VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN QUANG
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN QUANG
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. CAO THỊ OANH Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
MỤC LỤC
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN ..................................................................................... 6
1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản ............................................. 6
1.2. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm
1945 đến khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật ....................... 23
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN DU,
TỈNH BẮC NINH ........................................................................................... 32
2.1. Khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên du, tỉnh
Bắc Ninh ........................................................................................................... 32
2.2. Kết quả đạt được từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ........................... 36
2.3. Một số vướng mắc, hạn chế từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình
phạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và nguyên nhân của những
vướng mắc, hạn chế .......................................................................................... 46
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH
TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH .......................... 56
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm
cắp tài sản ......................................................................................................... 56
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ........................... 57
KẾT LUẬN ................................................................................................... 772
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật Hình sự
BLDS: Bộ luật Dân sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
CTTP: Cấu thành tội phạm
QĐHP: Quyết định hình phạt
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
THTT: Tiến hành tố tụng
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1. Số vụ án và số bị cáo về tội xâm phạm sở hữu đã được đưa ra xét xử
từ năm 2015 đến năm 2019 .................................................................... 32
Bảng 2.2: Số vụ án và số bị cáo về tội trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử
từ năm 2015 đến năm 2019 .................................................................... 34
Bảng 2.3. Hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội trộm cắp tài
sản từ năm 2015 đến năm 2019 ............................................................. 35
Biểu đồ 2.1. So sánh tỷ lệ nhóm tội xâm phạm sở hữu với nhóm tội khác từ
năm 2015 đến năm 2019 được TAND huyện Tiên Du đưa ra xét xử: .. 33
Biểu đồ 2.2. So sánh tội trộm cắp tài sản với các tội xâm phạm sở hữu đã được
TAND huyện Tiên Du đưa ra xét xử: .................................................... 34
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền dân sự cơ bản của con
người. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, các tội phạm xâm phạm quyền sở
hữu, trong đó có tội trộm cắp tài sản đang có xu hướng gia tăng, với nhiều thủ
đoạn ngày một tinh vi, phức tạp, các đối tượng sẵn sàng chống cự quyết liệt
khi bị phát hiện, gây rất nhiều khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, truy tố và
xét xử loại tội phạm này, trong đó có huyện Tiên Du, một huyện trực thuộc
tỉnh Bắc Ninh, nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân (TAND) huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh trong thời gian 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 thì nhóm tội xâm
phạm sở hữu chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các nhóm tội mà TAND huyện Tiên
Du đưa ra xét xử, cụ thể là 369 vụ với 684 bị cáo, tương ứng tỷ lệ 59,9% về
vụ và 63,5% về số bị cáo trên tổng số vụ và bị cáo phạm tội được đưa ra xét
xử. Trong đó, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nhóm
tội xâm phạm sở hữu, với 196 vụ và 288 bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản,
chiếm tỷ lệ 51,04 % số vụ và 48,64 % số bị cáo trên tổng số tội xâm phạm sở
hữu và đang có xu hướng tăng mạnh khi năm 2019 có 43 vụ/ 60 bị cáo, chiếm
tỉ lệ 71,6 % về số vụ và 65,9 % về số bị cáo thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu
được đưa ra xét xử.
Với việc BLHS năm 2015 được ban hành mới, có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2018, đã đáp ứng cơ bản với tình hình thực tiễn đấu tranh, phòng chống
tội phạm trộm cắp tài sản; tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án về tội trộm
cắp tài sản cho thấy, về mặt lý luận và quy định pháp lý vẫn còn những điểm
chưa phù hợp, gây khó khăn cho hoạt động định tội danh và quyết định hình
phạt, năng lực, trình độ của công chức cơ quan tiến hành tố tụng huyện Tiên
Du còn hạn chế... làm ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đấu tranh phòng
chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Do vây,
1
việc nghiên cứu tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng. Mặt khác, tính đến thời điểm
hiện tại chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn một huyện là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong khoảng thời
gian từ năm 2015 đến năm 2019.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tội
trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh” để làm để tài
nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứ liên quan đến đề tài trên có thể kể đến như:
(i) Tài liệu là giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:
Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2012), Giáo trình luật hình sự Việt Nam –
Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà
Nội (2012), Ths. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
Phần các tội phạm, tập II – Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh; Cao Thị Oanh - chủ biên (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; v.v...
(ii) Luận văn, luận án tiến sĩ luật học: Nguyễn Ngọc Chí (2001), Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ, Viện Nhà
nước và Pháp luật, Hà Nội; Hoàng Văn Hùng, Tội trộm cắp tài sản và đấu
tranh phòng, chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại
học Luật Hà Nội; Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tội trộm cắp tài sản theo Luật
hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh), Luận
văn thạc sĩ, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Mộng Thúy
(2013), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Long An, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội; v.v...
(iii) Tài liệu là các bài viết trên các tạp chí: Trần Mạnh Hà (2007),Một
số dấu hiệu đặc trưng của tội "trộm cắp tài sản" cần nhận biết khi định tội
2
danh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3 (227); Hoàng Văn Hùng (2006),
Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, Tạp
chí Luật học, Số 7;v.v....
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội trộm cắp tài sản ở
các góc độ khác nhau, trong đó có nhiều đề tài được nghiên cứu trước khi
BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật, một số đề tài nghiên cứu sau khi
BLHS năm 2015 có hiệu lực nhưng ở phạm vi không gian và thời gian khác
nhau. Tính đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến tội trộm
cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam, một cách cụ thể, chuyên sâu tại
địa bàn một huyện là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, trong phạm vi từ năm
2015 đến năm 2019.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, làm rõ những vấn đề lý
luận và pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng quy định về tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến
năm 2019, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về tội trộm cắp tài sản trong BLHS Việt Nam và đề xuất những giải
pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ những vấn đề chung như khái niệm, đặc điểm và các dấu
hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp tài sản với một
số tội phạm xâm phạm sở hữu khác trong luật hình sự Việt Nam cũng như tìm
hiểu lịch sử lập pháp của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt
Nam giai đoạn từ năm 1945 đến khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật.
3
- Phân tích những quy định hiện hành về tội trộm cắp tài sản. Đánh giá
những kết quả đạt được, những vướng mắc hạn chế và nguyên nhân của
những vướng mắc, hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết định hình
phạt tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động định tội
danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản nói chung và trên địa bàn
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định
của luật thực định về tội trộm cắp tài sản và thực tiễn áp dụng (định tội danh
và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội trộm cắp tài sản mà trọng tâm là BLHS năm 2015, trong
khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, trên phạm vi huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của
Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự,
đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của Nhà nước ta, làm kim chỉ nam
xuyên suốt trong toàn bộ cấu trúc nghiên cứu của luận văn.
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật
hình sự như: lịch sử, so sánh, đối chiếu, thống kê, diễn dịch, quy nạp, phân
tích và tổng hợp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
4
Về mặt lý luận: Từ một số giải pháp đưa ra, luận văn sẽ góp phần hoàn
thiện hơn những quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản, là cơ sở lý
luận – khoa học cho hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền
nói chung và ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu
tham khảo cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xây dựng
hoàn thiện các quy định về tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra, kết quả đạt được
trong nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối
với người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn; đặc biệt,
kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết các vụ án trộm cắp tài sản của các cơ quan có thẩm quyền ở huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản.
Chương 2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp
tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết
định hình phạt tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
1.1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Khái niệm tội phạm là khái niệm trung tâm, các khái niệm, phạm trù,
chế định khác đều xuất phát, xoay quanh khái niệm này. Việc xác định tội
phạm trong luật hình sự là cơ sở để quy định hình phạt nhưng việc quy định
hình phạt xét cho cùng cũng là một phần của việc xác định tội phạm. Khái
niệm tội phạm là cơ sở để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể với ý nghĩa
là mô hình pháp lý của từng loại tội phạm và qua đó cũng là cơ sở để quy
định hình phạt tương ứng [26, tr.8].
Trong pháp luật hình sự thực định, từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm
2015 thì nhà làm luật vẫn chưa đưa ra được khái niệm pháp lý về tội trộm cắp
tài sản. Tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS năm 2015, tội trộm cắp tài
sản được quy định tại Điều 173, chương XVI các tội xâm phạm sở hữu, với
khách thể trực tiếp của tội phạm là quyền sở hữu (quản lý, sử dụng, định đoạt)
tài sản của cá nhân, tổ chức. Là tội phạm có bản chất là tội chiếm đoạt, đó
là “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của
chủ tài sản thành tài sản của mình” [24, tr.184].
Bên cạnh đó, trong khoa học luật hình sự, liên quan đến khái niệm tội
trộm cắp tài sản cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm tội
trộm cắp tài sản, tiêu biểu như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường
Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm như sau: “trộm cắp tài sản là hành vi
chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút” [25; tr.33];
TS. Trần Văn Biên - TS. Đinh Thế Hưng có định nghĩa: Tội trộm cắp
tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn lén lút, lợi
6
dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản [4, tr. 222]. Tác giả
Nguyễn Ngọc Điệp lại cho rằng: Trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén
lút, bí mật chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành
của mình [11, tr. 115].
Có thể thấy, đa phần các tác giả đều thống nhất đặc trưng của tội trộm
cắp tài sản là lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, tức là người có hành
vi trộm cắp tài sản đã cố ý chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ người có tài
sản sang cho mình hoặc người khác mà mình quan tâm với thủ đoạn là lén lút,
không để lộ cho người khác biết để nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài
sản của họ.
Như vậy, trên cơ sở khái niệm pháp lý về tội phạm trong BLHS năm
2015 và tiếp thu các khái niệm nêu trên trong khoa học luật hình sự, tác giả
đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau:
Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản đang do người khác
quản lý bằng thủ đoạn lén lút, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt
độ tuổi luật định, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến quyền sở hữu
tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
Trong pháp luật hình sự hiện hành thì tội trộm cắp tài sản được quy
định tại Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và có hiệu
lực toàn bộ từ ngày 01/01/2018.
Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản được thể hiện qua các yếu
tố CTTP là khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của
tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm như sau:
*Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại [26, tr. 78].
7
Đối với tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS năm
2015, thuộc chương các tội phạm xâm phạm sở hữu. Khách thể trực tiếp của
tội trộm cắp tài sản là quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu bao gồm: quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy
định của luật [19, Điều 158].
Để gây thiệt hại đến các quyền sở hữu về tài sản, người phạm tội trộm
cắp tài sản phải tác động đến đối tượng là tài sản của chủ sở hữu hoặc người
quản lý hợp pháp tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài
sản có thể là tài sản hợp pháp tức là những loại tài sản được xác lập quyền sở
hữu cho chủ sở hữu theo các căn cứ: do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh
doanh hợp pháp; được chuyển quyền sở hữu; thu hoa lợi, lợi tức; được thừa
kế tài sản; chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô
chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên…; chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu do Bộ luật dân
sự quy định …[19] hoặc có thể là tài sản bất hợp pháp như do phạm tội, vi
phạm pháp luật hành chính, vi phạm pháp luật dân sự mà có; đồng thời, tài
sản này vẫn chưa thoát ly khỏi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo quy
định của pháp luật, hoặc tài sản đó chưa được chủ sở hữu hoặc người quản lý
tài sản chuyển giao cho người thực hiện hành vi chiếm đoạt.
Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản” [19].
- Vật chỉ có thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản khi nó là
một bộ phận của thế giới vật chất, là sản phẩm lao động của con người, con
người chiếm hữu được, mang lại lợi ích cho chủ thể, có thể đang tồn tại hoặc
sẽ hình thành trong tương lai; đồng thời, chưa bị chủ tài sản hủy bỏ, từ bỏ
quyền sở hữu.
- Tiền: Tiền là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải có giá trị
đang được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận. Do vậy, tiền giả
8
không phải là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Trường hợp, tiền cũ
(tiền đồng qua các thời kỳ lịch sử trước đây) có giá trị văn hóa lịch sử khi bị trộm
cắp thì không được coi là tiền theo nghĩa này mà cần được xác định là vật.
- Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển
giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều
dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, công trái…
Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản và quyền này
được pháp luật bảo vệ. Giấy tờ có giá chia làm 02 loại là giấy tờ có giá ghi
danh và giấy tờ có giá hữu danh. Trong đó “Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ
có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở
hữu.” [22, khoản 2, Điều 2] và “Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát
hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô
danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá” [22, khoản 2,
Điều 3]. Đối với giấy tờ có giá ghi danh phải ghi rõ tên tổ chức, số giấy phép
thành lập hoặc giấy phép đăng ký kinh doanh, địa chỉ của tổ chức mua giấy tờ
có giá (nếu người mua là tổ chức); tên, số chứng minh nhân dân hoặc hộ
chiếu, địa chỉ của người mua giấy tờ có giá (nếu người mua là cá nhân). Với
quy định trên thì chỉ giấy tờ có giá vô danh mới có thể là đối tượng tác động
của tội trộm cắp tài sản bởi vì khi chiếm đoạt được các loại giấy tờ có giá vô
danh thì quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh hưởng và có khả năng xác
lập quyền sở hữu cho người phạm tội. Đối với giấy tờ có giá ghi danh do
quyền sở hữu các loại giấy tờ này gắn liền với cá nhân, tổ chức có tên trong
chính giấy tờ có giá đó. Do vậy, về nguyên tắc chỉ người có tên trên giấy tờ
có giá mới xác lập được quyền sở hữu đối với loại tài sản này.
