BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGÔ THỊ MAI

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

MÃ SỐ: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC

HÀ NỘI - NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng

tôi, có sự hỗ trợ từ Giảng viên hướng dẫn là GS. TSKH. Đào Trí Úc. Các số

liệu, nội dung nghiên cứu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được ai công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2019

Học viên

Ngô Thị Mai

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô cùng các bạn trong lớp cao

học LH4.B1 chuyên ngành Luật hiến pháp và Luật hành chính đã giúp đỡ tôi

trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia.

Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy

GS. TSKH. Đào Trí Úc - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngƣời đã tận

tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi hoàn thành luận văn Thạc sỹ này.

Kính chúc các thầy, cô mạnh khỏe, thành công trong sự nghiệp.

Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2019

Học viên

Ngô Thị Mai

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................ 9

1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của của Tòa án nhân dân ........................ 9

1.1.1 Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước ...................... 9

1.1.2 Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ............ 12

1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân cấp cao

ở Việt Nam hiện nay ...................................................................................................... 22

1.2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ............. 22

1.2.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ........... 26

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức và hoạt

động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay ..................................... 31

1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp cao ............................................................................................................................... 31

1.3.2. Mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp cao ............................................................................................................................... 35

1.4. Mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở một số

nƣớc trên thế giới ............................................................................................................ 37

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................. 41

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN

NHÂN CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................... 43

3.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển về tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp cao........................................................................................ 43

3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959........................................................... 43

3.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980.......................................................... 46

3.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992.......................................................... 47

3.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002.......................................................... 48

3.1.5. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2014.......................................................... 49

3.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao theo Luật tổ chức

Tòa án nhân dân năm 2014 ........................................................................................... 52

3.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao .............. 59

3.3.1. Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân cấp cao .................... 59

3.3.2. Thực trạng hoạt động xét của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam

hiện nay ............................................................................................................................. 65

3.4. Kinh nghiệm cho Việt Nam .............................................................................. 67

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................. 68

Chƣơng 3. NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN

DÂN CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................... 69

3.1. Hoàn thiện pháp luật .............................................................................................. 69

3.2. Về tổ chức và cán bộ Tòa án nhân dân cấp cao .............................................. 72

3.3. Đẩy mạnh đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp ............................................... 76

3.4. Nâng cao hơn nữa chất lƣợng đội ngũ Thẩm phán, thực hiện tốt quy trình

tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán ............................................................................... 78

3.5. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ với cán bộ

công chức ngành Tòa án ................................................................................................ 82

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................. 84

KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 87

PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 91

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tòa án nhân dân : TAND

Tòa án nhân dân tối cao : TANDTC

Tòa án nhân dân cấp cao : TANDCC

Viện kiểm sát nhân dân : VKSND

Xã hội chủ nghĩa : XHCN

DANH MỤC BẢNG

Trang

Bảng 2.1. Bảng thống kê số lƣợng thụ lý, giải quyết vụ án phúc

thẩm và giám đốc thẩm trong giai đoạn 3 năm (từ năm

2016 đến năm 2018)…………………………………. 66

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Tòa án là cơ quan thể hiện tập trung quyền tƣ pháp của một quốc gia

hiện đại. Thông qua chức năng xét xử, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật,

bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã

hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân.

Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; Nghị

quyết số 957/2015/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban thƣờng vụ

Quốc hội khóa XIII về việc thành lập các Tòa án nhân dân cấp cao; các Quyết

định 986/QĐ-TANDTC, Quyết định 987/QĐ-TANDTC, Quyết định 988/QĐ-

TANDTC của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tổ chức bộ máy, nhiệm

vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp

cao thì cơ cấu tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ

máy giúp việc của Tòa án nhân cấp cao (TANDCC). Từ khi thành lập đến nay

TANDCC đã từng bƣớc phát triển, chất lƣợng hoạt động xét xử của Tòa án

đƣợc nâng lên một bƣớc, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội, tạo môi trƣờng ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW

“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, đổi mới

tổ chức nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân

[1]. Tiếp theo đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số

49-NQ/TW “Về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020” (sau đây gọi tắt

là Nghị quyết số 49-NQ/TW) với mục tiêu tổng thể là:“Xây dựng nền tư pháp

1

trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước

hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư

pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu

lực cao” [2].

Đặc biệt, đầu năm 2011, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ:“Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững

mạnh, bảo vệ công lý; tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính

sách pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ

máy các cơ quan tư pháp, đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc

lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp.

Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách

hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét

xử của Tòa đối với các khiếu kiện hành chính” [10]. Các quan điểm, định

hƣớng nêu trên đều khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống cơ

quan tƣ pháp và trọng tâm của công tác xét xử. Vì vậy, việc đổi mới tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp đƣợc coi là một nhiệm vụ trọng

tâm của quá trình cải cách tƣ pháp.

Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, nƣớc Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án

nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng;

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng;

Tòa án quân sự. Điều 1 Nghị quyết số 957/ NQ-UBTVQH 13 quyết định

thành lập 03 Tòa án nhân dân cấp cao là: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội;

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố

Hồ Chí Minh [23].

Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án,

quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

2

ƣơng chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái

thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh

thổ đã có hiệu lực pháp luật nhƣng bị kháng nghị bằng Hội đồng 3 Thẩm phán

hoặc Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao. Nhƣ

vậy TAND cấp cao sẽ làm phần lớn nhiệm vụ của TAND tối cao hiện nay.

Vì vậy, học viên chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và

thực tiễn, nhằm góp phần hoàn hiện pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả

hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp

cao nói riêng để làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật

Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam là một

phạm vi cơ bản trong Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Vì vậy, đây là một đề tài thu hút

đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu cũng nhƣ đông đảo bạn đọc.

Qua tìm hiểu, tác giả thấy có một số công trình khoa học trong nƣớc

đƣợc nghiên cứu dƣới mức độ và góc độ khác nhau, cả về khía cạnh pháp lý,

cả về cơ chế thực hiện. Có thể kể đến:

+ Tòa án nhân dân tối cao (2006), Thực trạng hoạt động xét xử phúc

thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử phúc thẩm

của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao”, Hà Nội; Đề tài đánh giá

thực trạng hoạt động xét xử phúc thẩm các vụ án Hình sự, dân sự, hành chính,

kinh doanh thƣơng mại, hôn nhân và gia đình và đƣa ra các giải pháp nâng

cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động xét xử các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân

dân tối cao [35].

+ Nguyễn Minh Sử (2011), Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp

huyện trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật

3

học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; Luận án của tác giả đánh giá thực

trạng tổ chức của TAND cấp huyện hiện nay, chỉ ra các mặt ƣu điểm và

khiếm khuyết trong cách tổ chức đó và tác giả cũng nhấn mạnh các quan

điểm về đổi mới mô hình tổ chức và của TAND cấp huyện và kiến nghị các

khía cạnh của việc đổi mới tổ chức TAND cấp huyện cũng nhƣ các điều kiện

bảo đảm đổi mới [15].

+ Nguyễn Minh Sử (2011),“Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của

Thẩm phán trong hoạt động xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 7/

2011, Hà Nội; Bài viết của tác giả đƣa ra các kiến nghị đi sâu vào việc đảm

bảo những yếu tố cho sự độc lập của thẩm phán nhằm tiến tới một nền tƣ

pháp hoàn toàn trong sạch đáp ứng đƣợc yêu cầu nhiệm vụ của ngành tƣ pháp

là bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật [16].

+ Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải

cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước

pháp quyền” Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Luận

án của tác giả phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án

Việt Nam hiện nay và rút ra kiến nghị cải cách hệ thống Tòa án Việt Nam nhằm

đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân và vì dân [11].

+ Nguyễn Tất Nam (2018), Bảo đảm quyền của ngƣời bị kết án theo thủ

tục giám đốc thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội,

Luận văn Thạc sĩ; Tác giả đánh giá hoạt động giám đốc thẩm có vai trò, ý

nghĩa rất quan trọng về các mặt chính trị, xã hội và pháp lý, bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật [14].

+ Trần Văn Độ (2013), Quyền Tư pháp phải do duy nhất Tòa án thực

hiện, Báo Công lý, số 15, tr2; Tác giả đánh giá vài trò của Toà án giữ vị trí

trung tâm trong hệ thống tƣ pháp. Chức năng xét xử là chức năng duy nhất,

riêng có của Toà án và chỉ thuộc về Toà án. Toà án là chủ thể trung tâm của

4

thực hiện quyền tƣ pháp, của hoạt động xét xử [37].

+ Trần Văn Độ, Yêu cầu của cải cách tư pháp về xác định Tòa án là

trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm và những vấn đề đặt ra đối với

việc sửa đổi BLTTHS, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 11, tr.5-7; Tác giả

đánh giá hoạt động xét xử đóng vai trò trọng tâm trong hoạt động tƣ pháp.

Hoạt động xét xử là hoạt động chỉ do Toà án thực hiện và xét xử là nơi tạo ra

sự tự do tranh luận, tự do trình bày quan điểm, chứng cứ của các bên. Toà án

là chủ thể trọng tâm của hoạt động xét xử, là chủ thể tạo điều kiện và làm

trọng tài cho các hoạt động tố tụng nói trên. Chỉ trong tố tụng tranh tụng hoạt

động xét xử do Toà án tiến hành mới đóng vai trò trọng tâm [38].

+ Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt

Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Tác giả đánh giá tình hình

thực hiện cải cách tƣ pháp, bài học kinh nghiệm, những yêu cầu đặt ra cần

hoàn thiện cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay [12].

+ Đào Trí Úc (2014), Vị trí trung tâm của Tòa án trong chiến lƣợc cải

cách tƣ pháp ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả làm nổi

bật Tòa án nhân dân có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Toà án là cơ quan xét

xử, thực hiện quyền tƣ pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của

Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [13].

Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã làm nổi bật

đƣợc vai trò của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân các cấp nói

riêng trong Bộ máy nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các công

trình khoa học trên đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tổ

chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Bởi vậy, luận văn tập trung nghiên

cứu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao và đƣa ra các giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND cấp cao tại Việt Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

5

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về Tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam; vị trí, vai trò, chức

năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa

án nhân dân cấp cao nói riêng. Từ đó đƣa ra những vấn đề nhằm nâng cao

hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích đề ra, khi nghiên cứu, luận văn phải thực hiện

đƣợc những nhiệm vụ cơ bản sau:

Thứ nhất, khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tòa án nhân

dân ở Việt Nam nói chung và Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng từ năm 1946

đến nay. Hệ thống và khái quát đƣợc vấn đề tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp cao ở Việt Nam nhƣ phân tích, làm rõ vị trí, vai trò, các nguyên

tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án trong bộ máy nhà nƣớc.

Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, xác định các quan điểm để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp cao đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp tại Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tượng nghiên cứu

Tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, trong đó có TAND cấp cao

là nội dung trọng tâm, là một vấn đề có liên quan trực tiếp đến hiệu quả của

hoạt động xét xử và việc tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử.

Trong phạm vi này, tác giả chỉ đề cập phƣơng diện tổ chức và hoạt động của

TAND cấp cao, bao gồm những vấn đề: Vị trí của TANDCC trong hệ thống

Tòa án và bộ máy nhà nƣớc; bộ máy, cơ cấu tổ chức và hoạt động; công tác

cán bộ và các yếu tố vật chất trong tổ chức đối với hoạt động của TANDCC,

từ đó đƣa ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

6

cao tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay

- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2016 đến 2018

- Về nội dung: Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động

của Tòa án nhân dân cấp cao mà không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động

của Tòa án quân sự.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lê Nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chính sách của

Đảng ta về xây dựng Nhà nƣớc và pháp luật, về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp

Đảng đến năm 2020, cũng nhƣ các quan điểm chỉ đạo của Đảng về tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam.

Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú trọng các

phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, hệ thống và tham khảo ý kiến.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Đây là một công trình khoa học đi sâu nghiên cứu Tổ chức và hoạt

động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam theo Luật tổ chức Tòa án nhân

dân năm 2014 về cả mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn công tác áp dụng pháp

luật. Qua đó, luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhƣ sau:

Thứ nhất, làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam; phát huy vai trò của Tòa

án nhân dân trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý và tuyên truyền, giáo

dục nâng cao ý thức pháp luật nhân dân đối với hoạt động của Tòa án.

Thứ hai, các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý

luận về tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa

7

án nhân dân cấp cao nói riêng nhằm thống nhất nhận thức về bản chất, vai trò

hoạt động xét xử của Tòa án trong đời sống xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích

của cá nhân, tổ chức.

Thứ ba, luận văn có thể đƣợc sử dụng nhƣ một tài liệu tham khảo cho

các Tòa án và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc nghiên cứu, chỉ đạo,

phối hợp trong hoạt động của Tòa án nhân dân, đồng thời có thể sử dụng đƣợc

cho việc giảng dạy và xây dựng hoàn thiện chế định pháp luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay

Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của của Tòa án nhân dân

cấp cao ở Việt Nam hiện nay

Chƣơng 3: Nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở

8

Việt Nam hiện nay.

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của của Tòa án nhân dân

1.1.1 Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước

Tòa án có vị trí, vai trò quan trọng trong các hoạt động của các cơ quan

nhà nƣớc, là biểu hiện tập trung của quyền tƣ pháp, là cơ quan thực hiện chức

năng xét xử. Khi bàn về chức năng xét xử của Tòa án trong nhà nƣớc XHCN,

V.I. Lênin viết: “Chúng ta sẽ là những người không tưởng lố bịch, nếu chúng

ta tưởng rằng một nhiệm vụ như vậy có thể thực hiện được ngay sau khi chính

quyền tư sản bị lật đổ… hoặc có thể thực hiện được mà không cần đến những

biện pháp cưỡng bách. Nếu không dùng đến cưỡng bách thì nhiệm vụ đó tuyệt

đối không thể hoàn thành được, chúng ta cần có nhà nước, chúng ta cần có

cưỡng bách. Tòa án phải là cơ quan nhà nước vô sản thực hiện sự cưỡng

bách đó” [39]. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án đồng thời thực hiện chức

năng tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Việc xét xử đúng pháp luật đã tác động

ý thức vào con ngƣời, giúp họ nâng cao ý thức pháp luật, góp phần tạo định

hƣớng dƣ luận lên án những hành vi tội ác, khuyến khách hành vi tôn trọng

pháp luật, răn đe các tƣ tƣởng coi thƣờng pháp luật. Bàn về vấn đề này, V.I.

Lênin đã viết Tòa án cần phải đảm đƣơng một nhiệm vụ khác còn quan trọng

hơn nữa. Đó là nhiệm vụ bảo đảm cho ngƣời lao động chấp hành một cách

nghiêm chỉnh nhất kỷ luật và kỷ luật tự giác.

Ngay từ buổi đầu của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Tòa án đã

chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc xét xử những hành vi vi

phạm pháp luật, chống phá nhà nƣớc ta. Cùng với quá trình phát triển của cách

mạng, ở mỗi giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu đặt ra khác nhau, tổ chức,

9

hoạt động của Tòa án nhân dân cũng có những nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau.

Vị trí và vai trò của Tòa án biểu hiện qua chức năng và thẩm quyền của

Tòa án đƣợc quy định trong Hiến pháp năm 2013, Hiến pháp năm 1992 (sửa

đổi, bổ sung năm 2001) và các văn bản pháp luật khác.

Theo quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Tòa án là cơ

quan xét xử duy nhất của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức

năng xét xử của Tòa án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó bao trùm

và xuyên suốt quá trình hoạt động của Tòa án. Điều 102 Hiến pháp năm 2013

quy định:

“1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

1. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác

do luật định.

2. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [21]

Điều 127 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), quy định Tòa án

nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phƣơng, các Tòa án quân sự và các

Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam. Khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Không

ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân”, ngƣời bị bắt, bị giam

giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền đƣợc bồi thƣờng thiệt hại về vật

chất và phục hồi danh dự. Ngƣời làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ,

truy tố, xét xử gây thiệt hại cho ngƣời khác bị xử lý nghiêm minh.

Về nhiệm vụ chung của Tòa án nhân dân, tại Hội nghị tƣ pháp toàn

quốc ngày 22/3/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tư pháp cần góp phần

của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân

dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đó là nhiệm vụ tích cực đồng thời có một

10

nhiệm vụ nữa là ngăn ngừa trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ ta,

phá hoại lợi ích của nhân dân”[4]. Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ

thực hiện chế độ pháp trị và bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân của Tòa án trong

những năm sau khi thành lập ngành, Ngƣời xem đó nhƣ là nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu của ngành Tòa án (nhiệm vụ tích cực).

Theo thời gian, nhiệm vụ của ngành Tòa án đã có những thay đổi đƣợc

thể hiện qua lời phát biểu của những ngƣời lãnh đạo đất nƣớc. Đồng chí Phạm

Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị tại Hội nghị tổng kết công tác của ngành Tòa án

năm 1983 khẳng định nhiệm vụ của ngành Tòa án là:“Về đường lối xét xử của

Tòa án nhân dân phải quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành

công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa” [32]. Mƣời tám năm sau, cũng tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án

năm 2001, đồng chí Nguyễn Văn An, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc

hội đã phát biểu:“Yêu cầu chung của đất nước đặt ra đối với các cơ quan tư

pháp nói chung, với ngành Tòa án nhân dân nói riêng là phải phục vụ đắc lực

cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội, xây dựng nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án nhân dân

trong năm 2002 và các năm tới cần nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo xét

xử khách quan chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và nhân dân

đồng tình, kiên quyết khắc phục oan sai” [33].

Nhƣ vậy có thể thấy Tòa án luôn đƣợc xem là một trong những công cụ

của nhà nƣớc dùng để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, chống lại những phần tử phản động, lật đổ chính quyền, chống lại

những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngƣợc lại ý chí của nhà nƣớc. Điều này

đƣợc quy định rõ trong Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014:

“Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

11

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình,

Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh

chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức

đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”.

Nếu nhƣ theo quan điểm của các nhà luật học kinh điển, Tòa án có vị

trí là cơ quan tƣ pháp trong bộ máy nhà nƣớc, thì trong Nhà nƣớc xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nƣớc thống nhất,

không phân chia, nhƣng có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc

trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp. Tòa án đƣợc xác

định là cơ quan thực hiện chức năng xét xử của Nhà nƣớc, một trong những

cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp, nhƣng trong cải cách tƣ pháp “Tòa án có vị

trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Tòa án Việt Nam không

kiểm soát, đối trọng với các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp, mà chủ

yếu thông qua hoạt động xét xử có vai trò bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa;

bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản

của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân

phẩm của công dân.

Qua năm bản Hiến pháp của nƣớc ta, TAND với chức năng là cơ quan

xét xử, thông qua hoạt động xét xử - hoạt động cơ bản của quyền tƣ pháp,

TAND trở thành một trong những chủ thể quan trọng nhất của quyền tƣ pháp.

Hệ thống TAND trở thành hệ thống cơ quan nhà nƣớc có vị trí độc lập trong

bộ máy nhà nƣớc ở Việt Nam.

1.1.2 Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

1.1.2.1. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân

dân tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn

Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc của

Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và xuất phát từ tính quyền lực nhà nƣớc

ta là quyền lực nhân dân. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng

12

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (Khoản 1 Điều 2). Do đó các hoạt

động quyền lực nhà nƣớc cụ thể đều phải quán triệt nguyên tắc quần chúng

nhân dân tham gia đông đảo vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc.

