BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGÔ THỊ MAI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
MÃ SỐ: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC
HÀ NỘI - NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi, có sự hỗ trợ từ Giảng viên hướng dẫn là GS. TSKH. Đào Trí Úc. Các số
liệu, nội dung nghiên cứu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2019
Học viên
Ngô Thị Mai
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô cùng các bạn trong lớp cao
học LH4.B1 chuyên ngành Luật hiến pháp và Luật hành chính đã giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia.
Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy
GS. TSKH. Đào Trí Úc - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngƣời đã tận
tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi hoàn thành luận văn Thạc sỹ này.
Kính chúc các thầy, cô mạnh khỏe, thành công trong sự nghiệp.
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2019
Học viên
Ngô Thị Mai
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................ 9
1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của của Tòa án nhân dân ........................ 9
1.1.1 Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước ...................... 9
1.1.2 Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ............ 12
1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân cấp cao
ở Việt Nam hiện nay ...................................................................................................... 22
1.2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ............. 22
1.2.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ........... 26
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay ..................................... 31
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp cao ............................................................................................................................... 31
1.3.2. Mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp cao ............................................................................................................................... 35
1.4. Mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở một số
nƣớc trên thế giới ............................................................................................................ 37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................. 41
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
NHÂN CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................... 43
3.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển về tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân cấp cao........................................................................................ 43
3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959........................................................... 43
3.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980.......................................................... 46
3.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992.......................................................... 47
3.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002.......................................................... 48
3.1.5. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2014.......................................................... 49
3.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao theo Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014 ........................................................................................... 52
3.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao .............. 59
3.3.1. Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân cấp cao .................... 59
3.3.2. Thực trạng hoạt động xét của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................................................. 65
3.4. Kinh nghiệm cho Việt Nam .............................................................................. 67
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................. 68
Chƣơng 3. NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................... 69
3.1. Hoàn thiện pháp luật .............................................................................................. 69
3.2. Về tổ chức và cán bộ Tòa án nhân dân cấp cao .............................................. 72
3.3. Đẩy mạnh đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp ............................................... 76
3.4. Nâng cao hơn nữa chất lƣợng đội ngũ Thẩm phán, thực hiện tốt quy trình
tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán ............................................................................... 78
3.5. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ với cán bộ
công chức ngành Tòa án ................................................................................................ 82
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................. 84
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 87
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 91
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tòa án nhân dân : TAND
Tòa án nhân dân tối cao : TANDTC
Tòa án nhân dân cấp cao : TANDCC
Viện kiểm sát nhân dân : VKSND
Xã hội chủ nghĩa : XHCN
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Bảng thống kê số lƣợng thụ lý, giải quyết vụ án phúc
thẩm và giám đốc thẩm trong giai đoạn 3 năm (từ năm
2016 đến năm 2018)…………………………………. 66
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Tòa án là cơ quan thể hiện tập trung quyền tƣ pháp của một quốc gia
hiện đại. Thông qua chức năng xét xử, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật,
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; Nghị
quyết số 957/2015/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban thƣờng vụ
Quốc hội khóa XIII về việc thành lập các Tòa án nhân dân cấp cao; các Quyết
định 986/QĐ-TANDTC, Quyết định 987/QĐ-TANDTC, Quyết định 988/QĐ-
TANDTC của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tổ chức bộ máy, nhiệm
vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp
cao thì cơ cấu tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ
máy giúp việc của Tòa án nhân cấp cao (TANDCC). Từ khi thành lập đến nay
TANDCC đã từng bƣớc phát triển, chất lƣợng hoạt động xét xử của Tòa án
đƣợc nâng lên một bƣớc, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, tạo môi trƣờng ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW
“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, đổi mới
tổ chức nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân
[1]. Tiếp theo đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
49-NQ/TW “Về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020” (sau đây gọi tắt
là Nghị quyết số 49-NQ/TW) với mục tiêu tổng thể là:“Xây dựng nền tư pháp
1
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao” [2].
Đặc biệt, đầu năm 2011, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ:“Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững
mạnh, bảo vệ công lý; tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính
sách pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ
máy các cơ quan tư pháp, đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc
lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp.
Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách
hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét
xử của Tòa đối với các khiếu kiện hành chính” [10]. Các quan điểm, định
hƣớng nêu trên đều khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống cơ
quan tƣ pháp và trọng tâm của công tác xét xử. Vì vậy, việc đổi mới tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp đƣợc coi là một nhiệm vụ trọng
tâm của quá trình cải cách tƣ pháp.
Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án
nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng;
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng;
Tòa án quân sự. Điều 1 Nghị quyết số 957/ NQ-UBTVQH 13 quyết định
thành lập 03 Tòa án nhân dân cấp cao là: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội;
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố
Hồ Chí Minh [23].
Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
2
ƣơng chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái
thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh
thổ đã có hiệu lực pháp luật nhƣng bị kháng nghị bằng Hội đồng 3 Thẩm phán
hoặc Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao. Nhƣ
vậy TAND cấp cao sẽ làm phần lớn nhiệm vụ của TAND tối cao hiện nay.
Vì vậy, học viên chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và
thực tiễn, nhằm góp phần hoàn hiện pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp
cao nói riêng để làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật
Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam là một
phạm vi cơ bản trong Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Vì vậy, đây là một đề tài thu hút
đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu cũng nhƣ đông đảo bạn đọc.
Qua tìm hiểu, tác giả thấy có một số công trình khoa học trong nƣớc
đƣợc nghiên cứu dƣới mức độ và góc độ khác nhau, cả về khía cạnh pháp lý,
cả về cơ chế thực hiện. Có thể kể đến:
+ Tòa án nhân dân tối cao (2006), Thực trạng hoạt động xét xử phúc
thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử phúc thẩm
của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao”, Hà Nội; Đề tài đánh giá
thực trạng hoạt động xét xử phúc thẩm các vụ án Hình sự, dân sự, hành chính,
kinh doanh thƣơng mại, hôn nhân và gia đình và đƣa ra các giải pháp nâng
cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động xét xử các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao [35].
+ Nguyễn Minh Sử (2011), Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp
huyện trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật
3
học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; Luận án của tác giả đánh giá thực
trạng tổ chức của TAND cấp huyện hiện nay, chỉ ra các mặt ƣu điểm và
khiếm khuyết trong cách tổ chức đó và tác giả cũng nhấn mạnh các quan
điểm về đổi mới mô hình tổ chức và của TAND cấp huyện và kiến nghị các
khía cạnh của việc đổi mới tổ chức TAND cấp huyện cũng nhƣ các điều kiện
bảo đảm đổi mới [15].
+ Nguyễn Minh Sử (2011),“Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của
Thẩm phán trong hoạt động xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 7/
2011, Hà Nội; Bài viết của tác giả đƣa ra các kiến nghị đi sâu vào việc đảm
bảo những yếu tố cho sự độc lập của thẩm phán nhằm tiến tới một nền tƣ
pháp hoàn toàn trong sạch đáp ứng đƣợc yêu cầu nhiệm vụ của ngành tƣ pháp
là bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật [16].
+ Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải
cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước
pháp quyền” Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Luận
án của tác giả phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án
Việt Nam hiện nay và rút ra kiến nghị cải cách hệ thống Tòa án Việt Nam nhằm
đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân [11].
+ Nguyễn Tất Nam (2018), Bảo đảm quyền của ngƣời bị kết án theo thủ
tục giám đốc thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội,
Luận văn Thạc sĩ; Tác giả đánh giá hoạt động giám đốc thẩm có vai trò, ý
nghĩa rất quan trọng về các mặt chính trị, xã hội và pháp lý, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật [14].
+ Trần Văn Độ (2013), Quyền Tư pháp phải do duy nhất Tòa án thực
hiện, Báo Công lý, số 15, tr2; Tác giả đánh giá vài trò của Toà án giữ vị trí
trung tâm trong hệ thống tƣ pháp. Chức năng xét xử là chức năng duy nhất,
riêng có của Toà án và chỉ thuộc về Toà án. Toà án là chủ thể trung tâm của
4
thực hiện quyền tƣ pháp, của hoạt động xét xử [37].
+ Trần Văn Độ, Yêu cầu của cải cách tư pháp về xác định Tòa án là
trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm và những vấn đề đặt ra đối với
việc sửa đổi BLTTHS, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 11, tr.5-7; Tác giả
đánh giá hoạt động xét xử đóng vai trò trọng tâm trong hoạt động tƣ pháp.
Hoạt động xét xử là hoạt động chỉ do Toà án thực hiện và xét xử là nơi tạo ra
sự tự do tranh luận, tự do trình bày quan điểm, chứng cứ của các bên. Toà án
là chủ thể trọng tâm của hoạt động xét xử, là chủ thể tạo điều kiện và làm
trọng tài cho các hoạt động tố tụng nói trên. Chỉ trong tố tụng tranh tụng hoạt
động xét xử do Toà án tiến hành mới đóng vai trò trọng tâm [38].
+ Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Tác giả đánh giá tình hình
thực hiện cải cách tƣ pháp, bài học kinh nghiệm, những yêu cầu đặt ra cần
hoàn thiện cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay [12].
+ Đào Trí Úc (2014), Vị trí trung tâm của Tòa án trong chiến lƣợc cải
cách tƣ pháp ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả làm nổi
bật Tòa án nhân dân có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Toà án là cơ quan xét
xử, thực hiện quyền tƣ pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [13].
Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã làm nổi bật
đƣợc vai trò của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân các cấp nói
riêng trong Bộ máy nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các công
trình khoa học trên đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Bởi vậy, luận văn tập trung nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao và đƣa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND cấp cao tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
5
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về Tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam; vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa
án nhân dân cấp cao nói riêng. Từ đó đƣa ra những vấn đề nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích đề ra, khi nghiên cứu, luận văn phải thực hiện
đƣợc những nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tòa án nhân
dân ở Việt Nam nói chung và Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng từ năm 1946
đến nay. Hệ thống và khái quát đƣợc vấn đề tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp cao ở Việt Nam nhƣ phân tích, làm rõ vị trí, vai trò, các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án trong bộ máy nhà nƣớc.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, xác định các quan điểm để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của Tòa án nhân dân cấp cao đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, trong đó có TAND cấp cao
là nội dung trọng tâm, là một vấn đề có liên quan trực tiếp đến hiệu quả của
hoạt động xét xử và việc tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử.
Trong phạm vi này, tác giả chỉ đề cập phƣơng diện tổ chức và hoạt động của
TAND cấp cao, bao gồm những vấn đề: Vị trí của TANDCC trong hệ thống
Tòa án và bộ máy nhà nƣớc; bộ máy, cơ cấu tổ chức và hoạt động; công tác
cán bộ và các yếu tố vật chất trong tổ chức đối với hoạt động của TANDCC,
từ đó đƣa ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
6
cao tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay
- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2016 đến 2018
- Về nội dung: Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân cấp cao mà không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động
của Tòa án quân sự.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chính sách của
Đảng ta về xây dựng Nhà nƣớc và pháp luật, về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp
Đảng đến năm 2020, cũng nhƣ các quan điểm chỉ đạo của Đảng về tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam.
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú trọng các
phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, hệ thống và tham khảo ý kiến.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là một công trình khoa học đi sâu nghiên cứu Tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam theo Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014 về cả mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn công tác áp dụng pháp
luật. Qua đó, luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhƣ sau:
Thứ nhất, làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam; phát huy vai trò của Tòa
án nhân dân trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý và tuyên truyền, giáo
dục nâng cao ý thức pháp luật nhân dân đối với hoạt động của Tòa án.
Thứ hai, các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý
luận về tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa
7
án nhân dân cấp cao nói riêng nhằm thống nhất nhận thức về bản chất, vai trò
hoạt động xét xử của Tòa án trong đời sống xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích
của cá nhân, tổ chức.
Thứ ba, luận văn có thể đƣợc sử dụng nhƣ một tài liệu tham khảo cho
các Tòa án và các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc nghiên cứu, chỉ đạo,
phối hợp trong hoạt động của Tòa án nhân dân, đồng thời có thể sử dụng đƣợc
cho việc giảng dạy và xây dựng hoàn thiện chế định pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của của Tòa án nhân dân
cấp cao ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 3: Nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở
8
Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của của Tòa án nhân dân
1.1.1 Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước
Tòa án có vị trí, vai trò quan trọng trong các hoạt động của các cơ quan
nhà nƣớc, là biểu hiện tập trung của quyền tƣ pháp, là cơ quan thực hiện chức
năng xét xử. Khi bàn về chức năng xét xử của Tòa án trong nhà nƣớc XHCN,
V.I. Lênin viết: “Chúng ta sẽ là những người không tưởng lố bịch, nếu chúng
ta tưởng rằng một nhiệm vụ như vậy có thể thực hiện được ngay sau khi chính
quyền tư sản bị lật đổ… hoặc có thể thực hiện được mà không cần đến những
biện pháp cưỡng bách. Nếu không dùng đến cưỡng bách thì nhiệm vụ đó tuyệt
đối không thể hoàn thành được, chúng ta cần có nhà nước, chúng ta cần có
cưỡng bách. Tòa án phải là cơ quan nhà nước vô sản thực hiện sự cưỡng
bách đó” [39]. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án đồng thời thực hiện chức
năng tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Việc xét xử đúng pháp luật đã tác động
ý thức vào con ngƣời, giúp họ nâng cao ý thức pháp luật, góp phần tạo định
hƣớng dƣ luận lên án những hành vi tội ác, khuyến khách hành vi tôn trọng
pháp luật, răn đe các tƣ tƣởng coi thƣờng pháp luật. Bàn về vấn đề này, V.I.
Lênin đã viết Tòa án cần phải đảm đƣơng một nhiệm vụ khác còn quan trọng
hơn nữa. Đó là nhiệm vụ bảo đảm cho ngƣời lao động chấp hành một cách
nghiêm chỉnh nhất kỷ luật và kỷ luật tự giác.
Ngay từ buổi đầu của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Tòa án đã
chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc xét xử những hành vi vi
phạm pháp luật, chống phá nhà nƣớc ta. Cùng với quá trình phát triển của cách
mạng, ở mỗi giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu đặt ra khác nhau, tổ chức,
9
hoạt động của Tòa án nhân dân cũng có những nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau.
Vị trí và vai trò của Tòa án biểu hiện qua chức năng và thẩm quyền của
Tòa án đƣợc quy định trong Hiến pháp năm 2013, Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001) và các văn bản pháp luật khác.
Theo quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Tòa án là cơ
quan xét xử duy nhất của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức
năng xét xử của Tòa án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó bao trùm
và xuyên suốt quá trình hoạt động của Tòa án. Điều 102 Hiến pháp năm 2013
quy định:
“1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
1. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác
do luật định.
2. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [21]
Điều 127 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), quy định Tòa án
nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phƣơng, các Tòa án quân sự và các
Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Khoản 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Không
ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân”, ngƣời bị bắt, bị giam
giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền đƣợc bồi thƣờng thiệt hại về vật
chất và phục hồi danh dự. Ngƣời làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ,
truy tố, xét xử gây thiệt hại cho ngƣời khác bị xử lý nghiêm minh.
Về nhiệm vụ chung của Tòa án nhân dân, tại Hội nghị tƣ pháp toàn
quốc ngày 22/3/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tư pháp cần góp phần
của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân
dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đó là nhiệm vụ tích cực đồng thời có một
10
nhiệm vụ nữa là ngăn ngừa trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ ta,
phá hoại lợi ích của nhân dân”[4]. Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ
thực hiện chế độ pháp trị và bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân của Tòa án trong
những năm sau khi thành lập ngành, Ngƣời xem đó nhƣ là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của ngành Tòa án (nhiệm vụ tích cực).
Theo thời gian, nhiệm vụ của ngành Tòa án đã có những thay đổi đƣợc
thể hiện qua lời phát biểu của những ngƣời lãnh đạo đất nƣớc. Đồng chí Phạm
Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị tại Hội nghị tổng kết công tác của ngành Tòa án
năm 1983 khẳng định nhiệm vụ của ngành Tòa án là:“Về đường lối xét xử của
Tòa án nhân dân phải quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa” [32]. Mƣời tám năm sau, cũng tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án
năm 2001, đồng chí Nguyễn Văn An, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc
hội đã phát biểu:“Yêu cầu chung của đất nước đặt ra đối với các cơ quan tư
pháp nói chung, với ngành Tòa án nhân dân nói riêng là phải phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, xây dựng nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án nhân dân
trong năm 2002 và các năm tới cần nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo xét
xử khách quan chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và nhân dân
đồng tình, kiên quyết khắc phục oan sai” [33].
Nhƣ vậy có thể thấy Tòa án luôn đƣợc xem là một trong những công cụ
của nhà nƣớc dùng để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, chống lại những phần tử phản động, lật đổ chính quyền, chống lại
những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngƣợc lại ý chí của nhà nƣớc. Điều này
đƣợc quy định rõ trong Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014:
“Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
11
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình,
Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức
đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”.
Nếu nhƣ theo quan điểm của các nhà luật học kinh điển, Tòa án có vị
trí là cơ quan tƣ pháp trong bộ máy nhà nƣớc, thì trong Nhà nƣớc xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nƣớc thống nhất,
không phân chia, nhƣng có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp. Tòa án đƣợc xác
định là cơ quan thực hiện chức năng xét xử của Nhà nƣớc, một trong những
cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp, nhƣng trong cải cách tƣ pháp “Tòa án có vị
trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Tòa án Việt Nam không
kiểm soát, đối trọng với các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp, mà chủ
yếu thông qua hoạt động xét xử có vai trò bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản
của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của công dân.
Qua năm bản Hiến pháp của nƣớc ta, TAND với chức năng là cơ quan
xét xử, thông qua hoạt động xét xử - hoạt động cơ bản của quyền tƣ pháp,
TAND trở thành một trong những chủ thể quan trọng nhất của quyền tƣ pháp.
Hệ thống TAND trở thành hệ thống cơ quan nhà nƣớc có vị trí độc lập trong
bộ máy nhà nƣớc ở Việt Nam.
1.1.2 Các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
1.1.2.1. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân
dân tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và xuất phát từ tính quyền lực nhà nƣớc
ta là quyền lực nhân dân. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng
12
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (Khoản 1 Điều 2). Do đó các hoạt
động quyền lực nhà nƣớc cụ thể đều phải quán triệt nguyên tắc quần chúng
nhân dân tham gia đông đảo vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc.
Vì vậy lĩnh vực hoạt động tƣ pháp mà chủ yếu là hoạt động xét xử của Tòa án
phải đảm bảo cho nhân dân trực tiếp tham gia. Do vậy ngay từ Hiến pháp đầu
tiên của nƣớc ta năm 1946, nguyên tắc này đã đƣợc thể hiện “trong khi xử
việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc
tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình” (Điều
65) [17]. Đến Hiến pháp năm 1959 tại Điều 99 đã quy định nguyên tắc này
nhƣ sau: “Việc xét xử ở các TAND có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy
định của pháp luật. Khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm
phán” [18]. Nguyên tắc này không chỉ đƣợc khẳng định tại Hiến pháp năm
1980, 1992 mà tại Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 còn quy định rõ về
chế độ Hội thẩm nhân dân: “Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm
tham gia, trừ trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.
