHPT
phải huy động thêm từ thị trường tối thiểu 60.000 tỷ đồng để đảm bảo tăng
trưởng tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước mỗi năm ở mức 10%/.
Nếu tính thêm cả số vốn để thực hiện các nhiệm vụ khác Thủ tướng Chính phủ
giao, số vốn NHPT phải huy động thêm mỗi năm bình quân ở mức 75.000 tỷ
đồng. Theo tính toán của NHPT, trong giai đoạn 2011-2015, mỗi năm NSNN sẽ
phải tiếp tục dành tối thiểu 1.500 – 2.000 tỷ đồng để cấp bù chênh lệch lãi suất
đối với số vốn cho vay tín dụng NHPT đã cam kết đến nay đang thực hiện theo
cơ chế lãi suất thấp và cố định. Trong tương lai, sự hỗ trợ của Chính phủ đối
với NHPT chủ yếu là hỗ trợ vốn điều lệ cấp ban đầu, Chính phủ bảo lãnh huy
động vốn nước ngoài, bảo đảm khả năng thanh toán nhằm đảm bảo một nguồn
vốn ổn định và dài hạn với chi phí hợp lý.
Vì vậy, để giải quyết bài toán vốn cho TDĐTPT, Nhà nước cần tăng dần
tỷ trọng vốn điều lệ của NHPT trong tổng nguồn vốn hoạt động ở mức tối thiểu
15% để đảm bảo khả năng tài chính và an toàn thanh khoản, nhằm hỗ trợ được
các dự án quy mô ngày càng lớn, thời hạn dài theo chủ trương của Chính phủ.
Để giảm bớt chênh lệch kỳ hạn vốn – sử dụng vốn, NHPT cần được phép
phát hành trái phiếu 15 năm. Đồng thời, để tăng cường nguồn vốn trong và
ngoài nước, NHPT cần được phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ hoặc vay vốn
nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Cơ cấu lại nguồn vốn và sử dụng vốn
theo hướng đảm bảo vững chắc cân đối vốn – sử dụng vốn.
NHPT được chủ động huy động vốn theo kế hoạch hàng năm được cấp
có thẩm quyền phê duyệt nhằm huy động đủ vốn cho vay. NHPT tự chịu trách
160
nhiệm cân đối vốn và được quyết định về hình thức, khối lượng, kỳ hạn và lãi
suất huy động vốn theo quy định của pháp luật.
Chính phủ ưu tiên nguồn vốn ODA và các nguồn vốn trung và dài hạn,
điều kiện ưu đãi giao cho NHPT thực hiện cho vay các chương trình, dự án
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo quy định.
Từng bước huy động vốn thương mại trên thị trường quốc tế thông qua
các hình thức huy động theo quy định của pháp luật.
NHPT được tham gia thị trường liên ngân hàng, thị trường mở tương tự
như các tổ chức tín dụng khác theo quy định của ngân hàng nhà nước.
3.3.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động, tổ chức thực hiện và
quản lý TDĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng
điểm
3.3.3.1. Hoàn thiện mô hình quản trị, tổ chức thực hiện
Cần chú trọng, quan tâm đến công tác quản trị ngân hàng theo hướng
hiện đại và chuyên nghiệp, trong đó trọng tâm hai khâu then chốt là phát triển
nguồn nhân lực và công nghệ thông tin.
Nhằm tăng cường công tác quản lý, tổ chức thực hiện tốt công tác quản
lý tín dụng, cho vay TDĐTPT của Nhà nước, hoạt động quản trị và tổ chức bộ
máy của tổ chức thực hiện TDĐTPT của Nhà nước – NHPTVN – cần được
thực hiện theo hướng:
- Sửa đổi Điều lệ tổ chức và hoạt động của NHPTVN (ban hành theo
Quyết định số 110/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006) theo hướng tăng tính tự chủ,
tự chịu trách nhiệm, đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, minh bạch, rõ ràng về trách
nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ trong việc huy động vốn, quản lý, sử dụng vốn.
- Hoạt động, tổ chức bộ máy của NHPT cần được sắp xếp lại, hoàn thiện
theo hướng:
+ Tổ chức lại Hội đồng quản lý thành Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng
thành viên và Ban kiểm soát phù hợp với nguyên tắc quản trị doanh nghiệp, bảo
161
đảm đủ thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, hoạt động
theo Điều lệ và quy định của pháp luật.
+ Hoàn thiện cơ chế và tăng cường năng lực của hệ thống kiểm tra, kiểm
soát nội bộ và Ban kiểm soát.
+ Tổ chức bộ máy quản trị nội bộ phù hợp với thông lệ ngân hàng và các
nguyên tắc quản trị doanh nghiệp.
+ Bộ máy hệ thống NHPT được sắp xếp lại theo hướng tinh, gọn: tổ
chức lại bộ máy ở Hội sở chính, các chi nhánh được tổ chức theo mô hình khu
vực. Đến sau năm 2015 toàn hệ thống có 44-45 chi nhánh đầu mối; đến sau năm
2020 còn khoảng 30-35 chi nhánh đầu mối. Không thành lập thêm chi nhánh,
phòng giao dịch.
+ Tập trung làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, quy hoạch,
bổ nhiệm. Có chế tài xử lý nghiêm minh các trường hợp cán bộ, tổ chức có vi
phạm về kỷ luật tài chính, vi phạm pháp luật.
+ Không thực hiện góp vốn thành lập mới doanh nghiệp.
+ Đối với Tổng công ty phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Việt Nam
(Vidifi): sau khi hoàn thành dự án sẽ có phương án tái cơ cấu để thực hiện
nhiệm vụ quản lý, khai thác (hoặc sắp xếp lại tùy theo nhiệm vụ được giao).
- Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán phù hợp với
trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam và các chuẩn mực, thông
lệ quốc tế. Phát triển, ứng dụng các mô thức quản lý nghiệp vụ ngân hàng cơ
bản theo hướng hiện đại, tự động hóa và được tích hợp trong hệ thống quản trị
ngân hàng hoàn chỉnh và tập trung (triển khai core-banking).