Vì vậy lĩnh vực hoạt động tƣ pháp mà chủ yếu là hoạt động xét xử của Tòa án

phải đảm bảo cho nhân dân trực tiếp tham gia. Do vậy ngay từ Hiến pháp đầu

tiên của nƣớc ta năm 1946, nguyên tắc này đã đƣợc thể hiện “trong khi xử

việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc

tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình” (Điều

65) [17]. Đến Hiến pháp năm 1959 tại Điều 99 đã quy định nguyên tắc này

nhƣ sau: “Việc xét xử ở các TAND có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy

định của pháp luật. Khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm

phán” [18]. Nguyên tắc này không chỉ đƣợc khẳng định tại Hiến pháp năm

1980, 1992 mà tại Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 còn quy định rõ về

chế độ Hội thẩm nhân dân: “Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm

tham gia, trừ trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.

Những trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút gọn do luật tố tụng quy

định. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự của nƣớc Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 thì thủ tục rút gọn chỉ đƣợc áp dụng khi có

đủ các điều kiện sau đây: Ngƣời thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang

hoặc ngƣời đó tự thú; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm

đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; ngƣời phạm tội có nơi cƣ trú, lý

lịch rõ ràng [24].

Nguyên tắc này bảo đảm cho Tòa án xét xử khách quan, toàn diện,

chống độc đoán hoặc tùy tiện cá nhân. Để đạt đƣợc kết quả cao trong xét xử,

các thành viên trong hội đồng xét xử phải tôn trọng nguyên tắc tập trung dân

chủ để phát huy trí tuệ của hội đồng xét xử.

Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán có nghiệp vụ tinh thông do Nhà

13

nƣớc bổ nhiệm thông qua kết quả thi tuyển của Kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán

quốc gia và cả các Hội thẩm sẽ bảo đảm cho các phán quyết của Hội đồng xét

xử khách quan, công bằng và thận trọng. Hội thẩm nhân dân cùng với Thẩm

phán bảo đảm tính nghiêm minh đúng pháp luật và họ gần gũi với nhân dân,

nắm bắt đƣợc tâm tƣ nguyện vọng, do vậy khi tham gia xét xử giúp cho hội

đồng xét xử nắm bắt đƣợc phong tục tập quán, nguyện vọng quần chúng, đặc

điểm tình hình địa phƣơng để các bản án và quyết định của Tòa án mang tính

giáo dục cao.

Điểm mới của nguyên tắc này theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014 là trong trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút

gọn thì không nhất thiết phải thành lập hội đồng xét xử để bảo đảm cho việc

xét xử nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm thời gian, tránh sự tồn đọng án.

1.1.2.2. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Đây là nguyên tắc nền tảng của hoạt động tƣ pháp nói chung và hoạt

động xét xử của Tòa án nói riêng. Nó xuất phát từ nhu cầu của xã hội có dân

chủ, đòi hỏi sự chống can thiệp của các cơ quan nhà nƣớc khác vào hoạt động

tƣ pháp.

Đối với nƣớc ta ngay từ khi hình thành Tòa án nhà nƣớc đã bảo đảm

cho tính độc lập của Tòa án tại Điều 47 Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 quy

định nhƣ sau: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập đối với các cơ quan hành chính.

Các vị Thẩm phán sẽ chỉ chú trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác

không được can thiệp vào việc tư pháp” [5].

Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định: “Trong khi xét xử, các viên

Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”;

và các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013 đều quy

định nguyên tắc này đối với TAND.

Hiến pháp năm 2013 đƣợc Quốc hội khóa XIII thông qua ngày

14

28/11/2013 đã kế thừa những thành tựu lập hiến của các bản Hiến pháp năm

1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, đồng

thời, tiếp thu những tƣ tƣởng mới về Nhà nƣớc pháp quyền cũng nhƣ thực tiễn

công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Quan

trọng nhất, việc Hiến pháp quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can

thiệp vào công việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo đảm hiến định

quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Nguyên tắc này bảo

đảm cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không bị lệ thuộc bởi sự tác

động của cơ quan và cá nhân nào, có vậy hoạt động xét xử mới đánh giá một

cách khách quan mọi khía cạnh của vụ việc và áp dụng pháp luật một cách

công tâm nhằm ra phán quyết đúng đắn, chính xác.

Nội dung của nguyên tắc này là khi tiến hành xét xử, Thẩm phán và

Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc bởi ý kiến của cơ quan hoặc cá nhân

nào. Họ độc lập đánh giá chứng cứ đã thu thập đƣợc, độc lập, xem xét các

tình tiết vụ án, độc lập nhận định và vận dụng theo đúng quy định pháp luật

để phán quyết đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án nhân dân cấp trên

không đƣợc phép dùng mệnh lệnh hành chính buộc Tòa án cấp dƣới xử theo ý

kiến của mình. Đảng lãnh đạo Tòa án nhân dân về mặt tƣ tƣởng và tổ chức

không can thiệp vào việc giải quyết các vụ việc cụ thể của Tòa án.

Đối với nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập, các quy định của Hiến pháp

năm 2013 đã xác định một cách cụ thể hơn so với các bản Hiến pháp trƣớc

đây. Nếu nhƣ Hiến pháp năm 1992 quy định: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội

thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, thì Hiến pháp năm 2013 quy định cụ

thể, sâu sắc hơn:“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của

Thẩm phán, Hội thẩm”. Các cơ quan hành chính không đƣợc ảnh hƣởng đến

hoạt động nghiệp vụ của Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân đƣợc độc lập xem

15

xét các kết quả điều tra của cơ quan Điều tra và cũng không lệ thuộc vào việc

đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân mà Tòa án nhân dân độc lập xem xét và

quyết định theo đúng pháp luật.

Để đảm bảo cho nguyên tắc này, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm

2014 quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi can thiệp vào việc xét

xử của Thẩm phán, Hội thẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử

lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy

định của pháp luật. Có thể khẳng định, độc lập xét xử là một yêu cầu cao nhất

thuộc quyền tƣ pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền. Khi hình thành quyết định

giải quyết vụ việc, ngƣời có thẩm quyền xét xử chỉ dựa vào tình tiết khách

quan của vụ việc trên cơ sở pháp lý và tƣ duy của mình để ra quyết định mà

không bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài khác. Nhƣ vậy, nguyên tắc xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đƣợc hình thành và hoàn thiện dần theo sự

phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam.

1.1.2.3. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và

quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn

Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc phát huy dân chủ đối với nhân

dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Nguyên tắc này bảo

đảm cho đông đảo nhân dân tham gia phiên tòa xét xử, đảm bảo sự giám sát

của nhân dân đối với việc xét xử của Tòa án, đồng thời góp phần giáo dục ý

thức pháp luật, phòng ngừa tội phạm thông qua xét xử của Tòa án.

Các luật tố tụng đã quy định cụ thể thành phần của hội đồng xét xử ở

từng cấp xét xử:

- Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân

dân. Trong trƣờng hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hội đồng

xét xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Đối với bị cáo bị đƣa ra

xét xử về tội theo khung hình phạt ở mức cao nhất là tử hình thì hội đồng xét

16

xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân.

- Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán và trong trƣờng hợp

cần thiết có thể có hai hội thẩm nhân dân.

- Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án nhân dân tối

cao gồm ba thẩm phán. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, ủy ban

thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng xét xử giám

đốc thẩm hoặc tái thẩm thì số thành viên tham gia xét xử phải chiếm hai phần ba

tổng số thành viên của hội đồng thẩm phán hoặc ủy ban thẩm phán đó [36].

Khoản 3 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân

xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần

phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời

tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử

kín”. Để thực hiện nguyên tắc này nhiều TAND niêm yết tại trụ sở của Tòa án

lịch xét xử hàng tuần để nhân dân biết. Đồng thời Tòa án thông báo cho các bị

cáo, ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan, bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân

sự… về thời gian xét xử để những ngƣời này có thời gian chuẩn bị bào chữa

và mời ngƣời bào chữa, phải có giấy triệu tập hợp lệ đối với bị cáo, bị hại, bị

đơn, nguyên đơn dân sự, những ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ

án, nhân chứng. Tại các phiên tòa, mọi công dân đủ 16 tuổi trở lên có quyền

tham dự phiên tòa (đối với các phiên tòa hình sự). Ngoài xét xử công khai,

Tòa án nhân dân có thể xử kín một số vụ việc, để giữ gìn bí mật nhà nƣớc,

thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc giữ gìn bí mật của các đƣơng sự theo

yêu cầu chính đáng của họ. Tuy nhiên khi tuyên án phải công khai để mọi

ngƣời biết.

Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số xuất phát từ tính

chất đặc thù của hoạt động xét xử của Tòa án mà sự phán quyết của nó không

chỉ liên quan đến lợi ích của nhà nƣớc, xã hội, quyền của công dân và cả sinh

mạng con ngƣời. Do vậy đòi hỏi phải bàn bạc kỹ lƣỡng, cân nhắc thận trọng

17

nên phải cần đến trí tuệ tập thể. Hiện nay có nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng

chế độ một Thẩm phán xét xử, nhƣng đó là những vụ việc đơn giản và nhỏ

nhặt, còn những vụ việc phức tạp có tác hại lớn đều tiến hành xét xử tập thể,

Hội đồng đó có thể là nhiều Thẩm phán, có thể là Thẩm phán cùng Hội thẩm

hoặc thông qua Bồi thẩm đoàn. Đối với nƣớc ta tất cả các vụ việc hiện nay và

ở tất cả các cấp Tòa án đều xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Nguyên

tắc này đƣợc quy định một cách nhất quán trong các Hiến pháp và các Luật tổ

chức Tòa án nhân dân nƣớc ta. Hiến pháp năm 2013 tại Khoản 4 Điều 103

quy định: “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ

trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.

Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi hội đồng xét xử phải là một tập thể, có

thể là các Thẩm phán hoặc có thể gồm Thẩm phán và các Hội thẩm nhân dân,

Hội đồng xét xử có ít nhất 3 thành viên trở lên; Hội đồng xét xử làm việc tập

thể, cùng nghiên cứu hồ sơ vụ việc, cùng tham gia thẩm vấn xác minh chứng

cứ tại phiên Tòa, cùng bàn bạc và quyết định theo đa số.

Điểm mới của nguyên tắc này theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014 là trong trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút

gọn thì không nhất thiết phải thành lập hội đồng xét xử để bảo đảm cho việc

xét xử nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm thời gian, tránh sự tồn đọng án.Tuy

nhiên, nguyên tắc này trên thực tế hiện nay còn mang tính hình thức, chƣa tạo

điều kiện tốt cho Hội thẩm tiếp cận hồ sơ, trình độ Hội thẩm còn yếu do vậy

cần nghiên cứu để tiêu chuẩn hóa đối với Hội thẩm nhân dân.

1.1.2.4. Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

được bảo đảm” (Khoản 3 Điều 135). Nội dung của nguyên tắc này thể hiện

bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực của Tòa án nhân dân có thể có

thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Bản án, quyết

định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do luật tố tụng

18

quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị

kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải đƣợc xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

Nhƣ vậy, quy định của Hiến pháp năm 2013 đã bảo đảm việc thực hiện

quyền tố tụng của bị cáo và đƣơng sự đƣợc xét xử qua hai cấp: cấp xét xử sơ

thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. Điều này thể hiện sự “đoạn tuyệt” với thủ tục

xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm đƣợc thực hiện mấy chục năm qua,

nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những ngƣời tham gia tố tụng,

tránh đƣợc những sai lầm dẫn đến số lƣợng án bị cải sửa, bị hủy hằng năm

của các Tòa án. Đồng thời khi thể hiện hai cấp xét xử sẽ đƣa thủ tục giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm về đúng với bản chất là trình tự xét xử lại bản án, quyết

định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, chứ không phải là cấp xét xử thứ ba.

1.1.2.5. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Tòa án nhân dân

xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng” (Khoản 1 Điều

11) để bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng thời gian đúng thời gian, quy

trình đã quy định trong luật tố tụng, bảo đảm tính pháp chế trong việc xét xử

của tòa án.

Mục đích của nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân có thể kiểm tra,

giám sát đƣợc hoạt động của Tòa án, phát huy đƣợc tính giáo dục chính trị -

pháp lý, thu hút nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng chống

tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.

Tòa án nhân dân phải có kế hoạch xét xử các vụ án trong thời hạn luật

tố tụng quy định. Kế hoạch xét xử phải đƣợc niêm yết công khai tại trụ sở của

Tòa án. Tòa án phải thông báo cho chính quyền xã, phƣờng, thị trấn nơi cƣ trú

và làm việc cuối cùng của bị cáo đồng thời phải thông báo cho bị cáo, ngƣời

bị hại (vụ án hình sự), đƣơng sự và những ngƣời có liên quan đến vụ án biết

về thời gian, địa điểm xử án. Đối với những vụ án quan trọng, Tòa án phải

19

thông báo trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng để nhân dân biết. Về

nguyên tắc, việc xử án đƣợc thực hiện tại phòng xử án của Tòa án nhƣng Tòa

án có thể xét xử lƣu động ở nơi xảy ra vụ án để tăng cƣờng công tác tuyên

truyền, giáo dục pháp luật.

1.1.2.6. Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật

Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản thể hiện nền dân

chủ Xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tƣ pháp.

Nguyên tắc này bảo đảm tính công bằng trƣớc pháp luật, là yếu tố bảo

đảm niềm tin công lý của xã hội đối với Tòa án.

Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Tòa án xét

xử theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt

dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá

nhân, cơ quan tổ chức đều bình đẳng trước Tòa án”.

Nội dung thể hiện cụ thể:

- Mọi hành vi phạm tội, mọi tranh chấp pháp lý do bất kỳ ai thực hiện

đều đƣợc Tòa án xét xử nghiêm minh, công bằng không thiên vị.

- Mọi quy định về quyền và nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố tụng

thì bất kỳ ai khi tham gia đƣợc hƣởng quyền và nghĩa vụ ấy thì đƣợc thực

hiện quyền và phải có trách nhiệm pháp lý đầy đủ về các nghĩa vụ tố tụng đó.

Không đặc quyền cho bất ký ai, bất kỳ cơ quan tổ chức nào.

- Bình đẳng trong việc hƣởng quyền và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trƣớc

pháp luật không có bộ phận chỉ thực hiện quyền mà không thực hiện nghĩa vụ

pháp luật hoặc ngƣợc lại.

- Lời trình bày và xuất trình chứng cứ đều có giá trị nhƣ nhau đối với

mọi ngƣời, mọi tổ chức tại Tòa.

Do vậy, vi phạm nguyên tắc này sẽ vi phạm nguyên tắc dân chủ

XHCN, phá vỡ tính thống nhất của nguyên tắc pháp chế XHCN và nguy hại

hơn việc xét xử không công minh sẽ đƣa đến mất niềm tin của nhân dân đối

20

với Tòa án và đối với chế độ.

1.1.2.7. Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị

can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Nguyên tắc này đƣợc quy định trong các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến

pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm

2013 và các Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002, 2014.

Hiến pháp năm 1992 quy định ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị

cáo nhƣ là yêu cầu và nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân khi thực

hiện việc xét xử. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 quy định: Quyền bào chữa

của bị cáo đƣợc bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào

chữa cho mình. Nhƣ vậy, quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội chỉ đƣợc bảo

đảm thực hiện trong phạm vi của giai đoạn xét xử tại Tòa án [20].

Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Người bị buộc tội coi

là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản

án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Ngƣời bị bắt, bị tạm giữ, bị

can, bị cáo có quyền tự do trình bày lời khai, ý kiến không bị ép buộc phải

đƣa ra lời khai chống lại chính mình hoặc bị ép buộc phải nhận mình có tội.

Nhƣ vậy, việc chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan thực hiện quyền tố

tụng hình sự, trong đó có Tòa án nhân dân.

Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm

giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật

sư hoặc người khác bào chữa”. Trong trƣờng hợp cần thiết, mặc dù bị cáo

không yêu cầu nhƣng Tòa án vẫn phải yêu cầu đoàn luật sƣ cử ngƣời bào

chữa cho bị cáo trong các trƣờng hợp: Bị cáo có khuyết tật về thể chất và tinh

thần; Bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt cao nhất là tử hình; Bị cáo

là vị thành niên phạm tội.

Quyền bào chữa trong Hiến pháp năm 2013 đƣợc sắp xếp trong nhóm

quyền cơ bản của công dân, quyền con ngƣời. Nhƣ vậy, Hiến pháp đã xác

21

định rõ quyền bào chữa là quyền con ngƣời, quyền công dân nên không chỉ cơ

quan xét xử mà tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội phải có trách

nhiệm tôn trọng và đƣợc nhà nƣớc bảo đảm thực hiện.

Thực hiện cải cách tƣ pháp và Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản luật

ra đời nhằm tạo cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền bào chữa nhƣ: Bộ

luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân, Luật Luật sƣ, Luật Trợ giúp pháp lý,… và nhiều văn bản dƣới

luật khác. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền bào

chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo về cơ bản đã đáp ứng đƣợc những

đòi hỏi của các quy định quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời trong tố tụng

hình sự, bao gồm quyền đƣợc bào chữa, quyền đƣợc xét xử công bằng.

1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân

dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay

1.2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao

1.2.1.1. Vị trí của Tòa án nhân dân cấp cao

Nằm trong hệ thống TAND, TAND cấp cao với tƣ cách là một bộ phận

cấu thành của hệ thống TAND, nó mang những điểm chung về vị trí, vai trò

của hệ thống tòa án nƣớc ta. Cùng với TAND tối cao, các Tòa án nhân dân

cấp cao, các TAND cấp tỉnh, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật

định. TANDCC có vị trí đặc biệt quan trọng đối với các cơ quan Nhà nƣớc

nói chung và các cơ quan tƣ pháp ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng

thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ nói riêng, đƣợc thể hiện qua những

điểm sau:

Thứ nhất, TAND cấp cao là một chủ thể thực hiện quyền tƣ pháp, xét

xử nhân danh Nhà nƣớc, căn cứ vào pháp luật hiện hành của Nhà nƣớc,

TAND cấp cao phán quyết phân xử các tranh chấp và xử phạt các hành vi

phạm pháp luật mà cơ quan hành pháp khi thực hiện chức năng thi hành pháp

luật, phát hiện và truy cứu ra trƣớc Tòa án để Tòa án phán quyết có vi phạm

22

pháp luật hay không và biện pháp chế tài để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi

vi phạm pháp luật đó. Nhƣ vậy, hoạt động xét xử của TAND cấp cao phản

ánh một cách trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nƣớc, ý chí của nhân dân.

Thứ hai, thay mặt nhà nƣớc thực hiện chức năng xét xử, thông qua hoạt

động xét xử của mình, TAND cấp cao thực hiện đƣợc việc kiểm tra hành pháp

của các cơ quan Nhà nƣớc, thông qua hoạt động này công lý đƣợc bảo đảm,

pháp luật đƣợc thực thi, quyền công dân, quyền con ngƣời đƣợc bảo vệ, hơn

nữa là còn góp phần bảo vệ cho trật tự xã hội đƣợc an toàn, ổn định, phát triển

lành mạnh và bền vững.

Ở nƣớc ta, từ khi thành lập đến nay, TAND cấp cao giữ một vai trò vị

trí trung tâm trong việc tổ chức, thực hiện quyền tƣ pháp ở cấp tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ với chức năng

tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử là một trong những quan điểm cơ bản

định hƣớng hoạt động cải cách tƣ pháp đã đƣợc khẳng định trong Nghị quyết

số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ

pháp nƣớc ta đến năm 2020 và đã đƣợc Hiến pháp năm 2013 quy định tại điều

102: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Do vậy, vị trí của TAND cấp cao

trong bộ máy Nhà nƣớc cũng nhƣ trong hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt

Nam cũng từng bƣớc đƣợc xác định, đƣợc biểu hiện ngày một rõ nét hơn.