- Quyền về tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài
sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài
sản khác. Quyền tài sản tuy được coi là tài sản nhưng có tính đặc thù, chỉ là
một quyền năng mang tính pháp lý được Nhà nước bảo hộ, để chuyển dịch
9
được phải thông qua các thủ tục pháp lý do Nhà nước quy định. Các quyền
này thường gắn liền với nhân thân con người hoặc được thể hiện qua các giấy
tờ có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Việc chiếm giữ được giấy tờ
chứng nhận quyền tài sản không đồng nghĩa với việc được thực hiện quyền sử
dụng và quyền định đoạt tài sản [13, tr.153]. Do vậy, theo tác giả quyền tài
sản không phải là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.
- Ngoài ra, một số tài sản sau không phải là đối tượng tác động của tội
trộm cắp tài sản:
+ Một số tài sản thuộc loại “bất động sản” có tính chất vật lý cố định, ví
dụ như: đất đai, nhà cửa, ao hồ. Những loại tài sản này không thể là đối tượng
tác động của tội trộm cắp tài sản, vì không dịch chuyển được. Tuy nhiên, có
một số động sản mà pháp luật dân sự quy định là bất động sản do công dụng
của nó như: cánh cửa gắn với ngôi nhà; cây cối trồng trên vườn… thì vẫn là
đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.
+ Tài sản vô chủ; tài sản bị rơi, bị bỏ quên, thất lạc; tài sản mà chủ sở
hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản đó.
+ Tài sản thuộc các loại có tính chất và công dụng đặc biệt. Ví dụ như:
vũ khí quân dụng, ma tuý, hàng cấm, máy bay…Nếu người phạm tội trộm cắp
những loại tài sản này thì tuỳ trường hợp mà phạm vào các tội danh cụ thể, có
thể là tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng, tội chiếm đoạt chất ma tuý.
* Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
a) Về hành vi khách quan
Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là dấu hiệu
quan trọng nhất, một hành vi được coi là hành vi khách quan của tội phạm khi
hội tụ được ba đặc điểm sau:
Thứ nhất, hành vi khách quan đó phải có tính nguy hiểm cho xã hội,
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thể hiện hành vi đó gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
10
Thứ hai, hành vi khách quan đó phải là hoạt động có ý thức và có ý chí
nếu hành vi đó là cách xử sự của một con người không có nhận thức không có
ý chí thì đó không phải là hành vi phạm tội.
Thứ ba, hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự.
Hành vi khách quan của tội phạm có thể được thực hiện dưới hình thức
hành động hoặc không hành động.
- Đối với tội trộm cắp tài sản thì hành vi khách quan có đầy đủ các đặc
điểm nêu trên, được thực hiện bằng hành động, đó là hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác. Được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật
tài sản của người khác thành của mình, làm cho chủ sở hữu mất khả năng thực
hiện quyền sở hữu (sử dụng, chiếm hữu, định đoạt của mình). Đặc trưng của
hành vi chiếm đoạt được thực tiễn cũng như lý luận đều xác định là chiếm
đoạt tài sản của người khác một cách lén lút.
Về thủ đoạn lén lút: thông thường thủ đoạn lén lút được thể hiện qua
các dạng sau:
+ Che giấu toàn bộ hành vi: Trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản không biết được bất cứ thông tin nào về người phạm tội cũng
như hành vi phạm tội (ví dụ: lợi dụng đêm tối, lẻn vào nhà người khác lấy
trộm tài sản).
+ Che giấu một phần hành vi: Tức chỉ che giấu riêng hành vi phạm tội (ví
dụ: người phạm tội giả vờ vào hỏi chủ nhà xin nước uống, sau đó nhanh tay trộm
tài sản của chủ nhà giấu vào người). Trong trường hợp này chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản biết rõ người phạm tội nhưng không biết hành vi phạm tội.
+ Che giấu tính chất của hành vi phạm tội: Được hiểu là hành vi phạm
tội được diễn ra công khai nhưng không ai biết việc phạm tội.
Ví dụ: A là nhân viên của Công ty điện tử SL đã lợi dụng Thủ kho và
người quản lý công ty đi vắng, A đã mở cửa kho lấy 10 bộ máy vi tính để bàn
lên ô tô một cách đàng hoàng như là có việc xuất kho hàng bình thường.
11
Trong trường hợp này A không che giấu hành vi thực tế của mình mà chỉ che
giấu tính phi pháp của hành vi. Những người không phải là chủ tài sản hoặc
người được giao quản lý tài sản (Thủ kho) vẫn biết sự việc xảy ra nhưng
không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản.
- Tội trộm cắp tài sản hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã chiếm
đoạt được tài sản.
b) Về hậu quả.
Hậu quả của tội phạm là các thiệt hại do hành vi khách quan gây ra cho
quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự và cũng là khách thể của
tội phạm [24, tr.127]. Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể hiện qua sự
biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là
khách thể của tội phạm. Về thực chất, hậu quả của tội phạm là thiệt hại gây ra
cho quan hệ xã hội nhưng về hình thức, dấu hiệu trong CTTP phản ánh nội
dung này là dấu hiệu thể hiện sự biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng tác động của tội phạm hoặc thể hiện đặc điểm của đối tượng tác động
của tội phạm. Do vậy, trong thực tiễn áp dụng, việc xác định, đánh giá hậu
quả của tội phạm được thực hiện thông qua việc xác định, đánh giá đặc điểm
của đối tượng tác động của tội phạm.
Trong tội trộm cắp tài sản sự biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng vật chất là khách thể của quan hệ xã hội: sự biến đổi này thường được
gọi là thiệt hại về vật chất. Đó là thiệt hại về giá trị tài sản bị chiếm đoạt bất
hợp pháp. Tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt bao gồm các loại tiền, vật,
giấy tờ có giá như ngân phiếu, công trái, trái phiếu…
- Căn cứ quy định của BLHS hiện hành, giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ
2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm.
- Nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng, thì người vi phạm bị truy
cứu TNHS nếu thuộc một trong các trường hợp sau: [13].
12
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
còn vi phạm. Đây là trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
chiếm đoạt (như cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản…), chưa hết thời hạn được
coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định của Luật xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 thì nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp
hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm kể từ ngày chấp hành
xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành
quyết định xử phạt hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử
phạt hành chính [13].
+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
Điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm. [13].
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Có thể hiểu là
gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự,
an toàn xã hội. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ
thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ. Đây là trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 2 triệu đồng nhưng tài sản bị
chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống của người bị hại hoặc gia đình họ. Xác
định trường hợp này cần chú ý phương tiện kiếm sống chính là trường hợp
cuộc sống của người bị hại và gia đình họ phụ thuộc vào việc sử dụng tài sản
đó làm phương tiện kiếm sống, việc bị chiếm đoạt làm cho người đó không
còn phương tiện kiếm sống khác.
+ Tài sản là di vật, cổ vật. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị
tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên [18,
Điều 4].
13
Tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất bởi dấu hiệu hậu quả được
phản ánh trong cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản. Đối với những
trường hợp một người có ý định trộm cắp tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn
như ôtô, xe máy, máy tính xách tay, đồng hồ đắt tiền… và người này có đủ
các dấu hiệu khác của tội phạm (như chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và
hành vi khách quan là lén lút chiếm đoạt tài sản) nhưng thực tế người đó chưa
chiếm đoạt được tài sản (Ví dụ: B biết được A để số tiền 500 triệu đồng trong
két sắt tại nhà riêng, nên đã lén lút đột nhập vào nhà A với ý định chiếm đoạt
số tiền trên, nhưng khi đang tìm cách mở két sắt thì A về, nên B trốn khỏi nhà
A...) thì dù người đó chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội trộm
cắp tài sản, nhưng tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
c) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối
quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên
nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là
hậu quả của tội phạm).
Dựa vào cơ sở lý luận của cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả trong
phép biện chứng có thể xác định được các điều kiện của mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả của tội trộm cắp tài sản như sau:
- Hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn lén lút phải xảy ra trước thiệt hại
cho tài sản của người khác về mặt thời gian.
- Trong bản thân hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác phải chứa
đựng khả năng thực tế, mầm mống nội tại, nguyên nhân trực tiếp làm phát
sinh hậu quả (thiệt hại về tài sản).
- Hậu quả của tội phạm (thiệt hại về tài sản của người khác) xảy ra là
thực hiện hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi chiếm đoạt
tài sản.
14
- Một hậu quả (thiệt hại về tài sản) của tội phạm có thể do một hoặc
nhiều nguyên nhân (một hoặc nhiều hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn
lén lút) trực tiếp gây ra.
* Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định
và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [26, tr.122].
Theo đó thì người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.
Xét từ góc độ pháp luật, năng lực trách nhiệm hình sự là khái niệm có
nhiều mặt. Một mặt, khái niệm này được dùng để khẳng định khả năng bị
buộc tội của một con người về hành vi tội phạm mà họ thực hiện. Mặt khác,
khái niệm này nêu bật khả năng của con người phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm mà họ đã thực hiện [49, tr. 69].
Luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định thế nào là người có
năng lực TNHS mà chỉ quy định thông qua độ tuổi chịu TNHS tại Điều 12
BLHS năm 2015 và tình trạng không có năng lực TNHS tại Điều 21 BLHS
năm 2015.
BLHS năm 2015 quy định về độ tuổi chịu TNHS như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,
171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,
303 và 304 của Bộ luật này”. [16, Điều 12].
Như vậy, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là
có năng lực TNHS chưa đầy đủ. Do đó, họ chỉ phải chịu TNHS về những tội
15
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong
các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178,
248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của
BLHS. Và người từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu TNHS về mọi tội phạm,
việc xác định tuổi đối với người chưa thành niên do cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện theo quy định của pháp luật.
Đồng thời tại BLHS năm 2015 quy định về tình trạng không có năng
lực TNHS như sau: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi
đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình
sự. [16, Điều 21].
Theo đó, một người chỉ được coi là không có năng lực TNHS khi đồng
thời thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
Về y học - người đó mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn
hoạt động tâm thần, đồng thời về tâm lý họ bị mất năng lực nhận thức, hoặc
mất năng lực điều khiển hành vi của mình, việc xác định hai dấu hiệu này do
hội đồng giám định pháp y xác định và kết luận.
Như vậy chủ thể của tội phạm phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và
không trong tình trạng không có năng lực TNHS.
Bên cạnh đó, một số CTTP đòi hỏi chủ thể phải có thêm dấu hiệu đặc
biệt chỉ khi có dấu hiệu này mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội mà
CTTP phản ánh, khoa học luật hình sự gọi đây là chủ thể đặc biệt.
Từ phân tích trên, đối chiếu với quy định tại Điều 173 BLHS cho thấy
tội trộm cắp tài sản thì chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS và
phải thỏa mãn điều kiện sau:
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm
cắp tài sản.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà thực hiện hành vi trộm cắp
16
tài sản thì chỉ phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 và khoản 4
Điều 173 BLHS.
Ngoài ra, tội này cũng không đòi hỏi người thực hiện hành vi phạm tội
phải có những dấu hiệu đặc biệt, nghĩa là bất kì ai cũng có thể là chủ thể của
tội phạm này. Tuy nhiên, trong trường hợp người có hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản nhưng là người có những dấu hiệu đặc biệt được quy định trong
Điều 353 BLHS năm 2015 và lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
mà mình có trách nhiệm quản lý thì hành vi người đó không phạm trộm cắp
tài sản mà phạm tội tham ô tài sản theo Điều 353 BLHS năm 2015.
* Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản.
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người
phạm tội [26, tr. 133]. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ, mục
đích của người phạm tội.
Đối với tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội trộm cắp tài sản nhận thức được rõ hành vi của mình là trái
pháp luật và nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó khi
tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái phép và mong muốn hậu quả xảy ra
[12, tr.314].
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan của người phạm tội
đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội [26, tr. 153]. Đối với tội
trộm cắp tài sản thì mục đích của người phạm tội nhằm chiếm đoạt được tài
sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước
khi thực hiện hành vi chiếm đoạt sản. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt
tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội cố ý [26, tr. 152]. Đối với tội trộm cắp tài sản người
phạm tội có thể xuất phát từ việc chiếm đoạt tài sản để trả nợ, để ăn
chơi…Tuy nhiên, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu định tội của tội
17
trộm cắp tài sản, nó chỉ có ý nghĩa khi xem xét quyết định hình phạt đối với
người trộm cắp tài sản.
* Về hình phạt
Hình phạt của tội trộm cắp tài sản được chia thành bốn khung, cụ thể
như sau:
- Khung một (khoản 1): Có mức hình phạt là hình phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung hai (khoản 2): Có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Được áp
dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Có tổ chức. Đây là trường hợp có từ 02 người trở lên cố ý câu kết
chặt chẽ với nhau cùng tham gia phạm tội trộm cắp tài sản.
