ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG
CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ
TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
(KHẢO SÁT QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG
CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ
TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
(KHẢO SÁT QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ THANH
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Vũ Thanh,
người đã tận tình hướng dẫn, khích lệ, động viên trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong Trường Đại học khoa
học- Đại học Thái Nguyên đã tận tình dìu dắt, truyền dạy kiến thức, tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu đề tài
Để có kết quả này tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Sở giáo dục
tỉnh Quảng Ninh, Trường THPT Bãi Cháy, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, các
bạn lớp Văn học Việt Nam K9D đã luôn ủng hộ, giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian qua.
Vì những điều kiện chủ quan và khách quan luận văn chắc chắn sẽ còn
nhiều thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo cùng những ý kiến
đóng góp của quý thầy cô và các bạn.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lan Phương
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
MỤC LỤC .................................................................................................................. ii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................... 12
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 13
5. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 13
6. Cấu trúc của luận văn........................................................................................ 14
7. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 14
Chương 1. THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ VÀ CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ
TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ............................. 15
1.1. Thể loại truyện truyền kì và chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì
trung đại ................................................................................................................ 15
1.1.1. Sơ lược về truyện truyền kì .................................................................... 15
1.1.2. Chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam ............ 17
1.2. Sơ lược về Truyền kì mạn lục và Lan trì kiến văn lục trong tiến trình phát
triển của truyền kì trung đại Việt Nam ................................................................. 23
1.2.1. Truyền kì mạn lục ................................................................................... 23
1.2.2. Lan Trì kiến văn lục ............................................................................... 30
Tiểu kết Chương 1 ..................................................................................................... 37
Chương 2. NỘI DUNG PHẢN ÁNH CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ
TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ (QUA TRUYỀN KÌ MẠN
LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC) ..................................................... 38
2.1. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ ........................................................... 38
2.1.1. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ trong Truyền kì mạn lục ............ 38
2.1.2. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ trong Lan Trì kiến văn lục ........ 41
2.2. Sự vận động của chủ đề tình yêu nam nữ qua hai tập truyện ........................ 45
iii
2.3. Ý nghĩa chủ đề tình yêu nam nữ đối với sự phát triển thể loại ...................... 55
Tiểu kết Chương 2 ..................................................................................................... 58
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ
TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ (QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC
VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)......................................................... 59
3.1. Kết cấu nghệ thuật của truyện có chủ đề tình yêu nam nữ ............................ 59
3.1.1. Kiểu kết cấu truyện mang chủ đề tình yêu nam nữ ................................ 59
3.1.2. Sự biến chuyển của yếu tố kỳ ảo và yếu tố thực .................................... 60
3.1.3. Sự giảm tải dần kiểu kết cấu biền văn xen vận văn và Lời bình cuối truyện 67
3.2. Không gian, thời gian nghệ thuật ................................................................... 69
3.2.1. Không gian nghệ thuật ........................................................................... 69
3.2.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................... 73
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ....................................................................... 79
3.3.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật nam và nữ ................................................. 79
3.3.2. Miêu tả đời sống nội tâm ........................................................................ 81
3.3.3. Tính cách nhân vật ................................................................................. 85
3.4. Ngôn ngữ nghệ thuật ...................................................................................... 89
3.4.1. Ngôn ngữ trần thuật ................................................................................ 89
3.4.2. Ngôn ngữ miêu tả ................................................................................... 91
Tiểu kết Chương 3 ..................................................................................................... 93
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 99
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Văn học là trong những loại hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thân
với đời sống tinh thần của con người ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào
thì nó vẫn là sự phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của nghệ sĩ. Tác
phẩm nghệ thuật chân chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa
của nhà văn trước cuộc đời, trước những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con
người. Con người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, tâm tư khát vọng, thành đạt hay khổ
đau luôn luôn là đối tượng trung tâm của văn học, là mối quan tâm hàng đầu của
nghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương đối với con người là nguồn động lực căn bản
nhất thúc đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính. Nhà văn Nga Tolstoi đã từng
viết: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Còn Goethe thì nói:
“Những điều đầu tiên mà thiên nhiên cần là tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống”.
nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet thì diễn tả tình yêu ấy bằng hình ảnh thật cụ thể: “Nhà
văn là người cho máu”. Đó là một tình yêu bao gồm cả sự hi sinh to lớn. Tác phẩm
chân chính đúng là sản phẩm của trí tuệ, trái tim, mồ hôi và cả nước mắt của người
nghệ sĩ, là kết quả của quá trình nếm trải, nung nấu, cảm xúc dào dạt - cái mà người
ta gọi là cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật. Để thấy được vị trí, vai trò rất quan
trọng của văn học đối với quá trình hình thành và hoàn thiện phẩm chất đạo đức và
nhân cách của con người có tác dụng đặc biệt trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình
cảm, nhân cách đạo đức cho các thế hệ công dân. Bên cạnh đó đặc trưng của văn
học là: “Văn dĩ tải đạo”, “Văn dĩ minh đạo” nó đòi hỏi văn nghệ sĩ không chỉ
chuyên chở trong tác phẩm của mình những chuẩn mực đạo đức nhân cách của đạo
làm người mà phải sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật có sức rung động,
cảm hóa mạnh mẽ, cổ vũ con người vươn tới sự hoàn thiện nhân cách, đạo đức, lối
sống theo quy luật của tình cảm, của cái đẹp. Vì thế nghiên cứu văn học quan trọng
nhất vẫn là tìm hiểu nội dung và hình thức của tác phẩm, để thấy được các giá trị
quan trọng được văn học hướng đến, đặc biệt chúng sẽ được thể hiện rõ nét và sâu
sắc nhất khi nói về cuộc sống và tình cảm của con người. Chúng ta có thể thấy điều
2
này trong giai đoạn Phục hưng của văn học thế giới. Ở Việt Nam giai đoạn văn học
trung đại cũng không nằm ngoài qui luật đó, do vậy có thể nói văn học trung đại
Việt Nam là giai đoạn nở rộ nhiều hình tượng, chủ đề, nổi bật trong đó là chủ đề
tình yêu nam nữ.
Xét trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học trung đại Việt Nam có
một vị trí đặc biệt quan trọng. Văn học trung đại Việt Nam phát triển liền mạch từ thế
kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã góp vào nền văn học nước nhà đầy đủ các thể loại với các
tác phẩm, tác giả nổi tiếng. Trong đó các thể loại văn xuôi (truyện, kí, tiểu thuyết
chương hồi…) có nhiều đóng góp to lớn, đặc biệt là thể loại truyện truyền kì - một
trong những thể loại góp phần tạo dựng vị trí của văn xuôi trung đại Việt Nam. Dẫu
rằng tên gọi thể loại này chỉ xuất hiện trong văn học viết trung đại, tồn tại và phát
triển đến hết thời kì văn học trung đại, nhưng sự đóng góp của truyền kì cho sự phát
triển chung của loại hình tự sự trong văn học trung đại Việt Nam nói riêng và văn học
Việt Nam nói chung là không thể phủ nhận. Các tác phẩm truyền kì nổi tiếng của các
tác giả tên tuổi như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông - (?), Truyền kì mạn lục
(Nguyễn Dữ), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh) là
những cứ liệu không thể bỏ qua khi xem xét sự phát triển về nội dung, nghệ thuật của
văn học Việt Nam ở các giai đoạn khác nhau. Nói cách khác, nghiên cứu về truyền kì,
qua những tác phẩm tiêu biểu, ta phần nào thấy được diện mạo nền văn học Việt Nam
ở cả hai mặt nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
Tác phẩm đặt nền móng xác định vai trò, vị trí của thể loại này chính là
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ - đỉnh cao của sự phát triển thể loại và cuối cùng
là Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh. Đó là những tập truyện có vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển của thể loại truyện truyền kì trung đại Việt Nam. Đọc
truyện truyền kì, từ Truyền kì mạn lục đến Lan Trì kiến văn lục ta đều có thể bắt gặp
những nhân cách cao thượng đáng quý, những con người vì dân trừ hại, đặc biệt là
những người phụ nữ tài sắc, tiết nghĩa, thủy chung. Trong đó vị trí, vai trò của chủ
đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì bên cạnh các chủ đề khác như: chủ đề yêu
nước, phê phán giai cấp thống trị, ca ngợi bản lĩnh, phẩm chất kẻ sĩ, ca ngợi người
phụ nữ, đó là một cách tân mới mẻ của truyện truyền kì. Chủ đề tình yêu nam nữ là
3
chủ đề mang tính đặc trưng của truyện truyền kì thể hiện bước tiến phát triển của
văn học dân tộc.
1.2. Lý do thực tiễn
Các tác phẩm thuộc thể loại truyện truyền kì được đưa vào giảng dạy trong
chương trình phổ thông chiếm số lượng không nhỏ. Trong chương trình trung học
cơ sở ở lớp 6 với tác phẩm Con hổ có nghĩa (Lan Trì kiến văn lục - Vũ Trinh),
Chuyện người con gái Nam Xương (Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ) và trung học
phổ thông ở lớp 10 với tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Truyền kì
mạn lục - Nguyễn Dữ). Là một giáo viên môn Ngữ văn, tôi nhận thấy rằng việc
nghiên cứu thể loại truyền kì và vị trí của thể loại này trong tiến trình phát triển của
văn học Việt Nam sẽ giúp ích cho công tác giảng dạy văn học ở trường phổ thông.
Thực tế nghiên cứu sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn vừa toàn diện, vừa cụ thể chi tiết
về thể loại này, lấy đó làm cơ sở cho việc tìm hiểu, giảng dạy các tác phẩm truyền
kì trong chương trình ngữ văn ở các cấp học. Qua đó, có thể giúp các em học sinh
thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương trung đại (vốn không phải là một điều dễ
dàng) qua một thể loại cụ thể và trân trọng hơn văn học dân tộc mình. Bên cạnh đó
việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay thực chất là đổi mới cách dạy
và học, không chỉ tập trung vào nội dung một tác phẩm mà dạy theo thể loại, thi
pháp nhằm hình thành và rèn luyện kĩ năng đọc hiểu các loại văn bản. Các tác phẩm
truyền kì trung đại ngoài việc thể hiện nội dung, nghệ thuật còn là những vấn đề mà
các tác giả gửi gắm vào tác phẩm thông qua chủ đề.
Nhằm phục vụ, nâng cao năng lực nghiên cứu và giảng dạy. Nhận thức được
vai trò quan trọng của thể loại truyền kì trong sự phát triển của văn học Việt Nam,
niềm yêu thích đối với thể loại này và từ yêu cầu thực tế công tác, tôi chọn đề tài
“Chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam (khảo sát
qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao
học của mình với mong muốn có thể góp chút hiểu biết của mình vào việc tìm hiểu
văn học nước nhà và khơi gợi sự hứng thú của mọi người trong việc tìm hiểu về thể
loại truyền kì. Từ đó sẽ có thêm những công trình nghiên cứu khoa học có giá trị về
thể loại này.
4
2. Lịch sử vấn đề
Truyện truyền kì có nguồn gốc ngoại lai nhưng trên hành trình phát triển
gần mười thế kỷ, thể loại này đã chứng tỏ sự gắn kết sâu sắc với hiện thực lịch
sử dân tộc và số phận con người Việt. Từ những ngày đầu hiện diện cho tới các
chặng đường sau này, diện mạo của thể loại không ngừng thay đổi, từ tính chất,
phạm vi hiện thực được phản ánh cho đến phương thức tổ chức tác phẩm, cách
thức sử dụng cái kỳ ảo để truyền dẫn những thông điệp nhân sinh. Nó gắn liền
với những bước chuyển của tư duy nghệ thuật, những khác biệt trong bức tranh
hiện thực cũng như nhu cầu của con người ở các thời đại khác nhau. Với những
thành tựu kết tinh của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam, truyện truyền kỳ đã
được chú ý từ sớm và thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Trong truyện
truyền kì các tác giả đã thể hiện nhiều chủ đề khác nhau, trong đó chủ đề tình
yêu nam nữ là một cảm hứng chủ đạo trong rất nhiều truyện truyền kì. Đây là
chủ đề thu hút nhiều nhà nghiên cứu mà cụ thể là trong Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ và Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh.
2.1. Nghiên cứu chủ đề tình yêu trong tiến trình vận động của truyện truyền kì
trung đại Việt Nam
Truyện truyền kì ngay từ khi ra đời đã gây sự chú ý của độc giả và giới
nghiên cứu, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các phương diện khác nhau trong
các tác phẩm cụ thể của thể loại này. Con người trong tác phẩm cũng là một đề tài
quan trọng hấp dẫn giới nghiên cứu với nhiều chủ đề khác nhau. Trong đó chủ đề cơ
bản được thể hiện trong những tác phẩm truyền kì chính là tình yêu. Tuy nhiên tình
yêu quê hương, đất nước được giới khoa học lâu nay để tâm nhiều hơn, còn tình yêu
nam nữ chỉ được nhắc đến trong các nghiên cứu chung, tổng hợp. Qua tìm hiểu,
chúng tôi nhận thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về những tác phẩm cụ thể
thuộc thể loại truyền kì, từ Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân
phả đến Lan Trì kiến văn lục với những đóng góp quan trọng về nội dung tư tưởng
cũng như hình thức nghệ thuật của thể loại.
5
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, các sáng tác truyền kì nói riêng, thể loại truyền kì
nói chung nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học
hơn. Khi điều kiện nghiên cứu hiện thời đã thuận lợi hơn, khi nhu cầu tìm về những
tác phẩm nổi tiếng của thời trung đại để xem xét giá trị của chúng trong nền văn học
ngày càng cao hơn thì những công trình khoa học về các tác phẩm truyền kì và thể
loại truyền kì xuất hiện nhiều hơn như:
- Nguyễn Cẩm Thuý (1983), Vũ Trinh và Kiến văn lục, Nghiên cứu văn học, số 1.
- Nguyễn Phạm Hùng (1987), Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Tạp chí văn học số 7)
- Trần Thị Băng Thanh (1989), Vũ Trinh và Lan trì kiến văn lục trong dòng
truyện ngắn truyền kì Việt Nam, Tạp chí văn học số 4.
- Nguyễn Phạm Hùng - Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu của truyện ký văn
học viết bằng chữ Hán (Văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, 2001)
- Bùi Duy Tân - Bàn thêm về tác giả, tác phẩm Truyền kì mạn lục (Tạp chí
văn học số 10/ 2002)
- Nguyễn Đăng Na (2006), Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học
(Con đường giải mã văn học trung đại, NXB Giáo dục, 2006)
- Phạm Tuấn Vũ - Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á
(Trang điện tử của Viện Văn học, tháng 10, 2006)
- Đoàn Lê Giang - Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì Việt Nam
qua Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Cao
đẳng sư phạm Bà Rịa Vũng Tàu, 2007)
Ngoài ra, còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu về các tác
phẩm truyền kì khác như:
- Lê Văn Hùng - Đoàn Thị Điểm và Truyền kì tân phả (Tạp chí Văn hóa
Nghệ An tháng 9 - 2010)
- Đoàn Lê Giang - Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục
của Nguyễn Dữ (Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ,
tháng 01, 2010)
6
- Lại Văn Hùng - Bàn góp về tiếp thu và đổi mới trong Truyền kì mạn lục
(Trang điện tử Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm TpHCM, tháng 12, 2011)
- Trần Thị Băng Thanh và Bùi Thị Thiên Thai - Mối liên hệ giữa Truyền kì
tân phả và lễ hội văn hóa dân gian (Trang điện tử của Viện văn học, tháng 8, 2011)
Những bài báo, công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu xem xét từng tác phẩm
truyền kì cụ thể trên những phương diện, góc nhìn khác nhau như: so sánh tác phẩm
với những tác phẩm khác cùng thể loại, sự đóng góp của tác phẩm đối với sự phát
triển của thể loại, ảnh hưởng của văn hóa, văn học dân gian đến tác phẩm truyền
kì…Với chúng tôi, những công trình, bài báo này tuy chưa cung cấp một cái nhìn
toàn diện về chủ đề tình yêu nam nữ của truyện truyền kì trong tiến trình phát triển
của văn học Việt Nam nhưng đã cho chúng tôi những gợi ý quý báu cho nội dung
của luận văn này. Trong thế kỉ XX, XXI, ở các công trình liên quan đến văn học
trung đại, thể loại truyền kì nói chung đã được chú ý hơn so với trước đó.
Xem xét thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam
nói chung, văn học trung đại nói riêng, những nhà phê bình, nghiên cứu đã thật sự
dành sự quan tâm xứng đáng cho thể loại này. Chúng ta có thể tìm thấy trong các
công trình Lịch sử văn học Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, 1980), Thi pháp văn
học trung đại Việt Nam (Trần Đình Sử, NXB ĐHQGHN, 2005), Văn học trung đại
Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn, NXB GD, 2008) và những trang
viết về thể loại truyền kì. Những phần về Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục
trong chương XIV (Văn học viết từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII) và chương XVI
(Truyền kì mạn lục và những thành tựu của văn xuôi chữ Hán) trong Lịch sử văn
học Việt Nam, về truyện truyền kì (Chương IV: Thể loại truyện chữ Hán, Thi pháp
văn học trung đại Việt Nam), về thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam (Phần
một: Một số vấn đề lí luận của văn học trung đại nhìn từ góc độ văn hóa, Văn học
trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa) tuy không nhiều nhưng cũng giúp chúng
tôi tham khảo được nhiều nội dung quan trọng liên quan đến đề tài luận văn. Một
công trình quy mô, có hệ thống về truyền kì đó chính là Nguyễn Huệ Chi với tuyển
tập Truyện truyền kì Việt Nam quyển 2 và quyển 3 (Nxb Giáo dục, 1999). Đây là
một công trình không chỉ cung cấp cho người đọc những truyện truyền kì cụ thể mà
7
còn qua đó thấy được đặc điểm của thể loại này. Công trình của tác giả Nguyễn Huệ
Chi chính là một trong những nguồn tư liệu quan trọng cho luận văn của chúng tôi.
Chính từ công trình này, chúng tôi có thể hình dung ra sự phát triển của thể loại
truyền kì qua các thời kì, giai đoạn, cũng như có cái nhìn rõ ràng, đầy đủ hơn về đặc
điểm của thể loại này. Cùng với Nguyễn Huệ Chi, tác giả Vũ Thanh cũng quan tâm
đến truyền kì với nhiều công trình nghiên cứu về thể loại này như: Dư ba của truyện
truyền kì, chí quái trong văn học hiện đại Việt Nam (in trong Những vấn đề lí luận
và lịch sử văn học - Kỉ yếu hội thảo của Viện văn học năm 2001), Thể loại truyện kì
ảo Việt Nam thời trung đại - quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm trong
công trình Văn học Việt Nam thế kỉ X- XIX - những vấn đề lí luận và lịch sử (Nxb
Giáo dục, 2007), Truyền kì mạn lục trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử -
Thi pháp - Chân dung (Nxb Đại học Quốc gia, 2005)… Tác giả Bùi Thanh Truyền
lại thể hiện sự quan tâm của mình đối với thể loại truyện kì ảo, truyền kì với những
công trình về thể loại này trong văn học hiện đại qua các bài viết: Sự hồi sinh của
yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam (luận văn Thạc sĩ trường Đại học
Sư phạm Huế), Truyện kì ảo trong đời sống văn học Việt Nam… Các tác giả
Nguyễn Đăng Na, Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang: Văn học trung đại Việt Nam,
tập 1 (Nxb Đại học sư phạm, 2006) cũng đã đề cập đến thể loại truyền kì như là một
thể loại tiêu biểu của văn học trung đại giai đoạn thế kỉ XV - XVI. Bên cạnh đó,
Nguyễn Đăng Na cũng là tác giả chủ biên tuyển tập Văn xuôi tự sự Việt Nam thời
trung đại, (Nxb Giáo dục, 1999). Những bài viết, công trình này đã mang đến cho
chúng tôi những ý tưởng quý giá để hoàn thiện nội dung luận văn về những biểu
hiện chủ đề tình yêu nam nữ của thể loại truyền kì, sự phát triển của chủ đề này
trong văn xuôi tự sự trung đại. Như vậy, tất cả các công trình trên, dù ít, dù nhiều
cũng đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu đáng quý để góp phần hoàn thành
luận văn. Tuy nhiên, điểm qua đôi nét chúng tôi nhận thấy mặc dù các tác phẩm
truyền kì nổi tiếng đều nhận được nhiều sự quan tâm của người nghiên cứu phê bình
văn học nhưng chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về chủ để tình yêu nam nữ
trong truyền kì qua Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục. Đây là một trong
những nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài cho luận văn cao học chuyên
ngành Văn học Việt Nam của mình.
8
2.2. Nghiên cứu chủ đề tình yêu trong Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục
2.2.1. Truyền kì mạn lục
Truyền kì mạn lục có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn xuôi
trung đại nói chung và thể loại truyền kì nói riêng. Ngay từ thời trung đại, Truyền kì
mạn lục đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau.
Nhiều tác giả Nho học đã thể hiện sự quan tâm đến thể loại truyền kì qua những sáng
tác truyền kì cụ thể. Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đều đã dành nhiều
ưu ái cho Truyền kì mạn lục. Vũ Khâm Lân trong Bạch Vân Am cư sĩ phả kí coi
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một “thiên cổ kì bút”. Lê Quý Đôn trong Kiến
văn tiểu lục ca ngợi Truyền kì mạn lục là “lời lẽ thanh tao, tốt đẹp, người bấy giờ lấy
làm ngợi khen”. Phan Huy Chú khen rằng Truyền kì mạn lục là “áng văn hay của bậc
đại gia”. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú nhận xét về Truyền kì
tân phả: “Lời văn hoa lệ nhưng khí chất yếu ớt, không bằng văn của Nguyễn Dữ”.
Như vậy các tác giả trước thế kỉ XX quan tâm đến thể loại truyền kì qua các tác phẩm
truyền kì cụ thể và về một phương diện nào đó như văn phong, ngôn từ, chủ đề, đề
tài, hình tượng nhân vật. Trong đó những câu chuyện viết về tình yêu cũng là một chủ
đề được quan tâm nhiều nhất. Trong phần mở dầu cuốn Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán
Việt Nam tập 1 có viết: “Đáng chú ý là những cuộc tình ái vượt rào… Hầu như đây
là mảnh đất riêng cho tiểu thuyết truyền kì với những mối tình giữa người và yêu
tinh, người và ma quái, người và thần nữ…” [21, tr.35].
Bước sang thế kỉ XX Truyền kì mạn lục thu hút nhiều nhà nghiên cứu hiện
đại. Nhà nghiên cứu Bùi Kỷ trong Truyền kỳ mạn lục với Lời giới thiệu Truyền kỳ
mạn lục (bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện xuất bản năm 1940) đứng trên lập
trường nhà Nho để nhìn nhận nhân vật đã bàn về vấn đề tình yêu trong truyện. Ông
cho rằng: “Truyện 3 (Chuyện cây gạo), cũng như truyện 5 (Chuyện kỳ ngộ ở Trại
Tây), truyện 11 (Chuyện yêu quái ở Xương Giang) có ý bài xích những thói đắm
đuối trong vòng tình dục của bọn thiếu niên”. “Bọn thiếu niên” mà ông muốn nói
đến ở đây là nhân vật nam và nữ. Giáo sư Bùi Duy Tân trong bài nghiên cứu Truyền
kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán cũng cho rằng
những hành động táo bạo và phóng túng của kiểu người phụ nữ như Nhị Khanh
trong “Chuyện cây gạo”, Đào Hồng Nương, Liễu Nhu Nương trong “Chuyện kỳ ngộ
9
ở Trại Tây” là “Thật xa lạ với quan niệm lành mạnh về cuộc sống, về tình yêu nam
nữ trong truyện Nôm bình dân, trong văn nghệ dân gian. Đối với những truyện này,
Nguyễn Dữ đã có lời bình để phê phán những quan niệm đồi trụy và khẳng định lại
những giáo điều về đức hạnh, tiết nghĩa. Sự phê phán và khẳng định đó xuất phát từ
thái độ bảo thủ của Nho giáo, nhưng xét về mặt khách quan thì cũng phù hợp với
cuộc đấu tranh để giữ gìn phẩm giá con người” [26, tr. 519]. Như vậy ông vẫn
đứng trên lập trường truyền thống để thể hiện thái độ phê phán những người phụ nữ
dám chủ động đi tìm tình yêu và hạnh phúc ái ân, không sống theo chuẩn mực của
đạo đức Nho gia. Có những nhà nghiên cứu thì cho rằng việc thể hiện tình yêu gắn
với dục tính trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã thể hiện quan niệm mới về
con người của ông và đem đến cho tác phẩm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu
sắc. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Về con người cá nhân trong văn học Việt
Nam đã nhận định “Nếu nói con người trong thơ thiền Lý- Trần, thơ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên cạnh lý tưởng cao thượng là lý tưởng thoát tục, diệt dục,
thuần khiết, trong sáng, thì với Truyền kỳ mạn lục đã gặp một thế giới những con
người sống trong bể dục, tình dục” [24, tr. 616]. Đánh giá của Trần Đình
Sử nghiêng về phía ngợi ca khi ông cho rằng: “Khuynh hướng của tác giả là
khuyến thiện, trừng ác, đề cao công đức, lên án vật dục, tình dục, theo tư tưởng
Tống Nho: diệt nhân dục, tồn thiên lý. Nhưng mặt khác, cái “dục” của cá nhân tự do
trong tình yêu nam nữ, tuy không được thừa nhận trong các lời bình, nhưng lại được
miêu tả như những cuộc tình kỳ ngộ lãng mạn đáng nhớ và như thế Truyền kỳ mạn
lục là một cái mốc mới trong quan niệm về tự do cá nhân khi thể hiện “tình dục”,
“vật dục” này”. Năm 1999 cũng tiếp nhận Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục
ở góc độ thi pháp học Trần Đình Sử có nhận xét rằng: “Cái gọi là truyền kì chủ yếu
là cái kì trong tình yêu nam nữ, trong thế giới thần linh ma quỷ. Các mô típ như
người lấy tiên, người lấy ma, người có phép biến hoá, nhiều truyện đóng khung
trong một giấc mơ, một cuộc kì ngộ, một cuộc trò chuyện” [24, tr. 351]. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Phạm Hùng trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cho rằng chỉ có Truyền kỳ mạn lục mới viết nên
"những câu chuyện tình đã làm xôn xao cả cõi trần thế, cả chốn thuỷ cung, và cả nơi
thiên giới" [11, tr. 117]. PGS.TS Đinh Thị Khang trong bài So sánh chuyện tình
10
giữa Người và Hồn ma trong “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kỳ mạn lục” (Tạp
chí nghiên cứu văn học, tháng 4 năm 2007) không thể không nói rằng: “nhà văn
họ Nguyễn đã thể hiện trong sáng tác của mình một sự đồng cảm, ngợi ca tình yêu -
hạnh phúc trần thế, tự nhiên của con người, của tuổi trẻ vượt qua khỏi sự ràng
buộc của quan niệm, tập tục, đạo đức, lễ nghi phong kiến…, phản ánh một góc
nhìn mang tư tưởng nhân văn”[22, tr. 135]. PGS. TS Trần Nho Thìn cũng đã chỉ ra
hai mặt của việc thể hiện vấn đề dục tính trong tư tưởng Nguyễn Dữ: “Một mặt, tác
giả say sưa tả mối tính lãng mạn, sức mạnh mê hồn của sắc đẹp và tài thơ của Hàn
Than, nhưng mặt khác lại có ý phê phán gay gắt sự nguy hại của sắc đẹp phụ nữ đối
với nam giới”. “Phải chăng lời bình là cách tác giả che giấu ý đồ thực của mình
nhằm ca ngợi tình yêu nam nữ. Phải chẳng tác giả không lên án người phụ nữ trong
những cuộc tình này? Thật khó trả lời một chiều, đơn giản. Nhưng chỉ biết, nhân
chuyện kể về sự gian dâm của những người đàn ông mà tác giả có cố chuyển vào
truyện những diễn ngôn táo bạo về tình dục nam nữ” [36, tr. 399].
Bên cạnh những công trình của các nhà nghiên cứu, phê bình, còn có rất
nhiều các khóa luận tốt nghiệp, công trình luận văn, của sinh viên và học viên cao
học tìm hiểu về Truyền kỳ mạn lục như: tìm hiểu hình tượng nhân vật: hình tượng
nho sĩ, ma quái, người phụ nữ, hay tìm hiểu Truyền kì mạn lục trong mối quan hệ
với văn học dân gian…Như vậy Truyền kì mạn lục là tác phẩm được giới nghiên
cứu dày công đào sâu tìm hiểu một cách kĩ lưỡng trên nhiều phương diện.
2.2.2. Lan Trì kiến văn lục
Lan trì kiến văn lục của Vũ Trinh được đánh giá là một tác phẩm có vị trí
quan trọng trong tiến trình phát triển của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam - tác
phẩm tạo nên một bước chuyển biến lớn của thể loại cả về nội dung và nghệ thuật.
Đay là tập truyện tiêu biểu cho xu hướng cách tân của thời đại và cũng gây được sự
chú ý cho giới nghiên cứu.
Ở thế kỉ XIX, trong lời tựa ở đầu sách các tác giả như: Ngô Thì Hoàng, Tín
Như Thị, Trần danh Lưu có đề cập đến hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm. Tín Như Thị nhận định: “Tôi đọc sách này có được thu hoạch
sâu sắc. Truyện Ca nữ họ Nguyễn, truyện Liên Hồ quận công thương giai nhân
chẳng gặp thời, cũng là ngụ lời than tài tử số phận lạ lùng. Truyện Người đàn bà
11
trinh tiết ở Thạch Thán, truyện Người con gái trinh liệt ở Cổ Trâu, biểu dương tiết
lớn của bậc quần thoa, cũng có thể gửi gắm nỗi đau bất hạnh của kẻ trung thần. Cá,
hổ có nghĩa hiệp; gà, chó ấy thân người. Trong căn phòng nhỏ, cầm quyển sách lặng
lẽ nghĩ suy, cảm thấy tâm thần khoan khoái như trong điện Phật, ngồi nghe bậc cao
tăng thuyết pháp, sách bổ ích cho đời đâu phải nhỏ?” [44, tr.19]. Trần Danh Lưu
viết: “Sách của thầy lại là những điều tai mắt ngày nay được nghe, được thấy.
Đường đời nguy hiểm, trộm cướp đầy đường, ma ác quỷ thiêng không phải là hư
ảo. Mày râu chững chạc, thê thiếp yêu chiều, nữ biến thành nam không phải là
lạ! Truyện Ca kỹ họ Nguyễn, truyện Liên Hồ quận công thì phấn hồng tơi tả, bụi
vàng vùi thân, đọc truyện khiến người ta thương xót thở than cho người bạc
mệnh. Truyện Người đàn bà trinh tiết ở Thạch Thán, truyện Người con gái trinh
liệt ở Cổ Trâu thì nêu gương tiết nghĩa bào vệ cương thường, có thể trở thành lời
dạy luân lý hàng ngày” [44, tr. 22].
Trong bài viết “Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục trong dòng truyện truyền kì
Việt Nam” đăng trên Tạp chí văn học số 4-1994 của nhà nghiên cứu Trần Thị Băng
Thanh có khẳng định về nội dung của Lan Trì kiến văn lục “Là đề cao lòng nhân
hậu vị tha, đề cao tình yêu thuỷ chung, niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi, tình mẫu
tử thiêng liêng” [29, tr. 34].
Cũng trong Từ điển văn học (bộ mới), tác giả Nguyễn Huệ Chi cho rằng chủ
đề nổi rõ nhất của Lan Trì kiến văn lục là trình bày hiện tượng phá vỡ “khuôn phép”
của những con người thời đại. Sự phá vỡ này có thể theo chiều hướng thoái hóa,
làm cho con người tàn bạo, mất hết nhân tính… nhưng sự phá vỡ cũng theo chiều
hướng tích cực, ở đó con người thường bị đặt trong những tình huống căng thẳng,
đầy bi kịch và chính là trong cuộc vật lộn cay đắng ấy, họ đã có dịp bộc lộ những
phẩm chất cao quý, những tình cảm rất người. Tác giả khẳng định: “Trên phương
diện này, ngòi bút Vũ Trinh tỏ ra rất trân trọng, yêu mến lạ thường. Đặc biệt trong
số những con người được tác giả dành trọn niềm yêu mến thì người phụ nữ chiếm
phần lớn nên cũng có thể nói, đề tài chiếm ưu thế trong tập truyện là nói về số
phận, vẻ đẹp và sức sống của người phụ nữ” [10, tr. 2039].
12
Bên cạnh đó còn có các nhà nghiên cứu hiện đại cũng quan tâm đến Lan Trì
kiến văn lục: Nguyễn Cẩm Thuý, Nguyễn Đăng Na, Vũ Thanh… và rất nhiều luận
văn, luận án tìm hiểu nghiên cứu.
PGS. TS Nguyễn Đăng Na trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập
1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997 đề cập đến Lan Trì kiến văn lục có xu hướng của
thế sự. PGS. TS Vũ Thanh trong “Những biến đổi trong nghuyên tắc tự sự của
truyện truyền kì Việt Nam” in trong Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử,
phần 2 do Trần Đình Sử chủ biên, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008, cũng đề
cập đến đề tài thế sự trong Lan Trì kiến văn lục.
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về những tác phẩm cụ thể thuộc thể loại truyền kì, từ Truyền kì mạn lục đến Lan Trì
kiến văn lục nhưng hầu như chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể về chủ đề tình
yêu của thể loại này trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, với những đóng góp
quan trọng về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của thể loại. Số lượng
công trình khoa học hay những bài viết nghiên cứu, những luận văn, luận án tìm hiểu
về truyện truyền kì trên những phương diện khác nhau khá lớn như tìm hiểu về hình
tượng nhân vật, truyện truyền kì trong mối quan hệ với văn học dân gian… Trong khi
các bài viết nghiên cứu về chủ đề tình yêu nam nữ của thể loại này trong tiến trình
văn học trung đại Việt Nam nói riêng chưa nhiều. Vì thế, trong khuôn khổ tài liệu mà
tôi có được, tôi vô cùng trân trọng những ý kiến, đề xuất khoa học của những người
đi trước. Những tài liệu quý giá trên sẽ là những định hướng cho tôi trong việc tìm
hiểu vẻ đẹp tình yêu trong các tác phẩm mà tôi tiếp nhận được.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là việc tìm hiểu chủ đề tình yêu nam nữ
trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam, khảo sát qua hai tập truyện Truyền kì
mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là nhằm tìm hiểu chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện
truyền kì trung đại cụ thể qua những tập truyện Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn
lục để qua đó thấy được vai trò của các tác giả Nguyễn Dữ, Vũ Trinh trong việc vận
dụng sáng tạo các giá trị truyền thống và cũng thấy được sự phát triển của truyện
truyền kì trung đại Việt Nam.
13
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải các vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài: Thể loại
truyện truyền kì và chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt
nam. Nội dung và nghệ thuật của chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì
trung đại Việt Nam (qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục)
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng phối hợp
những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp loại hình học: được dùng để xem xét các tác phẩm truyền kì
dựa trên đặc điểm loại hình tự sự của văn học trung đại để từ đó thấy được đóng
góp của thể loại này đối với sự phát triển về nội dung, hình thức nghệ thuật của văn
xuôi tự sự trung đại.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để xem xét vai trò của truyền kì như
cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, bên cạnh đó còn nhằm chứng minh
truyền kì đã thể hiện rõ chủ đề tình yêu nam nữ và là một bước tiến của văn xuôi tự
sự trung đại so với những tác phẩm xuất hiện trước đó.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: trong quá trình hoàn thành luận văn,
để làm rõ cho những nhận định của mình, chúng tôi sử dụng phương pháp phân
tích những tác phẩm truyền kì cụ thể, từ đó cũng tổng hợp, khái quát lại trên cơ sở
đã phân tích để có cái nhìn khách quan, chính xác.
- Phương pháp văn học sử: chúng tôi dùng phương pháp này để tìm hiểu quá
trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam trung đại cùng quá trình phát triển của
thể loại truyền kì.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi nội dung
Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ xin tìm hiểu: Chủ đề tình yêu nam nữ
trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam (khảo sát qua Truyền kì mạn lục, Lan trì
kiến văn lục).
