BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HUỲNH LÊ ANH PHỤNG
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TỐ CÁO HÀNH CHÍNH- TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HUỲNH LÊ ANH PHỤNG
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TỐ CÁO HÀNH CHÍNH- TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 08 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
GS.TS PHẠM HỒNG THÁI
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng 9 năm 2018
Học viên
Huỳnh Lê Anh Phụng
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của bản thân sau một quá trình nỗ lực học tập
và nghiên cứu với sự giúp đỡ của thầy cô, đơn vị, đồng nghiệp và người thân.
Để có được thành quả ngày hôm nay, lời đầu tiên xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đến Thầy giáo – GS.TS Phạm Hồng Thái, người trực tiếp hướng
dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian, công sức trong quá trình nghiên cứu để
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tiếp theo, xin gửi lời cảm ơn đến Cơ sở Học viện Hành chính khu vực
miền Trung, Khoa Sau đại học Học viện Hành chính Quốc gia cùng toàn thể
các Thầy, Cô giáo của Học viện hành chính Quốc gia đã giảng dạy tận tình và
truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ tôi
trong quá trình thu thập số liệu điều tra nghiên cứu.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong luận văn này không tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế. Tôi kính mong quý thầy, cô và những người quan
tâm đến đề tài có những đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn./.
Học viên
Huỳnh Lê Anh Phụng
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Diện tích, dân số tỉnh Quảng Ngãi ................................................ 34
Biểu đồ 2.2: Tổng số vụ việc tố cáo hành chính giai đoạn 2014-2017 .......... 38
Biểu đồ 2.3: Phân tích kết quả nội dung tố cáo hành chính ........................... 38
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TỐ CÁO HÀNH CHÍNH ................................. 8
1.1. Giải quyết tố cáo hành chính và pháp luật giải quyết tố cáo hành chính .. 8
1.1.1. Tố cáo hành chính và giải quyết tố cáo hành chính ............................... 8
1.1.2. Pháp luật giải quyết tố cáo hành chính ................................................ 10
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật giải quyết tố cáo hành chính. ....... 10
1.1.2.2. Nội dung pháp luật giải quyết tố cáo hành chính ............................. 11
1.1.2.3. Vai trò của pháp luật giải quyết tố cáo hành chính ......................... 155
1.2. Lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính ..... 16
1.2.1. Thực hiện pháp luật ............................................................................ 16
1.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính của các cơ
quan hành chính ........................................................................................... 17
1.2.3. Các yếu tố tác động đến tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo
hành chính của các cơ quan hành chính ........................................................ 23
1.2.4. Điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo
hành chính .................................................................................................... 26
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 32
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI
QUYẾT TỐ CÁO HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI . 33
2.1. Giới thiệu chung về tình hình tỉnh Quảng Ngãi có liên quan đến việc tổ
chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính ............................. 33
2.2. Tình hình tố cáo hành chính và giải quyết tố cáo hành chính ở tỉnh Quảng
Ngãi ............................................................................................................. 36
2.2.1. Tình hình tố cáo hành chính ............................................................... 36
2.2.2. Tình hình giải quyết tố cáo hành chính ............................................... 41
2.3. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính tại
tỉnh Quảng Ngãi ........................................................................................... 48
2.3.1. Những kết quả đạt được ...................................................................... 48
2.3.2. Đánh giá những kết quả đạt được ....................................................... 53
2.4. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính của tỉnh Quảng Ngãi............................................... 61
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 65
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ
CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TỐ CÁO HÀNH
CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI ......................................... 66
3.1. Các quan điểm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết
tố cáo hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi ............................................ 66
3.1.1. Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng về tổ chức thực hiện pháp
luật đồng thời thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quy định về giải quyết tố
cáo hành chính ............................................................................................. 66
3.1.2. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong công tác tổ chức thực hiện pháp
luật giải quyết tố cáo hành chính .................................................................. 67
3.1.3. Cần phải lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức thực
hiện phù hợp................................................................................................. 70
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết
tố cáo hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi ............................................ 72
3.2.1. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát đối với công
tác tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính ........................ 72
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến giải quyết tố cáo hành chính
................................................................................................................... 76
3.2.3. Tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp
luật giải quyết tố cáo hành chính .................................................................. 81
3.2.4. Đảm bảo các điều kiện vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính ................................................................................ 81
3.2.5. Nâng cao vai trò của người dân trong tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính ................................................................................ 87
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 91
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tố cáo là một trong những quyền con
người, quyền công dân cơ bản. Việc thực hiện quyền tố cáo là hình thức dân
chủ trực tiếp để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, quản lý
xã hội, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, của người thực thi
nhiệm vụ, công vụ. Từ đó đặt ra vấn đề giải quyết tố cáo là trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước, kết quả giải quyết tốt sẽ phát huy dân chủ xã hội, đấu
tranh chống quan liêu tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan nhà nước, ổn
định và giữ vững nền chính trị, thúc đẩy kinh tế phát triển, trật tự, an toàn xã
hội, qua đó củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà
nước.
Trong những năm qua, việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố
cáo hành chính luôn được người đứng đầu các cấp, ngành của tỉnh Quảng
Ngãi đặc biệt quan tâm với mục tiêu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, làm
trong sạch bộ máy, cơ quan công quyền, đảm bảo minh bạch trong quá trình
thực thi quyền lực công. Hiện nay xu hướng các quốc gia trên thế giới là xây
dựng, hoàn thiện quy định pháp luật về tố cáo để từ đó tăng cường hiệu quả
công tác tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính trong đời
sống xã hội. Cùng chung mục đích đó và đặt trong bối cảnh nước ta đã ban
hành Luật Tố cáo năm 2018 thay thế Luật Tố cáo năm 2011, việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố
cáo hành chính cũng góp phần rất quan trọng, nhất là dưới góc độ nghiên cứu
từ thực tiễn của địa phương có tình hình tố cáo hành chính trong những năm
gần đây rất đáng lưu ý như tỉnh Quảng Ngãi.
2
Đối với địa phương tỉnh Quảng Ngãi, thời gian cùng với nhiệm vụ giải
quyết tốt tố cáo hành chính của công dân luôn là mục tiêu của toàn hệ thống
chính trị thì công tác tổ chức thực hiện pháp luật cũng luôn đã được các cấp
các ngành đặc biệt quan tâm, chú trọng. Tuy nhiên cùng với tình hình tố cáo
các hành vi vi phạm pháp luật càng ngày càng có chiều hướng gia tăng và
nhiều sức ép, thì một trong số những hạn chế là công tác tổ chức thực hiện
pháp luật vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, cụ thể: đội ngũ làm
công tác chưa được chú trọng, đầu tư đúng mức; cơ sở vật chất cho việc phổ
biến giáo dục pháp luật đến người dân, cán bộ, công chức, những người trực
tiếp làm công tác giải quyết tố cáo hành chính vẫn còn hạn chế, thiếu thốn...
Thực tiễn Việt Nam thời gian qua cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đã thường
xuyên chỉ đạo và không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà
nước về giải quyết tố cáo hành chính, bởi chỉ có nhận thức đúng đắn về vai
trò quan trọng của công tác này thì mới tạo động lực góp phần nâng cao
quyền dân chủ của Nhân dân.
Ở nước ta, mặc dù Luật Tố cáo đã được ban hành vào năm 2011 và sắp
tới đây là Luật sửa đổi năm 2018 có hiệu lực vào ngày 01/01/2018; Nghị định
số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Tố cáo; Thông tư số 05/2013/TT-TTCP ngày 29/7/2013
của Thanh tra Chính phủ quy định thẩm quyền, nội dung thanh tra trách
nhiệm thực hiện pháp luật về tố cáo; Thông tư số 06/2013/TT-TTCP ngày
30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết tố cáo cùng
nhiều văn bản pháp luật khác đã ghi nhận tương đối toàn diện về quyền và
nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong giải quyết tố cáo hành chính song khả
năng áp dụng còn nhiều hạn chế, nội dung điều chỉnh còn mang tính nguyên
tắc, khó áp dụng. Hơn nữa, việc cụ thể hóa công tác tổ chức thực hiện pháp
luật vẫn còn nhiều mơ hồ và mang chính chất chung chung.
3
Từ những phân tích trên cho thấy nghiên cứu đề tài “Tổ chức thực
hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ngãi” là cần thiết, từ đó thúc đẩy hiệu lực, hiệu quả của công tác, qua đó thiết
lập được mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề về giải quyết tố cáo hành chính nói chung và tổ chức thực hiện
pháp luật tố cáo hành chính nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của các tác
giả nghiên cứu trong các công trình khác nhau. Hiện nay đã có một số bài
viết, công trình nghiên cứu về giải quyết tố cáo, pháp luật giải quyết tố cáo và
tổ chức thực hiện pháp luật trong một số lĩnh vực trên thực tiễn, trong đó có
một số công trình sau:
- Nguyễn Hữu Tiến (2017), “Tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công
dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Lê Thị Sáu (2014), “Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa
bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội-Thực trạng và giải pháp”, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Linh (2014), “Thực thi pháp luật về giải quyết khiếu
nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Trần Ngân Hà (2013), “Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở
Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia (2017) “Hoàn thiện pháp luật về
khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện nay”, Sách chuyên khảo;
- Viện khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ (2012), “Khiếu nại, tố
cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện
nay”, Sách chuyên khảo;
4
Các công trình nghiên cứu khoa học đã hướng đến nghiên cứu về khung
pháp lý tố cáo; hoàn thiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính; tăng cường
tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước đối với việc tiếp công
dân, giải quyết tố cáo. Riêng đối với công tác tổ chức thực hiện pháp luật thì
đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực giáo dục pháp luật,
phổ biến giáo dục pháp luật... Tác giả đã nghiên cứu, học hỏi, tiếp thu một số
kết quả trong quá trình thực hiện đề tài về “Tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”. Tuy nhiên, nội dung
nghiên cứu trong các công trình nói trên chỉ mới dừng lại ở mức độ chung
nhất về giải quyết tố cáo hành chính trên một số địa bàn, đồng thời chưa nhiều
công trình nghiên cứu cụ thể về tổ chức thực hiện pháp luật tố cáo hành chính.
Có thể liệt kê các nội dung nghiên cứu như sau:
- Công tác giải quyết tố cáo của các cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo
các quyền công dân;
- Thủ tục giải quyết tố cáo hành chính;
- Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai và bồi thường, hỗ trợ, tái định
khi nhà nước giải phóng mặt bằng của các địa phương…
- Những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành Luật Tố cáo trên
thực tiễn đối với một số địa phương.
Tuy nhiên, hầu như vẫn chưa có đề tài nghiên cứu một cách hoàn chỉnh
về tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính của cả 03 cấp:
tỉnh, huyện, xã, đặc biệt là từ thực tiễn của tỉnh Quảng Ngãi để qua đó trở
thành công cụ hỗ trợ cho các cơ quan hành chính nhà nước trong công việc tổ
chức thực hiện pháp luật đến gần với cán bộ, công chức, viên chức và người
dân, từ đó nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước nói chung và công
tác giải quyết tố cáo hành chính, bảo vệ quyền hiến định của công dân. Hoặc
gần sát nhất đối với đề tài mà tác giả chọn là “Tổ chức thực hiện pháp luật về
tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh từ thực
5
tiễn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Hữu Tiến thì nội dung hướng
tới là pháp luật về tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh chứ không thiên về công tác tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố
cáo hành chính.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
về tổ chức pháp luật giải quyết tố cáo hành chính, đánh giá đúng thực trạng tổ
chức thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, tìm ra những ưu điểm, hạn chế
và nguyên nhân. Từ đó, đề xuất một số giải pháp phù hợp và khả thi nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo
hành chính hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận về tổ chức
thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính như: Khái niệm, đặc điểm
của tố cáo hành chính và giải quyết tố cáo hành chính; khái niệm, đặc điểm
pháp luật giải quyết tố cáo hành chính, nội dung, vai trò của pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính; phân tích, làm rõ những vấn đề liên quan việc tổ
chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính.
Hai là, phân tích đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, qua đó thấy được
những ưu điểm, hạn chế và tìm ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó.
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành
chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
6
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định tổ chức thực hiện pháp luật
thực định về giải quyết tố cáo hành chính nói chung, một số lĩnh vực cụ thể
nổi cộm trong thực tiễn và việc tổ chức thực hiện các quy định đó trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Nghiên cứu việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết
tố cáo sau khi Luật Tố cáo năm 2011 có hiệu lực, tập trung chủ yếu vào giai
đoạn từ 2014 đến 2017.
+ Về không gian: Nghiên cứu về thực tiễn tổ chức pháp luật giải quyết
tố cáo hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền tố cáo của công dân và giải quyết tố cáo của công dân; chủ trương,
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức thực hiện pháp luật
giải quyết tố cáo hành chính nói chung và của các cơ quan hành chính Nhà
nước nói riêng, về yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn, tác giả luận văn sử dụng
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, so sánh, phương
pháp xã hội học, thống kê kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn,
chú trọng việc thu thập các số liệu từ các báo cáo thực tế về việc giải quyết tố
cáo hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7
- Luận văn là sự bổ sung cho các công trình nghiên cứu về pháp luật và
việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính của các cơ quan
hành chính.
- Với những nội dung đạt được, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là
tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, học tập đồng thời là tài liệu tham
khảo cho các cơ quan nhà nước trong việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật và tổ
chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo
hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao tổ chức thực hiện pháp
luật giải quyết tố cáo hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
8
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT GIẢI QUYẾT TỐ CÁO HÀNH CHÍNH
1.1. Giải quyết tố cáo hành chính và pháp luật giải quyết tố cáo hành
chính
1.1.1. Tố cáo hành chính và giải quyết tố cáo hành chính
Khoản 1, 2 và 3 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 định nghĩa tố cáo nói
chung là việc công dân theo thủ tục do Luật Tố cáo quy định báo cho cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Và
trên cơ sở đó nêu định nghĩa đối với tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ, công
chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ và tố cáo hành vi vi phạm
về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
Về chủ thể: Chủ thể tố cáo là công dân, có tên tuổi, địa chỉ rõ ràng,
người bị tố cáo cũng phải có tên tuổi, địa chỉ, nội dung tố cáo phải chỉ rõ hành
vi bị tố cáo. Người tố cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung
tố cáo của mình, trường hợp tố cáo sai sự thật thì tùy theo mức độ có thể bị xử
lý về hành chính hoặc hình sự; việc tố cáo được thực hiện bằng đơn hoặc tố
cáo trực tiếp. Công dân có quyền tố cáo khi phát hiện hành vi vi phạm pháp
luật dù thuộc lĩnh vực dân sự hay hành chính.
Việc phân loại, xử lý, giải quyết: tố cáo phải tuân theo trình tự, thủ tục
do Luật Tố cáo, Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính
phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tố cáo và Thông tư số
06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ Quy định quy
trình giải quyết tố cáo.
9
Về thời hạn giải quyết: Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày; 90 ngày
đối với vụ việc phức tạp kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo, kể từ ngày thụ lý
giải quyết tố cáo. Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố
cáo có thể gia hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày, đối với vụ
việc phức tạp thì không quá 60 ngày.
Về hệ quả pháp lý: Tố cáo chỉ phát sinh quan hệ pháp lý khi công dân trực
tiếp hoặc gửi đơn tố cáo đến cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi phát hiện hành
vi vi phạm. Nếu công dân không tố cáo dù đã phát hiện ra hành vi vi phạm pháp
luật thì cũng không phải chịu bất kỳ hình thức xử lý nào.
Riêng đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự giải quyết theo quy định của pháp luật về tố
tụng hình sự (khoản 3 Điều 31 Luật Tố cáo năm 2011).
Phân biệt tố cáo hành chính với tố giác tội phạm:
Theo khoản 1 Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì tố giác
về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm
với cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy, ở một khía cạnh nào đó có thể hiểu tố giác về tội phạm là tố
cáo hành vi phạm tội, nếu hiểu theo cách này thì nội hàm tố cáo đã bao hàm
cả tố giác. Tố cáo và tố giác có những điểm khác biệt nhất định, đó là: Tố cáo
thì không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm còn tố giác chỉ bao gồm hành
vi vi phạm pháp luật có thể cấu thành tội phạm đã được quy định trong Bộ
luật Hình sự; Tố cáo là quyền của công dân, còn tố giác vừa là quyền, vừa là
nghĩa vụ của công dân; Quan hệ pháp luật về tố cáo chỉ phát sinh khi công
dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật tố giác thì phát sinh ngay
khi công dân biết về tội phạm; Công dân có quyền quyết định việc mình tố
cáo hay không hành vi vi phạm pháp luật, nhưng bắt buộc phải tố giác nếu đã
biết rõ về một tội phạm đang chuẩn bị hoặc đã được thực hiện và có thể bị
10
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội: “Không tố giác tội phạm” theo quy định
của Bộ luật Hình sự, nếu biết mà không tố giác.
Nắm được điểm khác nhau giữa tố cáo và tố giác để từ đó người tố cáo,
người tố giác nắm được bản chất sự việc đi đến quyết định làm đơn loại gì. Cá
nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn tố cáo, tố giác có thể tiết
kiệm được thời gian khi phân loại đơn, chuyển chính xác đến các cơ quan, cá
nhân thẩm quyền để giải quyết, tránh giải quyết nhầm, xảy ra sai sót.
Giải quyết tố cáo hành chính
Hiến pháp năm 2013 và khoản 7 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 đã xác
định tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn,
trình tự, thủ tục theo quy định. Giải quyết tố cáo hành chính là việc kiểm tra,
xác minh, kết luận về tính hợp pháp của hành vi bị tố cáo thuộc thẩm quyền
giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước trên nguyên tắc phải bảo đảm kịp
thời, chính xác, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn
theo quy định của pháp luật, bảo đảm an toàn cho người tố cáo nhằm từ đó có
biện pháp giải quyết theo quy định pháp luật từ đó bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.1.2. Pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
1.1.2.1.1. Khái niệm pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
Pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo hành chính là tổng hợp các quy
tắc xử sự chung có tính bắt buộc do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh việc
tố cáo hành vi vi phạm pháp luật (không phải là tội phạm) của cơ quan, tổ
chức, cá nhân và việc giải quyết tố cáo đó của cơ quan hành chính nhà nước
có thẩm quyền, được bảo đảm bằng hình thức cưỡng chế của Nhà nước.
1.1.2.1.2. Đặc điểm của pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
11
Thứ nhất, về nội dung: pháp luật giải quyết tố cáo hành chính quy định
quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo và người giải quyết tố cáo;
xác định thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước; quy
định thủ tục đối với việc tố cáo hành chính và giải quyết tố cáo hành chính;
quy định việc xử lý các hành vi vi phạm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
quá trình thực hiện quyền tố cáo, giải quyết tố cáo; quy định về trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong công tác giải quyết tố cáo.
Thứ hai, về vai trò: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và công dân cũng như lợi ích của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; là
phương thức tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.2. Nội dung pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
1.1.2.2.1. Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành chính
Thẩm quyền giải quyết tố cáo được quy định tại Mục 1 Chương III
Luật Tố cáo năm 2011 là vấn đề trọng tâm của Luật Tố cáo, quy định về thẩm
quyền giải quyết tố cáo thể hiện quan điểm của Nhà nước khi xử lý vấn đề
này; tạo cơ sở pháp lý cho toàn bộ quá trình giải quyết tố cáo.
Thứ nhất, về nguyên tắc xác định thẩm quyền, Điều 12 Luật Tố cáo quy
định giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công
chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ như sau:
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công
vụ (hành vi vi phạm) của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải
quyết. Riêng tố cáo hành vi vi phạm của người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực
tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.
12
- Tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm
quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức
trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo phối hợp với các cơ
quan, tổ chức có liên quan giải quyết.
- Tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu
tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật
về tố tụng hình sự.
Việc giải quyết cụ thể trong các trường hợp ở các cấp chính quyền
được các điều luật của Luật Tố cáo quy định:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã có thẩm quyền giải quyết
đối với tố cáo hành vi của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp.
- Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi
phạm của Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã, người đứng đầu, cấp phó của
người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và cán bộ, công
chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có thẩm
quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm của người đứng đầu, cấp phó của
người đứng đầu cơ quan chuyên môn trực thuộc cơ quan mình và cán bộ,
công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi của
Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp huyện, người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và cán bộ, công chức do
mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Tổng cục trưởng, Cục trưởng và cấp tương đương được phân cấp quản
lý cán bộ, công chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm của
người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu đơn vị thuộc Tổng cục, Cục và
cấp tương đương, cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
13
- Bộ trưởng có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm của người
đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và cán bộ,
công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
- Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi
phạm của Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch, Phó Chủ
tịch UBND cấp tỉnh và cán bộ, công chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực
tiếp.
- Ngoài ra, người đứng đầu cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền
giải quyết tố cáo hành vi vi phạm của công chức do mình bổ nhiệm, quản lý
trực tiếp. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị-xã hội thì trách nhiệm thuộc về người đứng đầu đơn vị, tổ chức đó.
Đối với giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý
nhà nước trong các lĩnh vực thì Điều 31 Luật Tố cáo quy định nguyên tắc xác
định thẩm quyền như sau:
- Tố cáo hành vi vi phạm của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà nội dung liên
quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách
nhiệm giải quyết. Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm thuộc
phạm vi quản lý được giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của
nhiều cơ quan thì các cơ quan có trách nhiệm phối hợp để xác định thẩm quyền
giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định giao cho
một cơ quan chủ trì giải quyết; tố cáo có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết
của nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết.
