BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

… ………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ MỸ HUYỀN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM

BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP – LUẬT HÀNH CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

… ………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ MỸ HUYỀN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM

BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP – LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS VÕ TRÍ HẢO

ii

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực,

được trích dẫn rõ ràng từ các nguồn hợp pháp. Những kết

luận khoa học của Luận văn không trùng lắp với các công

trình có liên quan đã được công bố./.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Mỹ Huyền

iii

MỤC LỤC

Lời mở đầu ................................................................................................................. 1

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của Thanh tra an

toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ....... 7

1.1. Quan niệm về tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm ............... 7

1.1.2. Tổ chức của Thanh tra an toàn thực phẩm ................................................... 16

1.1.1. Thanh tra an toàn thực phẩm ......................................................................... 7

1.1.3. Hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm ............................................... 20

1.2. Những yếu tố tác động đến hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn

thực phẩm Ban Quản lý an toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ....................... 24

1.2.1. Những yếu tố tác động đến hiệu quả tổ chức của Thanh tra an toàn thực

phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh.............................. 24

1.2.2. Những yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động Thanh tra an toàn thực phẩm

Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ....................................... 28

Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm

Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ................................. 35

2.1. Khái quát về sự ra đời của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn

thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh........................................................................... 35

2.1.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội liên quan đến vấn đề an toàn thực phẩm tại

Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................................... 35

2.1.2. Thực trạng tuân thủ pháp luật về an toàn thực phẩm và nhu cầu thành lập

Ban Quản lý An toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh .................................. 36

2.2. Thực trạng tổ chức của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực

phẩm thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................... 42

2.2.1. Cơ cấu tổ chức, vị trí, chức năng của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban

Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ............................................... 42

2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An

iv

toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ................................................................... 45

2.3. Thực trạng hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn

thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh........................................................................... 48

2.3.1. Quy trình thanh tra của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn

thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh........................................................................... 48

2.3.2. Hình thức thanh tra của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn

thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh........................................................................... 50

2.3.3. Các hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực

phẩm thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................... 51

2.4. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản

lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ......................................................... 63

2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân ................................................................ 63

2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân .............................................................................. 67

Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của

Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ

Chí Minh .................................................................................................................. 75

3.1. Phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực

phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh.............................. 75

3.1.1. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm cần bám sát yêu cầu

tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước................................................................ 75

3.1.2. Đảm bảo nguyên tắc độc lập tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra

an toàn thực phẩm ..................................................................................................... 76

3.1.3. Đổi mới tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò công tác thanh tra an toàn thực

phẩm .......................................................................................................................... 77

3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm

Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ....................................... 79

3.2.1. Nâng cao hiệu lực quản lý an toàn thực phẩm trên cơ sở hoàn thiện hệ

thống pháp luật an toàn thực phẩm ........................................................................... 79

3.2.2. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ, công chức thanh tra

v

trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ ............................................................................ 82

3.2.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tổ chức thực hiện cuộc thanh tra và đổi

mới công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra an toàn thực phẩm ................. 84

3.2.4. Đổi mới việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ, công chức thanh tra ....................................................................................... 86

3.2.5. Xây dựng khung năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác

thanh tra an toàn thực phẩm ...................................................................................... 89

3.2.6. Đổi mới phương thức tuyên truyền để nâng cao chất lượng công tác truyền

thông về an toàn thực phẩm ...................................................................................... 91

3.2.7. Đầu tư các nguồn lực tài chính, xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu

đổi mới về tổ chức, hoạt động thanh tra .................................................................... 93

Kết luận .................................................................................................................... 94

Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................. 95

vi

Phụ Lục ...................................................................................................................... 1

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ban Quản lý ATTP TP HCM: Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh

TP HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

UBND : Ủy ban nhân dân

VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

QLNN : Quản lý nhà nước

vii

ATTP : An toàn thực phẩm

DANH MỤC C C ẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Sơ đồ tổ chức Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực

phẩm thành phố Hồ Chí Minh .................................................................................. 44

Bảng 2.2. Bảng tổng hợp tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản

ánh của Phòng Thanh tra Ban Quản lý ATTP giai đoạn 2017 – 2019 ..................... 60

Bảng 2.3: Thống kê trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức, viên chức được

viii

giao thực hiện chức năng thanh tra ATTP ............................................................... 70

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài

ATTP là một trong những vấn đề mà Đảng, Nhà nước ta từ lâu đặc biệt quan

tâm, coi đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn về kinh tế, xã hội, sức khỏe cộng đồng.

Thực phẩm an toàn đóng góp to lớn trong việc cải thiện sức khỏe con người, chất

lượng cuộc sống và chất lượng giống nòi. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng

định sự cần thiết phải tăng cường quản lý, kiểm soát chặt chẽ, có hiệu quả hơn về an

toàn vệ sinh thực phẩm.

Thực tế chúng ta đang phải đối mặt với một cơn bão thực phẩm bẩn và không

an toàn, đe dọa lâu dài sức khỏe tính mạng người tiêu dùng. Cơn bão này chưa hề

có dấu hiệu kết thúc, thậm chí càng lúc càng phức tạp. Theo áo cáo của Bộ Y tế,

trong giai đoạn 2 11-2 16 đã ghi nhận 7 bệnh truyền qua thực phẩm làm mắc

4. 12. 38 ca bệnh với 123 người chết, trung bình 668.673 ca bệnh năm và 21 người

chết năm, trong đó chủ yếu là tiêu chảy cấp tính. Ước lượng tỷ lệ mắc tiêu chảy cấp

do thực phẩm trong 1 năm là 25,87% dân số.

Theo thống kê của Cục ATTP, trên toàn quốc có gần 9 . cơ sở sản xuất,

chế biến, kinh doanh thực phẩm, kinh doanh dịch vụ ăn uống. Trong 3 tháng đầu

năm 2 18, trên phạm vi cả nước đã xảy ra 20 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 502

trường hợp bị ngộ độc thực phẩm, trong đó có 3 người đã tử vong. Năm 2 17, cả

nước ghi nhận 139 vụ ngộ độc thực phẩm với 3.869 người mắc, giảm 27 vụ và 438

người mắc so với năm 2 16. Số người tử vong do ngộ độc thực phẩm là 24 người,

tăng 12 người so với năm 2 16, trong đó có 11 người ngộ độc methanol trong rượu,

1 người do độc tố tự nhiên (cá nóc, cóc…), 3 trường hợp chưa xác định nguyên

nhân. Trung bình mỗi năm Việt Nam có khoảng 250-500 vụ ngộ độc thực phẩm với

7.000-10.000 nạn nhân và 100-200 ca tử vong.

Từ năm 2 12 đến tháng 3 2 17, cơ quan chức năng đã thanh tra, kiểm tra và

phát hiện 94.768 224.791 lượt cơ sở (chiếm 42,1%) không đạt tiêu chuẩn ATTP; kết

1

quả xét nghiệm mẫu thực phẩm có 2.109/12.785 mẫu (chiếm 16,4%) không đạt tiêu

chuẩn vệ sinh. Cũng trong giai đoạn này trên địa bàn toàn quốc đã xảy ra 2.213 vụ

ngộ độc thực phẩm tại bếp ăn tập thể với 7.653 nạn nhân; 297 vụ ngộ độc thực

phẩm tại các khu công nghiệp, khu chế xuất với 4.498 nạn nhân; 118 vụ ngộ độc

thực phẩm trong các trường học với 1.090 học sinh; 238 vụ ngộ độc thực phẩm do

thức ăn đường phố với 4.980 nạn nhân. Qua kiểm tra, cơ quan chức năng đã xử lý

9.768 vụ vi phạm về ATTP; tiêu hủy trên 180 tấn thực phẩm không đảm bảo ATTP.

Tình trạng ngộ độc thực phẩm có xu hướng gia tăng và ảnh hưởng không nhỏ tới

sức khoẻ cộng đồng. Sản xuất, kinh doanh thực phẩm cơ bản vẫn là nhỏ lẻ, quy mô

hộ gia đình nên việc kiểm soát ATTP rất khó khăn, công tác quản lý ATTP còn

nhiều yếu kém, bất cập, hạn chế về nguồn lực và đầu tư kinh phí, chưa đáp ứng

được yêu cầu của thực tiễn.

Một trong những nguyên nhân trực tiếp liên quan đến hiện trạng mất ATTP là

hệ thống kiểm soát của nhà nước về ATTP thông qua cơ chế tổ chức và hoạt động

của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ATTP chưa thực sự hiệu

quả. Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn theo phương thức nào để tránh sự chồng

chéo, việc áp dụng quy trình thanh tra như thế nào để mang lại hiệu quả cao, năng

lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ thanh tra… trong hoạt động này luôn là vấn

đề đặt ra và chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy tổ chức và hoạt động của thanh tra

ATTP cần phải được tiếp cận trong mối quan hệ tương thích, phù hợp với tổ chức

bộ máy thanh tra nói chung và nhất là phải phù hợp với đặc thù của lĩnh vực ATTP.

Trước thực tế đó, việc nghiên cứu các quy định về tổ chức và hoạt động của

thanh tra ATTP đã và đang đặt ra nhu cầu bức thiết để tìm ra phương hướng và giải

pháp vừa thực sự hiệu quả vừa phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy, việc

nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra An toàn thực phẩm Ban

Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh” có ý nghĩa cả về phương

diện lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Pháp luật về thanh tra nói chung và pháp luật trong lĩnh vực thanh tra ATTP là

2

đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý. Nhất trong giai đoạn hiện

nay, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về thanh tra nói chung và thanh tra

về ATTP nói riêng được tăng lên rõ rệt, tiêu biểu là những công trình sau:

- Ts Vũ Tuấn Khanh (chủ nhiệm đề tài) (2014), “Tổ chức và hoạt động thanh

tra chuyên ngành - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Đề tài nghiên cứu khoa học

cấp Bộ, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội. nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động

thanh tra chuyên ngành chủ yếu kể từ khi thực hiện Luật Thanh tra năm 2 1 đến

nay, trong đó tập trung vào hoạt động thanh tra chuyên ngành của một số bộ, ngành;

từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện mô hình cơ quan thanh tra

Nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, góp

phần nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành.

- Bùi Thị Hồng Nương (2019), “Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở

Việt Nam hiện nay”. Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội Viện Hàn

Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Luận án nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng và

kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm của một số nước và bài học rút

ra cho Việt Nam; Phân tích, đánh giá và làm rõ thực trạng QLNN về ATTP Việt

Nam trong bối cảnh hiện nay; đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao

hiệu quả QLNN về ATTP Việt Nam trong thời gian tới.

- Trần Thu Hương (2010), “Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối

với vệ sinh an toàn thực phẩm”. Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Hành chính Quốc

Gia đã làm rõ cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý cho việc xác định ATTP đóng vai trò

quan trọng của công tác QLNN; Xác định nguyên nhân của những yếu kém trong

công tác quản lý và đề ra giải pháp.

- Vũ Hải Uyên (2018), “Tổ chức và hoạt động của thanh tra nội bộ từ thực tiễn

Đại học Quốc gia Hà Nội”. Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Khoa Học Xã Hội.

Luận văn đánh giá một cách trung thực tình hình thực tiễn của công tác thanh tra

nội bộ từ những đơn vị sự nghiệp công lập cụ thể, từ đó, chỉ ra những khó khăn,

vướng mắc, đề xuất các giải pháp về tổ chức và hoạt động thanh tra nội bộ trong

3

thời gian tới.

- Nguyễn Tiến Dũng (2018), “Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trong

lĩnh vực y tế từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, đánh giá thực trạng công tác quản lý

ATTP, nêu lên những bất cập, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan

QLNN về ATTP, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể.

- Đinh Thị Quế (2018), “Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn

thực phẩm”. Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại Học Luật Huế. Đề tài nhằm

đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm trong lĩnh vực ATTP, từ đó

đề xuất giải pháp để hoàn thiện.

Có thể thấy vấn đề về ATTP nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học

nhằm mục đích cải thiện công tác QLNN về ATTP, bảo đảm người dân được tiếp

cận thực phẩm an toàn tốt cho sức khỏe. Ban Quản lý ATTP TP HCM với vị thế là

cơ quan chuyên ngành về ATTP của thành phố và phòng Thanh tra với vai trò đảm

nhiệm trọng trách kiểm soát, quản lý nguy cơ ATTP thì việc nghiên cứu tổ chức và

hoạt động của bộ máy thanh tra sẽ giúp hoàn thiện hơn nữa công tác QLNN về

ATTP. Qua đó, hy vọng có thể bổ sung, hoàn thiện hơn những kết luận nghiên cứu

trước đây nhằm góp thêm những luận cứ khoa học, cũng như cơ sở thực tiễn giúp

hoàn thiện hơn nữa việc tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành ATTP

thành phố Hồ Chí Minh cũng như các địa phương trên cả nước trong thời gian tới.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

- Mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức

và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM; qua đó đề xuất hệ

thống giải pháp khả thi trong tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý

ATTP TP HCM trong giai đoạn hiện nay.

Với việc xác định mục đích như vậy, Luận văn có nhiệm vụ như sau:

Một là, phân tích, hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt

4

động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM.

Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra

ATTP, qua đó chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế của hoạt động này cũng như

xác định nguyên nhân của chúng.

Ba là, đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của

thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là các vấn đề lý luận, thực tiễn trong tổ

chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM.

- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:

Hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước được thực hiện với 4 chức năng

cơ bản là giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện QLNN về công tác thanh

tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra,

giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp

luật. Dưới góc độ Luật hành chính và Luật Hiến pháp, luận văn chỉ tập trung nghiên

cứu về tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM

trong thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành theo quy định của Luật Thanh tra

kể từ khi thành lập.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ

nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin, chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực thanh tra ATTP.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu

như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê, phương pháp luật

học so sánh…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận: luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận

về tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP. Đồng thời phân tích, đánh giá thực

5

trạng về tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM.

- Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đã để xuất được hệ thống giải pháp góp phần

hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP

HCM. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu cho Ban

Quản lý ATTP TP HCM trong quá trình tiếp tục hoàn thiện về tổ chức và hoạt động

của bộ máy thanh tra giai đoạn tiếp theo.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết

cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của Thanh tra an

toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm

Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của

Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí

6

Minh.

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC

VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM

BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1.1. QUAN NIỆM VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA

AN TOÀN THỰC PHẨM

1.1.1. Thanh tra an toàn thực phẩm

1.1.1.1. Các khái niệm liên quan đến thanh tra an toàn thực phẩm

* Khái niệm thanh tra

Hoạt động thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc La tinh (inspectorate) có nghĩa

là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt

động của một số đối tượng nhất định. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Thanh tra là kiểm

soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này,

thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì

trái với quy định”. Thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định: Người làm

nhiệm vụ thanh tra, đoàn thanh tra và đặt trong phạm vi quyền hành của một chủ thể

nhất định.

Quan niệm về thanh tra hiện nay cũng như trong lịch sử nước ta được thể hiện

qua mô hình các cơ quan nhà nước, các quy định của Hiến pháp, pháp luật và được

đề cập ở các góc độ khác nhau. Thời kỳ phong kiến, khái niệm thanh tra chưa được

áp dụng, nhưng các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan gọi là Ngự sử đài, có chức

năng giống như cơ quan Thanh tra Chính phủ hiện nay và Quan ngự sử đứng đầu

Ngự sử đài tương đương như Tổng Thanh tra Chính phủ. Ngự sử đài có nhiệm vụ

giúp vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều đình. Quan

ngự sử đời nhà Trần có quyền tiền trảm hậu tấu và là chức quan duy nhất có quyền

can gián Vua. Thời Lê có hàm Gián nghị đại phu phong tặng cho bất cứ bề tôi nào

dám nói thẳng, nói đúng sự thật. Gián nghị đại phu có quyền can gián nhà Vua

7

trong những việc nên làm và những việc không nên làm [19].

Từ khi nhà nước mới được thành lập, hoạt động thanh tra ngày càng được coi

trọng, khái niệm thanh tra được quy định trong các văn bản pháp lý khác nhau. Hiến

pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta chưa sử dụng thuật ngữ “thanh

tra”, hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa được giao cho một cơ quan chuyên trách

nào, mà quyền “kiểm soát” đối với Chính phủ được giao cho an thường vụ của

Nghị viện. Ngày 23/11/1945, chỉ sau gần ba tháng từ khi Chính phủ Việt Nam Dân

Chủ Cộng Hoà ra đời, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh

tra đặc biệt. Từ đây thuật ngữ “thanh tra” xuất hiện, quyền thanh tra được xác định

và chính thức giao cho Chính phủ. Hiến pháp năm 1959 cũng đề cập đến một số nội

dung về kiểm tra việc thi hành các quyết định QLNN. Hiến pháp năm 198 đã sử

dụng thuật ngữ “thanh tra” với nội dung là một chức năng của cơ quan QLNN. Đến

Hiến pháp năm 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện rõ hơn qua các

Điều 112, 115, 116 và 124. Khoản 7 Điều 112 quy định Chính phủ có nhiệm vụ “tổ

chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh tra, kiểm

tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công tác giải

quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”.

Hiến pháp được sửa đổi năm 2 13 tiếp tục quy định về nhiệm vụ thanh tra của

các cơ quan QLNN. Cụ thể, Khoản 5, Điều 96, Hiến pháp quy định, Chính phủ có

nhiệm vụ, quyền hạn “tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố

cáo, phòng chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước”. Pháp lệnh thanh

tra năm 199 , hoạt động thanh tra của các tổ chức Thanh tra được xác định là một

chức năng thiết yếu của cơ quan QLNN.

Đến Luật Thanh tra năm 2 4 tiếp tục quy định sự cần thiết của hoạt động

thanh tra và phạm vi thanh tra. Theo đó, cơ quan thanh tra nhà nước tiến hành thanh

tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức,

cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan QLNN cùng cấp (Điều 2). Đặc biệt,

Luật Thanh tra năm 2 1 đã quy định cụ thể và toàn diện về chức năng của cơ quan

thanh tra nhà nước. Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo

8

trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với

việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá

nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành

(Điều 3). Điều 5 của Luật này quy định: “Cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm

vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm

quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo

và phòng chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và

phòng chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”. Luật Thanh tra năm 2 1

cũng khẳng định hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý,

chính sách, pháp luật, phòng ngừa, xử lý hành vi vi phạm; giúp cơ quan, tổ chức

thực hiện đúng quy định pháp luật; góp phần nâng cao hiệu quả QLNN.

Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm hoạt động thanh tra như

sau: “Thanh tra là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý hành chính

nhà nước có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định đối với việc làm

của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhằm kết luận đúng,

sai, chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, trên cơ sở đó phát huy nhân tố tích cực, phòng

ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế

xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ

quan, tổ chức và cá nhân”.

* Khái niệm thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm

Mục đích của QLNN, xét cho cùng là bảo đảm cho hoạt động của đối tượng

quản lý tuân thủ theo các quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân, tạo điều kiện phát huy mọi năng lực sản

xuất của xã hội [14, tr. 18]. Để đạt được mục tiêu đó, một mặt Nhà nước phải tăng

cường các biện pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý. Mặt

khác, bản thân các cơ quan nhà nước cũng phải thường xuyên hoàn thiện, kịp thời

phát hiện và xử lý, khắc phục những hạn chế, yếu kém phát sinh trong quá trình

thực thi quyền lực nhà nước và ngăn chặn, xử lý các những hành vi vi phạm pháp

9

luật xâm phạm đến trật tự quản lý.

Tương ứng với hai nhiệm vụ này là hai loại hình của hoạt động thanh tra gồm

thanh tra hành chính (hướng vào xem xét, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của các

cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền nằm trong hệ thống bộ máy quản lý)

và thanh tra chuyên ngành (hướng ra ngoài xã hội, nhằm xem xét, đánh giá, xử lý vi

phạm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là những đối tượng quản lý trong việc tuân

thủ các quy định của pháp luật, tiêu chuẩn kỹ thuật, chuyên môn về quản lý theo

chuyên ngành).

Luật Thanh tra năm 2 1 ra đời thay thế cho Luật Thanh tra năm 2 4 đã làm rõ

và phân biệt hai khái niệm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, theo đó:

Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan QLNN theo cấp hành

chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức,

cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp.

Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành

pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc

ngành, lĩnh vực đó.

Thực tiễn cho thấy, sự xuất hiện của thanh tra chuyên ngành như là một tất yếu

của quản lý, ngay từ đầu, đó là nhu cầu phải kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi

phạm pháp luật trên các lĩnh vực QLNN. Mặc dù với tên gọi là “thanh tra” và được

coi là một trong các loại hình thanh tra nhưng bản chất và các nguyên tắc hoạt động

thanh tra chuyên ngành có sự khác biệt rất lớn so với thanh tra hành chính. Với quan

niệm và thực tiễn hoạt động như hiện nay thì hoạt động thanh tra hành chính cần

được hiểu là một loại hình hoạt động giám sát hành chính, còn thanh tra chuyên

ngành thực chất là một loại hoạt động kiểm tra hành chính. Trong trường hợp phát

hiện các chủ thể có sai phạm thì áp dụng chế tài xử lý trực tiếp và kịp thời.

Với quan niệm như trên, mục đích của hoạt động thanh tra chuyên ngành có

những điểm đặc thù cần nhấn mạnh hơn so với quy định về mục đích hoạt động

thanh tra được quy định trong Luật Thanh tra năm 2 1 . Cụ thể là nếu như mục

10

đích hoạt động thanh tra nói chung nhấn mạnh đến vai trò là phát hiện sơ hở trong

cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật thì mục đích của hoạt động thanh tra chuyên

ngành tập trung vào phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong

các lĩnh vực QLNN.

Theo Luật An toàn thực phẩm năm 2 1 , thanh tra về ATTP là thanh tra

chuyên ngành do ngành Y tế, ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ngành

Công Thương thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra. Mục đích của

thanh tra ATTP là nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật

về ATTP. Do đó, thanh tra ATTP được xem là trụ cột thứ hai của hệ thống ATTP

của châu Âu (sau trụ cột phân tích nguy cơ) và được xem là công cụ kiểm soát nguy

cơ hiệu quả [37, tr. 145].

Qua hoạt động thanh tra chuyên ngành ATTP, Ban Quản lý ATTP TP HCM

tiến hành kiểm soát và quản lý hoạt động của các chủ thể tham gia vào lĩnh vực thực

phẩm. Theo đó, dựa trên các quy định pháp lý đội ngũ thanh tra sẽ tiến hành kiểm

tra xem các cơ sở sản xuất và kinh doanh có tuân thủ quy định của pháp luật chuyên

ngành hay không. Quá trình thanh tra kết thúc bằng việc lập một biên bản, trên đó

ghi có hay không có sai phạm. Trong trường hợp vi phạm thì có thể áp dụng các chế

tài xử phạt.

Do đó, có thể định nghĩa: Thanh tra chuyên ngành ATTP là hoạt động xem

xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật ATTP và xử lý các hành vi vi phạm pháp

luật của chủ thể quản lý đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý nhằm kịp thời phát

hiện, chấn chỉnh những bất cập, yếu kém trong công tác QLNN về ATTP; phát hiện,

ngăn chặn, xử lý các trường hợp vi phạm về ATTP, đồng thời đề xuất các giải pháp

nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm ATTP.

* Khái niệm kiểm tra an toàn thực phẩm

Theo Từ điển Tiếng Việt: “kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận

xét”. Thanh tra được xem là một biện pháp (phương pháp) của kiểm tra. Trên một bình

diện rộng hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế để đánh giá, nhận xét của bất

11

kỳ một cá nhân nào trong xã hội trong bất cứ một hoạt động nào [32, Tr. 23].

Về mặt quản lý chung, kiểm tra ATTP hướng tới việc kiểm tra việc tuân thủ

pháp luật ATTP và các văn bản liên quan của các cơ sở thuộc phạm vi QLNN trong

lĩnh vực ATTP; qua đó phát hiện sai phạm để kịp thời chấn chỉnh nhằm hướng đến

xây dựng mạng lưới thực phẩm an toàn.

Nhìn chung thanh tra, kiểm tra ATTP đều giống nhau về mục đích, thông qua

thanh tra, kiểm tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp

luật trong lĩnh vực ATTP; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách

pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc

phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về

ATTP; bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân. Tuy nhiên, giữa thanh tra và kiểm tra ATTP cũng có những điểm khác biệt

nhất định, cụ thể:

- Về mục đích thực hiện: Mục đích của thanh tra bao giờ cũng rộng và sâu hơn

đối với các hoạt động kiểm tra. Đặc biệt, đối với các cuộc thanh tra để giải quyết

khiếu nại, tố cáo về ATTP thì sự khác biệt về mục đích, ý nghĩa giữa hoạt động

thanh tra, kiểm tra cần rõ hơn nhiều, bởi: thông thường khiếu nại, tố cáo phản ánh

sự bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc mà nhân dân cho là quyền và

lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, cho nên mục đích của hoạt động thanh tra

không còn chỉ là xem xét, đánh giá một cách bình thường nữa.

- Về phương pháp tiến hành: Với mục đích rõ ràng, rộng hơn, khi tiến hành

thanh tra, Đoàn thanh tra cũng áp dụng những biện pháp nghiệp vụ sâu hơn, đi vào

thực chất đến tận cùng như: Xác minh, thu thập chứng cứ, đối thoại, chất vấn, giám

định… Đặc biệt, trong quá trình thanh tra, các Đoàn thanh tra có thể áp dụng những

biện pháp cần thiết để phục vụ thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra để

tác động lên đối tượng bị quản lý.

- Về trình độ nghiệp vụ: Hoạt động thanh tra đòi hỏi các thanh tra viên, cán bộ

thanh tra ATTP phải có nghiệp vụ giỏi, am hiểu kinh tế-xã hội, có khả năng chuyên

12

sâu vào lĩnh vực của thanh tra hướng đến. Do nội dung hoạt động kiểm tra ít phức

tạp hơn thanh tra nên nói chung, trình độ nghiệp vụ kiểm tra không nhất thiết đòi

hỏi như nghiệp vụ thanh tra.

- Về thời gian tiến hành: Trong hoạt động thanh tra thường có nhiều vấn đề

phải xác minh, đối chiếu rất công phu, nhiều mối quan hệ cần được làm rõ, cho nên

phải sử dụng thời gian nhiều hơn so với kiểm tra.

Có thể nói giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra ATTP có mối quan hệ chặt

chẽ, gần gũi và có nhiều điểm giao thoa với nhau, có mối quan hệ đan chéo. ởi vì

thanh tra và kiểm tra đều là những công cụ quan trọng, một chức năng chung của

QLNN, là hoạt động mang tính chất phản hồi của chu trình quản lý [31, tr. 12]. Qua

thanh tra, kiểm tra, các cơ quan QLNN có thể phân tích, đánh giá, theo dõi quá trình

thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thanh

tra là một loại hình đặc biệt của kiểm tra, ngược lại nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thanh

tra lại bao hàm cả kiểm tra. Các hoạt động thao tác, nghiệp vụ trong một cuộc thanh

tra như việc xem xét sổ sách, tài liệu của đối tượng thanh tra; so sánh, đối chiếu,

đánh giá, xác minh… tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình thanh tra…

đó là kiểm tra. Chính vì vậy trong thực tiễn nhiều người thường hay nhầm lẫn, đồng

nhất thanh tra với kiểm tra.

Như vậy, từ hai khái niệm và những so sánh cụ thể có thể thấy giữa thanh tra

và kiểm tra tuy có sự khác biệt nhất định nhưng chỉ mang tính chất tương đối vì

giữa thanh tra và kiểm tra có nhiều điểm giao thoa nhau, có mối quan hệ đan chéo

nhau. Khi tiến hành một cuộc thanh tra, thường phải tiến hành nhiều thao tác nghiệp

vụ mà thực chất là kiểm tra. Ngược lại, đôi khi tiến hành kiểm tra để làm rõ vụ việc,

từ đó lựa chọn nội dung thanh tra. kiểm tra và thanh tra là hai khái niệm khác nhau

nhưng có mối quan hệ qua lại, gắn bó mật thiết. Bộ Y tế cũng cho rằng, để phân biệt

như thế nào là thanh tra chuyên ngành, thế nào là kiểm tra chuyên ngành cũng là

một vấn đề hết sức phức tạp.

Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý chuyên ngành, Ban Quản lý

ATTP TP HCM tiến hành đồng thời hoạt động Thanh tra chuyên ngành ATTP và

13

hoạt động kiểm tra ATTP.

1.1.1.2. Đặc điểm của thanh tra an toàn thực phẩm

Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý, từ thực tiễn tổ chức, hoạt động

cho thấy thanh tra ATTP là một bộ phận cấu thành của thanh tra ở Việt Nam. Do

đó, thanh tra ATTP cũng mang những những đặc điểm của thanh tra nói chung.

Thứ nhất, thanh tra gắn liền với QLNN.

Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình QLNN, thanh tra

gắn liền với QLNN, quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một

chứ không phải là hai. Thanh tra là một phạm trù lịch sử, thanh tra gắn liền với quá

trình lao động xã hội. Chính bản chất của quá trình lao động xã hội đã đòi hỏi tính

tất yếu phải có quản lý, việc xem xét, định hướng, đánh giá kết quả quản lý là một

phương diện của quản lý xã hội. QLNN là một bộ phận quản lý xã hội và ở đâu có

QLNN thì ở đó có thanh tra.

Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì QLNN giữ vai trò chủ đạo,

chi phối hoạt động của thanh tra (đề ra đường lối, chủ trương, quy định thẩm quyền

của các cơ quan Thanh tra, sử dụng các kết quả, các thông tin từ phía các cơ quan

Thanh tra). QLNN và thanh tra có cái chung là nhân danh quyền lực nhà nước thực

hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song xem xét theo cơ cấu, chức năng

của quản lý thì thanh tra chỉ là những công cụ, phương tiện để QLNN.

Là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng buộc, chế ước bởi quản

lý, nhưng đồng thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh cách thức, phương pháp

quản lý của chủ thể QLNN. Trong chu trình đó, thanh tra phản ánh và bảo vệ mục

đích của quản lý. Một thể chế hành chính và cơ chế QLNN sẽ không đầy đủ nếu

thiếu thanh tra.

Thứ hai, thanh tra ATTP luôn mang tính quyền lực nhà nước.

Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt chẽ với

tính quyền uy - phục tùng của QLNN. Là một chức năng của QLNN, thanh tra phải

thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý

14

đối với đối tượng quản lý. Không thể không có quyền lực mà không gắn với một tổ

chức. Vì vậy, thanh tra phải được Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả

trong quá trình quản lý, khi thanh tra thiếu quyền lực thì đó chỉ là thanh tra suông.

Có thể nói, thanh tra là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực nhà

nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Các cơ quan thực

hiện chức năng thanh tra luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá

trình tiến hành hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền

năng đó. Nói cách khác, thanh tra là sản phẩm của Nhà nước. Thanh tra chỉ xuất

hiện từ khi Nhà nước ra đời trong lịch sử và nó cũng sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu

vong của Nhà nước.

Như vậy, chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là Nhà nước, thanh tra xuất

hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với Nhà nước. Điều 1 Luật Thanh tra năm 2 1 quy

định: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là

phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực

hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.

Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ, các cơ quan

Thanh tra nhà nước đều có quyền hạn được xác định và khả năng thực hiện những

quyền hạn đó như ra các quyết định bắt buộc thi hành đối với các đối tượng bị thanh

tra trong việc sửa chữa những thiếu sót đã bị Thanh tra phát hiện; yêu cầu truy cứu

trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát hiện, kể cả

việc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy tố trước pháp luật…

Thứ ba, thanh tra có tính độc lập tương đối.

Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Tính độc lập

tương đối trong quá trình thanh tra được thể hiện trên các điểm sau: (i) thực hiện

theo pháp luật; (ii) tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực theo thẩm

quyền đã được pháp luật quy định; (iii) ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý

theo các quy định của pháp luật về thanh tra; chịu trách nhiệm về quyết định thanh

tra của mình.

Ở đây, tính độc lập của hoạt động thanh tra chỉ là tương đối, bởi vì trong hoạt

15

động thanh tra, các cơ quan Thanh tra phải căn cứ vào pháp luật và chính sách hiện

hành, đồng thời phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, đặt sự vật, hiện tượng, việc làm

đang xem xét trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

1.1.2. Tổ chức của thanh tra an toàn thực phẩm

1.1.2.1. Khái niệm về tổ chức của thanh tra an toàn thực phẩm

Đề cập đến tổ chức của thanh tra ATTP thì cần tiếp cận từ góc độ chung nhất

về tổ chức, trước hết cần phải xác định rõ tổ chức thanh tra là gì? bao gồm những

nội dung nào để từ đó xác định vị trí, vai trò của tổ chức thanh tra ATTP trong tổng

thể tổ chức của bộ máy nhà nước.

“Tổ chức” là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến. Nguyên nghĩa của “tổ

chức” là “organon”, theo tiếng Hy Lạp là để chỉ một cơ quan nào đó của cơ thể

người, có chức năng nhất định, là kết cấu tự nhiên trong chỉnh thể người. Tổ chức

được ghép vào lĩnh vực xã hội, coi tổ chức là một tổ hợp xã hội, một tập thể gồm

những con người hợp lại với nhau để thực hiện một mục tiêu nào đó.

Thuật ngữ “tổ chức” được nhiều ngành khoa học sử dụng với những ý nghĩa

khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu mà mỗi ngành khoa học đặt ra. Nhưng tựu chung

lại dưới góc độ khoa học tổ chức và quản lý, thì quan niệm tổ chức được hiểu là

cách thức tổ chức của một tập hợp các cơ quan, đơn vị cấu thành. Nó không chỉ bao

gồm các thành tố cấu thành, quy mô của một tổ chức mà còn chỉ ra cách thức tập

hợp các thành tố đó, mối liên hệ hữu cơ chỉ đạo, chi phối và phụ thuộc giữa các

thành tố với nhau, những chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đó. Với cách tiếp cận

như vậy, cho thấy nội hàm quan niệm về tổ chức bao gồm các thành tố như sau:

- Cơ cấu tổ chức được xác định, con người bên trong tổ chức đó;

- Có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền;

- Được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định phù hợp với

quy định pháp luật.

Tổ chức thanh tra ATTP bao gồm các thành tố cấu thành hệ thống thanh tra

ATTP, bao gồm phòng ban, bộ phận trong nội bộ đơn vị thanh tra và các công chức,

thanh tra viên được giao thực hiện chức năng thanh tra ATTP. Thanh tra ATTP

16

được giao các nhiệm vụ giúp cơ quan QLNN tiến hành các hoạt động thanh tra,

kiểm tra trong lĩnh vực ATTP, hoạt động theo nguyên tắc trực thuộc về tổ chức

trong mối quan hệ với cơ quan QLNN cấp trên và quan hệ phối hợp với cơ quan

được giao nhiệm vụ thanh tra ATTP khác trên địa bàn thành phố.

Như vậy, tổ chức thanh tra ATTP chính là việc thiết lập và duy trì các bộ

phận, chức năng, nhiệm vụ của phòng thanh tra và liên kết các bộ phận, chức năng,

nhiệm vụ với nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra ATTP Ban

Quản lý ATTP TP HCM.

1.1.2.2. Các thành tố cấu thành tổ chức thanh tra an toàn thực phẩm

a) Cơ cấu tổ chức thanh tra an toàn thực phẩm

Với quan điểm thanh tra gắn liền với quản lý, nhưng cũng đồng thời xác định

vị trí, vai trò và tính độc lập tương đối của thanh tra với hoạt động quản lý. Do quan

niệm về tổ chức thanh tra khác nhau và đặc điểm, yêu cầu công tác quản lý về

ATTP của từng thời kỳ cũng khác nhau nên hệ thống tổ chức thanh tra ATTP cũng

được tổ chức khác nhau và luôn được Nhà nước quan tâm, củng cố, kiện toàn thành

một hệ thống thống nhất.

Ban Quản lý ATTP TP HCM là cơ quan thuộc UBND TP HCM, có chức năng

giúp UBND thành phố tổ chức thực thi pháp luật về an toàn, vệ sinh thực phẩm trên

địa bàn thành phố. Phòng Thanh tra là một trong những đơn vị cấu thành Ban Quản

lý ATTP TP HCM gồm: Thanh tra trung tâm và 1 Đội Quản lý ATTP liên quận -

huyện được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ATTP.

Bên cạnh đó, yếu tố con người cũng là một nội dung cấu thành nên nội dung

tổ chức thanh tra ATTP, bao gồm việc xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra ATTP, từ

việc xây dựng các vị trí, tiêu chuẩn các chức danh nghề nghiệp của công chức được

giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra ATTP, việc tuyển dụng, quản lý, bổ nhiệm, điều

động, luân chuyển, sử dụng…

b) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra an toàn thực phẩm

Theo khoa học về tổ chức thì chức năng là nhiệm vụ cơ bản của một tổ chức mà

nếu không có những chức năng này thì không cần có sự ra đời của tổ chức đó. Như

17

vậy, chức năng của một tổ chức được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu

của tổ chức. Chức năng của tổ chức được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ của tổ chức

đó, trong đó có cả nhiệm vụ của người đứng đầu và nhiệm vụ chung của tổ chức đó.

Theo quy định tại Điều 5 của Luật Thanh tra, thì chức năng của thanh tra được

quy định như sau: “Cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn

của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà

nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham

nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

theo quy định của pháp luật”.

Thanh tra chuyên ngành ATTP nằm trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà

nước, do đó cũng có 3 nhóm quyền chủ yếu sau:

- Quyền yêu cầu, với tính chất là hoạt động của cơ quan QLNN, khi thanh tra

yêu cầu thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải thực hiện những yêu cầu

mà cơ quan thanh tra đưa ra và được bảo đảm thực hiện bởi pháp luật.

- Quyền quyết định, để bảo đảm cho hoạt động thanh tra hiệu quả, pháp luật

trao cho thanh tra ATTP một số quyền quyết định để thanh tra có đủ thẩm quyền xử

lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thanh tra như quyết định xử phạt vi phạm

hành chính, quyết định thu hồi thực phẩm khi có vi phạm hoặc quyền quyết định

chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra khi phát hiện vụ việc vi phạm pháp luật đến

mức độ phải truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Quyền kết luận, kiến nghị, đây là quyền hạn quan trọng mà pháp luật trao

cho thanh tra để phán xét về việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá

nhân. Trên cơ sở những phán xét đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải

thực hiện những kết luận đó và những kiến nghị mà thanh tra đưa ra để xử lý đối

với những tổ chức, cá nhân có vi phạm.

c) Mối quan hệ giữa thanh tra an toàn thực phẩm với cơ quan hành chính nhà

nước cấp trên và trong nội bộ hệ thống thanh tra an toàn thực phẩm

Theo V.I. Lênin: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là

một chứ không phải là hai”. Đây là nguyên tắc cơ bản đầu tiên để xác định vị trí của

18

thanh tra, điều đó cũng có nghĩa rằng khi đề cập đến thanh tra thì không thể không

đề cập đến vấn đề quản lý nói chung và QLNN nói riêng. Hiệu quả của hoạt động

QLNN chỉ được đảm bảo khi có các thiết chế nhằm phát hiện và loại bỏ các lệch lạc

có thể có của đối tượng quản lý; chấn chỉnh cho phù hợp thực tế và yêu cầu từ phía

nhà nước. Trong các thiết chế đó, thanh tra là thiết chế không thể thiếu được phục

vụ cho công tác quản lý.

Hoạt động thanh tra phục vụ cho quá trình quản lý bằng việc thực hiện các

nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

Thông qua đó giúp cho cơ quan QLNN thấy được tình hình hoạt động của các tổ

chức hoặc cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình. Trên cơ sở đó để các cơ quan

QLNN chấn chỉnh, xử lý kịp thời các vi phạm. Đồng thời, hoạt động thanh tra còn

xem xét tính đúng đắn của cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm phát hiện những sơ

hở, bất cập, chồng chéo để kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa

đổi, bổ sung hoặc ban hành các quy định mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.

Trong mối quan hệ giữa QLNN và thanh tra ATTP thì QLNN giữ vai trò chủ

đạo, chi phối hoạt động của nó. Tuy nhiên, thanh tra ATTP lại có tác động tích cực

đối với quản lý và góp phần nâng cao hiệu lực hiệu quả của QLNN, thông qua

thanh, kiểm tra nhà nước có cơ hội để lựa chọn và áp dụng các biện pháp, chính

sách thích hợp để ngăn ngừa, loại bỏ hoặc giảm thiểu các mối nguy ATTP. Vai trò

của thanh tra ATTP không chỉ là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp

luật, nhiệm vụ, kế hoạch của Nhà nước, kịp thời phát hiện, kiến nghị xử lý nghiêm

khắc đối với những hành vi vi phạm về ATTP và đề ra các biện pháp giúp các đối

tượng thanh tra khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, phát huy ưu điểm… mà

còn là phương tiện để cơ quan quản lý phát hiện sai phạm, từ đó đề xuất các biện

pháp để hoàn thiện các hoạt động QLNN đối với lĩnh vực đã được phân công. Qua

đó có thể thấy, thanh tra ATTP chính là một trong những công cụ để quản lý nguy

cơ thực phẩm hiệu quả.

Trong mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị thực hiện chức năng

19

thanh tra ATTP, hoạt động thanh tra luôn đảm bảo được sự thống nhất chỉ đạo, điều

hành đối với hoạt động thanh tra trong phạm vi trách nhiệm được giao, tránh sự

chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra.

Như vậy, công tác thanh tra ATTP là một bộ phận của công tác quản lý nói

chung và vị trí quan trọng của nó còn được xác định là một phương thức để kiểm

soát nguy cơ cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật ATTP.

1.1.3. Hoạt động của thanh tra an toàn thực phẩm

1.1.3.1. Khái niệm về hoạt động thanh tra an toàn thực phẩm

Theo quan niệm, nhận thức mới, Nhà nước thực hiện vai trò phục vụ xã hội

với tính chất là một tổ chức dịch vụ công; Nhà nước có trách nhiệm tạo ra một hành

lang pháp lý cho các doanh nghiệp và cá nhân tự do phát triển, đảm bảo kỷ cương,

kỷ luật, công bằng. Trong cơ chế quản lý mới, phương thức, cách thức, mục đích,

nội dung thanh tra đối với các doanh nghiệp không thể mang tính hành chính giống

như trong bộ máy nhà nước mà cần phải được quản lý, thanh tra chuyên sâu bởi các

cơ quan QLNN theo ngành, lĩnh vực đối với các tổ chức, cá nhân trong việc chấp

hành pháp luật chuyên ngành, đó là lý do của việc xuất hiện hoạt động thanh tra

chuyên ngành.

Hoạt động thanh tra tiếp cận dưới góc độ là hoạt động chủ yếu của các cơ quan

thanh tra nhà nước. Theo đó, hoạt động thanh tra được thực hiện bởi các cơ quan

thanh tra nhà nước thông qua chức năng chủ yếu của các cơ quan thanh tra là hoạt

động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, được xác

định từ việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra cho đến việc ra quyết định

thanh tra, tiến hành thanh tra, kết luận thanh tra và xử lý sau thanh tra. Theo cách

tiếp cận này, hoạt động thanh tra là cả một quá trình và được xem xét trên một bình

diện rộng [19].

Mục đích của hoạt động thanh tra ATTP là bảo đảm sự chấp hành pháp luật

ATTP của tổ chức, cá nhân. Hoạt động thanh tra ATTP bắt đầu từ việc xây dựng

chương trình, kế hoạch thanh tra, ra quyết định thanh tra, trực tiếp tiến hành thanh

20

tra đến khi ban hành kết luận thanh tra, xử lý kết luận thanh tra. Hoạt động thanh tra

ATTP chính là những kết quả cụ thể phải đạt được trong quyết định thanh tra hay kế

hoạch thanh tra.

Như vậy “Hoạt động thanh tra ATTP là các công việc do cơ quan có chức

năng thanh tra ATTP thực hiện trong quá trình xây dựng chương trình, kế hoạch

thanh tra, tiến hành thanh tra đến việc ra kết luận, kiến nghị và tổ chức thực hiện

kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý vi phạm trong lĩnh vực ATTP”.

1.1.3.2. Các thành tố của hoạt động thanh tra an toàn thực phẩm

a) Xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra an toàn thực phẩm

Việc tiến hành thanh tra phải trên cơ sở định hướng chương trình thanh tra, kế

hoạch thanh tra được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Do đó, định hướng chương

trình thanh tra, kế hoạch thanh tra ATTP phải được xây dựng hàng năm và cho từng

cuộc thanh tra là quy định bắt buộc nhằm thực hiện cải cách hành chính, tạo chủ

động trong công việc của các cơ quan thanh tra và đối tượng thanh tra.

Để hoạt động thanh tra đạt kết quả tốt thì việc xây dựng định hướng chương

trình thanh tra, kế hoạch thanh tra trước hết phải chủ động bám sát nội dung QLNN

về ATTP. Đồng thời, việc xây dựng định hướng chương trình, kế hoạch thanh tra

phải hạn chế tối đa sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra.

b) Tiến hành hoạt động thanh tra trực tiếp

Hoạt động thanh tra trực tiếp chính là việc tiến hành một cuộc thanh tra thông

qua các giai đoạn như giai đoạn chuẩn bị tiến hành thanh tra, giai đoạn tiến hành

thanh tra trực tiếp và giai đoạn kết thúc thanh tra.

+ Giai đoạn chuẩn bị tiến hành thanh tra

Giai đoạn chuẩn bị tiến hành thanh tra gồm các bước: Khảo sát, nắm tình hình;

Xây dựng đề cương, kế hoạch thanh tra; Chuẩn bị lực lượng cho cuộc thanh tra.

Khảo sát nắm tình hình là bước quan trọng bởi lẽ thông qua việc khảo sát nắm

tình hình, thu thập thông tin trước khi thanh tra, cơ quan tiến hành thanh tra sẽ rút

ngắn được thời gian trong việc xác định trọng tâm cuộc thanh tra, xây dựng đề

21

cương thanh tra, đảm bảo kế hoạch thanh tra sát với thực tế.

Từ những nội dung cần thanh tra đã được xác định bước đầu, cơ quan được giao

nhiệm vụ chủ trì cuộc thanh tra phải đề xuất cụ thể về nội dung, đối tượng và phạm vi

cuộc thanh tra, khái quát những đề xuất này trong quyết định thanh tra và cụ thể hóa

trong đề cương, kế hoạch tiến hành cuộc thanh tra, trình người có thẩm quyền phê

duyệt. Thực hiện tốt nhiệm vụ trong khâu này là yêu cầu quan trọng trong đảm bảo triển

khai cuộc thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải về nội dung và không bị kéo

dài về thời gian mà vẫn đảm bảo thực hiện đầy đủ yêu cầu đặt ra với cuộc thanh tra.

+ Giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp

Giai đoạn thanh tra trực tiếp luôn là giai đoạn trọng tâm, có ý nghĩa quyết định

đến kết quả của cuộc thanh tra. Trong giai đoạn này, có rất nhiều các tình huống phát

sinh đòi hỏi phải xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật, đòi hỏi phát huy tối đa

vai trò chủ động của Trưởng Đoàn thanh tra và các thành viên Đoàn thanh tra. Việc

thực hiện các quyền, nghĩa vụ của Trưởng đoàn và các thành viên Đoàn thanh tra cần

được đảm bảo đúng theo các quy định của Luật Thanh tra, Luật An toàn thực phẩm

và các văn bản hướng dẫn thi hành, tuân thủ đề cương, kế hoạch của cuộc thanh tra

đã được phê duyệt. Việc thu thập tài liệu, xác minh, đối chiếu các thông tin cần được

thành viên đoàn thực hiện đầy đủ theo quy định tiến hành thanh tra trực tiếp.

Trong giai đoạn này, nội bộ Đoàn thanh tra cần thực hiện chế độ thông tin báo

cáo thường xuyên, đó là việc báo cáo của thành viên đoàn thanh tra với Trưởng

đoàn về những nội dung công việc đã và đang tiến hành, các tình huống phát sinh,

những vấn đề cần có ý kiến chỉ đạo. Ngược lại, Trưởng đoàn thanh tra phải kịp thời

thông tin đến các thành viên trong đoàn thanh tra về những nội dung chỉ đạo của

người ra quyết định thanh tra, người được giao thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám

sát hoạt động của đoàn thanh tra.

Một yếu tố nữa không thể không nhắc đến trong giai đoạn này là việc kiểm tra,

giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động của Đoàn

Thanh tra được thực hiện tốt sẽ giúp người ra quyết định thanh tra nắm bắt kịp thời

22

kết quả thanh tra tại từng thời điểm cụ thể, từ đó có quyết định đúng đắn, kịp thời về

việc chấp thuận hay không chấp thuận, hoặc chỉ đạo những biện pháp khác để giải

quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của Đoàn thanh tra.

+ Giai đoạn kết thúc thanh tra

Ở giai đoạn này, Đoàn thanh tra sẽ tập hợp kết quả công việc của các thành

viên Đoàn thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra và Kết luận thanh tra. Đây là giai

đoạn mà vấn đề thông tin, tài liệu cần xử lý không nhiều nhưng đòi hỏi việc tập

trung trí tuệ rất lớn của các thành viên Đoàn thanh tra, đặc biệt là vai trò chủ đạo

của Trưởng Đoàn thanh tra trong việc phân tích, đánh giá tài liệu, so sánh, đối chiếu

với các quy định của pháp luật.

Công việc quan trọng nhất trong giai đoạn này là xây dựng Kết luận thanh tra, đây

là văn bản pháp lý quan trọng nhất của cuộc thanh tra. Kết luận thanh tra do người ra

quyết định thanh tra ban hành, thể hiện tính quyền lực nhà nước, được ban hành theo quy

trình và được thể hiện theo hình thức do pháp luật quy định. Kết luận thanh tra là căn cứ,

cơ sở để thủ trưởng cơ quan QLNN xem xét, từ đó ra quyết định xử lý đối với cơ quan,

tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật; chấn chỉnh công tác quản lý, sửa đổi, bổ

sung cơ chế, chính sách, pháp luật để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của QLNN.

c) Xem xét, xử lý kết luận, kiến nghị về thanh tra

Xem xét, xử lý kết luận, kiến nghị về thanh tra là khâu cuối cùng trong cả một

quá trình thực hiện hoạt động thanh tra song lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng quyết

định hiệu lực của hoạt động thanh tra, đồng thời cũng là dấu mốc xác định hoạt

động thanh tra có đạt được kết quả đề ra hay không.

Việc xem xét, xử lý kết luận, kiến nghị về thanh tra có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng đối với kết quả hoạt động thanh tra nhưng lại không phụ thuộc nhiều vào vai

trò của cơ quan thanh tra mà phụ thuộc phần lớn vào vai trò của thủ trưởng cơ quan

hành chính. Thực tế cho thấy, nếu thủ trưởng cơ quan hành chính quan tâm và coi

trọng công tác thanh tra thì ở đó những kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra

hầu hết được thực hiện trên thực tế. Và ngược lại, nếu thủ trưởng cơ quan hành

chính không quan tâm đúng mức và coi trọng công tác thanh tra thì ở đó những kết

23

luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra không phát huy hiệu lực.

1.2. NHỮNG YẾU TỐ T C ĐỘNG ĐẾN HIỆU QUẢ TỔ CHỨC VÀ

HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM BAN QUẢN LÝ

AN TOÀN THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1.2.1. Những yếu tố tác động đến hiệu quả tổ chức của thanh tra an toàn

thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh

Hoạt động thanh tra ATTP hiện nay phải được đặt trong tổng thể quá trình đổi

mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Có nhiều yếu tố, bao gồm cả những

yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan tác động tới việc tổ chức của thanh tra ATTP

như xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, cải cách nền hành chính…

1.2.1.1. Kinh tế thị trường và tinh thần “mọi người có quyền tự do kinh

doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, hạn chế can thiệp vào hoạt

động của doanh nghiệp

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khác với

thời kỳ bao cấp. Nhà nước trong kinh tế thị trường một mặt phải hỗ trợ, khơi dậy

các tiềm năng để phát triển kinh tế, mặt khác phải thiết lập mặt bằng pháp để tạo

môi trường bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch. Qua đó, xác lập cơ chế

kiểm tra, kiểm soát hợp lý để nền kinh tế phát triển đúng hướng, thể hiện tập trung

trên các mặt sau:

- Nhà nước tạo dựng môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để

phát huy các nguồn lực cho phát triển xã hội.

- Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường để

đảm bảo đúng định hướng XHCN. Nhà nước hỗ trợ phát triển nền kinh tế đất nước

thông qua việc đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.

- Nhà nước tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan, ban ngành. Thực hiện việc phân

công hợp lý, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

- Nhà nước có vai trò quyết định trong việc tạo các điều kiện, môi trường để

thúc đẩy nhanh hơn sự hình thành và phát triển các loại hình kinh tế, đặc biệt khi

24

nước ta đã vào WTO.

Việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay đặt ra những

yêu cầu đối với tất cả hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó

có ngành thanh tra nói chung, thanh tra ATTP nói riêng. Việc tổ chức và hoạt động

của thanh tra ATTP phải đáp ứng được các yêu cầu khi xây dựng nền kinh tế thị

trường, định hướng XHCN như sau:

Thứ nhất, hoạt động thanh tra ATTP theo xu hướng giảm tiền kiểm, tăng

cường hậu kiểm trong quản lý nhà nước.

Thứ hai, hoạt động thanh tra ATTP phải đảm bảo nguyên tắc hoạt động thanh

tra phải công khai, dân chủ, khách quan, kịp thời và đề cao vai trò, trách nhiệm của

trưởng đoàn thanh tra.

1.2.1.2. Công cuộc cải cách chính tác động đến tổ chức của thanh tra an

toàn thực phẩm

Thanh tra ATTP là một nội dung của QLNN. Vì vậy, việc xác lập vị trí, thẩm

quyền trong lĩnh vực này cũng chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ chủ trương của Đảng và

Nhà nước về cải cách hành chính nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN

trên các lĩnh vực. Nói cách khác, việc thiết lập mô hình tổ chức thực hiện hoạt động

thanh tra ATTP cũng như thẩm quyền, phạm vi, trình tự thủ tục tiến hành các hoạt

động thanh tra luôn đứng trước các yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước.

Ngay từ Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-

2 1 đã xác định mục tiêu là “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,

vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo

nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng;

xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của

công cuộc xây dựng, phát triển đất nước”. Ngày 8 11 2 11, Chính phủ đã ban hành

Nghị quyết 30c/NQ-CP ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà

nước giai đoạn 2011-2 2 và đưa ra 5 mục tiêu của Chương trình, trong đó có mục

tiêu: “Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương tới cơ sở

thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp

25

quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà

nước” [10]. Trong các nội dung của Chương trình, đề cập đến vấn đề cải cách tổ

chức bộ máy hành chính nhà nước, Nghị quyết 30c/NQ-CP chỉ rõ “sắp xếp lại các

cơ quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lặp về

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn…”. Nghị quyết 30c/NQ-CP đưa ra 5 nhóm nhiệm

vụ trong cải cách nền hành chính đó là:

Thứ nhất, cải cách thể chế.

Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính.

Thứ ba, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.

Thứ tư, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Thứ năm, cải cách tài chính công.

Thứ sáu, hiện đại hóa hành chính.

Các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2 2 cũng chính

là những yêu cầu đối với tổ chức và hoạt động thanh tra ATTP. Từ mục tiêu, nội

dung của công cuộc cải cách hành chính nêu trên, đặt ra yêu cầu trong tổ chức thanh

tra ATTP. Việc tổ chức thanh tra ATTP phải phát huy mạnh mẽ tính năng động,

sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, đảm bảo hiệu quả, nâng cao vị trí, vai

trò của thanh tra nhằm bảo đảm hiệu quả của công tác QLNN về ATTP.