Những trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút gọn do luật tố tụng quy
định. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự của nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 thì thủ tục rút gọn chỉ đƣợc áp dụng khi có
đủ các điều kiện sau đây: Ngƣời thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang
hoặc ngƣời đó tự thú; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm
đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; ngƣời phạm tội có nơi cƣ trú, lý
lịch rõ ràng [24].
Nguyên tắc này bảo đảm cho Tòa án xét xử khách quan, toàn diện,
chống độc đoán hoặc tùy tiện cá nhân. Để đạt đƣợc kết quả cao trong xét xử,
các thành viên trong hội đồng xét xử phải tôn trọng nguyên tắc tập trung dân
chủ để phát huy trí tuệ của hội đồng xét xử.
Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán có nghiệp vụ tinh thông do Nhà
13
nƣớc bổ nhiệm thông qua kết quả thi tuyển của Kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán
quốc gia và cả các Hội thẩm sẽ bảo đảm cho các phán quyết của Hội đồng xét
xử khách quan, công bằng và thận trọng. Hội thẩm nhân dân cùng với Thẩm
phán bảo đảm tính nghiêm minh đúng pháp luật và họ gần gũi với nhân dân,
nắm bắt đƣợc tâm tƣ nguyện vọng, do vậy khi tham gia xét xử giúp cho hội
đồng xét xử nắm bắt đƣợc phong tục tập quán, nguyện vọng quần chúng, đặc
điểm tình hình địa phƣơng để các bản án và quyết định của Tòa án mang tính
giáo dục cao.
Điểm mới của nguyên tắc này theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 là trong trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút
gọn thì không nhất thiết phải thành lập hội đồng xét xử để bảo đảm cho việc
xét xử nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm thời gian, tránh sự tồn đọng án.
1.1.2.2. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Đây là nguyên tắc nền tảng của hoạt động tƣ pháp nói chung và hoạt
động xét xử của Tòa án nói riêng. Nó xuất phát từ nhu cầu của xã hội có dân
chủ, đòi hỏi sự chống can thiệp của các cơ quan nhà nƣớc khác vào hoạt động
tƣ pháp.
Đối với nƣớc ta ngay từ khi hình thành Tòa án nhà nƣớc đã bảo đảm
cho tính độc lập của Tòa án tại Điều 47 Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 quy
định nhƣ sau: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập đối với các cơ quan hành chính.
Các vị Thẩm phán sẽ chỉ chú trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác
không được can thiệp vào việc tư pháp” [5].
Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định: “Trong khi xét xử, các viên
Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”;
và các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013 đều quy
định nguyên tắc này đối với TAND.
Hiến pháp năm 2013 đƣợc Quốc hội khóa XIII thông qua ngày
14
28/11/2013 đã kế thừa những thành tựu lập hiến của các bản Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, đồng
thời, tiếp thu những tƣ tƣởng mới về Nhà nƣớc pháp quyền cũng nhƣ thực tiễn
công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Quan
trọng nhất, việc Hiến pháp quy định nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can
thiệp vào công việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm là một bảo đảm hiến định
quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Nguyên tắc này bảo
đảm cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không bị lệ thuộc bởi sự tác
động của cơ quan và cá nhân nào, có vậy hoạt động xét xử mới đánh giá một
cách khách quan mọi khía cạnh của vụ việc và áp dụng pháp luật một cách
công tâm nhằm ra phán quyết đúng đắn, chính xác.
Nội dung của nguyên tắc này là khi tiến hành xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc bởi ý kiến của cơ quan hoặc cá nhân
nào. Họ độc lập đánh giá chứng cứ đã thu thập đƣợc, độc lập, xem xét các
tình tiết vụ án, độc lập nhận định và vận dụng theo đúng quy định pháp luật
để phán quyết đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án nhân dân cấp trên
không đƣợc phép dùng mệnh lệnh hành chính buộc Tòa án cấp dƣới xử theo ý
kiến của mình. Đảng lãnh đạo Tòa án nhân dân về mặt tƣ tƣởng và tổ chức
không can thiệp vào việc giải quyết các vụ việc cụ thể của Tòa án.
Đối với nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập, các quy định của Hiến pháp
năm 2013 đã xác định một cách cụ thể hơn so với các bản Hiến pháp trƣớc
đây. Nếu nhƣ Hiến pháp năm 1992 quy định: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, thì Hiến pháp năm 2013 quy định cụ
thể, sâu sắc hơn:“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của
Thẩm phán, Hội thẩm”. Các cơ quan hành chính không đƣợc ảnh hƣởng đến
hoạt động nghiệp vụ của Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân đƣợc độc lập xem
15
xét các kết quả điều tra của cơ quan Điều tra và cũng không lệ thuộc vào việc
đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân mà Tòa án nhân dân độc lập xem xét và
quyết định theo đúng pháp luật.
Để đảm bảo cho nguyên tắc này, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi can thiệp vào việc xét
xử của Thẩm phán, Hội thẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử
lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật. Có thể khẳng định, độc lập xét xử là một yêu cầu cao nhất
thuộc quyền tƣ pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền. Khi hình thành quyết định
giải quyết vụ việc, ngƣời có thẩm quyền xét xử chỉ dựa vào tình tiết khách
quan của vụ việc trên cơ sở pháp lý và tƣ duy của mình để ra quyết định mà
không bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài khác. Nhƣ vậy, nguyên tắc xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đƣợc hình thành và hoàn thiện dần theo sự
phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam.
1.1.2.3. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và
quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc phát huy dân chủ đối với nhân
dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Nguyên tắc này bảo
đảm cho đông đảo nhân dân tham gia phiên tòa xét xử, đảm bảo sự giám sát
của nhân dân đối với việc xét xử của Tòa án, đồng thời góp phần giáo dục ý
thức pháp luật, phòng ngừa tội phạm thông qua xét xử của Tòa án.
Các luật tố tụng đã quy định cụ thể thành phần của hội đồng xét xử ở
từng cấp xét xử:
- Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân
dân. Trong trƣờng hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hội đồng
xét xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Đối với bị cáo bị đƣa ra
xét xử về tội theo khung hình phạt ở mức cao nhất là tử hình thì hội đồng xét
16
xử gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân.
- Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán và trong trƣờng hợp
cần thiết có thể có hai hội thẩm nhân dân.
- Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án nhân dân tối
cao gồm ba thẩm phán. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, ủy ban
thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng xét xử giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm thì số thành viên tham gia xét xử phải chiếm hai phần ba
tổng số thành viên của hội đồng thẩm phán hoặc ủy ban thẩm phán đó [36].
Khoản 3 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân
xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần
phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời
tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử
kín”. Để thực hiện nguyên tắc này nhiều TAND niêm yết tại trụ sở của Tòa án
lịch xét xử hàng tuần để nhân dân biết. Đồng thời Tòa án thông báo cho các bị
cáo, ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan, bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân
sự… về thời gian xét xử để những ngƣời này có thời gian chuẩn bị bào chữa
và mời ngƣời bào chữa, phải có giấy triệu tập hợp lệ đối với bị cáo, bị hại, bị
đơn, nguyên đơn dân sự, những ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, nhân chứng. Tại các phiên tòa, mọi công dân đủ 16 tuổi trở lên có quyền
tham dự phiên tòa (đối với các phiên tòa hình sự). Ngoài xét xử công khai,
Tòa án nhân dân có thể xử kín một số vụ việc, để giữ gìn bí mật nhà nƣớc,
thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc giữ gìn bí mật của các đƣơng sự theo
yêu cầu chính đáng của họ. Tuy nhiên khi tuyên án phải công khai để mọi
ngƣời biết.
Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số xuất phát từ tính
chất đặc thù của hoạt động xét xử của Tòa án mà sự phán quyết của nó không
chỉ liên quan đến lợi ích của nhà nƣớc, xã hội, quyền của công dân và cả sinh
mạng con ngƣời. Do vậy đòi hỏi phải bàn bạc kỹ lƣỡng, cân nhắc thận trọng
17
nên phải cần đến trí tuệ tập thể. Hiện nay có nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng
chế độ một Thẩm phán xét xử, nhƣng đó là những vụ việc đơn giản và nhỏ
nhặt, còn những vụ việc phức tạp có tác hại lớn đều tiến hành xét xử tập thể,
Hội đồng đó có thể là nhiều Thẩm phán, có thể là Thẩm phán cùng Hội thẩm
hoặc thông qua Bồi thẩm đoàn. Đối với nƣớc ta tất cả các vụ việc hiện nay và
ở tất cả các cấp Tòa án đều xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Nguyên
tắc này đƣợc quy định một cách nhất quán trong các Hiến pháp và các Luật tổ
chức Tòa án nhân dân nƣớc ta. Hiến pháp năm 2013 tại Khoản 4 Điều 103
quy định: “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ
trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.
Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi hội đồng xét xử phải là một tập thể, có
thể là các Thẩm phán hoặc có thể gồm Thẩm phán và các Hội thẩm nhân dân,
Hội đồng xét xử có ít nhất 3 thành viên trở lên; Hội đồng xét xử làm việc tập
thể, cùng nghiên cứu hồ sơ vụ việc, cùng tham gia thẩm vấn xác minh chứng
cứ tại phiên Tòa, cùng bàn bạc và quyết định theo đa số.
Điểm mới của nguyên tắc này theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 là trong trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút
gọn thì không nhất thiết phải thành lập hội đồng xét xử để bảo đảm cho việc
xét xử nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm thời gian, tránh sự tồn đọng án.Tuy
nhiên, nguyên tắc này trên thực tế hiện nay còn mang tính hình thức, chƣa tạo
điều kiện tốt cho Hội thẩm tiếp cận hồ sơ, trình độ Hội thẩm còn yếu do vậy
cần nghiên cứu để tiêu chuẩn hóa đối với Hội thẩm nhân dân.
1.1.2.4. Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
được bảo đảm” (Khoản 3 Điều 135). Nội dung của nguyên tắc này thể hiện
bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực của Tòa án nhân dân có thể có
thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Bản án, quyết
định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do luật tố tụng
18
quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải đƣợc xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
Nhƣ vậy, quy định của Hiến pháp năm 2013 đã bảo đảm việc thực hiện
quyền tố tụng của bị cáo và đƣơng sự đƣợc xét xử qua hai cấp: cấp xét xử sơ
thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. Điều này thể hiện sự “đoạn tuyệt” với thủ tục
xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm đƣợc thực hiện mấy chục năm qua,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những ngƣời tham gia tố tụng,
tránh đƣợc những sai lầm dẫn đến số lƣợng án bị cải sửa, bị hủy hằng năm
của các Tòa án. Đồng thời khi thể hiện hai cấp xét xử sẽ đƣa thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm về đúng với bản chất là trình tự xét xử lại bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, chứ không phải là cấp xét xử thứ ba.
1.1.2.5. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử kịp thời, công bằng
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Tòa án nhân dân
xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng” (Khoản 1 Điều
11) để bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng thời gian đúng thời gian, quy
trình đã quy định trong luật tố tụng, bảo đảm tính pháp chế trong việc xét xử
của tòa án.
Mục đích của nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân có thể kiểm tra,
giám sát đƣợc hoạt động của Tòa án, phát huy đƣợc tính giáo dục chính trị -
pháp lý, thu hút nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
Tòa án nhân dân phải có kế hoạch xét xử các vụ án trong thời hạn luật
tố tụng quy định. Kế hoạch xét xử phải đƣợc niêm yết công khai tại trụ sở của
Tòa án. Tòa án phải thông báo cho chính quyền xã, phƣờng, thị trấn nơi cƣ trú
và làm việc cuối cùng của bị cáo đồng thời phải thông báo cho bị cáo, ngƣời
bị hại (vụ án hình sự), đƣơng sự và những ngƣời có liên quan đến vụ án biết
về thời gian, địa điểm xử án. Đối với những vụ án quan trọng, Tòa án phải
19
thông báo trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng để nhân dân biết. Về
nguyên tắc, việc xử án đƣợc thực hiện tại phòng xử án của Tòa án nhƣng Tòa
án có thể xét xử lƣu động ở nơi xảy ra vụ án để tăng cƣờng công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật.
1.1.2.6. Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản thể hiện nền dân
chủ Xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tƣ pháp.
Nguyên tắc này bảo đảm tính công bằng trƣớc pháp luật, là yếu tố bảo
đảm niềm tin công lý của xã hội đối với Tòa án.
Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Tòa án xét
xử theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá
nhân, cơ quan tổ chức đều bình đẳng trước Tòa án”.
Nội dung thể hiện cụ thể:
- Mọi hành vi phạm tội, mọi tranh chấp pháp lý do bất kỳ ai thực hiện
đều đƣợc Tòa án xét xử nghiêm minh, công bằng không thiên vị.
- Mọi quy định về quyền và nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố tụng
thì bất kỳ ai khi tham gia đƣợc hƣởng quyền và nghĩa vụ ấy thì đƣợc thực
hiện quyền và phải có trách nhiệm pháp lý đầy đủ về các nghĩa vụ tố tụng đó.
Không đặc quyền cho bất ký ai, bất kỳ cơ quan tổ chức nào.
- Bình đẳng trong việc hƣởng quyền và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trƣớc
pháp luật không có bộ phận chỉ thực hiện quyền mà không thực hiện nghĩa vụ
pháp luật hoặc ngƣợc lại.
- Lời trình bày và xuất trình chứng cứ đều có giá trị nhƣ nhau đối với
mọi ngƣời, mọi tổ chức tại Tòa.
Do vậy, vi phạm nguyên tắc này sẽ vi phạm nguyên tắc dân chủ
XHCN, phá vỡ tính thống nhất của nguyên tắc pháp chế XHCN và nguy hại
hơn việc xét xử không công minh sẽ đƣa đến mất niềm tin của nhân dân đối
20
với Tòa án và đối với chế độ.
1.1.2.7. Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Nguyên tắc này đƣợc quy định trong các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm
2013 và các Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002, 2014.
Hiến pháp năm 1992 quy định ghi nhận quyền bào chữa của bị can, bị
cáo nhƣ là yêu cầu và nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân khi thực
hiện việc xét xử. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 quy định: Quyền bào chữa
của bị cáo đƣợc bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào
chữa cho mình. Nhƣ vậy, quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội chỉ đƣợc bảo
đảm thực hiện trong phạm vi của giai đoạn xét xử tại Tòa án [20].
Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định:“Người bị buộc tội coi
là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Ngƣời bị bắt, bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự do trình bày lời khai, ý kiến không bị ép buộc phải
đƣa ra lời khai chống lại chính mình hoặc bị ép buộc phải nhận mình có tội.
Nhƣ vậy, việc chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan thực hiện quyền tố
tụng hình sự, trong đó có Tòa án nhân dân.
Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sư hoặc người khác bào chữa”. Trong trƣờng hợp cần thiết, mặc dù bị cáo
không yêu cầu nhƣng Tòa án vẫn phải yêu cầu đoàn luật sƣ cử ngƣời bào
chữa cho bị cáo trong các trƣờng hợp: Bị cáo có khuyết tật về thể chất và tinh
thần; Bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt cao nhất là tử hình; Bị cáo
là vị thành niên phạm tội.
Quyền bào chữa trong Hiến pháp năm 2013 đƣợc sắp xếp trong nhóm
quyền cơ bản của công dân, quyền con ngƣời. Nhƣ vậy, Hiến pháp đã xác
21
định rõ quyền bào chữa là quyền con ngƣời, quyền công dân nên không chỉ cơ
quan xét xử mà tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội phải có trách
nhiệm tôn trọng và đƣợc nhà nƣớc bảo đảm thực hiện.
Thực hiện cải cách tƣ pháp và Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản luật
ra đời nhằm tạo cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền bào chữa nhƣ: Bộ
luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân, Luật Luật sƣ, Luật Trợ giúp pháp lý,… và nhiều văn bản dƣới
luật khác. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền bào
chữa của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo về cơ bản đã đáp ứng đƣợc những
đòi hỏi của các quy định quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời trong tố tụng
hình sự, bao gồm quyền đƣợc bào chữa, quyền đƣợc xét xử công bằng.
1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân
dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao
1.2.1.1. Vị trí của Tòa án nhân dân cấp cao
Nằm trong hệ thống TAND, TAND cấp cao với tƣ cách là một bộ phận
cấu thành của hệ thống TAND, nó mang những điểm chung về vị trí, vai trò
của hệ thống tòa án nƣớc ta. Cùng với TAND tối cao, các Tòa án nhân dân
cấp cao, các TAND cấp tỉnh, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật
định. TANDCC có vị trí đặc biệt quan trọng đối với các cơ quan Nhà nƣớc
nói chung và các cơ quan tƣ pháp ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ nói riêng, đƣợc thể hiện qua những
điểm sau:
Thứ nhất, TAND cấp cao là một chủ thể thực hiện quyền tƣ pháp, xét
xử nhân danh Nhà nƣớc, căn cứ vào pháp luật hiện hành của Nhà nƣớc,
TAND cấp cao phán quyết phân xử các tranh chấp và xử phạt các hành vi
phạm pháp luật mà cơ quan hành pháp khi thực hiện chức năng thi hành pháp
luật, phát hiện và truy cứu ra trƣớc Tòa án để Tòa án phán quyết có vi phạm
22
pháp luật hay không và biện pháp chế tài để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi
vi phạm pháp luật đó. Nhƣ vậy, hoạt động xét xử của TAND cấp cao phản
ánh một cách trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nƣớc, ý chí của nhân dân.
Thứ hai, thay mặt nhà nƣớc thực hiện chức năng xét xử, thông qua hoạt
động xét xử của mình, TAND cấp cao thực hiện đƣợc việc kiểm tra hành pháp
của các cơ quan Nhà nƣớc, thông qua hoạt động này công lý đƣợc bảo đảm,
pháp luật đƣợc thực thi, quyền công dân, quyền con ngƣời đƣợc bảo vệ, hơn
nữa là còn góp phần bảo vệ cho trật tự xã hội đƣợc an toàn, ổn định, phát triển
lành mạnh và bền vững.
Ở nƣớc ta, từ khi thành lập đến nay, TAND cấp cao giữ một vai trò vị
trí trung tâm trong việc tổ chức, thực hiện quyền tƣ pháp ở cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ với chức năng
tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử là một trong những quan điểm cơ bản
định hƣớng hoạt động cải cách tƣ pháp đã đƣợc khẳng định trong Nghị quyết
số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp nƣớc ta đến năm 2020 và đã đƣợc Hiến pháp năm 2013 quy định tại điều
102: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Do vậy, vị trí của TAND cấp cao
trong bộ máy Nhà nƣớc cũng nhƣ trong hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt
Nam cũng từng bƣớc đƣợc xác định, đƣợc biểu hiện ngày một rõ nét hơn.