3.3.3.2. Hoàn thiện cơ chế tài chính của NHPT
Cơ chế tài chính của NHPT cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo
hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giảm dần cấp bù của NSNN.
Xây dựng lộ trình tăng vốn điều lệ phù hợp dựa trên hệ số CAR theo quy
định tương tự đối với tổ chức tín dụng. Nguồn vốn tăng vốn điều lệ bao gồm
vốn NSNN và các nguồn vốn tích lũy của NHPT theo quy định.
162
Xác định hệ số giữa huy động/vốn chủ sở hữu, theo đó vốn chủ sở hữu
được xác định tối thiểu bằng 10% dư nợ bình quân tín dụng giai đoạn 2011-
2015. Trước mắt, trong giai đoạn 2013-2015, hệ số CAR phải đạt tối thiểu là
9%. Mức vốn điều lệ tối thiểu đến năm 2015 khoảng 20.000 tỷ đồng và đến sau
năm 2020 đạt 30.000 tỷ đồng.
Hoàn thiện chế độ tài chính và chế độ hạch toán kế toán, trong đó xác
định lại mức phí quản lý phù hợp hơn, tăng cường tạo nguồn để tăng quỹ dự
phòng rủi ro, hạch toán kế toán theo phương pháp dồn tích, đảm bảo phản ánh
đúng và đầy đủ các dòng thu nhập – chi phí theo thông lệ hoạt động ngân hàng.
Trong giai đoạn 2013-2015, thực hiện cơ chế khoán tài chính theo
nguyên tắc: ổn định trong một thời kỳ nhất định, trong đó phản ánh chính xác
trung thực tình hình tài chính của ngân hàng, vừa gắn với quy mô cho vay, vừa
gắn với chỉ tiêu chất lượng hiệu quả. Xây dựng phương án chi trả tiền lương để
đảm bảo chế độ đối với người lao động, tạo động lực nâng cao hiệu quả công
việc và yên tâm gắn bó với ngành.
3.3.3.3. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro, hoàn thiện cơ chế phân loại nợ,
trích lập dự phòng và xử lý rủi ro
- Xây dựng cơ chế phân loại nợ phù hợp với đặc thù hoạt động của ngân
hàng chính sách trong lĩnh vực tài trợ đầu tư phát triển, đảm bảo đánh giá đúng
chất lượng các khoản tín dụng.
- Về trích lập dự phòng rủi ro: Do đặc thù đối tượng vay tập trung vào
vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, dự án có quy mô lớn và thời hạn cho vay dài,
vì vậy việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo tiêu chí như các ngân
hàng thương mại sẽ không phù hợp với đặc thù NHPT. Nếu thực hiện trích lập
dự phòng rủi ro như các ngân hàng thương mại sẽ dẫn tới không đủ nguồn để
trích và NSNN cũng khó có đủ nguồn để bù đắp ngay.
Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ nên giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
phối hợp với Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn riêng về cơ chế phân loại nợ áp
dụng đối với NHPT, phù hợp với đặc thù hoạt động của NHPT chủ yếu cho vay
163
dài hạn. Việc trích lập dự phòng sẽ thực hiện đồng bộ với cơ chế phân loại nợ
này.
- Trong giai đoạn trước mắt, thu chi tài chính của NHPT còn tiếp tục mất
cân đối do thực hiện chính sách, không vì mục tiêu lợi nhuận nên chưa thể áp
dụng cơ chế trích lập dự phòng rủi ro như các NHTM. Do đó, cần xác định cơ
chế trích lập dự phòng rủi ro phù hợp.
Trong tương lai, NHPT sẽ thực hiện cơ chế phân loại nợ và trích dự
phòng rủi ro tương tự như các NHTM khi đủ điều kiện.
Trước mắt, nâng tỷ lệ dự phòng rủi ro từ 0,5% lên 1% dư nợ để tăng
nguồn bù đắp tổn thất, rủi ro trong quá trình cho vay.
Mức trích sẽ thực hiện tăng dần, phù hợp với khả năng tài chính và sự hỗ
trợ của NSNN. Phấn đấu đến năm 2020, thực hiện việc trích lập dự phòng rủi ro
tương tự như các NHTM.
- NHPT được chủ động sử dụng Quỹ dự phòng rủi ro để chuyển các
khoản nợ thuộc diện xử lý rủi ro từ trong bảng cân đối sang theo dõi ngoại
bảng, phù hợp với thông lệ ngân hàng, đẩy nhanh tiến độ lành mạnh hóa tài
chính của NHPT. Việc xóa nợ đối với khách hàng thực hiện theo quy chế do
Thủ tướng Chính phủ ban hành.
- Nghiên cứu cơ chế để phân cấp cho NHPT thẩm quyền xử lý rủi ro,
theo đó, NHPT được xem xét quyết định xử lý gia hạn nợ, khoanh nợ, giảm lãi.
Việc xóa nợ gốc liên bộ Tài chính - Ngân hàng – Kế hoạch và đầu tư đánh giá
tình hình trình Thủ tướng xem xet, quyết định. Được phép áp dụng các biện
pháp bán nợ, bán tài sản thế chấp để xử lý thu hồi nợ vay.
3.3.3.4. Hoàn thiện cơ chế và tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát
- Xác định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu với Nhà nước tại NHPT
theo đó xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các bộ, ngành (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam…) trong việc quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.
164
- Xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát của các Bộ, ngành phù hợp với
mô hình, hoạt động đặc thù của NHPT theo đó, Bộ Tài chính thực hiện kiểm
tra, giám sát, quản lý nhà nước về tài chính; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện chức năng quản lý giám sát về tín dụng và thanh toán; Bộ Kế hoạch
và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý giám sát về đầu tư phát triển; Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền
lương và lao động.
- Nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và
hệ thống kiểm soát nội bộ. Tăng cường sự kiểm tra giám sát của các bộ, cơ
quan liên quan bao gồm: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
- Hoàn thiện mô hình quản trị và tổ chức bộ máy phù hợp với tính chất
đặc thù của ngân hàng chính sách. Chuẩn hóa và chuyên nghiệp đội ngũ cán bộ
phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm soát và phân
tích, cảnh báo rủi ro; đồng thời tăng cường kiểm tra giám sát của cơ quan quản
lý nhà nước; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân
hàng nhằm hỗ trợ tốt nhất công tác vận hàng, kiểm tra, giám sát hoạt động của
hệ thống NHPT.
- Thực hiện mô hình Hội đồng thành viên để quản trị đối với hoạt động
của NHPT như một tổ chức tín dụng 100% vốn chủ sở hữu của Nhà nước, theo
đó: xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng thành viên, Ban kiểm
soát, Ban điều hành và các bộ phận trong hệ thống NHPT. Hoàn thiện hệ thống
kiểm tra, kiểm soát nội bộ, thống nhất về tổ chức và hoạt động, phối hợp chặt
chẽ giữa Ban kiểm soát với hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
- Hoàn thiện mô hình tổ chức, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động
của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
- Nghiên cứu, xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm và phương án xử
lý đối với từng loại hình rủi ro.
***
165
*** ***
Trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới, TD ĐTPT cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở nước ta vẫn rất cần thiết. Để sử
dụng nguồn vốn này có hiệu quả, việc quán triệt những quan điểm đã nêu là hết
sức cần thiết. Những quan điểm đó cần được triển khai thông qua việc thực hiện
đồng bộ một loạt các giải pháp. Chắc chắn rằng, việc thực hiện các quan điểm
và giải pháp đã nêu sẽ làm cho TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự
án kinh tế trọng điểm thật sự là công cụ hiệu quả để phát triển kinh tế - xã hội
trên đất nước ta.
166
KẾT LUẬN
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại đã
được thừa nhận rộng rãi. Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm khắc phục
các khuyết tật của nền kinh tế thị trường, giúp nền kinh tế vận hành trơ tru, ổn
định, phát triển cân đối, hợp lý, bền vững.
TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
được xác định là giải pháp quan trọng khai thác các nguồn vốn trong xã hội cho
đầu tư phát triển và được sử dụng làm công cụ tham gia điều tiết vĩ mô nhằm
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong từng thời kỳ.
Do các nguồn lực có hạn và yêu cầu của các quy luật thị trường, hiệu quả
hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
cần được đặc biệt quan tâm. Hiệu quả của hoạt động này cần được đo lường
bằng các thước đo hiệu quả kinh tế - xã hội, bằng sự đóng góp của các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội quốc gia; bằng hiệu quả sử dụng vốn và an toàn hoạt động của tổ chức cho
vay với tư cách là công cụ của Chính phủ trong thực hiện hoạt động TD ĐTPT
cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm.
Trong thời gian qua, hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế
lớn và dự án kinh tế trọng điểm thực hiện ở Việt Nam đã thực sự có những
đóng góp đáng kể cho nền kinh tế thông qua các chỉ tiêu huy động vốn đáp ứng
cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội quốc gia; góp phần gia tăng giá trị
tài sản cố định, tăng cường cơ sở vật chất cho nền kinh tế, đóng góp vào phát
triển các ngành, lĩnh vực công nghiệp then chốt của nền kinh tế, hỗ trợ phát
triển khu vực nông nghiệp, nông thôn, phát triển các địa bàn có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn, đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, đầu tư vào các lĩnh vực
khó thu hồi vốn nhằm khắc phục các khuyết tật thị trường, đảm bảo an sinh xã
hội…
Bên cạnh đó, TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế
trọng điểm có không ít hạn chế, nhiều vấn đề nảy sinh. Tham vọng gia tăng quy
mô cung ứng vốn, cấp tín dụng chỉ định vào nền kinh tế thông qua các chương
167
trình kinh tế, dự án trọng điểm để thực thi các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của Chính phủ đã mâu thuẫn với khả năng hấp thụ, sử dụng vốn của các chủ
đầu tư, doanh nghiệp được tài trợ vốn; yêu cầu tổ chức, quản lý và điều hành
hoạt động TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm
một cách bài bản, thận trọng, an toàn hệ thống mâu thuẫn với thực tiễn mở rộng
tràn lan đối tượng cho vay, chạy theo đáp ứng các yêu cầu mang tính ngắn hạn,
thời vụ của nền kinh tế; đòi hỏi về hiệu quả của hoạt động TD ĐTPT cho các
chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm mâu thuẫn với sự lạc hậu về
mô hình tổ chức, bộ máy quản lý, khả năng đáp ứng, trình độ, năng lực tổ chức,
quản lý, trình độ cán bộ và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin… của tổ chức cho
vay.
Trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới, TD ĐTPT cho các chương
trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam vẫn rất cần thiết. Để
nâng cao tính hiệu quả và bền vững của hoạt động này, cần phải thực hiện
nghiêm túc và đồng bộ 3 quan điểm và hàng loạt các giải pháp, xuất phát từ
khung khổ lý luận và thực tiễn của đất nước.
Với những kinh nghiệm thành công và cả những hạn chế yếu kém đã
được phân tích kỹ càng, chắc chắn TD ĐTPT cho các chương trình kinh tế lớn,
dự án kinh tế trọng điểm trong những năm tới sẽ đạt hiệu quả cao hơn, đóng
góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước to lớn hơn./.
168
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nghị định số 75/2011/NĐ-CP: Đổi mới về tín dụng đầu tư và xuất khẩu,
Tạp chí Tài chính, số 10 (564), 2011.
2. Tái cơ cấu đầu tư công: Nhìn từ vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 23 (559), 2013.
3. Nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các
chương trình kinh tế lớn và dự án kinh tế trọng điểm ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế
169
Châu Á – Thái Bình Dương, số 415, 2013.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Vũ Mạnh Bảo (2011), Tín dụng nhà nước đối với phát triển kinh tế các tỉnh Tây
Nguyên, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ
Chí Minh.