+ Có tính chất chuyên nghiệp. Là trường hợp có từ 05 lần trở lên phạm
tội trộm cắp tài sản, trong đó có lần đã bị xét xử nhưng chưa được xóa án tích,
hoặc chưa lần nào bị xét xử và chưa lần phạm tội nào hết thời hiệu truy cứu
TNHS; và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy
kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt là
việc sử dụng phương pháp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có tính chất tinh
vi, gian dối cao làm cho mọi người dễ nhầm và không cho rằng đó là hành vi
trộm cắp tài sản. Phạm tội dùng thủ đoạn nguy hiểm là dùng thủ đoạn trộm
cắp tài sản nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của
người khác [13, tr.188].
+ Hành hung để tẩu thoát. Đây là trường hợp mà người phạm tội chưa
chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện
và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại
người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém…nhằm tẩu thoát.
18
+ Tài sản là bảo vật quốc gia. Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu
truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn
hóa, khoa học [18].
+ Tái phạm nguy hiểm. Đây là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích
mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản theo khoản 3, khoản 4 (tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) hoặc đã tái phạm, chưa được
xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
- Khung ba (khoản 3): Có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Được áp
dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
- Khung 4 (khoản 4): Có mức phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù
chung thân. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
- Hình phạt bổ sung (khoản 5): Ngoài việc phải chịu một trong các hình
phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị
phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
1.1.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội xâm phạm sở
hữu trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.2.1. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp giật tài sản
- Thứ nhất, về khách thể của tội phạm
+ Tội trộm cắp tài sản: Khách thể của tội này chỉ là quan hệ sở hữu tài
sản của người khác.
+ Tội cướp giật tài sản: Ngoài quan hệ sở hữu tài sản, thì khách thể của
tội này còn có quan hệ nhân thân (tính mạng, sức khỏe của người khác).
- Thứ hai, về thủ đoạn của hành vi khách quan
19
+ Tội trộm cắp tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội trộm cắp tài sản là
hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản của người khác.
+ Tội cướp giật tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội cướp giật tài sản là
hành vi công khai và nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác.
- Thứ ba, CTTP và thời điểm hoàn thành tội phạm
+ Tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất, hậu quả được quy định là
dấu hiệu bắt buộc trong CTTP và mức trị giá tối thiểu để làm cơ sở truy cứu
TNHS được điều luật quy định từ 02 triệu đồng trở lên. Trường hợp dưới 02
triệu đồng phải kèm theo các dấu hiệu định tội khác theo khoản 1 Điều 173.
Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản.
+ Tội cướp giật tài sản có cấu thành hình thức, dấu hiệu hậu quả không
được phản ánh trong CTTP, điều luật không quy định mức tối thiểu trị giá tài
sản bị chiếm đoạt mà chỉ cần người phạm tội có hành vi cướp giật là tội phạm
hoàn thành. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội có hành vi
cướp giật tài sản.
- Thứ tư, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
+ Tội trộm cắp tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn.
+ Tội cướp giật tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn.
- Thứ năm, hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.
+ Tội trộm cắp tài sản: Có hình phạt ít nghiêm khắc hơn.
Thể hiện: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 06 tháng đến 03 năm; khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; khoản 3:
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khoản 4: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Hình
phạt bổ sung: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
+ Tội cướp giật tài sản: Có hình phạt nghiêm khắc hơn. Thể hiện:
Khoản 1: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; khoản 2: phạt tù từ 03 năm đến 10
năm; khoản 3: phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khoản 4: phạt tù từ 12 năm đến
20
20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: phạt tiền từ 10.000.000 đồng
đến 100.000.000 đồng.
1.1.2.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản.
- Thứ nhất, về thủ đoạn của hành vi khách quan.
+ Tội trộm cắp tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội này là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản của người khác.
+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội này là
hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản ngay trước sự chứng kiến
của chủ tài sản, hoặc người quản lý tài sản.
- Thứ hai, về nhận thức của chủ tài sản, người quản lý tài sản khi bị
chiếm đoạt tài sản.
+ Tội trộm cắp tài sản: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được thực
hiện bằng khả năng không cho phép chủ tài sản, người quản lý tài sản biết khi
xảy ra hành vi phạm tội, trước khi xảy ra hành vi phạm tội thì tài sản vẫn đang
trong sự kiểm soát của chủ tài sản, người quản lý tài sản nhưng khi xảy ra
hành vi phạm tội họ không hề biết tài sản của mình bị chiếm đoạt, chỉ sau khi
mất tài sản họ mới biết.
+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Khi có hành vi chiếm đoạt tài sản
chủ tài sản, người quản lý tài sản vẫn nhận biết được có hành vi chiếm đoạt
nhưng do họ không có điều kiện bảo vệ tài sản của mình nên người phạm tội
mới ngang nhiên chiếm đoạt tài sản mà không cần dùng bất kì thủ đoạn nào
để đối phó với chủ tài sản, người quản lý tài sản.
- Thứ ba, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.
+ Tội trộm cắp tài sản: Mặc dù hình phạt chính là giống nhau nhưng
hình phạt bổ sung của tội này ít nghiêm khắc hơn.
Cụ thể: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
21
+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Hình phạt bổ sung nghiêm khắc
hơn. Cụ thể: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
1.1.2.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản
- Thứ nhất, về thủ đoạn của hành vi khách quan.
+ Tội trộm cắp tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội này là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản của người khác.
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội này là
dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
- Thứ hai, về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
+ Tội trộm cắp tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn.
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn.
- Thứ ba, về hình phạt áp dụng với người phạm tội.
+ Tội trộm cắp tài sản: Có hình phạt ít nghiêm khắc hơn.
Cụ thể: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm; khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; khoản 3:
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khoản 4: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Hình
phạt bổ sung: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Có hình phạt nghiêm khắc hơn.
Cụ thể: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm; khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; khoản 3:
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khoản 4: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù
chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Trong thực tế, có trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối
tiếp cận tài sản để đến khi có điều kiện mới lén lút chiếm đoạt tài sản của nạn
22
nhân thì đó là dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản chứ không phải lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Ví dụ: D đóng giả Công an vào ngủ nhờ nhà ông T, ông T tưởng D là
Công an thật nên cho ngủ. Đến 12 giờ đêm, D thức giấc thấy mọi người trong
nhà đã ngủ say, D đã lục tủ lấy được 5.000.000 đồng và một điện thoại của
ông T. Hành vi này của D được xác định là tội trộm cắp tài sản.
1.2. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn
từ năm 1945 đến khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình
sự năm 1985
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu sự ra đời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Với thắng lợi mang ý nghĩa Chính trị - lịch sử này, bên cạnh
việc hình thành một nhà nước kiểu mới thì đồng thời cũng đánh dấu mốc quan
trong trong lịch sử lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói riêng.
Trong giai đoạn đầu khi nhà nước mới thành lập phải đương đầu với
nhiều khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, chính vì vậy để điều chỉnh quan
hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật hình sự nói riêng. Nhà nước ta đã
ban hành sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945, tạm thời giữ lại các luật lệ cũ
tại ba miền cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật mới đề điều chỉnh các
quan hệ trên với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân
chủ cộng hòa.
Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, luật cũ có nhiều quy định không
thích hợp Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự quan
trọng để xử lý hành vi trộm cắp tài sản như: Sắc lệnh số 12-SL ngày
12/3/1948 quy định trừng trị các hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh trong
thời bình và thời kỳ chiến tranh, Nghị định số 32-NĐ ngày 06/4/1952 của Bộ
tư pháp quy định đường lối xét xử các tội trộm cắp, lừa đảo, biển thủ tài sản;
23
Thông tư số 1-BK ngày 14/12/1949 của liên Bộ nội vụ, Quốc phòng, Tư pháp
ấn định phương pháp đối phó với các vụ trộm cắp tại nơi có chiến sự.
Ví dụ: Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1948 quy định trừng trị các hành vi
trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh, có quy
định: "Trong thời bình, tội ăn cắp, lấy trộm các đồ quân giới, quân trang,
quân dụng nói tóm lại các vật dụng nhà binh, bị phạt theo điều khoản của
hình luật chung" [9, Điều 1].
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc tiến hành
xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Để góp phần vào việc bảo vệ sự nghiệp xây dựng
kinh tế và văn hoá mới, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành
một số văn bản điều chính về hành vi trộm cắp tài sản như: Thông tư 442-TTg
ngày 19/1/1955 của Thủ tuớng Chính phủ, quy định thống nhất một số tội
phạm, trong đó có tội trộm cắp tài sản:
“1. Trộm cắp: phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp trộm có tổ
chức, có bạo lực, có dùng vũ khí để doạ nạt thì phạt tù từ 3 đến 10 năm.”[47]
Điểm đặc biệt của Thông tư này là tại mục 4 cho phép áp dụng tương
tự, có nghĩa là nếu ngoài tội trộm cắp tài sản, đối với những tội tượng tự với
tội trộm cắp, các Toà án có thể phạt theo như tội đó.
Do yêu cầu khách quan của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
ngày 21/101970, Nhà nước ta đã thông qua hai Pháp lệnh mới, trên tinh thần
pháp điển hóa các văn bản pháp luật trước đó quy định về tội trộm cắp tài sản
nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu nói chung. Đó là: Pháp lệnh số 149-
LCT ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp
lệnh số 150-LCT ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng
của công dân.
Trong đó, tội trộm cắp được quy định tại hai pháp lệnh với tên tội danh
là tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội trộm cắp tài sản riêng của công
24
dân. Cụ thể: Điều 7, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa quy định tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, như sau:
“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng
đến 5 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chuyên
nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Có móc ngoặc; d) Dùng
thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Trộm tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản
có giá trị đặc biệt; e) Dùng tài sản trộm cắp vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu
cơ hoặc vào những việc phạm tội khác;
Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có
nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì phạt
tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình” [51].
Điều 6, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân
quy định tội trộm cắp tài sản riêng của công dân, như sau:
“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3
tháng đến 3 năm.
Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chuyên
nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt,
nguy hiểm; d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại
hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.
2. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ 7 năm đến 15 năm” [52].
Việc ban hành song song hai bản Pháp lệnh thời điểm này thể hiện sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ không những đối với tài
sản nhà nước, của hợp tác xã, mà cả đối với tài sản riêng của công dân, góp
phần xây dựng chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc.
Tóm lại, sơ lược giai đoạn luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến
25
trước khi nhà nước ta ban hành BLHS năm 1985, tội trộm cắp tài sản đã đuợc
quy định tại nhiều văn bản đơn lẻ khác nhau. Đặc biệt với sự ra đời của Pháp
lệnh số 149-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và
Pháp lệnh số 150-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công
dân, Nhà nuớc ta đã xây dựng đuợc hai CTTP về tội trộm cắp tài sản trong đó
quy định riêng biệt về trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và trộm cắp tài sản
riêng của công dân. Tuy nhiên, các quy định trên vẫn còn nằm tản mạn nhiều
văn bản, quy định vẫn chưa cụ thể, rõ ràng gây khó khăn khi áp dụng.
1.2.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 về tội trộm cắp tài sản
BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của nhà nước ta, có hiệu lực từ ngày
1/1/1986, đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp hình sự của
đất nước. Trong BLHS năm 1985, tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa được
quy định tại Điều 132, Chương 4 (có mức hình phạt cao nhất là tử hình) và tội
trộm cắp tài sản của công dân quy định tại Điều 155, Chương 6 của BLHS năm
1985 (có mức hình phạt cao nhất là tù hai mươi năm).
“Điều 132. Tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa
1. Người nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; c) Hành
hung để tẩu thoát; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”[14].
Về tội trộm cắp tài sản của công dân đuợc quy định tại Điều 155
BLHS:
“Điều 155. Tội trộm cắp tài sản của công dân
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
26
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
hai năm đến mười năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy
hiểm; hành hung để tẩu thoát; c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng khác; d) Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
bảy năm đến hai mươi năm”.[14]
Về hình phạt ngoài hình phạt tử hình, hình phạt tù (có thời hạn và
chung thân), thì nhà làm luật còn quy định việc áp dụng hình phạt cải tạo
không giam giữ, nhằm mở rộng hơn nữa các chế tài hình sự áp dụng với
người phạm tội, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm trong từng hành
vi, thuận lợi cho việc quyết định hình phạt.
Để phù hợp với tình hình thực tiễn, BLHS năm 1985 đã được Quốc hội
nước ta bốn lần sửa đổi, bổ sung (vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997)
những lần sửa đổi, bổ sung này chủ yếu nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh đối
với một số loại tội phạm nhất định, trong đó bổ sung thêm quy định về một
tình tiết định khung tăng nặng TNHS đối với người phạm tội vào điểm b
khoản 2 Điều 155 tội trộm cắp tài sản của công dân, đó là“có tính chất
chuyên nghiệp”. Tuy nhiên, trong thời gian này chưa có văn bản hướng dẫn
cụ thể về tình tiết phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp”.