Việc tổ chức thanh tra cần xuất phát từ việc xem xét lại toàn bộ các quy định

về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy; về quy chế hoạt động của

phòng, ban thực hiện chức năng thanh tra ATTP và những mối quan hệ giữa các bộ

phận này với nhau trong việc thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm của mình. Việc tổ

chức của Thanh tra ATTP cần phù hợp với toàn bộ Chương trình tổng thể về cải

cách nền hành chính nhà nước trên các phương diện sau:

Thứ nhất, bảo đảm các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của thanh tra

ATTP.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý của hệ thống thanh tra, kiểm tra

ATTP trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật.

Như vậy tổ chức của thanh tra ATTP phải đặt trong bối cảnh đổi mới của cả

26

bộ máy nhà nước. Thanh tra luôn là chức năng thiết yếu của QLNN, vì vậy, thanh

tra phải gắn liền với quản lý và phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ quản lý trong

từng giai đoạn cụ thể.

Về bộ máy, thanh tra ATTP phải được tổ chức tinh giản, gọn nhẹ; xác định rõ

chức năng, nhiệm vụ trong hệ thống thanh tra, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp

trong hoạt động giữa các bộ phận thực hiện chức năng thanh tra ATTP và giữa các

bộ phận thực hiện chức năng thanh tra ATTP với các cơ quan chức năng khác.

Về công tác cán bộ, đội ngũ cán bộ thanh tra ATTP phải đảm bảo đủ về số

lượng, đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, có chính sách đãi ngộ thích đáng và

được trang bị đầy đủ phương tiện làm việc cần thiết.

1.2.1.3. Hội nhập quốc tế tác động đến việc tổ chức của thanh tra an toàn

thực phẩm

Thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Nhà nước ta đã có chủ trương, chính

sách đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… Trong

những năm gần đây, Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới

trên cả bình diện song phương và đa phương, tạo ra những điều kiện quan trọng để

mở rộng sản xuất, kinh doanh, tăng cường giao lưu văn hóa, học tập, trên nguyên tắc

Việt Nam muốn làm bạn với các nước trên thế giới nhưng phải giữ vững bản sắc dân

tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Hiện tại, Việt Nam tham gia một

số tổ chức quốc tế liên quan tới ATTP như WHO, FAO, CODEX… và ký kết một số

hiệp định về công nhận, thừa nhận lẫn nhau trong hoạt động liên quan tới ATTP như

SPS, T T đã hướng tới sự cân bằng giữa quyền lợi của các thành viên để quản lý các

mục tiêu pháp lý, như ATTP hoặc bảo vệ người tiêu dùng. Gần đây nhất, Hiệp định

Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái ình Dương (CPTPP) vừa chính thức được

ký kết tại Santiago (Chile) đã thống nhất nhiều quy tắc chung về sở hữu trí tuệ, chất

lượng thực phẩm…

Tiêu chuẩn thực phẩm và thương mại luôn song hành để đảm bảo thực phẩm

an toàn, đủ dinh dưỡng và phù hợp cho một thế giới phát triển [35, tr.2]. Có thể

nhận thấy ATTP là vấn đề không của riêng quốc gia nào, vấn đề càng trở nên khó

27

kiểm soát khi ngày càng nhiều quốc gia ký kết hợp tác song phương, đa phương

trên tất cả cá lĩnh vực chính điều đó đã tạo điều kiện cho thực phẩm có nhiều con

đường lưu thông và vấn đề đặt ra là kiểm soát nguồn gốc xuất xứ, chất lượng của

chúng. Với tốc độ phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, ngày càng nhiều

thực phẩm xuất hiện trên thị trường với nhiều thành phần dinh dưỡng và yêu cầu đặt

ra là cần một lực lượng mang tầm vóc quốc tế, với cơ cấu tổ chức đáp ứng chuẩn

quốc tế để kiểm soát nhằm đưa thực phẩm về quỹ đạo an toàn. Chiến lược phát triển

ngành thanh tra đến năm 2 2 , tầm nhìn 2 3 đã nêu rõ “quá trình xây dựng nhà

nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường cũng

như hội nhập quốc tế đòi hỏi ngành thanh tra cần phải đổi mới, nâng cao hiệu lực,

hiệu quả hoạt động nhằm theo kịp và phù hợp với yêu cầu của sự phát triển và hội

nhập quốc tế” [8].

1.2.2. Những yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động thanh tra an toàn

thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh

Hiệu quả hoạt động được xác định thông qua việc so sánh kết quả hoạt động

của tổ chức qua các thời kỳ và đảm bảo được các yêu cầu của công tác quản lý, kịp

thời, nhanh gọn, có trọng tâm, trọng điểm và không làm ảnh hưởng đến hoạt động

bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân được thanh tra. Có thể thấy có rất nhiều

yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của một tổ chức và đối với tổ chức thanh tra

ATTP chúng ta có thể dùng bộ tiêu chí ROCCIPI đánh giá cụ thể các yếu tố tác

động đến hiệu quả hoạt động thanh tra ATTP.

Theo bộ tiêu chí ROCCIPI, có 7 yếu tố tác động đến hiệu quả của tổ chức

thanh tra ATTP: Rule (Quy tắc ứng xử hay luật nội dung), Opportunity (Cơ hội),

Capacity (Năng lực), Communication (Thông đạt), Interest (Lợi ích), Process (Quy

trình), Ideology (Ý thức hệ, giá trị, thói quen chế biến, sở thích tiêu thụ thực phẩm

của cộng đồng cư dân)

* Rule (Quy tắc ứng xử hay luật nội dung)

Ở góc độ vĩ mô, kinh tế nông nghiệp (Henry de France, 2001) cho rằng con

người có xu hướng tiêu thụ một lượng ổn định thực phẩm. Các công cụ pháp lý ảnh

28

hưởng trực tiếp đến cung, nhưng không thay đổi nhiều đến cầu trên thị trường. Ăn

uống là nhu cầu cơ bản nhất của con người nên khi lượng cung hợp pháp thấp hơn

cầu, sẽ có cung bất hợp pháp để đáp ứng. Vấn đề là khi ranh giới giữa hợp pháp và

bất hợp pháp bị xóa nhòa vì người sản xuất và cả người tiêu dùng vô trách nhiệm,

không tìm hiểu cơ sở khoa học và luật pháp để tự giác tuân thủ, khi đó hoạt động

quản lý ATTP sẽ vô cùng khó khăn.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta “… vừa vận động theo

những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên

tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội…” [15, tr. 23]. Với mô hình kinh tế thị trường

như vậy, Nhà nước nói chung, pháp luật nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng

trong việc định hướng cho sự phát triển xã hội, pháp luật là công cụ và phương tiện

đảm đương vai trò dẫn dắt và chi phối xã hội bằng việc kiến tạo môi trường pháp lý

để hoạt động và phát triển.

Pháp luật nói chung, pháp luật trong lĩnh vực ATTP nói riêng không chỉ là các

quy định trong các đạo luật, bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật dưới luật đăng tải

trong các trang công báo (gọi là pháp luật “tĩnh”) mà còn là “pháp luật trong hành

động”, “pháp luật trong đời sống” (gọi là pháp luật “động”). Xem xét pháp luật trong

trạng thái “động” là xem xét pháp luật trong mối quan hệ với việc thực hiện, áp dụng

và tuân thủ pháp luật. Chỉ có nhìn nhận pháp luật trong hành động thực tiễn mới thấy

hết ý nghĩa và vai trò của nó.

* Opportunity (Cơ hội)

Công tác chỉ đạo, định hướng để xây dựng kế hoạch hoạt động thanh tra ATTP

qua đó nắm chắc tình hình để xây dựng kế hoạch thanh tra, đồng thời hoàn thiện cơ

chế kiểm nghiệm, kiểm dịch sản phẩm thực phẩm theo nguyên tắc tiếp cận hệ thống

toàn diện ở tất cả các khâu trong chu trình thực phẩm, từ đó phân nhóm hành động

theo chức năng và trách nhiệm của từng bộ phận, tổ chức thực hiện, thanh tra, giám sát

kết hợp cơ chế phối hợp giữa các cơ quan cùng chịu trách nhiệm về các vấn đề ATTP

sẽ tạo cơ hội cho hoạt động thanh tra ATTP phát triển theo hướng chuyên nghiệp.

Xây dựng cơ chế kiểm soát hỗn hợp, cho phép người tiêu dùng và đại diện các

29

ngành hàng có cơ hội phối hợp kiểm tra, rà soát, đóng góp về ATTP cùng Nhà

nước, không để Nhà nước đơn độc trong cuộc chiến. Để làm điều này, Nhà nước

trước tiên cần tạo điều kiện cho các tổ chức phi nhà nước cùng đồng hành, chia sẻ

thông tin, phối hợp, cùng tẩy chay những hành vi không bảo đảm ATTP. Có như

vậy mới tạo tiền để để hoạt động thanh tra ATTP đạt được hiệu quả như mong đợi.

* Capacity (Năng lực)

Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định, cùng với

cách tổ chức công việc và kiểm tra, thanh tra, cán bộ là một yếu tố quyết định thành

công hay thất bại của mọi chủ trương, chính sách đúng, pháp luật đã ban hành. Do

đó, công tác xây dựng đội ngũ công chức ngành Thanh tra từ ngày thành lập đến

nay đã có những chuyển biến quan trọng về nhận thức, quan điểm tư tưởng, được

thể hiện trong cơ chế, chính sách, pháp luật từ khâu tuyển dụng, đào tạo và quản lý

đã từng bước đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước hiện nay. Để phát huy tính tích cực và chủ động hội nhập quốc tế của

đội ngũ cán bộ, Nghị quyết số 26 NQ-TW, ngày 19 5 2 18, của Hội nghị Trung

ương 7 hóa XII đã xác định các mục tiêu, yêu cầu, lộ trình cụ thể về năng lực làm

việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ các cấp [1]. Đây là một thách thức

rất lớn đối với cả chủ thể quản lý và bản thân cán bộ, đòi hỏi các cấp, các ngành

phải xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ rất khoa học, bài bản và mỗi cán bộ phải xác

định rõ trách nhiệm và tìm động lực mới cho phát triển.

Năng lực là tổ hợp những đặc điểm, thuộc tính của tổ chức hoặc cá nhân phù

hợp với yêu cầu một dạng hoạt động nhất định nhằm bảo đảm cho hoạt động đạt

hiệu quả tối ưu. Trong điều kiện hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, cả

về chiều rộng lẫn chiều sâu việc xây dựng “khung năng lực” được thiết kế bài bản,

khoa học, tập trung vào trình độ, năng lực chuyên môn; khả năng nắm bắt, đánh giá,

dự báo tình hình sẽ đáp ứng được yêu cầu làm việc trong điều kiện phát triển không

ngừng của khoa học công nghệ thực phẩm.

* Communication (Thông đạt/truyền thông)

Truyền thông về ATTP nhìn một cách tổng quan đó là truyền thông nguy cơ,

30

là quá trình trao đổi thông tin về những kết quả của đánh giá nguy cơ và các biện

pháp kiểm soát nguy cơ giữa người đánh giá và quản lý nguy cơ với các nhà hoạch

định chính sách, các nhà hoạt động chuyên môn, các viện nghiên cứu, ngành công

nghiệp thực phẩm, các cơ quan thông tấn báo chí, người tiêu dùng và các bên có

lien quan khác. Tác động to lớn của truyền thông trong việc định hướng thông tin

cho công chúng một cách khoa học về vấn đề ATTP là điều rất dễ nhận thấy. Tuy

nhiên, vẫn còn tình trạng thông tin về ATTP còn thiếu khoa học, thiếu chính xác,

thậm chí là thông tin phục vụ mục đích không trong sáng, mục đích vụ lợi (ví dụ

tung tin thất thiệt, dìm đối thủ cạnh tranh).

Sự thiếu sót trong việc cung cấp thông tin đầy đủ tới công chúng đã đẩy cao

nguy cơ mất ATTP gây khó khăn cho hoạt động thanh tra. Vấn đề mấu chốt là cần

có một nền tảng pháp lý chuẩn khoa học và có sự tham gia của nhiều bên trong việc

thực thi các phương thức thực hành ATTP bền vững. Nông dân, cơ quan quản lý và

các đơn vị sản xuất – phân phối đều có trách nhiệm và nghĩa vụ ngang nhau trong

đảm bảo sản xuất ra lương thực an toàn và dinh dưỡng tới người tiêu dùng, điều đó

sẽ tác động tích cực đến hoạt động của cơ quan QLNN về ATTP.

* Interest (Lợi ích)

ATTP là vấn đề mang tính xã hội, có 2 nhóm chủ thể có lợi ích trong mối quan

hệ với hệ thống ATTP Quốc gia, cụ thể:

- Nhóm tham gia sản xuất, kinh doanh thực phẩm:

Đằng sau những bức xúc lo lắng khi phải đối mặt với thực phẩm bẩn và không

an toàn, là thực tế phức tạp của một hệ thống nông nghiệp, hệ thống kinh doanh

thực phẩm còn manh mún tự phát, thậm chí vô tổ chức chỉ để thu lợi, mà cơ quan

chức năng chưa kiểm soát được hết, cũng như chưa hiểu trọn vẹn. Do đó chính sách

ATTP không thể dừng lại ở việc chỉ cấm, hoặc định hướng sản xuất tốt. Nó còn

phải tương thích và đồng hành trong khả năng của mình với hiện đại hóa nông

nghiệp. Cái gốc của ATTP gắn liền với nông nghiệp và nông thôn, nên chỉ khi nào

nông nghiệp có thay đổi về chất lượng, vấn nạn ATTP mới được giải quyết từ gốc

31

rễ. Nếu không chiến đấu với thực phẩm không an toàn sẽ giống như nhổ cỏ trên đất

hoang nhổ cây này lại có cây khác mọc lên thay thế. Nếu chúng ta không giải quyết

tốt khâu đầu tiên là sản xuất thì chưa giải quyết hết được gốc của ATTP.

- Nhóm những người tiêu dùng thực phẩm:

Trong khi chờ cơ quan chức năng xử lý các trường hợp vi phạm ATTP, để tự

bảo vệ mình, mỗi người tiêu dùng hãy tẩy chay hàng kém chất lượng, thực phẩm

không rõ nguồn gốc, đồng thời tố giác những địa chỉ sản xuất, tàng trữ, kinh doanh

hàng giả, hàng lậu, tăng giá không hợp lý, góp phần làm trong sạch và bình ổn thị

trường thực phẩm. Câu chuyện thực phẩm bẩn sẽ được giải quyết khi bắt đầu từ

trách nhiệm mỗi con người vì lợi ích toàn xã hội.

Người tiêu dùng, đại diện ngành nghề đặc biệt là ngành nghề thực phẩm, hiện

nay chưa có một vai trò xứng đáng đề bảo vệ quyền lợi của mình. Đối mặt với vấn

đề ATTP, Nhà nước không có đủ nguồn lực để đơn phương giải quyết, mà lại chưa

được xã hội trợ giúp đúng mức. Thực trạng đáng buồn là dù cơ quan chức năng đã

khuyến cáo, nhưng vì mua sắm nhanh chóng và thuận tiện, giờ giấc linh hoạt khiến

nhiều người tiêu dùng quen mua thịt ở chợ cóc, chợ tạm không bảo đảm an toàn vệ

sinh thực phẩm; vì lợi nhuận trước mắt mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến

thực phẩm đã bỏ qua yếu tố an toàn và hệ quả là thực phẩm bẩn tràn lan với muôn

hình vạn trạn hình thức “ẩn danh” gây khó khăn cho lực lượng quản lý.

Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, việc tồn tại tỷ lệ nhất định về lợi ích

giữa hai nhóm đối tượng nêu trên là có thể hiểu được và việc hài hòa lợi ích hai

chiều “sản xuất - tiêu dùng” là bài toán đặt ra và kết quả đạt được đó là hiệu quả

toàn ngành ATTP, đặc biệt là công tác thanh tra, kiểm tra.

* Process (Quy trình)

Khi hoạt động thanh tra, kiểm tra được tiến hành theo đúng thẩm quyền, trình

tự, thủ tục pháp luật quy định và nguyên tắc tuân theo pháp luật trong hoạt động

thanh tra được đảm bảo thực hiện. Nguyên tắc này tạo điều kiện cho cơ quan thanh

tra trong quá trình tiến hành thanh tra kết luận chính xác, đúng pháp luật, chống

32

được các biểu hiện tiêu cực, tuỳ tiện trong việc đưa ra các kết luận, kiến nghị.

Thanh tra là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, trong quá trình

tiến hành hoạt động thanh tra không thể khẳng định được con người được giao

nhiệm vụ luôn luôn làm đúng, làm đủ những gì mà Nhà nước trao cho. Vì vậy, lý

luận cũng như thực tiễn cho thấy, hoạt động thanh tra sẽ mất đi hiệu lực, hiệu quả

của nó nếu quy trình thanh tra không được đảm bảo. Sự vi phạm nguyên tắc này dẫn

đến sự lạm dụng quyền lực, sự thoái hóa của quyền lực và dĩ nhiên mục đích của

hoạt động thanh tra không thể đạt được.

Để công tác thanh tra, kiểm tra đạt kết quả cao, đúng đối tượng, việc triển khai

công tác thanh tra, kiểm tra đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định giúp

phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý kịp thời vi phạm.

* Ideology (Ý thức hệ, giá trị, thói quen chế biến, sở thích tiêu thụ thực phẩm

của cộng đồng cư dân)

Ý thức hệ của các chủ thể khi tham gia vào hoạt động ATTP sẽ yếu tố quyết

định đến tiến trình phát triển của ngành thực phẩm. Ý thức hay nói khác hơn là thói

quen sản xuất, tiêu dùng thực phẩm và thực hành các biện pháp ATTP của một số

lượng lớn các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ sẽ là nhân tố tác động đến sự vận động tích cực

của ngành thực phẩm an toàn, đồng thời việc các cơ quan chức năng đồng hành tạo

nên sự thay đổi trong ý thức sản xuất, tiêu dùng sẽ là bước đệm quan trọng mang lại

hiệu quả toàn diện trong hoạt động quản lý ATTP, đó là việc đưa ra các chiến lược

phối hợp về mức độ tuân thủ các quy định quy chuẩn, chú trọng đến quy trình sản

xuất và phòng ngừa sự cố thay vì chỉ tiến hành kiểm tra sản phẩm đầu cuối, thúc

đẩy công tác tự điều chỉnh và kiểm tra nội bộ trong bản thân ngành sản xuất thực

33

phẩm [17].

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Việc nghiên cứu cơ sở lý luận của việc tổ chức, hoạt động thanh tra ATTP là

một vấn đề cần thiết. Tại Chương 1 của Luận văn đã nghiên cứu để xác định phạm

vi những nội dung trong thực trạng và phương hướng, giải pháp. Những kết luận

quan trọng được rút ra từ Chương 1 của Luận văn, bao gồm:

1. Thanh tra ATTP là hoạt động nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các

hành vi vi phạm pháp luật ATTP, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động thanh tra

ATTP như một thiết chế hành chính nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành

vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật ATTP. Thanh

tra ATTP là một phương thức để quản lý nguy cơ hay nói cách khác là kiểm soát

nguy cơ về ATTP. Hoạt động thanh tra ATTP nhằm phục vụ cho công tác quản lý

nhưng thanh tra cũng có tính độc lập tương đối với cơ quan quản lý trong việc đưa

ra các kết luận, xử lý đối với các hành vi vi phạm theo pháp luật.

2. Luận văn đã nghiên cứu và đưa ra những nội dung nhằm đảm bảo hiệu quả

tổ chức và hoạt động thanh tra ATTP của Ban Quản lý ATTP TP HCM.

3. Việc tổ chức, hoạt động thanh tra ATTP là yêu cầu cấp thiết đặt ra với sự

tác động của các yếu tố khách quan như xây dựng nền kinh tế thị trường, định

hướng XHCN; cải cách hành chính nhà nước, yêu cầu hội nhập quốc tế. Đồng thời,

hiệu quả của việc tổ chức, hoạt động thanh tra ATTP chỉ thực sự có hiệu quả còn

phụ thuộc vào quyết tâm của Thủ trưởng cơ quan, đoen vị thông qua việc hoàn thiện

34

hơn nữa về mặt tổ chuawcs và hoạt động của bộ máy thanh tra.

Chƣơng 2:

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM

BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC

PHẨM BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội liên quan đến vấn đề an toàn thực

phẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh

a) Cư dân đông nhu cầu thực phẩm lớn

Dân số đô thị giữ vai trò quan trọng trong kích cầu tiêu thụ các sản phẩm hàng

hóa, dịch vụ. Đối với sản phẩm là thực phẩm, dân số càng lớn thì nhu cầu thực

phẩm càng lớn bởi vì lương thực, thực phẩm là sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu

dùng thiết yếu của con người.

TP HCM là một trong 5 Thành phố trực thuộc Trung ương, có diện tích 2.061,4 km2 và dân số gần 8.297.5 người [34], là đầu mối lưu thông và tiêu thụ

một lượng lớn thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu, phục vụ nhu cầu tiêu

thụ thịt hàng ngày từ 1.000-1.200 tấn, trong đó heo từ 800-900 con; gia cầm từ

100.000-120.000 con; thực phẩm đông lạnh nhập khẩu khoảng 264.000 tấn năm.

Nhu cầu tiêu thụ rau của thành phố khoảng 1.000.000 tấn năm và thủy sản khoảng

170.000 tấn năm.

b) Nguồn thực phẩm đa dạng, giao thông nhiều luồng, truy xuất nguồn gốc,

giám sát khó khăn

Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, TP HCM là một đầu mối giao

thông quan trọng cả đường bộ, đường thủy và đường hàng không, nối liền các tỉnh

trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế, đồng thời cũng là đầu mối lưu thông và

tiêu thụ một lượng lớn thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu phục vụ nhu

cầu tiêu dùng của người dân thành phố và du khách quốc tế.

Hiện thực phẩm sản xuất tại thành phố chỉ đáp ứng được khoảng 2 % đến

35

3 % nhu cầu thực phẩm của người dân, phần còn lại phải nhập thông qua nhiều

nguồn, vì vậy việc quản lý và truy xuất nguồn gốc khi có sự cố về ATTP đang gặp

nhiều khó khăn.

c) Số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm lớn

Theo thống kê tính đến tháng 6 2 19 có 57.223 cơ sở thuộc phạm vi quản lý

của của Ban Quản lý ATTP TP HCM, cụ thể: 4.517 cơ sở sản xuất, chế biến thực

phẩm; 11.2 9 cơ sở kinh doanh thực phẩm; 41.497 cơ sở hoạt động kinh doanh dịch

vụ ăn uống. Hiện nay, thành phố đang có khoảng 233 chợ truyền thống chuyên kinh

doanh hàng thực phẩm ăn uống, bên cạnh đó còn có 3 chợ đầu mối lớn chuyên tiếp

nhận khoảng 80% các nguồn thực phẩm từ các địa phương về hàng ngày.

d) Khí hậu nóng

TP HCM nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Đặc điểm của khí

hậu này là nhiệt độ cao đều trong năm tiềm ẩn các nguy cơ an toàn thực phẩm liên

quan đến sản xuất lương thực, lưu trữ và phân phối, những thách thức này đặt trách

nhiệm lớn hơn đối với các nhà sản xuất thực phẩm và chế biến để đảm bảo an toàn

thực phẩm.

Do đó, yêu cầu đặt ra đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm là cần

chế độ bảo quản đặc thù tương ứng với khí hậu, cụ thể là đầu tư chi phí cho hệ

thống làm lạnh cao hơn các vùng khác để giữ lại các thuộc tính của thực phẩm

nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người sử dụng cũng như các tiêu chuẩn của nhà

quản lý về ATTP.

2.1.2. Thực trạng tuân thủ pháp luật về an toàn thực phẩm và nhu cầu

thành lập Ban Quản lý An toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh

2.1.2.1. Pháp luật về an toàn thực phẩm

* Thực phẩm

Theo tiêu chuẩn Codex stan 1-1985, tại Điều 2 về giải thích thuật ngữ thực

phẩm bao gồm “Tất cả các chất đã chế biến, sơ chế hoặc chưa chế biến nhằm sử

dụng cho con người bao gồm đồ ăn, uống, nhai, ngậm và tất cả các chất được sử

dụng để xử lý, chế biến hoặc xử lý thực phẩm, không bao gồm mỹ phẩm hoặc thuốc

36

lá hoặc các chất chỉ được dùng làm dược phẩm”. Để thực hiện quyền, nghĩa vụ của

Việt Nam trong việc ký kết, gia nhập những điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế,

nước ta đã cụ thể hóa tiêu chuẩn Codex stan 1-1985 trong đó thực phẩm được giải

thích là “tất cả các chất đã chế biến, sơ chế hoặc chưa chế biến nhằm sử dụng cho

con người bao gồm đồ ăn, uống, nhai, ngậm và tất cả các chất được sử dụng để xử

lý, chế biến hoặc xử lý thực phẩm, không bao gồm mỹ phẩm hoặc thuốc lá hoặc các

chất chỉ được dùng làm dược phẩm” [7, tr. 06].

Luật An toàn thực phẩm năm 2 1 giải thích “Thực phẩm là sản phẩm mà con

người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực

phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm”. Với

cách giải thích này tuy đã được rút gọn hơn so với khái niệm của Codex stan 1-1985

nhưng cơ bản vẫn liệt kê đầy đủ được các thành phần cấu thành thực phẩm theo giải

thích thuật ngữ của quốc tế.

* Thực phẩm bẩn, thực phẩm không an toàn/ô nhiễm thực phẩm

Hiện nay, trên các thông tin truyền thông chúng ta thường hay được tiếp cận

hai khái niệm “thực phẩm bẩn” và “thực phẩm không an toàn” hay “ô nhiễm thực

phẩm” để nói lên tình trạng không bảo đảm ATTP. Tuy nhiên, theo phương diện

khoa học nghĩa các cụm từ này là khác nhau.

Thực phẩm bẩn chủ yếu được sử dụng để nói đến quá trình sản xuất, chế biến

và phân phối không bảo đảm vệ sinh. Vì vậy, để giải quyết thực phẩm bẩn chỉ cần

khắc phục được yếu tố điều kiện vệ sinh trong quá trình sản xuất thực phẩm trước

khi đưa vào tiêu thụ.

Thực phẩm không an toàn hay ô nhiễm thực phẩm là một khái niệm rộng hơn,

ngoài yếu tố trên còn có sự xuất hiện bất kỳ một chất nào không được chủ ý cho vào

thực phẩm mà có mặt trong thực phẩm do kết quả của việc sản xuất, chế biến, đóng

gói, vận chuyển, lưu giữ thực phẩm hoặc do ảnh hưởng của môi trường tới thực

phẩm. Các chất ô nhiễm thực phẩm có thể là các vi sinh vật (vi khuẩn, virus, ký sinh

trùng, vi nấm), các hóa chất (các hóa chất bảo vệ thực vật, các kim loại nặng, phụ

gia, các dư lượng kháng sinh, hormone..) và các tác nhân vật lý (các mảnh thủy tinh,

37

mảnh kim loại, chất phóng xạ…) với một hàm lượng đủ để gây ảnh hưởng đến an

toàn sức khỏe con người. Không thể giải quyết thực phẩm không an toàn hay ô

nhiễm thực phẩm bằng việc nâng cao vệ sinh như thực phẩm bẩn, vì các yếu tố ô

nhiễm không an toàn nằm ngay bên trong của nguyên vật liệu được sử dụng đầu vào

của quá trình sản xuất.

* An toàn thực phẩm

Ở Việt Nam, “vệ sinh an toàn thực phẩm” cũng được sử dụng trong Pháp lệnh

Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2 3; qua đó, “vệ sinh an toàn thực phẩm là các

điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo quản thực phẩm không gây hại cho tính

mạng, sức khỏe con người”. Đến năm 2 1 , Quốc hội nước ta đã thông qua Luật

An toàn thực phẩm, đã sữa đổi “vệ sinh an toàn thực phẩm” thành “an toàn thực

phẩm” và được giải thích “An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không

gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người”. Với cách giải thích này tuy ngắn gọn

hơn so với Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2 3 nhưng đã bao hàm được

các khái niệm về vệ sinh ATTP. Tóm lại, với hai cách gọi khác nhau, “An toàn thực

phẩm” hay “Vệ sinh an toàn thực phẩm” đều được hiểu là một quá trình bao gồm

việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp nhằm

phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra.