2. Thái Bá Cẩn (2002), Khai thác nguồn vốn tín dụng nhà nước ưu đãi cho đầu tư
phát triển, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
3. Thái Bá Cẩn – Lê Xuân Hiếu (2001), Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý
tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Viện Nghiên cứu tài chính, Bộ Tài chính, Hà Nội.
4. Chính phủ (1994), Nghị định số 117/CP ngày 07/11/1994 về Điều lệ quản lý
xây dựng cơ bản.
5. Chính phủ (1994), Nghị định số 187/CP ngày 10/12/1994 về nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy Tổng cục Đầu tư phát triển.
6. Chính phủ (1995), Nghị định số 29/CP ngày 12/05/1995 quy định chi tiết thi
hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994).
7. Chính phủ (1999), Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước.
8. Chính phủ (1999), Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 về tổ chức và
hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển.
9. Chính phủ (2000), Nghị quyết số 15/2000/NQ-CP ngày 06/10/2000 về một số
chủ trương và giải pháp tiếp tục khắc phục hậu quả lũ lụt, sớm ổn định đời
sống nhân dân, xử lý kịp thời những vấn đề mới nảy sinh nhằm đảm bảo yêu
cầu phát triển nhanh và bền vững về kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
10. Chính phủ (2004), Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 01/4/2004 về tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước.
11. Chính phủ (2006), Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín dụng
170
đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
12. Chính phủ (2008), Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 17/9/2008 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín
dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
13. Chính phủ (2011), Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 về tín dụng
đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
14. Chính phủ (2002-2012), Báo cáo của Chính phủ về tình hình, nhiệm vụ và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm tại các kỳ họp Quốc hội, trong các
năm 2002-2012.
15. Chính phủ (2006), Báo cáo về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-
2010 tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XII.
16. Chính phủ (2009), Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lý
đầu tư xây dựng công trình.
17. Chính phủ (2012), Báo cáo Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển
đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng
lực cạnh tranh, Báo cáo số 110/BC-CP ngày 17/5/2012 tại Kỳ họp thứ 3,
Quốc hội khóa XIII.
18. Mai Ngọc Cường (2005), Lịch sử các học thuyết kinh tế: Cấu trúc hệ thống –
Bổ sung – Phân tích và nhận định mới, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà
Nội.
19. Lê Quang Cường (2007), Hoàn thiện phương thức huy động vốn tín dụng Nhà
nước bằng trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh.
20. Nguyễn Quang Dũng (2011), “Ngân hàng Phát triển Việt Nam đóng góp tích
cực cho phát triển kinh tế, Báo Điện tử Chính phủ, 19/05/2011.
21. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số vấn đề
phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Các nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương Khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 46/NQ-TW của Bộ Chính trị về
171
công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
25. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, Trường Đại học Kinh tế
quốc dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
28. Trần Công Hoà (2007), Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân,
Hà Nội.
29. Hội đồng Bộ trưởng (1990), Nghị định số 385-HĐBT ngày 7/11/1990 sửa đổi,
bổ sung, thay thế Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản đã ban hành kèm theo Nghị
định số 232-CP ngày 6/6/1981.
30. Doãn Hùng – Nguyễn Ngọc Hà – Đoàn Minh Huấn (2007), Đảng Cộng sản
Việt Nam – Những tìm tòi và đổi mới trên con đường lên chủ nghĩa xã hội
(1986-2006), Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
31. Nguyễn Ngọc Hùng (1998), Lý thuyết tài chính tiền tệ, Trường Đại học Kinh
tế, ĐHQG TP Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Thống kê, TP HCM.
32. Takatoshi Ito (2002), “Tăng trưởng, khủng hoảng và tương lai phục hồi kinh tế
ở Đông Á”, Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.71-121.
33. Lê Hải Mơ (2014), “Tái cơ cấu đầu tư công và nợ công”, Giải pháp tái cơ cấu
đầu tư công trong khuôn khổ đổi mới mô hình tăng trưởng, Hội thảo do Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương tổ chức ngày 7/11/2014, Hà Nội.
34. Trương Thị Hoài Linh (2010), Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng
Phát triển Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
35. Đỗ Thị Trà Linh (2011), “Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước cho các dự án
nhóm A: nguồn vốn quan trọng tạo ra năng lực mới cho nền kinh tế”, Đặc san
Tài trợ dự án (01), tr.6-8.
36. Đỗ Thị Trà Linh – Trần Việt Hải (2011), “Gần 40.000 tỷ đồng vốn ĐTPT của
nhà nước cho các dự án ngành năng lượng”, Đặc san Tài trợ dự án (01), tr.9-
172
11.
37. Frederic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà
xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
38. Ngân hàng Thế giới (1997), Sự thần kỳ Đông Á – tăng trưởng kinh tế và chính
sách công cộng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi –
Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
40. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2007), Báo cáo đánh giá công tác xử lý nợ
vay các dự án thuộc Chương trình đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt và dịch vụ
đánh bắt hải sản xa bờ, Quảng Nam, tháng 10/2007.
41. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động
(2006-2011), Chiến lược phát triển đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
42. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2006-2013), Báo cáo tổng kết hàng năm giai
đoạn 2006-2013.
43. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2011), “Thông tin các dự án năng lượng sử
dụng vốn ĐTPT của Nhà nước do Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện”,
Đặc san Tài trợ dự án (01), tr.14-23.
44. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), “Chương trình kiên cố hóa kênh
mương thúc đẩy CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn”, Đặc san Tài trợ dự án
(06), tr.54-57.
45. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), “Một số dự án vay vốn TD ĐT của
Nhà nước phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”, Đặc san Tài trợ dự án
(03), tr.14-19.
46. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), “Chương trình giảm tải 18 bệnh viện
tuyến cuối và hiệu quả thiết thực của nguồn vốn tín dụng nhà nước”, Đặc san
Tài trợ dự án (06), tr.96-98.
47. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), Báo cáo số 1849/NHPT-CSPT ngày
08/06/2012 gửi Văn phòng Chính phủ v/v chuẩn bị nội dung trả lời chất vấn
Quốc hội.
48. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), Báo cáo hoạt động của NHPT giai
173
đoannj 2006-2011, dự kiến thực hiện nhiệm vụ 2012 và Chiến lược phát triển
đến năm 2020, Tài liệu báo cáo Ban Thường vụ Đảng ủy Khối DNTW, Thanh
Hóa, ngày 08/09/2012.
49. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012), Báo cáo hoạt động của NHPT và định
hướng chiến lược đến năm 2020, Tài liệu báo cáo Ban Tuyên giáo Đảng ủy
Khối DNTW và các cơ quan báo chí, Hà Nội, 01/10/2012.
50. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1994), Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước ngày 22/6/1994.
51. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1997), Nghị quyết số
05/1997/QH10 ngày 29/11/1997 về tiêu chuẩn các công trình quan trọng quốc
gia trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư.
52. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Doanh nghiệp số
60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
53. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Đầu tư số
59/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
54. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2007), Luật ngân sách nhà nước
ngày 16/12/2002.
55. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2009), Luật quản lý nợ công số
29/2009/QH12 ngày 17/6/2009
56. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2010), Nghị quyết số
49/2010/QH12 ngày 19/06/2010 về dự án, công trình quan trọng quốc gia
trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư.
57. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2011), Luật các tổ chức tín dụng
số 47/2010/QH12, ngày 16/6/2010.
58. Tô Huy Rứa – Hoàng Chí Bảo – Trần Khắc Việt – Lê Ngọc Tòng (2006), Quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
59. Joseph E.Stiglizt (2002), “Từ thần kỳ, qua khủng hoảng, đến phục hồi: Bài học
từ bốn thập kỷ kinh nghiệm của Đông Á”, Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.639-661.
60. Thanh tra Chính phủ (2012), Thông báo kết luận thanh tra số 3212/TB-TTCP
ngày 04/12/2012 về việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Ngân hàng Phát
174
triển Việt Nam.
61. Vũ Nhữ Thăng (2010), “Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011-
2020”, Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và
tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam, Hội thảo do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
– Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức ngày 28-29/12/2010, Huế.
62. Thủ tướng Chính phủ (1995), Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 09/12/1995 về
việc thành lập Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia.
63. Thủ tướng Chính phủ (1997), Quyết định số 393/QĐ-TTg ngày 09/06/1997 về
việc ban hành Quy chế Quản lý và sử dụng vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch
nhà nước cho các dự án đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh
bắt hải sản xa bờ.
64. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 66/2000/QĐ-TTg ngày 13/06/2000
về một số chính sách và cơ chế tài chính thực hiện Chương trình kiên cố hóa
kênh mương.
65. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg ngày
07/09/2001 về cơ chế tài chính thực hiện Chương trình phát triển đường giao
thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở
nông thôn.
66. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 71/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001
về các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001 – 2005.
67. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 173/2001/QĐ-TTg ngày
06/11/2001 về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai
đoạn 2001 – 2005.
68. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 1548/QĐ-TTg ngày 05/12/2001 về
việc đầu tư tôn nền vượt lũ để xây dựng các cụm tuyến dân cư vùng ngập sâu
đồng bằng sông Cửu Long.
69. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 42/2002/QĐ-TTg ngày 19/03/2002
về quản lý và điều hành các chương trình mục tiêu quốc gia.
70. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg ngày
26/12/2002 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam
đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020.
71. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 89/2003/QĐ-TTg ngày 08/5/2003
175
về một số biện pháp xử lý nợ vay vốn đầu tư phát triển để đóng mới, cải hoán
tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ theo Quyết định số
393/QĐ-TTg ngày 09/06/1997, Quyết định số 159/1998/QĐ-TTg ngày
03/9/1998 và Quyết định số 64/2000/QĐ-TTg ngày 07/6/2000 của Thủ tướng
Chính phủ.
72. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày
19/05/2006 về việc thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
73. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 110/QĐ-TTg ngày 19/05/2006 về
việc phê duyệt Điều lệ hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
74. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 1151/QĐ-TTg ngày 26/08/2008
phê duyệt bổ sung các dự án đầu tư giai đoạn II thuộc Chương trình xây dựng
cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long.
75. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009
về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và Danh mục
các sản phẩm cơ khí trọng điểm, Danh mục dự án đầu tư sản xuất sản phẩm
cơ khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.
76. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 13/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009
77. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 về
việc phê duyệt Chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm
2012 và tầm nhìn đến năm 2030.
78. Thủ tướng Chính phủ (2014), Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII.
79. Michael P.Todaro (1998), Kinh tế học cho thế giới thứ ba, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
80. Nguyễn Chí Trang (2009), Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định dự
án đầu tư trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, Luận án
tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
81. Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt 2005, NXB Đà Nẵng và Trung
tâm từ điển học, Hà Nội.
82. Shahid Yusuf (2002), “Sự thần kỳ Đông Á bên thềm thiên niên kỷ”, Suy ngẫm
lại sự thần kỳ Đông Á, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.1-69
83. Website: tinnhanhchungkhoan.vn/quoc-te/kinh-te-2015-my-mot-ben-va-phan-
176
con-lai-mot-ben-109545.html.
84. Website: tinnhanhchungkhoan.vn/quoc-te/kinh-te-2015-my-mot-ben-va-phan-
con-lai-mot-ben-109545.html.
85. Website:
hcmuaf.edu.vn/data//file/NVTU/Thuy%20San%20Dai%20Cuong/Tai%20lieu
%20doc%20them/2b_%20Cac%20Chuong%20trinh%20PTTS%20cua%20Bo
%20Thuy%20San%20%28cu%29.pdf
II. tμi liÖu tiÕng n−íc ngoμi
86. Association of Development Financing Institutions in Asia and the Pacific
(2001), Principles &Practices of Development Banking Volume 1.