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan
tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
14
1.1.2.2.2. Đối tượng của giải quyết tố cáo hành chính
Đối tượng của việc giải quyết tố cáo hành chính là hành vi vi phạm
pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
cơ quan, tổ chức. Có thể hiểu bất cứ hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ,
công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm
pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đều là đối tượng của việc
giải quyết tố cáo khi có phát sinh tố cáo, để từ đó bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
1.1.2.2.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo hành chính
Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo hành chính được tiến hành qua nhiều
giai đoạn, mỗi giai đoạn có nhiệm vụ riêng mang tính đặc thù về phạm vi hoạt
động giải quyết, do đó trong mỗi giai đoạn cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan tư pháp có thẩm quyền lại thực hiện theo những trình tự, thủ tục khác
nhau. Các giai đoạn này có tính độc lập tương đối, đồng thời có quan hệ
khắng khít và mật thiết với nhau, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau,
ngược lại kết quả của giai đoạn sau lại là sự kiểm chứng tính đúng đắn của
giai đoạn trước và tất cả các giai đoạn này hợp thành một quy trình giải quyết
tố cáo. Quy trình giải quyết tố cáo hành chính được hiểu là cách thức tiến
hành một chuỗi những hoạt động tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo, xác minh
nội dung tố cáo, kết luận, xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo và công
khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo,
được thực hiện theo trình tự nhất định do các quy phạm pháp luật về tố cáo
quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo và người bị
tố cáo.
Một là, tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo: Khi nhận được tố cáo, người
giải quyết tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý thông tin, nếu xác định
15
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn luật định, người giải
quyết tố cáo phải tổ chức việc kiểm tra, xác minh về họ tên, địa chỉ của người
tố cáo và các nội dung khác theo quy định; ban hành quyết định thụ lý giải
quyết tố cáo và thông báo bằng văn bản về việc thụ lý tố cáo.
Hai là, xác minh nội dung tố cáo: Người giải quyết tố cáo có trách
nhiệm tiến hành hoặc giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân xác minh nội dung
tố cáo; Trong trường hợp cần thiết thì làm việc trực tiếp với người tố cáo;
Phải làm việc trực tiếp với người bị tố cáo; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị,
cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội
dung tố cáo; Thu thập, xử lý thông tin, tài liệu, bằng chứng liên quan đến nội
dung tố cáo; Xác minh thực tế, nếu xét thấy cần thiết thì tiến hành trưng cầu
giám định. Tất cả các công việc trên sẽ được ghi nhận bằng báo cáo kết quả
xác minh nội dung tố cáo.
Ba là, kết luận nội dung tố cáo: Căn cứ vào nội dung tố cáo, văn bản
giải trình của người bị tố cáo, kết quả xác minh nội dung tố cáo, tài liệu,
chứng cứ có liên quan, người giải quyết tố cáo phải kết luận bằng văn bản về
nội dung tố cáo.
Bốn là, xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo: Sau khi có kết luận nội
dung tố cáo, tùy mức độ vi phạm mà người giải quyết tiến hành xử lý cụ thể.
Năm là, công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi
phạm bị tố cáo: Người giải quyết tố cáo có trách nhiệm công khai kết luận nội
dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo bằng một trong các
hình thức như: Công bố tại cuộc họp, niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi
tiếp công dân cơ quan, tổ chức đã giải quyết tố cáo, quyết định xử lý hành vi
vi phạm bị tố cáo; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
1.1.2.3. Vai trò của pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
16
Pháp luật nói chung và pháp luật giải quyết tố cáo hành chính nói riêng
là công cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của
xã hội. Quyền tố cáo đã được sớm ghi nhận tại Hiến pháp và trở thành một
trong những quyền cơ bản của công dân. Thực hiện quyền tố cáo là phương
thức để nhân dân giám sát và tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà
nước. Vì vậy, giải quyết tố cáo là bảo đảm quyền dân chủ nhân dân, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phòng chống các hành vi tham nhũng,
tiêu cực, góp phần phát triển kinh tế-xã hội. Pháp luật giải quyết tố cáo hành
chính là công cụ góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tố chức, cá nhân, ổn định tình hình kinh tế xã hội. Cụ thể
hóa tinh thần của Hiến pháp, Quốc hội ban hành Luật Tố cáo, và để các quy
định của Luật Tố cáo được thực thi có hiệu quả trong đời sống, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, như:
Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo; Thông tư số 05/2013/TT-TTCP
ngày 29/7/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định thẩm quyền, nội dung
thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về tố cáo; Thông tư số 06/2013/TT-
TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết
tố cáo.
1.2. Lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
1.2.1. Thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật [9, tr411- 413] là quá trình hoạt động có mục đích
mà các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các quy định pháp
luật trong thực tế đời sống. Có 04 hình thức thực hiện pháp luật, gồm:
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện những qui phạm
pháp luật mang tính chất ngăn cấm bằng hành vi thụ động, trong đó các chủ
thể pháp luật kiềm chế không làm những việc mà pháp luật cấm.
17
Thứ hai, thi hành pháp luật: là hình thức thực hiện những qui định trao
nghĩa vụ bắt buộc của pháp luật một cách tích cực trong đó các chủ thể thực
hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành động tích cực.
Thứ ba, sử dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện những qui định về
quyền chủ thể của pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật chủ động, tự mình
quyết định việc thực hiện hay không thực hiện điều mà pháp luật cho phép.
Thứ tư, áp dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho
các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định pháp luật hoặc chính hành vi
của mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để ra các quyết định làm
phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật.
1.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính của các cơ
quan hành chính
1.2.2.1. Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
của các cơ quan hành chính
Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật là
các yếu tố cấu thành cơ bản để duy trì sự tồn tại của đời sống pháp luật; đồng
thời, thể hiện sống động sự phân công quyền lực nhà nước theo các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước pháp quyền. Tổ chức thực hiện
pháp luật được hiểu là bằng phương pháp phù hợp biến pháp luật từ quy định
đi vào đời sống của xã hội thông qua việc tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp
dụng của các chủ thể. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong cuộc sống
chủ yếu thuộc về trách nhiệm và là chức năng của cơ quan hành pháp. Đó là
quá trình hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực (con người, tổ chức bộ máy, cơ
sở vật chất thực hiện từng văn bản pháp luật) bảo đảm sẵn sàng, phù hợp ngay
từ khi tổ chức học tập, quán triệt, vận dụng để mọi hành vi ứng xử của các
chủ thể đều phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan.
18
Như vậy, tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính
được hiểu là việc lên kế hoạch, sắp xếp các hoạt động và phân công trách
nhiệm rõ ràng, sắp xếp các hoạt động và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ
thể cho các chủ thể là các cơ quan nhà nước, trong việc thực hiện các hoạt
động đó, đồng thời, sử dụng toàn bộ những yếu tố, phương tiện, công cụ và
những điều kiện cần thiết được xác lập, tổ chức và sử dụng vào quá trình đưa
pháp luật giải quyết tố cáo hành chính vào cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật
giải quyết tố cáo hành chính được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống
nhất và hiệu quả trong thực tế.
Tổ chức thực hiện pháp luật tố cáo hành chính trải qua 04 giai đoạn
gồm: Xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính Phổ biến, giáo dục pháp luật giải quyết tố cáo
hành chính Vận dụng pháp luật giải quyết tố cáo hành chính trong thực tế
Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật giải quyết tố cáo hành chính.
1.2.2.2. Đặc điểm tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
của các cơ quan hành chính
Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính chủ
yếu thuộc về trách nhiệm và là chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước
còn được gọi là hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành hoặc cơ quan hành
chính nhà nước cụ thể là Chính phủ, Bộ và các cơ quan ngang Bộ, chính
quyền địa phương các cấp cùng với các cá nhân có thẩm quyền trong các cơ
quan hành chính nhà nước. Hoạt động trọng tâm của tổ chức thực hiện pháp
luật giải quyết tố cáo hành chính là quá trình hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn
lực bao gồm con người, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất thực hiện từng văn
bản pháp luật để bảo đảm sẵn sàng, phù hợp ngay từ khi tổ chức học tập, quán
triệt, vận dụng để mọi hành vi ứng xử của các chủ thể đều phù hợp với quy
định của pháp luật có liên quan.
19
Như vậy, tổ chức thực hiện pháp luật đóng vai trò quan trọng, đảm bảo
cho pháp luật đi vào đời sống xã hội. Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết
tố cáo hành chính của các cơ quan hành chính là nhiệm vụ hàng đầu, góp
phần vào việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân đối với Nhà nước, qua
việc tố cáo các hành vi vi phạm trong công tác quản lý nhà nước cũng như
quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức đã kịp
thời chấn chỉnh, xử lý các hiện tượng tiêu cực làm ảnh hưởng đến niềm tin
của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, làm tốt nhiệm vụ tổ chức thực hiện
pháp luật giải quyết tố cáo khẳng định được vị trí, vai trò của cơ quan hành
chính nhà nước.
Nội dung của tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
gồm tổ chức thực hiện quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của các tổ chức,
cá nhân trong giải quyết tố cáo hành chính; tổ chức thực hiện các quy định
pháp luật về điều kiện bảo đảm việc tố cáo và giải quyết tố cáo hành chính; tổ
chức thực hiện quy định pháp luật về quản lý nhà nước về giải quyết tố cáo
hành chính.
1.2.2.3. Yêu cầu của tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
của các cơ quan hành chính
Trước hết, tổ chức thực hiện pháp luật phải đạt được các mục tiêu chính
sách bởi bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào được ban hành đều
hướng tới những mục tiêu nhất định, chẳng hạn, việc ban hành quy định về
nghĩa vụ bảo vệ người tố cáo nhằm đảm bảo cho công dân an tâm trong việc
thực hiện quyền của mình mà không có bất kỳ hành vi nào cản trở, đe dọa
tính mạng, danh dự, nhân phẩm của họ. Khi các văn bản quy phạm pháp luật
có hiệu lực, yêu cầu đặt ra đối với việc tổ chức thực hiện văn bản này là phải
đạt được những mục tiêu chính sách khi ban hành văn bản. Đây là tiêu chí cơ
bản nhất để đánh giá việc thực hiện pháp luật, vì nếu không đạt được những
20
mục tiêu chính sách đặt ra thì các quy phạm pháp luật cũng không có giá trị
thực tế. Chính vì vậy, hiệu quả thực hiện pháp luật trên thực tế là thước đo
chính xác nhất đối với một văn bản quy phạm pháp luật.
Đặc biệt, trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật nhưng không đạt được những mục tiêu đã định
sẽ làm giảm tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật, và có thể dẫn tới việc
làm giảm ý thức tuân thủ pháp luật của người dân, vốn là một trong những
yếu tố cản trở lớn nhất đối với hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật.
Tiếp theo, chi phí tổ chức thực hiện pháp luật phải hợp lý. Thực tế cho
thấy, để đạt được một mục tiêu chính sách nào đó, có thể có nhiều phương
pháp, cách thức tổ chức thực hiện khác nhau. Tuy nhiên, nguồn lực của một
quốc gia lại có giới hạn. Do vậy, một trong những yêu cầu cơ bản đặt ra đối
với việc tổ chức thực hiện pháp luật là chi phí thực hiện phải ở một mức độ
hợp lý. Song, cũng cần lưu ý là chi phí tổ chức thực hiện ở đây phải được xem
xét trên tổng thể toàn xã hội chứ không chỉ giới hạn trong khoản chi phí tổ
chức thực hiện do Nhà nước bỏ ra.
Để đánh giá mức độ hợp lý của chi phí tổ chức thực hiện pháp luật, người ta
thường áp dụng nhiều cách thức khác nhau. Thông thường, có ba hình thức
đánh giá chi phí phổ biến là: Phân tích chi phí - lợi ích; Phân tích chi phí -
hiệu suất; Phân tích chi phí nhỏ nhất. Việc đặt ra yêu cầu xem xét đến yếu tố
chi phí trong việc tổ chức thực hiện pháp luật có ý nghĩa rất lớn đối với việc
thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Bên cạnh đó, phải đảm bảo tôn trọng quyền con người: Đảm bảo thật
sự các quyền và tự do của con người là nhiệm vụ, chức năng và phương
hướng hoạt động thường xuyên của Nhà nước pháp quyền. Các quyền và tự
do của con người là các giá trị tinh thần cao quý nhất được thừa nhận chung
của nền văn minh nhân loại, có cội nguồn xã hội và tư tưởng từ rất lâu đời
21
trong quá trình phát triển của lịch sử. Đó là khát vọng, là mục tiêu và phần
nào là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ của nhân loại để chống lại
các chế độ chuyên chế và cực quyền. Trong Nhà nước pháp quyền, việc xây
dựng pháp luật cũng như thực hiện pháp luật đều phải đảm bảo nguyên tắc tôn
trọng quyền con người. Các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật phải đáp
ứng những nguyên tắc cơ bản của quyền con người.
Tiếp đến, tổ chức thực hiện pháp luật phải phù hợp với các quy định
của hệ thống pháp luật. Trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, yêu cầu tôn
trọng pháp luật cũng là một trong những yêu cầu cơ bản. Mặc dù các cơ quan
nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật có thể được trao những
khoảng không gian nhất định để thực hiện công việc nhằm đảm bảo việc thực
hiện pháp luật có tính linh hoạt, phù hợp với các tình huống trên thực tế,
nhưng tất cả mọi quyền hạn đó đều phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và
phải được pháp luật trao quyền. Ở đây, yêu cầu Nhà nước chỉ được thực hiện
những gì pháp luật cho phép càng được nhấn mạnh. Nói cách khác, việc tổ
chức thực hiện pháp luật phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhất định và
phải có tính thống nhất với tổng thể hệ thống pháp luật. Tổ chức thực hiện
pháp luật trong Nhà nước pháp quyền không được tuỳ tiện hoặc ngẫu nhiên,
mà phải tuân theo các tiêu chuẩn đã định.
Đảm bảo tính thống nhất với tổng thể hệ thống pháp luật trong việc tổ
chức thực hiện pháp luật cũng chính là sự đảm bảo nguyên tắc về tính thứ bậc
của hệ thống pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật phải tuân thủ Hiến pháp
cũng như các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn. Hiến
pháp và Luật thể hiện một cách tập trung ý chí và lợi ích cơ bản nhất của nhân
dân trên các lĩnh vực, các vấn đề quan trọng của đời sống nhà nước và đời
sống xã hội. Đây là những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất do Quốc hội
hay cơ quan lập pháp ban hành. Ngoài ra, trong một số trường hợp, các văn
22
bản dưới luật có thể được ban hành để chi tiết hoá các quy định của Hiến pháp
và luật. Đặc biệt, trong khá nhiều trường hợp, việc quy định về tổ chức thực
hiện pháp luật lại thường được uỷ quyền cho văn bản dưới luật quy định.
Chính vì vậy, trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, nguyên tắc tôn trọng
tính thống nhất của hệ thống pháp luật, hay ở một góc độ xa hơn là tôn trọng
tính thứ bậc của hệ thống pháp luật, càng phải được nhấn mạnh.
Ngoài ra, tổ chức thực hiện pháp luật phải đảm bảo sự công bằng, bình
đẳng, nhất quán và nghiêm minh, bởi pháp luật bản thân nó là những đại
lượng bình quyền và phổ biến. Việc tổ chức thực hiện pháp luật cũng đòi hỏi
phải đảm bảo tuyệt đối yêu cầu về sự công bằng, bình đẳng, nghiêm minh và
nhất quán, mà trước hết thể hiện ở tính nhất quán trong thái độ cư xử mà Nhà
nước dành cho các chủ thể khác nhau trong tình huống pháp lý giống nhau.
Trong Nhà nước pháp quyền, chỉ có một hệ thống pháp luật cho tất cả thành
viên trong xã hội, không phân biệt người giàu hay người nghèo, nam hay nữ,
sang hay hèn, người lãnh đạo quốc gia hay người dân thường... Mặt khác,
pháp luật là chuẩn mực cao nhất và không thể bị lấn át bởi bất kỳ chuẩn mực
nào khác trong việc chi phối hành vi xã hội của công dân. Đảm bảo sự công
bằng, bình đẳng, nhất quán và nghiêm minh trong tổ chức thực hiện pháp luật
là yếu tố cần thiết để bảo đảm ý thức tuân thủ pháp luật của người dân.
Cuối cùng là tổ chức thực hiện pháp luật phải công khai, minh bạch.
Yêu cầu công khai, minh bạch được hiểu là sự rõ ràng, rành mạch, ai cũng có
thể tiếp cận, ai cũng có thể hiểu. Trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, công
khai, minh bạch được thể hiện thông qua việc công khai, minh bạch chính
sách, pháp luật cũng như cách thức tổ chức thực hiện chính sách pháp luật trừ
những nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định
của pháp luật. Nghĩa vụ công khai, minh bạch hoạt động của bộ máy nhà
nước gắn liền với việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân tiếp cận các thông
23
tin về hoạt động của bộ máy nhà nước một cách dễ dàng. Sự thông suốt về
mặt thông tin là điều kiện để việc tổ chức thực hiện pháp luật được hiệu quả.
Đơn giản nhất, những thông tin về các chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực
hiện pháp luật, địa điểm, thời gian tổ chức công việc cũng đã là những thông
tin hữu ích giúp cho việc tổ chức thực hiện pháp luật trở nên dễ dàng hơn.
1.2.3. Các yếu tố tác động đến tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố
cáo hành chính của các cơ quan hành chính
Một là, chính sách, pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính: Mỗi vấn
đề chính sách, pháp luật có tác động trực tiếp đến cách giải quyết vấn đề và tổ
chức thực hiện trên thực tế. Nếu chính sách, pháp luật đơn giản, liên quan đến
ít đối tượng thì công tác tổ chức thực hiện sẽ thuận lợi hơn nhiều so với các
vấn đề phức tạp có quan hệ lợi ích với nhiều đối tượng trong xã hội. Tính chất
cấp bách của chính sách, pháp luật tác động rất lớn đến kết quả tổ chức thực
hiện. Nếu là vấn đề bức xúc cần được giải quyết ngay mới giúp cho đối tượng
phát triển theo mục tiêu định hướng, thì sẽ được nhà nước và xã hội ưu tiên
các nguồn lực thực hiện. Tính chất của vấn đề của chính sách, quy định về
pháp luật giải quyết tố cáo hành chính là yếu tố khách quan có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc tổ chức thực hiện pháp luật tố cáo hành chính trên thực tế nhanh
hay chậm, thuận lợi hay khó khăn...
Ngoài ra, đối với công tác tổ chức thực hiện pháp luật về tố cáo hành
chính thì quy trình thực hiện phải được chú trọng, việc tuân thủ quy trình
cũng là một nguyên tắc hành động của hoạt động quản lý nhà nước. Mỗi bước
trong quy trình đều có vị trí, ý nghĩa to lớn đối với quá trình tổ chức thực hiện
pháp luật, ví dụ như tuyên truyền, vận động về chính sách pháp luật và việc
thực thi, trước hết chính sách và pháp luật phải được phổ biến rộng rãi đến
mọi đối tượng để họ nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của mục tiêu chính sách,
pháp luật của Nhà nước, đồng thời cũng thấy được lợi ích mang lại từ chính
24
sách, pháp luật. Qua đó củng cố thêm lòng tin của mọi người vào chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Sau khi làm rõ lợi ích của chính sách, pháp luật đối
với đời sống xã hội, các cơ quan nhà nước tiếp tục vận động các đối tượng
tích cực thực hiện chính sách. Kết hợp các hoạt động tuyên truyền, phổ biến
chính sách với vận động thực thi sẽ giúp cho các đối tượng nêu cao tinh thần
tự nguyện, tự giác trong việc thực hiện pháp luật. Từ đó tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật trên thực tế.
Hai là, ý thức pháp luật và khả năng tiếp nhận pháp luật của người dân:
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan
niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với
pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự
đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con
người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các
tổ chức xã hội. Ý thức pháp luật gồm: sự hiểu biết về pháp luật; thái độ đối
với pháp luật; khả năng thực hiện và áp dụng pháp luật. Thông qua ý thức
pháp luật, các chủ thể tham gia tổ chức thực hiện pháp luật sẽ thể hiện được
vai trò, trách nhiệm của mình và qua đó đạt được hiệu quả như yêu cầu đặt ra.
Cần tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của người dân vì đây là yếu tố có vai
trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự tồn tại của pháp luật, chính sách. Mục
tiêu của chính sách, pháp luật là làm thay đổi trạng thái kinh tế, xã hội hiện tại
theo nhu cầu của đời sống xã hội. Đây là vấn đề lớn, cần có sự đóng góp sức
người, sức của trong một thời gian đủ để các yếu tố cấu thành trạng thái kinh
tế-xã hội vận động phát triển lên một trình độ cao hơn, làm thay đổi được về
chất của xã hội. Vì thế việc thực hiện các mục tiêu chính sách không thể chỉ
do các cơ quan quản lý nhà nước, mà phải có sự tham gia của mọi tầng lớp
nhân dân trong xã hội. Trên thực tế, các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm
chỉ đạo, điều hành công tác tổ chức thực thi chính sách, pháp luật, còn các
25
tầng lớp nhân dân là những đối tượng thực hiện. Như vậy, nhân dân vừa là
người trực tiếp tham gia hiện thực hóa mục tiêu chính sách, vừa trực tiếp thụ
hưởng những lợi ích mang lại từ chính sách, pháp luật. Đối với công tác tổ
chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính, việc công dân nắm
vững được các chính sách, pháp luật và theo dõi được tình hình hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước sẽ góp phần thúc đẩy việc thực hiện quyền
của mình một cách trọn vẹn, đạt được hiệu quả như mong muốn.