5.2. Phạm vi tư liệu
Luận văn tập trung vào hai tập truyện Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn
lục cụ thể khảo sát khoảng 10 truyện liên quan đến đề tài trong hai tập truyện.
Ngoài ra chúng tôi còn tìm hiểu một số tài liệu có liên quan đến truyện truyền kì
14
trung đại Việt Nam như: bối cảnh lịch sử xã hội, cuộc đời sự nghiệp của các tác giả,
những tư tưởng ảnh hưởng đến tác phẩm, thể loại truyện truyền kì, các tập truyện
truyền kì trung đại Việt Nam
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo gồm có 3 chương:
Chương 1: Thể loại truyền kì và chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền
kì trung đại Việt Nam
Chương 2: Nội dung phản ánh chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền
kì trung đại (qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục)
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì
trung đại (qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục) trên phương diện nghệ thuật
7. Đóng góp của luận văn
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm truyền kì tiêu biểu như:
Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả hay Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục…
nhưng hầu như chưa có công trình nghiên cứu về chủ đề tình yêu nam nữ. Với luận văn
này, người viết mong muốn góp một cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về thể loại
này trong việc đánh giá giá trị nội dung, nghệ thuật của thể loại đối với sự phát triển
của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Hiểu thêm về nội dung
của thể loại truyền kì sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu, phân tích từng tác phẩm cụ thể của
thể loại, đồng thời hiểu thêm về lịch sử phát triển của văn học dân tộc, ảnh hưởng qua
lại giữa các bộ phận văn học (văn học dân gian và văn học viết).
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống chủ đề tình
yêu nam nữ, một trong những chủ đề tiêu biểu và cơ bản của truyện truyền kì Việt
Nam trung đại qua hai tác phẩm tiêu biểu: Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn
lục. Người viết sẽ chỉ ra những giá trị nội dung và nghệ thuật trong các truyện
truyền kì trung đại Việt Nam thể hiện chủ đề tình yêu nam nữ, từ đó góp phần
khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của thể loại và những đóng góp của truyện
truyền kỳ vào sự phát triển của văn học dân tộc. Đó là một dịp để người viết rèn
luyện khả năng thao tác nghiên cứu khoa học, cũng là cơ hội để người viết mở rộng
thêm kiến thức, khả năng cảm thụ, phân tích, bình giá văn chương của bản thân.
15
Chương 1
THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ VÀ CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU NAM NỮ
TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Thể loại truyện truyền kì và chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền
kì trung đại
1.1.1. Sơ lược về truyện truyền kì
Trong văn học Việt Nam trung đại, văn xuôi nghệ thuật xuất hiện muộn hơn
so với thơ phú và các thể loại văn học chức năng khác. Sự hình thành và phát triển
của văn xuôi thể hiện sự trưởng thành của tư duy nghệ thuật, là bước tiến lớn của
văn học dân tộc. Truyện truyền kì chính là một trong những thể loại quan trọng nhất
của văn xuôi trung đại, những thành tựu nghệ thuật của thể truyện này đã góp phần
làm nên diện mạo cơ bản của bộ phận văn xuôi tự sự.
1.1.1.1. Khái niệm truyện truyền kì
Truyện truyền kì có nguồn gốc từ truyện kể dân gian Trung Quốc, sau đó
được các tác giả ghi chép lại, nâng cao thành một thể loại văn học. Từ điển thuật
ngữ văn học định nghĩa truyền kì là “thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung
Quốc thịnh hành ở thời Đường (…) Kì có nghĩa là không có thực, nhấn mạnh tính
chất hư cấu”. Các tác giả Từ điển văn học (bộ mới) giới thuyết về khái niệm này
đầy đủ, chi tiết hơn: “Một hình thức văn xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ truyện
kể dân gian, sau các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng các
môtip kì quái, hoang đường lồng vào trong cốt truyện có ý nghĩa trần thế (…) Tuy
nhiên trong truyện bao giờ cũng có nhân vật là người thật và chính nhân vật mang
hình thức phi nhân thì cũng chỉ là sự cách điệu, phóng đại của tâm lí, tính cách một
loại người nào đấy, và vì thế truyện truyền kì mang đậm yếu tố nhân bản, có giá trị
nhân bản sâu sắc” [10, tr. 447]. Như vậy, định nghĩa về thể loại này khá thống nhất.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất truyền kì là một thể loại văn xuôi tự
sự thời trung đại được đặc trưng bởi tính chất hư cấu, kì lạ trong nhân vật, cốt
truyện, nhằm phản ánh hiện thực.
16
Truyện truyền kì không chỉ là đặc sản riêng trong văn xuôi tự sự Việt Nam
mà còn phát triển ở toàn bộ vùng văn học Đông Á. Nói đến truyện kì ảo Đông Á,
trước tiên, phải nói đến truyện kì ảo trong văn học Trung Quốc - trung tâm văn hóa
có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài nhất đến văn học của các nước trong khu vực.
Lịch sử truyện kì ảo Trung Quốc chia làm các thời kì: truyện chí quái thời Lục triều,
truyện truyền kì thời Đường - Tống, truyện chí dị thời Minh - Thanh. Chí dị, thực ra
là giai đoạn tiếp theo của truyền kì. Truyền kì đạt được thành tựu rực rỡ vào đời
Đường. Cách xây dựng nhân vật, tình tiết, ngôn ngữ đều có những khai phá và sáng
tạo. Hồng Mại (đời Tống) đã đánh giá truyền kì đời Đường là “kì diệu một thời”.
Thời kì Minh - Thanh cũng là một trong những giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm
của truyền kì, chí dị, trong đó nổi bật hai tên tuổi lớn là Cù Hựu - tác giả Tiễn đăng
tân thoại và Bồ Tùng Linh - tác giả Liêu trai chí dị.
Hơn mười thế kỉ hình thành và phát triển, truyện truyền kì Trung Quốc đã để
lại những thành tựu rực rỡ và có sức ảnh hưởng lớn đến nền văn học của các nước
đồng văn trong khu vực. Trong đó, tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu có
sức lan tỏa mạnh nhất, rõ rệt nhất, thúc đẩy sự ra đời các tập truyện truyền kì ở ba
nước Đông Á còn lại như Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (1435 - 1493,
Triều Tiên), Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (đầu thế kỉ XVI, Việt Nam), Già tỳ
tử của Asai Ryohi (1612 - 1691, Nhật Bản). Kim Ngao tân thoại, hoàn thành vào
khoảng giữa thế kỉ XV, là tiểu thuyết Hán văn đầu tiên của Hàn Quốc, có giá trị cao
trong văn học cổ điển nước này. Già tỳ tử cũng có một vị trí quan trọng trong văn
học Nhật Bản, dù không phải là truyện thần quái đầu tiên, nhưng là tác phẩm điển
hình theo kiểu truyện truyền kì của Nhật.
1.1.1.2. Đặc trưng thể loại
Đặc trưng quan trọng nhất của truyền kì là sự kết hợp yếu tố kì và thực. Cái
kì là một phạm trù mĩ học, đặc trưng tư duy của người phương Đông và là thế giới
quan thời kì cổ trung đại. Không phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm nổi tiếng, tiêu
biểu của phương Đông đều chứa đựng nhiều cái kì (“vô kì bất truyền”). Cái kì trong
truyện truyền kì đã phát triển từ thụ động đến tự ý thức: từ ảnh hưởng của văn học
dân gian, sử kí, tôn giáo đến việc được nhà văn sử dụng như một thủ pháp nghệ
17
thuật, một hạt nhân tự sự quan trọng trong kết cấu tác phẩm. Kết hợp chặt chẽ
với cái kì trong hạt nhân của thể loại là cái thực và xu thế phát triển tất yếu của
truyền kì là gia tăng yếu tố thực. Tuy nhiên, cái kì không mất đi mà hòa quyện
chặt chẽ với cái thực trong một kết cấu thống nhất làm nên đặc trưng của thể
loại. Nếu thiếu cái kì, truyện dễ trở thành truyện kí; thiếu cái thực, truyện truyền
kì không thể vượt thoát khỏi giới hạn của chí quái. Vai trò của yếu tố kì và thực
trong hạt nhân cơ bản của truyện sẽ biến đổi và có những đặc điểm riêng qua
từng giai đoạn phát triển của thể loại.
Đặc trưng thứ hai của truyền kì, với tư cách một thể loại văn học nghệ thuật
là sự kết hợp nhiều thể loại văn chương. Trong tác phẩm bên cạnh các thể văn xuôi
còn bao gồm văn vần, thơ, từ, phú, lục… tạo nên một chỉnh thể thẩm mĩ “hàng
hàng châu ngọc, lời lời gấm thêu”. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử khái quát: “truyện
truyền kì dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả cảnh, tả tình thì dùng văn biền ngẫu, khi
nhân vật bộc lộ cảm xúc thì thường làm thơ” [24, tr.294].
Một truyện truyền kì thường có dung lượng không lớn. Vì vậy PGS.TS
Nguyễn Đăng Na xếp truyền kì vào thể loại truyện ngắn. Bố cục mỗi truyện thường
chia thành ba phần: mở đầu giới thiệu danh tính, nguồn gốc nhân vật, giữa truyện kể
lại hành trạng, cuộc đời nhân vật và phần kết khẳng định tính chân thực của câu
chuyện. Phần lời bình nằm cuối mỗi truyện cũng được xem là một bộ phận hữu cơ
trong kết cấu chỉnh thể của thể loại.
1.1.2. Chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm: chủ đề, tình yêu, tình yêu nam nữ
Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài.
Nói cách khác, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu
lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất. Chủ đề tác phẩm nói lên
chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt những vấn đề của cuộc sống. Từ những đề tài
cụ thể, bình thường, tác giả có thể nêu lên những chủ đề có tính khái quát to lớn và
sâu sắc, cùng với tư tưởng tạo ra tầm vóc của tác phẩm. Một tác phẩm có thể có
nhiều chủ đề, nhưng thường có chủ đề chính và chủ đề phụ. Chủ đề chính là vấn đề
bao quát nhất, chủ yếu nhất, chủ đề phụ là những vấn đề nhỏ và có liên quan tới chủ
18
đề chính. Phân biệt chủ đề chính phụ đôi khi rất khó, cũng như xác định chủ đề vời
người mới cầm bút và bạn đọc nhiều khi lúng túng, nhất là đối với thơ ca do bản
năng cảm xúc, không xác định trước, nghĩ đến đâu làm đến đấy. Nếu không xác
định chủ đề trước dễ dẫn tới lan man và không kết thúc được.
Tình yêu là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lý, và thái độ khác nhau dao
động từ tình cảm cá nhân ("Tôi yêu mẹ tôi") đến niềm vui sướng ("Tôi thích món ăn").
Tình yêu thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn được ràng buộc
gắn bó. Nó cũng có thể là một đức tính đại diện cho lòng tốt của con người, sự nhân
từ và sự thông cảm "mối quan tâm trung thành và vị tha hướng tới người khác". Nó
cũng có thể mô tả các hành động nhân văn và thông cảm đối với người khác, chính
bản thân mình hoặc các con vật. Từ "tình yêu" có thể có nhiều ý nghĩa liên quan
nhưng khác biệt trong các bối cảnh khác nhau. Nhiều ngôn ngữ khác sử dụng nhiều
từ ngữ để diễn tả một số khái niệm khác nhau của "tình yêu"; một ví dụ là có 4 từ
Hy Lạp cho "tình yêu" (storge, philia, eros, agape). Khác biệt trong khái niệm tình
yêu của các nền văn hóa khác nhau dẫn đến việc thành lập một định nghĩa phổ quát
cho tình yêu là rất khó khăn. Tính chất phức tạp và trừu tượng của tình yêu thường
tạo ra các thành ngữ về tình yêu ở đó tình yêu vượt trên mọi cảm xúc khác. Dẫn
chứng là một số câu tục ngữ thông thường về tình yêu, từ "Tình yêu sẽ chiến thắng
tất cả" của Virgil đến "Tất cả thứ bạn cần là tình yêu" của Beatles. Thánh Thomas
Aquinas, sau Aristotle, định nghĩa tình yêu là "tạo ra điều tốt lành cho người
khác." Bertrand Russell mô tả tình yêu như một điều kiện "có giá trị tuyệt đối", trái
ngược với giá trị tương đối. Nhà triết học Gottfried Leibniz nói tình yêu là "vui
mừng vì hạnh phúc của người khác". Nhà sinh học Jeremy Griffith định nghĩa tình
yêu là "lòng vị tha vô điều kiện". Tình yêu là sự rung cảm và quyến luyến sâu sắc
giữa hai người khác giới. Ở họ có sự phù hợp về nhiều mặt… làm cho họ có nhu
cầu gần gũi, gắn bó với nhau, tự nguyện sống vì nhau và sẵn sàng hiến dâng cho
nhau cuộc sống của mình. Tình yêu thật sự không phải là cảm xúc, dù nó thường
đến cùng những cảm xúc mạnh đến mức làm con người choáng ngợp. Sự hiểu biết
lẫn nhau mới là nền tảng của tình yêu thật sự. Tình yêu cũng như một loại cây xanh,
nếu ta không biết cách chăm sóc dưỡng nuôi, hoặc thừa hoặc thiếu, thì nó sẽ héo tàn
và lụi bại. Tình yêu là tình cảm sâu sắc, đáng trân trọng của cá nhân, tuy nhiên
19
không nên cho rằng đó hoàn toàn là việc riêng tư của mỗi người. Tình yêu luôn
mang tính xã hội. Trước hết, tình yêu được bắt nguồn và bị chi phối bởi những quan
niệm, kinh nghiệm sống của những người yêu nhau (mà những quan niệm, kinh
nghiệm này lại phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà cá nhân đang sống, vào vị trí xã
hội và đặc điểm của thời đại…). Mặc khác, tình yêu luôn luôn đặt ra những vấn đề
mà xã hội cần phải quan tâm, chăm lo cho việc kết hôn, xây dựng gia đình hạnh
phúc, tiến bộ. Tình yêu là một khái niệm đa nghĩa trong cách diễn đạt và cách hiểu
của mọi người, nhưng theo nghĩa chung nhất, tình yêu là trạng thái tình cảm của chủ
thể này đối với một chủ thể khác ở mức cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý
muốn được gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay mức độ nhất định. Ai trong
chúng ta cũng có tình yêu, từ một đứa trẻ lớn lên biết yêu cha mẹ, anh chị em cho
tới những tình cảm thiêng liêng như yêu quê hương đất nước, từ những tình yêu trai
gái thơ mộng cho tới những cảm xúc mãnh liệt trước thiên nhiên hay đồng loại.
Vậy, tình yêu đôi lứa là gì ? Có lẽ tình yêu là điều không thể định nghĩa một cách
chính xác, nhưng đó là một thứ cảm xúc tuyệt vời và không thể so sánh, nó tạo nên
sức mạnh to lớn cả vô hình lẫn hữu hình và suốt cuộc đời này, trên khắp thế gian
này chúng ta luôn luôn được chứng kiến nó. Shakespeare nói tình yêu của các chàng
trai không nằm ở phía tim mà ở đôi mắt. Ông bà ta cũng từng dạy “con trai yêu
bằng mắt, con gái yêu bằng tai”. Tình yêu vì thế được bắt nguồn từ những cái nhìn.
Khi người ta yêu nhau, họ luôn muốn mình trở nên đẹp hơn trong mắt người mà họ
yêu, đặc biệt là các cô gái. Họ thường chăm chút và làm đẹp hơn cho chính mình.
Yêu là khi bạn lấy đi tất cả mọi đam mê, cuồng nhiệt, lãng mạn mà cuối cùng bạn
vẫn biết rằng mình vẫn luôn nhớ về người đó. Tình yêu luôn đi đôi với nỗi nhớ. Yêu
là phải biết hi sinh vì tình yêu của mình. Sự hi sinh ở đây có thể hiểu là quan tâm
chia sẻ những khó khăn, có thể là đối mặt với mọi thử thách, mọi thế lực muốn ngăn
trở tình yêu. Yêu có nghĩa là đối xử với một ai đó tốt hơn tất cả mọi người, tốt hơn
với cả chính bản thân mình. Nói tóm lại, tình yêu là tình cảm thiêng liêng và khó
định nghĩa. Tình yêu vừa xuất phát từ bản năng con người lại vừa là kết quả của sự
gặp gỡ giữa hai tâm hồn đồng điệu, cùng gắn bó, thương yêu, vượt qua mọi khó
khăn để đi đến hôn nhân hạnh phúc.
20
Tình yêu nam nữ: Tình yêu giữa hai giới tính nam và nữ (hoặc giữa những
người cùng giới) được định nghĩa là "Hệ quả của sự kết hợp giữa bản năng và trí tuệ
của con người". Định nghĩa trên hình thành từ khái niệm "bản năng con người" và
"trí tuệ con người". Theo triết học: tình yêu là một loại tình cảm giữa người và
người, hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ. Bản năng con người được nhìn nhận
trong đây là những hành động suy nghĩ sẵn có từ trong tự nhiên trong đó có việc
giao cấu để duy trì nòi giống (giữa hai giống đực và cái), việc tụ tập số đông - kết
hợp nhiều cá thể để đạt mục đích sinh tồn...Trong xã hội loài người phát triển, với
bộ óc thông minh, hay trong đây gọi là "trí tuệ" cho phép con người không chỉ dừng
lại ở việc kết hợp cá thể hay giao cấu đơn thuần như ở động vật mà còn hình thành
vô số những biểu hiện quan tâm, chăm sóc, bảo vệ... lẫn nhau. Từ hai yếu tố trên,
tình yêu trở thành điều tất yếu trong xã hội và hơn nữa, sự kết hợp của trí tuệ làm
cho những biểu thái của tình yêu đa dạng thậm chí kỳ lạ, khiến nhiều người cảm
thấy rất khó để có thể có một cơ sở chắc chắn khi nói về tình yêu giới tính.
1.1.2.2. Cơ sở lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học hình thành chủ đề tình yêu nam nữ
trong truyện truyền kì trung đại
Trong quá trình hình thành và phát triển đất nước ta đã chịu ảnh hưởng của
nhiều luồng tư tưởng triết học, tôn giáo như: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo…Tuy
nhiên cùng với dòng chảy của thời gian và sự sàng lọc văn hóa trên tinh thần tiếp
thu một cách có chọn lọc phù hợp với nhận thức của dân tộc thì Nho giáo là hệ tư
tưởng có sức ảnh hưởng sâu sắc nhất đến tư tưởng văn hoá Việt Nam. Nho giáo đã
trị vì và thống lĩnh tư tưởng chính trị và học thuật của Việt Nam trong khoảng thời
gian dài thậm chí cho đến ngày nay vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ.
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật
ngữ bắt đầu từ chữ “Nho”, theo Hán tự từ "nho" gồm từ "nhân" (người) đứng gần
chữ "nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể
dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý…Nhìn chung "Nho" là một danh
hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa. Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ
thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của
Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ 4, Nho giáo lan rộng và cũng rất
phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
21
Theo Nho giáo, trong xã hội có 5 mối quan hệ cơ bản là: vua - tôi, cha - con,
vợ - chồng, anh - em, bạn bè. Để thực hiện tốt 5 mối quan hệ này cần có 3 đức tính:
trí, dũng, nhân. Trong các mối quan hệ xã hội, con người phải đối xử tốt với người
khác, "mình không muốn bị người khác đối xử thế nào thì cũng không nên đối xử
với người khác như vậy. Người chỉ biết làm việc vì lợi ích của mình nhất định sẽ
chuốc lấy nhiều oán hận” [16, tr.30]. Nhân chi sơ, tính bổn thiện vì vậy mỗi người
hãy đối nhân xử thế phù hợp với tính thiện trời ban cho mình, xử thế phải hết sức
cẩn thận, chu toàn, thành thật. Trong quan hệ vua tôi, Khổng Tử chủ trương "Vua sử
dụng bề tôi phải theo lễ, bề tôi phụng thờ vua phải theo trung"[16, tr.33]. Nho giáo
đề cao sự trung thành đối với nhà nước quân chủ vì đó là nhân tố góp phần vào sự
ổn định của xã hội. Khổng Tử nói "... Vua Vũ vương được hai phần ba thiên hạ, vẫn
giữ khí tiết của một trung thần phụng thờ triều Ân. Đức của vua Vũ vương có thể
nói là đức cao quý nhất "[16, tr.34]. Trong mọi hoàn cảnh, con người cần kiềm chế
cảm xúc, làm chủ bản thân, không biểu hiện cảm xúc ra ngoài một cách thái quá, đó
gọi là trung hòa. Biết trung hòa cảm xúc thì con người ta mới cư xử đúng mực.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Tây Hán (Khoảng 100 năm TCN).
Giai đoạn đầu Nho giáo được đưa vào nước ta do các quan lại phương Bắc muốn
đào tạo một đội ngũ quan lại của địa phương. Đến thế kỉ X đất nước thoát khỏi ách
đô hộ của phương Bắc tiến hành xây dựng nhà nước theo chế độ phong kiến giống
Trung Quốc, buổi đầu dựng nước tư tưởng triết học Phật giáo chiếm vị trí hàng đầu,
tầng lớp ảnh hưởng mạnh mẽ là các nhà sư. Đến thời Trần Nho giáo lại được đề cao
trong bộ máy chính trị nhà nước. Cuối thế kỉ XIV Nho giáo chiếm ưu thế và hưng
thịnh vào thời Lê, đặc biệt thời vua Lê Thánh Tông Nho giáo đã trở thành “quốc
giáo” Nho giáo dần tiến đến nắm giữ vị trí chủ đạo trong sinh hoạt tư tưởng tại Việt
Nam. Thời kỳ chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, Nho giáo không ngừng
củng cố và phát triển cho đến vào giữa thế kỷ XIX. Từ trong lòng xã hội phong
kiến, khi mà quan điểm Nho giáo đang thống soái với những gọng kìm tàn bạo siết
chặt số phận người phụ nữ thì nhiều nhà văn như: Nguyễn Dữ, Vũ Trinh, Nguyễn
Du đứng trên lập trường của chủ nghĩa nhân văn, tiến bộ đã xác quyết khả năng phi
thường của con người trên hành trình đi tìm giá trị bản thể.
22
Ngày xưa do lễ giáo phong kiến, chế độ hà khắc mà nam nữ có yêu nhau
không thể chủ động đến với nhau, “nam nữ thụ thụ bất thân”. Họ dù có yêu nhau
đến mấy nếu gia đình hai bên không đồng ý càng không thể đến với nhau. Rồi dần
dần khi quan hệ nam nữ được công khai thì vấn đề lại ở chỗ nam phải là người chủ
động, không có thói ngược đời "Cọc đi tìm Trâu" bao giờ. Còn con gái thì phải ý tứ,
e lệ, tránh bộc lộ quá nhiều quá rõ tình cảm của mình, con gái phải "kiêu" mới có
"giá". Trong xã hội phong kiến xưa, nói về tình yêu nam nữ thì thường người phụ
nữ vốn phải chịu rất nhiều những bất công, không chỉ bởi những định kiến ngặt
nghèo của xã hội về người phụ nữ như đạo Tam tòng (Tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử” cũng như quan niệm về công - dung - ngôn - hạnh ở người
phụ nữ. Nếu không theo những quy chuẩn đó thì sẽ bị xã hội lên án. Vì vậy mà thân
phận của người phụ nữ thường phải chịu rất nhiều bất công bởi những định kiến
khắt khe đó. Một trong những vấn đề mà người phụ nữ phong kiến gặp phải trong
hôn nhân, tình yêu nữa là vấn đề muôn đăng hậu đối. Và thông thường, những
người phụ nữ xưa không được lựa chọn người yêu, đối tượng hôn nhân cho mình
mà hoàn toàn phụ thuộc vào bố mẹ theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
Qua khảo sát chúng tôi thấy tình yêu trong trong thể loại truyền kì được các
nhà nghiên cứu, phê bình thường luận giải từ hệ hình tư duy của triết học phương
Đông như: Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo... hay từ triết học phương Tây như phân
tâm học, hiện sinh, xã hội học... Tuy được khám phá từ nhiều góc nhìn như thế nhưng
tình yêu mãi mãi vẫn là một ẩn ngữ. Đúng như Trần Bích Lan đã viết: “Những tác
phẩm vĩ đại của lịch sử văn học thế giới vốn có một ma lực, một nam châm hút sắt.
Đứng trước một trái núi kinh dị, con người luôn bị thúc đẩy bởi ước vọng đặt lộ khai
thông…nhưng đường đi có được khai thác đến trăm nghìn, vẻ hoang vu vẫn còn
nguyên trong rừng thẳm. Con người có thể đập vỡ dăm ba tảng đá bé mọn nhưng
thạch bàn thì không bao giờ có thể bị thay đổi, di chuyển” [dẫn theo 1].
Với việc tự do lựa chọn và chủ động kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc đích thực
cho cuộc đời mình, nhân vật trong truyện truyền kì đã đạt đến tự do với tư cách là
một chủ thể đích thực chứ không phải như là tha nhân trong mối quan hệ với nam
giới. Từ những lưu luyến của phút giây gặp gỡ, những đôi lứa yêu nhau tìm đến
23
nhau để giãi bày tình cảm, gắn kết với nhau. Sức mạnh tình yêu khiến họ vượt qua
bức tường rào của luật lệ phong kiến nghiêm cấm con người đến với nhau nếu
không có sự cho phép hoặc định trước của gia đình, xã hội. Qua các truyện truyền kì
về tình yêu nam nữ, ta luôn thấy hình ảnh những đôi lứa yêu nhau chủ động tìm đến
nhau chân thành, tự nhiên như không gì ngăn được bước chân họ. Họ tìm đến gặp
gỡ, bày tỏ tình cảm, thề nguyền đính ước cùng nhau, tất cả đều hoàn toàn chủ động.
Bên cạnh sự chủ động tự tìm đến nhau để giãi bày tình cảm, đôi lứa khi yêu còn chủ
động nhờ người bắc cầu mai mối để đến với nhau. Một trong những điều đáng trân
trọng nhất ở đôi lứa khi yêu là sự chủ động giúp đỡ, che chở cho người mình yêu để
họ được hạnh phúc. Chủ động đi tìm chồng, vượt bể trèo non…cũng cho ta thấy
được sự chủ động trong tình yêu để đến với hạnh phúc. Cảm hứng ngợi ca tình yêu
có thể thấy rõ qua cách các tác giả xây dựng hình tượng nhân vật hết sức chủ động
trong việc tự tìm kiếm, tiếp xúc và lựa chọn người thương cho chính mình.
1.2. Sơ lược về Truyền kì mạn lục và Lan trì kiến văn lục trong tiến trình phát
triển của truyền kì trung đại Việt Nam
1.2.1. Truyền kì mạn lục
1.2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa
Cho đến nay các nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Dữ sáng tác Truyền kì
mạn lục vào khoảng đầu thế kỉ XVI. Giai đoạn này chế độ phong kiến Việt Nam đã
có những dấu hiệu suy thoái, khủng hoảng. Thời kì thịnh trị nhất của chế độ phong
kiến Việt Nam có lẽ là thời kì Lê sơ mà đỉnh cao là giai đoạn trị vì của vua Lê
Thánh Tông. Sau Lê Thánh Tông các ông vua nối ngôi của triều Lê đều là những
ông vua bất tài, không màng chính sự, tệ hơn là lao vào ăn chơi với lối sống xa hoa
dâm đãng tàn ác. Lê Hiến Tông (1497-1504) là ông vua cuối cùng giữ được thành
tựu của các tiên đế nhưng cũng vì ham mê nữ sắc quá nhiều mà chết sớm. Lê Uy
Mục (1505-1509) từ lúc lên ngôi ham rượu chè, gái đẹp thích giết người: giết tổ
mẫu, công thần, người tôn thất, người vô tội….Họ ngoài chuyên cậy quyền thế, tàn
bạo vô độ làm cho trăm họ oán giận, người đời gọi là Quỷ vương. Lê Tương Dực
(1510-1516) tiếp vị còn sa đoạ gấp bội, năm 1513 chánh sưa nhà Minh sang phong
vương Tương Dực đã nhận xét: “Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lệch,
24
tính thích dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không bao lâu” [8, tr. 117]. Trong khoảng
một thời gian ngắn (1504-1527) mà có đến 6 đời vua kế vị. Họ ngồi trên ngai vàng
nhưng công việc triều chính ngày càng rối ren, cương thường đảo lộn, phong hoá
suy đồi. Chính vì các ông vua không đảm nhiệm được vai trò chức trách của mình
mà tệ hơn còn ăn chơi xa xỉ, tàn bạo vô luân nên đã tạo điều kiện cho cái xấu phát
triển. Trong triều các bè phái tranh giành quyền lực gây ra chiến tranh phong kiến,
cát cứ khiến cho nhân dân lầm than điêu đứng. Xã hội nảy sinh nhiều mâu thuẫn
trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa nội bộ giai cấp thống trị và mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị với nhân dân. Từ đó xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa
của nông dân như cuộc khởi nghĩa của Trần Tuân (1511), Nguyễn Nghiêm (1512),
Phùng Chương (1515), Trần Cảo (1516-1521)…Nhưng các cuộc khởi nghĩa này chỉ
là những bộc phát nhỏ lẻ chứ chưa phát triển mạnh mẽ thành cao trào như ở thế kỉ
XVIII. Ở giai đoạn này chủ yếu là các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong
kiến, sự tranh giành quyền lợi giữa an hem nhà vua, giữa triều thần với nhau, giữa
triều thần với vua… Chiến tranh diễn ra liên miên khiến cho kinh tế kiệt quệ, nhân
dân rơi vào thế bần cùng nheo nhóc. Từ tình hình lịch sử như vậy đã dẫn đến sự
thay đổi trong hệ tư tưởng của con người trong xã hội. Những người tri thức có tâm
huyết thất vọng trước thời cuộc lui về ở ẩn với quan điểm sống “lánh đục về trong”
và Nguyễn Dữ là trí thức tiêu biểu.
Xã hội loạn lạc nhưng văn học vẫn tiếp tục phát triển. Văn học giai đoạn trước
chủ yếu bàn đến những vấn đề quốc gia đại sự thì đến giai đoạn này các nhà văn bắt
đầu quan tâm nhiều đến số phận của con người trong xã hội, đặc biệt là số phận của
những con người nhỏ bé bị trà đạp, áp bức. Văn học không chỉ dừng lại ở việc nói
đạo, nói chí mà đã nói lên những khát vọng của con người về tình yêu, hạnh phúc. Có
thể nói chủ nghĩa nhân đạo trong văn học đã bắt đầu manh nha là tiền đề cho sự phát
triển của văn học theo khuynh hướng nhân đạo chủ nghĩa sau này.
1.2.1.2. Về tác giả, tác phẩm
Nguyễn Dữ người xã Đường Lâm, huyện Gia Phúc, Hồng Châu, nay là xã
Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Chưa rõ ông sinh và mất năm nào,
chỉ biết ông là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu
25
Hồng Đức thứ 27 (1496). Nguyễn Tường Phiêu sau khi thi đỗ được trao chức Thừa
chánh sứ và khi mất được phong chức Thượng thư. Từ những tư liệu ít ỏi này, một
số nhà nghiên cứu cho rằng: Nguyễn Dữ có khả năng sinh vào cuối thế kỉ XV, sống
và sáng tác chủ yếu vào nửa đầu thế kỉ XVI. Và một điều cũng có thể suy đoán
rằng: nhà văn chắc có một thời gian dài được sống cùng cha ở chốn kinh đô, được
chứng kiến nhiều bước thăng trầm của xã hội và con người nơi đây. Đây sẽ là vốn
sống hết sức quan trọng cho những sáng tác xuất chúng của ông khi về ẩn cư.
Theo Hà Thiện Hán, tác giả bài “Tựa” cuốn Truyền kì mạn lục in năm 1547,
thì Nguyễn Dữ lúc nhỏ rất chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lí tưởng lấy
văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi hội nhiều lần,
đạt trúng trường và từng giữ chức Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Phú
Thọ), nhưng chỉ được một năm thì xin từ quan về phụng dưỡng mẹ già. Trải mấy
năm dư không hề đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập Truyền kì mạn
lục để “ngụ ý” cảm than về thời cuộc. Lê Quý Đôn trong sách Kiến văn tiểu lục còn
cho biết thêm: “Vì nguỵ Mạc cướp ngôi, ông thề không ra làm quan,ở thôn quê dạy
học trò, không bao giờ đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền kì mạn lục…”. Căn
cứ vào ghi chép của các tác giả trên thì Nguyễn Dữ từ quan về ẩn dật chủ yếu là do
bất mãn với kẻ cầm quyền, đặc biệt với hành động tiếm ngôi của Mạc Đăng Dung
(1527), tâm trạng này được ông thể hiện rõ trong nhiều truyện của Truyền kì mạn
lục. Qua đó cũng có thể thấy, nhiều khả năng ông là người cùng thời với Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Giữa hai người, chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học
thuật…nhưng e rằng Nguyễn Dữ khó có thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như
Vũ Phương Đề đã ghi trong Công dư tiệp kí và cũng ít khả năng Truyền kì mạn lục
phải nhờ Trạng Trình “phần nhiều phủ chính” mới trở thành một “thiên cổ kì bút”,
bởi Nguyễn Dữ có thể bằng hoặc nhiều tuổi hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm và chắc chắn
đỗ đạt và ra làm quan trước. Mặt khác, thái độ của hai ông đối với chính thể đương
thời, cụ thể đối với nhà Mạc là khá khác nhau. Nguyễn Dữ đỗ đạt và từng làm quan
dưới triều Hậu Lê, nhưng chắc chắn không làm quan dưới thời nhà Mạc và có thái
độ chống đối tân triều quyết liệt, còn Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguyên dưới
triều Mạc, chịu ơn vua Mạc, làm quan một thời gian và có thái độ ủng hộ tích cực
đối với triều đại này.
26
Nguyễn Dữ không chọn quê hương, chốn mình sinh ra làm nơi ẩn dật như
bao danh sĩ khác. Có lẽ lúc đó Hải Dương đang là chiến trường của nhiều cuộc giao
tranh, cũng là đất “phên dậu” của nhà mạc. Ông tìm đến ẩn mình nơi núi rừng
Thanh Hoá xa xôi và yên tĩnh. Phải chăng đây là quê ngoại nơi ông trở về phụng
dưỡng mẹ già? Nhà nho ẩn dật Nguyễn Dữ tỏ ra hết sức gắn bó và am hiểu chốn
lâm tuyền này, và nơi đây cũng trở thành không gian cho nhiều tác phẩm của ông.
Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Nguyễn Dữ còn để lại duy nhất
một tập truyện xuôi chữ Hán Truyền kì mạn lục. Có thể Nguyễn Dữ đã sáng tác
Truyền kì mạn lục trong nhiều giai đoạn cuộc đời, nhưng chắc chắn tác phẩm đã
được hoàn thiện trong thời gian ông cáo quan về phụ dưỡng mẹ già, sau thời điểm
Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê và sau khi đã tiếp xúc với tập truyền kì Tiễn
đăng tân thoại của nhà văn Trung Quốc Cù Hựu (1347 -1433). Thể loại truyện
truyền kì với những đặc trưng nghệ thuật mang giá trị ẩn dụ “ngụ ý”, kì, thực “lẫn
lộn” hết sức phù hợp với việc thể hiện thái độ bất bình cô phẫn của những nho sĩ ẩn
dật như Nguyễn Dữ đối với tình hình xã hội loạn lạc và thể chế đương thời . Truyền
kì cũng rất phù hợp với việc nêu lên những bài học đạo đức - một trong những
nhiệm vụ cấp thiết mà Nguyễn Dữ đặt ra cho tác phẩm của mình - trong bối cảnh
một xả hội loạn lạc như giai đoạn đầu thế kỉ XVI.
Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển. Trong truyện có xen
những bài thơ, ca, từ, biền văn; trừ truyện số 19 “Cuộc nói truyện thơ ở Kim Hoa”
còn lại cuối mỗi truyện đều có “lời bình” thể hiện chính kiến của tác giả. Trong đó
nhà văn không bình về nghệ thuật văn chương, mà chủ yếu bàn về nội dung, ý nghĩa
đạo đức của truyện. Hiện nay, bản sớm nhất còn lại của tác phẩm là Cựu biên
Truyền kì mạn lục in năm Vĩnh Thịnh 8 (1712) trong đó có lời “Tựa” của Hà Thiện
Hán (viết 1547). Văn bản này hiện được lưu giữ tại Đông Dương văn khố Nhật Bản,
được in lại và phổ biến trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư
cục xuất bản năm 1987.
Hầu hết truyện trong Truyền kì mạn lục đều lấy bối cảnh ở các thời Lí, Trần,
Hổ, thuộc Minh, Lê Sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Cốt truyện chủ yếu
có nguồn gốc từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian nhưng đã được cải tạo
27
biên để phục vụ cho mục đích của người viết, cũng có nhiều truyện do tác giả sáng
tác, hư cấu, hoặc vay mượn tình tiết từ truyền kì đời Đường, đời Minh. Tuy nhiên,
phần sáng tạo của Nguyễn Dữ là hết sức lớn, thể hiện tài năng của tác giả cũng như
vị trí và giá trị nghệ thuật lớn lao của Truyền kì mạn lục không chỉ trong sự phát
triển của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam mà cho cả sự phát triển của thể loại truyện
Truyền kì khu vực Đông Á .
Truyền kì mạn lục ngay từ khi mới xuất hiện đã được đón nhận. Hà Thiện
Hán, người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi (người Mộ Trạch, Đường An,
Hải Dương, đỗ tiến sĩ đời Mạc Đăng Doanh, sống cùng thời với Nguyễn Dữ) theo
Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp kí, đã dịch ra văn nôm tác phẩm này. Về sau
nhiều học giả tên tuổi đều nghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá cao tác phẩm của
ông. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục ca ngợi Truyền kì mạn lục có “văn từ
thanh lệ”, Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp kí gọi đó là “thiên cổ kì bút”, còn Phan
Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã coi đây thật sự là “áng văn hay
của bậc thầy đại gia”
1.2.1.3. Vị trí của tập truyện trong lịch sử truyện truyền kì trung đại.
Viết về Truyền kì mạn lục là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Dữ, ngay từ khi
nó ra đời đã được nhiều nhà nghiên cứu đón nhận một cách nồng nhiệt và đánh giá
cao như : Hà Thiện Hán người cùng thời với Nguyễn Dữ viết lời tựa, Nguyễn Thế
Nghi dịch ra bản Nôm. Trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Nguyễn
Đăng Na khẳng định: “Nguyễn Dữ là người đầu tiên dùng thuật ngữ “Truyền kì”
đặt tên cho tác phẩm của mình. Có thể nói ông là cha đẻ của loại hình truyền kì
Việt Nam”. Trước Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, đã có tác phẩm Thánh Tông
di thảo của Lê Thánh Tông (1442-1497). Đây cũng là tác phẩm mang tính truyền kì.
Sau đó, trong văn học Việt Nam xuất hiện Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm
(1705-1748), Tục truyền kì của Đặng Trần Côn (thế kỷ XVIII), Tân truyền kì
lục của Phạm Quý Thích (1957-1852)… các tác phẩm này đánh dấu sự chín muồi
của thể truyền kì Việt Nam. Cách đặt nhan đề ‘truyền kì” chứng tỏ các tác giả đã đi
theo truyền thống truyền kì Trung Quốc. Tuy nhiên, số lượng thi ca thù tạc của nhân
vật rất nhiều, đây là điều khác với truyền kì đời Đường. So với các tập truyện thần
28
linh, ma quái, anh tú của truyền kì Trung Quốc, nhân vật trong các sáng tác văn học
ở Việt Nam chủ yếu là nhân vật lịch sử. Các nhân vật quan tướng, thần ma cũng đều
thể hiện khía cạnh con người đời thường, đời tư như Hạng Vương, Dương Thiên
Tích, các nhân vật nữ cũng là những nhân vật phần nhiều có thật, họ chịu nhiều oan
trái, trắc trở mang phẩm cách Việt sâu sắc. Với nội dung tác phẩm hoàn toàn là
việc, là người Việt Nam và có tính chất hư cấu, biểu tượng rất rõ, do đó trong Kiến
văn tiểu lục, Lê Quý Đôn còn gọi loại truyện này là“ngụ ngôn”. Truyện truyền kì
Việt Nam thời trung đại có cốt truyện hoàn chỉnh như những tác phẩm truyền kì
truyền thống: có thắt nút, phát triển, mở nút… Truyện truyền kì ở Việt Nam thường
có những nội dung không lớn nhưng cũng thể hiện đặc trưng quan trọng của nó:
nhân vật ít, sự kiện tập trung, thường chú trọng vào việc hơn là chú trọng vào
người, lấy việc mà biểu hiện người, răn người, truyền bá đạo lý ở đời. Với những
đặc điểm như trên, thể truyền kì ở Việt Nam đánh dấu một bước phát triển mới của
văn xuôi tự sự trung đại, đồng thời cũng thể hiện tính dân tộc hóa sâu sắc trên con
đường tiếp biến từ nền văn học lớn Trung Hoa, nó góp phần làm phong phú và giàu
có hơn nền văn học vốn đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Song trên thực
tế, Truyền kì mạn lục chịu ảnh hưởng rất rõ của thể loại chí quái, chí dị. Có thể thấy,
truyện truyền kì là một thể loại văn xuôi độc đáo của văn học trung đại vùng Đông
Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong đó các nhà văn đã sử dụng yếu tố kì như
một bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng của thể loại. Chính yếu tố kì đã phân
biệt truyện truyền kì với khái niệm truyện ngắn hiện thực ở phương Tây bắt đầu từ
thời Phục hưng (mở đầu thế kỷ XVI ở Italia). Truyện ngắn phương Tây trong giai
đoạn đầu cũng gắn bó mật thiết với chất kì ảo trong văn học dân gian nhưng dần
dần yếu tố kì mờ nhạt đi; hoặc nếu còn giữ thì cũng mất đi tính “hồn nhiên” vốn có.
Quá trình phát triển của truyện truyền kì Việt Nam nói chung và Truyền kì
mạn lục nói riêng đã chịu sự tác động từ văn học cổ điển Trung Hoa, cụ thể đó là
loại truyện chí quái, chí dị từ văn học Lục triều. Ảnh hưởng văn hóa được nói đến
khá phổ biến trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Nó xuất phát từ nhu cầu
đối thoại văn hóa giữa các dân tộc khác nhau. Đó là sự vận động thường xuyên và
mang tính phổ biến của nhân loại, gắn bó với tiến bộ xã hội nhưng đồng thời cũng
29
có quan hệ hữu cơ biện chứng với sự phát triển của văn hóa, là sự chuyển hóa nội
tại, thường xuyên của văn hóa trong cơ chế tồn tại của nó. Trong tiến trình phát
triển văn học Việt Nam, việc tiếp thu và chịu ảnh hưởng từ văn học cổ điển Trung
Quốc vào văn hóa Việt là hiện tượng mang tính lịch sử. Đây cũng là một đặc điểm
quan trọng và chi phối đến văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu, tiếp xúc với
văn hóa Hán và biểu hiện rõ nhất của nó được phản ánh trong văn chương, học thuật
và những lĩnh vực khác thuộc về đời sống tinh thần của người Việt. Trong sự ảnh
hưởng ấy, nổi bật nhất về văn xuôi là thể loại truyện truyền kì. Điều đó cho thấy, sự
tương tác mạnh mẽ giữa các thể loại trong khu vườn văn học mà văn xuôi đã chiếm
một phần quan trọng. Dòng chảy của truyện truyền kì dường như đã bắt được mạch
ngầm văn hóa của Việt Nam và tâm thức sáng tác của giới trí thức phong kiến xưa.
Đây cũng là một trong những điều kiện giúp cho thể loại đoản thiên tiểu thuyết sớm
nở rộ trong lịch sử Văn học cổ điển Việt Nam, tiêu biểu nhất là Truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ.
Xét từ phương diện nghệ thuật, các thủ pháp của truyện chí quái, chí dị từ
văn học Lục triều và truyện truyền kì thời Đường đã có những tác động nhất định về
mặt kỹ thuật đối với Truyền kì mạn lục. Nếu như truyện chí quái thời Lục triều
chuyên săn tìm những tình tiết kỳ lạ, đề cao sự linh thiêng, biến hóa diệu kỳ; truyện
truyền kỳ đời Đường có pha chút hoang đường; thì ở thể loại truyện truyền kỳ Việt
Nam và nhất là Truyền kì mạn lục lại không đề cao những yếu tố đó. Các tác gia
Việt Nam chỉ xem kì ảo như một phương thức sáng tác cụ thể, để họ có thể phản
ánh, chiếm lĩnh và nghiền ngẫm về hiện thực lúc bấy giờ. Nếu tác giả chí quái đem
chuyện kì lạ làm sự thật, không có ý thức về sáng tác văn chương thì ở thể loại
truyền kì Việt Nam, dường như các tác giả muốn phát triển câu chuyện dân gian
thành những đoản thiên tiểu thuyết nhất định, họ hư cấu, họ xây dựng nhân vật, tình
tiết, kết cấu, ngôn ngữ… điều đó đã dẫn đến một kết luận rằng: “Văn chương chí
quái chất phác hồn nhiên, văn chương truyền kỳ thì đã đạt mức trau chuốt bóng bẩy.
Tác phẩm chí quái còn sơ sài ngắn ngủi, tác phẩm của truyền kì đã hoàn chỉnh, bền
bỉ và tiến đến những thể nghiệm ban đầu về hiện thực sinh hoạt của tác giả và bộc
lộ những thái độ của họ đối với cuộc sống…”.
30
Nhìn chung, những ảnh hưởng của thể loại truyện chí quái, chí dị thời Lục
Triều, truyện truyền kì đời Đường đến thể loại truyện truyền kì trong văn chương cổ
điển Việt Nam là một sự tương tác, ảnh hưởng của một nền văn học già đối với một
nền văn học trẻ. Đây là một sự học tập, tiếp nhận trên bình diện văn hóa. Xét cho
cùng, sự ảnh hưởng này cũng là một quy luật phổ biến của văn học. Tuy vậy, dù
đứng ở góc độ nào, người ta cũng có thể cảm nhận được cái tinh thần dân tộc cũng
như ý hướng sáng tác của người trí thức trong văn học trung đại Việt Nam trước
những áp lực lớn của thi pháp văn học trung đại. Có thể nói, họ đã từng bước tự cởi
trói và mở ra cho bản thân mình một con đường đi khá sắc sảo để tự do sáng tạo
trên một mảnh đất hấp dẫn và có nhiều điều thú vị - đó là mảnh đất dung dưỡng hư
cấu, tưởng tượng của loại truyền kì trong văn học.
1.2.2. Lan Trì kiến văn lục
1.2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa
Vào cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI nhà nước phong kiến đã bắt đầu đi xuống
nhưng thực sự khủng hoảng là ở giai đoạn này. Hai cuộc chiến tranh kéo dài giữa
nhà Lê và nhà Mạc, giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã làm cho đất nước bị chia
cắt, kinh tế kiết quệ, dân tình điêu đứng. Bước sang thế kỉ XVIII các mâu thuẫn
được tạm dẹp yên, Đàng ngoài là sự cai trị của vua Lê chúa Trịnh, Đàng trong là
chúa Nguyễn lấy sông Linh Giang làm ranh giới. Ở thời kì đầu tầng lớp thống trị ở
cả hai đàng đều chuyên tâm đến việc xây dựng giang sơn xã tắc, làm cho kinh tế ổn
định phát triển sau một thời gian dài kiệt quệ do chiến tranh. Nhưng đến giai đoạn
sau thì tình hình chính trị lại rối ren phức tạp, nhất là ở Đàng ngoài do thể chế chính
trị vừa có vua vừa có chưa, các chúa Trịnh ngày càng lấn át các vua Lê thâu tóm
mọi quyền lực vào tay mình, các vua Lê cũng cảm nhận được mối đe doạ nhưng vì
bất tài, bất lực nên đành im lặng chấp nhận mọi sự sắp đặt từ phía của nhà chúa.
Các chúa Trịnh sau này khi có đủ quyền hành trong tay bắt đầu có lối sống xa hoa,
hưởng lạc, tàn ác, vô đạo. Không chỉ ăn chơi xa xỉ, phung phí tiền bạc một cách vô
tội vạ mà ngay cả tư cách đạo đức của các chúa Trịnh cũng ngày càng suy đồi.
Trịnh Giang thong dâm với cung nữ của cha, mối quan hệ mờ ám giữa Tuyên phi và
Huy Quận công, an hem chém giết lẫn nhau để tranh quyền đoạt lợi. Ở Đàng trong
31
cũng tương tự như Đàng ngoài các chúa Nguyễn cũng ăn chơi xa xỉ “coi vàng như
cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ rất mực” [6, tr.335]. Chúa Nguyễn Phúc Thuần “thích
chơi bời múa hát, có bệnh không gần đàn bà được, sai người con hát yêu dâm loạn
với cung nữ để mua vui”[6, tr.71]. Từ cuộc sống xa hoa suy đồi tha hoá của những
bậc vương giả mà kỷ cương nhà nước, tôn ti trật tự đảo lộn, đất nước đi vào thời kỳ
khủng hoảng trầm trọng trên mọi phương diện. Vào những năm cuối thập kỷ tám
mươi, chín mươi của thế kỷ XVIII các nhà bình luận coi đây là thời kỳ chính sự đổ
nát. Kỷ cương phép nước không còn nên tư tưởng Nho giáo đặt ra cũng bị lung lay.
Việc học hành thi cử không còn được coi trọng như trước mà sinh ra nhũng nhiễu
như việc mua quan bán tước lan tràn khắp nơi, thực học bị coi nhẹ. Tuy nhiên vẫn
có những người thực tài, có nhiều cống hiến như: Lê Quý Đôn, Ngô Thi Sĩ, Nguyễn
Nghiễm…nhưng đó là những người đặc biệt xuất sắc và là số ít trong xã hội. Chính
vì điều kiện lịch sử xã hội như vậy nên tầng lớp nho sĩ cũng có sự thay đổi trong tư
tưởng, họ không còn khư khư giữ chữ trung với nhà vua mà một số người đã mạnh
dạn đứng về phía nhà Chúa để cùng chúa lo việc nước. Nhưng tình hình đất nước
ngày càng đi xuống, chính sự ngày càng rối ren. Hậu quả của chiến tranh làm cho
sức người sức của suy kiệt, sưu cao thuế nặng, lao dịch đè lên vai người nông dân.
Lại thêm thiên tai, hạn hán, lũ lụt liên tục càng làm tăng thêm sự đói khát tiêu điều.
Xã hội nhiễu nhương chưa từng thấy. Đó là lí do vì so ngày càng nhiều cuộc bạo
động nổi lên từ các vùng quê nghèo đói. Trong hoàn cảnh này phong trào của những
người nông dân áo vải Tây Sơn ra đời và phát triển một cách mạnh mẽ, nhanh
chóng dẹp yên các tập đoàn phong kiến lúc bấy giờ. Người đứng đầu là Nguyễn
Huệ sau khi dẹp yên các cuộc nội chiến. Nguyễn Huệ còn đánh tan 20 vạn quân
Thanh lập lên một nhà nước mới nhưng Nguyễn Huệ đột ngột băng hà người nối
ngôi là Quang Toản lại còn nhỏ nên triều đình Tây Sơn tồn tại không lâu. Nguyễn
Ánh lợi dụng tình hình và lấy lại đất nước lập lên nhà Nguyễn. Chính những thay
đổi của thời cuộc như vậy mà xã hội đã manh nha những tư tưởng mới, con người
mới, nghĩ đến đời sống thực tế, giá trị hạnh phúc của cá nhân nhiều hơn. Chịu sự tác
động không nhỏ của thời cuộc, văn học giai đoạn này có sự chuyển mình đáng kể.
Các nhà văn đặc biệt có hứng thú với những vấn đề thực tiễn xã hội, lấy thực tại làm
32
đối tượng phản ánh, họ ghi chép những sự việc, những số phận diễn ra trong đời
sống hằng ngày. Hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm cũng có sự chuyển biến
nhân vật trong các truyện đa số là những người có tài, không những đa tài mà còn
đa tình. Tình yêu, khát vọng hạnh phúc chân thực của con người đến đây được bày
tỏ một cách chính đáng. Đây là một bước ngoặt cho lịch sử văn học nước nhà là nền
tảng cho trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa.
1.2.2.2. Về tác giả, tác phẩm
Vũ Trinh (1759- 1828) tên tự là Duy Chu, hiệu là Nguyên Hanh, biệt hiệu là
Lai Sơn, Lan Trì ngư giả, đạo hiệu Hải Âu hòa thượng. Ông là người làng Xuân
Lan, huyện Lang Tài, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Vũ Trinh xuất thân từ một gia đình
có nề nếp thi thư. Ông nội Vũ Trinh hiệu là Hy Nghi, đỗ Tiến sĩ thời Lê, làm quan
đến Thượng thư bộ binh. Cha ông tên là Triệu, cũng đỗ Hương tiến làm quan đến
chức Tham Nghị. Cũng như Nguyễn Dữ, Vũ Trinh vốn nổi tiếng thông minh từ nhỏ,
17 tuổi đỗ Hương tiến, được tập ấm chức tri phủ Quốc Oai, tước Lan Trì bá.
Vũ Trinh là một người có bản lĩnh, có tà tổ chức, là một bậc tôi trung hiếm
thấy luôn hết lòng với nhà Lê. Với tài năng ấy Vũ Trinh có thể thành công trên con
đường hoạn lộ, hơn nữa ông còn có thể góp phần vào sự phát triển đi lên của đất
nước. Nhưng cuộc đời ông đã phải trải qua những sóng gió, thăng trầm của cuộc
đời. Năm 1976, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc với danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”
ông được vua Lê Chiêu Thống mời về triều. Ông được Lê Hiển Tông gả công chúa
Ngọc Hân cho. Năm sau, Hiển Tông mất, Lê Chiêu Thống lên ngôi ông được vua
Lê Chiêu Thống mời về triều. Tình hình chính sự hết sức rối ren, các bè phái mưu
đồ thanh toán lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Nguyễn Huệ rút quân về Nam, các
thế lực quân phiệt cát cứ đánh lộn lẫn nhau, vua Lê phải triệu Nguyễn Hữu Chỉnh từ
Nghệ An ra đánh dẹp. Nguyễn Hữu Chỉnh thâu tóm mọi quyền hành, lấn át vua Lê.
Lê Chiêu Thống vời Vũ Trinh vào chầu bàn mưu giết Hữu Chỉnh. Vũ Trinh can vua
rằng: “Chỉnh cố nhiên là đáng giết, nhưng bên ngoài có giặc dữ mà bên trong lại
giết kẻ cường thần, chưa nên tự gây biến trước”vua nghe theo nên Bắc Hà tạm
tránh được sự tổn thất của một cuộc thanh toán nội bộ lớn. Nguyễn Huệ tiến quân ra
Bắc lần thứ hai, Hữu Chỉnh bị giết, Lê Chiêu Thống chạy sang Kinh Bắc. Cha con
33
Vũ Trinh đón vua dốc hết sản nghiệp lo vào việc quân và theo Lê Chiêu Thống chạy
trốn ở các vùng Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam… Khi Tôn Sĩ Nghị đem quân sang
xâm lược, các cựu thần văn võ nhà Lê đều lẩn tránh chạy trốn cả. Lê Chiêu Thống
sai Vũ Trinh đi đón rước, đem trâu rượu đi khao quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị hỏi Vũ
Trinh về tình hình trong nước, Trinh ứng đối giỏi, được Nghị khen là có tài hùng
biện. Chiêu Thống dựa vào quân Thanh trở về Thăng Long phong cho Vũ Trinh là
Tham tri chính sự.
Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), khi vua Quang Trung đánh tan quân xâm
lược nhà Thanh, Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị chạy sang Trung Quốc. Vũ Trinh
chạy không theo kịp vua Chiêu Thống sang Bắc quốc, lui về quê quán, không chịu
ra làm quan cho Tây Sơn. Đến cuối những năm chín mươi của thế kỉ XVIII, Vũ
Trinh ra Thăng Long sinh hoạt với nhóm trí thức Thăng Long xung quanh thiền
viện của Ngô Thì Nhậm ở phường Bích Câu. Năm 1802 nhà Tây Sơn bị diệt, Gia
long lên ngôi mời các cựu thần nhà Lê đến yết kiến. Vũ Trinh được giao chức Thị
trung học sin theo Gia Long về Phú Xuân. Năm 1803 hài cốt Chiêu Thống được
đưa về nước, bộ Lễ bàn chỉ chon cất theo nghi lễ thường dân, chỉ ghi tên không ghi
hiệu vì Chiêu Thống là ông vua mất nước. Vũ trinh đã xin Gia Long ban lễ hậu và
cho được giữ nguyên tên hiệu để tỏ cái nghĩa đối với triều đại đã mất. Được Gia
long đồng ý, Vũ trinh lấy cơ là “bề tôi của của nhà Lê” xin từ chức về Bắc để lên
cửa quan đón tang. Gia Long khen ông là người có nghĩa nhưng không cho ông từ
chức mà nhân đó giao việc khám xét đê điều Bắc Thành sau đó lại triệu về kinh.
Trong thời gian làm quan cho nhà Nguyễn ông đã có rất nhiều đóng góp và thể hiện
năng lực của mình
Vũ Trinh là người học vấn uyên bác, văn chương hàm súc, trau chuốt. Trong
sự nghiệp sáng tác của Vũ Trinh, tác phẩm giữ vị trí quan trọng nhất là Lan Trì kiến
văn lục, hay còn gọi là Kiến văn lục. Lan Trì kiến văn lục là một tập truyện truyền
kỳ có 45 truyện, viết bằng văn xuôi chữ Hán. Tác phẩm viết về nhiều chủ đề khác
nhau: Chuyện tình yêu nam nữ, chuyện báo ứng luân hồi, chuyện đền ơn trả nghĩa,
chuyện giáo dục thi cử, chuyện kỳ quái khó tin,… Phần lớn những truyện được Vũ
Trinh sáng tác trên cơ sở những truyền thuyết lưu hành trong dân gian đương thời
34
mà Vũ Trinh thu thập được trong những năm về ẩn ở vùng Hồ Sơn (Nam Định).
Bên cạnh một số truyện tản mạn, gặp gì ghi lấy, kể thì tập truyện của Vũ Trinh khá
nhất quán về chủ đề tư tưởng cũng như về phong cách nghệ thuật. Phá vỡ “khuôn
phép” của những con người thời đại là chủ đề nổi bật nhất trong tác phẩm. Sự phá
vỡ đó vừa theo hướng tiêu cực và tích cực. Ở đó, con người thường rơi vào tình
cảnh bi đát cùng cực, nhưng chính trong hoàn cảnh đó, những phẩm chất tốt đẹp
được ngời sáng, những gì cao quý nhất, người nhất được lan tỏa. Đặc biệt, Vũ Trinh
rất trân trọng yêu mến phụ nữ. Bởi thế có thể nói, đề tài chiếm ưu thế trong tác
phẩm là nói về số phận, vẻ đẹp tỏa sáng, sức sống trường tồn của người phụ nữ.
Ông luôn dành tình cảm yêu thương, trân trọng những thân phận đầy bất hạnh. Ông
xót xa trước những bi kịch của con người và ngợi ca những thân phận bị cuộc đời
dày xéo song phẩm chất vẫn tỏa sáng. Bên cạnh những truyện ngắn hay, có hồn, có
sức lôi cuốn mạnh mẽ thì còn có những truyện vô vị, nhạt nhẽo, rất đỗi bình thường.
Những truyện thành công của Vũ Trinh đều được đầu tư khá công phu. Hầu hết
những truyện hay đó đều được viết ngắn gọn, chặt chẽ, súc tích, đầy kịch tính, tình
huống gay cấn hấp dẫn. Tư tưởng của truyện hầu như được hình thành từ các sự
kiện, cốt truyện, có sức khơi gợi lớn, luôn làm cho độc giả phát huy trí tưởng tượng
cao độ. Truyện của Vũ Trinh có sức hấp dẫn, lôi cuốn cực mạnh đến với người đọc
là ở chỗ, truyện đã tạo được một bức tranh tương phản rõ rệt. Bút pháp của Vũ
Trinh tinh giản, truyện ông viết thường vắn tắt và không phải truyện nào đọc cũng
thích, nhưng ở mỗi truyện thành công, mỗi chi tiết được kể vắn tắt đều đóng một vị
trí quan trọng không thể thay thế được. Phải chăng đó chính là bí quyết của một cây
bút truyền kỳ truyện ngắn đầy tài năng.
Tóm lại Lan Trì kiến văn lục là tác phẩm cuối cùng của loại hình truyện
truyền kì Việt Nam thời trung đại. Đó là một cống hiến đặc sắc của Vũ Trinh cho
văn học nước nhà. Ghi lại những điều mắt thấy tai nghe ở khoảng trời đất vô cùng
này, tưởng chừng như đó chỉ là những câu chuyện khô khan nhưng đằng sau nó lại
là một tấm lòng bao la độ lượng ẩn chứa một nhân sinh quan tiến bộ sâu sắc. Lan
Trì kiến văn lục đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của truyện truyền kỳ
Việt Nam trên nhiều phương diện, song đặc biệt là phương diện phản ánh hiện
thực cuộc sống.
35
1.2.2.3. Vị trí của tập truyện trong lịch sử truyện truyền kì trung đại.
Cũng như Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu
lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, Lan Trì kiến văn lục tiếp nối dòng truyện
truyền kì, bắt đầu từ thế kỉ XVI với Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ... Và có thể
nói, theo PGS. TS. Nguyễn Đăng Na thì đây là “tác phẩm cuối cùng của loại hình
truyền kì Việt Nam thời trung đại”. [20, tr.419].
Vũ Trinh viết Lan Trì kiến văn lục (chép những chuyện nghe và thấy của Lan
Trì) vào thời gian ông ẩn nhẫn ở Hồ Sơn. Khoảng những năm 1793-1794 cuối đời
Tây Sơn, đầu đời Gia Long. Những điều thấy và nghe (kiến văn) khi làm quan ở
triều, khi lánh nạn, tiếp xúc với bao người, những chuyện nơi đồng quê, ngõ chợ,
kết hợp với những điều trong sách vở thánh hiền đã được Vũ Trinh ghi lại một cách
chân thực và nghệ thuật. Sáng tác của ông nói đến nhiều việc, nhiều chuyện, lúc thật
lúc ảo, nhưng hầu hết đều ngụ ý sâu xa như một nỗi niềm tâm sự, khao khát cuộc
sống yên bình. Nó là tấm gương phản chiếu không tô vẽ. Đó là những câu chuyện
hết sức đời thường, là câu chuyện về người con trai nửa đêm trèo tường vào nhà
người yêu tỏ tình “Trạng Nguyên họ Nguyễn”, đó cũng có thể là chuyện một người
ca nữ hết lòng hết dạ vì người yêu, lo cho người yêu ăn học thành tài nhưng bản
thân mình lại chịu số phận hẩm hiu “Ca kĩ họ Nguyễn”. Bên cạnh đó những câu
chuyện trong Lan Trì kiến văn lục là có thật, tác giả chỉ ra cụ thể rõ ràng tên tuổi,
địa chỉ của nhân vật hoặc ghi rõ ai là người chứng kiến sự việc. Truyện truyền kì
đến giai đoạn này còn có một đặc điểm khác với giai đoạn trước, đó là hầu hết các
truyện truyền kì đều có xen thơ từ với một mức độ vừa phải thì ở giai đoạn này Lan
Trì kiến văn lục giảm lược đến mức không còn bài thơ nào trong truyện truyền kì.
Muốn đảm bảo tiêu chí bám sát hiện thực cuộc sống, phản ánh trực tiếp những điều
đang xảy ra trong xã hội đương thời nên tác phẩm của Vũ Trinh cũng giảm đi yếu tố
hoang đường kì ảo. Việc tác giả trung thành với hiện thực cuộc sống là một sự tiến
bộ trong nội dung tư tưởng, nhưng theo nhận xét của PGS. TS. Nguyễn Đăng Na và
một số tác giả khác, về nghệ thuật điều đó đã khiến cho truyền kì có một bước lùi
khi tác giả Vũ Trinh đã không đưa người đọc đến với thế giới kì ảo bay bổng vốn là
đặc trưng nổi bật của thể loại này. Nhìn chung, tác giả khá nhạy bén với cái mới.
36
Trong đó viết về tình yêu của các nhân vật do Vũ Trinh tạo nên thật say đắm, đến mức
nhục cảm, và ông trình bày nó như là hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ. Đấy là
nét rất đặc biệt trong văn chương nước ta thế kỷ XVIII. Một ca kỹ có nhân cách với
một tình yêu đầy chủ động “Ca kỹ họ Nguyễn”, một người con gái mang mối tình thủy
chung nhưng oan trái đến bạc mệnh “Nợ tình ở Thanh Trì”, một thiếu nữ nghèo mắc
bệnh nan y vẫn sống hết mình cho tình yêu “Tháp Báo Ân”...Về những con người này,
ngòi bút của tác giả luôn tỏ ra trân trọng, và yêu mến lạ thường.
Như vậy Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh đã ít nhiều phản ánh quá trình
phát triển của truyện truyền kì nói riêng của văn tự sự Việt Nam chung. Từ đó có
thể khẳng định vị trí của thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc
nói chung và của văn học trung đại nói riêng. Nghiên cứu lịch sử phát triển của văn
học Việt Nam không thể không xem xét sự phát triển của truyền kì trong dòng chảy
của văn học dân tộc.
37
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1, chúng tôi đã tìm hiểu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
có liên quan đến đề tài. Chúng tôi đã nêu lên những khái niệm cơ bản về thể loại
truyền kì cùng sự hình thành và vị trí của truyện truyền kì, về chủ đề tình yêu nam
nữ. Có thể nói truyền kì là một trong những thể loại quan trọng của văn học trung
đại Việt Nam. Bên cạnh đó là những nét chung về tác giả và tác phẩm mà luận văn
nghiên cứu. Qua sự trình bày, chúng tôi khái quát được quá trình vận động phát
triển của một giai đoạn lịch sử tương đối dài với những biến cố lớn của cả dân tộc
(từ thế kỉ XV đến nửa đầu thế kỉ XIX) tương ứng với các diễn biến của lịch sử xã
hội là sự phát triển đổi thay của một thể loại văn học.
Trong văn học nói chung và thể loại truyền kì nói riêng thì nội dung giữ vị
trí quan trọng trong tác phẩm. Riêng với truyện truyền kì, yếu tố kì ảo thì không thể
thiếu, nó trở thành đặc trưng của thể loại, và cách xây dựng chủ đề tình yêu nam nữ
để tác giả khẳng định vị trí, vai trò, sự hấp dẫn và thành công cho tác phẩm thuộc
thể truyền kì này. Về mặt thực tiễn chúng tôi cũng điểm qua hai tác phẩm truyền kỳ
tiêu biểu của giai đoạn văn học thế kỷ XV đến thế kỉ XIX là Truyền kì mạn lục, Lan
Trì kiến văn lục để có cái nhìn khái quát về diện mạo của thể loại truyền kỳ giai
đoạn này đồng thời có những hình dung bước đầu về hệ thống các chủ đề mà các tác
giả đề cập đến trong những tác phẩm này. Đây là những cơ sở quan trọng để chúng
tôi tìm hiểu cụ thể đặc điểm cũng như ý nghĩa của loại truyện truyền kì trong việc
phản ánh nội dung tư tưởng của tác phẩm ở những chương sau của luận văn.
38
Chương 2
NỘI DUNG PHẢN ÁNH CHỦ ĐỀ
TÌNH YÊU NAM NỮ TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ
(QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)
2.1. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ
Những sáng tác của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh trong hai tập truyện đặc sắc
cả về nội dung và hình thức thể hiện. Chúng tôi đã khảo sát được những truyện viết
về chủ đề tình yêu nam nữ. Trong Truyền kì mạn lục: có 4/20 truyện: Chuyện cây
gạo, Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, Chuyện yêu quái
ở Xương Giang. Trong Lan Trì kiến văn lục: có 5/45 truyện: Sống lại, Ca kỹ họ
Nguyễn, Câu chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp báo ân, Trạng nguyên họ Nguyễn. Sau
đây chúng tôi sẽ khảo sát một số phương diện nội dung của chủ đề tình yêu nam nữ
trong hai tập truyện.
2.1.1. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ trong Truyền kì mạn lục
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ là tác phẩm truyền kì đặc sắc, hấp dẫn,
nhất là những truyện viết về tình yêu nam nữ, đặc biệt là tình yêu giữa người với
yêu ma, hồn hoa, người. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy
sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu
đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống
đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và
phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng
bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị
đương thời. Trong Truyền kì mạn lục viết về tình yêu của các chàng trai với các hồn
ma là chuyện tưởng tượng nhưng tình tiết diễn ra hợp với logic tâm lý con người.
Tình yêu nam nữ là chuyện bình thường của người đời. Nhưng tình yêu của nam
nhân với hồn ma là chuyện không bình thường. Không biết là ma là bởi bị mê hoặc,
đã biết thì không thể không sợ, không trốn chạy. Nhưng đã bị ma làm thì khó tránh
được tai hoạ. Ở những chuyện của Nguyễn Dữ, các chàng trai đều là những người
trẻ tuổi, đang ở trong cơ hội thành đạt. Cuộc đời mối người chưa rơi vào mâu thuẫn
giữa hiện thực và ước nguyện, cũng không gặp những bế tắc cần tìm phương cách
39
giải toả. Hà Nhân “Tây viên kỳ ngộ kí” là học trò lên kinh sư tìm thầy học để chuẩn
bị ứng thi. Trình Trung Ngộ “Mộc miên thụ truyện” là “một chàng trai đẹp, nhà rất
giàu, thuê thuyền xuống vùng Nam buôn bán”. Viên quan họ Hoàng “Xương Giang
yêu quái lục” người Bắc Giang xuống kinh đô nhận chức, gặp mĩ nhân, sự đam mê
nữ sắc biến thành sức lôi cuốn mạnh mẽ, khó cưỡng lại. Hà Nhân bèn rủ hai cô gái
về nhà trọ, Trình Trung Ngộ đưa cô gái xuống thuyền của mình…Ở đây đến với
tình yêu trai gái, nhân vật không phải phấn đấu trên con đường đi tìm hạnh phúc,
cũng không tự giác nhân thấy mình đã tìm được hạnh phúc đích thực. Với họ chỉ
đơn giản là chạy theo sự cám dỗ, đắm đuối trong hành lạc mà quên đi, đánh mất đi
mục đích của mình, thậm chí đánh mất cả mạng sống.