87. Association of Development Financing Institutions in Asia and the Pacific
(2001), Principles &Practices of Development Banking Volume 2.
88. Nicholas Bruk (2001), “Development Banking Concept and Theory”,
Principles
&Practices of Development Banking Volume 1, pp.9-39.
89. William Diamond (2001), “Notes on Purposes and Strategies of Development
Banks”, Principles &Practices of Development Banking Volume 1, pp.41-60
90. Japan Economic Research Institute, Development Bank of Japan (1999),
Development banking in the new millenium.
91. Kazuyuki Mori (2001), “Development Financing in Japan: 50 – year
experience of the Development Bank of Japan”, Development Financing in
Asia& the Pacific - Its evolution & Impact, Association of Development
Financing Institutions in Asia and the Pacific Volume 2, pp.54-64.
92. Chen Yuan (2001), “Development Financing in China”, Development
Financing in Asia& the Pacific - Its evolution & Impact, Association of
Development Financing Institutions in Asia and the Pacific, Volume 2, pp.2-
177
29./.
PHỤ LỤC 01:
ĐỐI TƯỢNG CHO VAY VỐN TD ĐTPT QUA CÁC THỜI KỲ
(2000 – 2014)
1. PHỤ LỤC 1A: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong
giai đoạn 2000 – 2004 (quy định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP)
Đối tượng cho vay là các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp
(bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh nghiệp mới, cho vay đổi mới thiết bị công
nghệ mở rộng sản xuất) của các thành phần kinh tế, bao gồm:
1. Những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn theo quy định hiện hành của Chính
phủ về hướng dẫn thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) thuộc các
ngành sau đây :
a) Sản xuất điện; khai thác khoáng sản (trừ dầu khí, nước khoáng, vàng, đá quý);
hoá chất cơ bản; phân bón; thuốc trừ sâu vi sinh;
b) Chế tạo máy công cụ, máy động lực phục vụ nông nghiệp;
c) Xây dựng cơ sở chế biến : nông sản, lâm sản, thuỷ sản, xây dựng cơ sở làm muối;
d) Sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao động;
đ) Trồng rừng nguyên liệu tập trung; trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả;
e) Cơ sở hạ tầng về giao thông, cấp nước, nhà ở có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
2. Các dự án nuôi trồng thuỷ hải sản, chăn nuôi bò sữa.
3. Các dự án thực hiện chủ trương của Chính phủ về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn
hoá, thể dục thể thao.
4. Các dự án có sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho vay lại.
5. Một số chương trình, dự án đầu tư khác theo Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ.
178
2. PHỤ LỤC 1B: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong
giai đoạn 2004 – 2006 (quy định tại Nghị định số 106/2004/NĐ-CP)
STT
Các đối tượng vay vốn đầu tư
Địa bàn thực hiện
dự án
I- Các dự án cho vay đầu tư theo quy hoạch
được cấp có thẩm quyền phê duyệt:
01 Các dự án trồng rừng nguyên liệu giấy, bột giấy,
Địa bàn có điều kiện kinh
ván nhân tạo tập trung gắn liền với các doanh
tế-xã hội khó khăn theo
nghiệp chế biến.
danh mục B, C quy định của
Chính phủ về hướng dẫn thi
hành Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước (sửa đổi),
sau đây gọi tắt là địa bàn B
và C.
02 Các dự án sản xuất giống gốc, giống mới sử
Không phân biệt địa bàn
dụng công nghệ cao.
03 Các dự án cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt.
Không phân biệt địa bàn
04 Các dự án đầu tư sản xuất và chế biến muối công
Không phân biệt địa bàn
nghiệp.
05 Các dự án đầu tư sản xuất kháng sinh.
Không phân biệt địa bàn
06 Các dự án đầu tư trường dạy nghề;
Khu vực nông thôn
07 Các dự án đầu tư nhà máy dệt, in nhuộm hoàn
Không phân biệt địa bàn
tất.
08
- Các dự án sản xuất phôi thép từ quặng, thép chuyên
Không phân biệt địa bàn
dùng chất lượng cao.
- Các dự án khai thác và sản xuất nhôm.
09
- Các dự án sản xuất ôtô chở khách loại 25 chỗ
Không phân biệt địa bàn
ngồi trở lên với tỷ lệ nội địa hoá tối thiểu 40%.
- Các dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt tại các cơ
sở sản xuất trong nước.
- Các dự án sản xuất và lắp ráp đầu máy xe lửa.
- Các dự án đầu tư nhà máy đóng tàu biển.
179
10 Các dự án sản xuất động cơ diesel loại từ 300CV
Không phân biệt địa bàn
trở lên.
11
- Các dự án sản xuất sản phẩm cơ khí nặng, mới.
Không phân biệt địa bàn
- Các dự án đúc với quy mô lớn.
12 Các dự án xây dựng các nhà máy thuỷ điện lớn:
Địa bàn B và C.
Phục vụ cho di dân và chế tạo thiết bị trong
nước.
13 Các dự án sản xuất phân đạm, DAP.
Không phân biệt địa bàn
14 Vốn đối ứng các dự án sử dụng vốn ODA cho
Không phân biệt địa bàn
vay lại.
II. Chương trình, mục tiêu đặc biệt của Chính
phủ thực hiện theo phương thức ủy thác:
Theo ủy quyền của Chính
- Kiên cố hoá kênh mương.
phủ.
- Cho vay phần tôn nền diện tích xây dựng nhà ở
cho các hộ dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long.
- Các chương trình khác (kể cả cho vay lại vốn
ODA).