Tóm lại, BLHS năm 1985 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển trong
kỹ thuật lập pháp, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nhà nước ta đã xây
dựng được cơ sở pháp lý thống nhất đề truy cứu TNHS hành vi trộm cắp tài
sản, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân cũng như hiệu quả
của công tác đấu tranh chống tội phạm. Tuy nhiên, BLHS năm 1985 được ban
hành trong thời kỳ tập trung, quan liêu, bao cấp, có sự phân biệt rõ ràng trong
việc bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, và sau nhiều lần
sửa đổi, bổ sung thì BLHS năm 1985 đã không còn là một chỉnh thể thống
nhất; đồng thời, quy định của BLHS về tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa
27
và công dân vẫn còn giản đơn, chưa rõ ràng (chưa xác định ngay trong CTTP
giá trị tài sản bị chiếm đoạt để truy cứu TNHS), gây khó khăn trong việc áp
dụng, đòi hỏi phải được sửa đổi một cách toàn diện.
1.2.3. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội trộm cắp tài sản
BLHS năm 1999 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2000. BLHS
năm 1999 đã gộp hai chương xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 1985 thành
một chương và tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138.
Như vậy, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã có những sửa
đổi, bổ sung quan trọng về tội trộm cắp tài sản. Cụ thể:
Thứ nhất, BLHS năm 1999 đã hợp nhất hai điều luật về tội trộm cắp tài
sản xã hội chủ nghĩa (Điều 132) và tội trộm cắp tài sản của công dân (Điều
155) của BLHS năm 1985 thành một điều luật quy định về tội trộm cắp tài sản
(Điều 138). Đồng thời, để đáp ứng đường lối xử lý người phạm tội xâm phạm
quyền sở hữu tài sản, Điều 48 BLHS năm 1999 quy định tình tiết tăng nặng
mới "Xâm phạm tài sản nhà nước".
Thứ hai, khi quy định về tội trộm cắp tài sản, BLHS năm 1999 đã định
lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt, người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS
theo các khoản khác nhau của Điều 138 BLHS. Điều này tạo thuận lợi cho
các chủ thể áp dụng pháp luật khi định tội danh và quyết định hình phạt.
Thứ ba, BLHS năm 1999 quy định bốn khung hình phạt so với ba
khung hình phạt trước đây như quy định của Điều 132 và Điều 155 BLHS
năm 1985. Điều này giúp thu hẹp khoảng cách giữ mức tối đa và mức tối
thiểu của một khung hình phạt và tạo cơ sở pháp lý cho việc truy cứu TNHS
chuẩn xác hơn.
Thứ tư, Điều 138 BLHS năm 1999 đã xác định ranh giới giữa trường
hợp hành vi vi phạm pháp luật hành chính với trường hợp phạm tội. Người
lấy tài sản của người khác có giá trị dưới 500.000 đồng và hành vi này không
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó chưa bị xử lý hành chính về hành vi
28
chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản thì chỉ bị xử phạt
hành chính.
Thứ năm, BLHS năm 1999 quy định về hình phạt bổ sung bị phạt tiền
từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.
Để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trong thời kỳ mới, BLHS
năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung một lần vào năm 2009, xác định lại ranh
giới giữa trường hợp hành vi vi phạm pháp luật hành chính với trường hợp
phạm tội cụ thể: Người lấy tài sản của người khác có giá trị dưới 2 triệu đồng
và hành vi này không gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó chưa bị xử lý
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài
sản thì chỉ bị xử phạt hành chính.
Tóm lại, BLHS năm 1999 đã quy định về tội trộm cắp tài sản khá chặt
chẽ, phù hợp với tình hình phát triển thời điểm đó. Tuy nhiên, kể từ sau khi
BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi
to lớn về mọi mặt, việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội
nhập quốc tế của Việt Nam, nhiều quy định của BLHS năm 1999 (trong đó có
tội trộm cắp tài sản) đã không còn phù hợp, đòi hỏi cần được sửa đổi.
1.2.4. Điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội trộm cắp tài sản
So với quy định của BLHS năm 1999, thì BLHS năm 2015 có những
điểm mới sau:
Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã bỏ hình phạt tù chung thân, khung hình
phạt cao nhất tội này đến 20 năm tù. Quy định này nhằm góp phần tiếp tục thể
chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp được khẳng
định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Thứ hai, bãi bỏ tình tiết chiếm đoạt tài sản dưới 02 triệu đồng nhưng
gây hậu quả nghiêm trọng là điều kiện cấu thành tội trộm cắp tài sản quy định
tại khoản 1, Điều 138 BLHS năm 1999; bãi bỏ các tình tiết định khung (Gây
hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt
29
nghiêm trọng) quy định tại điểm d khoản 2, điểm b khoản 3 và điểm b khoản
4 Điều 138 BLHS năm 1999.
Thứ ba, về yếu tố cấu thành tội phạm, thì đồng thời với việc bổ sung
hai tình tiết định tội: c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ; tài sản là di vật, cổ vật, BLHS không quy định hành vi trộm cắp tài sản
của người khác có giá trị dưới 2.000.000 đồng thuộc một trong các trường
hợp sau đây là phạm tội: Một là, đã bị xử phạt hành chính về hành vi tham ô
tài sản hoặc hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, chưa
hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm;
Hai là, đã bị kết án về tội tham ô tài sản hoặc tội lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Thứ năm, bổ sung 01 tình tiết định khung mới:
+ Khoản 2 bổ sung tình tiết: Tài sản là bảo vật quốc gia.
+ Khoản 3 bổ sung tình tiết: Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
+ Khoản 4 bổ sung tình tiết: Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng
khẩn cấp.
30
Tiểu kết Chương 1
Tại Chương 1 của luận văn, tác giả đã nghiên cứu, phân tích một số vấn
đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản, như khái niệm và các đặc điểm
của tội trộm cắp tài sản trên cơ sở nghiên cứu khái niệm chung của tội phạm
tại Điều 8 BLHS năm 2015 và các bài viết, bình luận khoa học, giáo trình của
các trường đại học trên cả nước để xây dựng khái niệm tội trộm cắp tài sản,
chỉ ra được những đặc điểm của tội trộm cắp tài sản. Qua đó, luận văn đã
phân biệt tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một số tội có
tính chất chiếm đoạt như tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản,
lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong chương này, tác giả cũng đã khái quát lịch
sử lập pháp của tội trộm cắp tài sản giai đoạn từ năm 1945 đến nay. Kết quả
nghiên cứu tại Chương 1 của luận văn là cơ sở, nền tảng để tác giả nghiên
cứu, phân tích đánh giá quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản
và thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt trên địa bàn huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh trong các chương tiếp theo của luận văn.
31
Chương 2
THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
2.1. Khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện
Tiên du, tỉnh Bắc Ninh
Trong 5 năm từ năm 2015 đến năm năm 2019, Tòa án nhân dân huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử tổng số 616 vụ án và 1077 bị cáo, trong đó có 369 vụ
án và 684 bị cáo bị xét xử về nhóm tội xâm phạm sở hữu cụ thể như sau:
Bảng 2.1. Số vụ án và số bị cáo về tội xâm phạm sở hữu đã được đưa ra
STT Nhóm tội
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Năm 2015 Năm 2016 Số bị cáo
Số bị cáo
Năm 2017 Số bị cáo
Năm 2018 Số bị cáo
Năm 2019 Số bị cáo
41
64
56
186
57
83
170
271
45
80
1
09
19
10
16
05
06
07
14
07
12
2
17
18
15
15
54
62
10
22
08
19
3
19
68
19
67
17
76
12
25
06
10
4
02
02
02
03
02
05
05
06
02
02
5
01
01
01
01
01
08
01
01
01
01
6
7
Xâm phạm sở hữu Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người Ma túy Xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng Xâm phạm trật tự quản lý hành chính Xâm phạm trât tự quản lý kinh tế Khác
0 92
0 172
1 186
0 137
0 246
08 213
09 348
01 70
Tổng
01 1 104 125 (Nguồn: TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
xét xử từ năm 2015 đến năm 2019
32
Biểu đồ 2.1. So sánh tỷ lệ nhóm tội xâm phạm sở hữu với nhóm tội khác
Biểu đồ so sánh tỷ lệ tội xâm phạm sở hữu với các tội khác từ năm 2015 đến năm 2019
Tội xâm phạm sở hữu
Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người
Ma túy
Xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
Xâm phạm trật tự quản lý hành chính
Xâm phạm trât tự quản lý kinh tế
Tội khác
từ năm 2015 đến năm 2019 được TAND huyện Tiên Du đưa ra xét xử:
Qua bảng thống kê và biểu đồ so sánh giữa nhóm tội xâm phạm sở hữu
với các nhóm tội danh khác được TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đưa
ra xét xử, chúng ta có thể thấy:
Số vụ án và số bị cáo thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ lớn
nhất trong các nhóm tội, cụ thể là 369 vụ và 684 bị cáo, tương ứng tỷ lệ
59,9% về vụ và 63,5% về số bị cáo trên tổng số vụ và bị cáo được đưa ra xét
xử. Cho thấy sự phổ biến và phức tạp của nhóm tội này trên địa bàn huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
33
Bảng 2.2: Số vụ án và số bị cáo về tội trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét
Tỷ lệ % (2)/ (1)
Tổng số vụ án và bị cáo thuộc nhóm tội xâm sở hữu (1)
Tổng số vụ án và bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản bị xét xử (2)
Năm
Số vụ
Số bị cáo
Số vụ
Số bị cáo
Số vụ
Số bị cáo
2015
41
64
32
51
78,04
79,6
2016
56
83
36
56
64,2
67,4
2017
57
83
40
58
70,17
69,8
2018
170
271
45
63
26,47
23,2
2019
60
91
43
60
71,6
65,9
Tổng
384
592
196
288
51,04
48,64
xử từ năm 2015 đến năm 2019
(Nguồn: TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
Biểu đồ 2.2. So sánh tội trộm cắp tài sản với các tội xâm phạm sở hữu đã
Biểu đồ so sánh tổng số tội xâm phạm sở hữu với tội trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019
180
160
140
120
100
80
60
40
20
0
2015
2016
2017
2018
Thg6-19
Tổng số vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu
Tổng số vụ trộm cắp tài sản
được TAND huyện Tiên Du đưa ra xét xử:
Qua bảng thống kê và biểu đồ so sánh giữa tội trộm cắp tài sản với tổng
34
số vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu, được TAND huyện Tiên Du, tỉnh
Bắc Ninh đưa ra xét xử, có thể thấy:
- Số vụ phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nhóm tội
xâm phạm sở hữu, cụ thể là Tòa án nhân dân huyện Tiên Du đã đưa ra xét xử
196 vụ với 288 bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản, chiếm tỷ lệ 51,04 % số vụ và
48,64 % số bị cáo trên tổng số các tội xâm phạm sở hữu đưa ra xét xử.
- Số liệu thống kê cũng cho thấy, tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong 5 năm qua luôn duy trì ở mức cao. Thấp nhất
vào năm 2015 với 32 vụ/51 bị cáo, nhưng lại chiếm tỉ lệ cao nhất trong nhóm
tội xâm phạm sở hữu là 78,04 % về số vụ, 79,6 % về số bị cáo. Cao nhất vào
năm 2018 với 45 vụ và 63 bị cáo, do thời điểm này Tòa án thay đổi cách tính
năm công tác của ngành Tòa án từ 30/9 lên 30/10, nên số vụ án tăng mạnh.
Tội trộm cắp tài sản đang có xu hướng tăng mạnh, khi năm 2019 có 43 vụ/ 60
bị cáo, chiếm tỉ lệ 71,6 % về số vụ và 65,9 % về số bị cáo so với tổng số vụ án
và bị cáo thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu đã đưa ra xét xử.
Điều này đặt ra yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống tội trộm
cắp tài sản cần phải được đẩy mạnh trong thời gian tới nhằm hạn chế sự gia
tăng của loại tội này trong thực tiễn.
Bảng 2.3. Hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội trộm cắp
Năm
Án treo
Số bị cáo đã xét xử
Tù dưới 03 năm
Tù 03 năm đến 07 năm
Tù 07 năm đến 15 năm
Tù chung thân, tử hình
Cảnh cáo, cải tạo không giam giữ 05 05 07 06 09 32
51 56 58 63 60 288
04 06 09 11 08 38
24 29 19 29 28 129
12 12 16 13 14 67
06 04 07 04 01 22
Tù từ 15 năm đến 20 năm 00 00 00 00 00 00
Tù từ 20 năm đến chung thân 00 00 00 00 00 00
00 00 00 00 00 00
2015 2016 2017 2018 2019 Tổng
tài sản từ năm 2015 đến năm 2019
(Nguồn: TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)
35
2.2. Kết quả đạt được từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình
phạt tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Một số vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt
tội trộm cắp tài sản
* Về định tội danh:
Mặc dù trong khoa học luật hình sự có nhiều khái niệm khác nhau về
định tội danh. Do vậy, chúng ta có thể hiệu định tội danh tội trộm cắp tài sản
là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành
trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của
vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản được
quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 nhằm đạt được sự thật khách quan,
tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền
đề cho việc cá thể hóa và phân hóa TNHS một cách công minh, có căn cứ và
đúng pháp luật.