Ba là, yếu tố nguồn lực của chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính. Cần quan tâm đến năng lực thực thi pháp luật, chính
sách, vì đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện.
Năng lực thực thi của cán bộ, công chức là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí
phản ánh về đạo đức công vụ, về năng lực thiết kế tổ chức, năng lực thực tế,
năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động ứng phó được với những tình
huống phát sinh trong tương lai... Các cán bộ, công chức trong cơ quan hành
chính khi được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật, cần nêu cao tinh
thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ luật công vụ thì mới đạt hiệu quả trong
công tác. Tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật được thể hiện trong thực tế
thành năng lực. Đây là một yêu cầu rất quan trọng đối với mỗi cán bộ, công
chức để thực hiện việc đưa pháp luật giải quyết tố cáo hành chính của Nhà
nước vào cuộc sống. Nếu thiếu năng lực thực tế, các cơ quan có thẩm quyền
tổ chức thực hiện pháp luật sẽ đưa ra những kế hoạch dự kiến không sát thực
tế, làm lãng phí nguồn lực huy động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của chính
sách, thậm chí còn làm biến dạng chính sách, pháp luật trong quá trình tổ
chức thực hiện... Năng lực thực tế và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức
còn thể hiện ở thủ tục giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa các cơ quan
nhà nước với cá nhân và tổ chức trong xã hội. Nhìn chung cán bộ, công chức
có năng lực thực hiện tốt, không những chủ động điều phối được các yếu tố
26
chủ quan tác động theo định hướng, mà còn khắc phục những ảnh hưởng tiêu
cực của các yếu tố khách quan để công tác tổ chức thực hiện mang lại hiệu
quả thật sự. Bên cạnh đó, cần chuẩn bị tốt nhất các điều kiện vật chất để tổ
chức thực hiện pháp luật, bởi ngày càng có ý nghĩa quan trọng để cùng nhân
sự và các yếu tố khác thực hiện thắng lợi pháp luật của Nhà nước. Để quản lý
mọi mặt hoạt động trong điều kiện phát triển hiện nay, Nhà nước phải luôn
tăng cường các nguồn lực vật chất và nhân sự, trong đó nguồn lực vật chất
tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Việc đầu tư trang thiết bị kỹ thuật
và phương tiện hiện đại để hỗ trợ các quá trình quản lý của nhà nước hiện đã
trở thành một nguyên lý phát triển. Nếu các điều kiện vật chất kỹ thuật đáp
ứng được yêu cầu sẽ giúp cho tính khả thi của công tác tổ chức thực hiện pháp
luật giải quyết tố cáo hành chính luôn được tăng cường. Trong thực tế, nếu
thiếu các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật thì các cơ quan nhà nước khó có thể chuyển tải những nội dung
chính sách pháp luật đến với đối tượng một cách thường xuyên.
1.2.4. Điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo
hành chính
1.2.4.1. Các văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính phải
rõ ràng, đảm bảo tính hệ thống
Để đảm bảo tính khả thi của việc tổ chức thực hiện pháp luật thì trước
hết phải xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phải được tiến hành trên
cơ sở xác định rõ các vấn đề của cuộc sống và các mục tiêu chính sách rõ ràng
cần phải đạt đến. Xác định các mục tiêu của chính sách cũng chính là thiết lập
các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật về sau.
Qua đó, những hành vi của các chủ thể cần điều chỉnh sẽ được xác định với
những định hướng cụ thể. Với mục tiêu điều chỉnh các hành vi, các quy phạm
pháp luật phải xác định rõ các yếu tố của hành vi như: Ai? Thực hiện hành vi
27
gì? Thực hiện trong điều kiện nào? Đây chính là những thông tin cơ bản để
bản thân các chủ thể có trách nhiệm thực hiện pháp luật nắm bắt để tổ chức
thực hiện tốt trên thực tế của cuộc sống.
Mục đích của pháp luật là được ban hành để điều chỉnh các hành vi của
các chủ thể trong xã hội. Mong muốn của các nhà lập pháp là các khuôn mẫu
hành vi đó sẽ được các đối tượng tuân thủ. Tuy nhiên, các yêu cầu đặt ra đối
với hành vi cho dù có rất rõ ràng, thì trong nhiều trường hợp mong muốn đó
vẫn chưa hẳn đã được đáp ứng. Về cơ bản, những định hướng hành vi có thể
bị các đối tượng bị điều chỉnh bỏ qua nếu chúng không có những tác động
tích cực và phù hợp đến xu hướng hành vi của họ. Chính vì vậy, để tránh tình
trạng thiết kế những quy phạm không phù hợp, khó tổ chức thực hiện trên
thực tế, khi thiết kế các quy phạm, các yếu tố tác động đến hành vi của các
chủ thể rất cần được chú trọng.
1.2.4.2. Hiệu quả hoạt động của cơ quan tổ chức thực hiện phải được bảo
đảm
Một quy phạm pháp luật hoàn chỉnh ngoài việc quy định các yếu tố hành
vi của chủ thể cần tác động, còn có một loạt các yếu tố khác liên quan trong đó
bao gồm một cơ quan chịu trách nhiệm bảo đảm thực thi. Vai trò của cơ quan tổ
chức thực hiện pháp luật, hay chính xác hơn là cơ quan chịu trách nhiệm bảo
đảm thực hiện là rất quan trọng, đặc biệt là trong hoàn cảnh ý thức tuân thủ pháp
luật của các đối tượng có trách nhiệm thực hiện pháp luật chưa cao. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra là làm sao để phát huy vai trò của các cơ quan chịu trách nhiệm
đảm bảo thực thi pháp luật trong việc tổ chức thực hiện pháp luật. Vấn đề cơ
bản nhất cần lưu ý chính là yếu tố hành vi của các công chức, viên chức trực
tiếp chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ trong những cơ quan này.
Hiện nay, các quy định về trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật nói
chung và pháp luật giải quyết tố cáo hành chính nói riêng thuộc về các cơ
28
quan hay nói cách khác là tư cách của tập thể. Tuy nhiên, về cơ bản việc vận
hành của các tổ chức vẫn là do các thành viên đơn lẻ có ý thức và tư duy độc
lập thực hiện. Hành vi chung của tổ chức chỉ có thể được định hướng trong
khuôn khổ các quy định chung về hành vi được đặt ra đối với các thành viên
đơn lẻ của tổ chức. Do đó, việc xem xét các trở ngại trong việc tổ chức thực
hiện pháp luật thường tập trung vào hai vấn đề chính: các công chức, viên
chức của tổ chức chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện có tác động như thế nào
đối với việc thực hiện pháp luật? Và tại sao các công chức, viên chức đó ứng
xử theo hướng có vấn đề? Ở đây, các yếu tố tác động đến hành vi lại cần được
sử dụng để xác định các phương án tối ưu tác động đến hành vi tổ chức thực
hiện pháp luật. Trong các yếu tố này, những yếu tố quan trọng hàng đầu đối
với các công chức, viên chức chính là: Quy trình, năng lực và lợi ích.
Việc xác định một quy trình làm việc không rõ ràng đương nhiên sẽ dẫn đến
tình trạng việc tổ chức thực hiện công việc kém hiệu quả. Các công chức, viên
chức trong chuỗi quy trình ra quyết định của tổ chức nếu không rõ mình phải
làm gì, trong giai đoạn nào, các đầu vào, đầu ra đối với công việc của mình ra
sao thì rõ ràng hiệu quả công việc sẽ không đảm bảo hoặc thậm chí, quy trình
công việc không thể vận hành. Thực tế có nhiều trường hợp do thiếu các quy
định hướng dẫn về quy trình, thủ tục tiến hành công việc mà một số cơ quan
nhà nước đã từ chối tiếp nhận việc thực hiện các quy định của pháp luật.
Nội dung của các công việc cụ thể luôn đòi hỏi những người tổ chức thực
hiện có năng lực tương ứng. Chính vì vậy, năng lực của các công chức, viên
chức chịu trách nhiệm thực thi cũng là một yếu tố hết sức quan trọng. Nếu
năng lực của các công chức, viên chức có trách nhiệm không đáp ứng theo
đúng yêu cầu thì việc tổ chức thực hiện pháp luật rõ ràng bị ảnh hưởng. Do
đó, ngay từ trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, các nhà lập
pháp phải làm rõ các yêu cầu đối với năng lực của đội ngũ công chức, viên
29
chức có trách nhiệm thực hiện pháp luật với các câu hỏi như: các công việc
đòi hỏi mức độ chuyên môn như thế nào? Các công chức, viên chức hiện tại
có chuyên môn đó hay không? Nếu chưa thì cần được hỗ trợ ở mức độ nào?
Một vấn đề khác liên quan rất lớn đến động lực tổ chức thực hiện công việc
của các công chức, viên chức chính là lợi ích của các công chức, viên chức
trong quá trình tổ chức thực hiện. Các vấn đề như: thực hiện tốt công việc thì
công chức, viên chức có được đền bù xứng đáng hay không? Các công chức,
viên chức có những động cơ riêng nào trong quá trình tổ chức thực hiện pháp
luật hay không? Có bằng chứng cho thấy có sự xung đột về lợi ích nào không
của cán bộ, công chức trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật đem lại?...
đều có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật.
1.2.4.3. Có cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật chặt chẽ
Ở góc độ từng văn bản cụ thể, giám sát và đánh giá có rất nhiều ý nghĩa
đối với việc nâng cao hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật. Đó là
công cụ để kiểm soát việc thực hiện pháp luật và đặc biệt là để hạn chế sự lạm
quyền của các công chức, viên chức trong quá trình tổ chức thực thi các văn
bản quy phạm pháp luật. Giám sát và đánh giá cũng tạo ra áp lực để các cá
nhân, tổ chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật phải thực hiện theo
đúng trách nhiệm, tránh trường hợp chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ, và
cũng là công cụ để thu thập phản hồi nhằm điều chỉnh các quy định của văn
bản quy phạm pháp luật.
Thực tế cũng đã cho thấy có những bài học thành công trong việc tổ chức
thực hiện pháp luật nhờ thực hiện việc giám sát một cách chặt chẽ công tác tổ
chức thực hiện pháp luật.
Ở góc độ vĩ mô, cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật gắn liền với
cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh của quyền lực nhà nước.
30
Kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền được hiểu là một
hệ thống những cơ chế được thực hiện bởi Nhà nước và xã hội nhằm giữ cho
việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả. Kiểm soát quyền
lực nhà nước bao gồm kiểm soát phạm vi hoạt động của cơ quan nhà nước;
kiểm soát quá trình thông qua và sửa đổi Hiến pháp; kiểm soát tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước; kiểm soát những người thực thi quyền lực và
có thể kiểm soát từ bên ngoài và bên trong nhà nước. Kiểm soát từ bên ngoài
nhà nước là kiểm soát từ nhân dân và xã hội, kiểm soát từ bên trong là kiểm
soát do chính Nhà nước thực hiện. Trong hệ thống đó, trách nhiệm tổ chức
thực hiện pháp luật ở tầm vĩ mô của các cơ quan nhà nước sẽ được xác định
rõ ràng. Và đây cũng chính là động lực chính trị cơ bản nhất để vận hành có
hiệu quả hệ thống cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật.
1.2.4.4. Đảm bảo tính công khai và minh bạch
Công khai, minh bạch vừa là yêu cầu vừa là điều kiện để tổ chức thực
hiện pháp luật có hiệu quả. Đây cũng chính là yếu tố rất được coi trọng trong
Nhà nước pháp quyền.
Đảm bảo công khai, minh bạch trước hết được thể hiện ở việc công
khai các quy định về mặt nội dung, quy trình tổ chức thực hiện làm cơ sở để
tăng cường sự hiểu biết của người dân đối với việc tổ chức thực hiện pháp
luật. Sự hiểu biết pháp luật của những chủ thể tham gia vào quá trình thực
hiện pháp luật là điều kiện cơ bản nhất để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu
quả. Ngược lại, việc tuyên truyền, thông tin đầy đủ về nội dung của các quy
định pháp luật cũng như cách thức thực hiện pháp luật là yếu tố tạo nên thành
công trong việc tổ chức thực hiện một số văn bản luật.
Đảm bảo công khai, minh bạch tạo cơ hội cho các chủ thể trong xã hội
được tham gia phản biện về nội dung của các quy định pháp luật cũng như
cách thức tổ chức thực hiện các quy định đó. Tạo cơ hội để thu nhận các phản
31
biện sẽ giúp những cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện phát hiện
được những điểm bất cập trong quá trình thực hiện. Đó là những cơ sở quan
trọng để điều chỉnh, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc tổ chức thực
hiện pháp luật.
32
Tiểu kết chương 1
Tố cáo là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 2013 và
nhiều văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận, việc giải quyết tố cáo có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và nhân
dân, góp phần ổn định chính trị, xã hội, góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả
công tác quản lý nhà nước, từ đó tạo động lực cho sự phát triển.
Nội dung Chương này, tác giả luận văn đã nghiên cứu và hệ thống hóa
những vấn đề mang tính lý luận về tố cáo hành chính, giải quyết tố cáo hành
chính (đưa ra định nghĩa và xác định thẩm quyền, cơ chế, nội dung, nguyên
tắc, quy trình giải quyết tố cáo hành chính) và những lý luận về tổ chức thực
hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính để làm cơ sở cho việc phân tích
đánh giá thực trạng tố cáo, giải quyết tố cáo và tổ chức thực hiện pháp luật
giải quyết tố cáo hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở Chương 2. Từ đó,
đề xuất các giải pháp ở Chương 3 của luận văn này.
33
Chương 2:
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TỐ CÁO HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Giới thiệu chung về tình hình tỉnh Quảng Ngãi có liên quan đến việc
tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính
Quảng Ngãi là một tỉnh duyên hải miền Trung với diện tích tự nhiên 5.152,49 km2. Toàn bộ lãnh thổ của tỉnh trải dài theo hướng Bắc – Nam trong
khoảng 100km với chiều ngang theo hướng Đông – Tây hơn 60km, ứng với tọa
độ địa lý từ 14032’ đến 15025’ vĩ tuyến Bắc và từ 108006’ tới 109004’
kinh tuyến Đông, có ranh giới hành chính phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam với
đường ranh giới chung khoảng 60km; phía Tây giáp các tỉnh Gia Lai, Kon Tum
trên chiều dài 142km dựa lưng vào dãy Trường Sơn, phía Nam giáp tỉnh Bình
Định với chiều dài 70km, phía Đông giáp biển với chiều dài khoảng 130 km, dân
số gần 1,3 triệu người.
Về điều kiện tự nhiên, địa hình tỉnh Quảng Ngãi phân hóa theo chiều
Đông – Tây và tạo thành vùng: vùng đồng bằng ven biển ở phía đông và vùng
đồi núi rộng lớn chạy dọc phía tây với những đỉnh nhô cao trên 1.000m, đồi
núi chiếm tới gần 2/3 lãnh thổ của Quảng Ngãi. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp 4.522,25km2 (chiếm 87,77% diện tích đất tự nhiên); diện tích đất phi nông nghiệp 525,3km2 (chiếm 10,19% diện tích đất tự nhiên); diện tích đất chưa sử dụng 104,94km2 (chiếm 2,04% diện tích đất tự nhiên). Toàn tỉnh có
13 huyện và 01 thành phố; 166 xã, 09 phường và 09 thị trấn, được nêu trong
Bảng 2.1.
34
Bảng 2.1: Diện tích, dân số tỉnh Quảng Ngãi
Đơn vị
hành Đơn vị Dân số trung STT chính (xã, Hành chính Diện tích tự nhiên (km2) bình (người) phường,
thị trấn)
156,85 TP. Quảng Ngãi 1 23 249.840
466,22 Huyện Bình Sơn 2 25 178.689
243,10 Huyện Sơn Tịnh 3 11 96.777
206,29 Huyện Tư Nghĩa 4 15 129.835
Huyện Nghĩa Hành 234,40 5 12 91.112
214,01 Huyện Mộ Đức 6 13 127.809
372,88 Huyện Đức Phổ 7 15 144.272
422,50 Huyện Trà Bồng 8 10 31.494
338,46 Huyện Tây Trà 9 9 18.818
752,11 Huyện Sơn Hà 10 14 70.933
381,49 Huyện Sơn Tây 11 9 18.621
217,23 Huyện Minh Long 12 5 16.779
13 20 53.370 Huyện Ba Tơ 1.137,56
14 3 19.295 Huyện Lý Sơn 10,40
Tổng cộng 5.152,49 184 1.247.644
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015 của tỉnh Quảng Ngãi)
Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, có
khu kinh tế Dung Quất. Với vị trí thuận lợi, Quảng Ngãi được chú trọng trong
phát triển kinh tế xã hội của miền Trung- Tây Nguyên cũng như của đất nước.
Cơ cấu nền kinh tế thay đổi mạnh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng
sản phẩm quốc dân có tốc độ phát triển nhanh. Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi,
35
chỉ từ năm 2015 - 2017 đã có hơn 1.000 dự án, giá đất thị trường trên địa bàn
tỉnh ngày càng tăng. Nhu cầu sử dụng đất thì nhiều trong khi vốn đất đai có
hạn cùng với việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để phục vụ các dự án phát
triển kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng của tỉnh nên trong lĩnh vực đất đai phát
sinh nhiều vụ việc tố cáo. Bên cạnh đó, chính sách pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư, các vấn đề liên quan đến lĩnh vực môi trường, chính
sách xã hội vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phát sinh dẫn đến việc
công dân tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức
trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ hay trong công tác quản lý nhà
nước trong các lĩnh vực liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Cùng với đó là công tác quy hoạch phát triển đô thị, xây dựng nông
thôn mới được quan tâm. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục có bước
phát triển, an ninh chính trị được củng cố, tăng cường, giữ vững trật tự an
toàn xã hội. Chính quyền các cấp được kiện toàn, năng lực quản lý, điều hành
được nâng lên. Tình hình dân trí ở Quảng Ngãi ngày càng được chú trọng,
việc người dân được tiếp cận với pháp luật cũng như các thông tin liên quan
đến các lĩnh vực của đời sống góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về tố cáo hành chính ở
Quảng Ngãi nói riêng. Tình hình kinh tế-chính trị-xã hội của tỉnh ngày càng
biến chuyển đòi hỏi công tác tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan
hành chính nhà nước phải thay đổi theo để phù hợp và bắt kịp xu hướng. Qua
việc nắm rõ tình hình vị trí địa lý cũng như đặc trưng của địa phương, chính
quyền tỉnh Quảng Ngãi tìm ra được các giải pháp tối ưu, phù hợp đối với từng
địa bàn để triển khai công tác tổ chức thực hiện pháp luật, cụ thể như: đối với
vùng núi, biển đảo sẽ bố trí nguồn lực cả về vật chất lẫn con người sao cho
phù hợp với đặc điểm địa lý, dân số, từ đó có phương pháp thực hiện, đưa
pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính đến với người dân, để họ thuận tiện
36
thực hiện quyền công dân của mình. Bên cạnh đó, việc chính quyền nắm được
vững đặc điểm của địa phương để gắn nhiệm vụ chính trị của toàn hệ thống
với nhiệm vụ trọng tâm giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân. Cùng với
nhận thức của người dân trong công tác xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, toàn bộ xã hội đều chung tay góp công sức vào hoàn thiện
công tác quản lý nhà nước, quản lý toàn diện mọi mặt lĩnh vực của đời sống
xã hội.
2.2. Tình hình tố cáo hành chính và giải quyết tố cáo hành chính ở tỉnh
Quảng Ngãi
2.2.1. Tình hình tố cáo hành chính
Từ năm 2014 đến năm 2017, tình hình phát sinh tố cáo trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi có chiều hướng phát sinh tăng so với giai đoạn 2010-2013. Nội
dung tố cáo chủ yếu là trong lĩnh vực hành chính và cụ thể là tố cáo hành vi vi
phạm hành chính và tố cáo cán bộ, công chức, viên chức vi phạm pháp luật
trong thực thi nhiệm vụ, công vụ, trong đó 54,7% liên quan đất đai, 9,9% liên
quan chính sách xã hội, 6,4% liên quan môi trường và 29,1% khác. Cụ thể về
mặt nội dung, có thể xác định chủ yếu là tố cáo cán bộ, đảng viên lợi dụng
chức vụ quyền hạn để tham ô, nhận hối lộ, cố ý làm trái chính sách pháp luật
trong quá trình quản lý, sử dụng đất đai; trong sản xuất kinh doanh và cả
trong quá trình xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo; bao che, không xử lý vi
phạm của cấp dưới; ngoài ra là các tố cáo về mất dân chủ, không công bằng
trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, nhất là trong công tác cán bộ.
Tình hình tố cáo theo dõi qua từng năm cụ thể như sau:
- Năm 2014: Các cơ quan hành chính đã tiếp nhận 292 đơn tố cáo, nội
dung về lĩnh vực hành chính chiếm đa số với 168 đơn (chiếm 57,53%). Phân
37
tích nội dung qua tiếp công dân cho thấy có 103 vụ tố cáo (81 vụ trong lĩnh
vực hành chính, 22 vụ lĩnh vực tư pháp).
- Năm 2015: Các cơ quan hành chính trong tỉnh tiếp nhận 261 đơn tố
cáo, nội dung về lĩnh vực hành chính chiếm đa số với 172 đơn (chiếm 65,9%).