180
3. PHỤ LỤC 1C: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong
giai đoạn 2006 – 2008 (quy định tại Nghị định số 151/2006/NĐ-CP)
STT
NGÀNH NGHỀ, LĨNH VỰC
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (Không phân biệt địa bàn đầu tư)
I
Dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ, đường sắt và cầu đường sắt
1
Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ công nghiệp và sinh
2
hoạt
3
Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại các khu đô thị,
khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và
các cụm công nghiệp làng nghề
4
Dự án xây dựng quỹ nhà ở tập trung cho công nhân lao động trong khu công
nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất; ký túc xá cho sinh viên
5
Dự án đầu tư trong lĩnh vực y tế: mở rộng, nâng cấp, đầu tư thiết bị, xây dựng
mới bệnh viện
6
Dự án đầu tư mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy
nghề
7
Dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật tại làng nghề tiểu thủ công nghiệp, cụm công
nghiệp làng nghề ở nông thôn
II Nông nghiệp, nông thôn (Không phân biệt địa bàn đầu tư)
1
Dự án xây dựng mới, mở rộng cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung; cơ sở
giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung
Dự án phát triển giống thuỷ, hải sản; đầu tư hạ tầng nuôi trồng thuỷ, hải sản
2
Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm nghiệp
3
III Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư)
1
Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản:
- Phôi thép, gang có công suất tối thiểu 200 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất Alumin có công suất tối thiểu 300 nghìn tấn/năm; sản xuất nhôm
kim loại có công suất tối thiểu 100 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20 nghìn tấn/năm.
Dự án sản xuất động cơ Diezel từ 300CV trở lên
2
Dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa
3
181
4
Dự án đầu tư bào chế, sản xuất thuốc kháng sinh, thuốc cai nghiện, vắc xin
thương phẩm và thuốc chữa bệnh HIV/AIDS
5
Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ công suất nhỏ hơn hoặc bằng 100MW;
xây dựng nhà máy điện từ gió
6
Dự án đầu tư sản xuất DAP và phân đạm
IV Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc
biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập
trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương
trình 120, các xã vùng bãi ngang
Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu tư ra nước
V
ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
182
4. PHỤ LỤC 1D: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong
giai đoạn 2008 – 2011 (quy định tại Nghị định số 106/2008/NĐ-CP)
STT
NGÀNH NGHỀ, LĨNH VỰC
I
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (Không phân biệt địa bàn đầu tư)
1
Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt.
2
Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại các khu đô thị,
khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và
các cụm công nghiệp làng nghề.
3
Dự án xây dựng quỹ nhà ở tập trung cho công nhân lao động làm việc trong
khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất; ký túc xá cho sinh viên.
4
Dự án đầu tư hạ tầng, mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới và thiết bị trong lĩnh
vực xã hội hóa: giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi
trường thuộc Danh mục hưởng chính sách khuyến khích phát triển theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ.
II Nông nghiệp, nông thôn (Không phân biệt địa bàn đầu tư)
1
Dự án xây dựng mới và mở rộng cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập
trung.
Dự án phát triển giống thuỷ, hải sản.
2
3
Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm nghiệp.
III Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư)
1
Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản:
- Sản xuất Alumin có công suất tối thiểu 300 nghìn tấn/năm; sản xuất nhôm
kim loại có công suất tối thiểu 100 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20 nghìn tấn/năm.
2
Dự án sản xuất động cơ Diezel từ 300CV trở lên.
3
Dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt và lắp ráp đầu máy xe lửa.
4
Dự án đầu tư sản xuất thuốc kháng sinh từ công đoạn nguyên liệu ban đầu đến
thành phẩm, thuốc cai nghiện, vắc xin thương phẩm và thuốc chữa bệnh
HIV/AIDS; sản xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn GMP.
5
Dự án đầu tư xây dựng nhà máy điện từ gió, Dự án đầu tư xây dựng nhà máy
183
phát điện sử dụng các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo.
6
Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ, với công suất nhỏ hơn hoặc bằng 50
MW thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
7
Dự án đầu tư sản xuất DAP và phân đạm.
IV Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc
biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập
trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương
trình 120, các xã vùng bãi ngang (không bao gồm các dự án thủy điện (trừ
các dự án nêu tại điểm 6 Mục III của Danh mục này), dự án nhiệt điện, sản
xuất xi măng, sắt thép; dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ, đường sắt
và cầu đường sắt).
V Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu tư ra nước
ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
184
5. PHỤ LỤC 1E: Danh mục các dự án, chương trình được vay vốn TD ĐTPT trong
giai đoạn 2011 – nay (quy định tại Nghị định số 75/2011/NĐ-CP)
STT
NGÀNH NGHỀ, LĨNH VỰC
GIỚI HẠN
QUY MÔ
I
Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội (Không phân biệt địa bàn đầu
tư)
1
Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ sán xuất
Nhóm A, B
và sinh hoạt.
2
Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại các
Nhóm A, B
khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp làng nghề.
3
Dự án xây dựng nhà ở cho sinh viên thuê, dự án nhà ở cho công
Nhóm A, B
nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê, dự án nhà ở cho
và C
người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ.
Nhóm A, B
4
Dự án đầu tư hạ tầng, mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới và thiết
bị trong lĩnh vực xã hội hóa: giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế, văn
hóa, thể thao, môi trường thuộc Danh mục hưởng chính sách
khuyến khích phát triển theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ.
II
Nông nghiệp, nông thôn (Không phân biệt địa bàn đầu tư)
1
Dự án nuôi, trồng thủy, hải sản gắn với chế biến công nghiệp.
Nhóm A, B
2
Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm
Nhóm A, B
nghiệp.
3
Dự án chăn nuôi gia súc, gia cầm gắn với chế biến công nghiệp.
Nhóm A, B
III Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư)
1
Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản:
Nhóm A, B
- Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn
tấn/năm;
- Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn tấn/năm;
- Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20 nghìn
tấn/năm.
185
2
Dự án đầu tư sản xuất thuốc kháng sinh, thuốc cai nghiện, vắc xin
Nhóm A, B
thương phẩm và thuốc chữa bệnh HIV/AIDS; sản xuất thuốc thú
y đạt tiêu chuẩn GMP.