1.2.1.2. Chức năng của Tòa án nhân dân cấp cao

Qua 5 bản Hiến pháp của nƣớc ta, TAND với chức năng là cơ quan xét

xử, thông qua hoạt động xét xử - hoạt động cơ bản của quyền tƣ pháp, TAND

trở thành một trong những chủ thể quan trọng nhất của quyền tƣ pháp. Hệ

thống TAND trở thành hệ thống cơ quan nhà nƣớc có vị trí độc lập trong bộ

máy nhà nƣớc ở Việt Nam.

Theo Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, ở nƣớc Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các tòa án sau đây:

23

- Tòa án nhân dân tối cao;

- Tòa án nhân dân cấp cao;

- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và

tương đương;

- Tòa án quân sự.

Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân

gồm: Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định”, là cơ quan

xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ

pháp. Trên cơ sở các quy định nêu trên, các đạo luật về tổ chức TAND các

năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 đều khẳng định chức năng xét xử của cơ

quan Tòa án.

Xuất phát từ địa vị pháp lý của Tòa án, trên cơ sở các quy định của

pháp luật, nhất là các quy định của các đạo luật về tổ chức Tòa án và các

đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy rằng, chức năng xét xử của

Tòa án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt quá trình ra đời và

phát triển của Tòa án. Chính vì vậy, hoạt động xét xử của Tòa án, trong đó

có các TAND cấp cao có chức năng hết sức quan trọng. Xét xử phúc thẩm

vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực

pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; giám

đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm

quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng (các bản

án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao

động, hành chính và giải quyết những việc khác).

Đa số các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp cao đều là

24

những vụ án khó và phức tạp. Trong quá trình xét xử, TAND cấp cao xem xét

đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá

trình tố tụng, căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội

hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tƣ pháp,

quyết định về quyền và nghĩa vụ tài sản, quyền nhân thân. Khi xét xử, TAND

cấp cao nhân danh nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bản án và

quyết định của Tòa án mang tính quyền lực nhà nƣớc.

1.2.1.3. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao

Theo từ điển Luật học thì “Thẩm quyền xét xử là sự phân định thẩm

quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau. Việc phân định thẩm quyền

xét xử căn cứ vào những dấu hiệu nhất định và tính chất của từng vụ án cụ

thể; thẩm quyền xét xử theo loại việc, thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ hoặc

theo địa phương, thẩm quyền xét xử theo vụ án có liên quan với nhau”[42].

Đối với vấn đề thẩm quyền của TAND cấp cao, Luật tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2014 điều chỉnh nội dung thẩm quyền giữa Tòa án nhân dân cấp cao với

Tòa án nhân dân cấp tỉnh với TAND cấp huyện.

Tòa án nhân dân cấp cao là cơ quan xét xử cấp thứ 3 từ dƣới lên trong

hệ thống xét xử 4 cấp của Tòa án nhân dân Việt Nam. Tòa án nhân dân cấp

cao có thẩm quyền dƣới Tòa án nhân dân tối cao và trên Tòa án nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng.

Theo Điều 29 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì thẩm quyền

của TAND cấp cao đƣợc quy định nhƣ sau:

Thứ nhất, phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền

theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy

định của luật tố tụng.

Thứ hai, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

25

luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân

dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi

thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

Nhƣ vậy, TAND là cơ quan Nhà nƣớc có chức năng xét xử các vụ án

hình sự, dân sự, kinh doanh thƣơng mại, hành chính và giải quyết các việc

khác theo quy định của pháp luật, thẩm quyền của TAND nói chung và của

TAND cấp cao nói riêng thực chất là thẩm quyền xét xử các vụ án. Phân định

thẩm quyền xét xử của Tòa án là một trong các nội dung của hệ thống pháp

luật về tổ chức và hoạt động của TAND.

1.2.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp cao

Trong tổ chức bộ máy nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Tòa án nhân dân là một trong bốn hệ thống các cơ quan nhà nƣớc hợp thành.

Với tƣ cách là một cấp trong hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân, TAND

cấp cao tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở các nguyên tắc chung về tổ chức

và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân. Theo đó, các nguyên tắc tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao bao gồm:

- Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật

Khi nghiên cứu hồ sơ cũng nhƣ khi xét xử, Thẩm phán không bị phụ

thuộc vào kết luận của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy

tố của Viện kiểm sát, không phụ thuộc vào ý kiến của các cơ quan khác.

Trong quá trình xét xử, Thẩm phán độc lập từ việc nhận định vụ án, diễn giải

pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật và ra bản án. Các cá nhân, cơ quan, tổ

chức không đƣợc can thiệp, tác động tới các thành viên của Hội đồng xét xử

để buộc họ phải xét xử theo ý chí của mình. Mọi hành vi can thiệp vào hoạt

động xét xử của Tòa án đều bị coi là vi phạm pháp luật và ảnh hƣởng tới tính

26

khách quan của hoạt động xét xử.

Tuy nhiên trong quá trình xét xử, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến

của các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dƣ luận xã hội nhƣng khi ra quyết định

về vụ án, Thẩm phán phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét

các vấn đề của vụ án một cách độc lập, khách quan, không bị ảnh hƣởng, bị

ràng buộc bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ án. Hội đồng xét xử

phải xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một

cách thận trọng, khoa học, toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại

phiên tòa. Quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao chỉ đƣợc căn cứ vào

những chứng cứ đã đƣợc thẩm tra tại phiên tòa.

Xét xử độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà việc xét xử phải

tuân thủ các quy định của pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Khi

nghiên cứu hồ sơ, khi xét xử, Thẩm phán phải căn cứ vào các quy định của

pháp luật để giải quyết vụ án, không đƣợc tùy tiện, áp đặt ý chí chủ quan

trong việc áp dụng pháp luật. Khi thực hiện hoạt động xét xử, hoạt động gắn

liền với việc củng cố pháp chế và trật tự pháp luật thì Thẩm phán càng phải

nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật.

Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai mặt thống nhất của một

nguyên tắc cơ bản trong tố tụng. Độc lập tức là tuân theo pháp luật và tuân

theo pháp luật để đƣợc độc lập. Nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không có sự

độc lập thì chỉ là sự tuân theo một cách hình thức, không có hiệu quả. Điều đó

thể hiện là các phán quyết trong bản án, quyết định của hội đồng xét xử phải

phù hợp với mọi tình tiết khách quan của vụ án, việc xét xử phải đảm bảo

đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công

dân…; không đƣợc kết luận dựa trên ý chí chủ quan, cảm tính của cá nhân

mỗi thành viên của Hội đồng xét xử.

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và

27

quyết định theo đa số

Nội dung nguyên tắc xét xử công khai một mặt thể hiện tính dân chủ, tạo

điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát đƣợc các hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp cao, của các chủ thể tiến hành tố tụng, qua đó phát hiện những thiếu sót

hoặc sai lầm trong tiến trình giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà

nƣớc, của công dân theo quy định của pháp luật, mặt khác qua xét xử công khai

còn có tác dụng tuyên truyền pháp luật cho quần chúng nhân dân.

Có thể thấy xét xử công khai nhằm đảm bảo cơ chế kiểm tra và giám

sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử và tuyên truyền, giáo dục ý thức

pháp luật cho ngƣời dân. Tuy vậy Tòa án có thể quyết định xét xử kín trong

một số trƣờng hợp quy định hoặc theo yêu cầu chính đáng của đƣơng sự nhƣ

đã viện dẫn trên. Đây là trƣờng hợp ngoại lệ của nguyên tắc xét xử công khai

trong tố tụng hình sự.

Muốn có bản án, quyết định khách quan, đúng pháp luật đòi hỏi phải

phát huy trí tuệ tập thể. Do vậy, khi xét xử các vụ án ở các trình tự tố tụng đều

phải thành lập hội đồng xét xử, trừ trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp

cao gồm ba thẩm phán. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao, ủy ban

thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng xét xử giám

đốc thẩm hoặc tái thẩm thì số thành viên tham gia xét xử phải chiếm hai phần

ba tổng số thành viên của hội đồng thẩm phán hoặc ủy ban thẩm phán đó.

Nguyên tắc này bảo đảm cho tòa án xét xử khách quan, toàn diện,

chống độc đoán hoặc tùy tiện cá nhân. Để đạt đƣợc kết quả cao trong xét xử,

các thành viên trong hội đồng xét xử phải tôn trọng nguyên tắc tập trung dân

chủ để phát huy trí tuệ của hội đồng xét xử.

- Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử phúc thẩm

Việc bảo đảm chế độ xét xử phúc thẩm là nhằm: Bảo đảm quyền của

đƣơng sự và những ngƣời có quyền kháng cáo, kháng nghị khác theo trình tự

28

phúc thẩm; Bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định

đã bị kháng cáo, kháng nghị phải đƣợc xem xét theo trình tự phúc thẩm; Bảo

đảm các bản án không có căn cứ pháp luật và không đúng pháp luật sẽ không

đƣợc đƣa rat hi hành trong thực tế; Thực hiện việc giám sát của Tòa án nhân

dân cấp cao đối với Tòa án nhân dân tỉnh; Bảo đảm cơ chế để Tòa án nhân

dân cấp cao thực hiện nhiệm vụ của mình là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

ngƣời, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc.

Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp

cao bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đƣợc chính xác, đúng đắn, giúp kịp

thời sửa chữa sai lầm hoặc vi phạm pháp luật mà Tòa án nhân dân tỉnh mắc

phải, nhờ đó mà chất lƣợng xét xử tại các cấp xét xử đƣợc nâng cao.

- Nguyên tắc Tòa án nhân dân cấp cao xét xử kịp thời, công bằng

Trƣớc hết nguyên tắc trên đòi hỏi Tòa án phải xét xử không quá mức

chậm trễ bởi vì “Công lý chậm trễ, đồng nghĩa không có công lý” (Pascal-

luật gia La mã). Chính vì vậy, Tòa án phải xét xử kịp thời điểm đàm bảo yêu

cầu bị cáo đƣợc xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý không chỉ liên

quan đến khoảng thời gian từ khi bị cáo buộc đến khi mở phiên tòa, mà còn

đến thời gian xét xử tại tòa và thời gian giữa hai phiên xét xử sơ thẩm và phúc

thẩm, tất cà đều không đƣợc trì hoãn quá lâu.

Xét xử kịp thời không chậm trễ nhằm đảm bảo quyền con ngƣời của

những ngƣời bị buộc tội. Bởi lẽ, khi bị đƣa vào vòng quay tố tụng với tƣ cách

bị can, bị cáo, những ngƣời này có thể bị áp dụng các biện pháp cƣỡng chế tố

tụng hình sự nhƣ tạm giữ, tạm giam, cấm đi khởi nơi cứ trú và bị hạn chế một

số quyền trong khi họ chƣa bị coi là có tội thì tính thân của nguyên tắc suy

đoán vô tội. Chính vì vậy, xét xử kịp thời, tòa án sẽ nhanh chóng đƣa ra phán

quyết trong nhiều trƣờng hợp tòa tuyên họ vô tội, trả tự do và khôi phục

quyên lợi cho họ.

Nguyên tắc này đòi hỏi tòa án xét xử công bằng. Thể hiện, ngƣời bị

29

buộc tội phải đƣợc xét xử bởi một phiên tòa mà ở đó họ đƣợc thực hiện các

quyền của mình trong tố tụng hình sự mà Hiến pháp và pháp luật quy định

nhƣ: Đƣợc thông báo về phiên tòa, đƣợc biết mình bị xét xử về tội gì, đƣợc

bào chữa hay nhờ ngƣời bào chữa, đƣợc tranh luận tại phiên tòa, đƣa ra các

chứng cứ và yêu cầu. Phiên tòa công bằng là phiên tòa mà ở đó quyền của các

bên tham gia tố tụng đƣợc đảm bảo và đúng trình tự, thủ tục luật định.

- Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân

Nguyên tắc này xác định vị trí nhƣ nhau của mọi công dân trong tất cả

các lĩnh vực hoạt động của Nhà nƣớc và xã hội, cũng nhƣ trong việc tham gia

quan hệ tố tụng hình sự, không có sự ƣu tiên, ƣu đãi, phàn biệt đối xử theo

các dấu hiệu nam, nữ, dân tộc, tín ngƣỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội

và các dấu hiệu khác.

Nhà nƣớc quy định hệ thống pháp luật thống nhất và việc áp dụng pháp

luật giống nhau đối với mọi ngƣời trong khi tiến hành tố tụng. Bất cứ ngƣời

nào thực hiện hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự theo các

Điều khoản tƣơng ứng của Bộ luật hình sự, không phân biệt nam, nữ, dân tộc,

tín ngƣỡng tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.

- Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị

cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.

BLTTHS năm 2015 cũng đã sử dụng thuật ngữ pháp lý mới: “Ngƣời bị

buộc tội”, thuật ngữ thƣờng chỉ đƣợc sử dụng trong các văn bản nghiên cứu

khoa học pháp lý trƣớc đây, theo đó, “Ngƣời bị buộc tội gồm ngƣời bị bắt,

ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.

Trên cơ sở cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm

2013, Điều 16 BLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền bào chữa của

ngƣời bị buộc tội nhƣ sau: “Ngƣời bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật

sƣ hoặc ngƣời khác bào chữa. Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố

30

tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho ngƣời bị buộc tội,

bị hại, đƣơng sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp

của họ theo quy định của Bộ luật này”.

Trong những trƣờng hợp luật định, nếu ngƣời buộc tội hoặc ngƣời đại

diện hợp pháp của họ không mời ngƣời bào chữa thì các cơ quan nói trên phải

yêu cầu đoàn luật sƣ cử ngƣời bào chữa cho họ. Mặt khác, để đảm bảo cho

việc giải quyết vụ án đƣợc khách quan, toàn diện và đầy đủ, không để lọt kẻ

phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội thì việc bào chữa là cần thiết, giúp cơ

quan tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, trong

quá trình giải quyết vụ án hình sự không chỉ có buộc tội mà nó chỉ có thể đạt

hiệu quả cao khi tồn tại song song hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Đó cũng

là một trong những cơ sở giúp Toà án giải quyết vụ án đƣợc chính xác.

Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền bào vệ lợi ích hợp pháp của mình

hoặc nhờ ngƣời khác bảo vệ lợi ích của mình.

Việc tuân theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân

dân có ý nghĩa quan trọng, nó bảo đảm cho Tòa án nhân dân xét xử khách

quan, đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật đồng thời bảo đảm cho bị can, bị

cáo và đƣơng sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức

và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay

1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp cao

Tổ chức TAND cấp cao chịu tác động trƣớc hết là từ chức năng của nó.

Từ chức năng của TAND cấp cao, vai trò và vị trí của Tòa án cấp này đƣợc

khẳng định trong đời sống xã hội, quy mô tổ chức bộ máy của TAND cấp cao

đƣợc định hình trong bộ máy nhà nƣớc. Đồng thời, tổ chức TANDCC còn

chịu tác động từ những cơ quan khác trong bộ máy nhà nƣớc. Theo các quy

định trong Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan

31

đến tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc và của hệ thống cơ quan xét

xử, địa vị pháp lý của TAND cấp cao chịu sự tác động của các yếu tố khách

quan và chủ quan, chẳng hạn nhƣ các quy định pháp luật, việc tổ chức hệ

thống các cấp chính quyền hay việc phân định địa giới hành chính ở mỗi quốc

gia, hay các nhóm quan hệ cơ bản nhƣ:

Một là: Mối quan hệ giữa TAND cấp cao với các cơ quan quyền lực

nhà nước

Tòa án nhân dân cấp cao là cơ quan xét xử cấp thứ 3 từ dƣới lên trong

hệ thống xét xử 4 cấp của Tòa án nhân dân Việt Nam. Trong tổ chức và hoạt

động của mình, TAND cấp này chịu sự giám sát và chịu ảnh hƣởng của các

cơ quan đại diện từ trung ƣơng đến địa phƣơng.

Điều 19 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Quốc hội,

các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội

đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân

theo quy định của luật”.

Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của hệ

thống tòa án, trong đó có TAND tối cao thông qua việc bầu, miễn nhiệm, bãi

nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - ngƣời

đứng đầu, ngƣời có quyền lực cao nhất trong tổ chức và hoạt động của ngành

TAND, còn Chánh án TAND tối cao có thẩm quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm,

miễn nhiệm tất cả các thẩm phán địa phƣơng. Quốc hội quyết định phân bổ

ngân sách cho ngành TAND, trong đó có TAND cấp cao. Quốc hội có quyền

ban hành tất cả các loại văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức hoạt động

của Toà án; các quy tắc tố tụng của Toà án. TAND cấp cao có sự phụ thuộc

vào Quốc hội. Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật của toà án trái

với Hiến pháp, luật pháp hay Nghị quyết của mình. Chánh án TANDCC phải

báo cáo với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để báo cáo hàng năm trƣớc

32

Quốc hội. Chánh án TAND tối cao phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội

nếu có yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Quốc hội quyết định ngân sách hoạt

động hằng năm của Tòa án.

Hai là: Mối quan hệ giữa TAND cấp cao với TAND tối cao, TAND cấp

cao với TAND tỉnh và TAND cấp cao với TAND cấp huyện.

Khoản 1 Điều 18 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định:

“Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân về tổ chức”.

TAND cấp cao có vị trí nhƣ là cơ quan "cấp dƣới” trực tiếp của TAND tối

cao và là cơ quan "cấp trên" trực tiếp của TAND tỉnh và TAND huyện.

Chánh án TAND tối cao có quyền hạn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức

Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp cao và các Tòa án khác; trình Chủ tịch

nƣớc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác. Trình

Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể Tòa án nhân dân

cấp cao, quy định về phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân

dân cấp cao. Tổ chức công tác đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ cho Thẩm

phán và cán bộ TAND cấp cao.

Nhƣ vậy, theo các quy định trong pháp luật hiện hành thì TAND cấp

cao có vị trí độc lập tƣơng đối trong bộ máy Nhà nƣớc cũng nhƣ trong hệ

thống cơ quan xét xử của nƣớc ta. Sự phụ thuộc của TAND cấp cao vào hệ

thống các cơ quan này là tƣơng đối lớn. Những đặc điểm về vị trí của TAND

cấp cao trong bộ máy Nhà nƣớc, trong hệ thống cơ quan xét xử đã ảnh hƣởng

đến hoạt động của TAND cấp cao, đặc biệt là phán quyết của Tòa án trong

quá trình giải quyết vụ việc.

Ba là: Mối quan hệ giữa TAND cấp cao với Chính phủ

Theo quy định của pháp luật hiện hành, mối quan hệ giữa Toà án và

Chính phủ đƣợc xem là mối quan hệ phối hợp có tính điển hình đồng thời

cũng là mối quan hệ mang tính phụ thuộc trong hệ thống quyền lực nhà nƣớc.

Hai thiết chế này khá riêng biệt với nhau. Tuy vậy, cũng nhƣ hệ thống TAND

33

nói chung và TAND cấp cao nói riêng phải áp dụng các văn bản hƣớng dẫn

thi hành luật của Chính phủ trong quá trình xét xử dẫn đến TANDCC có sự

phụ thuộc nhất định vào Chính phủ.

Bốn là: Mối quan hệ giữa TAND cấp cao với các cơ quan khác trong

hệ thống cơ quan tư pháp.