Cuộc kỳ ngộ giữa các chàng trai và hồn ma trong Truyền kì mạn lục phần lớn
chỉ diễn ra vào ban đêm trong thời gian ngắn ngủi. Hà Nhân dan díu với hai hồn ma
(Đào nương, Nhu nương) trong gần một năm. Trình Trung Ngộ qua lại với hồn ma
Nhị Khanh hơn một tháng. Viên quan họ Hoàng gắn với hồn ma Thị Nghi một
tháng. Nguyễn Dữ đã dành 11/16 trang viết miêu tả những cuộc gặp gỡ hoan lạc
giữa các nhân vật bằng những lời văn dạt dào cảm xúc yêu đương. Đó là câu chuyện
tình yêu giữa thư sinh Hà Nhân với hai hồn hoa Đào, Liễu trong truyện “Chuyện kì
ngộ ở trại Tây”. Hà Nhân lên kinh để học thi, hay đi qua trại Tây và gặp được hồn
hoa Đào, Liễu của một gia tộc đã lụi tàn cách đó 20 năm. Hoa sinh ra là để cho
người thưởng, người ngắm, hồn hoa Liễu Nhu Nương, Đào Hồng Nương đang độ
xinh đẹp, quyến rũ cũng khao khát được người yêu, người thưởng trước khi tàn úa
vào mùa đông. Đào, Liễu có tài làm thơ rất hay, thường đối đáp thơ với thư sinh Hà
Nhân. Đối với Hà Nhân, hai nàng Đào, Liễu ngoài mối tình đến từ dục vọng bản
năng còn có thể gọi các nàng là tri kỉ, cùng chung chăn gối đêm đêm, cùng nhau
làm thơ, lại thấu hiểu chàng. Hà Nhân si mê các nàng quên cả chuyện thi cử học
hành, từ chối cả hôn lễ cha mẹ sẵn sắp đặt nơi quê nhà. Hà Nhân tự thấy chuyện của
mình sánh với Bùi Hàng và vượt cả Tăng Nhụ ngày trước. Chuyện tình yêu giữa Hà
Nhân và hai hồn hoa là chuyện tình yêu giữa tài tử với giai nhân đẹp như những câu
chuyện trong Liêu Trai chí dị - Bồ Tùng Linh (Trung Quốc). Qua câu chuyện tình
yêu ấy, Nguyễn Dữ cũng nói lên một mong muốn hết sức chính đáng của con người
40
thời ấy, họ khao khát yêu đương tự do, không có sự can thiệp của gia đình và quan
niệm môn đăng hộ đối, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Họ muốn tự do tìm hiểu, yêu
đương, tự do ái ân và tự do định đoạt hạnh phúc. Dù trong thời gian ngắn ngủi
nhưng có thể nói chàng thư sinh Hà Nhân và hai hồn hoa Đào, Liễu đã đạt được
mong ước của mình, thỏa mãn khát vọng tình yêu, nhục dục. Khi tiết đông đến, hoa
cỏ tàn lụi, hai nàng cũng thác về đất, thương nhớ hai nàng, Hà Nhân bán ít đồ của
mình để làm lễ nhỏ và một bài thơ đưa tiễn hai nàng. Câu chuyện ấy ngắn ngủi
nhưng đẹp đẽ giống như vừa tỉnh một giấc mộng vậy.
Tiếp theo là chuyện tình yêu giữa người với người trong “Chuyện nghiệp oan
của Đào Thị”. Chuyện kể về nàng ca kỹ ở Kì Sơn, có tài văn học, gọi là Đào Hàn
Than. Nhân một lần nàng làm thơ nối vần bài thơ của vua Dụ Tôn, có hai chữ “hàn
than”, nàng được vua khen, nhân đó gọi là “ả Hàn Than”. Hai chữ ấy thành tiểu tự
của nàng. Vua Dụ Tôn mất, nàng phải thải ra ở ngoài phố, thường đi lại nhà quan
Hành khiển là Nguỵ Nhược Chân. Vợ Hành khiển không có con, tính lại hay ghen,
ngờ nàng tư thông với chồng, bắt nàng đánh một trận rất là tàn nhẫn. Tức tối vô
cùng, nàng thuê thích khách vào nhà Nguỵ Nhược Chân để trả thù. Việc không
thành, lại bị bại lộ, nàng phải trốn đến tu ở chùa Phật Tích. Nàng dựng ra am Cư
Tĩnh, hội họp các văn nhân để xin một bài bảng văn. Chỉ vì nói đùa một cậu học trò
chừng 14, 15 tuổi, nàng bị cậu ta dò hỏi gốc tích rồi làm bài văn chế giễu. Hàn Than
lại phải trốn đến chùa Lệ Kỳ. Sư cụ Pháp Vân thấy nàng quá nhan sắc đã khuyên sư
bác Vô Kỷ không nên nhận nàng. Vô Kỷ không nghe, sư già lập tức dời lên núi
Phượng Hoàng. Ở với Vô Kỷ, hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, hàng ngày
thường làm thơ ngâm vịnh, chẳng để ý gì đến kinh kệ nữa. Năm Kỷ Sửu, Hàn Than
có thai, ốm lay lắt từ mùa xuân đến mùa hạ rồi quằn quại chết trên giường cữ. Vô
Kỷ quá thương xót nàng cũng ốm nặng. Một đêm Hàn Than hiện về xin Vô Kỷ về
chốn suối vàng để cùng nàng đầu thai trả thù cái nợ oan gia ngày trước. Ít lâu sau,
Vô Kỷ chết. Oan hồn hai người đầu thai vào nhà Nguỵ Nhược Chân làm hai con trai
là Long Thúc và Long Quý. Chỉ còn mấy tháng nữa là đến dịp trả thù thì họ bị một
vị thầy tu phát hiện, cuối cùng bị sư cụ Pháp Vân trừng trị.
41
Qua những câu chuyện tình yêu về mặt khách quan tác phẩm thể hiện giá trị
nhân đạo sâu sắc: phản ánh số phận con người qua số phận người phụ nữ cho dù đó
là yêu, ma, hồn. Nguyễn Dữ đồng cảm với những khát vọng ân ái của con người,
những khát vọng chân chính của người phụ nữ - khát vọng sống, khát vọng tình yêu
đôi lứa. Truyền kỳ mạn lục còn có nhiều trang văn say sưa miêu tả những khoái lạc
trần thế của con người. Nho sinh Hà Nhân và hai nàng Đào, Liễu đắm chìm trong
hoan lạc: “Tựa ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát sóng hoa đào nghiêng ngả”.
Trong Truyền kỳ mạn lục, những khát vọng giải phóng bản năng phần nhiều do
người phụ nữ chủ động khêu gợi. Trong “Cuộc kỳ ngộ ở trại Tây”, các nàng Đào,
Liễu đã nói với Hàn Nhân: “Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em muốn làm những
bông hoa hướng dương để khỏi hoài phí mất xuân quang”. Còn Nhị Khanh trong
“Chuyện Cây gạo” bày tỏ ước vọng với Trình Trung Ngộ: “Nghĩ đời người ta, thật
chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những
thú vui, kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc
hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa”. Những người phụ nữ này chọn cách kiếm
tìm và tận hưởng tình yêu, hạnh phúc trần gian, kiếm tìm hạnh phúc với người trần
thế sau khi mình đã thuộc về cõi khác. Họ là ma, là tiên, nhập vào đời sống trần
gian để tìm bạn tình, tìm người tri âm, hưởng hạnh phúc, khoái lạc. Nhưng rồi tình
yêu và hạnh phúc với họ cũng thật ngắn ngủi, niềm khát khao rất "người " của họ
sớm bị dập tắt, và họ đều phải nhận những kết cục bi thảm: Nhị Khanh cùng Trình
Ngộ bị đạo sĩ làm phép, lính đầu trâu trói gông đưa về âm phủ; Hai nàng Đào, Liễu
bị cơn giông bão dập nát không còn hiện hồn được nữa; Hàn Than và Vô Kỷ cuối
cùng bị sư cụ Pháp Vân trừng trị.
Truyền kì mạn lục và những câu chuyện tình yêu đẹp đẽ, nồng nàn, hết mình của
đôi lứa một thời. Nó là biểu trưng cho khát khao tự do yêu đương, tự do luyến ái của con
người, đặt trong hoàn cảnh tác phẩm ra đời, ta càng thấy ý nghĩa sâu sắc của nó.
2.1.2. Biểu hiện của chủ đề tình yêu nam nữ trong Lan Trì kiến văn lục
Nội dung Lan Trì kiến văn lục khá đa dạng phong phú. Thông qua khảo sát,
chúng tôi đã thống kê được 5/45 thiên truyện viết về tình yêu nam nữ. Đó là những
thiên truyện sau: Sống lại, Câu chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp báo ân, Ca nữ họ
42
Nguyễn, Trạng nguyên họ Nguyễn. Tình yêu đôi lứa qua ngòi bút của Vũ Trinh
biểu hiện những sắc màu khác nhau. Hầu hết là những câu chuyện tình thật cảm
động. Trong truyện “Sống lại”, tình yêu của cô gái và chàng trai thật đẹp, dù trải
qua bao sóng gió nhưng tình yêu mà họ dành cho nhau mãi còn vẹn nguyên. Người
đọc gặp ở đây một nam tử si tình đến khác lạ giữa thời đại Nho giáo. Sinh yêu cô
gái từ thuở còn là hàn sĩ đến khi đã thành danh; yêu khi nàng còn son đến khi nàng
đã lấy chồng; tình yêu đem lại sức mạnh cho chàng cứu sống người mình yêu từ cõi
chết trở về. Cô đã được tái sinh trở về trần gian sau mấy ngày bị chôn vùi dưới mồ
và sức mạnh của tình yêu đã đánh bại được tử thần. Dù thân xác có bị chôn vùi dưới
mồ nhưng con tim tình yêu vẫn luôn cháy bỏng. Nỗi mong mỏi cuộc sống tốt đẹp
của cô gái đã được đền đáp. Cô được trở về sống với Sinh trong cùng một mái nhà.
Từ trong cõi chết sống lại, cô như rũ bỏ những gì tầm thường, để trở lại với những
gì thánh thiện nhất của tình yêu. Nếu như tình yêu của cô gái trong “Sống lại” dẫu
phải trải qua bao khó khăn, trắc trở nhưng cuối cũng vẫn là bến đỗ của hạnh phúc,
của tình yêu tràn đầy thì câu chuyện tình yêu của cô gái trong “Câu chuyện tình ở
Thanh Trì” cũng khiến người đọc thương cảm, xúc động. Tình yêu vẫn là sắc màu
thủy chung muôn thuở. Người ta yêu nhau rồi chia ly cách trở. Kẻ chờ đợi vô vọng
rồi chết mà khối tình vẫn kết đọng sắt son. Người con gái chết rồi mà mối tình
mang xuống cõi tuyền đài còn mãi mãi. Người ra đi kia quay trở về thì người yêu đã
chết, chàng cũng ôm cô tình mà không muốn lấy ai! Lan Trì đã tái hiện lại câu
chuyện tình được lưu truyền trong dân gian với sự hoán đổi một số chi tiết. Đó
chính là câu chuyện cổ tích Trương Chi (hay Khối tình mang xuống tuyền đài chưa
tan) quen thuộc. Chàng Trương Chi nghèo khó làm nghề lái đò trên sông nước. Bên
sông có cô gái nhà quan xinh đẹp trong phủ các. Trương Chi có giọng hát mê hồn.
Chàng thường hát khi chèo đò trên sông. Cô gái nhà kia mê giọng hát của anh chàng
lái đò bần khó mà hóa bệnh tương tư. Chàng được mời đến “chữa bệnh” cho người
con gái. Vì Trương Chi có khuôn mặt xấu xí nên cô gái không thể yêu được chàng.
Cô ta hết bệnh. Tuy vậy, chàng lái đò kia lại mắc vào ái tình. Chàng quay về sông
nước ôm mối cô tình đơn phương. Rồi một ngày kia anh chết. Xác anh hóa thành
cây gỗ trên sông. Nhà cô gái được gỗ ấy, đem tiện làm bộ đồ trà. Có điều lạ là: khi
43
chén không có nước thì đáy chén có bóng người chèo đò; khi nước đầy chén thì
không thấy bóng hình đó. Người con gái nhà quan đã thấu được oan tình anh lái đò
ngày nào. Nước mắt cô rơi vào đáy chén, chén vỡ ra một màu tía hồng như máu.
Oan hồn Trương Chi được cô gái “giải thoát” mà thỏa nguyện chăng? Gợi lại lời kể
dân gian để thấy rằng, Vũ Trinh đã hoán đổi cái chết của chàng trai lái đò trong
truyện dân gian sang cái chết cho cô gái trong truyện của mình. Cái tình yêu “đuổi
bắt” nhau trong cốt truyện dân gian đã trở thành tình yêu “sóng đôi” cho hai nhân
vật của ông. Chàng trai của Vũ Trinh không còn phải mang gương mặt xấu xí như
kiểu truyện nhân vật xấu xí tài ba của cổ tích thần kì. Vũ Trinh hướng tới sự toàn mĩ
cho nhân vật của ông trong lòng độc giả.
Một câu chuyện tiếp mạch của chủ đề tình yêu nam nữ là “Tháp báo ân”.
Chuyện vừa có thứ tình yêu tranh chấp với số phận của cô gái mang bệnh nan y lại
vừa có thứ tình yêu dâng hiến, thứ tình yêu vị tha của nàng. Ở đó, người đọc cũng
nhận thấy tình cảm ân nghĩa sâu nặng của chàng sĩ tử ngày nào đối với một người
con gái bạc mệnh; một hành xử ân tình thủy chung của kẻ có học, tri ân một người
đã thay đổi số phận cho mình. Cô gái xinh đẹp trong truyện đã mắc chứng bệnh
phong, mọi người đều xa lánh. Cho đến một đêm mưa gió, cuộc đời cô như được tái
sinh. Chàng thư sinh trên đường khoa cử đã nương nhờ qua đêm tại nhà cô gái,
duyên số gặp nhau, run rủi cho họ. Ân tình đằm thắm, cô gái mãn nguyện trong
hạnh phúc tràn đầy. Rồi Sinh cũng phải từ biệt cô gái lên kinh đi thi, còn đối với cô
gái thì dư âm ngọt ngào chưa tan đi, âu sầu lại ngập đến. Cô đớn đau, day dứt dằn
vặt không thôi: “Đời tàn nhơ bẩn, may được gặp nhau trong bóng tối. Nếu nhìn
nhau lúc sáng trời thì một tối giao hoan đâu mà có được!. Ai hay một độ gió xuân
lại tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận đến suốt đời! Hỡi ơi Lưu lang, với mặt
mũi này mà gặp lại chàng, thiếp chịu đựng sao nổi!”. Cô gái cứ tự hỏi rồi triền
miên trong đau buồn, âu sầu rồi chết. Cô ra đi mang theo mối tình chung còn bỏ dở.
Hình đã nằm xuống đây mà bóng đã theo chàng Sinh lâu rồi. Nỗi khát khao yêu
thương vẫn chưa hết. Vì nặng tình yêu thương mà nàng không thể để Sinh một mình
đương đầu với những thử thách ở thế gian. Mảnh hồn tàn đã trở về trần gian cầu
vinh danh cho người yêu. Qua câu chuyện tình buồn này, ta thấy tình yêu của cô gái
44
dành cho chàng Sinh thật vị tha. Nàng đã hy sinh tất cả cho người mình yêu, chung
tình hết đỗi và tình yêu ấy cũng được đền đáp một cách xứng đáng. Dù mối duyên
đầu trao nhau không có tờ hôn thú, dù nàng đã nằm xuống nhưng chàng Sinh đã coi
nàng là vợ, an táng nàng theo lễ vợ chồng. Chỉ đó thôi cũng làm nàng an lòng và
mỉm cười hạnh phúc nơi chín suối.
Viết về chủ đề tình yêu nam nữ, Vũ Trinh rất trân trọng và yêu mến người
phụ nữ. Họ hiện lên thật đẹp với tính cách và phẩm chất cao quý. Qua đó cho ta
thấy, người phụ nữ trong xã hội phong kiến có sức chịu đựng phi thường, có sức
sống dẻo dai, mãnh liệt. Tình yêu nam nữ là chủ đề nổi bật của Lan Trì kiến văn lục.
Đề cập đến nét nổi bật đó, GS. Nguyễn Huệ Chi viết: “... Bên cạnh những con
người hoang dâm, lạm dụng uy quyền (Hầu - Đười ươi), những kẻ giết con (Hiệp hổ
- Hổ nghĩa hiệp), giết vợ (Tái sinh - Sống lại)... là những con người có những phẩm
chất cao quý, nhất là ở giới phụ nữ. Một ca kỹ có nhân cách với một tình yêu đầy
chủ động (Người ca kỹ - Ca kỹ họ Nguyễn), một người con gái (Con của phú ông)
mang mối tình thủy chung nhưng oan trái đến bạc mệnh (Thanh Trì tình trái - Nợ
tình ở Thanh Trì), một người đàn bà dệt vải có chồng vẫn khao khát yêu đương (Tái
sinh - Sống lại), một thiếu nữ nghèo mắc bệnh nan y vẫn sống hết mình cho tình yêu
(Báo ân tháp - Tháp báo ân)... Về những con người này, ngòi bút của tác giả luôn tỏ
ra trân trọng, và yêu mến lạ thường... Nhìn chung, tác giả thường nhạy bén với cái
mới. Và, tình yêu trong truyện của ông thường say đắm, và đôi khi tới mức nhục
cảm (Báo ân tháp).” [2, tr.2034]. Ngòi bút của tác giả giúp bạn đọc nhận rõ những
nhân vật được khắc họa đều thủy chung, vị tha, khao khát vươn tới tình yêu, hạnh
phúc, vươn tới cuộc sống tốt đẹp. Trang văn của ông biểu lộ sự ngợi ca và thông
cảm sâu sắc. Những câu chuyện của người phụ nữ đã gợi cho người đọc sự cảm
thương xót xa bởi khắc nghiệt của thời đại khiến họ phải chết khi còn trẻ trung, xinh
đẹp, khi sức sống tràn đầy (Sống lại, Tháp báo ân).
Tình yêu vẫn là sắc màu thủy chung muôn thuở. Người ta yêu nhau rồi chia ly
cách trở. Kẻ chờ đợi vô vọng rồi chết mà khối tình vẫn kết đọng sắt son. Người con gái
chết rồi mà mối tình mang xuống cõi tuyền đài còn mãi mãi. Phải chăng thành công
của Vũ Trinh khi lấy cái kỳ lạ để chuyển tải một tình yêu đẹp là ở chỗ đó.
45
2.2. Sự vận động của chủ đề tình yêu nam nữ qua hai tập truyện
Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào khác đều
phát triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn học dân gian. Kho tàng
truyện kể dân gian người Việt bao gồm các truyện kể miệng như thần thoại, truyền
thuyết, cổ tích… đã xuất hiện từ rất xa xưa, trước khi có chữ viết. Trong đó nhiều
truyện kì vĩ nói về cội nguồn dân tộc, giống nòi, có phần chắc là đã xuất hiện từ
thời Văn Lang - Âu Lạc, và vượt qua mọi thử thách của thời gian với một sức sống
trường tồn bất diệt. Chính vì vậy mà khi từ thời khởi phát, nền văn học viết dân tộc,
trong đó có văn xuôi tự sự, đã không thể không lấy các truyện kể dân gian làm nền
tảng. Và cứ thế suốt mười thế kỉ, kho tàng truyện kể dân gian vẫn cứ luôn luôn như
là một tác nhân mạnh mẽ, chẳng những đã góp phần vào sự hình thành của các thể
loại văn học tự sự mà còn luôn giữ vai trò cơ sở tư tưởng - thẩm mĩ trong các thể
loại đó. Mối quan hệ giữa văn học viết trung đại Việt Nam và văn học dân gian biểu
hiện ở chỗ: văn học viết tiếp thu văn học dân gian từ đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan
niệm thẩm mĩ ở khía cạnh ngôn ngữ và thể loại. Trong quá trình phát triển hai thể
loại luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn nhau để cùng phát triển.
Văn học dân gian là nền tảng của sự hình thành các thể loại tự sự, các tập văn xuôi
chữ Hán, các truyện Nôm và các tập thơ ca của các tác giả…
Dấu ấn văn học dân gian trong văn xuôi trung đại là bằng chứng xác thực
khẳng định ảnh hưởng mạnh mẽ của nó đối với văn học viết. Từ những môtip, cốt
truyện dân gian, các tác giả văn xuôi trung đại đã hư cấu thành những câu chuyện
hoàn chỉnh, vừa có yếu tố hiện thực vừa có yếu tố lãng mạn, vừa có tính tư tưởng
sâu sắc vừa có giá trị nghệ thuật cao.
Kho tàng truyện dân gian với nhiều tín ngưỡng mà vào lúc thịnh thời của chế
độ phong kiến, nhiều nhà nho coi là dị đoan, đến giai đoạn này được khai thác rộng
rãi như giấc mộng, điềm báo, sự thụ thai thần kì, cầu cúng khấn vái, biến hóa linh
dị…thì yếu tố văn học dân gian trong hai tập truyện Truyền kì mạn lục và Lan Trì
kiến văn lục đã thể hiện rất rõ. Các tác giả đã tiếp thu và sáng tạo có chọn lọc những
yếu tố hoang đường thần kì ấy vào tác phẩm của mình. Thần, tiên, ma quái,
quỷ…xuất hiên trong hai tập truyện vừa tỏ ra rất gần gũi với những hình ảnh dân
gian tưởng tượng nhưng lại rất khác biệt bởi sự sáng tạo của các nhà văn này. Tuy
46
nhiên sáng tạo của các nhà văn thiên về phản ánh hiện thực, phản ánh con người
trần thế, với những đau khổ, sung sướng, hy vọng, khát vọng tự do yêu đương.
Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục đã đưa môtip truyện dân gian như “lấy
vợ kì dị”, “gặp gỡ người chết”, “xuống thủy cung”, “đối thoại người sống và người
chết… để tạo ra câu chuyện mới. Qua nghệ thuật truyền kì, Nguyễn Dữ, đã làm cho
văn xuôi chữ Hán mang màu sắc Việt Nam đậm nét khi ông khéo khai thác những
đề tài, cốt truyện và cả tinh thần tư tưởng chung của truyện dân gian. Có thể thấy
tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ vừa có sự tương đồng vừa có sự tiếp
nối, phát triển trên nền tảng kiểu thức xây dựng cốt truyện dân gian. Đặt trong mối
quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết dưới thời trung đại, hiện tượng
Truyền kỳ mạn lục dường như là minh chứng xác đáng cho xu thế cá thể hoá vai trò
chủ thể nhà văn và nằm trong cộng đồng sáng tạo nghệ thuật. Như vậy hệ thống cốt
truyện trong Truyền kỳ mạn lục thực sự có tính tương đồng với truyện dân gian,
phản ánh trí tưởng tượng kỳ diệu của Nguyễn Dữ trong một thể loại độc đáo có tên
gọi truyền kì, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển nền văn xuôi dân tộc
dưới thời trung đại.
Đến thế kỉ XVIII sự ra đời của Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh thể hiện
bước cách tân tiếp nối thể loại truyền kì. Nhiều truyện của Vũ Trinh mang dáng dấp
và lưu giữ một số môtip của truyện kể dân gian. Tiếp thu tinh thần nhân đạo từ nền
văn học dân gian, Vũ Trinh cũng đã trở thành một trong những nhà văn tự sự đầu
tiên của Việt Nam đưa văn học về với cuộc sông nhân sinh, về thân phận những
người bất hạnh trong xã hội, đặc biệt là người phụ nữ. Lấy môtip tái sinh từ những
câu chuyện dân gian, nhà văn đã một lần nữa phản ánh sâu sắc bi kịch số phận của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến và bênh vực, tạo cơ hội cho họ được đến với
hạnh phúc thực sự trong câu chuyện Sống lại. Đặc biệt hơn trong Chuyện tình ở
Thanh Trì có cốt truyện gần như chuyện Trương Chi, kể về cô con gái của một phú
ông. Cô đẹp người đẹp nết mà bạc mệnh, ôm một mối tình đau đớn, oan trái. Cô
chết, được hỏa táng, thi thể thành tro, nhưng còn lại một khối nhỏ “to bằng cái đấu,
sắc đỏ như son, không phải ngọc, cũng chẳng phải đá, nó trong như gương, búa đập
không vỡ”... Người cô yêu là một anh lái đò nghèo đẹp trai, hát hay, sau này trở nên
47
khá giả, đến xin phú ông cho xem khối thi thể còn lại của cô. Và, khi dòng nước
mắt của anh trào ra, nhỏ xuống, khối đỏ đó “Bỗng nhiên khối đá tan chảy đầm đìa
thành máu tươi, ướt đẫm ống tay áo chàng”... Vũ Trinh đã thổi vào câu chuyện của
mình một màu sắc nhân bản mới với những tình tiết vô cùng cảm động. Hình tượng
nghệ thuật đó là một sáng tạo đặc sắc đã đưa đến thông điệp lên án sâu sắc xã hội
đương thời đã vùi dập lên khát vọng yêu thương, hạnh phúc chính đáng của con
người. Chính vì vậy tác phẩm mang đậm ý nghĩa nhân sinh và tinh thần dân tộc.
Chủ đề tình yêu trong hai tập truyện đều có điểm chung là thể hiện tình yêu
thuỷ chung son sắt, táo bạo. Cả nhân vật nam và nữ đều là những con người khao
khát sống, khao khát yêu đương đều chủ động tìm đến tình yêu. Nhưng cả hai tập
truyện lại có những điểm riêng biệt khi thể hiện tình yêu nam nữ như ở việc xây
dựng nhân vật hay nội dung thể hiện.
Viết Truyền kì mạn lục, ở mảng đề tài người phụ nữ và tình yêu của họ,
Nguyễn Dữ đã thể hiện sự mâu thuẫn trong tư tưởng [6, tr.257]. Là con người của
Nho giáo Nguyễn Dữ phải thể hiện quan điểm của mình dưới góc nhìn của Nho
giáo, cho nên Truyền kì mạn lục có nhiều câu chuyện ca ngợi, biểu dương những
phẩm chất của người phụ nữ theo quan niệm đạo đức của lễ giáo phong kiến.
Nhưng là con người của thế kỉ XIV, khi mà “khuôn khổ lễ giáo phong kiến đã bắt
đầu rạn vỡ, quan hệ nam nữ luyến ái đã có phần nào phong khoáng” [6, tr.257],
Nguyễn Dữ có những cảm thông với những mối tình, những tâm sự, tâm trạng,
những bi kịch của con người nhất là người phụ nữ. Điều đó giải thích vì sao khi viết
về những mối tình trong “Chuyện nghiệp oan của Đào thị”, “Chuyện yêu quái ở
Xương Giang”, mối tình nàng Đào, Liễu, ngòi bút của Nguyễn Dữ có nét “bay
bướm”, “uyển chuyển”, “hả hê”, “Nguyễn Dữ đã để cho nhân vật bộc lộ tâm tình
một cách say sưa” [6, tr.257]. Cũng vì là con người của Nho giáo, Nguyễn Dữ
không thể ca ngợi, chấp nhận thứ tình yêu lãng mạn, cái luyến ái có phần phóng
khoáng ấy tồn tại như là nó vốn có trong thực tế. Ông đề cập đến những nhân vật
nhưng nhằm mục đích viết ra để phê phán, coi thường như: thương nhân, ca kĩ. Vì
thế các nhân vật của ông thường bị trừng phạt. Nhà văn cũng để cho nhân vật tồn tại
ở một thế giới khác. Đấy là thế giới của những hồn ma. Đó là nguyên nhân vì sao
48
những nhân vật sống không tuân theo những nguyên tắc lễ giáo phong kiến thì chỉ
có thể là những người sau khi đã chết hoặc là hồn ma biến hóa mà thành. Nhưng
bên cạnh đó khi ông viết về mối quan hệ tình yêu, hôn nhân giữa các chàng trai và
các hồn ma, yêu, linh trong tác phẩm lại diễn ra một cách thoải mái, dễ dàng và đơn
giản với sự hiện diện của yếu tố tính dục. Đó có thể là khát vọng giao hòa tuyệt đối
giữa cá thể với vũ trụ được thể hiện qua ngôn ngữ tình yêu và ngôn ngữ tình dục.
Tất cả những quan điểm của Nguyễn Dữ được thể hiện rõ qua từng tác phẩm của
mình như: Nhân vật Nhị Khanh trong “Chuyện cây gạo” là một cô gái có nhan sắc
và chết khi còn quá trẻ. Nàng chết nhưng cái chết của nàng là cái chết của thể xác.
Phần tinh thần của người con gái ấy vẫn còn sống nhưng biến hóa thành một con
người khác. Từ lúc mới gặp Trình Trung Ngộ, Nhị Khanh đã nói: “Nghĩ đời người
ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm thấy
những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm
cuộc hoan lạc ái ân cũng không thể được nữa” và sau lần gặp gỡ đầu tiên ấy, trước
lúc chia tay Nhị Khanh lại nói “Người ta sinh ra ở đời, cốt được thỏa chí, chứ văn
chương thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng nắm đất vàng là hết chuyện”. Quan niệm
ấy của Nhị Khanh, đương nhiên là trái với quan niệm đạo đức, lễ giáo phong kiến.
Biết Trình Trung Ngộ mê thích mình mà lại thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê,
Nhị Khanh đã cố ý bảo với con hầu gái: “Ta nay rượu xuân quá chén, mê mệt nằm
dài, hầu nửa năm trời, chưa lên chơi cầu Liễu Khê lần nào cả. Đêm nay nên thăm
qua cảnh cũ để được khuây giải chút tình u uất ở trong lòng, vậy em có đi theo ta
không” cốt để Trung Ngộ nghe được và đêm ấy “đến cầu chờ sẵn”. Tiếp theo, bằng
lời nói, bằng hành động Nhị Khanh đã “cột chặt” anh chàng Trình Trung Ngộ vào
mình để Nhị Khanh thỏa mãn được những nhu cầu về sự ái ân. Trình Trung Ngộ khi
phát hiện ra chân tướng của Nhị Khanh đã phải một phen “sởn gai dựng tóc” may
mà chạy thoát về cầu Liễu Khê nhưng lại “như người mất hồn không nói được nữa”
rồi sinh ra ốm nặng. Tưởng rằng sau sự kiện ấy, Trình Trung Ngộ có thể thoát được
Nhị Khanh. Nhưng không, Nhị Khanh không buông tha cho anh chàng ấy. Nhị
Khanh vẫn “thường qua lại, có lúc đứng bên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa
sổ thì thào”. Kết cục cuối cùng bạn bè đã tìm thấy anh chàng Trình Trung Ngộ nằm
49
ôm lấy quan tài Nhị Khanh mà chết. Để giành lấy ái ân, giành lấy người tình, Nhị
Khanh quả là táo bạo và quyết liệt. Thế nhưng cái ham muốn, cái khát khao của Nhị
Khanh cuối cùng cũng không giữ được. Vì cái tội xúc phạm đến lễ giáo phong kiến,
xúc phạm đến đạo đức Nho giáo, dám phơi bày thân thể và những ham muốn nhục
cảm nên Nhị Khanh và cả Trình Trung Ngộ nữa đã bị trừng phạt, bị đào mả, phá
quan tài, vứt hài cốt xuống sông, bị đạo sĩ yểm bùa trừ yêu, tróc quái, bị lính Dạ
Xoa gông trói giải về âm phủ. Phần cuối của câu chuyện chắc chắn đã được nhà văn
viết ra với tư tưởng và lập trường Nho giáo. Để trừng phạt lối sống trái với Nho
giáo ấy, nhà văn cho nhân vật chết nhưng hồn ma không siêu thoát thêm cái tội núp
ở nơi cây gạo mà “làm yêu làm quái”. “Chuyện nghiệp oan của Đào Thị” là một
câu chuyện rất cảm động và bi thương về số phận của người phụ nữ. Đào Hàn Than
là nhân vật có cuộc sống chia làm hai giai đoạn: giai đoạn làm người và giai đoạn
làm ma. Ở giai đoạn làm người, Đào thị là một danh kỹ “thông hiểu âm luật và chữ
nghĩa” lại có tài ứng khẩu thành chương, từng được vua ngợi khen và đặt cho tiểu tự
là Hàn Than. Đào thị được tuyển sung vào làm cung nhân đến khi vua Dụ Tôn mất
nàng phải thải ra. Khi bị thải ra, Đào thị “thường đi lại nhà quan Hành khiển là
Ngụy Nhược Chân” rồi bị “vợ nhà quan Hành khiển không có con, tính lại ghen,
ngờ Hán Than tư thông với chồng, bắt nàng, đánh cho một trận rất là tàn nhẫn”.
Hàn Than mới “tức tối vô cùng, bèn đem những trâm hoa bằng vàng ngọc để thuê
thích khách vào nhà Ngụy Chân nhằm trả thù”. Sau hành động trả thù không thành,
Hàn Than phải cạo trọc đầu và trốn đến tu ở chùa Phật Tích. Đành rằng, nàng có
một hành động không thể tha thứ là thuê người thích khách nhưng cái âm mưu giết
người ấy đã không thành và đã phải trốn đến nương nhờ của Phật. Nhưng chỉ một
câu nói đùa, một lời nói có chút kiêu ngạo mà cuộc đời của Hàn Than lại ngoặt sang
hướng khác. Hàn Than kiêu ngông với một cậu bé độ 14,15 thì có gì là quá. Ấy thế
nhưng, sau khi hỏi được gốc tích Hàn Than cậu bé kia lại làm bài văn chế nhạo thân
thế tình cảnh của nàng, bài văn đã gợi lại những ám ảnh bi thương của nàng. Nó
cũng là một thế lực ghê gớm dồn Hàn Than nên nàng phải “đương đêm bỏ chùa mà
chốn”. Cái bi kịch mà người phụ nữ tài hoa ấy muốn dấu giếm nơi của Phật lại bị
khơi lên. Hàn Than phải tìm đến chùa Lệ Kỳ nhưng nàng không được sư già Pháp
50
Vân chấp nhận. Sư già dời lên núi Phượng Hoàng và ở chùa Lệ Kỳ. Hàn Than đã
gặp sư bác Vô Kỷ, một tình yêu đã nảy nở và trỏ nên nồng nàn giữa hai người. Có
lẽ đến lúc này Hàn Than mới gặp người thực sự yêu mình. Những ngày ở bên Vô
Kỷ là những ngày hạnh phúc nhất của cuộc đời nàng: “Hằng ngày hai người cùng
nhau làm thơ liên cú, phàm những cảnh vật trong núi, cái gì có thể ngâm vịnh được
đều đặt bút để vịnh đề ghi danh thắng”. Tưởng như cuộc đời của Hàn Than đã tìm
thấy nơi bến đậu, nhưng tai hoạ bất hạnh xảy ra với họ đó là “năm Kỷ Sửu, Hàn
Than có thai rồi ốm lay lắt từ mùa xuân đến mùa hạ… khiến nàng sau phải nằm
quằn quại chết trên giường cữ”. Qua câu chuyện này Nguyễn Dữ cũng muốn bộc lộ
quan điểm Nho giáo đạo đức đó là xã hội không chấp nhận tình yêu của những kẻ tu
hành, càng không chấp nhận cái tình yêu trần tục, đời thường diễn ra ở nơi chùa tự
linh thiêng này. Cái chết của Hàn Than là kết cục bi thảm của con người tài hoa
không chịu nhẫn nhục và luôn luôn vùng dậy để giành lấy cuộc sống. Oan hồn của
nàng và Vô Kỷ dù đã biến thành Long Thúc, Long Quý trải qua tám năm nhưng vẫn
bị thầy tu phát giác, bị sư cụ Pháp Vân trừng phạt.
Cũng với số phận cay đắng của người phụ nữ “Chuyện yêu quái ở Xương
Giang” Thị Nghi là con nhà nghèo không may bố chết, người mẹ đã bán nàng cho
phú thương họ Phạm để lấy tiền đưa ma cho chồng về quê. Họ Phạm thấy nàng có
nhan sắc yêu mến rồi tư thông với nàng. Vợ Phạm biết được bèn mượn cớ khác
mà đánh nàng đến chết. Tủi hờn chồng chất khiến khi chết Thị Nghi biến thành
yêu quái quấy nhiễu một vùng. Người ta đào mã Thị Nghi và quăng hài cốt nàng
xuống sông. Nàng tiếp tục sống với một kiếp khác với nỗ lực tranh lấy hạnh phúc.
Nàng gặp viên quan họ Hoàng, một người biết cảm thông chia sẻ kết bạn với
nàng. Ở với viên quan họ Hoàng nàng đã tìm thấy hạnh phúc “Đã thành vợ chồng,
tình ái rất thắm thiết. Nàng lại cử động rất hợp lẽ, nói năng biết lựa lời, họ hàng
bạn bè ai cũng ngợi khen”. Nhưng người đời không để nàng yên. Một vị cao tăng
xuất hiện để diệt trừ nàng. Hy vọng vào sự công bằng ở chốn minh ti, Thị Nghi đã
đi kiện.Nhưng họ Hoàng dùng những lời cung khai phản nàng và lời phán quyết
của Diêm Vương đối với nàng.