3
Dự án đầu tư xây dựng nhà máy phát điện sử dụng nguồn năng
Nhóm A, B
lượng: gió, mặt trời, địa nhiệt, sinh học và các tài nguyên năng
lượng khác có khả năng tái tạo.
4
Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ, với công suất nhỏ hơn hoặc
Nhóm A, B
bằng 50 MW thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
và C
khó khăn.
5
Dự án đầu tư sản xuất sán phẩm cơ khí trọng điểm theo Quyết
Nhóm A, B
định của Thủ tướng Chính phủ.
và C
6
Dự án thuộc danh mục các ngành công nghiệp hỗ trợ theo Quyết
Nhóm A, B
định của Thủ tướng Chính phủ.
và C
Nhóm A, B
IV Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
và C
khăn, đặc biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc
Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc chương trình 135
và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các xã vùng bãi
ngang (không bao gồm dự án thủy điện, nhiệt điện, sản xuất
xi măng, sắt thép; dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ,
đường sắt và cầu đường sắt).
Nhóm A, B
V
Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu
tư ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
các dự án cho vay theo chương trình mục tiêu sử dụng vốn
nước ngoài.
186
Phụ lục số 02
Một số dự án trọng điểm ngành điện vay vốn TD ĐTPT
(số vốn vay từ 500 tỷ đồng trở lên)
Đơn vị tính: tỷ đồng
Tổng Số vốn vay Dự án
mức TDĐT của
37.500
Dự án thủy điện Lai Châu
4.602
36.933 4.000 và 400 triệu USD
Dự án thủy điện Sơn La
Dự án thủy điện Huội Quảng, Lai Châu
9.789
964
Dự án thủy điện Tuyên Quang
7.522
2.890
Dự án thủy điện Bản Vẽ, Nghệ An
6.763
1.270
Dự án thủy điện Đại Ninh, Bình Thuận
6.658
654
Dự án thủy điện Bản Chát, Lai Châu
6.489
1.685
Dự án thủy điện Đồng Nai 3, Lâm Đồng
5.675
895
Dự án thủy điện An Khê – KaNăk, Bình Định
5.616
992
Dự án thủy điện Sê San 4, Gia Lai
5.545
558
Dự án thủy điện sông Tranh 2, Quảng Nam
5.149
967
Dự án thủy điện Hủa Na, Nghệ An
4.865
2.240
Dự án thủy điện Sê rê pốc 3
4.855
536
Dự án thủy điện sông Ba Hạ, Phú Yên
4.274
743
Dự án nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 4, Bà Rịa-Vũng Tàu
4.261
1.694
Dự án thủy điện Xekaman 3, Lào
4.260
1.147
Dự án thủy điện Đăkrtih, Đăklăk-ĐăkNông
3.465
2.187
Dự án thủy điện A Lưới, Thừa Thiên Huế
3.224
1.656
Dự án thủy điện PleiKrông, Kon Tum
2.967
872
Dự án thủy điện Khe Bố, Nghệ An
2.453
1.640
Dự án thủy điện Nho Quế 3, Hà Giang
2.195
1.491
Dự án thủy điện Đămbri, Lâm Đồng
1.798
1.250
1.569
Dự án thủy điện KrongH’năng, Phú Yên – Đăklăk
792
Dự án nhà máy nhiệt điện Ô Môn 1, Cần Thơ
11.538
827
Nguồn: Đặc san Tài trợ dự án, số 01, 7/2011, trang 11
187
đầu tư Nhà nước
Phụ lục số 03
Một số dự án trọng điểm ngành hóa chất vay vốn TD ĐTPT
Đơn vị: tỷ đồng
Dự án, địa điểm đặt dự án, chủ đầu tư,
Tổng mức
Số vốn vay
vốn đầu tư
quy mô công suất
TDĐT của
của dự án
Nhà nước
6.356
4.125
Dự án cải tạo, mở rộng nhà máy phân đạm Hà Bắc
17.554
3.510
Dự án nhà máy đạm Cà Mau
(xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau; chủ đầu tư: Công ty
TNHH 1 thành viên phân đạm và hóa chất; công suất 800.000
10.806
3.440
Dự án nhà máy sản xuất phân đạm từ than cám Ninh Bình
(KCN Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình; chủ đầu
tư Tập đoàn hóa chất VN; công suất 560.000 tấn/năm)
2.764
1.920
Dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP Hải Phòng
(Khu kinh tế Đình Vũ, Hải Phòng; chủ đầu tư: Tập đoàn hóa
chất VN; công suất 330.000 tấn/năm)
5.171
1.810
Dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 Lào Cai
(KCN Tằng lỏong, Bảo Thắng, Lào Cai; chủ đầu tư Công ty CP
DAP số 2 – Tập đoàn hóa chất VN; công suất 330.000 tấn/năm
Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của NHPT
188
Phụ lục số 04
Một số dự án trọng điểm ngành luyện kim, khai khoáng vay vốn TD ĐTPT
Đơn vị: tỷ đồng
Dự án, địa điểm đặt dự án, quy mô công suất
Tổng mức
Số vốn vay
vốn đầu tư
TDĐT của
của dự án
Nhà nước
Dự án Mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Nhà máy Gang thép Thái
3.844
1.605
Nguyên (công suất 500.000 tấn phôi thép/năm, 23.000 tấn gang
thỏi/năm)
Dự án khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo, Thái Nguyên
8.339
2.377
(khai thác 3.500.000 tấn quặng nguyên vonfram – đa kim/năm
và các sản phẩm chế biến từ quặng 8.800 tấn vonfram trioxit,
201.000 tấn flourit, 26.000 tấn đồng, 109 kg vàng, 2.800 tấn
bismut/năm)
1.879
447
Dự án nhà máy cán thép nguội Possco, Bà Rịa – Vũng Tàu
(xây dựng nhà máy cán thép công suất 1,2 triệu tấn thép
nguội/năm, trong đó khoảng 700.000 tấn thép cán nguội sử
dụng trong sản xuất ô tô, xe máy, còn lại là thép lá cán nguội
dùng trong các ngành công nghiệp...
Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của NHPT
189