Phân tích nội dung qua tiếp công dân cho thấy: có 49 vụ tố cáo (36 tố cáo
trong lĩnh vực hành chính, 13 tố cáo lĩnh vực tư pháp).
- Năm 2016: Cơ quan hành chính các cấp tiếp nhận và xử lý 219 đơn tố
cáo. Về nội dung đối với tố cáo, chủ yếu vẫn là tố cáo về lĩnh vực hành chính
với 143 đơn (chiếm hơn 65%). Phân tích nội dung đối với tố cáo vẫn chủ yếu
là tố cáo trong lĩnh vực hành chính (37 vụ, chiếm 88% số vụ tố cáo phát sinh).
- Năm 2017: Các cơ quan hành chính trong tỉnh đã tiếp nhận, xử lý 256
đơn tố cáo, chủ yếu vẫn là tố cáo về lĩnh vực hành chính với 154 đơn (chiếm
60,2%). Phân tích nội dung các cơ quan hành chính trong tỉnh tiếp nhận 100
vụ tố cáo. Về nội dung tố cáo phát sinh qua tiếp công dân cho thấy tố cáo
chủ yếu đối với lĩnh vực hành chính chiếm đa số (78 vụ, chiếm 78% số vụ tố
cáo phát sinh).
Qua các báo cáo hàng năm về công tác khiếu nại, tố cáo của Ủy ban
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thì từ năm 2014 đến năm 2017, tổng số vụ việc tố
cáo phát sinh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thuộc thẩm quyền của các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước là 214 vụ; tỷ lệ giải quyết đạt bình quân 89,72%.
Qua giải quyết tố cáo cho thấy trong 192 vụ đã giải quyết, có 61 vụ tố cáo
đúng, chiếm tỷ lệ 31,77%; 102 vụ tố cáo sai, chiếm tỷ lệ 53,13%; 29 vụ tố cáo
đúng một phần, chiếm 15,1%.
38
* Tình hình phát sinh tố cáo trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014-
30
25
20
Năm 2104
Năm 2015
15
Năm 2016
10
Năm 2017
5
0
vụ việc thuộc thẩm quyền
vụ đã giải quyết
2017.
35
30
25
Năm 2014
20
Năm 2015
15
Năm 2016
10
Năm 2017
5
0
Đúng
Sai
Đúng một phần
Biểu đồ 2.2. Tổng số vụ việc tố cáo hành chính giai đoạn 2014-2017
Biểu đồ 2.3. Phân tích kết quả nội dung tố cáo hành chính
(Nguồn: Báo cáo và kết quả thanh tra trách nhiệm về tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014-2017)
* So sánh, đối chiếu công tác tiếp nhận đơn và kết quả thụ lý, giải quyết
tố cáo thuộc thẩm quyền giữa cơ quan hành chính nhà nước các cấp với các
cơ quan tư pháp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2014-2017
- Các cơ quan tư pháp: Tiếp nhận 96 đơn/59 vụ việc tố cáo thuộc thẩm
quyền, đã giải quyết dứt điểm 57 vụ việc, trong đó:
39
+ Ngành Công an tỉnh: tiếp nhận 93 đơn/56 vụ việc tố cáo, đã giải
quyết 54/56 vụ việc tố cáo, đang giải quyết 02 vụ việc tố cáo.
+ Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tiếp nhận 01 đơn/01 vụ việc tố cáo
thuộc thẩm quyền, và đã giải quyết.
+ Tòa án nhân dân hai cấp tiếp nhận 02 đơn tố cáo thuộc thẩm quyền và
đã giải quyết dứt điểm.
Đối với nội dung tiếp nhận tố cáo của các cơ quan tư pháp trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014 đến 2017 liên quan chủ yếu đến lĩnh vực tư
pháp, hành chính… So sánh về mặt số liệu phản ánh việc công dân tố cáo
trong các lĩnh vực quản lý của cơ quan hành chính nhà nước các cấp chiếm số
lượng đông đảo hơn so với lĩnh vực của các cơ quan tư pháp.
* Nguyên nhân phát sinh tố cáo trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm
2014-2017:
- Tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục đẩy mạnh việc thu hồi đất, giải phóng mặt
bằng để đáp ứng tiến độ các dự án lớn; trong khi điều kiện chính sách pháp
luật về đất đai phức tạp, khó nhận thức; cùng với hậu quả của việc buông lỏng
quản lý đất đai kéo dài do lịch sử để lại làm cho hồ sơ quản lý đất đai không
đầy đủ, rõ ràng, thiếu tính pháp lý, khi thu hồi đất phát sinh nhiều khiếu nại,
trên cơ sở giải quyết khiếu nại không đạt được mong muốn công dân tiếp tục
phát sinh đơn tố cáo.
- Trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương đã có
chuyển biến tích cực trong thời gian qua, nhưng ở một số cơ quan, đơn vị vẫn
còn hạn chế, chưa có sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị dù đã được
Tỉnh ủy, UBND tỉnh trực tiếp gặp gỡ, đối thoại, kết luận và chỉ đạo, đôn đốc
thường xuyên. Việc chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ công vụ, hoặc từ chối
thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong việc giải quyết các hồ sơ, thủ tục liên quan
40
đến công dân còn diễn ra nhiều, gây bức xúc cho người dân, làm phát sinh
khiếu nại, tố cáo.
- Công tác quy hoạch đất đai, xây dựng, quản lý đất đai, giao đất, giao
rừng, quản lý khoáng sản, môi trường, đánh giá tác động môi trường của các
dự án đầu tư còn nhiều bất cập, hạn chế, yếu kém nhưng chậm được khắc
phục, chấn chỉnh đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhiều người dân,
tiếp tục là nguyên nhân làm phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo và các vụ việc
đông người trong các lĩnh vực này.
- Công tác thực thi pháp luật, nhất là trong lĩnh vực bồi thường, giải
phóng mặt bằng tại các địa phương không đảm bảo trình tự, thủ tục quy định,
chưa thật sự công khai, minh bạch; tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường cho các
dự án có thu hồi đất phần lớn còn có nhiều sai sót trong quá trình thực hiện
kiểm kê, áp giá; UBND cấp xã còn chưa sát đúng trong xác nhận đất đai, tài
sản trên đất của người dân... gây bức xúc, phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo.
- Chất lượng thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
còn chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng Nhà nước kiến tạo và phát triển;
tính công khai, minh bạch trong quá trình giải quyết các công việc của Nhà
nước đối với dân chưa đảm bảo; trách nhiệm giải trình chưa được thúc đẩy
đúng mức, chưa trở thành cơ chế hữu hiệu để nâng cao chất lượng phục vụ
nhân dân; hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng còn bất cập; cá
biệt một số cơ quan, đơn vị còn có tình trạng nội bộ mâu thuẫn, mất đoàn kết,
quản lý điều hành của Thủ trưởng thiếu công khai, minh bạch… cũng là
nguyên nhân dẫn đến phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo.
- Nhận thức pháp luật của người dân vẫn còn hạn chế, nhiều người có
tâm lý đi kiện được thì tốt, không được thì cũng không sao. Tình trạng đơn
thư, vụ việc từ khiếu nại không thành chuyển sang tố cáo cán bộ giải quyết.
Thêm vào đó chính sách, pháp luật về bồi thường khi thu hồi đất không ổn
41
định, càng về sau càng có lợi hơn cho người bị thu hồi đất, cũng góp phần tạo
tâm lý khiếu nại nhằm kéo dài việc thu hồi đất để hưởng lợi khi chính sách
thay đổi.
- Công tác gặp gỡ, đối thoại của Thủ trưởng một số cơ quan hành chính
chưa tốt, việc giải thích chính sách pháp luật chưa thấu đáo, đầy đủ khiến
công dân bức xúc cũng dẫn đến tố cáo.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan trong giải quyết vụ việc đông người vẫn
còn hạn chế, công tác dân vận đối với các vụ việc tiềm ẩn phát sinh đông
người còn nhiều thụ động, chưa hiệu quả.
- Việc tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về tố cáo và giải quyết tố
cáo chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, chưa sâu, chưa thường xuyên.
2.2.2. Tình hình giải quyết tố cáo hành chính
2.2.2.1. Kết quả giải quyết tố cáo hành chính
Kết quả giải quyết giai đoạn từ năm 2014-2017 cụ thể như sau:
100
80
60
Cấp tỉnh
Cấp huyện
40
Cấp xã
20
0
số vụ thụ lý
Đã giải quyết
Năm 2014:
(Nguồn: Báo cáo và kết quả thanh tra trách nhiệm về tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014-2017)
42
Các cơ quan hành chính trong tỉnh đã tiếp nhận 58 đơn của 51 vụ tố cáo
thuộc thẩm quyền, đã giải quyết 45 vụ, đạt tỷ lệ 88,2%. Qua giải quyết tố cáo
đã kiến nghị thu hồi cho Nhà nước 120,9 triệu đồng, trả lại cho công dân 14
triệu đồng, kiến nghị xử lý 11 cán bộ, công chức có sai phạm.
100
80
60
cấp tỉnh
cấp huyện
40
cấp xã
20
0
số vụ thụ lý
đã giải quyết
Năm 2015:
(Nguồn: Báo cáo và kết quả thanh tra trách nhiệm về tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014-2017)
Trong kỳ, các cơ quan hành chính nhà nước trong tỉnh thụ lý 50 đơn tố
cáo của 48 vụ việc thuộc thẩm quyền; đã giải quyết 43 vụ, đạt tỷ lệ 89,6% (có
8 tố cáo đúng, 29 tố cáo sai, 06 tố cáo có đúng có sai). Qua giải quyết tố cáo đã kiến nghị thu hồi cho Nhà nước 740 m2 đất, bảo vệ quyền lợi cho 14 công
dân.
Năm 2016:
cấp tỉnh
cấp huyện
cấp xã
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
số vụ thụ lý
đã giải quyết
43
(Nguồn: Báo cáo và kết quả thanh tra trách nhiệm về tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo của UBND tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014-2017)
Các cơ quan hành chính đã giải quyết 57/60 vụ tố cáo thuộc thẩm
quyền (đạt tỷ lệ 95%). Kết quả giải quyết có 21 tố cáo đúng, 27 tố cáo sai, 09
tố cáo có đúng có sai. Qua giải quyết tố cáo đã kiến nghị thu hồi cho Nhà
nước 179,1 triệu đồng, trả lại cho công dân 9,57 triệu đồng, bảo vệ quyền lợi
cho 09 công dân, kiến nghị xử lý 12 cán bộ, công chức có sai phạm.
cấp tỉnh cấp huyện cấp xã
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
số vụ thụ lý đã giải quyết
Năm 2017:
(Nguồn: Báo cáo và kết quả thanh tra trách nhiệm về tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo của UBND tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014-2017)
44
Các cơ quan hành chính đã giải quyết 47/55 vụ tố cáo thuộc thẩm
quyền (đạt tỷ lệ 85,5%). Kết quả giải quyết có 12 tố cáo đúng; 27 tố cáo sai;
08 tố cáo có đúng, có sai, qua giải quyết đã bảo vệ quyền lợi cho 12 người,
kiến nghị xem xét trách nhiệm 18 người; kiến nghị thu hồi cho Nhà nước
117,1 triệu đồng.
Như vậy, qua 04 năm:
- Giải quyết đơn tố cáo thuộc thẩm quyền: Thủ trưởng cơ quan hành
chính các cấp cũng đã xem xét giải quyết đối với 159 vụ việc trong tổng số
179 vụ việc tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 88,83%.
- Qua giải quyết tố cáo cho thấy có 81 vụ việc tố cáo có nội dung đúng
hoặc đúng một phần (chiếm 50,94% số vụ đã giải quyết), kết quả giải quyết
đã khôi phục, bảo vệ quyền lợi cho 35 người với số tiền 23,57 triệu đồng; kiến nghị thu hồi cho nhà nước 417,1 triệu đồng và 740m2 đất các loại; kiến
nghị xử lý 41 cán bộ, công chức có sai phạm.
2.2.2.2. Nhận xét tình hình giải quyết tố cáo hành chính
Những kết quả đạt được
- UBND tỉnh đã triển khai quán triệt nghiêm túc, kịp thời Luật Tố cáo
và các văn bản hướng dẫn thi hành; ban hành đầy đủ các văn bản quy định về
công tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo góp phần hoàn thiện thể chế công tác
này trên địa bàn; triển khai kịp thời, đầy đủ, có chất lượng các chủ trương,
chính sách của Đảng, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ về giải quyết tố cáo.
Cùng với đó là việc quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc thường xuyên công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và những vấn đề cử tri, người dân
quan tâm, có bức xúc trên địa bàn tỉnh; tổ chức nhiều buổi đối thoại, gặp gỡ
trực tiếp người dân, chỉ đạo thực hiện cơ chế biệt phái công chức hỗ trợ các
địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, qua đó xử lý kịp thời nhiều vụ
việc. Các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố đã quan tâm quán
45
triệt, triển khai Luật và ban hành thể chế áp dụng trên địa bàn, ngành mình
quản lý; đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đổi mới,
nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu
nại, tố cáo thuộc phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm của mình. Kết quả giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong thời gian qua đã góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng, hợp pháp của người dân, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được củng cố, tăng cường,
tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Tỷ lệ giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày càng được nâng lên, từ năm
2014 đến nay đều đạt trên 85%; chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày
càng tốt hơn; công tác đôn đốc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết
khiếu nại, kết luận và quyết định xử lý tố cáo có hiệu lực đã được quan tâm
thực hiện thường xuyên, đạt nhiều kết quả tích cực.
Những hạn chế
Nhìn lại kết quả thực hiện trong 04 năm qua, công tác giải quyết tố cáo
hành chính trên địa bàn tồn tại những hạn chế như sau:
- Việc ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác khiếu nại, tố cáo đã
được thực hiện tương đối toàn diện và kịp thời. Tuy nhiên, việc theo dõi, đôn
đốc, kiểm tra các cấp, các ngành trong tổ chức thực hiện các chỉ đạo của
UBND tỉnh chưa được thường xuyên, sâu sát nên có một số nội dung chỉ đạo
tuy đúng đắn nhưng chậm đi vào thực tiễn ở các ngành, các cấp.
- Một số địa phương vẫn chưa làm tốt công tác quản lý nhà nước về
khiếu nại, tố cáo; vẫn còn một số cơ quan, đơn vị người đứng đầu không thực
hiện đầy đủ, nghiêm túc lịch tiếp công dân định kỳ đã công bố; chất lượng
công tác tiếp công dân, xử lý đơn ở nhiều địa phương vẫn còn thấp, chưa thực
hiện tốt việc gắn công tác tiếp công dân với giải quyết khiếu nại, tố cáo; công
tác theo dõi sau tiếp công dân, xử lý đơn ở một số địa phương vẫn còn hạn
46
chế, chưa kịp thời; nhiều xã chưa thực hiện chế độ bồi dưỡng cho cán bộ làm
công tác tiếp công dân và xử lý đơn theo quy định.
- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn chậm, tình trạng giải quyết
trễ hạn luật định diễn ra ở cả 03 cấp; việc giải quyết của một số địa phương
chưa bảo đảm đúng trình tự, thủ tục, chính sách pháp luật và chưa phù hợp
với thực tiễn (không có văn bản thụ lý, thụ lý giải quyết không đúng quan hệ
pháp luật, áp dụng pháp luật trong giải quyết nội dung chưa đảm bảo đúng
quy định,…) dẫn đến việc Chủ tịch UBND tỉnh cải sửa kết quả giải quyết của
Chủ tịch UBND huyện hoặc đình chỉ thụ lý yêu cầu xem xét giải quyết lại; hồ
sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo nhiều vụ việc ở cấp huyện, cấp xã được thiết
lập, thu thập còn chưa đảm bảo đúng quy định; Thủ trưởng một số cơ quan,
đơn vị còn chưa trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại mà ủy quyền
cho cấp phó, cấp dưới, thậm chí có trường hợp không đối thoại, nhất là ở cấp
huyện và xã. Cá biệt còn có trường hợp phong cách của cán bộ giải quyết còn
quan liêu, thái độ chưa thật sự cầu thị, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của
người khiếu nại để xem xét thấu đáo dẫn đến việc người dân bức xúc phát
sinh tố cáo đến các cấp chính quyền.
- Công tác tuyên truyền pháp luật tố cáo nói riêng và pháp luật nói
chung cho người dân, nhất là pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng, liên
quan thiết thực đến đời sống phần lớn người dân kết quả còn hạn chế, thiếu
những cách thức, biện pháp thiết thực, phù hợp với từng nhóm đối tượng khác
nhau nên hiệu quả không cao; cá biệt có một số địa phương chưa quan tâm
đúng mức đến công tác tuyên truyền. Nhận thức về pháp luật của một bộ phận
đáng kể cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế, ý thức tuân thủ pháp luật trong
khiếu nại, tố cáo chưa tốt.
- Công tác thanh tra trách nhiệm trong giải quyết tố cáo đã được quan
tâm thực hiện thường xuyên, nhưng chỉ dừng lại ở mức hướng dẫn, chấn
47
chỉnh và đôn đốc, nhắc nhở trách nhiệm, chưa có người đứng đầu nào bị xử lý
kỷ luật do vi phạm, do đó hiệu quả chưa cao, chưa trở thành công cụ sắc bén
để giúp tăng cường trách nhiệm công vụ.
- Các biện pháp phòng ngừa phát sinh đơn thư tố cáo đã được UBND tỉnh
thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc các sở, ngành và địa phương thực hiện. Tuy nhiên
nhiều địa phương chỉ dừng ở mức triển khai bước đầu, một số địa phương còn
lúng túng trong việc cụ thể hóa các biện pháp phòng ngừa phù hợp ở cấp mình,
hiệu quả trên thực tế còn thấp, các lĩnh vực có nguy cơ phát sinh nhiều khiếu nại,
tố cáo vẫn còn nhiều bất cập trong quản lý chậm được khắc phục, chấn chỉnh.
- Việc chấp hành chế độ thông tin báo cáo của các sở, ngành và UBND
các huyện, thành phố gần đây đã có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên chất
lượng báo cáo vẫn chưa đạt yêu cầu theo quy định; số liệu thống kê của cấp
xã không đáng tin cậy; ứng dụng được công nghệ thông tin vào công tác
thống kê, báo cáo còn hạn chế.
Nguyên nhân
Những tồn tại, hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, tuy
nhiên tập trung ở những nguyên nhân chính như sau:
- Cơ chế, chính sách pháp luật từng bước đã được hoàn thiện nhưng vẫn
còn nhiều bất cập, nhất là pháp luật về đất đai, vừa khó nhận thức vừa thường
xuyên thay đổi nên nhiều vụ việc rất khó khăn để tìm phương án giải quyết
vừa đúng pháp luật vừa đáp ứng yêu cầu của người dân, nhiều vụ việc thẩm
tra, xác minh kéo dài, phức tạp, khó giải quyết do không đủ thông tin, tài liệu
làm chứng cứ.
- Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống và tác động của cơ chế thị
trường đã làm cho các tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai trong gia
đình, tộc họ phát sinh ngày càng nhiều và thêm gay gắt, các cơ quan hành
chính nhà nước khó có thể giải quyết dứt điểm vụ việc. Nhiều trường hợp từ
48
tranh chấp có tính chất dân sự đã dẫn đến phát sinh khiếu nại hành chính, tố
cáo cán bộ tham gia giải quyết vụ việc.
- Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu đề
ra, kỷ cương, kỷ luật hành chính tăng cường chưa đúng mức; nhận thức về
pháp luật và trách nhiệm trong giải quyết của một bộ phận cán bộ còn yếu;
vẫn còn một số ngành, địa phương, người đứng đầu né tránh trách nhiệm phân
công cho cấp phó phụ trách, do đó làm ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng
của công tác giải quyết tố cáo.
- Nhân lực làm công tác giải quyết tố cáo ở các cấp, các ngành dù đã
được cấp ủy và Thủ trưởng các cấp, các ngành thể hiện sự quan tâm nhưng
thiếu những biện pháp thực tiễn, hiệu quả nên vẫn chưa có nhiều chuyển biến.
2.3. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành
chính tại tỉnh Quảng Ngãi
2.3.1. Những kết quả đạt được
2.3.1.1. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức
thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban 03 văn bản quy phạm pháp luật1 và trình Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh ban hành 01 Nghị quyết2 góp phần hoàn
thiện thể chế công tác tiếp công dân, liên quan đến công tác giải quyết tố cáo
trên địa bàn tỉnh.
Ngoài ra, đề kịp thời triển khai Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn
thi hành, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành 01 chỉ thị và hàng trăm văn bản chỉ
đạo thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn 1 Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND ngày 23/7/2014 ban hành Quy định về tiếp công dân, xử lý đơn gửi đến UBND tỉnh; Quyết định số 38/2014/QĐ-UBND ngày 23/7/2014 ban hành Quy định về thụ lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND tỉnh; Quyết định số 65/2014/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 ban hành Quy chế phối hợp phòng ngừa và xử lý trường hợp đông người, có tính chất phức tạp, gay gắt 2 Nghị quyết số 43/2017/NQ-HĐND ngày 29/9/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định mức chi bồi dưỡng đối với người làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
49
tỉnh, trong đó luôn đề cao nhiệm vụ tổ chức thực hiện tốt pháp luật giải quyết
tố cáo hành chính.
Các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố cũng đều ban hành
đầy đủ quy định về tiếp công dân, xử lý đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền của mình để tổ chức thực hiện đồng bộ.