1.2.1.2. Chức năng của Tòa án nhân dân cấp cao
Qua 5 bản Hiến pháp của nƣớc ta, TAND với chức năng là cơ quan xét
xử, thông qua hoạt động xét xử - hoạt động cơ bản của quyền tƣ pháp, TAND
trở thành một trong những chủ thể quan trọng nhất của quyền tƣ pháp. Hệ
thống TAND trở thành hệ thống cơ quan nhà nƣớc có vị trí độc lập trong bộ
máy nhà nƣớc ở Việt Nam.
Theo Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, ở nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các tòa án sau đây:
23
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân cấp cao;
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương;
- Tòa án quân sự.
Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân
gồm: Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định”, là cơ quan
xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ
pháp. Trên cơ sở các quy định nêu trên, các đạo luật về tổ chức TAND các
năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 đều khẳng định chức năng xét xử của cơ
quan Tòa án.
Xuất phát từ địa vị pháp lý của Tòa án, trên cơ sở các quy định của
pháp luật, nhất là các quy định của các đạo luật về tổ chức Tòa án và các
đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy rằng, chức năng xét xử của
Tòa án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt quá trình ra đời và
phát triển của Tòa án. Chính vì vậy, hoạt động xét xử của Tòa án, trong đó
có các TAND cấp cao có chức năng hết sức quan trọng. Xét xử phúc thẩm
vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; giám
đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng (các bản
án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao
động, hành chính và giải quyết những việc khác).
Đa số các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp cao đều là
24
những vụ án khó và phức tạp. Trong quá trình xét xử, TAND cấp cao xem xét
đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá
trình tố tụng, căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội
hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tƣ pháp,
quyết định về quyền và nghĩa vụ tài sản, quyền nhân thân. Khi xét xử, TAND
cấp cao nhân danh nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bản án và
quyết định của Tòa án mang tính quyền lực nhà nƣớc.
1.2.1.3. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao
Theo từ điển Luật học thì “Thẩm quyền xét xử là sự phân định thẩm
quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau. Việc phân định thẩm quyền
xét xử căn cứ vào những dấu hiệu nhất định và tính chất của từng vụ án cụ
thể; thẩm quyền xét xử theo loại việc, thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ hoặc
theo địa phương, thẩm quyền xét xử theo vụ án có liên quan với nhau”[42].
Đối với vấn đề thẩm quyền của TAND cấp cao, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014 điều chỉnh nội dung thẩm quyền giữa Tòa án nhân dân cấp cao với
Tòa án nhân dân cấp tỉnh với TAND cấp huyện.
Tòa án nhân dân cấp cao là cơ quan xét xử cấp thứ 3 từ dƣới lên trong
hệ thống xét xử 4 cấp của Tòa án nhân dân Việt Nam. Tòa án nhân dân cấp
cao có thẩm quyền dƣới Tòa án nhân dân tối cao và trên Tòa án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng.
Theo Điều 29 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì thẩm quyền
của TAND cấp cao đƣợc quy định nhƣ sau:
Thứ nhất, phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền
theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của luật tố tụng.
Thứ hai, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
25
luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi
thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
Nhƣ vậy, TAND là cơ quan Nhà nƣớc có chức năng xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, kinh doanh thƣơng mại, hành chính và giải quyết các việc
khác theo quy định của pháp luật, thẩm quyền của TAND nói chung và của
TAND cấp cao nói riêng thực chất là thẩm quyền xét xử các vụ án. Phân định
thẩm quyền xét xử của Tòa án là một trong các nội dung của hệ thống pháp
luật về tổ chức và hoạt động của TAND.
1.2.2. Nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp cao
Trong tổ chức bộ máy nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Tòa án nhân dân là một trong bốn hệ thống các cơ quan nhà nƣớc hợp thành.
Với tƣ cách là một cấp trong hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân, TAND
cấp cao tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở các nguyên tắc chung về tổ chức
và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân. Theo đó, các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao bao gồm:
- Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật
Khi nghiên cứu hồ sơ cũng nhƣ khi xét xử, Thẩm phán không bị phụ
thuộc vào kết luận của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy
tố của Viện kiểm sát, không phụ thuộc vào ý kiến của các cơ quan khác.
Trong quá trình xét xử, Thẩm phán độc lập từ việc nhận định vụ án, diễn giải
pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật và ra bản án. Các cá nhân, cơ quan, tổ
chức không đƣợc can thiệp, tác động tới các thành viên của Hội đồng xét xử
để buộc họ phải xét xử theo ý chí của mình. Mọi hành vi can thiệp vào hoạt
động xét xử của Tòa án đều bị coi là vi phạm pháp luật và ảnh hƣởng tới tính
26
khách quan của hoạt động xét xử.
Tuy nhiên trong quá trình xét xử, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến
của các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dƣ luận xã hội nhƣng khi ra quyết định
về vụ án, Thẩm phán phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét
các vấn đề của vụ án một cách độc lập, khách quan, không bị ảnh hƣởng, bị
ràng buộc bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ án. Hội đồng xét xử
phải xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một
cách thận trọng, khoa học, toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại
phiên tòa. Quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao chỉ đƣợc căn cứ vào
những chứng cứ đã đƣợc thẩm tra tại phiên tòa.
Xét xử độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà việc xét xử phải
tuân thủ các quy định của pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Khi
nghiên cứu hồ sơ, khi xét xử, Thẩm phán phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật để giải quyết vụ án, không đƣợc tùy tiện, áp đặt ý chí chủ quan
trong việc áp dụng pháp luật. Khi thực hiện hoạt động xét xử, hoạt động gắn
liền với việc củng cố pháp chế và trật tự pháp luật thì Thẩm phán càng phải
nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai mặt thống nhất của một
nguyên tắc cơ bản trong tố tụng. Độc lập tức là tuân theo pháp luật và tuân
theo pháp luật để đƣợc độc lập. Nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không có sự
độc lập thì chỉ là sự tuân theo một cách hình thức, không có hiệu quả. Điều đó
thể hiện là các phán quyết trong bản án, quyết định của hội đồng xét xử phải
phù hợp với mọi tình tiết khách quan của vụ án, việc xét xử phải đảm bảo
đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công
dân…; không đƣợc kết luận dựa trên ý chí chủ quan, cảm tính của cá nhân
mỗi thành viên của Hội đồng xét xử.
- Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công khai, xét xử tập thể và
27
quyết định theo đa số
Nội dung nguyên tắc xét xử công khai một mặt thể hiện tính dân chủ, tạo
điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát đƣợc các hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp cao, của các chủ thể tiến hành tố tụng, qua đó phát hiện những thiếu sót
hoặc sai lầm trong tiến trình giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà
nƣớc, của công dân theo quy định của pháp luật, mặt khác qua xét xử công khai
còn có tác dụng tuyên truyền pháp luật cho quần chúng nhân dân.
Có thể thấy xét xử công khai nhằm đảm bảo cơ chế kiểm tra và giám
sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử và tuyên truyền, giáo dục ý thức
pháp luật cho ngƣời dân. Tuy vậy Tòa án có thể quyết định xét xử kín trong
một số trƣờng hợp quy định hoặc theo yêu cầu chính đáng của đƣơng sự nhƣ
đã viện dẫn trên. Đây là trƣờng hợp ngoại lệ của nguyên tắc xét xử công khai
trong tố tụng hình sự.
Muốn có bản án, quyết định khách quan, đúng pháp luật đòi hỏi phải
phát huy trí tuệ tập thể. Do vậy, khi xét xử các vụ án ở các trình tự tố tụng đều
phải thành lập hội đồng xét xử, trừ trƣờng hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp
cao gồm ba thẩm phán. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao, ủy ban
thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng xét xử giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm thì số thành viên tham gia xét xử phải chiếm hai phần
ba tổng số thành viên của hội đồng thẩm phán hoặc ủy ban thẩm phán đó.
Nguyên tắc này bảo đảm cho tòa án xét xử khách quan, toàn diện,
chống độc đoán hoặc tùy tiện cá nhân. Để đạt đƣợc kết quả cao trong xét xử,
các thành viên trong hội đồng xét xử phải tôn trọng nguyên tắc tập trung dân
chủ để phát huy trí tuệ của hội đồng xét xử.
- Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử phúc thẩm
Việc bảo đảm chế độ xét xử phúc thẩm là nhằm: Bảo đảm quyền của
đƣơng sự và những ngƣời có quyền kháng cáo, kháng nghị khác theo trình tự
28
phúc thẩm; Bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định
đã bị kháng cáo, kháng nghị phải đƣợc xem xét theo trình tự phúc thẩm; Bảo
đảm các bản án không có căn cứ pháp luật và không đúng pháp luật sẽ không
đƣợc đƣa rat hi hành trong thực tế; Thực hiện việc giám sát của Tòa án nhân
dân cấp cao đối với Tòa án nhân dân tỉnh; Bảo đảm cơ chế để Tòa án nhân
dân cấp cao thực hiện nhiệm vụ của mình là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc.
Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp
cao bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đƣợc chính xác, đúng đắn, giúp kịp
thời sửa chữa sai lầm hoặc vi phạm pháp luật mà Tòa án nhân dân tỉnh mắc
phải, nhờ đó mà chất lƣợng xét xử tại các cấp xét xử đƣợc nâng cao.
- Nguyên tắc Tòa án nhân dân cấp cao xét xử kịp thời, công bằng
Trƣớc hết nguyên tắc trên đòi hỏi Tòa án phải xét xử không quá mức
chậm trễ bởi vì “Công lý chậm trễ, đồng nghĩa không có công lý” (Pascal-
luật gia La mã). Chính vì vậy, Tòa án phải xét xử kịp thời điểm đàm bảo yêu
cầu bị cáo đƣợc xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý không chỉ liên
quan đến khoảng thời gian từ khi bị cáo buộc đến khi mở phiên tòa, mà còn
đến thời gian xét xử tại tòa và thời gian giữa hai phiên xét xử sơ thẩm và phúc
thẩm, tất cà đều không đƣợc trì hoãn quá lâu.
Xét xử kịp thời không chậm trễ nhằm đảm bảo quyền con ngƣời của
những ngƣời bị buộc tội. Bởi lẽ, khi bị đƣa vào vòng quay tố tụng với tƣ cách
bị can, bị cáo, những ngƣời này có thể bị áp dụng các biện pháp cƣỡng chế tố
tụng hình sự nhƣ tạm giữ, tạm giam, cấm đi khởi nơi cứ trú và bị hạn chế một
số quyền trong khi họ chƣa bị coi là có tội thì tính thân của nguyên tắc suy
đoán vô tội. Chính vì vậy, xét xử kịp thời, tòa án sẽ nhanh chóng đƣa ra phán
quyết trong nhiều trƣờng hợp tòa tuyên họ vô tội, trả tự do và khôi phục
quyên lợi cho họ.
Nguyên tắc này đòi hỏi tòa án xét xử công bằng. Thể hiện, ngƣời bị
29
buộc tội phải đƣợc xét xử bởi một phiên tòa mà ở đó họ đƣợc thực hiện các
quyền của mình trong tố tụng hình sự mà Hiến pháp và pháp luật quy định
nhƣ: Đƣợc thông báo về phiên tòa, đƣợc biết mình bị xét xử về tội gì, đƣợc
bào chữa hay nhờ ngƣời bào chữa, đƣợc tranh luận tại phiên tòa, đƣa ra các
chứng cứ và yêu cầu. Phiên tòa công bằng là phiên tòa mà ở đó quyền của các
bên tham gia tố tụng đƣợc đảm bảo và đúng trình tự, thủ tục luật định.
- Nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng của công dân
Nguyên tắc này xác định vị trí nhƣ nhau của mọi công dân trong tất cả
các lĩnh vực hoạt động của Nhà nƣớc và xã hội, cũng nhƣ trong việc tham gia
quan hệ tố tụng hình sự, không có sự ƣu tiên, ƣu đãi, phàn biệt đối xử theo
các dấu hiệu nam, nữ, dân tộc, tín ngƣỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội
và các dấu hiệu khác.
Nhà nƣớc quy định hệ thống pháp luật thống nhất và việc áp dụng pháp
luật giống nhau đối với mọi ngƣời trong khi tiến hành tố tụng. Bất cứ ngƣời
nào thực hiện hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự theo các
Điều khoản tƣơng ứng của Bộ luật hình sự, không phân biệt nam, nữ, dân tộc,
tín ngƣỡng tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.
- Nguyên tắc khi xét xử, Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị
cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
BLTTHS năm 2015 cũng đã sử dụng thuật ngữ pháp lý mới: “Ngƣời bị
buộc tội”, thuật ngữ thƣờng chỉ đƣợc sử dụng trong các văn bản nghiên cứu
khoa học pháp lý trƣớc đây, theo đó, “Ngƣời bị buộc tội gồm ngƣời bị bắt,
ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
Trên cơ sở cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm
2013, Điều 16 BLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền bào chữa của
ngƣời bị buộc tội nhƣ sau: “Ngƣời bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sƣ hoặc ngƣời khác bào chữa. Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố
30
tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho ngƣời bị buộc tội,
bị hại, đƣơng sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp
của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Trong những trƣờng hợp luật định, nếu ngƣời buộc tội hoặc ngƣời đại
diện hợp pháp của họ không mời ngƣời bào chữa thì các cơ quan nói trên phải
yêu cầu đoàn luật sƣ cử ngƣời bào chữa cho họ. Mặt khác, để đảm bảo cho
việc giải quyết vụ án đƣợc khách quan, toàn diện và đầy đủ, không để lọt kẻ
phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội thì việc bào chữa là cần thiết, giúp cơ
quan tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự không chỉ có buộc tội mà nó chỉ có thể đạt
hiệu quả cao khi tồn tại song song hai chức năng buộc tội và gỡ tội. Đó cũng
là một trong những cơ sở giúp Toà án giải quyết vụ án đƣợc chính xác.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền bào vệ lợi ích hợp pháp của mình
hoặc nhờ ngƣời khác bảo vệ lợi ích của mình.
Việc tuân theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân có ý nghĩa quan trọng, nó bảo đảm cho Tòa án nhân dân xét xử khách
quan, đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật đồng thời bảo đảm cho bị can, bị
cáo và đƣơng sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức
và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp cao
Tổ chức TAND cấp cao chịu tác động trƣớc hết là từ chức năng của nó.
Từ chức năng của TAND cấp cao, vai trò và vị trí của Tòa án cấp này đƣợc
khẳng định trong đời sống xã hội, quy mô tổ chức bộ máy của TAND cấp cao
đƣợc định hình trong bộ máy nhà nƣớc. Đồng thời, tổ chức TANDCC còn
chịu tác động từ những cơ quan khác trong bộ máy nhà nƣớc. Theo các quy
định trong Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan
31
đến tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc và của hệ thống cơ quan xét
xử, địa vị pháp lý của TAND cấp cao chịu sự tác động của các yếu tố khách
quan và chủ quan, chẳng hạn nhƣ các quy định pháp luật, việc tổ chức hệ
thống các cấp chính quyền hay việc phân định địa giới hành chính ở mỗi quốc
gia, hay các nhóm quan hệ cơ bản nhƣ:
Một là: Mối quan hệ giữa TAND cấp cao với các cơ quan quyền lực
nhà nước
Tòa án nhân dân cấp cao là cơ quan xét xử cấp thứ 3 từ dƣới lên trong
hệ thống xét xử 4 cấp của Tòa án nhân dân Việt Nam. Trong tổ chức và hoạt
động của mình, TAND cấp này chịu sự giám sát và chịu ảnh hƣởng của các
cơ quan đại diện từ trung ƣơng đến địa phƣơng.
Điều 19 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội
đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân
theo quy định của luật”.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của hệ
thống tòa án, trong đó có TAND tối cao thông qua việc bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - ngƣời
đứng đầu, ngƣời có quyền lực cao nhất trong tổ chức và hoạt động của ngành
TAND, còn Chánh án TAND tối cao có thẩm quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm,
miễn nhiệm tất cả các thẩm phán địa phƣơng. Quốc hội quyết định phân bổ
ngân sách cho ngành TAND, trong đó có TAND cấp cao. Quốc hội có quyền
ban hành tất cả các loại văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức hoạt động
của Toà án; các quy tắc tố tụng của Toà án. TAND cấp cao có sự phụ thuộc
vào Quốc hội. Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật của toà án trái
với Hiến pháp, luật pháp hay Nghị quyết của mình. Chánh án TANDCC phải
báo cáo với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để báo cáo hàng năm trƣớc
32
Quốc hội. Chánh án TAND tối cao phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội
nếu có yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Quốc hội quyết định ngân sách hoạt
động hằng năm của Tòa án.
Hai là: Mối quan hệ giữa TAND cấp cao với TAND tối cao, TAND cấp
cao với TAND tỉnh và TAND cấp cao với TAND cấp huyện.
Khoản 1 Điều 18 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định:
“Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân về tổ chức”.
TAND cấp cao có vị trí nhƣ là cơ quan "cấp dƣới” trực tiếp của TAND tối
cao và là cơ quan "cấp trên" trực tiếp của TAND tỉnh và TAND huyện.
Chánh án TAND tối cao có quyền hạn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp cao và các Tòa án khác; trình Chủ tịch
nƣớc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác. Trình
Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể Tòa án nhân dân
cấp cao, quy định về phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân
dân cấp cao. Tổ chức công tác đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ cho Thẩm
phán và cán bộ TAND cấp cao.
Nhƣ vậy, theo các quy định trong pháp luật hiện hành thì TAND cấp
cao có vị trí độc lập tƣơng đối trong bộ máy Nhà nƣớc cũng nhƣ trong hệ
thống cơ quan xét xử của nƣớc ta. Sự phụ thuộc của TAND cấp cao vào hệ
thống các cơ quan này là tƣơng đối lớn. Những đặc điểm về vị trí của TAND
cấp cao trong bộ máy Nhà nƣớc, trong hệ thống cơ quan xét xử đã ảnh hƣởng
đến hoạt động của TAND cấp cao, đặc biệt là phán quyết của Tòa án trong
quá trình giải quyết vụ việc.
Ba là: Mối quan hệ giữa TAND cấp cao với Chính phủ
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mối quan hệ giữa Toà án và
Chính phủ đƣợc xem là mối quan hệ phối hợp có tính điển hình đồng thời
cũng là mối quan hệ mang tính phụ thuộc trong hệ thống quyền lực nhà nƣớc.
Hai thiết chế này khá riêng biệt với nhau. Tuy vậy, cũng nhƣ hệ thống TAND
33
nói chung và TAND cấp cao nói riêng phải áp dụng các văn bản hƣớng dẫn
thi hành luật của Chính phủ trong quá trình xét xử dẫn đến TANDCC có sự
phụ thuộc nhất định vào Chính phủ.
Bốn là: Mối quan hệ giữa TAND cấp cao với các cơ quan khác trong
hệ thống cơ quan tư pháp.
