ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG

CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ

TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

(KHẢO SÁT QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG

CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ

TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

(KHẢO SÁT QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ THANH

THÁI NGUYÊN - 2017

i

LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Vũ Thanh,

người đã tận tình hướng dẫn, khích lệ, động viên trong suốt quá trình nghiên

cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong Trường Đại học khoa

học- Đại học Thái Nguyên đã tận tình dìu dắt, truyền dạy kiến thức, tạo điều

kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu đề tài

Để có kết quả này tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Sở giáo dục

tỉnh Quảng Ninh, Trường THPT Bãi Cháy, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, các

bạn lớp Văn học Việt Nam K9D đã luôn ủng hộ, giúp đỡ tôi trong suốt thời

gian qua.

Vì những điều kiện chủ quan và khách quan luận văn chắc chắn sẽ còn

nhiều thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo cùng những ý kiến

đóng góp của quý thầy cô và các bạn.

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 5 năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lan Phương

ii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i

MỤC LỤC .................................................................................................................. ii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 4

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................... 12

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 13

5. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 13

6. Cấu trúc của luận văn........................................................................................ 14

7. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 14

Chương 1. THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ VÀ CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ

TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ............................. 15

1.1. Thể loại truyện truyền kì và chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì

trung đại ................................................................................................................ 15

1.1.1. Sơ lược về truyện truyền kì .................................................................... 15

1.1.2. Chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam ............ 17

1.2. Sơ lược về Truyền kì mạn lục và Lan trì kiến văn lục trong tiến trình phát

triển của truyền kì trung đại Việt Nam ................................................................. 23

1.2.1. Truyền kì mạn lục ................................................................................... 23

1.2.2. Lan Trì kiến văn lục ............................................................................... 30

Tiểu kết Chương 1 ..................................................................................................... 37

Chương 2. NỘI DUNG PHẢN ÁNH CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ

TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ (QUA TRUYỀN KÌ MẠN

LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC) ..................................................... 38

2.1. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ ........................................................... 38

2.1.1. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ trong Truyền kì mạn lục ............ 38

2.1.2. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ trong Lan Trì kiến văn lục ........ 41

2.2. Sự vận động của chủ đề tình yêu nam nữ qua hai tập truyện ........................ 45

iii

2.3. Ý nghĩa chủ đề tình yêu nam nữ đối với sự phát triển thể loại ...................... 55

Tiểu kết Chương 2 ..................................................................................................... 58

Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ

TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ (QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC

VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)......................................................... 59

3.1. Kết cấu nghệ thuật của truyện có chủ đề tình yêu nam nữ ............................ 59

3.1.1. Kiểu kết cấu truyện mang chủ đề tình yêu nam nữ ................................ 59

3.1.2. Sự biến chuyển của yếu tố kỳ ảo và yếu tố thực .................................... 60

3.1.3. Sự giảm tải dần kiểu kết cấu biền văn xen vận văn và Lời bình cuối truyện 67

3.2. Không gian, thời gian nghệ thuật ................................................................... 69

3.2.1. Không gian nghệ thuật ........................................................................... 69

3.2.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................... 73

3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ....................................................................... 79

3.3.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật nam và nữ ................................................. 79

3.3.2. Miêu tả đời sống nội tâm ........................................................................ 81

3.3.3. Tính cách nhân vật ................................................................................. 85

3.4. Ngôn ngữ nghệ thuật ...................................................................................... 89

3.4.1. Ngôn ngữ trần thuật ................................................................................ 89

3.4.2. Ngôn ngữ miêu tả ................................................................................... 91

Tiểu kết Chương 3 ..................................................................................................... 93

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 95

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 99

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Lý do khoa học

Văn học là trong những loại hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thân

với đời sống tinh thần của con người ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào

thì nó vẫn là sự phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của nghệ sĩ. Tác

phẩm nghệ thuật chân chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa

của nhà văn trước cuộc đời, trước những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con

người. Con người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, tâm tư khát vọng, thành đạt hay khổ

đau luôn luôn là đối tượng trung tâm của văn học, là mối quan tâm hàng đầu của

nghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương đối với con người là nguồn động lực căn bản

nhất thúc đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính. Nhà văn Nga Tolstoi đã từng

viết: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Còn Goethe thì nói:

“Những điều đầu tiên mà thiên nhiên cần là tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống”.

nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet thì diễn tả tình yêu ấy bằng hình ảnh thật cụ thể: “Nhà

văn là người cho máu”. Đó là một tình yêu bao gồm cả sự hi sinh to lớn. Tác phẩm

chân chính đúng là sản phẩm của trí tuệ, trái tim, mồ hôi và cả nước mắt của người

nghệ sĩ, là kết quả của quá trình nếm trải, nung nấu, cảm xúc dào dạt - cái mà người

ta gọi là cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật. Để thấy được vị trí, vai trò rất quan

trọng của văn học đối với quá trình hình thành và hoàn thiện phẩm chất đạo đức và

nhân cách của con người có tác dụng đặc biệt trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình

cảm, nhân cách đạo đức cho các thế hệ công dân. Bên cạnh đó đặc trưng của văn

học là: “Văn dĩ tải đạo”, “Văn dĩ minh đạo” nó đòi hỏi văn nghệ sĩ không chỉ

chuyên chở trong tác phẩm của mình những chuẩn mực đạo đức nhân cách của đạo

làm người mà phải sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật có sức rung động,

cảm hóa mạnh mẽ, cổ vũ con người vươn tới sự hoàn thiện nhân cách, đạo đức, lối

sống theo quy luật của tình cảm, của cái đẹp. Vì thế nghiên cứu văn học quan trọng

nhất vẫn là tìm hiểu nội dung và hình thức của tác phẩm, để thấy được các giá trị

quan trọng được văn học hướng đến, đặc biệt chúng sẽ được thể hiện rõ nét và sâu

sắc nhất khi nói về cuộc sống và tình cảm của con người. Chúng ta có thể thấy điều

2

này trong giai đoạn Phục hưng của văn học thế giới. Ở Việt Nam giai đoạn văn học

trung đại cũng không nằm ngoài qui luật đó, do vậy có thể nói văn học trung đại

Việt Nam là giai đoạn nở rộ nhiều hình tượng, chủ đề, nổi bật trong đó là chủ đề

tình yêu nam nữ.

Xét trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học trung đại Việt Nam có

một vị trí đặc biệt quan trọng. Văn học trung đại Việt Nam phát triển liền mạch từ thế

kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã góp vào nền văn học nước nhà đầy đủ các thể loại với các

tác phẩm, tác giả nổi tiếng. Trong đó các thể loại văn xuôi (truyện, kí, tiểu thuyết

chương hồi…) có nhiều đóng góp to lớn, đặc biệt là thể loại truyện truyền kì - một

trong những thể loại góp phần tạo dựng vị trí của văn xuôi trung đại Việt Nam. Dẫu

rằng tên gọi thể loại này chỉ xuất hiện trong văn học viết trung đại, tồn tại và phát

triển đến hết thời kì văn học trung đại, nhưng sự đóng góp của truyền kì cho sự phát

triển chung của loại hình tự sự trong văn học trung đại Việt Nam nói riêng và văn học

Việt Nam nói chung là không thể phủ nhận. Các tác phẩm truyền kì nổi tiếng của các

tác giả tên tuổi như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông - (?), Truyền kì mạn lục

(Nguyễn Dữ), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh) là

những cứ liệu không thể bỏ qua khi xem xét sự phát triển về nội dung, nghệ thuật của

văn học Việt Nam ở các giai đoạn khác nhau. Nói cách khác, nghiên cứu về truyền kì,

qua những tác phẩm tiêu biểu, ta phần nào thấy được diện mạo nền văn học Việt Nam

ở cả hai mặt nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.

Tác phẩm đặt nền móng xác định vai trò, vị trí của thể loại này chính là

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ - đỉnh cao của sự phát triển thể loại và cuối cùng

là Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh. Đó là những tập truyện có vai trò quan trọng

trong quá trình phát triển của thể loại truyện truyền kì trung đại Việt Nam. Đọc

truyện truyền kì, từ Truyền kì mạn lục đến Lan Trì kiến văn lục ta đều có thể bắt gặp

những nhân cách cao thượng đáng quý, những con người vì dân trừ hại, đặc biệt là

những người phụ nữ tài sắc, tiết nghĩa, thủy chung. Trong đó vị trí, vai trò của chủ

đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì bên cạnh các chủ đề khác như: chủ đề yêu

nước, phê phán giai cấp thống trị, ca ngợi bản lĩnh, phẩm chất kẻ sĩ, ca ngợi người

phụ nữ, đó là một cách tân mới mẻ của truyện truyền kì. Chủ đề tình yêu nam nữ là

3

chủ đề mang tính đặc trưng của truyện truyền kì thể hiện bước tiến phát triển của

văn học dân tộc.

1.2. Lý do thực tiễn

Các tác phẩm thuộc thể loại truyện truyền kì được đưa vào giảng dạy trong

chương trình phổ thông chiếm số lượng không nhỏ. Trong chương trình trung học

cơ sở ở lớp 6 với tác phẩm Con hổ có nghĩa (Lan Trì kiến văn lục - Vũ Trinh),

Chuyện người con gái Nam Xương (Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ) và trung học

phổ thông ở lớp 10 với tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Truyền kì

mạn lục - Nguyễn Dữ). Là một giáo viên môn Ngữ văn, tôi nhận thấy rằng việc

nghiên cứu thể loại truyền kì và vị trí của thể loại này trong tiến trình phát triển của

văn học Việt Nam sẽ giúp ích cho công tác giảng dạy văn học ở trường phổ thông.

Thực tế nghiên cứu sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn vừa toàn diện, vừa cụ thể chi tiết

về thể loại này, lấy đó làm cơ sở cho việc tìm hiểu, giảng dạy các tác phẩm truyền

kì trong chương trình ngữ văn ở các cấp học. Qua đó, có thể giúp các em học sinh

thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương trung đại (vốn không phải là một điều dễ

dàng) qua một thể loại cụ thể và trân trọng hơn văn học dân tộc mình. Bên cạnh đó

việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay thực chất là đổi mới cách dạy

và học, không chỉ tập trung vào nội dung một tác phẩm mà dạy theo thể loại, thi

pháp nhằm hình thành và rèn luyện kĩ năng đọc hiểu các loại văn bản. Các tác phẩm

truyền kì trung đại ngoài việc thể hiện nội dung, nghệ thuật còn là những vấn đề mà

các tác giả gửi gắm vào tác phẩm thông qua chủ đề.

Nhằm phục vụ, nâng cao năng lực nghiên cứu và giảng dạy. Nhận thức được

vai trò quan trọng của thể loại truyền kì trong sự phát triển của văn học Việt Nam,

niềm yêu thích đối với thể loại này và từ yêu cầu thực tế công tác, tôi chọn đề tài

“Chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam (khảo sát

qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao

học của mình với mong muốn có thể góp chút hiểu biết của mình vào việc tìm hiểu

văn học nước nhà và khơi gợi sự hứng thú của mọi người trong việc tìm hiểu về thể

loại truyền kì. Từ đó sẽ có thêm những công trình nghiên cứu khoa học có giá trị về

thể loại này.

4

2. Lịch sử vấn đề

Truyện truyền kì có nguồn gốc ngoại lai nhưng trên hành trình phát triển

gần mười thế kỷ, thể loại này đã chứng tỏ sự gắn kết sâu sắc với hiện thực lịch

sử dân tộc và số phận con người Việt. Từ những ngày đầu hiện diện cho tới các

chặng đường sau này, diện mạo của thể loại không ngừng thay đổi, từ tính chất,

phạm vi hiện thực được phản ánh cho đến phương thức tổ chức tác phẩm, cách

thức sử dụng cái kỳ ảo để truyền dẫn những thông điệp nhân sinh. Nó gắn liền

với những bước chuyển của tư duy nghệ thuật, những khác biệt trong bức tranh

hiện thực cũng như nhu cầu của con người ở các thời đại khác nhau. Với những

thành tựu kết tinh của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam, truyện truyền kỳ đã

được chú ý từ sớm và thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Trong truyện

truyền kì các tác giả đã thể hiện nhiều chủ đề khác nhau, trong đó chủ đề tình

yêu nam nữ là một cảm hứng chủ đạo trong rất nhiều truyện truyền kì. Đây là

chủ đề thu hút nhiều nhà nghiên cứu mà cụ thể là trong Truyền kì mạn lục của

Nguyễn Dữ và Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh.

2.1. Nghiên cứu chủ đề tình yêu trong tiến trình vận động của truyện truyền kì

trung đại Việt Nam

Truyện truyền kì ngay từ khi ra đời đã gây sự chú ý của độc giả và giới

nghiên cứu, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các phương diện khác nhau trong

các tác phẩm cụ thể của thể loại này. Con người trong tác phẩm cũng là một đề tài

quan trọng hấp dẫn giới nghiên cứu với nhiều chủ đề khác nhau. Trong đó chủ đề cơ

bản được thể hiện trong những tác phẩm truyền kì chính là tình yêu. Tuy nhiên tình

yêu quê hương, đất nước được giới khoa học lâu nay để tâm nhiều hơn, còn tình yêu

nam nữ chỉ được nhắc đến trong các nghiên cứu chung, tổng hợp. Qua tìm hiểu,

chúng tôi nhận thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về những tác phẩm cụ thể

thuộc thể loại truyền kì, từ Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân

phả đến Lan Trì kiến văn lục với những đóng góp quan trọng về nội dung tư tưởng

cũng như hình thức nghệ thuật của thể loại.

5

Từ đầu thế kỉ XX đến nay, các sáng tác truyền kì nói riêng, thể loại truyền kì

nói chung nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học

hơn. Khi điều kiện nghiên cứu hiện thời đã thuận lợi hơn, khi nhu cầu tìm về những

tác phẩm nổi tiếng của thời trung đại để xem xét giá trị của chúng trong nền văn học

ngày càng cao hơn thì những công trình khoa học về các tác phẩm truyền kì và thể

loại truyền kì xuất hiện nhiều hơn như:

- Nguyễn Cẩm Thuý (1983), Vũ Trinh và Kiến văn lục, Nghiên cứu văn học, số 1.

- Nguyễn Phạm Hùng (1987), Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền

kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Tạp chí văn học số 7)

- Trần Thị Băng Thanh (1989), Vũ Trinh và Lan trì kiến văn lục trong dòng

truyện ngắn truyền kì Việt Nam, Tạp chí văn học số 4.

- Nguyễn Phạm Hùng - Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu của truyện ký văn

học viết bằng chữ Hán (Văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, 2001)

- Bùi Duy Tân - Bàn thêm về tác giả, tác phẩm Truyền kì mạn lục (Tạp chí

văn học số 10/ 2002)

- Nguyễn Đăng Na (2006), Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học

(Con đường giải mã văn học trung đại, NXB Giáo dục, 2006)

- Phạm Tuấn Vũ - Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á

(Trang điện tử của Viện Văn học, tháng 10, 2006)

- Đoàn Lê Giang - Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì Việt Nam

qua Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Cao

đẳng sư phạm Bà Rịa Vũng Tàu, 2007)

Ngoài ra, còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu về các tác

phẩm truyền kì khác như:

- Lê Văn Hùng - Đoàn Thị Điểm và Truyền kì tân phả (Tạp chí Văn hóa

Nghệ An tháng 9 - 2010)

- Đoàn Lê Giang - Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục

của Nguyễn Dữ (Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ,

tháng 01, 2010)

6

- Lại Văn Hùng - Bàn góp về tiếp thu và đổi mới trong Truyền kì mạn lục

(Trang điện tử Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm TpHCM, tháng 12, 2011)

- Trần Thị Băng Thanh và Bùi Thị Thiên Thai - Mối liên hệ giữa Truyền kì

tân phả và lễ hội văn hóa dân gian (Trang điện tử của Viện văn học, tháng 8, 2011)

Những bài báo, công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu xem xét từng tác phẩm

truyền kì cụ thể trên những phương diện, góc nhìn khác nhau như: so sánh tác phẩm

với những tác phẩm khác cùng thể loại, sự đóng góp của tác phẩm đối với sự phát

triển của thể loại, ảnh hưởng của văn hóa, văn học dân gian đến tác phẩm truyền

kì…Với chúng tôi, những công trình, bài báo này tuy chưa cung cấp một cái nhìn

toàn diện về chủ đề tình yêu nam nữ của truyện truyền kì trong tiến trình phát triển

của văn học Việt Nam nhưng đã cho chúng tôi những gợi ý quý báu cho nội dung

của luận văn này. Trong thế kỉ XX, XXI, ở các công trình liên quan đến văn học

trung đại, thể loại truyền kì nói chung đã được chú ý hơn so với trước đó.

Xem xét thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam

nói chung, văn học trung đại nói riêng, những nhà phê bình, nghiên cứu đã thật sự

dành sự quan tâm xứng đáng cho thể loại này. Chúng ta có thể tìm thấy trong các

công trình Lịch sử văn học Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, 1980), Thi pháp văn

học trung đại Việt Nam (Trần Đình Sử, NXB ĐHQGHN, 2005), Văn học trung đại

Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn, NXB GD, 2008) và những trang

viết về thể loại truyền kì. Những phần về Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục

trong chương XIV (Văn học viết từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII) và chương XVI

(Truyền kì mạn lục và những thành tựu của văn xuôi chữ Hán) trong Lịch sử văn

học Việt Nam, về truyện truyền kì (Chương IV: Thể loại truyện chữ Hán, Thi pháp

văn học trung đại Việt Nam), về thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam (Phần

một: Một số vấn đề lí luận của văn học trung đại nhìn từ góc độ văn hóa, Văn học

trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa) tuy không nhiều nhưng cũng giúp chúng

tôi tham khảo được nhiều nội dung quan trọng liên quan đến đề tài luận văn. Một

công trình quy mô, có hệ thống về truyền kì đó chính là Nguyễn Huệ Chi với tuyển

tập Truyện truyền kì Việt Nam quyển 2 và quyển 3 (Nxb Giáo dục, 1999). Đây là

một công trình không chỉ cung cấp cho người đọc những truyện truyền kì cụ thể mà

7

còn qua đó thấy được đặc điểm của thể loại này. Công trình của tác giả Nguyễn Huệ

Chi chính là một trong những nguồn tư liệu quan trọng cho luận văn của chúng tôi.

Chính từ công trình này, chúng tôi có thể hình dung ra sự phát triển của thể loại

truyền kì qua các thời kì, giai đoạn, cũng như có cái nhìn rõ ràng, đầy đủ hơn về đặc

điểm của thể loại này. Cùng với Nguyễn Huệ Chi, tác giả Vũ Thanh cũng quan tâm

đến truyền kì với nhiều công trình nghiên cứu về thể loại này như: Dư ba của truyện

truyền kì, chí quái trong văn học hiện đại Việt Nam (in trong Những vấn đề lí luận

và lịch sử văn học - Kỉ yếu hội thảo của Viện văn học năm 2001), Thể loại truyện kì

ảo Việt Nam thời trung đại - quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm trong

công trình Văn học Việt Nam thế kỉ X- XIX - những vấn đề lí luận và lịch sử (Nxb

Giáo dục, 2007), Truyền kì mạn lục trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử -

Thi pháp - Chân dung (Nxb Đại học Quốc gia, 2005)… Tác giả Bùi Thanh Truyền

lại thể hiện sự quan tâm của mình đối với thể loại truyện kì ảo, truyền kì với những

công trình về thể loại này trong văn học hiện đại qua các bài viết: Sự hồi sinh của

yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam (luận văn Thạc sĩ trường Đại học

Sư phạm Huế), Truyện kì ảo trong đời sống văn học Việt Nam… Các tác giả

Nguyễn Đăng Na, Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang: Văn học trung đại Việt Nam,

tập 1 (Nxb Đại học sư phạm, 2006) cũng đã đề cập đến thể loại truyền kì như là một

thể loại tiêu biểu của văn học trung đại giai đoạn thế kỉ XV - XVI. Bên cạnh đó,

Nguyễn Đăng Na cũng là tác giả chủ biên tuyển tập Văn xuôi tự sự Việt Nam thời

trung đại, (Nxb Giáo dục, 1999). Những bài viết, công trình này đã mang đến cho

chúng tôi những ý tưởng quý giá để hoàn thiện nội dung luận văn về những biểu

hiện chủ đề tình yêu nam nữ của thể loại truyền kì, sự phát triển của chủ đề này

trong văn xuôi tự sự trung đại. Như vậy, tất cả các công trình trên, dù ít, dù nhiều

cũng đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu đáng quý để góp phần hoàn thành

luận văn. Tuy nhiên, điểm qua đôi nét chúng tôi nhận thấy mặc dù các tác phẩm

truyền kì nổi tiếng đều nhận được nhiều sự quan tâm của người nghiên cứu phê bình

văn học nhưng chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về chủ để tình yêu nam nữ

trong truyền kì qua Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục. Đây là một trong

những nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài cho luận văn cao học chuyên

ngành Văn học Việt Nam của mình.

8

2.2. Nghiên cứu chủ đề tình yêu trong Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục

2.2.1. Truyền kì mạn lục

Truyền kì mạn lục có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn xuôi

trung đại nói chung và thể loại truyền kì nói riêng. Ngay từ thời trung đại, Truyền kì

mạn lục đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau.

Nhiều tác giả Nho học đã thể hiện sự quan tâm đến thể loại truyền kì qua những sáng

tác truyền kì cụ thể. Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều đã dành nhiều

ưu ái cho Truyền kì mạn lục. Vũ Khâm Lân trong Bạch Vân Am cư sĩ phả kí coi

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một “thiên cổ kì bút”. Lê Quý Đôn trong Kiến

văn tiểu lục ca ngợi Truyền kì mạn lục là “lời lẽ thanh tao, tốt đẹp, người bấy giờ lấy

làm ngợi khen”. Phan Huy Chú khen rằng Truyền kì mạn lục là “áng văn hay của bậc

đại gia”. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú nhận xét về Truyền kì

tân phả: “Lời văn hoa lệ nhưng khí chất yếu ớt, không bằng văn của Nguyễn Dữ”.

Như vậy các tác giả trước thế kỉ XX quan tâm đến thể loại truyền kì qua các tác phẩm

truyền kì cụ thể và về một phương diện nào đó như văn phong, ngôn từ, chủ đề, đề

tài, hình tượng nhân vật. Trong đó những câu chuyện viết về tình yêu cũng là một chủ

đề được quan tâm nhiều nhất. Trong phần mở dầu cuốn Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán

Việt Nam tập 1 có viết: “Đáng chú ý là những cuộc tình ái vượt rào… Hầu như đây

là mảnh đất riêng cho tiểu thuyết truyền kì với những mối tình giữa người và yêu

tinh, người và ma quái, người và thần nữ…” [21, tr.35].

Bước sang thế kỉ XX Truyền kì mạn lục thu hút nhiều nhà nghiên cứu hiện

đại. Nhà nghiên cứu Bùi Kỷ trong Truyền kỳ mạn lục với Lời giới thiệu Truyền kỳ

mạn lục (bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện xuất bản năm 1940) đứng trên lập

trường nhà Nho để nhìn nhận nhân vật đã bàn về vấn đề tình yêu trong truyện. Ông

cho rằng: “Truyện 3 (Chuyện cây gạo), cũng như truyện 5 (Chuyện kỳ ngộ ở Trại

Tây), truyện 11 (Chuyện yêu quái ở Xương Giang) có ý bài xích những thói đắm

đuối trong vòng tình dục của bọn thiếu niên”. “Bọn thiếu niên” mà ông muốn nói

đến ở đây là nhân vật nam và nữ. Giáo sư Bùi Duy Tân trong bài nghiên cứu Truyền

kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán cũng cho rằng

những hành động táo bạo và phóng túng của kiểu người phụ nữ như Nhị Khanh

trong “Chuyện cây gạo”, Đào Hồng Nương, Liễu Nhu Nương trong “Chuyện kỳ ngộ

9

ở Trại Tây” là “Thật xa lạ với quan niệm lành mạnh về cuộc sống, về tình yêu nam

nữ trong truyện Nôm bình dân, trong văn nghệ dân gian. Đối với những truyện này,

Nguyễn Dữ đã có lời bình để phê phán những quan niệm đồi trụy và khẳng định lại

những giáo điều về đức hạnh, tiết nghĩa. Sự phê phán và khẳng định đó xuất phát từ

thái độ bảo thủ của Nho giáo, nhưng xét về mặt khách quan thì cũng phù hợp với

cuộc đấu tranh để giữ gìn phẩm giá con người” [26, tr. 519]. Như vậy ông vẫn

đứng trên lập trường truyền thống để thể hiện thái độ phê phán những người phụ nữ

dám chủ động đi tìm tình yêu và hạnh phúc ái ân, không sống theo chuẩn mực của

đạo đức Nho gia. Có những nhà nghiên cứu thì cho rằng việc thể hiện tình yêu gắn

với dục tính trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã thể hiện quan niệm mới về

con người của ông và đem đến cho tác phẩm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu

sắc. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Về con người cá nhân trong văn học Việt

Nam đã nhận định “Nếu nói con người trong thơ thiền Lý- Trần, thơ Nguyễn Trãi,

Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên cạnh lý tưởng cao thượng là lý tưởng thoát tục, diệt dục,

thuần khiết, trong sáng, thì với Truyền kỳ mạn lục đã gặp một thế giới những con

người sống trong bể dục, tình dục” [24, tr. 616]. Đánh giá của Trần Đình

Sử nghiêng về phía ngợi ca khi ông cho rằng: “Khuynh hướng của tác giả là

khuyến thiện, trừng ác, đề cao công đức, lên án vật dục, tình dục, theo tư tưởng

Tống Nho: diệt nhân dục, tồn thiên lý. Nhưng mặt khác, cái “dục” của cá nhân tự do

trong tình yêu nam nữ, tuy không được thừa nhận trong các lời bình, nhưng lại được

miêu tả như những cuộc tình kỳ ngộ lãng mạn đáng nhớ và như thế Truyền kỳ mạn

lục là một cái mốc mới trong quan niệm về tự do cá nhân khi thể hiện “tình dục”,

“vật dục” này”. Năm 1999 cũng tiếp nhận Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục

ở góc độ thi pháp học Trần Đình Sử có nhận xét rằng: “Cái gọi là truyền kì chủ yếu

là cái kì trong tình yêu nam nữ, trong thế giới thần linh ma quỷ. Các mô típ như

người lấy tiên, người lấy ma, người có phép biến hoá, nhiều truyện đóng khung

trong một giấc mơ, một cuộc kì ngộ, một cuộc trò chuyện” [24, tr. 351]. Nhà nghiên

cứu Nguyễn Phạm Hùng trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cho rằng chỉ có Truyền kỳ mạn lục mới viết nên

"những câu chuyện tình đã làm xôn xao cả cõi trần thế, cả chốn thuỷ cung, và cả nơi

thiên giới" [11, tr. 117]. PGS.TS Đinh Thị Khang trong bài So sánh chuyện tình

10

giữa Người và Hồn ma trong “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kỳ mạn lục” (Tạp

chí nghiên cứu văn học, tháng 4 năm 2007) không thể không nói rằng: “nhà văn

họ Nguyễn đã thể hiện trong sáng tác của mình một sự đồng cảm, ngợi ca tình yêu -

hạnh phúc trần thế, tự nhiên của con người, của tuổi trẻ vượt qua khỏi sự ràng

buộc của quan niệm, tập tục, đạo đức, lễ nghi phong kiến…, phản ánh một góc

nhìn mang tư tưởng nhân văn”[22, tr. 135]. PGS. TS Trần Nho Thìn cũng đã chỉ ra

hai mặt của việc thể hiện vấn đề dục tính trong tư tưởng Nguyễn Dữ: “Một mặt, tác

giả say sưa tả mối tính lãng mạn, sức mạnh mê hồn của sắc đẹp và tài thơ của Hàn

Than, nhưng mặt khác lại có ý phê phán gay gắt sự nguy hại của sắc đẹp phụ nữ đối

với nam giới”. “Phải chăng lời bình là cách tác giả che giấu ý đồ thực của mình

nhằm ca ngợi tình yêu nam nữ. Phải chẳng tác giả không lên án người phụ nữ trong

những cuộc tình này? Thật khó trả lời một chiều, đơn giản. Nhưng chỉ biết, nhân

chuyện kể về sự gian dâm của những người đàn ông mà tác giả có cố chuyển vào

truyện những diễn ngôn táo bạo về tình dục nam nữ” [36, tr. 399].

Bên cạnh những công trình của các nhà nghiên cứu, phê bình, còn có rất

nhiều các khóa luận tốt nghiệp, công trình luận văn, của sinh viên và học viên cao

học tìm hiểu về Truyền kỳ mạn lục như: tìm hiểu hình tượng nhân vật: hình tượng

nho sĩ, ma quái, người phụ nữ, hay tìm hiểu Truyền kì mạn lục trong mối quan hệ

với văn học dân gian…Như vậy Truyền kì mạn lục là tác phẩm được giới nghiên

cứu dày công đào sâu tìm hiểu một cách kĩ lưỡng trên nhiều phương diện.

2.2.2. Lan Trì kiến văn lục

Lan trì kiến văn lục của Vũ Trinh được đánh giá là một tác phẩm có vị trí

quan trọng trong tiến trình phát triển của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam - tác

phẩm tạo nên một bước chuyển biến lớn của thể loại cả về nội dung và nghệ thuật.

Đay là tập truyện tiêu biểu cho xu hướng cách tân của thời đại và cũng gây được sự

chú ý cho giới nghiên cứu.

Ở thế kỉ XIX, trong lời tựa ở đầu sách các tác giả như: Ngô Thì Hoàng, Tín

Như Thị, Trần danh Lưu có đề cập đến hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và nghệ

thuật của tác phẩm. Tín Như Thị nhận định: “Tôi đọc sách này có được thu hoạch

sâu sắc. Truyện Ca nữ họ Nguyễn, truyện Liên Hồ quận công thương giai nhân

chẳng gặp thời, cũng là ngụ lời than tài tử số phận lạ lùng. Truyện Người đàn bà

11

trinh tiết ở Thạch Thán, truyện Người con gái trinh liệt ở Cổ Trâu, biểu dương tiết

lớn của bậc quần thoa, cũng có thể gửi gắm nỗi đau bất hạnh của kẻ trung thần. Cá,

hổ có nghĩa hiệp; gà, chó ấy thân người. Trong căn phòng nhỏ, cầm quyển sách lặng

lẽ nghĩ suy, cảm thấy tâm thần khoan khoái như trong điện Phật, ngồi nghe bậc cao

tăng thuyết pháp, sách bổ ích cho đời đâu phải nhỏ?” [44, tr.19]. Trần Danh Lưu

viết: “Sách của thầy lại là những điều tai mắt ngày nay được nghe, được thấy.

Đường đời nguy hiểm, trộm cướp đầy đường, ma ác quỷ thiêng không phải là hư

ảo. Mày râu chững chạc, thê thiếp yêu chiều, nữ biến thành nam không phải là

lạ! Truyện Ca kỹ họ Nguyễn, truyện Liên Hồ quận công thì phấn hồng tơi tả, bụi

vàng vùi thân, đọc truyện khiến người ta thương xót thở than cho người bạc

mệnh. Truyện Người đàn bà trinh tiết ở Thạch Thán, truyện Người con gái trinh

liệt ở Cổ Trâu thì nêu gương tiết nghĩa bào vệ cương thường, có thể trở thành lời

dạy luân lý hàng ngày” [44, tr. 22].

Trong bài viết “Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục trong dòng truyện truyền kì

Việt Nam” đăng trên Tạp chí văn học số 4-1994 của nhà nghiên cứu Trần Thị Băng

Thanh có khẳng định về nội dung của Lan Trì kiến văn lục “Là đề cao lòng nhân

hậu vị tha, đề cao tình yêu thuỷ chung, niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi, tình mẫu

tử thiêng liêng” [29, tr. 34].

Cũng trong Từ điển văn học (bộ mới), tác giả Nguyễn Huệ Chi cho rằng chủ

đề nổi rõ nhất của Lan Trì kiến văn lục là trình bày hiện tượng phá vỡ “khuôn phép”

của những con người thời đại. Sự phá vỡ này có thể theo chiều hướng thoái hóa,

làm cho con người tàn bạo, mất hết nhân tính… nhưng sự phá vỡ cũng theo chiều

hướng tích cực, ở đó con người thường bị đặt trong những tình huống căng thẳng,

đầy bi kịch và chính là trong cuộc vật lộn cay đắng ấy, họ đã có dịp bộc lộ những

phẩm chất cao quý, những tình cảm rất người. Tác giả khẳng định: “Trên phương

diện này, ngòi bút Vũ Trinh tỏ ra rất trân trọng, yêu mến lạ thường. Đặc biệt trong

số những con người được tác giả dành trọn niềm yêu mến thì người phụ nữ chiếm

phần lớn nên cũng có thể nói, đề tài chiếm ưu thế trong tập truyện là nói về số

phận, vẻ đẹp và sức sống của người phụ nữ” [10, tr. 2039].

12

Bên cạnh đó còn có các nhà nghiên cứu hiện đại cũng quan tâm đến Lan Trì

kiến văn lục: Nguyễn Cẩm Thuý, Nguyễn Đăng Na, Vũ Thanh… và rất nhiều luận

văn, luận án tìm hiểu nghiên cứu.

PGS. TS Nguyễn Đăng Na trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập

1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997 đề cập đến Lan Trì kiến văn lục có xu hướng của

thế sự. PGS. TS Vũ Thanh trong “Những biến đổi trong nghuyên tắc tự sự của

truyện truyền kì Việt Nam” in trong Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử,

phần 2 do Trần Đình Sử chủ biên, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008, cũng đề

cập đến đề tài thế sự trong Lan Trì kiến văn lục.

Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu

về những tác phẩm cụ thể thuộc thể loại truyền kì, từ Truyền kì mạn lục đến Lan Trì

kiến văn lục nhưng hầu như chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể về chủ đề tình

yêu của thể loại này trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, với những đóng góp

quan trọng về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của thể loại. Số lượng

công trình khoa học hay những bài viết nghiên cứu, những luận văn, luận án tìm hiểu

về truyện truyền kì trên những phương diện khác nhau khá lớn như tìm hiểu về hình

tượng nhân vật, truyện truyền kì trong mối quan hệ với văn học dân gian… Trong khi

các bài viết nghiên cứu về chủ đề tình yêu nam nữ của thể loại này trong tiến trình

văn học trung đại Việt Nam nói riêng chưa nhiều. Vì thế, trong khuôn khổ tài liệu mà

tôi có được, tôi vô cùng trân trọng những ý kiến, đề xuất khoa học của những người

đi trước. Những tài liệu quý giá trên sẽ là những định hướng cho tôi trong việc tìm

hiểu vẻ đẹp tình yêu trong các tác phẩm mà tôi tiếp nhận được.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là việc tìm hiểu chủ đề tình yêu nam nữ

trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam, khảo sát qua hai tập truyện Truyền kì

mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của luận văn là nhằm tìm hiểu chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện

truyền kì trung đại cụ thể qua những tập truyện Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn

lục để qua đó thấy được vai trò của các tác giả Nguyễn Dữ, Vũ Trinh trong việc vận

dụng sáng tạo các giá trị truyền thống và cũng thấy được sự phát triển của truyện

truyền kì trung đại Việt Nam.

13

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận giải các vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài: Thể loại

truyện truyền kì và chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt

nam. Nội dung và nghệ thuật của chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì

trung đại Việt Nam (qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục)

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng phối hợp

những phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp loại hình học: được dùng để xem xét các tác phẩm truyền kì

dựa trên đặc điểm loại hình tự sự của văn học trung đại để từ đó thấy được đóng

góp của thể loại này đối với sự phát triển về nội dung, hình thức nghệ thuật của văn

xuôi tự sự trung đại.

- Phương pháp so sánh: được sử dụng để xem xét vai trò của truyền kì như

cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, bên cạnh đó còn nhằm chứng minh

truyền kì đã thể hiện rõ chủ đề tình yêu nam nữ và là một bước tiến của văn xuôi tự

sự trung đại so với những tác phẩm xuất hiện trước đó.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp: trong quá trình hoàn thành luận văn,

để làm rõ cho những nhận định của mình, chúng tôi sử dụng phương pháp phân

tích những tác phẩm truyền kì cụ thể, từ đó cũng tổng hợp, khái quát lại trên cơ sở

đã phân tích để có cái nhìn khách quan, chính xác.