Nhƣ đã khẳng định ở trên, trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp, toà án

có vị trí trung tâm. Thông qua hoạt động xét xử toà án sẽ đánh giá tính

đúng đắn các hành vi pháp lý của cơ quan điều tra, phán xử hành vi truy tố

của Viện kiểm sát có đúng quy định pháp luật hay không và đƣa ra phán

quyết để cơ quan thi hành án thực hiện hoạt động thi hành án. Trong mối

quan hệ bên trong này, xét xử là hoạt động trung tâm, là hoạt động thể hiện

tập trung nhất bản chất của quyền tƣ pháp. Mặc khác, pháp luật trao cho

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động tuân thủ pháp

luật của toà án trong quá trình diễn ra phiên toà. Chính quy định này đã có

ảnh hƣởng đến tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống cơ quan tƣ

pháp. Nhƣ vậy, trong pháp luật nƣớc ta, toà án có vị trí độc lập tƣơng đối

trong bộ máy Nhà nƣớc. Qua phân tích cho thấy rằng: Sự phụ thuộc của toà

án vào hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nƣớc (Quốc hội và Hội đồng nhân

dân) là tƣơng đối lớn. Tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống các cơ

quan tƣ pháp chƣa đƣợc bảo đảm do sự tác động từ phía Viện kiểm sát

nhân dân thông qua quyền giám sát hoạt động xét xử tại phiên toà. Chính

những đặc điểm này về vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nƣớc đã ảnh

hƣởng đến hoạt động của toà án, đặc biệt là yêu cầu có tính nguyên tắc hiến

định của hoạt động tài phán - toà án phải độc lập chỉ tuân theo pháp luật

trong quá trình xét xử.

Nhƣ vậy, với tƣ cách là một trong bốn cấp xét xử của hệ thống TAND,

TAND cấp cao có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan khác trong hệ thống

34

tƣ pháp

1.3.2. Mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp cao

Trên cơ sở trên, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao cần

đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:

Một là, cần nâng cao năng lực, trách nhiệm, chất lƣợng, hiệu quả công

tác xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao, bảo đảm phục vụ hiệu quả công cuộc

đổi mới của đất nƣớc. Năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc

hiểu là khả năng thực hiện chức năng, nhiệm vụ phúc thẩm, giám đốc thẩm,

tái thẩm các bản án, vụ việc theo thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc

giao. Nâng cao khả năng của thẩm phán, cán bộ Tòa án bảo đảm điều kiện

khách quan để TAND cấp cao hoàn thành chức năng xét xử. Năng lực xét xử

của Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc cấu thành bởi các yếu tố cơ bản là: Cơ cấu

tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân cấp cao; trình độ đào tạo, năng lực

chuyên môn của cán bộ, công chức, đặc biệt là của đội ngũ Thẩm phán

TAND cấp cao; trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, kỹ năng nghề

nghiệp, trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán và của thƣ ký TAND cấp cao; sự

phối hợp giữa Tòa án nhân dân cấp cao với các cơ quan tiến hành tố tụng và

các cơ quan, tổ chức có liên quan; các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật đảm

bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao.

Hai là, phải bảo đảm tính độc lập của Tòa án nhân dân cấp cao trong

hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật thông qua

sự phán đoán trên cơ sở đánh giá các chứng cứ, tình tiết có trong vụ án và đối

chiếu với các quy định của pháp luật và đƣa ra các phán quyết nhân danh nhà

nƣớc. Cuộc đấu tranh cho sự độc lập của Tòa án là một thắng lợi lớn của chế

độ Tƣ sản. Cho đến nay, cuộc đấu tranh vì sự độc lập của tòa án với cơ quan

lập pháp và cơ quan hành pháp vẫn còn gặp không ít khó khăn. Do đó, “sự

độc lập của Tòa án đối với các cơ quan nhà nƣớc khác, với các nhóm áp lực

35

xã hội (đảng phái, tôn giáo…) là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của

một chế độ pháp trị, một nhà nƣớc pháp quyền” [40]. Bởi vậy, muốn có sự

đánh giá, áp dụng đúng pháp luật, khách quan thì Tòa án và các Thẩm phán

phải có sự độc lập cả về tổ chức và ý chí quyết định. Ở nhiều nƣớc trên thế

giới, yêu cầu bảo đảm sự độc lập của Tòa án là một nguyên tắc có tính hiến

định, trong đó chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán đƣợc quy định

một cách rõ ràng, độc lập và không lệ thuộc vào các cơ quan lập pháp, hành

pháp. Sự phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ

máy nhà nƣớc và đề cao sự độc lập của Thẩm phán là điều kiện để Thẩm phán

thực hiện chức năng xét xử.

Việc đảm bảo tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án còn thể

hiện qua việc đề cao vai trò độc lập của thẩm phán trong xét xử, bởi vì hoạt

động xét xử của thẩm phán là hoạt động tƣ duy. Hoạt động này thƣờng bị ảnh

hƣởng bởi những ngoại cảnh nhƣ dƣ luận xã hội, các sức ép của các thế lực

nhà nƣớc, tôn giáo, đảng phái và gay gắt của các đƣơng sự. Tính độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán ở nƣớc ta đã đƣợc ghi nhận trong Hiến

pháp. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này đã đƣợc ghi nhận tại khoản

2 Điều 103 Hiến pháp 2013 và đƣợc cụ thể hoá tại Điều 9 Luật Tổ chức Tòa

án nhân dân năm 2014 là: “Khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật”. Việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa quan

trọng trong việc tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói

chung, Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng. Điều này đòi hỏi các Tòa án nhân

dân cấp cao phải đƣợc tổ chức độc lập với các cơ quan, tổ chức khác; hoạt

động xét xử không bị can thiệp trái pháp luật từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân

và tiến tới nghiên cứu quy định việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ lâu

dài và chế độ đãi ngộ tƣơng xứng để Thẩm phán yên tâm, liêm chính thực

36

hiện nhiệm vụ của mình.

1.4. Mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở

một số nƣớc trên thế giới

Ở Hàn Quốc:

Hệ thống Tòa án ở Hàn Quốc bao gồm:

- Tòa án tối cao

- Tòa án cấp cao

- Tòa án quận

- Tòa án chi nhánh

Các Tòa chuyên trách bao gồm: Tòa án bằng phát minh sáng chế,

ngang cấp với Tòa án cấp cao; Tòa án gia đình và Tòa án hành chính ngang

cấp với Tòa án quận.

Các Tòa án cấp cao đƣợc đặt tại 5 thành phố lớn của Hàn Quốc là

Seoul, Busan, Daegu, GWANGju, và Daejeon.

Tòa án cấp cao xét xử phúc thẩm các bản án hoặc quyết định đƣợc giải

quyết bởi một Hội đồng 3 Thẩm phán của Tòa án quận, Tòa án gia đình hoặc

Tòa án hành chính

Tòa án cấp cao Hàn Quốc cũng xét xử phúc thẩm các bản án hoặc quyết

định của Tòa án quận hoặc Tòa án chi nhánh của Tòa án quận và đƣợc giải

quyết bởi 1 Thẩm phán trong các vụ án dân sự có giá trị tranh chấp vƣợt quá

80 triệu Won.

Mỗi Tòa án cấp cao có một văn phòng để thực hiện việc quản lý Tòa

án [31]

Ở Nhật Bản

Hệ thống Tòa án của Nhật Bản bao gồm:

- Tòa án Tối cao là cơ quan xét xử cao nhất.

- Tòa án cấp cao chủ yếu xét xử phúc thẩm.

- Tòa án địa phƣơng cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết

37

các vụ kiện dân sự, các vụ án hình sự và hành chính. Tòa án gia đình chuyên

xét xử các vụ việc về hôn nhân gia đình và các tội phạm của ngƣời chƣa thành

niên. Tòa án đơn giản xét xử sơ thẩm các vụ kiện dân sự có giá trị tranh chấp

không quá 1.400.000 Yên và các vụ án hình sự nhỏ.

Tòa án cấp cao

Nhật Bản có 8 Tòa án cấp cao đặt tại 8 thành phố lớn và 6 chi nhánh

của các Tòa án này ở các nơi khác. Tháng 4/2005, Tòa sở hữu trí tuệ đƣợc

thành lập với tƣ cách là một Tòa của Tòa án cấp cao Tokyo, có thẩm quyền

phúc thẩm các vụ án về sở hữu trí tuệ do các Tòa án địa phƣơng cấp tỉnh xét

xử sơ thẩm nhƣng bị kháng cáo (kháng cáo KOSO).

Tòa án cấp cao chủ yếu xét xử phúc thẩm các bản án của các Tòa án địa

phƣơng cấp tỉnh, Tòa án gia đình và các vụ án hình sự do Tòa án đơn giản xét

xử. Tòa án cấp cao xét xử sơ thẩm một số vụ việc một số vụ việc hành chính

liên quan đến bầu cử, yêu cầu hủy bỏ quyết định của các cơ quan tài phán

hành chính nhƣ Ủy ban thƣơng mại công bằng, cơ quan thông tin tai nạn hàng

hải, cơ quan tài phán thuế quốc gia, Văn phòng bằng sáng chế; xét xử sơ thẩm

một số vụ án hình sự (nhƣ bạo loạn…)[31].

Ở Trung Quốc

Theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân Trung Quốc, hệ

thống Tòa án nhân dân đƣợc tổ chức thành 04 cấp:

- Tòa án nhân dân tối cao

- Tòa án nhân dân cấp cao

- Tòa án nhân dân trung cấp

- Tòa án nhân dân sơ cấp

Ngoài ra, còn có các Tòa án quân sự và các Tòa án nhân dân chuyên

ngành (Tòa án hàng hải, Tòa án đƣờng sắt).

38

Tòa án nhân dân cấp cao

Đƣợc thành lập tại các tỉnh (22 tỉnh), khu tự trị (5 khu tự trị) (Điều 26

Luật tổ chức Tòa án nhân dân) và các thành phố lớn trực thuộc trung ƣơng (04

thành phố), tất cả có 31 Tòa án nhân dân cấp cao với khoảng 7.000 Thẩm phán.

Cơ cấu của các Tòa án nhân dân cấp cao có thể hơi khác một chút so

với nhau và so với Tòa án nhân dân tối cao, tùy thuộc vào điều kiện riêng cụ

thể của từng Tòa án. Nhƣng nhìn chung các Tòa án nhân dân cấp cao cũng có

các Tòa tƣơng tự nhƣ ở Tòa án nhân dân tối cao.

Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,

giám đốc thẩm; xét duyệt án tử hình theo sự ủy quyền của Tòa án nhân dân tối

cao; giám sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp dƣới; quản lý Tòa án

mình và Tòa án nhân dân cấp dƣới thuộc phạm vi quản hạt của mình.

+ Tòa án nhân dân cấp cao xét xử sơ thẩm những vụ án dân sự có ảnh

hƣởng lớn trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền của mình, những vụ án thuộc

thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp dƣới nhƣng Tòa án nhân dân cấp cao

thấy cần lấy lên để xét xử hoặc những vụ án mà Tòa án nhân dân cấp dƣới

thấy cần chuyển lên cho Tòa án nhân dân cấp cao xét xử (Điều 20 và Điều 39

Bộ luật tố tụng dân sự).

Trong các vụ án hình sự, Tòa án nhân dân cấp cao xét xử sơ thẩm

những vụ án hình sự lớn trên phạm vi toàn tỉnh, những vụ án thẩm quyền của

Tòa án nhân dân cấp dƣới nhƣng Tòa án nhân dân cấp cao thấy cần lấy lên để

xét xử hoặc những vụ án có tình tiết nghiêm trọng, phức tạp mà Tòa án nhân

dân cấp dƣới thấy cần chuyển lên cho Tòa án nhân dân cấp cao xét xử (Điều

21 và Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự).

+ Tòa án nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định bị

kháng cáo, kháng nghị của Tòa án nhân dân cấp dƣới và của các Tòa án hàng

hải, Tòa án đƣờng sắt trong phạm vi tỉnh của mình.

+ Trong trƣờng hợp Tòa án nhân dân trung cấp xét xử sơ thẩm vụ án

39

hình sự, tuyên án tử hình, bị cáo không có kháng cáo, Tòa án nhân dân cấp

cao phải tiến hành xem xét lại và xin ý kiến phê chuẩn của Tòa án nhân dân

tối cao. Nếu Tòa án nhân dân tối cao không nhất trí với án tử hình có thể đƣa

vụ án ra xét xử hoặc trả vụ án để xét xử lại (Điều 200 Bộ luật tố tụng hình sự).

Tòa án nhân dân cấp cao phê chuẩn án tử hình mà Tòa án nhân dân

trung cấp tuyên hoãn thi hành án trong thời hạn 02 năm. Theo quy định tại

Điều 50 Bộ luật hình sự Trung Quốc nếu trong thời hạn 02 năm đƣợc hoãn thi

hành án tử hình, ngƣời đƣợc hoãn không phạm tội do cố ý thì sau khi hết 02

năm, hình phạt tử hình đƣợc thay bằng tù chung thân; nếu có biểu hiện hối cải

lập công thì có thể đƣợc thay bằng hình phạt tù có thời hạn từ 15 đến 20 năm;

nếu có chứng cứ xác đáng cho thấy ngƣời bị kết án cố ý phạm tội mới, thì

theo phê chuẩn của Tòa án nhân dân tối cao, bản án tử hình đƣợc thi hành,

việc phê chuẩn do Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán (Điều 201 và Điều

202 Bộ luật tố tụng hình sự).

Trình tự giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao cũng tƣơng tự

40

trình tự giám đốc thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao [31].

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án và

những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao

trong điều kiện cải cách tƣ pháp và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nƣớc ta, có thể rút ra một số kết luận sau:

Tòa án trong Bộ máy nhà nƣớc nói chung có vị trí là cơ quan tƣ pháp,

nó thực hiện chức năng xét xử thông qua đó có vai trò kiểm soát, đối trọng

với các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp đồng thời bảo vệ trật tự pháp

luật, trật tự công lý trong xã hội. Nhằm bảo vệ vững chắc các quyền và tự do

của con ngƣời, của công dân. Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc xác định là cơ

quan thực hiện chức năng xét xử của nhà nƣớc, một trong những cơ quan thực

hiện quyền tƣ pháp. TAND cấp cao thông qua hoạt động xét xử có vai trò bảo

vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm

chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng,

tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

Để Tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là

cần có những đảm bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang

tính phổ quát trong hoạt động xét xử của Tòa án. Trong điều kiện phát triển

kinh tế của đất nƣớc, Tòa án phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau: Tòa án

phải độc lập; mở rộng quyền tài phán tƣ pháp (Tài phán Hiến pháp); đảm bảo

tính dân chủ, đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân trong hoạt động;

đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động của Tòa

án; bổ sung vai trò giải thích pháp luật của Tòa án.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực

hiện cải cách tƣ pháp hiện nay, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án

41

nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng cần hƣớng tới các

mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa

án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với

hoạt động xét xử góp phần xây dựng nền tƣ pháp hiện đại trong nhà nƣớc ta.

Đồng thời thể hiện chất lƣợng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tƣ pháp

42

trong nhà nƣớc pháp quyền XHCN.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN

CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển về tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao

Trong 73 năm qua, nƣớc ta đã có 5 bản Hiến pháp: Hiến pháp năm

1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và

Hiến pháp năm 2013. Các bản Hiến pháp ra đời sau đều có những sửa đổi, bổ

sung phù hợp với sự thay đổi các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội trong

từng thời kỳ.

2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959

Sự hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân ở nƣớc ta gắn liền với

những giai đoạn phát triển của cách mạng, gắn liền với việc phục vụ cho

nhiệm vụ cách mạng ở từng thời kỳ lịch sử nhất định. Ngay sau khi Cách

mạng tháng Tám thành công, nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, bên

cạnh nhiệm vụ phải đập tan bộ máy nhà nƣớc thực dân, phong kiến, Nhà nƣớc

ta đã khẩn trƣơng xây dựng bộ máy nhà nƣớc cách mạng “của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân”, trong đó Tòa án nhân dân là bộ phận quan trọng.

Để bảo vệ chính quyền còn non trẻ và trấn áp bọn phản cách mạng,

ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 33C

thành lập các Tòa án quân sự. Các Tòa án quân sự đƣợc thành lập ở Bắc bộ

tại: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung Bộ tại: Vinh, Huế,

Quảng Ngãi; ở Nam Bộ tại: Sài Gòn, Mỹ Tho [7]. Đến ngày 29/9/1945 Chính

phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh thành lập Tòa án quân sự ở Nha Trang. Ngày

28/12/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 77C thành lập

Tòa án quân sự ở Phan Thiết [6]. Các Tòa án quân sự này có thẩm quyền xét

43

xử các tội phạm có phƣơng hại đến nền độc lập của nƣớc Việt Nam dân chủ

cộng hòa. Những bản án của Tòa án quân sự sẽ đem thi hành ngay, đƣơng sự

không có quyền chống án, trừ trƣờng hợp bản án tuyên tử hình thì ngƣời

phạm tội có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nƣớc xin ân giảm.

Để tăng cƣờng cho hệ thống Tòa án, ngày 02/01/1946, Chủ tịch Chính

phủ ban hành Sắc lệnh số 13/SL quy định tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm

phán. Theo sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 thì hệ thống Tòa án nƣớc ta

gồm có

- Các tòa án thƣợng thẩm ở cấp kì, ở mỗi kì có một tòa thƣợng thẩm;

- Các tòa đệ nhị cấp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng;

- Các tòa sơ cấp ở huyện, quận, châu, phủ.

Ở các xã có ban tƣ pháp xã do ban thƣờng vụ hành chính xã đảm nhiệm.

Về ngạch Thẩm phán. Sắc lệnh số 13/SL quy định có hai ngạch Thẩm

phán đó là ngạch Thẩm phán sơ cấp và ngạch Thẩm phán đệ nhị cấp. Thẩm

phán sơ cấp làm việc ở tòa sơ cấp. Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc ở tòa đệ

nhị cấp và tòa thƣợng thẩm.

Các thẩm phán chia làm hai loại: Thẩm phán buộc tội và thẩm phán xử

án. Thẩm phán đệ nhị cấp và thẩm phán tòa thƣợng thẩm do Chủ tịch nƣớc bổ

nhiệm. Thẩm phán của tòa sơ cấp do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp bổ nhiệm. Các

phụ thẩm nhân dân khi tham gia xét xử tiểu hình chỉ có quyền đóng góp ý

kiến chứ không có quyền quyết định, còn khi tham gia xét xử đại hình thì có

quyền quyết định cùng Thẩm phán.

Hệ thống Tòa án tƣ pháp do Bộ Tƣ pháp quản lý, những nới chƣa có

điều kiện thành lập đƣợc Tòa án, các việc tƣ pháp vẫn do Ủy ban hành chính

đảm nhiệm.

Đến ngày 09/11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thông qua bản

Hiến pháp đầu tiên của nƣớc ta, bản Hiến pháp dân chủ nhân dân làm cơ sở pháp

lý cho việc xác định chế độ chính trị - xã hội và xây dựng bộ máy nhà nƣớc kiểu

44

mới. Theo Hiến pháp năm 1946 thì hệ thống Tòa án ở nƣớc ta gồm có:

- Tòa án tối cao;

- Các Tòa án phúc thẩm;

- Các Tòa án đệ nhị cấp;

- Các Tòa án sơ cấp.

Các Tòa án này đƣợc tổ chức theo cấp xét xử chứ không tổ chức theo

đơn vị hành chính - lãnh thổ nhƣ sau này.