Nhƣ đã khẳng định ở trên, trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp, toà án
có vị trí trung tâm. Thông qua hoạt động xét xử toà án sẽ đánh giá tính
đúng đắn các hành vi pháp lý của cơ quan điều tra, phán xử hành vi truy tố
của Viện kiểm sát có đúng quy định pháp luật hay không và đƣa ra phán
quyết để cơ quan thi hành án thực hiện hoạt động thi hành án. Trong mối
quan hệ bên trong này, xét xử là hoạt động trung tâm, là hoạt động thể hiện
tập trung nhất bản chất của quyền tƣ pháp. Mặc khác, pháp luật trao cho
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động tuân thủ pháp
luật của toà án trong quá trình diễn ra phiên toà. Chính quy định này đã có
ảnh hƣởng đến tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống cơ quan tƣ
pháp. Nhƣ vậy, trong pháp luật nƣớc ta, toà án có vị trí độc lập tƣơng đối
trong bộ máy Nhà nƣớc. Qua phân tích cho thấy rằng: Sự phụ thuộc của toà
án vào hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nƣớc (Quốc hội và Hội đồng nhân
dân) là tƣơng đối lớn. Tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống các cơ
quan tƣ pháp chƣa đƣợc bảo đảm do sự tác động từ phía Viện kiểm sát
nhân dân thông qua quyền giám sát hoạt động xét xử tại phiên toà. Chính
những đặc điểm này về vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nƣớc đã ảnh
hƣởng đến hoạt động của toà án, đặc biệt là yêu cầu có tính nguyên tắc hiến
định của hoạt động tài phán - toà án phải độc lập chỉ tuân theo pháp luật
trong quá trình xét xử.
Nhƣ vậy, với tƣ cách là một trong bốn cấp xét xử của hệ thống TAND,
TAND cấp cao có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan khác trong hệ thống
34
tƣ pháp
1.3.2. Mục tiêu đặt ra đối với việc tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp cao
Trên cơ sở trên, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao cần
đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, cần nâng cao năng lực, trách nhiệm, chất lƣợng, hiệu quả công
tác xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao, bảo đảm phục vụ hiệu quả công cuộc
đổi mới của đất nƣớc. Năng lực xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc
hiểu là khả năng thực hiện chức năng, nhiệm vụ phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm các bản án, vụ việc theo thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc
giao. Nâng cao khả năng của thẩm phán, cán bộ Tòa án bảo đảm điều kiện
khách quan để TAND cấp cao hoàn thành chức năng xét xử. Năng lực xét xử
của Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc cấu thành bởi các yếu tố cơ bản là: Cơ cấu
tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân cấp cao; trình độ đào tạo, năng lực
chuyên môn của cán bộ, công chức, đặc biệt là của đội ngũ Thẩm phán
TAND cấp cao; trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, kỹ năng nghề
nghiệp, trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán và của thƣ ký TAND cấp cao; sự
phối hợp giữa Tòa án nhân dân cấp cao với các cơ quan tiến hành tố tụng và
các cơ quan, tổ chức có liên quan; các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật đảm
bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao.
Hai là, phải bảo đảm tính độc lập của Tòa án nhân dân cấp cao trong
hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật thông qua
sự phán đoán trên cơ sở đánh giá các chứng cứ, tình tiết có trong vụ án và đối
chiếu với các quy định của pháp luật và đƣa ra các phán quyết nhân danh nhà
nƣớc. Cuộc đấu tranh cho sự độc lập của Tòa án là một thắng lợi lớn của chế
độ Tƣ sản. Cho đến nay, cuộc đấu tranh vì sự độc lập của tòa án với cơ quan
lập pháp và cơ quan hành pháp vẫn còn gặp không ít khó khăn. Do đó, “sự
độc lập của Tòa án đối với các cơ quan nhà nƣớc khác, với các nhóm áp lực
35
xã hội (đảng phái, tôn giáo…) là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của
một chế độ pháp trị, một nhà nƣớc pháp quyền” [40]. Bởi vậy, muốn có sự
đánh giá, áp dụng đúng pháp luật, khách quan thì Tòa án và các Thẩm phán
phải có sự độc lập cả về tổ chức và ý chí quyết định. Ở nhiều nƣớc trên thế
giới, yêu cầu bảo đảm sự độc lập của Tòa án là một nguyên tắc có tính hiến
định, trong đó chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán đƣợc quy định
một cách rõ ràng, độc lập và không lệ thuộc vào các cơ quan lập pháp, hành
pháp. Sự phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ
máy nhà nƣớc và đề cao sự độc lập của Thẩm phán là điều kiện để Thẩm phán
thực hiện chức năng xét xử.
Việc đảm bảo tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án còn thể
hiện qua việc đề cao vai trò độc lập của thẩm phán trong xét xử, bởi vì hoạt
động xét xử của thẩm phán là hoạt động tƣ duy. Hoạt động này thƣờng bị ảnh
hƣởng bởi những ngoại cảnh nhƣ dƣ luận xã hội, các sức ép của các thế lực
nhà nƣớc, tôn giáo, đảng phái và gay gắt của các đƣơng sự. Tính độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán ở nƣớc ta đã đƣợc ghi nhận trong Hiến
pháp. Nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này đã đƣợc ghi nhận tại khoản
2 Điều 103 Hiến pháp 2013 và đƣợc cụ thể hoá tại Điều 9 Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014 là: “Khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”. Việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa quan
trọng trong việc tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói
chung, Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng. Điều này đòi hỏi các Tòa án nhân
dân cấp cao phải đƣợc tổ chức độc lập với các cơ quan, tổ chức khác; hoạt
động xét xử không bị can thiệp trái pháp luật từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân
và tiến tới nghiên cứu quy định việc bổ nhiệm Thẩm phán với nhiệm kỳ lâu
dài và chế độ đãi ngộ tƣơng xứng để Thẩm phán yên tâm, liêm chính thực
36
hiện nhiệm vụ của mình.
1.4. Mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao ở
một số nƣớc trên thế giới
Ở Hàn Quốc:
Hệ thống Tòa án ở Hàn Quốc bao gồm:
- Tòa án tối cao
- Tòa án cấp cao
- Tòa án quận
- Tòa án chi nhánh
Các Tòa chuyên trách bao gồm: Tòa án bằng phát minh sáng chế,
ngang cấp với Tòa án cấp cao; Tòa án gia đình và Tòa án hành chính ngang
cấp với Tòa án quận.
Các Tòa án cấp cao đƣợc đặt tại 5 thành phố lớn của Hàn Quốc là
Seoul, Busan, Daegu, GWANGju, và Daejeon.
Tòa án cấp cao xét xử phúc thẩm các bản án hoặc quyết định đƣợc giải
quyết bởi một Hội đồng 3 Thẩm phán của Tòa án quận, Tòa án gia đình hoặc
Tòa án hành chính
Tòa án cấp cao Hàn Quốc cũng xét xử phúc thẩm các bản án hoặc quyết
định của Tòa án quận hoặc Tòa án chi nhánh của Tòa án quận và đƣợc giải
quyết bởi 1 Thẩm phán trong các vụ án dân sự có giá trị tranh chấp vƣợt quá
80 triệu Won.
Mỗi Tòa án cấp cao có một văn phòng để thực hiện việc quản lý Tòa
án [31]
Ở Nhật Bản
Hệ thống Tòa án của Nhật Bản bao gồm:
- Tòa án Tối cao là cơ quan xét xử cao nhất.
- Tòa án cấp cao chủ yếu xét xử phúc thẩm.
- Tòa án địa phƣơng cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết
37
các vụ kiện dân sự, các vụ án hình sự và hành chính. Tòa án gia đình chuyên
xét xử các vụ việc về hôn nhân gia đình và các tội phạm của ngƣời chƣa thành
niên. Tòa án đơn giản xét xử sơ thẩm các vụ kiện dân sự có giá trị tranh chấp
không quá 1.400.000 Yên và các vụ án hình sự nhỏ.
Tòa án cấp cao
Nhật Bản có 8 Tòa án cấp cao đặt tại 8 thành phố lớn và 6 chi nhánh
của các Tòa án này ở các nơi khác. Tháng 4/2005, Tòa sở hữu trí tuệ đƣợc
thành lập với tƣ cách là một Tòa của Tòa án cấp cao Tokyo, có thẩm quyền
phúc thẩm các vụ án về sở hữu trí tuệ do các Tòa án địa phƣơng cấp tỉnh xét
xử sơ thẩm nhƣng bị kháng cáo (kháng cáo KOSO).
Tòa án cấp cao chủ yếu xét xử phúc thẩm các bản án của các Tòa án địa
phƣơng cấp tỉnh, Tòa án gia đình và các vụ án hình sự do Tòa án đơn giản xét
xử. Tòa án cấp cao xét xử sơ thẩm một số vụ việc một số vụ việc hành chính
liên quan đến bầu cử, yêu cầu hủy bỏ quyết định của các cơ quan tài phán
hành chính nhƣ Ủy ban thƣơng mại công bằng, cơ quan thông tin tai nạn hàng
hải, cơ quan tài phán thuế quốc gia, Văn phòng bằng sáng chế; xét xử sơ thẩm
một số vụ án hình sự (nhƣ bạo loạn…)[31].
Ở Trung Quốc
Theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân Trung Quốc, hệ
thống Tòa án nhân dân đƣợc tổ chức thành 04 cấp:
- Tòa án nhân dân tối cao
- Tòa án nhân dân cấp cao
- Tòa án nhân dân trung cấp
- Tòa án nhân dân sơ cấp
Ngoài ra, còn có các Tòa án quân sự và các Tòa án nhân dân chuyên
ngành (Tòa án hàng hải, Tòa án đƣờng sắt).
38
Tòa án nhân dân cấp cao
Đƣợc thành lập tại các tỉnh (22 tỉnh), khu tự trị (5 khu tự trị) (Điều 26
Luật tổ chức Tòa án nhân dân) và các thành phố lớn trực thuộc trung ƣơng (04
thành phố), tất cả có 31 Tòa án nhân dân cấp cao với khoảng 7.000 Thẩm phán.
Cơ cấu của các Tòa án nhân dân cấp cao có thể hơi khác một chút so
với nhau và so với Tòa án nhân dân tối cao, tùy thuộc vào điều kiện riêng cụ
thể của từng Tòa án. Nhƣng nhìn chung các Tòa án nhân dân cấp cao cũng có
các Tòa tƣơng tự nhƣ ở Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm; xét duyệt án tử hình theo sự ủy quyền của Tòa án nhân dân tối
cao; giám sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp dƣới; quản lý Tòa án
mình và Tòa án nhân dân cấp dƣới thuộc phạm vi quản hạt của mình.
+ Tòa án nhân dân cấp cao xét xử sơ thẩm những vụ án dân sự có ảnh
hƣởng lớn trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền của mình, những vụ án thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp dƣới nhƣng Tòa án nhân dân cấp cao
thấy cần lấy lên để xét xử hoặc những vụ án mà Tòa án nhân dân cấp dƣới
thấy cần chuyển lên cho Tòa án nhân dân cấp cao xét xử (Điều 20 và Điều 39
Bộ luật tố tụng dân sự).
Trong các vụ án hình sự, Tòa án nhân dân cấp cao xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự lớn trên phạm vi toàn tỉnh, những vụ án thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp dƣới nhƣng Tòa án nhân dân cấp cao thấy cần lấy lên để
xét xử hoặc những vụ án có tình tiết nghiêm trọng, phức tạp mà Tòa án nhân
dân cấp dƣới thấy cần chuyển lên cho Tòa án nhân dân cấp cao xét xử (Điều
21 và Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự).
+ Tòa án nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định bị
kháng cáo, kháng nghị của Tòa án nhân dân cấp dƣới và của các Tòa án hàng
hải, Tòa án đƣờng sắt trong phạm vi tỉnh của mình.
+ Trong trƣờng hợp Tòa án nhân dân trung cấp xét xử sơ thẩm vụ án
39
hình sự, tuyên án tử hình, bị cáo không có kháng cáo, Tòa án nhân dân cấp
cao phải tiến hành xem xét lại và xin ý kiến phê chuẩn của Tòa án nhân dân
tối cao. Nếu Tòa án nhân dân tối cao không nhất trí với án tử hình có thể đƣa
vụ án ra xét xử hoặc trả vụ án để xét xử lại (Điều 200 Bộ luật tố tụng hình sự).
Tòa án nhân dân cấp cao phê chuẩn án tử hình mà Tòa án nhân dân
trung cấp tuyên hoãn thi hành án trong thời hạn 02 năm. Theo quy định tại
Điều 50 Bộ luật hình sự Trung Quốc nếu trong thời hạn 02 năm đƣợc hoãn thi
hành án tử hình, ngƣời đƣợc hoãn không phạm tội do cố ý thì sau khi hết 02
năm, hình phạt tử hình đƣợc thay bằng tù chung thân; nếu có biểu hiện hối cải
lập công thì có thể đƣợc thay bằng hình phạt tù có thời hạn từ 15 đến 20 năm;
nếu có chứng cứ xác đáng cho thấy ngƣời bị kết án cố ý phạm tội mới, thì
theo phê chuẩn của Tòa án nhân dân tối cao, bản án tử hình đƣợc thi hành,
việc phê chuẩn do Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán (Điều 201 và Điều
202 Bộ luật tố tụng hình sự).
Trình tự giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao cũng tƣơng tự
40
trình tự giám đốc thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao [31].
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa án và
những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao
trong điều kiện cải cách tƣ pháp và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nƣớc ta, có thể rút ra một số kết luận sau:
Tòa án trong Bộ máy nhà nƣớc nói chung có vị trí là cơ quan tƣ pháp,
nó thực hiện chức năng xét xử thông qua đó có vai trò kiểm soát, đối trọng
với các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp đồng thời bảo vệ trật tự pháp
luật, trật tự công lý trong xã hội. Nhằm bảo vệ vững chắc các quyền và tự do
của con ngƣời, của công dân. Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc xác định là cơ
quan thực hiện chức năng xét xử của nhà nƣớc, một trong những cơ quan thực
hiện quyền tƣ pháp. TAND cấp cao thông qua hoạt động xét xử có vai trò bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng,
tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Để Tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử thì yêu cầu quan trọng nhất là
cần có những đảm bảo để Tòa án độc lập; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và bảo đảm các nguyên tắc mang
tính phổ quát trong hoạt động xét xử của Tòa án. Trong điều kiện phát triển
kinh tế của đất nƣớc, Tòa án phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau: Tòa án
phải độc lập; mở rộng quyền tài phán tƣ pháp (Tài phán Hiến pháp); đảm bảo
tính dân chủ, đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân trong hoạt động;
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hoạt động của Tòa
án; bổ sung vai trò giải thích pháp luật của Tòa án.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực
hiện cải cách tƣ pháp hiện nay, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án
41
nhân dân nói chung, Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng cần hƣớng tới các
mục tiêu cơ bản là: nâng cao năng lực xét xử; đảm bảo tính độc lập của Tòa
án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối với
hoạt động xét xử góp phần xây dựng nền tƣ pháp hiện đại trong nhà nƣớc ta.
Đồng thời thể hiện chất lƣợng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tƣ pháp
42
trong nhà nƣớc pháp quyền XHCN.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN
CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển về tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao
Trong 73 năm qua, nƣớc ta đã có 5 bản Hiến pháp: Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và
Hiến pháp năm 2013. Các bản Hiến pháp ra đời sau đều có những sửa đổi, bổ
sung phù hợp với sự thay đổi các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội trong
từng thời kỳ.
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Sự hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân ở nƣớc ta gắn liền với
những giai đoạn phát triển của cách mạng, gắn liền với việc phục vụ cho
nhiệm vụ cách mạng ở từng thời kỳ lịch sử nhất định. Ngay sau khi Cách
mạng tháng Tám thành công, nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, bên
cạnh nhiệm vụ phải đập tan bộ máy nhà nƣớc thực dân, phong kiến, Nhà nƣớc
ta đã khẩn trƣơng xây dựng bộ máy nhà nƣớc cách mạng “của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân”, trong đó Tòa án nhân dân là bộ phận quan trọng.
Để bảo vệ chính quyền còn non trẻ và trấn áp bọn phản cách mạng,
ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 33C
thành lập các Tòa án quân sự. Các Tòa án quân sự đƣợc thành lập ở Bắc bộ
tại: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung Bộ tại: Vinh, Huế,
Quảng Ngãi; ở Nam Bộ tại: Sài Gòn, Mỹ Tho [7]. Đến ngày 29/9/1945 Chính
phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh thành lập Tòa án quân sự ở Nha Trang. Ngày
28/12/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 77C thành lập
Tòa án quân sự ở Phan Thiết [6]. Các Tòa án quân sự này có thẩm quyền xét
43
xử các tội phạm có phƣơng hại đến nền độc lập của nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Những bản án của Tòa án quân sự sẽ đem thi hành ngay, đƣơng sự
không có quyền chống án, trừ trƣờng hợp bản án tuyên tử hình thì ngƣời
phạm tội có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nƣớc xin ân giảm.
Để tăng cƣờng cho hệ thống Tòa án, ngày 02/01/1946, Chủ tịch Chính
phủ ban hành Sắc lệnh số 13/SL quy định tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm
phán. Theo sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 thì hệ thống Tòa án nƣớc ta
gồm có
- Các tòa án thƣợng thẩm ở cấp kì, ở mỗi kì có một tòa thƣợng thẩm;
- Các tòa đệ nhị cấp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng;
- Các tòa sơ cấp ở huyện, quận, châu, phủ.
Ở các xã có ban tƣ pháp xã do ban thƣờng vụ hành chính xã đảm nhiệm.
Về ngạch Thẩm phán. Sắc lệnh số 13/SL quy định có hai ngạch Thẩm
phán đó là ngạch Thẩm phán sơ cấp và ngạch Thẩm phán đệ nhị cấp. Thẩm
phán sơ cấp làm việc ở tòa sơ cấp. Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc ở tòa đệ
nhị cấp và tòa thƣợng thẩm.
Các thẩm phán chia làm hai loại: Thẩm phán buộc tội và thẩm phán xử
án. Thẩm phán đệ nhị cấp và thẩm phán tòa thƣợng thẩm do Chủ tịch nƣớc bổ
nhiệm. Thẩm phán của tòa sơ cấp do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp bổ nhiệm. Các
phụ thẩm nhân dân khi tham gia xét xử tiểu hình chỉ có quyền đóng góp ý
kiến chứ không có quyền quyết định, còn khi tham gia xét xử đại hình thì có
quyền quyết định cùng Thẩm phán.
Hệ thống Tòa án tƣ pháp do Bộ Tƣ pháp quản lý, những nới chƣa có
điều kiện thành lập đƣợc Tòa án, các việc tƣ pháp vẫn do Ủy ban hành chính
đảm nhiệm.
Đến ngày 09/11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thông qua bản
Hiến pháp đầu tiên của nƣớc ta, bản Hiến pháp dân chủ nhân dân làm cơ sở pháp
lý cho việc xác định chế độ chính trị - xã hội và xây dựng bộ máy nhà nƣớc kiểu
44
mới. Theo Hiến pháp năm 1946 thì hệ thống Tòa án ở nƣớc ta gồm có:
- Tòa án tối cao;
- Các Tòa án phúc thẩm;
- Các Tòa án đệ nhị cấp;
- Các Tòa án sơ cấp.
Các Tòa án này đƣợc tổ chức theo cấp xét xử chứ không tổ chức theo
đơn vị hành chính - lãnh thổ nhƣ sau này.