- Định tội danh được phân thành hai loại định tội danh: định tội danh
chính thức và định tội danh không chính thức. Định tội danh chính thức là
hoạt động định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án mà trực tiếp là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thể hiện qua các quyết định như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, kết luật điều tra,
cáo trạng, bản án…Định tội danh không chính thức là hoạt động định tội danh
của các chủ thể khác nhau như những người nghiên cứu khoa học, luật gia,
giảng viên, sinh viên luật…thể hiện quan điểm khoa học, nhận thức cán nhân
đối với một hành vi phạm tội trên thực tế, và không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ giữa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với các cơ quan
36
nhà nước có thẩm quyền.
- Căn cứ vào cách phân loại cấu thành tội phạm theo mức độ nguy hiểm
cho xã hội của cấu thành tội trộm cắp tài sản, định tội danh tội trộm cắp tài
sản được chia thành định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm
cơ bản (khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015) là cấu thành tội phạm chỉ có dấu
hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội
khác và định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm tăng nặng
(theo các khoản 2, 3, 4 Điều 173 BLHS năm 2015) là cấu thành tội phạm mà
ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ
của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (so với trường hợp
bình thường).
* Về quyết định hình phạt
Bộ luật hình sự hiện hành không quy định cụ thể quyết định hình phạt
là gì. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu: Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa
chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành, Tòa án lựa chọn hình
phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu, phải tuân theo những quy định của Bộ luật
hình sự” [21, tr. 3].
Đây là, các căn cứ quyết định hình phạt có tính chất bắt buộc Hội đồng
xét xử phải tuân thủ để hình phạt được quyết định một cách đúng đắn. Thứ ba,
yêu cầu tuân thủ đúng căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện quan trọng để
hình phạt được tuyên bố có khả năng đạt được các mục đích của hình phạt ở
mức cao nhất [23, tr. 13, 16].
- Các căn cứ quyết định hình phạt:
Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính
nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích pháp luật mà có, buộc
Tòa án phải tuân theo khi Quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội
phạm [53, tr. 237]. Nội dung các căn cứ được quy định tại Điều 50 BLHS.
37
Như vậy, khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Tòa án phải
xét đến 04 căn cứ sau:
Thứ nhất, các quy định của Bộ luật hình sự. Các quy định của BLHS
năm 2015 chia làm 02 loại là quy định ở phần chung và phần các tội phạm cụ
thể (tội trộm cắp tài sản). Đó là nhóm những quy định có tính nguyên tắc
chung cho từng loại hình phạt (quy định về hệ thống hình phạt, về nội dung,
phạm vi và điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt), những quy định có
tính nguyên tắc chung cho việc miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện và những quy định về tội phạm cụ thể, trong trường
hợp này là quy định về tội trộm cắp tài sản như: Quy định về nguyên tắc xử lý
(Điều 3 BLHS); các quy định liên quan đến hình phạt như: mục đích hình
phạt, nội dung, phạm vi, điều kiện của các loại hình phạt (từ Điều 30 đến
Điều 45 BLHS); các quy định về căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50
BLHS), các tình tiết giảm nhẹ (Điều 51 BLHS) và tăng nặng TNHS (Điều 52
BLHS...các quy định cụ thể về khung hình phạt, mức hình phạt, loại hình phạt
quy định tại Điều 173 BLHS.
Thứ hai, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội. Căn cứ này được quyết định bởi ý nghĩa, tầm quan trọng của khách thể do
tội phạm xâm hại, phụ thuộc vào yếu tố về mặt khách quan như hành vi khách
quan, hậu quả, công cụ phương tiện phạm tội, tính chất mức độ lỗi, các mức
độ thực hiện tội phạm (hoàn thành, chưa đạt hay chuẩn bị phạm tội), động cơ,
mục đích của người có hành vi phạm tội trộm cắp tài sản...
Thứ ba, về nhân thân người phạm tội. Nhân thân người phạm tội trong
luật hình sự có thể hiểu là những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý
nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ. Do
vậy, khi xem xét nhân thân người phạm tội Tòa án chỉ xem xét những đặc
điểm nhất định có liên quan đến mục đích của hình phạt, đó là những đặc
38
điểm ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
phản ánh khả năng giáo dục và cải tạo người phạm tội, hoàn cảnh của người
phạm tội.
Thứ tư, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS của người phạm tội.
Các tình tiết giảm nhẹ được quy định trong BLHS hoặc do Tòa án xác định
nhưng phải nêu rõ lý do trong bản án, các tình tiết tăng nặng TNHS được quy
định trong BLHS.
2.2.2. Kết quả đạt được từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình
phạt tội trộm cắp tài sản trên địa huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
2.2.2.1. Định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản theo
cấu thành tội phạm cơ bản
Cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1
Điều 173 BLHS năm 2015 (khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999).
Qua nghiên cứu các bản án của TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
xét xử tội trộm cắp tài sản trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019
cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng cơ bản đều định tội danh và quyết
định hình phạt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Toà án nhân dân huyện
Tiên Du đảm bảo việc xét xử các vụ án trong thời hạn luật quy định, không có
vụ án nào oan sai.
Một số vụ án điển hình như:
- Bản án số 207/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 của TAND huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh.
Khoảng 09 giờ ngày 04/10/2018, tại thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc
Ninh, Nguyễn Công T (sinh năm 1988, ĐKHKTT: thôn N, xã M, huyện T,
tỉnh Bắc Ninh) đã đột nhập vào nhà bà Nguyễn Thị B, trộm cắp được số tiền
500.000 đồng và 02 chiếc khuyên tai màu vàng đựng trong 01 hộp nhựa màu
đỏ, được định giá là 6.860.000 đồng. Tổng số tài sản bị cáo trộm cắp được tại
nhà bà B là 7.360.000 đồng. Ngày 30/11/2018, TAND huyện Tiên Du, tỉnh
39
Bắc Ninh đã ra bản án 207/2018/HS-ST tuyên bố bị cáo Nguyễn Công T
phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173.
Như vậy, TAND huyện Tiên Du đã tiến hành định tội danh hành vi của
Nguyễn Công T theo các dấu hiệu sau:
+ Về khách thể: Hành vi đột nhập vào nhà bà Nguyễn Thị B của
Nguyễn Công T, đã xâm phạm trực tiếp quan hệ sở hữu về tài sản của bà B,
làm mất khả năng quản lý, sử dụng và định đoạt số tiền 500.000 đồng và 02
chiếc khuyên tai màu vàng của bà B.
+ Về chủ thể: Nguyễn Công T là người đã thành niên, đạt độ tuổi phải
chịu TNHS, có khả năng nhận thức và điều hiển hành vi của mình nhưng vẫn
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bà B.
+ Về mặt khách quan: Nguyễn Công T đã đột nhập vào nhà bà Nguyễn
Thị B, trộm cắp được số tiền 500.000 đồng và 02 chiếc khuyên tai màu vàng
đựng trong 01 hộp nhựa màu đỏ. Hành vi này được thực hiện một cách lén
lút, chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015. Hậu quả
đã gây thiệt hại cho bà B tổng số là 7.360.000 đồng.
TAND huyện Tiên Du đã định tội danh đối với hành vi của Nguyễn
Công T theo khoản 1 Điều 173 trên cơ sở các dấu hiệu trên là hoàn toàn đúng
quy định của pháp luật.
Về quyết định hình phạt: TAND huyện Tiên Du đã căn cứ vào các yếu
tố sau đây để quyết định hình phạt với Nguyễn Công T.
+ Căn cứ vào quy định của BLHS: Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu
thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1
Điều 173 Bộ luật hình sự, với mức hình phạt “cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
+ Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội: hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm
đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ.
40
+ Nhân thân của Nguyễn Công T: Bị cáo đã sử dụng trái phép chất ma
túy bị Công an thị xã Từ Sơn xử phạt hành chính năm 2015 nhưng chưa nộp
tiền do vậy xác định bị cáo có 01 tiền sự. Bị cáo đã từng bị kết án về tội
“Trộm cắp tài sản” đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài
học cho bản thân lại tiếp tục phạm tội.
+ Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy:
Bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi
phạm tội của mình, đồng thời bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị
hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được
hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều
51 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở đó, Tòa án tuyên phạt bị cáo Nguyễn Công T 08 (Tám)
tháng tù về tội trộm cắp tài sản [35].
* Với việc vận dụng linh hoạt quy trình định tội danh và quyết định
hình phạt, TAND huyện Tiên Du đã định tội danh và quyết định hình phạt
nhiều vụ án khác như sau:
- Bản án số 47/2019/HSST ngày 12/4/2019 của TAND huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh.
Khoảng 14h ngày 11/01/2019, Nguyễn Văn H đi xe ôm của một người
thanh niên không quen biết từ nhà đến huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh với mục
đích xem có ai sơ hở thì trộm cắp, H phát hiện trên vỉa hè đối diện trường học
X có dựng 01 xe máy Super Dream màu nâu BKS 99H5-8746. H quan sát
xung quanh có đông người đang chờ đón con nhưng không có ai trông chiếc
xe trên. H đến gần xe rồi dùng vam phá khóa mang theo chọc vào ổ điện vặn
mạnh theo chiều kim đồng hồ thì ổ khóa bị toét. H đang loay hoay tìm cách đề
nổ chiếc xe thì bị anh Nguyễn Văn Ngữ và anh Nguyễn Ngọc Bình bắt quả
tang; 01 chiếc xe mô tô trên có giá trị là 10.000.000đ. Ngày 12/4/2019, Tòa
án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, đã ra ản án số 47/2019/HSST,
41
tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1
Điều 173.
Quyết định hình phạt: Căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: TAND
huyện Tiên Du đã áp dụng điểm s, khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 điều 52
BLHS, xử phạt: Nguyễn Văn H 18 (Mười tám) tháng tù. [36].
- Bản án số 45/2019/HSST ngày 24/4/2019 của TAND huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh.
Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Mậu C là anh em họ. Khoảng 19h ngày
28/12/2018, H rủ C đi trộm cắp xe máy. H và C phát hiện thấy vỉa hè trước
cửa một phòng trọ có dựng một chiếc xe máy Honda Wave màu trắng-đen-
bạc, BKS 99H1-058.80 của anh Vi Văn T. Thấy xung quanh không có người
trông coi, H và C nẩy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy đó. Đến gần chỗ
dựng xe, C dừng lại đứng cảnh giới xung quanh. H đi bộ lại gần xe máy rồi
dùng chiếc vam phá khóa mang theo chọc vào ổ khóa điện vặn mạnh theo
chiều kim đồng hồ thì thấy đèn mo bật sáng. H nhanh chóng lên xe đề nổ máy
và điều khiển xe phóng nhanh theo đường ra hướng thị xã Từ Sơn. C thấy H
trộm cắp được xe liền đi xe máy về nhà. Trên đường đi, H đỗ xe lại tháo BKS
và vứt BKS cùng chiếc cờ lê xuống ao gần đó. H đi xe đến nhà nghỉ Thanh
Bình ở phường Đồng Nguyên, TX. Từ Sơn gọi điện thoại hẹn C đến. C đến và
điện thoại cho anh Dương Văn Minh ở TX. Từ Sơn đến xem xe. H và C đã bán
xe cho anh Minh với giá 4.000.000đ chia nhau mỗi người 2.000.000đ để chi tiêu
cá nhân. Chiếc xe máy sau được định giá 18.000.000 đồng. Ngày 24/4/2019,
TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ra bản án số 45/2019/HSST tuyên bố các
bị cáo Nguyễn Ngọc H; Nguyễn Mậu C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Về quyết định hình phạt: Căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
42
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tòa án đã căn
cứ điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt: Nguyễn Ngọc H 36 (Ba mươi sáu)
tháng tù. Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt: Nguyễn Mậu C 15
(Mười lăm) tháng tù.Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày 14/01/2019 [37].
- Bản án số 54/2018/HSST ngày 14/03/2018 của TAND huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh.
Sáng ngày 20/12/2017, lợi dụng sơ hở của Công ty S tại khu công
nghiệp T thuộc xã H, huyện T, Bùi Hữu B đã lấy 08 màn hình điện thoại
Samsung J730 (thành phẩm). Kết luận định giá tài sản xác định 08 chiếc màn
hình điện thoại Samsung J730 có giá trị là 5.845.000 đồng. Ngoài hành vi
trên, B còn khai nhận trong tháng 11/2017 đã 03 lần chiếm đoạt tài sản công
ty. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 18.985.000 đồng. Ngày 14/03/2018,
TAND huyện Tiên Du đã ra bản án số 54/2018/HSST, tuyên Bùi Hữu B phạm
tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999.
Quyết định hình phạt: Căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tòa án đã
áp dụng điểm b, o, p, q khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Bộ luật
hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Bùi Hữu B 14
tháng tù nhưng cho hương an treo. Thời gian thử thách 28 tháng tính từ ngày
tuyên án sơ thẩm [38].