Theo Hiến pháp năm 1946 và Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 thì

các Tòa án đƣợc tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau đây:

- Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán: Các thẩm phán đều do Chính phủ

bổ nhiệm;

- Khi xét xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân tham gia;

- Khi xét xử các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác

không đƣợc can thiệp;

- Các phiên tòa đều công khai, trừ trƣờng hợp đặc biệt;

- Bị cáo đƣợc quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sƣ;

- Quốc dân thiểu số có quyền dung tiếng nói của mình trƣớc Tòa án.

Sau ngày 19/12/1946, nhân dân cả nƣớc bƣớc vào thời kỳ kháng chiến

trƣờng kỳ gian khổ chống thực dân Pháp và bảo vệ chính quyền cách mạng.

Để củng cố và tăng cƣờng kỷ luật trong quân đội nhân dân, ngày 16/12/1947,

Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 59/SL về thành lập Tòa án binh khu

trung ƣơng [8]. Các tòa án binh có thẩm quyền xét xử những quân nhân phạm

tội hoặc những ngƣời khác phạm tội mà gây thiệt hại cho quân đội.

Nhƣ vậy, trong thời kỳ này, ở nƣớc ta tồn tại ba loại tòa án: Các tòa án

quân sự, các tòa án binh và các tòa án tƣ pháp. Tất cả các tòa án đều phục vụ

nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc của đất nƣớc, bảo vệ thành quả của Cách

mạng tháng Tám, bảo vệ Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Trong những năm 1950, Nhà nƣớc cải cách bộ máy tƣ pháp và luật lệ tố

45

tụng nhằm dân chủ hóa trong hoạt động của hệ thống tòa án, bảo đảm cho tòa

án xét xử nhanh chóng và kịp thời. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Chính phủ ban

hành Sắc lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tƣ pháp và luật tố tụng. Theo Sắc

lệnh này, Tòa án sơ cấp nay gọi là Tòa án nhân dân huyện, Tòa án đệ nhị cấp

nay gọi là Tòa án nhân dân tỉnh, hội đồng phúc án nay gọi là tòa phúc thẩm;

phụ thẩm nhân dân đổi thành Hội thẩm nhân dân; khi xét xử hoặc bào chữa,

thẩm phán và luật sƣ không mặc áo chùng đen; hội thẩm nhân dân đƣợc tham

gia xét xử các vụ án hình sự và các vụ án dân sự; khi xét xử hội thẩm ngang

quyền với thẩm phán; tăng cƣờng thẩm quyền cho ban tƣ pháp xã; thành lập

hội đồng hòa giải tại mỗi huyện nhằm mục đích giao cho nhân dân trực tiếp

phụ trách việc hòa giải tất cả các việc hộ, kể cả việc ly dị mà trừ trƣớc đến

nay chỉ có chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh mới có thẩm quyền [9].

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980

Sau khi hòa bình lập lại ở Miền Bắc, nhà nƣớc lại tiếp tục cải cách các

cơ quan tƣ pháp. Tháng 4/1958, Quốc hội đã quyết định thành lập Tòa án

nhân dân tối cao và Viện công tố trung ƣơng. Hai cơ quan này không chịu sự

quản lý về mặt tổ chức của Bộ Tƣ pháp mà chỉ trực thuộc Hội đồng Chính

phủ. Ngày 1/7/1959, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Nghị định số 256/TTg

quy định tổ chức và nhiệm vụ của viện công tố. Ngày 29/8/1959, Thủ tƣớng

ban hành Nghị định số 321/TTg về thành lập viện công tố phúc thẩm. Theo

các văn bản pháp luật này thì các công tố ủy viên không nằm trong tổ chức

của các tòa án. Các viện công tố đƣợc thành lập từ trung ƣơng đến cấp huyện

tạo thành hệ thống độc lập nằm trong tổ chức bộ máy nhà nƣớc [30].

Ngày 31/12/1959, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến

pháp sửa đổi. Hiến pháp năm 1959 quy định lại vị trí của Tòa án nhân dân và

Viện kiểm sát nhân dân. Đây là hai hệ thống cơ quan nhà nƣớc có chức năng

khác nhau. Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao do

Quốc hội thành lập và chịu trách nhiệm trƣớc Quốc hội chứ không trực thuộc

46

Hội đồng Chính phủ nhƣ trƣớc đây.

Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ

chức Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960. Theo Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ

chức tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, hệ thống Tòa án nhân dân gồm có:

- Tòa án nhân dân tối cao;

- Các Tòa án nhân dân địa phƣơng;

- Các Tòa án quân sự.

Trong trƣờng hợp xét xử các vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập

Tòa án đặc biệt. [26]

Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định

chế độ bầu thẩm phán thay thế cho chế độ bổ nhiệm thẩm phán trƣớc đó; Thẩm

phán Tòa án nhân dân địa phƣơng do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra; các Tòa

án nhân dân đƣợc thành lập theo đơn vị hành chính - lãnh thổ; việc quản lý về tổ

chức của Tòa án nhân dân địa phƣơng do Tòa án nhân dân tối cao đảm nhiệm.

2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992

Với thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30/4/1975 Miền

Nam hoàn toàn giải phóng, đất nƣớc thống nhất. Nhiệm vụ cách mạng của

nƣớc ta là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong phạm vi cả nƣớc. Ngày

18/12/1980, Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Hiến pháp nƣớc

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài việc kế thừa những quy định của

Hiến pháp năm 1959 về Tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 1980 đã có nhiều

quy định mới nhƣ: Trong trƣờng hợp đặc biệt hoặc trong trƣờng hợp cần xét xử

những vụ án đặc biệt thì ngoài Quốc hội, Hội đồng Nhà nƣớc cũng có thể thành

lập Tòa án đặc biệt (theo Hiến pháp năm 1959 chỉ Quốc hội mới có thẩm quyền

thành lập Tòa án đặc biệt); ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp để giải

quyết những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định

của pháp luật; các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp

luật phải đƣợc cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và công dân tôn trọng, tất cả

47

mọi ngƣời và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành [19].

Cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1980 về Tòa án nhân

dân, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 03/7/1981. So

với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1959 thì Luật tổ chức Tòa án nhân dân

năm 1980 có một số quy định mới nhƣ sau: Việc quản lý Tòa án nhân dân địa

phƣơng do Bộ Tƣ pháp đảm nhiệm; mở rộng thẩm quyền xét xử theo thủ tục

giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật của Tòa án cấp dƣới bị kháng nghị vì có sự vi phạm phạm pháp luật tố

tụng hoặc phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội

dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết đƣợc khi ra bản án;

quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức hữu quan và mọi công dân trong

việc tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành những bản án và quyết định đã có

hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân; Tòa án có quyền kiến nghị với cơ

quan, tổ chức khắc phục những thiếu sót trong hoạt động quản lý. Các tổ chức

nói trên có trách nhiệm trả lời cho Tòa án nhân dân về kiến nghị đó [25].

2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002

Để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng cho thời kỳ đổi mới do Đảng

Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng và lãnh đạo, ngày 15/4/1992, Quốc hội khóa

VIII, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp năm 1992. Kế thừa những quy

định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 về

tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ

chức Tòa án nhân dân năm 1992 đã có những điểm mới sau đây:

- Thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán thay thế cho chế độ bầu thẩm

phán trƣớc đó. Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp đều do Chủ tịch nƣớc bổ

nhiệm, miễn nhiệm, cách chức;

- Thành lập các Tòa án khác do luật định.

Ngày 28/12/1993, Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992.

48

Luật này đã quy định thành lập Tòa Kinh tế thuộc cơ cấu tổ chức của Tòa án

nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ƣơng để giải quyết các vụ án kinh tế và giải quyết các yêu cầu phá sản doanh

nghiệp. Ngày 28/10/1995, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 (lần

thứ 2). Luật này quy định thành lập Tòa Lao động và Tòa Hành chính thuộc

cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ƣơng để giải quyết các tranh chấp lao động, cuộc

đình công và các vụ án hành chính [27].

Để thực hiện các quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng,

hoàn thiện bộ máy nhà nƣớc cũng nhƣ những yêu cầu cụ thể về đổi mới tổ

chức và hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, trong đó có Tòa án nhân dân đã

đƣợc đề ra trong Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng

Cộng sản Việt Nam. Ngày 02/4/2002, Quốc hội khóa X, kỳ hợp thứ 11 đã

thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân.

2.1.5. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2014

So với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 thì Luật tổ chức Tòa án

nhân dân năm 2002 có những quy định mới về tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và pháp lệnh sửa đổi, bổ

sung một số điều của pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm

2001 vẫn quy định chế độ bổ nhiệm thẩm phán nhƣng khác với trƣớc đó là Chủ

tịch nƣớc chỉ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao, còn thẩm phán trung cấp, thẩm phán sơ cấp do Chánh án Tòa án nhân

dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của các hội đồng

tuyển chọn thẩm phán; Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân

địa phƣơng, các Tòa án quân sự về tổ chức, quy định việc tiêu chuẩn hóa đội

ngũ thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân. Ngoài những tiêu chuẩn về phẩm

chất chính trị, phẩm chất đạo đức, sức khỏe, các thẩm phán còn phải có trình độ

49

cử nhân luật và đã đƣợc đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực

tiễn theo quy định của pháp luật. Hội thẩm phải có kiến thức pháp lý cần thiết.

Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

của mình mà gây thiệt hại thì phải bồi hoàn thiệt hại theo quy định của pháp

luật. Tòa án nhân dân tối cao không còn thẩm quyền xét xử theo trình tự sơ

thẩm đồng thời là chung thẩm nhằm bảo đảm quyền kháng nghị của Tòa án

nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, quyền kháng cáo của các chủ thể khác

theo trình tự phúc thẩm. Vì Tòa án nhân dân tối cao không xét xử sơ thẩm đồng

thời là chung thẩm cho nên Tòa án nhân dân tối cao không có Hội thẩm nhân

dân. Trong cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao, cơ quan thƣờng trực

của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là Ủy ban thẩm phán đã đƣợc

bãi bỏ nhằm giảm bớt cấp có thẩm quyền xét xử theo trình tự giám đốc thẩm

hoặc tái thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao [22]

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng cộng sản Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992:

“Khẩn trƣơng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã đƣợc sửa

đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới, tiếp tục xây dựng, từng

bƣớc hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các

quyết định của các cơ quan công quyền”, ngày 6/8/2011 tại kỳ họp thứ 2,

Quốc hội khóa XIII đã ra nghị quyết số 06/2001/QH13 “về việc sửa đổi, bổ

sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp

năm 1992”. Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua

Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể hóa quy định

của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án nhân dân, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ

8 đã thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24/11/2014, Tòa án nhân

dân có một số điểm mới sau:

- Về chức năng của Tòa án: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của

50

nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp.

- Về nhiệm vụ của Tòa án: Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công

lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,

bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Bằng hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ

quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc

sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật khác.

- Về quyền hạn: Tòa án nhân danh nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thƣơng mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định

của pháp luật.

- Về hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân: Điều 3 Luật tổ chức Tòa

án nhân dân năm 2014, ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các

Tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng; Tòa án nhân dân huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng. Các Tòa án nhân dân đƣợc

tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử.

- Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp

năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung một

số nguyên tắc để bảo đảm tính khoa học và tính khả thi trong tổ chức và hoạt

động của Tòa án nhân dân.

Điều 1 Nghị quyết số 957/ NQ-UBTVQH 13 quyết định thành lập 03

Tòa án nhân dân cấp cao là:

+ Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội,

có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng,

bao gồm: Thành phố Hà Nội, thành phố Hải phòng; các tỉnh: Hòa Bình, Phú

Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai,

51

Yên Bái, Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Vĩnh Phúc, Hƣng Yên, Hải

Dƣơng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định,

Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.

+ Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, trụ sở đặt tại thành phố Đà

Nẵng, có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ƣơng, bao gồm: thành phố Đà Nẵng; các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa

Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,

Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk.

+ Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, có trụ sở đặt tại

thành phố Hồ Chí Minh, có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 23 tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ƣơng, bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần

Thơ; các tỉnh: Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình

Dƣơng, Bình Phƣớc, Long An, Tây Ninh, Đắk Nông, Lâm Đồng, Hậu Giang,

Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu,

Cà Mau, An Giang và Kiên Giang [41].

2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao theo Luật

tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có khá nhiều điểm mới và đặt

trong bối cảnh hiện tại cũng có thể đƣợc coi là những bƣớc đột phá đầu tiên

hƣớng đến một Hệ thống Tòa án độc lập theo tinh thần của Hiến pháp 2013.

Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc cơ bản

đƣợc quy định tại Điều 103 của Hiến pháp, trong đó có những nguyên tắc mới

quan trọng nhƣ nguyên tắc tranh tụng đƣợc bảo đảm trong xét xử; nguyên tắc

suy đoán vô tội; đồng thời, bổ sung thêm nguyên tắc có tính chất đặc thù

trong tổ chức và hoạt động của Tòa án đã đƣợc ghi nhận tại các văn kiện Đại

hội Đảng gần đây và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về cải cách tƣ

pháp, cụ thể là “Các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm quyền

52

xét xử” (Điều 5).

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu tổ chức,

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao có những bƣớc đổi mới và đƣợc quy

định cụ thể hơn nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử.

- Về tổ chức

Theo quy định tại Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014,

nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây:

- Tòa án nhân dân tối cao;

- Tòa án nhân dân cấp cao;

- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng;

- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng

đƣơng;

- Tòa án quân sự.

Điều 1 Nghị quyết số 957/ NQ-UBTVQH 13 quyết định thành lập 03

Tòa án nhân dân cấp cao là:

- Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội,

có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng,

bao gồm: Thành phố Hà Nội, thành phố Hải phòng; các tỉnh: Hòa Bình, Phú

Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai,

Yên Bái, Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Vĩnh Phúc, Hƣng Yên, Hải

Dƣơng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định,

Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.

- Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, trụ sở đặt tại thành phố Đà

Nẵng, có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ƣơng, bao gồm: thành phố Đà Nẵng; các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa

Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,

Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk.

- Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, có trụ sở đặt tại

53

thành phố Hồ Chí Minh, có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 23 tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ƣơng, bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần

Thơ; các tỉnh: Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình

Dƣơng, Bình Phƣớc, Long An, Tây Ninh, Đắk Nông, Lâm Đồng, Hậu Giang,

Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu,

Cà Mau, An Giang và Kiên Giang.

Điều 30 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, cơ cấu tổ chức của

Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao;

+ Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động,

Tòa gia đình và ngƣời chƣa thành niên.

Trƣờng hợp cần thiết, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định thành lập

Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

+ Bộ máy giúp việc

 Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao gồm có Văn phòng và

các đơn vị khác.

 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định

nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, các đơn vị khác thuộc bộ máy giúp việc

của Tòa án nhân dân cấp cao.

+ Tòa án nhân dân cấp cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa,

các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thƣ ký Tòa án, công chức

khác và ngƣời lao động.

- Về thẩm quyền xét xử: Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao có

những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm Chánh án, các Phó

Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án

Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân

54

dân cấp cao.

Số lƣợng thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao

không dƣới mƣời một ngƣời và không quá mƣời ba ngƣời.

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn

sau đây:

 Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm

quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng;

 Thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân

cấp cao về công tác của Tòa án nhân dân cấp cao để báo cáo Tòa án nhân dân

tối cao.

+ Phiên họp của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao phải có ít

nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Ủy ban Thẩm

phán phải đƣợc quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao:

Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao phúc thẩm vụ việc mà bản

án, quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng

thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng

cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

- Về hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao:

 Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm,

tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán hoặc toàn thể Ủy ban

Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.

 Việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 03

Thẩm phán hoặc toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc

55

thực hiện theo quy định của luật tố tụng.

- Về Thẩm phán

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì tiêu

chuẩn chung để đƣợc bổ nhiệm Thẩm phán và bầu làm Hội thẩm nhân dân

nhƣ sau:

Tiêu chuẩn Thẩm phán: Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ

quốc và Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất

đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên

quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực. Có trình độ cử nhân luật trở

lên. Đã đƣợc đào tạo nghiệp vụ xét xử. Có thời gian làm công tác thực tiễn

pháp luật. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.

Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao theo quy định của Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cụ thể như sau:

+ Ngƣời có đủ tiêu chuẩn quy định nhƣ nêu trên và có đủ các điều kiện

sau đây và có đủ điều kiện sau đây thì có thể đƣợc tuyển chọn, bổ nhiệm làm

Thẩm phán cao cấp; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể đƣợc tuyển

chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán cao cấp thuộc Tòa án quân sự:

Đã là Thẩm phán trung cấp từ đủ 05 năm trở lên;

Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc

thẩm quyền của Tòa án cấp cao, Tòa án quân sự trung ƣơng theo quy định của

luật tố tụng;

Đã trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán cao cấp.

+ Trƣờng hợp do nhu cầu cán bộ của Tòa án nhân dân, ngƣời chƣa là

Thẩm phán trung cấp có đủ tiêu chuẩn, điều kiện sau đây thì có thể đƣợc

tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán cao cấp; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ

thì có thể đƣợc tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán cao cấp thuộc Tòa án

quân sự: Đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 18 năm trở lên; Có năng

56

lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của

Tòa án cấp cao, Tòa án quân sự trung ƣơng theo quy định của luật tố tụng; Đã

trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn vào ngạch Thẩm phán cao cấp.

+ Trong trƣờng hợp đặc biệt, ngƣời đƣợc cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền điều động đến để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp

cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng, tuy chƣa đủ thời

gian làm công tác pháp luật nhƣng có đủ các tiêu chuẩn quy định tại Điều 67

của Luật này và điều kiện quy định tại điểm b khoản 1, điểm b khoản 2, điểm

c khoản 3, điểm b khoản 4 Điều này thì có thể đƣợc tuyển chọn và bổ nhiệm

làm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp; nếu ngƣời

đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể đƣợc tuyển chọn và bổ nhiệm làm

Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp các Tòa án

quân sự.

- Về trách nhiệm của Thẩm phán:

+ Trung thành với Tổ quốc, gƣơng mẫu chấp hành Hiến pháp và

pháp luật;

+ Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với

nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;

+ Độc lập, vô tƣ, khách quan, bảo vệ công lý trong xét xử; chấp hành

quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, giữ gìn uy tín của Tòa án;

+ Giữ bí mật nhà nƣớc và bí mật công tác theo quy định của pháp luật;

+ Học tập, nghiên cứu để nâng cao kiến thức, trình độ chính trị và

chuyên môn nghiệp vụ Tòa án;

+ Chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn và các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo

tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình

sự theo quy định của luật. Thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền

57

hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ

xét xử có trách nhiệm bồi thƣờng và Thẩm phán đã gây thiệt hại có trách

nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của luật.

- Về những việc Thẩm phán không được làm, pháp luật quy định Thẩm

phán không được làm những việc sau:

+ Những việc pháp luật quy định cán bộ, công chức không đƣợc làm;

+ Tƣ vấn cho bị can, bị cáo, đƣơng sự hoặc ngƣời tham gia tố tụng khác

làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của

pháp luật;

+ Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh

hƣởng của mình tác động đến ngƣời có trách nhiệm giải quyết vụ án;

+ Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan,

nếu không vì nhiệm vụ đƣợc giao hoặc không đƣợc sự đồng ý của ngƣời có

thẩm quyền;

+ Tiếp bị cáo, đƣơng sự hoặc ngƣời tham gia tố tụng khác trong vụ án

mà mình có thẩm quyền giải quyết không đúng nơi quy định.

- Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán:

Nhà nƣớc có chính sách ƣu tiên về tiền lƣơng, phụ cấp đối với Thẩm

phán. Thẩm phán đƣợc cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để làm

nhiệm vụ. Thẩm phán đƣợc bảo đảm tôn trọng danh dự, uy tín; đƣợc bảo vệ

khi thi hành công vụ và trong trƣờng hợp cần thiết. Thẩm phán đƣợc đào tạo,

bồi dƣỡng để nâng cao trình độ và nghiệp vụ Tòa án. Nghiêm cấm các hành vi

cản trở, đe dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của

Thẩm phán và thân nhân của Thẩm phán. Thẩm phán đƣợc tôn vinh và khen

thƣởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thƣởng. Chế độ tiền

lƣơng, phụ cấp; mẫu trang phục, cấp phát và sử dụng trang phục, Giấy chứng

minh Thẩm phán do Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của

58

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao

Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc tổ chức bộ máy giúp

việc của Tòa án nhân dân cấp cao, đặc biệt là các ý kiến về tổ chức bộ máy giúp

việc cho Ủy ban thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện nhiệm

vụ: Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa

án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền

theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

2.3.1. Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân cấp cao

Tòa án nhân dân cấp cao là đơn vị trực thuộc Tòa án nhân dân Tối cao về

hành chính, là cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp theo quy định

của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; Nghị quyết số 957/2015/NQ -

UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội khóa XIII về việc

thành lập các Tòa án nhân dân cấp cao; các quyết định 986/QĐ-TANDTC,

Quyết định 987/QĐ - TANDTC, Quyết định 988/QĐ – TANDTC của Chánh án

Tòa án nhân dân tối cao về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị

trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao [29].

Điều 1 Nghị quyết số 957/NQ – UBTVQH13 quyết định thành lập 03

Tòa án nhân dân cấp cao: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội; Tòa án nhân

dân cấp cao tại Đà Nẵng; Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Hiện nay, theo thống kê ngày 30/6/2019 của Vụ Tổ chức - Cán bộ, Tòa

án nhân dân tối cao, tổng biên chế của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam

gồm có 307 cán bộ, công chức. Trong đó có 98 Thẩm phán cao cấp, 21 Thẩm

tra viên chính, 186 Thẩm tra viên, 02 cán sự trở xuống.

Cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:

- Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao;

- Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động,

59

Tòa gia đình và ngƣời chƣa thành niên.

Trƣờng hợp cần thiết, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định thành lập

Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

- Bộ máy giúp việc.

Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao gồm có Văn phòng và

các đơn vị khác bao gồm: Văn phòng; Phòng giám đốc, kiểm tra về hình sự,

hành chính; Phòng giám đốc, kiểm tra về dân sự, kinh doanh – thƣơng mại;

Phòng giám đốc kiểm tra về lao động, gia đình và ngƣời chƣa thành niên.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định

nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, các đơn vị khác thuộc bộ máy giúp việc

của Tòa án nhân dân cấp cao.

Tòa án nhân dân cấp cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa,

các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thƣ ký Tòa án, công chức

khác và ngƣời lao động.

+ Văn phòng:

Cơ cấu tổ chức: Văn phòng Tòa án nhân dân cấp cao có Chánh Văn

phòng, không quá 03 Phó Chánh Văn phòng và các đơn vị chức năng gồm:

Phòng Hành chính tƣ pháp; Phòng Kế toán Quản trị; Phòng Tổ chức - Cán bộ,

Thanh tra và Thi đua khen thƣởng; Phòng Lƣu trữ hồ sơ.

Các phòng trực thuộc Văn phòng Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

gồm có Trƣởng phòng, không quá 02 Phó trƣởng phòng, các công chức,

ngƣời lao động khác.

Nhiệm vụ, quyền hạn: Thực hiện những công việc về hành chính tƣ

pháp và thống kê, tổng hợp; thực hiện công tác văn thƣ lƣu trữ; triển khai các

hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin; giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp

cao trong việc quả lý công sản, ngân sách, đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết

bị, phƣơng tiện phục vụ hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao; tham mƣu

60

cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao về công tác Tổ chức - Cán bộ, công

tác thanh tra và công tác thi đua khen thƣởng; thực hiện các nhiệm vụ khác

theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao.

Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc Văn phòng Tòa án nhân dân

cấp cao:

Phòng Hành chính tư pháp: Thực hiện công tác văn thƣ, quản lý con dấu

của Tòa án nhân dân cấp cao; tiếp nhận, thụ lý hồ sơ vụ việc theo thủ tục phúc

thẩm và các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết

của Tòa án nhân dân cấp cao; giúp Chánh Văn phòng tham mƣu cho lãnh đạo

Tòa án nhân dân cấp cao trong việc phân công các Thẩm phán giải quyết các vụ

án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao; giúp Chánh Văn phòng chủ

trì, phối hợp với các đơn vị chức năng thuộc Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện

công tác tiếp công dân theo quy định của pháp luật; trực tiếp trả kết quả giải

quyết các yêu cầu của đƣơng sự (bản sao bản án, trích lục bản án…); giúp Chánh

Văn phòng làm đầu mối phối hợp các đơn vị trong việc thực hiện công tác rà

soát, tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin về lý lịch tƣ pháp theo quy định của

pháp luật về lý lịch tƣ pháp; giúp Chánh Văn phòng tham mƣu cho lãnh đạo Tòa

án nhân dân cấp cao trong thực hiện trong thực hiện công tác thống kê - tổng hợp

tình hình hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao; xây dựng các báo cáo của Tòa

án nhân dân cấp cao để báo cáo với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và cơ

quan hữu quan khác; giúp Chánh Văn phòng tham mƣu cho Chánh án quản lý,

tổ chức áp dụng thống nhất các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Xây

dựng, khai thác, duy trì, phát triển Trang thông tin điện tử và cơ sở dữ liệu phục

vụ công tác quản lý, điều hành của Tòa án nhân dân cấp cao; thực hiện các công

việc khác theo sự phân công của Chánh Văn phòng.

Phòng Kế toán Quản trị: Tham mƣu cho Chánh Văn phòng về công tác

quản lý tài chính và kế toán, đảm bảo quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn

tài chính theo chế độ quy định của Nhà nƣớc; giúp Chánh Văn phòng trong

61

việc quản lý công sản, cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động của cơ quan Tòa

án nhân dân cấp cao; lập kế hoạch duy tu, bảo dƣỡng định kỳ, sữa chữa hệ

thống cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động; tổ chức mua sắm các trang thiết

bị, văn phòng phẩm theo đề nghị của các đơn vị và sự phê duyệt của Chánh

án Tòa án nhân dân cấp cao; thực hiện công tác lễ tân, khánh tiết, công tác

bảo vệ và công tác ý tế, chăm lo sức khỏe của công chức, ngƣời lao động

trong cơ quan; tổ chức quản lý, điều hành và sử dụng các phƣơng tiện đúng

mục đích theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Văn phòng; kiểm tra, theo dõi về mặt

kỹ thuật các phƣơng tiện đúng định kỳ theo quy định; thực hiện các công việc

khác theo sự phân công của Chánh Văn phòng.

Phòng Tổ chức - Cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng: Giúp

Chánh Văn phòng tham mƣu cho Chánh án trong việc quản lý, thực hiện công

tác tổ chức cán bộ, thi đua khen thƣởng, thực hiện các chế độ chính sách đối

với công chức, ngƣời lao động của cơ quan; thanh tra việc thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, ngƣời lao động trong cơ quan; giúp

Chánh Văn phòng tham mƣu cho Chánh án giải quyết các khiếu nại, tố cáo

với cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền quản lý; giúp Chánh Văn phòng theo

dõi, quản lý thông tin trên các phƣơng tiện thông tin truyền thông liên quan

đến hoạt động của Tòa án và cán bộ, công chức trong đơn vị; thực hiện các

công việc khác theo sự phân công của Chánh Văn phòng.

Phòng Lưu trữ hồ sơ: Thực hiện công tác lƣu trữ, khai thác hồ sơ và

các tài liệu nghiệp vụ theo quy định; thực hiện các công việc khác theo sự

phân công của Chánh Văn phòng.

+ Phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính

Cơ cấu tổ chức:

Phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính có Trƣởng phòng,

không quá 02 Phó trƣởng phòng, các Thẩm tra viên, Thƣ ký Tòa án, các công

chức và nhân viên khác.

62

Nhiệm vụ, quyền hạn:

Nghiên cứu, đề xuất giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết

đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về hình

sự, hành chính đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án trong phạm vi thẩm

quyền theo lãnh thổ;

Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổ chức các phiên họp toàn thể

hoặc phiên họp 03 Thẩm phán của Ủy ban thẩm phán khi xem xét, giải quyết

các vụ án hình sự và hành chính, cử thƣ ký các phiên họp này;

Tham mƣu cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổng kết thực tiễn

xét xử, tổng hợp các vƣớng mắc, những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong

công tác xét xử các vụ án hình sự, hành chính;

Thực hiện các công việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án

nhân dân cấp cao.

+ Phòng Giám đốc kiểm tra về dân sự, kinh doanh - thương mại

Cơ cấu, tổ chức:

Phòng Giám đốc, kiểm tra về dân sự, kinh doanh – thƣơng mại có

Trƣởng phòng, không quá 02 Phó trƣởng phòng, các Thẩm tra viên, Thƣ ký

Tòa án, các công chức và nhân viên khác.

Nhiệm vụ, quyền hạn:

Nghiên cứu, đề xuất giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết

các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về

dân sự, kinh doanh - thƣơng mại đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án

trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ;

Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổ chức các phiên họp toàn thể

hoặc phiên họp 03 Thẩm phán của Ủy ban Thẩm phán khi xem xét, giải quyết

các vụ án dân sự, kinh doanh - thƣơng mai, cử thƣ ký các phiên họp này;

Tham mƣu cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổng kết thực tiễn

xét xử, tổng hợp các vƣớng mắc, những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong

63

công tác xét xử các vụ án về dân sự, kinh doanh - thƣơng mại;

Thực hiện các công việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án

nhân dân cấp cao.

+ Phòng Giám đốc, kiểm tra về lao động, gia đình và người chưa

thành niên

Cơ cấu, tổ chức:

Phòng Giám đốc, kiểm tra về lao động, gia đình và ngƣời chƣa thành

niên có Trƣởng phòng, không quá 02 Phó trƣởng phòng, các Thẩm tra viên,

Thƣ ký Tòa án, các công chức và nhân viên khác.

Nhiệm vụ, quyền hạn

Nghiên cứu, đề xuất giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết

đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về lao

động, gia đình và ngƣời chƣa thành niên đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa

án trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ;

Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổ chức các phiên họp toàn thể

hoặc phiên họp 3 Thẩm phán của Ủy ban Thẩm phán khi xem xét, giải quyết

các vụ án lao động, gia đình và ngƣời chƣa thành niên; cử thƣ ký các phiên

họp này;

Tham mƣu cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổng kết thực hiện

xét xử, tổng hợp các vƣớng mắc, những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong

công tác xét xử các vụ án về lao động, gia đình và ngƣời chƣa thành niên;

Thực hiện các công việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án

nhân dân cấp cao.

- Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm Chánh án, các Phó

Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án

Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân

dân cấp cao. Số lƣợng thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp

cao không dƣới mƣời một ngƣời và không quá mƣời ba ngƣời. Ủy ban Thẩm

64

phán Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

+ Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm

quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng;

+ Thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân

cấp cao về công tác của Tòa án nhân dân cấp cao để báo cáo Tòa án nhân dân

tối cao.

Phiên họp của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao phải có ít

nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Ủy ban Thẩm

phán phải đƣợc quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

- Các Tòa chuyên trách: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Hành chính,

Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa gia đình và ngƣời chƣa thành niên. Các Tòa

chuyên trách thực hiện chức năng nhiệm vụ theo quy định tại Điều 33 Luật tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014.

- Bộ máy giúp việc: Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao

gồm có Văn phòng và các đơn vị khác. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

quyết định thành lập và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, các

đơn vị khác thuộc bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao

2.3.2. Thực trạng hoạt động xét của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt

Nam hiện nay

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền xét xử phúc

thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao về cơ bản đã

kế thừa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thẩm quyền xét

xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao trƣớc

đây, nên mặc dù là một cấp Tòa án mới đƣợc thành lập song các Tòa án nhân

dân cấp cao đã xét xử đƣợc một số lƣợng tƣơng đối lớn các vụ án theo thủ tục

phúc thẩm, góp phần sửa chữa kịp thời những sai sót của Tòa án nhân dân cấp

65

tỉnh khi xét xử sơ thẩm, qua đó góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ con ngƣời,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Cụ thể theo thống kê của Vụ

Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao từ năm 2016 đến năm 2018 Tòa án nhân

dân cấp cao thụ lý, giải quyết số lƣợng vụ án phúc thẩm và giám đốc thẩm

[24] nhƣ sau:

Bảng 2.1: Bảng thống kê số lượng thụ lý, giải quyết vụ án phúc thẩm

và giám đốc thẩm trong giai đoạn 3 năm (từ năm 2016 đến năm 2018)

Tổng số vụ Đã giải quyết Còn lại Đạt tỷ lệ (%) Thời gian án (vụ) (vụ)

2016 5851 3813 2038 65,2

2017 5840 3523 2317 60,3

2018 8015 5170 2845 64,5

Nguồn: Báo cáo Vụ Tổng hợp TAND tối cao năm 2016, 2017, 2018 [28]

Nghiên cứu Bảng 2.1 cho thấy năm 2016 có 5851 vụ án với 3813 vụ

án đã đƣợc giải quyết còn lại 2038 vụ; năm 2017 có 5840 vụ án với 3523 vụ

án đƣợc giải quyết còn lại 2317 vụ; năm 2018 có 8015 vụ án với 5170 vụ án

đƣợc giải quyết còn lại 2845 vụ. Nhìn chung, số lƣợng vụ án hàng năm mà

Tòa án nhân dân cấp cao phải giải quyết là quá lớn, số lƣợng vụ án qua các

năm vẫn còn tồn đọng nhiều, xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan, khách

quan khác nhau nhƣ: là đơn vị mới thành lập, số lƣợng công chức đƣợc phân

bổ chƣa tƣơng xứng với yêu cầu nhiệm vụ nên vẫn còn tình trạng còn nhiều

vụ án giải quyết bị kéo dài, để quá thời hạn xét xử, có nhiều vụ án hoãn phiên

tòa nhiều lần, không đảm bảo thời hạn hoãn theo quy định. Số lƣợng Tòa án

nhân dân cấp cao chƣa thực sự phù hợp, mỗi Tòa án nhân dân cấp cao hiện

nay có địa bàn rộng, gây khó khăn cho công tác tổ chức xét xử, ban hành bản

66

án, các quyết định tố tụng. Mô hình tổ chức bộ máy giúp việc còn bất cập; số

lƣợng cán bộ đƣợc phân bổ chƣa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đƣợc giao. Thủ

tục hành chính tƣ pháp còn chƣa thực sự khoa học hợp lý, chƣa tách bạch

giữa hoạt động hành chính tƣ pháp với hoạt động xét xử, chƣa triệt để áp dụng

công nghệ thông tin trong việc quản lý hoạt động nghiệp vụ.

Nhìn chung các Tòa án nhân dân cấp cao đã thi hành thẩm quyền xét

xử phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 một cách

có hiệu quả. Việc giải quyết các vụ việc, vụ án dân sự, hình sự, kinh doanh

thƣơng mại, lao động, hôn nhân và gia đình đảm bảo đúng pháp luật, chƣa

phát hiện có trƣờng hợp nào kết án oan ngƣời không có tội. Việc giữ nguyên

hay sửa, hủy bản án sơ thẩm đƣợc các Hội đồng xét xử cân nhắc kỹ lƣỡng,

đánh giá thận trọng trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đƣợc thẩm tra công khai

tại phiên tòa và kết quả tranh tụng.

2.4. Kinh nghiệm cho Việt Nam

Từ việc nghiên cứu cơ cấu tổ chức hoạt động của Tòa án một số nƣớc

trên thế giới, chúng ta cần nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế

giới để sửa đổi các bộ luật tố tụng sao cho phù hợp. Cụ thể:

- Cần sửa đổi các quy định về thủ tục sơ thẩm sao cho vụ án chủ yếu

đƣợc giải quyết ở cấp sơ thẩm, làm cho ngƣời dân và Viện kiểm sát tin tƣởng

vào phán quyết của Tòa án sơ thẩm mà hạn chế kháng cáo, kháng nghị lên cấp

phúc thẩm.

- Sửa đổi các quy định về thủ tục phúc thẩm theo hƣớng cấp phúc

thẩm chủ yếu sữa chữa sai sót của cấp sơ thẩm, giải thích pháp luật cho Tòa

án cấp dƣới thông qua xét xử.

- Quy định rõ Tòa án cấp Giám đốc thẩm chỉ xem xét lại bản án bị

kháng nghị ở khía cạnh luật pháp, tuyệt đối không xem xét lại vụ án ở khía

67

cạnh tình tiết, sự việc.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nƣớc ta hiện nay, Tòa án nhân dân

cấp cao giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình phúc thẩm vụ việc mà bản

án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị

kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; Giám đốc thẩm, tái

thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị

kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Kể từ khi thành lập , Tòa án nhân

dân cấp cao đã có những bƣớc phát triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt

động, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ

68

máy nhà nƣớc ta.

Chƣơng 3

NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Tòa án nhân dân cấp cao là cấp xét xử độc lập, nằm giữa cấp trung

ƣơng và cấp tỉnh, có tính chất vùng miền; có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các

vụ án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và xem xét theo

trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực của

Tòa án cấp dƣới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật. Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 đã thể chế hóa chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Hiến pháp

năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về công cuộc cải cách tƣ

pháp, trong đó có quy định tƣơng đối khoa học, hợp lý về thẩm quyền xét xử

của Tòa án nhân dân cấp cao. Tuy nhiên, trƣớc yêu cầu của thực tiễn, để Tòa

án nhân dân cấp cao hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, qua đó góp phần khắc

phục những hạn chế, tồn tại trong hệ thống tòa án từ nhiều năm nay, tạo thành

một cơ chế thống nhất từ Trung ƣơng đến địa phƣơng; đảm bảo giám sát hoạt

động giữa các cấp Tòa án, đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ nâng cao hiệu

quả thi hành thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao.

3.1. Hoàn thiện pháp luật

Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh có tác động tích cực đến hoạt động xét

xử của hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp cao nói

riêng. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định

hƣớng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp bảo

đảm cho các quan hệ dân sự, lao động, kinh tế và hành chính phát triển lành

mạnh tạo cơ chế giải quyết các tranh chấp có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của nhà

nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần xây dựng nhà nƣớc

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân,

69

tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam trong

quá trình này là phải từng bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh,

bổ sung, xây dựng mới những chính sách kinh tế, cơ chế quản lý của nhà

nƣớc cho phù hợp, tạo môi trƣờng vững chắc, thông thoáng, thuận lợi cho các

tổ chức, cá nhân và cơ quan nhà nƣớc khác có tranh chấp bằng cách khởi kiện

tại Tòa án.

Hiện nay các quy định của pháp luật Việt Nam về hình sự, dân sự, kinh

doanh thƣơng mại, hành chính, hôn nhân và gia đình đã tƣơng đối đầy đủ,

song còn một số thiếu sót chƣa đƣợc điều chỉnh bổ sung kịp thời cũng là

nguyên nhân làm cho chất lƣợng, hiệu quả của công tác xét xử nói chung,

công tác xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao nói

riêng chƣa đạt đƣợc kết quả khả quan. Điều đó tạo tâm lý cho các Thẩm phán

khi đƣợc phân công xét xử rất lo ngại. Để khắc phục tình trạng này, điều quan

trọng đầu tiên phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân sự, kinh tế, hành

chính và lao động.