- Phương pháp văn học sử: chúng tôi dùng phương pháp này để tìm hiểu quá

trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam trung đại cùng quá trình phát triển của

thể loại truyền kì.

5. Phạm vi nghiên cứu

5.1. Phạm vi nội dung

Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ xin tìm hiểu: Chủ đề tình yêu nam nữ

trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam (khảo sát qua Truyền kì mạn lục, Lan trì

kiến văn lục).

5.2. Phạm vi tư liệu

Luận văn tập trung vào hai tập truyện Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn

lục cụ thể khảo sát khoảng 10 truyện liên quan đến đề tài trong hai tập truyện.

Ngoài ra chúng tôi còn tìm hiểu một số tài liệu có liên quan đến truyện truyền kì

14

trung đại Việt Nam như: bối cảnh lịch sử xã hội, cuộc đời sự nghiệp của các tác giả,

những tư tưởng ảnh hưởng đến tác phẩm, thể loại truyện truyền kì, các tập truyện

truyền kì trung đại Việt Nam

6. Cấu trúc của luận văn

Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo gồm có 3 chương:

Chương 1: Thể loại truyền kì và chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền

kì trung đại Việt Nam

Chương 2: Nội dung phản ánh chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền

kì trung đại (qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục)

Chương 3: Nghệ thuật thể hiện chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì

trung đại (qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục) trên phương diện nghệ thuật

7. Đóng góp của luận văn

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm truyền kì tiêu biểu như:

Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả hay Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục…

nhưng hầu như chưa có công trình nghiên cứu về chủ đề tình yêu nam nữ. Với luận văn

này, người viết mong muốn góp một cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về thể loại

này trong việc đánh giá giá trị nội dung, nghệ thuật của thể loại đối với sự phát triển

của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Hiểu thêm về nội dung

của thể loại truyền kì sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu, phân tích từng tác phẩm cụ thể của

thể loại, đồng thời hiểu thêm về lịch sử phát triển của văn học dân tộc, ảnh hưởng qua

lại giữa các bộ phận văn học (văn học dân gian và văn học viết).

Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống chủ đề tình

yêu nam nữ, một trong những chủ đề tiêu biểu và cơ bản của truyện truyền kì Việt

Nam trung đại qua hai tác phẩm tiêu biểu: Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn

lục. Người viết sẽ chỉ ra những giá trị nội dung và nghệ thuật trong các truyện

truyền kì trung đại Việt Nam thể hiện chủ đề tình yêu nam nữ, từ đó góp phần

khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của thể loại và những đóng góp của truyện

truyền kỳ vào sự phát triển của văn học dân tộc. Đó là một dịp để người viết rèn

luyện khả năng thao tác nghiên cứu khoa học, cũng là cơ hội để người viết mở rộng

thêm kiến thức, khả năng cảm thụ, phân tích, bình giá văn chương của bản thân.

15

Chương 1

THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ VÀ CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ

TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

1.1. Thể loại truyện truyền kì và chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền

kì trung đại

1.1.1. Sơ lược về truyện truyền kì

Trong văn học Việt Nam trung đại, văn xuôi nghệ thuật xuất hiện muộn hơn

so với thơ phú và các thể loại văn học chức năng khác. Sự hình thành và phát triển

của văn xuôi thể hiện sự trưởng thành của tư duy nghệ thuật, là bước tiến lớn của

văn học dân tộc. Truyện truyền kì chính là một trong những thể loại quan trọng nhất

của văn xuôi trung đại, những thành tựu nghệ thuật của thể truyện này đã góp phần

làm nên diện mạo cơ bản của bộ phận văn xuôi tự sự.

1.1.1.1. Khái niệm truyện truyền kì

Truyện truyền kì có nguồn gốc từ truyện kể dân gian Trung Quốc, sau đó

được các tác giả ghi chép lại, nâng cao thành một thể loại văn học. Từ điển thuật

ngữ văn học định nghĩa truyền kì là “thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung

Quốc thịnh hành ở thời Đường (…) Kì có nghĩa là không có thực, nhấn mạnh tính

chất hư cấu”. Các tác giả Từ điển văn học (bộ mới) giới thuyết về khái niệm này

đầy đủ, chi tiết hơn: “Một hình thức văn xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ truyện

kể dân gian, sau các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng các

môtip kì quái, hoang đường lồng vào trong cốt truyện có ý nghĩa trần thế (…) Tuy

nhiên trong truyện bao giờ cũng có nhân vật là người thật và chính nhân vật mang

hình thức phi nhân thì cũng chỉ là sự cách điệu, phóng đại của tâm lí, tính cách một

loại người nào đấy, và vì thế truyện truyền kì mang đậm yếu tố nhân bản, có giá trị

nhân bản sâu sắc” [10, tr. 447]. Như vậy, định nghĩa về thể loại này khá thống nhất.

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất truyền kì là một thể loại văn xuôi tự

sự thời trung đại được đặc trưng bởi tính chất hư cấu, kì lạ trong nhân vật, cốt

truyện, nhằm phản ánh hiện thực.

16

Truyện truyền kì không chỉ là đặc sản riêng trong văn xuôi tự sự Việt Nam

mà còn phát triển ở toàn bộ vùng văn học Đông Á. Nói đến truyện kì ảo Đông Á,

trước tiên, phải nói đến truyện kì ảo trong văn học Trung Quốc - trung tâm văn hóa

có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài nhất đến văn học của các nước trong khu vực.

Lịch sử truyện kì ảo Trung Quốc chia làm các thời kì: truyện chí quái thời Lục triều,

truyện truyền kì thời Đường - Tống, truyện chí dị thời Minh - Thanh. Chí dị, thực ra

là giai đoạn tiếp theo của truyền kì. Truyền kì đạt được thành tựu rực rỡ vào đời

Đường. Cách xây dựng nhân vật, tình tiết, ngôn ngữ đều có những khai phá và sáng

tạo. Hồng Mại (đời Tống) đã đánh giá truyền kì đời Đường là “kì diệu một thời”.

Thời kì Minh - Thanh cũng là một trong những giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm

của truyền kì, chí dị, trong đó nổi bật hai tên tuổi lớn là Cù Hựu - tác giả Tiễn đăng

tân thoại và Bồ Tùng Linh - tác giả Liêu trai chí dị.

Hơn mười thế kỉ hình thành và phát triển, truyện truyền kì Trung Quốc đã để

lại những thành tựu rực rỡ và có sức ảnh hưởng lớn đến nền văn học của các nước

đồng văn trong khu vực. Trong đó, tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu có

sức lan tỏa mạnh nhất, rõ rệt nhất, thúc đẩy sự ra đời các tập truyện truyền kì ở ba

nước Đông Á còn lại như Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (1435 - 1493,

Triều Tiên), Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (đầu thế kỉ XVI, Việt Nam), Già tỳ

tử của Asai Ryohi (1612 - 1691, Nhật Bản). Kim Ngao tân thoại, hoàn thành vào

khoảng giữa thế kỉ XV, là tiểu thuyết Hán văn đầu tiên của Hàn Quốc, có giá trị cao

trong văn học cổ điển nước này. Già tỳ tử cũng có một vị trí quan trọng trong văn

học Nhật Bản, dù không phải là truyện thần quái đầu tiên, nhưng là tác phẩm điển

hình theo kiểu truyện truyền kì của Nhật.

1.1.1.2. Đặc trưng thể loại

Đặc trưng quan trọng nhất của truyền kì là sự kết hợp yếu tố kì và thực. Cái

kì là một phạm trù mĩ học, đặc trưng tư duy của người phương Đông và là thế giới

quan thời kì cổ trung đại. Không phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm nổi tiếng, tiêu

biểu của phương Đông đều chứa đựng nhiều cái kì (“vô kì bất truyền”). Cái kì trong

truyện truyền kì đã phát triển từ thụ động đến tự ý thức: từ ảnh hưởng của văn học

dân gian, sử kí, tôn giáo đến việc được nhà văn sử dụng như một thủ pháp nghệ

17

thuật, một hạt nhân tự sự quan trọng trong kết cấu tác phẩm. Kết hợp chặt chẽ

với cái kì trong hạt nhân của thể loại là cái thực và xu thế phát triển tất yếu của

truyền kì là gia tăng yếu tố thực. Tuy nhiên, cái kì không mất đi mà hòa quyện

chặt chẽ với cái thực trong một kết cấu thống nhất làm nên đặc trưng của thể

loại. Nếu thiếu cái kì, truyện dễ trở thành truyện kí; thiếu cái thực, truyện truyền

kì không thể vượt thoát khỏi giới hạn của chí quái. Vai trò của yếu tố kì và thực

trong hạt nhân cơ bản của truyện sẽ biến đổi và có những đặc điểm riêng qua

từng giai đoạn phát triển của thể loại.

Đặc trưng thứ hai của truyền kì, với tư cách một thể loại văn học nghệ thuật

là sự kết hợp nhiều thể loại văn chương. Trong tác phẩm bên cạnh các thể văn xuôi

còn bao gồm văn vần, thơ, từ, phú, lục… tạo nên một chỉnh thể thẩm mĩ “hàng

hàng châu ngọc, lời lời gấm thêu”. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử khái quát: “truyện

truyền kì dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả cảnh, tả tình thì dùng văn biền ngẫu, khi

nhân vật bộc lộ cảm xúc thì thường làm thơ” [24, tr.294].

Một truyện truyền kì thường có dung lượng không lớn. Vì vậy PGS.TS

Nguyễn Đăng Na xếp truyền kì vào thể loại truyện ngắn. Bố cục mỗi truyện thường

chia thành ba phần: mở đầu giới thiệu danh tính, nguồn gốc nhân vật, giữa truyện kể

lại hành trạng, cuộc đời nhân vật và phần kết khẳng định tính chân thực của câu

chuyện. Phần lời bình nằm cuối mỗi truyện cũng được xem là một bộ phận hữu cơ

trong kết cấu chỉnh thể của thể loại.

1.1.2. Chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam

1.1.2.1. Khái niệm: chủ đề, tình yêu, tình yêu nam nữ

Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài.

Nói cách khác, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu

lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất. Chủ đề tác phẩm nói lên

chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt những vấn đề của cuộc sống. Từ những đề tài

cụ thể, bình thường, tác giả có thể nêu lên những chủ đề có tính khái quát to lớn và

sâu sắc, cùng với tư tưởng tạo ra tầm vóc của tác phẩm. Một tác phẩm có thể có

nhiều chủ đề, nhưng thường có chủ đề chính và chủ đề phụ. Chủ đề chính là vấn đề

bao quát nhất, chủ yếu nhất, chủ đề phụ là những vấn đề nhỏ và có liên quan tới chủ

18

đề chính. Phân biệt chủ đề chính phụ đôi khi rất khó, cũng như xác định chủ đề vời

người mới cầm bút và bạn đọc nhiều khi lúng túng, nhất là đối với thơ ca do bản

năng cảm xúc, không xác định trước, nghĩ đến đâu làm đến đấy. Nếu không xác

định chủ đề trước dễ dẫn tới lan man và không kết thúc được.

Tình yêu là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lý, và thái độ khác nhau dao

động từ tình cảm cá nhân ("Tôi yêu mẹ tôi") đến niềm vui sướng ("Tôi thích món ăn").

Tình yêu thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn được ràng buộc

gắn bó. Nó cũng có thể là một đức tính đại diện cho lòng tốt của con người, sự nhân

từ và sự thông cảm "mối quan tâm trung thành và vị tha hướng tới người khác". Nó

cũng có thể mô tả các hành động nhân văn và thông cảm đối với người khác, chính

bản thân mình hoặc các con vật. Từ "tình yêu" có thể có nhiều ý nghĩa liên quan

nhưng khác biệt trong các bối cảnh khác nhau. Nhiều ngôn ngữ khác sử dụng nhiều

từ ngữ để diễn tả một số khái niệm khác nhau của "tình yêu"; một ví dụ là có 4 từ

Hy Lạp cho "tình yêu" (storge, philia, eros, agape). Khác biệt trong khái niệm tình

yêu của các nền văn hóa khác nhau dẫn đến việc thành lập một định nghĩa phổ quát

cho tình yêu là rất khó khăn. Tính chất phức tạp và trừu tượng của tình yêu thường

tạo ra các thành ngữ về tình yêu ở đó tình yêu vượt trên mọi cảm xúc khác. Dẫn

chứng là một số câu tục ngữ thông thường về tình yêu, từ "Tình yêu sẽ chiến thắng

tất cả" của Virgil đến "Tất cả thứ bạn cần là tình yêu" của Beatles. Thánh Thomas

Aquinas, sau Aristotle, định nghĩa tình yêu là "tạo ra điều tốt lành cho người

khác." Bertrand Russell mô tả tình yêu như một điều kiện "có giá trị tuyệt đối", trái

ngược với giá trị tương đối. Nhà triết học Gottfried Leibniz nói tình yêu là "vui

mừng vì hạnh phúc của người khác". Nhà sinh học Jeremy Griffith định nghĩa tình

yêu là "lòng vị tha vô điều kiện". Tình yêu là sự rung cảm và quyến luyến sâu sắc

giữa hai người khác giới. Ở họ có sự phù hợp về nhiều mặt… làm cho họ có nhu

cầu gần gũi, gắn bó với nhau, tự nguyện sống vì nhau và sẵn sàng hiến dâng cho

nhau cuộc sống của mình. Tình yêu thật sự không phải là cảm xúc, dù nó thường

đến cùng những cảm xúc mạnh đến mức làm con người choáng ngợp. Sự hiểu biết

lẫn nhau mới là nền tảng của tình yêu thật sự. Tình yêu cũng như một loại cây xanh,

nếu ta không biết cách chăm sóc dưỡng nuôi, hoặc thừa hoặc thiếu, thì nó sẽ héo tàn

và lụi bại. Tình yêu là tình cảm sâu sắc, đáng trân trọng của cá nhân, tuy nhiên

19

không nên cho rằng đó hoàn toàn là việc riêng tư của mỗi người. Tình yêu luôn

mang tính xã hội. Trước hết, tình yêu được bắt nguồn và bị chi phối bởi những quan

niệm, kinh nghiệm sống của những người yêu nhau (mà những quan niệm, kinh

nghiệm này lại phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà cá nhân đang sống, vào vị trí xã

hội và đặc điểm của thời đại…). Mặc khác, tình yêu luôn luôn đặt ra những vấn đề

mà xã hội cần phải quan tâm, chăm lo cho việc kết hôn, xây dựng gia đình hạnh

phúc, tiến bộ. Tình yêu là một khái niệm đa nghĩa trong cách diễn đạt và cách hiểu

của mọi người, nhưng theo nghĩa chung nhất, tình yêu là trạng thái tình cảm của chủ

thể này đối với một chủ thể khác ở mức cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý

muốn được gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay mức độ nhất định. Ai trong

chúng ta cũng có tình yêu, từ một đứa trẻ lớn lên biết yêu cha mẹ, anh chị em cho

tới những tình cảm thiêng liêng như yêu quê hương đất nước, từ những tình yêu trai

gái thơ mộng cho tới những cảm xúc mãnh liệt trước thiên nhiên hay đồng loại.

Vậy, tình yêu đôi lứa là gì ? Có lẽ tình yêu là điều không thể định nghĩa một cách

chính xác, nhưng đó là một thứ cảm xúc tuyệt vời và không thể so sánh, nó tạo nên

sức mạnh to lớn cả vô hình lẫn hữu hình và suốt cuộc đời này, trên khắp thế gian

này chúng ta luôn luôn được chứng kiến nó. Shakespeare nói tình yêu của các chàng

trai không nằm ở phía tim mà ở đôi mắt. Ông bà ta cũng từng dạy “con trai yêu

bằng mắt, con gái yêu bằng tai”. Tình yêu vì thế được bắt nguồn từ những cái nhìn.

Khi người ta yêu nhau, họ luôn muốn mình trở nên đẹp hơn trong mắt người mà họ

yêu, đặc biệt là các cô gái. Họ thường chăm chút và làm đẹp hơn cho chính mình.

Yêu là khi bạn lấy đi tất cả mọi đam mê, cuồng nhiệt, lãng mạn mà cuối cùng bạn

vẫn biết rằng mình vẫn luôn nhớ về người đó. Tình yêu luôn đi đôi với nỗi nhớ. Yêu

là phải biết hi sinh vì tình yêu của mình. Sự hi sinh ở đây có thể hiểu là quan tâm

chia sẻ những khó khăn, có thể là đối mặt với mọi thử thách, mọi thế lực muốn ngăn

trở tình yêu. Yêu có nghĩa là đối xử với một ai đó tốt hơn tất cả mọi người, tốt hơn

với cả chính bản thân mình. Nói tóm lại, tình yêu là tình cảm thiêng liêng và khó

định nghĩa. Tình yêu vừa xuất phát từ bản năng con người lại vừa là kết quả của sự

gặp gỡ giữa hai tâm hồn đồng điệu, cùng gắn bó, thương yêu, vượt qua mọi khó

khăn để đi đến hôn nhân hạnh phúc.

20

Tình yêu nam nữ: Tình yêu giữa hai giới tính nam và nữ (hoặc giữa những

người cùng giới) được định nghĩa là "Hệ quả của sự kết hợp giữa bản năng và trí tuệ

của con người". Định nghĩa trên hình thành từ khái niệm "bản năng con người" và

"trí tuệ con người". Theo triết học: tình yêu là một loại tình cảm giữa người và

người, hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ. Bản năng con người được nhìn nhận

trong đây là những hành động suy nghĩ sẵn có từ trong tự nhiên trong đó có việc

giao cấu để duy trì nòi giống (giữa hai giống đực và cái), việc tụ tập số đông - kết

hợp nhiều cá thể để đạt mục đích sinh tồn...Trong xã hội loài người phát triển, với

bộ óc thông minh, hay trong đây gọi là "trí tuệ" cho phép con người không chỉ dừng

lại ở việc kết hợp cá thể hay giao cấu đơn thuần như ở động vật mà còn hình thành

vô số những biểu hiện quan tâm, chăm sóc, bảo vệ... lẫn nhau. Từ hai yếu tố trên,

tình yêu trở thành điều tất yếu trong xã hội và hơn nữa, sự kết hợp của trí tuệ làm

cho những biểu thái của tình yêu đa dạng thậm chí kỳ lạ, khiến nhiều người cảm

thấy rất khó để có thể có một cơ sở chắc chắn khi nói về tình yêu giới tính.

1.1.2.2. Cơ sở lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học hình thành chủ đề tình yêu nam nữ

trong truyện truyền kì trung đại

Trong quá trình hình thành và phát triển đất nước ta đã chịu ảnh hưởng của

nhiều luồng tư tưởng triết học, tôn giáo như: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo…Tuy

nhiên cùng với dòng chảy của thời gian và sự sàng lọc văn hóa trên tinh thần tiếp

thu một cách có chọn lọc phù hợp với nhận thức của dân tộc thì Nho giáo là hệ tư

tưởng có sức ảnh hưởng sâu sắc nhất đến tư tưởng văn hoá Việt Nam. Nho giáo đã

trị vì và thống lĩnh tư tưởng chính trị và học thuật của Việt Nam trong khoảng thời

gian dài thậm chí cho đến ngày nay vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ.

Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật

ngữ bắt đầu từ chữ “Nho”, theo Hán tự từ "nho" gồm từ "nhân" (người) đứng gần

chữ "nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể

dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý…Nhìn chung "Nho" là một danh

hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa. Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ

thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của

Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ 4, Nho giáo lan rộng và cũng rất

phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.

21

Theo Nho giáo, trong xã hội có 5 mối quan hệ cơ bản là: vua - tôi, cha - con,

vợ - chồng, anh - em, bạn bè. Để thực hiện tốt 5 mối quan hệ này cần có 3 đức tính:

trí, dũng, nhân. Trong các mối quan hệ xã hội, con người phải đối xử tốt với người

khác, "mình không muốn bị người khác đối xử thế nào thì cũng không nên đối xử

với người khác như vậy. Người chỉ biết làm việc vì lợi ích của mình nhất định sẽ

chuốc lấy nhiều oán hận” [16, tr.30]. Nhân chi sơ, tính bổn thiện vì vậy mỗi người

hãy đối nhân xử thế phù hợp với tính thiện trời ban cho mình, xử thế phải hết sức

cẩn thận, chu toàn, thành thật. Trong quan hệ vua tôi, Khổng Tử chủ trương "Vua sử

dụng bề tôi phải theo lễ, bề tôi phụng thờ vua phải theo trung"[16, tr.33]. Nho giáo

đề cao sự trung thành đối với nhà nước quân chủ vì đó là nhân tố góp phần vào sự

ổn định của xã hội. Khổng Tử nói "... Vua Vũ vương được hai phần ba thiên hạ, vẫn

giữ khí tiết của một trung thần phụng thờ triều Ân. Đức của vua Vũ vương có thể

nói là đức cao quý nhất "[16, tr.34]. Trong mọi hoàn cảnh, con người cần kiềm chế

cảm xúc, làm chủ bản thân, không biểu hiện cảm xúc ra ngoài một cách thái quá, đó

gọi là trung hòa. Biết trung hòa cảm xúc thì con người ta mới cư xử đúng mực.

Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Tây Hán (Khoảng 100 năm TCN).

Giai đoạn đầu Nho giáo được đưa vào nước ta do các quan lại phương Bắc muốn

đào tạo một đội ngũ quan lại của địa phương. Đến thế kỉ X đất nước thoát khỏi ách

đô hộ của phương Bắc tiến hành xây dựng nhà nước theo chế độ phong kiến giống

Trung Quốc, buổi đầu dựng nước tư tưởng triết học Phật giáo chiếm vị trí hàng đầu,

tầng lớp ảnh hưởng mạnh mẽ là các nhà sư. Đến thời Trần Nho giáo lại được đề cao

trong bộ máy chính trị nhà nước. Cuối thế kỉ XIV Nho giáo chiếm ưu thế và hưng

thịnh vào thời Lê, đặc biệt thời vua Lê Thánh Tông Nho giáo đã trở thành “quốc

giáo” Nho giáo dần tiến đến nắm giữ vị trí chủ đạo trong sinh hoạt tư tưởng tại Việt

Nam. Thời kỳ chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, Nho giáo không ngừng

củng cố và phát triển cho đến vào giữa thế kỷ XIX. Từ trong lòng xã hội phong

kiến, khi mà quan điểm Nho giáo đang thống soái với những gọng kìm tàn bạo siết

chặt số phận người phụ nữ thì nhiều nhà văn như: Nguyễn Dữ, Vũ Trinh, Nguyễn

Du đứng trên lập trường của chủ nghĩa nhân văn, tiến bộ đã xác quyết khả năng phi

thường của con người trên hành trình đi tìm giá trị bản thể.

22

Ngày xưa do lễ giáo phong kiến, chế độ hà khắc mà nam nữ có yêu nhau

không thể chủ động đến với nhau, “nam nữ thụ thụ bất thân”. Họ dù có yêu nhau

đến mấy nếu gia đình hai bên không đồng ý càng không thể đến với nhau. Rồi dần

dần khi quan hệ nam nữ được công khai thì vấn đề lại ở chỗ nam phải là người chủ

động, không có thói ngược đời "Cọc đi tìm Trâu" bao giờ. Còn con gái thì phải ý tứ,

e lệ, tránh bộc lộ quá nhiều quá rõ tình cảm của mình, con gái phải "kiêu" mới có

"giá". Trong xã hội phong kiến xưa, nói về tình yêu nam nữ thì thường người phụ

nữ vốn phải chịu rất nhiều những bất công, không chỉ bởi những định kiến ngặt

nghèo của xã hội về người phụ nữ như đạo Tam tòng (Tại gia tòng phụ, xuất giá

tòng phu, phu tử tòng tử” cũng như quan niệm về công - dung - ngôn - hạnh ở người

phụ nữ. Nếu không theo những quy chuẩn đó thì sẽ bị xã hội lên án. Vì vậy mà thân

phận của người phụ nữ thường phải chịu rất nhiều bất công bởi những định kiến

khắt khe đó. Một trong những vấn đề mà người phụ nữ phong kiến gặp phải trong

hôn nhân, tình yêu nữa là vấn đề muôn đăng hậu đối. Và thông thường, những

người phụ nữ xưa không được lựa chọn người yêu, đối tượng hôn nhân cho mình

mà hoàn toàn phụ thuộc vào bố mẹ theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.

Qua khảo sát chúng tôi thấy tình yêu trong trong thể loại truyền kì được các

nhà nghiên cứu, phê bình thường luận giải từ hệ hình tư duy của triết học phương

Đông như: Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo... hay từ triết học phương Tây như phân

tâm học, hiện sinh, xã hội học... Tuy được khám phá từ nhiều góc nhìn như thế nhưng

tình yêu mãi mãi vẫn là một ẩn ngữ. Đúng như Trần Bích Lan đã viết: “Những tác

phẩm vĩ đại của lịch sử văn học thế giới vốn có một ma lực, một nam châm hút sắt.

Đứng trước một trái núi kinh dị, con người luôn bị thúc đẩy bởi ước vọng đặt lộ khai

thông…nhưng đường đi có được khai thác đến trăm nghìn, vẻ hoang vu vẫn còn

nguyên trong rừng thẳm. Con người có thể đập vỡ dăm ba tảng đá bé mọn nhưng

thạch bàn thì không bao giờ có thể bị thay đổi, di chuyển” [dẫn theo 1].

Với việc tự do lựa chọn và chủ động kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc đích thực

cho cuộc đời mình, nhân vật trong truyện truyền kì đã đạt đến tự do với tư cách là

một chủ thể đích thực chứ không phải như là tha nhân trong mối quan hệ với nam

giới. Từ những lưu luyến của phút giây gặp gỡ, những đôi lứa yêu nhau tìm đến

23

nhau để giãi bày tình cảm, gắn kết với nhau. Sức mạnh tình yêu khiến họ vượt qua

bức tường rào của luật lệ phong kiến nghiêm cấm con người đến với nhau nếu

không có sự cho phép hoặc định trước của gia đình, xã hội. Qua các truyện truyền kì

về tình yêu nam nữ, ta luôn thấy hình ảnh những đôi lứa yêu nhau chủ động tìm đến

nhau chân thành, tự nhiên như không gì ngăn được bước chân họ. Họ tìm đến gặp

gỡ, bày tỏ tình cảm, thề nguyền đính ước cùng nhau, tất cả đều hoàn toàn chủ động.

Bên cạnh sự chủ động tự tìm đến nhau để giãi bày tình cảm, đôi lứa khi yêu còn chủ

động nhờ người bắc cầu mai mối để đến với nhau. Một trong những điều đáng trân

trọng nhất ở đôi lứa khi yêu là sự chủ động giúp đỡ, che chở cho người mình yêu để

họ được hạnh phúc. Chủ động đi tìm chồng, vượt bể trèo non…cũng cho ta thấy

được sự chủ động trong tình yêu để đến với hạnh phúc. Cảm hứng ngợi ca tình yêu

có thể thấy rõ qua cách các tác giả xây dựng hình tượng nhân vật hết sức chủ động

trong việc tự tìm kiếm, tiếp xúc và lựa chọn người thương cho chính mình.

1.2. Sơ lược về Truyền kì mạn lục và Lan trì kiến văn lục trong tiến trình phát

triển của truyền kì trung đại Việt Nam

1.2.1. Truyền kì mạn lục

1.2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa

Cho đến nay các nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Dữ sáng tác Truyền kì

mạn lục vào khoảng đầu thế kỉ XVI. Giai đoạn này chế độ phong kiến Việt Nam đã

có những dấu hiệu suy thoái, khủng hoảng. Thời kì thịnh trị nhất của chế độ phong

kiến Việt Nam có lẽ là thời kì Lê sơ mà đỉnh cao là giai đoạn trị vì của vua Lê

Thánh Tông. Sau Lê Thánh Tông các ông vua nối ngôi của triều Lê đều là những

ông vua bất tài, không màng chính sự, tệ hơn là lao vào ăn chơi với lối sống xa hoa

dâm đãng tàn ác. Lê Hiến Tông (1497-1504) là ông vua cuối cùng giữ được thành

tựu của các tiên đế nhưng cũng vì ham mê nữ sắc quá nhiều mà chết sớm. Lê Uy

Mục (1505-1509) từ lúc lên ngôi ham rượu chè, gái đẹp thích giết người: giết tổ

mẫu, công thần, người tôn thất, người vô tội….Họ ngoài chuyên cậy quyền thế, tàn

bạo vô độ làm cho trăm họ oán giận, người đời gọi là Quỷ vương. Lê Tương Dực

(1510-1516) tiếp vị còn sa đoạ gấp bội, năm 1513 chánh sưa nhà Minh sang phong

vương Tương Dực đã nhận xét: “Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lệch,

24

tính thích dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không bao lâu” [8, tr. 117]. Trong khoảng

một thời gian ngắn (1504-1527) mà có đến 6 đời vua kế vị. Họ ngồi trên ngai vàng

nhưng công việc triều chính ngày càng rối ren, cương thường đảo lộn, phong hoá

suy đồi. Chính vì các ông vua không đảm nhiệm được vai trò chức trách của mình

mà tệ hơn còn ăn chơi xa xỉ, tàn bạo vô luân nên đã tạo điều kiện cho cái xấu phát

triển. Trong triều các bè phái tranh giành quyền lực gây ra chiến tranh phong kiến,

cát cứ khiến cho nhân dân lầm than điêu đứng. Xã hội nảy sinh nhiều mâu thuẫn

trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa nội bộ giai cấp thống trị và mâu

thuẫn giữa giai cấp thống trị với nhân dân. Từ đó xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa

của nông dân như cuộc khởi nghĩa của Trần Tuân (1511), Nguyễn Nghiêm (1512),

Phùng Chương (1515), Trần Cảo (1516-1521)…Nhưng các cuộc khởi nghĩa này chỉ

là những bộc phát nhỏ lẻ chứ chưa phát triển mạnh mẽ thành cao trào như ở thế kỉ

XVIII. Ở giai đoạn này chủ yếu là các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong

kiến, sự tranh giành quyền lợi giữa an hem nhà vua, giữa triều thần với nhau, giữa

triều thần với vua… Chiến tranh diễn ra liên miên khiến cho kinh tế kiệt quệ, nhân

dân rơi vào thế bần cùng nheo nhóc. Từ tình hình lịch sử như vậy đã dẫn đến sự

thay đổi trong hệ tư tưởng của con người trong xã hội. Những người tri thức có tâm

huyết thất vọng trước thời cuộc lui về ở ẩn với quan điểm sống “lánh đục về trong”

và Nguyễn Dữ là trí thức tiêu biểu.

Xã hội loạn lạc nhưng văn học vẫn tiếp tục phát triển. Văn học giai đoạn trước

chủ yếu bàn đến những vấn đề quốc gia đại sự thì đến giai đoạn này các nhà văn bắt

đầu quan tâm nhiều đến số phận của con người trong xã hội, đặc biệt là số phận của

những con người nhỏ bé bị trà đạp, áp bức. Văn học không chỉ dừng lại ở việc nói

đạo, nói chí mà đã nói lên những khát vọng của con người về tình yêu, hạnh phúc. Có

thể nói chủ nghĩa nhân đạo trong văn học đã bắt đầu manh nha là tiền đề cho sự phát

triển của văn học theo khuynh hướng nhân đạo chủ nghĩa sau này.

1.2.1.2. Về tác giả, tác phẩm

Nguyễn Dữ người xã Đường Lâm, huyện Gia Phúc, Hồng Châu, nay là xã

Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Chưa rõ ông sinh và mất năm nào,

chỉ biết ông là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu

25

Hồng Đức thứ 27 (1496). Nguyễn Tường Phiêu sau khi thi đỗ được trao chức Thừa

chánh sứ và khi mất được phong chức Thượng thư. Từ những tư liệu ít ỏi này, một

số nhà nghiên cứu cho rằng: Nguyễn Dữ có khả năng sinh vào cuối thế kỉ XV, sống

và sáng tác chủ yếu vào nửa đầu thế kỉ XVI. Và một điều cũng có thể suy đoán

rằng: nhà văn chắc có một thời gian dài được sống cùng cha ở chốn kinh đô, được

chứng kiến nhiều bước thăng trầm của xã hội và con người nơi đây. Đây sẽ là vốn

sống hết sức quan trọng cho những sáng tác xuất chúng của ông khi về ẩn cư.

Theo Hà Thiện Hán, tác giả bài “Tựa” cuốn Truyền kì mạn lục in năm 1547,

thì Nguyễn Dữ lúc nhỏ rất chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lí tưởng lấy

văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi hội nhiều lần,

đạt trúng trường và từng giữ chức Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Phú

Thọ), nhưng chỉ được một năm thì xin từ quan về phụng dưỡng mẹ già. Trải mấy

năm dư không hề đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập Truyền kì mạn

lục để “ngụ ý” cảm than về thời cuộc. Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục còn

cho biết thêm: “Vì nguỵ Mạc cướp ngôi, ông thề không ra làm quan,ở thôn quê dạy

học trò, không bao giờ đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền kì mạn lục…”. Căn

cứ vào ghi chép của các tác giả trên thì Nguyễn Dữ từ quan về ẩn dật chủ yếu là do

bất mãn với kẻ cầm quyền, đặc biệt với hành động tiếm ngôi của Mạc Đăng Dung

(1527), tâm trạng này được ông thể hiện rõ trong nhiều truyện của Truyền kì mạn

lục. Qua đó cũng có thể thấy, nhiều khả năng ông là người cùng thời với Nguyễn

Bỉnh Khiêm. Giữa hai người, chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học

thuật…nhưng e rằng Nguyễn Dữ khó có thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như

Vũ Phương Đề đã ghi trong Công dư tiệp kí và cũng ít khả năng Truyền kì mạn lục

phải nhờ Trạng Trình “phần nhiều phủ chính” mới trở thành một “thiên cổ kì bút”,

bởi Nguyễn Dữ có thể bằng hoặc nhiều tuổi hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm và chắc chắn

đỗ đạt và ra làm quan trước. Mặt khác, thái độ của hai ông đối với chính thể đương

thời, cụ thể đối với nhà Mạc là khá khác nhau. Nguyễn Dữ đỗ đạt và từng làm quan

dưới triều Hậu Lê, nhưng chắc chắn không làm quan dưới thời nhà Mạc và có thái

độ chống đối tân triều quyết liệt, còn Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguyên dưới

triều Mạc, chịu ơn vua Mạc, làm quan một thời gian và có thái độ ủng hộ tích cực

đối với triều đại này.

26

Nguyễn Dữ không chọn quê hương, chốn mình sinh ra làm nơi ẩn dật như

bao danh sĩ khác. Có lẽ lúc đó Hải Dương đang là chiến trường của nhiều cuộc giao

tranh, cũng là đất “phên dậu” của nhà mạc. Ông tìm đến ẩn mình nơi núi rừng

Thanh Hoá xa xôi và yên tĩnh. Phải chăng đây là quê ngoại nơi ông trở về phụng

dưỡng mẹ già? Nhà nho ẩn dật Nguyễn Dữ tỏ ra hết sức gắn bó và am hiểu chốn

lâm tuyền này, và nơi đây cũng trở thành không gian cho nhiều tác phẩm của ông.

Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Nguyễn Dữ còn để lại duy nhất

một tập truyện xuôi chữ Hán Truyền kì mạn lục. Có thể Nguyễn Dữ đã sáng tác

Truyền kì mạn lục trong nhiều giai đoạn cuộc đời, nhưng chắc chắn tác phẩm đã

được hoàn thiện trong thời gian ông cáo quan về phụ dưỡng mẹ già, sau thời điểm

Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê và sau khi đã tiếp xúc với tập truyền kì Tiễn

đăng tân thoại của nhà văn Trung Quốc Cù Hựu (1347 -1433). Thể loại truyện

truyền kì với những đặc trưng nghệ thuật mang giá trị ẩn dụ “ngụ ý”, kì, thực “lẫn

lộn” hết sức phù hợp với việc thể hiện thái độ bất bình cô phẫn của những nho sĩ ẩn

dật như Nguyễn Dữ đối với tình hình xã hội loạn lạc và thể chế đương thời . Truyền

kì cũng rất phù hợp với việc nêu lên những bài học đạo đức - một trong những

nhiệm vụ cấp thiết mà Nguyễn Dữ đặt ra cho tác phẩm của mình - trong bối cảnh

một xả hội loạn lạc như giai đoạn đầu thế kỉ XVI.

Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển. Trong truyện có xen

những bài thơ, ca, từ, biền văn; trừ truyện số 19 “Cuộc nói truyện thơ ở Kim Hoa”

còn lại cuối mỗi truyện đều có “lời bình” thể hiện chính kiến của tác giả. Trong đó

nhà văn không bình về nghệ thuật văn chương, mà chủ yếu bàn về nội dung, ý nghĩa

đạo đức của truyện. Hiện nay, bản sớm nhất còn lại của tác phẩm là Cựu biên

Truyền kì mạn lục in năm Vĩnh Thịnh 8 (1712) trong đó có lời “Tựa” của Hà Thiện

Hán (viết 1547). Văn bản này hiện được lưu giữ tại Đông Dương văn khố Nhật Bản,

được in lại và phổ biến trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư

cục xuất bản năm 1987.

Hầu hết truyện trong Truyền kì mạn lục đều lấy bối cảnh ở các thời Lí, Trần,

Hổ, thuộc Minh, Lê Sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Cốt truyện chủ yếu

có nguồn gốc từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian nhưng đã được cải tạo

27

biên để phục vụ cho mục đích của người viết, cũng có nhiều truyện do tác giả sáng

tác, hư cấu, hoặc vay mượn tình tiết từ truyền kì đời Đường, đời Minh. Tuy nhiên,

phần sáng tạo của Nguyễn Dữ là hết sức lớn, thể hiện tài năng của tác giả cũng như

vị trí và giá trị nghệ thuật lớn lao của Truyền kì mạn lục không chỉ trong sự phát

triển của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam mà cho cả sự phát triển của thể loại truyện

Truyền kì khu vực Đông Á .

Truyền kì mạn lục ngay từ khi mới xuất hiện đã được đón nhận. Hà Thiện

Hán, người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi (người Mộ Trạch, Đường An,

Hải Dương, đỗ tiến sĩ đời Mạc Đăng Doanh, sống cùng thời với Nguyễn Dữ) theo

Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp kí, đã dịch ra văn nôm tác phẩm này. Về sau

nhiều học giả tên tuổi đều nghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá cao tác phẩm của

ông. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục ca ngợi Truyền kì mạn lục có “văn từ

thanh lệ”, Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp kí gọi đó là “thiên cổ kì bút”, còn Phan

Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã coi đây thật sự là “áng văn hay

của bậc thầy đại gia”

1.2.1.3. Vị trí của tập truyện trong lịch sử truyện truyền kì trung đại.

Viết về Truyền kì mạn lục là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Dữ, ngay từ khi

nó ra đời đã được nhiều nhà nghiên cứu đón nhận một cách nồng nhiệt và đánh giá

cao như : Hà Thiện Hán người cùng thời với Nguyễn Dữ viết lời tựa, Nguyễn Thế

Nghi dịch ra bản Nôm. Trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Nguyễn

Đăng Na khẳng định: “Nguyễn Dữ là người đầu tiên dùng thuật ngữ “Truyền kì”

đặt tên cho tác phẩm của mình. Có thể nói ông là cha đẻ của loại hình truyền kì

Việt Nam”. Trước Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, đã có tác phẩm Thánh Tông

di thảo của Lê Thánh Tông (1442-1497). Đây cũng là tác phẩm mang tính truyền kì.

Sau đó, trong văn học Việt Nam xuất hiện Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm

(1705-1748), Tục truyền kì của Đặng Trần Côn (thế kỷ XVIII), Tân truyền kì

lục của Phạm Quý Thích (1957-1852)… các tác phẩm này đánh dấu sự chín muồi

của thể truyền kì Việt Nam. Cách đặt nhan đề ‘truyền kì” chứng tỏ các tác giả đã đi

theo truyền thống truyền kì Trung Quốc. Tuy nhiên, số lượng thi ca thù tạc của nhân

vật rất nhiều, đây là điều khác với truyền kì đời Đường. So với các tập truyện thần

28

linh, ma quái, anh tú của truyền kì Trung Quốc, nhân vật trong các sáng tác văn học

ở Việt Nam chủ yếu là nhân vật lịch sử. Các nhân vật quan tướng, thần ma cũng đều

thể hiện khía cạnh con người đời thường, đời tư như Hạng Vương, Dương Thiên

Tích, các nhân vật nữ cũng là những nhân vật phần nhiều có thật, họ chịu nhiều oan

trái, trắc trở mang phẩm cách Việt sâu sắc. Với nội dung tác phẩm hoàn toàn là

việc, là người Việt Nam và có tính chất hư cấu, biểu tượng rất rõ, do đó trong Kiến

văn tiểu lục, Lê Quý Đôn còn gọi loại truyện này là“ngụ ngôn”. Truyện truyền kì

Việt Nam thời trung đại có cốt truyện hoàn chỉnh như những tác phẩm truyền kì

truyền thống: có thắt nút, phát triển, mở nút… Truyện truyền kì ở Việt Nam thường

có những nội dung không lớn nhưng cũng thể hiện đặc trưng quan trọng của nó:

nhân vật ít, sự kiện tập trung, thường chú trọng vào việc hơn là chú trọng vào

người, lấy việc mà biểu hiện người, răn người, truyền bá đạo lý ở đời. Với những

đặc điểm như trên, thể truyền kì ở Việt Nam đánh dấu một bước phát triển mới của

văn xuôi tự sự trung đại, đồng thời cũng thể hiện tính dân tộc hóa sâu sắc trên con

đường tiếp biến từ nền văn học lớn Trung Hoa, nó góp phần làm phong phú và giàu

có hơn nền văn học vốn đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Song trên thực

tế, Truyền kì mạn lục chịu ảnh hưởng rất rõ của thể loại chí quái, chí dị. Có thể thấy,

truyện truyền kì là một thể loại văn xuôi độc đáo của văn học trung đại vùng Đông

Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong đó các nhà văn đã sử dụng yếu tố kì như

một bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng của thể loại. Chính yếu tố kì đã phân

biệt truyện truyền kì với khái niệm truyện ngắn hiện thực ở phương Tây bắt đầu từ

thời Phục hưng (mở đầu thế kỷ XVI ở Italia). Truyện ngắn phương Tây trong giai

đoạn đầu cũng gắn bó mật thiết với chất kì ảo trong văn học dân gian nhưng dần

dần yếu tố kì mờ nhạt đi; hoặc nếu còn giữ thì cũng mất đi tính “hồn nhiên” vốn có.

Quá trình phát triển của truyện truyền kì Việt Nam nói chung và Truyền kì

mạn lục nói riêng đã chịu sự tác động từ văn học cổ điển Trung Hoa, cụ thể đó là

loại truyện chí quái, chí dị từ văn học Lục triều. Ảnh hưởng văn hóa được nói đến

khá phổ biến trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Nó xuất phát từ nhu cầu

đối thoại văn hóa giữa các dân tộc khác nhau. Đó là sự vận động thường xuyên và

mang tính phổ biến của nhân loại, gắn bó với tiến bộ xã hội nhưng đồng thời cũng

29

có quan hệ hữu cơ biện chứng với sự phát triển của văn hóa, là sự chuyển hóa nội

tại, thường xuyên của văn hóa trong cơ chế tồn tại của nó. Trong tiến trình phát

triển văn học Việt Nam, việc tiếp thu và chịu ảnh hưởng từ văn học cổ điển Trung

Quốc vào văn hóa Việt là hiện tượng mang tính lịch sử. Đây cũng là một đặc điểm

quan trọng và chi phối đến văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu, tiếp xúc với

văn hóa Hán và biểu hiện rõ nhất của nó được phản ánh trong văn chương, học thuật

và những lĩnh vực khác thuộc về đời sống tinh thần của người Việt. Trong sự ảnh

hưởng ấy, nổi bật nhất về văn xuôi là thể loại truyện truyền kì. Điều đó cho thấy, sự

tương tác mạnh mẽ giữa các thể loại trong khu vườn văn học mà văn xuôi đã chiếm

một phần quan trọng. Dòng chảy của truyện truyền kì dường như đã bắt được mạch

ngầm văn hóa của Việt Nam và tâm thức sáng tác của giới trí thức phong kiến xưa.

Đây cũng là một trong những điều kiện giúp cho thể loại đoản thiên tiểu thuyết sớm

nở rộ trong lịch sử Văn học cổ điển Việt Nam, tiêu biểu nhất là Truyền kì mạn

lục của Nguyễn Dữ.

Xét từ phương diện nghệ thuật, các thủ pháp của truyện chí quái, chí dị từ

văn học Lục triều và truyện truyền kì thời Đường đã có những tác động nhất định về

mặt kỹ thuật đối với Truyền kì mạn lục. Nếu như truyện chí quái thời Lục triều

chuyên săn tìm những tình tiết kỳ lạ, đề cao sự linh thiêng, biến hóa diệu kỳ; truyện

truyền kỳ đời Đường có pha chút hoang đường; thì ở thể loại truyện truyền kỳ Việt

Nam và nhất là Truyền kì mạn lục lại không đề cao những yếu tố đó. Các tác gia

Việt Nam chỉ xem kì ảo như một phương thức sáng tác cụ thể, để họ có thể phản

ánh, chiếm lĩnh và nghiền ngẫm về hiện thực lúc bấy giờ. Nếu tác giả chí quái đem

chuyện kì lạ làm sự thật, không có ý thức về sáng tác văn chương thì ở thể loại

truyền kì Việt Nam, dường như các tác giả muốn phát triển câu chuyện dân gian

thành những đoản thiên tiểu thuyết nhất định, họ hư cấu, họ xây dựng nhân vật, tình

tiết, kết cấu, ngôn ngữ… điều đó đã dẫn đến một kết luận rằng: “Văn chương chí

quái chất phác hồn nhiên, văn chương truyền kỳ thì đã đạt mức trau chuốt bóng bẩy.

Tác phẩm chí quái còn sơ sài ngắn ngủi, tác phẩm của truyền kì đã hoàn chỉnh, bền

bỉ và tiến đến những thể nghiệm ban đầu về hiện thực sinh hoạt của tác giả và bộc

lộ những thái độ của họ đối với cuộc sống…”.

30

Nhìn chung, những ảnh hưởng của thể loại truyện chí quái, chí dị thời Lục

Triều, truyện truyền kì đời Đường đến thể loại truyện truyền kì trong văn chương cổ

điển Việt Nam là một sự tương tác, ảnh hưởng của một nền văn học già đối với một

nền văn học trẻ. Đây là một sự học tập, tiếp nhận trên bình diện văn hóa. Xét cho

cùng, sự ảnh hưởng này cũng là một quy luật phổ biến của văn học. Tuy vậy, dù

đứng ở góc độ nào, người ta cũng có thể cảm nhận được cái tinh thần dân tộc cũng

như ý hướng sáng tác của người trí thức trong văn học trung đại Việt Nam trước

những áp lực lớn của thi pháp văn học trung đại. Có thể nói, họ đã từng bước tự cởi

trói và mở ra cho bản thân mình một con đường đi khá sắc sảo để tự do sáng tạo

trên một mảnh đất hấp dẫn và có nhiều điều thú vị - đó là mảnh đất dung dưỡng hư

cấu, tưởng tượng của loại truyền kì trong văn học.

1.2.2. Lan Trì kiến văn lục

1.2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa

Vào cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI nhà nước phong kiến đã bắt đầu đi xuống

nhưng thực sự khủng hoảng là ở giai đoạn này. Hai cuộc chiến tranh kéo dài giữa

nhà Lê và nhà Mạc, giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã làm cho đất nước bị chia

cắt, kinh tế kiết quệ, dân tình điêu đứng. Bước sang thế kỉ XVIII các mâu thuẫn

được tạm dẹp yên, Đàng ngoài là sự cai trị của vua Lê chúa Trịnh, Đàng trong là

chúa Nguyễn lấy sông Linh Giang làm ranh giới. Ở thời kì đầu tầng lớp thống trị ở

cả hai đàng đều chuyên tâm đến việc xây dựng giang sơn xã tắc, làm cho kinh tế ổn

định phát triển sau một thời gian dài kiệt quệ do chiến tranh. Nhưng đến giai đoạn

sau thì tình hình chính trị lại rối ren phức tạp, nhất là ở Đàng ngoài do thể chế chính

trị vừa có vua vừa có chưa, các chúa Trịnh ngày càng lấn át các vua Lê thâu tóm

mọi quyền lực vào tay mình, các vua Lê cũng cảm nhận được mối đe doạ nhưng vì

bất tài, bất lực nên đành im lặng chấp nhận mọi sự sắp đặt từ phía của nhà chúa.

Các chúa Trịnh sau này khi có đủ quyền hành trong tay bắt đầu có lối sống xa hoa,

hưởng lạc, tàn ác, vô đạo. Không chỉ ăn chơi xa xỉ, phung phí tiền bạc một cách vô

tội vạ mà ngay cả tư cách đạo đức của các chúa Trịnh cũng ngày càng suy đồi.

Trịnh Giang thong dâm với cung nữ của cha, mối quan hệ mờ ám giữa Tuyên phi và

Huy Quận công, an hem chém giết lẫn nhau để tranh quyền đoạt lợi. Ở Đàng trong

31

cũng tương tự như Đàng ngoài các chúa Nguyễn cũng ăn chơi xa xỉ “coi vàng như

cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ rất mực” [6, tr.335]. Chúa Nguyễn Phúc Thuần “thích

chơi bời múa hát, có bệnh không gần đàn bà được, sai người con hát yêu dâm loạn

với cung nữ để mua vui”[6, tr.71]. Từ cuộc sống xa hoa suy đồi tha hoá của những

bậc vương giả mà kỷ cương nhà nước, tôn ti trật tự đảo lộn, đất nước đi vào thời kỳ

khủng hoảng trầm trọng trên mọi phương diện. Vào những năm cuối thập kỷ tám

mươi, chín mươi của thế kỷ XVIII các nhà bình luận coi đây là thời kỳ chính sự đổ

nát. Kỷ cương phép nước không còn nên tư tưởng Nho giáo đặt ra cũng bị lung lay.

Việc học hành thi cử không còn được coi trọng như trước mà sinh ra nhũng nhiễu

như việc mua quan bán tước lan tràn khắp nơi, thực học bị coi nhẹ. Tuy nhiên vẫn

có những người thực tài, có nhiều cống hiến như: Lê Quý Đôn, Ngô Thi Sĩ, Nguyễn

Nghiễm…nhưng đó là những người đặc biệt xuất sắc và là số ít trong xã hội. Chính

vì điều kiện lịch sử xã hội như vậy nên tầng lớp nho sĩ cũng có sự thay đổi trong tư

tưởng, họ không còn khư khư giữ chữ trung với nhà vua mà một số người đã mạnh

dạn đứng về phía nhà Chúa để cùng chúa lo việc nước. Nhưng tình hình đất nước

ngày càng đi xuống, chính sự ngày càng rối ren. Hậu quả của chiến tranh làm cho

sức người sức của suy kiệt, sưu cao thuế nặng, lao dịch đè lên vai người nông dân.

Lại thêm thiên tai, hạn hán, lũ lụt liên tục càng làm tăng thêm sự đói khát tiêu điều.

Xã hội nhiễu nhương chưa từng thấy. Đó là lí do vì so ngày càng nhiều cuộc bạo

động nổi lên từ các vùng quê nghèo đói. Trong hoàn cảnh này phong trào của những

người nông dân áo vải Tây Sơn ra đời và phát triển một cách mạnh mẽ, nhanh

chóng dẹp yên các tập đoàn phong kiến lúc bấy giờ. Người đứng đầu là Nguyễn

Huệ sau khi dẹp yên các cuộc nội chiến. Nguyễn Huệ còn đánh tan 20 vạn quân

Thanh lập lên một nhà nước mới nhưng Nguyễn Huệ đột ngột băng hà người nối

ngôi là Quang Toản lại còn nhỏ nên triều đình Tây Sơn tồn tại không lâu. Nguyễn

Ánh lợi dụng tình hình và lấy lại đất nước lập lên nhà Nguyễn. Chính những thay

đổi của thời cuộc như vậy mà xã hội đã manh nha những tư tưởng mới, con người

mới, nghĩ đến đời sống thực tế, giá trị hạnh phúc của cá nhân nhiều hơn. Chịu sự tác

động không nhỏ của thời cuộc, văn học giai đoạn này có sự chuyển mình đáng kể.

Các nhà văn đặc biệt có hứng thú với những vấn đề thực tiễn xã hội, lấy thực tại làm

32

đối tượng phản ánh, họ ghi chép những sự việc, những số phận diễn ra trong đời

sống hằng ngày. Hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm cũng có sự chuyển biến

nhân vật trong các truyện đa số là những người có tài, không những đa tài mà còn

đa tình. Tình yêu, khát vọng hạnh phúc chân thực của con người đến đây được bày

tỏ một cách chính đáng. Đây là một bước ngoặt cho lịch sử văn học nước nhà là nền

tảng cho trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa.

1.2.2.2. Về tác giả, tác phẩm

Vũ Trinh (1759- 1828) tên tự là Duy Chu, hiệu là Nguyên Hanh, biệt hiệu là

Lai Sơn, Lan Trì ngư giả, đạo hiệu Hải Âu hòa thượng. Ông là người làng Xuân

Lan, huyện Lang Tài, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Vũ Trinh xuất thân từ một gia đình

có nề nếp thi thư. Ông nội Vũ Trinh hiệu là Hy Nghi, đỗ Tiến sĩ thời Lê, làm quan

đến Thượng thư bộ binh. Cha ông tên là Triệu, cũng đỗ Hương tiến làm quan đến

chức Tham Nghị. Cũng như Nguyễn Dữ, Vũ Trinh vốn nổi tiếng thông minh từ nhỏ,

17 tuổi đỗ Hương tiến, được tập ấm chức tri phủ Quốc Oai, tước Lan Trì bá.

Vũ Trinh là một người có bản lĩnh, có tà tổ chức, là một bậc tôi trung hiếm

thấy luôn hết lòng với nhà Lê. Với tài năng ấy Vũ Trinh có thể thành công trên con

đường hoạn lộ, hơn nữa ông còn có thể góp phần vào sự phát triển đi lên của đất

nước. Nhưng cuộc đời ông đã phải trải qua những sóng gió, thăng trầm của cuộc

đời. Năm 1976, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc với danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”

ông được vua Lê Chiêu Thống mời về triều. Ông được Lê Hiển Tông gả công chúa

Ngọc Hân cho. Năm sau, Hiển Tông mất, Lê Chiêu Thống lên ngôi ông được vua

Lê Chiêu Thống mời về triều. Tình hình chính sự hết sức rối ren, các bè phái mưu

đồ thanh toán lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Nguyễn Huệ rút quân về Nam, các

thế lực quân phiệt cát cứ đánh lộn lẫn nhau, vua Lê phải triệu Nguyễn Hữu Chỉnh từ

Nghệ An ra đánh dẹp. Nguyễn Hữu Chỉnh thâu tóm mọi quyền hành, lấn át vua Lê.

Lê Chiêu Thống vời Vũ Trinh vào chầu bàn mưu giết Hữu Chỉnh. Vũ Trinh can vua

rằng: “Chỉnh cố nhiên là đáng giết, nhưng bên ngoài có giặc dữ mà bên trong lại

giết kẻ cường thần, chưa nên tự gây biến trước”vua nghe theo nên Bắc Hà tạm

tránh được sự tổn thất của một cuộc thanh toán nội bộ lớn. Nguyễn Huệ tiến quân ra

Bắc lần thứ hai, Hữu Chỉnh bị giết, Lê Chiêu Thống chạy sang Kinh Bắc. Cha con

33

Vũ Trinh đón vua dốc hết sản nghiệp lo vào việc quân và theo Lê Chiêu Thống chạy

trốn ở các vùng Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam… Khi Tôn Sĩ Nghị đem quân sang

xâm lược, các cựu thần văn võ nhà Lê đều lẩn tránh chạy trốn cả. Lê Chiêu Thống

sai Vũ Trinh đi đón rước, đem trâu rượu đi khao quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị hỏi Vũ

Trinh về tình hình trong nước, Trinh ứng đối giỏi, được Nghị khen là có tài hùng

biện. Chiêu Thống dựa vào quân Thanh trở về Thăng Long phong cho Vũ Trinh là

Tham tri chính sự.

Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), khi vua Quang Trung đánh tan quân xâm

lược nhà Thanh, Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị chạy sang Trung Quốc. Vũ Trinh

chạy không theo kịp vua Chiêu Thống sang Bắc quốc, lui về quê quán, không chịu

ra làm quan cho Tây Sơn. Đến cuối những năm chín mươi của thế kỉ XVIII, Vũ

Trinh ra Thăng Long sinh hoạt với nhóm trí thức Thăng Long xung quanh thiền

viện của Ngô Thì Nhậm ở phường Bích Câu. Năm 1802 nhà Tây Sơn bị diệt, Gia

long lên ngôi mời các cựu thần nhà Lê đến yết kiến. Vũ Trinh được giao chức Thị

trung học sin theo Gia Long về Phú Xuân. Năm 1803 hài cốt Chiêu Thống được

đưa về nước, bộ Lễ bàn chỉ chon cất theo nghi lễ thường dân, chỉ ghi tên không ghi

hiệu vì Chiêu Thống là ông vua mất nước. Vũ trinh đã xin Gia Long ban lễ hậu và

cho được giữ nguyên tên hiệu để tỏ cái nghĩa đối với triều đại đã mất. Được Gia

long đồng ý, Vũ trinh lấy cơ là “bề tôi của của nhà Lê” xin từ chức về Bắc để lên

cửa quan đón tang. Gia Long khen ông là người có nghĩa nhưng không cho ông từ

chức mà nhân đó giao việc khám xét đê điều Bắc Thành sau đó lại triệu về kinh.

Trong thời gian làm quan cho nhà Nguyễn ông đã có rất nhiều đóng góp và thể hiện

năng lực của mình

Vũ Trinh là người học vấn uyên bác, văn chương hàm súc, trau chuốt. Trong

sự nghiệp sáng tác của Vũ Trinh, tác phẩm giữ vị trí quan trọng nhất là Lan Trì kiến

văn lục, hay còn gọi là Kiến văn lục. Lan Trì kiến văn lục là một tập truyện truyền

kỳ có 45 truyện, viết bằng văn xuôi chữ Hán. Tác phẩm viết về nhiều chủ đề khác

nhau: Chuyện tình yêu nam nữ, chuyện báo ứng luân hồi, chuyện đền ơn trả nghĩa,

chuyện giáo dục thi cử, chuyện kỳ quái khó tin,… Phần lớn những truyện được Vũ

Trinh sáng tác trên cơ sở những truyền thuyết lưu hành trong dân gian đương thời

34

mà Vũ Trinh thu thập được trong những năm về ẩn ở vùng Hồ Sơn (Nam Định).

Bên cạnh một số truyện tản mạn, gặp gì ghi lấy, kể thì tập truyện của Vũ Trinh khá

nhất quán về chủ đề tư tưởng cũng như về phong cách nghệ thuật. Phá vỡ “khuôn

phép” của những con người thời đại là chủ đề nổi bật nhất trong tác phẩm. Sự phá

vỡ đó vừa theo hướng tiêu cực và tích cực. Ở đó, con người thường rơi vào tình

cảnh bi đát cùng cực, nhưng chính trong hoàn cảnh đó, những phẩm chất tốt đẹp

được ngời sáng, những gì cao quý nhất, người nhất được lan tỏa. Đặc biệt, Vũ Trinh

rất trân trọng yêu mến phụ nữ. Bởi thế có thể nói, đề tài chiếm ưu thế trong tác

phẩm là nói về số phận, vẻ đẹp tỏa sáng, sức sống trường tồn của người phụ nữ.

Ông luôn dành tình cảm yêu thương, trân trọng những thân phận đầy bất hạnh. Ông

xót xa trước những bi kịch của con người và ngợi ca những thân phận bị cuộc đời

dày xéo song phẩm chất vẫn tỏa sáng. Bên cạnh những truyện ngắn hay, có hồn, có

sức lôi cuốn mạnh mẽ thì còn có những truyện vô vị, nhạt nhẽo, rất đỗi bình thường.

Những truyện thành công của Vũ Trinh đều được đầu tư khá công phu. Hầu hết

những truyện hay đó đều được viết ngắn gọn, chặt chẽ, súc tích, đầy kịch tính, tình

huống gay cấn hấp dẫn. Tư tưởng của truyện hầu như được hình thành từ các sự

kiện, cốt truyện, có sức khơi gợi lớn, luôn làm cho độc giả phát huy trí tưởng tượng

cao độ. Truyện của Vũ Trinh có sức hấp dẫn, lôi cuốn cực mạnh đến với người đọc

là ở chỗ, truyện đã tạo được một bức tranh tương phản rõ rệt. Bút pháp của Vũ

Trinh tinh giản, truyện ông viết thường vắn tắt và không phải truyện nào đọc cũng

thích, nhưng ở mỗi truyện thành công, mỗi chi tiết được kể vắn tắt đều đóng một vị

trí quan trọng không thể thay thế được. Phải chăng đó chính là bí quyết của một cây

bút truyền kỳ truyện ngắn đầy tài năng.

Tóm lại Lan Trì kiến văn lục là tác phẩm cuối cùng của loại hình truyện

truyền kì Việt Nam thời trung đại. Đó là một cống hiến đặc sắc của Vũ Trinh cho

văn học nước nhà. Ghi lại những điều mắt thấy tai nghe ở khoảng trời đất vô cùng

này, tưởng chừng như đó chỉ là những câu chuyện khô khan nhưng đằng sau nó lại

là một tấm lòng bao la độ lượng ẩn chứa một nhân sinh quan tiến bộ sâu sắc. Lan

Trì kiến văn lục đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của truyện truyền kỳ

Việt Nam trên nhiều phương diện, song đặc biệt là phương diện phản ánh hiện

thực cuộc sống.

35

1.2.2.3. Vị trí của tập truyện trong lịch sử truyện truyền kì trung đại.

Cũng như Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu

lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, Lan Trì kiến văn lục tiếp nối dòng truyện

truyền kì, bắt đầu từ thế kỉ XVI với Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ... Và có thể

nói, theo PGS. TS. Nguyễn Đăng Na thì đây là “tác phẩm cuối cùng của loại hình

truyền kì Việt Nam thời trung đại”. [20, tr.419].

Vũ Trinh viết Lan Trì kiến văn lục (chép những chuyện nghe và thấy của Lan

Trì) vào thời gian ông ẩn nhẫn ở Hồ Sơn. Khoảng những năm 1793-1794 cuối đời

Tây Sơn, đầu đời Gia Long. Những điều thấy và nghe (kiến văn) khi làm quan ở

triều, khi lánh nạn, tiếp xúc với bao người, những chuyện nơi đồng quê, ngõ chợ,

kết hợp với những điều trong sách vở thánh hiền đã được Vũ Trinh ghi lại một cách

chân thực và nghệ thuật. Sáng tác của ông nói đến nhiều việc, nhiều chuyện, lúc thật

lúc ảo, nhưng hầu hết đều ngụ ý sâu xa như một nỗi niềm tâm sự, khao khát cuộc

sống yên bình. Nó là tấm gương phản chiếu không tô vẽ. Đó là những câu chuyện

hết sức đời thường, là câu chuyện về người con trai nửa đêm trèo tường vào nhà

người yêu tỏ tình “Trạng Nguyên họ Nguyễn”, đó cũng có thể là chuyện một người

ca nữ hết lòng hết dạ vì người yêu, lo cho người yêu ăn học thành tài nhưng bản

thân mình lại chịu số phận hẩm hiu “Ca kĩ họ Nguyễn”. Bên cạnh đó những câu

chuyện trong Lan Trì kiến văn lục là có thật, tác giả chỉ ra cụ thể rõ ràng tên tuổi,

địa chỉ của nhân vật hoặc ghi rõ ai là người chứng kiến sự việc. Truyện truyền kì

đến giai đoạn này còn có một đặc điểm khác với giai đoạn trước, đó là hầu hết các

truyện truyền kì đều có xen thơ từ với một mức độ vừa phải thì ở giai đoạn này Lan

Trì kiến văn lục giảm lược đến mức không còn bài thơ nào trong truyện truyền kì.

Muốn đảm bảo tiêu chí bám sát hiện thực cuộc sống, phản ánh trực tiếp những điều

đang xảy ra trong xã hội đương thời nên tác phẩm của Vũ Trinh cũng giảm đi yếu tố

hoang đường kì ảo. Việc tác giả trung thành với hiện thực cuộc sống là một sự tiến

bộ trong nội dung tư tưởng, nhưng theo nhận xét của PGS. TS. Nguyễn Đăng Na và

một số tác giả khác, về nghệ thuật điều đó đã khiến cho truyền kì có một bước lùi

khi tác giả Vũ Trinh đã không đưa người đọc đến với thế giới kì ảo bay bổng vốn là

đặc trưng nổi bật của thể loại này. Nhìn chung, tác giả khá nhạy bén với cái mới.

36

Trong đó viết về tình yêu của các nhân vật do Vũ Trinh tạo nên thật say đắm, đến mức

nhục cảm, và ông trình bày nó như là hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ. Đấy là

nét rất đặc biệt trong văn chương nước ta thế kỷ XVIII. Một ca kỹ có nhân cách với

một tình yêu đầy chủ động “Ca kỹ họ Nguyễn”, một người con gái mang mối tình thủy

chung nhưng oan trái đến bạc mệnh “Nợ tình ở Thanh Trì”, một thiếu nữ nghèo mắc

bệnh nan y vẫn sống hết mình cho tình yêu “Tháp Báo Ân”...Về những con người này,

ngòi bút của tác giả luôn tỏ ra trân trọng, và yêu mến lạ thường.

Như vậy Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh đã ít nhiều phản ánh quá trình

phát triển của truyện truyền kì nói riêng của văn tự sự Việt Nam chung. Từ đó có

thể khẳng định vị trí của thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc

nói chung và của văn học trung đại nói riêng. Nghiên cứu lịch sử phát triển của văn

học Việt Nam không thể không xem xét sự phát triển của truyền kì trong dòng chảy

của văn học dân tộc.

37

Tiểu kết Chương 1

Trong Chương 1, chúng tôi đã tìm hiểu một số vấn đề lý luận và thực tiễn

có liên quan đến đề tài. Chúng tôi đã nêu lên những khái niệm cơ bản về thể loại

truyền kì cùng sự hình thành và vị trí của truyện truyền kì, về chủ đề tình yêu nam

nữ. Có thể nói truyền kì là một trong những thể loại quan trọng của văn học trung

đại Việt Nam. Bên cạnh đó là những nét chung về tác giả và tác phẩm mà luận văn

nghiên cứu. Qua sự trình bày, chúng tôi khái quát được quá trình vận động phát

triển của một giai đoạn lịch sử tương đối dài với những biến cố lớn của cả dân tộc

(từ thế kỉ XV đến nửa đầu thế kỉ XIX) tương ứng với các diễn biến của lịch sử xã

hội là sự phát triển đổi thay của một thể loại văn học.

Trong văn học nói chung và thể loại truyền kì nói riêng thì nội dung giữ vị

trí quan trọng trong tác phẩm. Riêng với truyện truyền kì, yếu tố kì ảo thì không thể

thiếu, nó trở thành đặc trưng của thể loại, và cách xây dựng chủ đề tình yêu nam nữ

để tác giả khẳng định vị trí, vai trò, sự hấp dẫn và thành công cho tác phẩm thuộc

thể truyền kì này. Về mặt thực tiễn chúng tôi cũng điểm qua hai tác phẩm truyền kỳ

tiêu biểu của giai đoạn văn học thế kỷ XV đến thế kỉ XIX là Truyền kì mạn lục, Lan

Trì kiến văn lục để có cái nhìn khái quát về diện mạo của thể loại truyền kỳ giai

đoạn này đồng thời có những hình dung bước đầu về hệ thống các chủ đề mà các tác

giả đề cập đến trong những tác phẩm này. Đây là những cơ sở quan trọng để chúng

tôi tìm hiểu cụ thể đặc điểm cũng như ý nghĩa của loại truyện truyền kì trong việc

phản ánh nội dung tư tưởng của tác phẩm ở những chương sau của luận văn.

38

Chương 2

NỘI DUNG PHẢN ÁNH CHỦ ĐỀ

TÌNH YÊU NAM NỮ TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ

(QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)

2.1. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ

Những sáng tác của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh trong hai tập truyện đặc sắc

cả về nội dung và hình thức thể hiện. Chúng tôi đã khảo sát được những truyện viết

về chủ đề tình yêu nam nữ. Trong Truyền kì mạn lục: có 4/20 truyện: Chuyện cây

gạo, Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, Chuyện yêu quái

ở Xương Giang. Trong Lan Trì kiến văn lục: có 5/45 truyện: Sống lại, Ca kỹ họ

Nguyễn, Câu chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp báo ân, Trạng nguyên họ Nguyễn. Sau

đây chúng tôi sẽ khảo sát một số phương diện nội dung của chủ đề tình yêu nam nữ

trong hai tập truyện.

2.1.1. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ trong Truyền kì mạn lục

“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ là tác phẩm truyền kì đặc sắc, hấp dẫn,

nhất là những truyện viết về tình yêu nam nữ, đặc biệt là tình yêu giữa người với

yêu ma, hồn hoa, người. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy

sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu

đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống

đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và

phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng

bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị

đương thời. Trong Truyền kì mạn lục viết về tình yêu của các chàng trai với các hồn

ma là chuyện tưởng tượng nhưng tình tiết diễn ra hợp với logic tâm lý con người.

Tình yêu nam nữ là chuyện bình thường của người đời. Nhưng tình yêu của nam

nhân với hồn ma là chuyện không bình thường. Không biết là ma là bởi bị mê hoặc,

đã biết thì không thể không sợ, không trốn chạy. Nhưng đã bị ma làm thì khó tránh

được tai hoạ. Ở những chuyện của Nguyễn Dữ, các chàng trai đều là những người

trẻ tuổi, đang ở trong cơ hội thành đạt. Cuộc đời mối người chưa rơi vào mâu thuẫn

giữa hiện thực và ước nguyện, cũng không gặp những bế tắc cần tìm phương cách

39

giải toả. Hà Nhân “Tây viên kỳ ngộ kí” là học trò lên kinh sư tìm thầy học để chuẩn

bị ứng thi. Trình Trung Ngộ “Mộc miên thụ truyện” là “một chàng trai đẹp, nhà rất

giàu, thuê thuyền xuống vùng Nam buôn bán”. Viên quan họ Hoàng “Xương Giang

yêu quái lục” người Bắc Giang xuống kinh đô nhận chức, gặp mĩ nhân, sự đam mê

nữ sắc biến thành sức lôi cuốn mạnh mẽ, khó cưỡng lại. Hà Nhân bèn rủ hai cô gái

về nhà trọ, Trình Trung Ngộ đưa cô gái xuống thuyền của mình…Ở đây đến với

tình yêu trai gái, nhân vật không phải phấn đấu trên con đường đi tìm hạnh phúc,

cũng không tự giác nhân thấy mình đã tìm được hạnh phúc đích thực. Với họ chỉ

đơn giản là chạy theo sự cám dỗ, đắm đuối trong hành lạc mà quên đi, đánh mất đi

mục đích của mình, thậm chí đánh mất cả mạng sống.