Phân biệt giữa ATTP và chất lượng thực phẩm cho thấy: ATTP là một phần của

chất lượng thực phẩm hay chất lượng thực phẩm là khái niệm rộng hơn, nó bao gồm

cả ATTP. ên cạnh ATTP, chất lượng thực phẩm còn bao hàm các tiêu chí khác như

giá trị dinh dưỡng, mùi vị, kích thước của sản phẩm thực phẩm… [38, tr.15].

Như vậy, ATTP là tất cả điều kiện và yêu cầu bắt buộc từ khâu sản xuất, chế

biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng để đề phòng sự ô nhiễm

ngẫu nhiên về sinh học, hóa học, lý học có thể gây độc hại, nguy hiểm tới sức khỏe

người tiêu dùng.

* Quản lý nhà nƣớc về an toàn thực phẩm

Quản lý là sự tác động có kế hoạch, sắp xếp tổ chức, chỉ huy, điều khiển,

38

hướng dẫn, kiểm tra của các chủ thể quản lý (cá nhân hay tổ chức) đối với hoạt

động xã hội, để chúng phát triển phù hợp với quy luật và đạt tới mục đích đã đề ra

của tổ chức, đúng ý chí của nhà quản lý, với chi phí thấp nhất.

Quản lý ATTP từ góc độ xã hội chính là việc phân loại thực phẩm giữa an toàn

và không an toàn bằng công cụ pháp lý. Mục đích của việc phân loại là giúp loại bỏ

thực phẩm nguy hiểm khỏi thị trường trước khi chúng được tiêu thụ. Việc phân loại

này do Nhà nước đảm nhiệm và được cơ quan chuyên trách tiến hành [24, tr. 46].

Như vậy, QLNN về ATTP đó là việc các cơ quan QLNN tác động bằng nhiều

biện pháp lên các đối tượng quản lý nhằm mục đính bảo đảm xã hội được tiếp cận, sử

dụng thực phẩm an toàn, chất lượng. Nhà nước sử dụng quyền lực được nhân dân

giao cho để trực tiếp điều hành, tác động lên các chủ thể quản lý mà ở đây cụ thể là

các đối tượng sản xuất, kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng thông qua các công

cụ chính sách, pháp luật, kế hoạch và các quy định khác của pháp luật về ATTP.

QLNN về ATTP bao gồm: công tác hoạch định và ban hành các văn bản,

chính sách, chiến lược, kế hoạch có liên quan đến vấn đề ATTP; công tác tổ chức

thực hiện, triển khai luật về ATTP và các văn bản có liên quan; công tác giáo dục,

tuyên truyền về ATTP và công tác thanh tra, kiểm tra. Những nội dung nêu trên đã

được luật hóa từ Chương III đến Chương IX Luật An toàn thực phẩm năm 2 1 .

Hướng dẫn thi hành Luật Thanh tra năm 2 1 , Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 86 2 11 NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2 11 quy định chi tiết và hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Thanh tra và dành riêng một chương (Chương 6) quy

định QLNN về công tác thanh tra, trong đó có quy định về nội dung QLNN về công

tác thanh tra, bao gồm:

- Xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành

theo thẩm quyền các văn bản pháp luật về công tác thanh tra.

- Tuyên truyền, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về thanh

tra.

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thanh tra.

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thanh tra.

39

- Tổng hợp tình hình về công tác thanh tra.

- Kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện pháp luật về thanh tra; xử lý vi

phạm pháp luật về thanh tra.

- Tổng kết kinh nghiệm về công tác thanh tra.

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động thanh tra.

2.1.2.2. Thực trạng tuân thủ pháp luật an toàn thực phẩm tại Thành phố

Hồ Chí Minh

Trong những năm qua, công tác QLNN về ATTP của thành phố đã có nhiều

chuyển biến tích cực; song dù đã hết sức nỗ lực tuyên truyền, vận động, tập huấn

cho các đối tượng sản xuất, kinh doanh thực phẩm, tăng cường các biện pháp quản

lý, truy xuất nguồn gốc nhưng vẫn chưa đảm bảo chắc chắn thực phẩm đều an toàn.

Việc sử dụng hóa chất, phụ gia trong thực phẩm vẫn còn tồn tại. Qua công tác thanh

tra, kiểm tra các cơ quan chức năng phát hiện không ít trường hợp vi phạm nghiêm

trọng như sản xuất, kinh doanh thuốc ho giả, thuốc trị ung thư từ bột than tre, sử

dụng chất cấm để tẩy trắng, phù phép biến thịt heo thành thịt bò… Việc thanh tra,

kiểm tra ATTP của thành phố vẫn còn những hạn chế như các cơ sở nhỏ lẻ hay

những cơ sở kinh doanh về đêm chưa được kiểm soát chặt chẽ do chưa đủ lực lượng

cán bộ chuyên trách… Sự cộng hưởng từ những yếu tố trên ảnh hưởng đến sức

khỏe và niềm tin của người tiêu dùng.

ATTP là vấn đề đã không còn mới trong xã hội, đặc biệt vấn đề này hiện vẫn

chưa có giải pháp chấm dứt hoàn toàn mà càng ngày càng diễn biến phức tạp, hành

vi tinh vi hơn. Theo thống kê của Cục ATTP, năm 2 17, cả nước ghi nhận 139 vụ

ngộ độc thực phẩm với 3.869 người mắc, giảm 27 vụ và 438 người mắc so với năm

2016. Số người tử vong do ngộ độc thực phẩm là 24 người, tăng 12 người so với

năm 2 16, trong đó có 11 người ngộ độc methanol trong rượu, 1 người do độc tố

tự nhiên (cá nóc, cóc…), 3 trường hợp chưa xác định nguyên nhân. Trong 3 tháng

đầu năm 2 18, trên phạm vi cả nước đã xảy ra 20 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 502

trường hợp bị ngộ độc thực phẩm trong đó có 3 người đã tử vong.

Tại TP HCM, từ năm 2 1 đến tháng 11 2 18, trên địa bàn xảy ra 54 vụ ngộ

40

độc thực phẩm. Trong đó ngộ độc thực phẩm do thực phẩm bị nhiễm vi sinh vật là

33 vụ (chiếm 61%), do độc tố 14 vụ (chiếm 26%), do hóa chất 2 vụ (chiếm 4%),

không xác định được nguyên nhân 2 vụ (4%). Năm 2018, trên địa bàn thành phố

xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm 25 người mắc và 01 vụ việc nghi ngờ ngộ độc thực

phẩm 44 người mắc (không có trường hợp tử vong ở cả 2 vụ việc). Trong thời gian

từ ngày 1 1 2 19 đến ngày 28/5/2019, ghi nhận có 01 vụ ngộ độc thực phẩm xảy

ra trên địa bàn thành phố với 24 người mắc (không có trường hợp tử vong). So với

cùng kỳ năm 2 18, năm 2 19 số vụ ngộ độc thực phẩm không tăng và số người mắc

giảm 1 người. Tuy nhiên, những gì chúng ta biết được vẫn chỉ là phần nổi của tảng

băng trôi và hậu quả để lại là vô cùng nặng nề với trên 7 . người chết vì ung

thư năm và hơn 2 . ca mắc mới, trong đó một phần không nhỏ khởi nguồn từ

thực phẩm không an toàn.

Trước thực tế tình hình quản lý nhiều năm qua cho thấy thực phẩm bẩn đã trở

thành vấn nạn với cấp độ ngày càng tăng. Việc chia nhiệm vụ cho 3 Bộ ngành quản

lý theo phương pháp “cắt ngang”, tức nuôi trồng của ngành Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, lưu thông do ộ Công Thương quản lý và sử dụng là của ngành Y

tế, hay “cắt dọc” theo Luật An toàn thực phẩm năm 2 1 , tức Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn quản lý 9 ngành hàng, Bộ Công Thương 5 ngành hàng và ộ Y

tế 5 ngành hàng. Tất cả đều không phát huy tác dụng vì không phân định rõ Bộ nào

chịu trách nhiệm quản lý về ngành hàng đó, tuy cùng một chủ thể kinh doanh 03

nhãn hàng thuộc về trách nhiệm quản lý về ATTP của cả 3 ngành Công Thương,

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế thì một năm sẽ phải lần lượt chịu sự

thanh tra, kiểm tra của cả 3 cơ quan trên. Thực tiễn cho thấy sự thiếu hợp lý khi có

tới 3 Bộ cùng chịu trách nhiệm quản lý chất lượng bún. Cụ thể, Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn quản lý về chất lượng bột gạo, nguyên liệu làm bún. Bộ Công

Thương quản lý sản phẩm tinh bột. Còn Bộ Y tế quản lý sản phẩm bún bán trên thị

trường nếu chứa chất tinopal gây hậu quả cho người tiêu dùng. Do đó, giải pháp đặt

ra là cần một “nhạc trưởng”, loại bỏ tình trạng “một sợi bún 3 Bộ quản lý”.

Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn, Ban Quản lý ATTP TP HCM được

41

thành lập theo Quyết định số 2349 QĐ-TTg ngày 5 tháng 12 năm 2 16 của Thủ

tướng Chính phủ trên cơ sở sáp nhập bộ phận quản lý ATTP của 3 Sở tại TP HCM

gồm: Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Sở Công Thương. Cơ cấu

tổ chức của Ban Quản lý ATTP TP HCM gồm 6 phòng: Quản lý chất lượng thực

phẩm, Văn phòng, Thông tin-Giáo dục-Truyền thông, Quản lý Ngộ độc thực phẩm,

Cấp phép và Thanh tra. Riêng Thanh tra có cơ chế đặc thù riêng gồm 1 Đội Trung

tâm và 1 Đội Quản lý ATTP trên địa bàn liên quận - huyện. Đội Quản lý ATTP có

con dấu, tài khoản riêng nhằm quản lý chặt chẽ từ thành phố đến cấp cơ sở trên cơ

sở xác định công tác thanh tra, kiểm tra là một trong bốn nội dung trọng tâm của kế

hoạch tổ chức triển khai bảo đảm ATTP trên địa bàn thành phố.

Lợi thế đầu tiên mà Ban Quản lý ATTP TP HCM có được là giám sát và xử

phạt ngay khi phát hiện vi phạm. So với trước đây, để làm được điều này phải có

được sự phối hợp của 3 Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Sở

Công Thương. hi mà việc thanh tra đi về một mối, với việc không phải ngồi chờ

quyết định của thanh tra liên ngành mới có thể xử lý thì chúng ta sẽ làm kịp thời,

nhanh gọn và xử lý quyết liệt. Ban Quản lý ATTP TP HCM cũng sẽ là đơn vị chịu

trách nhiệm cuối cùng trước lãnh đạo Thành phố về vấn đề vệ sinh ATTP, tránh

được tình trạng “cha chung không ai khóc” như trước kia.

2.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC

PHẨM BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.2.1. Cơ cấu tổ chức, vị trí, chức năng của Thanh tra an toàn thực phẩm

Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố hồ Chí Minh

Để đảm bảo được yêu cầu xử lý nhanh chóng, kịp thời các hành vi vi phạm

pháp luật, nhất là các vi phạm xảy ra ngày càng nhiều trong một số lĩnh vực liên quan

đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, Luật Thanh tra năm 2 1 đã giao chức năng

thanh tra chuyên ngành ở ngành, lĩnh vực cho các Tổng cục, Cục thuộc Bộ, Chi cục

thuộc Sở thực hiện. Ngoài ra, để tránh việc thành lập các cơ quan thanh tra ở các cơ

quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, Luật Thanh tra cũng

khẳng định rõ các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

42

không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập, mà hoạt động thanh tra ở

các cơ quan này do Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra

chuyên ngành thực hiện, tức là Thủ trưởng có trách nhiệm trực tiếp xây dựng kế

hoạch thanh tra, quyết định thanh tra, thành lập Đoàn Thanh tra, cử cán bộ, công chức

thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kết luận thanh tra. Hoạt động thanh tra của các cơ quan

được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành do chính các công chức của

cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đó thực hiện.

Như vậy, căn cứ Luật Thanh tra năm 2 1 ; căn cứ Quyết định số 2349 QĐ-

TTg ngày 5 tháng 12 năm 2 16 của Thủ tướng Chính phủ về thí điểm thành lập

Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ chí Minh; căn cứ Quyết định số

6 2 17 QĐ-U ND ngày 2 tháng 2 năm 2 17 của Ủy ban nhân dân thành phố

Hồ Chí Minh về ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Quản lý An toàn

thực phẩm thành phố Hồ chí Minh, Phòng Thanh tra được thành lập theo Quyết

định số 186 QĐ- QLATTP ngày 18 tháng 6 năm 2 17 của Trưởng ban Ban Quản

lý ATTP TP HCM, theo đó phòng Thanh tra gồm 8 Đội Quản lý An toàn thực

nông sản thực phẩm (chợ Hóc Môn và chợ ình Điền). Phòng Thanh tra thuộc

phẩm liên quận - huyện và 02 Đội Quản lý An toàn thực phẩm tại chợ đầu mối

Ban Quản lý ATTP TP HCM tham mưu cho Trưởng ban thực hiện công tác QLNN

về thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng chống tham nhũng theo

đúng quy định của pháp luật. Phòng Thanh tra chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của

Trưởng ban, Phó Trưởng ban phụ trách đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về

công tác nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra của Thanh tra Thành phố, Bộ Nông nghiệp và

43

Phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công Thương.

ảng 2.1: Sơ đồ tổ chức Thanh tra an toàn thực phẩm

an Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh

Đội Quản lý ATTP số 1 Quản lý các quận: 1 - 3 - 4

Đội Quản lý ATTP số 2 Quản lý các quận: 2 - 9 - Thủ Đức

Đội Quản lý ATTP số 4 Quản lý các quận, huyện: 12 - Hóc Môn - Củ Chi

Đội Quản lý ATTP số 3 Quản lý các quận: Gò Vấp-Phú Nhuận-Bình Thạnh

Đội Quản lý ATTP số 5 Quản lý các quận: 5 - 10 - 11

PHÒNG THANH TRA

Đội Quản lý ATTP số 6 Quản lý các quận: Tân Phú - Bình Tân - Tân Bình

Đội Quản lý ATTP số 7 Quản lý các quận, huyện: 7 - Nhà Bè - Cần Giờ

Đội Quản lý ATTP số 8 Quản lý các quận, huyện: 6 - 8 - Bình Chánh

Đội Quản lý ATTP số 9 Quản lý Chợ đầu mối nông sản thực phẩm Hóc Môn

44

Đội Quản lý ATTP số 10 Quản lý Chợ đầu mối nông sản thực phẩm ình Điền

2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản

lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh

Hoạt động thanh tra ATTP tuân theo các quy định của pháp luật về thanh tra,

ATTP, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng, quy chế tổ chức và

hoạt động của Ban Quản lý ATTP TP HCM và của Phòng Thanh tra. Đảm bảo chính

xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở hoạt

động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân đang thuộc đối tượng thanh tra với

những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:

Thứ nhất, tham mưu cho Trưởng ban trong việc xây dựng và trình UBND TP

HCM ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu

nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng thuộc lĩnh vực ATTP được phân công.

Thứ hai, xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra trình Trưởng ban

phê duyệt và tổ chức thực hiện theo chương trình, kế hoạch sau khi được phê duyệt;

hướng dẫn, đôn đốc các Đội Quản lý ATTP liên quận-huyện, Chợ đầu mối thực

hiện các quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính,

giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh của người dân về ATTP.

Thứ ba, kiểm tra về việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực ATTP thuộc thẩm

quyền quản lý của Ban Quản lý ATTP TP HCM, bao gồm những hoạt động sau:

Kiểm tra thực hiện pháp luật chuyên ngành, các quy định về chuyên môn kỹ

thuật, quy tắc quản lý ngành, các lĩnh vực liên quan đến ATTP thuộc thẩm quyền

quản lý của Ban Quản lý ATTP TP HCM theo quy định của pháp luật;

Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định, xử

lý về thanh tra, kiểm tra và tổng hợp, báo cáo kết quả thanh tra, kiểm tra thuộc

phạm vi quản lý của Ban Quản lý ATTP TP HCM theo quy định của pháp luật;

Tham mưu Trưởng ban kiến nghị người có thẩm quyền xử lý việc chồng chéo

về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra, kiểm tra trong phạm vi quản lý

45

chuyên ngành của Ban Quản lý ATTP TP HCM;

Tham mưu Trưởng ban kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa

đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý, kiến nghị đình

chỉ hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua hoạt động thanh tra, kiểm tra.

Thứ tư, tham mưu Trưởng ban phối hợp với Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công Thương tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ

thanh tra, kiểm tra chuyên ngành cho công chức, viên chức thanh tra, cộng tác viên.

Thứ năm, thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh về ATTP

qua hai hoạt động:

Giúp Trưởng ban thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, phản

ánh về ATTP; kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật; thực hiện việc tiếp

công dân thường xuyên theo quy định của Luật tiếp công dân về giải quyết khiếu

nại, tố cáo, phản ánh của người dân;

Xác minh các nội dung đơn, thư khiếu nại, phản ánh về ATTP.

Thứ sáu, thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của

pháp luật về phòng chống tham nhũng.

Thứ bảy, tham mưu công tác cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch sản phẩm động vật

xuất tỉnh theo ủy quyền của Trưởng ban và có chế độ báo cáo định kỳ theo quy định.

Thứ tám, phối hợp với UBND quận - huyện và các phòng chuyên môn, nghiệp

vụ của Ban Quản lý ATTP TP HCM thực hiện công tác quản lý ATTP trên địa bàn

quận - huyện, chợ đầu mối về phối hợp xử lý ngộ độc thực phẩm, truy xuất nguồn

gốc thực phẩm, tham gia công tác hậu kiểm, công tác truyền thông theo sự phân

công của Lãnh đạo Ban Quản lý ATTP TP HCM.

Thứ chín, tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật

trong lĩnh vực được phân công phụ trách.

Thứ mười, tổng hợp thông tin, tham mưu Trưởng ban báo cáo định kỳ hoặc

đột xuất về tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định và thực hiện các

nhiệm vụ khác do Trưởng ban giao theo quy định của pháp luật.

Ngoài chức năng chung, các Đội Quản lý ATTP liên quận-huyện, Chợ đầu

46

mối còn có chức năng có chức năng tham mưu cho Trưởng phòng Thanh tra trong

việc thực hiện công tác QLNN về thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, phản ánh

về ATTP; cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch sản phẩm động vật và các công tác khác

theo đúng quy định pháp luật; chịu sự quản lý, chỉ đạo và điều hành trực tiếp của

Trưởng phòng Thanh tra và của Trưởng ban, Phó Trưởng ban phụ trách với những

nhiệm vụ cụ thể phù hợp với đặc thù quản lý vùng như sau:

Thứ nhất, tham mưu xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra về ATTP trình

Trưởng Phòng để tổng hợp trình Trưởng ban phê duyệt; phối hợp với Ban Chỉ đạo liên

ngành quận - huyện, Phòng Y tế/Phòng Kinh tế quận - huyện xây dựng và tổ chức

thực hiện việc thanh tra, kiểm tra về ATTP theo kế hoạch đã được phê duyệt; xây

dựng kế hoạch hành động hàng năm của Đội Quản lý ATTP liên quận – huyện, Chợ

đầu mối trình Trưởng phòng Thanh tra và Lãnh đạo Ban Quản lý ATTP TP HCM.

Thứ hai, thực hiện cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch sản phẩm động vật tại các

cơ sở sơ chế, chế biến, kinh doanh, vận chuyển ra khỏi địa bàn thành phố theo ủy

quyền của Trưởng ban.

Thứ ba, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật về ATTP của

cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn thuộc phạm vi QLNN của Đội Quản lý ATTP

liên quận-huyện, Chợ đầu mối theo Kế hoạch thanh tra, kiểm tra đã được Trưởng

ban phê duyệt.

Thứ tư, thanh tra, kiểm tra đột xuất khi có thông tin về hành vi vi phạm pháp

luật hoặc dấu hiệu vi phạm pháp luật về ATTP hoặc theo yêu cầu của Lãnh đạo

Phòng, Lãnh đạo Ban Quản lý ATTP TP HCM hoặc chỉ đạo của cơ quan nhà nước

cấp trên.

Thứ năm, tham mưu công tác xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của

pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP.

Thứ sáu, trực tiếp hoặc phối hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan tiến

hành kiểm tra, kịp thời ngăn chặn, xử lý khi phát hiện có hành vi vi phạm hành

chính hoặc vụ việc có dấu hiệu vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

Thứ bảy, áp dụng các biện pháp ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính

47

trong lĩnh vực ATTP theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Thứ tám, phối hợp với UBND quận – huyện và các phòng chuyên môn, nghiệp

vụ của Ban Quản lý ATTP TP HCM thực hiện tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn cá

nhân, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về ATTP trên địa bàn; phối hợp điều

tra, xử lý ngộ độc thực phẩm và các sự cố về ATTP, phối hợp triển khai Đề án truy

xuất nguồn gốc, công tác hậu kiểm trên địa bàn quản lý.

Thứ chín, thường xuyên rà soát các quy định, nắm bắt thực tiễn tình hình địa bàn

công tác, đề xuất với Trưởng phòng để tổng hợp trình Trưởng ban kiến nghị với các cơ

quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc hủy bỏ những quy định trái

với văn bản pháp luật của Nhà nước, những vướng mắc về cơ chế, chính sách, pháp

luật về ATTP cần được sửa đổi, bổ sung thông qua công tác thanh tra, kiểm tra.

Thứ mười, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về công tác thanh tra, kiểm tra

và các báo cáo khác theo yêu cầu của Phòng Thanh tra và Lãnh đạo Ban Quản lý

ATTP TP HCM;

Mười một, thực hiện công tác quản lý tài chính, tài sản, trang thiết bị làm việc,

ấn chỉ, trang thiết bị khác, lưu trữ hồ sơ theo quy định của pháp luật và theo phân

công của Phòng Thanh tra, Lãnh đạo Ban Quản lý ATTP TP HCM;

Mười hai, thực hiện các nhiệm vụ khác do Trưởng phòng Thanh tra và Lãnh

đạo Ban Quản lý ATTP TP HCM giao theo quy định pháp luật.

Nhận thấy công tác thanh tra chuyên ngành ATTP là hết sức cần thiết trong

giai đoạn này. Do đó, an Quản lý ATTP TP HCM đã quy định chi tiết về chức

năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, đơn vị trực thuộc chịu trách nhiệm chính về công

tác thanh tra trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

2.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC

PHẨM BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.3.1. Quy trình thanh tra của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý

An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh

Hoạt động thanh tra được cụ thể hóa thông qua Đoàn thanh tra. Đoàn thanh tra

48

được thành lập theo quyết định thanh tra và hoạt động theo trình tự thủ tục luật định

để đảm bảo cho cuộc thanh tra đạt được mục đích, yêu cầu đề ra thì việc tuân thủ

đầy đủ trình tự tiến hành một cuộc thanh tra là một yêu cầu bắt buộc.

Hoạt động thanh tra với tư cách là chức năng thiết yếu trong QLNN, là một

khâu trong chu trình hoạt động QLNN đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc và

trình tự theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở các quy định của Luật Thanh tra

2 1 , các văn bản hướng dẫn Luật Thanh tra cũng như xuất phát từ yêu cầu thực

tiễn công tác QLNN về ATTP, Ban Quản lý ATTP TP HCM đã xây dựng 02 quy

trình gồm: quy trình thanh tra chuyên ngành ATTP và quy trình kiểm tra ATTP.

a) Quy trình thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm

Ngày 11 tháng 9 năm 2 17, Trưởng ban Ban Quản lý ATTP TP HCM đã ký ban

hành Quy trình Thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm QTNB-01/BQLATTP-

TTra. Theo đó, Quy trình Thanh tra chuyên ngành ATTP gồm 14 bước, cụ thể:

ước 1. Xây dựng, phê duyệt kế hoạch tổng

ước 2. Chuẩn bị thanh tra

ước 3. Ra quyết định thanh tra

ước 4. Xây dựng, phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra

ước 5. Công bố quyết định thanh tra

ước 6. Kiểm tra, xác minh tại cơ sở

ước 7. Báo cáo tiến độ/Tờ trình nội dung thanh tra; Đề xuất kết thúc thanh tra

ước 8. Kết thúc thanh tra

ước 9. Báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra

ước 10. Xử lý sai phạm

ước 11. Dự thảo kết luận thanh tra

ước 12. Kết luận thanh tra

ước 13. Tổng kết hoạt động của Đoàn thanh tra

ước 14. Lập, bàn giao, quản lý, sử dụng hồ sơ thanh tra

b) Quy trình kiểm tra an toàn thực phẩm

Căn cứ Thông tư số 48/2015/TT- YT ngày 1 tháng 12 năm 2 15 của Bộ Y

49

tế quy định hoạt động kiểm tra an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh thực

phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế, ngày 1 tháng 1 năm 2 17, Trưởng ban

Ban Quản lý ATTP TP HCM đã ký ban hành Quy trình kiểm tra ATTP QTNB-

02/BQLATTP-TTra. Theo đó, Quy trình kiểm tra ATTP gồm 9 bước, cụ thể:

ước 1: Xây dựng, ban hành kế hoạch kiểm tra

ước 2: Ban hành quyết định kiểm tra

ước 3: Thông báo kiểm tra

ước 4: Công bố quyết định kiểm tra

ước 5: Kiểm tra tại cơ sở

ước 6: Lập tờ trình

ước 7: Báo cáo, xử lý vi phạm hoặc chuyển sang cơ quan điều tra

ước 8. Tổng hợp báo cáo

ước 9: Lập, bàn giao, quản lý, sử dụng hồ sơ kiểm tra

2.3.2. Hình thức thanh tra của thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý

An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh

Trong Luật Thanh tra năm 2 4 quy định hai hình thức thanh tra là thanh tra

theo chương trình, kế hoạch và thanh tra đột xuất, đồng thời có ghi nhận hoạt động

thanh tra của thanh tra viên chuyên ngành khi thanh tra độc lập. Tuy nhiên việc

thanh tra độc lập của thanh tra viên chuyên ngành chưa được quy định rõ. Đến Luật

Thanh tra năm 2 1 bên cạnh việc tiếp tục ghi nhận các hình thức thanh tra theo kế

hoạch, thanh tra đột xuất, thanh tra độc lập còn bổ sung thêm hình thức thanh tra

mới là thanh tra thường xuyên.

Thanh tra theo kế hoạch là hoạt động thanh tra được tiến hành căn cứ trên cơ

sở kế hoạch thanh tra đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Hằng

năm Thanh tra an Quản lý ATTP TP HCM căn cứ vào định hướng chương trình

của Thanh tra thành phố, nhiệm vụ chính trị, yêu cầu công tác quản lý của thành

phố, từ đó xây dựng kế hoạch thanh tra trình UBND thành phố phê duyệt.

Thanh tra đột xuất được tiến hành khi có yêu cầu để giải quyết kịp thời các vi

phạm pháp luật về ATTP. Đây là đòi hỏi tất yếu của thực tiễn, vì vậy Thanh tra Ban

50

Quản lý ATTP TP HCM không chỉ chủ động tổ chức tốt các cuộc thanh tra theo kế

hoạch mà còn kịp thời triển khai các cuộc thanh tra theo yêu cầu đột xuất. Có như

vậy thì mới nhanh chóng phát hiện để ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh các

hành vi vi phạm.

Thanh tra thường xuyên được tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ

quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Hình thức thanh tra

thường xuyên của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

chưa được quy định cụ thể.

Thanh tra độc lập được tiến hành trên cơ sở Kế hoạch thanh tra, Thủ trưởng cơ

quan ban hành Quyết định phân công Thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên

ngành thuộc phạm vi quản lý tiến hành thanh tra chuyên ngành độc lập.

Trong quá trình thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về ATTP, hàng

năm Thanh tra an Quản lý ATTP TP HCM đã tiến hành hàng chục cuộc thanh tra

trong lĩnh vực ATTP dưới các hình thức khác nhau. Hoạt động thanh tra theo

chương trình, kế hoạch luôn được tổ chức bảo đảm sự chủ động, bám sát định

hướng chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm. Việc thanh tra đột xuất ngày

càng được chú trọng thực hiện, phục vụ kịp thời yêu cầu của công tác QLNN, góp

phần bảo đảm việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn -

kỹ thuật, quy tắc quản lý trong lĩnh vực được phân công phụ trách.