Theo Hiến pháp năm 1946 và Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 thì
các Tòa án đƣợc tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán: Các thẩm phán đều do Chính phủ
bổ nhiệm;
- Khi xét xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân tham gia;
- Khi xét xử các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác
không đƣợc can thiệp;
- Các phiên tòa đều công khai, trừ trƣờng hợp đặc biệt;
- Bị cáo đƣợc quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sƣ;
- Quốc dân thiểu số có quyền dung tiếng nói của mình trƣớc Tòa án.
Sau ngày 19/12/1946, nhân dân cả nƣớc bƣớc vào thời kỳ kháng chiến
trƣờng kỳ gian khổ chống thực dân Pháp và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Để củng cố và tăng cƣờng kỷ luật trong quân đội nhân dân, ngày 16/12/1947,
Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 59/SL về thành lập Tòa án binh khu
trung ƣơng [8]. Các tòa án binh có thẩm quyền xét xử những quân nhân phạm
tội hoặc những ngƣời khác phạm tội mà gây thiệt hại cho quân đội.
Nhƣ vậy, trong thời kỳ này, ở nƣớc ta tồn tại ba loại tòa án: Các tòa án
quân sự, các tòa án binh và các tòa án tƣ pháp. Tất cả các tòa án đều phục vụ
nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc của đất nƣớc, bảo vệ thành quả của Cách
mạng tháng Tám, bảo vệ Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Trong những năm 1950, Nhà nƣớc cải cách bộ máy tƣ pháp và luật lệ tố
45
tụng nhằm dân chủ hóa trong hoạt động của hệ thống tòa án, bảo đảm cho tòa
án xét xử nhanh chóng và kịp thời. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Chính phủ ban
hành Sắc lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tƣ pháp và luật tố tụng. Theo Sắc
lệnh này, Tòa án sơ cấp nay gọi là Tòa án nhân dân huyện, Tòa án đệ nhị cấp
nay gọi là Tòa án nhân dân tỉnh, hội đồng phúc án nay gọi là tòa phúc thẩm;
phụ thẩm nhân dân đổi thành Hội thẩm nhân dân; khi xét xử hoặc bào chữa,
thẩm phán và luật sƣ không mặc áo chùng đen; hội thẩm nhân dân đƣợc tham
gia xét xử các vụ án hình sự và các vụ án dân sự; khi xét xử hội thẩm ngang
quyền với thẩm phán; tăng cƣờng thẩm quyền cho ban tƣ pháp xã; thành lập
hội đồng hòa giải tại mỗi huyện nhằm mục đích giao cho nhân dân trực tiếp
phụ trách việc hòa giải tất cả các việc hộ, kể cả việc ly dị mà trừ trƣớc đến
nay chỉ có chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh mới có thẩm quyền [9].
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Sau khi hòa bình lập lại ở Miền Bắc, nhà nƣớc lại tiếp tục cải cách các
cơ quan tƣ pháp. Tháng 4/1958, Quốc hội đã quyết định thành lập Tòa án
nhân dân tối cao và Viện công tố trung ƣơng. Hai cơ quan này không chịu sự
quản lý về mặt tổ chức của Bộ Tƣ pháp mà chỉ trực thuộc Hội đồng Chính
phủ. Ngày 1/7/1959, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Nghị định số 256/TTg
quy định tổ chức và nhiệm vụ của viện công tố. Ngày 29/8/1959, Thủ tƣớng
ban hành Nghị định số 321/TTg về thành lập viện công tố phúc thẩm. Theo
các văn bản pháp luật này thì các công tố ủy viên không nằm trong tổ chức
của các tòa án. Các viện công tố đƣợc thành lập từ trung ƣơng đến cấp huyện
tạo thành hệ thống độc lập nằm trong tổ chức bộ máy nhà nƣớc [30].
Ngày 31/12/1959, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến
pháp sửa đổi. Hiến pháp năm 1959 quy định lại vị trí của Tòa án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân. Đây là hai hệ thống cơ quan nhà nƣớc có chức năng
khác nhau. Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao do
Quốc hội thành lập và chịu trách nhiệm trƣớc Quốc hội chứ không trực thuộc
46
Hội đồng Chính phủ nhƣ trƣớc đây.
Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ
chức Tòa án nhân dân ngày 14/7/1960. Theo Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ
chức tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, hệ thống Tòa án nhân dân gồm có:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Các Tòa án nhân dân địa phƣơng;
- Các Tòa án quân sự.
Trong trƣờng hợp xét xử các vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập
Tòa án đặc biệt. [26]
Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định
chế độ bầu thẩm phán thay thế cho chế độ bổ nhiệm thẩm phán trƣớc đó; Thẩm
phán Tòa án nhân dân địa phƣơng do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra; các Tòa
án nhân dân đƣợc thành lập theo đơn vị hành chính - lãnh thổ; việc quản lý về tổ
chức của Tòa án nhân dân địa phƣơng do Tòa án nhân dân tối cao đảm nhiệm.
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Với thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30/4/1975 Miền
Nam hoàn toàn giải phóng, đất nƣớc thống nhất. Nhiệm vụ cách mạng của
nƣớc ta là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong phạm vi cả nƣớc. Ngày
18/12/1980, Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Hiến pháp nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài việc kế thừa những quy định của
Hiến pháp năm 1959 về Tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 1980 đã có nhiều
quy định mới nhƣ: Trong trƣờng hợp đặc biệt hoặc trong trƣờng hợp cần xét xử
những vụ án đặc biệt thì ngoài Quốc hội, Hội đồng Nhà nƣớc cũng có thể thành
lập Tòa án đặc biệt (theo Hiến pháp năm 1959 chỉ Quốc hội mới có thẩm quyền
thành lập Tòa án đặc biệt); ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp để giải
quyết những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định
của pháp luật; các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải đƣợc cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và công dân tôn trọng, tất cả
47
mọi ngƣời và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành [19].
Cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1980 về Tòa án nhân
dân, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 03/7/1981. So
với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1959 thì Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1980 có một số quy định mới nhƣ sau: Việc quản lý Tòa án nhân dân địa
phƣơng do Bộ Tƣ pháp đảm nhiệm; mở rộng thẩm quyền xét xử theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cấp dƣới bị kháng nghị vì có sự vi phạm phạm pháp luật tố
tụng hoặc phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết đƣợc khi ra bản án;
quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức hữu quan và mọi công dân trong
việc tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành những bản án và quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân; Tòa án có quyền kiến nghị với cơ
quan, tổ chức khắc phục những thiếu sót trong hoạt động quản lý. Các tổ chức
nói trên có trách nhiệm trả lời cho Tòa án nhân dân về kiến nghị đó [25].
2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002
Để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng cho thời kỳ đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng và lãnh đạo, ngày 15/4/1992, Quốc hội khóa
VIII, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp năm 1992. Kế thừa những quy
định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 về
tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1992 đã có những điểm mới sau đây:
- Thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán thay thế cho chế độ bầu thẩm
phán trƣớc đó. Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp đều do Chủ tịch nƣớc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức;
- Thành lập các Tòa án khác do luật định.
Ngày 28/12/1993, Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992.
48
Luật này đã quy định thành lập Tòa Kinh tế thuộc cơ cấu tổ chức của Tòa án
nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ƣơng để giải quyết các vụ án kinh tế và giải quyết các yêu cầu phá sản doanh
nghiệp. Ngày 28/10/1995, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 (lần
thứ 2). Luật này quy định thành lập Tòa Lao động và Tòa Hành chính thuộc
cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ƣơng để giải quyết các tranh chấp lao động, cuộc
đình công và các vụ án hành chính [27].
Để thực hiện các quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng,
hoàn thiện bộ máy nhà nƣớc cũng nhƣ những yêu cầu cụ thể về đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, trong đó có Tòa án nhân dân đã
đƣợc đề ra trong Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Ngày 02/4/2002, Quốc hội khóa X, kỳ hợp thứ 11 đã
thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
2.1.5. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2014
So với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 thì Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2002 có những quy định mới về tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm
2001 vẫn quy định chế độ bổ nhiệm thẩm phán nhƣng khác với trƣớc đó là Chủ
tịch nƣớc chỉ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao, còn thẩm phán trung cấp, thẩm phán sơ cấp do Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của các hội đồng
tuyển chọn thẩm phán; Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân
địa phƣơng, các Tòa án quân sự về tổ chức, quy định việc tiêu chuẩn hóa đội
ngũ thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân. Ngoài những tiêu chuẩn về phẩm
chất chính trị, phẩm chất đạo đức, sức khỏe, các thẩm phán còn phải có trình độ
49
cử nhân luật và đã đƣợc đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực
tiễn theo quy định của pháp luật. Hội thẩm phải có kiến thức pháp lý cần thiết.
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình mà gây thiệt hại thì phải bồi hoàn thiệt hại theo quy định của pháp
luật. Tòa án nhân dân tối cao không còn thẩm quyền xét xử theo trình tự sơ
thẩm đồng thời là chung thẩm nhằm bảo đảm quyền kháng nghị của Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, quyền kháng cáo của các chủ thể khác
theo trình tự phúc thẩm. Vì Tòa án nhân dân tối cao không xét xử sơ thẩm đồng
thời là chung thẩm cho nên Tòa án nhân dân tối cao không có Hội thẩm nhân
dân. Trong cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao, cơ quan thƣờng trực
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là Ủy ban thẩm phán đã đƣợc
bãi bỏ nhằm giảm bớt cấp có thẩm quyền xét xử theo trình tự giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao [22]
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng cộng sản Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992:
“Khẩn trƣơng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã đƣợc sửa
đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới, tiếp tục xây dựng, từng
bƣớc hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các
quyết định của các cơ quan công quyền”, ngày 6/8/2011 tại kỳ họp thứ 2,
Quốc hội khóa XIII đã ra nghị quyết số 06/2001/QH13 “về việc sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992”. Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua
Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể hóa quy định
của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án nhân dân, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ
8 đã thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24/11/2014, Tòa án nhân
dân có một số điểm mới sau:
- Về chức năng của Tòa án: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
50
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp.
- Về nhiệm vụ của Tòa án: Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Bằng hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ
quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc
sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật khác.
- Về quyền hạn: Tòa án nhân danh nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thƣơng mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định
của pháp luật.
- Về hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân: Điều 3 Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014, ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các
Tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng; Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng. Các Tòa án nhân dân đƣợc
tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử.
- Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp
năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung một
số nguyên tắc để bảo đảm tính khoa học và tính khả thi trong tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân.
Điều 1 Nghị quyết số 957/ NQ-UBTVQH 13 quyết định thành lập 03
Tòa án nhân dân cấp cao là:
+ Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội,
có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng,
bao gồm: Thành phố Hà Nội, thành phố Hải phòng; các tỉnh: Hòa Bình, Phú
Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai,
51
Yên Bái, Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Vĩnh Phúc, Hƣng Yên, Hải
Dƣơng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.
+ Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, trụ sở đặt tại thành phố Đà
Nẵng, có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ƣơng, bao gồm: thành phố Đà Nẵng; các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk.
+ Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, có trụ sở đặt tại
thành phố Hồ Chí Minh, có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 23 tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ƣơng, bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần
Thơ; các tỉnh: Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình
Dƣơng, Bình Phƣớc, Long An, Tây Ninh, Đắk Nông, Lâm Đồng, Hậu Giang,
Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Cà Mau, An Giang và Kiên Giang [41].
2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao theo Luật
tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có khá nhiều điểm mới và đặt
trong bối cảnh hiện tại cũng có thể đƣợc coi là những bƣớc đột phá đầu tiên
hƣớng đến một Hệ thống Tòa án độc lập theo tinh thần của Hiến pháp 2013.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc cơ bản
đƣợc quy định tại Điều 103 của Hiến pháp, trong đó có những nguyên tắc mới
quan trọng nhƣ nguyên tắc tranh tụng đƣợc bảo đảm trong xét xử; nguyên tắc
suy đoán vô tội; đồng thời, bổ sung thêm nguyên tắc có tính chất đặc thù
trong tổ chức và hoạt động của Tòa án đã đƣợc ghi nhận tại các văn kiện Đại
hội Đảng gần đây và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về cải cách tƣ
pháp, cụ thể là “Các Tòa án nhân dân được tổ chức độc lập theo thẩm quyền
52
xét xử” (Điều 5).
Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu tổ chức,
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao có những bƣớc đổi mới và đƣợc quy
định cụ thể hơn nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử.
- Về tổ chức
Theo quy định tại Điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014,
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Tòa án nhân dân cấp cao;
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng;
- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng
đƣơng;
- Tòa án quân sự.
Điều 1 Nghị quyết số 957/ NQ-UBTVQH 13 quyết định thành lập 03
Tòa án nhân dân cấp cao là:
- Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội,
có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng,
bao gồm: Thành phố Hà Nội, thành phố Hải phòng; các tỉnh: Hòa Bình, Phú
Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai,
Yên Bái, Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Vĩnh Phúc, Hƣng Yên, Hải
Dƣơng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.
- Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, trụ sở đặt tại thành phố Đà
Nẵng, có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ƣơng, bao gồm: thành phố Đà Nẵng; các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk.
- Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, có trụ sở đặt tại
53
thành phố Hồ Chí Minh, có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 23 tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ƣơng, bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần
Thơ; các tỉnh: Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình
Dƣơng, Bình Phƣớc, Long An, Tây Ninh, Đắk Nông, Lâm Đồng, Hậu Giang,
Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Cà Mau, An Giang và Kiên Giang.
Điều 30 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, cơ cấu tổ chức của
Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao;
+ Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động,
Tòa gia đình và ngƣời chƣa thành niên.
Trƣờng hợp cần thiết, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định thành lập
Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
+ Bộ máy giúp việc
Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao gồm có Văn phòng và
các đơn vị khác.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, các đơn vị khác thuộc bộ máy giúp việc
của Tòa án nhân dân cấp cao.
+ Tòa án nhân dân cấp cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa,
các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thƣ ký Tòa án, công chức
khác và ngƣời lao động.
- Về thẩm quyền xét xử: Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm Chánh án, các Phó
Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân
54
dân cấp cao.
Số lƣợng thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao
không dƣới mƣời một ngƣời và không quá mƣời ba ngƣời.
+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng;
Thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân
cấp cao về công tác của Tòa án nhân dân cấp cao để báo cáo Tòa án nhân dân
tối cao.
+ Phiên họp của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao phải có ít
nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Ủy ban Thẩm
phán phải đƣợc quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao:
Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao phúc thẩm vụ việc mà bản
án, quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
- Về hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao:
Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán hoặc toàn thể Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao.
Việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 03
Thẩm phán hoặc toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc
55
thực hiện theo quy định của luật tố tụng.
- Về Thẩm phán
Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì tiêu
chuẩn chung để đƣợc bổ nhiệm Thẩm phán và bầu làm Hội thẩm nhân dân
nhƣ sau:
Tiêu chuẩn Thẩm phán: Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ
quốc và Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất
đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên
quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực. Có trình độ cử nhân luật trở
lên. Đã đƣợc đào tạo nghiệp vụ xét xử. Có thời gian làm công tác thực tiễn
pháp luật. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.
Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao theo quy định của Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cụ thể như sau:
+ Ngƣời có đủ tiêu chuẩn quy định nhƣ nêu trên và có đủ các điều kiện
sau đây và có đủ điều kiện sau đây thì có thể đƣợc tuyển chọn, bổ nhiệm làm
Thẩm phán cao cấp; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể đƣợc tuyển
chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán cao cấp thuộc Tòa án quân sự:
Đã là Thẩm phán trung cấp từ đủ 05 năm trở lên;
Có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án cấp cao, Tòa án quân sự trung ƣơng theo quy định của
luật tố tụng;
Đã trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán cao cấp.
+ Trƣờng hợp do nhu cầu cán bộ của Tòa án nhân dân, ngƣời chƣa là
Thẩm phán trung cấp có đủ tiêu chuẩn, điều kiện sau đây thì có thể đƣợc
tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán cao cấp; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ
thì có thể đƣợc tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán cao cấp thuộc Tòa án
quân sự: Đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 18 năm trở lên; Có năng
56
lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của
Tòa án cấp cao, Tòa án quân sự trung ƣơng theo quy định của luật tố tụng; Đã
trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn vào ngạch Thẩm phán cao cấp.
+ Trong trƣờng hợp đặc biệt, ngƣời đƣợc cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền điều động đến để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp
cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng, tuy chƣa đủ thời
gian làm công tác pháp luật nhƣng có đủ các tiêu chuẩn quy định tại Điều 67
của Luật này và điều kiện quy định tại điểm b khoản 1, điểm b khoản 2, điểm
c khoản 3, điểm b khoản 4 Điều này thì có thể đƣợc tuyển chọn và bổ nhiệm
làm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp; nếu ngƣời
đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể đƣợc tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp các Tòa án
quân sự.
- Về trách nhiệm của Thẩm phán:
+ Trung thành với Tổ quốc, gƣơng mẫu chấp hành Hiến pháp và
pháp luật;
+ Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;
+ Độc lập, vô tƣ, khách quan, bảo vệ công lý trong xét xử; chấp hành
quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán, giữ gìn uy tín của Tòa án;
+ Giữ bí mật nhà nƣớc và bí mật công tác theo quy định của pháp luật;
+ Học tập, nghiên cứu để nâng cao kiến thức, trình độ chính trị và
chuyên môn nghiệp vụ Tòa án;
+ Chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn và các quyết định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình
sự theo quy định của luật. Thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền
57
hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ
xét xử có trách nhiệm bồi thƣờng và Thẩm phán đã gây thiệt hại có trách
nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của luật.
- Về những việc Thẩm phán không được làm, pháp luật quy định Thẩm
phán không được làm những việc sau:
+ Những việc pháp luật quy định cán bộ, công chức không đƣợc làm;
+ Tƣ vấn cho bị can, bị cáo, đƣơng sự hoặc ngƣời tham gia tố tụng khác
làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của
pháp luật;
+ Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh
hƣởng của mình tác động đến ngƣời có trách nhiệm giải quyết vụ án;
+ Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan,
nếu không vì nhiệm vụ đƣợc giao hoặc không đƣợc sự đồng ý của ngƣời có
thẩm quyền;
+ Tiếp bị cáo, đƣơng sự hoặc ngƣời tham gia tố tụng khác trong vụ án
mà mình có thẩm quyền giải quyết không đúng nơi quy định.
- Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán:
Nhà nƣớc có chính sách ƣu tiên về tiền lƣơng, phụ cấp đối với Thẩm
phán. Thẩm phán đƣợc cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để làm
nhiệm vụ. Thẩm phán đƣợc bảo đảm tôn trọng danh dự, uy tín; đƣợc bảo vệ
khi thi hành công vụ và trong trƣờng hợp cần thiết. Thẩm phán đƣợc đào tạo,
bồi dƣỡng để nâng cao trình độ và nghiệp vụ Tòa án. Nghiêm cấm các hành vi
cản trở, đe dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
Thẩm phán và thân nhân của Thẩm phán. Thẩm phán đƣợc tôn vinh và khen
thƣởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thƣởng. Chế độ tiền
lƣơng, phụ cấp; mẫu trang phục, cấp phát và sử dụng trang phục, Giấy chứng
minh Thẩm phán do Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của
58
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao
Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc tổ chức bộ máy giúp
việc của Tòa án nhân dân cấp cao, đặc biệt là các ý kiến về tổ chức bộ máy giúp
việc cho Ủy ban thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện nhiệm
vụ: Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền
theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
2.3.1. Thực trạng về cơ cấu tổ chức tại Tòa án nhân dân cấp cao
Tòa án nhân dân cấp cao là đơn vị trực thuộc Tòa án nhân dân Tối cao về
hành chính, là cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp theo quy định
của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; Nghị quyết số 957/2015/NQ -
UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội khóa XIII về việc
thành lập các Tòa án nhân dân cấp cao; các quyết định 986/QĐ-TANDTC,
Quyết định 987/QĐ - TANDTC, Quyết định 988/QĐ – TANDTC của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị
trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao [29].
Điều 1 Nghị quyết số 957/NQ – UBTVQH13 quyết định thành lập 03
Tòa án nhân dân cấp cao: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội; Tòa án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng; Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hiện nay, theo thống kê ngày 30/6/2019 của Vụ Tổ chức - Cán bộ, Tòa
án nhân dân tối cao, tổng biên chế của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam
gồm có 307 cán bộ, công chức. Trong đó có 98 Thẩm phán cao cấp, 21 Thẩm
tra viên chính, 186 Thẩm tra viên, 02 cán sự trở xuống.
Cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
- Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao;
- Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động,
59
Tòa gia đình và ngƣời chƣa thành niên.
Trƣờng hợp cần thiết, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định thành lập
Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
- Bộ máy giúp việc.
Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao gồm có Văn phòng và
các đơn vị khác bao gồm: Văn phòng; Phòng giám đốc, kiểm tra về hình sự,
hành chính; Phòng giám đốc, kiểm tra về dân sự, kinh doanh – thƣơng mại;
Phòng giám đốc kiểm tra về lao động, gia đình và ngƣời chƣa thành niên.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, các đơn vị khác thuộc bộ máy giúp việc
của Tòa án nhân dân cấp cao.
Tòa án nhân dân cấp cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa,
các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thƣ ký Tòa án, công chức
khác và ngƣời lao động.
+ Văn phòng:
Cơ cấu tổ chức: Văn phòng Tòa án nhân dân cấp cao có Chánh Văn
phòng, không quá 03 Phó Chánh Văn phòng và các đơn vị chức năng gồm:
Phòng Hành chính tƣ pháp; Phòng Kế toán Quản trị; Phòng Tổ chức - Cán bộ,
Thanh tra và Thi đua khen thƣởng; Phòng Lƣu trữ hồ sơ.
Các phòng trực thuộc Văn phòng Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
gồm có Trƣởng phòng, không quá 02 Phó trƣởng phòng, các công chức,
ngƣời lao động khác.
Nhiệm vụ, quyền hạn: Thực hiện những công việc về hành chính tƣ
pháp và thống kê, tổng hợp; thực hiện công tác văn thƣ lƣu trữ; triển khai các
hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin; giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp
cao trong việc quả lý công sản, ngân sách, đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết
bị, phƣơng tiện phục vụ hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao; tham mƣu
60
cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao về công tác Tổ chức - Cán bộ, công
tác thanh tra và công tác thi đua khen thƣởng; thực hiện các nhiệm vụ khác
theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao.
Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc Văn phòng Tòa án nhân dân
cấp cao:
Phòng Hành chính tư pháp: Thực hiện công tác văn thƣ, quản lý con dấu
của Tòa án nhân dân cấp cao; tiếp nhận, thụ lý hồ sơ vụ việc theo thủ tục phúc
thẩm và các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân cấp cao; giúp Chánh Văn phòng tham mƣu cho lãnh đạo
Tòa án nhân dân cấp cao trong việc phân công các Thẩm phán giải quyết các vụ
án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao; giúp Chánh Văn phòng chủ
trì, phối hợp với các đơn vị chức năng thuộc Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện
công tác tiếp công dân theo quy định của pháp luật; trực tiếp trả kết quả giải
quyết các yêu cầu của đƣơng sự (bản sao bản án, trích lục bản án…); giúp Chánh
Văn phòng làm đầu mối phối hợp các đơn vị trong việc thực hiện công tác rà
soát, tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin về lý lịch tƣ pháp theo quy định của
pháp luật về lý lịch tƣ pháp; giúp Chánh Văn phòng tham mƣu cho lãnh đạo Tòa
án nhân dân cấp cao trong thực hiện trong thực hiện công tác thống kê - tổng hợp
tình hình hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao; xây dựng các báo cáo của Tòa
án nhân dân cấp cao để báo cáo với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và cơ
quan hữu quan khác; giúp Chánh Văn phòng tham mƣu cho Chánh án quản lý,
tổ chức áp dụng thống nhất các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Xây
dựng, khai thác, duy trì, phát triển Trang thông tin điện tử và cơ sở dữ liệu phục
vụ công tác quản lý, điều hành của Tòa án nhân dân cấp cao; thực hiện các công
việc khác theo sự phân công của Chánh Văn phòng.
Phòng Kế toán Quản trị: Tham mƣu cho Chánh Văn phòng về công tác
quản lý tài chính và kế toán, đảm bảo quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn
tài chính theo chế độ quy định của Nhà nƣớc; giúp Chánh Văn phòng trong
61
việc quản lý công sản, cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động của cơ quan Tòa
án nhân dân cấp cao; lập kế hoạch duy tu, bảo dƣỡng định kỳ, sữa chữa hệ
thống cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động; tổ chức mua sắm các trang thiết
bị, văn phòng phẩm theo đề nghị của các đơn vị và sự phê duyệt của Chánh
án Tòa án nhân dân cấp cao; thực hiện công tác lễ tân, khánh tiết, công tác
bảo vệ và công tác ý tế, chăm lo sức khỏe của công chức, ngƣời lao động
trong cơ quan; tổ chức quản lý, điều hành và sử dụng các phƣơng tiện đúng
mục đích theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Văn phòng; kiểm tra, theo dõi về mặt
kỹ thuật các phƣơng tiện đúng định kỳ theo quy định; thực hiện các công việc
khác theo sự phân công của Chánh Văn phòng.
Phòng Tổ chức - Cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng: Giúp
Chánh Văn phòng tham mƣu cho Chánh án trong việc quản lý, thực hiện công
tác tổ chức cán bộ, thi đua khen thƣởng, thực hiện các chế độ chính sách đối
với công chức, ngƣời lao động của cơ quan; thanh tra việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, ngƣời lao động trong cơ quan; giúp
Chánh Văn phòng tham mƣu cho Chánh án giải quyết các khiếu nại, tố cáo
với cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền quản lý; giúp Chánh Văn phòng theo
dõi, quản lý thông tin trên các phƣơng tiện thông tin truyền thông liên quan
đến hoạt động của Tòa án và cán bộ, công chức trong đơn vị; thực hiện các
công việc khác theo sự phân công của Chánh Văn phòng.
Phòng Lưu trữ hồ sơ: Thực hiện công tác lƣu trữ, khai thác hồ sơ và
các tài liệu nghiệp vụ theo quy định; thực hiện các công việc khác theo sự
phân công của Chánh Văn phòng.
+ Phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính
Cơ cấu tổ chức:
Phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính có Trƣởng phòng,
không quá 02 Phó trƣởng phòng, các Thẩm tra viên, Thƣ ký Tòa án, các công
chức và nhân viên khác.
62
Nhiệm vụ, quyền hạn:
Nghiên cứu, đề xuất giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết
đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về hình
sự, hành chính đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án trong phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ;
Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổ chức các phiên họp toàn thể
hoặc phiên họp 03 Thẩm phán của Ủy ban thẩm phán khi xem xét, giải quyết
các vụ án hình sự và hành chính, cử thƣ ký các phiên họp này;
Tham mƣu cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổng kết thực tiễn
xét xử, tổng hợp các vƣớng mắc, những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong
công tác xét xử các vụ án hình sự, hành chính;
Thực hiện các công việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án
nhân dân cấp cao.
+ Phòng Giám đốc kiểm tra về dân sự, kinh doanh - thương mại
Cơ cấu, tổ chức:
Phòng Giám đốc, kiểm tra về dân sự, kinh doanh – thƣơng mại có
Trƣởng phòng, không quá 02 Phó trƣởng phòng, các Thẩm tra viên, Thƣ ký
Tòa án, các công chức và nhân viên khác.
Nhiệm vụ, quyền hạn:
Nghiên cứu, đề xuất giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết
các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về
dân sự, kinh doanh - thƣơng mại đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án
trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ;
Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổ chức các phiên họp toàn thể
hoặc phiên họp 03 Thẩm phán của Ủy ban Thẩm phán khi xem xét, giải quyết
các vụ án dân sự, kinh doanh - thƣơng mai, cử thƣ ký các phiên họp này;
Tham mƣu cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổng kết thực tiễn
xét xử, tổng hợp các vƣớng mắc, những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong
63
công tác xét xử các vụ án về dân sự, kinh doanh - thƣơng mại;
Thực hiện các công việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án
nhân dân cấp cao.
+ Phòng Giám đốc, kiểm tra về lao động, gia đình và người chưa
thành niên
Cơ cấu, tổ chức:
Phòng Giám đốc, kiểm tra về lao động, gia đình và ngƣời chƣa thành
niên có Trƣởng phòng, không quá 02 Phó trƣởng phòng, các Thẩm tra viên,
Thƣ ký Tòa án, các công chức và nhân viên khác.
Nhiệm vụ, quyền hạn
Nghiên cứu, đề xuất giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết
đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về lao
động, gia đình và ngƣời chƣa thành niên đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa
án trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ;
Giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổ chức các phiên họp toàn thể
hoặc phiên họp 3 Thẩm phán của Ủy ban Thẩm phán khi xem xét, giải quyết
các vụ án lao động, gia đình và ngƣời chƣa thành niên; cử thƣ ký các phiên
họp này;
Tham mƣu cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tổng kết thực hiện
xét xử, tổng hợp các vƣớng mắc, những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong
công tác xét xử các vụ án về lao động, gia đình và ngƣời chƣa thành niên;
Thực hiện các công việc khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án
nhân dân cấp cao.
- Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm Chánh án, các Phó
Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân cấp cao. Số lƣợng thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
cao không dƣới mƣời một ngƣời và không quá mƣời ba ngƣời. Ủy ban Thẩm
64
phán Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng;
+ Thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân
cấp cao về công tác của Tòa án nhân dân cấp cao để báo cáo Tòa án nhân dân
tối cao.
Phiên họp của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao phải có ít
nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Ủy ban Thẩm
phán phải đƣợc quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
- Các Tòa chuyên trách: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Hành chính,
Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa gia đình và ngƣời chƣa thành niên. Các Tòa
chuyên trách thực hiện chức năng nhiệm vụ theo quy định tại Điều 33 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014.
- Bộ máy giúp việc: Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao
gồm có Văn phòng và các đơn vị khác. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
quyết định thành lập và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, các
đơn vị khác thuộc bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao
2.3.2. Thực trạng hoạt động xét của Tòa án nhân dân cấp cao ở Việt
Nam hiện nay
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao về cơ bản đã
kế thừa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thẩm quyền xét
xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao trƣớc
đây, nên mặc dù là một cấp Tòa án mới đƣợc thành lập song các Tòa án nhân
dân cấp cao đã xét xử đƣợc một số lƣợng tƣơng đối lớn các vụ án theo thủ tục
phúc thẩm, góp phần sửa chữa kịp thời những sai sót của Tòa án nhân dân cấp
65
tỉnh khi xét xử sơ thẩm, qua đó góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ con ngƣời,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Cụ thể theo thống kê của Vụ
Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao từ năm 2016 đến năm 2018 Tòa án nhân
dân cấp cao thụ lý, giải quyết số lƣợng vụ án phúc thẩm và giám đốc thẩm
[24] nhƣ sau:
Bảng 2.1: Bảng thống kê số lượng thụ lý, giải quyết vụ án phúc thẩm
và giám đốc thẩm trong giai đoạn 3 năm (từ năm 2016 đến năm 2018)
Tổng số vụ Đã giải quyết Còn lại Đạt tỷ lệ (%) Thời gian án (vụ) (vụ)
2016 5851 3813 2038 65,2
2017 5840 3523 2317 60,3
2018 8015 5170 2845 64,5
Nguồn: Báo cáo Vụ Tổng hợp TAND tối cao năm 2016, 2017, 2018 [28]
Nghiên cứu Bảng 2.1 cho thấy năm 2016 có 5851 vụ án với 3813 vụ
án đã đƣợc giải quyết còn lại 2038 vụ; năm 2017 có 5840 vụ án với 3523 vụ
án đƣợc giải quyết còn lại 2317 vụ; năm 2018 có 8015 vụ án với 5170 vụ án
đƣợc giải quyết còn lại 2845 vụ. Nhìn chung, số lƣợng vụ án hàng năm mà
Tòa án nhân dân cấp cao phải giải quyết là quá lớn, số lƣợng vụ án qua các
năm vẫn còn tồn đọng nhiều, xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan, khách
quan khác nhau nhƣ: là đơn vị mới thành lập, số lƣợng công chức đƣợc phân
bổ chƣa tƣơng xứng với yêu cầu nhiệm vụ nên vẫn còn tình trạng còn nhiều
vụ án giải quyết bị kéo dài, để quá thời hạn xét xử, có nhiều vụ án hoãn phiên
tòa nhiều lần, không đảm bảo thời hạn hoãn theo quy định. Số lƣợng Tòa án
nhân dân cấp cao chƣa thực sự phù hợp, mỗi Tòa án nhân dân cấp cao hiện
nay có địa bàn rộng, gây khó khăn cho công tác tổ chức xét xử, ban hành bản
66
án, các quyết định tố tụng. Mô hình tổ chức bộ máy giúp việc còn bất cập; số
lƣợng cán bộ đƣợc phân bổ chƣa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đƣợc giao. Thủ
tục hành chính tƣ pháp còn chƣa thực sự khoa học hợp lý, chƣa tách bạch
giữa hoạt động hành chính tƣ pháp với hoạt động xét xử, chƣa triệt để áp dụng
công nghệ thông tin trong việc quản lý hoạt động nghiệp vụ.
Nhìn chung các Tòa án nhân dân cấp cao đã thi hành thẩm quyền xét
xử phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 một cách
có hiệu quả. Việc giải quyết các vụ việc, vụ án dân sự, hình sự, kinh doanh
thƣơng mại, lao động, hôn nhân và gia đình đảm bảo đúng pháp luật, chƣa
phát hiện có trƣờng hợp nào kết án oan ngƣời không có tội. Việc giữ nguyên
hay sửa, hủy bản án sơ thẩm đƣợc các Hội đồng xét xử cân nhắc kỹ lƣỡng,
đánh giá thận trọng trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đƣợc thẩm tra công khai
tại phiên tòa và kết quả tranh tụng.
2.4. Kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ việc nghiên cứu cơ cấu tổ chức hoạt động của Tòa án một số nƣớc
trên thế giới, chúng ta cần nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế
giới để sửa đổi các bộ luật tố tụng sao cho phù hợp. Cụ thể:
- Cần sửa đổi các quy định về thủ tục sơ thẩm sao cho vụ án chủ yếu
đƣợc giải quyết ở cấp sơ thẩm, làm cho ngƣời dân và Viện kiểm sát tin tƣởng
vào phán quyết của Tòa án sơ thẩm mà hạn chế kháng cáo, kháng nghị lên cấp
phúc thẩm.
- Sửa đổi các quy định về thủ tục phúc thẩm theo hƣớng cấp phúc
thẩm chủ yếu sữa chữa sai sót của cấp sơ thẩm, giải thích pháp luật cho Tòa
án cấp dƣới thông qua xét xử.
- Quy định rõ Tòa án cấp Giám đốc thẩm chỉ xem xét lại bản án bị
kháng nghị ở khía cạnh luật pháp, tuyệt đối không xem xét lại vụ án ở khía
67
cạnh tình tiết, sự việc.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Trong hệ thống Tòa án nhân dân ở nƣớc ta hiện nay, Tòa án nhân dân
cấp cao giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình phúc thẩm vụ việc mà bản
án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; Giám đốc thẩm, tái
thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị
kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Kể từ khi thành lập , Tòa án nhân
dân cấp cao đã có những bƣớc phát triển, hoàn thiện cả về tổ chức và hoạt
động, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
68
máy nhà nƣớc ta.
Chƣơng 3
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tòa án nhân dân cấp cao là cấp xét xử độc lập, nằm giữa cấp trung
ƣơng và cấp tỉnh, có tính chất vùng miền; có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các
vụ án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và xem xét theo
trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực của
Tòa án cấp dƣới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật. Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 đã thể chế hóa chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Hiến pháp
năm 2013, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về công cuộc cải cách tƣ
pháp, trong đó có quy định tƣơng đối khoa học, hợp lý về thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân cấp cao. Tuy nhiên, trƣớc yêu cầu của thực tiễn, để Tòa
án nhân dân cấp cao hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, qua đó góp phần khắc
phục những hạn chế, tồn tại trong hệ thống tòa án từ nhiều năm nay, tạo thành
một cơ chế thống nhất từ Trung ƣơng đến địa phƣơng; đảm bảo giám sát hoạt
động giữa các cấp Tòa án, đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ nâng cao hiệu
quả thi hành thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp cao.
3.1. Hoàn thiện pháp luật
Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh có tác động tích cực đến hoạt động xét
xử của hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp cao nói
riêng. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp bảo
đảm cho các quan hệ dân sự, lao động, kinh tế và hành chính phát triển lành
mạnh tạo cơ chế giải quyết các tranh chấp có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của nhà
nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân,
69
tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam trong
quá trình này là phải từng bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh,
bổ sung, xây dựng mới những chính sách kinh tế, cơ chế quản lý của nhà
nƣớc cho phù hợp, tạo môi trƣờng vững chắc, thông thoáng, thuận lợi cho các
tổ chức, cá nhân và cơ quan nhà nƣớc khác có tranh chấp bằng cách khởi kiện
tại Tòa án.
Hiện nay các quy định của pháp luật Việt Nam về hình sự, dân sự, kinh
doanh thƣơng mại, hành chính, hôn nhân và gia đình đã tƣơng đối đầy đủ,
song còn một số thiếu sót chƣa đƣợc điều chỉnh bổ sung kịp thời cũng là
nguyên nhân làm cho chất lƣợng, hiệu quả của công tác xét xử nói chung,
công tác xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao nói
riêng chƣa đạt đƣợc kết quả khả quan. Điều đó tạo tâm lý cho các Thẩm phán
khi đƣợc phân công xét xử rất lo ngại. Để khắc phục tình trạng này, điều quan
trọng đầu tiên phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân sự, kinh tế, hành
chính và lao động.
Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục giám
đốc thẩm. Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén trong việc
thực hiện quyền lực Nhà nƣớc, thông qua đó Nhà nƣớc xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật, xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội,
quyền lợi hợp pháp của công dân. Để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật
hình sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng phải tiến
hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định. Tuy nhiên, không
chỉ ở Việt Nam mà ngay cả các nƣớc tiên tiến trên thế giới, hoạt động TTHS
không tránh khỏi những thiết sót, sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải
quyết vụ án. Trong những năm qua công tác giám đốc thẩm còn nhiều hạn chế,
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu trong công cuộc cải cách tƣ pháp hiện nay. Số
lƣợng các vụ án mà Tòa án thụ lý, xét xử ngày càng nhiều, nhƣng số lƣợng
các vụ án bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ngày càng giảm và chiếm
70
một tỷ lệ rất thấp. Một trong những nguyên nhân của hạn chế này là do quy
định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm chƣa đầy đủ, rõ ràng, một số
quy định không còn phù hợp với định hƣớng cải cách tƣ pháp. Vì thế, việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động kháng nghị
giám đốc thẩm là yêu cầu cấp bách trong tình hình hiện nay, nhằm đạt hiệu quả
cao nhất trong việc khắc phục, sửa chữa những sai lầm, vi phạm pháp luật
trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [14].
Ngoài ra đối với những văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của Tòa án cần đƣợc rà soát, hệ thống hóa, để hƣớng dẫn thực hiện
thống nhất trong toàn ngành, tránh tình trạng mỗi Thẩm phán hiểu một cách,
gây ảnh hƣởng tới chất lƣợng và hiệu quả xét xử.
Đặc biệt, trong bối cảnh đất nƣớc ta đang trong tiến trình hội nhập quốc
tế, việc giải quyết các tranh chấp có nhân tố nƣớc ngoài ngày càng nhiều; do
đó, tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ƣớc quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế,
thƣơng mại, đầu tƣ, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi
trƣờng... Đồng thời, đẩy mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành
mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế và các
điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ƣu tiên xây dựng các văn bản
pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế; khẩn trƣơng rà soát, hoàn thiện pháp luật theo yêu cầu
gia nhập WTO; thực hiện các cam kết với ASEAN, tham gia đầy đủ vào
AFTA năm 2006, tiến tới cộng đồng kinh tế châu Á vào năm 2020. Hoàn
thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế (trọng tài, hoà giải) phù hợp
với tập quán thƣơng mại quốc tế. Tham gia các điều ƣớc quốc tế đa phƣơng
về tƣơng trợ tƣ pháp, nhất là các điều ƣớc liên quan tới việc công nhận và cho
thi hành các bản án, quyết định của toà án, quyết định trọng tài thƣơng mại.
Ký kết và gia nhập các công ƣớc quốc tế về chống khủng bố quốc tế, chống
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, chống rửa tiền, chống tham nhũng, các
71
hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp. Chú trọng việc nội luật hoá những điều ƣớc quốc
tế mà Nhà nƣớc ta là thành viên liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Sớm ban hành Luật dẫn độ tội phạm và chuyển giao ngƣời bị kết án phạt tù.
3.2. Về tổ chức và cán bộ Tòa án nhân dân cấp cao
Về số lượng Tòa án nhân dân cấp cao
Thực tiễn thi hành thẩm quyền xét xử phúc thẩm của các Tòa án nhân
dân cấp cao cho thấy việc tổ chức 03 Tòa án nhân dân cấp cao nhƣ hiện nay là
một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ giải quyết các vụ án không cao,
vẫn còn có những vụ án để quá hạn, có trƣờng hợp hoãn phiên tòa nhƣng chậm
mở lại theo quy định tại khoản 2 Điều 297 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Điều này đã ảnh hƣởng đến tính nghiêm minh trong hoạt động xét xử, gây lãng
phí công sức, thời gian của nhà nƣớc và ảnh hƣởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của những ngƣời tham gia tố tụng, nhất là các bị cáo bị tạm giam.
Căn cứ vào số lƣợng các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của các Tòa án
nhân dân cấp cao phải giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự,
Bộ luật tố tụng dân sự thì mỗi Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết một số
lƣợng rất lớn các vụ án hình sự, vụ việc dân sự, hành chính, kinh doanh
thƣơng mại, hôn nhân và gia đình theo thủ tục phúc thẩm và giải quyết đơn đề
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; đồng thời mỗi Tòa án nhân dân cấp cao hiện
nay có địa bàn rộng, gây khó khăn cho công tác tổ chức xét xử lƣu động và
tốn kém (vì để đảm bảo thuận lợi cho ngƣời dân và nhất là công tác dẫn giải
bị cáo, Hội đồng xét xử phải đến các địa phƣơng và xét xử tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh), do đó không khắc phục đƣợc những hạn chế trong công tác tổ
chức xét xử của các Tòa phúc thẩm trƣớc đây, ảnh hƣởng đến thời hạn xét xử,
thời hạn ban hành bản án, không đảm bảo an toàn cho Hội đồng xét xử khi
phải di chuyển trên địa bàn rộng…
Xuất phát từ thực tiễn thi hành thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, vụ
việc dân sự, hành chính, kinh doanh thƣơng mại, hôn nhân và gia đình của các
72
Tòa án nhân dân cấp cao hiện nay, tôi tán thành với quan điểm của Ban Cán
sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao tại Báo cáo số 76-BC/BCS, ngày 22/4/2015
về việc đề nghị thành lập 05 Tòa án nhân dân cấp cao, cụ thể:
- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực Hà Nội, có thẩm quyền tƣ pháp
trong phạm vi thành phố Hà Nội và các tỉnh, thành phố thuộc đồng bằng Bắc
Bộ và Miền Trung;
- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực Đà Nẵng, có thẩm quyền tƣ pháp
trong phạm vi của thành phố Đà Nẵng, các tỉnh duyên hải Miền Trung và
Tây Nguyên;
- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực thành phố Hồ Chí Minh, có thẩm
quyền tƣ pháp trog phạm vi của thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông
Nam Bộ;
- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực phía Bắc, có thẩm quyền tƣ pháp
trong phạm vi các tỉnh phía Bắc và Tây Bắc Bộ;
- Tòa án nhân dân cấp cao khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long có
thẩm quyền tƣ pháp trong phạm vi thành phố Cần Thơ và các tỉnh Tây Nam
Bộ [34].
Đề xuất này phù hợp với Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị, theo
đó Tòa án nhân dân cấp cao đƣợc thành lập theo địa hạt tƣ pháp, có thẩm
quyền tƣ pháp trên phạm vi nhiều tỉnh trong cùng khu vực [3]. Mặt khác Luật
tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng không quy định cụ thể về số lƣợng
Tòa án nhân dân cấp cao mà quy định Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội có thẩm
quyền Quyết định thành lập, giải thể Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng…; quy định về phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao trên cơ sở đề nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Phƣơng án này cũng đảm bảo thuận lợi
cho việc tổ chức hoạt động xét xử của các Tòa án nhân dân cấp cao, hạn chế
73
việc đi lại tốn kém cho nhân dân trong việc tiếp cận Tòa án. Đồng thời đảm
bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật tƣơng đối trên cơ sở đặc điểm kinh tế -
xã hội, phong tục tập quán, văn hóa - xã hội của mỗi vùng.
Về cơ cấu tổ chức, bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao
Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc tổ chức bộ máy giúp
việc của Tòa án nhân dân cấp cao, đặc biệt là các ý kiến về tổ chức bộ máy giúp
việc cho Ủy ban thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện nhiệm
vụ: Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng thuộc phạm vi thẩm quyền
theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của Luật tố tụng.
Các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao trƣớc đây thực hiện có
hiệu quả chức năng thẩm tra hồ sơ các vụ việc mà bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, cần kế thừa mô hình cơ cấu tổ chức của
các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao trong việc tổ chức các Tòa
chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao. Do đó, bên cạnh nhiệm vụ đƣợc Luật
tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định là phúc thẩm vụ việc mà bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thuộc
phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; cần giao cho các Tòa chuyên trách
nhiệm vụ tổ chức thẩm tra các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi
thẩm quyền theo lãnh thổ đã có hiệu lực pháp luật và báo cáo kết quả thẩm tra
với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao.
Điều 33 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định về nhiệm vụ
quyền hạn của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao là:
Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao phúc thẩm vụ việc mà bản
74
án, quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
Nên nếu giao cho các tòa chuyên trách thêm nhiệm vụ tổ chức thẩm tra
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, là không đúng quy định của
Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Vì vậy, việc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
quyết định thành lập phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính là phù
hợp với Luật tổ chức Tòa án và đảm bảo chuyên môn hóa trong việc thực hiện
nhiệm vụ của các đơn vị trong Tòa án nhân dân cấp cao.
Việc kế thừa mô hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của các Tòa chuyên
trách Tòa án nhân dân tối cao trƣớc đây trong việc tổ chức các Tòa chuyên
trách Tòa án nhân dân cấp cao có nhiều ƣu điểm, nhất là đảm bảo sử dụng có
hiệu quả lao động là các thẩm phán cao cấp, những chuyên gia đầu ngành
trong việc giải quyết các vụ, việc theo trình tự giám đốc thẩm tái thẩm, tránh
tình trạng hiện nay những thẩm tra viên nghiên cứu, đề xuất giải quyết các vụ
án giám đốc thẩm thƣờng chƣa có kinh nghiệm xét xử thực tiễn, thành viên
Ủy ban thẩm phán cũng không phải những ngƣời chuyên về hình sự, dân sự,
kinh doanh - thƣơng mại, hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên trong khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân chƣa đƣợc sửa đổi,
cần thực hiện đúng quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân về nhiệm vụ
của các tòa chuyên trách là phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của luật tố tụng thì việc thành lập đơn vị chuyên trách giúp
việc để giải quyết các vụ việc theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là hợp lý.
Tuy nhiên, việc thành lập phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính
nhƣ hiện nay là chƣa phù hợp, không phù hợp với xu hƣớng đòi hỏi ngày
càng chuyên sâu của công tác xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
75
luật, nên cần thành lập riêng Phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự có nhiệm
vụ, quyền hạn thẩm tra hồ sơ các vụ án hình sự mà bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật tố tụng và sự phân công của
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao; làm thƣ ký các phiên tòa Giám đốc
thẩm, tái thẩm về hình sự; thực hiện các nhiệm vụ về hành chính tƣ pháp có
liên quan theo sự phân công.
3.3. Đẩy mạnh đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp
Đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân cấp cao là đổi mới
các quy trình, thủ tục mang tính chất hành chính hỗ trợ cho hoạt động xét xử
phúc thẩm, hoạt động xét xử lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Việc
đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp phải đảm bảo sự tách bạch giữa hoạt động
hành chính tƣ pháp với hoạt động xét xử, xây dựng quy trình và ứng dụng công
nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả công tác; công khai, minh bạch các hoạt
động của Tòa án nhân dân cấp cao, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân khi
giải quyết công việc, góp phần xây dựng Tòa án nhân dân cấp cao thân thiện,
gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân là chỗ dựa cho nhân dân trong việc bảo vệ
công lý bảo vệ quyền con ngƣời. Nghiên cứu xây dựng phần mềm quản lý các
loại vụ án, phần mềm tiếp nhận đơn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm…
Tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật và đổi
mới tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp
Công tác đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật tại các Tòa án nhân
dân cấp cao từ khi đƣợc thành lập vẫn còn những tồn tại, hạn chế, nhƣ: Một
số vấn đề vƣớng mắc trong thực tiễn xét xử chƣa đƣợc hƣớng dẫn kịp thời và
áp dụng thống nhất, số lƣợng bản án, quyết định giám đốc thẩm của các Tòa
án nhân dân cấp cao đƣợc chọn lựa làm nguồn án lệ chƣa nhiều; vẫn còn một
số Thẩm phán, Thẩm tra viên chƣa quan tâm, cập nhật, tra cứu các văn bản
pháp luật và hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao khi thi hành nhiệm vụ.
Vì vậy để nâng cao hiệu quả thi hành thẩm quyền xét xử, đòi hỏi Tòa án nhân
76
dân cấp cao phải:
- Nâng cao nhận thức cho Thẩm phán, các chức danh tƣ pháp về tầm
quan trọng của việc áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử phúc
thẩm hình sự, xét lại các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật.
- Tổ chức hội nghị tập huấn, quán triệt các văn bản quy phạm pháp
luật, án lệ, thƣờng xuyên thông tin những văn bản hƣớng dẫn mới trong các
cuộc họp, giao ban của đơn vị; đôn đốc các Thẩm phán, các chức danh tƣ
pháp khác cập nhật, áp dụng văn bản mới.
- Kịp thời báo cáo Tòa án nhân dân tối cao về những vƣớng mắc trong
thực tiễn xét xử, đồng thời chủ động đề xuất phƣơng án hƣớng dẫn; phát hiện
trao đổi về những vẫn đề còn tồn tại trong các văn bản hƣớng dẫn và giải đáp
nghiệp vụ.
Đổi mới tổ chức phiên tòa hình sự phúc thẩm theo tinh thần cải cách tƣ
pháp với yêu cầu đặt ra là:
- Hội đồng xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phúc thẩm thực hiện
tốt nguyên tắc tranh tụng, bảo đảm để các bên thực hiện đúng, đầy đủ quyền
hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ tố tụng của họ theo đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015; đặc biệt là nghĩa vụ chứng minh, xác định sự thật
khách quan của vụ án, các vấn đề pháp lý tranh chấp cần giải quyết trong vụ
án. Phán quyết của Hội đồng xét xử phúc thẩm phải trên cơ sở pháp luật và
các tình tiết, chứng cứ đã đƣợc kiểm tra, xem xét toàn diện, đầy đủ tại phiên
tòa. Quá trình hỏi và tranh luận tại phiên tòa phải bảo đảm thật sự khách quan,
minh bạch và công bằng, không đƣợc thiên vị, định kiến.
- Hội đồng xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực hiện đầy đủ thẩm
quyền tố tụng của mình trong việc yêu cầu điều tra bổ sung; thực hiện nguyên
tắc suy đoán vô tội; kiến nghị để khắc phục các sai sót của cơ quan tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; kiến nghị với các cơ quan quản lý
nhà nƣớc khắc phục những hạn chế, thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện phát
77
sinh tội phạm
3.4. Nâng cao hơn nữa chất lƣợng đội ngũ Thẩm phán, thực hiện
tốt quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán
Xây dựng đội ngũ Thẩm phán có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình
độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng thông qua cơ chế thi
tuyển, bổ nhiệm, đào tạo và chế độ đãi ngộ phù hợp để họ tòan tâm, toàn ý
phụng sự công việc của mình trong lĩnh vực bảo vệ công lý là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của chiến lƣợc cải cách Tòa án hiện nay.
Mở rộng nguồn tuyển chọn Thẩm phán: Đối tƣợng tuyển chọn để bổ
nhiệm Thẩm phán không chỉ từ chính đội ngũ cán bộ Tòa án mà còn từ đội
ngũ các chức danh tƣ pháp khác nhƣ điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành
viên, luật sƣ và kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề thẩm phán mặc dù
chƣa đƣợc hành nghề Thẩm phán.
Thực hiện tốt cơ chế thi tuyển để chọn Thẩm phán. Trên cơ sở kết quả
thi tuyển, những ngƣời trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán quốc gia nếu
có đủ các tiêu chuẩn khác về phẩm chất đạo đức, chứng chỉ hành nghề Thẩm
phán sẽ đƣợc Chủ tịch nƣớc xem xét ra quyết định bổ nhiệm làm Thẩm phán.
Thẩm phán sẽ là thẩm phán của quốc gia, nên có thể điều động họ dễ dàng khi
thấy cần thiết. Việc bổ nhiệm Thẩm phán cần tiến hành theo ngạch, bậc và
theo nguyên tắc Thẩm phán không đƣợc bổ nhiệm ở ngạch cao hơn nếu chƣa
có đủ số năm nhất định giữ chức danh thẩm phán ở ngạch thấp hơn hoặc giữ
các chức danh tƣ pháp khác. Cũng cần xem xét việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm
phán so với hiện nay, tiến tới việc bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời, bởi vì quy
định nhiệm kỳ Thẩm phán quá ngắn. Nhiệm kỳ của Thẩm phán hiện nay là
năm năm, hết nhiệm kỳ thì Thẩm phán đƣơng nhiên mất chức danh tƣ pháp,
thủ tục thi tuyển lại chức danh Thẩm phán đƣợc tiến hành theo trình tự, thủ
tục tƣơng tự nhƣ thi tuyển lần đầu.
Nhiệm kỳ ngắn (chỉ 05 năm) đối với nhiệm kỳ đầu, trƣờng hợp đƣợc bổ
78
nhiệm lại là 10 năm và quy trình bổ nhiệm lại thẩm phán phức tạp đã có sự tác
động mạnh mẽ đến tính độc lập của Thẩm phán trong quá trình xét xử. Vì thế,
chúng ta cần phải kéo dài hơn và không giới hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán.
Trong tình hình năng lực đội ngũ Thẩm phán hiện nay thì giải pháp cần
áp dụng là thay thế hình thức bổ nhiệm lại bằng hình thức bất tín nhiệm tƣ
cách Thẩm phán của Thẩm phán. Vẫn giữ nguyên nhiệm kỳ 05 năm nhƣng
khi hết nhiệm kỳ thì Thẩm phán không đƣợc đƣơng nhiên mất chức danh tƣ
pháp. Thẩm phán chỉ mất chức danh này nếu bị đa số bất tín nhiệm tƣ cách
Thẩm phán. Quyết định không tín nhiệm Thẩm phán có thể bị khiếu nại lên
Tòa án tối cao.
Xây dựng chính sách tiền lƣơng kết hợp với các chính sách đãi ngộ hợp
lý nhằm đảm bảo mức thu nhập của Thẩm phán để thu hút ngƣời có năng lực
trình độ pháp luật cao, Thẩm chất đạo đức trong sáng, bản lĩnh chính trị vững
vàng yên tâm cống hiến cho hoạt động của ngành Tòa án. Đảm bảo mức thu
nhập ổn định và thỏa đáng còn là một trong những yếu tố đảm bảo cho Thẩm
phán độc lập cao trong quá trình xét xử. Chế độ sử dụng và đãi ngộ cần đảm
bảo cho Thẩm phán không phải lo mƣu sinh, đảm bảo để họ và gia đình có thể
sống đầy đủ bằng chính đồng lƣơng, không bị phụ thuộc vào những tác động
vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức liên quan đến công vụ của họ. Mặt khác,
cần thiết lập một chế độ giám sát chặt chẽ để kịp thời phát hiện, cảnh báo,
phòng ngừa và xử lý nghiêm minh những Thẩm phán hành động không xứng
đáng với chức danh cao quý của mình. Về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, các
Thẩm phán sau khi đƣợc bổ nhiệm phải tham gia bắt buộc vào các khoá bồi
dƣỡng định kỳ và phải trải qua các kỳ sát hạch, kiểm tra về kiến thức, kỹ năng
xét xử, tác phong làm việc. Giống nhƣ các chức danh hành chính cao cấp,
Thẩm phán phải thực hiện chế độ công khai tài sản và tài chính cá nhân trong
suốt thời kỳ giữ chức danh và một thời gian sau khi bãi nhiệm hoặc về hƣu.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay Thẩm phán đƣợc bổ
79
nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm, bổ nhiệm lại là nhiệm kỳ 10 năm. Năm năm
không phải là thời gian dài vì vậy khó có thể làm an lòng các Thẩm phán.