2.3.1.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật Tố cáo
UBND tỉnh Quảng Ngãi đã chủ trì, tổ chức hội nghị cấp tỉnh triển khai
quán triệt Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt của tỉnh, kết hợp phổ biến, quán triệt Chỉ thị số 02/CT-UBND ngày
01/3/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh về thực hiện các biện pháp phòng ngừa
phát sinh và giải quyết tố cáo hành chính trên địa bàn toàn tỉnh. Đồng thời,
UBND đã ban hành hàng trăm văn bản lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành
tổ chức triển khai thực hiện Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành,
các chủ trương, chính sách của Trung ương đối với công tác giải quyết tố cáo
hành chính, trong đó:
- Triển khai quán triệt và ban hành Kế hoạch số 874/KH-UBND ngày
17/3/2014 về việc tổ chức thực hiện Kế hoạch số 2100/KH-TTCP ngày
19/9/2013 của Thanh tra Chính phủ về tiếp tục kiểm tra, rà soát, giải quyết
các vụ khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài.
- UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 1690/KH-UBND ngày 29/4/2014
triển khai thực hiện Đề án tuyên truyền pháp luật khiếu nại, tố cáo trên địa bàn;
- Tham mưu trình Ban Cán sự đảng UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số
270-KH/BCS ngày 16/10/2014 của Ban Cán sự đảng UBND tỉnh về thực hiện
Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo;
chỉ đạo, đôn đốc Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị ban hành kế hoạch thực hiện
ở cấp mình, ngành mình.
50
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tố cáo đã được UBND tỉnh
quan tâm, chỉ đạo thực hiện thường xuyên bằng nhiều biện pháp thiết thực,
hiệu quả: tổ chức Hội nghị bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ chủ chốt của tỉnh,
báo cáo viên cấp tỉnh, cán bộ chủ chốt và báo cáo viên pháp luật của các
huyện, thành phố;...; tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ gắn với tuyên
truyền pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về công tác tiếp
nhận xử lý đơn thư, giải quyết tố cáo, nhất là những người trực tiếp làm công
tác này; tổ chức các hội nghị chuyên đề về tố cáo; chỉ đạo thành lập các tổ
công tác về tuyên truyền trực tiếp cho người dân tại cơ sở; tuyên truyền,
hướng dẫn cho chính quyền địa phương kết hợp với kiểm tra chấn chỉnh công
tác tiếp công dân, xử lý đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo; tuyên truyền trên
sóng phát thanh, truyền hình; ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án “Tiếp tục
tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã,
phường, thị trấn giai đoạn 2013-2016”...
Cụ thể trong 04 năm qua, đã có 1.972 tin, bài với thời lượng 12.176
phút và 745 chuyên mục với thời lượng 314.625 phút được đăng tải và phát
để tuyên truyền pháp luật về khiếu nại, tố cáo; các cấp, ngành đã tổ chức 106
lớp/đợt bồi dưỡng, tập huấn cho 5.343 lượt cán bộ, công chức, người có trách
nhiệm và 981 đợt tuyên truyền, phổ biến trực tiếp cho 85.016 lượt người dân
ở cơ sở; biên soạn, cấp phát 16.763 tài liệu tuyên truyền đến các cấp, ngành
và người dân ở cơ sở.
Qua kết quả tuyên truyền, nhận thức pháp luật tố cáo và ý thức trách
nhiệm của nhiều công chức, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
trên địa bàn được nâng lên; tình trạng vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo của
người có thẩm quyền giải quyết, của công chức tiếp công dân, xử lý đơn có
biểu hiện giảm dần qua từng năm, chất lượng giải quyết được nâng cao. Tuy
nhiên, hiểu biết pháp luật, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công
51
chức trong việc giải quyết tố cáo của người dân chưa theo kịp yêu cầu của
thực tiễn công việc; tình trạng vi phạm pháp luật trong tiếp công dân, xử lý
đơn và giải quyết vẫn còn xảy ra.
Hiểu biết pháp luật về tố cáo nói chung của người dân và người tố cáo
nói riêng cao hơn trước. Tuy nhiên, nhiều trường hợp người dân không hiểu
pháp luật hoặc cố tình không thực hiện đúng pháp luật, một số trường hợp có
biểu hiện lợi dụng quyền tố cáo để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật;
tình trạng phát sinh đơn đến các cơ quan hành chính trong khi vụ việc đã
được giải quyết đúng pháp luật và hết thẩm quyền tăng lên.
2.3.1.3. Công tác tiếp công dân và việc tổ chức thực hiện các văn bản xử lý tố
cáo có hiệu lực thi hành
Từ năm 2014 đến năm 2017, tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục đẩy mạnh
chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, tập trung xây
dựng, phát triển cơ sở hạ tầng thực hiện đô thị hóa nên nhu cầu thu hồi đất để
thực hiện các dự án rất lớn, tác động đến đời sống của không ít người dân.
Quảng Ngãi cũng là tỉnh có số lượng người thụ hưởng chính sách cho người
có công và hỗ trợ an sinh xã hội nhiều, trong khi điều kiện mặt bằng chung về
trình độ quản lý của chính quyền cấp xã, cấp huyện còn hạn chế, nên dễ có sai
sót trong quá trình giải quyết những công việc liên quan đến người dân, dẫn
đến tình hình tố cáo. Bên cạnh đó, quy hoạch và quản lý quy hoạch đất đai,
xây dựng, quản lý tài nguyên, khoáng sản, môi trường cũng còn những hạn
chế đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhiều người dân. Những nhân
tố trên làm cho tình hình công dân đến các cơ quan hành chính nhà nước tố
cáo trên địa bàn trong thời gian qua có chiều hướng gia tăng.
Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời nhiều giải
pháp, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của cả hệ thống chính trị trong công tác tiếp
công dân, giải quyết tố cáo nên tình hình cơ bản ổn định, kết quả tiếp công
52
dân, giải quyết tố cáo ngày càng tốt hơn, góp phần giữ vững an ninh, trật tự
trên địa bàn.
Công tác tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính trong
những năm qua đặc biệt là tổ chức thực hiện các kết luận và quyết định xử lý
tố cáo có hiệu lực pháp luật được chỉ đạo, đôn đốc thường xuyên.
2.3.1.4. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
trên địa bàn tỉnh
Trong giai đoạn từ 2014 đến năm 2017, chính quyền tỉnh Quảng Ngãi
đã không ngừng nỗ lực trong việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố
cáo hành chính trên địa bàn. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công tác
này để có những phương pháp hữu hiệu trên thực tiễn, cụ thể:
- Trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về giải quyết tố cáo
hành chính: Các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã
hội trên toàn tỉnh xác định rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính
trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, nhìn nhận rõ nhiệm vụ trong
thời gian tới, cần tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện thật tốt công tác này để
góp phần tạo chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng pháp luật và nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân.
Từ đó, đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật giải quyết tố cáo hành
chính trên địa bàn tỉnh được thực hiện theo các nguyên tắc sau: Chính xác,
đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực; Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm,
trọng điểm; Đa dạng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, phù hợp với
nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật và
truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc; Gắn với việc thi hành
pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng,
53
an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hằng ngày của người dân;
Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức.
- Bằng các hoạt động thực tiễn, chính quyền đã tổ chức cho các cá
nhân, tổ chức thực hiện pháp luật về tố cáo, nắm được các quy định về quy
trình giải quyết tố cáo hành chính để từ đó thực hiện tốt quyền của mình. Bên
cạnh việc các tổ chức, cá nhân tự giác thực hiện pháp luật, có những quy định
của pháp luật không thể đi vào đời sống nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước
nói chung, chính quyền địa phương nói riêng.
2.3.2. Đánh giá những kết quả đạt được
2.3.2.1. Ưu điểm
- Triển khai quán triệt nghiêm túc, kịp thời, đầy đủ, có chất lượng các
chủ trương, chính sách của Đảng, quy định pháp luật của Nhà nước về giải
quyết tố cáo hành chính.
- Công tác thực hiện đã xử lý kịp thời nhiều vụ việc; chính quyền đã
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết tố cáo thuộc phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm
của mình. Kết quả giải quyết trong thời gian qua đã góp phần bảo vệ quyền,
lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân, đảm bảo pháp chế xã hội chủ
nghĩa, an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn được củng cố, tăng cường,
tạo tiền đề cho phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
- Ban hành kịp thời, đầy đủ các văn bản nhằm hoàn thiện thể chế công
tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo hành chính trên địa bàn để từ đó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành
chính ở Quảng Ngãi diễn ra đồng bộ, thuận lợi, đảm bảo chặt chẽ, thấu tình,
đạt lý.
- Trách nhiệm của người đứng đầu của các cơ quan, đơn vị trong quản
lý cơ quan, đơn vị được tăng cường, trách nhiệm khi thực thi nhiệm vụ, công
54
vụ của cán bộ, công chức, viên chức cũng được nâng cao, chuyển biến tích
cực hơn; tỷ lệ giải quyết tố cáo ngày càng được tăng lên với chất lượng càng
cao; công tác đôn đốc tổ chức thực hiện các kết luận và quyết định xử lý tố
cáo có hiệu lực đã được quan tâm thực hiện thường xuyên, đạt nhiều kết quả
tích cực.
- Tập trung giải quyết dứt điểm các tố cáo kéo dài, phức tạp, trên cơ sở
Kế hoạch số 2100/KH-TTCP ngày 19/9/2013 của Thanh tra Chính phủ về
việc kiểm tra, rà soát, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức
tạp, kéo dài, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 847/KH-UBND ngày
17/3/2014 để tổ chức thực hiện. Thời gian tới, để nâng cao chất lượng tổ chức
thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính, UBND tỉnh tiếp tục triển
khai và tìm kiếm nhiều biện pháp, cách thức phù hợp với thực tiễn địa
phương, để từ đó kết thúc được nhiều vụ việc trên thực tế, đối với những vụ
việc mặc dù đã có kết luận xử lý của cấp có thẩm quyền đã nhiều năm nhưng
chưa tổ chức thực hiện xong trên thực tế thì đẩy mạnh việc xem xét xử lý, giải
quyết.
Đối với các vụ việc đông người, phức tạp, gay gắt: Toàn bộ hệ thống
chính trị của tỉnh tập trung nỗ lực giải quyết cụ thể: Ban Thường vụ Tỉnh ủy
thành lập Tổ công tác giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo giải quyết các vụ
việc tố cáo và những bức xúc, nổi cộm của nhân dân trên địa bàn tỉnh, theo
dõi, nắm tình hình và tham mưu đề xuất biện pháp chỉ đạo giải quyết cụ thể,
triệt để, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Chủ tịch UBND tỉnh thành lập Tổ công tác phối hợp, xử lý các trường
hợp khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đông người, có tính chất phức tạp,
gay gắt xảy ra trên địa bàn tỉnh thường xuyên theo dõi chặt chẽ tình hình và
nguy cơ phát sinh các vụ đông người trên địa bàn; định kỳ tổ chức các cuộc
họp giữa các thành viên để rà soát, nắm tình hình và bàn biện pháp tham mưu
55
cho Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy, UBND tỉnh chỉ
đạo xử lý kịp thời các vụ việc đông người, phức tạp trên địa bàn nhằm giữ
vững an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Các huyện, thành phố ban hành quy chế và thành lập tổ công tác phối
hợp, xử lý các trường hợp khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đông người,
có tính chất phức tạp, gay gắt tại địa phương; tổ chức chỉ đạo xử lý, giải quyết
cơ bản kịp thời các vụ việc đông người phát sinh trên địa bàn, góp phần giữ
vững ổn định chính trị và an ninh trật tự.
Đối với thực trạng về các vụ việc tồn đọng, kéo dài đã có kết luận xử lý
tố cáo có hiệu lực pháp luật nhưng chưa tổ chức thực hiện xong trên thực tế
thì Thủ trưởng các sở, ban, ngành, Chủ tịch UBND cấp huyện phải rà soát,
xác định danh mục các vụ việc từ đó lập kế hoạch chi tiết xử lý, giải quyết dứt
điểm theo thẩm quyền. Kế hoạch này phải phân công rõ trách nhiệm tham
mưu, có biện pháp cụ thể, lộ trình thực hiện, mốc thời gian hoàn thành. Giao
trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo xử lý các vụ việc này cho Thủ trưởng các sở,
ban ngành, Chủ tịch UBND cấp huyện.
Từ việc tập trung giải quyết dứt điểm các tố cáo kéo dài, phức tạp rút ra
được kinh nghiệm cho toàn hệ thống chính trị nói chung và cơ quan hành
chính nói riêng trong việc giải quyết tố cáo hành chính, tìm ra được những
biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng giải quyết, chú trọng hơn nữa
công tác tổ chức thực hiện pháp luật để cả đội ngũ giải quyết và người dân
nắm rõ, từ đó giảm thiểu tình hình tố cáo và đặc biệt là các vụ việc phức tạp,
kéo dài.
2.3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Việc bảo đảm tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực tổ chức thực hiện pháp
luật giải quyết tố cáo hành chính thuộc về trách nhiệm của các cơ quan hành
56
chính nhà nước. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tổ chức thực hiện
pháp luật giải quyết tố cáo hành chính còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế nhất
định, làm giảm chất lượng, hiệu quả của công tác này. Một số hạn chế được
kể đến như:
- Về hệ thống văn bản pháp luật: Trong quá trình tổ chức thực hiện
pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất
cập trong việc áp dụng các quy định của pháp luật. Chưa có pháp luật điều
chỉnh riêng về việc tổ chức thực hiện giải quyết tố cáo hành chính. Trong thời
gian qua, công tác này vẫn nằm trong kế hoạch hàng năm của cơ quan trung
ương triển khai đến các địa phương. Hiện nay chưa có văn bản quy phạm
pháp luật nào quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan
hành chính trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo
hành chính. Điều đó dẫn đến sự lúng túng trong áp dụng. Nhiều cán bộ, công
chức không nắm được còn lơ là đối với hoạt động giải quyết tố cáo hành
chính, vô hình chung đã tạo nên sự mất cân bằng trong chức năng hành pháp
của các cơ quan hành chính nhà nước. Đơn cử đối với quy định về xử lý vi
phạm: hiện nay theo Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ quy
định nguyên tắc mà không có chế tài cụ thể, vẫn chưa thể nào khắc phục được
triệt để tình trạng không chấp hành nghiêm túc của người có thẩm quyền và
cá nhân, tổ chức trong quá trình giải quyết tố cáo cũng như tổ chức thực hiện
trên thực tế, chưa đảm bảo tính răn đe, cũng không có căn cứ cụ thể để xử lý
trách nhiệm khi có vi phạm, dẫn đến rất nhiều bất cập trong thực tiễn thi hành.
- Về bộ máy tổ chức thực hiện: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức còn nhiều bất cập, các địa phương chưa chú trọng vào công tác đào tạo, bồi
dưỡng pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính đến cán bộ, công chức trực tiếp
làm công việc dẫn đến năng lực, trình độ của một bộ phân cán bộ, công chức còn
hạn chế, việc giám sát hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm thực hiện một
57
số hoạt động chưa nghiêm chỉnh. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện nhiều sai
phạm do lỗi của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền. Việc thay đổi
công tác từ bộ phận này sang bộ phận khác chưa có sự đầu tư, nghiên cứu và
kinh nghiệm trong thực tiễn dẫn đến chất lượng chưa cao, cụ thể từ bộ phận
không liên quan đến giải quyết tố cáo sang việc tiếp nhận đơn thư, nghiên cứu
xử lý, giải quyết vụ việc tố cáo đối với cán bộ, công chức mới chưa qua bồi
dưỡng kiến thức nghiệp vụ dẫn đến việc chưa nắm bắt kịp với công việc.
- Việc tổ chức, triển khai ở một số địa phương, đơn vị trên địa bàn toàn
tỉnh chưa đánh giá chính xác, sâu sắc tình hình tố cáo trên địa bàn, lĩnh vực;
chưa nhận định đúng những tồn tại, hạn chế, vướng mắc để đưa ra biện pháp
khắc phục cụ thể trong kế hoạch tổ chức thực hiện, tạo những chuyển biến
mới tích cực cho công tác giải quyết trong toàn tỉnh.
- Việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các cấp, các ngành trong tổ chức thực
hiện các chỉ đạo có lúc, có nơi chưa được thường xuyên, sâu sát nên có một
số nội dung chậm đi vào thực tiễn.
- Một số địa phương chưa làm tốt công tác quản lý nhà nước về tố cáo;
người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị không thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
lịch tiếp công dân định kỳ đã công bố...
- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm, tình trạng giải quyết trễ
hạn luật định diễn ra ở cả 03 cấp; việc giải quyết của một số địa phương chưa
đảm bảo đúng trình tự, thủ tục, chính sách pháp luật và chưa phù hợp với thực
tiễn dẫn đến việc Chủ tịch UBND tỉnh cải sửa kết quả giải quyết của chủ tịch
UBND huyện hoặc đình chỉ thụ lý yêu cầu xem xét giải quyết lại; hồ sơ giải
quyết tố cáo nhiều vụ việc ở cấp huyện, cấp xã được thiết lập, thu thập còn
chưa đảm bảo đúng quy định, không đáp ứng yêu cầu trong điều hiện nay.
58
- Trên thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành
chính, vẫn còn tồn tại một số trường hợp phong cách của cán bộ giải quyết
còn quan liêu, thái độ chưa thật sự đúng đắn, thượng tôn pháp luật.
- Công tác tuyên truyền pháp luật tố cáo nói riêng và pháp luật nói
chung cho người dân hiệu quả chưa cao, nhất là trong các lĩnh vực liên quan
trực tiếp, thiết thực đến đời sống phần lớn người dân. Chất lượng công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính hiện nay còn
nhiều hạn chế. Nội dung tuyên truyền chưa phong phú, đa dạng. Một số cơ
quan, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, do vậy việc triển khai một số nơi
còn sơ sài, hình thức. Nhận thức về pháp luật tố cáo của một bộ phận cán bộ,
công chức còn nhiều hạn chế, ý thức tuân thủ pháp luật trong tố cáo chưa tốt.
- Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra trách nhiệm trong giải quyết tố
cáo đã được quan tâm thực hiện thường xuyên nhưng chỉ dừng lại ở mức
hướng dẫn, chấn chỉnh và đôn đốc, nhắc nhở trách nhiệm, chưa có người
đứng đầu nào bị xử lý kỷ luật do vi phạm.
- Nhiều địa phương chỉ dừng ở mức triển khai bước đầu các biện pháp
phòng ngừa tố cáo; một số địa phương còn lúng túng trong việc cụ thể hóa
cho phù hợp ở cấp mình, hiệu quả trên thực tế còn thấp; các lĩnh vực có nguy
cơ phát sinh nhiều tố cáo còn nhiều bất cập trong quản lý chậm được khắc
phục, chấn chỉnh.
- Trên thực tế, việc còn nhiều hạn chế trong cải cách bộ máy nhà nước,
bộ máy hệ thống chính trị, hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật về giải
quyết tố cáo hành chính là do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc chậm tổng
kết thực tiễn. Trong tổng kết thực hiện việc tổ chức thực hiện pháp luật hiện
nay về giải quyết tố cáo hành chính còn nhiều hạn chế như: chậm và không
thường xuyên, không thành chế độ; chỉ tổng kết theo ngành, địa phương và
59
chủ yếu theo chức năng, thẩm quyền quản lý, không theo lĩnh vực hoặc nếu
có thì sơ sài, coi nhẹ, khép kín việc tổng kết; không chia sẻ kinh nghiệm, né
tránh, ngại va chạm trong tổng kết việc tổ chức thực hiện pháp luật; việc
hướng dẫn tổng kết của cơ quan nhà nước cấp trên không được coi trọng, ít
chú ý nghiên cứu những cơ sở lý luận của công tác tổng kết thực tiễn; bản
thân công tác tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính
cũng chưa có cơ sở pháp lý điều chỉnh.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế:
- Cơ chế, chính sách pháp luật từng bước đã được hoàn thiện nhưng vẫn
còn nhiều tồn tại, bất cập, nhiều quy định vừa khó nhận thức vừa thường
xuyên thay đổi nên nhiều vụ việc rất khó khăn để tìm phương án giải quyết
vừa đúng pháp luật, vừa đáp ứng yêu cầu của người dân, nhiều vụ việc thẩm
tra, xác minh kéo dài, phức tạp, khó giải quyết do không đủ thông tin, tài liệu
làm chứng cứ. Mặt khác, hệ thống pháp luật nói chung và những quy định liên
quan đến việc giải quyết tố cáo hành chính còn nhiều kẽ hở nên ảnh hưởng
đến chất lượng thực hiện, dẫn đến vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức.
Các quy định về xử lý các hành vi vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện
vẫn chưa đầy đủ, chưa cụ thể để có thế áp dụng nghiêm khắc trên thực tế.
- Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống và tác động của cơ chế thị
trường đã làm cho các tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai trong gia
đình, họ tộc phát sinh ngày càng nhiều và thêm gay gắt, các cơ quan hành
chính nhà nước khó có thể giải quyết dứt điểm vụ việc. Nhiều trường hợp từ
tranh chấp có tính chất dân sự dẫn đến phát sinh tố cáo cán bộ tham gia giải
quyết vụ việc.