2.3.3. Các hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An

toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh

a) Hoạt động thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm

Hoạt động thanh tra với tư cách là chức năng thiết yếu trong quản lý nhà nước,

là một khâu trong chu trình hoạt động quản lý nhà nước đòi hỏi phải tuân thủ những

nguyên tắc và trình tự theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở các quy định của

Luật Thanh tra và thực tiễn, Từ những ngày đàu hoạt động, Phòng Thanh tra ưu tiên

áp dụng quy trình kiểm tra nhằm phù hợp với thực tiễn kinh doanh đa dạng về

ngành nghề và quy mô của các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thành phố.

Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, Ban Quản lý ATTP TP HCM trực

51

tiếp thực hiện quyền hành chính nhằm kịp thời phát hiện ra các sai phạm trong việc

tuân thủ pháp luật lĩnh vực ATTP. Đó chính là hoạt động kiểm tra, xem xét, đánh

giá của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý.

Để thực hiện tốt chức năng QLNN, các chủ thể thực thi nhiệm vụ thanh tra phải

dựa trên các quy định của pháp luật chuyên ngành để có cơ sở đánh giá mức độ tuân

thủ của đối tượng quản lý.

Điều 67 Luật An toàn thực phẩm đã quy định rõ những nội dung cần phải kiểm

tra khi tiến hành thanh tra, kiểm tra tại cơ sở, cụ thể như sau:

Thứ nhất, kiểm tra việc thực hiện các quy chuẩn kỹ thuật, quy định về ATTP

đối với sản xuất, kinh doanh thực phẩm và sản phẩm thực phẩm do cơ quan QLNN

có thẩm quyền ban hành.

Theo khoản 2, Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật thì “Quy chuẩn

kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà

sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong

hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con

người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia,

quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác.

Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng

văn bản để bắt buộc áp dụng”.

Như vậy, Quy chuẩn kỹ thuật chính là thước đo chất lượng. Trong quá trình

thanh tra, kiểm tra, các công chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra sẽ căn cứ vào các

quy chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan có thẩm quyền ban hành để làm căn cứ

đánh giá tính phù hợp của các sản phẩm thực phẩm, trong trường hợp có dấu hiệu

nghi ngờ về sự không phù hợp thành viên Đoàn thanh tra sẽ tiến hành lấy mẫu gửi

Trung tâm kiểm nghiệm đủ năng lực để đánh giá toàn diện, khách quan, khoa học.

Trên cơ sở kết quả kiểm nghiệm, Đoàn thanh tra sẽ kiến nghị xử lý theo quy định

đối với trường hợp kết quả kiểm nghiệm không đạt theo quy chuẩn kỹ thuật.

Thứ hai, kiểm tra việc thực hiện các tiêu chuẩn có liên quan đến ATTP do tổ

chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng đối với sản xuất, kinh doanh thực phẩm và

52

sản phẩm thực phẩm.

Theo Thông tư số 21/2007/TT- HCN ngày 28 tháng 9 năm 2 7 của Bộ

Khoa học và Công nghệ: “Tiêu chuẩn cơ sở là tiêu chuẩn do tổ chức kinh tế, tổ chức

xã hội - nghề nghiệp, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp và các cơ quan, tổ chức

khác công bố để áp dụng trong các hoạt động của tổ chức đó”; “Tiêu chuẩn cơ sở có

thể được xây dựng dựa trên các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ, tiến bộ

kỹ thuật, kinh nghiệm, nhu cầu và khả năng thực tiễn của cơ sở. Các tiêu chuẩn

quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, khu vực hoặc nước ngoài tương ứng được khuyến

khích sử dụng để xây dựng hoặc chấp nhận thành tiêu chuẩn cơ sở”.

Bên cạnh Quy chuẩn kỹ thuật, Tiêu chuẩn cơ sở cũng được xem là công cụ để

các nhà sản xuất, kinh doanh chủ động kiểm soát chất lượng sản phẩm dựa trên tính

tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, Quy chuẩn kỹ thuật và phù hợp với

trình độ tiến bộ khoa học công nghệ. Tiêu chuẩn cơ sở cung cấp phương tiện để tạo

ra sản phẩm chất lượng, đảm bảo rằng mọi thứ, từ nguyên liệu đến thành phẩm đạt

chất lượng cao nhất. Các vấn đề về lỗi, về vi phạm từ chất liệu kém chất lượng đều

bị loại trừ. Với Tiêu chuẩn cơ sở, doanh nghiệp và nhà nước cùng đồng hành để bảo

vệ lợi ích người tiêu dùng. Kiểm tra việc thực hiện các tiêu chuẩn liên quan đến

ATTP, cơ quan quản lý có thể đánh giá mức độ tuân thủ để chấn chỉnh kịp thời, từ

đó định hướng phát triển.

Thứ ba, kiểm tra hoạt động quảng cáo, ghi nhãn đối với thực phẩm thuộc

phạm vi quản lý.

* Quy định về quảng cáo thực phẩm

Việc quảng cáo thực phẩm được thực hiện theo các quy định ở Luật An toàn

thực phẩm năm 2 1 , Luật Quảng cáo năm 2 12 và các văn bản hướng dẫn thi hành

hai luật này như: Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm; Nghị định số

181 2 13 NĐ-CP ngày 14/01/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số

điều của Luật Quảng cáo; Thông tư số 40/2012/TT-BCT ngày 21/12/2012 của Bộ

Công Thương quy định cấp giấy xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm thuộc

53

trách nhiệm quản lý của Bộ Công Thương; Thông tư số 09/2015/TT-BYT ngày

25/05/2015 của Bộ Y tế quy định về xác nhận nội dung quảng cáo đối với sản

phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Y tế. Theo đó, hoạt

động quảng cáo thực phẩm phải tuân thủ các quy định như sau:

- Thực hiện đúng theo pháp luật về quảng cáo.

- Thực hiện xác nhận nội dung quảng cáo trước khi đăng ký quảng cáo.

- Nội dung quảng cáo phải bảo đảm chính xác, trung thực đối với các nội dung

quan trọng được pháp luật quy định.

- Về thẩm định nội dung quảng cáo: Thẩm quyền thẩm định và cấp Giấy xác

nhận nội dung quảng cáo thuộc về Bộ Y tế, Bộ Công Thương và ộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn theo loại thực phẩm được phân công quản lý.

* Quy định về ghi nhãn thực phẩm

Việc ghi nhãn thực phẩm được thực hiện theo quy định của Luật An toàn thực

phẩm năm 2 1 , Nghị định số 15 2 18 NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm, Nghị định số

43 2 17 NĐ-CP ngày 14/04/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa. Theo đó, các tổ

chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa tại Việt Nam hoặc nhập khẩu hàng hóa phải ghi

nhãn cho hàng hóa, trừ một số sản phẩm hàng hóa được pháp luật quy định không

phải ghi nhãn.

Trong đó, nhãn hàng hóa bắt buộc phải thể hiện các nội dung gồm: Tên hàng

hóa; Tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa; Xuất xứ

hàng hóa và các nội dung khác theo tính chất của mỗi loại hàng hóa. Với hàng hóa

nhập khẩu vào Việt Nam mà trên nhãn chưa thể hiện hoặc thể hiện chưa đủ những

nội dung bắt buộc bằng Tiếng Việt thì phải có nhãn phụ thể hiện những nội dung

bắt buộc bằng Tiếng Việt và giữ nguyên nhãn gốc của hàng hóa. Nhãn phụ cũng

được sử dụng với hàng hóa không xuất khẩu được hoặc bị trả lại, đưa ra lưu thông

trên thị trường, đồng thời, phải có dòng chữ in đậm “Được sản xuất tại Việt Nam”.

Đối với các thực phẩm bao gói sẵn, ngoài tuân thủ các quy định về ghi nhãn

54

hàng hóa, nội dung bắt buộc ghi nhãn phải tuân thủ các quy định sau:

- Thông tin trên nhãn phải đúng bản chất sản phẩm, trung thực, chính xác, rõ

ràng, không gây hiểu lầm cho người sử dụng;

- Đối với thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng,

trên nhãn phải thể hiện được các nội dung chính sau: công bố thành phần dinh

dưỡng; hoạt chất tác dụng sinh học; tác dụng đối với sức khỏe; chỉ rõ đối tượng,

liều dùng, cách dùng, cảnh báo nếu có;

- Đối với thực phẩm dinh dưỡng y học, thực phẩm bổ sung vitamin, khoáng

chất, chất vi lượng không nhằm phổ cập cộng đồng như thức ăn công thức dành cho

bà mẹ mang thai, trẻ em dưới 36 tháng tuổi và thức ăn qua ống thông cho người

bệnh phải công bố mức đáp ứng so với nhu cầu dinh dưỡng, liều lượng sử dụng của

từng đối tượng và hướng dẫn của bác sĩ;

- Thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, phụ gia

thực phẩm, một số thực phẩm biến đổi gen (thuộc đối tượng phải ghi nhãn theo quy

định của pháp luật về ghi nhãn đối với thực phẩm biến đổi gen) phải ghi rõ thành

phần và hàm lượng có trong thực phẩm;

- Khi lấy thành phần nào đó trong sản phẩm làm tên sản phẩm thì phải ghi rõ

hàm lượng thành phần đó bên cạnh tên sản phẩm;

- Tên sản phẩm phải là cỡ chữ lớn nhất, rõ nhất và tối thiểu gấp 3 lần cỡ chữ

khác trên nhãn;

- Khi chuyển dịch nhãn phải bảo đảm không sai lệch nội dung so với nhãn gốc.

Theo quy định của pháp luật thì “Hạn sử dụng an toàn” bắt buộc phải ghi

“Hạn sử dụng”, hoặc “Sử dụng đến ngày” đối với thực phẩm chức năng, thực phẩm

bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thực phẩm dinh dưỡng y học, thực phẩm tăng

cường vi chất và những thực phẩm dễ có khả năng bị hư hỏng do vi sinh vật.

Hạn sử dụng an toàn đối với các thực phẩm khác có thể ghi “Sử dụng tốt nhất

trước ngày” phù hợp với loại sản phẩm thực phẩm. Đối với thực phẩm ghi “Hạn sử

dụng” hoặc “Sử dụng đến ngày” thì không được phép bán ra thị trường khi đã quá

thời hạn này. Đối với thực phẩm ghi “Sử dụng tốt nhất trước ngày” thì sau thời

55

điểm này thực phẩm vẫn được phép bán trên thị trường nếu nhà sản xuất chứng

minh được thực phẩm đó an toàn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải ghi

hạn sử dụng rõ ràng theo một trong hai hình thức “Hạn sử dụng”, hoặc “Sử dụng

đến ngày”.

Chỉ nhà sản xuất thực phẩm mới được kéo dài hạn sử dụng cho sản phẩm thực

phẩm của mình và hạn sử dụng kéo dài tối đa chỉ bằng hạn sử dụng đã quy định lần

đầu tiên.

Ngoài ra, đối với thực phẩm chức năng, phụ gia thực phẩm, thực phẩm đã qua

chiếu xạ, thực phẩm biến đổi gen, ngoài việc phải tuân thủ các quy định trên còn

phải tuân thủ các quy định đối với việc ghi nhãn cho từng loại thực phẩm cụ thể tại

một số thông tư sau: Thông tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT

ngày 27/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

Bộ Công Thương hướng dẫn ghi nhãn hàng hóa đối với thực phẩm, phụ gia thực

phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm bao gói sẵn; Thông tư liên tịch số

45/2015/TTLT-BNNPTNT- HCN ngày 23 11 2 15 hướng dẫn ghi nhãn đối với

thực phẩm biến đổi gen bao gói sẵn; Thông tư số 43/2014/TT-BYT ngày

24/11/2014 của Bộ Y tế quy định về quản lý thực phẩm chức năng.

Thứ tư, hoạt động chứng nhận hợp quy, kiểm nghiệm ATTP.

Theo Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật chứng nhận hợp quy là việc xác

nhận đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với quy

chuẩn kỹ thuật tương ứng.

Ngày 2 tháng 2 năm 2 18, Nghị định số 15 2 18 NĐ-CP của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm có hiêu lực thi hành

dẫn đến sự thay đổi trong hoạt động chứng nhận hợp quy/chứng nhận phù hợp quy

định ATTP của các sản phẩm hàng hóa. Theo đó, xóa cơ chế xin - cho trong việc cấp

Giấy chứng nhận công bố hợp quy/chứng nhận phù hợp quy định ATTP bằng hình

thưc công bố/tự công bố dựa vào công dụng của sản phẩm và doanh nghiệp tự chịu

trách nhiệm trên cơ sở các quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Nghị định số 15 2 18 NĐ-

CP cho phép doanh nghiệp được tự công bố với một số sản phẩm và chỉ yêu cầu các

56

doanh nghiệp phải đăng ký bản công bố sản phẩm với thực phẩm bảo vệ sức khỏe,

thực phẩm dinh dưỡng y học, thực phẩm dùng cho chế độ ăn đặc biệt, sản phẩm dùng

cho trẻ đến 36 tháng tuổi, phụ gia thực phẩm có công dụng mới, phụ gia thực phẩm

không thuộc danh mục phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm hoặc không đúng

đối tượng sử dụng do Bộ Y tế quy định.

Thành phần quan trọng của hồ sơ tự công bố chính là phiếu kết quả kiểm

nghiệm ATTP của sản phẩm trong thời hạn 12 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ được

cấp bởi phòng kiểm nghiệm được chỉ định hoặc phòng kiểm nghiệm được công

nhận phù hợp ISO 17025 gồm các chỉ tiêu an toàn do Bộ Y tế ban hành theo nguyên

tắc quản lý rủi ro phù hợp với quy định của quốc tế hoặc các chỉ tiêu an toàn theo

các quy chuẩn, tiêu chuẩn tương ứng do tổ chức, cá nhân công bố trong trường hợp

chưa có quy định của Bộ Y tế (bản chính hoặc bản sao chứng thực).

Tính đến thời điểm hiện tại, Ban Quản lý ATTP TP HCM tiếp nhận khoảng hơn

41.651 hồ sơ tự công bố sản phẩm, 178 hồ sơ đăng ký công bố. Đây là con số rất lớn

nên công tác hậu kiểm được tăng cường hơn với hình thức kiểm tra thường xuyên và

đột xuất với sự phối hợp giữa Phòng Thanh tra và Phòng Cấp phép. Công tác hậu

kiểm chú trọng kiểm tra việc tuân thủ các quy định về Quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn

cơ sở và các kết quả kiểm nghiệm định kỳ để đánh giá sự phù hợp của sản phẩm so

với chuẩn pháp luật quy định. Vì vậy mặc dù tự công bố, nhưng khi hậu kiểm phát

hiện sai phạm, Thanh tra Ban Quản lý ATTP TP HCM vẫn xử phạt, yêu cầu ngưng

sản xuất để cho thấy quy định dù thông thoáng nhưng không buông lỏng.

Thứ năm, kiểm tra việc thực hiện các quy định khác của pháp luật về ATTP,

cụ thể:

* Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm

- Hồ sơ hành chính, pháp lý của cơ sở: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,

Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP, Giấy xác nhận kiến thức về ATTP.

Giấy xác nhận đủ sức khỏe của chủ cơ sở và của người trực tiếp sản xuất, kinh

doanh thực phẩm; Giấy chứng nhận cơ sở đạt ISO, HACCP (Hệ thống phân tích

mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn) và tương đương;

57

- Hồ sơ đối với bản công bố/tự công bố, Giấy xác nhận nội dung quảng cáo;

- Hồ sơ, tài liệu và chấp hành của chủ cơ sở về điều kiện cơ sở, trang thiết bị

dụng cụ; người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm; quy trình sản xuất, chế

biến; vận chuyển và bảo quản thực phẩm; nguồn gốc, xuất xứ, hạn sử dụng của

nguyên liệu, phụ gia và thành phẩm thực phẩm; các quy định khác có liên quan đến

cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm và sản phẩm thực phẩm;

- Nội dung ghi nhãn sản phẩm thực phẩm:

- Việc thực hiện kiểm nghiệm định kỳ sản phẩm;

- Việc thực hiện các quy định về quảng cáo thực phẩm (đối với cơ sở có quảng

cáo thực phẩm);

- Kiểm tra các giấy tờ liên quan đến việc kiểm tra nhà nước về ATTP đối với

thực phẩm nhập khẩu (đối với cơ sở nhập khẩu, kinh doanh thực phẩm nhập khẩu);

- Lấy mẫu kiểm nghiệm trong trường hợp cần thiết. Việc lấy mẫu kiểm

nghiệm thực hiện theo quy định tại Thông tư số 14/2011/TT-BYT ngày 01 tháng 4

năm 2 11 của Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn chung về lấy mẫu thực phẩm phục vụ

thanh tra, kiểm tra chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.

* Đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống

- Kiểm tra hồ sơ hành chính, pháp lý của cơ sở: Giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh, Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP (đối với cơ sở thuộc diện cấp

giấy), Giấy xác nhận kiến thức về ATTP, Giấy xác nhận đủ sức khỏe của chủ cơ sở

và của người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm;

- Kiểm tra hồ sơ, tài liệu và chấp hành của chủ cơ sở về điều kiện cơ sở, trang

thiết bị dụng cụ; người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm; quy trình sản xuất,

chế biến; thực hành vệ sinh ATTP của nhân viên; vận chuyển và bảo quản thực

phẩm; nguồn nước; nguồn gốc xuất xứ đối với thực phẩm và nguyên liệu dùng để

sản xuất, chế biến thực phẩm; lưu mẫu; các quy định khác có liên quan;

- Lấy mẫu thức ăn, nguyên liệu thực phẩm để kiểm nghiệm trong trường hợp

cần thiết.

Tính đến 9/2019, Thanh tra Ban Quản lý ATTP đã ban hành 33 ế hoạch

58

Thanh, kiểm tra trên địa bàn thành phố bên cạnh đó tiến hành kiểm tra đột xuất đối

với 7 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có dấu hiệu vi phạm pháp luật về

ATTP.

b) Hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản

ánh về an toàn thực phẩm

Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những

nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu trong hoạt động thanh tra của Ban Quản lý ATTP

TP HCM. Hoạt động này của Ban Quản lý ATTP TP HCM được thực hiện nghiêm

túc theo Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, giải

quyết tố cáo; Luật Tiếp công dân năm 2 13; Luật Khiếu nại năm 2 11; Luật Tố

cáo năm 2 18; Quyết định 1329 2 18 QĐ-BQLATTP ngày 14/12/2018 của Ban

Quản lý ATTP TP HCM ban hành Quy chế Tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh; Quyết định số 79 QĐ-BQLATTP ngày 22/01/2019 về

việc ban hành Quy trình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,

phản ánh. Thực hiện phân loại, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, xử lý đơn khiếu nại,

đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-CP

ngày 31/10/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại,

đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh và các văn bản quy phạm pháp luật có liên

quan; xử lý kịp thời các vụ việc có tính chất phức tạp; các vụ việc có liên quan đến

vấn đề ATTP trên địa bàn TP HCM.

Trong hoạt động QLNN nói chung và hoạt động quản lý hành chính nói riêng,

để đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, quyền con người, quyền công

dân thì hoạt động tiếp công dân là hoạt động thường xuyên, có ý nghĩa và vai trò

quan trọng. Do đó, an Quản lý ATTP TP HCM đã nhanh chóng bố trí nhân sự, địa

điểm tiếp công dân tại vị trí thuận lợi, đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất của

địa điểm tiếp công dân theo quy định.

Để kịp thời xử lý phản ánh của người dân về thực phẩm bẩn, Phòng Thanh tra

là bộ phận thường trực tiếp công dân, trực đường dây nóng 24 24, ngoài ra định kỳ

59

hàng tháng đều có lịch tiếp công dân của lãnh đạo Phòng và chuyên viên để chủ

động theo dõi tình hình, tham mưu kịp thời cho Trưởng ban các biện pháp nhằm

nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này.

ảng 2.2. ảng tổng hợp tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,

phản ánh của Phòng Thanh tra an Quản lý ATTP giai đoạn 2017 - 2019

TÌNH HÌNH KHIẾU NẠI, TỐ C O, KIẾN NGHỊ, PHẢN NH VỀ ATTP

Năm 2017 2018 Tháng 6/2019

Tổng số đơn 02 07 03

Số cuộc gọi phản ánh 51 57 30 qua đường dây nóng

(Nguồn từ báo cáo năm của Ban Quản lý ATTP TP HCM)

Từ số liệu trên cho thấy trong thời gian từ 2 17 đến 6/2019, số lượng đơn thư

khiếu nại phản ánh, kiến nghị tại Ban Quản lý ATTP TP HCM tăng từ 02 lên 07

đơn năm 2 17, sang đến tháng 6 2 19 là 3 đơn. Đồng thời tiếp nhận và xử lý tổng

số 138 phản ánh.

Quy trình xử lý cho thấy, ngay sau khi nhận được các thông tin phản ánh, lãnh

đạo phòng Thanh tra khẩn trương chỉ đạo chuyển thông tin phản ánh về Đội Quản

lý ATTP liên quận/huyện nơi có cơ sở bị phản ánh liên quan đến thông tin vừa tiếp

nhận để kiểm tra, xác minh và xử lý kịp thời nhằm ngăn chặn thực phẩm bẩn lưu

thông ra thị trường. Thông qua đường dây nóng, Ban Quản lý ATTP TP HCM đã

tiến hành kiểm tra, xử lý vi phạm những cơ sở không đảm bảo ATTP trong sản

xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, qua đó nắm bắt được thực trạng và có những

động thái tích cực nhằm cải thiện tình trạng thực phẩm bẩn trên địa bàn thành phố.

So sánh với tình trạng thực phẩm bẩn hiện nay cho thấy con số phản ánh như

trên chưa phản ánh được bức tranh toàn cảnh thực phẩm bẩn trên địa bàn thành phố

hiện nay và vấn đề đặt ra đó là công tác “truyền thông trách nhiệm”, “truyền thông

nguy cơ” chưa thật sự hiệu quả và yêu cầu đặt ra đó là xây dựng đội ngũ thực hiện

công tác truyền thông chất lượng hơn hiện nay để thay đổi ý thức trách nhiệm đối

60

với sức khỏe cộng đồng.

ATTP là một vấn đề “nóng” và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, do đó việc tham gia

tích cực của đông đảo người dân là một tín hiệu đáng mừng cần phải phát huy trong

thời gian tới. Việc thông tin về thực phẩm bẩn trên địa bàn thành phố giúp cho hoạt

động của thanh tra nói riêng cũng như hoạt động QLNN về ATTP nói chung đạt

được hiệu quả tối ưu.

c) Hoạt động cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch sản phẩm động vật

Kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật là việc kiểm tra, áp dụng các biện

pháp kỹ thuật để phát hiện, kiểm soát, ngăn chặn đối tượng kiểm dịch động vật, sản

phẩm động vật. Nội dung kiểm dịch đối với động vật thực hiện như sau:

- Kiểm tra lâm sàng;

- Lấy mẫu xét nghiệm bệnh;

- Niêm phong, kẹp chì phương tiện chứa đựng, vận chuyển động vật;

- Hướng dẫn, giám sát chủ hàng thực hiện tiêu độc khử trùng phương tiện

chứa đựng, vận chuyển động vật;

- Cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch;

- Thông báo cho cơ quan kiểm dịch động vật nội địa nơi đến qua thư điện tử

hoặc fax các thông tin sau đây: Số Giấy chứng nhận kiểm dịch, ngày cấp, số lượng

hàng, mục đích sử dụng, biển kiểm soát phương tiện vận chuyển. Thực hiện thông

báo ngay sau khi cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch đối với động vật vận chuyển để

làm giống, tổng hợp thông báo theo tuần đối với động vật vận chuyển để giết mổ;

- Trường hợp động vật không bảo đảm các yêu cầu vệ sinh thú y, cơ quan

kiểm dịch động vật không cấp Giấy chứng nhận kiểm dịch và tiến hành xử lý theo

quy định.

Hiện nay, trên địa bàn thành phố có 196 tổ chức, cá nhân đăng ký kiểm dịch

sản phẩm động vật ra khỏi địa bàn thành phố tại 13 cơ sở. Trong đó phân loại hình

cơ sở gồm:

- Cơ sở kinh doanh thịt tươi: 25 cơ sở (chiếm tỷ lệ 19,2%).

- Cơ sở chế biến SPĐV: 61 cơ sở (chiếm tỷ lệ 46,9%).

61

- Cơ sở kinh doanh SPĐV đông lạnh, không nhập khẩu: 9 cơ sở (tỉ lệ 6,9%).

- Cơ sở kinh doanh SPĐV đông lạnh nhập khẩu: 35 cơ sở (tỷ lệ 26,9%).

Trong giai đoạn 2017-2 19, các Đội Quản lý ATTP thực hiện công tác cấp

Giấy chứng nhận kiểm dịch sản phẩm động vật 115.284 bản chính, 110.594 bản

sao, tổng khối lượng 121.208.451 kg.

Công tác cấp giấy chứng nhận kiểm dịch sản phẩm động vật xuất tỉnh được

xem là hoạt động “mở rộng” của thanh tra ATTP khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của thanh tra chuyên ngành theo quy định của Luật Thanh tra 2010 xuất phát từ đặc

thù lĩnh vực trọng tâm. Qua công tác này, Thanh tra Ban Quản lý ATTP kiểm soát

toàn diện vấn đề ATTP trên địa bàn thành phố, giúp ngăn chặn các sản phẩm động

vật nguy hại lưu thông ra thị trường góp phần thực hiện mục tiêu “xây thực phẩm

sạch, chống thực phẩm bẩn”.

d) Hoạt động phòng, chống tham nhũng

Phòng Thanh tra Ban Quản lý ATTP TP HCM chú trọng thực hiện công tác

phòng chống tham nhũng theo quy định của Luật Phòng chống tham nhũng năm

2 13, Thông tư 8 2 13 TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ

hướng dẫn thi hành các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập và các văn bản liên

quan. Công tác phòng, chống tham nhũng được chủ động thực hiện với những

nhiệm vụ cụ thể như sau:

- Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chủ

trương, chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng, nghiêm túc triển khai thực

hiện các văn bản chỉ đạo, điều hành của Ban Quản lý ATTP TP HCM về công tác

phòng, chống tham nhũng;

- Tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong cán

bộ, đảng viên, công chức, viên chức làm nhiệm vụ thanh tra gắn với đấu tranh

phòng ngừa, ngăn chặn lợi ích nhóm tiêu cực để trục lợi trong quá trình thực thi

công vụ. Trong đó, chú trọng thực hiện quy định tất cả công chức, viên chức thuộc

phòng Thanh tra phải kê khai trung thực, đầy đủ, chính xác tài sản của bản thân và

62

của gia đình mình và sau đó phải thực hiện kê khai thường xuyên hằng năm; cuối

nhiệm kỳ công tác hoặc trước khi được điều động, điều chuyển, luân chuyển công

tác mới, bảo đảm minh bạch các nguồn thu nhập của bản thân và gia đình.

- Thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng như: công khai, minh bạch

trong đào tạo, quy hoạch, khen thưởng, kỷ luật cán bộ theo đúng quy định của pháp

luật; thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí

công tác của cán bộ, công chức, viên chức thực hiện công khai, minh bạch; xây

dựng chế độ, định mức, tiêu chuẩn về tài chính và quản lý, sử dụng tài sản công.

2.4. Đ NH GI VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA

AN TOÀN THỰC PHẨM BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.4.1. Kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân

- Về tổ chức:

Việc xây dựng định hướng chương trình thanh tra, kế hoạch công tác hàng

năm của Thanh tra Ban Quản lý ATTP TP HCM đã từng bước đi vào ổn định, bám

sát yêu cầu công tác quản lý, thể hiện ở một số nội dung như việc xây dựng định

hướng chương trình thanh tra, kế hoạch thanh tra hàng năm đã chủ động và đi vào

nền nếp, ngày càng bám sát yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan quản lý; đã hạn

chế sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra; đảm bảo thực hiện

tốt hơn chức năng QLNN trong lĩnh vực ATTP.