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục giám

đốc thẩm. Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén trong việc

thực hiện quyền lực Nhà nƣớc, thông qua đó Nhà nƣớc xử lý các hành vi vi

phạm pháp luật, xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội,

quyền lợi hợp pháp của công dân. Để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật

hình sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng phải tiến

hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định. Tuy nhiên, không

chỉ ở Việt Nam mà ngay cả các nƣớc tiên tiến trên thế giới, hoạt động TTHS

không tránh khỏi những thiết sót, sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải

quyết vụ án. Trong những năm qua công tác giám đốc thẩm còn nhiều hạn chế,

chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu trong công cuộc cải cách tƣ pháp hiện nay. Số

lƣợng các vụ án mà Tòa án thụ lý, xét xử ngày càng nhiều, nhƣng số lƣợng

các vụ án bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngày càng giảm và chiếm

70

một tỷ lệ rất thấp. Một trong những nguyên nhân của hạn chế này là do quy

định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm chƣa đầy đủ, rõ ràng, một số

quy định không còn phù hợp với định hƣớng cải cách tƣ pháp. Vì thế, việc

hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động kháng nghị

giám đốc thẩm là yêu cầu cấp bách trong tình hình hiện nay, nhằm đạt hiệu quả

cao nhất trong việc khắc phục, sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật

trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [14].

Ngoài ra đối với những văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền của Tòa án cần đƣợc rà soát, hệ thống hóa, để hƣớng dẫn thực hiện

thống nhất trong toàn ngành, tránh tình trạng mỗi Thẩm phán hiểu một cách,

gây ảnh hƣởng tới chất lƣợng và hiệu quả xét xử.

Đặc biệt, trong bối cảnh đất nƣớc ta đang trong tiến trình hội nhập quốc

tế, việc giải quyết các tranh chấp có nhân tố nƣớc ngoài ngày càng nhiều; do

đó, tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ƣớc quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế,

thƣơng mại, đầu tƣ, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi

trƣờng... Đồng thời, đẩy mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành

mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế và các

điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ƣu tiên xây dựng các văn bản

pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế; khẩn trƣơng rà soát, hoàn thiện pháp luật theo yêu cầu

gia nhập WTO; thực hiện các cam kết với ASEAN, tham gia đầy đủ vào

AFTA năm 2006, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á vào năm 2020. Hoàn

thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế (trọng tài, hoà giải) phù hợp

với tập quán thƣơng mại quốc tế. Tham gia các điều ƣớc quốc tế đa phƣơng

về tƣơng trợ tƣ pháp, nhất là các điều ƣớc liên quan tới việc công nhận và cho

thi hành các bản án, quyết định của toà án, quyết định trọng tài thƣơng mại.

Ký kết và gia nhập các công ƣớc quốc tế về chống khủng bố quốc tế, chống

tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, chống rửa tiền, chống tham nhũng, các

71

hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp. Chú trọng việc nội luật hoá những điều ƣớc quốc

tế mà Nhà nƣớc ta là thành viên liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Sớm ban hành Luật dẫn độ tội phạm và chuyển giao ngƣời bị kết án phạt tù.

3.2. Về tổ chức và cán bộ Tòa án nhân dân cấp cao

Về số lượng Tòa án nhân dân cấp cao

Thực tiễn thi hành thẩm quyền xét xử phúc thẩm của các Tòa án nhân

dân cấp cao cho thấy việc tổ chức 03 Tòa án nhân dân cấp cao nhƣ hiện nay là

một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ giải quyết các vụ án không cao,

vẫn còn có những vụ án để quá hạn, có trƣờng hợp hoãn phiên tòa nhƣng chậm

mở lại theo quy định tại khoản 2 Điều 297 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Điều này đã ảnh hƣởng đến tính nghiêm minh trong hoạt động xét xử, gây lãng

phí công sức, thời gian của nhà nƣớc và ảnh hƣởng đến quyền, lợi ích hợp pháp

của những ngƣời tham gia tố tụng, nhất là các bị cáo bị tạm giam.

Căn cứ vào số lƣợng các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của các Tòa án

nhân dân cấp cao phải giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự,

Bộ luật tố tụng dân sự thì mỗi Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết một số

lƣợng rất lớn các vụ án hình sự, vụ việc dân sự, hành chính, kinh doanh

thƣơng mại, hôn nhân và gia đình theo thủ tục phúc thẩm và giải quyết đơn đề

nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; đồng thời mỗi Tòa án nhân dân cấp cao hiện

nay có địa bàn rộng, gây khó khăn cho công tác tổ chức xét xử lƣu động và

tốn kém (vì để đảm bảo thuận lợi cho ngƣời dân và nhất là công tác dẫn giải

bị cáo, Hội đồng xét xử phải đến các địa phƣơng và xét xử tại trụ sở Tòa án

nhân dân tỉnh), do đó không khắc phục đƣợc những hạn chế trong công tác tổ

chức xét xử của các Tòa phúc thẩm trƣớc đây, ảnh hƣởng đến thời hạn xét xử,

thời hạn ban hành bản án, không đảm bảo an toàn cho Hội đồng xét xử khi

phải di chuyển trên địa bàn rộng…

Xuất phát từ thực tiễn thi hành thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, vụ

việc dân sự, hành chính, kinh doanh thƣơng mại, hôn nhân và gia đình của các

72

Tòa án nhân dân cấp cao hiện nay, tôi tán thành với quan điểm của Ban Cán

sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao tại Báo cáo số 76-BC/BCS, ngày 22/4/2015

về việc đề nghị thành lập 05 Tòa án nhân dân cấp cao, cụ thể:

- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực Hà Nội, có thẩm quyền tƣ pháp

trong phạm vi thành phố Hà Nội và các tỉnh, thành phố thuộc đồng bằng Bắc

Bộ và Miền Trung;

- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực Đà Nẵng, có thẩm quyền tƣ pháp

trong phạm vi của thành phố Đà Nẵng, các tỉnh duyên hải Miền Trung và

Tây Nguyên;

- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực thành phố Hồ Chí Minh, có thẩm

quyền tƣ pháp trog phạm vi của thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông

Nam Bộ;

- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực phía Bắc, có thẩm quyền tƣ pháp

trong phạm vi các tỉnh phía Bắc và Tây Bắc Bộ;

- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long có

thẩm quyền tƣ pháp trong phạm vi thành phố Cần Thơ và các tỉnh Tây Nam

Bộ [34].

Đề xuất này phù hợp với Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị, theo

đó Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc thành lập theo địa hạt tƣ pháp, có thẩm

quyền tƣ pháp trên phạm vi nhiều tỉnh trong cùng khu vực [3]. Mặt khác Luật

tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng không quy định cụ thể về số lƣợng

Tòa án nhân dân cấp cao mà quy định Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội có thẩm

quyền Quyết định thành lập, giải thể Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng…; quy định về phạm vi thẩm

quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao trên cơ sở đề nghị của

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Phƣơng án này cũng đảm bảo thuận lợi

cho việc tổ chức hoạt động xét xử của các Tòa án nhân dân cấp cao, hạn chế

73

việc đi lại tốn kém cho nhân dân trong việc tiếp cận Tòa án. Đồng thời đảm

bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật tƣơng đối trên cơ sở đặc điểm kinh tế -

xã hội, phong tục tập quán, văn hóa - xã hội của mỗi vùng.

Về cơ cấu tổ chức, bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao

Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc tổ chức bộ máy giúp

việc của Tòa án nhân dân cấp cao, đặc biệt là các ý kiến về tổ chức bộ máy giúp

việc cho Ủy ban thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện nhiệm

vụ: Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa

án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền

theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của Luật tố tụng.

Các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao trƣớc đây thực hiện có

hiệu quả chức năng thẩm tra hồ sơ các vụ việc mà bản án, quyết định của Tòa

án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, cần kế thừa mô hình cơ cấu tổ chức của

các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao trong việc tổ chức các Tòa

chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao. Do đó, bên cạnh nhiệm vụ đƣợc Luật

tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định là phúc thẩm vụ việc mà bản án,

quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thuộc

phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,

kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; cần giao cho các Tòa chuyên trách

nhiệm vụ tổ chức thẩm tra các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của

các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi

thẩm quyền theo lãnh thổ đã có hiệu lực pháp luật và báo cáo kết quả thẩm tra

với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao.

Điều 33 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định về nhiệm vụ

quyền hạn của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao là:

Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao phúc thẩm vụ việc mà bản

74

án, quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng

thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng

cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

Nên nếu giao cho các tòa chuyên trách thêm nhiệm vụ tổ chức thẩm tra

các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, là không đúng quy định của

Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Vì vậy, việc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

quyết định thành lập phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính là phù

hợp với Luật tổ chức Tòa án và đảm bảo chuyên môn hóa trong việc thực hiện

nhiệm vụ của các đơn vị trong Tòa án nhân dân cấp cao.

Việc kế thừa mô hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của các Tòa chuyên

trách Tòa án nhân dân tối cao trƣớc đây trong việc tổ chức các Tòa chuyên

trách Tòa án nhân dân cấp cao có nhiều ƣu điểm, nhất là đảm bảo sử dụng có

hiệu quả lao động là các thẩm phán cao cấp, những chuyên gia đầu ngành

trong việc giải quyết các vụ, việc theo trình tự giám đốc thẩm tái thẩm, tránh

tình trạng hiện nay những thẩm tra viên nghiên cứu, đề xuất giải quyết các vụ

án giám đốc thẩm thƣờng chƣa có kinh nghiệm xét xử thực tiễn, thành viên

Ủy ban thẩm phán cũng không phải những ngƣời chuyên về hình sự, dân sự,

kinh doanh - thƣơng mại, hôn nhân và gia đình.

Tuy nhiên trong khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân chƣa đƣợc sửa đổi,

cần thực hiện đúng quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân về nhiệm vụ

của các tòa chuyên trách là phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định của

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi thẩm

quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị

theo quy định của luật tố tụng thì việc thành lập đơn vị chuyên trách giúp

việc để giải quyết các vụ việc theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là hợp lý.

Tuy nhiên, việc thành lập phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính

nhƣ hiện nay là chƣa phù hợp, không phù hợp với xu hƣớng đòi hỏi ngày

càng chuyên sâu của công tác xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

75

luật, nên cần thành lập riêng Phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự có nhiệm

vụ, quyền hạn thẩm tra hồ sơ các vụ án hình sự mà bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật tố tụng và sự phân công của

Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao; làm thƣ ký các phiên tòa Giám đốc

thẩm, tái thẩm về hình sự; thực hiện các nhiệm vụ về hành chính tƣ pháp có

liên quan theo sự phân công.

3.3. Đẩy mạnh đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp

Đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân cấp cao là đổi mới

các quy trình, thủ tục mang tính chất hành chính hỗ trợ cho hoạt động xét xử

phúc thẩm, hoạt động xét xử lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Việc

đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp phải đảm bảo sự tách bạch giữa hoạt động

hành chính tƣ pháp với hoạt động xét xử, xây dựng quy trình và ứng dụng công

nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả công tác; công khai, minh bạch các hoạt

động của Tòa án nhân dân cấp cao, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân khi

giải quyết công việc, góp phần xây dựng Tòa án nhân dân cấp cao thân thiện,

gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân là chỗ dựa cho nhân dân trong việc bảo vệ

công lý bảo vệ quyền con ngƣời. Nghiên cứu xây dựng phần mềm quản lý các

loại vụ án, phần mềm tiếp nhận đơn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm…

Tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật và đổi

mới tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp

Công tác đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật tại các Tòa án nhân

dân cấp cao từ khi đƣợc thành lập vẫn còn những tồn tại, hạn chế, nhƣ: Một

số vấn đề vƣớng mắc trong thực tiễn xét xử chƣa đƣợc hƣớng dẫn kịp thời và

áp dụng thống nhất, số lƣợng bản án, quyết định giám đốc thẩm của các Tòa

án nhân dân cấp cao đƣợc chọn lựa làm nguồn án lệ chƣa nhiều; vẫn còn một

số Thẩm phán, Thẩm tra viên chƣa quan tâm, cập nhật, tra cứu các văn bản

pháp luật và hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao khi thi hành nhiệm vụ.

Vì vậy để nâng cao hiệu quả thi hành thẩm quyền xét xử, đòi hỏi Tòa án nhân

76

dân cấp cao phải:

- Nâng cao nhận thức cho Thẩm phán, các chức danh tƣ pháp về tầm

quan trọng của việc áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử phúc

thẩm hình sự, xét lại các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật.

- Tổ chức hội nghị tập huấn, quán triệt các văn bản quy phạm pháp

luật, án lệ, thƣờng xuyên thông tin những văn bản hƣớng dẫn mới trong các

cuộc họp, giao ban của đơn vị; đôn đốc các Thẩm phán, các chức danh tƣ

pháp khác cập nhật, áp dụng văn bản mới.

- Kịp thời báo cáo Tòa án nhân dân tối cao về những vƣớng mắc trong

thực tiễn xét xử, đồng thời chủ động đề xuất phƣơng án hƣớng dẫn; phát hiện

trao đổi về những vẫn đề còn tồn tại trong các văn bản hƣớng dẫn và giải đáp

nghiệp vụ.

Đổi mới tổ chức phiên tòa hình sự phúc thẩm theo tinh thần cải cách tƣ

pháp với yêu cầu đặt ra là:

- Hội đồng xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phúc thẩm thực hiện

tốt nguyên tắc tranh tụng, bảo đảm để các bên thực hiện đúng, đầy đủ quyền

hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ tố tụng của họ theo đúng quy định của Bộ luật

Tố tụng hình sự năm 2015; đặc biệt là nghĩa vụ chứng minh, xác định sự thật

khách quan của vụ án, các vấn đề pháp lý tranh chấp cần giải quyết trong vụ

án. Phán quyết của Hội đồng xét xử phúc thẩm phải trên cơ sở pháp luật và

các tình tiết, chứng cứ đã đƣợc kiểm tra, xem xét toàn diện, đầy đủ tại phiên

tòa. Quá trình hỏi và tranh luận tại phiên tòa phải bảo đảm thật sự khách quan,

minh bạch và công bằng, không đƣợc thiên vị, định kiến.

- Hội đồng xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực hiện đầy đủ thẩm

quyền tố tụng của mình trong việc yêu cầu điều tra bổ sung; thực hiện nguyên

tắc suy đoán vô tội; kiến nghị để khắc phục các sai sót của cơ quan tiến hành

tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; kiến nghị với các cơ quan quản lý

nhà nƣớc khắc phục những hạn chế, thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện phát

77

sinh tội phạm

3.4. Nâng cao hơn nữa chất lƣợng đội ngũ Thẩm phán, thực hiện

tốt quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán

Xây dựng đội ngũ Thẩm phán có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình

độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng thông qua cơ chế thi

tuyển, bổ nhiệm, đào tạo và chế độ đãi ngộ phù hợp để họ tòan tâm, toàn ý

phụng sự công việc của mình trong lĩnh vực bảo vệ công lý là một trong

những nhiệm vụ quan trọng của chiến lƣợc cải cách Tòa án hiện nay.

Mở rộng nguồn tuyển chọn Thẩm phán: Đối tƣợng tuyển chọn để bổ

nhiệm Thẩm phán không chỉ từ chính đội ngũ cán bộ Tòa án mà còn từ đội

ngũ các chức danh tƣ pháp khác nhƣ điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành

viên, luật sƣ và kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề thẩm phán mặc dù

chƣa đƣợc hành nghề Thẩm phán.

Thực hiện tốt cơ chế thi tuyển để chọn Thẩm phán. Trên cơ sở kết quả

thi tuyển, những ngƣời trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán quốc gia nếu

có đủ các tiêu chuẩn khác về phẩm chất đạo đức, chứng chỉ hành nghề Thẩm

phán sẽ đƣợc Chủ tịch nƣớc xem xét ra quyết định bổ nhiệm làm Thẩm phán.

Thẩm phán sẽ là thẩm phán của quốc gia, nên có thể điều động họ dễ dàng khi

thấy cần thiết. Việc bổ nhiệm Thẩm phán cần tiến hành theo ngạch, bậc và

theo nguyên tắc Thẩm phán không đƣợc bổ nhiệm ở ngạch cao hơn nếu chƣa

có đủ số năm nhất định giữ chức danh thẩm phán ở ngạch thấp hơn hoặc giữ

các chức danh tƣ pháp khác. Cũng cần xem xét việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm

phán so với hiện nay, tiến tới việc bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời, bởi vì quy

định nhiệm kỳ Thẩm phán quá ngắn. Nhiệm kỳ của Thẩm phán hiện nay là

năm năm, hết nhiệm kỳ thì Thẩm phán đƣơng nhiên mất chức danh tƣ pháp,

thủ tục thi tuyển lại chức danh Thẩm phán đƣợc tiến hành theo trình tự, thủ

tục tƣơng tự nhƣ thi tuyển lần đầu.

Nhiệm kỳ ngắn (chỉ 05 năm) đối với nhiệm kỳ đầu, trƣờng hợp đƣợc bổ

78

nhiệm lại là 10 năm và quy trình bổ nhiệm lại thẩm phán phức tạp đã có sự tác

động mạnh mẽ đến tính độc lập của Thẩm phán trong quá trình xét xử. Vì thế,

chúng ta cần phải kéo dài hơn và không giới hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán.

Trong tình hình năng lực đội ngũ Thẩm phán hiện nay thì giải pháp cần

áp dụng là thay thế hình thức bổ nhiệm lại bằng hình thức bất tín nhiệm tƣ

cách Thẩm phán của Thẩm phán. Vẫn giữ nguyên nhiệm kỳ 05 năm nhƣng

khi hết nhiệm kỳ thì Thẩm phán không đƣợc đƣơng nhiên mất chức danh tƣ

pháp. Thẩm phán chỉ mất chức danh này nếu bị đa số bất tín nhiệm tƣ cách

Thẩm phán. Quyết định không tín nhiệm Thẩm phán có thể bị khiếu nại lên

Tòa án tối cao.

Xây dựng chính sách tiền lƣơng kết hợp với các chính sách đãi ngộ hợp

lý nhằm đảm bảo mức thu nhập của Thẩm phán để thu hút ngƣời có năng lực

trình độ pháp luật cao, Thẩm chất đạo đức trong sáng, bản lĩnh chính trị vững

vàng yên tâm cống hiến cho hoạt động của ngành Tòa án. Đảm bảo mức thu

nhập ổn định và thỏa đáng còn là một trong những yếu tố đảm bảo cho Thẩm

phán độc lập cao trong quá trình xét xử. Chế độ sử dụng và đãi ngộ cần đảm

bảo cho Thẩm phán không phải lo mƣu sinh, đảm bảo để họ và gia đình có thể

sống đầy đủ bằng chính đồng lƣơng, không bị phụ thuộc vào những tác động

vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức liên quan đến công vụ của họ. Mặt khác,

cần thiết lập một chế độ giám sát chặt chẽ để kịp thời phát hiện, cảnh báo,

phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những Thẩm phán hành động không xứng

đáng với chức danh cao quý của mình. Về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, các

Thẩm phán sau khi đƣợc bổ nhiệm phải tham gia bắt buộc vào các khoá bồi

dƣỡng định kỳ và phải trải qua các kỳ sát hạch, kiểm tra về kiến thức, kỹ năng

xét xử, tác phong làm việc. Giống nhƣ các chức danh hành chính cao cấp,

Thẩm phán phải thực hiện chế độ công khai tài sản và tài chính cá nhân trong

suốt thời kỳ giữ chức danh và một thời gian sau khi bãi nhiệm hoặc về hƣu.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay Thẩm phán đƣợc bổ

79

nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm, bổ nhiệm lại là nhiệm kỳ 10 năm. Năm năm

không phải là thời gian dài vì vậy khó có thể làm an lòng các Thẩm phán.