- Công tác cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng chưa đạt yêu
cầu đề ra, kỷ luật, kỷ cương hành chính tăng cường nhưng chưa thực sự
nghiêm khắc; nhận thức về pháp luật và trách nhiệm trong giải quyết tố cáo
60
của một số cán bộ còn yếu; tinh thần trách nhiệm của thủ trưởng một số cơ
quan, đơn vị còn thấp, còn đùn đẩy cho cấp phó, cấp dưới; một số địa phương
chưa có sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị làm ảnh hưởng đến hiệu
quả, chất lượng của công tác giải quyết tố cáo.
- Năng lực chỉ đạo, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi chính sách,
pháp luật của các cấp, các ngành còn yếu kém, bất cập; còn tình trạng người
có thẩm quyền giải quyết tố cáo nể nang, lòng vòng khi giải quyết, thậm chí,
Thủ trưởng một số cơ quan, đơn vị còn có biểu hiện xử lý chưa nghiêm khắc
đối với cán bộ, công chức, viên chức có sai phạm trong quá trình tổ chức thực
hiện pháp luật.
- Nhân lực làm công tác tổ chức thực hiện giải quyết tố cáo ở các cấp,
các ngành chưa có nhiều chuyển biến, còn thiếu những hành động cụ thể, thiết
thực của cơ quan có thẩm quyền. Còn nhiều sai phạm, thiếu sót trong quá
trình tổ chức thực hiện, thậm chí là sai phạm nghiêm trọng, khó khắc phục,
gây thiệt hại cho Nhà nước và công dân. Do năng lực, trình độ của cán bộ,
công chức làm nhiệm vụ, công vụ chưa đồng đều dẫn đến hiện tượng nhũng
nhiễu, tiêu cực, lợi dụng trong việc giải quyết tố cáo, tổ chức thực hiện pháp
luật về giải quyết tố cáo hành chính dẫn đến bức xúc của công dân.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tổ chức thực hiện pháp luật nói
chung và pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính trong bối cảnh hiện nay đã
được cải thiện và chú trọng hơn trước, nhưng vẫn chưa kịp thời đáp ứng đảm
bảo hiệu quả nhất cho công tác.
- Công tác tuyên truyền pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính chưa
được các cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện thật sự chú trọng. Một số
địa phương chưa nhận thức đúng tầm quan trọng nên chưa quan tâm kiện
toàn, củng cố bộ phận trực tiếp làm công tác; không bố trí cán bộ, công chức
có năng lực, có kinh nghiệm thực tiễn làm công tác này.
61
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong việc tổ
chức thực hiện còn thiếu chặt chẽ, thiếu sự nhịp nhàng, đồng bộ và không
mang tính chuyên sâu. Bên cạnh đó công tác tổng kết, rút kinh nghiệm trong
việc tổ chức thực hiện vẫn chưa đạt hiệu quả cao.
2.4. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật
giải quyết tố cáo hành chính của tỉnh Quảng Ngãi
Thứ nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp có vai
trò đặc biệt quan trọng trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết
tố cáo hành chính. Thực tiễn cho thấy, nếu cấp ủy, chính quyền thực sự quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo thì công tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo từ đó việc
tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính sẽ đạt hiệu quả
cao. Và ngược lại, nơi nào cấp ủy, chính quyền quan tâm không đúng mức thì
hiệu quả công tác này đạt thấp.
Thứ hai, cần tiếp tục nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức trong việc thực hiện công vụ, giám sát thường xuyên,
xử lý kịp thời, dứt điểm các sai phạm. Công khai, minh bạch trong công tác tổ
chức thực hiện pháp luật trên các phương diện đời sống xã hội để từ đó góp
phần làm yên lòng dân, đáp ứng được kịp thời nguyện vọng của người dân.
Thứ ba, thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và đặt biệt là tố cáo hành chính. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp,
các ngành trong công tác giải quyết tố cáo hành chính cũng như công tác tổ
chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính, từ đó kịp thời giải
quyết các vướng mắc, tồn tại trên thực tiễn.
Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
nói chung và lĩnh vực tố cáo nói riêng để từ đó nâng cao nhận thức, ý thức
chấp hành pháp luật của mọi đối tượng kể cả người dân lẫn cán bộ, công
chức, viên chức thực thi nhiệm vụ, công vụ.
62
Tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các quyết định
giải quyết khiếu nại, tố cáo; tập trung tuyên truyền, vận động, giải thích,
thuyết phục công dân chấp hành quyết định giải quyết đối với những vụ việc
đã được giải quyết đúng chính sách, pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất
tình hình công dân khiếu kiện vượt cấp, kéo dài.
Duy trì hoạt động thường xuyên, hiệu quả các ban tiếp công dân;
thường xuyên kiểm tra, rà soát chỉ đạo xử lý dứt điểm các kiến nghị, thỉnh cầu
của công dân; xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện tốt nội quy, quy chế
phối hợp trong công tác tiếp công dân của các ban tiếp công dân. Chỉ đạo các
ban, ngành, quận, huyện tổ chức thực hiện tốt các quy định về tiếp công dân
theo Luật tiếp công dân.
Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; đầu tư trang
thiết bị để nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân từ thành phố đến cơ sở.
Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu; chấn chỉnh, tăng cường công tác quản
lý nhà nước trên các lĩnh vực: đất đai, tài nguyên môi trường, đầu tư, xây
dựng, tài chính, chính sách xã hội…; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở,
nhất là đối với công tác bồi thường giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất; giải
quyết kịp thời các quyền lợi chính đáng của người dân có đất bị thu hồi nhằm
hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo.
Phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp
trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và thực hiện các quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo. Củng
cố, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các ban tiếp công dân, tổ hòa
giải cơ sở và ban thanh tra nhân dân. Phát hiện và giải quyết kịp thời các mâu
thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân để hạn chế khiếu nại, tố cáo vượt cấp,
không để xảy ra điểm nóng.
63
Ngoài ra, để công tác tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo
hành chính đạt được hiệu quả trên thực tế thì cần phải chú trọng công tác giải
quyết tố cáo gắn liền với công khai, minh bạch phòng, chống tham nhũng,
lãng phí và tinh thần trách nhiệm công vụ. Nhận thức được tầm quan trọng
của việc ở đâu phát huy tốt thực hành dân chủ ở cơ sở, cải cách hành chính
tốt, thúc đẩy mạnh mẽ việc công khai, minh bạch, thực thi trách nhiệm giải
trình và phòng, chống tham nhũng tốt, tăng cường pháp chế và kỷ luật, kỷ
cương hành chính thì ở đó công tác tổ chức thực hiện pháp luật sẽ được đảm
bảo và ngược lại.
Cần có sự vào cuộc quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền,
gắn giải quyết tố cáo với trách nhiệm người đứng đầu để xem xét xử lý bằng
các hình thức cụ thể khi có khuyết điểm, sai sót hoặc thiếu trách nhiệm, đồng
thời tạo sự phối hợp đồng bộ trong cả hệ thống chính trị trong suốt quá trình
giải quyết tố cáo. Bên cạnh đó, trong quá trình tổ chức thực hiện phải chú ý rà
soát các cơ chế, chính sách để xem xét quyền lợi của người tố cáo; rà soát lại
thủ tục hành chính liên quan đến vụ việc để khắc phục thiết sót (nếu có); xử lý
kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức có sai phạm trong quá trình giải
quyết tố cáo của người dân;
Tổ chức thực hiện giải quyết tố cáo nghiêm túc, kịp thời đúng nguyên
tắc, phương pháp, quy trình, thủ tục. Đồng thời, chủ động thực hiện tốt việc
động viên, thuyết phục, cảm hóa người tố cáo và đối tượng bị tố cáo cộng tác,
phối hợp tốt trong quá trình giải quyết tố cáo, không mặc cảm, định kiến,
phản ứng, gây khó khăn, trở ngại cho việc giải quyết tố cáo.
Ngoài ra, cần chú trọng tập trung vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy,
chính quyền các cấp tập trung rà soát, giải quyết dứt điểm các vụ tố cáo tồn
đọng, phức tạp, nhất là các vụ việc liên quan đến tôn giáo, dân tộc, tranh chấp
đất đai có tính chất nhạy cảm về chính trị; cần chú ý quy định chế độ thông
64
tin, báo cáo nhanh các vụ việc xảy ra trên địa bàn tỉnh qua đó theo dõi kịp thời
chỉ đạo các cơ quan chức năng giải quyết các vụ việc phức tạp phát sinh trê
địa bàn tỉnh, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn.
Một trong số khâu quan trọng thúc đẩy việc tổ chức thực hiện pháp luật
về giải quyết tố cáo hành chính đó là công tác thanh tra trách nhiệm chấp
hành pháp luật tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo và thanh tra các lĩnh vực phát
sinh nhiều khiếu nại, tố cáo. Cần thiết có sự chỉ đạo của UBND tỉnh trong
công tác thanh tra, kiểm tra của ngành thanh tra, kịp thời chấn chỉnh, triển
khai thanh tra, kết luận những vấn đề bức xúc, nổi cộm, những lĩnh vực dễ
xảy ra tiêu cực, sai phạm... Qua công tác thanh tra, kiểm tra sẽ góp phần tích
cực vào công cuộc đấu tranh phòng ngừa, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
trên địa bàn tỉnh liên quan đến các lĩnh vực mà chủ yếu nhất vẫn là chế độ
chính sách, quản lý đất đai, xây dựng cơ bản...
65
Tiểu kết chương 2
Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước về tố cáo trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng giải quyết tố cáo
hành chính cũng như công tác tổ chức thực hiện pháp luật về tố cáo hành
chính có bước tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu về thực
trạng diễn tra trên địa bàn tỉnh, tác giả nhận thấy hiệu quả chất lượng giải
quyết tố cáo và việc tổ chức thực hiện pháp luật còn phụ thuộc vào nhiều các
yếu tố như: Năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ
cán bộ công chức; sự quản lý có hiệu quả của các cơ quan công quyền. Từ
thực tế trên, tác giả luận văn rút ra bài học kinh nghiệm và có phương pháp,
giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố
cáo hành chính của tỉnh Quảng Ngãi để định hướng cách thức hiệu quả hơn
trong thời gian tới.
66
Chương 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TỐ CÁO HÀNH CHÍNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Các quan điểm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
3.1.1. Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng về tổ chức thực hiện pháp
luật đồng thời thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quy định về giải quyết
tố cáo hành chính
Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tăng cường vai
trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm của chính quyền, giám sát của
Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên trong công tác giải quyết tố cáo.
Cùng với việc quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, để bảo
đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo hành chính thì cần phải
thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật liên quan đến công tác tổ chức
thực hiện giải quyết tố cáo hành chính.
Trên bình diện tổ chức thực hiện pháp luật nói chung, có thể nói cơ sở
pháp lý để đảm bảo cho việc thực hiện dựa trên Hiến pháp năm 2013, Luật Tố
cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật cùng với các quy định khác trong
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước.
Những văn bản quy phạm pháp luật nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng để
các cơ quan hành chính nhà nước trên phạm vi cả nước triển khai công tác tổ
chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính, đảm bảo hiệu lực, hiệu
quả của hệ thống chính trị, góp phần cung cấp, trang bị những thông tin, kiến
67
thức pháp luật bắt buộc cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
và các tầng lớp nhân dân; nâng cao ý thức pháp luật của họ.
Trên cơ sở thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quy định pháp luật
của Nhà nước về giải quyết tố cáo hành chính, các cơ quan hành chính nhà
nước phát hiện ra được các vướng mắc, sơ hở đang tồn tại trong quy định
khung pháp lý cũng như khó khăn trong thực tiễn thi hành, từ đó kiến nghị
các cơ quan có trách nhiệm xử lý những vướng mắc tồn tại, đảm bảo tính khả
thi trên thực tế.
Trong giai đoạn hiện nay, Quốc hội đã ban hành Luật Tố cáo năm
2018, trên tinh thần chung, triển khai tại địa phương tỉnh Quảng Ngãi tiếp thu
và hoàn thiện việc thực hiện các quy định chung liên quan đến tố cáo hành
chính nhằm đáp ứng yêu cầu thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng về
tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm cụ thể hóa các quy định của
Trung ương.
3.1.2. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong công tác tổ chức thực hiện
pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính phải luôn
được các cơ quan tổ chức thực hiện đảm bảo là hoạt động có mục đích, có tổ
chức và có kế hoạch. Từ đó thực hiện hoạt động này trên cơ sở tuân thủ
những nguyên tắc cơ bản như: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên
tắc bảo đảm tính khoa học, nguyên tắc khách quan, nguyên tắc công khai,
minh bạch, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc kịp thời...
Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản,
xuyên suốt trong toàn bộ quá trình hoạt động xây dựng, thực hiện và áp dụng
pháp luật, đặc biệt hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước đó là hoạt
động tổ chức thực hiện pháp luật. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ
68
đặc biệt của đời sống chính trị-xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ
chức, cán bộ, công chức, viên chức và công dân đều phải tôn trọng và thực
hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Trong tổ chức
thực hiện pháp luật, nguyên tắc pháp chế đòi hỏi tất cả các cơ quan có thẩm
quyền và mọi cá nhân có liên quan phải nghiêm túc chấp hành các quy định
pháp luật.
Kết luận nội dung tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có tính
bắt buộc đối với mọi chủ thể bị áp dụng pháp luật và các chủ thể khác có liên
quan. Điều này thể hiện ở chỗ dù việc áp dụng pháp luật được thể hiện dưới
hình thức nào thì kết luận cũng chỉ do chủ thể có thẩm quyền ban hành, nên
về nguyên tắc là buộc các chủ thể phải nghiêm chỉnh thực hiện khi kết luận đó
phát sinh hiệu lực pháp luật. Trong những trường hợp cần thiết nó được đảm
bảo thực hiện thông qua việc cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước. Trong hoạt
động quản lý nhà nước, áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là hết sức đa dạng và phức tạp nhằm điều chỉnh rất nhiều quan hệ xã
hội với những phạm vi, lĩnh vực và với nhiều chủ thể khác nhau. Vì vậy, pháp
luật đòi hỏi là trong quá trình áp dụng pháp luật, cơ quan, tổ chức, người có
chức năng, thẩm quyền phải hết sức cẩn trọng trước khi ban hành kết luận,
quyết định (nếu có). Nếu vi phạm tuỳ theo mức độ có thể bị xử lý bằng biện
pháp hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong giải quyết tố
cáo hành chính, nguyên tắc pháp chế không những nhằm để phù hợp với pháp
luật hiện hành mà còn nhằm phù hợp với chủ trương, chính sách của nhà nước
trong từng giai đoạn cách mạng khác nhau với những điều kiện lịch sử, kinh
tế, xã hội khác nhau.
Giải quyết tố cáo hành chính của các chủ thể có thẩm quyền là hoạt
động phải tuân theo những hình thức và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy
định. Bởi vì, xuất phát từ tầm quan trọng của những hậu quả nghiêm trọng do
69
hành vi áp dụng pháp luật gây ra hoặc yêu cầu của công tác quản lý nhà nước.
Mặt khác việc quy định một cách chặt chẽ hình thức, trình tự, thủ tục và thẩm
quyền sẽ tạo ra cơ sở pháp lý, công cụ quan trọng để chính quyền các cấp
thực hiện chức năng quản lý của mình. Những quy định này sẽ góp phần tạo
sự minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước; đồng thời, nó
cũng là căn cứ để các cơ quan dân cử và toàn xã hội thực hiện sự giám sát giải
quyết tố cáo của chính quyền các cấp.
Thứ hai, nguyên tắc khách quan trong giải quyết tố cáo sẽ góp phần
đảm bảo hợp lý, hợp tình, qua đó để người dân tin vào sự công bằng trong
giải quyết tố cáo; đồng thời góp phần giúp người giải quyết tố cáo giảm được
thời gian, công sức vào việc giải quyết, nâng cao hiệu quả giải quyết. Nguyên
tắc khách quan được cụ thể trong thủ tục giải quyết tố cáo như trong quá trình
xác minh, người xác minh nội dung tố cáo phải tạo điều kiện để người bị tố
cáo giải trình, đưa ra các chứng cứ để chứng minh tính đúng, sai của nội dung
tố cáo cần xác minh…
Minh bạch trước hết là thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về tố
cáo; giải quyết tố cáo phải có quyết định giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục
của pháp luật, đồng thời nghiêm chỉnh chấp hành quyết định đang có hiệu lực
thi hành. Nguyên tắc công khai, minh bạch trong giải quyết tố cáo hành chính
nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố nhà nước
pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; thực hiện nghiêm
chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, góp phần
giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tình trạng thiếu công khai, minh bạch trong giải quyết tố cáo hiện nay
là một trong những lý do người tố cáo tiếp tục tố cáo, hoặc phát sinh đơn liên
tục đến các cấp chính quyền; mặt khác nếu không làm tốt công tác công khai,
minh bạch trong giải quyết tố cáo sẽ là cơ sở để kẻ xấu lợi dụng kích động, lôi
70
kéo quần chúng, tập hợp đông người để tố cáo. Do vậy, xem xét, kết luận, giải
quyết tố cáo phải thực hiện tốt nguyên tắc công khai, minh bạch.
Thứ ba, nguyên tắc dân chủ trong giải quyết tố cáo được thể hiện ngay
từ tổ chức việc tiếp công dân, đối thoại với công dân và chỉ đạo quyết liệt của
các cấp chính quyền. Điều 5 của Luật Tố cáo nêu rõ: Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo có trách nhiệm bố trí trụ sở tiếp công
dân hoặc địa điểm tiếp công dân để tiếp nhận tố cáo.
Thực hiện tốt nguyên tắc dân chủ trong giải quyết tố cáo sẽ góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố cáo, góp phần ổn định chính trị-xã
hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước.
Thứ tư, nguyên tắc kịp thời: Giải quyết tố cáo là một trong những
nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức,
cơ quan và đơn vị. Kịp thời giải quyết tố cáo nhằm xử lý hành vi vi phạm và
người có hành vi vi phạm, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể
được cho là bị gây thiệt hại, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, giữ gìn kỷ cương
trật tự xã hội. Đồng thời, cũng là cơ hội để cơ quan nhà nước nhìn nhận
những lỗ hổng pháp luật, sơ hở trong công tác quản lý nhà nước, từ đó đề ra
các biện pháp khắc phục, phòng ngừa các hành vi đe dọa đến đời sống xã hội,
nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, củng cố niềm tin của nhân
dân vào chính quyền.
3.1.3. Cần phải lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức thực
hiện phù hợp
Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính được các chủ
thể triển khai thông qua các phương pháp đặc thù và bằng những hình thức
phù hợp, hướng tới việc đảm bảo các chế định pháp luật được đến gần với đời
71
sống xã hội, có tính khả thi với toàn thể lãnh thổ, thông qua đó cung cấp,
trang bị cho các chủ thể những thông tin, kiến thức pháp luật về quyền, nghĩa
vụ cơ bản của công dân nói chung, các nội dung pháp luật cụ thể liên quan
đến các lĩnh vực từ đó đảm bảo cho việc thực thi pháp luật giải quyết tố cáo
hành chính trên thực tiễn.
Tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính là hoạt động
làm hình thành ở đối tượng tác động vốn kiến thức, hiểu biết pháp luật, cách
thức thực hiện, niềm tin đối với pháp luật và hành vi pháp luật phù hợp; qua
đó ý thức được việc thượng tôn pháp luật mà đặc biệt là đối với pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính để từ đó sống và làm việc theo tinh thần của Hiến
pháp và pháp luật. Nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức thực hiện
pháp luật là những thành tố cơ bản của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật
giải quyết tố cáo hành chính. Giữa các thành tố này có mối liên hệ hữu cơ, tác
động qua lại và bổ sung cho nhau. Chính vì vậy, để đảm bảo nâng cao hiệu
quả tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính thì cần quán triệt
quan điểm lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức thực hiện
phù hợp với đặc thù của việc giải quyết tố cáo hành chính. Các chủ thể thực
hiện cần vận dụng linh hoạt và đa dạng hóa các hình thức nhằm bảo đảm sự
kết hợp hài hòa giữa các hình thức tổ chức thực hiện truyền thống với các
hình thức mới đang được áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn hiện nay, hoặc
học hỏi từ các cách thức hiệu quả đang được các quốc gia trên thế giới thực
hiện; lựa chọn nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật để
dễ dàng tổ chức thực hiện đối với từng vụ việc, từng đối tượng, từng địa bàn
sao cho tương thích, bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết.
Tổ chức thực hiện pháp luật, xét từ góc độ hình thức, gồm ba hoạt động
chính: Phổ biến, giáo dục pháp luật; tổ chức cho các cá nhân, tổ chức thực
hiện pháp luật; sử dụng cưỡng chế nhà nước trong trường hợp cần thiết. Như
72
vậy, về mặt phương pháp, để tổ chức thực hiện pháp luật, các phương pháp
được sử dụng phổ biến là phương pháp thuyết phục; phương pháp cưỡng chế
nhà nước; phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về giải
quyết tố cáo hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
3.2.1. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát đối với công
tác tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
Một là, triển khai quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ
tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính đến toàn thể cán bộ,
công chức, viên chức trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ.
Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp; tiếp
tục tổ chức quán triệt, tuyên truyền sâu rộng Luật Tố cáo, các văn bản hướng
dẫn thi hành và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các lĩnh vực
nhạy cảm của đời sống như đất đai, môi trường, chính sách người có công...,
xem đây là nhiệm vụ trọng tâm và là giải pháp quan trọng để hạn chế phát
sinh đơn tố cáo và khắc phục tình trạng tố cáo không đúng. Đồng thời, nâng
cao trách nhiệm người đứng đầu trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ
công vụ và sẵn sàng thụ lý, giải quyết tố cáo khi công dân phát sinh quyền.