Cuộc kỳ ngộ giữa các chàng trai và hồn ma trong Truyền kì mạn lục phần lớn

chỉ diễn ra vào ban đêm trong thời gian ngắn ngủi. Hà Nhân dan díu với hai hồn ma

(Đào nương, Nhu nương) trong gần một năm. Trình Trung Ngộ qua lại với hồn ma

Nhị Khanh hơn một tháng. Viên quan họ Hoàng gắn với hồn ma Thị Nghi một

tháng. Nguyễn Dữ đã dành 11/16 trang viết miêu tả những cuộc gặp gỡ hoan lạc

giữa các nhân vật bằng những lời văn dạt dào cảm xúc yêu đương. Đó là câu chuyện

tình yêu giữa thư sinh Hà Nhân với hai hồn hoa Đào, Liễu trong truyện “Chuyện kì

ngộ ở trại Tây”. Hà Nhân lên kinh để học thi, hay đi qua trại Tây và gặp được hồn

hoa Đào, Liễu của một gia tộc đã lụi tàn cách đó 20 năm. Hoa sinh ra là để cho

người thưởng, người ngắm, hồn hoa Liễu Nhu Nương, Đào Hồng Nương đang độ

xinh đẹp, quyến rũ cũng khao khát được người yêu, người thưởng trước khi tàn úa

vào mùa đông. Đào, Liễu có tài làm thơ rất hay, thường đối đáp thơ với thư sinh Hà

Nhân. Đối với Hà Nhân, hai nàng Đào, Liễu ngoài mối tình đến từ dục vọng bản

năng còn có thể gọi các nàng là tri kỉ, cùng chung chăn gối đêm đêm, cùng nhau

làm thơ, lại thấu hiểu chàng. Hà Nhân si mê các nàng quên cả chuyện thi cử học

hành, từ chối cả hôn lễ cha mẹ sẵn sắp đặt nơi quê nhà. Hà Nhân tự thấy chuyện của

mình sánh với Bùi Hàng và vượt cả Tăng Nhụ ngày trước. Chuyện tình yêu giữa Hà

Nhân và hai hồn hoa là chuyện tình yêu giữa tài tử với giai nhân đẹp như những câu

chuyện trong Liêu Trai chí dị - Bồ Tùng Linh (Trung Quốc). Qua câu chuyện tình

yêu ấy, Nguyễn Dữ cũng nói lên một mong muốn hết sức chính đáng của con người

40

thời ấy, họ khao khát yêu đương tự do, không có sự can thiệp của gia đình và quan

niệm môn đăng hộ đối, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Họ muốn tự do tìm hiểu, yêu

đương, tự do ái ân và tự do định đoạt hạnh phúc. Dù trong thời gian ngắn ngủi

nhưng có thể nói chàng thư sinh Hà Nhân và hai hồn hoa Đào, Liễu đã đạt được

mong ước của mình, thỏa mãn khát vọng tình yêu, nhục dục. Khi tiết đông đến, hoa

cỏ tàn lụi, hai nàng cũng thác về đất, thương nhớ hai nàng, Hà Nhân bán ít đồ của

mình để làm lễ nhỏ và một bài thơ đưa tiễn hai nàng. Câu chuyện ấy ngắn ngủi

nhưng đẹp đẽ giống như vừa tỉnh một giấc mộng vậy.

Tiếp theo là chuyện tình yêu giữa người với người trong “Chuyện nghiệp oan

của Đào Thị”. Chuyện kể về nàng ca kỹ ở Kì Sơn, có tài văn học, gọi là Đào Hàn

Than. Nhân một lần nàng làm thơ nối vần bài thơ của vua Dụ Tôn, có hai chữ “hàn

than”, nàng được vua khen, nhân đó gọi là “ả Hàn Than”. Hai chữ ấy thành tiểu tự

của nàng. Vua Dụ Tôn mất, nàng phải thải ra ở ngoài phố, thường đi lại nhà quan

Hành khiển là Nguỵ Nhược Chân. Vợ Hành khiển không có con, tính lại hay ghen,

ngờ nàng tư thông với chồng, bắt nàng đánh một trận rất là tàn nhẫn. Tức tối vô

cùng, nàng thuê thích khách vào nhà Nguỵ Nhược Chân để trả thù. Việc không

thành, lại bị bại lộ, nàng phải trốn đến tu ở chùa Phật Tích. Nàng dựng ra am Cư

Tĩnh, hội họp các văn nhân để xin một bài bảng văn. Chỉ vì nói đùa một cậu học trò

chừng 14, 15 tuổi, nàng bị cậu ta dò hỏi gốc tích rồi làm bài văn chế giễu. Hàn Than

lại phải trốn đến chùa Lệ Kỳ. Sư cụ Pháp Vân thấy nàng quá nhan sắc đã khuyên sư

bác Vô Kỷ không nên nhận nàng. Vô Kỷ không nghe, sư già lập tức dời lên núi

Phượng Hoàng. Ở với Vô Kỷ, hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, hàng ngày

thường làm thơ ngâm vịnh, chẳng để ý gì đến kinh kệ nữa. Năm Kỷ Sửu, Hàn Than

có thai, ốm lay lắt từ mùa xuân đến mùa hạ rồi quằn quại chết trên giường cữ. Vô

Kỷ quá thương xót nàng cũng ốm nặng. Một đêm Hàn Than hiện về xin Vô Kỷ về

chốn suối vàng để cùng nàng đầu thai trả thù cái nợ oan gia ngày trước. Ít lâu sau,

Vô Kỷ chết. Oan hồn hai người đầu thai vào nhà Nguỵ Nhược Chân làm hai con trai

là Long Thúc và Long Quý. Chỉ còn mấy tháng nữa là đến dịp trả thù thì họ bị một

vị thầy tu phát hiện, cuối cùng bị sư cụ Pháp Vân trừng trị.

41

Qua những câu chuyện tình yêu về mặt khách quan tác phẩm thể hiện giá trị

nhân đạo sâu sắc: phản ánh số phận con người qua số phận người phụ nữ cho dù đó

là yêu, ma, hồn. Nguyễn Dữ đồng cảm với những khát vọng ân ái của con người,

những khát vọng chân chính của người phụ nữ - khát vọng sống, khát vọng tình yêu

đôi lứa. Truyền kỳ mạn lục còn có nhiều trang văn say sưa miêu tả những khoái lạc

trần thế của con người. Nho sinh Hà Nhân và hai nàng Đào, Liễu đắm chìm trong

hoan lạc: “Tựa ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát sóng hoa đào nghiêng ngả”.

Trong Truyền kỳ mạn lục, những khát vọng giải phóng bản năng phần nhiều do

người phụ nữ chủ động khêu gợi. Trong “Cuộc kỳ ngộ ở trại Tây”, các nàng Đào,

Liễu đã nói với Hàn Nhân: “Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em muốn làm những

bông hoa hướng dương để khỏi hoài phí mất xuân quang”. Còn Nhị Khanh trong

“Chuyện Cây gạo” bày tỏ ước vọng với Trình Trung Ngộ: “Nghĩ đời người ta, thật

chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những

thú vui, kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc

hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa”. Những người phụ nữ này chọn cách kiếm

tìm và tận hưởng tình yêu, hạnh phúc trần gian, kiếm tìm hạnh phúc với người trần

thế sau khi mình đã thuộc về cõi khác. Họ là ma, là tiên, nhập vào đời sống trần

gian để tìm bạn tình, tìm người tri âm, hưởng hạnh phúc, khoái lạc. Nhưng rồi tình

yêu và hạnh phúc với họ cũng thật ngắn ngủi, niềm khát khao rất "người " của họ

sớm bị dập tắt, và họ đều phải nhận những kết cục bi thảm: Nhị Khanh cùng Trình

Ngộ bị đạo sĩ làm phép, lính đầu trâu trói gông đưa về âm phủ; Hai nàng Đào, Liễu

bị cơn giông bão dập nát không còn hiện hồn được nữa; Hàn Than và Vô Kỷ cuối

cùng bị sư cụ Pháp Vân trừng trị.

Truyền kì mạn lục và những câu chuyện tình yêu đẹp đẽ, nồng nàn, hết mình của

đôi lứa một thời. Nó là biểu trưng cho khát khao tự do yêu đương, tự do luyến ái của con

người, đặt trong hoàn cảnh tác phẩm ra đời, ta càng thấy ý nghĩa sâu sắc của nó.

2.1.2. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ trong Lan Trì kiến văn lục

Nội dung Lan Trì kiến văn lục khá đa dạng phong phú. Thông qua khảo sát,

chúng tôi đã thống kê được 5/45 thiên truyện viết về tình yêu nam nữ. Đó là những

thiên truyện sau: Sống lại, Câu chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp báo ân, Ca nữ họ

42

Nguyễn, Trạng nguyên họ Nguyễn. Tình yêu đôi lứa qua ngòi bút của Vũ Trinh

biểu hiện những sắc màu khác nhau. Hầu hết là những câu chuyện tình thật cảm

động. Trong truyện “Sống lại”, tình yêu của cô gái và chàng trai thật đẹp, dù trải

qua bao sóng gió nhưng tình yêu mà họ dành cho nhau mãi còn vẹn nguyên. Người

đọc gặp ở đây một nam tử si tình đến khác lạ giữa thời đại Nho giáo. Sinh yêu cô

gái từ thuở còn là hàn sĩ đến khi đã thành danh; yêu khi nàng còn son đến khi nàng

đã lấy chồng; tình yêu đem lại sức mạnh cho chàng cứu sống người mình yêu từ cõi

chết trở về. Cô đã được tái sinh trở về trần gian sau mấy ngày bị chôn vùi dưới mồ

và sức mạnh của tình yêu đã đánh bại được tử thần. Dù thân xác có bị chôn vùi dưới

mồ nhưng con tim tình yêu vẫn luôn cháy bỏng. Nỗi mong mỏi cuộc sống tốt đẹp

của cô gái đã được đền đáp. Cô được trở về sống với Sinh trong cùng một mái nhà.

Từ trong cõi chết sống lại, cô như rũ bỏ những gì tầm thường, để trở lại với những

gì thánh thiện nhất của tình yêu. Nếu như tình yêu của cô gái trong “Sống lại” dẫu

phải trải qua bao khó khăn, trắc trở nhưng cuối cũng vẫn là bến đỗ của hạnh phúc,

của tình yêu tràn đầy thì câu chuyện tình yêu của cô gái trong “Câu chuyện tình ở

Thanh Trì” cũng khiến người đọc thương cảm, xúc động. Tình yêu vẫn là sắc màu

thủy chung muôn thuở. Người ta yêu nhau rồi chia ly cách trở. Kẻ chờ đợi vô vọng

rồi chết mà khối tình vẫn kết đọng sắt son. Người con gái chết rồi mà mối tình

mang xuống cõi tuyền đài còn mãi mãi. Người ra đi kia quay trở về thì người yêu đã

chết, chàng cũng ôm cô tình mà không muốn lấy ai! Lan Trì đã tái hiện lại câu

chuyện tình được lưu truyền trong dân gian với sự hoán đổi một số chi tiết. Đó

chính là câu chuyện cổ tích Trương Chi (hay Khối tình mang xuống tuyền đài chưa

tan) quen thuộc. Chàng Trương Chi nghèo khó làm nghề lái đò trên sông nước. Bên

sông có cô gái nhà quan xinh đẹp trong phủ các. Trương Chi có giọng hát mê hồn.

Chàng thường hát khi chèo đò trên sông. Cô gái nhà kia mê giọng hát của anh chàng

lái đò bần khó mà hóa bệnh tương tư. Chàng được mời đến “chữa bệnh” cho người

con gái. Vì Trương Chi có khuôn mặt xấu xí nên cô gái không thể yêu được chàng.

Cô ta hết bệnh. Tuy vậy, chàng lái đò kia lại mắc vào ái tình. Chàng quay về sông

nước ôm mối cô tình đơn phương. Rồi một ngày kia anh chết. Xác anh hóa thành

cây gỗ trên sông. Nhà cô gái được gỗ ấy, đem tiện làm bộ đồ trà. Có điều lạ là: khi

43

chén không có nước thì đáy chén có bóng người chèo đò; khi nước đầy chén thì

không thấy bóng hình đó. Người con gái nhà quan đã thấu được oan tình anh lái đò

ngày nào. Nước mắt cô rơi vào đáy chén, chén vỡ ra một màu tía hồng như máu.

Oan hồn Trương Chi được cô gái “giải thoát” mà thỏa nguyện chăng? Gợi lại lời kể

dân gian để thấy rằng, Vũ Trinh đã hoán đổi cái chết của chàng trai lái đò trong

truyện dân gian sang cái chết cho cô gái trong truyện của mình. Cái tình yêu “đuổi

bắt” nhau trong cốt truyện dân gian đã trở thành tình yêu “sóng đôi” cho hai nhân

vật của ông. Chàng trai của Vũ Trinh không còn phải mang gương mặt xấu xí như

kiểu truyện nhân vật xấu xí tài ba của cổ tích thần kì. Vũ Trinh hướng tới sự toàn mĩ

cho nhân vật của ông trong lòng độc giả.

Một câu chuyện tiếp mạch của chủ đề tình yêu nam nữ là “Tháp báo ân”.

Chuyện vừa có thứ tình yêu tranh chấp với số phận của cô gái mang bệnh nan y lại

vừa có thứ tình yêu dâng hiến, thứ tình yêu vị tha của nàng. Ở đó, người đọc cũng

nhận thấy tình cảm ân nghĩa sâu nặng của chàng sĩ tử ngày nào đối với một người

con gái bạc mệnh; một hành xử ân tình thủy chung của kẻ có học, tri ân một người

đã thay đổi số phận cho mình. Cô gái xinh đẹp trong truyện đã mắc chứng bệnh

phong, mọi người đều xa lánh. Cho đến một đêm mưa gió, cuộc đời cô như được tái

sinh. Chàng thư sinh trên đường khoa cử đã nương nhờ qua đêm tại nhà cô gái,

duyên số gặp nhau, run rủi cho họ. Ân tình đằm thắm, cô gái mãn nguyện trong

hạnh phúc tràn đầy. Rồi Sinh cũng phải từ biệt cô gái lên kinh đi thi, còn đối với cô

gái thì dư âm ngọt ngào chưa tan đi, âu sầu lại ngập đến. Cô đớn đau, day dứt dằn

vặt không thôi: “Đời tàn nhơ bẩn, may được gặp nhau trong bóng tối. Nếu nhìn

nhau lúc sáng trời thì một tối giao hoan đâu mà có được!. Ai hay một độ gió xuân

lại tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận đến suốt đời! Hỡi ơi Lưu lang, với mặt

mũi này mà gặp lại chàng, thiếp chịu đựng sao nổi!”. Cô gái cứ tự hỏi rồi triền

miên trong đau buồn, âu sầu rồi chết. Cô ra đi mang theo mối tình chung còn bỏ dở.

Hình đã nằm xuống đây mà bóng đã theo chàng Sinh lâu rồi. Nỗi khát khao yêu

thương vẫn chưa hết. Vì nặng tình yêu thương mà nàng không thể để Sinh một mình

đương đầu với những thử thách ở thế gian. Mảnh hồn tàn đã trở về trần gian cầu

vinh danh cho người yêu. Qua câu chuyện tình buồn này, ta thấy tình yêu của cô gái

44

dành cho chàng Sinh thật vị tha. Nàng đã hy sinh tất cả cho người mình yêu, chung

tình hết đỗi và tình yêu ấy cũng được đền đáp một cách xứng đáng. Dù mối duyên

đầu trao nhau không có tờ hôn thú, dù nàng đã nằm xuống nhưng chàng Sinh đã coi

nàng là vợ, an táng nàng theo lễ vợ chồng. Chỉ đó thôi cũng làm nàng an lòng và

mỉm cười hạnh phúc nơi chín suối.

Viết về chủ đề tình yêu nam nữ, Vũ Trinh rất trân trọng và yêu mến người

phụ nữ. Họ hiện lên thật đẹp với tính cách và phẩm chất cao quý. Qua đó cho ta

thấy, người phụ nữ trong xã hội phong kiến có sức chịu đựng phi thường, có sức

sống dẻo dai, mãnh liệt. Tình yêu nam nữ là chủ đề nổi bật của Lan Trì kiến văn lục.

Đề cập đến nét nổi bật đó, GS. Nguyễn Huệ Chi viết: “... Bên cạnh những con

người hoang dâm, lạm dụng uy quyền (Hầu - Đười ươi), những kẻ giết con (Hiệp hổ

- Hổ nghĩa hiệp), giết vợ (Tái sinh - Sống lại)... là những con người có những phẩm

chất cao quý, nhất là ở giới phụ nữ. Một ca kỹ có nhân cách với một tình yêu đầy

chủ động (Người ca kỹ - Ca kỹ họ Nguyễn), một người con gái (Con của phú ông)

mang mối tình thủy chung nhưng oan trái đến bạc mệnh (Thanh Trì tình trái - Nợ

tình ở Thanh Trì), một người đàn bà dệt vải có chồng vẫn khao khát yêu đương (Tái

sinh - Sống lại), một thiếu nữ nghèo mắc bệnh nan y vẫn sống hết mình cho tình yêu

(Báo ân tháp - Tháp báo ân)... Về những con người này, ngòi bút của tác giả luôn tỏ

ra trân trọng, và yêu mến lạ thường... Nhìn chung, tác giả thường nhạy bén với cái

mới. Và, tình yêu trong truyện của ông thường say đắm, và đôi khi tới mức nhục

cảm (Báo ân tháp).” [2, tr.2034]. Ngòi bút của tác giả giúp bạn đọc nhận rõ những

nhân vật được khắc họa đều thủy chung, vị tha, khao khát vươn tới tình yêu, hạnh

phúc, vươn tới cuộc sống tốt đẹp. Trang văn của ông biểu lộ sự ngợi ca và thông

cảm sâu sắc. Những câu chuyện của người phụ nữ đã gợi cho người đọc sự cảm

thương xót xa bởi khắc nghiệt của thời đại khiến họ phải chết khi còn trẻ trung, xinh

đẹp, khi sức sống tràn đầy (Sống lại, Tháp báo ân).

Tình yêu vẫn là sắc màu thủy chung muôn thuở. Người ta yêu nhau rồi chia ly

cách trở. Kẻ chờ đợi vô vọng rồi chết mà khối tình vẫn kết đọng sắt son. Người con gái

chết rồi mà mối tình mang xuống cõi tuyền đài còn mãi mãi. Phải chăng thành công

của Vũ Trinh khi lấy cái kỳ lạ để chuyển tải một tình yêu đẹp là ở chỗ đó.

45

2.2. Sự vận động của chủ đề tình yêu nam nữ qua hai tập truyện

Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào khác đều

phát triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn học dân gian. Kho tàng

truyện kể dân gian người Việt bao gồm các truyện kể miệng như thần thoại, truyền

thuyết, cổ tích… đã xuất hiện từ rất xa xưa, trước khi có chữ viết. Trong đó nhiều

truyện kì vĩ nói về cội nguồn dân tộc, giống nòi, có phần chắc là đã xuất hiện từ

thời Văn Lang - Âu Lạc, và vượt qua mọi thử thách của thời gian với một sức sống

trường tồn bất diệt. Chính vì vậy mà khi từ thời khởi phát, nền văn học viết dân tộc,

trong đó có văn xuôi tự sự, đã không thể không lấy các truyện kể dân gian làm nền

tảng. Và cứ thế suốt mười thế kỉ, kho tàng truyện kể dân gian vẫn cứ luôn luôn như

là một tác nhân mạnh mẽ, chẳng những đã góp phần vào sự hình thành của các thể

loại văn học tự sự mà còn luôn giữ vai trò cơ sở tư tưởng - thẩm mĩ trong các thể

loại đó. Mối quan hệ giữa văn học viết trung đại Việt Nam và văn học dân gian biểu

hiện ở chỗ: văn học viết tiếp thu văn học dân gian từ đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan

niệm thẩm mĩ ở khía cạnh ngôn ngữ và thể loại. Trong quá trình phát triển hai thể

loại luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn nhau để cùng phát triển.

Văn học dân gian là nền tảng của sự hình thành các thể loại tự sự, các tập văn xuôi

chữ Hán, các truyện Nôm và các tập thơ ca của các tác giả…

Dấu ấn văn học dân gian trong văn xuôi trung đại là bằng chứng xác thực

khẳng định ảnh hưởng mạnh mẽ của nó đối với văn học viết. Từ những môtip, cốt

truyện dân gian, các tác giả văn xuôi trung đại đã hư cấu thành những câu chuyện

hoàn chỉnh, vừa có yếu tố hiện thực vừa có yếu tố lãng mạn, vừa có tính tư tưởng

sâu sắc vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Kho tàng truyện dân gian với nhiều tín ngưỡng mà vào lúc thịnh thời của chế

độ phong kiến, nhiều nhà nho coi là dị đoan, đến giai đoạn này được khai thác rộng

rãi như giấc mộng, điềm báo, sự thụ thai thần kì, cầu cúng khấn vái, biến hóa linh

dị…thì yếu tố văn học dân gian trong hai tập truyện Truyền kì mạn lục và Lan Trì

kiến văn lục đã thể hiện rất rõ. Các tác giả đã tiếp thu và sáng tạo có chọn lọc những

yếu tố hoang đường thần kì ấy vào tác phẩm của mình. Thần, tiên, ma quái,

quỷ…xuất hiên trong hai tập truyện vừa tỏ ra rất gần gũi với những hình ảnh dân

gian tưởng tượng nhưng lại rất khác biệt bởi sự sáng tạo của các nhà văn này. Tuy

46

nhiên sáng tạo của các nhà văn thiên về phản ánh hiện thực, phản ánh con người

trần thế, với những đau khổ, sung sướng, hy vọng, khát vọng tự do yêu đương.

Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục đã đưa môtip truyện dân gian như “lấy

vợ kì dị”, “gặp gỡ người chết”, “xuống thủy cung”, “đối thoại người sống và người

chết… để tạo ra câu chuyện mới. Qua nghệ thuật truyền kì, Nguyễn Dữ, đã làm cho

văn xuôi chữ Hán mang màu sắc Việt Nam đậm nét khi ông khéo khai thác những

đề tài, cốt truyện và cả tinh thần tư tưởng chung của truyện dân gian. Có thể thấy

tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ vừa có sự tương đồng vừa có sự tiếp

nối, phát triển trên nền tảng kiểu thức xây dựng cốt truyện dân gian. Đặt trong mối

quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết dưới thời trung đại, hiện tượng

Truyền kỳ mạn lục dường như là minh chứng xác đáng cho xu thế cá thể hoá vai trò

chủ thể nhà văn và nằm trong cộng đồng sáng tạo nghệ thuật. Như vậy hệ thống cốt

truyện trong Truyền kỳ mạn lục thực sự có tính tương đồng với truyện dân gian,

phản ánh trí tưởng tượng kỳ diệu của Nguyễn Dữ trong một thể loại độc đáo có tên

gọi truyền kì, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển nền văn xuôi dân tộc

dưới thời trung đại.

Đến thế kỉ XVIII sự ra đời của Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh thể hiện

bước cách tân tiếp nối thể loại truyền kì. Nhiều truyện của Vũ Trinh mang dáng dấp

và lưu giữ một số môtip của truyện kể dân gian. Tiếp thu tinh thần nhân đạo từ nền

văn học dân gian, Vũ Trinh cũng đã trở thành một trong những nhà văn tự sự đầu

tiên của Việt Nam đưa văn học về với cuộc sông nhân sinh, về thân phận những

người bất hạnh trong xã hội, đặc biệt là người phụ nữ. Lấy môtip tái sinh từ những

câu chuyện dân gian, nhà văn đã một lần nữa phản ánh sâu sắc bi kịch số phận của

người phụ nữ trong xã hội phong kiến và bênh vực, tạo cơ hội cho họ được đến với

hạnh phúc thực sự trong câu chuyện Sống lại. Đặc biệt hơn trong Chuyện tình ở

Thanh Trì có cốt truyện gần như chuyện Trương Chi, kể về cô con gái của một phú

ông. Cô đẹp người đẹp nết mà bạc mệnh, ôm một mối tình đau đớn, oan trái. Cô

chết, được hỏa táng, thi thể thành tro, nhưng còn lại một khối nhỏ “to bằng cái đấu,

sắc đỏ như son, không phải ngọc, cũng chẳng phải đá, nó trong như gương, búa đập

không vỡ”... Người cô yêu là một anh lái đò nghèo đẹp trai, hát hay, sau này trở nên

47

khá giả, đến xin phú ông cho xem khối thi thể còn lại của cô. Và, khi dòng nước

mắt của anh trào ra, nhỏ xuống, khối đỏ đó “Bỗng nhiên khối đá tan chảy đầm đìa

thành máu tươi, ướt đẫm ống tay áo chàng”... Vũ Trinh đã thổi vào câu chuyện của

mình một màu sắc nhân bản mới với những tình tiết vô cùng cảm động. Hình tượng

nghệ thuật đó là một sáng tạo đặc sắc đã đưa đến thông điệp lên án sâu sắc xã hội

đương thời đã vùi dập lên khát vọng yêu thương, hạnh phúc chính đáng của con

người. Chính vì vậy tác phẩm mang đậm ý nghĩa nhân sinh và tinh thần dân tộc.

Chủ đề tình yêu trong hai tập truyện đều có điểm chung là thể hiện tình yêu

thuỷ chung son sắt, táo bạo. Cả nhân vật nam và nữ đều là những con người khao

khát sống, khao khát yêu đương đều chủ động tìm đến tình yêu. Nhưng cả hai tập

truyện lại có những điểm riêng biệt khi thể hiện tình yêu nam nữ như ở việc xây

dựng nhân vật hay nội dung thể hiện.

Viết Truyền kì mạn lục, ở mảng đề tài người phụ nữ và tình yêu của họ,

Nguyễn Dữ đã thể hiện sự mâu thuẫn trong tư tưởng [6, tr.257]. Là con người của

Nho giáo Nguyễn Dữ phải thể hiện quan điểm của mình dưới góc nhìn của Nho

giáo, cho nên Truyền kì mạn lục có nhiều câu chuyện ca ngợi, biểu dương những

phẩm chất của người phụ nữ theo quan niệm đạo đức của lễ giáo phong kiến.

Nhưng là con người của thế kỉ XIV, khi mà “khuôn khổ lễ giáo phong kiến đã bắt

đầu rạn vỡ, quan hệ nam nữ luyến ái đã có phần nào phong khoáng” [6, tr.257],

Nguyễn Dữ có những cảm thông với những mối tình, những tâm sự, tâm trạng,

những bi kịch của con người nhất là người phụ nữ. Điều đó giải thích vì sao khi viết

về những mối tình trong “Chuyện nghiệp oan của Đào thị”, “Chuyện yêu quái ở

Xương Giang”, mối tình nàng Đào, Liễu, ngòi bút của Nguyễn Dữ có nét “bay

bướm”, “uyển chuyển”, “hả hê”, “Nguyễn Dữ đã để cho nhân vật bộc lộ tâm tình

một cách say sưa” [6, tr.257]. Cũng vì là con người của Nho giáo, Nguyễn Dữ

không thể ca ngợi, chấp nhận thứ tình yêu lãng mạn, cái luyến ái có phần phóng

khoáng ấy tồn tại như là nó vốn có trong thực tế. Ông đề cập đến những nhân vật

nhưng nhằm mục đích viết ra để phê phán, coi thường như: thương nhân, ca kĩ. Vì

thế các nhân vật của ông thường bị trừng phạt. Nhà văn cũng để cho nhân vật tồn tại

ở một thế giới khác. Đấy là thế giới của những hồn ma. Đó là nguyên nhân vì sao

48

những nhân vật sống không tuân theo những nguyên tắc lễ giáo phong kiến thì chỉ

có thể là những người sau khi đã chết hoặc là hồn ma biến hóa mà thành. Nhưng

bên cạnh đó khi ông viết về mối quan hệ tình yêu, hôn nhân giữa các chàng trai và

các hồn ma, yêu, linh trong tác phẩm lại diễn ra một cách thoải mái, dễ dàng và đơn

giản với sự hiện diện của yếu tố tính dục. Đó có thể là khát vọng giao hòa tuyệt đối

giữa cá thể với vũ trụ được thể hiện qua ngôn ngữ tình yêu và ngôn ngữ tình dục.

Tất cả những quan điểm của Nguyễn Dữ được thể hiện rõ qua từng tác phẩm của

mình như: Nhân vật Nhị Khanh trong “Chuyện cây gạo” là một cô gái có nhan sắc

và chết khi còn quá trẻ. Nàng chết nhưng cái chết của nàng là cái chết của thể xác.

Phần tinh thần của người con gái ấy vẫn còn sống nhưng biến hóa thành một con

người khác. Từ lúc mới gặp Trình Trung Ngộ, Nhị Khanh đã nói: “Nghĩ đời người

ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm thấy

những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm

cuộc hoan lạc ái ân cũng không thể được nữa” và sau lần gặp gỡ đầu tiên ấy, trước

lúc chia tay Nhị Khanh lại nói “Người ta sinh ra ở đời, cốt được thỏa chí, chứ văn

chương thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng nắm đất vàng là hết chuyện”. Quan niệm

ấy của Nhị Khanh, đương nhiên là trái với quan niệm đạo đức, lễ giáo phong kiến.

Biết Trình Trung Ngộ mê thích mình mà lại thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê,

Nhị Khanh đã cố ý bảo với con hầu gái: “Ta nay rượu xuân quá chén, mê mệt nằm

dài, hầu nửa năm trời, chưa lên chơi cầu Liễu Khê lần nào cả. Đêm nay nên thăm

qua cảnh cũ để được khuây giải chút tình u uất ở trong lòng, vậy em có đi theo ta

không” cốt để Trung Ngộ nghe được và đêm ấy “đến cầu chờ sẵn”. Tiếp theo, bằng

lời nói, bằng hành động Nhị Khanh đã “cột chặt” anh chàng Trình Trung Ngộ vào

mình để Nhị Khanh thỏa mãn được những nhu cầu về sự ái ân. Trình Trung Ngộ khi

phát hiện ra chân tướng của Nhị Khanh đã phải một phen “sởn gai dựng tóc” may

mà chạy thoát về cầu Liễu Khê nhưng lại “như người mất hồn không nói được nữa”

rồi sinh ra ốm nặng. Tưởng rằng sau sự kiện ấy, Trình Trung Ngộ có thể thoát được

Nhị Khanh. Nhưng không, Nhị Khanh không buông tha cho anh chàng ấy. Nhị

Khanh vẫn “thường qua lại, có lúc đứng bên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa

sổ thì thào”. Kết cục cuối cùng bạn bè đã tìm thấy anh chàng Trình Trung Ngộ nằm

49

ôm lấy quan tài Nhị Khanh mà chết. Để giành lấy ái ân, giành lấy người tình, Nhị

Khanh quả là táo bạo và quyết liệt. Thế nhưng cái ham muốn, cái khát khao của Nhị

Khanh cuối cùng cũng không giữ được. Vì cái tội xúc phạm đến lễ giáo phong kiến,

xúc phạm đến đạo đức Nho giáo, dám phơi bày thân thể và những ham muốn nhục

cảm nên Nhị Khanh và cả Trình Trung Ngộ nữa đã bị trừng phạt, bị đào mả, phá

quan tài, vứt hài cốt xuống sông, bị đạo sĩ yểm bùa trừ yêu, tróc quái, bị lính Dạ

Xoa gông trói giải về âm phủ. Phần cuối của câu chuyện chắc chắn đã được nhà văn

viết ra với tư tưởng và lập trường Nho giáo. Để trừng phạt lối sống trái với Nho

giáo ấy, nhà văn cho nhân vật chết nhưng hồn ma không siêu thoát thêm cái tội núp

ở nơi cây gạo mà “làm yêu làm quái”. “Chuyện nghiệp oan của Đào Thị” là một

câu chuyện rất cảm động và bi thương về số phận của người phụ nữ. Đào Hàn Than

là nhân vật có cuộc sống chia làm hai giai đoạn: giai đoạn làm người và giai đoạn

làm ma. Ở giai đoạn làm người, Đào thị là một danh kỹ “thông hiểu âm luật và chữ

nghĩa” lại có tài ứng khẩu thành chương, từng được vua ngợi khen và đặt cho tiểu tự

là Hàn Than. Đào thị được tuyển sung vào làm cung nhân đến khi vua Dụ Tôn mất

nàng phải thải ra. Khi bị thải ra, Đào thị “thường đi lại nhà quan Hành khiển là

Ngụy Nhược Chân” rồi bị “vợ nhà quan Hành khiển không có con, tính lại ghen,

ngờ Hán Than tư thông với chồng, bắt nàng, đánh cho một trận rất là tàn nhẫn”.

Hàn Than mới “tức tối vô cùng, bèn đem những trâm hoa bằng vàng ngọc để thuê

thích khách vào nhà Ngụy Chân nhằm trả thù”. Sau hành động trả thù không thành,

Hàn Than phải cạo trọc đầu và trốn đến tu ở chùa Phật Tích. Đành rằng, nàng có

một hành động không thể tha thứ là thuê người thích khách nhưng cái âm mưu giết

người ấy đã không thành và đã phải trốn đến nương nhờ của Phật. Nhưng chỉ một

câu nói đùa, một lời nói có chút kiêu ngạo mà cuộc đời của Hàn Than lại ngoặt sang

hướng khác. Hàn Than kiêu ngông với một cậu bé độ 14,15 thì có gì là quá. Ấy thế

nhưng, sau khi hỏi được gốc tích Hàn Than cậu bé kia lại làm bài văn chế nhạo thân

thế tình cảnh của nàng, bài văn đã gợi lại những ám ảnh bi thương của nàng. Nó

cũng là một thế lực ghê gớm dồn Hàn Than nên nàng phải “đương đêm bỏ chùa mà

chốn”. Cái bi kịch mà người phụ nữ tài hoa ấy muốn dấu giếm nơi của Phật lại bị

khơi lên. Hàn Than phải tìm đến chùa Lệ Kỳ nhưng nàng không được sư già Pháp

50

Vân chấp nhận. Sư già dời lên núi Phượng Hoàng và ở chùa Lệ Kỳ. Hàn Than đã

gặp sư bác Vô Kỷ, một tình yêu đã nảy nở và trỏ nên nồng nàn giữa hai người. Có

lẽ đến lúc này Hàn Than mới gặp người thực sự yêu mình. Những ngày ở bên Vô

Kỷ là những ngày hạnh phúc nhất của cuộc đời nàng: “Hằng ngày hai người cùng

nhau làm thơ liên cú, phàm những cảnh vật trong núi, cái gì có thể ngâm vịnh được

đều đặt bút để vịnh đề ghi danh thắng”. Tưởng như cuộc đời của Hàn Than đã tìm

thấy nơi bến đậu, nhưng tai hoạ bất hạnh xảy ra với họ đó là “năm Kỷ Sửu, Hàn

Than có thai rồi ốm lay lắt từ mùa xuân đến mùa hạ… khiến nàng sau phải nằm

quằn quại chết trên giường cữ”. Qua câu chuyện này Nguyễn Dữ cũng muốn bộc lộ

quan điểm Nho giáo đạo đức đó là xã hội không chấp nhận tình yêu của những kẻ tu

hành, càng không chấp nhận cái tình yêu trần tục, đời thường diễn ra ở nơi chùa tự

linh thiêng này. Cái chết của Hàn Than là kết cục bi thảm của con người tài hoa

không chịu nhẫn nhục và luôn luôn vùng dậy để giành lấy cuộc sống. Oan hồn của

nàng và Vô Kỷ dù đã biến thành Long Thúc, Long Quý trải qua tám năm nhưng vẫn

bị thầy tu phát giác, bị sư cụ Pháp Vân trừng phạt.

Cũng với số phận cay đắng của người phụ nữ “Chuyện yêu quái ở Xương

Giang” Thị Nghi là con nhà nghèo không may bố chết, người mẹ đã bán nàng cho

phú thương họ Phạm để lấy tiền đưa ma cho chồng về quê. Họ Phạm thấy nàng có

nhan sắc yêu mến rồi tư thông với nàng. Vợ Phạm biết được bèn mượn cớ khác

mà đánh nàng đến chết. Tủi hờn chồng chất khiến khi chết Thị Nghi biến thành

yêu quái quấy nhiễu một vùng. Người ta đào mã Thị Nghi và quăng hài cốt nàng

xuống sông. Nàng tiếp tục sống với một kiếp khác với nỗ lực tranh lấy hạnh phúc.

Nàng gặp viên quan họ Hoàng, một người biết cảm thông chia sẻ kết bạn với

nàng. Ở với viên quan họ Hoàng nàng đã tìm thấy hạnh phúc “Đã thành vợ chồng,

tình ái rất thắm thiết. Nàng lại cử động rất hợp lẽ, nói năng biết lựa lời, họ hàng

bạn bè ai cũng ngợi khen”. Nhưng người đời không để nàng yên. Một vị cao tăng

xuất hiện để diệt trừ nàng. Hy vọng vào sự công bằng ở chốn minh ti, Thị Nghi đã

đi kiện.Nhưng họ Hoàng dùng những lời cung khai phản nàng và lời phán quyết

của Diêm Vương đối với nàng.