2.2.2.2. Định tội danh và quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm
tăng nặng
Đây là trường hợp định tội danh và quyết định hình phạt theo khoản 2,
3, 4 BLHS năm 2015 (khoản 2, 3, 4 BLHS năm 1999). Thực tiễn xét xử trên
địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong khoảng thời gian từ năm 2015
đến năm 2019, các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện đa số đều định tội
danh và quyết định hình phạt theo các cấu thành tăng nặng đúng người, đúng
43
tội, đúng pháp luật và điều này được thể hiện thông qua nhiều các vụ án về tội
trộm cắp tài sản được Tòa án nhân dân huyện Tiên Du đưa ra xét xử.
- Bản án số 42/2018/HSST ngày 29/01/2018 của TAND huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh.
Nguyễn Gia K, sinh năm 1989; ĐKHKTT: Thôn N, xã X, huyện X,
tỉnh Nam Định; thuê trọ tại thôn M, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh từ tháng
10/2017 để làm thợ phụ hồ. Khoảng 12h ngày 08/11/2017, K đi bộ từ phòng
trọ của mình đến khu trọ của bà Nguyễn Thị H (cùng thôn), K đi vào bên
trong, thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu xanh – trắng
không khóa cổ, khóa càng. K lấy 1 mũi vam tra vào ổ khóa, dùng Clê vặn
mạnh, mở được khóa điện; rồi dắt xe ra khỏi khu nhà trọ và điều khiển xe đi
ra thị xã T. Đi đến khu vực chợ X, phường D, quận C, thành phố Hà Nội, K
đã bán xe cho một người đàn ông không quen biết được 3.200.000đ. Biên bản
định giá tài sản đã xác định: chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius giá
trị còn lại 14.000.000 đồng. Trước đó, bị cáo đã 2 lần bị Tòa án nhân dân xử
phạt tù. Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, chưa được xóa án
tích, lại tái phạm, nên với lần phạm tội này, bị cáo bị truy tố theo tình tiết tăng
nặng định khung: “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm c khoản 2 Điều
138 – BLHS năm 1999. Ngày 29/01/2018, TAND huyện Tiên Du đã ra Bản
án số 42/2018/HSST tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Gia K phạm tội: “Trộm cắp tài
sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS 1999.
Về quyết định hình phạt: Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường
toàn bộ giá trị thiệt hại mà bị cáo đã gây ra cho người bị hại; Sau khi phạm
tội, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi
phạm tội của mình. Bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Gia N có thời gian hoạt
44
động kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam Dioxin. Đồng thời, ông N là
người có công với cách mạng, được tặng Huy hiệu vì nghĩa vụ quốc tế.
Như vậy, bị cáo được hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, p
khoản 1 Điều 46 – BLHS; và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều
46 BLHS. Bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, bản thân lại nghiện
ma túy, nên không áp dụng hình phạt bổ sung. Trên cơ sở đó, TAND huyện
Tiên Du xử phạt: Nguyễn Gia K: 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính
từ ngày tạm giam 11/11/2017. [39].
- Bản án số 182/2018/HS-ST, ngày 06/11/2018 của TAND huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh.
Trong khoảng thời gian từ ngày 13/5/2018 đến ngày 19/5/2018 Nguyễn
Tuấn A, sinh năm 1985, ĐKHKTT: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh đã
02 lần thực hiện các hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản trộm cắp
được là 8.200.000 đồng. Trước khi phạm tội A đã bị kết án, chưa được xóa án
tích về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Và tại Bản án hình sự số 74 ngày
29/7/2016 Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xử phạt bị cáo 12
tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tính tiết tăng nặng là “Tái phạm”. Ngày
06/5/2017, A chấp hành xong hình phạt về địa phương. Như vậy tính đến
ngày phạm tội 13/5/2018, A cũng chưa được xóa án tích đối với bản án số 74
ngày 29/7/2016. Do đó, lần phạm tội này bị cáo bị xác định là phạm tội với
tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2
Điều 173 Bộ luật hình sự. Ngày 06/11/2018, TAND huyện Tiên Du đã ra bản
án số 182/2018/HS-ST tuyên Nguyễn Tuấn A phạm tội “Trộm cắp tài sản
theo điểm điểm g khoản 2 Điều 173.
Về quyết định hình phạt: Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51;
điểm g khoản1 Điều 52. TAND huyện Tiên Du xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn
45
A 28 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 11/7/2018. Tạm giam bị
cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án đề đảm bảo thi hành án [40].
2.3. Một số vướng mắc, hạn chế từ thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và nguyên
nhân của những vướng mắc, hạn chế
2.3.1. Một số vướng mắc, hạn chế
Mặc dù thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt trên địa bàn
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đạt được nhiều kết quả thuận lợi, đa số các bản
án đều xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét
xử của TAND huyện Tiên Du vẫn còn có một số vướng mắc, hạn chế như vẫn
còn bản án, quyết định bị hủy, sửa (chiếm tỉ lệ nhỏ). Nguyên nhân chủ yếu do
xuất hiện các tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, hoặc do trình độ, năng lực của
người tiến hành tố tụng còn hạn chế. Sau đây là một số vướng mắc điển hình:
- Xác định sai tội danh
Ví dụ: Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017 của TAND tỉnh Bắc Ninh.
Vào tối ngày 13/8/2015, Lê Văn H, Nguyễn Đức T là những lái xe chở
hàng của Công ty Cổ phần Dược SL hoạt động trong lĩnh vực dược liệu, đang
lấy trộm 10 kg Ba kích khô bán cho Lê Thị D khi đang chuyển sang xe ô tô
tải do Nguyễn Doãn H điều khiển để tiêu thụ thì bị bắt quả tang. Quá trình
điều tra xác định được, từ đầu tháng 7/2015 đến ngày 13/8/2015, Lê Văn H,
Nguyễn Đức T cùng với 02 phụ xe là Nguyễn Thành L và Lê Quang T, đã
bán cho D 02 lần, mỗi lần 05 kg Ba kích khô. Tổng giá trị tài sản bị chiếm
đoạt có giá trị 22.284.500 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2016/HSST ngày 14/4/2016 của
TAND huyện Tiên Du đã áp dụng Điều 138 BLHS, xử phạt bị cáo Lê Văn H,
Nguyễn Đức T, Nguyễn Doãn H, Nguyễn Thành L và Lê Quang T, Lê Thị D
về tội "Trộm cắp tài sản". Trong thời hạn luật định, các bị cáo kháng cáo xin
46
giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo, cho rằng mức án cấp sơ thẩm xử
phạt nặng.
Nhận xét: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, thấy cấp sơ thẩm có sai lầm về
đánh giá chứng cứ và tội danh: Công ty cổ phần Dược SL hoạt động trong
lĩnh vực bán dược liệu cho các đơn vị trên địa bàn. Công ty có đội xe chuyên
chở loại dược liệu này từ kho cho các đơn vị mua hàng, các bị cáo Lê Văn H,
Nguyễn Đức T là lái xe; Lê Quang T, Nguyễn Thành L là phụ xe. Hành vi
phạm tội của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản” nhưng cấp sơ thẩm tuyên xử các bị cáo về tội “Trộm cắp
tài sản” là không đúng, có sai lầm trong việc xác định tội danh vụ án [41].
- Xác định không đúng khung hình phạt.
Ví dụ: Bản án hình sự phúc thẩm số 129/2017/HSPT ngày 08/12/2017
của TAND tỉnh BN.
Nội dung: Nguyễn Văn C nảy sinh ý định trộm chó để bán cho Nguyễn
Xuân N, nên C và N, cùng Trần Văn H (nghề lái xe) cùng nhau bàn bạc thống
nhất: C thực hiện việc bắt trộm chó; H sẽ điều khiển ô tô thu gom chó đem về
nhà Nguyễn Xuân N tiêu thụ. Sau khi bàn bạc như trên, N trực tiếp đứng ra
điều động và giao xe cho H để phối hợp với nhóm của C thực hiện việc bắt
trộm chó. Khoảng 22 giờ ngày 17/10/2016, Nguyễn Văn C cùng với 1 người
chưa xác định được lai lịch điều khiển xe mô tô mang theo dụng cụ gồm:
Thòng lọng, ná cao su, bao tải, băng keo, ớt bột… thực hiện bắt trộm được 04
con chó, Trần Văn H dùng xe ô tô vận chuyển số chó trên về bán cho Nguyễn
Xuân N thì bị bắt quả tang. Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định
giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 04 con chó trị giá 2.750.000 đồng.
Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 06/9/2017 của TAND huyện
Tiên Du áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình
sự năm 1999 xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 01 năm tù; bị cáo Nguyễn Xuân
N và Trần Văn H mỗi bị cáo 06 tháng tù. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo
47
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. VKSND huyện T kháng nghị phúc thẩm
theo hướng tăng nặng với dấu hiệu phạm tội là “có tổ chức”.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 129/2017/HSPT ngày 08/12/2017 của
TAND tỉnh BN chấp nhận kháng nghị và xét xử các bị cáo theo điểm a, khoản
2 Điều 138 BLHS. [42].
Nhận xét: Bản án hình sự sơ thẩm tuyên xử các bị cáo về tội “Trộm cắp
tài sản” là có căn cứ, đúng tội danh. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1
Điều 138 BLHS năm 1999 để xét xử các bị cáo là không đúng khung hình
phạt. Bởi lẽ trong vụ án, bị cáo C là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ,
phương tiện để thực hiện hành vi trộm cắp; bị cáo N là người điều động xe ô
tô để vận chuyển; bị cáo H lái xe theo sự chỉ đạo của N đến địa điểm tập kết
để chở chó trộm cắp được về cho N. Để việc trộm cắp trót lọt, các bị cáo đã
lên kế hoạch, chuẩn bị cụ thể và thực hiện đúng như kế hoạch đã vạch ra.
Hành vi phạm tội của các bị cáo luôn có sự giúp sức, hỗ trợ, phối hợp cho
nhau, mỗi bị cáo đều có vai trò cụ thể, không tách rời nhau. Vì vậy, hành vi
phạm tội của các bị cáo phải bị xét xử theo điểm a khoản 2 Điều 138 BLHS
năm 1999 với tình tiết định khung “có tổ chức” mới đúng tính chất của vụ án.
Tòa án cấp sơ thẩm chưa phân tích, đánh giá đúng tính chất vụ án, hành
vi phạm tội của các bị cáo; chưa nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ đã thu
thập được có trong hồ sơ vụ án dẫn đến xét xử mức án nhẹ, không đúng
khung hình phạt
- Áp dụng không đúng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS.
Ví dụ: Bản án hình sự số 19/2016/HSPT ngày 13/8/2016 của TAND
tỉnh BN.
Khoảng 23h30 ngày 13/11/2015, Trần Văn T dùng dùi đục cạy cửa khu
nhà trọ của anh Lê Văn H ở xã Đại Đồng, huyện Tiên Du vào trộm cắp 01
máy tính xách tay nhãn hiệu Dell; 01 máy tính xách tay hiệu HP của Nguyễn
Thành C đem về phòng trọ của mình cất giấu. Sau đó, T tiếp tục sang khu trọ
48
nói trên trộm cắp 01 máy tính xách tay hiệu HP của Nguyễn Xuân L và 01
máy tính xách tay hiệu TOSIBA. Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 28-11-
2015 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tiên Du kết luận: 04 máy tính xách
tay có tổng giá trị 29.900.000đ. Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2016/HS-ST
ngày 04/5/2016 của TAND huyện Tiên Du đã áp dụng khoản 1 Điều 138; các
điểm g, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 BLHS xử phạt bị cáo Trần Văn T 12
tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm kể từ ngày
tuyên án về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 8/5/2016, VKSND tỉnh B kháng
nghị phúc thẩm theo hướng không áp dụng điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS và
không cho bị cáo T hưởng án treo. Ngày 13/8/2016, TAND tỉnh BN xét xử
phúc thẩm chấp nhận kháng nghị trên của VKSND tỉnh Bắc Ninh.
Nhận xét: Trong vụ án này, Hành vi của bị cáo là phạm tội nhiều lần, là
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 138
BLHS nhưng cấp sơ thẩm không xem xét áp dụng là thiếu sót. Với tính chất,
mức độ phạm tội như phân tích ở trên và căn cứ Nghị quyết 01/2007/NQ-
HĐTP ngày 02 tháng 10 năm 2007 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS: “Chỉ cho người bị xử phạt tù
hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:... c) Có từ hai tình tiết giảm
nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình
tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiêt giảm nhẹ phải nhiều hơn
tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên”. Do đó, bị cáo không đủ điều kiện
để được hưởng án treo (chỉ có 01 tình tiêt giảm nhẹ và có 01 tình tiết tăng
nặng). Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử cho bị cáo hưởng án treo là không
đúng pháp luật và quyết định của cấp phúc thẩm là hoàn toàn chính xác.