Đối với cấp tỉnh:
(1) Về phía Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi, trước mắt cần phải nêu
gương thực hiện trách nhiệm người đứng đầu trong việc chủ trì tiếp công dân,
luôn đặt mục tiêu đạt hiệu quả tốt công tác tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính.
Chỉ đạo Giám đốc các sở, ngành, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố
trên địa bàn tỉnh thực hiện nghiêm túc trách nhiệm người đứng đầu trong tiếp
công dân, chỉ đạo giải quyết tố cáo hành chính; quán triệt đến toàn thể cán bộ,
công chức, viên chức tham mưu giải quyết tố cáo thực hiện đúng trách nhiệm,
73
đảm bảo quyền tố cáo của công dân và thực hiện công khai, minh bạch trong
quá trình giải quyết tố cáo. Việc giải quyết tố cáo phải đảm bảo đúng theo quy
trình giải quyết tố cáo do Thanh tra Chính phủ hướng dẫn tại Thông tư số
06/2014/TT-TTCP và Quyết định số 38/2014/QĐ-UBND ngày 23/7/2014 của
Ủy ban nhân dân tỉnh quy định về thụ lý và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc
thẩm quyền của Chủ tịch UBND tỉnh.
(2) Giám đốc các sở, ngành tương đương quan tâm đúng mức, thấy
được đúng trách nhiệm của người đứng đầu trong giải quyết tố cáo. Chánh
Thanh tra tỉnh chỉ đạo Thanh tra các sở, ngành, Thanh tra cấp huyện giúp Thủ
trưởng cùng cấp tăng cường công tác quản lý nhà nước về tiếp công dân, giải
quyết tố cáo theo các nội dung đã được hướng dẫn. Đồng thời, nâng cao chất
lượng theo dõi địa bàn của các phòng chuyên môn nghiệp vụ thuộc Thanh tra
tỉnh, sẵn sàng hướng dẫn, tham vấn vướng mắc cho địa phương, đơn vị trong
quá trình giải quyết tố cáo. Thường xuyên trao đổi, nắm tình hình tố cáo phát
sinh, tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ, chia sẻ kinh nghiệm để hỗ trợ
nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ, rút ngắn thời gian tham mưu, giải quyết tố cáo,
đảm bảo tốt công tác quản lý nhà nước và kịp thời đấu tranh với các hành vi
vi phạm pháp luật.
(3) Chánh Thanh tra các sở, ban, ngành giúp Thủ trưởng cùng cấp tăng
cường công tác quản lý nhà nước về tố cáo, cụ thể: Theo dõi chặt chẽ trách
nhiệm tiếp công dân của Thủ trưởng cơ quan trực thuộc Thủ trưởng cơ quan
cùng cấp theo đúng Quyết định số 52/2015/QĐ-UBND ngày 13/11/2015 của
UBND tỉnh quy định về tiếp công dân của cơ quan trực thuộc cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh; làm đầu mối kiểm soát việc
tiếp nhận, xử lý đơn gửi đến Lãnh đạo sở, ban, ngành. Kịp thời tham mưu giải
quyết các tố cáo thuộc thẩm quyền của Giám đốc các sở, ban, ngành và hướng
74
dẫn các đơn vị trực thuộc Sở, ban, ngành chấp hành tốt công tác giải quyết tố
cáo cho công dân.
Đối với cấp huyện
(1) Chủ tịch UBND các huyện, thành phố phải quan tâm và có trách
nhiệm đúng mức trong công tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo; chỉ đạo Thủ
tưởng các phòng, ban chuyên môn thuộc huyện, thành phố thực hiện công
khai, minh bạch các thủ tục, hoạt động công vụ, kịp thời hướng dẫn công dân,
tổ chức khi có yêu cầu thuộc lĩnh vực, ngành phụ trách; đồng thời, chỉ đạo
Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn thực hiện tốt công tác tiếp công dân,
giải quyết tố cáo, kịp thời hướng dẫn, giải thích cho công dân khi có yêu cầu
và công khai, minh bạch đến mức có thể trong hoạt động công vụ (trừ phạm
vi bí mật nhà nước quy định).
(2) Chánh Thanh tra các huyện, thành phố tăng cường công tác quản lý
nhà nước về tố cáo, cụ thể: Theo chặt chẽ việc thực hiện trách nhiệm tiếp
công dân và giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng các phòng,
ban chuyên môn trực thuộc UBND huyện, thành phố và Chủ tịch UBND cấp
xã trên địa bàn; tiến hành thanh tra, kiểm tra đột xuất việc chấp hành lịch tiếp
công dân định kỳ và giải quyết các vụ việc của Chủ tịch UBND cấp xã để
chấn chỉnh, kiến nghị xem xét trách nhiệm những trường hợp vi phạm; kịp
thời hướng dẫn các đơn vị trực thuộc huyện, UBND các xã, thị trấn thực hiện
tốt công tác giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền; khi có phát sinh vướng mắc
thì kịp thời tham vấn các cơ quan chuyên môn của tỉnh có thẩm quyền để kịp
thời giải quyết tố cáo công dân, không để dây dưa, kéo dài dễ phát sinh phức
tạp. Đồng thời, thường xuyên hướng dẫn áp dụng pháp luật, tập huấn nghiệp
vụ tiếp dân, xử lý đơn, thẩm tra, xác minh cho đội ngũ làm công tác tiếp dân,
xử lý đơn và tham mưu giải quyết tố cáo ở cấp huyện, cấp xã nhằm nâng cao
chất lượng tiếp công dân, giải quyết tố cáo trên địa bàn. Có biện pháp cụ thể
75
để tạo mối liên hệ thường xuyên, mật thiết với Trưởng ban Thanh tra nhân
dân cấp xã để kịp thời nắm bắt tình hình phát sinh tố cáo và các vụ việc tiềm
ẩn phức tạp trên địa bàn; phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng cấp tập huấn nghiệp vụ giám sát, thẩm tra, xác minh tố cáo cho Ban
Thanh tra nhân dân cấp xã trên địa bàn; phối hợp với Phòng Tư pháp và Hội
Nông dân cùng cấp tuyên truyền pháp luật về tố cáo cho thành viên các câu
lạc bộ “Nông dân với pháp luật” ở cơ sở.
(3) UBND cấp huyện cần quan tâm lựa chọn, bố trí công chức có đủ kỹ
năng, kinh nghiệm, kiến thức để làm công tác tiếp công dân thường xuyên, xử
lý đơn tại Ban Tiếp công dân, tại cơ quan Thanh tra, phòng Tài nguyên và
Môi trường và công chức cấp xã liên quan trực tiếp đến giải quyết tố cáo.
Đối với cấp xã
Cấp xã là cấp quản lý gần sát với nhân dân nhất, chính vì thế đây là cấp
phải luôn quản lý chặt chẽ, nắm bắt được tình hình của địa phương, kịp thời
giải quyết hoặc phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các phát
sinh liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Chủ tịch UBND cấp xã cần nhận thức được trách nhiệm, tầm quan
trọng của công tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo; chỉ đạo công chức tham
mưu tốt công tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo cho công dân. Khi có vướng
mắc phải kịp thời tham vấn ngay các cơ quan chuyên môn của cấp huyện,
Thanh tra cấp huyện để được hướng dẫn nghiệp vụ, tháo gỡ vướng mắc để kịp
thời giải quyết.
Thường xuyên cử công chức làm công tác tiếp dân, xử lý đơn, tham
mưu giải quyết tố cáo tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ tiếp
công dân, giải quyết tố cáo một cách nghiêm túc.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp
ủy và công tác thanh tra trách nhiệm thủ trưởng chấp hành pháp luật về tiếp
76
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; kịp thời chấn chỉnh, khắc phục các tồn
tại, hạn chế, xử lý nghiêm trách nhiệm người đứng đầu nếu có sai phạm. Tăng
cường kiểm tra, đôn đốc, chấn chỉnh và hướng dẫn thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo cho các địa phương.
Lãnh đạo, chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị-xã hội tiếp tục đổi mới, tăng cường giám sát chấp hành pháp luật về tiếp
công dân, khiếu nại, tố cáo. Phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể
chính trị-xã hội các cấp trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện các văn bản xử lý tố cáo. Củng cố,
nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ hòa giải ở cơ sở
và ban thanh tra nhân dân.
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức, có hệ thống bằng pháp
luật, nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả các quan hệ xã hội theo ý chí của
nhà nước. Trong quá trình tác động điều chỉnh pháp luật, phải thường xuyên
tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, loại trừ những hành vi không hợp pháp
ra khỏi đời sống nhà nước. Có thể hiểu công tác kiểm tra, giám sát là một
khâu nằm trong quá trình quản lý nhà nước, thiếu khâu này sẽ kém hiệu lực,
hiệu quả. Mục đích của công tác kiểm tra, giám sát là phát hiện những sai sót
trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật để kịp thời uốn nắn, sửa chữa
những sai sót đó.
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến giải quyết tố cáo hành
chính
Từ các quy định chung nhất được quy định trong Hiến pháp, tiếp đến
được cụ thể ở Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành cần phải có
những biện pháp để nâng cao tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan đến giải quyết tố cáo hành chính, để từ đó đảm bảo cho việc tổ chức
thực hiện trên thực tế. Các quy định dạng chung chung như: Nhà nước có
77
chính sách phát triển và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt
động quản lý của Nhà nước... sẽ không làm rõ được ai, phải làm gì và làm
trong điều kiện nào. Việc tổ chức thực hiện những quy phạm như vậy sẽ gây
nhiều khó khăn cho bản thân đối tượng phải thực hiện cũng như các cá nhân,
tổ chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện. Như vậy, cần phải cụ thể hóa một
cách đơn giản nhất, dễ dàng nhất để thuận tiện cho các chủ thể tham gia hoạt
động tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính hoàn thành
trách nhiệm, nhiệm vụ của mình.
Tăng cường việc triển khai quán triệt nghiêm túc, kịp thời Luật Tố cáo
và các văn bản hướng dẫn thi hành; ban hành đầy đủ các văn bản quy định về
công tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo góp phần hoàn thiện thể chế công tác
này trên địa bàn; triển khai kịp thời, đầy đủ, có chất lượng các chủ trương,
chính sách của Đảng, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ về giải quyết tố cáo
hành chính.
Trên cơ sở nhiệm vụ được giao và đảm bảo công tác quản lý nhà nước
ở địa phương đạt hiệu quả, để các quy định của pháp luật đến gần với thực
tiễn cần phải xây dựng các văn bản của các cấp ở tỉnh Quảng Ngãi như Quy
chế phối hợp phòng ngừa và xử lý trường hợp tố cáo có tính chất phức tạp,
gay gắt; thực hiện việc giám sát quá trình tổ chức thực hiện pháp luật giải
quyết tố cáo hành chính thông qua việc thẩm tra, xây dựng quy trình đảm bảo
công tác tổ chức thực hiện các kết luận và quyết định xử lý tố cáo có hiệu lực
pháp luật.
Như đã phân tích ở Chương 1, hiện nay pháp luật về tố cáo hành chính
vẫn còn nhiều điểm hạn chế, cần phải hướng đến việc hoàn chỉnh pháp luật để
từ đó có cơ sở thuận tiện cho các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành tổ chức
thực hiện một cách đồng bộ, đảm bảo tính hiểu quả. Nhìn nhận từ địa phương
tỉnh Quảng Ngãi, pháp luật phải được hoàn chỉnh từ việc quy định về trình tự,
78
thủ tục giải quyết tố cáo chặt chẽ, cụ thể trong việc xử lý đối với một số tình
huống như việc tiếp nhận, xử lý ban đầu thông tin tố cáo; quy định về việc rút
đơn tố cáo; tạm dừng, đình chỉ giải quyết tố cáo; công khai kết luận nội dung
tố cáo, quyết định xử lý về tố cáo; về tổ chức thi hành kết luận nội dung tố
cáo, quyết định xử lý về tố cáo; về bảo vệ người tố cáo và về vấn đề xử lý
trách nhiệm đối với người có hành vi vi phạm. Cùng với Trung ương, ở địa
phương, mà cụ thể từ tỉnh đến cấp cơ sở cùng khắc phục những hạn chế, bất
cập nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tố cáo, bởi chính từ những
hạn chế, bất cập đã dẫn đến tình trạng làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong công
tác giải quyết tố cáo thời gian qua. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về tố
cáo và giải quyết tố cáo cần đặt trong bối cảnh thực hiện cải cách thủ tục hành
chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho công dân thực hiện quyền tố cáo; làm rõ sự phối hợp giữa các cơ
quan trong quá trình giải quyết tố cáo; một số nội dung mới được bổ sung như
về điều kiện, cơ chế bảo vệ người tố cáo cần có sự đánh giá tác động cụ thể và
sâu sắc hơn nữa, xác định rõ cơ quan chủ trì trong việc bảo vệ người tố cáo,
cơ sở vật chất các điều kiện bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của
nước ta và bảo đảm tính khả thi.
Hiện nay, Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi Luật Tố cáo năm 2011,
trong đó ghi nhận nhiều nội dung mới có những đặc điểm khá nổi bật. Tuy
nhiên dưới góc độ của việc tổ chức thực hiện pháp luật thì quy định hiện nay
như dự thảo Luật sửa đổi vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn,
bởi lẽ Luật vẫn chưa quy định chế tài xử lý đối với các trường hợp vi phạm,
vẫn chưa thật sự mang tính răn đe.
Ngoài ra, yếu tố quan trọng trong việc góp phần tăng tính hiệu quả cho
công tác tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo đó là nhận thức của
người dân về tố cáo, hiện nay, mặc dù đã quy định về việc bảo vệ người tố
79
cáo, tuy nhiên trên thực tế vẫn không đáp ứng được nhu cầu đảm bảo sự an
toàn của người tố cáo hay người thân thích của họ để họ mạnh dạn tố cáo các
hành vi vi phạm pháp luật mà không sợ bị trù dập, không sợ bị trả thù, gây
nguy hại đến sức khỏe, tính mạng của chính mình và người thân. Như vậy,
cần thiết phải có cơ chế quy định để bảo vệ người tố cáo, qua đó thúc đẩy việc
tố cáo được thực hiện một cách tích cực, góp phần giúp công tác tổ chức thực
hiện pháp luật thuận lợi. Đơn cử, các quốc gia tiên tiến trên thế giới đều xây
dựng cho mình các quy định bảo vệ người tố cáo một cách vững chắc bởi tầm
quan trọng của việc bảo vệ người tố cáo. Theo như Luật Tố cáo sửa đổi hiện
nay, nước ta vẫn chưa cụ thể hóa việc bảo vệ người tố cáo hiệu quả như các
nước, như vậy, đối với Việt Nam, cần tiếp tục vừa thực hiện vừa xây dựng,
hoàn thiện thể chế, pháp luật về bảo vệ người tố cáo và người thân thích của
họ. Thực tiễn cho thấy, một số nội dung cần được làm rõ hơn, cần phải nghiên
cứu, bổ sung những quy định cụ thể nhằm thực hiện hiệu quả các biện pháp bảo
vệ và hỗ trợ người tố cáo, cần hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố
cáo...
Sau khi Luật Tố cáo sửa đổi có hiệu lực cần thiết phải sớm hoàn thiện
các văn bản hướng dẫn thi hành để việc áp dụng pháp luật được thống nhất,
tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, trách nhiệm cụ thể
của mỗi cơ quan trong từng hoạt động cụ thể để góp phần nâng cao hiệu quả
và đáp ứng kịp thời với yêu cầu của thực tiễn. Thực tiễn cho thấy, việc tiến
hành tổng kết thực tiễn việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành
chính ở cấp địa phương, cơ sở rất quan trọng, đặc biệt đối với việc hướng tới
hoàn thiện các quy định của pháp luật. Phải coi trọng, thường xuyên tổng kết
thực tiễn thực hiện pháp luật, bởi qua tổng kết để đánh giá chất lượng việc tổ
chức thực hiện, khơi nguồn mới cho sáng tạo pháp luật, rút ra những kinh
80
nghiệm tốt trong tổ chức thực hiện pháp luật, chia sẻ trách nhiệm giữa các cơ
quan, tổ chức hữu quan, việc tổng kết có thể theo nhiều hình thức khác nhau,
cần có sự lựa chọn cho phù hợp. Qua tổng kết những bất cập, hạn chế của
pháp luật hiện hành cũng như việc tổ chức thực hiện trên thực tế để khắc phục
và sửa chữa hoàn thiện hơn, sớm xây dựng chế định pháp lý hoàn chỉnh để
bảo vệ quyền của công dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội. Việc tổng kết phải
chỉ ra được các ưu điểm, nhược điểm trong các quy định pháp luật, nhất là các
quy định về trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết; trình tự, thủ tục tố cáo và
giải quyết tố cáo; trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo
hành chính... Việc tổng kết cần tập trung làm rõ công tác chỉ đạo điều hành
hoạt động giải quyết tố cáo của các cơ quan hành chính, từ việc xây dựng, ban
hành các văn bản cho đến việc kiểm tra, đôn đốc cấp dưới thực hiện, đồng
thời làm rõ kết quả, các ưu, nhược điểm trong giải quyết các tố cáo cụ thể.
Song song với việc tổng kết phải tiến hành khảo sát thực tế hoạt động giải
quyết tố cáo tại các cơ quan, đơn vị, các cấp để nắm bắt trình độ, nhận thức
của nhân dân, của cán bộ, công chức, viên chức về pháp luật tố cáo, giải quyết
tố cáo hành chính và công tác tổ chức thực hiện trên thực tế.
Năm 2016, Thanh tra Chính phủ đã chủ trì tổ chức việc tổng kết 04
năm thi hành Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo, đây là hoạt động rất thiết thực,
bởi Luật Tố cáo đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi để công dân thực hiện
quyền hiến định của mình, qua tổng kết việc tổ chức thực hiện Luật Tố cáo và
các văn bản hướng dẫn thi hành phát hiện ra được những ưu điểm để từ đó
tiếp tục kế thừa và phát huy, mặt khác có những vướng mắc, bất cập thì kịp
thời chấn chỉnh, sửa đổi để phù hợp hơn. Theo đó, nhìn nhận lại những vấn đề
hạn chế, yếu kém để tham mưu Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật cho phù hợp.
Trong quá trình sửa đổi, chưa có quy định cụ thể gây khó khăn trong quá trình
tổ chức thực hiện, đề nghị Chính phủ đưa ra các giải pháp trước mắt nhằm xử
81
lý kịp thời các vấn đề có liên quan đến tố cáo trên cơ sở thống nhất với các
quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, trong quá trình sửa đổi Luật cơ
quan chủ trì soạn thảo huy động được sự tham gia của toàn thể xã hội, nhận
được nhiều ý kiến góp ý từ các bộ, ngành, địa phương để hệ thống pháp luật
về tố cáo, cũng như phương thức để triển khai tổ chức thực hiện pháp luật
được hoàn thiện, góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị, an ninh, xã hội.
3.2.3. Tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức thực hiện
pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
Để tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc
tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính cần phải chú trọng
việc nâng cao năng lực thực thi, trách nhiệm công vụ của chủ thể tổ chức thực
hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính mà chủ yếu là đội ngũ cán bộ,
công chức (nhất là cán bộ chủ chốt) ở các cơ quan, đơn vị, địa phương trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Luôn rèn luyện, trau dồi và nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, đề
cao nhiệm vụ, công vụ trong thực hiện đường lối chủ trương, chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước. Trình độ kiến thức và năng lực công tác ngày
càng phải được bồi dưỡng, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cần phải
khắc phục những tồn tại, rào cản để từ đó chất lượng của đội ngũ làm công tác
tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính đạt được hiệu quả như
mong muốn, cụ thể: các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở phải chú trọng đúng
mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, không ngừng tạo điều kiện để cán bộ, công chức trau dồi kiến thức, kỹ
năng nghiệp vụ quản lý nhà nước; Bồi dưỡng tính chuyên nghiệp của đội ngũ
cán bộ, công chức trong xử lý, giải quyết công việc và đặc biệt là trong công
tác tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính.
82
Ở địa phương, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là những người tiếp
xúc gần nhất đối với người dân, do đó cần phải tuyển chọn những người đáp
ứng đủ các tiêu chuẩn trình độ đào tạo theo quy định, nhất là đối với cán bộ
chuyên trách. Trong thời gian tới, tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục áp dụng chính
sách thu hút nhân tài về phục vụ cho các cơ quan hành chính nhà nước, tiếp
tục đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ công chức phải công khai, minh bạch,
rà soát, thống kê cán bộ trẻ có sẵn đưa đi đào tạo theo nhu cầu, bố trí cán bộ
đúng chuyên môn ở các cấp chính quyền, phòng, ban, cơ quan đơn vị bằng
cách thi tuyển ở cấp cán bộ chủ chốt thông qua kế hoạch hành động cụ thể.
Chú trọng việc tăng cường công tác nâng cao năng lực của đội ngũ cán
bộ, công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức
tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục
vụ nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm và luôn được ưu tiên hàng đầu trong chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Trong đó, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức được xác định là hoạt động quan trọng nhằm trang bị kiến thức,
nâng cao năng lực để đội ngũ này hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ.
Ngoài ra, cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo nói chung và đặc biệt
liên quan đến tố cáo hành chính nói riêng, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
(1) Cần quan tâm bố trí cán bộ, công chức phù hợp, đảm bảo số lượng
và chất lượng cho ngành Thanh tra tỉnh Quảng Ngãi (vì đây là cơ quan
chuyên môn giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng) theo đúng Đề án phát triển
ngành Thanh tra giai đoạn (2016-2020) đã được UBND tỉnh phê duyệt tại
Quyết định số 247/QĐ-UBND ngày 03/4/2017.