Quy định này nhƣ đã phân tích ở trên tạo ra một tâm lý thiếu ổn định, thiếu sự
học tập, nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của Thẩm phán; không
đảm bảo cho Thẩm phán thực hiện triệt để nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc quy định bổ nhiệm Thẩm
phán theo nhiệm kỳ vẫn cần thiết, do tác động của ngoại cảnh, do trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, cần thiết phải cách chức hoặc thay thế một số Thẩm
phán không hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, để khắc phục vấn đề này cần nghiên
cứu kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán tiến tới bổ nhiệm Thẩm phán dài hạn.
Để vị trí nghề nghiệp của Thẩm phán vững chắc, không bị áp lực bởi vấn đề
nhiệm kỳ, đảm bảo cho họ đƣợc độc lập thì cần thiết phải kéo dài nhiệm kỳ
thẩm phán tiến tới chế độ thẩm phán suốt đời. Việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm
phán phải và chỉ mục đích đảm bảo cho họ đƣợc độc lập xét xử chứ không
phải là sự ƣu đãi hay an sinh xã hội dành riêng cho Thẩm phán. Điều đó có
nghĩa là nếu Thẩm pán vi phạm đao đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật,
năng lực yếu kém (không thể độc lập xét xử) cần phải xa thải.
Nhƣ vậy, việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán sẽ đem lại lợi ích: Ổn định
nghề nghiệp; tránh đƣợc sự can thiệp của cấp ủy địa phƣơng, các cơ quan
hành chính, lập pháp và ngay cả sự can thiệp của Tòa án cấp trên vào công
việc bổ nhiệm Thẩm phán sẽ làm Thẩm phán không chỉ có khả năng độc lập
mà còn dám độc lập xét xử.
Về chính trị, tƣ tƣởng, để nâng cao trách nhiệm, ý thức chấp hành pháp
luật của đội ngũ Thẩm phán, các đơn vị trong hệ thống Tòa án nhân dân nói
chúng và Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng phải thƣờng xuyên thực hiện
nghiêm túc công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng cho Thẩm phán, cán bộ, công
chức trong đơn vị mình, triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nghị
80
quyết của Quốc hội liên quan đến cải cách tƣ pháp, tổ chức, hoạt động của Hệ
thống Tòa án nhân dân và công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí. Thực hiện tốt cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức hệ
thống Tòa án nhân dân”. Nội dung về chính trị tƣ tƣởng, đạo đức lối sống mà
Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án phải thƣờng xuyên tu dƣỡng rèn luyện
là: cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tƣ, gƣơng mẫu, tự giác; không quan liêu
tham nhũng, lãng phí; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý thức kỷ luật cao và
phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Thực hiện “Quy tắc ứng xử của cán bộ,
công chức hệ thống Tòa án nhân dân” theo đúng quy định của Luật phòng,
chống tham nhũng; định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công
chức không giữ chức vụ lãnh đạo theo đúng quy định của Chính phủ; triển
khai và thực hiện nghiêm túc Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật
phòng, chống tham nhũng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đẩy mạnh phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”
với phƣơng châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, gắn với cuộc vận
động “đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh”, với trọng tâm là học tập và làm theo phong cách, tác phong Hồ
Chí Minh về dân chủ, nêu gƣơng, quần chúng, khoa học, nói đi đôi với làm,
với mục tiêu tạo động lực mới trong việc đổi mới phong cách, tác phong công
tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là ngƣời đứng đầu trong hệ thống Tòa
án nhân dân. Trong phong trào thi đua này lấy cuộc vận động “nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ,
công chức hệ thống Tòa án nhân dân” làm nòng cốt nhằm xây dựng hình ảnh
Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân thực sự gƣơng mẫu, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức lối sống trong sạch, lành mạnh ở cơ
quan và nơi cƣ trú, để củng cố lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với Thẩm
81
phán, cán bộ, công chức Tòa án.
Cơ quan tổ chức thực hiện giải pháp này là Học viện Tòa án thuộc Tòa
án nhân dân tối cao. Tập trung củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ theo hƣớng
tiêu chuẩn hóa và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, phẩm
chất đạo đức đối với các chức danh Thẩm phán, thẩm tra viên, chuyên viên và
thƣ ký; tăng cƣờng công tác quản lý cán bộ theo hƣớng quy chế hóa việc đánh
giá, quy hoạch, sử dụng, bổ nhiệm, khen thƣởng và kỷ luật; xây dựng và quy
chế hóa về đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp và kỷ luật công vụ của cán bộ
nhằm chống tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan Tòa án.
3.5. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ với
cán bộ công chức ngành Tòa án
Chế độ lƣơng bổng cho thẩm phán phải đƣợc đảm bảo: Việc đổi mới
chế độ tiền lƣơng, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ,
công chức ngành Tòa án nhân dân cần đƣợc cải tiến nhằm tạo điều kiện thuận
lợi để thực hiện tốt chiến lƣợc tiến hành cải cách tƣ pháp, nâng cao hiệu quả
của việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ ngành Tòa
án nhân dân, xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án trong sạch vững mạnh; đảm bảo
chế độ tiền lƣơng và phụ cấp phù hợp với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tòa
án trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp và tƣơng xứng với cƣờng độ lao động
đặc thù của Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án; đảm bảo cho cán
bộ, công chức Tòa án có cuộc sống bằng tiền lƣơng và các khoản phụ cấp đặc
thù; nâng cao trách nhiệm và tạo động lực để khuyến khích Thẩm phán, cán
bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân tận tâm, tận lực, yên tâm, gắn bó với
ngành và hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao.
Để đạt đƣợc các mục tiêu đó, cần đổi mới chế độ tiền lƣơng và phụ cấp
đối với Thẩm phán và cán bộ công chức ngành Tòa án theo hƣớng:
+ Về chế độ tiền lƣơng: Xác định rõ mối quan hệ tiền lƣơng giữa các khu
vực: Tƣ pháp (Tòa án, Kiểm sát), lực lƣợng vũ trang, hành chính, các bậc
82
lƣơng chuyên môn nghiệp vụ đối với Thẩm phán, cán bộ công chức ngành
Tòa án thuộc bảng lƣơng chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tòa án nhất là đối với
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện phải đƣợc thiết kế cao hơn các bậc
lƣơng, thang lƣơng thuộc bảng lƣơng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc các cơ
quan hành chính nhà nƣớc ít nhất từ 2 bậc trở lên và chỉ thấp hơn các chức
danh tƣơng ứng thuộc bảng lƣơng của lực lƣợng vũ trang.
+ Về chế độ nhà công vụ và một số chế độ chính sách khác: Để tạo điều
kiện cho Thẩm phán, cán bộ, công chức thuộc diện luân chuyển, biệt phái yên
tâm, phân khởi hoàn thành tốt nhiệm vụ, đề nghị các cấp có thẩm quyền xem
xét cấp kinh phí xây dựng nhà công vụ, hỗ trợ đối với Thẩm phán trong thời
gian luân chuyển, biệt phái tăng cƣờng công tác xét xử. Thẩm phán thuộc diện
luân chuyển, biệt phái có nhà công vụ để ở, đƣợc hỗ trợ thêm mỗi tháng bằng
mức tiền lƣơng tối thiểu và đƣợc hƣởng các loại phụ cấp theo địa phƣơng nơi
đƣợc luân chuyển biệt phái.
- Tăng cƣờng trách nhiệm của Thẩm phán: Cần có quy định nhằm tạo
ra một cơ chế phù hợp để có thể đảm bảo và tăng cƣờng trách nhiệm của
Thẩm phán. Khi các Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những hành động
của mình thì hệ thống tƣ pháp trở nên có hiệu quả hơn. Khi các Thẩm phán
xét xử công khai, các luật sƣ, ngƣời dân, phƣơng tiện thông tin đại chúng
theo dõi công việc của Thẩm phán thì tính trách nhiệm của Thẩm phán đƣợc
83
nâng lên.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã kế thừa và phát triển các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thẩm quyền xét xử, đã quy định một
cách tƣơng đối đầy đủ, khoa học và hợp lý về thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp cao. Thực tiễn thi hành thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân cấp cao
về cơ bản đã đạt đƣợc những kết quả tích cực. Tuy nhiên vì những nguyên
nhân chủ quan, khách quan việc thi hành thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân cấp cao vẫn còn những tồn tại, vƣớng mắc làm cho việc xét xử phúc
thẩm, xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chƣa đạt đƣợc kết
quả cao. Những tồn tại, vƣớng mắc này là cơ sở thực tiễn quan trọng để đề
xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành thẩm quyền xét xử của Tòa
84
án nhân dân cấp cao.
KẾT LUẬN
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận tổ chức và hoạt động của Tòa
án và những mục tiêu, yêu cầu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp cao trong điều kiện cải cách tƣ pháp và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nƣớc ta, có thể rút ra một số kết
luận sau:
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung
và Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng phải đáp ứng những yêu cầu sau: Yêu
cầu về Tòa án độc lập trong hoạt động xét xử và bảo đảm việc giám sát đối
với hoạt động xét xử; yêu cầu mở rộng quyền tài phán tƣ pháp; yêu cầu về
tính dân chủ, đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân trong hoạt động của
Tòa án; yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Tòa án, yêu
cầu về quyền giải thích pháp luật đối với Tòa án.
Mặc dù Tòa án nhân dân cấp cao là một cấp Tòa án mới đƣợc thành lập
Tòa án nhân dân cấp cao đã có những bƣớc phát triển, hoàn thiện cả về tổ
chức và hoạt động, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nƣớc ta.
Trên cơ sở nghiên cứu những tài liệu lý luận và khoa học về hệ thống
Tòa án nhân dân, hệ thống văn bản pháp luật, tôi đã chọn đề tài “Tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam” nhằm nâng cao hiệu
85
quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam
Luận văn hƣớng vào phân tích, đánh giá, làm rõ lý luận Tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Việt Nam; vị trí, vai trò, nguyên
tắc cơ bản, thực trạng tổ chức và hoạt động, nghiên cứu mô hình tổ chức và
hoạt động của Tòa án một số quốc gia trên thế giới nhƣ: Hàn Quốc, Nhật Bản
và Trung Quốc từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ đó, Luận
văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Việt Nam trong thời gian tới.
Trên cơ sở các quan điểm, định hƣớng nêu trên, một số giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao là:
- Hoàn thiện pháp luật
- Tổ chức và cán bộ Tòa án nhân dân cấp cao
- Đẩy mạnh đổi mới thủ tục hành chính tƣ pháp
- Nâng cao hơn nữa chất lƣợng đội ngũ thẩm phán, thực hiện tốt quy
trình tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán
- Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ với cán
86
bộ công chức ngành Tòa án.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới”, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79 – KL/TW ngày 28/7/2010 về đề án đổi
mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện Kiểm sát và cơ quan điều tra,
Hà Nội.
4. Chủ tịch Hồ Chí Minh (1957), “Hội nghị tƣ pháp toàn quốc ngày 22/3/1957”,
Hà Nội.
5. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh
số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán.
6. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc lệnh số 77C
ngày 28/12/1945 về thiết lập một số Tòa án quân sự Phan Thiết.
7. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Sắc
lệnh số 33C/SL ngày 13/9/1945 về thành lập các Tòa án quân sự.
8. Chủ tịch Chính phủ (1947), Sắc lệnh số 59/SL ngày 16/12/1947 về thành
lập Tòa án binh khu trung ương.
9. Chủ tịch Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng lần thứ XI (2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách
hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước
87
pháp quyền” Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam
hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
13. Đào Trí Úc (2014), Vị trí trung tâm của Tòa án trong chiến lược cải
cách tư pháp ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Nguyễn Tất Nam (2018), Bảo đảm quyền của người bị kết án theo thủ tục
giám đốc thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội,
Luận văn Thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
15. Nguyễn Minh Sử (2011), Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện
trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Nguyễn Minh Sử (2011), “Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của
Thẩm phán trong hoạt động xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 7/
2011, Hà Nội
17. Quốc hội (1946), Hiến pháp năm 1946, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Quốc hội (1959), Hiến pháp năm 1959, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Quốc hội (1980), Hiến pháp năm 1980, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
23. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
24. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
25. Quốc hội (1980), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1980, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội (1960), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Nxb. Chính
88
trị quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội (1992), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
28. Tòa án nhân dân tối cao (2016, 2017, 2018), Tài liệu hội nghị tổng kết
phong trào thi đua, Hà Nội.
29. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Quyết định 986/QĐ –TANDTC ngày
04/7/2015; Quyết định 987/ QĐ- TANDTC ngày 04/7/2015; Quyết định
988/ QĐ- TANDTC ngày 04/7/2015, Hà Nội.
30. Thủ tƣớng Chính phủ (1959), Nghị định số 321/TTg ngày 27/8/1959 về
thành lập viện công tố phúc thẩm và viện công tố các cấp, Hà Nội.
31. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Nghiên cứu so sánh hệ thống Tòa án một
số nước kinh nghiệm và bài học trong hoàn thiện hệ thống Tòa án Việt
Nam, Hà Nội.
32. Tòa án nhân dân tối cao (1983), Hội nghị tổng kết công tác của ngành
Tòa án năm 1983, Hà Nội.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án
năm 2001, Hà Nội
34. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo số 76-BC/ BCS ngày 22/4/2015
về việc đề nghị thành lập 05 Tòa án nhân dân cấp cao, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Thực trạng hoạt động xét xử phúc thẩm
và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử phúc thẩm
của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao”, Hà Nội
36. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
37. Trần Văn Độ (2013), “Quyền Tƣ pháp phải do duy nhất Tòa án thực
hiện”, Báo Công lý, số 15, tr2
38. Trần Văn Độ, “Yêu cầu của cải cách tƣ pháp về xác định Tòa án là trung
tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm và những vấn đề đặt ra đối với việc
89
sửa đổi BLTTHS”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11, tr.5-7
39. V.I. Lênin (1980) Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
40. Vũ Quốc Thúc (1964), Chính sách phát triển quốc gia và chế độ pháp trị,
Nxb. Hà Nội.
41. Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội (2015), Nghị quyết số 957/2015/NQ-
UBTVQH 13 ngày 28/5/2015 về việc thành lập các Tòa án nhân dân cấp
cao, Hà Nội.
42. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, NXB Từ điển bách khoa,
90
Nxb. Tƣ pháp.
PHỤ LỤC
SƠ ĐỒ HỆ THỐNG TỔ CHỨC TÒA ÁN VIỆT NAM
TỪ NĂM 1946 ĐẾN NAY
PHỤ LỤC 1
Sơ đồ Tổ chức Tòa án (Theo sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946)
Tòa thƣợng thẩm
Tòa thƣợng thẩm
Tòa thƣợng thẩm
Bắc kỳ
Trung kỳ
Nam kỳ
Tòa án đệ nhị cấp
(ở các tỉnh, thành phố)
Tòa án sơ cấp
(ở các quận, huyện)
Ban Tƣ pháp
(ở các xã)
91
PHỤ LỤC 2
Sơ đồ tổ chức Tòa án (Theo Hiến pháp 1946)
TÒA ÁN TỐI CAO
Các Tòa phúc thẩm
Tòa án đệ nhị cấp (ở các tỉnh)
Tòa án sơ cấp (ở các quận, huyện)
92
PHỤ LỤC 3
Sơ đồ Tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 1950 - 1960
TÒA ÁN TỐI CAO
Các Tòa Phúc thẩm
Các Tòa án nhân dân tỉnh
(ở các tỉnh, thành phố)
Các Tòa án nhân dân huyện
(ở các quận, huyện, thị xã)
93
Ban Tƣ pháp xã
PHỤ LỤC 4
Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 1960 - 1981
Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TÒA ÁN QUÂN SỰ TÒA HÌNH SỰ TÒA DÂN SỰ TÒA PHÚC THẨM HỘI ĐỒNG TOÀN THỂ THẨM PHÁN
TRUNG ƢƠNG
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân khu tự trị Tây Bắc Khu tự trị Việt Bắc Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng hoặc đơn vị hành chính trung ƣơng
Tòa án nhân dân các tỉnh trong khu tự tị Tòa án nhân dân các tỉnh trong khu tự trị Tòa án quân sự cấp quân khu, quân binh chủng, sƣ đoàn trực thuộc Bộ và tƣơng đƣơng
94
Tòa án nhân dân các huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tƣơng đƣơng
Tòa án nhân dân huyện, thị xã trong khu tự trị Tòa án nhân dân huyện, thị xã trong khu tự trị
PHỤ LỤC 5
Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 1981 - 1992
Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 1988
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
ỦY BAN THẨM PHÁN
BỘ MÁY TÒA ÁN TÒA DÂN SỰ
TÒA HÌNH SỰ
03 TÒA PHÚC THẨM
GIÚP VIỆC QUÂN SỰ
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và cấp tƣơng đƣơng Tòa án quân sự quân khu
và cấp tƣơng đƣơng Ủy ban thẩm phán
Ủy ban thẩm phán Tòa hình sự Bộ máy giúp việc Tòa dân sự
95
Tòa án quân sự khu vực Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
PHỤ LỤC 6 Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 1992 - 2002 Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 1993 và 1995
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
ỦY BAN THẨM PHÁN
BỘ MÁY 03 TÒA TÒA ÁN
TÒA LAO ĐỘNG
TÒA HÌNH SỰ TÒA DÂN SỰ TÒA KINH TẾ
GIÚP VIỆC
PHÚC THẨM
TÒA HÀNH CHÍNH
QUÂN SỰ
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và cấp tƣơng đƣơng Tòa án quân sự quân khu
và cấp tƣơng đƣơng Ủy ban thẩm phán
Ủy ban thẩm phán
Tòa dân sự Bộ máy giúp việc Tòa hình sự Tòa lao động Tòa kinh tế Tòa hành chính
96
Tòa án quân sự khu vực Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
PHỤ LỤC 7 Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 2002 - 2014 Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
03 TÒA BỘ MÁY TÒA ÁN
TÒA LAO ĐỘNG
TÒA DÂN SỰ TÒA KINH TẾ
PHÚC THẨM
GIÚP VIỆC
QUÂN SỰ
TÒA HÀNH CHÍNH
TÒA HÌNH SỰ
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và cấp tƣơng đƣơng Tòa án quân sự quân khu
và cấp tƣơng đƣơng Ủy ban thẩm phán
Ủy ban thẩm phán
Bộ máy giúp việc Tòa hình sự Tòa lao động Tòa kinh tế Tòa hành chính Tòa dân sự
97
Tòa án quân sự khu vực Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
PHỤ LỤC 8
Hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân giai đoạn 2014 đến nay
Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP CAO
Tòa án quân sự
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng
98