Tuy nhiên, Bản án phúc thẩm cũng nhận đinh: thiếu sót trên của TAND
huyện Tiên Du một phần do lỗi của VKSND huyện Tiên Du khi: Quá trình
điều tra, bị can T đều khai nhận đã dùng dùi đục cạy cửa vào trộm cắp 02 máy
49
tính xách tay đem về phòng trọ của mình cất giấu. Sau đó, T tiếp tục sang
phòng trọ nói trên trộm cắp 02 máy tính xách tay. Bản kết luận điều tra cũng
thể hiện rõ hành vi phạm tội của bị can như trên. Thế nhưng, Cáo trạng chỉ
xác định: T dùng dùi đục cạy cửa phòng trọ, vào trộm cắp 04 máy tính xách
tay. Cáo trạng không thể hiện rõ nội dung vụ án, bỏ sót tình tiết bị can phạm
tội nhiều lần. Từ đó dẫn đến quan điểm giải quyết vụ án của VKS đề nghị cho
bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ "Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng”, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS là không đúng.
- Vẫn còn có trường hợp vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng
khi định tội danh và quyết định hình phạt.
Ví dụ: Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017 của Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Ninh.
Lợi dụng sơ hở của Công ty cổ phần Th, trong khoảng thời gian từ đêm
17, rạng sáng ngày 18/7/2017 đến đêm ngày 8, rạng sáng ngày 09/3/2017, T1,
S là công nhân Công ty và Nguyễn Sỹ H (bạn của S) đã thực hiện 03 vụ trộm
cắp tài sản là nguyên liệu hạt nhựa dùng để sản xuất phao cứu sinh của Công
ty tổng cộng là 34 bao có trọng lượng là 850 kg, trị giá 29.078.500 đồng. Mỗi
lần trộm được tài sản thì H đều chở đến bán cho chị Vũ Thị M. Quá trình điều
tra và giai đoạn truy tố, đại diện gia đình của ba bị cáo đã tự nguyện nộp tổng
số tiền 20.526.000đ để bồi thường, khắc phục hậu quả. Về phía chị Vũ Thị M,
quá trình điều tra chị M chỉ thừa nhận mua 04 bao hạt nhựa của H vào ngày
09/3/2017 với giá là 1.600.000đ, H không nói là hàng trộm cắp và chị cũng
không biết đó là hàng trộm cắp. Do vậy, Cơ quan điều tra và VKS xác định M
không liên quan đến vụ án.
Với nội dung nêu trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 100/2017/HSST
ngày 03 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh đã xét xử và tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đương T1, Nguyễn Sỹ H và
Nguyễn Nam S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
50
Nhận xét: Có thể thấy, quá trình điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm
thì TAND huyện Tiên Du chưa đưa chị Vũ Thị M tham gia tố tụng, đồng thời
có dấu hiệu của bỏ lọt tội phạm đối với hành vi tiêu thụ tài sản do phạm tội
mà có.
Chính vì vậy, tại Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017 của Tòa án
nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã tuyên hủy bản án hình sự sơ thẩm số
100/2017/HSST ngày 03/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du do Tòa
án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi không đưa Vũ Thị
M vào tham gia tố tụng, ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án và có dấu hiệu bỏ
lọt tội phạm đối với M về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”
nhưng Tòa án không trả hồ sơ, Viện kiểm sát không truy tố[43].
- Tuyên mức hình phạt không tương xứng với tính chất và mức mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện
Ví dụ: Cũng trong vụ án mà tác giả nêu trên, sau khi TAND tỉnh Bắc
Ninh ra Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017 tuyên hủy bản án hình sự
sơ thẩm số 100/2017/HSST ngày 03/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tiên
Du do Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục: khi không đưa chị
Vũ Thị M vào tham gia tố tụng, ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án và có dấu
hiệu bỏ lọt tội phạm đối với chị M về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có”. Sau khi chuyển hồ sơ, tiến hành điều tra theo thủ tục chung.
Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 07/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Tiên Du xác định do H không nói là tài sản trộm cắp nên chị M không
biết và cũng không nhận thức được đây là tài sản các bị cáo trộm cắp mà có
nên không có căn cứ xác định chị M phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có”, đồng thời truy tố các bị cáo T1, H, S về tội “Trộm cắp tài
sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Với nội dung nêu trên, Bản án
hình sự sơ thẩm số 92/2018/HS-ST ngày 28 tháng 5 năm 2018 của Tòa án
nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử và tuyên bố các bị cáo
51
Nguyễn Đương T1, Nguyễn Sỹ H và Nguyễn Nam S phạm tội “Trộm cắp tài
sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46;
điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt Nguyễn
Sỹ H 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian
tạm giam từ 10/3/2017 đến ngày 08/5/2017. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm
b, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt: Nguyễn
Nam S 08 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian
tạm giam từ 10/3/2017 đến ngày 08/5/2017.
Nhận xét: Có thể thấy lợi dụng sơ hở của Công ty Cổ phần Th, trong
các đêm ngày 17/02; 27/2 và 08/3/2017, T1 đã rủ H và S 03 lần trộm cắp
được 34 bao hạt nhựa của Công ty với tổng trọng lượng là 850kg, trị giá là
29.078.500 đồng. Vì vậy Bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo T1, H và S phạm
tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999
là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, bị cáo H và S tuổi đời còn trẻ, có nhân
thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội ít nghiêm trọng; cả hai đều do bị rủ
rê lôi kéo nên phạm tội. Đối với bị cáo S chỉ có hành vi đẩy cửa giúp bị cáo
T1, không được hưởng lợi, do vậy bị cáo chỉ là vai trò thứ yếu. Cả hai bị cáo
đều thành khẩn, ăn năn hối cải và gia đình các bị cáo đều đã tự nguyện nộp
tiền để bồi thường thiệt hại nhưng phía Công ty tự nguyện không yêu cầu, các
bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46, có nhân thân tốt nên
cần chiếu cố khoan hồng phạt các bị cáo mức án treo, cải tạo tại địa phương
cũng đủ giáo dục thành người lương thiện, nên không cần phải áp dụng hình
phạt tù.
Do vậy, trên cơ sở kháng cáo của H và S ngày 18/9/2018 TAND tỉnh
Bắc Ninh đã ra Bản án số 39/2018/HS-PT theo hướng sửa Bản án sơ thẩm:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ H 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài
sản”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày
tuyên án phúc thẩm. Xử phạt bị cáo Nguyễn Nam S 08 (tám) tháng tù về tội
52
“Trộm cắp tài sản”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng
tính từ ngày tuyên án phúc thẩm [44].
2.3.2. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế
- Thứ nhất,quy định của BLHS năm 2015 về tội trộm cắp tài sản vẫn
còn một số vướng mắc, bất cập; nhiều quy định chưa có hướng dẫn kịp thời
để áp dụng trong thực tiễn, cụ thể: Quy định hiện hành vẫn chưa nêu khái
niệm (mô tả cụ thể hành vi khách quan) của tội trộm cắp tài sản trong điều
luật, điều này có thể dẫn đến nhầm lẫn trong việc định tội danh giữa tội trộm
cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và cướp giật tài sản; pháp
luật hiện hành chưa hướng dẫn thế nào là “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội”; căn cứ xác định“Tài sản là phương tiện kiếm sống
chính của người bị hại và gia đình họ; chưa có hướng dẫn cụ thể đối với
trường hợp hành vi tiêu thụ tài sản do phạm tội trộm cắp tài sản mà có, thuộc
một số trường hợp: Ví dụ: Người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng
có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người có hành vi chứa
chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là do người khác
phạm tội mà có thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hay không? hoặc trường hợp
người thực hiện hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản bất kể giá trị định lượng
bao nhiêu nhưng đã cấu thành tội trộm cắp tài sản, thì người (đủ tuổi và năng
lực TNHS) chứa chấp, tiêu thụ tài sản có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hay
không?...
- Thứ hai, chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác điều tra, truy
tố, xét xử của lãnh đạo cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp nói riêng còn hạn chế.
53
- Thứ ba, trình độ năng lực đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân còn không đồng đều, ý thức chính trị, phẩm chất
đạo đức và trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ chưa cao. Trong thực thi
nhiệm vụ còn có tình trạng chưa làm hết trách nhiệm được giao, chưa tự rèn
luyện để nâng cao phẩm chất, năng lực. Quá trình xử lý vụ án còn bị tác động
bởi các yếu tố bên ngoài dẫn đến việc xử lý án không khách quan, tiêu cực.
- Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như: Công tác tuyên
truyền về tội trộm cắp tài sản chưa sâu sát, tích cực; công tác phối hợp giữa
các cơ quan tố tụng huyện Tiên Du trong điều tra, truy tố, xét xử tội trộm cắp
tài sàn vẫn còn chưa chặt chẽ, đồng bộ; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn hạn chế...cũng là những
nguyên nhân của những vướng mắc nêu trên.
54
Tiểu kết Chương 2
Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của luận văn được thể hiện qua một
số nội dung sau: Tác giả đã phân tích, đánh giá một cách khái quát tình hình
xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du trong thời gian từ 2015
- 2019, từ đó chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp dụng áp
dụng các quy định pháp luật về tội trộm cắp tài sản và những nguyên nhân
của vướng mắc, hạn chế đó. Kết quả nghiên cứu này, làm nền tảng cho các
giải pháp áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản mà tác giả sẽ
nêu ở Chương 3 của luận văn.
55
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH TỘI DANH
VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình
phạt tội trộm cắp tài sản
Thứ nhất, yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, được Đảng ta đề ra tại các
văn kiện Đại hội từ năm 1991 đến nay, đặc biệt là tại Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 để đạt được những yêu cầu như:
Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư
pháp. [3].
Để góp phần thực hiện những mục tiêu trên thì việc nâng cao hiệu quả
hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt nói chung và với tội trộm cắp
tài sản nói riêng có vai trò thiết yếu, cần được giải quyết kịp thời.
Thứ hai, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu
trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm
có chiều hướng gia tăng, nhất là tội phạm xâm phạm sở hữu như trộm cắp tài sản
xảy ra trên địa bàn cả nước nói chung và huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nói
riêng...Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định
hình phạt tội trộm cắp tài sản cũng chính là góp phần nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng chống tội phạm hiện nay, góp phần bảo vệ quan hệ sở hữu về tài sản
của tổ chức, cá nhân, duy trì trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới.
Thứ ba, yêu cầu khắc phục những yếu kém của việc định tội danh và
quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản.
56
Những yếu kém trong việc định tội danh và quyết định hình phạt tội
trộm cắp tài sản chủ yếu xuất phát từ một số quy định của pháp luật hình sự
còn chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ, cũng như một số công chức Cơ quan tư pháp
trong quá trình giải quyết công việc thiếu bản lĩnh, còn bị tác động bởi lợi ích
vật chất; do quan hệ hoặc do thiếu trách nhiệm, không tận tâm, tận lực trong
công việc, do trình độ, năng lực, kinh nghiệm chuyên môn, trình độ chuyên
sâu của cán bộ các chức danh tư pháp còn hạn chế, còn có biểu hiện nôn
nóng, chạy theo thành tích, giải quyết cho xong việc, cộng với trình độ, năng
lực yếu kém nên dẫn đến thiếu sót. Chính vì vậy, để thực hiện tốt công cuộc
cải cách tư pháp, đấu tranh phòng chống tội phạm thì việc khắc phục những
yếu kém trong công tác định tội danh có vai trò vô cùng quan trọng và cần
thiết, cần được tiến hành ngay.
Những yêu cầu này nếu được đáp ứng đầy đủ thì sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình
phạt tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Việc nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm
cắp tài cần tiến hành theo các hướng sau:
Thứ nhất, cần hoàn thiện luật theo hướng có những quy định cụ thể,
cần thiết, hạn chế bớt khả năng xảy ra trong thực tiễn áp dụng trường hợp một
hành vi có dấu hiệu của một số tội xâm phạm sở hữu.
Thứ hai, cần tăng cường nghiên cứu, giải thích pháp luật, xây dựng cơ
sở pháp lý giải quyết một số vướng mắc trong thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt tội trộm cắp tài sản.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ người tiến hành định tội danh mạnh về cả số
lượng và chất lượng, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp vững vàng.
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
về tội trộm cắp tài sản
57
Mặc dù BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực
vào ngày 01/01/2018, nhưng ở góc độ nghiên cứu khoa học tác giả cho rằng
cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện một số vấn đề sau:
- BLHS năm 1985 cho đến BLHS năm 2015, nhà làm luật vẫn chưa nêu
khái niệm (mô tả cụ thể hành vi khách quan) của tội trộm cắp tài sản trong
điều luật, điều này có thể dẫn đến nhầm lẫn trong việc định tội danh giữa tội
trộm cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và cướp giật tài sản, đây
là cũng là 02 tội danh chưa được nêu khái niệm (mô tả hành vi).
Do vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi CTTP cơ bản của tội trộm cắp tài sản
theo khoản 1 Điều 173 theo hướng: “Người nào bằng thủ đoạn lén lút chiếm
đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000
đồng...”
- Có thể thấy đa số hành vi trộm cắp tài sản thường đi kèm với hành vi
bí mật đột nhập vào chỗ ở người khác, thực tiễn định tội danh và quyết định
hình phạt đều xử lý về hành vi trộm cắp tài sản mà không xử lý về hành vi
xâm phạm chỗ ở của người khác.