51

Tình yêu trong “Truyền kỳ mạn lục” là kiểu tình yêu vô điều kiện giống như

những khoảnh khắc hòa nhập ngắn ngủi nhưng tuyệt đối giữa con người với cái vô

cùng vô tận của vũ trụ. Hai nhân vật Đào và Liễu trong “Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây”

thể hiện rất rõ. Đào và Liễu vốn là những hồn hoa thác hoá thành người. Lời giới

thiệu về thân thế của họ chỉ là sự đánh lừa anh học trò còn non nớt Hà Nhân những

điều họ muốn có là hạnh phúc ái ân:

“Chúng em một người họ Liễu, tên gọi Nhu Nương, một người họ Đào, tên

gọi Hồng Nương, nguyên là những tỳ thiếp của quan Thái sư. Từ ngày quan Thái sư

qua đời, chúng em vẫn phòng thu khóa kín. Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em

muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất xuân quang.

Hà Nhân rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình, chuyện trò đằm thắm. Chàng

lả lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thò nói rằng.

- Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉ e tình hoa run

rẩy, tơ liễu điên cuồng, oán lục thẹn hồng, làm giảm thú phong lưu đi mất.

Hà Nhân nói:

- Thì hãy thử thôi, tôi chẳng dám đem chuyện mây mưa làm "khó dễ" hai nàng.

Rồi tắt đèn đi nằm. Tựa ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát sóng hoa đào

nghiêng ngả. Hà Nhân giữa lúc gối chăn êm ấm, bảo hai nàng cùng làm thơ ngâm

chơi”[6, tr.250].

Mối tình giữa Hà Nhân với hai nàng Đào, Liễu chỉ là biểu tượng cho những

nhu cầu ái ân của người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi mà nhan sắc và tuổi

xuân của họ đang bị bỏ rơi. Những lời vĩnh biệt của hai nàng với Hà Nhân nghe thật

xót xa, cảm động.

Như vậy những nhân vật của trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ đã cố

gắng đi tìm lấy tình yêu hạnh phúc và sự ái ân nhưng hạnh phúc đó chỉ thoảng qua

rồi lập tức thân phận họ lại tàn lụi và chìm đắm vào bóng tối. Số còn lại rất ít tìm

được hạnh phúc.

Vấn đề tình yêu bắt đầu giảm dần từ Lan Trì kiến văn lục. Những tác phẩm

truyền kì xuất hiện sau Truyền kì mạn lục lại không kế thừa được yếu tố tính dục ấy.

52

Bản thân tác phẩm này có đề cập tình yêu nhưng không mạnh mẽ, táo bạo, mãnh liệt

với những duyên kì ngộ, tình người duyên ma... như cách viết của Nguyễn Dữ. Tình

yêu trong Lan Trì kiến văn lục vẫn là sự thủy chung, son sắt, mãnh liệt nhưng gắn liền

với sự hi sinh, ít cảnh chăn gối. Viết về chủ đề tình yêu nam nữ, hay câu chuyện hôn

nhân, Vũ Trinh rất trân trọng, ca ngợi và yêu mến người phụ nữ và nho sinh. Họ thuộc

nhiều thành phần xã hội khác nhau. Nhân vật nữ và nam của Vũ Trinh đều đẹp, có tài

năng, sống hết mình với tình yêu, sẵn sàng trao gửi mình cho tình yêu.

Trong truyện “Trạng nguyên họ Nguyễn”, nhân vật phụ nữ chính là tiểu thư

con quan Ngô Hầu và nhân vật trung tâm là Nguyễn Đăng Đạo. Ngày Nguyên tiêu

đến chơi chùa Báo Thiên gặp một cô gái đi lễ chùa rất xinh đẹp. Anh ta yêu mến dò

la hàng quán bên đường, biết đó là tiểu thư con quan Ngô hầu, chỉ huy quân cấm

binh. Một đêm anh ta trèo rào, đục tường vào phòng cô gái. Cô gái giật mình sợ hãi

nhưng khi biết đó là chàng trai gặp ở chùa Báo Thiên nên không gọi người nhà mà

bảo hãy đi ra nhanh. Anh ta chẳng sợ hãi, người hầu báo quan. Ngô Hầu nổi giận sai

đầy tớ bắt trói lại đợi sáng mai giải đến pháp quan trị tội. Nhưng hôm sau có bạn

đồng môn của Ngô hầu bảo hãy thử tài Nguyễn Đăng Đạo xem sao. Đăng Đạo liền

phóng bút thảo ra bài văn rất hay. Ngô hầu tha tội, sai làm nhà cho ở riêng, cấp tiền

cho ăn học. Năm sau anh ta đỗ đầu thi Hương. Ngô Hầu cho làm lễ ở rể. Năm sau

nữa đỗ đầu thi Hội và khi thi Đình đỗ Trạng Nguyên. Như vậy Nguyễn Đăng Đạo

nhờ tài năng mà lấy được vợ đẹp lại con nhà gia thế.

Truyện thứ hai “Chuyện tình ở Thanh Trì” kể về mối tình giữa nhân vật nữ

là cô con gái nhà giầu họ Trần với chàng trai lái đò nghèo họ Nguyễn. Truyện kể

rằng, Nguyễn Sinh người Thanh Trì, khôi ngô tuấn tú nhưng nhà nghèo nên phải

nghỉ học làm nghề lái đò. Chàng có giọng hất rất hay khiến người nghe phải ngây

ngất. Cô con gái nhà giàu họ Trần bên bờ sông say mê giọng hát của chàng. Khi

nhìn thấy mặt chàng không sao quên được rồi bảo chàng nhờ người mối manh đến

hỏi, nhưng phú ông cự tuyệt. Chàng phẫn chí bỏ nhà đi làm ăn xa. Còn cô gái quá

đau buồn sinh bệnh thuốc men chữa mấy cũng không khỏi. Trước khi mất, nàng nói

với cha: “Trong người con chắc có mật vật lạ. Sau khi mất, xin cha cho hoả tang để

xem đó là vật gì”. Người cha làm theo lời con thấy sót trong đống xương tàn một

53

vật tao bằng cái đấu, sắc đỏ như son, không phải ngọc cũng không phải đá, trong

như gương, búa đập không vỡ. Nhìn kĩ thì thấy trong khối đã ấy có một con đò.

Trên đò một chàng trai trẻ tuổi đang nằm hát. Còn về phần Nguyễn Sinh khi lên

Cao Bằng nhờ có giọng hát hay nên được Trấn tướng quý trọng. Chàng kiếm được

nhiều tiền trở về làng nhưng hay tin nàng đã chết. Chàng đến lễ điếu nàng và xin

phú ông cho xem vật trong hộp. Chàng khóc, khi giọt nước mắt chảy xuống thì vật

đó tan thành nước biến thành máu tươi chảy đầm đìa vào tay áo chàng.

Tiếp theo truyện “Sống lại” cũng kể về mối tình thắm thiết giữa cô con gái

phú ông và nho sĩ Đào Sinh. Vũ Trinh cũng giới thiệu Đào Sinh đẹp trai, học giỏi.

Nhưng khi viết về mối tình giữa cô gái và Đào Sinh tác giả không thiên về miêu tả

khoảnh khắc ân ái mặn nồng mà để nhân vật sống theo nguyên tắc lễ giáo phong

kiến “Chàng là kẻ sĩ tài ba đọc sách, thiếp cũng đang ở chốn phòng khuê chờ ngày

lấy chồng, chỉ mong được người như chàng để hầu hạ thôi. Nếu chàng không chê

thiếp nghèo hèn quê mùa, thì xin mượn người mối mai đến nói với cha mẹ thiếp.

Còn làm việc cẩu thả tạm bợ, thì thiếp không bao giờ dám vâng lời. Có mấy ai buổi

đầu đi lại bất chính mà ăn ở thuỷ chung được với nhau, vả chăng, coi khinh thân

mình mà trao gửi cho người, đâu phải là điều mong được của bậc quân tử? Chàng

hay mau mau về nghỉ, chớ để đến nỗi tai tiếng cả thanh danh và đức hạnh đều bị

tổn thất!” [39, tr.55]. Truyện cũng ca ngợi sự thuỷ chung của nho sĩ Đào Sinh khi

cha cô gái không đồng ý hôn sự vì thấy Sinh nhà nghèo, hôn nhân không thành,

Sinh bỏ lên Kinh du học thi Hương đỗ đầu. Sinh trở về quê, cô gái đã có chồng,

chồng cô gái ghen đã đánh chết. Sinh ra lễ mộ cô gái thấy cô gái chưa chết mang về

nhà chữa chạy thuốc thang và hai người sống với nhau.

Những nhân vật phụ nữ trong Lan Trì kiến văn lục luôn giữ trọn vẹn phẩm

tiết nói lên nhân cách của người phụ nữ. Nhân vật nữ trong Lan Trì kiến văn lục

chẳng những xinh đẹp, tài hoa mà còn rất trong sáng. Đến một cô kỹ nữ cũng rất

hiền thục, hiếu thảo với cha mẹ. Nàng ca kỹ trong truyện “Ca kỹ họ Nguyễn” dẫu có

số phận long đong, dẫu phải trải kiếp phong trần dãi dầu, nàng cũng không bỏ mặc

người mẹ già. Người em trai làm tan gia bại sản, nàng đã dẫn mẹ rong ruổi khắp nơi

kiếm ăn. Khi mẹ qua đời, nàng lo ma chay chu đáo. Nàng còn có một cá tính rất

54

mạnh mẽ, chủ động mạnh dạn kiếm tìm hạnh phúc. Mạnh dạn đến với tình yêu.

Định kiến xã hội quá khắt khe với nghề ca nữ nên dù nàng có tài năng, đoan chính

đến mấy, tình yêu hạnh phúc vẫn mãi không đến. Thậm chí nàng còn phải chịu số

phận đa đoan bất hạnh. Là người tài sắc, đoan trang, đức hạnh, nhưng gia cảnh, tình

duyên của cô lại thật buồn thảm. Nghe lời kể của người kỹ nữ, người đọc thương

xót về số phận bơ vơ, lạc loài, tình duyên hẩm hiu, lận đận của nàng. Chuyện phản

ánh một sự thật trong xã hội phong kiến: hễ là người phụ nữ có sắc, có tài thì đều

khổ đau, bất hạnh. “Phải chăng những người tài mỹ vẹn toàn thì dẫu là con gái con

tạo cũng ghen ghét” (Lời bàn cuối truyện).

Một câu chuyện tiếp mạch của chủ đề tình yêu nam nữ là “Tháp báo ân”.

Chuyện vừa có thứ tình yêu tranh chấp với số phận của cô gái mang bệnh nan y lại

vừa có thứ tình yêu dâng hiến, thứ tình yêu vị tha của nàng. Ở đó, người đọc cũng

nhận thấy tình cảm ân nghĩa sâu nặng của chàng sĩ tử ngày nào đối với một người

con gái bạc mệnh; một hành xử ân tình thủy chung của kẻ có học, tri ân một người

đã thay đổi số phận cho mình. Cô gái xinh đẹp trong truyện đã mắc chứng bệnh

phong, mọi người đều xa lánh. Cho đến một đêm mưa gió, cuộc đời cô như được tái

sinh. Chàng thư sinh trên đường khoa cử đã nương nhờ qua đêm tại nhà cô gái,

duyên số gặp nhau, run rủi cho họ. Ân tình đằm thắm, cô gái mãn nguyện trong

hạnh phúc tràn đầy. Rồi Sinh cũng phải từ biệt cô gái lên kinh đi thi, còn đối với cô

gái thì dư âm ngọt ngào chưa tan đi, âu sầu lại ngập đến. Cô đớn đau, day dứt dằn

vặt không thôi: “Đời tàn nhơ bẩn, may được gặp nhau trong bóng tối. Nếu nhìn

nhau lúc sáng trời thì một tối giao hoan đâu mà có được!. Ai hay một độ gió xuân

lại tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận đến suốt đời! Hỡi ơi Lưu lang, với mặt

mũi này mà gặp lại chàng, thiếp chịu đựng sao nổi!” [39, tr.147]. Cô gái cứ tự hỏi

rồi triền miên trong đau buồn, âu sầu rồi chết. Cô ra đi mang theo mối tình chung

còn bỏ dở. Hình đã nằm xuống đây mà bóng đã theo chàng Sinh lâu rồi. Nỗi khát

khao yêu thương vẫn chưa hết. Vì nặng tình yêu thương mà nàng không thể để Sinh

một mình đương đầu với những thử thách ở thế gian. Mảnh hồn tàn đã trở về trần

gian cầu vinh danh cho người yêu. Qua câu chuyện tình buồn này, ta thấy tình yêu

của cô gái dành cho chàng Sinh thật vị tha. Nàng đã hy sinh tất cả cho người mình

55

yêu, chung tình hết đỗi và tình yêu ấy cũng được đền đáp một cách xứng đáng. Biết

tin thi đậu là do cô gái đó giúp. Chàng nho sinh đã tìm đến cô gái giúp mình đỗ đạt.

Nhưng khi biết rõ về bệnh tình và cái chết của cô gái mắc bệnh phong, dù mối

duyên đầu trao nhau không có tờ hôn thú, dù nàng đã nằm xuống nhưng chàng Sinh

đã coi nàng là vợ, an táng nàng theo lễ vợ chồng. Chỉ đó thôi cũng làm nàng an lòng

và mỉm cười hạnh phúc nơi chín suối. Nhân vật phụ nữ được Vũ Trinh xây dựng

với cách sống trọn nghĩa thuỷ chung với bạn tình. Sống có trước có sau ở đây được

hiểu là nhận ơn và biết trả ơn.

Như vậy nhân vật của Vũ Trinh mang khá đầy đủ phẩm chất đẹp đẽ và giữ vị

trí chủ chốt trong tác phẩm. Vũ Trinh đã đánh dấu sự tiếp bước những tiến bộ và

chuyển biến trong văn học hướng về số phận con người nhỏ bé trong xã hội mà

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ đã tạo nên trước đó. Trong xã hội phong kiến với

những luật lệ hà khắc “tam tòng tứ đức”, “nam tôn nữ ti” nên người bình dân thành

nạn nhân của những thành kiến đó của xã hội bất công ngang trái. Vũ Trinh đã vượt

lên khẳng định vị trí của con người đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội.

Nhìn chung, trong truyện truyền kì Việt Nam, tình yêu đôi lứa xuất phát từ

tình cảm tự do yêu đương, không bị hạn chế bởi lễ giáo phong kiến. Khi sống cùng

nhau, tình cảm của nhân vật càng mãnh liệt, đắm say, không gì chia cắt. Khi dành

những trang viết mô tả tình yêu lứa đôi, điều các tác giả muốn hướng tới nhất là

khẳng định sự lên ngôi và chiến thắng tuyệt đối của tình yêu tự do. Chính tư tưởng

yêu đương mãnh liệt, đôi khi táo bạo, có phần buông thả của các nhân vật đã gây

được ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc, đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của

công cuộc giải phóng con người với những nhu cầu chính đáng

2.3. Ý nghĩa chủ đề tình yêu nam nữ đối với sự phát triển thể loại

Chủ đề tình yêu nam nữ góp phần thể hiện sự đổi mới quan niệm văn học.

Tình yêu nam nữ tự nó ẩn chứa một sức mạnh vô hình và mạnh mẽ. Đề tài tình yêu

là muôn thuở, tồn tại song hành cùng thời gian.Tùy từng thời kỳ mà nó được khoác

lên mình bộ cánh khác nhau: Khi thì uyển chuyển nhẹ nhàng, khi thướt tha

và quyền quý, khi lại dân dã bộc trực, lúc lại quẫy đạp ngang tàng… Tình yêu cũng

là một đề tài vĩnh cửu trong văn học. Hễ có thơ có văn là phải có tình yêu, nếu

56

không muốn nói là chính nhờ có tình yêu mà con người mới dạt dào cảm hứng để

sáng tác nên những vần thơ óng ả cũng như những câu văn trau chuốt. Sự đẹp đẽ và

linh thiêng của tình yêu vốn đã được cha ông chúng ta nhận ra và ca ngợi từ lâu.

Tình yêu trong thơ văn hướng ta đến những khát khao, ước vọng tốt đẹp trong cuộc

sống, giúp ta vượt qua những khó khăn, trắc trở lứa đôi, đôi khi còn khiến ta thêm

giữ vững tình cảm trong lòng. Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn

học ở mọi giai đoạn từ văn học dân gian truyền miệng đến nền văn học viết từ xưa

đến nay. Nhưng đã là người Việt Nam thì thật thiếu sót nếu ta không nhớ đến kho

tàng văn chương của cha ông từ ngàn xưa để lại: các sáng tác về tình yêu trong văn

học trung đại. Văn học phản ánh cuộc sống con người vì thế địa hạt tình yêu trở

thành mảnh đất màu mỡ cho văn học, trong đó văn học trung đại đóng góp khối

lượng lớn những tác phẩm viết về tình yêu đôi lứa.

Chủ đề tình yêu nam nữ góp phần đổi mới lí tưởng thẩm mỹ, quan niệm

thẩm mỹ được bộc lộ rõ nét qua cái nhìn về cuộc đời và con người. Quan niệm thẩm

mỹ và nhân sinh của các nhà văn trong truyện truyền kì chúng ta không chỉ thấy có

sự hiện diện của tư tưởng Thiên mệnh luận trong Nho giáo mà còn chịu nhiều ảnh

hưởng của thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo và Lão giáo. Các tác giả nhìn

cuộc đời bằng con mắt của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, yêu thương, xót xa cho

thân phận con người. Cái đẹp theo quan niệm Nho giáo: tâm đạo, chí hướng thượng.

Cái đẹp trong truyện truyền kì những truyện viết về tình yêu nam nữ đó là tình yêu

tự do, thuỷ chung, hiến dâng. Với Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục ông viết về

tình yêu nam nữ thiên về màu sắc nhục cảm. Vì ông là con người của Nho giáo nên

không thể ca ngợi, chấp nhận hoặc cho phép tình yêu lãng mạn, tình dục phóng

túng, luyến ái phóng khoáng tồn tại như là vốn có trong thực tế. Nhà văn phải cho

nó tồn tại ở một thế giới khác và đó là thế giới của những yêu ma không có thực.

Chính vì điều đó ông có định kiến với những thương nhân, lái buôn, nho sĩ biến

chất, ca kĩ nên ông để cho nhân vật của mình tìm lạc thú ở cõi âm. Đó cũng là

nguyên nhân những nhân vật sống không theo nguyên tắc lễ giáo phong kiến thì chỉ

có thể là người đã chết biến thành ma, tinh cây mà thành. Qua những câu chuyện

tình yêu giữa người với yêu ma đó, tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: phản

ánh số phận con người qua số phận người phụ nữ cho dù đó là yêu, ma, hồn. Đề cao

57

những khát vọng chân chính của người phụ nữ - khát vọng sống, khát vọng tình yêu

đôi lứa, Nguyễn Dữ cũng đồng cảm với những khát vọng ân ái của con người. Khác

với Nguyễn Dữ, Vũ Trinh có cái nhìn tiến bộ của mình về cuộc sống hạnh phúc của

con người nơi trần gian, quan niệm về tình yêu của Vũ Trinh cũng thể hiện một

nhãn quan tiến bộ. Đặc biệt những nhân vật nữ của Vũ Trinh họ “coi trọng chữ

trinh” bởi đó là những giây phút hạnh phúc, có khi là duy nhất trong đời. Đây là

điểm mới trong quan niệm về tình yêu nhục cảm của thời đại Vũ Trinh so với

Nguyễn Dữ. Chính vì những thay đổi trong quan niệm thẩm mĩ đã làm thay đổi

quan niệm về con người. Qua các truyện trong Lan Trì kiến văn lục, chúng ta thấy

các nhân vật nữ hiện lên đều là những người phụ nữ rất hiếu hạnh, giàu đức hy sinh,

cam chịu, chấp nhận thiệt thòi về phía bản thân để đem lại bình yên, hạnh phúc cho

người thân. Vũ Trinh muốn ngợi ca những tấm gương hiếu đễ của con người.

Chủ đề tình yêu nam nữ góp phần thể hiện sự đổi mới đề tài, chủ đề. Trong

văn học trung đại đề tài, chủ đề chủ yếu viết về tình yêu thiên nhiên đất nước con

người, thương xót cho số phận con người. Nhưng truyện truyền kì đã thể hiện nhiều

đề tài phong phú: như xã hội, cuộc sống con người và đặc biệt nói về tình yêu nam nữ

các tác giả của Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục đã thể hiện sự tự do yêu

đương, khát vọng tình yêu mạnh mẽ. Lan Trì kiến văn lục khá nhất quán về chủ đề tư

tưởng. Chủ đề rõ nhất trong truyện là hiện tượng phá vỡ khuôn phép của con người

thời đại. Sự phá vỡ ấy có thể làm cho con người trở nên tàn bạo, mất hết nhân tính.

Trên phương diện này, ngòi bút của Vũ Trinh phê phán nghiêm khắc.

Nghệ thuật như một hình thức của lý tưởng, có chức năng điều chỉnh đời

sống tinh thần của con người, đền bù cho nhân loại những gì chưa có, những gì

đang ao ước. Nó là một hình thức đặc biệt để con người tư duy và cảm nhận cuộc

sống. Nghệ thuật không chỉ hướng ra thế giới mà còn hướng vào con người. Văn

học nghệ thuật khác khoa học ở chỗ, nó không phải phát minh mà chủ yếu là lý

giải, nghiền ngẫm về những điều muôn thuở. Những tác phẩm văn học, mà trước

hết là văn xuôi, chính là những bộ bách khoa về cuộc sống. Ở đó quá trình nhận

thức đồng nghĩa với sự giác ngộ, tự hiểu ra bởi vì tác phẩm văn học giúp người

ta trải qua những tình huống hay số phận.

58

Tiểu kết Chương 2

Nhìn chung, với chương này đề tài đã khái quát một cách chi tiết nội dung

của hai tác phẩm trong cách thể hiện, vận động của chủ đề tình yêu nam nữ. Ở

Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục cả hai tác giả đã đưa người đọc như lạc

vào một thế giới khác, không phải là cái xã hội “phân quyền, cát cứ, khởi nghĩa

nông dân” hay những cương thường lễ giáo đè bẹp khát vọng tình yêu. Ở đó chẳng

phân biệt người với ma, cõi âm với cõi dương. Ở đó chỉ có tình yêu say đắm nồng

nàn đẹp như một giấc mộng. Ở đó chỉ có khao khát ân ái trần thế, hạnh phúc vỡ oà

khi những ham muốn về tình yêu, tình dục được thăng hoa. Nhưng ở hai tác phẩm

nội dung phản ánh cũng khác nhau, cùng nói về nữ giới hay nam giới nhưng thể

hiện ở hai phương diện khác nhau. Nếu như Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ chủ

yếu là phê phán và nhân vật đều bị trừng phạt thì trong Lan Trì kiến văn lục nhân

vật nam hay nữ đều được ông ca ngợi. Với những ghi chép về chuyện tình yêu nam

nữ của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh đã đưa người đọc đến một thế giới đa tạp, có sáng

và có tối, có tốt đẹp và xấu xa, lại có thế giới thần bí mà lôgíc thông thường không

thể lí giải được. Nhưng qua đó giúp người đọc hiểu biết sâu rộng về cuộc sống, tự

nhiên, con người… trong xã hội Việt Nam đương thời. Như vậy, người cầm bút bày

tỏ thái độ của mình trước hiện thực cuộc sống ca ngợi những mối tình chung thủy.

Đồng thời gửi gắm nỗi niềm ưu ái, những băn khoăn trước cuộc đời, những suy

nghiệm tâm tư trước cuộc sống nhân thế.

59

Chương 3

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ

TÌNH YÊU NAM NỮ TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ

(QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)

3.1. Kết cấu nghệ thuật của truyện có chủ đề tình yêu nam nữ

3.1.1. Kiểu kết cấu truyện mang chủ đề tình yêu nam nữ

Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh thể

nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận. Tất cả những yếu tố, bộ phận đó được nhà

văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một nội dung

nghệ thuật nhất định là kết cấu. Nói cách khác, kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật

sinh động, phức tạp của tác phẩm văn học. Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm.

Nếu khái niệm cốt truyện nhằm chỉ sự liên kết những sự kiện, hành động, biến cố...

trong tác phẩm tự sự và kịch thì kết cấu là một khái niệm rộng hơn nhiều.

Cần có sự phân biệt giữa kết cấu và bố cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các

chương, các đoạn, các khổ thơ... Ðây chỉ là sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác

phẩm. Nói cách khác bố cục mới chỉ là kết cấu bề mặt của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu

rộng và phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố của tác phẩm,

kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong, những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố

thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của bố cục.

Trong truyền kì cổ điển thường có kiểu kết cấu đóng, khép kín, kết thức

truyện cũng là kết thúc một sự việc hay một cuộc đời, số phận con người. Vào cuối

truyện các tác giả truyền kì cổ điển thường hay dùng các yếu tố kỳ ảo để mang lại

công bằng cho nhân vật, đấy là cách kết thúc có hậu thường thấy trong văn học

truyền thống. Nhưng đến các truyện trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có kết

cấu phức tạp hơn so với những truyện dân gian hoặc thần phả mà tác giả mượn cốt

truyện để xây dựng. Chẳng hạn: trong Chuyện cây gạo có kết cấu mở rộng hơn. Đó

là sự việc Trung Kỳ Ngộ chàng giật rách áo mà chạy được thoát được Nhị Khanh về

đến cầu Liễu Khê như kẻ mất hồn không nói được nữa. Nhưng tác giả không kết

dừng ở đó mà còn thêm phần kết truyện đối với nhân vật Trung Kỳ Ngộ:“Từ đấy

Trung Ngộ sinh ra ốm nặng. Còn Nhị Khanh cũng thường qua lại, có lúc đứng trên

bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa sổ nói thì thào. Trung Ngộ cũng vẫn thường

60

ứng đáp với nàng và muốn vùng dậy để đi theo. Người trong thuyền phải lấy dây

thừng trói lại thì chàng mắng:

- Chỗ vợ ta ở có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào, ta phải đi theo

chứ không thể luẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được; can dự gì đến các người

mà dám đem dây trói buộc ta thế này.

Một đêm, người trong thuyền ngủ say, đến sáng thức dậy thì thấy mất Trung

Ngộ. Họ vội đến Đông thôn tìm, thấy chàng đã nằm ôm quan tài mà chết, bèn phải

thu liệm chôn ngay ở đấy.”

Hai người sau đấy biến thành yêu ma, làm tai làm vạ cho người làng, bị

người làng đào mả, vứt hài cốt xuống sông. Linh hồn hai người nương tựa vào cây

gạo, tiếp tục làm yêu làm quái. Sau có một vị đạo nhân dùng phép trừng phạt, bị

lính đầu trâu gông trói cả hai giải về âm phủ.

Nhưng đến giai đoạn thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX cách tổ chức kết cấu

truyện có một sự đổi mới: kết thúc truyện là kết cấu mở. Câu chuyện đã kết thúc

nhưng số phận, cuộc đời nhân vật vẫn là mối băn khoan của người đọc. Các kết thúc

truyện của Vũ Trinh trong Lan Trì kiến văn lục cũng không chỉ là kết thúc mở mà

còn là những kết thúc khác xa với cách kết thúc của truyện truyền kì truyền thống:

đó là kết thúc không có hậu. Truyện “Ca kỹ họ Nguyễn” kết thúc truyện cô gái từ

chối sự giúp đỡ của chàng nho sĩ năm xưa đã chịu ơn mình và ra đi không bao giờ

gặp lại. Kiểu kết thúc này mang đậm giá trị hiện thực, khiến người đọc phải suy

nghĩ về những vấn đề trong cuộc sống mà tác giả đã đưa ra.

3.1.2. Sự biến chuyển của yếu tố kỳ ảo và yếu tố thực

Yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong đời sống văn học nhân loại và nó

hoàn toàn không hề xa lạ với độc giả Việt Nam. Yếu tố kỳ ảo đã tạo thành một dòng

chảy liên tục trong lịch sử của văn học dân tộc. Yếu tố kỳ ảo là sản phẩm của trí

tưởng tượng, là phương thức sáng tạo nghệ thuật xuất phát từ chính nghệ thuật tinh

thần, thế giới nội tâm của con người. Là sự phát triển “vượt ngưỡng của tư duy lãng

mạn lẫn tư duy hiện thực sang vùng siêu thực”. Yếu tố kỳ ảo tồn tại dưới hình thức

huyền bí, thần linh, ma quỷ, phi thường, siêu tự nhiên… Nó không chỉ nhằm mục

đích tạo ra sự hoang mang, sợ hãi, li kỳ trước sự xâm nhập của cái siêu nhiên, cái

không thể xảy ra vào thế giới tự nhiên mà còn là phương tiện để chuyển tải tư

61

tưởng, ước mơ, khát vọng, bài học nhân sinh, đạo lý cuộc đời, là chìa khóa mở cánh

cửa bí ẩn về thế giới vô thức của con người, là sự lý giải hợp lý cho những khiếm

khuyết của tư duy lý tính trước các hiện tượng không thể dùng quy luật thông

thường để giải thích. Cái kỳ ảo đó được thể hiện qua các yếu tố cơ bản như kỳ ảo tín

ngưỡng dân gian, kỳ ảo tôn giáo, yếu tố chiêm mộng… Sử dụng yếu tố kỳ ảo để xây

dựng cốt truyện và nhân vật vốn là tính chất của truyện truyền kỳ. . Nhờ yếu tố kỳ

ảo mà tác phẩm truyện truyền kì có sức hấp dẫn, mê hoặc đối với người thưởng

thức. Đây là bút pháp nghệ thuật đặc trưng ở thể loại truyền kì, cũng giống như

trong truyền thuyết, thần thoại, hay truyện cổ tích đều không thể thiếu được sự xuất

hiện của những nhân vật siêu nhiên, thần thánh ma quỷ… Hơn thế nữa yếu tố kỳ ảo

được sử dụng còn có chức năng che giấu dụng ý của nhà văn thông qua yếu tố kì ảo.

Còn yếu tố thực trong tác phẩm văn học được các tác giả lấy đề tài, cảm

hứng, bối cảnh, nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian… từ thực tế đời sống xã

hội. Bởi vậy việc sử dụng kết hợp giữa yếu tố kỳ ảo và yếu tố thực làm cho những

câu chuyện truyền kì hết sức gần gũi, thậm chí gây dựng niềm tin chúng là có thật.

Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ là tác phẩm truyền kì đỉnh cao của truyền kì

Việt Nam thời trung đại. Nó không chỉ là tác phẩm ghi chép lại những câu chuyện

dân gian thông thường mà có dấu ấn sáng tác rất rõ rệt của tác giả.Truyền kì mạn

lục phản ánh hiện thực, phản ánh con người qua yếu tố kỳ ảo, lấy cái kỳ ảo để nói

lên cái thực tại, do vậy nhân vật kỳ ảo xuất hiện khá thường xuyên. Trong thế giới

khác thường, kỳ lạ ấy những câu chuyện về tình đời, tình người được tác giả gởi

gắm một cách tài tình thông qua những biến cố, sự kiện của tác phẩm. Và

trong Truyền kì mạn lục, những câu chuyện về tình yêu giữa con người với yêu ma

là những truyện đặc sắc, hấp dẫn nhất ta không thể không kể tới. Sức hấp dẫn ấy

được tạo ra từ chính khả năng tưởng tượng độc đáo của nhà văn. Đầu tiên là câu

chuyện tình yêu giữa người với hồn ma trong “Chuyện cây gạo”. Trình Trung Ngộ

là một chàng trai thuộc gia đình giàu có, đẹp trai, ít chữ nghĩa, theo nghiệp buôn

bán của gia đình. Tình cờ, trong một lần đi buôn ở phía Nam gặp được hồn ma đã

chết nửa năm của nàng Nhị Khanh mới 20 tuổi, xinh đẹp lại có tài thơ phú, đàn ca.

Trung Ngộ sớm mê mẩn hồn ma Nhị Khanh và lại được nàng đáp lại. Hai người

62

đêm nào cũng ân ái hết sức thỏa mãn dưới thuyền trong một tháng liền. Sau khi biết

được thân thế Nhị Khanh, Trung Ngộ đã ốm nặng. Hồn ma Nhị Khanh lúc xa xa ỉ

ôi, lúc thì thào bên giường bệnh Trung Ngộ. Cuối cùng Trung Ngộ chọn cách chết

bên xác Nhị Khanh, trở thành hồn ma quấn quýt, thỏa sức ân ái cùng nhau mặc cho

người người ngăn cản. Người ta có thể chê trách hồn ma Nhị Khanh là phường lẳng

lơ, đã có chồng (khi còn sống) lại đi quyến rũ, tư thông với người khác (khi là ma),

hại chết Trung Ngộ. Theo quan niệm lúc bấy giờ: người phụ nữ phải công dung

ngôn hạnh, dù chết cũng phải làm ma nhà người và quan niệm những người con gái

xinh đẹp thường mà mối tai họa đặc biệt khi đó lại là một hồn ma. Nhưng nếu

không phải là khát khao dục vọng từ hai bên thì cớ gì Trung Ngộ lại gọi Nhị Khanh

là vợ: “Chỗ vợ ta ở có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào ta phải đi theo chứ

không thể luẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được, can dự gì đến các người mà

dám đem dây trói buộc ta thế này”. Trung Ngộ không quen được nàng liền mang

nỗi u uất trong lòng, đến được với nàng liền vui mừng trong lòng, tự coi mình là tri

âm của Nhị Khanh, ca ngợi tài năng thơ ca của nàng sánh với Dị An đời xưa. Dù

tình yêu giữa hồn ma Nhị Khanh với Trung Ngộ là tình yêu xuất phát từ dục vọng

bản năng, họ đến với nhau để thỏa mãn tình dục, nhưng đó cũng là nhu cầu hết sức

chính đáng của đôi lứa. Tình yêu của họ trái với luân thường, đạo lí của Nho giáo

lúc bấy giờ. Nếu Nhị Khanh còn sống thì càng không thể có tình yêu vì dù sao nàng

cũng chỉ là một người vợ bị vứt bỏ, mà đã là vợ người dù góa bụa bần hàn cũng

phải giữ tiết. Chết khi mới tuổi đôi mươi lại ở cảnh ngộ như vậy, hồn ma Nhị

Khanh luyến tiếc hạnh phúc đôi lứa ở trần gian mà nàng chưa từng hưởng, luyến

tiếc dục vọng chưa được thỏa khi còn sống. Nguyễn Dữ đã để cho đôi lứa thoát khỏi

mọi ràng buộc của quan niệm đạo đức cộng đồng bằng cái chết, để họ sau khi chết

có thể thỏa sức yêu đương, thỏa sức ân ái. Có lẽ chỉ có làm ma - nhân vật không

tưởng này tác giả mới dám miêu tả những hành động không tưởng ở đời thực.

Không chỉ biểu hiện qua hệ thống nhân vật hư cấu, yếu tố kỳ ảo của Truyền

kì mạn lục còn được thể hiện qua không gian, thời gian nghệ thuật. Đó là không

gian, thời gian xuất hiện của các nhân vật, đặc biệt những nhân vật ma nữ hay yêu

hoa trong các câu chuyện “Chuyện cây gạo, Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây…”

63

Bên cạnh những nhân vật kỳ ảo thì Truyền kì mạn lục những nhân vật được

tác giả giới thiệu nguồn gốc xuất thân rõ ràng gắn với những không gian, thời gian

rất thực, rất cụ thể: như quê quán chỗ ở, năm hiệu như: “Trình Trung Ngộ là một

chàng trai đẹp ở đất Bắc Hà, nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng nam buôn bán.

Chàng thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê rồi đi lại vào chợ Nam Xang”, “Hà

Nhân, người học trò quê ở Thiên Trường, khoảng năm Thiệu Bình ngụ ở kinh sư để

tòng học cụ ức Trai.”, “Ả danh kỹ ở Từ Sơn là Đào Thị, tiểu tự Hàn Than, thông

hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên hiệu Thiệu Phong thứ năm (1345) đời nhà Trần,

nàng được tuyển sung vào làm cung nhân, hằng ngày chầu vua ở tiệc rượu hay ở

chiếu bạc.”. Như vậy tác giả Nguyễn Dữ đã có sự kết hợp chặt chẽ nhuần nhuyễn

không gian và thời gian thực với không gian và thời gian kì ảo nhờ sự kết hợp này

mà các nhân vật dễ dàng thể hiện tình cảm của mình từ cuộc sống thực sang cõi ảo.