51
Tình yêu trong “Truyền kỳ mạn lục” là kiểu tình yêu vô điều kiện giống như
những khoảnh khắc hòa nhập ngắn ngủi nhưng tuyệt đối giữa con người với cái vô
cùng vô tận của vũ trụ. Hai nhân vật Đào và Liễu trong “Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây”
thể hiện rất rõ. Đào và Liễu vốn là những hồn hoa thác hoá thành người. Lời giới
thiệu về thân thế của họ chỉ là sự đánh lừa anh học trò còn non nớt Hà Nhân những
điều họ muốn có là hạnh phúc ái ân:
“Chúng em một người họ Liễu, tên gọi Nhu Nương, một người họ Đào, tên
gọi Hồng Nương, nguyên là những tỳ thiếp của quan Thái sư. Từ ngày quan Thái sư
qua đời, chúng em vẫn phòng thu khóa kín. Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em
muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất xuân quang.
Hà Nhân rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình, chuyện trò đằm thắm. Chàng
lả lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thò nói rằng.
- Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉ e tình hoa run
rẩy, tơ liễu điên cuồng, oán lục thẹn hồng, làm giảm thú phong lưu đi mất.
Hà Nhân nói:
- Thì hãy thử thôi, tôi chẳng dám đem chuyện mây mưa làm "khó dễ" hai nàng.
Rồi tắt đèn đi nằm. Tựa ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát sóng hoa đào
nghiêng ngả. Hà Nhân giữa lúc gối chăn êm ấm, bảo hai nàng cùng làm thơ ngâm
chơi”[6, tr.250].
Mối tình giữa Hà Nhân với hai nàng Đào, Liễu chỉ là biểu tượng cho những
nhu cầu ái ân của người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi mà nhan sắc và tuổi
xuân của họ đang bị bỏ rơi. Những lời vĩnh biệt của hai nàng với Hà Nhân nghe thật
xót xa, cảm động.
Như vậy những nhân vật của trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ đã cố
gắng đi tìm lấy tình yêu hạnh phúc và sự ái ân nhưng hạnh phúc đó chỉ thoảng qua
rồi lập tức thân phận họ lại tàn lụi và chìm đắm vào bóng tối. Số còn lại rất ít tìm
được hạnh phúc.
Vấn đề tình yêu bắt đầu giảm dần từ Lan Trì kiến văn lục. Những tác phẩm
truyền kì xuất hiện sau Truyền kì mạn lục lại không kế thừa được yếu tố tính dục ấy.
52
Bản thân tác phẩm này có đề cập tình yêu nhưng không mạnh mẽ, táo bạo, mãnh liệt
với những duyên kì ngộ, tình người duyên ma... như cách viết của Nguyễn Dữ. Tình
yêu trong Lan Trì kiến văn lục vẫn là sự thủy chung, son sắt, mãnh liệt nhưng gắn liền
với sự hi sinh, ít cảnh chăn gối. Viết về chủ đề tình yêu nam nữ, hay câu chuyện hôn
nhân, Vũ Trinh rất trân trọng, ca ngợi và yêu mến người phụ nữ và nho sinh. Họ thuộc
nhiều thành phần xã hội khác nhau. Nhân vật nữ và nam của Vũ Trinh đều đẹp, có tài
năng, sống hết mình với tình yêu, sẵn sàng trao gửi mình cho tình yêu.
Trong truyện “Trạng nguyên họ Nguyễn”, nhân vật phụ nữ chính là tiểu thư
con quan Ngô Hầu và nhân vật trung tâm là Nguyễn Đăng Đạo. Ngày Nguyên tiêu
đến chơi chùa Báo Thiên gặp một cô gái đi lễ chùa rất xinh đẹp. Anh ta yêu mến dò
la hàng quán bên đường, biết đó là tiểu thư con quan Ngô hầu, chỉ huy quân cấm
binh. Một đêm anh ta trèo rào, đục tường vào phòng cô gái. Cô gái giật mình sợ hãi
nhưng khi biết đó là chàng trai gặp ở chùa Báo Thiên nên không gọi người nhà mà
bảo hãy đi ra nhanh. Anh ta chẳng sợ hãi, người hầu báo quan. Ngô Hầu nổi giận sai
đầy tớ bắt trói lại đợi sáng mai giải đến pháp quan trị tội. Nhưng hôm sau có bạn
đồng môn của Ngô hầu bảo hãy thử tài Nguyễn Đăng Đạo xem sao. Đăng Đạo liền
phóng bút thảo ra bài văn rất hay. Ngô hầu tha tội, sai làm nhà cho ở riêng, cấp tiền
cho ăn học. Năm sau anh ta đỗ đầu thi Hương. Ngô Hầu cho làm lễ ở rể. Năm sau
nữa đỗ đầu thi Hội và khi thi Đình đỗ Trạng Nguyên. Như vậy Nguyễn Đăng Đạo
nhờ tài năng mà lấy được vợ đẹp lại con nhà gia thế.
Truyện thứ hai “Chuyện tình ở Thanh Trì” kể về mối tình giữa nhân vật nữ
là cô con gái nhà giầu họ Trần với chàng trai lái đò nghèo họ Nguyễn. Truyện kể
rằng, Nguyễn Sinh người Thanh Trì, khôi ngô tuấn tú nhưng nhà nghèo nên phải
nghỉ học làm nghề lái đò. Chàng có giọng hất rất hay khiến người nghe phải ngây
ngất. Cô con gái nhà giàu họ Trần bên bờ sông say mê giọng hát của chàng. Khi
nhìn thấy mặt chàng không sao quên được rồi bảo chàng nhờ người mối manh đến
hỏi, nhưng phú ông cự tuyệt. Chàng phẫn chí bỏ nhà đi làm ăn xa. Còn cô gái quá
đau buồn sinh bệnh thuốc men chữa mấy cũng không khỏi. Trước khi mất, nàng nói
với cha: “Trong người con chắc có mật vật lạ. Sau khi mất, xin cha cho hoả tang để
xem đó là vật gì”. Người cha làm theo lời con thấy sót trong đống xương tàn một
53
vật tao bằng cái đấu, sắc đỏ như son, không phải ngọc cũng không phải đá, trong
như gương, búa đập không vỡ. Nhìn kĩ thì thấy trong khối đã ấy có một con đò.
Trên đò một chàng trai trẻ tuổi đang nằm hát. Còn về phần Nguyễn Sinh khi lên
Cao Bằng nhờ có giọng hát hay nên được Trấn tướng quý trọng. Chàng kiếm được
nhiều tiền trở về làng nhưng hay tin nàng đã chết. Chàng đến lễ điếu nàng và xin
phú ông cho xem vật trong hộp. Chàng khóc, khi giọt nước mắt chảy xuống thì vật
đó tan thành nước biến thành máu tươi chảy đầm đìa vào tay áo chàng.
Tiếp theo truyện “Sống lại” cũng kể về mối tình thắm thiết giữa cô con gái
phú ông và nho sĩ Đào Sinh. Vũ Trinh cũng giới thiệu Đào Sinh đẹp trai, học giỏi.
Nhưng khi viết về mối tình giữa cô gái và Đào Sinh tác giả không thiên về miêu tả
khoảnh khắc ân ái mặn nồng mà để nhân vật sống theo nguyên tắc lễ giáo phong
kiến “Chàng là kẻ sĩ tài ba đọc sách, thiếp cũng đang ở chốn phòng khuê chờ ngày
lấy chồng, chỉ mong được người như chàng để hầu hạ thôi. Nếu chàng không chê
thiếp nghèo hèn quê mùa, thì xin mượn người mối mai đến nói với cha mẹ thiếp.
Còn làm việc cẩu thả tạm bợ, thì thiếp không bao giờ dám vâng lời. Có mấy ai buổi
đầu đi lại bất chính mà ăn ở thuỷ chung được với nhau, vả chăng, coi khinh thân
mình mà trao gửi cho người, đâu phải là điều mong được của bậc quân tử? Chàng
hay mau mau về nghỉ, chớ để đến nỗi tai tiếng cả thanh danh và đức hạnh đều bị
tổn thất!” [39, tr.55]. Truyện cũng ca ngợi sự thuỷ chung của nho sĩ Đào Sinh khi
cha cô gái không đồng ý hôn sự vì thấy Sinh nhà nghèo, hôn nhân không thành,
Sinh bỏ lên Kinh du học thi Hương đỗ đầu. Sinh trở về quê, cô gái đã có chồng,
chồng cô gái ghen đã đánh chết. Sinh ra lễ mộ cô gái thấy cô gái chưa chết mang về
nhà chữa chạy thuốc thang và hai người sống với nhau.
Những nhân vật phụ nữ trong Lan Trì kiến văn lục luôn giữ trọn vẹn phẩm
tiết nói lên nhân cách của người phụ nữ. Nhân vật nữ trong Lan Trì kiến văn lục
chẳng những xinh đẹp, tài hoa mà còn rất trong sáng. Đến một cô kỹ nữ cũng rất
hiền thục, hiếu thảo với cha mẹ. Nàng ca kỹ trong truyện “Ca kỹ họ Nguyễn” dẫu có
số phận long đong, dẫu phải trải kiếp phong trần dãi dầu, nàng cũng không bỏ mặc
người mẹ già. Người em trai làm tan gia bại sản, nàng đã dẫn mẹ rong ruổi khắp nơi
kiếm ăn. Khi mẹ qua đời, nàng lo ma chay chu đáo. Nàng còn có một cá tính rất
54
mạnh mẽ, chủ động mạnh dạn kiếm tìm hạnh phúc. Mạnh dạn đến với tình yêu.
Định kiến xã hội quá khắt khe với nghề ca nữ nên dù nàng có tài năng, đoan chính
đến mấy, tình yêu hạnh phúc vẫn mãi không đến. Thậm chí nàng còn phải chịu số
phận đa đoan bất hạnh. Là người tài sắc, đoan trang, đức hạnh, nhưng gia cảnh, tình
duyên của cô lại thật buồn thảm. Nghe lời kể của người kỹ nữ, người đọc thương
xót về số phận bơ vơ, lạc loài, tình duyên hẩm hiu, lận đận của nàng. Chuyện phản
ánh một sự thật trong xã hội phong kiến: hễ là người phụ nữ có sắc, có tài thì đều
khổ đau, bất hạnh. “Phải chăng những người tài mỹ vẹn toàn thì dẫu là con gái con
tạo cũng ghen ghét” (Lời bàn cuối truyện).
Một câu chuyện tiếp mạch của chủ đề tình yêu nam nữ là “Tháp báo ân”.
Chuyện vừa có thứ tình yêu tranh chấp với số phận của cô gái mang bệnh nan y lại
vừa có thứ tình yêu dâng hiến, thứ tình yêu vị tha của nàng. Ở đó, người đọc cũng
nhận thấy tình cảm ân nghĩa sâu nặng của chàng sĩ tử ngày nào đối với một người
con gái bạc mệnh; một hành xử ân tình thủy chung của kẻ có học, tri ân một người
đã thay đổi số phận cho mình. Cô gái xinh đẹp trong truyện đã mắc chứng bệnh
phong, mọi người đều xa lánh. Cho đến một đêm mưa gió, cuộc đời cô như được tái
sinh. Chàng thư sinh trên đường khoa cử đã nương nhờ qua đêm tại nhà cô gái,
duyên số gặp nhau, run rủi cho họ. Ân tình đằm thắm, cô gái mãn nguyện trong
hạnh phúc tràn đầy. Rồi Sinh cũng phải từ biệt cô gái lên kinh đi thi, còn đối với cô
gái thì dư âm ngọt ngào chưa tan đi, âu sầu lại ngập đến. Cô đớn đau, day dứt dằn
vặt không thôi: “Đời tàn nhơ bẩn, may được gặp nhau trong bóng tối. Nếu nhìn
nhau lúc sáng trời thì một tối giao hoan đâu mà có được!. Ai hay một độ gió xuân
lại tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận đến suốt đời! Hỡi ơi Lưu lang, với mặt
mũi này mà gặp lại chàng, thiếp chịu đựng sao nổi!” [39, tr.147]. Cô gái cứ tự hỏi
rồi triền miên trong đau buồn, âu sầu rồi chết. Cô ra đi mang theo mối tình chung
còn bỏ dở. Hình đã nằm xuống đây mà bóng đã theo chàng Sinh lâu rồi. Nỗi khát
khao yêu thương vẫn chưa hết. Vì nặng tình yêu thương mà nàng không thể để Sinh
một mình đương đầu với những thử thách ở thế gian. Mảnh hồn tàn đã trở về trần
gian cầu vinh danh cho người yêu. Qua câu chuyện tình buồn này, ta thấy tình yêu
của cô gái dành cho chàng Sinh thật vị tha. Nàng đã hy sinh tất cả cho người mình
55
yêu, chung tình hết đỗi và tình yêu ấy cũng được đền đáp một cách xứng đáng. Biết
tin thi đậu là do cô gái đó giúp. Chàng nho sinh đã tìm đến cô gái giúp mình đỗ đạt.
Nhưng khi biết rõ về bệnh tình và cái chết của cô gái mắc bệnh phong, dù mối
duyên đầu trao nhau không có tờ hôn thú, dù nàng đã nằm xuống nhưng chàng Sinh
đã coi nàng là vợ, an táng nàng theo lễ vợ chồng. Chỉ đó thôi cũng làm nàng an lòng
và mỉm cười hạnh phúc nơi chín suối. Nhân vật phụ nữ được Vũ Trinh xây dựng
với cách sống trọn nghĩa thuỷ chung với bạn tình. Sống có trước có sau ở đây được
hiểu là nhận ơn và biết trả ơn.
Như vậy nhân vật của Vũ Trinh mang khá đầy đủ phẩm chất đẹp đẽ và giữ vị
trí chủ chốt trong tác phẩm. Vũ Trinh đã đánh dấu sự tiếp bước những tiến bộ và
chuyển biến trong văn học hướng về số phận con người nhỏ bé trong xã hội mà
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ đã tạo nên trước đó. Trong xã hội phong kiến với
những luật lệ hà khắc “tam tòng tứ đức”, “nam tôn nữ ti” nên người bình dân thành
nạn nhân của những thành kiến đó của xã hội bất công ngang trái. Vũ Trinh đã vượt
lên khẳng định vị trí của con người đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội.
Nhìn chung, trong truyện truyền kì Việt Nam, tình yêu đôi lứa xuất phát từ
tình cảm tự do yêu đương, không bị hạn chế bởi lễ giáo phong kiến. Khi sống cùng
nhau, tình cảm của nhân vật càng mãnh liệt, đắm say, không gì chia cắt. Khi dành
những trang viết mô tả tình yêu lứa đôi, điều các tác giả muốn hướng tới nhất là
khẳng định sự lên ngôi và chiến thắng tuyệt đối của tình yêu tự do. Chính tư tưởng
yêu đương mãnh liệt, đôi khi táo bạo, có phần buông thả của các nhân vật đã gây
được ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc, đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của
công cuộc giải phóng con người với những nhu cầu chính đáng
2.3. Ý nghĩa chủ đề tình yêu nam nữ đối với sự phát triển thể loại
Chủ đề tình yêu nam nữ góp phần thể hiện sự đổi mới quan niệm văn học.
Tình yêu nam nữ tự nó ẩn chứa một sức mạnh vô hình và mạnh mẽ. Đề tài tình yêu
là muôn thuở, tồn tại song hành cùng thời gian.Tùy từng thời kỳ mà nó được khoác
lên mình bộ cánh khác nhau: Khi thì uyển chuyển nhẹ nhàng, khi thướt tha
và quyền quý, khi lại dân dã bộc trực, lúc lại quẫy đạp ngang tàng… Tình yêu cũng
là một đề tài vĩnh cửu trong văn học. Hễ có thơ có văn là phải có tình yêu, nếu
56
không muốn nói là chính nhờ có tình yêu mà con người mới dạt dào cảm hứng để
sáng tác nên những vần thơ óng ả cũng như những câu văn trau chuốt. Sự đẹp đẽ và
linh thiêng của tình yêu vốn đã được cha ông chúng ta nhận ra và ca ngợi từ lâu.
Tình yêu trong thơ văn hướng ta đến những khát khao, ước vọng tốt đẹp trong cuộc
sống, giúp ta vượt qua những khó khăn, trắc trở lứa đôi, đôi khi còn khiến ta thêm
giữ vững tình cảm trong lòng. Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn
học ở mọi giai đoạn từ văn học dân gian truyền miệng đến nền văn học viết từ xưa
đến nay. Nhưng đã là người Việt Nam thì thật thiếu sót nếu ta không nhớ đến kho
tàng văn chương của cha ông từ ngàn xưa để lại: các sáng tác về tình yêu trong văn
học trung đại. Văn học phản ánh cuộc sống con người vì thế địa hạt tình yêu trở
thành mảnh đất màu mỡ cho văn học, trong đó văn học trung đại đóng góp khối
lượng lớn những tác phẩm viết về tình yêu đôi lứa.
Chủ đề tình yêu nam nữ góp phần đổi mới lí tưởng thẩm mỹ, quan niệm
thẩm mỹ được bộc lộ rõ nét qua cái nhìn về cuộc đời và con người. Quan niệm thẩm
mỹ và nhân sinh của các nhà văn trong truyện truyền kì chúng ta không chỉ thấy có
sự hiện diện của tư tưởng Thiên mệnh luận trong Nho giáo mà còn chịu nhiều ảnh
hưởng của thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo và Lão giáo. Các tác giả nhìn
cuộc đời bằng con mắt của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, yêu thương, xót xa cho
thân phận con người. Cái đẹp theo quan niệm Nho giáo: tâm đạo, chí hướng thượng.
Cái đẹp trong truyện truyền kì những truyện viết về tình yêu nam nữ đó là tình yêu
tự do, thuỷ chung, hiến dâng. Với Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục ông viết về
tình yêu nam nữ thiên về màu sắc nhục cảm. Vì ông là con người của Nho giáo nên
không thể ca ngợi, chấp nhận hoặc cho phép tình yêu lãng mạn, tình dục phóng
túng, luyến ái phóng khoáng tồn tại như là vốn có trong thực tế. Nhà văn phải cho
nó tồn tại ở một thế giới khác và đó là thế giới của những yêu ma không có thực.
Chính vì điều đó ông có định kiến với những thương nhân, lái buôn, nho sĩ biến
chất, ca kĩ nên ông để cho nhân vật của mình tìm lạc thú ở cõi âm. Đó cũng là
nguyên nhân những nhân vật sống không theo nguyên tắc lễ giáo phong kiến thì chỉ
có thể là người đã chết biến thành ma, tinh cây mà thành. Qua những câu chuyện
tình yêu giữa người với yêu ma đó, tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: phản
ánh số phận con người qua số phận người phụ nữ cho dù đó là yêu, ma, hồn. Đề cao
57
những khát vọng chân chính của người phụ nữ - khát vọng sống, khát vọng tình yêu
đôi lứa, Nguyễn Dữ cũng đồng cảm với những khát vọng ân ái của con người. Khác
với Nguyễn Dữ, Vũ Trinh có cái nhìn tiến bộ của mình về cuộc sống hạnh phúc của
con người nơi trần gian, quan niệm về tình yêu của Vũ Trinh cũng thể hiện một
nhãn quan tiến bộ. Đặc biệt những nhân vật nữ của Vũ Trinh họ “coi trọng chữ
trinh” bởi đó là những giây phút hạnh phúc, có khi là duy nhất trong đời. Đây là
điểm mới trong quan niệm về tình yêu nhục cảm của thời đại Vũ Trinh so với
Nguyễn Dữ. Chính vì những thay đổi trong quan niệm thẩm mĩ đã làm thay đổi
quan niệm về con người. Qua các truyện trong Lan Trì kiến văn lục, chúng ta thấy
các nhân vật nữ hiện lên đều là những người phụ nữ rất hiếu hạnh, giàu đức hy sinh,
cam chịu, chấp nhận thiệt thòi về phía bản thân để đem lại bình yên, hạnh phúc cho
người thân. Vũ Trinh muốn ngợi ca những tấm gương hiếu đễ của con người.
Chủ đề tình yêu nam nữ góp phần thể hiện sự đổi mới đề tài, chủ đề. Trong
văn học trung đại đề tài, chủ đề chủ yếu viết về tình yêu thiên nhiên đất nước con
người, thương xót cho số phận con người. Nhưng truyện truyền kì đã thể hiện nhiều
đề tài phong phú: như xã hội, cuộc sống con người và đặc biệt nói về tình yêu nam nữ
các tác giả của Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục đã thể hiện sự tự do yêu
đương, khát vọng tình yêu mạnh mẽ. Lan Trì kiến văn lục khá nhất quán về chủ đề tư
tưởng. Chủ đề rõ nhất trong truyện là hiện tượng phá vỡ khuôn phép của con người
thời đại. Sự phá vỡ ấy có thể làm cho con người trở nên tàn bạo, mất hết nhân tính.
Trên phương diện này, ngòi bút của Vũ Trinh phê phán nghiêm khắc.
Nghệ thuật như một hình thức của lý tưởng, có chức năng điều chỉnh đời
sống tinh thần của con người, đền bù cho nhân loại những gì chưa có, những gì
đang ao ước. Nó là một hình thức đặc biệt để con người tư duy và cảm nhận cuộc
sống. Nghệ thuật không chỉ hướng ra thế giới mà còn hướng vào con người. Văn
học nghệ thuật khác khoa học ở chỗ, nó không phải phát minh mà chủ yếu là lý
giải, nghiền ngẫm về những điều muôn thuở. Những tác phẩm văn học, mà trước
hết là văn xuôi, chính là những bộ bách khoa về cuộc sống. Ở đó quá trình nhận
thức đồng nghĩa với sự giác ngộ, tự hiểu ra bởi vì tác phẩm văn học giúp người
ta trải qua những tình huống hay số phận.
58
Tiểu kết Chương 2
Nhìn chung, với chương này đề tài đã khái quát một cách chi tiết nội dung
của hai tác phẩm trong cách thể hiện, vận động của chủ đề tình yêu nam nữ. Ở
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục cả hai tác giả đã đưa người đọc như lạc
vào một thế giới khác, không phải là cái xã hội “phân quyền, cát cứ, khởi nghĩa
nông dân” hay những cương thường lễ giáo đè bẹp khát vọng tình yêu. Ở đó chẳng
phân biệt người với ma, cõi âm với cõi dương. Ở đó chỉ có tình yêu say đắm nồng
nàn đẹp như một giấc mộng. Ở đó chỉ có khao khát ân ái trần thế, hạnh phúc vỡ oà
khi những ham muốn về tình yêu, tình dục được thăng hoa. Nhưng ở hai tác phẩm
nội dung phản ánh cũng khác nhau, cùng nói về nữ giới hay nam giới nhưng thể
hiện ở hai phương diện khác nhau. Nếu như Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ chủ
yếu là phê phán và nhân vật đều bị trừng phạt thì trong Lan Trì kiến văn lục nhân
vật nam hay nữ đều được ông ca ngợi. Với những ghi chép về chuyện tình yêu nam
nữ của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh đã đưa người đọc đến một thế giới đa tạp, có sáng
và có tối, có tốt đẹp và xấu xa, lại có thế giới thần bí mà lôgíc thông thường không
thể lí giải được. Nhưng qua đó giúp người đọc hiểu biết sâu rộng về cuộc sống, tự
nhiên, con người… trong xã hội Việt Nam đương thời. Như vậy, người cầm bút bày
tỏ thái độ của mình trước hiện thực cuộc sống ca ngợi những mối tình chung thủy.
Đồng thời gửi gắm nỗi niềm ưu ái, những băn khoăn trước cuộc đời, những suy
nghiệm tâm tư trước cuộc sống nhân thế.
59
Chương 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ
TÌNH YÊU NAM NỮ TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ
(QUA TRUYỀN KÌ MẠN LỤC VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC)
3.1. Kết cấu nghệ thuật của truyện có chủ đề tình yêu nam nữ
3.1.1. Kiểu kết cấu truyện mang chủ đề tình yêu nam nữ
Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh thể
nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận. Tất cả những yếu tố, bộ phận đó được nhà
văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một nội dung
nghệ thuật nhất định là kết cấu. Nói cách khác, kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật
sinh động, phức tạp của tác phẩm văn học. Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm.
Nếu khái niệm cốt truyện nhằm chỉ sự liên kết những sự kiện, hành động, biến cố...
trong tác phẩm tự sự và kịch thì kết cấu là một khái niệm rộng hơn nhiều.
Cần có sự phân biệt giữa kết cấu và bố cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các
chương, các đoạn, các khổ thơ... Ðây chỉ là sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác
phẩm. Nói cách khác bố cục mới chỉ là kết cấu bề mặt của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu
rộng và phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố của tác phẩm,
kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong, những mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố
thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của bố cục.
Trong truyền kì cổ điển thường có kiểu kết cấu đóng, khép kín, kết thức
truyện cũng là kết thúc một sự việc hay một cuộc đời, số phận con người. Vào cuối
truyện các tác giả truyền kì cổ điển thường hay dùng các yếu tố kỳ ảo để mang lại
công bằng cho nhân vật, đấy là cách kết thúc có hậu thường thấy trong văn học
truyền thống. Nhưng đến các truyện trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có kết
cấu phức tạp hơn so với những truyện dân gian hoặc thần phả mà tác giả mượn cốt
truyện để xây dựng. Chẳng hạn: trong Chuyện cây gạo có kết cấu mở rộng hơn. Đó
là sự việc Trung Kỳ Ngộ chàng giật rách áo mà chạy được thoát được Nhị Khanh về
đến cầu Liễu Khê như kẻ mất hồn không nói được nữa. Nhưng tác giả không kết
dừng ở đó mà còn thêm phần kết truyện đối với nhân vật Trung Kỳ Ngộ:“Từ đấy
Trung Ngộ sinh ra ốm nặng. Còn Nhị Khanh cũng thường qua lại, có lúc đứng trên
bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa sổ nói thì thào. Trung Ngộ cũng vẫn thường
60
ứng đáp với nàng và muốn vùng dậy để đi theo. Người trong thuyền phải lấy dây
thừng trói lại thì chàng mắng:
- Chỗ vợ ta ở có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào, ta phải đi theo
chứ không thể luẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được; can dự gì đến các người
mà dám đem dây trói buộc ta thế này.
Một đêm, người trong thuyền ngủ say, đến sáng thức dậy thì thấy mất Trung
Ngộ. Họ vội đến Đông thôn tìm, thấy chàng đã nằm ôm quan tài mà chết, bèn phải
thu liệm chôn ngay ở đấy.”
Hai người sau đấy biến thành yêu ma, làm tai làm vạ cho người làng, bị
người làng đào mả, vứt hài cốt xuống sông. Linh hồn hai người nương tựa vào cây
gạo, tiếp tục làm yêu làm quái. Sau có một vị đạo nhân dùng phép trừng phạt, bị
lính đầu trâu gông trói cả hai giải về âm phủ.
Nhưng đến giai đoạn thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX cách tổ chức kết cấu
truyện có một sự đổi mới: kết thúc truyện là kết cấu mở. Câu chuyện đã kết thúc
nhưng số phận, cuộc đời nhân vật vẫn là mối băn khoan của người đọc. Các kết thúc
truyện của Vũ Trinh trong Lan Trì kiến văn lục cũng không chỉ là kết thúc mở mà
còn là những kết thúc khác xa với cách kết thúc của truyện truyền kì truyền thống:
đó là kết thúc không có hậu. Truyện “Ca kỹ họ Nguyễn” kết thúc truyện cô gái từ
chối sự giúp đỡ của chàng nho sĩ năm xưa đã chịu ơn mình và ra đi không bao giờ
gặp lại. Kiểu kết thúc này mang đậm giá trị hiện thực, khiến người đọc phải suy
nghĩ về những vấn đề trong cuộc sống mà tác giả đã đưa ra.
3.1.2. Sự biến chuyển của yếu tố kỳ ảo và yếu tố thực
Yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong đời sống văn học nhân loại và nó
hoàn toàn không hề xa lạ với độc giả Việt Nam. Yếu tố kỳ ảo đã tạo thành một dòng
chảy liên tục trong lịch sử của văn học dân tộc. Yếu tố kỳ ảo là sản phẩm của trí
tưởng tượng, là phương thức sáng tạo nghệ thuật xuất phát từ chính nghệ thuật tinh
thần, thế giới nội tâm của con người. Là sự phát triển “vượt ngưỡng của tư duy lãng
mạn lẫn tư duy hiện thực sang vùng siêu thực”. Yếu tố kỳ ảo tồn tại dưới hình thức
huyền bí, thần linh, ma quỷ, phi thường, siêu tự nhiên… Nó không chỉ nhằm mục
đích tạo ra sự hoang mang, sợ hãi, li kỳ trước sự xâm nhập của cái siêu nhiên, cái
không thể xảy ra vào thế giới tự nhiên mà còn là phương tiện để chuyển tải tư
61
tưởng, ước mơ, khát vọng, bài học nhân sinh, đạo lý cuộc đời, là chìa khóa mở cánh
cửa bí ẩn về thế giới vô thức của con người, là sự lý giải hợp lý cho những khiếm
khuyết của tư duy lý tính trước các hiện tượng không thể dùng quy luật thông
thường để giải thích. Cái kỳ ảo đó được thể hiện qua các yếu tố cơ bản như kỳ ảo tín
ngưỡng dân gian, kỳ ảo tôn giáo, yếu tố chiêm mộng… Sử dụng yếu tố kỳ ảo để xây
dựng cốt truyện và nhân vật vốn là tính chất của truyện truyền kỳ. . Nhờ yếu tố kỳ
ảo mà tác phẩm truyện truyền kì có sức hấp dẫn, mê hoặc đối với người thưởng
thức. Đây là bút pháp nghệ thuật đặc trưng ở thể loại truyền kì, cũng giống như
trong truyền thuyết, thần thoại, hay truyện cổ tích đều không thể thiếu được sự xuất
hiện của những nhân vật siêu nhiên, thần thánh ma quỷ… Hơn thế nữa yếu tố kỳ ảo
được sử dụng còn có chức năng che giấu dụng ý của nhà văn thông qua yếu tố kì ảo.
Còn yếu tố thực trong tác phẩm văn học được các tác giả lấy đề tài, cảm
hứng, bối cảnh, nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian… từ thực tế đời sống xã
hội. Bởi vậy việc sử dụng kết hợp giữa yếu tố kỳ ảo và yếu tố thực làm cho những
câu chuyện truyền kì hết sức gần gũi, thậm chí gây dựng niềm tin chúng là có thật.
Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ là tác phẩm truyền kì đỉnh cao của truyền kì
Việt Nam thời trung đại. Nó không chỉ là tác phẩm ghi chép lại những câu chuyện
dân gian thông thường mà có dấu ấn sáng tác rất rõ rệt của tác giả.Truyền kì mạn
lục phản ánh hiện thực, phản ánh con người qua yếu tố kỳ ảo, lấy cái kỳ ảo để nói
lên cái thực tại, do vậy nhân vật kỳ ảo xuất hiện khá thường xuyên. Trong thế giới
khác thường, kỳ lạ ấy những câu chuyện về tình đời, tình người được tác giả gởi
gắm một cách tài tình thông qua những biến cố, sự kiện của tác phẩm. Và
trong Truyền kì mạn lục, những câu chuyện về tình yêu giữa con người với yêu ma
là những truyện đặc sắc, hấp dẫn nhất ta không thể không kể tới. Sức hấp dẫn ấy
được tạo ra từ chính khả năng tưởng tượng độc đáo của nhà văn. Đầu tiên là câu
chuyện tình yêu giữa người với hồn ma trong “Chuyện cây gạo”. Trình Trung Ngộ
là một chàng trai thuộc gia đình giàu có, đẹp trai, ít chữ nghĩa, theo nghiệp buôn
bán của gia đình. Tình cờ, trong một lần đi buôn ở phía Nam gặp được hồn ma đã
chết nửa năm của nàng Nhị Khanh mới 20 tuổi, xinh đẹp lại có tài thơ phú, đàn ca.
Trung Ngộ sớm mê mẩn hồn ma Nhị Khanh và lại được nàng đáp lại. Hai người
62
đêm nào cũng ân ái hết sức thỏa mãn dưới thuyền trong một tháng liền. Sau khi biết
được thân thế Nhị Khanh, Trung Ngộ đã ốm nặng. Hồn ma Nhị Khanh lúc xa xa ỉ
ôi, lúc thì thào bên giường bệnh Trung Ngộ. Cuối cùng Trung Ngộ chọn cách chết
bên xác Nhị Khanh, trở thành hồn ma quấn quýt, thỏa sức ân ái cùng nhau mặc cho
người người ngăn cản. Người ta có thể chê trách hồn ma Nhị Khanh là phường lẳng
lơ, đã có chồng (khi còn sống) lại đi quyến rũ, tư thông với người khác (khi là ma),
hại chết Trung Ngộ. Theo quan niệm lúc bấy giờ: người phụ nữ phải công dung
ngôn hạnh, dù chết cũng phải làm ma nhà người và quan niệm những người con gái
xinh đẹp thường mà mối tai họa đặc biệt khi đó lại là một hồn ma. Nhưng nếu
không phải là khát khao dục vọng từ hai bên thì cớ gì Trung Ngộ lại gọi Nhị Khanh
là vợ: “Chỗ vợ ta ở có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào ta phải đi theo chứ
không thể luẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được, can dự gì đến các người mà
dám đem dây trói buộc ta thế này”. Trung Ngộ không quen được nàng liền mang
nỗi u uất trong lòng, đến được với nàng liền vui mừng trong lòng, tự coi mình là tri
âm của Nhị Khanh, ca ngợi tài năng thơ ca của nàng sánh với Dị An đời xưa. Dù
tình yêu giữa hồn ma Nhị Khanh với Trung Ngộ là tình yêu xuất phát từ dục vọng
bản năng, họ đến với nhau để thỏa mãn tình dục, nhưng đó cũng là nhu cầu hết sức
chính đáng của đôi lứa. Tình yêu của họ trái với luân thường, đạo lí của Nho giáo
lúc bấy giờ. Nếu Nhị Khanh còn sống thì càng không thể có tình yêu vì dù sao nàng
cũng chỉ là một người vợ bị vứt bỏ, mà đã là vợ người dù góa bụa bần hàn cũng
phải giữ tiết. Chết khi mới tuổi đôi mươi lại ở cảnh ngộ như vậy, hồn ma Nhị
Khanh luyến tiếc hạnh phúc đôi lứa ở trần gian mà nàng chưa từng hưởng, luyến
tiếc dục vọng chưa được thỏa khi còn sống. Nguyễn Dữ đã để cho đôi lứa thoát khỏi
mọi ràng buộc của quan niệm đạo đức cộng đồng bằng cái chết, để họ sau khi chết
có thể thỏa sức yêu đương, thỏa sức ân ái. Có lẽ chỉ có làm ma - nhân vật không
tưởng này tác giả mới dám miêu tả những hành động không tưởng ở đời thực.
Không chỉ biểu hiện qua hệ thống nhân vật hư cấu, yếu tố kỳ ảo của Truyền
kì mạn lục còn được thể hiện qua không gian, thời gian nghệ thuật. Đó là không
gian, thời gian xuất hiện của các nhân vật, đặc biệt những nhân vật ma nữ hay yêu
hoa trong các câu chuyện “Chuyện cây gạo, Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây…”
63
Bên cạnh những nhân vật kỳ ảo thì Truyền kì mạn lục những nhân vật được
tác giả giới thiệu nguồn gốc xuất thân rõ ràng gắn với những không gian, thời gian
rất thực, rất cụ thể: như quê quán chỗ ở, năm hiệu như: “Trình Trung Ngộ là một
chàng trai đẹp ở đất Bắc Hà, nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng nam buôn bán.
Chàng thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê rồi đi lại vào chợ Nam Xang”, “Hà
Nhân, người học trò quê ở Thiên Trường, khoảng năm Thiệu Bình ngụ ở kinh sư để
tòng học cụ ức Trai.”, “Ả danh kỹ ở Từ Sơn là Đào Thị, tiểu tự Hàn Than, thông
hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên hiệu Thiệu Phong thứ năm (1345) đời nhà Trần,
nàng được tuyển sung vào làm cung nhân, hằng ngày chầu vua ở tiệc rượu hay ở
chiếu bạc.”. Như vậy tác giả Nguyễn Dữ đã có sự kết hợp chặt chẽ nhuần nhuyễn
không gian và thời gian thực với không gian và thời gian kì ảo nhờ sự kết hợp này
mà các nhân vật dễ dàng thể hiện tình cảm của mình từ cuộc sống thực sang cõi ảo.