83
(2) Nâng cao nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới công
tác đánh giá, bổ nhiệm cán bộ, công chức của cấp ủy Đảng và cơ quan quản lý
các cấp, thay đổi tư duy duy tình, đánh giá theo năng lực và bổ nhiệm theo
khả năng đảm nhiệm vị trí công tác. Cán bộ, công chức đi học phải nêu cao
tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc học tập, nâng cao trình độ, xác định
học tập để nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn, hướng tới việc thực hiện
tốt hơn nhiệm vụ, công việc được giao.
(3) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cụ thể hóa chủ
trương chính sách của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, trong đó chú trọng đến chính sách đãi
ngộ, hỗ trợ các đối tượng được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nhất là các đối tượng
ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có nhiều khó khăn.
(4) Thực hiện cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức làm cơ sở cho xác
định vị trí việc làm đã được UBND tỉnh phê duyệt và đào tạo theo vị trí việc
làm. Xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ thể, khả thi, thiết thực,
đảm bảo hoàn thành yêu cầu cán bộ, công chức theo quy định; đào tạo, bồi
dưỡng gắn với sử dụng, có trọng tâm trọng điểm, không phân đều các chỉ tiêu
đào tạo, bồi dưỡng. Chủ động thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức, gắn
quy hoạch với công tác đào tạo, bồi dưỡng.
(5) Hàng năm, có kế hoạch các địa phương cử cán bộ, công chức làm
công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại được đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ. Đồng thời thông qua các hội nghị chuyên đề, các lớp
tập huấn, thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao
năng lực chuyên môn; đặc biệt là qua thực tiễn giải quyết các vụ việc cụ thể
để rút kinh nghiệm. Chú trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán
bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
84
Kịp thời hệ thống hóa, thực hiện đổi mới, cải tiến các chương trình, tài
liệu, nâng cao chất lượng, nội dung chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác chuyên môn liên quan đến lĩnh vực khiếu nại, tố cáo.
(6) Xây dựng, kiện toàn các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở các bộ, ngành
và địa phương. Tăng cường việc xây dựng đội ngũ báo cáo viên đủ về số
lượng, có kiến thức chuyên môn sâu về pháp luật tố cáo và các lĩnh vực có
liên quan, kiến thức thực tiễn phong phú và phương pháp sư phạm cho công
tác đào tạo, bồi dưỡng. Việc đầu tư cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật là rất
quan trọng, bởi hoạt động chủ yếu của đội ngũ này là mang pháp luật đến gần
với cán bộ, công chức, người dân thông qua việc chuyển tải nội dung mới,
những nội dung pháp luật cần thiết phục vụ cuộc sống.
Bên cạnh đó, nhằm hạn chế đơn thư tố cáo ngay từ cơ sở cần củng cố tổ
chức và nâng cao trình độ, năng lực cho lực lượng hòa giải cơ sở, bởi đây là
một việc quan trọng trong hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được
thỏa thuận, tự nguyện giải quyết những tranh chấp nhằm giữ gìn đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế phát sinh các vấn đề khác dẫn
đến khiếu nại, tố cáo bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Do đó, lực lượng hòa giải
cơ sở phải là những người có uy tín, có trách nhiệm, tận tụy, kiên trì thuyết
phục giúp đỡ cho công dân. Bên cạnh đó, cần thường xuyên bồi dưỡng kiến
thức pháp luật để tổ chức hòa giải các tranh chấp trong nội bộ nhân dân có
tình, có lý, khách quan, công minh, phù hợp pháp luật, phù hợp đạo đức xã
hội và phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân, tôn trọng quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích của nhà nước, lợi ích cộng
đồng. Làm tốt công tác hòa giải cơ sở góp phần quan trọng vào việc giảm
lượng đơn tố cáo phát sinh trên địa bàn.
Ngoài ra, để tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức
thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo phải kiên quyết xử lý cơ quan, tổ chức,
85
cá nhân vi phạm pháp luật giải quyết tố cáo hành chính để từ đó kịp thời chấn
chỉnh, khắc phục, tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Yếu tố quan trọng trong hiệu
quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật đó là yếu tố con người, việc các cá
nhân, tổ chức không thực hiện tốt trách nhiệm của của mình dẫn đến hiệu quả
của công tác không cao, hạn chế, chính vì thế cần phải có các biện pháp và
hình thức kịp thời xử lý, ngăn chặn để xóa bỏ những tồn tại, hạn chế, gây kìm
hãm công tác tổ chức thực hiện pháp luật.
3.2.4. Đảm bảo các điều kiện vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp luật
giải quyết tố cáo hành chính
Dựa vào tình hình thực tiễn của các địa phương trên toàn tỉnh để chuẩn
bị các điều kiện vật chất để tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành
chính đạt hiệu quả như mong muốn. Để quản lý mọi mặt hoạt động trong điều
kiện phát triển hiện nay, Nhà nước phải luôn tăng cường các nguồn lực vật
chất và nhân sự, trong đó nguồn lực vật chất tăng nhanh cả về số lượng và
chất lượng. Chú trọng việc bố trí đảm bảo kinh thuận lợi cho việc tổ chức
thực hiện pháp luật, tính toán mức chi hợp lý, toàn diện cho các hoạt động.
Việc đầu tư trang thiết bị kỹ thuật và phương tiện hiện đại để hỗ trợ các quá
trình quản lý của nhà nước hiện đã trở thành một nguyên lý phát triển. Nếu
các điều kiện vật chất kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sẽ giúp cho tính khả thi
của công tác tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính luôn
được tăng cường. Trong thực tế, nếu thiếu các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thì các cơ quan nhà nước khó có thể
chuyển tải những nội dung chính sách pháp luật đến với đối tượng một cách
thường xuyên, trong khi chỉ có tích cực tuyên truyền, vận động để các tổ
chức, cá nhân hiểu và nhận thức được trách nhiệm của mình thì việc tổ chức
thực hiện trên thực tế mới dễ dàng hơn và đạt được chất lượng.
86
Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về tố cáo và các lĩnh
vực khác để nâng cao hiểu biết pháp luật về tố cáo của cán bộ, nhân dân (tập
trung ở khu vực xã, phường, thị trấn), các cơ quan báo, đài phát thanh, truyền
hình phối hợp với các cơ quan hữu quan thường xuyên tuyên truyền pháp luật
tố cáo bằng các hình thức phong phú, thiết thực, tăng thời lượng, bài viết,
chuyên đề, biểu dương kịp thời những điển hình tốt, kinh nghiệm, sáng kiến
hay, phê phán những hành vi vi phạm pháp luật tố cáo. Đồng thời cũng đa
dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật để thuận tiện trong việc
đưa kiến thức pháp luật đến với người dân, không chỉ tuyên truyền đơn thuần,
truyền thống như trước đây vẫn hay làm mà phải chuyển sang những hình
thức gần gũi hơn, thiết thực hơn, như xây dựng mô hình kịch hóa, tổ chức các
buổi giao lưu lồng ghép diễn kịch về pháp luật giải quyết tố cáo hành chính
cùng với các lĩnh vực khác để từ đó nhân dân cảm thấy hứng thú, dễ dàng tiếp
nhận thông tin của pháp luật và biến những thông tin tưởng chừng khô khan
ấy thành kiến thức của mình để thực hiện đảm bảo quyền và nghĩa vụ của
mình. Các cơ quan tiến hành hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết
tố cáo phải linh động, sáng tạo trong việc kết hợp hoạt động tuyên truyền, phổ
biến chính sách với việc vận động thực thi pháp luật, từ đó nâng cao tinh thần
tự nguyên, tự giác trong việc thực hiện pháp luật, góp phần tạo điều kiện cho
tính khả thi, hiệu quả của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật trên toàn địa
bàn tỉnh.
Qua nghiên cứu, việc tiến hành tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết
tố cáo hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới để đạt
được kết quả như cả hệ thống chính trị mong muốn thì phải chú trọng đến
việc cải thiện chính sách đảm bảo các điều kiện vật chất đối với các hoạt động
trọng tâm như: đem pháp luật đến gần với quần chúng nhân dân, đảm bảo
công tác tổ chức thực hiện các kết luận giải quyết tố cáo có hiệu lực thi hành,
87
các quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo..., bởi lẽ, chỉ khi làm tốt các
công tác này thì tình hình địa phương mới ổn định, ít phát sinh đơn thư, tăng
cường kỷ cương, củng cố niềm tin của nhân dân vào các cấp chính quyền.
Như vậy, đối với việc nâng cao kết quả việc tổ chức thực hiện pháp luật trong
đó có công tác tổ chức thực hiện các kết luận giải quyết, các quyết định xử lý
thì cần có cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm, đầu tư đảm bảo điều kiện vật
chất cho công tác tổ chức thực hiện, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng và cần thiết trong mục tiêu phát triển, xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh.
3.2.5. Nâng cao vai trò của người dân trong tổ chức thực hiện pháp luật
giải quyết tố cáo hành chính
Để tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo đạt được kết quả như
mong muốn, trước hết cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục
pháp luật về tố cáo nói chung và đặc biệt liên quan đến giải quyết tố cáo hành
chính, hướng đến mục tiêu hình thành cho mọi người ý thứ pháp luật xã hội
chủ nghĩa. Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp nhất cho việc xây
dựng và thực hiện pháp luật. Đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường
của Đảng, Nhà nước, kể các các trường phổ thông, trung học, đại học, các
trường của các đoàn thể. Cán bộ quản lý các cấp, các ngành từ cấp tỉnh đến
cấp xã phải có kiến thức quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật, pháp
chế. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục và nâng cao ý
thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân. Các cấp, các ngành, các
đơn vị cơ sở phải thường xuyên lo củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế để tạo
điều kiện cho việc nắm vững và chấp hành nghiêm chỉnh những chế độ quy
định của nhà nước ban hành.
Phải đảm bảo tuân thủ, sử dụng, thi hành và áp dụng đúng đắn pháp
luật nói chung và pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính nói riêng. Tuân
88
thủ là tự kiềm chế, không vi phạm điều cấm thực hiện của pháp luật. Sử dụng
là thực hiện các quyền mà pháp luật cho phép. Thi hành là thực hiện nghĩa vụ
pháp lý. Còn áp dụng pháp luật là đặc quyền của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Áp dụng pháp luật là hành vi của các cơ quan nhà nước, mà chủ
yếu là cơ quan hành chính nhà nước và tài phán nhà nước, để ban hành các
quyết định cá biệt dưới hình thức văn bản cá biệt hoặc văn nói-ra lệnh, đưa ra
một tình trạng pháp lý cho công dân hoặc tổ chức..., là sự cho phép, cấm
đoán, bắt buộc hành động, chế tài...
Để góp phần nâng cao vai trò của người dân, cần thiết lập mối quan hệ giữa
Nhà nước với công dân thông qua việc đảm bảo tính công khai và minh bạch
trong việc tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính, cụ thể:
Theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng thì chính sách, pháp luật
và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh
bạch, bảo đảm công bằng, dân chủ. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức phải công
khai hoạt động của mình trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội
dung khác theo quy định của pháp luật. Hoạt động giải quyết tố cáo phải được
tiến hành công khai theo quy định, trên cơ sở đó, kết luận nội dung tố cáo,
quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo phải được công khai. Ngoài ra,
một trong số những nội dung bị công dân tố cáo nhiều đó là công tác tổ chức
cán bộ, Luật Phòng chống tham nhũng cũng đã quy định công khai, minh
bạch các nội dung liên quan đến tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm,
cách chức, nâng lương, thưởng...
Để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, làm cho mối
quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày càng gắn bó bền chặt thiết
nghĩ cần phải đảm bảo công khai, minh bạch cho quá trình tố cáo, giải quyết
tố cáo và tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính (công
89
khai, minh bạch đúng theo quy định, chú ý không để lộ lọt thông tin, bí mật
của người tố cáo).
Ngoài ra, Luật Tố cáo hiện nay cũng đã quy định rõ hơn về trách nhiệm
tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo, nếu sau
khi Quốc hội thông qua và ban hành, trách nhiệm cụ thể của người giải quyết
tố cáo, người bị tố cáo, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan sẽ được
chú trọng từ đó, thúc đẩy tính công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện,
góp phần nâng cao hiệu quả.
Để đảm bảo công khai, minh bạch trong việc tổ chức thực hiện pháp
luật sẽ tạo cơ hội cho các chủ thể trong xã hội được tham gia phản biện về nội
dung của các quy định pháp luật về giải quyết tố cáo hành chính cũng như
cách thức tổ chức thực hiện các quy định pháp luật đó. Tạo cơ hội để thu nhận
các phản biện sẽ giúp cho những cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện
pháp luật phát hiện được những điểm bất cập trong quá trình thực hiện công
việc. Từ đó tạo nên những cơ sở quan trọng để điều chỉnh, hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật về các lĩnh vực của đời
sống nói chung cũng như công tác giải quyết tố cáo hành chính của các cơ
quan hành chính trên địa bàn tỉnh.
Tóm lại, tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính là làm
sao đảm bảo cho công dân được thực hiện trọn vẹn quyền hiến định của mình,
được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm để từ đó bảo vệ được bản
thân, gia đình, tổ chức, cá nhân khác, và nói rộng hơn là trật tự an toàn xã hội,
còn nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép, để từ đó đảm
bảo không lạm quyền, không vi phạm các quy định làm ảnh hưởng đến danh
dự của Nhà nước đối với công dân. Ngoài ra, để nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của quyền tố cáo của công dân, của công tác giải quyết tố cáo
hành chính, huy động sức mạnh đồng bộ của các cơ quan, tổ chức trong việc
90
tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính cần phải gắn trách
nhiệm của cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo hành
chính với nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của cơ quan, đơn vị, trên cơ sở đó
đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Thủ trưởng các cơ quan đơn vị phải tổ
chức giao ban, trực báo để nắm được tiến độ, tình hình tổ chức thực hiện, chỉ
đạo xử lý kịp thời nhằm kết thúc các vụ việc cũng như hoàn thiện công tác
quản lý nhà nước của cấp mình, ngành mình.
91
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở xây dựng các nhiệm vụ trọng tâm và phương hướng liên
quan, chương 3 đề xuất giải pháp cơ bản góp phần phát huy những ưu điểm
đã đạt được trong thời gian qua, khắc phục những điểm chưa làm được hoặc
làm nhưng chưa tốt và qua đó tìm kiếm những giải pháp hoàn thiện công tác
tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi trong thời gian tới.
92
KẾT LUẬN
Tố cáo là một hiện tượng xảy ra khá phổ biến trong xã hội, đặc biệt
từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, đối với địa phương mà tình trạng tố cáo diễn ra
phức tạp, gay gắt thì là vấn đề đáng suy ngẫm về công tác quán lỷ
nhà nước và rất đáng quan tâm tìm hiểu nguyên nhân nảy sinh để đề ra các
biện pháp giải quyết phù hợp, không để phát sinh trở thành “điểm nóng”,
gây mất ổn định chính trị, tình hình trật tự an toàn xã hội. Tính phức tạp
của tố cáo hành chính diễn ra bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân mà có
thể kể đến đó là từ hệ quả của sự quản lý thiếu hiệu quả của các cơ quan
nhà nước, sự bất hợp lý và thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật
đất đai, môi trường, chính sách người có công, công tác cán bộ…. Việc
nghiên cứu, tìm hiểu việc tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tố cáo
hành chính là rất cần thiết, để từ đó giúp Nhà nước ta xây dựng và hoàn
thiện pháp luật giải quyết tố cáo một cách có hiệu quả trong thời kỳ xây
dựng nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân”, đồng thời góp phần vào việc bổ sung, hoàn thiện
cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật tố cáo hành chính có hiệu quả trên thực tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các quan
hệ kinh tế vận động và phát triển không ngừng đòi hỏi pháp luật về tố cáo
cũng phải thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, nhằm đáp ứng được các yêu
cầu của quản lý. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm chỉ ra những mặt tồn tại, hạn
chế, bất cập của pháp luật về tố cáo, giải quyết tố cáo hành chính cũng như quy
định về tổ chức thực hiện pháp luật trên thực tế, để đề xuất các giải pháp hoàn
thiện chế định này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thông qua việc phân tích thực tiễn tình hình tố cáo, giải quyết tố cáo hành
93
chính và quá trình tổ chức thực hiện pháp luật ở tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014 đến
nay, luận văn đã mạnh dạn nêu ra những ưu điểm và hạn chế trong việc tổ chức
thực hiện của các cơ quan hành chính nhà nước.
Hiệu quả, chất lượng của công tác giải quyết tố cáo hành chính không chỉ
phụ thuộc vào cơ cấu, tổ chức của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo
mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như: năng lực, trình độ chuyên
môn, phẩm chất, đạo đức của đội ngũ của các cán bộ làm công tác thẩm tra,
xác minh, giải quyết tố cáo; sự quản lý có hiệu quả của các cơ quan công
quyền; các giấy tờ, tài liệu chứng minh hợp pháp; cách thức tổ chức thực hiện
trên thực tiễn... Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay các yếu tố này đều chưa hoàn
thiện nên đã làm ảnh hưởng đến chất lượng của công tác tổ chức thực hiện pháp
luật giải quyết tố cáo, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của công dân, cũng
như làm ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước.
Trong điều kiện nghiên cứu từ lý luận và thực tế ở tỉnh Quảng ngãi, luận văn
chưa thể giải quyết đầy đủ, sâu sắc các yêu cầu của đề tài đặt ra. Qua luận văn
này tác giả mong muốn đóng góp một phần kinh nghiệm từ thực tiễn vào quá
trình hoàn thiện quy định cũng như một số giải pháp để công tác tổ chức thực
hiện pháp luật giải quyết tố cáo hành chính ở nước ta được thực hiện tốt trong
thời gian tới.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Thị Thu An (1999), Một số vấn đề về pháp luật tố cáo và giải
quyết tố cáo, Tạp chí Thanh tra, số 01/1999.
2. Bộ Chính trị (2002), Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 06/3/2002 về một số
vấn đề cấp bách cần thực hiện trong công tác giải quyết tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo hiện nay.
3. Chính phủ Việt Nam (2011), Nghị định số 30c/NQ-CP ngày
08/01/2011 về ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011-2020.
4. Chính phủ Việt Nam (2012), Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày
03/10/2012 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tố cáo.
5. Hà Hùng Cường (2009), Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
http://thongtinphapluatdansu.edu.vn.
6. Vũ Duy Duẩn (2012), Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
hành chính nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, Tạp chí Cộng sản-
www.tapchicongsan.org.vn.
7. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chế ước quyền lực nhà nước, Nxb. Đà
Nẵng.
8. Trần Ngân Hà (2013), Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Học viện Hành chính quốc gia (2009), Giáo trình lý luận chung về
nhà nước và pháp luật, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
10. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình quản lý học đại cương,
Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
95
11. Lê Thu Hằng (2006), Những điểm mới của Luật Khiếu nại, tố cáo,
Tạp chí Luật học, số 5/2006.
12. Nguyễn Huy Hoàng (2011), Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện hệ
thống quy định nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đề tài khoa học cấp
Bộ, Viện Khoa học Thanh tra.
13. Nguyễn Tuấn Khanh (2011), Trách nhiệm pháp lý của Chủ tịch ủy
ban nhân dân các cấp trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng chống tham nhũng, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học Thanh
tra.
14. Nguyễn Ngọc Linh (2014), Thực thi pháp luật về giải quyết khiếu
nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Văn Tiến Mai (2011), Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên
truyền pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
của Thanh tra Chính phủ, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học Thanh tra.
16. Nhà xuất bản Từ điển bách khoa (2002), Từ điển bách khoa Việt
Nam, Hà Nội.
17. Nhà xuất bản Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Hà Nội.
18. TS. Trần Thị Diệu Oanh (2015), Về minh bạch hóa hoạt động chính
quyền địa phương, Nxb. Chính trị quốc gia.
19. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Hiến pháp năm 2013.
20. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1993), Luật Đất đai năm
1993.
21. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1998), Luật Khiếu nại, tố cáo
1998.
22. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2004), Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004.
96
23. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2005), Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005.
24. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2011), Luật Tố cáo năm
2011.
25. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Luật Đất đai năm
2013
26. Lê Thị Sáu (2014), Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa
bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội-Thực trạng và giải pháp, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
27. GS.TS. Phạm Hồng Thái - PGS.TS. Vũ Công Giao - TS. Đặng
Minh Tuấn (2016), Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện
nay, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.
28. Thanh tra Chính phủ (2012), Báo cáo về tình hình, kết quả công tác
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2008 đến năm 2011 và giải
pháp trong thời gian tới.
29. Nguyễn Hữu Tiến (2017), Tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công
dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
30. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2017), Báo cáo sơ kết 03 năm thực hiện Chỉ
thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo và
Chương trình số 52-CTr/TU ngày 16/9/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực
hiện Chỉ thị số 35.
31. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo tổng kết 04 năm thi
hành Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo
32. Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học.
97
33. Viện khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ (2012), Khiếu nại, tố
cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện
nay, Sách chuyên khảo.
34. Viện Nghiên cứu lập pháp Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2017), Giải
quyết tố cáo ở một số quốc gia trên thế giới-kinh nghiệm cho Việt Nam.
35. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb.
thành phố Hồ Chí Minh.
98