Với yếu tố kỳ ảo và yếu tố thực còn được thể hiện trong tác phẩm Lan Trì

kiến văn lục, bên cạnh những câu chuyện chứa đựng yếu tố thực thì còn có những

câu chuyện xuất hiện yếu tố kỳ ảo. Người đọc nhận thấy, cái thần kỳ trong tác phẩm

của Vũ Trinh chính là sự giao thoa của nhiều quan điểm xã hội khác nhau, trong đó

Nho giáo tất nhiên đóng vai trò của kẻ phán xét. Ở đây, những tư tưởng của Đạo

giáo vẫn chiếm một vị trí nổi bật, sâu xa. Lan Trì cũng tìm thấy phần nào trong tư

tưởng và huyền thoại của Đạo giáo một cái gì đó gần gũi với quan điểm sáng tác

của mình. Yếu tố kỳ ảo ngoài việc được thể hiện qua tôn giáo, còn thể hiên qua yếu

tố chiêm mộng. Tác phẩm Lan Trì kiến văn lục xuất hiện đã phần nào đáp ứng được

nhu cầu của bạn đọc. Vũ Trinh đã đưa yếu tố kỳ ảo vào trong các câu chuyện của

mình, thông qua các truyện sau: Sống lại, Câu chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp báo

ân. Yếu tố kỳ ảo xuất hiện đã tạo thành dòng chảy liền mạch nối các sự kiện diễn ra

trong truyện, giúp cho truyện thêm phần tự nhiên, hấp dẫn. Kỳ ảo như một phép

màu để cảnh tỉnh lương tri và hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Không

có tưởng tượng thì không có gì hết. Nhu cầu tưởng tượng để thăng hoa và lạc quan

hơn trong cuộc sống. Nhà khoa học cần tưởng tượng để lập nên những phát minh vĩ

đại. Người nghệ sĩ cần đến tưởng tượng để tái tạo nên những tác phẩm nghệ thuật

độc đáo. Văn học là sân chơi của trí tưởng tượng. Để thoát ra khỏi hiện thực cuộc

64

sống chật chội tù túng ấy, các nhà văn đã dùng nhiều yếu tố để thoát ly. Có một con

đường giúp người ta thỏa mãn mong muốn ấy đó chính là thoát ly vào thế giới kỳ

ảo, chính là cách để nhà văn thỏa mãn được những khao khát giải phóng cá tính và

giải phóng tự do cá nhân của con người. Thoát vào thế giới kỳ ảo còn là nơi để nhà

văn cân bằng đời sống tinh thần. Những thiên truyện viết về tình yêu, yếu tố kỳ ảo

đã giúp nhà văn tưởng tượng, thêu dệt nên những câu chuyện tình yêu lãng mạn và

đầy mộng tưởng. Tình yêu của cô gái và chàng Đào Sinh trong câu chuyện Sống lại

bất chấp mọi rào cản, bằng tình yêu chân thành cô gái đã trở về từ trong cõi chết.

Cô gái đã sống lại và sống một cuộc sống hạnh phúc bên người mình yêu. Yếu tố kỳ

ảo còn thể hiện trong truyện “Câu chuyện tình ở Thanh Trì” kể về cô con gái của

một phú ông. Cô đẹp người, đẹp nết mà bạc mệnh, ôm một mối tình đau đớn, oan

trái. Cô chết, được hỏa táng, thi thể thành tro, nhưng còn lại một khối nhỏ “một vật

to bằng cái đấu sắc đỏ như son, không phải ngọc, cũng chẳng phải đá, nó trong

như gương, búa đập không vỡ. Nhìn bên trong thì có bóng con đò, trên đó có một

chàng trai đang ngả đầu tựa mái chèo nằm hát” cho thấy sức mạnh vĩnh cửu của

tình yêu. Người cô yêu là một anh lái đò nghèo đẹp trai, hát hay, sau này trở nên

khá giả, đến xin phú ông cho xem khối thi thể còn lại của cô. Và khi dòng nước mắt

của anh trào ra, nhỏ xuống khối đá, “khối đá tan chảy đầm đìa thành máu tươi, ướt

đẫm ống tay áo chàng”. Dù thể xác có nằm xuống dưới mồ xanh nhưng hình bóng

mãi theo chàng Sinh.

Ở “Tháp báo ân”, yếu tố kỳ ảo xuất hiện ở giữa mạch truyện. Đó cũng là

tình cảnh của cô gái mắc bệnh phong. Cô chết đi nhưng nỗi khát khao yêu thương

vẫn chưa hết, nàng luôn muốn những điều tốt đẹp cho người yêu. Hồn nàng trở về

cầu xin quan chủ khảo cho Sinh được đỗ đạt. Việc cô gái về trong mộng là một

chuyện lạ đúng như quan chủ khảo đã nói với Sinh. Phải chăng thành công của Vũ

Trinh khi lấy yếu tố kỳ ảo để chuyển tải một tình yêu đẹp là ở chỗ đó. Sự xuất hiện

của yếu tố kỳ ảo giúp cho việc truyền tải những câu chuyện tình yêu thêm hấp dẫn

và cảm động hơn. Những câu chuyện tình hiện lên thật đẹp và lãng mạn. Bên canh

đó yếu tố thực là những cái có thực tồn tại trong cõi nhân thế. Cái thực ấy có thể là

những nhân vật, những sự kiện, những việc làm… Trên cơ sở đó, Vũ Trinh tái hiện

65

trong tác phẩm. Bởi vậy những nhân vật, chi tiết, sự kiện trong tác phẩm hiện ra khá

rõ, rất thật. Những điều mà Vũ Trinh nghe được, thấy được trong cuộc sống, đều

được ông dùng làm chất liệu sáng tạo. Nhà văn đã thành công trong việc đưa hiện

thực đời thường vào trong tác phẩm, đưa những con người bình thường (học trò,

người phụ nữ, những người nghèo khổ…), những nhân vật tưởng như rất xa lạ với

văn học giai đoạn trước vào tác phẩm và biến họ thành những nhân vật văn học có

đời sống sinh động. Nhân vật của Vũ Trinh có hành động, có nội tâm phong phú, nó

rất gần gũi với hiện thực cuộc sống. Họ được xây dựng đều có thân thế rõ ràng,

được giới thiệu cụ thể về lai lịch, quê hương, chức tước... Hay cô gái trong “Câu

chuyện tình ở Thanh Trì” rất chủ động đến với tình yêu, nhưng tình duyên không

thành, nàng ôm hình bóng người yêu mà chết rồi biến thành khối đá trong vắt được

tác giả giới thiệu là con gái phú ông họ Trần ở Thanh Trì. Đó là một cô gái xinh

đẹp, luôn hướng tới những gì tốt đẹp, luôn giữ trong lòng mối tình thủy chung trong

sáng. Cái chết không giết nổi trái tim kiếm tìm hạnh phúc của cô “Sống lại”, được

Vũ Trinh giới thiệu là người ở huyện Đông Sơn. Xây dựng nhân vật có xuất xứ cụ

thể đã phần nào cho ta thấy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Những loại người có thực

trong cõi đời này, còn là nhân vật trong lịch sử nước ta. Nguyễn Đăng Đạo người xã

Hoài Bão, huyện Tiên Du. Nay là thôn Hoài Bão, xã Tiên Bão, huyện Tiên Sơn,

tỉnh Bắc Ninh, đỗ Trạng nguyên khoa Quý Hợi, niên hiệu Chính Hòa (1683) khi ấy

ông mới 33 tuổi “Trạng nguyên họ Nguyễn”… nhân vật này có tên trong làng khoa

bảng nước Nam ta. Với cách xây dựng lai lịch cụ thể rõ ràng, tác giả đã giới thiệu

rất chi tiết về hành trạng, điều đó cho thấy sự tôn trọng, đề cao thực tế đời sống của

Vũ Trinh khi cầm bút viết văn. Như vậy, tác giả đã phác họa nên bức tranh muôn

màu về xã hội đương thời khá phức tạp, giúp chúng ta hình dung lại một thời xa xưa

khá rõ. Bên cạnh những loại người có thực trong cõi đời, còn là những sự việc có

thực diễn ra trong cuộc sống, ví như tình yêu bị phụ tình… Trong các truyện: Ca kỹ

họ Nguyễn, Trạng nguyên họ Nguyễn… đã thể hiện rõ điều đó, và chi tiết hư cấu

hầu như không xuất hiện. Những câu chuyện đó được Lan Trì kể lại. Nó không có

bóng dáng những điều kỳ lạ hay sự xuất hiện của biến hóa khác thường, mà ẩn chứa

trong đó là những yếu tố thực. Truyện “Ca kỹ họ Nguyễn” là câu chuyện kể tự

nhiên, giản dị hết sức chân thật. Nó xoay quanh nhân vật người kỹ nữ có tình cảm

66

với chàng nho sinh Khâm Lân. Khi Khâm Lân đỗ đạt muốn lấy cô nhưng cha chàng

ngăn cản không cho. Sau này khi đỗ đạt cao ông đã gặp lại cô kỹ nữ ngày xưa

thương xót cho số phận của cô đã đón cô và mẹ về nơi ở riêng chu cấp đầy đủ.

“Hơn một năm sau, mẹ cô gái mất. Ông lo chon cất chu đáo. Tang ma cho mẹ xong,

cô gái từ biệt ra đi, ông giữ lại không được, gửi tặng tiền bạc cô cũng không nhận.

Ông cố ép thì cô nói:

- Thiếp không có phúc được làm vợ chàng thì những thứ tiền bạc này đâu có

phúc để tiêu mà nhận!

Cô gái này là người huyện Chương Đức, xứ Sơn Nam”

Các câu chuyện từ khi bắt đầu tới lúc kết thúc không ẩn chứa chút hoang

đường, kỳ ảo nào. Truyện của ông tương đối ngắn gọn, nhìn chung đều rất mộc

mạc, cốt truyện đơn giản, phong vị đất nước đậm đà, nhưng cũng vì thế mà sự biến

ảo, tưởng tượng bay bổng không còn phong phú như Truyền kỳ mạn lục. Các truyện

thường ghi chép giản đơn, ít gia công về cốt truyện. Chủ trương “kiến văn”, cô

đọng nội dung chỉ trong một cốt truyện dân gian như một người sưu tầm trung thực

được Vũ Trinh chú trọng. Bởi thế truyện của ông vừa gần gũi với tính chất truyện

kể dân gian, vừa rất gần gũi với đặc trưng của văn học nghệ thuật hiện đại - lời ít, ý

nhiều, tích cực khơi gợi cảm xúc và suy nghĩ của bạn đọc. Những câu chuyện mà

Vũ Trinh kể lại đều là những chuyện mà ông được nghe, được chứng kiến. Đó là

những câu chuyện về những con người thật, sự việc có thật. Những con người đó,

sự việc đó đều mang dấu ấn của thời gian mà nhà văn là người khắc tạc nên bức

tranh về đời sống con người đương thời thật sinh động.

Tóm lại, có thể nói truyện truyền kì là một trong những thể loại văn học rất

hấp dẫn đối với người đọc, không chỉ bởi những yếu tố vừa thực vừa ảo của nó mà

còn ở mảng đề tài phong phú, tư tưởng tiến bộ và giá trị nội dung cao đẹp, nhân

bản. Chúng ta không phủ nhận sự ảnh hưởng của truyện truyền kì Trung Hoa, của

những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhưng qua ngòi bút sáng tạo của các

tác giả, truyện truyền kì Việt Nam đã mang sắc thái mới, tư tưởng mới với nhiều

tình tiết thú vị. Với cả một quá trình phấn đấu không ngưng nghỉ, truyện truyền kì

thực sự vươn lên mạnh mẽ, có vị trí xứng đáng trong nền văn học nước nhà.

67

Sự xuất hiện của yếu tố kỳ ảo giúp cho việc truyền tải những câu chuyện tình

yêu thêm hấp dẫn và cảm động hơn. Những câu chuyện tình hiện lên thật đẹp và lãng

mạn. Như vậy, yếu tố thực và yếu tố ảo được thể hiện trong tác phẩm có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau. Sự kết hợp của hai yếu tố ấy giúp người đọc thấy một thế giới

huyền bí cùng tồn tại song song với thế giới hiện hữu giữa cõi đời; những sự quái dị

đan xen những điều bình thường, tình tiết hư ảo xen lẫn tình tiết thực. Đọc tác phẩm,

người đọc được chiêm nghiệm cuộc sống, lại thấy được những điều bất ngờ lý thú đó

là nhờ có sự kết hợp tài tình yếu tố thực và yếu tố kỳ ảo của nhà văn.

3.1.3. Sự giảm tải dần kiểu kết cấu biền văn xen vận văn và Lời bình cuối truyện

Kết cấu tác phẩm bao gồm: tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và

không gian nghệ thuật, tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện

trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện để tác phẩm trở thành một chủ thể. Kết

cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm

vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Mỗi giai đoạn phát triển khác

nhau các tổ chức kết cấu chung của tác phẩm văn học cũng có sự chuyển đổi theo

xu hướng của thời đại.

Cách ghi chép truyện truyền kì là sự phối hợp văn tự sự với biền văn xen vận

văn. Biểu hiện chung của kiểu kết cấu truyện này là tác giả dùng văn xuôi để kể sự

việc nhưng thường đến chỗ tả cảnh hay tả người thì dùng văn biền ngẫu, khi nhân

vật bộc lộ cảm xúc thì dùng thơ, khi người kể chuyện bộc lộ cảm xúc thì dùng lời

bình. Trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ có 4 truyện viết về chủ đề tình yêu

nam nữ thì cả 4 truyện có sự phối hợp xen kẽ giữa văn xuôi với biền văn, vận văn.

Đi tìm nguyên nhân này ở Nguyễn Dữ, PGS.TS Nguyễn Đăng Na đã nêu ra các ý

kiến khác nhau: “tài hoa của tác giả thể hiện ở chính những bài thơ, ca, từ, hành; là

hình thức dung hoà giữa phương thức tự sự với trữ tình. Có người lại khẳng định

nếu không thông qua ngôn ngữ ước lệ thì khó diễn tả nổi các cuộc hoan lạc của

nhân vật trong truyện” [20, tr.39]. Nhờ những bài ca từ mà yếu tố tâm lí của nhân

vật được bộc lộ rõ nét. Nhưng đôi khi làm người đọc mất hứng thú, diễn biến truyện

bị gián đoạn.

68

Bước sang giai đoạn cuối thể kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX văn học phát triển

theo một hướng mới, các nhà văn nghiêng về cuộc sống hiện thực, coi trọng thực tế

hơn là những cảm giác bay bổng xa rời hiện thực của văn chương trước đó. Sở dĩ có

sự thay đổi ấy một mặt các nhà văn chịu sự tác động của phong trào Thực học, một

mặt do sự thay đổi thường xuyên của lịch sử xã hội lúc bấy giờ cho nên kết cấu tác

phẩm theo kiểu biền văn xen vận văn và lời bình cuối tác phẩm bị loại dần. Sáng tác

tiêu biểu cho kiểu kết cấu này là của Vũ Trinh. Phong cách chép truyện này của Vũ

Trinh khiến cho cốt truyện trở nên gọn, liền mạch. Tình tiết truyện thì vừa đủ để tập

trung vào mạch chính, diễn biến truyện nhanh nên rất sinh động. Trong 5 truyện viết

về chủ đề tình yêu nam nữ không có một tác phẩm nào chúng ta còn thấy dấu vết

của thơ ca, câu văn biền ngẫu và lời bình còn rất ít. Vì việc sử dụng biền văn xen

vận văn trong tác phẩm tự sự khiến cho tác phẩm trở lên rườm rà, diễn biến bị gián

đoạn làm mất hứng thú của người đọc. Nhưng rõ ràng kiểu kết cấu này thể hiện

được tài hoa của người sáng tác lẫn nhân vật trong truyện, không những vậy mà

việc kết hợp này còn làm cho tác phẩm văn học có loại hình sáng tác phong phú và

đa dạng, đời sống tâm lý nhân vật được bộc lộ sâu sắc. Có lẽ cuộc cách tân văn

phong, văn thể ảnh hưởng của phong trào Thực học diễn ra theo một quá trình. Ở

Đoàn Thị Điểm mới chú trọng đến việc viết về người thực, việc thực chưa chú trọng

đến cải cách văn phong. Đến Vũ Trinh cuộc cách tân đã diễn ra toàn diện, mạnh mẽ

và sâu sắc hơn. Như vậy việc bỏ kết cấu vận văn xen biền văn đã làm cho văn

phong chép chuyện của Vũ Trinh khắc phục được những nhược điểm của truyện

truyền kì trước đó. Câu văn không còn rườm rà, gây hứng thú cho người đọc.

Còn về lời bình ở sau mỗi truyện thì Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ có xen lời

bình trong 19/20 truyện. Trong 4 truyện viết về chủ đề tình yêu nam nữ Nguyễn Dữ

đều sử dụng lời bình. Qua những lời bình, lời bàn ở cuối truyện, Nguyễn Dữ đã thể

hiện quan điểm đạo đức và lí tưởng của mình với vai trò là một nhà nho. Như

“Chuyện cây gạo”: “Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo

cho người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải. Trung Ngộ là

một gã lái buôn không có tri thức, không đủ trách vậy. Vị đạo nhân kia vì người trừ

hại, công đức lớn lao; nhà bình luận công bằng sau này, phải nên biết đến. Không nên

lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị đoan mà dìm mất cái hay,

ngõ hầu mới hợp cái ý nghĩa người quân tử trung hậu đối với người khác”. Lời bình

thể hiện thái độ khinh thường, định kiến với người lái buôn Trung Ngộ.

69

Đến Vũ Trinh đã có một sự thay đổi lớn so với các nhà văn cùng thời ông

vẫn kế thừa việc sử dụng lời bình sau truyện nhưng đã có sự cách tân đáng kể.

Trong Lan Trì Kiến văn lục những truyện có chủ đề tình yêu nam nữ thì 3/5 tác

phẩm có lời bình, dung lượng lời bình tác giả cũng rất kiệm lời, lời bàn ít. Nếu đem

so sánh số lượng lời bàn lời bình trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục ta

sẽ thấy sự chênh lệch. Dung lượng lời bình trong Truyền kì mạn lục ít nhất là 6

dòng“Chuyện cây gạo, Chuyện nghiệp oan của Đào thị” và nhiều nhất là trên 10

dòng “Chuyện yêu quái ở Xương Giang”. Đến Vũ Trinh, lời bình được sử dụng

trong mỗi truyện có khi chỉ hơn 1 dòng “Sống lại”. Vậy là với Vũ Trinh việc thêm

lời bình ở sau tác phẩm không còn là nhất thiết mà chỉ ở những tác phẩm ông thấy

cần tỏ rõ quan điểm đạo đức của mình hơn. Đặc biệt trong lời bình của ông không

những rất ngắn gọn mà nội dung của lời bình còn thể hiện một tư tưởng tiến bộ mới

mẻ đó là quan niệm rộng mở của ông về cuộc đời, con người. Ông không còn định

kiến với những người bị coi là “mạt hạng” trong xã hội phong kiến như nghề “con

hát”. Ngay trong lời bình, nơi mà các nhà nho thường giữ mực thước nhất, ông vẫn

ngợi ca một cô ca kỹ trong “Ca kỹ họ Nguyễn”: “Trái tim kiên trinh, khí tiết hào

hiệp, con mắt tinh đời, cô gái trong truyện trên đây đều có đủ. Vô luận là trong đám

quần thoa hay bậc mày râu cũng không có nhiều” [39, tr.70].

Với những thay đổi như vậy Vũ Trinh đã có sự kế thừa những tinh hoa của

các bậc tiền bối đồng thời ông đã có những đóng góp cho sự phát triển của thể loại

truyền kì Việt Nam. Sự cách tân này mở ra một hướng mới cho văn học giai đoạn

sau phát triển.

3.2. Không gian, thời gian nghệ thuật

3.2.1. Không gian nghệ thuật

3.2.1.1 Không gian thực

Nếu như loại không gian kỳ ảo không có thực và không gian kỳ lạ ở cõi trần

tạo nên tính chất kỳ ảo cho những câu chuyện về nhân vật thì hình thức không gian

thực của cuộc sống con người sẽ gia tăng yếu tố hiện thực. Những câu chuyện nói

về nhân vật ma quái trong Truyền kì mạn lục đều xảy ra ở một địa điểm cụ thể và có

thực. Nơi ma quỷ tập trung.Từng địa điểm ma quái xuất hiện trong Chuyện cây

70

gạo được điểm lại cụ thể: cầu Liễu Khê, chợ Nam Xang, Đông thôn. Khu trại Tây

“Chuyện kì ngộ ở trại Tây” được miêu tả vị trí tỉ mỉ: “ở kinh sư, phường Khúc

Giang có cái trại gọi là trại Tây là dinh cư cũ quan Thái sư triều Trần”. Không

gian thực trong những truyện có sự xuất hiện của nhân vật ma quái ở Truyền kì mạn

lục không chỉ dừng lại ở những tên đất, tên làng mà còn là những không gian gần

gũi, quen thuộc trong sinh hoạt của người dân. Đó là thuyền buôn nơi Trung Ngộ và

Nhị Khanh vui say ân ái, là những ngôi đình, ngôi chùa, ngôi miếu dân chúng vẫn

thờ những vị thần, Phật… Trong những ngôi đền, chùa ấy có một loại cây mà ma

quỷ hay trú ngụ: cây gạo. Linh hồn Trung Ngộ và Nhị Khanh, sau khi hài cốt bị dân

làng vứt xuống sông, đã nương náu vào cây gạo trăm tuổi ở ngôi chùa bên sông, hễ

ai động vào thì “dao gãy rìu mẻ, không thể nào đẵn phạt được”. Nguyễn Dữ đã tạo

cho nhân vật ma quái của mình một nơi “cư trú” mang đậm hồn cốt Việt Nam “thần

cây đa, ma cây gạo”. Dân gian quan niệm ma quái hay trú ngụ ở những cây đa, cây

gạo. Chẳng thế mà trong Truyền kì mạn lục hơn một lần hình ảnh cây gạo gắn liền

với ma quái xuất hiện. Không cần miêu tả nhiều, chỉ cần đôi nét vẽ ấy cũng đủ gợi

lên cái tiêu điều của một chỗ vốn là nơi cư ngụ của ma quái “Một lúc, mây gió nổi

lên đùng đùng, người đứng cách mấy thước không trông thấy nhau, dưới sông thì

sóng tung cuồn cuộn vang trời động đất. Sau một hồi, gió lặng mây quang, thấy cây

gạo đã bị nhổ bật, cành cây gẫy nát và bị tước như tước dây vậy. Kế nghe thấy

trong không có tiếng roi vọt và tiếng kêu khóc. Mọi người ngẩng lên trông có sáu

bảy trăm lính đầu trâu gông trói hai người mà dẫn đi” “Chuyện cây gạo”

Không gian gặp gỡ giữa Nhị Khanh và Trình Trung Ngộ trong không gian

đêm tối - không gian bị nhà nho coi là không gian dâm. Bên cạnh đó truyện của

Nguyễn Dữ còn đề cập đến không gian sinh hoạt. Không gian sinh hoạt trong truyện

không chỉ dừng lại ở một làng, một huyện mà được mở rộng dần theo trình tự câu

chuyện từ nhà đến làng, lên huyện và cuối cùng là triều đình “Chuyện cây gạo”:

“Rồi đó canh ba, đêm hôm ấy, nhân lúc đêm đen trời tối, hai người cùng đi đến

Đông thôn. Khi đến một chỗ, chung quanh có bức hàng rào bằng gióng tre, thỉnh

thoảng chen lẫn vào vài khóm lau khô, trong có túp nhà gianh nhỏ lụp sụp, dây bìm

leo đầy lên vách và lên mái, nàng trỏ bảo chàng rằng:

71

- Đây, nhà của thiếp đây, cứ đẩy cửa vào ngồi chơi để thiếp đi kiếm cái

lửa. Trình cúi đầu qua dưới mái gianh, vào tạm ngồi ở chỗ bờ cửa. Thỉnh

thoảng có cơn gió thổi, chàng thoáng thấy một mùi tanh thối khó chịu. Đương

kinh ngạc không biết mùi gì, bỗng trong nhà có bóng đèn sáng. Chàng trông

vào, thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc giường mây nhỏ, trên giường để một

cỗ áo quan sơn son, trên quan phủ một tấm the hồng, dùng ngân sa đề vào mấy

chữ "Linh cữu của Nhị Khanh". Cạnh cữu có người con gái nặn bằng đất tay ôm

cây hồ cầm đứng hầu.”

Nối tiếp mạch của thể loại truyền kì, không gian trong Lan Trì kiến văn lục

cũng là không gian gần gũi, không gian thực tế, gắn với những địa danh cụ thể:

“Nguyễn Sinh người Thanh Trì”, “Ông Nguyễn Đăng Đạo là người xã Hoài Bão,

huyện Tiên Du…”. Hay không gian phủ Ngô Hầu trong “Trạng nguyên họ Nguyễn”:

“Ông nghe thế lại đi theo xe. Đến một dinh thự, người đẹp xuống xe đi vào,

ông liền rẽ vào một quán trà phí ngoài cổng, hỏi thăm chủ hàng đây là dinh thự của

quan nào. Bà chủ quán đáp: “Đây là dinh thự của ngài võ quan Ngô Hiến hầu. Hầu

vì có công lớn được cử coi cấm binh, chỉ huy việc quân của cả kinh thành.

Ông hỏi có mấy vị công tử. Bà chủ quán đáp: Hầu có rất nhiều vợ lẽ, nàng

hầu, nhưng chỉ sinh được một tiểu thư, nhan sắc sinh tươi có một, lại có học, giỏi

chữ nghĩa, năm nay đã đến tuổi cập kê vẫn chưa lấy ai. Người vừa đi kiệu trở về

chính là nàng đấy.

Ông lại hỏi:

- Trong hàng các võ quan chả lẽ cũng thiếu người môn đăng hộ đối?

- Bà chủ quán đáp:

- Hầu xuất thân là con nhà huân quốc công thần, nhưng tính tình khác lạ, cứ

muốn chọn bậc tài tử để thành đôi cho nàng, cho nên mới để chậm thôi. Nếu không

thì thiếu gì các cậu ấm con nhà kiếm dài thương lớn. Tối hôm ấy ông suốt đêm mơ

tưởng. Sang hôm sau ông lại tới đứng ở cổng nhà quan hầu. Hôm ấy quan hầu vào

chầu ban sớm trở về, ông kéo một đứa hầu nhỏ,đem tiền và quà bánh đút lót cho

nó.. Khi đã quen thân, ông hỏi kĩ nó về đường ra lối vào, về cổng cửa các phòng

trong dinh”.

72

Truyện của Vũ Trinh cũng nhắc đến không gian sinh hoạt đời thường của

con người: dòng sông, con đò, con đường vào làng, trên cây cổ thụ….như trong

truyện “Câu chuyện tình ở Thanh Trì”:“Sinh khuôn mặt đã sáng hơn người, giọng

hát lại càng ngọt ngào lôi cuốn. Mỗi khi gió mát trăng trong, mỗi buổi ban mai vừa

rạng, hoàng hôn mới buông, chàng lại gõ nhịp chèo mà hát, khiến ai nghe cũng

phải ngất ngay.

Bên bờ sông là nhà phú ông họ Trần có một cô con gái chưa chồng. Nghe Sinh

hát nàng rất ưa, thường ngồi tựa cửa sổ liếc nhìn. Thấy mặt Sinh nàng lại càng không

sao quên được. Nàng nén nhờ con hầu đem khăn tặng Sinh, và dặn nó bảo Sinh sớm

nhờ người mai mối. Sinh về nhà bàn với mẹ.”[39, tr.71]. Những không gian bình

thường ấy tạo cho người đọc cảm giác gần gũi thân thuộc như chuyện đang xảy ra

ngay trong cuộc sống xung quanh mình.

Tất cả những tên đất, tên huyện ấy đều là địa danh có thật trên nước ta bấy

giờ, có thể tra cứu ở sách vở khiến người đọc tin vào tính chân thật của truyện.

Những địa danh của truyện được đưa vào chẳng những gia tăng yếu tố hiện thực

cho câu chuyện mà còn khẳng định nguồn gốc và tính chất dân tộc của hai tập

truyện: đây đều là những truyện xảy ra trên đất nước ta, không phải tác phẩm sao

chép, mô phỏng truyện nước ngoài.

3.2.1.2. Không gian kỳ ảo

Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Không

hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không nhân vật nào không có nền

cảnh tồn tại của nó. Trong các tác phẩm nghệ thuật, con người xuất hiện với tư cách

là hình tượng con người và không gian được tạo dựng là hình tượng không gian. Vì

thế, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hiện tượng. Từ điển văn học định

nghĩa: "không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể

hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất

phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong một trường nhìn nhất định, qua đó thế giới

nghệ thuật được cụ thể …"[10, tr.160]. Nhờ có điểm nhìn của chủ thể mà không

gian có chiều - thấp, rộng - hẹp, xa- gần, sâu - cạn … gắn với cảm thụ về không

gian của con người. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sỹ

nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống.

"Không gian nghệ thuật gắn với sự cảm thụ không gian nên mang tính chủ quan,

ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng” [10, tr.160].

73

Không gian kỳ ảo không có thật gắn liền với nhân vật ma quái là không gian

kỳ ảo không có thật trong thực tế. Đấy là không gian trong tưởng tượng của các tác

giả trong Truyền kì mạn lục, không gian kỳ ảo gắn với nhân vật ma quái gồm hai

loại không gian chính: không gian âm phủ và không gian thủy phủ. Đó đều là không

gian dưới lòng đất, nơi sinh sống của ma quỷ. Còn không gian trong Lan Trì kiến

văn lục là không gian gần gũi, không gian thực tế rất cụ thể.

Không gian kỳ ảo xuất hiện nhiều nhất trong truyện Truyền kì mạn lục.

Trong “Chuyện cây gạo” khi Trình Trung Ngộ biết sự thật về Nhị Khanh và chốn

khỏi Đông thôn về nhà thì chàng bị Nhị Khanh cho vào một không gian ảo: “Chỗ

vợ ta có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào, ta phải đi theo chứ không thể

luẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được” [6, tr.43]. Như vậy không gian ảo ấy được

tạo ra để lôi cuốn, hấp dẫn đối tượng khiến người ta muốn vùng đi theo và dẫn tới

việc Trình Trung Ngộ ôm quan tài Nhị Khanh mà chết. Đặc biệt trong “Chuyện kỳ

ngộ ở trại Tây” Nguyễn Dữ đã xây dựng một không gian thanh nhã, trang trọng nhất

của dinh thự quan thái sư: “Khi đến trại Tây, qua mấy lần rào, quanh một đoạn

tường, đi ước mấy chục trượng thì đến một cái ao sen; hết ao lại là khu vườn, cây

cối xanh tươi, mùi hoa thơm ngát, nhưng ở dưới bóng đêm lờ mờ, không nhận rõ

được hoa gì, cây gì cả, chỉ thấy mùi hương lúc lúc thoảng tới” [6, tr.63]. Không gian

đó Hà Nhân như lạc vào xứ sở thần tiên. Thế nhưng khi Đào, Liếu thác hoá, chàng

cùng ông già Nhân đến trại Tây thì chỉ thấy “nếp nhà quạnh hiu, vài ba cây đào, liễu

xơ xác tơi bời, lá trút đầy vườn, tơ vương khắp giậu. Một khung cảnh hoang sơ tiêu

điều vắng vẻ.

Những không gian này mang lại màu sắc kì ảo, góp phần tạo nên đặc trưng của

thể loại, đồng thời tạo sự hấp dẫn, thu hút trí tò mò của người đọc. Đó là nhưng không

gian hoang đường kỳ ảo được xây dựng qua trí tưởng tượng phong phú của tác giả.

3.2.2. Thời gian nghệ thuật

3.2.2.1. Thời gian kì ảo

Thời gian kì ảo đồng hành với không gian, thời gian là hình tồn tại của vật

chất. Thời gian là một đại lượng để xác định quá trình tồn tại, vận động và phát

triển của mọi sự vật trong thế giới. Hình tượng nghệ thuật cũng có thể xác định

74

trong không gian và thời gian. Sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao

giờ cũng xuất phát tại một điểm nhìn nhất định trong thời gian và cái được trần

thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự

phối hợp của hai yếu tố này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hình tượng ước lệ

chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng

hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt

tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có

thể kéo dài chốc lát thành vô tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo

khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự

sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay mùa này, mùa khác… tạo nên nhịp điệu trong tác

phẩm. Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy

chiếu có tính tiêu đề được giấu kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc

điểm tư duy của tác giả. Thời gian nghệ thuật thể hiện sự cảm thấy của con người

trong thế giới, nó luôn luôn mang tính cảm xúc và tính quan niệm nên đầy tính chất

của chủ quan. Thời gian nghệ thuật là thời gian của thế giới hình tượng hay nói cách

khác, "thời gian nghệ thuật là hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác

phẩm” (Trần Đình Sử). Ở đây, thời gian được dùng làm phương tiện để phản ánh

đời sống và thể hiện cảm xúc, tư tưởng của nhà văn với hiện thực đời sống ấy.

Trong tiến trình lịch sử văn học, thời gian nghệ thuật cũng đã có một quá trình vận

động. Tương ứng với mỗi giai đoạn, mỗi loại hình có một kiểu thời gian xác định.

Khi nào ngòi bút nghệ sĩ chạy theo diễn biến sự kiện thì thời gian trôi nhanh, khi

nào dừng lại miêu tả chi tiết thì thời gian chậm lại. Đi cùng khát vọng cảm nhận

toàn bộ thế giới qua thời gian và trong không gian, thời gian nghệ thuật đã trở thành

một phạm trù thi pháp càng ngày càng có tầm quan trọng.

Thời gian kì ảo trong Truyền kì mạn lục đó là thời gian ban đêm. Trong tâm

thức người Phương Đông thời gian ban đêm là khoảng thời gian chứa nhiều điều kì

bí, lúc bóng tối bao trùm là lúc có một thế giới khác đang tồn tại. Vì thế những chi

tiết liên quan đến yếu tố kỳ ảo thường xảy ra vào ban đêm góp phần tạo nên sự ma

quái, kỳ lại, bí ẩn của các nhân vật như: “Chuyện cây gạo” Trung Kỳ Ngộ gặp gỡ

Nhị Khanh: “- Ta lâu nay rượu xuân quá chén, mê mệt nằm dài, hầu nửa năm trời,

75

không lên chơi cầu Liễu Khê lần nào cả, chẳng biết giờ phong cảnh ra sao. Đêm

nay nên thăm qua cảnh cũ, để được khuây giải chút tình u uất ở trong lòng, vậy em

có đi theo ta không? Con hầu vâng lời. Trung Ngộ nghe lỏm lấy làm mừng lắm. Tối

hôm ấy, chàng đến bên cầu chờ sẵn. Đêm khuya người vắng, quả thấy người con

gái cùng ả thị nữ mang theo đến một cây hồ cầm, đi tới đầu cầu, thở dài mà nói

rằng”. Hay thời gian mà đạo sĩ gặp hai hồn ma trong “Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây”

cuộc gặp gỡ giữa Hà Nhân và hai hồn hoa cũng xảy ra vào đêm tối:“Từ đó về sau,

hai nàng cứ sớm đi tối đến, ngày nào cũng giống ngày nào, Hà Nhân cho là sự kỳ

ngộ của đời mình, so với chuyện xưa, có thể sánh với Bùi Hàng và vượt hơn Tăng

Nhụ. Một buổi tối mưa dầm gió bấc, nhưng hai nàng vẫn đúng hẹn đến, khẽ bảo Hà

Nhân rằng”. Có thể thấy yếu tố kì ảo đóng vai trò chính yếu trong tổ chức tác phẩm

Truyền kì mạn lục. Nó tạo nên sự phong phú trong xây dựng cốt truyện, sự khoáng

đoạt trong biểu hiện không gian, sự biến ảo trong tái hiện thời gian. Hiệu quả của

chúng khiến cho hiện thực được phản ánh bằng cái nhìn đa diện, đa chiều. Cái thực

được khúc xạ qua cái ảo, được nhìn qua lăng kính của cái ảo để trở thành bức tranh

sâu sắc về cuộc đời.