Với yếu tố kỳ ảo và yếu tố thực còn được thể hiện trong tác phẩm Lan Trì
kiến văn lục, bên cạnh những câu chuyện chứa đựng yếu tố thực thì còn có những
câu chuyện xuất hiện yếu tố kỳ ảo. Người đọc nhận thấy, cái thần kỳ trong tác phẩm
của Vũ Trinh chính là sự giao thoa của nhiều quan điểm xã hội khác nhau, trong đó
Nho giáo tất nhiên đóng vai trò của kẻ phán xét. Ở đây, những tư tưởng của Đạo
giáo vẫn chiếm một vị trí nổi bật, sâu xa. Lan Trì cũng tìm thấy phần nào trong tư
tưởng và huyền thoại của Đạo giáo một cái gì đó gần gũi với quan điểm sáng tác
của mình. Yếu tố kỳ ảo ngoài việc được thể hiện qua tôn giáo, còn thể hiên qua yếu
tố chiêm mộng. Tác phẩm Lan Trì kiến văn lục xuất hiện đã phần nào đáp ứng được
nhu cầu của bạn đọc. Vũ Trinh đã đưa yếu tố kỳ ảo vào trong các câu chuyện của
mình, thông qua các truyện sau: Sống lại, Câu chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp báo
ân. Yếu tố kỳ ảo xuất hiện đã tạo thành dòng chảy liền mạch nối các sự kiện diễn ra
trong truyện, giúp cho truyện thêm phần tự nhiên, hấp dẫn. Kỳ ảo như một phép
màu để cảnh tỉnh lương tri và hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Không
có tưởng tượng thì không có gì hết. Nhu cầu tưởng tượng để thăng hoa và lạc quan
hơn trong cuộc sống. Nhà khoa học cần tưởng tượng để lập nên những phát minh vĩ
đại. Người nghệ sĩ cần đến tưởng tượng để tái tạo nên những tác phẩm nghệ thuật
độc đáo. Văn học là sân chơi của trí tưởng tượng. Để thoát ra khỏi hiện thực cuộc
64
sống chật chội tù túng ấy, các nhà văn đã dùng nhiều yếu tố để thoát ly. Có một con
đường giúp người ta thỏa mãn mong muốn ấy đó chính là thoát ly vào thế giới kỳ
ảo, chính là cách để nhà văn thỏa mãn được những khao khát giải phóng cá tính và
giải phóng tự do cá nhân của con người. Thoát vào thế giới kỳ ảo còn là nơi để nhà
văn cân bằng đời sống tinh thần. Những thiên truyện viết về tình yêu, yếu tố kỳ ảo
đã giúp nhà văn tưởng tượng, thêu dệt nên những câu chuyện tình yêu lãng mạn và
đầy mộng tưởng. Tình yêu của cô gái và chàng Đào Sinh trong câu chuyện Sống lại
bất chấp mọi rào cản, bằng tình yêu chân thành cô gái đã trở về từ trong cõi chết.
Cô gái đã sống lại và sống một cuộc sống hạnh phúc bên người mình yêu. Yếu tố kỳ
ảo còn thể hiện trong truyện “Câu chuyện tình ở Thanh Trì” kể về cô con gái của
một phú ông. Cô đẹp người, đẹp nết mà bạc mệnh, ôm một mối tình đau đớn, oan
trái. Cô chết, được hỏa táng, thi thể thành tro, nhưng còn lại một khối nhỏ “một vật
to bằng cái đấu sắc đỏ như son, không phải ngọc, cũng chẳng phải đá, nó trong
như gương, búa đập không vỡ. Nhìn bên trong thì có bóng con đò, trên đó có một
chàng trai đang ngả đầu tựa mái chèo nằm hát” cho thấy sức mạnh vĩnh cửu của
tình yêu. Người cô yêu là một anh lái đò nghèo đẹp trai, hát hay, sau này trở nên
khá giả, đến xin phú ông cho xem khối thi thể còn lại của cô. Và khi dòng nước mắt
của anh trào ra, nhỏ xuống khối đá, “khối đá tan chảy đầm đìa thành máu tươi, ướt
đẫm ống tay áo chàng”. Dù thể xác có nằm xuống dưới mồ xanh nhưng hình bóng
mãi theo chàng Sinh.
Ở “Tháp báo ân”, yếu tố kỳ ảo xuất hiện ở giữa mạch truyện. Đó cũng là
tình cảnh của cô gái mắc bệnh phong. Cô chết đi nhưng nỗi khát khao yêu thương
vẫn chưa hết, nàng luôn muốn những điều tốt đẹp cho người yêu. Hồn nàng trở về
cầu xin quan chủ khảo cho Sinh được đỗ đạt. Việc cô gái về trong mộng là một
chuyện lạ đúng như quan chủ khảo đã nói với Sinh. Phải chăng thành công của Vũ
Trinh khi lấy yếu tố kỳ ảo để chuyển tải một tình yêu đẹp là ở chỗ đó. Sự xuất hiện
của yếu tố kỳ ảo giúp cho việc truyền tải những câu chuyện tình yêu thêm hấp dẫn
và cảm động hơn. Những câu chuyện tình hiện lên thật đẹp và lãng mạn. Bên canh
đó yếu tố thực là những cái có thực tồn tại trong cõi nhân thế. Cái thực ấy có thể là
những nhân vật, những sự kiện, những việc làm… Trên cơ sở đó, Vũ Trinh tái hiện
65
trong tác phẩm. Bởi vậy những nhân vật, chi tiết, sự kiện trong tác phẩm hiện ra khá
rõ, rất thật. Những điều mà Vũ Trinh nghe được, thấy được trong cuộc sống, đều
được ông dùng làm chất liệu sáng tạo. Nhà văn đã thành công trong việc đưa hiện
thực đời thường vào trong tác phẩm, đưa những con người bình thường (học trò,
người phụ nữ, những người nghèo khổ…), những nhân vật tưởng như rất xa lạ với
văn học giai đoạn trước vào tác phẩm và biến họ thành những nhân vật văn học có
đời sống sinh động. Nhân vật của Vũ Trinh có hành động, có nội tâm phong phú, nó
rất gần gũi với hiện thực cuộc sống. Họ được xây dựng đều có thân thế rõ ràng,
được giới thiệu cụ thể về lai lịch, quê hương, chức tước... Hay cô gái trong “Câu
chuyện tình ở Thanh Trì” rất chủ động đến với tình yêu, nhưng tình duyên không
thành, nàng ôm hình bóng người yêu mà chết rồi biến thành khối đá trong vắt được
tác giả giới thiệu là con gái phú ông họ Trần ở Thanh Trì. Đó là một cô gái xinh
đẹp, luôn hướng tới những gì tốt đẹp, luôn giữ trong lòng mối tình thủy chung trong
sáng. Cái chết không giết nổi trái tim kiếm tìm hạnh phúc của cô “Sống lại”, được
Vũ Trinh giới thiệu là người ở huyện Đông Sơn. Xây dựng nhân vật có xuất xứ cụ
thể đã phần nào cho ta thấy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Những loại người có thực
trong cõi đời này, còn là nhân vật trong lịch sử nước ta. Nguyễn Đăng Đạo người xã
Hoài Bão, huyện Tiên Du. Nay là thôn Hoài Bão, xã Tiên Bão, huyện Tiên Sơn,
tỉnh Bắc Ninh, đỗ Trạng nguyên khoa Quý Hợi, niên hiệu Chính Hòa (1683) khi ấy
ông mới 33 tuổi “Trạng nguyên họ Nguyễn”… nhân vật này có tên trong làng khoa
bảng nước Nam ta. Với cách xây dựng lai lịch cụ thể rõ ràng, tác giả đã giới thiệu
rất chi tiết về hành trạng, điều đó cho thấy sự tôn trọng, đề cao thực tế đời sống của
Vũ Trinh khi cầm bút viết văn. Như vậy, tác giả đã phác họa nên bức tranh muôn
màu về xã hội đương thời khá phức tạp, giúp chúng ta hình dung lại một thời xa xưa
khá rõ. Bên cạnh những loại người có thực trong cõi đời, còn là những sự việc có
thực diễn ra trong cuộc sống, ví như tình yêu bị phụ tình… Trong các truyện: Ca kỹ
họ Nguyễn, Trạng nguyên họ Nguyễn… đã thể hiện rõ điều đó, và chi tiết hư cấu
hầu như không xuất hiện. Những câu chuyện đó được Lan Trì kể lại. Nó không có
bóng dáng những điều kỳ lạ hay sự xuất hiện của biến hóa khác thường, mà ẩn chứa
trong đó là những yếu tố thực. Truyện “Ca kỹ họ Nguyễn” là câu chuyện kể tự
nhiên, giản dị hết sức chân thật. Nó xoay quanh nhân vật người kỹ nữ có tình cảm
66
với chàng nho sinh Khâm Lân. Khi Khâm Lân đỗ đạt muốn lấy cô nhưng cha chàng
ngăn cản không cho. Sau này khi đỗ đạt cao ông đã gặp lại cô kỹ nữ ngày xưa
thương xót cho số phận của cô đã đón cô và mẹ về nơi ở riêng chu cấp đầy đủ.
“Hơn một năm sau, mẹ cô gái mất. Ông lo chon cất chu đáo. Tang ma cho mẹ xong,
cô gái từ biệt ra đi, ông giữ lại không được, gửi tặng tiền bạc cô cũng không nhận.
Ông cố ép thì cô nói:
- Thiếp không có phúc được làm vợ chàng thì những thứ tiền bạc này đâu có
phúc để tiêu mà nhận!
Cô gái này là người huyện Chương Đức, xứ Sơn Nam”
Các câu chuyện từ khi bắt đầu tới lúc kết thúc không ẩn chứa chút hoang
đường, kỳ ảo nào. Truyện của ông tương đối ngắn gọn, nhìn chung đều rất mộc
mạc, cốt truyện đơn giản, phong vị đất nước đậm đà, nhưng cũng vì thế mà sự biến
ảo, tưởng tượng bay bổng không còn phong phú như Truyền kỳ mạn lục. Các truyện
thường ghi chép giản đơn, ít gia công về cốt truyện. Chủ trương “kiến văn”, cô
đọng nội dung chỉ trong một cốt truyện dân gian như một người sưu tầm trung thực
được Vũ Trinh chú trọng. Bởi thế truyện của ông vừa gần gũi với tính chất truyện
kể dân gian, vừa rất gần gũi với đặc trưng của văn học nghệ thuật hiện đại - lời ít, ý
nhiều, tích cực khơi gợi cảm xúc và suy nghĩ của bạn đọc. Những câu chuyện mà
Vũ Trinh kể lại đều là những chuyện mà ông được nghe, được chứng kiến. Đó là
những câu chuyện về những con người thật, sự việc có thật. Những con người đó,
sự việc đó đều mang dấu ấn của thời gian mà nhà văn là người khắc tạc nên bức
tranh về đời sống con người đương thời thật sinh động.
Tóm lại, có thể nói truyện truyền kì là một trong những thể loại văn học rất
hấp dẫn đối với người đọc, không chỉ bởi những yếu tố vừa thực vừa ảo của nó mà
còn ở mảng đề tài phong phú, tư tưởng tiến bộ và giá trị nội dung cao đẹp, nhân
bản. Chúng ta không phủ nhận sự ảnh hưởng của truyện truyền kì Trung Hoa, của
những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhưng qua ngòi bút sáng tạo của các
tác giả, truyện truyền kì Việt Nam đã mang sắc thái mới, tư tưởng mới với nhiều
tình tiết thú vị. Với cả một quá trình phấn đấu không ngưng nghỉ, truyện truyền kì
thực sự vươn lên mạnh mẽ, có vị trí xứng đáng trong nền văn học nước nhà.
67
Sự xuất hiện của yếu tố kỳ ảo giúp cho việc truyền tải những câu chuyện tình
yêu thêm hấp dẫn và cảm động hơn. Những câu chuyện tình hiện lên thật đẹp và lãng
mạn. Như vậy, yếu tố thực và yếu tố ảo được thể hiện trong tác phẩm có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Sự kết hợp của hai yếu tố ấy giúp người đọc thấy một thế giới
huyền bí cùng tồn tại song song với thế giới hiện hữu giữa cõi đời; những sự quái dị
đan xen những điều bình thường, tình tiết hư ảo xen lẫn tình tiết thực. Đọc tác phẩm,
người đọc được chiêm nghiệm cuộc sống, lại thấy được những điều bất ngờ lý thú đó
là nhờ có sự kết hợp tài tình yếu tố thực và yếu tố kỳ ảo của nhà văn.
3.1.3. Sự giảm tải dần kiểu kết cấu biền văn xen vận văn và Lời bình cuối truyện
Kết cấu tác phẩm bao gồm: tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và
không gian nghệ thuật, tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện
trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện để tác phẩm trở thành một chủ thể. Kết
cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm
vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Mỗi giai đoạn phát triển khác
nhau các tổ chức kết cấu chung của tác phẩm văn học cũng có sự chuyển đổi theo
xu hướng của thời đại.
Cách ghi chép truyện truyền kì là sự phối hợp văn tự sự với biền văn xen vận
văn. Biểu hiện chung của kiểu kết cấu truyện này là tác giả dùng văn xuôi để kể sự
việc nhưng thường đến chỗ tả cảnh hay tả người thì dùng văn biền ngẫu, khi nhân
vật bộc lộ cảm xúc thì dùng thơ, khi người kể chuyện bộc lộ cảm xúc thì dùng lời
bình. Trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ có 4 truyện viết về chủ đề tình yêu
nam nữ thì cả 4 truyện có sự phối hợp xen kẽ giữa văn xuôi với biền văn, vận văn.
Đi tìm nguyên nhân này ở Nguyễn Dữ, PGS.TS Nguyễn Đăng Na đã nêu ra các ý
kiến khác nhau: “tài hoa của tác giả thể hiện ở chính những bài thơ, ca, từ, hành; là
hình thức dung hoà giữa phương thức tự sự với trữ tình. Có người lại khẳng định
nếu không thông qua ngôn ngữ ước lệ thì khó diễn tả nổi các cuộc hoan lạc của
nhân vật trong truyện” [20, tr.39]. Nhờ những bài ca từ mà yếu tố tâm lí của nhân
vật được bộc lộ rõ nét. Nhưng đôi khi làm người đọc mất hứng thú, diễn biến truyện
bị gián đoạn.
68
Bước sang giai đoạn cuối thể kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX văn học phát triển
theo một hướng mới, các nhà văn nghiêng về cuộc sống hiện thực, coi trọng thực tế
hơn là những cảm giác bay bổng xa rời hiện thực của văn chương trước đó. Sở dĩ có
sự thay đổi ấy một mặt các nhà văn chịu sự tác động của phong trào Thực học, một
mặt do sự thay đổi thường xuyên của lịch sử xã hội lúc bấy giờ cho nên kết cấu tác
phẩm theo kiểu biền văn xen vận văn và lời bình cuối tác phẩm bị loại dần. Sáng tác
tiêu biểu cho kiểu kết cấu này là của Vũ Trinh. Phong cách chép truyện này của Vũ
Trinh khiến cho cốt truyện trở nên gọn, liền mạch. Tình tiết truyện thì vừa đủ để tập
trung vào mạch chính, diễn biến truyện nhanh nên rất sinh động. Trong 5 truyện viết
về chủ đề tình yêu nam nữ không có một tác phẩm nào chúng ta còn thấy dấu vết
của thơ ca, câu văn biền ngẫu và lời bình còn rất ít. Vì việc sử dụng biền văn xen
vận văn trong tác phẩm tự sự khiến cho tác phẩm trở lên rườm rà, diễn biến bị gián
đoạn làm mất hứng thú của người đọc. Nhưng rõ ràng kiểu kết cấu này thể hiện
được tài hoa của người sáng tác lẫn nhân vật trong truyện, không những vậy mà
việc kết hợp này còn làm cho tác phẩm văn học có loại hình sáng tác phong phú và
đa dạng, đời sống tâm lý nhân vật được bộc lộ sâu sắc. Có lẽ cuộc cách tân văn
phong, văn thể ảnh hưởng của phong trào Thực học diễn ra theo một quá trình. Ở
Đoàn Thị Điểm mới chú trọng đến việc viết về người thực, việc thực chưa chú trọng
đến cải cách văn phong. Đến Vũ Trinh cuộc cách tân đã diễn ra toàn diện, mạnh mẽ
và sâu sắc hơn. Như vậy việc bỏ kết cấu vận văn xen biền văn đã làm cho văn
phong chép chuyện của Vũ Trinh khắc phục được những nhược điểm của truyện
truyền kì trước đó. Câu văn không còn rườm rà, gây hứng thú cho người đọc.
Còn về lời bình ở sau mỗi truyện thì Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ có xen lời
bình trong 19/20 truyện. Trong 4 truyện viết về chủ đề tình yêu nam nữ Nguyễn Dữ
đều sử dụng lời bình. Qua những lời bình, lời bàn ở cuối truyện, Nguyễn Dữ đã thể
hiện quan điểm đạo đức và lí tưởng của mình với vai trò là một nhà nho. Như
“Chuyện cây gạo”: “Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo
cho người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải. Trung Ngộ là
một gã lái buôn không có tri thức, không đủ trách vậy. Vị đạo nhân kia vì người trừ
hại, công đức lớn lao; nhà bình luận công bằng sau này, phải nên biết đến. Không nên
lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị đoan mà dìm mất cái hay,
ngõ hầu mới hợp cái ý nghĩa người quân tử trung hậu đối với người khác”. Lời bình
thể hiện thái độ khinh thường, định kiến với người lái buôn Trung Ngộ.
69
Đến Vũ Trinh đã có một sự thay đổi lớn so với các nhà văn cùng thời ông
vẫn kế thừa việc sử dụng lời bình sau truyện nhưng đã có sự cách tân đáng kể.
Trong Lan Trì Kiến văn lục những truyện có chủ đề tình yêu nam nữ thì 3/5 tác
phẩm có lời bình, dung lượng lời bình tác giả cũng rất kiệm lời, lời bàn ít. Nếu đem
so sánh số lượng lời bàn lời bình trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục ta
sẽ thấy sự chênh lệch. Dung lượng lời bình trong Truyền kì mạn lục ít nhất là 6
dòng“Chuyện cây gạo, Chuyện nghiệp oan của Đào thị” và nhiều nhất là trên 10
dòng “Chuyện yêu quái ở Xương Giang”. Đến Vũ Trinh, lời bình được sử dụng
trong mỗi truyện có khi chỉ hơn 1 dòng “Sống lại”. Vậy là với Vũ Trinh việc thêm
lời bình ở sau tác phẩm không còn là nhất thiết mà chỉ ở những tác phẩm ông thấy
cần tỏ rõ quan điểm đạo đức của mình hơn. Đặc biệt trong lời bình của ông không
những rất ngắn gọn mà nội dung của lời bình còn thể hiện một tư tưởng tiến bộ mới
mẻ đó là quan niệm rộng mở của ông về cuộc đời, con người. Ông không còn định
kiến với những người bị coi là “mạt hạng” trong xã hội phong kiến như nghề “con
hát”. Ngay trong lời bình, nơi mà các nhà nho thường giữ mực thước nhất, ông vẫn
ngợi ca một cô ca kỹ trong “Ca kỹ họ Nguyễn”: “Trái tim kiên trinh, khí tiết hào
hiệp, con mắt tinh đời, cô gái trong truyện trên đây đều có đủ. Vô luận là trong đám
quần thoa hay bậc mày râu cũng không có nhiều” [39, tr.70].
Với những thay đổi như vậy Vũ Trinh đã có sự kế thừa những tinh hoa của
các bậc tiền bối đồng thời ông đã có những đóng góp cho sự phát triển của thể loại
truyền kì Việt Nam. Sự cách tân này mở ra một hướng mới cho văn học giai đoạn
sau phát triển.
3.2. Không gian, thời gian nghệ thuật
3.2.1. Không gian nghệ thuật
3.2.1.1 Không gian thực
Nếu như loại không gian kỳ ảo không có thực và không gian kỳ lạ ở cõi trần
tạo nên tính chất kỳ ảo cho những câu chuyện về nhân vật thì hình thức không gian
thực của cuộc sống con người sẽ gia tăng yếu tố hiện thực. Những câu chuyện nói
về nhân vật ma quái trong Truyền kì mạn lục đều xảy ra ở một địa điểm cụ thể và có
thực. Nơi ma quỷ tập trung.Từng địa điểm ma quái xuất hiện trong Chuyện cây
70
gạo được điểm lại cụ thể: cầu Liễu Khê, chợ Nam Xang, Đông thôn. Khu trại Tây
“Chuyện kì ngộ ở trại Tây” được miêu tả vị trí tỉ mỉ: “ở kinh sư, phường Khúc
Giang có cái trại gọi là trại Tây là dinh cư cũ quan Thái sư triều Trần”. Không
gian thực trong những truyện có sự xuất hiện của nhân vật ma quái ở Truyền kì mạn
lục không chỉ dừng lại ở những tên đất, tên làng mà còn là những không gian gần
gũi, quen thuộc trong sinh hoạt của người dân. Đó là thuyền buôn nơi Trung Ngộ và
Nhị Khanh vui say ân ái, là những ngôi đình, ngôi chùa, ngôi miếu dân chúng vẫn
thờ những vị thần, Phật… Trong những ngôi đền, chùa ấy có một loại cây mà ma
quỷ hay trú ngụ: cây gạo. Linh hồn Trung Ngộ và Nhị Khanh, sau khi hài cốt bị dân
làng vứt xuống sông, đã nương náu vào cây gạo trăm tuổi ở ngôi chùa bên sông, hễ
ai động vào thì “dao gãy rìu mẻ, không thể nào đẵn phạt được”. Nguyễn Dữ đã tạo
cho nhân vật ma quái của mình một nơi “cư trú” mang đậm hồn cốt Việt Nam “thần
cây đa, ma cây gạo”. Dân gian quan niệm ma quái hay trú ngụ ở những cây đa, cây
gạo. Chẳng thế mà trong Truyền kì mạn lục hơn một lần hình ảnh cây gạo gắn liền
với ma quái xuất hiện. Không cần miêu tả nhiều, chỉ cần đôi nét vẽ ấy cũng đủ gợi
lên cái tiêu điều của một chỗ vốn là nơi cư ngụ của ma quái “Một lúc, mây gió nổi
lên đùng đùng, người đứng cách mấy thước không trông thấy nhau, dưới sông thì
sóng tung cuồn cuộn vang trời động đất. Sau một hồi, gió lặng mây quang, thấy cây
gạo đã bị nhổ bật, cành cây gẫy nát và bị tước như tước dây vậy. Kế nghe thấy
trong không có tiếng roi vọt và tiếng kêu khóc. Mọi người ngẩng lên trông có sáu
bảy trăm lính đầu trâu gông trói hai người mà dẫn đi” “Chuyện cây gạo”
Không gian gặp gỡ giữa Nhị Khanh và Trình Trung Ngộ trong không gian
đêm tối - không gian bị nhà nho coi là không gian dâm. Bên cạnh đó truyện của
Nguyễn Dữ còn đề cập đến không gian sinh hoạt. Không gian sinh hoạt trong truyện
không chỉ dừng lại ở một làng, một huyện mà được mở rộng dần theo trình tự câu
chuyện từ nhà đến làng, lên huyện và cuối cùng là triều đình “Chuyện cây gạo”:
“Rồi đó canh ba, đêm hôm ấy, nhân lúc đêm đen trời tối, hai người cùng đi đến
Đông thôn. Khi đến một chỗ, chung quanh có bức hàng rào bằng gióng tre, thỉnh
thoảng chen lẫn vào vài khóm lau khô, trong có túp nhà gianh nhỏ lụp sụp, dây bìm
leo đầy lên vách và lên mái, nàng trỏ bảo chàng rằng:
71
- Đây, nhà của thiếp đây, cứ đẩy cửa vào ngồi chơi để thiếp đi kiếm cái
lửa. Trình cúi đầu qua dưới mái gianh, vào tạm ngồi ở chỗ bờ cửa. Thỉnh
thoảng có cơn gió thổi, chàng thoáng thấy một mùi tanh thối khó chịu. Đương
kinh ngạc không biết mùi gì, bỗng trong nhà có bóng đèn sáng. Chàng trông
vào, thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc giường mây nhỏ, trên giường để một
cỗ áo quan sơn son, trên quan phủ một tấm the hồng, dùng ngân sa đề vào mấy
chữ "Linh cữu của Nhị Khanh". Cạnh cữu có người con gái nặn bằng đất tay ôm
cây hồ cầm đứng hầu.”
Nối tiếp mạch của thể loại truyền kì, không gian trong Lan Trì kiến văn lục
cũng là không gian gần gũi, không gian thực tế, gắn với những địa danh cụ thể:
“Nguyễn Sinh người Thanh Trì”, “Ông Nguyễn Đăng Đạo là người xã Hoài Bão,
huyện Tiên Du…”. Hay không gian phủ Ngô Hầu trong “Trạng nguyên họ Nguyễn”:
“Ông nghe thế lại đi theo xe. Đến một dinh thự, người đẹp xuống xe đi vào,
ông liền rẽ vào một quán trà phí ngoài cổng, hỏi thăm chủ hàng đây là dinh thự của
quan nào. Bà chủ quán đáp: “Đây là dinh thự của ngài võ quan Ngô Hiến hầu. Hầu
vì có công lớn được cử coi cấm binh, chỉ huy việc quân của cả kinh thành.
Ông hỏi có mấy vị công tử. Bà chủ quán đáp: Hầu có rất nhiều vợ lẽ, nàng
hầu, nhưng chỉ sinh được một tiểu thư, nhan sắc sinh tươi có một, lại có học, giỏi
chữ nghĩa, năm nay đã đến tuổi cập kê vẫn chưa lấy ai. Người vừa đi kiệu trở về
chính là nàng đấy.
Ông lại hỏi:
- Trong hàng các võ quan chả lẽ cũng thiếu người môn đăng hộ đối?
- Bà chủ quán đáp:
- Hầu xuất thân là con nhà huân quốc công thần, nhưng tính tình khác lạ, cứ
muốn chọn bậc tài tử để thành đôi cho nàng, cho nên mới để chậm thôi. Nếu không
thì thiếu gì các cậu ấm con nhà kiếm dài thương lớn. Tối hôm ấy ông suốt đêm mơ
tưởng. Sang hôm sau ông lại tới đứng ở cổng nhà quan hầu. Hôm ấy quan hầu vào
chầu ban sớm trở về, ông kéo một đứa hầu nhỏ,đem tiền và quà bánh đút lót cho
nó.. Khi đã quen thân, ông hỏi kĩ nó về đường ra lối vào, về cổng cửa các phòng
trong dinh”.
72
Truyện của Vũ Trinh cũng nhắc đến không gian sinh hoạt đời thường của
con người: dòng sông, con đò, con đường vào làng, trên cây cổ thụ….như trong
truyện “Câu chuyện tình ở Thanh Trì”:“Sinh khuôn mặt đã sáng hơn người, giọng
hát lại càng ngọt ngào lôi cuốn. Mỗi khi gió mát trăng trong, mỗi buổi ban mai vừa
rạng, hoàng hôn mới buông, chàng lại gõ nhịp chèo mà hát, khiến ai nghe cũng
phải ngất ngay.
Bên bờ sông là nhà phú ông họ Trần có một cô con gái chưa chồng. Nghe Sinh
hát nàng rất ưa, thường ngồi tựa cửa sổ liếc nhìn. Thấy mặt Sinh nàng lại càng không
sao quên được. Nàng nén nhờ con hầu đem khăn tặng Sinh, và dặn nó bảo Sinh sớm
nhờ người mai mối. Sinh về nhà bàn với mẹ.”[39, tr.71]. Những không gian bình
thường ấy tạo cho người đọc cảm giác gần gũi thân thuộc như chuyện đang xảy ra
ngay trong cuộc sống xung quanh mình.
Tất cả những tên đất, tên huyện ấy đều là địa danh có thật trên nước ta bấy
giờ, có thể tra cứu ở sách vở khiến người đọc tin vào tính chân thật của truyện.
Những địa danh của truyện được đưa vào chẳng những gia tăng yếu tố hiện thực
cho câu chuyện mà còn khẳng định nguồn gốc và tính chất dân tộc của hai tập
truyện: đây đều là những truyện xảy ra trên đất nước ta, không phải tác phẩm sao
chép, mô phỏng truyện nước ngoài.
3.2.1.2. Không gian kỳ ảo
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Không
hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không nhân vật nào không có nền
cảnh tồn tại của nó. Trong các tác phẩm nghệ thuật, con người xuất hiện với tư cách
là hình tượng con người và không gian được tạo dựng là hình tượng không gian. Vì
thế, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hiện tượng. Từ điển văn học định
nghĩa: "không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất
phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong một trường nhìn nhất định, qua đó thế giới
nghệ thuật được cụ thể …"[10, tr.160]. Nhờ có điểm nhìn của chủ thể mà không
gian có chiều - thấp, rộng - hẹp, xa- gần, sâu - cạn … gắn với cảm thụ về không
gian của con người. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sỹ
nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống.
"Không gian nghệ thuật gắn với sự cảm thụ không gian nên mang tính chủ quan,
ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng” [10, tr.160].
73
Không gian kỳ ảo không có thật gắn liền với nhân vật ma quái là không gian
kỳ ảo không có thật trong thực tế. Đấy là không gian trong tưởng tượng của các tác
giả trong Truyền kì mạn lục, không gian kỳ ảo gắn với nhân vật ma quái gồm hai
loại không gian chính: không gian âm phủ và không gian thủy phủ. Đó đều là không
gian dưới lòng đất, nơi sinh sống của ma quỷ. Còn không gian trong Lan Trì kiến
văn lục là không gian gần gũi, không gian thực tế rất cụ thể.
Không gian kỳ ảo xuất hiện nhiều nhất trong truyện Truyền kì mạn lục.
Trong “Chuyện cây gạo” khi Trình Trung Ngộ biết sự thật về Nhị Khanh và chốn
khỏi Đông thôn về nhà thì chàng bị Nhị Khanh cho vào một không gian ảo: “Chỗ
vợ ta có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt ngào, ta phải đi theo chứ không thể
luẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được” [6, tr.43]. Như vậy không gian ảo ấy được
tạo ra để lôi cuốn, hấp dẫn đối tượng khiến người ta muốn vùng đi theo và dẫn tới
việc Trình Trung Ngộ ôm quan tài Nhị Khanh mà chết. Đặc biệt trong “Chuyện kỳ
ngộ ở trại Tây” Nguyễn Dữ đã xây dựng một không gian thanh nhã, trang trọng nhất
của dinh thự quan thái sư: “Khi đến trại Tây, qua mấy lần rào, quanh một đoạn
tường, đi ước mấy chục trượng thì đến một cái ao sen; hết ao lại là khu vườn, cây
cối xanh tươi, mùi hoa thơm ngát, nhưng ở dưới bóng đêm lờ mờ, không nhận rõ
được hoa gì, cây gì cả, chỉ thấy mùi hương lúc lúc thoảng tới” [6, tr.63]. Không gian
đó Hà Nhân như lạc vào xứ sở thần tiên. Thế nhưng khi Đào, Liếu thác hoá, chàng
cùng ông già Nhân đến trại Tây thì chỉ thấy “nếp nhà quạnh hiu, vài ba cây đào, liễu
xơ xác tơi bời, lá trút đầy vườn, tơ vương khắp giậu. Một khung cảnh hoang sơ tiêu
điều vắng vẻ.
Những không gian này mang lại màu sắc kì ảo, góp phần tạo nên đặc trưng của
thể loại, đồng thời tạo sự hấp dẫn, thu hút trí tò mò của người đọc. Đó là nhưng không
gian hoang đường kỳ ảo được xây dựng qua trí tưởng tượng phong phú của tác giả.
3.2.2. Thời gian nghệ thuật
3.2.2.1. Thời gian kì ảo
Thời gian kì ảo đồng hành với không gian, thời gian là hình tồn tại của vật
chất. Thời gian là một đại lượng để xác định quá trình tồn tại, vận động và phát
triển của mọi sự vật trong thế giới. Hình tượng nghệ thuật cũng có thể xác định
74
trong không gian và thời gian. Sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao
giờ cũng xuất phát tại một điểm nhìn nhất định trong thời gian và cái được trần
thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự
phối hợp của hai yếu tố này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hình tượng ước lệ
chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng
hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt
tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có
thể kéo dài chốc lát thành vô tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo
khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự
sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay mùa này, mùa khác… tạo nên nhịp điệu trong tác
phẩm. Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy
chiếu có tính tiêu đề được giấu kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc
điểm tư duy của tác giả. Thời gian nghệ thuật thể hiện sự cảm thấy của con người
trong thế giới, nó luôn luôn mang tính cảm xúc và tính quan niệm nên đầy tính chất
của chủ quan. Thời gian nghệ thuật là thời gian của thế giới hình tượng hay nói cách
khác, "thời gian nghệ thuật là hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác
phẩm” (Trần Đình Sử). Ở đây, thời gian được dùng làm phương tiện để phản ánh
đời sống và thể hiện cảm xúc, tư tưởng của nhà văn với hiện thực đời sống ấy.
Trong tiến trình lịch sử văn học, thời gian nghệ thuật cũng đã có một quá trình vận
động. Tương ứng với mỗi giai đoạn, mỗi loại hình có một kiểu thời gian xác định.
Khi nào ngòi bút nghệ sĩ chạy theo diễn biến sự kiện thì thời gian trôi nhanh, khi
nào dừng lại miêu tả chi tiết thì thời gian chậm lại. Đi cùng khát vọng cảm nhận
toàn bộ thế giới qua thời gian và trong không gian, thời gian nghệ thuật đã trở thành
một phạm trù thi pháp càng ngày càng có tầm quan trọng.
Thời gian kì ảo trong Truyền kì mạn lục đó là thời gian ban đêm. Trong tâm
thức người Phương Đông thời gian ban đêm là khoảng thời gian chứa nhiều điều kì
bí, lúc bóng tối bao trùm là lúc có một thế giới khác đang tồn tại. Vì thế những chi
tiết liên quan đến yếu tố kỳ ảo thường xảy ra vào ban đêm góp phần tạo nên sự ma
quái, kỳ lại, bí ẩn của các nhân vật như: “Chuyện cây gạo” Trung Kỳ Ngộ gặp gỡ
Nhị Khanh: “- Ta lâu nay rượu xuân quá chén, mê mệt nằm dài, hầu nửa năm trời,
75
không lên chơi cầu Liễu Khê lần nào cả, chẳng biết giờ phong cảnh ra sao. Đêm
nay nên thăm qua cảnh cũ, để được khuây giải chút tình u uất ở trong lòng, vậy em
có đi theo ta không? Con hầu vâng lời. Trung Ngộ nghe lỏm lấy làm mừng lắm. Tối
hôm ấy, chàng đến bên cầu chờ sẵn. Đêm khuya người vắng, quả thấy người con
gái cùng ả thị nữ mang theo đến một cây hồ cầm, đi tới đầu cầu, thở dài mà nói
rằng”. Hay thời gian mà đạo sĩ gặp hai hồn ma trong “Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây”
cuộc gặp gỡ giữa Hà Nhân và hai hồn hoa cũng xảy ra vào đêm tối:“Từ đó về sau,
hai nàng cứ sớm đi tối đến, ngày nào cũng giống ngày nào, Hà Nhân cho là sự kỳ
ngộ của đời mình, so với chuyện xưa, có thể sánh với Bùi Hàng và vượt hơn Tăng
Nhụ. Một buổi tối mưa dầm gió bấc, nhưng hai nàng vẫn đúng hẹn đến, khẽ bảo Hà
Nhân rằng”. Có thể thấy yếu tố kì ảo đóng vai trò chính yếu trong tổ chức tác phẩm
Truyền kì mạn lục. Nó tạo nên sự phong phú trong xây dựng cốt truyện, sự khoáng
đoạt trong biểu hiện không gian, sự biến ảo trong tái hiện thời gian. Hiệu quả của
chúng khiến cho hiện thực được phản ánh bằng cái nhìn đa diện, đa chiều. Cái thực
được khúc xạ qua cái ảo, được nhìn qua lăng kính của cái ảo để trở thành bức tranh
sâu sắc về cuộc đời.