Hệ thống tổ chức nhân sự thực hiện công tác thanh tra của Ban Quản lý ATTP

TP HCM ngày càng được kiện toàn về trình độ chuyên môn theo quy định (tăng

cường số cán bộ chuyên trách và có chuyên môn về thực phẩm và Luật). Hiện nay

có tổng 220 nhân sự được giao nhiệm vụ thực hiện thanh tra chuyên ngành ATTP,

trong đó 8 nhân sự có trình độ thạc sĩ, 171 nhân sự có trình độ đại học, 47 nhân sự

trình độ trung cấp, 5 nhân sự thuộc trình độ khác. Chất lượng của đội ngũ thực hiện

công tác thanh tra ngày càng được chú trọng, nhờ vậy hoạt động thanh tra ngày

càng đi vào nề nếp và thực hiện trên nhiều lĩnh vực. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ

làm công tác thanh tra của Ban Quản lý ATTP TP HCM có tinh thần trách nhiệm

63

cao, có trình độ, tư cách đạo đức để đảm nhận công việc được phân công phụ trách.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện và điều kiện khác cho hoạt động

thanh tra được nâng lên thể hiện qua việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo

đủ điều kiện để Đoàn thanh tra hoàn thành nhiệm vụ. Việc ứng dụng công nghệ thông

tin ngày càng được chú trọng, năm 2 18 an Quản lý ATTP TP HCM đã trang bị hệ

thống máy tính mới cho các Đội Quản lý An toàn thực phẩm thuộc Phòng thanh tra

để đảm bảo hoạt động thanh tra được tiến hành nhanh chóng và hiệu quả.

Nhìn lại quá trình kiện toàn về tổ chức, hoạt động thanh tra ATTP cho thấy,

Nhà nước ta và ngành thanh tra ATTP luôn cố gắng tìm tòi, đổi mới tổ chức, hoạt

động thanh tra sao cho phát huy có hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, góp phần

nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác QLNN trên nguyên tắc thanh tra gắn liền với

quản lý, thanh tra là để phục vụ cho công tác quản lý.

- Về hoạt động

Ban Quản lý thành lập 12 đoàn thanh, kiểm tra an toàn thực phẩm, trong đó có

2 đoàn thanh, kiểm tra thường trực tại Ban Quản lý, 1 đoàn thanh, kiểm tra trên

địa bàn và chợ đầu mối được thực hiện bởi các Đội quản lý An toàn thực phẩm liên

quận – huyện và Chợ đầu mối. Các Đội quản lý An toàn thực phẩm liên quận –

huyện vừa thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm dịch sản phẩm động vật

xuất tỉnh vừa phối hợp thực hiện công tác truy xuất nguồn gốc thịt heo và triển khai

thực hiện đề án truy xuất nguồn gốc thịt gà, trứng gia cầm, phối hợp với địa phương

trong công tác đảm bảo an toàn thực phẩm theo đúng phân cấp, đồng thời hỗ trợ kịp

thời cho quận – huyện ứng phó với các trường hợp nghi ngộ độc thực phẩm xảy ra

trên địa bàn lẫn công tác thông tin, giáo dục và truyền thông, giám sát lấy mẫu.

Các Đoàn kiểm tra đã tiến hành kiểm tra 9. 1 cơ sở, phát hiện vi phạm 1.451

cơ sở (chiếm tỷ lệ 16,1 %), tiến hành xử phạt vi phạm hành chính 1.42 cơ sở

(chiếm 97,9%) với số tiền phạt 18.3 3.598.811 đồng (trong đó phạt cảnh cáo 6 cơ

sở, chiếm 0,4%), chuyển cơ quan khác tiếp tục xử lý: 3 cơ sở, không xử phạt 8 cơ

sở (do không còn hoạt động), đang tiếp tục xử lý đối với các trường hợp còn lại.

64

Trung bình mỗi trường hợp vi phạm xử phạt số tiến 12.889.858 đồng/vụ.

Năm 2 17, an Quản lý An toàn thực phẩm đã thực hiện kiểm tra an toàn thực

phẩm đối với 582 cơ sở, phát hiện vi phạm 114 cơ sở (chiếm tỷ lệ 19,6%), ban hành

114 quyết đinh xử phạt với số tiền phạt 1.717. 6 . đồng.

Trong năm 2 18, an Quản lý đã thực hiện kiểm tra an toàn thực phẩm đối

với 4.372 cơ sở, phát hiện vi phạm 845 cơ sở (chiếm tỷ lệ 19,3%), ban hành 837

quyết định xử phạt với số tiền phạt 9.849.546. đồng. Như vậy năm 2 18, số

lượng cơ sở được thanh tra, kiểm tra tăng gấp 7,5 lần so với năm 2 17 (582 cơ sở).

Tỉ lệ cơ sở vi phạm năm 2 18 là 19% giảm so với năm 2 17 là 2 % (Số cơ sở vi

phạm năm 2 17 là 114 cơ sở). Qua đó cho thấy công tác giáo dục, truyền thông và

thanh kiểm tra, xử lý nghiêm các cơ sở vi phạm bước đầu đã đạt hiệu quả, ý thức

chấp hành của các cơ sở ngày được nâng lên đáng kể.

Trong 6 tháng đầu năm 2 19, an Quản lý cũng thanh tra, kiểm tra 4. 56 cơ

sở, phát hiện 492 cơ sở vi phạm, tiến hành xử phạt 469 cơ sở với tổng số tiền là

6.736.992.811 đồng, tiếp tục xử lý các cơ sở còn lại (so với cùng kỳ năm 2 18, tỷ lệ

số cơ sở thanh, kiểm tra tăng 14 %, tỷ lệ cơ sở vi phạm giảm còn 12,1%).

Bên cạnh đó các Đoàn kiểm tra đã tiến hành phạt bổ sung: Đình chỉ hoạt động

có thời hạn: 23 cơ sở, buộc tháo dỡ quảng cáo: 6 cơ sở, áp dụng biện pháp khắc

phục hậu quả: Buộc kiểm dịch lại sản phẩm động vật: 12 cơ sở, thu hồi/chuyển mục

đích sử dụng/tiêu hủy: 184 cơ sở (Phụ lục 1). Trong đó, 2 Đội QLATTP tại chợ

đầu mối nông sản thực phẩm Hóc Môn, ình Điền thường xuyên thực hiện công tác

kiểm tra an toàn thực phẩm, qua đó phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính về an

toàn thực phẩm 218 trường hợp với số tiền 867. 99. đồng. Buộc thu hồi/chuyển

mục đích sử dụng/tiêu hủy: 58 trường hợp, Buộc thực hiện việc kiểm dịch lại sản

phẩm động vật: 12 trường hợp.

Việc tiến hành hầu hết các cuộc thanh tra được tiến hành nhanh gọn, kết luận rõ

đúng, sai; kết quả thanh tra đã chỉ ra được những bất cập, hạn chế, khuyết điểm trong

công tác quản lý, kiến nghị xử lý kịp thời các sai phạm, khuyết điểm, đồng thời kiến

nghị xử lý nhiều vấn đề liên quan đến cơ chế chính sách, quản lý, góp phần lập lại trật

65

tự kỷ cương QLNN về ATTP, bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của công dân.

Hoạt động kiểm tra cũng là hình thức tuyên truyền hiệu quả về ATTP, nhờ

hoạt động này mà nhận thức về ATTP trong cộng đồng xã hội có nhiều chuyển

biến. Tỷ lệ người sản xuất, kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng tự giác thực

hiện các quy định pháp luật, khoa học về ATTP ngày càng được nâng cao thông qua

việc chủ cơ sở chủ động tìm hiểu các quy định của pháp luật thực định để đáp ứng

các điều kiện về vệ sinh ATTP như đăng ký thủ tục để được cấp các loại giấy chứng

nhận liên quan ATTP. Tính đến tháng 6/2019 Ban Quản lý ATTP TP HCM đã cấp

21.467 giấy chứng nhận các loại trong đó: 6.977 Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều

kiện an toàn thực phẩm; 178 hồ sơ đăng ký công bố sản phẩm và đã có 373 Cam kết

đảm bảo an toàn thực phẩm, 23 Giấy xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm,

14.289 Giấy xác nhận kiến thức An toàn thực phẩm cho cá nhân, tổ chức đạt yêu

cầu và xác nhận cho 41.651 hồ sơ tự công bố sản phẩm hợp lệ [5]. Qua đó phát huy

vai trò của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức đoàn

thể trong việc tham gia bảo đảm chất lượng ATTP.

* Nguyên nhân của những kết quả đạt đƣợc

Đạt được những kết quả quan trọng như đã nêu trên là do có sự quan tâm, lãnh

đạo, chỉ đạo ráo riết, sát sao, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo UBND

thành phố và Trưởng ban Ban Quản lý ATTP TP HCM trong việc kiện toàn tổ chức

cũng như hoạt động của thanh tra ATTP.

Việc bố trí các Đội Quản lý ATTP liên quận - huyện có trụ sở đóng trực tiếp

trên địa bàn quản lý, đồng thời là thành viên của Ban Chỉ đạo liên ngành về vệ sinh

ATTP quận - huyện đã tạo ra mạng lưới quản lý rộng khắp, toàn diện và trực tiếp tại

địa phương góp phần nắm bắt địa bàn nhanh chóng, quản lý sát và kịp thời, công tác

phối hợp với các ban ngành, đơn vị tại địa phương diễn ra nhanh chóng, dễ dàng và

hiệu quả hơn rất nhiều so với sự phối hợp từ các đơn vị sở - ngành trước đây.

an Lãnh đạo đã mạnh dạn xây dựng các Đội Quản lý ATTP đa chức năng: vừa

thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm ATTP, cấp Giấy chứng nhận kiểm

dịch sản phẩm động vật xuất tỉnh, vừa tham gia giám sát, truy xuất nguồn gốc, hỗ trợ

66

quận - huyện ứng phó kịp thời với các tình huống nghi ngộ độc thực phẩm xảy ra trên

địa bàn quản lý, đồng thời, đây cũng chính là lực lượng thực hiện công tác thông tin,

tuyên truyền kiến thức về ATTP trên địa bàn quận – huyện.

Pháp luật thanh tra hiện hành cũng đã tạo khung pháp lý quan trọng để nâng

cao vị trí, vai trò thanh tra ATTP, tăng cường tính chủ động, tính tự chịu trách

nhiệm cho các công chức thực hiện chức năng thanh tra trong việc ra quyết định

thanh tra, kết luận thanh tra, quyết định xử lý trong và sau thanh tra.

Công tác đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được chú trọng. Năng

lực chuyên môn của đội ngũ công chức, viên chức làm công tác thanh tra ATTP phù

hợp với tình hình thực tiễn của thành phố, mục tiêu hướng đến hiệu lực, hiệu quả

quản lý. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Lãnh đạo Ban Quản lý ATTP TP HCM

đã chú trọng công tác đào tạo cho đội ngũ này. Cụ thể, phối hợp với Trường Cán bộ

Thanh tra - Thanh tra Chính phủ tổ chức lớp đào tạo, bồi dưỡng và cấp chứng chỉ

nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm cho 200 công chức, viên chức

tại các đội thanh tra của Ban Quản lý An toàn thực phẩm. Hiện Ban Quản lý tiếp tục

phối hợp với Trường Cán bộ Thanh tra - Thanh tra Chính phủ để bồi dưỡng và cấp

chứng chỉ nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm cho 106 công chức,

viên chức còn lại đang công tác tại Ban. Các học viên đã được nghiên cứu các

chuyên đề thuộc phần kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp trong hoạt động thanh tra, tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Năm 2 18-2019, Ban Quản lý ATTP TP

HCM tiếp tục cử lãnh đạo phòng Thanh tra và Đội trưởng các Đội Quản lý ATTP đi

học tập, trao đổi kinh nghiệm tại Hàn Quốc, Newzealand, Thái Lan, Nhật Bản, Pháp

để nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý.

2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân

* Hạn chế

- Về tổ chức:

Một là, chưa phát huy tốt vai trò chủ động của thanh tra viên.

Pháp luật thanh tra luôn nhìn nhận bản chất của cơ quan thanh tra như một cơ

quan chức năng được giao thực hiện các nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố

67

cáo, phòng, chống tham nhũng, trên cơ sở đó trao cho thanh tra những nhiệm vụ,

quyền hạn tương ứng, chẳng hạn như hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật;

thanh tra được quyền độc lập đưa ra kết luận đối với việc chấp hành chính sách,

pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân…

Theo quy định Điều 5, Luật Thanh tra năm 2 1 về chức năng thanh tra: “Cơ

quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và

giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác

thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành

thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định

của pháp luật”.

Từ thực trạng hệ thống tổ chức thanh tra ATTP hiện nay, hoạt động thanh tra

chịu sự chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Thủ trưởng cơ quan và sự chỉ đạo về công

tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên.

Với cách tổ chức như vậy, cho thấy hiện nay công tác thanh tra phụ thuộc quá

nhiều vào Thủ trưởng cơ quan từ trực tiếp xây dựng kế hoạch thanh tra, quyết định

thanh tra, thành lập Đoàn thanh tra, kinh phí hoạt động, cử cán bộ, công chức thực

hiện nhiệm vụ thanh tra, kết luận thanh tra, xử lý vi phạm… Luật Thanh tra đã

khẳng định rõ các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập mà hoạt động thanh tra ở

các cơ quan này do Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra

chuyên ngành thực hiện, điều đó làm cho nguyên tắc độc lập trong hoạt động thanh

tra không được đảm bảo mặc dù theo Quyết định số 6 2 17 QĐ-UBND của

UBND TP HCM về ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Quản lý ATTP

TP HCM cho phép một số Đội Quản lý ATTP liên quận – huyện hoặc chợ đầu mối

có tài khoản, có con dấu riêng.

Điều 21 Nghị định 86 NĐ-CP quy định về việc Đoàn thanh tra (bao gồm cả

Đoàn thanh tra chuyên ngành) được phép sử dụng con dấu là một bước tiến mới tạo

thuận lợi cho hoạt động của Đoàn thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên hiện tại đang

68

vướng mắc, chưa áp dụng trong thực hiện quy định về việc sử dụng con dấu của

Đoàn thanh tra chuyên ngành của Ban Quản lý ATTP TP HCM vì vẫn chưa có văn

bản hướng dẫn.

Hai là, người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thiếu ổn định và

thiếu tính chuyên nghiệp, lực lượng thanh tra mỏng, năng lực, trình độ, phẩm chất

đạo đức của một phận cán bộ thanh tra chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ.

Do lực lượng quá mỏng nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Hệ thống Đội quản

lý An toàn thực phẩm thuộc phòng Thanh tra đang thực hiện nhiều chức năng

nhiệm vụ vượt quá chức năng nhiệm vụ của phòng Thanh tra: thành viên đại diện

cho Ban Quản lý trong Ban chỉ đạo liên ngành về an toàn thực phẩm của quận -

huyện để tham gia các hoạt động của địa phương, thực hiện công tác thanh tra, kiểm

tra, hậu kiểm, kiểm dịch sản phẩm động vật ra khỏi thành phố, kiểm tra truy xuất

nguồn gốc thịt heo, thịt và trứng gia cầm, phối hợp các phòng chức năng của Ban

Quản lý trong thẩm định cấp phép, lấy mẫu giám sát nguy cơ, xử lý ngộ độc thực

phẩm, giám sát chợ, thức ăn đường phố trên địa bàn...

Thêm vào đó Nghị định 7 2 12 NĐ-CP quy định: Người được giao thực hiện

nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành là công chức thuộc biên chế của cơ quan được

giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo

quy định của ngạch công chức đang giữ và các tiêu chuẩn cụ thể sau đây:

- Am hiểu pháp luật, có chuyên môn phù hợp với lĩnh vực được giao thực

hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành;

- Có nghiệp vụ thanh tra;

- Có ít nhất 1 năm làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực được giao thực

hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (không kể thời gian tập sự).

Theo Quyết định số 1653 QĐ-UBND ngày 11/4/2017 và Quyết định số

778 QĐ-UBND ngày 03/10/2017, Ban Quản lý ATTP TP HCM được giao 488 biên

chế gồm: 221 công chức, 259 viên chức (Trung tâm Kiểm nghiệm Thuốc, Mỹ

phẩm, Thực phẩm có 60 biên chế) và 08 hợp đồng lao động 68 2 NĐ-CP; trong

đó: 2 2 nhân sự (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), 258 nhân sự (Sở Y tế)

69

và 08 nhân sự (Sở Công Thương).

Bảng 2.3: Thống kê trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức, viên chức

đƣợc giao thực hiện chức năng thanh tra ATTP

Chuyên ngành đào tạo

Tổng nhân sự Thanh tra Thực phẩm Luật Thú y Khác

220 53 8 167 2

Hiện nay, Phòng Thanh tra được giao 220 nhân sự, trong đó 79 công chức và

141 viên chức; 53 nhân sự (thuộc Sở Y tế) có trình độ chuyên môn về công nghệ

thực phẩm, 8/53 nhân sự có bằng cấp chuyên môn về Luật và số còn lại là viên chức

thuộc Chi Cục Thú y và việc chuyển ngạch đến nay vẫn đang thực hiện. Cơ cấu

nhân sự cho thấy tính chuyên môn hóa cao cho hoạt động thanh tra chuyên ngành

chưa được đảm bảo.

Với định hướng mới đối với tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành,

Luật Thanh tra năm 2 1 và Nghị định 7 2 12 NĐ-CP cũng có những quy định

người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành phải là công chức của

cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, có chuyên môn,

nghiệp vụ phù hợp với chuyên ngành, am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ thanh tra.

Thực tiễn nhân sự làm công tác thanh tra tại Ban Quản lý ATTP TP HCM vẫn chưa

được đảm bảo do có sự chênh lệch về chuyên môn, nghiệp vụ trong đội ngũ này

điều đó làm cho công tác thanh tra chưa thật sự hiệu quả.

Nguồn thực phẩm mà TP HCM nhận về mỗi ngày khá đa dạng, ngoài thịt và

các sản phẩm từ thịt thì còn rất nhiều các thực phẩm khác. Điều đó đặt ra yêu cầu sự

phù hợp, đảm bảo đủ nhân sự có về chuyên môn trong các lĩnh vực tương ứng với

chức năng quản lý ngành mà Ban Quản lý ATTP TP HCM đã được phân công phụ

trách (y tế, nông nghiệp, công thương) để đảm bảo quản lý toàn diện và hiệu quả.

Khi nhân lực đáp ứng yêu cầu thực tiễn mới có thể đánh giá chính xác, khoa học các

tình tiết, diễn biến của hành vi “tội phạm” về ATTP trong bối cảnh xuất hiện ngày

càng nhiều “thủ đoạn” đánh lừa nhà chức trách, đánh lừa người tiêu dùng. Thực tiễn

đó đòi hỏi một nguồn nhân lực đủ “tâm” và “tầm” để phát hiện và ngăn chặn kịp

70

thời nguy cơ đe dọa sức khỏe cộng đồng.

Ba là, kinh phí đầu tư cho hoạt động thanh tra chưa thật sự xứng tầm với yêu

cầu của thực tiễn, ngoài việc trang bị trụ sở làm việc, máy tính có mạng lưới internet

hoạt động hiệu quả, văn phòng phẩm… thì công tác này cho đến thời điểm hiện tại

vẫn đang “chật vật” về phương tiện kỹ thuật, thiết bị kỹ thuật - công cụ hỗ trợ đắc lực

cho công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính. Một trong những khó

khăn lớn nhất hiện nay của công tác thanh, kiểm tra là hầu hết đều thực hiện bằng mắt

thường, chưa được trang bị phương tiện kỹ thuật phục vụ việc kiểm tra tại chỗ. Nếu

có nghi ngờ về loại thực phẩm nào đó sử dụng hóa chất, cơ quan chức năng sẽ test

nhanh và lấy mẫu gửi đi kiểm nghiệm. Tuy nhiên, với thị trường thực phẩm đa dạng

về chủng loại và có số lượng lớn thì việc test nhanh để biết có tồn dư chất cấm, hóa

chất ngoài danh mục cho phép là điều hoàn toàn không dễ dàng.

- Về hoạt động

Một là, hoạt động thanh tra chậm đổi mới về nội dung, hình thức, quy trình xử

lý phức tạp không theo kịp thực tế, gây mất sức cho đội ngũ quản lý và tạo tâm lý

cầu an, né tránh. Phương pháp, cách thức thực hiện cho phù hợp với định hướng và

lộ trình cải cách hành chính của Chính phủ trên thực tế công tác thanh tra tại Ban

Quản lý ATTP TP HCM. Theo Khoản 5, Điều 36 Luật Thanh tra năm 2 1 quy

định việc gửi kế hoạch thanh tra cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức có liên

quan. Quy định này thực sự thể hiện tính công khai, dân chủ, minh bạch trong hoạt

động thanh tra nhưng chỉ hoàn toàn phù hợp với hoạt động thanh tra hành chính.

Hiện tại việc thông báo kế hạch thanh tra do chính các chuyên viên thanh tra gửi tận

tay cơ sở, hình thức này đặt ra nghi vấn về tính minh bạch trong hoạt động này.

Hoạt động thanh tra chuyên ngành có đối tượng và nội dung khác với thanh tra hành

chính. Vì vậy, quy định này khi áp dụng vào lĩnh vực ATTP lại làm ảnh hưởng đến

hiệu quả hoạt động thanh tra vì khi gửi kế hoạch trước cho cơ sở sẽ gây ra tình trạng

đối phó, nhất là những cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, đặc biệt là cơ sở có quy

mô lớn sẽ cho tạm dừng kinh doanh. Trong khi đó thanh tra đột xuất còn ít so với

tình hình thực phẩm bẩn của thành phố, hiện nay việc kiểm tra đột xuất chỉ được

71

thực hiện khi phát hiện sự cố hoặc khi có phản ánh của người dân. Điều đó cho thấy

tính chủ động phát hiện tội phạm thực phẩm chưa được chú trọng, tâm lý “cầu an”

của một bộ phận thực hiện công tác thanh tra là cho hoạt động thanh tra chưa phát

huy vai trò là đơn vị “chủ quản” đảm nhiệm trọng trách bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Hai là, việc thực thi quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

ATTP chưa đạt hiệu quả cao do hiện nay chưa có lực lượng chuyên trách đảm nhiệm

tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế hành chính, phần lớn là do người bị xử phạt

tự giác thực hiện. Đối với các cơ sở cố tình không chấp hành, hiện nay chỉ dừng lại ở

việc gửi công văn nhắc nhở đến lần 3 và việc cố tình không chấp hành vẫn chưa có

chế tài để xử lý điều đó làm giảm tính uy nghiêm của hoạt động thanh tra.

Ba là, vướng mắc trong việc thực hiện quyền thanh tra trong hoạt động thanh tra.

Việc pháp luật thanh tra hiện hành quy định nhiều điểm mới trong việc thực hiện

quyền trong hoạt động thanh tra đã giúp tăng cường quyền chủ động của các cơ

quan thanh tra nói chung và đặc biệt là cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh

tra chuyên ngành để bảo đảm đối tượng thanh tra bắt buộc phải thực hiện các nghĩa

vụ của mình. Tuy nhiên, việc thực hiện một số quyền trong hoạt động thanh tra hiện

nay vẫn còn gặp vướng mắc làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thanh tra

chuyên ngành. Ví dụ như việc áp dụng hình thức xử phạt bổ sung, cụ thể là việc tịch

thu và tiêu hủy tang vật thì phải qua đấu thầu tìm nhà cung ứng dịch vụ vì số tiền

tiêu hủy lên đến hàng trăm triệu đồng. Công tác đấu thầu lại đòi hỏi thời gian trong

khi tang vật thì hàng ngày vẫn đều đặn “ngốn” chi phí lưu kho, thế nên sẽ tạo tâm lý

“cầu an” nhắm mắt cho qua. Thêm vào đó, Do đặc thù hoạt động của chợ đầu mối,

hoạt động phân phối sản phẩm chỉ diễn ra trong thời gian ngắn (ngay trong đêm).

Theo quy định, để có cơ sở xử lý đối với các trường hợp nông sản thực phẩm tươi

sống bị nhiễm khuẩn hoặc tồn dư hóa chất, chất cấm phải có kết quả phân tích định

lượng tại phòng kiểm nghiệm được chỉ định. Tuy nhiên, kết quả phân tích định

lượng thường mất thời gian từ 2-4 ngày. Hiện nay chưa có quy định tạm giữ lô hàng

trong thời gian chờ kết quả phân tích định lượng, nếu kết quả dương tính khi phân

tích định lượng thì lô hàng đã được phân phối không còn tại chợ. Vì vậy, việc xử lý

72

vi phạm về an toàn thực phẩm đối với các nông sản thực phẩm tươi sống bị nhiễm

khuẩn hoặc có hóa chất, chất cấm tại chợ đầu mối chỉ xử lý vi phạm hành chính

bằng hình thức phạt tiền, việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả (tịch thu, tiêu

hủy) là không thể thực hiện được.

* Nguyên nhân của những hạn chế

Một là, mặc dù đã được Chính phủ quan tâm nhưng đầu tư kinh phí cho công

tác quản lý ATTP ở nước ta còn rất thấp, so với các nước trong khu vực, ví dụ:

trong giai đoạn 2011-2015, Bắc Kinh chi cho công tác quản lý ATTP bình quân đầu

người là 5 USD người năm thì Việt Nam chỉ đạt khoảng 2.8 đồng người năm. Do

nguồn kinh phí có giới hạn, hiện tại Thanh tra Ban Quản lý vẫn tiến hành quản lý

một cách “thủ công” các cơ sở hoạt động trong lĩnh vực thực phẩm, với phương

thức cho chuyên viên đến từng địa chỉ kinh doanh để xác minh, ghi chép thông tin

và cập nhât theo cách quản lý riêng của từng Đội chứ chưa có một hệ thống thông

tin liên kết trên toàn thành phố, do đó dễ gây ra tình trạng bỏ sót hoặc chồng chéo.

Hai là, sự thiếu ổn định của các văn bản quy phạm pháp luật đó đã gây khó

khăn cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm cũng như cho hoạt động thanh

tra. Để đảm bảo việc thực thi các quyền trong hoạt động thanh tra, thực hiện các kết

luận, kiến nghị, quyết định xử lý sau thanh tra nhưng trong hệ thống pháp luật thực

định đang thiếu các chế tài để đảm bảo việc thực hiện các quyền trong hoạt động

thanh tra.

Ba là, công tác xây dựng, quản lý và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thanh

tra còn nhiều bất cập; trình độ, năng lực của một số công chức thanh tra còn hạn chế,

trong khi đó công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ thanh tra chưa đáp ứng

yêu cầu nâng cao năng lực, chất lượng nguồn nhân lực của ngành thanh tra ATTP.

Việc cử nhân sự tham gia các khóa tập huấn nhưng thời gian khá ngắn và mang tính

thực tiễn chưa cao; cơ cấu tổ chức thanh tra chưa phù hợp, vừa thiếu vừa yếu về

chuyên môn nghiệp vụ cho nên trong quá trình nhiệm vụ còn lúng túng, chưa xác

định được việc cần làm dẫn đến quá trình tổ chức thực hiện các cuộc thanh tra mang

lại hiệu quả chưa cao. Thêm vào đó các nguồn lực vật chất, kỹ thuật cho hoạt động

73

thanh tra chưa được bảo đảm, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ thanh tra ATTP.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Nghiên cứu thực trạng tổ chức, hoạt động thanh tra ATTP tại Ban Quản lý

ATTP TP HCM; Chương 2 của Luận văn rút ra những kết luận như sau:

1. Thanh tra với vai trò là công cụ thiết yếu của quản lý, tổ chức, hoạt động

của ngành thanh tra luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm thông qua việc không

ngừng củng cố về tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động để đáp ứng với yêu cầu

thực hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.

2. Hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra càng ngày càng được nâng cao,

góp phần quan trọng vào quá trình nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN thông qua

các hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham

nhũng.

3. Từ thực trạng tổ chức, hoạt động thanh tra cũng cho thấy về mặt lý luận còn

nhiều nội dung cần được làm rõ về nội dung, hình thức thanh tra, quy trình thanh tra

nhằm phát huy hiệu lực, hiệu quả của từng loại hoạt động thanh tra.