Còn thời gian kì ảo trong Lan Trì kiến văn lục chỉ tồn tại trong chốc lát, đó

chỉ là những khoảnh khắc con người ngược về cõi dương gian, từ kiếp này biến

thành kiếp khác rồi lại trở lại với thờ gian thực, cuộc đời thực như “Tháp báo ân”:

“Khi mới chấm bài của ông, tôi đã định đánh hỏng, gấp lại đặt một chỗ,

chợp mắt ngủ gật, thấy một người con gái cầm bài thi, lạy tôi và xin rằng: Đây là

bài thi của chồng thiếp, xin ông lấy bài này. Tỉnh dậy thấy bài ông ở ngang trước

mặt. Đọc lại, thấy bài làm nhiều chỗ sai dở, phải gạch xoá mấy chỗ. Khi tựa gối

thiu thiu, lại mơ thấy người như trước tha thiết nài xin. Hỏi họ tên, cô gái nói là con

gái họ Nguyễn ở xã Bình Quân. Tôi đã hứa với cô gái trong mộng là lấy ông đỗ nên

miễn cưỡng lấy bài thi của ông. Đây đúng là ma quỷ”[39, tr.149].

Tóm lại, thời gian trong văn học không còn đơn giản là cái dung chứa các

quá trình đời sống mà còn là một yếu tố nội dung tích cực, một kẻ tham gia độc lập

vào hành động, là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để tổ chức nội dung

của nghệ thuật.

76

3.2.2.2. Thời gian lịch sử

Tất cả những câu chuyện tình yêu ấy lại được đặt vào trong những khoảng thời

gian lịch sử hết sức cụ thể khiến người đọc có cảm giác đây là chuyện có thật. Bất cứ

một hành động nào của truyện đều có thể xác định được năm tháng chính xác.

Trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ thời gian lịch sử được ông thể hiện

hết sức cụ thể như “Chuyện cây gạo” Trình Trung Ngộ yêu hồn ma Nhị Khanh và

đạo nhân đã diệt trừ hồn ma ở cây gạo “Trong năm Canh Ngọ (1330) niên hiệu

Khai Hựu nhà Trần, có vị đạo nhân một đêm vào nằm ngủ trong cái chùa ấy. Giữa

lúc sông quạnh trăng mờ, bốn bề im lặng, đạo nhân thấy một đôi trai gái, thân thể

lõa lồ mà cùng nhau cười đùa nô giỡn, một lát, đến gõ thình lình gọi hỏi trong

chùa. Đạo nhân cho là đôi trai gái lẳng lơ đêm trăng dắt nhau đi chơi, khinh bỉ cái

phẩm cách của họ, nên cứ đóng cửa nằm im, không thèm đánh tiếng. Sáng hôm sau,

đạo nhân đem sự việc trông thấy thuật chuyện với một ông già trong thôn mà phàn

nàn sao dân phong tồi tệ như vậy”.

Rồi chuyện Hà Nhân “Chuyện kì ngộ ở trại Tây” gặp gỡ hai hồn hoa vào

“năm Thiệu Bình thời Lê”. Hay “Chuyện nghiệp oan của Đào Thị”: “Ả danh kỹ ở

Từ Sơn là Đào Thị, tiểu tự Hàn Than, thông hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên hiệu

Thiệu Phong thứ năm (1345) đời nhà Trần, nàng được tuyển sung vào làm cung

nhân, hằng ngày chầu vua ở tiệc rượu hay ở chiếu bạc.”

Đến Lan Trì Kiến văn lục những câu chuyện tình yêu của Vũ Trinh không còn

được đặt vào thời gian lịch sử nữa mà là những khoảng thời gian hiện tại có thực.

Nếu thời gian trong những câu chuyện lưu truyền trong dân gian chủ yếu là

phiếm chỉ thì thời gian trong những truyện truyền kì lại hết sức chính xác, cụ thể.

Đây là ảnh hưởng của bút pháp chép sử nhưng đồng thời cũng là dụng ý nghệ thuật

của nhà văn.

Như vậy, cả đêm không gian và thời gian nghệ thuật gắn liền với sự xuất

hiện của nhân vật đã có sự kết hợp giữa yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực cụ thể tạo

nên một thế giới vừa thực vừa kì bí, vừa ma quái, vừa gần gũi, chân thực. Trong

truyện truyền kì về nói về tình yêu, gặp gỡ của nhân vật nam và nữ những tình

huống có thể xảy ra ở bất kì thời gian nào và ở bất kì đâu: cõi âm phủ, nhân gian,

77

cõi yêu ma, cõi quỷ thần... Sự nới rộng phạm vi không gian - thời gian trong truyện

truyền kì đã nâng kích cỡ của cõi nhân gian vốn chật hẹp và chóng vánh thành to

rộng và lâu bền hơn, nó đồng thời cũng nâng tầm của con người ra khỏi cái hạn hẹp

của trần thế.

3.2.2.3. Thời gian tâm lý

Mỗi hành động, sự kiện đều phải xảy ra ở một thời điểm nào đó. Vì vậy, đi

liền với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật . Thời gian nghệ thuật là thời

gian mang tính quan niệm và cá nhân. Mỗi tác giả có một cách cảm nhận khác nhau

về thời gian để thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình.

Điểm thứ nhất cần lưu ý là thời gian nghệ thuật có thể làm độc giả quên đi

hiện thực, nhập làm một với thời gian trong tác phẩm. Giữa ban ngày mà ta cứ

tưởng đêm tối, từ hiện tại mà trở về quá khứ, thậm chí trở về thời Bàn Cổ khai thiên

. Do được xây dựng bằng ngôn ngữ nghệ thuật nên thời gian trong tác phẩm dễ dàng

biến đổi linh hoạt.

Điểm thứ hai cần lưu ý là thời gian trong văn học có những nhịp điệu, sắc độ

riêng để phản ánh hiện thực. Văn học có thể kéo dài thời gian bằng cách miêu tả rất

tỉ mỉ mọi diễn biến tâm trạng, mọi diễn biến hành động của nhân vật của các sự

kiện. Văn học có thể làm cho một ngày dài hơn thế kỉ như tên truyện của Aimatop.

Ngược lại, nhà văn có thể làm cho thời gian trôi nhanh đi bằng cách dồn nén làm

cho khoảng một thời gian dài chỉ qua một dòng trần thuật ngắn.

Điểm thứ ba, thời gian trong văn học có thể trôi nhanh hay chậm, yên ả, đều

đều hay thay đổi đột ngột, gấp gáp, đầy biến động, có thể có những liên hệ giữa quá

khứ, hiện tại, tương lai. Thời gian có thể được trần thuật cùng chiều với thời gian tự

nhiên, nhưng cũng có thể đi ngược từ hiện tại trở về quá khứ bằng hồi tưởng. Các

lớp thời gian có khi đan bện, xoắn xít với nhau. Cũng có lúc giũa quá khứ và hiện

tại, tương lai có mối liên hệ thời gian, cùng đồng hiện trong một thời điểm.

Thời gian tâm lí lúc nhanh lúc chậm tùy thuộc trạng thái tâm hồn và cuộc

sống đặc thù của nhân vật. Thời gian trong văn học là thời gian tâm lý, không trùng

khít với hiện thực nên hiểu và tiếp nhận yếu tố thời gian phải cân nhắc thật kĩ. Điều

đó tạo nên sự vận động và tính quá trình đa dạng của hình tượng văn học mà các

78

loại hình nghệ thuật khác khó đạt đến được. Chính nhờ ngôn từ mà hình tượng văn

học có những hình thức thời gian đặc biệt để văn học có thể chiếm lĩnh đời sống

trên một tầm sâu rộng mà hội hoạ và điêu khắc khó bề đạt được.

Trong văn xuôi trung đại, thời gian được các tác giả chú ý miêu tả đó là thời

gian vào lúc trời tối, đêm khuya. Khi thể hiện tính chất mơ hồ, không xác định của

thời gian, các tác giả hay sử dụng những thời điểm đặc biệt như mờ sáng, ban đêm.

Trong hai tập truyện Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục, các tác giả đã tạo

cho thời gian nghệ thuật của tác phẩm một sắc thái kì lạ, huyền bí mà ánh sáng ban

ngày khó có thể đem đến. Đây là thời khắc ma quỷ hiện hình, để những chuyện lạ,

kì quái xảy ra, với rất nhiều truyện trong đó miêu tả cuộc gặp gỡ giữa người và các

nhân vật ảo vào lúc chập tối, đêm khuya, tảng sáng… Nói chung cứ về đêm, các lực

lượng siêu nhiên lại xuất hiện trà trộn vào thế giới của loài người. Trong quan niệm

dân gian, con người và các lực lượng siêu nhiên có một ranh giới ngăn cách. Ban

ngày là thời gian con người làm việc, sinh hoạt cùng cộng đồng loài người, còn ban

đêm là khoảng thời gian của các nhân vật ảo. Đêm là khoảng thời gian các nhân vật

ảo xâm nhập thế giới trần tục: giữa lúc “sông quạnh trăng mờ, bốn bề im lặng, đạo

nhân thấy một đôi trai gái thân thể lõa lồ mà cùng cười đùa nô giỡn” “Mộc miên thụ

truyện”, trong cảnh “trăng tỏ sao thưa, bốn bề im lặng với tiếng khóc ai oán” thấy

xuất hiện hồn ma Thị Nghi “Xương Giang yêu quái lục”. Đêm là thời gian quen

thuộc để các tác giả dựng lên thế giới của người chết, của những bóng ma, thật

huyền hoặc và thần bí. Mặt khác đêm cũng giúp cho các tác giả tránh được nhiệm

vụ tả cụ thể ma quái, điều mà không ai trông thấy bao giờ.

Thời gian trong Lan Trì kiến văn lục là thời gian phi tuyến tính, thời gian

biến ảo không có quá khứ, không có hiện tại và không có tương lai, thời gian không

trôi chảy. Thời gian của truyện phần nhiều là ban đêm, có khi giữa trưa hoặc chiều

tối tạo nên môtip thời gian phù hợp với đặc trưng của truyện truyền kì. Đêm tối là

thời điểm thích hợp để các lực lượng siêu nhiên trà trộn vào thế giới loài người thỏa

mãn ước muốn của chính bản thân mình. Vì là lực lượng siêu nhiên nên ước mơ của

họ chủ yếu là tình cảm yêu đương, bạn bè nhưng phải là với con người. Là nhân vật

ảo nhưng chúng cũng khát khao tình cảm như con người, chỉ có điều phải mượn

bóng đêm để che đi hình tích mới có thể dễ dàng tận hưởng cuộc sống nơi trần thế.

79

Xét đến cùng thì những khát vọng đó đồng thời cũng là khát vọng của con người trần

tục. Nhà văn sử dụng bóng đêm để biến ước mơ, khát vọng chính đáng của con người

đặc biệt là tình yêu lứa đôi trở thành hiện thực. Khát vọng yêu đương của lực lượng

siêu nhiên đôi khi lại làm hại con người trần tục. Chính loại thời gian đêm đã góp

phần tạo nên không khí kì ảo, hoang đường của câu chuyện. Trong cái thời khắc tĩnh

lặng, yên ắng của vũ trụ và của cuộc sống dương trần chính là giờ “thiêng” để xảy ra

các sự việc kì lạ khác thường. Đó là thời khắc con người tạm dừng cuộc sống bề bộn

của đời thường để sống với chính mình. Chìm trong thế giới vô thức tâm của mỗi

người thức và nhiều sự khác thường không bình thường xảy đến.

3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

3.3.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật nam và nữ

Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ, tác

phong, diện mạo...Ðây là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật.

Nếu như văn học cổ thường xây dựng ngoại hình nhân vật với những chi tiết

ước lệ, tượng trưng thì văn học hiện đại thường đòi hỏi những chi tiết chân thực và

cụ thể sinh động. M. Gorki khuyên các nhà văn phải xây dựng nhân vật của mình

đúng như những con người sống và phải tìm thấy, nêu lên, nhấn mạnh những nét

riêng độc đáo, tiêu biểu trong dáng điệu, nét mặt, nụ cười, khóe mắt...của nhân vật.

Ngoại hình nhân vật cần góp phần biểu hiện nội tâm. Ðây cũng chính là sự

thống nhất giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách,

đời sống bên trong của nhân vật thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng

thay đổi theo.

Khi xây dựng ngoại hình nhân vật, nhà văn cần thể hiện những nét riêng biệt,

cụ thể của nhân vật nhưng qua đó, người đọc có thể nắm bắt được những đặc điểm

chung của những người cùng nghề nghiệp, tầng lớp, thời đại...Những nhân vật

thành công trong văn học từ xưa đến nay cho thấy nhà văn bao giờ cũng chọn lựa

công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc họa nhân vật.

Tiếp nối những tinh hoa của văn học dân gian và những tác phẩm truyền kì

thành công trước, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục đã góp phần tạo nên

dấu ấn riêng cho diện mạo văn học giai đoạn này. Thành công của hai tập truyện là

ở việc xây dựng nhân vật với chân dung, ngoại hình, ngôn ngữ, tâm lý, tính cách, số

phận riêng con người đều có tính tạo hình ở chừng mực nào đó. Hình tượng trung

80

tâm của hai tập truyện là nhân vật nam và nữ mà nét đẹp của họ được miêu tả cả

ngoại hình. Ngoại hình nhân vật trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục có

thể nói bước đột phá nhất trong nghệ thuật xây dựng khắc hoạ chân dung nhân vật.

Thủ pháp khắc hoạ nhân vật nam được các tác giả miêu tả rất ít có sự kết hợp miêu

tả dung mạo với tài trí như: “Trình Trung Ngộ là một chàng trai đẹp ở đất Bắc Hà,

nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng nam buôn bán.” “Chuyện cây gạo”,” Đào

Sinh là con một người nông dân ở huyện Đông Sơn, rất đẹp trai. Cha mẹ cho đi

học, Sinh học rất thông minh. Năm mười sáu mười bảy tuổi, Sinh đủ tài theo đòi

khoa cử, nhưng vì nhà nghèo, không mời được thầy dạy riêng. Thôn bên có một ông

cử nhân mở trường, Sinh đến xin theo học.” “Sống lại”. Còn khi miêu tả ngoài hình

nhân vật nữ lại được các nhà văn thể hiện xuất phát từ ảnh hưởng của quan niệm coi

văn chương là nêu gương đạo đức và bài học răn đời của văn học dân gian các nhà

văn đã tập trung thể hiện người phụ nữ với phẩm chất lý tưởng về sắc đẹp, đức

hạnh. Hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm truyền kì của Nguyễn Dữ và Vũ

Trinh cũng được khắc hoạ không ngoài khung thẩm mĩ ấy. Trong Truyền kì mạn lục

những nhân vật như: Nhị Khanh trong “Chuyện cây gạo”: “Dọc đường, hay gặp

một người con gái xinh đẹp, từ Đông thôn đi ra, đằng sau có một ả thị nữ theo hầu.

Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai nhân tuyệt sắc. Song đất lạ quê người, biết

đâu dò hỏi, chỉ mang một mối tình u uất trong lòng”. Vẻ đẹp tuyệt sắc của Nhị

Khanh được tác giả nhấn mạnh, nhắc lại hai lần ngay ở đầu truyện. vẻ đẹp của Nhị

Khanh không được coi là yếu tố tô thêm vẻ đẹp đạo đức lý tưởng mà được coi như

một biểu hiện của sự cám dỗ, mê hoặc. Hay Hàn Than trong “Chuyện nghiệp oan

của Đào thị”: “Người con gái này, nết không cẩn nguyện, tính bén lẳng lơ, tuổi đã

trẻ trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp dễ mê người; tuy

sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt. Vậy ngươi nên

liệu lời từ chối, đừng để hối hận về sau.”. Hai cô gái trong “Chuyện kỳ ngộ ở trại

Tây” cũng để lại ấn tượng trong lòng độc giả khi tác giả miêu tả vẻ đẹp tột bậc qua

lời nhận xét của Hà Nhân: “Vẻ kiều diễm của em Liễu thật là tột bậc, có thể xứng

đáng với một câu thơ cổ: “Mỹ nhân nhân nhan sắc đẹp như hoa”” [6, tr.52]. Nhân

vật nữ Thị Nghi trong “Chuyện yêu quái ở Xương Giang cũng được giới thiệu, miêu

tả là cô gái có sắc đẹp. Như vậy những nhân vật nữ được Nguyễn dữ miểu tả với vẻ

đẹp ngoại hình hấp dẫn theo mô típ là biểu tượng của sự quyến rũ nhục dục của sự

nguy hiểm.

81

Đến Lan Trì kiến văn lục ông cũng ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ như cô

ca kĩ trong “Ca kĩ họ Nguyễn”: “Có một kĩ nữ mười bảy, mười tám tuổi, nhan sắc

xinh đẹp, tài nghệ tuyệt vời, mỗi khi lên sân khấu cất giọng ca thì người xem đều

ngất ngây không sao kiềm chế nổi”. Cô gái trong “Tháp báo ân”: “Xã này có ông

họ Nguyễn rất giàu có, mấy đứa con trai đều làm nghệ nông và đã ăn riêng cả. Về

già ông lại sinh được một người con gái. Lớn lên cô gái nhan sắc rất xinh đẹp”.

Những nhân vật nam hay nữ đều được hai tác giả phác hoạ thành những hình mẫu

của cái đẹp lí tưởng về nhan sắc. Không chỉ vậy, cái đẹp của hình tượng còn biểu

hiện ở mặt đạo đức, ở sự thống nhất của cái chân, thiện, mĩ trong chính phẩm chất lí

tưởng của họ.

Có thể nói bước đột phá nhất trong nghệ thuật xây dựng, khắc hoạ chân dung

nhân vật nam và nữ của hai tác phẩm của hai tác giả không miêu tả cụ thể gì thêm.

Đối với dung mạo chỉ điểm qua vài nét phác hoạ mà đã cho người đọc cảm nhận

được ngoại hình nhân vật

3.3.2. Miêu tả đời sống nội tâm

Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc cuộc sống bên

trong của nhân vật. Ðó là những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản ứng tâm

lí... của nhân vật trước những cảnh ngộ, những tình huống mà nó gặp phải trong

cuộc đời.

Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học, việc thể hiện nhân vật qua nội

tâm ngày càng có vai trò quan trọng. Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc nội tâm góp

phần rất lớn tạo nên sức sống của nhân vật. Nói như L. Tônxtôi: "Mục đích chính

của nghệ thuật...là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn

không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được". Ðể làm được điều đó, nhà

văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt được những biểu hiện và

diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật.

Nhân vật trong tác phẩm văn học chính là hình ảnh của con người qua sự

sáng tạo của nhà văn. Nhân vật trong tác phẩm văn xuôi tự sự hiện qua các biểu

hiện bên ngoài: hành động, cử chỉ, lời nói để thực hiện mục đích của nhà văn. Nhân

vật trong các tác phẩm truyền kì các tác giả đã bắt đầu quan tâm đến những dòng

tâm sự, những suy tư thầm kín, đời sống tình cảm của nhân vật.

82

Đến với Truyền kì mạn lục Nguyễn Dữ đã kết thừa và phát triển đời sống nội

tâm nhân vật lên một bước cao hơn.Việc kết hợp giữa văn xuôi và thơ là một điều

kiện thuận lợi để nhà văn đi sâu vào miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật.

Khảo sát các truyện trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục chúng

tôi nhận thấy nhằm tạo nên tính đa dạng và chiều sâu của tính cách nhân vật,

Nguyền Dữ và Vũ Trinh đã có sử dụng nghệ thuật mang tính tổng hợp đan xen và

tác động lẫn nhau của các yếu tố ngoài hình, nội tâm, hành động thể hiện ró ở hai

khía cạnh đó là sự quan tâm đến con người ở chiều sưu tâm lí và xây dựng, khắc

hoạ thành công hình tượng nhân vật có đời sống nội tâm rõ rệt.

Một trong những yếu tố cho thấy thể loại truyền kì dần thoát khỏi những ảnh

hưởng thụ động từ văn học dân gian chính là nghệ thuật miêu tả nhân vật, chủ yếu

là nghệ thuật thể hiện đời sống nội tâm nhân vật. Khác với lối kể chuyện đơn tuyến

của văn học dân gian, các tác giả này đã bắt đầu quan tâm đến những diễn biến, đặc

biệt là những bước ngoặt trong đời sống nội tâm nhân vật: quan tâm, đề cao những

mối quan hệ tình cảm trong tình yêu nam nữ. Cả hai tác giả đã góp phần cho việc

mở đường loại truyện ngắn thế sự trong lịch sử văn học dân tộc, khiến cho tác phẩm

gần với văn xuôi hiện đại. Các tác giả đưa mùi vị riêng tư của cuộc đời với một trái

tim đồng cảm, thương yêu vào văn học. Nghệ thuật miêu tả tâm lí ở đây thể hiện

qua quá trình diễn biến tâm lí nhân vật trong những sự kiện quan trọng nhất định.

Điều này thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm lí con người của các tác giả. Tuy nhiên

cách thể hiện của các tác giả có phần khác nhau làm nên sự đa dạng trong nghệ

thuật với hệ thống nhân vật của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh đã hiện lên với những cảm

xúc phong phú. Các nhà văn đi sâu khám phá những suy nghĩ, những trăn trở của

nhân vật. Mỗi tác phẩm đều có những cách khai thác và thể hiện những tư tưởng

khác nhau nhưng nhìn chung tâm lí nhân vật đều được dặt trong những hoàn cảnh

có vấn đề. Chính trong hoàn cảnh ấy tâm trạng nhân vật được bộc lộ một cách chân

thực nhất. Trong “Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây” tác giả Nguyễn Dữ đã thể hiện tình

cảm nam nữ giữa hai nàng Đào Liễu với chàng nho sinh Hà Nhân trong đêm đầu

tiên gặp mặt. Tâm trạng của con người chốn buồng xuân khi lửa đượm hương nồng

với sự mãn nguyện hạnh phúc được tác giả thể hiện rất rõ nhưng người đọc không

thấy nó thô tục vì tác giả dùng thơ để thể hiện. Tâm lý của con người đang yêu cũng

được nhà văn chú ý miêu tả đó là tâm trạng dỗi hờn trách móc của nàng Đào khi Hà

Nhân thờ ơ với mình mà mặn mà với nàng Liễu.

83

“Nhân thể đưa bài thơ của Đào gửi cho Hà Nhân:

Tình hà cốt cách tuyết tinh thần,

Lộ nhị yên điều lưỡng dạng tân.

Khả hận Đông Hoàng tư trước ý,

Nhất chi tiều tụy nhất chi xuân.

Dịch:

Băng sương cốt cách, tuyết tinh thần,

Nhị mởn nhành mềm đã xứng cân.

Khá trách Đông Hoàng thiên vị lắm,

Một cành bỏ héo, một cành xuân.

Hà Nhân đọc xong buồn rầu lúc lâu, rồi làm thơ họa theo vần trên để đáp lại:

Tương tư nhất đoạn nhất lao thần,

Để sự tài thành biệt hận tân.

Bằng trượng phong di phiền ký ngữ,

Vị thùy tiều tụy? vị thùy xuân?

Dịch:

Tương tư nặng gánh khổ tâm thần,

Ân ái chưa hề lệch cán cân.

Dì gió, nhờ đem tin nhắn nhủ:

Hoa nào bỏ héo? Lá nào xuân?”

Đó cũng là tâm trạng cô đơn trống trải khi người yêu ở xa, là tâm trạng buồn

bã xót xa khi tình yêu không còn. Trong Truyền kì mạn lục nhân vật tự bộc lộ nội

tâm được thể hiện khá nhiều, chẳng hạn như “Chuyện cây gạo”: “Chàng liếc mắt

trông, thấy là một giai nhân tuyệt sắc. Song đất lạ quê người, biết đâu dò hỏi, chỉ

mang một mối tình u uất trong lòng. Một hôm khác, chàng cũng gặp lại, muốn kiếm

một lời nói kín đáo để thử khêu gợi, nhưng người con gái đã xốc xiêm rảo bước, và bảo

với con hầu gái”. Nguyễn Dữ trong nghệ thuật khắc hoạ đời sống nội tâm nhân vật đã

tiến một bước rất dài về nghệ thuật, ông đã có một cái nhìn rất mới, rất nhân văn qua

việc thể hiện nội tâm nhân vật. Nhà văn đã để nhân vật sống đúng với cảm xúc, với nhu

cầu tình cảm chính đáng của mình không một chút gượng ép, khiên cưỡng.

Đến truyện truyền kì của Vũ Trinh có sự đổi khác, ông chủ yếu ghi chép lại

những con người thật với những việc có thật cho nên thế giới nhân vật của ông

được thể hiện rất chân phương, mộc mạc. Các nhân vật ít được chú ý xây dựng

84

ngoại hình và nội tâm mà phần lớn được thể hiện với những tính cách đã được định

sẵn rõ ràng như: thuỷ chung trong truyện “Câu chuyện tình ở Thanh Trì”, bạc ác

“Sống lại”, cao thượng “Ca kĩ họ Nguyễn”…Các nhân vật được xây dựng một chiều

nhưng đều là những con người, sự việc có thật, các hành vi đều rất thật nên nhân vật

lại không xa lạ với người đọc. Các nhân vật của Vũ Trinh đều chủ động tìm đến tình

yêu và biết nâng niu những giây phút ái ân, hạnh phúc mà họ biết là rất hiếm hoi

trong đời. Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục mặc dù xuất hiện muộn hơn song cũng

nhanh chóng để lại vị trí trong lòng bạn đọc bởi những đoạn văn miêu tả tâm trạng

nhân vật, đó là tâm trạng xót thương người yêu của cô gái trong “Câu chuyện tình ở

Thanh Trì”:“Trước đó cô gái đã biết bố mình sẽ cự tuyệt cuộc hôn nhân, nên rất

thất vọng, nhưng không dám đem mối tình u uẩn của mình nói với bố. Biết bố mình

khinh Sinh nhà nghèo, nàng ngầm lấy hai trăm lạng vàng, sai người đưa cho Sinh

để làm sính lễ. Nghe tin Sinh phẫn chí bỏ đi, không biết là đi đâu, trong lòng âm

thầm thương xót. Mỗi khi không có ai nàng lại nhìn bóng mình mà nuốt lệ. Dần dà

nàng sinh bện chân tay rời rã, vóc dang gầy mòn, trong bụng kết thành một khối

rắn như đá, chữa chạy thế nào cúng không khỏi”[39, tr.73]. Vũ Trinh với Lan Trì

kiến văn lục cũng tỏ ra am hiểu những uẩn khúc của tâm hồn con người khi đi sâu

khám phá đười sống nội tâm phong phú của nhân vật. Chẳng hạn cô gái trong

truyện “Tháp báo ân”: “Cô gái từ khi mắc bệnh, không được sống gần ai, nay

bỗng dưng gặp một chàng trai tuổi trẻ tài hoa, rất hợp ý nghuyện của mình.

Nhưng rồi nàng bỗng buồn rầu than rằng: đời tàn nhơ bẩn, nay được gặp nhau

trong bóng tối. Nếu nhìn nhau lúc sáng trời thì một tối giao hoan đâu mà có

được! Ai hay một độ gió xuân lại tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận đến

suốt đời! Hỡi ơi Lưu lang, với mặt mũi này mà gặp lại chàng, thiếp chịu đựng

sao nổi” [39, tr.147]. Cô gái vừa hạnh phúc được yêu, vừa đau khổ vì mặc cảm

mắc bệnh hiểm nghèo, lại vừa lo lắng cho sự mong manh của tình yêu ấy. Hay

tâm trạng thương cảm của Sinh đối với cô gái “- Đây là nấm mộ mới đắp của cô

gái mắc bện làng tôi. Rồi chỉ ngôi nhà bỏ trống nói: Đây là ngôi nhà cô gái ở

khi còn sông! Lại kể cho Sinh nghe ngày mất của cô gái. Sinh trong lòng thương

cảm, đem vàng bạc hương ra mồ, khóc và tế cô rồi đi”.

Có thể thấy ngôn ngữ kể chuyện của Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn

lục không chỉ đạt đến độ hấp dẫn mà ngòi bút nhà văn còn hướng tới việc miêu tả

85

tâm lí nhân vật. Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục cũng tỏ ra am hiểu những uẩn

khúc của tâm hồn con người khi đi sâu khám phá đười sống nội tâm phong phú của

nhân vật. Mặc dù đời sống nội tâm không được hai tác giả dụng công miêu tả, cốt

truyện lại ngắn nhưng đấy không phải là sự thụt lùi của văn xuôi tự sự mà khi viết

Nguyễn Dữ và Vũ Trinh luôn có sự chọn lọc kỹ càng các chi tiết, những chi tiết

được đưa vào luôn là đỉnh điểm cuộc đời nhân vật bộc lộ tính cách, người đọc có

cái nhìn chân thực về nhân vật và còn có những dự cảm về tương lai số phận của

nhân vật. Yêu thương đồng cảm là những cảm xúc bộc lộ tiếng nói nhân đạo trong

tác phẩm. Một tác phẩm sẽ bất tử với thời gian khi biết nói lên tiếng nói chung cho

cả cộng đồng. Nói về nghệ thuật khắc hoạ đời sống nội tâm nhân vật ở thể loại

truyền kì thì Truyền kì mạn lục là tác phẩm phát triển mạnh mẽ nhất và đến Lan Trì

kiến văn lục là kết thúc.

3.3.3. Tính cách nhân vật

Mặc dù cách xây dựng nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục vẫn theo bút pháp

truyền thống: chia nhân vật thành hai loại thiện và ác nhưng tác phẩm đã đạt được

những thành công lớn trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật. Nhiều nhân vật

trong Truyền kỳ mạn lục đã có diện mạo, tính cách và cuộc sống riêng.

Trong Truyền kì mạn lục nhiều nhân vật nữ đều tìm đến tình yêu, hạnh phúc ở

những chàng trai không quen biết, đa số đều là những người vùng khác đi ngang

qua địa phận của họ (trừ hồn ma Đào Hàn Than lôi kéo Vô Kỷ - người tình cũ). Nhị

Khanh (Chuyện cây gạo), Liễu, Đào (Chuyện kì ngộ ở trại Tây), Thị Nghi (Chuyện

yêu quái ở Xương Giang) mỗi người một cách khác nhau nhưng đều có kế hoạch

từng bước gây sự chú ý và tìm cách quyến rũ các đối tượng. Có phải ngẫu nhiên

chăng mà trên đường đi vào chợ Trung Ngộ “hay gặp một người con gái xinh đẹp

từ Đông thôn đi ra”?. Thấy Trung Ngộ muốn kiếm lời khêu gợi thì nói với con hầu

đêm nay sẽ lên chơi cầu Liễu Khê, gẩy đàn, than thở thiếu kẻ tri âm, đấy chính là

tạo cơ hội cho Trung Ngộ có lí do gặp gỡ. Ngay trong cuộc chuyện trò đầu tiên, Nhị

Khanh đã không ngần ngại bày tỏ mong muốn hoan lạc ân ái. Tính cách của nhân

vật này rất phù hợp với suy nghĩ, quan điểm của nàng về cuộc đời, nhân sinh. Vì

tính cách mạnh mẽ, quyết liệt ấy nên Nhị Khanh quyết bám đuổi Trung Ngộ đến

86

cùng. Khi phát hiện ra sự thật, Trung Ngộ sợ hãi đến “tất tả nhảy choàng qua”, Nhị

Khanh vẫn thường qua lại “có lúc đứng trên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa

sổ nói thì thào” cho đến khi Trung Ngộ ôm quan tài nàng mà chết, cả hai tự do quấn

quýt bên nhau. Khát vọng tự do yêu đương bị cấm cản đã tạo thành phản ứng quyết

liệt của đôi tình nhân ma này. Người ta thấy đôi trai gái “dắt tay nhau đi đôi”, để

“thân thể lõa lồ mà cùng nhau cười đùa nô giỡn”, ngang nhiên, công khai ngay nơi

cửa chùa. Bên cạnh đó tính cách mạnh mẽ, quyết liệt của Thị Nghi - yêu quái ở

Xương Giang lại được biểu hiện một cách khác. Bởi phải chết đau đớn, oan ức, hồn

ma Thị Nghi hiện về tác oai tác quái, dâm sát kẻ có vai vế, bóc lột người có tiền

của. Bị dân làng tán xương vứt xuống sông, ả lại hiện thành một người con gái xinh

đẹp nói dối Hoàng - một người lạ đi ngang qua vùng - để chàng vớt hài cốt, lại còn

táng cẩn thận ở bên sông. Sợ đạo sĩ phát hiện, bị lộ tẩy thân phận, nàng giả vờ cả

giận, lấy gậy đập vỡ chai thuốc, mắng vị đạo sĩ, trúng bùa Thị Nghi phải chết lần

nữa. Nhưng ả vẫn tìm cách thoát được và trả thù Hoàng kiện chàng dưới Minh ti.

Tính cách quyết liệt báo oán của Thị Nghi có phần giống Hàn Than nhưng có phần

tàn nhẫn hơn bởi Hàn Than đầu thai để trả thù kẻ đã gây ra đau khổ cho mình còn

Thị Nghi mưu hại người có ơn sâu, lại kết thành vợ chồng với ả. Cho nên, qua tính

cách của nhân vật, có thể kết luận tính cách “yêu quái” ở Thị Nghi đậm hơn ở Nhị

Khanh, Hàn Than; tính cách của Nhị Khanh, Hàn Than mang tính người hơn. Bên

cạnh đó cũng có những truyện mang tính nhân văn, nhân bản hơn. Cũng là chủ

động, mạnh dạn đến với tình yêu trần thế nhưng Đào Hồng Nương, Liễu Nhu

Nương “Chuyện kì ngộ ở trại Tây” có phần dịu dàng, mềm mại hơn. Có lẽ bởi hoa

cỏ vốn yếu mềm, mỏng manh? Đối tượng mà Liễu, Đào chọn là một thư sinh lên

kinh để theo học cụ Ức Trai. Ngay cách lựa chọn nhân vật nam ở đây đã có phần

nho nhã, dịu dàng hơn so với một lái buôn (Trình Trung Ngộ - Chuyện cây gạo) hay

một quan lại (Hoàng - Chuyện yêu quái ở Xương Giang). Để thu hút sự chú ý của

Hà Nhân, Liễu, Đào đã hóa thành hai người con gái đứng bên trong bức tường đổ -

vẫn còn những sự ngăn cách - mà hái những quả ngon, bẻ những bông hoa đẹp ném

cho Hà Nhân. Nói về chuyện “mây mưa” thì vẫn còn thẹn thò. Hai hồn hoa này tuy

có gần gũi nhưng không làm tổn hại đến Hà Nhân giống như Nhị Khanh, đến lúc

87

thác hóa thì sụt sùi chia tay Hà Nhân chứ không kéo chàng chết theo. Nhưng tài

năng của Nguyễn Dữ ở chỗ miêu tả hai hồn hoa tưởng chừng như giống hệt nhau

nhưng vẫn có sự khác nhau. Hai nhân vật này vẫn là hai tính cách khác nhau: nàng

Liễu thì yếu đuối, nũng nịu; nàng Đào thì nồng nàn nhưng lại hay cả thẹn. Sự khác

nhau ấy đã được thể hiện rõ ngay trong bài thơ hai nàng tả tình trạng trong chốn

buồng xuân. Thơ của nàng Liễu xin “chúa xuân” gượng nhẹ bởi “Thân non mềm

chịu được đâu phũ phàng” còn thơ của nàng Đào thì nồng nàn, mời gọi “Tài lang

mặc sức vin cành / Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi”. Qua đó người đọc

thấy được tài năng của Nguyễn Dữ khi xây dựng tính cách nhân vật.