Còn thời gian kì ảo trong Lan Trì kiến văn lục chỉ tồn tại trong chốc lát, đó
chỉ là những khoảnh khắc con người ngược về cõi dương gian, từ kiếp này biến
thành kiếp khác rồi lại trở lại với thờ gian thực, cuộc đời thực như “Tháp báo ân”:
“Khi mới chấm bài của ông, tôi đã định đánh hỏng, gấp lại đặt một chỗ,
chợp mắt ngủ gật, thấy một người con gái cầm bài thi, lạy tôi và xin rằng: Đây là
bài thi của chồng thiếp, xin ông lấy bài này. Tỉnh dậy thấy bài ông ở ngang trước
mặt. Đọc lại, thấy bài làm nhiều chỗ sai dở, phải gạch xoá mấy chỗ. Khi tựa gối
thiu thiu, lại mơ thấy người như trước tha thiết nài xin. Hỏi họ tên, cô gái nói là con
gái họ Nguyễn ở xã Bình Quân. Tôi đã hứa với cô gái trong mộng là lấy ông đỗ nên
miễn cưỡng lấy bài thi của ông. Đây đúng là ma quỷ”[39, tr.149].
Tóm lại, thời gian trong văn học không còn đơn giản là cái dung chứa các
quá trình đời sống mà còn là một yếu tố nội dung tích cực, một kẻ tham gia độc lập
vào hành động, là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để tổ chức nội dung
của nghệ thuật.
76
3.2.2.2. Thời gian lịch sử
Tất cả những câu chuyện tình yêu ấy lại được đặt vào trong những khoảng thời
gian lịch sử hết sức cụ thể khiến người đọc có cảm giác đây là chuyện có thật. Bất cứ
một hành động nào của truyện đều có thể xác định được năm tháng chính xác.
Trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ thời gian lịch sử được ông thể hiện
hết sức cụ thể như “Chuyện cây gạo” Trình Trung Ngộ yêu hồn ma Nhị Khanh và
đạo nhân đã diệt trừ hồn ma ở cây gạo “Trong năm Canh Ngọ (1330) niên hiệu
Khai Hựu nhà Trần, có vị đạo nhân một đêm vào nằm ngủ trong cái chùa ấy. Giữa
lúc sông quạnh trăng mờ, bốn bề im lặng, đạo nhân thấy một đôi trai gái, thân thể
lõa lồ mà cùng nhau cười đùa nô giỡn, một lát, đến gõ thình lình gọi hỏi trong
chùa. Đạo nhân cho là đôi trai gái lẳng lơ đêm trăng dắt nhau đi chơi, khinh bỉ cái
phẩm cách của họ, nên cứ đóng cửa nằm im, không thèm đánh tiếng. Sáng hôm sau,
đạo nhân đem sự việc trông thấy thuật chuyện với một ông già trong thôn mà phàn
nàn sao dân phong tồi tệ như vậy”.
Rồi chuyện Hà Nhân “Chuyện kì ngộ ở trại Tây” gặp gỡ hai hồn hoa vào
“năm Thiệu Bình thời Lê”. Hay “Chuyện nghiệp oan của Đào Thị”: “Ả danh kỹ ở
Từ Sơn là Đào Thị, tiểu tự Hàn Than, thông hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên hiệu
Thiệu Phong thứ năm (1345) đời nhà Trần, nàng được tuyển sung vào làm cung
nhân, hằng ngày chầu vua ở tiệc rượu hay ở chiếu bạc.”
Đến Lan Trì Kiến văn lục những câu chuyện tình yêu của Vũ Trinh không còn
được đặt vào thời gian lịch sử nữa mà là những khoảng thời gian hiện tại có thực.
Nếu thời gian trong những câu chuyện lưu truyền trong dân gian chủ yếu là
phiếm chỉ thì thời gian trong những truyện truyền kì lại hết sức chính xác, cụ thể.
Đây là ảnh hưởng của bút pháp chép sử nhưng đồng thời cũng là dụng ý nghệ thuật
của nhà văn.
Như vậy, cả đêm không gian và thời gian nghệ thuật gắn liền với sự xuất
hiện của nhân vật đã có sự kết hợp giữa yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực cụ thể tạo
nên một thế giới vừa thực vừa kì bí, vừa ma quái, vừa gần gũi, chân thực. Trong
truyện truyền kì về nói về tình yêu, gặp gỡ của nhân vật nam và nữ những tình
huống có thể xảy ra ở bất kì thời gian nào và ở bất kì đâu: cõi âm phủ, nhân gian,
77
cõi yêu ma, cõi quỷ thần... Sự nới rộng phạm vi không gian - thời gian trong truyện
truyền kì đã nâng kích cỡ của cõi nhân gian vốn chật hẹp và chóng vánh thành to
rộng và lâu bền hơn, nó đồng thời cũng nâng tầm của con người ra khỏi cái hạn hẹp
của trần thế.
3.2.2.3. Thời gian tâm lý
Mỗi hành động, sự kiện đều phải xảy ra ở một thời điểm nào đó. Vì vậy, đi
liền với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật . Thời gian nghệ thuật là thời
gian mang tính quan niệm và cá nhân. Mỗi tác giả có một cách cảm nhận khác nhau
về thời gian để thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình.
Điểm thứ nhất cần lưu ý là thời gian nghệ thuật có thể làm độc giả quên đi
hiện thực, nhập làm một với thời gian trong tác phẩm. Giữa ban ngày mà ta cứ
tưởng đêm tối, từ hiện tại mà trở về quá khứ, thậm chí trở về thời Bàn Cổ khai thiên
. Do được xây dựng bằng ngôn ngữ nghệ thuật nên thời gian trong tác phẩm dễ dàng
biến đổi linh hoạt.
Điểm thứ hai cần lưu ý là thời gian trong văn học có những nhịp điệu, sắc độ
riêng để phản ánh hiện thực. Văn học có thể kéo dài thời gian bằng cách miêu tả rất
tỉ mỉ mọi diễn biến tâm trạng, mọi diễn biến hành động của nhân vật của các sự
kiện. Văn học có thể làm cho một ngày dài hơn thế kỉ như tên truyện của Aimatop.
Ngược lại, nhà văn có thể làm cho thời gian trôi nhanh đi bằng cách dồn nén làm
cho khoảng một thời gian dài chỉ qua một dòng trần thuật ngắn.
Điểm thứ ba, thời gian trong văn học có thể trôi nhanh hay chậm, yên ả, đều
đều hay thay đổi đột ngột, gấp gáp, đầy biến động, có thể có những liên hệ giữa quá
khứ, hiện tại, tương lai. Thời gian có thể được trần thuật cùng chiều với thời gian tự
nhiên, nhưng cũng có thể đi ngược từ hiện tại trở về quá khứ bằng hồi tưởng. Các
lớp thời gian có khi đan bện, xoắn xít với nhau. Cũng có lúc giũa quá khứ và hiện
tại, tương lai có mối liên hệ thời gian, cùng đồng hiện trong một thời điểm.
Thời gian tâm lí lúc nhanh lúc chậm tùy thuộc trạng thái tâm hồn và cuộc
sống đặc thù của nhân vật. Thời gian trong văn học là thời gian tâm lý, không trùng
khít với hiện thực nên hiểu và tiếp nhận yếu tố thời gian phải cân nhắc thật kĩ. Điều
đó tạo nên sự vận động và tính quá trình đa dạng của hình tượng văn học mà các
78
loại hình nghệ thuật khác khó đạt đến được. Chính nhờ ngôn từ mà hình tượng văn
học có những hình thức thời gian đặc biệt để văn học có thể chiếm lĩnh đời sống
trên một tầm sâu rộng mà hội hoạ và điêu khắc khó bề đạt được.
Trong văn xuôi trung đại, thời gian được các tác giả chú ý miêu tả đó là thời
gian vào lúc trời tối, đêm khuya. Khi thể hiện tính chất mơ hồ, không xác định của
thời gian, các tác giả hay sử dụng những thời điểm đặc biệt như mờ sáng, ban đêm.
Trong hai tập truyện Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục, các tác giả đã tạo
cho thời gian nghệ thuật của tác phẩm một sắc thái kì lạ, huyền bí mà ánh sáng ban
ngày khó có thể đem đến. Đây là thời khắc ma quỷ hiện hình, để những chuyện lạ,
kì quái xảy ra, với rất nhiều truyện trong đó miêu tả cuộc gặp gỡ giữa người và các
nhân vật ảo vào lúc chập tối, đêm khuya, tảng sáng… Nói chung cứ về đêm, các lực
lượng siêu nhiên lại xuất hiện trà trộn vào thế giới của loài người. Trong quan niệm
dân gian, con người và các lực lượng siêu nhiên có một ranh giới ngăn cách. Ban
ngày là thời gian con người làm việc, sinh hoạt cùng cộng đồng loài người, còn ban
đêm là khoảng thời gian của các nhân vật ảo. Đêm là khoảng thời gian các nhân vật
ảo xâm nhập thế giới trần tục: giữa lúc “sông quạnh trăng mờ, bốn bề im lặng, đạo
nhân thấy một đôi trai gái thân thể lõa lồ mà cùng cười đùa nô giỡn” “Mộc miên thụ
truyện”, trong cảnh “trăng tỏ sao thưa, bốn bề im lặng với tiếng khóc ai oán” thấy
xuất hiện hồn ma Thị Nghi “Xương Giang yêu quái lục”. Đêm là thời gian quen
thuộc để các tác giả dựng lên thế giới của người chết, của những bóng ma, thật
huyền hoặc và thần bí. Mặt khác đêm cũng giúp cho các tác giả tránh được nhiệm
vụ tả cụ thể ma quái, điều mà không ai trông thấy bao giờ.
Thời gian trong Lan Trì kiến văn lục là thời gian phi tuyến tính, thời gian
biến ảo không có quá khứ, không có hiện tại và không có tương lai, thời gian không
trôi chảy. Thời gian của truyện phần nhiều là ban đêm, có khi giữa trưa hoặc chiều
tối tạo nên môtip thời gian phù hợp với đặc trưng của truyện truyền kì. Đêm tối là
thời điểm thích hợp để các lực lượng siêu nhiên trà trộn vào thế giới loài người thỏa
mãn ước muốn của chính bản thân mình. Vì là lực lượng siêu nhiên nên ước mơ của
họ chủ yếu là tình cảm yêu đương, bạn bè nhưng phải là với con người. Là nhân vật
ảo nhưng chúng cũng khát khao tình cảm như con người, chỉ có điều phải mượn
bóng đêm để che đi hình tích mới có thể dễ dàng tận hưởng cuộc sống nơi trần thế.
79
Xét đến cùng thì những khát vọng đó đồng thời cũng là khát vọng của con người trần
tục. Nhà văn sử dụng bóng đêm để biến ước mơ, khát vọng chính đáng của con người
đặc biệt là tình yêu lứa đôi trở thành hiện thực. Khát vọng yêu đương của lực lượng
siêu nhiên đôi khi lại làm hại con người trần tục. Chính loại thời gian đêm đã góp
phần tạo nên không khí kì ảo, hoang đường của câu chuyện. Trong cái thời khắc tĩnh
lặng, yên ắng của vũ trụ và của cuộc sống dương trần chính là giờ “thiêng” để xảy ra
các sự việc kì lạ khác thường. Đó là thời khắc con người tạm dừng cuộc sống bề bộn
của đời thường để sống với chính mình. Chìm trong thế giới vô thức tâm của mỗi
người thức và nhiều sự khác thường không bình thường xảy đến.
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.3.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật nam và nữ
Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ, tác
phong, diện mạo...Ðây là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật.
Nếu như văn học cổ thường xây dựng ngoại hình nhân vật với những chi tiết
ước lệ, tượng trưng thì văn học hiện đại thường đòi hỏi những chi tiết chân thực và
cụ thể sinh động. M. Gorki khuyên các nhà văn phải xây dựng nhân vật của mình
đúng như những con người sống và phải tìm thấy, nêu lên, nhấn mạnh những nét
riêng độc đáo, tiêu biểu trong dáng điệu, nét mặt, nụ cười, khóe mắt...của nhân vật.
Ngoại hình nhân vật cần góp phần biểu hiện nội tâm. Ðây cũng chính là sự
thống nhất giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách,
đời sống bên trong của nhân vật thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng
thay đổi theo.
Khi xây dựng ngoại hình nhân vật, nhà văn cần thể hiện những nét riêng biệt,
cụ thể của nhân vật nhưng qua đó, người đọc có thể nắm bắt được những đặc điểm
chung của những người cùng nghề nghiệp, tầng lớp, thời đại...Những nhân vật
thành công trong văn học từ xưa đến nay cho thấy nhà văn bao giờ cũng chọn lựa
công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc họa nhân vật.
Tiếp nối những tinh hoa của văn học dân gian và những tác phẩm truyền kì
thành công trước, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục đã góp phần tạo nên
dấu ấn riêng cho diện mạo văn học giai đoạn này. Thành công của hai tập truyện là
ở việc xây dựng nhân vật với chân dung, ngoại hình, ngôn ngữ, tâm lý, tính cách, số
phận riêng con người đều có tính tạo hình ở chừng mực nào đó. Hình tượng trung
80
tâm của hai tập truyện là nhân vật nam và nữ mà nét đẹp của họ được miêu tả cả
ngoại hình. Ngoại hình nhân vật trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục có
thể nói bước đột phá nhất trong nghệ thuật xây dựng khắc hoạ chân dung nhân vật.
Thủ pháp khắc hoạ nhân vật nam được các tác giả miêu tả rất ít có sự kết hợp miêu
tả dung mạo với tài trí như: “Trình Trung Ngộ là một chàng trai đẹp ở đất Bắc Hà,
nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng nam buôn bán.” “Chuyện cây gạo”,” Đào
Sinh là con một người nông dân ở huyện Đông Sơn, rất đẹp trai. Cha mẹ cho đi
học, Sinh học rất thông minh. Năm mười sáu mười bảy tuổi, Sinh đủ tài theo đòi
khoa cử, nhưng vì nhà nghèo, không mời được thầy dạy riêng. Thôn bên có một ông
cử nhân mở trường, Sinh đến xin theo học.” “Sống lại”. Còn khi miêu tả ngoài hình
nhân vật nữ lại được các nhà văn thể hiện xuất phát từ ảnh hưởng của quan niệm coi
văn chương là nêu gương đạo đức và bài học răn đời của văn học dân gian các nhà
văn đã tập trung thể hiện người phụ nữ với phẩm chất lý tưởng về sắc đẹp, đức
hạnh. Hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm truyền kì của Nguyễn Dữ và Vũ
Trinh cũng được khắc hoạ không ngoài khung thẩm mĩ ấy. Trong Truyền kì mạn lục
những nhân vật như: Nhị Khanh trong “Chuyện cây gạo”: “Dọc đường, hay gặp
một người con gái xinh đẹp, từ Đông thôn đi ra, đằng sau có một ả thị nữ theo hầu.
Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai nhân tuyệt sắc. Song đất lạ quê người, biết
đâu dò hỏi, chỉ mang một mối tình u uất trong lòng”. Vẻ đẹp tuyệt sắc của Nhị
Khanh được tác giả nhấn mạnh, nhắc lại hai lần ngay ở đầu truyện. vẻ đẹp của Nhị
Khanh không được coi là yếu tố tô thêm vẻ đẹp đạo đức lý tưởng mà được coi như
một biểu hiện của sự cám dỗ, mê hoặc. Hay Hàn Than trong “Chuyện nghiệp oan
của Đào thị”: “Người con gái này, nết không cẩn nguyện, tính bén lẳng lơ, tuổi đã
trẻ trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp dễ mê người; tuy
sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt. Vậy ngươi nên
liệu lời từ chối, đừng để hối hận về sau.”. Hai cô gái trong “Chuyện kỳ ngộ ở trại
Tây” cũng để lại ấn tượng trong lòng độc giả khi tác giả miêu tả vẻ đẹp tột bậc qua
lời nhận xét của Hà Nhân: “Vẻ kiều diễm của em Liễu thật là tột bậc, có thể xứng
đáng với một câu thơ cổ: “Mỹ nhân nhân nhan sắc đẹp như hoa”” [6, tr.52]. Nhân
vật nữ Thị Nghi trong “Chuyện yêu quái ở Xương Giang cũng được giới thiệu, miêu
tả là cô gái có sắc đẹp. Như vậy những nhân vật nữ được Nguyễn dữ miểu tả với vẻ
đẹp ngoại hình hấp dẫn theo mô típ là biểu tượng của sự quyến rũ nhục dục của sự
nguy hiểm.
81
Đến Lan Trì kiến văn lục ông cũng ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ như cô
ca kĩ trong “Ca kĩ họ Nguyễn”: “Có một kĩ nữ mười bảy, mười tám tuổi, nhan sắc
xinh đẹp, tài nghệ tuyệt vời, mỗi khi lên sân khấu cất giọng ca thì người xem đều
ngất ngây không sao kiềm chế nổi”. Cô gái trong “Tháp báo ân”: “Xã này có ông
họ Nguyễn rất giàu có, mấy đứa con trai đều làm nghệ nông và đã ăn riêng cả. Về
già ông lại sinh được một người con gái. Lớn lên cô gái nhan sắc rất xinh đẹp”.
Những nhân vật nam hay nữ đều được hai tác giả phác hoạ thành những hình mẫu
của cái đẹp lí tưởng về nhan sắc. Không chỉ vậy, cái đẹp của hình tượng còn biểu
hiện ở mặt đạo đức, ở sự thống nhất của cái chân, thiện, mĩ trong chính phẩm chất lí
tưởng của họ.
Có thể nói bước đột phá nhất trong nghệ thuật xây dựng, khắc hoạ chân dung
nhân vật nam và nữ của hai tác phẩm của hai tác giả không miêu tả cụ thể gì thêm.
Đối với dung mạo chỉ điểm qua vài nét phác hoạ mà đã cho người đọc cảm nhận
được ngoại hình nhân vật
3.3.2. Miêu tả đời sống nội tâm
Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc cuộc sống bên
trong của nhân vật. Ðó là những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản ứng tâm
lí... của nhân vật trước những cảnh ngộ, những tình huống mà nó gặp phải trong
cuộc đời.
Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học, việc thể hiện nhân vật qua nội
tâm ngày càng có vai trò quan trọng. Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc nội tâm góp
phần rất lớn tạo nên sức sống của nhân vật. Nói như L. Tônxtôi: "Mục đích chính
của nghệ thuật...là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn
không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được". Ðể làm được điều đó, nhà
văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt được những biểu hiện và
diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật.
Nhân vật trong tác phẩm văn học chính là hình ảnh của con người qua sự
sáng tạo của nhà văn. Nhân vật trong tác phẩm văn xuôi tự sự hiện qua các biểu
hiện bên ngoài: hành động, cử chỉ, lời nói để thực hiện mục đích của nhà văn. Nhân
vật trong các tác phẩm truyền kì các tác giả đã bắt đầu quan tâm đến những dòng
tâm sự, những suy tư thầm kín, đời sống tình cảm của nhân vật.
82
Đến với Truyền kì mạn lục Nguyễn Dữ đã kết thừa và phát triển đời sống nội
tâm nhân vật lên một bước cao hơn.Việc kết hợp giữa văn xuôi và thơ là một điều
kiện thuận lợi để nhà văn đi sâu vào miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật.
Khảo sát các truyện trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục chúng
tôi nhận thấy nhằm tạo nên tính đa dạng và chiều sâu của tính cách nhân vật,
Nguyền Dữ và Vũ Trinh đã có sử dụng nghệ thuật mang tính tổng hợp đan xen và
tác động lẫn nhau của các yếu tố ngoài hình, nội tâm, hành động thể hiện ró ở hai
khía cạnh đó là sự quan tâm đến con người ở chiều sưu tâm lí và xây dựng, khắc
hoạ thành công hình tượng nhân vật có đời sống nội tâm rõ rệt.
Một trong những yếu tố cho thấy thể loại truyền kì dần thoát khỏi những ảnh
hưởng thụ động từ văn học dân gian chính là nghệ thuật miêu tả nhân vật, chủ yếu
là nghệ thuật thể hiện đời sống nội tâm nhân vật. Khác với lối kể chuyện đơn tuyến
của văn học dân gian, các tác giả này đã bắt đầu quan tâm đến những diễn biến, đặc
biệt là những bước ngoặt trong đời sống nội tâm nhân vật: quan tâm, đề cao những
mối quan hệ tình cảm trong tình yêu nam nữ. Cả hai tác giả đã góp phần cho việc
mở đường loại truyện ngắn thế sự trong lịch sử văn học dân tộc, khiến cho tác phẩm
gần với văn xuôi hiện đại. Các tác giả đưa mùi vị riêng tư của cuộc đời với một trái
tim đồng cảm, thương yêu vào văn học. Nghệ thuật miêu tả tâm lí ở đây thể hiện
qua quá trình diễn biến tâm lí nhân vật trong những sự kiện quan trọng nhất định.
Điều này thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm lí con người của các tác giả. Tuy nhiên
cách thể hiện của các tác giả có phần khác nhau làm nên sự đa dạng trong nghệ
thuật với hệ thống nhân vật của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh đã hiện lên với những cảm
xúc phong phú. Các nhà văn đi sâu khám phá những suy nghĩ, những trăn trở của
nhân vật. Mỗi tác phẩm đều có những cách khai thác và thể hiện những tư tưởng
khác nhau nhưng nhìn chung tâm lí nhân vật đều được dặt trong những hoàn cảnh
có vấn đề. Chính trong hoàn cảnh ấy tâm trạng nhân vật được bộc lộ một cách chân
thực nhất. Trong “Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây” tác giả Nguyễn Dữ đã thể hiện tình
cảm nam nữ giữa hai nàng Đào Liễu với chàng nho sinh Hà Nhân trong đêm đầu
tiên gặp mặt. Tâm trạng của con người chốn buồng xuân khi lửa đượm hương nồng
với sự mãn nguyện hạnh phúc được tác giả thể hiện rất rõ nhưng người đọc không
thấy nó thô tục vì tác giả dùng thơ để thể hiện. Tâm lý của con người đang yêu cũng
được nhà văn chú ý miêu tả đó là tâm trạng dỗi hờn trách móc của nàng Đào khi Hà
Nhân thờ ơ với mình mà mặn mà với nàng Liễu.
83
“Nhân thể đưa bài thơ của Đào gửi cho Hà Nhân:
Tình hà cốt cách tuyết tinh thần,
Lộ nhị yên điều lưỡng dạng tân.
Khả hận Đông Hoàng tư trước ý,
Nhất chi tiều tụy nhất chi xuân.
Dịch:
Băng sương cốt cách, tuyết tinh thần,
Nhị mởn nhành mềm đã xứng cân.
Khá trách Đông Hoàng thiên vị lắm,
Một cành bỏ héo, một cành xuân.
Hà Nhân đọc xong buồn rầu lúc lâu, rồi làm thơ họa theo vần trên để đáp lại:
Tương tư nhất đoạn nhất lao thần,
Để sự tài thành biệt hận tân.
Bằng trượng phong di phiền ký ngữ,
Vị thùy tiều tụy? vị thùy xuân?
Dịch:
Tương tư nặng gánh khổ tâm thần,
Ân ái chưa hề lệch cán cân.
Dì gió, nhờ đem tin nhắn nhủ:
Hoa nào bỏ héo? Lá nào xuân?”
Đó cũng là tâm trạng cô đơn trống trải khi người yêu ở xa, là tâm trạng buồn
bã xót xa khi tình yêu không còn. Trong Truyền kì mạn lục nhân vật tự bộc lộ nội
tâm được thể hiện khá nhiều, chẳng hạn như “Chuyện cây gạo”: “Chàng liếc mắt
trông, thấy là một giai nhân tuyệt sắc. Song đất lạ quê người, biết đâu dò hỏi, chỉ
mang một mối tình u uất trong lòng. Một hôm khác, chàng cũng gặp lại, muốn kiếm
một lời nói kín đáo để thử khêu gợi, nhưng người con gái đã xốc xiêm rảo bước, và bảo
với con hầu gái”. Nguyễn Dữ trong nghệ thuật khắc hoạ đời sống nội tâm nhân vật đã
tiến một bước rất dài về nghệ thuật, ông đã có một cái nhìn rất mới, rất nhân văn qua
việc thể hiện nội tâm nhân vật. Nhà văn đã để nhân vật sống đúng với cảm xúc, với nhu
cầu tình cảm chính đáng của mình không một chút gượng ép, khiên cưỡng.
Đến truyện truyền kì của Vũ Trinh có sự đổi khác, ông chủ yếu ghi chép lại
những con người thật với những việc có thật cho nên thế giới nhân vật của ông
được thể hiện rất chân phương, mộc mạc. Các nhân vật ít được chú ý xây dựng
84
ngoại hình và nội tâm mà phần lớn được thể hiện với những tính cách đã được định
sẵn rõ ràng như: thuỷ chung trong truyện “Câu chuyện tình ở Thanh Trì”, bạc ác
“Sống lại”, cao thượng “Ca kĩ họ Nguyễn”…Các nhân vật được xây dựng một chiều
nhưng đều là những con người, sự việc có thật, các hành vi đều rất thật nên nhân vật
lại không xa lạ với người đọc. Các nhân vật của Vũ Trinh đều chủ động tìm đến tình
yêu và biết nâng niu những giây phút ái ân, hạnh phúc mà họ biết là rất hiếm hoi
trong đời. Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục mặc dù xuất hiện muộn hơn song cũng
nhanh chóng để lại vị trí trong lòng bạn đọc bởi những đoạn văn miêu tả tâm trạng
nhân vật, đó là tâm trạng xót thương người yêu của cô gái trong “Câu chuyện tình ở
Thanh Trì”:“Trước đó cô gái đã biết bố mình sẽ cự tuyệt cuộc hôn nhân, nên rất
thất vọng, nhưng không dám đem mối tình u uẩn của mình nói với bố. Biết bố mình
khinh Sinh nhà nghèo, nàng ngầm lấy hai trăm lạng vàng, sai người đưa cho Sinh
để làm sính lễ. Nghe tin Sinh phẫn chí bỏ đi, không biết là đi đâu, trong lòng âm
thầm thương xót. Mỗi khi không có ai nàng lại nhìn bóng mình mà nuốt lệ. Dần dà
nàng sinh bện chân tay rời rã, vóc dang gầy mòn, trong bụng kết thành một khối
rắn như đá, chữa chạy thế nào cúng không khỏi”[39, tr.73]. Vũ Trinh với Lan Trì
kiến văn lục cũng tỏ ra am hiểu những uẩn khúc của tâm hồn con người khi đi sâu
khám phá đười sống nội tâm phong phú của nhân vật. Chẳng hạn cô gái trong
truyện “Tháp báo ân”: “Cô gái từ khi mắc bệnh, không được sống gần ai, nay
bỗng dưng gặp một chàng trai tuổi trẻ tài hoa, rất hợp ý nghuyện của mình.
Nhưng rồi nàng bỗng buồn rầu than rằng: đời tàn nhơ bẩn, nay được gặp nhau
trong bóng tối. Nếu nhìn nhau lúc sáng trời thì một tối giao hoan đâu mà có
được! Ai hay một độ gió xuân lại tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận đến
suốt đời! Hỡi ơi Lưu lang, với mặt mũi này mà gặp lại chàng, thiếp chịu đựng
sao nổi” [39, tr.147]. Cô gái vừa hạnh phúc được yêu, vừa đau khổ vì mặc cảm
mắc bệnh hiểm nghèo, lại vừa lo lắng cho sự mong manh của tình yêu ấy. Hay
tâm trạng thương cảm của Sinh đối với cô gái “- Đây là nấm mộ mới đắp của cô
gái mắc bện làng tôi. Rồi chỉ ngôi nhà bỏ trống nói: Đây là ngôi nhà cô gái ở
khi còn sông! Lại kể cho Sinh nghe ngày mất của cô gái. Sinh trong lòng thương
cảm, đem vàng bạc hương ra mồ, khóc và tế cô rồi đi”.
Có thể thấy ngôn ngữ kể chuyện của Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn
lục không chỉ đạt đến độ hấp dẫn mà ngòi bút nhà văn còn hướng tới việc miêu tả
85
tâm lí nhân vật. Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục cũng tỏ ra am hiểu những uẩn
khúc của tâm hồn con người khi đi sâu khám phá đười sống nội tâm phong phú của
nhân vật. Mặc dù đời sống nội tâm không được hai tác giả dụng công miêu tả, cốt
truyện lại ngắn nhưng đấy không phải là sự thụt lùi của văn xuôi tự sự mà khi viết
Nguyễn Dữ và Vũ Trinh luôn có sự chọn lọc kỹ càng các chi tiết, những chi tiết
được đưa vào luôn là đỉnh điểm cuộc đời nhân vật bộc lộ tính cách, người đọc có
cái nhìn chân thực về nhân vật và còn có những dự cảm về tương lai số phận của
nhân vật. Yêu thương đồng cảm là những cảm xúc bộc lộ tiếng nói nhân đạo trong
tác phẩm. Một tác phẩm sẽ bất tử với thời gian khi biết nói lên tiếng nói chung cho
cả cộng đồng. Nói về nghệ thuật khắc hoạ đời sống nội tâm nhân vật ở thể loại
truyền kì thì Truyền kì mạn lục là tác phẩm phát triển mạnh mẽ nhất và đến Lan Trì
kiến văn lục là kết thúc.
3.3.3. Tính cách nhân vật
Mặc dù cách xây dựng nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục vẫn theo bút pháp
truyền thống: chia nhân vật thành hai loại thiện và ác nhưng tác phẩm đã đạt được
những thành công lớn trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật. Nhiều nhân vật
trong Truyền kỳ mạn lục đã có diện mạo, tính cách và cuộc sống riêng.
Trong Truyền kì mạn lục nhiều nhân vật nữ đều tìm đến tình yêu, hạnh phúc ở
những chàng trai không quen biết, đa số đều là những người vùng khác đi ngang
qua địa phận của họ (trừ hồn ma Đào Hàn Than lôi kéo Vô Kỷ - người tình cũ). Nhị
Khanh (Chuyện cây gạo), Liễu, Đào (Chuyện kì ngộ ở trại Tây), Thị Nghi (Chuyện
yêu quái ở Xương Giang) mỗi người một cách khác nhau nhưng đều có kế hoạch
từng bước gây sự chú ý và tìm cách quyến rũ các đối tượng. Có phải ngẫu nhiên
chăng mà trên đường đi vào chợ Trung Ngộ “hay gặp một người con gái xinh đẹp
từ Đông thôn đi ra”?. Thấy Trung Ngộ muốn kiếm lời khêu gợi thì nói với con hầu
đêm nay sẽ lên chơi cầu Liễu Khê, gẩy đàn, than thở thiếu kẻ tri âm, đấy chính là
tạo cơ hội cho Trung Ngộ có lí do gặp gỡ. Ngay trong cuộc chuyện trò đầu tiên, Nhị
Khanh đã không ngần ngại bày tỏ mong muốn hoan lạc ân ái. Tính cách của nhân
vật này rất phù hợp với suy nghĩ, quan điểm của nàng về cuộc đời, nhân sinh. Vì
tính cách mạnh mẽ, quyết liệt ấy nên Nhị Khanh quyết bám đuổi Trung Ngộ đến
86
cùng. Khi phát hiện ra sự thật, Trung Ngộ sợ hãi đến “tất tả nhảy choàng qua”, Nhị
Khanh vẫn thường qua lại “có lúc đứng trên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa
sổ nói thì thào” cho đến khi Trung Ngộ ôm quan tài nàng mà chết, cả hai tự do quấn
quýt bên nhau. Khát vọng tự do yêu đương bị cấm cản đã tạo thành phản ứng quyết
liệt của đôi tình nhân ma này. Người ta thấy đôi trai gái “dắt tay nhau đi đôi”, để
“thân thể lõa lồ mà cùng nhau cười đùa nô giỡn”, ngang nhiên, công khai ngay nơi
cửa chùa. Bên cạnh đó tính cách mạnh mẽ, quyết liệt của Thị Nghi - yêu quái ở
Xương Giang lại được biểu hiện một cách khác. Bởi phải chết đau đớn, oan ức, hồn
ma Thị Nghi hiện về tác oai tác quái, dâm sát kẻ có vai vế, bóc lột người có tiền
của. Bị dân làng tán xương vứt xuống sông, ả lại hiện thành một người con gái xinh
đẹp nói dối Hoàng - một người lạ đi ngang qua vùng - để chàng vớt hài cốt, lại còn
táng cẩn thận ở bên sông. Sợ đạo sĩ phát hiện, bị lộ tẩy thân phận, nàng giả vờ cả
giận, lấy gậy đập vỡ chai thuốc, mắng vị đạo sĩ, trúng bùa Thị Nghi phải chết lần
nữa. Nhưng ả vẫn tìm cách thoát được và trả thù Hoàng kiện chàng dưới Minh ti.
Tính cách quyết liệt báo oán của Thị Nghi có phần giống Hàn Than nhưng có phần
tàn nhẫn hơn bởi Hàn Than đầu thai để trả thù kẻ đã gây ra đau khổ cho mình còn
Thị Nghi mưu hại người có ơn sâu, lại kết thành vợ chồng với ả. Cho nên, qua tính
cách của nhân vật, có thể kết luận tính cách “yêu quái” ở Thị Nghi đậm hơn ở Nhị
Khanh, Hàn Than; tính cách của Nhị Khanh, Hàn Than mang tính người hơn. Bên
cạnh đó cũng có những truyện mang tính nhân văn, nhân bản hơn. Cũng là chủ
động, mạnh dạn đến với tình yêu trần thế nhưng Đào Hồng Nương, Liễu Nhu
Nương “Chuyện kì ngộ ở trại Tây” có phần dịu dàng, mềm mại hơn. Có lẽ bởi hoa
cỏ vốn yếu mềm, mỏng manh? Đối tượng mà Liễu, Đào chọn là một thư sinh lên
kinh để theo học cụ Ức Trai. Ngay cách lựa chọn nhân vật nam ở đây đã có phần
nho nhã, dịu dàng hơn so với một lái buôn (Trình Trung Ngộ - Chuyện cây gạo) hay
một quan lại (Hoàng - Chuyện yêu quái ở Xương Giang). Để thu hút sự chú ý của
Hà Nhân, Liễu, Đào đã hóa thành hai người con gái đứng bên trong bức tường đổ -
vẫn còn những sự ngăn cách - mà hái những quả ngon, bẻ những bông hoa đẹp ném
cho Hà Nhân. Nói về chuyện “mây mưa” thì vẫn còn thẹn thò. Hai hồn hoa này tuy
có gần gũi nhưng không làm tổn hại đến Hà Nhân giống như Nhị Khanh, đến lúc
87
thác hóa thì sụt sùi chia tay Hà Nhân chứ không kéo chàng chết theo. Nhưng tài
năng của Nguyễn Dữ ở chỗ miêu tả hai hồn hoa tưởng chừng như giống hệt nhau
nhưng vẫn có sự khác nhau. Hai nhân vật này vẫn là hai tính cách khác nhau: nàng
Liễu thì yếu đuối, nũng nịu; nàng Đào thì nồng nàn nhưng lại hay cả thẹn. Sự khác
nhau ấy đã được thể hiện rõ ngay trong bài thơ hai nàng tả tình trạng trong chốn
buồng xuân. Thơ của nàng Liễu xin “chúa xuân” gượng nhẹ bởi “Thân non mềm
chịu được đâu phũ phàng” còn thơ của nàng Đào thì nồng nàn, mời gọi “Tài lang
mặc sức vin cành / Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi”. Qua đó người đọc
thấy được tài năng của Nguyễn Dữ khi xây dựng tính cách nhân vật.