Quy định này nhƣ đã phân tích ở trên tạo ra một tâm lý thiếu ổn định, thiếu sự

học tập, nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của Thẩm phán; không

đảm bảo cho Thẩm phán thực hiện triệt để nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật.

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc quy định bổ nhiệm Thẩm

phán theo nhiệm kỳ vẫn cần thiết, do tác động của ngoại cảnh, do trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, cần thiết phải cách chức hoặc thay thế một số Thẩm

phán không hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, để khắc phục vấn đề này cần nghiên

cứu kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán tiến tới bổ nhiệm Thẩm phán dài hạn.

Để vị trí nghề nghiệp của Thẩm phán vững chắc, không bị áp lực bởi vấn đề

nhiệm kỳ, đảm bảo cho họ đƣợc độc lập thì cần thiết phải kéo dài nhiệm kỳ

thẩm phán tiến tới chế độ thẩm phán suốt đời. Việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm

phán phải và chỉ mục đích đảm bảo cho họ đƣợc độc lập xét xử chứ không

phải là sự ƣu đãi hay an sinh xã hội dành riêng cho Thẩm phán. Điều đó có

nghĩa là nếu Thẩm pán vi phạm đao đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật,

năng lực yếu kém (không thể độc lập xét xử) cần phải xa thải.

Nhƣ vậy, việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán sẽ đem lại lợi ích: Ổn định

nghề nghiệp; tránh đƣợc sự can thiệp của cấp ủy địa phƣơng, các cơ quan

hành chính, lập pháp và ngay cả sự can thiệp của Tòa án cấp trên vào công

việc bổ nhiệm Thẩm phán sẽ làm Thẩm phán không chỉ có khả năng độc lập

mà còn dám độc lập xét xử.

Về chính trị, tƣ tƣởng, để nâng cao trách nhiệm, ý thức chấp hành pháp

luật của đội ngũ Thẩm phán, các đơn vị trong hệ thống Tòa án nhân dân nói

chúng và Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng phải thƣờng xuyên thực hiện

nghiêm túc công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng cho Thẩm phán, cán bộ, công

chức trong đơn vị mình, triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nghị

80

quyết của Quốc hội liên quan đến cải cách tƣ pháp, tổ chức, hoạt động của Hệ

thống Tòa án nhân dân và công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết

kiệm, chống lãng phí. Thực hiện tốt cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính

trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức hệ

thống Tòa án nhân dân”. Nội dung về chính trị tƣ tƣởng, đạo đức lối sống mà

Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án phải thƣờng xuyên tu dƣỡng rèn luyện

là: cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tƣ, gƣơng mẫu, tự giác; không quan liêu

tham nhũng, lãng phí; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý thức kỷ luật cao và

phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám

nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Thực hiện “Quy tắc ứng xử của cán bộ,

công chức hệ thống Tòa án nhân dân” theo đúng quy định của Luật phòng,

chống tham nhũng; định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công

chức không giữ chức vụ lãnh đạo theo đúng quy định của Chính phủ; triển

khai và thực hiện nghiêm túc Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật

phòng, chống tham nhũng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Đẩy mạnh phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”

với phƣơng châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, gắn với cuộc vận

động “đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ

Chí Minh”, với trọng tâm là học tập và làm theo phong cách, tác phong Hồ

Chí Minh về dân chủ, nêu gƣơng, quần chúng, khoa học, nói đi đôi với làm,

với mục tiêu tạo động lực mới trong việc đổi mới phong cách, tác phong công

tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là ngƣời đứng đầu trong hệ thống Tòa

án nhân dân. Trong phong trào thi đua này lấy cuộc vận động “nâng cao bản

lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ,

công chức hệ thống Tòa án nhân dân” làm nòng cốt nhằm xây dựng hình ảnh

Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân thực sự gƣơng mẫu, có

bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức lối sống trong sạch, lành mạnh ở cơ

quan và nơi cƣ trú, để củng cố lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với Thẩm

81

phán, cán bộ, công chức Tòa án.

Cơ quan tổ chức thực hiện giải pháp này là Học viện Tòa án thuộc Tòa

án nhân dân tối cao. Tập trung củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ theo hƣớng

tiêu chuẩn hóa và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, phẩm

chất đạo đức đối với các chức danh Thẩm phán, thẩm tra viên, chuyên viên và

thƣ ký; tăng cƣờng công tác quản lý cán bộ theo hƣớng quy chế hóa việc đánh

giá, quy hoạch, sử dụng, bổ nhiệm, khen thƣởng và kỷ luật; xây dựng và quy

chế hóa về đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp và kỷ luật công vụ của cán bộ

nhằm chống tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan Tòa án.

3.5. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ với

cán bộ công chức ngành Tòa án

Chế độ lƣơng bổng cho thẩm phán phải đƣợc đảm bảo: Việc đổi mới

chế độ tiền lƣơng, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ,

công chức ngành Tòa án nhân dân cần đƣợc cải tiến nhằm tạo điều kiện thuận

lợi để thực hiện tốt chiến lƣợc tiến hành cải cách tƣ pháp, nâng cao hiệu quả

của việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ ngành Tòa

án nhân dân, xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án trong sạch vững mạnh; đảm bảo

chế độ tiền lƣơng và phụ cấp phù hợp với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tòa

án trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp và tƣơng xứng với cƣờng độ lao động

đặc thù của Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án; đảm bảo cho cán

bộ, công chức Tòa án có cuộc sống bằng tiền lƣơng và các khoản phụ cấp đặc

thù; nâng cao trách nhiệm và tạo động lực để khuyến khích Thẩm phán, cán

bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân tận tâm, tận lực, yên tâm, gắn bó với

ngành và hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao.

Để đạt đƣợc các mục tiêu đó, cần đổi mới chế độ tiền lƣơng và phụ cấp

đối với Thẩm phán và cán bộ công chức ngành Tòa án theo hƣớng:

+ Về chế độ tiền lƣơng: Xác định rõ mối quan hệ tiền lƣơng giữa các khu

vực: Tƣ pháp (Tòa án, Kiểm sát), lực lƣợng vũ trang, hành chính, các bậc

82

lƣơng chuyên môn nghiệp vụ đối với Thẩm phán, cán bộ công chức ngành

Tòa án thuộc bảng lƣơng chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tòa án nhất là đối với

Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện phải đƣợc thiết kế cao hơn các bậc

lƣơng, thang lƣơng thuộc bảng lƣơng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc các cơ

quan hành chính nhà nƣớc ít nhất từ 2 bậc trở lên và chỉ thấp hơn các chức

danh tƣơng ứng thuộc bảng lƣơng của lực lƣợng vũ trang.

+ Về chế độ nhà công vụ và một số chế độ chính sách khác: Để tạo điều

kiện cho Thẩm phán, cán bộ, công chức thuộc diện luân chuyển, biệt phái yên

tâm, phân khởi hoàn thành tốt nhiệm vụ, đề nghị các cấp có thẩm quyền xem

xét cấp kinh phí xây dựng nhà công vụ, hỗ trợ đối với Thẩm phán trong thời

gian luân chuyển, biệt phái tăng cƣờng công tác xét xử. Thẩm phán thuộc diện

luân chuyển, biệt phái có nhà công vụ để ở, đƣợc hỗ trợ thêm mỗi tháng bằng

mức tiền lƣơng tối thiểu và đƣợc hƣởng các loại phụ cấp theo địa phƣơng nơi

đƣợc luân chuyển biệt phái.

- Tăng cƣờng trách nhiệm của Thẩm phán: Cần có quy định nhằm tạo

ra một cơ chế phù hợp để có thể đảm bảo và tăng cƣờng trách nhiệm của

Thẩm phán. Khi các Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những hành động

của mình thì hệ thống tƣ pháp trở nên có hiệu quả hơn. Khi các Thẩm phán

xét xử công khai, các luật sƣ, ngƣời dân, phƣơng tiện thông tin đại chúng

theo dõi công việc của Thẩm phán thì tính trách nhiệm của Thẩm phán đƣợc

83

nâng lên.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã kế thừa và phát triển các quy định

của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thẩm quyền xét xử, đã quy định một

cách tƣơng đối đầy đủ, khoa học và hợp lý về thẩm quyền của Tòa án nhân

dân cấp cao. Thực tiễn thi hành thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân cấp cao

về cơ bản đã đạt đƣợc những kết quả tích cực. Tuy nhiên vì những nguyên

nhân chủ quan, khách quan việc thi hành thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân

dân cấp cao vẫn còn những tồn tại, vƣớng mắc làm cho việc xét xử phúc

thẩm, xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chƣa đạt đƣợc kết

quả cao. Những tồn tại, vƣớng mắc này là cơ sở thực tiễn quan trọng để đề

xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành thẩm quyền xét xử của Tòa

84

án nhân dân cấp cao.

KẾT LUẬN

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi

ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa

án và những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp cao trong điều kiện cải cách tƣ pháp và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nƣớc ta, có thể rút ra một số kết

luận sau:

Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung

và Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng phải đáp ứng những yêu cầu sau: Yêu

cầu về Tòa án độc lập trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối

với hoạt động xét xử; yêu cầu mở rộng quyền tài phán tƣ pháp; yêu cầu về

tính dân chủ, đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân trong hoạt động của

Tòa án; yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Tòa án, yêu

cầu về quyền giải thích pháp luật đối với Tòa án.

Mặc dù Tòa án nhân dân cấp cao là một cấp Tòa án mới đƣợc thành lập

Tòa án nhân dân cấp cao đã có những bƣớc phát triển, hoàn thiện cả về tổ

chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới tổ chức và hoạt

động của bộ máy nhà nƣớc ta.

Trên cơ sở nghiên cứu những tài liệu lý luận và khoa học về hệ thống

Tòa án nhân dân, hệ thống văn bản pháp luật, tôi đã chọn đề tài “Tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam” nhằm nâng cao hiệu

85

quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam

Luận văn hƣớng vào phân tích, đánh giá, làm rõ lý luận Tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam; vị trí, vai trò, nguyên

tắc cơ bản, thực trạng tổ chức và hoạt động, nghiên cứu mô hình tổ chức và

hoạt động của Tòa án một số quốc gia trên thế giới nhƣ: Hàn Quốc, Nhật Bản

và Trung Quốc từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ đó, Luận

văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp cao tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trên cơ sở các quan điểm, định hƣớng nêu trên, một số giải pháp nâng

cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao là:

- Hoàn thiện pháp luật

- Tổ chức và cán bộ Tòa án nhân dân cấp cao

- Đẩy mạnh đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp

- Nâng cao hơn nữa chất lƣợng đội ngũ thẩm phán, thực hiện tốt quy

trình tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán

- Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ với cán

86

bộ công chức ngành Tòa án.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ

Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian

tới”, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính

trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79 – KL/TW ngày 28/7/2010 về đề án đổi

mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra,

Hà Nội.

4. Chủ tịch Hồ Chí Minh (1957), “Hội nghị tƣ pháp toàn quốc ngày 22/3/1957”,

Hà Nội.

5. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh

số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán.

6. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc lệnh số 77C

ngày 28/12/1945 về thiết lập một số Tòa án quân sự Phan Thiết.

7. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc

lệnh số 33C/SL ngày 13/9/1945 về thành lập các Tòa án quân sự.

8. Chủ tịch Chính phủ (1947), Sắc lệnh số 59/SL ngày 16/12/1947 về thành

lập Tòa án binh khu trung ương.

9. Chủ tịch Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải

cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của

Đảng lần thứ XI (2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách

hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước

87

pháp quyền” Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

12. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam

hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

13. Đào Trí Úc (2014), Vị trí trung tâm của Tòa án trong chiến lược cải

cách tư pháp ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

14. Nguyễn Tất Nam (2018), Bảo đảm quyền của người bị kết án theo thủ tục

giám đốc thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội,

Luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

15. Nguyễn Minh Sử (2011), Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện

trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Nguyễn Minh Sử (2011), “Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của

Thẩm phán trong hoạt động xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 7/

2011, Hà Nội

17. Quốc hội (1946), Hiến pháp năm 1946, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Quốc hội (1959), Hiến pháp năm 1959, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Quốc hội (1980), Hiến pháp năm 1980, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

23. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

24. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

25. Quốc hội (1980), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1980, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

26. Quốc hội (1960), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Nxb. Chính

88

trị quốc gia, Hà Nội.

27. Quốc hội (1992), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

28. Tòa án nhân dân tối cao (2016, 2017, 2018), Tài liệu hội nghị tổng kết

phong trào thi đua, Hà Nội.

29. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Quyết định 986/QĐ –TANDTC ngày

04/7/2015; Quyết định 987/ QĐ- TANDTC ngày 04/7/2015; Quyết định

988/ QĐ- TANDTC ngày 04/7/2015, Hà Nội.

30. Thủ tƣớng Chính phủ (1959), Nghị định số 321/TTg ngày 27/8/1959 về

thành lập viện công tố phúc thẩm và viện công tố các cấp, Hà Nội.

31. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Nghiên cứu so sánh hệ thống Tòa án một

số nước kinh nghiệm và bài học trong hoàn thiện hệ thống Tòa án Việt

Nam, Hà Nội.

32. Tòa án nhân dân tối cao (1983), Hội nghị tổng kết công tác của ngành

Tòa án năm 1983, Hà Nội.

33. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án

năm 2001, Hà Nội

34. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo số 76-BC/ BCS ngày 22/4/2015

về việc đề nghị thành lập 05 Tòa án nhân dân cấp cao, Hà Nội.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Thực trạng hoạt động xét xử phúc thẩm

và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử phúc thẩm

của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao”, Hà Nội

36. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt

Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội

37. Trần Văn Độ (2013), “Quyền Tƣ pháp phải do duy nhất Tòa án thực

hiện”, Báo Công lý, số 15, tr2

38. Trần Văn Độ, “Yêu cầu của cải cách tƣ pháp về xác định Tòa án là trung

tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm và những vấn đề đặt ra đối với việc

89

sửa đổi BLTTHS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11, tr.5-7

39. V.I. Lênin (1980) Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

40. Vũ Quốc Thúc (1964), Chính sách phát triển quốc gia và chế độ pháp trị,

Nxb. Hà Nội.

41. Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội (2015), Nghị quyết số 957/2015/NQ-

UBTVQH 13 ngày 28/5/2015 về việc thành lập các Tòa án nhân dân cấp

cao, Hà Nội.

42. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển bách khoa,

90

Nxb. Tƣ pháp.

PHỤ LỤC

SƠ ĐỒ HỆ THỐNG TỔ CHỨC TÒA ÁN VIỆT NAM

TỪ NĂM 1946 ĐẾN NAY

PHỤ LỤC 1

Sơ đồ Tổ chức Tòa án (Theo sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946)

Tòa thƣợng thẩm

Tòa thƣợng thẩm

Tòa thƣợng thẩm

Bắc kỳ

Trung kỳ

Nam kỳ

Tòa án đệ nhị cấp

(ở các tỉnh, thành phố)

Tòa án sơ cấp

(ở các quận, huyện)

Ban Tƣ pháp

(ở các xã)

91

PHỤ LỤC 2

Sơ đồ tổ chức Tòa án (Theo Hiến pháp 1946)

TÒA ÁN TỐI CAO

Các Tòa phúc thẩm

Tòa án đệ nhị cấp (ở các tỉnh)

Tòa án sơ cấp (ở các quận, huyện)

92

PHỤ LỤC 3

Sơ đồ Tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 1950 - 1960

TÒA ÁN TỐI CAO

Các Tòa Phúc thẩm

Các Tòa án nhân dân tỉnh

(ở các tỉnh, thành phố)

Các Tòa án nhân dân huyện

(ở các quận, huyện, thị xã)

93

Ban Tƣ pháp xã

PHỤ LỤC 4

Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 1960 - 1981

Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

ỦY BAN THẨM PHÁN

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TÒA ÁN QUÂN SỰ TÒA HÌNH SỰ TÒA DÂN SỰ TÒA PHÚC THẨM HỘI ĐỒNG TOÀN THỂ THẨM PHÁN

TRUNG ƢƠNG

Tòa án nhân dân

Tòa án nhân dân khu tự trị Tây Bắc Khu tự trị Việt Bắc Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng hoặc đơn vị hành chính trung ƣơng

Tòa án nhân dân các tỉnh trong khu tự tị Tòa án nhân dân các tỉnh trong khu tự trị Tòa án quân sự cấp quân khu, quân binh chủng, sƣ đoàn trực thuộc Bộ và tƣơng đƣơng

94

Tòa án nhân dân các huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tƣơng đƣơng

Tòa án nhân dân huyện, thị xã trong khu tự trị Tòa án nhân dân huyện, thị xã trong khu tự trị

PHỤ LỤC 5

Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 1981 - 1992

Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 1988

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN

ỦY BAN THẨM PHÁN

BỘ MÁY TÒA ÁN TÒA DÂN SỰ

TÒA HÌNH SỰ

03 TÒA PHÚC THẨM

GIÚP VIỆC QUÂN SỰ

TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và cấp tƣơng đƣơng Tòa án quân sự quân khu

và cấp tƣơng đƣơng Ủy ban thẩm phán

Ủy ban thẩm phán Tòa hình sự Bộ máy giúp việc Tòa dân sự

95

Tòa án quân sự khu vực Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

PHỤ LỤC 6 Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 1992 - 2002 Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 1993 và 1995

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN

ỦY BAN THẨM PHÁN

BỘ MÁY 03 TÒA TÒA ÁN

TÒA LAO ĐỘNG

TÒA HÌNH SỰ TÒA DÂN SỰ TÒA KINH TẾ

GIÚP VIỆC

PHÚC THẨM

TÒA HÀNH CHÍNH

QUÂN SỰ

TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và cấp tƣơng đƣơng Tòa án quân sự quân khu

và cấp tƣơng đƣơng Ủy ban thẩm phán

Ủy ban thẩm phán

Tòa dân sự Bộ máy giúp việc Tòa hình sự Tòa lao động Tòa kinh tế Tòa hành chính

96

Tòa án quân sự khu vực Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

PHỤ LỤC 7 Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 2002 - 2014 Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN

03 TÒA BỘ MÁY TÒA ÁN

TÒA LAO ĐỘNG

TÒA DÂN SỰ TÒA KINH TẾ

PHÚC THẨM

GIÚP VIỆC

QUÂN SỰ

TÒA HÀNH CHÍNH

TÒA HÌNH SỰ

TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và cấp tƣơng đƣơng Tòa án quân sự quân khu

và cấp tƣơng đƣơng Ủy ban thẩm phán

Ủy ban thẩm phán

Bộ máy giúp việc Tòa hình sự Tòa lao động Tòa kinh tế Tòa hành chính Tòa dân sự

97

Tòa án quân sự khu vực Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

PHỤ LỤC 8

Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 2014 đến nay

Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TÒA ÁN NHÂN DÂN

CẤP CAO

Tòa án quân sự

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng

Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng

98