Thế kỷ XVIII đến đầu XIX là thời kỳ xã hội phong kiến tiếp tục lâm vào

tình trạng suy thoái. Đứng trước thực tại của một thời kỳ thế đạo sa sút, danh

phận không rõ, nhiều nhà nho đã lầm đường lạc lối. Vũ Trinh sáng tạo ra Lan Trì

kiến văn lục để phê phán thực trạng đó. Trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh

vừa xây dựng cả những nhân vật chính diện và những nhân vật phản diện. Nhân

vật chính diện đều có nhân cách đáng trọng, họ là những tấm gương nhân nghĩa,

trinh tiết, đáng để người đời noi theo, soi vào đó để tự hoàn thiện mình. Bên

cạnh đó tác giả còn dựng nên những nhân vật phản diện hung ác, bất nhân bất

nghĩa luôn phải chịu kết cục bi thảm. Đó là những bài học quý báu để tu dưỡng

tâm tính, tu tâm tích đức, giúp con người tiến dần đến cái thiện hơn. Hiển nhiên

là tác giả quan niệm về các giá trị đạo đức theo kiểu nhà Nho. Nhân vật trong

Lan Trì kiến văn lục đều mang tính cách đã được định sẵn. Bạc ác đánh vợ đến chết

(Sống lại), chung tình thì xương thịt thành tro “khối tình vẫn không đập vỡ”

(Chuyện tình ở Thanh Trì). Cao thượng thì như cô đào họ Nguyễn, giúp áo cơm cho

người thành danh mà không cần đền đáp điều gì (Ca kĩ họ Nguyễn).. các nhân vật

của Vũ Trinh đều lấu mẫu từ cuộc sông, đều là những người có thật nên từ lời ăn

tiếng nói đến cử chỉ hành vi đều rất thực, hoàn toàn không gây cảm giác khiêm

cưỡng. Ở Lan Trì kiến văn lục chúng ta thấy ở tầng lớp nho sĩ sa đọa về nhân

cách. Người xưa quan niệm nho sĩ - những người theo học đạo thánh hiền phải

có đủ tài đủ đức, đức bao gồm nhân - lễ - nghĩa - trí - tín. Ấy vậy mà trong xã hội

của Vũ Trinh có những nho sĩ đã vi phạm luân thường đạo lý. Họ đã đem nhân

88

cách để đổi lấy điều mong muốn. Chính vì sự ham muốn bản năng đã làm cho họ

mờ mắt, tự đánh mất phẩm chất tốt đẹp. Truyện Trạng nguyên họ Nguyễn đã

phản ánh sự xuống dốc về phẩm cách của anh thư sinh Nguyễn Đăng Đạo. Là

một người có tài song vì ham mê sắc đẹp khiến anh ta đánh mất đi bản tính

khoáng đạt, cao nhã của nhà Nho. Trong một lần đi du ngoạn, gặp người con gái

trẻ trung xinh đẹp khiến anh nảy sinh tình ý. Đạo lần tìm đến dinh cô gái, đút lót

tiền cho đứa hầu để hỏi nó về đường ra lối vào, cổng cửa các phòng trong dinh.

Một đêm, anh ăn mặc gọn gẽ, vượt mấy lớp tường, lên thẳng tới chỗ người đẹp,

khoét tường chui vào buồng cô, leo ngay lên giường nằm chung với cô. Phẩm

cách của một anh chàng có học, đọc sách thánh hiền hàng ngày mà lại có hành

động bất nhã như vậy. Hễ có điều kiện làm điều xấu thì những thứ bản năng hèn

hạ trong con người có nhiều chữ cũng nổi lên không kém ai. “Trèo tường khoét

gạch, đó là việc xấu xa, kẻ sĩ không làm. Thế mà danh sĩ lại làm việc đó. Có

người nói: “Có tài như ông thì có thể làm những việc như ông”. Tôi cho rằng:

“Sao bằng cái tài như ông, mà không chơi bời du đãng như vậy”. Tài năng và

đức hạnh làm sao có thể che lấp nhau?” (Lời bàn cuối truyện). Trong Lan Trì kiến

văn lục tính cách nhân vật cũng mạnh mẽ, quyết liệt nhưng mang những nét riêng

biệt như Khâm Lân “Ca kĩ họ Nguyễn”: “Ông thượng thư Ôn quận công, họ Vũ, tên

là Khâm Lân, người xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ. Cha ông đỗ thi Hương. Ông sinh ra

đã lĩnh ngộ khác thường, đọc sách, làm văn, chỉ dậy qua một lần là hiểu. Người mẹ

đẻ ra ông vì có lỗi phải đuổi khỏi nhà. Mẹ kế ăn ở chẳng lành, bắt ông bỏ học đi

chăn trâu.

Năm ông mười lăm, mười sáu tuổi, mẹ kế ông bắt ông học nghề, bắt phải cầy

bừa, gánh phân, cuốc đất, còn mắng ông thậm tệ. Các thức ăn ngon, các đồ mặc

đẹp, bà đều dành riêng cho con mình. Ông thì quần áo rách rưới, cơm hẩm cà

thâm, rất ít khi được ăn no mặc ấm. Bố ông cũng không biết che chở cho ông. Ông

không chịu nổi nỗi cực khổ nặng nề, liền bỏ trâu ngoài đồng rồi bỏ đi. Dọc đường,

ông vừa đi, vừa xin ăn”. Các thiên truyện của Vũ Trinh tuy chỉ kể về một chặng

đường đời dài hoặc ngắn, hoặc một cách ứng xử trước biến cố nào đó trong một

cuộc đời của nhân vật, những bao giờ nhân vật cũng bộc lộ được bản chất của mình

89

bởi thời điểm nhà văn lựa chọn để ghi truyện luôn là đỉnh điểm của cuộc đời họ,

qua đó buộc nhân vật phải bộc lộ bản chất và tính cách. Vì vậy người đọc sẽ có

được một cái nhìn chân thực về nhân vật, thậm chí còn dự cảm thấy cả tiến trình, số

phận của nhân vật ấy.

Như vậy, trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục, một số nhân vật

đã có nét tính cách riêng, tuy nhiên đó vẫn chỉ là một vài nét miêu tả “điểm xuyết”

chưa thể coi là những tính cách văn học thật sự.

3.4. Ngôn ngữ nghệ thuật

3.4.1. Ngôn ngữ trần thuật

Mỗi một tác phẩm tự sự cần có một người kể chuyện. Người kể chuyện là

một hình tượng do nhà văn sáng tạo ra để thực hiện chức năng kể chuyện trong tác

phẩm. Mỗi người kể chuyện sẽ chọn cho mình một điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn

trần thuật là vị trí, xuất phát điểm từ đó người trần thuật quan sát, miêu tả và kể lại.

Xét từ góc độ ngôi kể, quan điểm truyền thống chia ra hai loại người kể chuyện:

người kể chuyện từ ngôi thứ nhất và người kể chuyện từ ngôi thứ ba. Trong những

câu chuyện tình yêu trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục người kể

chuyện thường kể từ ngôi thứ ba với một giọng điệu khách quan theo lối ghi chép,

trình bày sự kiện. Lời dẫn truyện và lời kể lại các sự kiện, biến cố thường rất ngắn

gọn, mang tính chất liệt kê. Việc các tác giả truyền kì tách nội dung bình luận thành

một phần riêng đặt ở cuối mỗi truyện cũng là một cách để đảm bảo tính khách quan

cho giọng điệu kể chuyện. Bên cạnh đó giọng kể trong truyện truyền kì phải đảm

bảo tính hấp dẫn để tạo sự thu hút với người đọc. Muốn vậy, người kể chuyện phải

kể với một giọng điệu say mê, lôi cuốn, miêu tả chi tiết, tỉ mỉ. Ngôn ngữ kể chuyện

trong mỗi tác phẩm, tất nhiên, vẫn mang những đặc trưng riêng do vai kể của người

kể quy định. Người kể chuyện trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục lại là

người kể chuyện ở ngôi thứ ba với thái độ khách quan. Lối kể chuyện đã đạt đến

trình độ tinh tế, điêu luyện, chau chuốt, mỹ lệ: “dệt gấm, thêu hoa, biện luận hùng

hồn, có chỗ điêu khắc tỉ mỉ, chỗ tươi đẹp như bức tranh màu lộng lẫy, chỗ vang dội

như dòng suối chảy lô xô” (Phan Huy Chú). Bên cạnh đó các tác giả dung đặc điểm

ngôn ngữ ở truyện kể theo điểm nhìn bên trong và bên ngoài.

90

Đặc điểm của người kể chuyện trong truyện kể theo điểm nhìn bên trong.

Với tính chất chủ quan, trực tiếp, cận cảnh, nội tâm của điểm nhìn bên trong hoặc vị

trí không gian, thời gian. Lời văn người kể chuyện trong Truyền kì mạn lục và Lan

Trì kiến văn lục có phần ưu ái với những nhân vật được yêu mến, đặc biệt là lối kể

chuyện tình cảm khi viết về tình yêu nam nữ. “Trình Trung Ngộ là một chàng trai

đẹp ở đất Bắc Hà, nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng nam buôn bán. Chàng

thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê rồi đi lại vào chợ Nam Xang . Dọc đường,

hay gặp một người con gái xinh đẹp, từ Đông thôn đi ra, đằng sau có một ả thị nữ

theo hầu. Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai nhân tuyệt sắc. Song đất lạ quê

người, biết đâu dò hỏi, chỉ mang một mối tình u uất trong lòng. Một hôm khác,

chàng cũng gặp lại, muốn kiếm một lời nói kín đáo để thử khêu gợi, nhưng người

con gái đã xốc xiêm rảo bước” “Chuyện cây gạo”. Hay “Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây”:

“Hà Nhân, người học trò quê ở Thiên Trường, khoảng năm Thiệu Bình ngụ ở kinh

sư để tòng học cụ ức Trai. Mỗi buổi đi học, đường tất phải qua phường Khúc

Giang. Trong phường có cái trại, gọi là trại Tây, dinh cơ cũ của quan Thái sư triều

Trần. Ngày ngày đi qua, Hà Nhân thường thấy hai người con gái đứng ở bên trong

bức tường đổ nhí nhoẻn cười đùa, hoặc hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà

ném cho Hà Nhân nữa. Lâu lâu như thế Hà Nhân không mần ngơ được, một hôm

mới đứng lại trò chuyện lân la. Hai người con gái tươi cười bảo:”

Trong Lan Trì Kiến văn lục Vũ Trinh cũng dành những tình cảm đặc biệt cho

nhân vật của mình “Ông hàng xóm chỗ Sinh ở có cô con gái, tuổi cũng xấp xỉ bằng Sinh,

người trông xinh tươi trằng trẻo. Sinh thường gặp cô trên đường đi học. Mỗi khi gặp

Sinh dung lời bóng gió để khêu gợi, cô gái cũng cười mà không cự lại” “Sống lại”.

Đặc điểm của người kể chuyện trong truyện kể theo điểm nhìn bên ngoài, tức

là nhà văn có thể chỉ nhìn thấy những gì đang diễn ra bên ngoài như hành động lời nói,

diện mạo của nhân vật hoặc vị trí không gian, thời gian. Đặc điểm nổi bật của không gian

trong truyện kể theo điểm nhìn bên ngoài là không gian bối cảnh xã hội, không gian sự

kiện. Những truyện viết về tình yêu nam nữ trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn

lục như: Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, Chuyện yêu

quái ở Xương Giang, Sống lại, Câu chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp báo ân...đều lấy

bối cảnh xã hội chủ yếu là các nho sĩ muốn học hành thi cử những lại vướng vào

tình ái. Về vị trí thời gian khi kể chuyện người kể chuyện thường lùi điểm nhìn về

91

thời điểm xảy ra sự kiện, câu chuyện cũng tức là người kể chuyện lùi điểm nhìn về

thời gian lịch sử, hay thời gian ban đêm để quan sát, chứng kiến và kể lại câu

chuyện. Trong truyện (Nghiệp oan của Đào thị) khi viên quan họ Hoàng gặp hồn

ma Thị Nghi “Đêm sâu như vậy, tại sao mà cô khóc lóc thế, khiến lòng sắt đá cũng

phải ỉu mềm đi. Người con gái khép nép, lau ráo nước mắt rồi nói”. Sự lựa chọn

cách kể chuyện đã đem lại cho độc giả ấn tượng trực tiếp sinh động về nhân vật.

Đi cùng với những hình thức sử dụng ngôn ngữ, ngôn ngữ trần thuật đã tạo

lập nên một kiểu giọng điệu nghệ thuật khá đặc thù. Là một phạm trù thẩm mĩ có

vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nên phong cách của nhà văn, giọng điệu

thể hiện thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện

thực được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ,

sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca

hay châm biếm. Có thể khẳng định, ngôn ngữ trần thuật đã góp phần tạo nên một

bút pháp nghệ thuật độc đáo, riêng biệt của truyện truyền kì trong dòng chảy văn

xuôi Việt Nam.

3.4.2. Ngôn ngữ miêu tả

Lời miêu tả là một thành phần không thể thiếu trong ngôn ngữ người kể

chuyện truyền kì. Bởi mục đích của truyền kì là kể lại những chuyện kì lạ, hoang

đường - những cái người thường không biết và rất ít khi bắt gặp nhưng vẫn khiến

người ta tin. Do đó, để người đọc có thể hình dung về câu chuyện mình kể không

thể thiếu yếu tố miêu tả. Việc miêu tả chi tiết, tỉ mỉ cũng là một yếu tố tăng thêm

tính tin cậy, xác thực cho lời người kể chuyện. Khung cảnh chốn âm ti, việc xét xử

nơi địa ngục được miêu tả lại trong Chuyện Lý tướng quân từng cảnh, từng việc, cụ

thể, chính xác đến tên tuổi, tước vị, hành trạng. Những điều lạ lẫm cứ dần dần hiện

ra trong cái nhìn ngạc nhiên theo từng bước chân của nhân vật. Chẳng những Thúc

Khoản - người chứng kiến cảnh ấy phải tin mà người đọc cũng có kẻ phải ngờ.

Không chỉ miêu tả khung cảnh chốn âm ti hay địa phủ, người kể chuyện

trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn dành những dòng miêu tả ngoại

hình, đặc điểm nhân vật tuy không nhiều. Vẻ đẹp của những nhân vật nữ

trong Truyền kì mạn lục được miêu tả bằng ngôn ngữ ước lệ trau chuốt. Nhân vật

ma quái không được Nguyễn Dữ miêu tả kĩ về ngoại hình phải chăng bởi đấy chỉ là

92

những sản phẩm của trí tưởng tượng. Hơn nữa, hình dạng chúng vốn không cố định,

lại thường xuất hiện vào ban đêm nên khó có thể xác định rõ diện mạo.

Người kể chuyện trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn chọn

được những chi tiết đắt giá để miêu tả ngoại hình, chỉ một lời miêu tả mà toát lên

bản chất nhân vật. Truyền kì mạn lục có những trang miêu tả cảnh hoan lạc giữa con

người với các nhân vật ma quái bằng những lời văn táo bạo, dạt dào cảm xúc: “tựa

ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát sóng hoa đào nghiêng ngả” (Chuyện kì ngộ ở

trại Tây). Trong những câu chuyện tình cảm nam nữ, người kể chuyện thường trao

điểm nhìn cho các nhân vật, thế giới được nhìn qua con mắt của những kẻ si tình.

Ngoài đoạn văn miêu tả giàu hình tượng trên đây, thơ ngâm vịnh của các nhân vật

cũng đều nhằm minh họa thêm cho cảnh lạc thú mây mưa như “Chuyện kỳ ngộ ở

trại Tây” nàng Liễu ngâm thơ:

“Xạ trầm lương hãn thấp la y,

Thúy đại khinh tần bát tự my.

Báo đạo đông phong khoan đả lục,

Tiêm yêu bãi loạn bất thăng suy.”

Dịch:

“Màu hôi dâm dấp áo là,

Mây xanh đôi nét tà tà như chau.

Gió xuân xin nhẹ nhàng nhau,

Thân non mềm chịu được đâu phũ phàng.”

Nàng Đào cũng tục ngâm:

“Thiên cao cấm ngữ lậu thanh trì,

Đăng ủng ngân giang xuất giáng duy.

Phân phó tài lang phan chiết khứ,

Tân hồng nhận thủ tiểu đào chi.”

Dịch:

“Cung sâu thưa điểm giọt rồng,

Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh.

Tài lang mặc sức vin cành,

Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi.”

93

Trong một mức độ nào đó, sự miêu tả trong tác phẩm của Nguyễn Dữ có

phần tỉ mỉ và táo bạo hơn. Còn trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh cũng dùng

những lời văn miêu tả giàu cảm xúc nhưng có phần khiêm nhường. Vẻ đẹp của

nhân vật cũng được tác giả miêu tả ngắn gọn nhưng đều toát lên tài năng và tính

cách của nhân vật như: “Có một kỹ nữ mười bảy, mười tám tuổi, nhan sắc xinh đẹp,

tài nghệ tuyệt vời, mỗi khi lên sân khấu cất giọng ca thì người xem đều ngây ngất

không sao kiềm chế nổi” (Ca kĩ họ Nguyễn) hay “Ông cử tuổi đôi mươi, đẹp trai, ăn

nói nhã nhặn. Cô gái dẫu tay chân mắc chứng phong, nhưng khuôn mặt vẫn đầy

đặn, da dẻ không lộ ra, vẫn là trang kiều diễm” (Tháp báo ân). Vậy ngôn ngữ miêu

tả đã góp phần đáng kể vào việc xây dựng chân dung văn học nhân vật. Cùng với

sự quan sát tinh tế, tài năng sáng tạo trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ miêu tả đã

giúp các tác giả tạo nên những hình tượng nhân vật chủ đề của truyện. Những bức

chân dung ấy đã gieo vào lò ng ngườ i đọc mô ̣t ấn tượng đầy trăn trở day dứ t. Bở i nó không đơn giản chỉ là mô ̣t bức chân dung ngoa ̣i hình nhân vật, mà bên trong nó là cả mô ̣t bài học lớ n về cuô ̣c đờ i, bằng hình tượng nghệ thuật thẩm mĩ, có sức lay động sâu xa.

Tiểu kết Chương 3

Như vậy với chương này đề tài đã khái quát được toàn bội giá trị nghệ thuật

của hai tập truyện trong việc thể hiện chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì.

Nguyễn Dữ và Vũ Trinh đã thể hiện chủ đề tình yêu nam nữ trong tác phẩm của

mình một cách tài tình, nội tâm, tính cách nhân vật được khắc hoạ một cách sâu sắc

có tính thẩm mỹ và tính tạo hình cao. Đó là sự phối kết hợp hài hoà của hàng loạt

các yếu tố nghệ thuật, từ những đặc trưng của thể loại văn học truyền kì có bắt

nguồn từ Trung Quốc nhưng vẫn giữ được nét văn hoá dân tộc với quá trình đưa

nhân vật vào hiện thực cuộc sống của hai tập truyện. Đồng thời là những biến đổi

trong quan hệ giữa yếu tố kì ảo và yếu tố thực qua hai tác phẩm Truyền kì mạn lục

và Lan Trì kiến văn lục: Theo quá trình phát triển của truyện truyền kì yếu tố kì ảo

dần dần yếu đi những chỗ cho yếu tố thực. Ở Truyền kì mạn lục yếu tố kì ảo được

dùng làm sáng tỏ hơn những vấn đề hiện thực mà nhà văn đang hướng đến, còn ở

Lan Trì kiến văn lục thì yếu tố kì ảo chỉ là những sự việc lại có thật ở đời. Như vậy

94

quá trình biến đổi của yếu tố kì ảo và yếu tố thực qua hai tập truyện viết về chủ để

tình yêu nam nữ là sự tăng dần yếu tố thực. Đây là một quá trình phát triển tất yếu

theo xu hướng phát triển của văn học Việt Nam nói chung. Về kết cấu nghệ thuật

qua các truyện viết về tình yêu nam nữ ở hai tập truyện cũng có những biến đổi

đáng kể. Ở Truyền kì mạn lục kiểu kết cấu biền văn xen vận văn và lời bình được

các tác giả ưu dùng để thể hiện những cung bậc tình cảm tinh tế của nhân vật song

bên cạnh đó lại làm cho câu chuyện trở nên dài dòng, nguồn cảm hứng của người đọ

bị ngắt cho nên càng về sau yếu tố này càng bị cắt giảm, dung lượng tác phẩm ngày

càng ngắn gọn, cô đúc, súc tích. Yếu tố lời bình cũng theo xu hướng đó mà giảm

dần, đặc biệt những lời bình mang tính định hướng, mang tính giáo huấn không còn.

Nhà văn chỉ nêu vấn đề một cách khách quan và chừa khoảng trống cho người đọc

tự suy ngẫm, tự đúc rút những vấn đề của cuộc sống từ câu chuyện. Bện cạnh đó

nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa không gian, thời gian nghệ thuật cùng với nghệ

thuật miêu tả nội tâm, tâm trạng nhân vật, tả ngoại hình...để thấy được sự phát triển

vượt bậc của truyện truyền kì, hai tác giả đã đưa thể loại truyện truyền kì đến gần

với người đọc, hướng vào thể hiện khát vọng của con người.

95

KẾT LUẬN

Với sự lựa chọn và khám phá hai tác phẩm truyện truyền kì : Truyền kì mạn

lục, Lan trì kiến văn lục từ góc độ tình yêu nam nữ với đề tài Chủ đề tình yêu nam

nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam khảo sát qua Truyền kì mạn lục, Lan

Trì kiến văn lục. Luận văn đã nêu được một số văn đề sau: Thể loại truyện truyền

kì, nội dung chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì, chủ đề tình yêu nam nữ

biểu hiện ở các phương diện nghệ thuật. Chúng tôi đi đến một số kết luận như sau :

1. Truyền truyền kì Việt Nam vốn có nguồn gốc từ thể loại truyền kì ảo

Trung Quốc nhưng có một quá trình hình thành và phát triển nội sinh gắn liền với

nền văn hoá và văn học của dân tộc. Văn hoá dân tộc như cái nôi nuôi dượng truyện

truyền kì Việt Nam trong suốt quá trình hình thành và phát triển, giúp cho thể loại

truyện truyền kì ở Việt Nam khác với truyện truyền kì các nước đồng văn trong khu

vực. Luận văn đã khái quát được hoàn cảnh lịch sử văn hoá xã hội, chân dung nhà

văn Nguyễn Dữ và Vũ Trinh cùng những thông tin về vai trò vị trí của hai tác phẩm.

Điều đó giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về nội dung nghệ thuật của hai tác

phẩm này. Bên cạnh đó trong chương 1: Thể loại truyện truyền kì và chủ đề tình yêu

nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt nam, luận văn còn tập chung giới thiệu

những vấn đề cơ bản có liên quan đến chủ đề tình yêu nam nữ trong hai tập truyện:

Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục.

2. Chương 2: Nội dung chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung

đại Việt Nam(qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục) đã đi sâu vào tìm hiểu

từng biểu hiện cụ thể của hai tác phẩm, từ đó tiền hành so sánh đối chiếu việc thể

hiện chủ đề tình yêu nam nữ từ góc độ nội dung. Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm

tương đồng, gặp gỡ trong việc thể hiện tình yêu nam nữ ở những điểm sau: Xây

dựng những nhân vật nam và nữ táo bạo thủy chung son sắt. Họ là những người phụ

nữ đức độ, trinh tiết, xứng là tấm gương sáng lưu lại cho đời. Họ là những thư sinh

tài năng thành đạt luôn làm việc nghĩa, ngời sáng về phẩm chất để người đời noi

theo. Từ đây luận văn cũng đi vào tìm hiểu và chỉ ra những nét khác biệt làm nên

những giá trị độc đáo riêng trên hai khía cạnh: đối tượng phản ánh và nội dung phản

ánh. Từ kết quả nghiên cứu của chương này, chúng tôi rút ra kết luận rằng Truyền kì

96

mạn lục là bước khẳng định vị trí của loại hình này trong văn học trung đại còn Lan

Trì kiến văn lục lại có vai trò quan trọng trong việc chuyển giao giữa thể loại truyền

kì và thể kí. Việc xây dựng thành công chủ đề tình yêu từ phương diện nội dung

cũng đã khẳng định bản lĩnh nghệ thuật và đánh dấu sự cách tân trong tư duy nhà

văn và đã đụng chạm đến một vấn đề khá cơ bản của chủ nghĩa nhân đạo trong văn

học. Nguyễn Dữ và Vũ Trinh đã tỏ ra điêu luyện hơn khi hình ảnh nhà văn ẩn sau

khuôn mặt của các nhân vật mà không một giọng điệu phán xét. Từ trong hiện thực

cuộc sống có muôn vàn những éo le trắc trở, độc giả sẽ bắt gặp những nhân vật sống

ân tình, ân nghĩa. Họ giống như hạt ngọc giữa cuộc đời. Bên cạnh đó, nhân gian

cũng phải đối diện với những con người bạc ác, xấu xa, bất chấp tất cả để thỏa mãn

dục vọng của bản thân. Dù ở loại người nào, cả hai tác phẩm đều muốn gửi gắm tới

bạn đọc thông điệp: “ở hiền gặp lành”, “gieo nhân nào gặt quả ấy”. Quan tâm đến

vấn đề khoa cử học hành, các truyện các tác giả giúp người đọc hiểu thêm về những

góc khuất của thi cử thời xưa. Bên cạnh những nho sĩ có tài, học hành thi cử đậu

đạt, làm quan vì nước vì dân, lại có những kẻ học hành chểnh mảng, ham hư danh

nhưng muốn tiến thân bằng khoa cử.

Như vậy với cảm hứng về chủ đề tình yêu nam nữ trong sáng tác của mình,

các tác giả đã chạm đến ngưỡng cửa của văn học hiện đại: con người trong văn học

giờ đây là con người với tư cách cá nhân. Bởi lẽ trong chế độ phong kiến Nho giáo,

con người luôn gắn liền với trách nhiệm của kẻ làm bề tôi, làm con, làm vợ sống

theo “tam cương ngũ thường”, chứ không bao giờ là con người cá nhân với một đời

sống riêng tư, tâm tư nguyện vọng riêng. Do đó ở một mức độ nhất định Truyền kì

mạn lục và Lan Trì kiến văn lục đã không phải là sự minh hoạ cho đạo đức trung,

hiếu, tiết, nghĩa của Nho giáo. Hiện thực cuộc sống, con người cá nhân với những

khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, tuổi trẻ đã phản chiếu vào văn học. Khác với xu

hướng văn học dân gian và văn xuôi lịch sử, đối tượng chủ yếu của Truyền kì mạn

lục và Lan Trì kiến văn lục là con người với những khát khao trần tục. Đó là niềm

khao khát về một mái ấm gia đình, một giây phút hoan lạc ái ân, là ước muốn được

chia sẻ, được cảm thông, được yêu thương. Điều này đã đánh dấu bước phát triển

đáng kể cho văn xuôi tự sự giai đoạn này. Từ đó có thể khẳng định: nhu cầu giải

97

phóng tình cảm gắn liền với đề tài tình yêu đôi lứa đã đánh dấu sự ra đời của chủ

nghĩa nhân đạo, đồng thời cũng cho thấy sự trưởng thành trong nghệ thuật của nhà

văn trung đại. Dưới vỏ bọc kì ảo hai tác phẩm không những khẳng định thành công

của tự sự mà còn là thành quả của tư duy nghệ thuật trong quan niệm về cuộc sống

và con người.

3. Từ việc khám phá nội dung của chủ đề tình yêu nam nữ, chúng tôi tiếp

tục triển khai chương 3 của luận văn: Chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì

trung đại Việt Nam (qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục) trên phương diện

nghệ thuật. Đó là : cốt truyện, kết cấu, không gian, thời gian nghệ thuật, nghệ thuật

xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật. Kết quả thu được của sự lí giải từ chương

3 cho thấy: cốt truyện của truyện truyền kì có sự tiếp thư tinh hoa văn học dân gian

vào trong việc xây dựng cốt truyện thong qua sự sắp xếp các sự kiện và vận dụng

các môtíp dân gian trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục cũng làm cho

tác phẩm gần gũi hơn với người đọc đưa chủ đề được phản ánh trở lên sinh động,

linh hoạt, tạo nên sự đồng cảm sâu sắc từ phía người tiếp nhận. Nguyễn Dữ và Vũ

Trinh đã tạo nên một bước tiến mới trong việc đánh giá và ngợi ca các nhân vật của

mình. Không chỉ vậy sự phát triển đáng kể nhất của hai tác phẩm này còn là ở việc

dành sự quan tâm để miêu tả đời sống nội tâm nhân vật một cách khá rõ nét. Bên

cạnh đó Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn muốn nhấn mạnh những

điều tai nghe mắt thấy, nhưng đọc hai tập truyện ta bắt gặp Nguyễn Dữ và Vũ Trinh

còn đưa con người vào thế giới kỳ ảo, khiến xúc cảm của truyện thêm phong phú.

Đặc trưng và sự hấp dẫn của thể loại truyền kỳ chính là yếu tố kỳ ảo. Khi chấp bút

những câu chuyện của mình, tác giả đã kết hợp hài hòa, tài tình giữa yếu tố thực và

yếu tố kỳ ảo trong những lời kể. Yếu tố thực bắt nguồn từ hiện trạng ngoài đời sống,

của nhân gian mà hai tác giả đã từng “sở kiến, sở văn”. Những yếu tố thực làm nên

những rung cảm, khắc tạc nên bức tranh về đời sống con người đương thời thật sinh

động. Tuy nhiên, trong tác phẩm người đọc còn bắt gặp những yếu tố kỳ ảo: kỳ ảo

tín ngưỡng dân gian, kỳ ảo tôn giáo, yếu tố chiêm mộng… Những yếu tố thực và

yếu tố kỳ ảo giúp tác phẩm vừa mang một thế giới huyền bí, vừa mang thế giới hiện

hữu giữa cõi đời, đồng thời nhà văn muốn gửi gắm ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

98

Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn được kể bằng lối kể chuyện, những

giọng điệu khác nhau. Khi giọng điều đầy ngạc nhiên, khi giọng lại đầy tự hào,

ngợi ca, nhưng có lúc lại là giọng thương cảm trước những số phận bất hạnh,

giọng căm phẫn trước đạo đức suy đồi, phong hóa mai một. Việc thay đổi sắc

thái giọng điệu một cách linh hoạt tương hợp trong việc diễn tả tâm trạng, cảm

xúc của nhà văn trước những vấn đề đặt ra. Truyện của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh

cũng được sắp xếp, gắn kết theo trật tự thời gian, kết thúc truyện thường có hậu.

Với lối kết cấu này, giúp nhà văn thể hiện tốt chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.

Tác phẩm đã đưa con người vào thế giới siêu thực, thời gian phi tuyến tính, thời

gian biến ảo. Một thế giới vừa thực vừa hư với không gian nhiều cõi, giúp cho

việc tái hiện cuộc sống đương thời một cách sâu sắc, mang đến cho người đọc

những xúc cảm thẩm mỹ phong phú.

Nghiên cứu chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện Truyền kì mạn lục và Lan

Trì kiến văn lục chúng ta một lần nữa khẳng định chỗ đứng của đề tài này trong văn

học Việt nam cũng như giá trị nghệ thuật của hai tác phẩm. Đó sẽ mãi là nguồn sáng

tạo nghệ thuật mà mỗi thế hệ lại có thể khám phá những điều mới lạ tuỳ điểm nhìn

của mình mở ra chân trời khát vọng và cảm xúc mới cho sáng tạo nghệ thuật.

99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đổng Chi (1999), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Tập 4, Nxb Văn

nghệ thành phố Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên,1999), Truyện truyền kì Việt Nam,quyển 1, Nxb

Giáo dục, HN.

3. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên,2009), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 2, Nxb

Giáo dục, HN.

4. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, (1995), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh Niên.

5. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã

hội, HN.

6. Nguyễn Dữ (1957), Truyền kì mạn lục, Nxb Văn hoá, HN.

7. Lê Quý Đôn (1977), Lê Quý Đôn toàn tập, Nxb KHXH, HN.

8. Dương Quảng Hàm (1983), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Tổng hợp, HN.

9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Đại học quốc gia, HN.

10. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ

điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.

11. Nguyễn Phạm Hùng (2001) - Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu của truyện ký

văn học viết bằng chữ Hán (Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục)

12. Cù Hựu (1999), Tiễn đăng tân thoại, Nguyễn Dữ- Truyền kì mạn lục, Nxb Văn học.

13. Phan Huy Lê, Chu Thiên, Lương Hoàng Tuyên (1971), Lịch sử chế độ phong

kiến Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.

14. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ

XIX, tập 1, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.

15. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ

XIX, tập 2, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.

16. Hà Thúc Minh (2002), Đạo Nho và văn hoá phương Đông, Nxb Giáo dục, HN.

100

17. Nguyễn Đăng Na (1986), Sự phát triển văn xuôi Hán - Việt từ đầu thế kỉ X đến

cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX qua một số tác phẩm tiêu biểu, Luận án PTS,

Trường ĐHSP HN.

18. Nguyễn Đăng Na, (2007), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb

Đại học sư phạm, HN.

19. Nguyễn Đăng Na, (Chủ biên, 1999), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,

Nxb Giáo dục, HN.

20. Nguyễn Đăng Na, (Chủ biên, 2007), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,

Nxb Đại học sư phạm, HN.

21. Trần Nghĩa (Chủ biên, 1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập 1,

tập 2, NXB Thế Giới, HN.

22. Nghiên cứu và giảng dạy Ngữ văn - Trường Đại học sư phạm hà Nội - Khoa

Ngữ văn.

23. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

24. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb

Giáo dục, HN.

25. Trần Đình Sử (2008), Lí luận văn học, tập 2, Nxb ĐHSP, HN.

26. Bùi Duy Tân (1979), Truyền kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học

viết bằng chữ Hán/ Văn học Việt Nam thế kỷ X- nửa đầu thế kỷ XVII, Nxb

Đại học và trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội

27. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - Tác giả - Tác phẩm văn

học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

28. Trần Thị Băng Thanh (Chủ biên, 1985), Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập,

Nxb Khoa học xã hội.

29. Trần Thị Băng Thanh (Chủ biên, 1989), "Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục

trong dòng truyện ngắn truyền kì Việt Nam", Tạp chí văn học, số 4.

30. Vũ Thanh (1994), "Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trong truyện truyền

kì Việt Nam", Tạp chí văn học, số 4.

101

31. Vũ Thanh (1998), Thánh Tông di thảo- Bước đột khởi trong tiến trình phát

triển của thể loại truyện ngắn Việt nam trung đại, trong cuốn Hoàng đế Lê

Thánh Tông - Nhà chính trị tài năng, nhà văn hoá lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb

KHXH, HN.

32. Vũ Thanh (2001), Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện

đại, trong cuốn Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb KHXH, HN.

33. Vũ Thanh (2006), Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á,

Trang điện tử của Viện Văn học.

34. Vũ Thanh (2007), Thể loại truyền kỳ ảo Việt Nam thời Trung đại- Quá trình

nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ X-

XIX - Những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục.

35. Là Nhâm Thìn, Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục

Việt Nam.

36. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

37. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

38. Trần Nho Thìn, Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam, Nghiên cứu văn

học, số 9 - 2006.

39. Nguyễn Cẩm Thuý (1983), Vũ Trinh và Kiến văn lục, Nghiên cứu văn học, số 1.

40. Trần Thị Thu Thuỷ (1997), Các kiểu kết cấu trong Truyền kì mạn lục của

Nguyễn Dữ, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Đại học Vinh.

41. Lê Thị Thu Trang (2013), Nhân vật người phụ nữ trong Truyền kì tân phả và

Lan Trì kiến văn lục, Luận văn thạc sĩ ngữ văn. Đại học sư phạm Hà Nội.

42. Nguyễn Thị Trang (2014), Tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật Lan Trì kiến văn

lục của Vũ Trinh, Khoá luận tốt nghiệp Đại học, Đại học sư phạm Hà Nội 2.

43. Vũ Trinh (2005), Lan Trì kiến văn lục, Nxb Thuận Hoá- Trung tâm Văn hoá

ngôn ngữ Đông Tây.

102

44. Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, Nxb Hồng Bàng

45. Đinh Phan Cẩm Vân, "Cái kỳ trong tiểu thuyết truyền kì", Tạp chí văn học, số

10 - 2000.

46. Nguyễn Khắc Viễn (2000), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, HN.

47. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,

Nxb Giáo dục, HN.

48. Trần Ngọc Vương (2007) Văn học Việt Nam thế kỉ X- XIX- Những vấn đề lí

luận và lịch sử, NXB Giáo dục.

49. Lê Thu Yến (tập hợp, giới thiệu, 2002), Văn học Việt Nam trung đại - Những

công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, HN.