4. Mô hình tổ chức thanh tra ATTP hiện nay với việc phụ thuộc quá lớn vào

Thủ trưởng về tổ chức, biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất, chương trình, kế hoạch

hoạt động… đã dẫn đến tình trạng làm mất đi tính chủ động, khách quan của cơ

quan thanh tra trong việc xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật của

đối tượng bị quản lý.

5. Lực lượng cán bộ thanh tra mỏng, vừa thiếu vừa yếu về chuyên môn nên

không kịp thời phát hiện những vi phạm dẫn đến ảnh hưởng hiệu lực, hiệu quả hoạt

74

động của thanh tra.

Chƣơng 3:

PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC

VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM

BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM BAN QUẢN LÝ AN TOÀN

THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1.1. Tổ chức và hoạt động của thanh tra an toàn thực phẩm cần bám sát

yêu cầu tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nƣớc

Theo tinh thần Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ ngày 08/11/2011 ban

hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020:

“Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức

và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ,…; trên cơ sở đó điều chỉnh

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan, đơn vị nhằm

khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn;…";

Yêu cầu cải cách hành chính nhà nước với 05 mục tiêu, trong đó tiếp tục đặt ra

mục tiêu xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương tới cơ

sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ

và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành

chính nhà nước. Mà trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành tổng rà soát về vị trí,

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có và tổ chức, sắp

xếp lại nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn.

Đây là cơ sở để an Quản lý ATTP TP HCM tiếp tục rà soát, đánh giá lại tổ

chức, hoạt động để xây dựng lộ trình, chiến lược đổi mới phù hợp với Chương trình

tổng thể cải cách hành chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển thanh tra ATTP

theo hướng tinh gọn, hiệu quả, toàn diện, hợp lý là nội dung xuyên suốt trong định

75

hướng đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.

Phát triển thanh tra ATTP cần phải có bước đi vững chắc, cụ thể, phù hợp với

từng giai đoạn và phải được đặt trong quá trình tổng thể về kiện toàn, nâng cao hiệu

lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, cải cách hành chính và phòng, chống

tham nhũng nói chung; phát huy dân chủ, gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương

hành chính; mở rộng hội nhập quốc tế, gắn với nâng cao tính tự chủ, sáng tạo và

trách nhiệm.

3.1.2. Đảm bảo nguyên tắc độc lập tuân theo pháp luật trong hoạt động

thanh tra an toàn thực phẩm

Theo Lê-nin: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý với thanh tra là

một chứ không phải là hai”. Thanh tra là một chức năng, một bộ phận của quản lý,

nó không phải là hoạt động như các hoạt động chuyên môn khác mà là hoạt động

nhằm bảo đảm thực hiện chính sách, pháp luật, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, trật tự

trong quản lý. Mục đích của thanh tra là hướng vào xem xét các hành vi hợp pháp

và hợp lý của chủ thể quản lý. Cùng với các cơ chế kiểm tra, giám sát khác, thanh

tra giữ vị trí quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà

nước, nhất là giữ vững được kỷ cương của nền hành chính. Với cách tiếp cận như

vậy, hoạt động thanh tra được xác định như một loại cơ quan có thẩm quyền, có

chức năng, nhiệm vụ độc lập và được trao cho các quyền hạn tương ứng để thực

hiện việc xem xét, đánh giá một cách độc lập, dựa trên cơ sở pháp luật. Thanh tra

thì phải độc lập về chức năng, nhiệm vụ và phải có thẩm quyền. Vì vậy, cần phải

xây dựng cơ chế thanh tra ATTP có sự rành mạch về chức năng, nhiệm vụ nhưng

phải độc lập, độc lập để phối hợp.

Luật Thanh tra năm 2 1 được Quốc hội ban hành và đã được triển khai thực

hiện trong gần 9 năm qua. Tuy nhiên, nhiều vấn đề bất cập cả về tổ chức, hoạt

động cũng đã phát sinh trong thực tiễn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác thanh

tra. Chẳng hạn như việc tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước được thực hiện theo

nguyên tắc song trùng trực thuộc, dẫn đến tổ chức của ngành thanh tra phụ thuộc

quá nhiều vào Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp từ bổ nhiệm, miễn nhiệm người

76

đứng đầu, bổ nhiệm vào ngạch, nâng ngạch thanh tra viên, cho đến xây dựng cơ cấu

tổ chức, biên chế hành chính, kinh phí hoạt động… đều do Thủ trưởng cơ quan

hành chính quyết định. Điều này dẫn đến làm mất đi tính chủ động, tính độc lập cần

thiết của hoạt động thanh tra.

Vì vậy, phương hướng tổ chức, hoạt động thanh tra ATTP trong thời gian tới

là phải bảo đảm thanh tra là một thiết chế quan trọng trong QLNN nhằm xem xét,

đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của người có thẩm quyền và cán bộ,

công chức, viên chức thuộc Ban Quản lý ATTP TP HCM. Bên cạnh đó, xác định vị

trí, vai trò của thanh tra là tổ chức có vai trò giúp đỡ, hỗ trợ cho hệ thống QLNN

trong lĩnh vực ATTP [20, tr 51]. Muốn vậy, thanh tra phải độc lập, hướng từ bên

ngoài, giám sát, đánh giá hệ thống quản lý, bám sát tinh thần của Nghị quyết số

21/2009/NQ-CP ngày 12/05/2009 ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham

nhũng đến năm 2 2 : “Tăng cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của các cơ

quan thanh tra… tăng cường hiệu lực thi hành các kết luận của cơ quan thanh tra”.

Hoạt động của cơ quan thanh tra được thực hiện trên cơ sở quy định pháp luật, đảm

bảo chính xác, khách quan và kịp thời; đảm bảo minh bạch và công khai, dân chủ.

Tăng cường xu hướng “hậu kiểm”, đồng thời tiến hành thanh tra đột xuất, thanh tra

lại khi phát hiện dấu hiệu vi phạm.

3.1.3. Đổi mới tƣ duy, nhận thức về vị trí, vai trò công tác thanh tra an

toàn thực phẩm

Để hoàn thiện tổ chức và hoạt động thanh tra ATTP đáp ứng yêu cầu của

công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề mấu chốt cần quan tâm hàng đầu là

nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò quan trọng của công tác thanh

tra ATTP, từ đó xác định mô hình tổ chức thanh tra cho phù hợp, bảo đảm tính

hiệu quả của hoạt động thanh tra; phải thấy rằng mục đích của thanh tra không chỉ

là phát hiện, xử lý khuyết điểm, vi phạm mà còn là phát huy các nhân tố tích cực,

giúp các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân là đối tượng thanh tra thực hiện đúng

các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, đồng thời tích cực

góp phần vào việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật ATTP. Chỉ khi

77

nào, chừng nào làm được như vậy mới thể hiện được một cách trọn vẹn nhất ý

nghĩa của công tác thanh tra, làm cho thanh tra thực sự là cầu nối giữa Đảng và

Nhà nước với nhân dân. Tinh thần này đã được thể hiện khá rõ trong tư tưởng của

Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thanh tra là nhiệm vụ vẻ vang và quan trọng, nó theo

dõi, xem xét chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của

Đảng và Chính phủ”. Mỗi cán bộ thanh tra cần phải quán triệt sâu sắc di huấn đó

của Hồ Chủ tịch, biến thành hành động thực tế nhằm phát huy tốt vai trò của thanh

tra, nâng cao vị thế thanh tra. Đây cũng chính là việc làm thiết thực, có ý nghĩa

quan trọng nhằm hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh trong ngành Thanh tra ATTP. Việc xác định rõ vị trí, vai trò của

hoạt động thanh tra ATTP cần bám sát vào mục đích của hoạt động thanh tra trong

tổng thể các cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong bối cảnh

xây dựng nhà nước pháp quyền định hướng XHCN, đặc biệt là sự phân công, phối

hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà

nước.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của công tác thanh tra, làm

cơ sở tăng cường thẩm quyền cho Thanh tra ngành ATTP, nâng cao tính độc lập

của Đoàn thanh tra như một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước và kiểm

soát quyền lực nhà nước, đủ thẩm quyền để thực hiện chức năng QLNN về ATTP.

Cụ thể là tăng thẩm quyền trong các lĩnh vực: xây dựng chiến lược và kế hoạch

công tác; kiến nghị xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị

khi để xảy ra sai phạm; có thẩm quyền xử lý đối với một số vi phạm của cán bộ,

công chức trong thực thi nhiệm vụ công vụ. Bởi lẽ trên thực tế, khi tiến hành

thanh tra, Đoàn thanh tra gặp nhiều trở ngại do thẩm quyền không đủ mạnh, nhiều

kết luận thanh tra đã có kiến nghị, đề xuất cụ thể, khách quan nhưng không được

thực hiện đầy đủ và vẫn chưa có chế tài để buộc phải thực hiện các kết luận thanh

78

tra.

3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC

PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.2.1. Nâng cao hiệu lực quản lý an toàn thực phẩm trên cơ sở hoàn thiện

hệ thống pháp luật an toàn thực phẩm

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, các cấp các ngành đã chú ý xây dựng

hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý lĩnh vực ATTP và đã đạt được một số thành

tựu trên một số nội dung như hệ thống được các VBQPPL về đảm bảo ATTP, đã luật

hóa nhiều quy định quan trọng, bao gồm các lĩnh vực như an toàn sức khoẻ cộng

đồng, quy định về kiểm dịch động thực vật, hệ thống quy định về kinh doanh, xuất

khẩu và nhập khẩu thực phẩm. Đã xây dựng được một hệ thống tiêu chuẩn về thực

phẩm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ quan QLNN áp dụng trong quá trình

sản xuất, kinh doanh thực phẩm cũng như kiểm soát ATTP. Pháp luật ATTP nói

chung đã có một bước tiến vượt bậc trong việc phân công trách nhiệm cụ thể cho

từng bộ ngành đối với hoạt động quản lý ATTP trên thị trường. Trên cơ sở phân công

phân cấp cho các lực lượng chức năng, ban ngành, tạo được sức mạnh tổng hợp trong

đảm bảo ATTP.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì hệ thống pháp luật về ATTP còn

một số hạn chế bất cập, đó là:

Một là, hệ thống các quy định về quản lý chất lượng ATTP còn quá nhiều gây

khó khăn khi áp dụng trên thực tế. Có thể ngạc nhiên nếu nghe nói lưới pháp lý của

Việt Nam còn chưa đủ chặt. Theo một báo cáo của Viện Nghiên cứu Rau Quả hợp

tác với FAO năm 2 1 (FAVRI-FAO, 2 1 ), riêng trong giai đoạn 2004-2008 Việt

Nam có 1.267 văn bản pháp lý liên quan đến ATTP. Một báo cáo khác của Viện

Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD-VECO) năm

2009 thống kê có 2 văn bản chính sách có hiệu lực liên quan đến quản lý chất

lượng và ATTP. Các con số tuy lớn, ấn tượng, nhưng thực tế thì Việt Nam chưa có

79

một cơ sở pháp lý đủ mạnh để quản lý đúng nơi, đúng chỗ cho mọi thực phẩm. Ví

dụ có những trường hợp thực phẩm bị nghi là không an toàn nhưng Nhà nước

không có văn bản pháp lý cho phép xử lý.

Hai là, tính khả thi của các VBQPPL về ATTP còn chưa cao, cần phải sửa đổi

bổ sung cho phù hợp với thực tiễn áp dụng. Theo quy định tại Điều 6 Luật An toàn

thực phẩm, việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về ATTP quy định có 2 biện pháp xử

lý: xử lý vi phạm hành chính và xử lý hình sự, nhưng trong thực tế còn khá lung túng

trong việc xử lý hình sự. Điểm a, khoản 1, Điều 317 Bộ luật hình sự năm 2 15 ghi rõ

cơ sở để xử lý hình sự từ 1 đến 5 năm tù đối với tội vi phạm quy định về vệ sinh an

toàn thực phẩm, đó là “Sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản

thực phẩm hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất

cấm”. Khi làm việc với cơ quan điều tra, các đối tượng đều cho rằng, thấy hóa chất

được bán trôi nổi trên thị trường, có tác dụng làm thực phẩm tươi, ngon, bảo quản

được lâu… thì mua về để sử dụng, hoàn toàn không biết đó là chất cấm. Do vậy, cơ

quan chức năng cũng không có cơ sở để xử lý hình sự vụ việc và phải chuyển sang xử

lý hành chính. Mức xử lý hành chính kịch khung đối với vi phạm quy định về vệ sinh

an toàn thực phẩm được quy định tại Điều 317 Bộ luật Hình sự năm 2 15 là 5 triệu

đồng. Con số này dường như không thấm vào đâu so với số lợi nhuận thu được do vậy

không tránh khỏi việc các đối tượng bất chấp quy định, bất chấp sức khỏe, tính mạng

của người tiêu dùng để tiếp tục sử dụng hóa chất trong sản xuất, chế biến thực phẩm.

Một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2, Điều 317 Bộ Luật Hình sự

2 15 đó là khi làm chết 1 người hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 1 người với tỷ lệ

tổn thương cơ thể 61% trở lên thì bị phạt tiền từ 2 . . đồng đến 500.000.000

đồng hoặc phạt tù 3 năm đến 7 năm. Tuy nhiên việc xác định tỷ lệ thương tổn

dường như chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, ví dụ với 10 tấn thực phẩm chức

năng giả nếu tung ra thị trường sẽ có 2. . người sử dụng (mỗi người 5g sử

dụng 10 ngày) sẽ gây nên hậu quả nghiêm trọng rất to lớn. Thực tế hầu như chỉ dựa

vào có chết người mới là hậu quả nghiêm trọng, còn ảnh hưởng tới sức khỏe của

2.000.000, ảnh hưởng tới phát triển giống nòi thì chưa phải là nghiêm trọng hoặc khi

80

mà các chất cấm sử dụng trong thực phẩm không gây chết người ngay lập tức mà

qua thời gian dài tích tụ trong cơ thể mới gây ra những bệnh nguy hiểm chết người,

minh chứng là tỷ lệ ung thư tại Việt nam có xu hướng gia tăng trong đó một phần

không nhỏ do tội phạm thực phẩm gây ra.

Ba là, tính ổn định, tính dự báo của một số VBQPPL về kiểm soát ATTP chưa

cao. Có những văn bản được các cơ quan chức năng ban hành chỉ trong một thời

gian ngắn đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Sự thiếu ổn định của các VBQPPL

đó đã gây khó khăn cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm cũng như công

tác kiểm soát ATTP của các cơ quan nhà nước.

Để hoạt động thanh tra ATTP mang lại hiệu lực, hiệu quả cao cần có một

khung pháp lý “đủ mạnh”, “đủ chất” để bảo vệ người tiêu dùng thông qua hoạt động

thanh tra, kiểm tra ATTP. Để làm được điều đó các cơ quan chức năng cần tăng

cường rà soát các quy định về đảm bảo ATTP. Công tác rà soát pháp luật có ý nghĩa

hết sức quan trọng để đưa ra những kiến nghị nhằm khắc phục những khó khăn, bất

cập, vướng mắc trong việc thực thi. Việc rà soát pháp luật về kiểm soát ATTP cần

thực hiện những vấn đề sau:

Thứ nhất, rà soát, sửa đổi, bổ sung nhằm loại bỏ những điểm chồng chéo giữa các

văn bản của các bộ ngành khác nhau, những quy định không hoặc ít có tính khả thi

nhằm kiểm soát chặt chẽ và mang lại hiệu quả cho hoạt động thanh tra ATTP, cụ thể là:

Sửa đổi một số điều của pháp luật có liên quan đến hoạt động kiểm soát ATTP

làm cơ sở để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất khi thực hiện pháp luật về kiểm soát

ATTP. Trong đó chú trọng hơn nữa trong phân cấp quản lý, tránh chồng chéo.

Xây dựng và ban hành các quy định về điều kiện kinh doanh, phương tiện vận

chuyển, công nghệ bảo quản đối với từng nhóm thực phẩm có nguy cơ mất an toàn

cao như thịt, sữa, rau quả, thực phẩm ăn ngay, nước uống đóng chai…

Thứ hai, hoàn thiện các quy định nhằm nâng cao năng lực QLNN về ATTP theo

hướng tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật ATTP, ban hành các quy định pháp lý

để làm căn cứ cho việc kiểm soát thực phẩm của các hiệp hội ngành hàng, khu vực tư

nhân cùng với sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội khác.

81

Điều đó, một mặt đòi hỏi phải kịp thời thể chế hóa các giá trị xã hội thành các quy

định pháp luật; mặt khác, một đòi hỏi không thể thiếu được là phải xây dựng một cơ

chế thực hiện và áp dụng pháp luật ATTP, làm cho pháp luật đi vào cuộc sống, qua

đó sẽ phát huy tối đa sức mạnh và mang lại hiệu quả cho hoạt động thanh tra.

Thứ ba, tăng cường nguồn lực cho hoạt động xây dựng pháp luật kiểm soát

ATTP, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác, rà soát, xây dựng, ban hành

VBQPPL về kiểm soát ATTP. Bảo đảm cấp đủ ngân sách nhà nước cho hoạt động

nghiên cứu, xây dựng pháp luật về ATTP. Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan

soạn thảo và các doanh nghiệp, tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong việc xây

dựng tiêu chuẩn và các quy định quản lý để có thể bắt buộc doanh nghiệp thực hiện

một cách có hiệu quả, tránh tình trạng áp đặt hoặc xây dựng tiêu chuẩn không dựa

trên những chứng cứ khoa học.

3.2.2. Nâng cao trách nhiệm của ngƣời đứng đầu, cán bộ, công chức thanh

tra trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ

Đổi mới tư duy trong chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ thanh tra ATTP

theo hướng đề cao tính hiệu quả, tính chịu trách nhiệm trong hoạt động thanh tra,

coi đây là yếu tố then chốt, quyết định trong hoạt động thực hiện nhiệm vụ công vụ

của cán bộ thanh tra.

Có thể nói, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan thanh tra cũng

như các cán bộ, công chức thanh tra là một trong những yếu tố quan trọng, quyết

định đến chất lượng, hiệu quả việc tổ chức,và hoạt động của thanh tra. Để nâng cao

quyết tâm, ý thức trách nhiệm đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra, Trưởng Ban

Quản lý ATTP TP HCM cần quán triệt và tiếp tục chỉ đạo cho các cán bộ, công

chức thanh tra thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ, công vụ bởi quản lý nhà nước về thực phẩm thực chất là quản lý con

người, thông qua con người mới có thể tác động vào các yếu tố khác đảm bảo có

hiệu quả [23, tr.128]. Do đó, giải pháp cụ thể là:

a) Đối với Thủ trưởng cơ quan Thanh tra

- Nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng trong tổ chức, hoạt động thanh tra

82

ATTP, trên cơ sở đó quán triệt cho cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý của

mình về mục đích, ý nghĩa của việc tổ chức và hoạt động thanh tra; nghiên cứu xây

dựng chương trình, kế hoạch công tác, đảm bảo đáp ứng yêu cầu của thực tiễn thực

hiện nhiệm vụ thanh tra, nhất là trong việc ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi

phạm pháp luật ATTP.

- Phải thực sự công tâm trong việc sử dụng, bố trí cán bộ, công chức thanh tra.

Việc sử dụng công chức tham gia vào các Đoàn thanh tra phải đảm bảo sự phù hợp

giữa năng lực của cán bộ với nhiệm vụ, vai trò được phân công trong Đoàn thanh

tra. Đồng thời, phải biết động viên kịp thời đối với cán bộ, công chức trong cơ quan,

đơn vị mình, tạo cho họ thêm lòng nhiệt tình, tích cực, phát huy sở trường trong

việc thực hiện nhiệm vụ.

- Có kỷ cương, kỷ luật rõ ràng, xác định rõ trách nhiệm của từng thành viên

Đoàn thanh tra. Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên trong

Đoàn thanh tra, tránh tình trạng ỷ lại, né tránh hoặc bao che cho các vi phạm của đối

tượng thanh tra.

- Tổ chức kiểm tra, giám sát đối với Đoàn thanh tra một cách thường xuyên,

sát sao; thường xuyên hoặc đột xuất yêu cầu Trưởng Đoàn thanh tra báo cáo về tiến

độ, chất lượng, tình hình triển khai hoạt động của Đoàn thanh tra; qua các kênh

thông tin khác nhau nắm tình hình về ý thức chấp hành pháp luật của Đoàn thanh tra

trong quá trình thanh tra; qua đó kịp thời phát hiện và chấn chỉnh, xử lý các hành vi

vi phạm, đồng thời kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn của Đoàn thanh

tra, tạo điều kiện cho các thành viên trong Đoàn thanh tra phát huy tốt các quyền

của người tiến hành thanh tra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

- Chỉ đạo ban hành kết luận thanh tra bảo đảm khách quan, công khai, minh

bạch, dân chủ, đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Kết luận thanh tra là sản

phẩm đánh giá chất lượng, hiệu quả của cả quá trình tiến hành cuộc thanh tra, do đó

đòi hỏi phải hết sức thận trọng, chặt chẽ, không được chủ quan, duy ý chí. Trong

trường hợp cần thiết, Người ký kết luận thanh tra phải yêu cầu đối tượng thanh tra

83

giải trình bằng văn bản để làm rõ nội dung trong kết luận thanh tra. Điều đó đặt ra

yêu cầu Thủ trưởng các cơ quan thanh tra phải có sự chỉ đạo sát sao các cán bộ,

công chức trong đơn vị mình trong việc thực hiện nhiệm vụ.

- Cần tăng cường sự chỉ đạo đôn đốc và tổ chức kiểm tra công tác thi hành các

kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra thông qua công tác kiểm tra, uốn

nắn, chấn chỉnh ý thức và trách nhiệm thực hiện các kết luận, quyết định, đồng thời

phát hiện những thiếu sót, tồn tại để chỉ đạo, hướng dẫn khắc phục hoặc kiến nghị

hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật.

b) Đối với các cán bộ, công chức thanh tra.

Cán bộ, công chức phải quán triệt và đề cao ý thức trách nhiệm, tổ chức thực

hiện các nhiệm vụ một cách khách quan, công tâm và tuân thủ các quy định của pháp

luật theo yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra. Trong quá trình tiến hành

một cuộc thanh tra, là Trưởng Đoàn thanh tra hoặc thành viên của Đoàn thanh tra

phải nhận thức đúng vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các nguyên tắc

công tác, phương pháp công tác trong quá trình tổ chức, chỉ đạo hoạt động của Đoàn

thanh tra.

- Làm tốt công tác chính trị tư tưởng trong quá trình thanh tra, không chỉ đối

với Đoàn thanh tra mà còn cả đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh

tra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan nhằm tạo ra nhận thức thống

nhất về mục đích, yêu cầu của cuộc thanh tra, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình

tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra nói chung và việc thực hiện quyền hạn trong

hoạt động thanh tra nói riêng.

- Phải tuân thủ quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra, 5 điều kỷ luật đối với

cán bộ thanh tra, chấp hành sự phân công thực hiện nhiệm vụ trong Đoàn thanh tra;

khách quan, công tâm trong quá trình xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật

cũng như thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

3.2.3. Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả việc tổ chức thực hiện cuộc thanh tra

và đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra an toàn thực phẩm

Trong quá trình thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra và các thành viên cần phải

84

thực hiện tốt chức trách, quyền hạn được giao, song cũng phải coi trọng nguyên tắc

công khai, dân chủ, khách quan, công bằng, tránh hiện tượng quy kết, đánh giá chủ

quan áp đặt. Để làm được điều này, trong tổ chức Đoàn thanh tra phải lựa chọn cán

bộ, thanh tra viên có năng lực phù hợp, coi đây là yếu tố quyết định thành công của

mỗi cuộc thanh tra. Kế hoạch tiến hành các cuộc thanh tra phải cụ thể, sát hợp với

nội dung, thời gian thanh tra. Tổ chức các Đoàn thanh tra phải khoa học, có thành

phần, số lượng hợp lý. Trong chỉ đạo, điều hành, Trưởng đoàn thanh tra phải luôn

nắm bắt kịp thời thông tin, diễn biến của cuộc thanh tra; thường xuyên kiểm tra,

giám sát để hoạt động thanh tra đúng pháp luật; xác định rõ trách nhiệm của Đoàn

thanh tra, thanh tra viên, các đơn vị, bộ phận có liên quan cũng như trách nhiệm của

lãnh đạo cơ quan thanh tra đối với từng cuộc thanh tra. Mỗi cuộc thanh tra phải xác

định rõ nội dung trọng tâm và những vấn đề chủ yếu để tập trung chỉ đạo, đảm bảo

kết thúc gọn, kết luận chính xác. Kiến nghị về thanh tra phải cụ thể, rõ ràng; làm rõ

trách nhiệm tập thể, cá nhân có sai phạm, đồng thời phải đề xuất được giải pháp có

tính khả thi để sửa chữa các yếu kém, sơ hở trong hoạt động quản lý và xử lý

nghiêm minh người có hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó cũng cần đổi mới

phương pháp nắm tình hình, thu thập thông tin liên quan đến nội dung thanh tra,

phương pháp xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình thanh tra; thực hiện

nghiêm quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra và chế độ khen thưởng, kỷ luật đối

với người có thành tích hoặc sai phạm trong quá trình thanh tra.

Bên cạnh đó, cũng cần đổi mới tư duy trong chỉ đạo, điều hành thực hiện

nhiệm vụ thanh tra ATTP theo hướng đề cao tính hiệu quả, tính chịu trách nhiệm

trong hoạt động, coi đây là yếu tố then chốt, quyết định mang lại hiệu lực, hiệu quả

trong hoạt động của mỗi tổ chức thanh tra cũng như trong thực hiện nhiệm vụ của

cán bộ thanh tra. Trước hết, cần được chủ động trong việc đề xuất và xây dựng

chương trình, kế hoạch thanh tra. Trong quá trình hoạt động, nếu việc xây dựng

chương trình, kế hoạch thanh tra phụ thuộc quá nhiều vào cơ quan quản lý cùng cấp

thì hoạt động thanh tra sẽ bị động. Mặt khác, trong hoạt động quản lý, khi nảy sinh

những vấn đề mới, việc chủ động trong xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra

85

sẽ đảm bảo tính kịp thời, khách quan cho hoạt động thanh tra. Ngoài ra, để hoạt

động thanh tra có định hướng thì cơ quan thanh tra cấp trên có quyền chủ động định

hướng và kiểm tra kế hoạch thanh tra của cơ quan thanh tra cấp dưới.

Để đáp ứng được yêu cầu QLNN, theo tinh thần giảm tiền kiểm, tăng cường

hậu kiểm, thanh tra ATTP cũng cần chú ý đổi mới tổ chức thanh tra cho phù hợp

với tình hình mới hoạt động thanh tra. Cụ thể, cần tổ chức theo mô hình Sở An toàn

thực phẩm có Thanh tra Sở là cơ quan của Sở, giúp Giám đốc Sở tiến hành thanh tra

hành chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống

tham nhũng theo qui định của pháp luật. Thanh tra Sở có Chánh Thanh tra, Phó

Chánh Thanh tra và các Thanh tra viên. Thanh tra Sở chịu sự chỉ đạo, điều hành của

Giám đốc Sở; chịu sự chỉ đạo về công tác thanh tra và hướng dẫn về nghiệp vụ

thanh tra hành chính của Thanh tra thành phố, về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành

của Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thanh

tra Bộ Công Thương. Chánh Thanh tra Sở An toàn thực phẩm có thẩm quyền xử

phạt của Chánh Thanh tra Sở Y tế, Chánh Thanh tra Sở Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, Chánh Thanh tra Sở Công Thương đối với lĩnh vực thuộc chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của Sở An toàn thực phẩm để không có “khoảng trống” trong

QLNN, không có đơn vị, doanh nghiệp nào lại không chịu sự thanh tra, kiểm tra.

3.2.4. Đổi mới việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng và đào tạo, bồi dƣỡng đội

ngũ cán bộ, công chức thanh tra

Một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của việc đổi mới tổ

chức, hoạt động thanh tra đó là yếu tố con người trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ.

Muốn làm được điều này, cần phải đổi mới việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng và

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra.

Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ thanh tra ATTP đã từng bước phát triển

cả về số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ chính trị của ngành. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế, bất

cập, đó là do đặc điểm tổ chức của ngành, nên hiện nay chưa có đội ngũ công chức

thanh tra ổn định và chuyên nghiệp hay nói khác hơn hệ thống thanh tra chuyên

86

ngành nói chung, thanh tra ATTP nói riêng còn nửa vời [13, tr 197]. Trình độ và

năng lực của nhiều công chức thanh tra ATTP chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm

vụ, còn bất cập về nhiều mặt như tri thức và năng lực thực thi nhiệm vụ cũng như

khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện đại trong công tác còn hạn chế. Chất

lượng đội ngũ công chức thanh tra chưa đồng đều, trình độ năng lực thực tế chưa

tương xứng với văn bằng. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ

luật của một số công chức còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới; tinh thần

phục vụ nhân dân chưa cao, số lượng, cơ cấu đội ngũ công chức chưa đáp ứng được

yêu cầu trước mắt và lâu dài. Công chức làm nhiệm vụ thanh tra hiện nay nhìn

chung chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; thiếu về số lượng, yếu về chất

lượng. Nhiều người mới được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, trình độ

chuyên môn rất chênh lệch khác nhau, lại chưa được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu

về nghiệp vụ thanh tra ATTP, nên chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.

Theo một báo cáo của Nguyễn Việt Hùng (2015) tại hội thảo AJCE – Phân tích thực

trạng và tương lai của hệ thống y tế tại Việt Nam, lực lượng thanh tra kiểm soát

ATTP của Việt Nam vào năm 2 12 là 3 người cho 90 triệu người dân. Con số

này tại Nhật Bản là 12.000 thanh tra cho 127 triệu dân. Tại Pháp là 4.800 thanh tra

trên 66 triệu dân, và các thanh tra này cộng tác chặt chẽ với 14.000 bác sỹ thú y để

kiểm dịch động vật. Các con số tự nói lên nhiều điều.

Vì lý do đó mà yêu cầu việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ, công chức, nâng cao

chất lượng, trình độ của đội ngũ công chức thanh tra cả về năng lực chuyên môn, cả

về nghiệp vụ thanh tra trong giai đoạn hiện nay là cần thiết, đòi hỏi phải có những

giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng đội ngũ công chức ngành Thanh tra ATTP vững

mạnh, chuyên nghiệp. Kiện toàn tổ chức và hoạt động thanh tra phải đảm bảo thật

sự gọn nhẹ, vừa đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện

thực tế trong đó các cá nhân cấu thành một tổ chức, hoạt động nhịp nhàng không

chồng chéo lên nhau, không cản trở nhau mà tạo thành một mối liên kết trong một

hệ thống chặt chẽ vận hành có hiệu quả phát huy sức mạnh của từng bộ phận trong

87

tổng thể tổ chức tạo nên sức mạnh tổng hợp [35 tr.73].

Đổi mới công tác cán bộ phải bắt đầu từ khâu xác định cơ cấu đội ngũ công

chức, định lượng các tiêu chuẩn ngạch, bậc đến việc đổi mới cơ chế tuyển dụng,

tiếp nhận, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác, đánh giá

công chức, thi đua, khen thưởng và xử lý kỷ luật; xây dựng kế hoạch phát triển

nguồn nhân lực; xây dựng bộ quy tắc ứng xử của đội ngũ cán bộ thanh tra.

Bên cạnh đó, cũng cần chú ý nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp

vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra. Trước hết, cần nâng cao năng lực trình

độ của đội ngũ công chức làm công tác này. Đặc biệt phẩm chất đạo đức của công

chức thanh tra phải được đặt lên hàng đầu. Mỗi công chức làm công tác thanh tra

phải thật sự gương mẫu, chấp hành nghiêm túc pháp luật. Cùng với đó, định kỳ cần

có cơ chế sát hạch, đánh giá năng lực của công chức Thanh tra ATTP nhằm thực

hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng có hiệu quả. Qua đó, xây dựng được đội ngũ công

chức trong tương lai đáp ứng được yêu cầu mà thực tế của ngành đặt ra, từ đó xác

định nội dung, chương trình phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp.

Thực hiện luân chuyển, biệt phái cán bộ, công chức trong hệ thống các cơ

quan thanh tra nhà nước để đào tạo, rèn luyện qua các môi trường công tác, các lĩnh

vực công tác, tăng cường cán bộ cho cơ sở, bổ sung cán bộ có thực tiễn. Xây dựng

cơ chế quản lý, sử dụng mạng lưới cộng tác viên thanh tra theo 2 phương thức:

cộng tác viên thường xuyên và cộng tác viên vụ việc.

Thứ hai, đổi mới chương trình và phương pháp đào tạo bồi dưỡng công chức

trong ngành Thanh tra ATTP. Hiện nay, Trường Cán bộ Thanh tra trực thuộc Thanh

tra Chính phủ là đơn vị có chức năng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với công chức

ngành Thanh tra ATTP. Tuy nhiên, cần đưa vào chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ để

bám sát thực tế và mang tính ứng dụng cao theo hướng xây dựng các tình huống cụ

thể diễn ra trong thực tế để học viên tự giải quyết nhằm nâng cao kỹ năng giải quyết

công việc của công chức, tránh tình trạng học lý thuyết suông, không gắn với thực tế,

không được thực hành nên cảm thấy nhàm chán. Cần trang bị những kiến thức cơ bản

về kỹ năng, những kinh nghiệm thanh tra, những ứng xử cần thiết trong quá trình

88

thanh tra. Đồng thời, tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Nội dung

chương trình giảng dạy cần cập nhật kiến thức, thông tin trong và ngoài nước, giúp

học viên có được cái nhìn thực tế mới mẻ và có thể áp dụng vào việc thực hiện chức

năng, nhiệm vụ được giao. Trong công tác đào tạo của Trường Cán bộ Thanh tra, cần

đổi mới công tác đào tạo nghiệp vụ theo hướng chuyên sâu hơn, thời gian dài hơn

(hiện nay từ 1-2 tháng), tương đương với đào tạo cán bộ của Viện kiểm sát và Tòa án.

Thứ ba, cần gắn đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng công chức. Khi sử dụng đúng

người, đúng chuyên môn không những nâng cao được hiệu quả công việc, cá nhân

phát huy được năng lực của mình mà còn tạo ra tâm lý tích cực cho quá trình phấn

đấu của công chức. Đó chính là sự trọng dụng kiến thức, kỹ năng có được của công

chức. Ngược lại sử dụng công chức không đúng quy hoạch đào tạo, sẽ là sự lãng phí

lớn về chi phí đào tạo bồi dưỡng, về nguồn nhân lực. Trong thực tế, nhu cầu nhân

lực của ngành Thanh tra ATTP nhiều nhưng khó tuyển dụng, việc sử dụng công

chức trái ngành nghề vẫn còn xảy ra, chưa phát huy hết năng lực chuyên môn của

công chức và công chức ít nhiều còn gặp khó khăn khi thực thi nhiệm vụ. Vì vậy,

cần tạo điều kiện cho công chức thanh tra được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm thực

tế trong ngành, đó là điều kiện để họ dễ dàng tiếp cận thực tiễn và bổ sung kinh

nghiệm công tác và kiến thức chuyên môn của mình. Ngoài ra, để nâng cao năng

lực của công chức trong ngành Thanh tra còn cần các giải pháp khác như: khen

thưởng, kiểm tra thường xuyên trình độ, kỹ năng của công chức, tổ chức các cuộc

thi về kiến thức và kỹ năng cho công chức trong ngành để tạo môi trường làm việc

hòa đồng, năng động, vui vẻ, vừa kiểm tra được năng lực cá nhân hay tập thể của

mỗi đội tham gia. Nâng cao năng lực của công chức thanh tra ATTP cần gắn liền

với các chính sách đãi ngộ, cải thiện tiền lương cho công chức thanh tra, có như vậy

mới tạo động lực cho đội ngũ này phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong quá

trình tiến hành thanh tra.

3.2.5. Xây dựng khung năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện

công tác thanh tra an toàn thực phẩm

hung năng lực là một công cụ mô tả các năng lực cần thiết phù hợp với một

89

dạng hoạt động cụ thể, nghề nghiệp, tổ chức hoặc ngành nghề cụ thể. hung năng

lực mô tả sự kết hợp cụ thể về kiến thức, kỹ năng và những đặc tính cá nhân khác

cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. hung năng lực bao gồm

các chỉ số hay tiêu chuẩn kết quả công việc có thể đo lường và quan sát được.

Trong hệ thống công vụ, khung năng lực có mục tiêu hỗ trợ thể chế hóa cách

thức quản lý theo năng lực và quản lý theo kết quả. Khung này mô tả các năng lực

mà một công chức phải có để đủ khả năng thực thi ở những cấp độ nhất định, khung

này đồng thời nhận diện các năng lực chung và năng lực cốt lõi mà mỗi công cần có

để hoạt động hiệu quả, năng suất. Do vậy, người công chức cần phải thích ứng, đổi

mới, sáng tạo, tự định hướng và tự tạo động lực, chứng minh qua năng lực của mình

trong thực thi công vụ.

Việc xây dựng khung năng lực cho đội ngũ thanh tra cần dựa trên các yếu tố

sau: năng lực nền tảng, năng lực chuyên môn, năng lực phù hợp với vai trò (theo cá

nhân, chuyên môn, vị trí trong tổ chức). Việc xây dựng khung năng lực cũng cần dựa

trên “khung pháp lý” để đảm bảo tính nhất quán trong hệ thống của toàn ngành thanh

tra trong giai đoạn hiện nay. hung năng lực gồm có các thành phần cơ bản sau:

- Tên năng lực hoạt động: được sử dụng để xác định chức năng của công việc;

- Định nghĩa năng lực: trong đó mô tả chung về hành vi, chức năng và những

hoạt động cần phải làm để đạt được kết quả như mong muốn;

- Các cấp độ năng lực: để xác định hành vi của công chức cần có để thực hiện

công việc có hiệu quả và làm chủ khả năng đó, các cấp độ được sắp xếp theo chiều

tăng dần của kiến thức, kỹ năng và thái độ, khi đã đạt năng lực ở cấp độ cao tất yếu

đã có năng lực ở cấp thấp hơn;

- Chỉ số năng lực: mô tả mức độ mà một công chức làm chủ được các tiêu chí

của các cấp độ năng lực; chỉ số này được thể hiện bằng những con số cụ thể.

Trong thời gian tới, để hoạt động thanh tra hoạt động hiệu quả vấn đề cấp bách

đặt ra là Ban Quản lý ATTP TP HCM cần xây dựng khung năng lực riêng phù hợp

với hoạt động của ngành, bên cạnh đó cần xây dựng các bài thi sát hạch định kỳ để

đánh giá năng lực và lấy đó làm cơ sở để luân chuyển công tác khi kết quả kiểm tra

90

không đạt.

3.2.6. Đổi mới phƣơng thức tuyên truyền để nâng cao chất lƣợng công tác

truyền thông về an toàn thực phẩm

ATTP luôn được Nhà nước và xã hội quan tâm sâu sắc. Truyền thông về thực

trạng ATTP là vấn đề được toàn xã hội rất quan tâm. Nhà nước và các bên liên quan

đã có nhiều nỗ lực để cải thiện vấn đề này, tuy nhiên, kết quả thu được vẫn còn hạn

chế, công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm gặp rất nhiều khó khăn, thách thức.

Thực tế hiện nay, đa số người tiêu dùng thực phẩm khá mù mờ về thông tin

chất lượng, nguồn gốc thực phẩm cũng như thông tin về ngưỡng đạt chuẩn của các

cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do

người tiêu dùng chưa có kênh thông tin chính thống và đáng tin cậy, trong tuyên

truyền còn nặng về các nội dung tiêu cực, chưa có nhiều thông tin, cách nhận biết

về thực phẩm an toàn dẫn đến tâm lý lo lắng, hoang mang cho nhân dân [25, tr. 49].

Xét trên bình diện hoạt động thanh tra, có thể nói kênh thông tin quan trọng để

người tiêu dùng truy xuất mức độ an toàn đối với sản phẩm mình lựa chọn đó chính

là các quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Việc công khai các quyết định trên là

một trong những giải pháp giúp hoạt động thanh tra đạt được mục đích cuối cùng là

răn đe đối tượng vi phạm đồng thời giúp mang sản phẩm an toàn đến tay người tiêu

dùng. Thực hiện quy định tại Điều 72 Luật xử lý vi phạm hành chính, trong thời hạn

03 ngày làm việc, phòng Thanh tra Ban Quản lý ATTP TP HCM công bố công khai

về các trường hợp vi phạm trên trang thông tin điện tử của cơ quan và trong thời

hạn 15 ngày tiến hành gỡ bỏ các thông tin trên khi cơ sở đã thực hiện đầy nghĩa vụ

của mình.

Hiện nay pháp luật chưa quy định về thời gian gỡ bỏ công bố công khai về các

trường hợp vi phạm trên trang thông tin điện tử của cơ quan. Tuy nhiên giải pháp

cần theo hướng quy định rõ về thời gian tùy theo mức độ của các lỗi vi phạm. Thời

gian công bố kéo dài cần ít nhất là 1 năm – đây là thời gian cần nhằm tạo “kho dữ

liệu” mang tính răn đe, đồng thời phục vụ thông tin của người dân khi tìm hiểu các

vấn đề liên quan sản phẩm mà họ quan tâm. Cùng với việc công khai trên trang

91

thông tin điện tử, thanh tra cần mạnh tay can thiệp công khai thông tin các cơ sở vi

phạm đến các Hiệp hội người tiêu dùng, Hiệp hội người sản xuất… Có như vậy

truyền thông mới phát huy được hết sức mạnh vốn có của mình.

Giải pháp thứ hai đặt ra là cần phối hợp với truyền thông tuyên truyền về trách

nhiệm bảo đảm ATTP của người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng nhằm thay đổi

nhận thức để hài hòa lợi ích hai chiều “sản xuất-tiêu dùng”. Phối hợp với Hội người

tiêu dùng cung cấp các thông tin về ATTP cho người tiêu dùng. Cần giúp người tiêu

dùng thiết lập lại hầu hết thói quen mua thực phẩm của mình và đúc rút những kinh

nghiệm mới để rút ra các thông tin có ích sau mỗi lần mua hàng. Trong quá trình

này, người tiêu dùng phân biệt các thuộc tính nội tại của thực phẩm với các thuộc

tính thông tin được truyền thông chuyển tải. Bên cạnh đó, cần đầu tư cho đào tạo và

truyền thông công ích nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp để họ thực sự

quan tâm đến bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần

xây dựng chiến lược, mục tiêu kinh doanh, đạo đức kinh doanh rõ ràng và xác định

văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp từ đó lập kế hoạch triển khai các hoạt động

nhằm hướng đến mục tiêu cuối cùng là đưa đến tay người dân sản phẩm thực phẩm

an toàn làm được điều này sẽ góp phần giải quyết vấn đề thực phẩm bẩn hiện nay

[21, tr.27 ].

Để làm được những điều trên, cơ quan quản lý cần khoác lên truyền thông một

chiếc áo mới làm cho nó đa dạng và năng động xứng tầm với nguồn thực phẩm vốn

đa dạng và có khả năng “biến hình” qua đôi tay của người kinh doanh. Do đó, điểm

cốt yếu là cần xây dựng đội ngũ làm công tác truyền thông một cách chuyên nghiệp

với nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng đủ sức để thưc tỉnh người tiêu dùng giữa

“ma trận” thực phẩm, thức tỉnh người kinh doanh thực phẩm về trách nhiệm đối với

sức khỏe cộng đồng. Hình thức cộng tác viên tuyên truyền cần được xem xét trong

bối cảnh tinh giản biên chế. Chúng ta có thể lựa chọn, sàng lọc để lựa chọn những

cộng tác viên chuyên nghiệp, có chuyên môn và am hiểu lĩnh vực ATTP để xây

92

dựng được nguồn thông tin chính thống, khoa học.

3.2.7. Đầu tƣ các nguồn lực tài chính, xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng

yêu cầu đổi mới về tổ chức, hoạt động thanh tra

Để thực hiện việc đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra với nhiều sự thay đổi

về cơ cấu tổ chức, đổi mới về phương thức hoạt động, đặt ra phải có sự đầu tư các

nguồn lực tài chính, xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt

động thanh tra.

Việc củng cố lại hệ thống tổ chức thanh tra cũng đặt ra yêu cầu phải xây dựng

cơ sở vật chất, bao gồm xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan thanh tra, trang thiết bị

làm việc, đáp ứng nhiệm vụ của quá trình đổi mới về tổ chức, hoạt động thanh tra.

Một vấn đề quan trọng khác đó là phải quan tâm đến kinh phí cho công tác

quản lý, sử dụng cán bộ và đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công

chức của ngành thanh tra. Qua đó, tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng

yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra

trong tình hình mới.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Chương 3 luận văn rút ra một số kết luận như sau:

1. Để hoàn thiện tổ chức và hoạt động thanh tra ATTP hiện nay phải phải đáp

ứng yêu cầu của công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước;

2. Định hướng hoàn thiện trong tổ chức và hoạt động thanh tra ATTP phải

tăng cường tính độc lập của thanh tra; Xác định mô hình tổ chức theo hướng từng

bước tăng cường tính độc lập trong hoạt động thanh tra để đảm bảo tính chủ động,

chính xác, khách quan trong thực hiện chính sách, pháp luật của tổ chức, cá nhân là

đối tượng thanh tra; Đổi mới tư duy trong chỉ đạo, điều hành.

3. Cần nâng cao ý thức trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan thanh tra, các cán

bộ, công chức thanh tra, trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ; Đổi mới việc tuyển dụng,

quản lý, sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng; Đổi mới về phương thức hoạt động của thanh

tra; Đầu tư các nguồn lực tài chính, xây dựng cơ sở vật chất để hoàn thiện về tổ chức

93

và hoạt động của Thanh tra ATTP của Ban Quản lý ATTP TP HCM.

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh việc đổi mới QLNN theo hướng tinh giản,

gọn nhẹ, có hiệu lực thì vấn đề tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung, thanh tra

ATTP nói riêng cũng được đặt ra như một tất yếu khách quan.

Tổ chức và hoạt động của Thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM từ

góc độ lý luận và thực tiễn theo hướng cải cách nền hành chính nhà nước đòi hỏi

phải quán triệt sâu sắc một số quan điểm như: nhận thức đúng đắn vị trí của thanh

tra là chức năng thiết yếu trong QLNN; tuân thủ các nguyên tắc của QLNN, đặc biệt

là nguyên tắc khách quan, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thể hiện ở cách tổ

chức, thẩm quyền của các tổ chức thanh tra.

Muốn mang lại hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP cần

phải hoàn thiện địa vị pháp lý của đơn vị thực hiện chức năng thanh tra này. Việc

đưa ra những kiến nghị về việc hoàn thiện những quy định về tổ chức và hoạt động

phù hợp với yêu cầu về tổ chức bộ máy, cụ thể là:

- Đổi mới hình thức và phương pháp thanh tra.

- Đào tạo đội ngũ thanh tra viên có phẩm chất và nghiệp vụ cao, đáp ứng yêu cầu.

- Hoàn thiện pháp luật ATTP cũng như thanh tra và nâng cao hiệu quả của

việc thực hiện pháp luật trên thực tế.

Trong điều kiện nước ta hiện nay, vai trò của thanh tra ATTP ngày càng trở

nên quan trọng. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà trọng tâm là cải cách nền

hành chính đang đặt ra cho hệ thống thanh tra những yêu cầu mới. Nghiên cứu để đề

xuất việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động thanh tra ATTP trên cơ sở sự nhìn nhận

đánh giá đúng về ý nghĩa, vị trí, vai trò của thanh tra là nhiệm vụ hết sức cấp thiết.

Vì vậy, việc tổ chức và hoạt động Thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM cần

phải được tiến hành cẩn trọng, từng bước và nghiêm túc nhằm đưa ra mô hình thanh

94

tra phù hợp trên khía cạnh lý luận và thực tiễn của QLNN trên địa bàn TP HCM/.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành Đảng cộng sản Việt Nam (2018), Nghị Quyết số 26-

NQ/TW ngày 19 tháng 5 năm 2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,

nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lục và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

2. Ban Quản lý ATTP TP HCM (2017), Báo cáo tình hình kinh tế-văn hóa-xã

hội năm 2017 và nhiệm vụ, giải pháp năm 2018 trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.

3. Ban Quản lý ATTP TP HCM (2018), Báo cáo kiểm điểm công tác chỉ đạo

điều hành năm 2018 và đề xuất giải pháp năm 2019.

4. Ban Quản lý ATTP TP HCM (2019), Báo cáo công tác an toàn thực phẩm

6 tháng đầu năm 2019.

5. Ban Quản lý ATTP TP HCM (2019), Báo cáo Tổng kết 03 năm thí điểm

thành lập Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh.

6. Bộ hoa học và Công nghệ (2 7), Thông tư số 21/2007/TT-BKHCN

ngày 28 tháng 09 năm 2007 hướng dẫn xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn.

7. Bộ hoa học và Công nghệ (2 13), Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 7087:2013

Ghi nhãn thực phẩm bao gói sẵn, Hà Nội.

8. Chính phủ (2011), Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước

giai đoạn 2011–2020.

9. Chính phủ (2011), Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm

2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra.

10. Chính phủ (2015), Chiến lược phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030.

11. Chính phủ (2017), Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/04/2017 của

Chính phủ về nhãn hàng hóa.

12. Chính phủ (2018), Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm

2018 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm.

13. Cục An toàn thực phẩm (2018), Phân tích nguy cơ và kiểm soát An toàn

95

thực phẩm theo chuỗi, Nhà xuất bản Y học.

14. Nguyễn Tiến Dũng (2 18), Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trong

lĩnh vực y tế từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Hà Nội.

16. Học viện Hành chính quốc gia – Viện nghiên cứu hành chính (2 ), Một

số thuật ngữ hành chính, NXB Thế Giới, Hà Nội.

17. http://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/publication/food-safety-

risk-management-in-vietnam-challenges-and-opportunities.

18. Nguyễn Thị Thương Huyền (2008), Đặc điểm của pháp luật thanh tra,

Tạp chí thanh tra 7.

19. Nguyễn Thị Thương Huyền (2008), Đánh giá thực trạng tổ chức thanh

tra- cơ sở để hoàn thiện pháp luật thanh tra, Tạp chí thanh tra 12.

20. Trần Thu Hương (2 1 ), “Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước

đối với vệ sinh an toàn thực phẩm”. Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Hành chính

Quốc Gia.

21. Nguyễn Tuấn Khanh (2013), Tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên

ngành - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp Bộ, Thanh tra

chính phủ, Hà Nội.

22. Hồ Chí Minh (1978), Huấn thị tại Hội nghị cán bộ thanh tra lần thứ 3

năm 1960, NXB Sự thật. (Tr 106).

23. Bùi Thị Hồng Nương (2 19), Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở

Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội Viện Hàn

Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam.

24. Lê Thị Thu Oanh (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức và

hoạt động thanh tra ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện nhà nước và

pháp luật, Hà Nội.

25. Đinh Thị Quế (2018), Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn

96

thực phẩm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại Học Luật Huế.

26. Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2 6), Luật Tiêu

chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Hà Nội.

27. Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2 1 ), Luật An

toàn thực phẩm, Hà Nội.

28. Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2 1 ), Luật

Thanh tra, Hà Nội

29. Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2 12), Luật

Quảng cáo, Hà Nội.

30. Thanh tra Chính phủ (2014), Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16

tháng 10 năm 2014 quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của đoàn

thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra.

31. Thanh tra Bộ Y tế (2018), Hướng dẫn thanh tra An toàn thực phẩm, NXB

Y học.

32. Thuật ngữ pháp lý phổ thông (1986), Nhà xuất bản Pháp lý.

33. Tổng cục thống kê (2016), Niên giám thống kê 2016, Hà Nội.

34. Trường Cán bộ Thanh tra, Thanh tra Chính phủ (2003), Nghiệp vụ công

tác thanh tra, NXB Thống kê, Hà Nội.

35. Ủy ban CODEX Việt Nam (2017), Thương mại và tiêu chuẩn thực phẩm,

biên dịch từ Ấn phẩm “ Trade and food standars”.

36. Vũ Hải Uyên (2018), Tổ chức và hoạt động của thanh tra nội bộ từ thực

tiễn Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Khoa Học Xã Hội.

37. Phạm Hải Vũ - Đào Thế Anh (2016), An toàn thực phẩm nông sản một số

hiểu biết về sản phẩm, hệ thống sản xuất và phân phối và chính sách nhà nước,

Nhà xuất bản Nông nghiệp.

38. Phạm Thị Hồng Yến (2011), An toàn thực phẩm và việc thực thi hiệp định

SPS/WTO: Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp đối với Việt Nam, NXB Thông tin và

97

Truyền thông, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Công tác thanh tra, kiểm tra

1. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

2017 2018 2019 Tổng hợp (6 tháng (6 tháng STT TỔNG tình hình vi phạm cuối năm) đầu năm)

Tổng số cơ sở được 582 4.372 4.056 1 9.010 kiểm tra

114 Số cơ sở có vi phạm 845 492 1.451 2 Tỷ lệ vi phạm 19,6% 19,3% 12,1% 16,1%

469 1.420 Số cơ sở vi phạm bị xử 114 837 (đang tiếp 2.1 (đang tiếp lý tục xử lý: 20) tục xử lý: 20)

Trong đó:

2.1.1 Hình thức phạt chính:

Số cơ sở bị cảnh cáo 04 02 06

Số cơ sở bị phạt tiền 833 112 469 1.414

Tổng số tiền phạt 1.717.060 9.849.546 6.736.993 18.303.599 (ngàn đồng)

Trung bình 15.331 11.824 14.365 12.945 (ngàn đồng/vụ)

2.1.2: Hình thức phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả

Số cơ sở bị đình chỉ * 08 15 23 hoạt động

Số cơ sở bị thu hồi/tiêu * 92 08 86 184 huỷ sản phẩm

1

Số cơ sở bị đình chỉ lưu * 02 01 03 06 hành tài liệu q/cáo

Các xử lý khác:

* - Buộc thực hiện việc 03 09 12

kiểm dịch lại spđv

Chuyển hồ sơ sang cơ 2.2 03 03 quan khác xử lý

Số cơ sở có vi phạm

2.3 nhưng không xử lý

- Không còn hoạt động 05 03 08

2. So sánh tình hình thực hiện kiểm tra việc chấp hành các quy định về an

toàn thực phẩm qua các năm (6 tháng cuối năm 2017, 6 tháng đầu năm 2018 và

6 tháng đầu năm 2019

Số lượng cơ sở được kiểm tra tăng nhưng tỉ lệ cơ sở vi phạm có xu hướng

giảm qua từng năm. Cụ thể như sau:

Tổng hợp tình hình vi 6 tháng cuối 6 tháng đầu 6 tháng đầu STT phạm năm 2017 năm 2018 năm 2019

Số cơ sở được kiểm tra 582 1.689 4.056 1

Số cơ sở có vi phạm 114 339 492 2

Tỷ lệ 19,6% 20,1% 12,1%

469

2.1 Số cơ sở vi phạm bị xử lý 114 333 (đang tiếp tục

xử lý: 20)

2.1.1 Hình thức phạt chính:

Số cơ sở bị cảnh cáo 02 03

Số cơ sở bị phạt tiền 112 330 469

Tổng số tiền phạt (ngàn 1.717.060 3.138.905 6.736.993 đồng)

2

Trung bình (ngàn đồng/vụ) 15.331 9.512 14.365

2.1.2: Hình thức phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả

Số cơ sở bị đình chỉ hoạt * 05 15 động (có thời hạn)

Số cơ sở bị thu hồi/tiêu huỷ * 41 86 08 sản phẩm

Số cơ sở bị đình chỉ lưu * 01 03 01 hành tài liệu q/cáo

Các xử lý khác:

* - Buộc thực hiện việc kiểm 09

dịch lại spđv

Chuyển hồ sơ sang cơ quan 2.2 01 khác xử lý

Số cơ sở có vi phạm nhưng

2.3 không xử lý

3

- Không còn hoạt động 05 03