Thế kỷ XVIII đến đầu XIX là thời kỳ xã hội phong kiến tiếp tục lâm vào
tình trạng suy thoái. Đứng trước thực tại của một thời kỳ thế đạo sa sút, danh
phận không rõ, nhiều nhà nho đã lầm đường lạc lối. Vũ Trinh sáng tạo ra Lan Trì
kiến văn lục để phê phán thực trạng đó. Trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh
vừa xây dựng cả những nhân vật chính diện và những nhân vật phản diện. Nhân
vật chính diện đều có nhân cách đáng trọng, họ là những tấm gương nhân nghĩa,
trinh tiết, đáng để người đời noi theo, soi vào đó để tự hoàn thiện mình. Bên
cạnh đó tác giả còn dựng nên những nhân vật phản diện hung ác, bất nhân bất
nghĩa luôn phải chịu kết cục bi thảm. Đó là những bài học quý báu để tu dưỡng
tâm tính, tu tâm tích đức, giúp con người tiến dần đến cái thiện hơn. Hiển nhiên
là tác giả quan niệm về các giá trị đạo đức theo kiểu nhà Nho. Nhân vật trong
Lan Trì kiến văn lục đều mang tính cách đã được định sẵn. Bạc ác đánh vợ đến chết
(Sống lại), chung tình thì xương thịt thành tro “khối tình vẫn không đập vỡ”
(Chuyện tình ở Thanh Trì). Cao thượng thì như cô đào họ Nguyễn, giúp áo cơm cho
người thành danh mà không cần đền đáp điều gì (Ca kĩ họ Nguyễn).. các nhân vật
của Vũ Trinh đều lấu mẫu từ cuộc sông, đều là những người có thật nên từ lời ăn
tiếng nói đến cử chỉ hành vi đều rất thực, hoàn toàn không gây cảm giác khiêm
cưỡng. Ở Lan Trì kiến văn lục chúng ta thấy ở tầng lớp nho sĩ sa đọa về nhân
cách. Người xưa quan niệm nho sĩ - những người theo học đạo thánh hiền phải
có đủ tài đủ đức, đức bao gồm nhân - lễ - nghĩa - trí - tín. Ấy vậy mà trong xã hội
của Vũ Trinh có những nho sĩ đã vi phạm luân thường đạo lý. Họ đã đem nhân
88
cách để đổi lấy điều mong muốn. Chính vì sự ham muốn bản năng đã làm cho họ
mờ mắt, tự đánh mất phẩm chất tốt đẹp. Truyện Trạng nguyên họ Nguyễn đã
phản ánh sự xuống dốc về phẩm cách của anh thư sinh Nguyễn Đăng Đạo. Là
một người có tài song vì ham mê sắc đẹp khiến anh ta đánh mất đi bản tính
khoáng đạt, cao nhã của nhà Nho. Trong một lần đi du ngoạn, gặp người con gái
trẻ trung xinh đẹp khiến anh nảy sinh tình ý. Đạo lần tìm đến dinh cô gái, đút lót
tiền cho đứa hầu để hỏi nó về đường ra lối vào, cổng cửa các phòng trong dinh.
Một đêm, anh ăn mặc gọn gẽ, vượt mấy lớp tường, lên thẳng tới chỗ người đẹp,
khoét tường chui vào buồng cô, leo ngay lên giường nằm chung với cô. Phẩm
cách của một anh chàng có học, đọc sách thánh hiền hàng ngày mà lại có hành
động bất nhã như vậy. Hễ có điều kiện làm điều xấu thì những thứ bản năng hèn
hạ trong con người có nhiều chữ cũng nổi lên không kém ai. “Trèo tường khoét
gạch, đó là việc xấu xa, kẻ sĩ không làm. Thế mà danh sĩ lại làm việc đó. Có
người nói: “Có tài như ông thì có thể làm những việc như ông”. Tôi cho rằng:
“Sao bằng cái tài như ông, mà không chơi bời du đãng như vậy”. Tài năng và
đức hạnh làm sao có thể che lấp nhau?” (Lời bàn cuối truyện). Trong Lan Trì kiến
văn lục tính cách nhân vật cũng mạnh mẽ, quyết liệt nhưng mang những nét riêng
biệt như Khâm Lân “Ca kĩ họ Nguyễn”: “Ông thượng thư Ôn quận công, họ Vũ, tên
là Khâm Lân, người xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ. Cha ông đỗ thi Hương. Ông sinh ra
đã lĩnh ngộ khác thường, đọc sách, làm văn, chỉ dậy qua một lần là hiểu. Người mẹ
đẻ ra ông vì có lỗi phải đuổi khỏi nhà. Mẹ kế ăn ở chẳng lành, bắt ông bỏ học đi
chăn trâu.
Năm ông mười lăm, mười sáu tuổi, mẹ kế ông bắt ông học nghề, bắt phải cầy
bừa, gánh phân, cuốc đất, còn mắng ông thậm tệ. Các thức ăn ngon, các đồ mặc
đẹp, bà đều dành riêng cho con mình. Ông thì quần áo rách rưới, cơm hẩm cà
thâm, rất ít khi được ăn no mặc ấm. Bố ông cũng không biết che chở cho ông. Ông
không chịu nổi nỗi cực khổ nặng nề, liền bỏ trâu ngoài đồng rồi bỏ đi. Dọc đường,
ông vừa đi, vừa xin ăn”. Các thiên truyện của Vũ Trinh tuy chỉ kể về một chặng
đường đời dài hoặc ngắn, hoặc một cách ứng xử trước biến cố nào đó trong một
cuộc đời của nhân vật, những bao giờ nhân vật cũng bộc lộ được bản chất của mình
89
bởi thời điểm nhà văn lựa chọn để ghi truyện luôn là đỉnh điểm của cuộc đời họ,
qua đó buộc nhân vật phải bộc lộ bản chất và tính cách. Vì vậy người đọc sẽ có
được một cái nhìn chân thực về nhân vật, thậm chí còn dự cảm thấy cả tiến trình, số
phận của nhân vật ấy.
Như vậy, trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục, một số nhân vật
đã có nét tính cách riêng, tuy nhiên đó vẫn chỉ là một vài nét miêu tả “điểm xuyết”
chưa thể coi là những tính cách văn học thật sự.
3.4. Ngôn ngữ nghệ thuật
3.4.1. Ngôn ngữ trần thuật
Mỗi một tác phẩm tự sự cần có một người kể chuyện. Người kể chuyện là
một hình tượng do nhà văn sáng tạo ra để thực hiện chức năng kể chuyện trong tác
phẩm. Mỗi người kể chuyện sẽ chọn cho mình một điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn
trần thuật là vị trí, xuất phát điểm từ đó người trần thuật quan sát, miêu tả và kể lại.
Xét từ góc độ ngôi kể, quan điểm truyền thống chia ra hai loại người kể chuyện:
người kể chuyện từ ngôi thứ nhất và người kể chuyện từ ngôi thứ ba. Trong những
câu chuyện tình yêu trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục người kể
chuyện thường kể từ ngôi thứ ba với một giọng điệu khách quan theo lối ghi chép,
trình bày sự kiện. Lời dẫn truyện và lời kể lại các sự kiện, biến cố thường rất ngắn
gọn, mang tính chất liệt kê. Việc các tác giả truyền kì tách nội dung bình luận thành
một phần riêng đặt ở cuối mỗi truyện cũng là một cách để đảm bảo tính khách quan
cho giọng điệu kể chuyện. Bên cạnh đó giọng kể trong truyện truyền kì phải đảm
bảo tính hấp dẫn để tạo sự thu hút với người đọc. Muốn vậy, người kể chuyện phải
kể với một giọng điệu say mê, lôi cuốn, miêu tả chi tiết, tỉ mỉ. Ngôn ngữ kể chuyện
trong mỗi tác phẩm, tất nhiên, vẫn mang những đặc trưng riêng do vai kể của người
kể quy định. Người kể chuyện trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục lại là
người kể chuyện ở ngôi thứ ba với thái độ khách quan. Lối kể chuyện đã đạt đến
trình độ tinh tế, điêu luyện, chau chuốt, mỹ lệ: “dệt gấm, thêu hoa, biện luận hùng
hồn, có chỗ điêu khắc tỉ mỉ, chỗ tươi đẹp như bức tranh màu lộng lẫy, chỗ vang dội
như dòng suối chảy lô xô” (Phan Huy Chú). Bên cạnh đó các tác giả dung đặc điểm
ngôn ngữ ở truyện kể theo điểm nhìn bên trong và bên ngoài.
90
Đặc điểm của người kể chuyện trong truyện kể theo điểm nhìn bên trong.
Với tính chất chủ quan, trực tiếp, cận cảnh, nội tâm của điểm nhìn bên trong hoặc vị
trí không gian, thời gian. Lời văn người kể chuyện trong Truyền kì mạn lục và Lan
Trì kiến văn lục có phần ưu ái với những nhân vật được yêu mến, đặc biệt là lối kể
chuyện tình cảm khi viết về tình yêu nam nữ. “Trình Trung Ngộ là một chàng trai
đẹp ở đất Bắc Hà, nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng nam buôn bán. Chàng
thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu Khê rồi đi lại vào chợ Nam Xang . Dọc đường,
hay gặp một người con gái xinh đẹp, từ Đông thôn đi ra, đằng sau có một ả thị nữ
theo hầu. Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai nhân tuyệt sắc. Song đất lạ quê
người, biết đâu dò hỏi, chỉ mang một mối tình u uất trong lòng. Một hôm khác,
chàng cũng gặp lại, muốn kiếm một lời nói kín đáo để thử khêu gợi, nhưng người
con gái đã xốc xiêm rảo bước” “Chuyện cây gạo”. Hay “Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây”:
“Hà Nhân, người học trò quê ở Thiên Trường, khoảng năm Thiệu Bình ngụ ở kinh
sư để tòng học cụ ức Trai. Mỗi buổi đi học, đường tất phải qua phường Khúc
Giang. Trong phường có cái trại, gọi là trại Tây, dinh cơ cũ của quan Thái sư triều
Trần. Ngày ngày đi qua, Hà Nhân thường thấy hai người con gái đứng ở bên trong
bức tường đổ nhí nhoẻn cười đùa, hoặc hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà
ném cho Hà Nhân nữa. Lâu lâu như thế Hà Nhân không mần ngơ được, một hôm
mới đứng lại trò chuyện lân la. Hai người con gái tươi cười bảo:”
Trong Lan Trì Kiến văn lục Vũ Trinh cũng dành những tình cảm đặc biệt cho
nhân vật của mình “Ông hàng xóm chỗ Sinh ở có cô con gái, tuổi cũng xấp xỉ bằng Sinh,
người trông xinh tươi trằng trẻo. Sinh thường gặp cô trên đường đi học. Mỗi khi gặp
Sinh dung lời bóng gió để khêu gợi, cô gái cũng cười mà không cự lại” “Sống lại”.
Đặc điểm của người kể chuyện trong truyện kể theo điểm nhìn bên ngoài, tức
là nhà văn có thể chỉ nhìn thấy những gì đang diễn ra bên ngoài như hành động lời nói,
diện mạo của nhân vật hoặc vị trí không gian, thời gian. Đặc điểm nổi bật của không gian
trong truyện kể theo điểm nhìn bên ngoài là không gian bối cảnh xã hội, không gian sự
kiện. Những truyện viết về tình yêu nam nữ trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn
lục như: Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, Chuyện yêu
quái ở Xương Giang, Sống lại, Câu chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp báo ân...đều lấy
bối cảnh xã hội chủ yếu là các nho sĩ muốn học hành thi cử những lại vướng vào
tình ái. Về vị trí thời gian khi kể chuyện người kể chuyện thường lùi điểm nhìn về
91
thời điểm xảy ra sự kiện, câu chuyện cũng tức là người kể chuyện lùi điểm nhìn về
thời gian lịch sử, hay thời gian ban đêm để quan sát, chứng kiến và kể lại câu
chuyện. Trong truyện (Nghiệp oan của Đào thị) khi viên quan họ Hoàng gặp hồn
ma Thị Nghi “Đêm sâu như vậy, tại sao mà cô khóc lóc thế, khiến lòng sắt đá cũng
phải ỉu mềm đi. Người con gái khép nép, lau ráo nước mắt rồi nói”. Sự lựa chọn
cách kể chuyện đã đem lại cho độc giả ấn tượng trực tiếp sinh động về nhân vật.
Đi cùng với những hình thức sử dụng ngôn ngữ, ngôn ngữ trần thuật đã tạo
lập nên một kiểu giọng điệu nghệ thuật khá đặc thù. Là một phạm trù thẩm mĩ có
vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nên phong cách của nhà văn, giọng điệu
thể hiện thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện
thực được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ,
sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca
hay châm biếm. Có thể khẳng định, ngôn ngữ trần thuật đã góp phần tạo nên một
bút pháp nghệ thuật độc đáo, riêng biệt của truyện truyền kì trong dòng chảy văn
xuôi Việt Nam.
3.4.2. Ngôn ngữ miêu tả
Lời miêu tả là một thành phần không thể thiếu trong ngôn ngữ người kể
chuyện truyền kì. Bởi mục đích của truyền kì là kể lại những chuyện kì lạ, hoang
đường - những cái người thường không biết và rất ít khi bắt gặp nhưng vẫn khiến
người ta tin. Do đó, để người đọc có thể hình dung về câu chuyện mình kể không
thể thiếu yếu tố miêu tả. Việc miêu tả chi tiết, tỉ mỉ cũng là một yếu tố tăng thêm
tính tin cậy, xác thực cho lời người kể chuyện. Khung cảnh chốn âm ti, việc xét xử
nơi địa ngục được miêu tả lại trong Chuyện Lý tướng quân từng cảnh, từng việc, cụ
thể, chính xác đến tên tuổi, tước vị, hành trạng. Những điều lạ lẫm cứ dần dần hiện
ra trong cái nhìn ngạc nhiên theo từng bước chân của nhân vật. Chẳng những Thúc
Khoản - người chứng kiến cảnh ấy phải tin mà người đọc cũng có kẻ phải ngờ.
Không chỉ miêu tả khung cảnh chốn âm ti hay địa phủ, người kể chuyện
trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn dành những dòng miêu tả ngoại
hình, đặc điểm nhân vật tuy không nhiều. Vẻ đẹp của những nhân vật nữ
trong Truyền kì mạn lục được miêu tả bằng ngôn ngữ ước lệ trau chuốt. Nhân vật
ma quái không được Nguyễn Dữ miêu tả kĩ về ngoại hình phải chăng bởi đấy chỉ là
92
những sản phẩm của trí tưởng tượng. Hơn nữa, hình dạng chúng vốn không cố định,
lại thường xuất hiện vào ban đêm nên khó có thể xác định rõ diện mạo.
Người kể chuyện trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn chọn
được những chi tiết đắt giá để miêu tả ngoại hình, chỉ một lời miêu tả mà toát lên
bản chất nhân vật. Truyền kì mạn lục có những trang miêu tả cảnh hoan lạc giữa con
người với các nhân vật ma quái bằng những lời văn táo bạo, dạt dào cảm xúc: “tựa
ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát sóng hoa đào nghiêng ngả” (Chuyện kì ngộ ở
trại Tây). Trong những câu chuyện tình cảm nam nữ, người kể chuyện thường trao
điểm nhìn cho các nhân vật, thế giới được nhìn qua con mắt của những kẻ si tình.
Ngoài đoạn văn miêu tả giàu hình tượng trên đây, thơ ngâm vịnh của các nhân vật
cũng đều nhằm minh họa thêm cho cảnh lạc thú mây mưa như “Chuyện kỳ ngộ ở
trại Tây” nàng Liễu ngâm thơ:
“Xạ trầm lương hãn thấp la y,
Thúy đại khinh tần bát tự my.
Báo đạo đông phong khoan đả lục,
Tiêm yêu bãi loạn bất thăng suy.”
Dịch:
“Màu hôi dâm dấp áo là,
Mây xanh đôi nét tà tà như chau.
Gió xuân xin nhẹ nhàng nhau,
Thân non mềm chịu được đâu phũ phàng.”
Nàng Đào cũng tục ngâm:
“Thiên cao cấm ngữ lậu thanh trì,
Đăng ủng ngân giang xuất giáng duy.
Phân phó tài lang phan chiết khứ,
Tân hồng nhận thủ tiểu đào chi.”
Dịch:
“Cung sâu thưa điểm giọt rồng,
Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh.
Tài lang mặc sức vin cành,
Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi.”
93
Trong một mức độ nào đó, sự miêu tả trong tác phẩm của Nguyễn Dữ có
phần tỉ mỉ và táo bạo hơn. Còn trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ Trinh cũng dùng
những lời văn miêu tả giàu cảm xúc nhưng có phần khiêm nhường. Vẻ đẹp của
nhân vật cũng được tác giả miêu tả ngắn gọn nhưng đều toát lên tài năng và tính
cách của nhân vật như: “Có một kỹ nữ mười bảy, mười tám tuổi, nhan sắc xinh đẹp,
tài nghệ tuyệt vời, mỗi khi lên sân khấu cất giọng ca thì người xem đều ngây ngất
không sao kiềm chế nổi” (Ca kĩ họ Nguyễn) hay “Ông cử tuổi đôi mươi, đẹp trai, ăn
nói nhã nhặn. Cô gái dẫu tay chân mắc chứng phong, nhưng khuôn mặt vẫn đầy
đặn, da dẻ không lộ ra, vẫn là trang kiều diễm” (Tháp báo ân). Vậy ngôn ngữ miêu
tả đã góp phần đáng kể vào việc xây dựng chân dung văn học nhân vật. Cùng với
sự quan sát tinh tế, tài năng sáng tạo trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ miêu tả đã
giúp các tác giả tạo nên những hình tượng nhân vật chủ đề của truyện. Những bức
chân dung ấy đã gieo vào lò ng ngườ i đọc mô ̣t ấn tượng đầy trăn trở day dứ t. Bở i nó không đơn giản chỉ là mô ̣t bức chân dung ngoa ̣i hình nhân vật, mà bên trong nó là cả mô ̣t bài học lớ n về cuô ̣c đờ i, bằng hình tượng nghệ thuật thẩm mĩ, có sức lay động sâu xa.
Tiểu kết Chương 3
Như vậy với chương này đề tài đã khái quát được toàn bội giá trị nghệ thuật
của hai tập truyện trong việc thể hiện chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì.
Nguyễn Dữ và Vũ Trinh đã thể hiện chủ đề tình yêu nam nữ trong tác phẩm của
mình một cách tài tình, nội tâm, tính cách nhân vật được khắc hoạ một cách sâu sắc
có tính thẩm mỹ và tính tạo hình cao. Đó là sự phối kết hợp hài hoà của hàng loạt
các yếu tố nghệ thuật, từ những đặc trưng của thể loại văn học truyền kì có bắt
nguồn từ Trung Quốc nhưng vẫn giữ được nét văn hoá dân tộc với quá trình đưa
nhân vật vào hiện thực cuộc sống của hai tập truyện. Đồng thời là những biến đổi
trong quan hệ giữa yếu tố kì ảo và yếu tố thực qua hai tác phẩm Truyền kì mạn lục
và Lan Trì kiến văn lục: Theo quá trình phát triển của truyện truyền kì yếu tố kì ảo
dần dần yếu đi những chỗ cho yếu tố thực. Ở Truyền kì mạn lục yếu tố kì ảo được
dùng làm sáng tỏ hơn những vấn đề hiện thực mà nhà văn đang hướng đến, còn ở
Lan Trì kiến văn lục thì yếu tố kì ảo chỉ là những sự việc lại có thật ở đời. Như vậy
94
quá trình biến đổi của yếu tố kì ảo và yếu tố thực qua hai tập truyện viết về chủ để
tình yêu nam nữ là sự tăng dần yếu tố thực. Đây là một quá trình phát triển tất yếu
theo xu hướng phát triển của văn học Việt Nam nói chung. Về kết cấu nghệ thuật
qua các truyện viết về tình yêu nam nữ ở hai tập truyện cũng có những biến đổi
đáng kể. Ở Truyền kì mạn lục kiểu kết cấu biền văn xen vận văn và lời bình được
các tác giả ưu dùng để thể hiện những cung bậc tình cảm tinh tế của nhân vật song
bên cạnh đó lại làm cho câu chuyện trở nên dài dòng, nguồn cảm hứng của người đọ
bị ngắt cho nên càng về sau yếu tố này càng bị cắt giảm, dung lượng tác phẩm ngày
càng ngắn gọn, cô đúc, súc tích. Yếu tố lời bình cũng theo xu hướng đó mà giảm
dần, đặc biệt những lời bình mang tính định hướng, mang tính giáo huấn không còn.
Nhà văn chỉ nêu vấn đề một cách khách quan và chừa khoảng trống cho người đọc
tự suy ngẫm, tự đúc rút những vấn đề của cuộc sống từ câu chuyện. Bện cạnh đó
nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa không gian, thời gian nghệ thuật cùng với nghệ
thuật miêu tả nội tâm, tâm trạng nhân vật, tả ngoại hình...để thấy được sự phát triển
vượt bậc của truyện truyền kì, hai tác giả đã đưa thể loại truyện truyền kì đến gần
với người đọc, hướng vào thể hiện khát vọng của con người.
95
KẾT LUẬN
Với sự lựa chọn và khám phá hai tác phẩm truyện truyền kì : Truyền kì mạn
lục, Lan trì kiến văn lục từ góc độ tình yêu nam nữ với đề tài Chủ đề tình yêu nam
nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam khảo sát qua Truyền kì mạn lục, Lan
Trì kiến văn lục. Luận văn đã nêu được một số văn đề sau: Thể loại truyện truyền
kì, nội dung chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì, chủ đề tình yêu nam nữ
biểu hiện ở các phương diện nghệ thuật. Chúng tôi đi đến một số kết luận như sau :
1. Truyền truyền kì Việt Nam vốn có nguồn gốc từ thể loại truyền kì ảo
Trung Quốc nhưng có một quá trình hình thành và phát triển nội sinh gắn liền với
nền văn hoá và văn học của dân tộc. Văn hoá dân tộc như cái nôi nuôi dượng truyện
truyền kì Việt Nam trong suốt quá trình hình thành và phát triển, giúp cho thể loại
truyện truyền kì ở Việt Nam khác với truyện truyền kì các nước đồng văn trong khu
vực. Luận văn đã khái quát được hoàn cảnh lịch sử văn hoá xã hội, chân dung nhà
văn Nguyễn Dữ và Vũ Trinh cùng những thông tin về vai trò vị trí của hai tác phẩm.
Điều đó giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về nội dung nghệ thuật của hai tác
phẩm này. Bên cạnh đó trong chương 1: Thể loại truyện truyền kì và chủ đề tình yêu
nam nữ trong truyện truyền kì trung đại Việt nam, luận văn còn tập chung giới thiệu
những vấn đề cơ bản có liên quan đến chủ đề tình yêu nam nữ trong hai tập truyện:
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục.
2. Chương 2: Nội dung chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì trung
đại Việt Nam(qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục) đã đi sâu vào tìm hiểu
từng biểu hiện cụ thể của hai tác phẩm, từ đó tiền hành so sánh đối chiếu việc thể
hiện chủ đề tình yêu nam nữ từ góc độ nội dung. Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm
tương đồng, gặp gỡ trong việc thể hiện tình yêu nam nữ ở những điểm sau: Xây
dựng những nhân vật nam và nữ táo bạo thủy chung son sắt. Họ là những người phụ
nữ đức độ, trinh tiết, xứng là tấm gương sáng lưu lại cho đời. Họ là những thư sinh
tài năng thành đạt luôn làm việc nghĩa, ngời sáng về phẩm chất để người đời noi
theo. Từ đây luận văn cũng đi vào tìm hiểu và chỉ ra những nét khác biệt làm nên
những giá trị độc đáo riêng trên hai khía cạnh: đối tượng phản ánh và nội dung phản
ánh. Từ kết quả nghiên cứu của chương này, chúng tôi rút ra kết luận rằng Truyền kì
96
mạn lục là bước khẳng định vị trí của loại hình này trong văn học trung đại còn Lan
Trì kiến văn lục lại có vai trò quan trọng trong việc chuyển giao giữa thể loại truyền
kì và thể kí. Việc xây dựng thành công chủ đề tình yêu từ phương diện nội dung
cũng đã khẳng định bản lĩnh nghệ thuật và đánh dấu sự cách tân trong tư duy nhà
văn và đã đụng chạm đến một vấn đề khá cơ bản của chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học. Nguyễn Dữ và Vũ Trinh đã tỏ ra điêu luyện hơn khi hình ảnh nhà văn ẩn sau
khuôn mặt của các nhân vật mà không một giọng điệu phán xét. Từ trong hiện thực
cuộc sống có muôn vàn những éo le trắc trở, độc giả sẽ bắt gặp những nhân vật sống
ân tình, ân nghĩa. Họ giống như hạt ngọc giữa cuộc đời. Bên cạnh đó, nhân gian
cũng phải đối diện với những con người bạc ác, xấu xa, bất chấp tất cả để thỏa mãn
dục vọng của bản thân. Dù ở loại người nào, cả hai tác phẩm đều muốn gửi gắm tới
bạn đọc thông điệp: “ở hiền gặp lành”, “gieo nhân nào gặt quả ấy”. Quan tâm đến
vấn đề khoa cử học hành, các truyện các tác giả giúp người đọc hiểu thêm về những
góc khuất của thi cử thời xưa. Bên cạnh những nho sĩ có tài, học hành thi cử đậu
đạt, làm quan vì nước vì dân, lại có những kẻ học hành chểnh mảng, ham hư danh
nhưng muốn tiến thân bằng khoa cử.
Như vậy với cảm hứng về chủ đề tình yêu nam nữ trong sáng tác của mình,
các tác giả đã chạm đến ngưỡng cửa của văn học hiện đại: con người trong văn học
giờ đây là con người với tư cách cá nhân. Bởi lẽ trong chế độ phong kiến Nho giáo,
con người luôn gắn liền với trách nhiệm của kẻ làm bề tôi, làm con, làm vợ sống
theo “tam cương ngũ thường”, chứ không bao giờ là con người cá nhân với một đời
sống riêng tư, tâm tư nguyện vọng riêng. Do đó ở một mức độ nhất định Truyền kì
mạn lục và Lan Trì kiến văn lục đã không phải là sự minh hoạ cho đạo đức trung,
hiếu, tiết, nghĩa của Nho giáo. Hiện thực cuộc sống, con người cá nhân với những
khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, tuổi trẻ đã phản chiếu vào văn học. Khác với xu
hướng văn học dân gian và văn xuôi lịch sử, đối tượng chủ yếu của Truyền kì mạn
lục và Lan Trì kiến văn lục là con người với những khát khao trần tục. Đó là niềm
khao khát về một mái ấm gia đình, một giây phút hoan lạc ái ân, là ước muốn được
chia sẻ, được cảm thông, được yêu thương. Điều này đã đánh dấu bước phát triển
đáng kể cho văn xuôi tự sự giai đoạn này. Từ đó có thể khẳng định: nhu cầu giải
97
phóng tình cảm gắn liền với đề tài tình yêu đôi lứa đã đánh dấu sự ra đời của chủ
nghĩa nhân đạo, đồng thời cũng cho thấy sự trưởng thành trong nghệ thuật của nhà
văn trung đại. Dưới vỏ bọc kì ảo hai tác phẩm không những khẳng định thành công
của tự sự mà còn là thành quả của tư duy nghệ thuật trong quan niệm về cuộc sống
và con người.
3. Từ việc khám phá nội dung của chủ đề tình yêu nam nữ, chúng tôi tiếp
tục triển khai chương 3 của luận văn: Chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện truyền kì
trung đại Việt Nam (qua Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục) trên phương diện
nghệ thuật. Đó là : cốt truyện, kết cấu, không gian, thời gian nghệ thuật, nghệ thuật
xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật. Kết quả thu được của sự lí giải từ chương
3 cho thấy: cốt truyện của truyện truyền kì có sự tiếp thư tinh hoa văn học dân gian
vào trong việc xây dựng cốt truyện thong qua sự sắp xếp các sự kiện và vận dụng
các môtíp dân gian trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục cũng làm cho
tác phẩm gần gũi hơn với người đọc đưa chủ đề được phản ánh trở lên sinh động,
linh hoạt, tạo nên sự đồng cảm sâu sắc từ phía người tiếp nhận. Nguyễn Dữ và Vũ
Trinh đã tạo nên một bước tiến mới trong việc đánh giá và ngợi ca các nhân vật của
mình. Không chỉ vậy sự phát triển đáng kể nhất của hai tác phẩm này còn là ở việc
dành sự quan tâm để miêu tả đời sống nội tâm nhân vật một cách khá rõ nét. Bên
cạnh đó Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn muốn nhấn mạnh những
điều tai nghe mắt thấy, nhưng đọc hai tập truyện ta bắt gặp Nguyễn Dữ và Vũ Trinh
còn đưa con người vào thế giới kỳ ảo, khiến xúc cảm của truyện thêm phong phú.
Đặc trưng và sự hấp dẫn của thể loại truyền kỳ chính là yếu tố kỳ ảo. Khi chấp bút
những câu chuyện của mình, tác giả đã kết hợp hài hòa, tài tình giữa yếu tố thực và
yếu tố kỳ ảo trong những lời kể. Yếu tố thực bắt nguồn từ hiện trạng ngoài đời sống,
của nhân gian mà hai tác giả đã từng “sở kiến, sở văn”. Những yếu tố thực làm nên
những rung cảm, khắc tạc nên bức tranh về đời sống con người đương thời thật sinh
động. Tuy nhiên, trong tác phẩm người đọc còn bắt gặp những yếu tố kỳ ảo: kỳ ảo
tín ngưỡng dân gian, kỳ ảo tôn giáo, yếu tố chiêm mộng… Những yếu tố thực và
yếu tố kỳ ảo giúp tác phẩm vừa mang một thế giới huyền bí, vừa mang thế giới hiện
hữu giữa cõi đời, đồng thời nhà văn muốn gửi gắm ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
98
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn được kể bằng lối kể chuyện, những
giọng điệu khác nhau. Khi giọng điều đầy ngạc nhiên, khi giọng lại đầy tự hào,
ngợi ca, nhưng có lúc lại là giọng thương cảm trước những số phận bất hạnh,
giọng căm phẫn trước đạo đức suy đồi, phong hóa mai một. Việc thay đổi sắc
thái giọng điệu một cách linh hoạt tương hợp trong việc diễn tả tâm trạng, cảm
xúc của nhà văn trước những vấn đề đặt ra. Truyện của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh
cũng được sắp xếp, gắn kết theo trật tự thời gian, kết thúc truyện thường có hậu.
Với lối kết cấu này, giúp nhà văn thể hiện tốt chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
Tác phẩm đã đưa con người vào thế giới siêu thực, thời gian phi tuyến tính, thời
gian biến ảo. Một thế giới vừa thực vừa hư với không gian nhiều cõi, giúp cho
việc tái hiện cuộc sống đương thời một cách sâu sắc, mang đến cho người đọc
những xúc cảm thẩm mỹ phong phú.
Nghiên cứu chủ đề tình yêu nam nữ trong truyện Truyền kì mạn lục và Lan
Trì kiến văn lục chúng ta một lần nữa khẳng định chỗ đứng của đề tài này trong văn
học Việt nam cũng như giá trị nghệ thuật của hai tác phẩm. Đó sẽ mãi là nguồn sáng
tạo nghệ thuật mà mỗi thế hệ lại có thể khám phá những điều mới lạ tuỳ điểm nhìn
của mình mở ra chân trời khát vọng và cảm xúc mới cho sáng tạo nghệ thuật.
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đổng Chi (1999), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Tập 4, Nxb Văn
nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên,1999), Truyện truyền kì Việt Nam,quyển 1, Nxb
Giáo dục, HN.
3. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên,2009), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 2, Nxb
Giáo dục, HN.
4. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, (1995), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh Niên.
5. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã
hội, HN.
6. Nguyễn Dữ (1957), Truyền kì mạn lục, Nxb Văn hoá, HN.
7. Lê Quý Đôn (1977), Lê Quý Đôn toàn tập, Nxb KHXH, HN.
8. Dương Quảng Hàm (1983), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Tổng hợp, HN.
9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Đại học quốc gia, HN.
10. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ
điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.
11. Nguyễn Phạm Hùng (2001) - Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu của truyện ký
văn học viết bằng chữ Hán (Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục)
12. Cù Hựu (1999), Tiễn đăng tân thoại, Nguyễn Dữ- Truyền kì mạn lục, Nxb Văn học.
13. Phan Huy Lê, Chu Thiên, Lương Hoàng Tuyên (1971), Lịch sử chế độ phong
kiến Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
14. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ
XIX, tập 1, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
15. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ
XIX, tập 2, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
16. Hà Thúc Minh (2002), Đạo Nho và văn hoá phương Đông, Nxb Giáo dục, HN.
100
17. Nguyễn Đăng Na (1986), Sự phát triển văn xuôi Hán - Việt từ đầu thế kỉ X đến
cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX qua một số tác phẩm tiêu biểu, Luận án PTS,
Trường ĐHSP HN.
18. Nguyễn Đăng Na, (2007), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb
Đại học sư phạm, HN.
19. Nguyễn Đăng Na, (Chủ biên, 1999), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,
Nxb Giáo dục, HN.
20. Nguyễn Đăng Na, (Chủ biên, 2007), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại,
Nxb Đại học sư phạm, HN.
21. Trần Nghĩa (Chủ biên, 1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập 1,
tập 2, NXB Thế Giới, HN.
22. Nghiên cứu và giảng dạy Ngữ văn - Trường Đại học sư phạm hà Nội - Khoa
Ngữ văn.
23. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
24. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục, HN.
25. Trần Đình Sử (2008), Lí luận văn học, tập 2, Nxb ĐHSP, HN.
26. Bùi Duy Tân (1979), Truyền kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học
viết bằng chữ Hán/ Văn học Việt Nam thế kỷ X- nửa đầu thế kỷ XVII, Nxb
Đại học và trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội
27. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - Tác giả - Tác phẩm văn
học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
28. Trần Thị Băng Thanh (Chủ biên, 1985), Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập,
Nxb Khoa học xã hội.
29. Trần Thị Băng Thanh (Chủ biên, 1989), "Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục
trong dòng truyện ngắn truyền kì Việt Nam", Tạp chí văn học, số 4.
30. Vũ Thanh (1994), "Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trong truyện truyền
kì Việt Nam", Tạp chí văn học, số 4.
101
31. Vũ Thanh (1998), Thánh Tông di thảo- Bước đột khởi trong tiến trình phát
triển của thể loại truyện ngắn Việt nam trung đại, trong cuốn Hoàng đế Lê
Thánh Tông - Nhà chính trị tài năng, nhà văn hoá lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb
KHXH, HN.
32. Vũ Thanh (2001), Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện
đại, trong cuốn Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb KHXH, HN.
33. Vũ Thanh (2006), Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á,
Trang điện tử của Viện Văn học.
34. Vũ Thanh (2007), Thể loại truyền kỳ ảo Việt Nam thời Trung đại- Quá trình
nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ X-
XIX - Những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục.
35. Là Nhâm Thìn, Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục
Việt Nam.
36. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
38. Trần Nho Thìn, Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam, Nghiên cứu văn
học, số 9 - 2006.
39. Nguyễn Cẩm Thuý (1983), Vũ Trinh và Kiến văn lục, Nghiên cứu văn học, số 1.
40. Trần Thị Thu Thuỷ (1997), Các kiểu kết cấu trong Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Đại học Vinh.
41. Lê Thị Thu Trang (2013), Nhân vật người phụ nữ trong Truyền kì tân phả và
Lan Trì kiến văn lục, Luận văn thạc sĩ ngữ văn. Đại học sư phạm Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Trang (2014), Tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật Lan Trì kiến văn
lục của Vũ Trinh, Khoá luận tốt nghiệp Đại học, Đại học sư phạm Hà Nội 2.
43. Vũ Trinh (2005), Lan Trì kiến văn lục, Nxb Thuận Hoá- Trung tâm Văn hoá
ngôn ngữ Đông Tây.
102
44. Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, Nxb Hồng Bàng
45. Đinh Phan Cẩm Vân, "Cái kỳ trong tiểu thuyết truyền kì", Tạp chí văn học, số
10 - 2000.
46. Nguyễn Khắc Viễn (2000), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, HN.
47. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
Nxb Giáo dục, HN.
48. Trần Ngọc Vương (2007) Văn học Việt Nam thế kỉ X- XIX- Những vấn đề lí
luận và lịch sử, NXB Giáo dục.
49. Lê Thu Yến (tập hợp, giới thiệu, 2002), Văn học Việt Nam trung đại - Những
công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, HN.