Quy định này sẽ có bất cập như sau: Điều 158 BLHS năm 2015 quy
định về tội xâm phạm trái phép chỗ ở công dân như sau: 1. Người nào thực
hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm:....d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác. 2. Phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...đ)
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Trong khi, PLHS
hiện hành chưa hướng dẫn xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác là
như thế nào? Điều 173 BLHS năm 2015 quy định về tội trộm cắp tài sản như
sau: “1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng
đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
58
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:...c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội...”
Ví dụ: A đột nhập trái phép vào nhà B với mục đích trộm cắp tài sản,
nhưng do chủ nhà đi vắng nên A đã ở lại một đêm và còn uống rượu, ăn uống
tại nhà B, sau đó lấy đi 1,5 triệu của gia đình B. Giả sử hành vi của A đã gây
ảnh hướng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cấu thành tội trộm cắp tài
sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 có mức hình phạt cao nhất đến
03 năm tù (thực tiễn chỉ xử lý về tội trộm cắp tài sản mà không xét đến hành
vi xâm phạm trái phép chỗ ở công dân do mục đích của A là nhằm chiếm đoạt
tài sản). Tuy nhiên, nếu xem xét trường hợp này thì có thể thấy hành vi A đột
nhập trái phép của A còn có dấu hiệu theo điểm đ khoản 2 Điều 158 BLHS
năm 2015 (Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội) với mức
hình phạt cao nhất là 05 năm tù. Rõ ràng, hành vi của A có dấu hiệu của 02
tội danh trên, nhưng khi xử lý về tội trộm cắp tài sản thì lại có mực hình phạt
nhẹ hơn tội xâm phạm trái phép chỗ ở công dân, là không phù hợp.
+ Mặt khác, tham khảo BLHS của Cộng hòa Liên bang Nga và Cộng
hòa Liên bang Đức cho thấy trong CTTP của tội trộm cắp tài sản đều quy
định hành vi xâm nhập, đột nhập trái phép vào nhà của người khác là tình tiết
định khung tăng của tội trộm cắp tài sản.
Ví dụ: Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1996 quy định những tình
tiết định khung tăng nặng của tội trộm cắp tài sản: “khoản 2 Điều 158: ....b)
Xâm nhập trái pháp luật vào nhà ở, công trình hoặc nơi lưu giữ hay bảo quản
tài sản khác....Theo khoản 3 Điều 158, phạm tội trộm cắp tài sản thuộc một
trong các trường hợp: a) Đột nhập trái phép vào chỗ ở của người bị hại....[50,
tr. 415, 416].
Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức thì bị coi là phạm tội trộm
cắp tài sản có tình tiết định khung tăng nặng khi: a) Xâm nhập vào nhà ở hay
59
công sở bằng cách phá khóa hoặc mở khóa bằng chìa khóa hay thiết bị khác
...[50, tr. 423].
Do vậy, để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, tác
giả kiến nghị cần bổ sung tình tiết “Xâm nhập trái pháp luật vào nhà ở, công
trình hoặc nơi lưu giữ hay bảo quản tài sản khác” là tình tiết định khung tăng
nặng tại khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015, đồng thời có văn bản hướng dẫn
- Về dấu hiệu định tội “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của
chi tiết về tình tiết này để áp dụng trong thực tiễn.
người bị hại và gia đình họ” quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017). Đây là tình tiết vẫn mang yếu tố định tính, phụ thuộc vào
ý thức chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đánh
giá tính chất của loại tài sản bị chiếm đoạt. Điều này không phù hợp với
nguyên tắc lỗi và hành vi của khoa học luật hình sự. Đồng thời, quy định này
vô tình chung đã làm cho thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài do chủ thể có
thẩm quyền phải xem xét, kiểm tra xem tài sản đó có phải là “tài sản là
phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” hay không?, để
ra các quyết định đối với vụ án. Mặt khác, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng
diện người bị hại bao gồm cả cơ quan, tổ chức.
Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định về xác định tư cách bị hại. Với
cách quy định như trên thì nhiều trường hợp nếu tài sản bị chiếm đoạt liên
quan đến sự tồn tại, phát triển của một cơ quan, tổ chức lại không có cơ sở áp
dụng, đặc biệt là những tổ chức chịu trách nhiệm pháp lý vô hạn bằng cả tài
sản cá nhân người đại diện theo pháp luật (Doanh nghiệp tư nhân, Công tư
hợp danh, Hộ gia đình). Theo tác giả quy định như trên là chưa thật sự công
bằng cho những bị hại là cơ quan, tổ chức.
Do vậy, tác giả kiến nghị nên bỏ tình tiết này ra khỏi dấu hiệu định tội
của tội trộm cắp tài sản hoặc sửa đổi quy định trên theo hướng:“Tài sản là
phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ hoặc là liên
60
quan đến sự tồn tại, phát triển của bị hại là cơ quan, tổ chức” và cần phải
được hướng dẫn thật cụ thể, chi tiết những dấu hiệu để xác định trường hợp
nào thì tài sản được coi thuộc trường hợp này để tránh sự tùy nghi, chủ quan
duy ý chí khi áp dụng.
Theo đó Điều 173 BLHS năm 2015 về tội trộm cắp tài sản, theo kiến
nghị của tác giả như sau:
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản (mới)
1. Người nào bằng thủ đoạn lén lút chiếm
đoạt tài sản của người khác trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000
đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm:
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống
chính của người bị hại và gia đình họ
hoặc liên quan đến tồn tại, phát triển của
bị hại là cơ quan, tổ chức.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến
07 năm:..
h) Xâm nhập trái pháp luật vào nhà ở,
công trình hoặc nơi lưu giữ hay bảo quản
tài sản khác (mới).
3.2.2. Tăng cường công tác tập huấn, giải thích và hướng dẫn pháp
luật về tội trộm cắp tài sản
61
- Tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật đặc biệt
là những quy định mới về nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm
cắp tài sản nói riêng cho công chức trong hệ thống cơ quan tư pháp.
* Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản giải thích, hướng
dẫn những nội dung sau đây:
- Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa hướng dẫn thế nào là “gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” sẽ dẫn đến khó khăn trong
việc hiểu và áp dụng, vì đây là tình tiết, hậu quả mang tính phi vật chất; việc
đánh giá, áp dụng nếu không được hướng dẫn cụ thể sẽ có thể dẫn tới tùy
nghi, phụ thuộc vào nhận thức của các cơ quan, người tiến hành tố tụng cũng
như phụ thuộc vào đặc trưng, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng
vùng miền, địa phương khác nhau. Do vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cần sớm ban hành quy định hướng dẫn đối với tình tiết này cụ thể trong từng
lĩnh vực cụ thể, mức độ, phạm vi ảnh hưởng đối vi tình hình trật tự, an toàn,
xã hội.
- Thứ hai, tại điểm d khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 quy định tình
tiết “hành hung để tẩu thoát”. Tình tiết này trước đây được hướng dẫn tại
Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP về
dấu hiệu “hành hung để tẩu thoát” trong tội trộm cắp tài sản.
6.1. Phạm tội thuộc trường hợp "hành hung để tẩu thoát" là trường
hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt
được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã
có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như
đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát.
Tuy nhiên, đây là thông tư hướng dẫn quy định của tội trộm cắp tài sản
theo Điều 138 BLHS năm 1999 đã hết hiệu lực. Đồng thời, nếu vận dụng tinh
thần trong hướng dẫn nêu trên, thực tế vẫn tồn tại hạn chế chưa khắc phục
được đó là: Trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản thì
62
khoảng thời gian từ khi chiếm đoạt được đến khi bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị
bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại là bao lâu? Trường hợp người phạm tội đã
bỏ đi vài giờ thì mới bị phát hiện, có được xem xét, áp dụng tình tiết này
không hay?
Do vậy, tác giả kiến nghị cần có hướng dẫn cụ thể đối với tình tiết này
theo hướng: “6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là
trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau
khi chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây
bắt giữ thì đã có những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây nhằm tẩu thoát”.
- Thứ ba, các quy định của pháp luật đối với trường hợp chiếm đoạt tài
sản mà đối tượng là lâm sản, trong đó có cây rừng đã chết, khô...thuộc rừng
đặc dụng là chưa cụ thể, rõ ràng. Có thể nói, trong thời gian vừa qua lần đầu
tiên Cơ quan tố tụng ở nước ta đã xử lý một hành vi cưa cây gỗ trắc đã chết
khô thuộc rừng đặc dụng là hành vi trộm cắp tài sản so với chỉ xử lý về hành
vi vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng trước đó.
Cụ thể: 05 bị cáo bị đưa ra xét xử về hành vi cưa 1 cây gỗ trắc đã chết
khô thuộc rừng đặc dụng Đăk Uy (Kon Tum), chiều dài 2m, khối lượng
0,123m3 (được định giá hơn 19 triệu đồng). Vụ án trên đã trải qua 2 lần xét
xử sơ thẩm và 3 lần xét xử phúc thẩm, khi TAND huyện Đăk Hà xử sơ thẩm
tuyên 5 bị cáo trên phạm tội trộm cắp tài sản thì Tòa án nhân dân tỉnh Kon
Tum xét xử phúc thẩm và tuyên hủy bản sơ thẩm, trả hồ sơ điều tra lại vì vi
phạm tố tụng. Sau đó, Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà xử sơ thẩm lần hai, tiếp
tục xử lý về tội trộm cắp tài sản, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum mở phiên tòa
Phúc thẩm lần 2 tuyên các bị cáo không phạm tội. Vụ án sau đó bị TAND tối
cao kháng nghị giám đốc thẩm. TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã mở phiên tòa
giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm tuyên vô tội trước đó của
63
TAND tỉnh Kom Tum. Ngày 12/8/2019, TAND tỉnh Kon Tum đã tuyên 05 bị
cáo phạm tội trộm cắp tài sản.
Trong kì án này, quan điểm chủ yếu của Cơ quan tố tụng và người bào
chữa cho các bị cáo đưa ra như sau:
+ Quan điểm người bào chữa: Thông tư 19/2007/TLT-BNN-BTP-
BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08/3/2017 quy định: “....Trường hợp khai
thác trái phép rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định giao cho tổ chức, tập thể, hộ gia đình, cá nhân
sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp mà người được giao đã bỏ
vốn đầu tư trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ... thì bị xử lý như sau:
a) Nếu chủ rừng khai thác cây rừng trái phép thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 175 BLHS;
b) Nếu người khai thác cây rừng trái phép mà không phải là chủ rừng
thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điều luật tương ứng quy định tại
Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS.
Trong khi, các bị cáo cưa cây gỗ trắc đã chết, thuộc rừng đặc dụng là
rừng tự nhiên, không phải là tài sản do con người bỏ sức lao động tạo ra, nên
hành vi của các bị cáo không cấu thành tội trộm cắp tài sản. Các bị cáo chỉ có
dấu hiệu của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, mà tội
danh đòi hỏi phải khai thác trên 5 m3. Vụ án này các bị cáo khai thác 0,123
m3 nên không đủ định lượng để xử lý hình sự các bị cáo tội này được mà chỉ
có thể xử phạt hành chính theo nghị định 157/2013, về xử phạt hành chính
trong quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản [51].
+ Quan điểm của Cơ quan tố tụng: Rừng đặc dụng Đăk Uy là rừng tự
nhiên nhưng khác biệt cơ bản là không phải rừng tự nhiên thuần túy do cây
rừng tự phát triển mà do Nhà nước thành lập trên sự phát triển của rừng tự
nhiên để phục vụ mục đích bảo tồn nguồn gen quý hiếm. Do tính chất đặc thù
của rừng đặc dụng Đăk Uy, UBND tỉnh KonTum đã thành lập và giao Ban
64
quản lý rừng đại diện cho Nhà nước quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Cây
gỗ trắc chết khô mà các bị cáo cưa trộm là tài sản do Nhà nước làm chủ sở
hữu. Hành vi chiếm đoạt khúc gỗ trắc trị giá hơn 19 triệu đồng của các bị cáo
đã xâm phạm khách thể là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước [52].
Đến ngày 01/10/2019, TAND tối cao có Công văn số 233/TANDTC-
PC, có hướng dẫn: “Trường hợp người thực hiện nhiều hành vi (chuỗi hành
vi) một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, trong đó, hành vi trước là
tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
nhiều tội tương ứng với từng hành vi, nếu mỗi hành vi đều có đủ các yếu tố
cấu thành tội phạm. Ví dụ 4. Nguyễn Văn A lén lút vào rừng chặt cây sau đó
đưa ra khỏ rừng bán kiếm lời thì có thể bị xử lý về 02 tội là tội hủy hoại rừng
(quy định tại Điều 243 của Bộ luật Hình sự) và tội trộm cắp tài sản (quy định
tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự), nếu mỗi hành vi đều có đủ yếu tố cấu
thành tội phạm. Bởi vì, hành vì cưa, chặt, đốt, phá, sử dụng hóa chất làm cây
rừng chết...đã có dấu hiệu cấu thành tội hủy hoại rừng quy định tại Điều 243
của Bộ luật Hình sự, không phụ thuộc vào việc A đã lấy được tài sản gì từ
rừng hay chưa. Hành vi lén lút lấy các sản phẩm từ rừng (như gỗ, cây, con, tài
sản khác) thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có dấu hiệu cấu
thành tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự”.
Do vậy, tác giả kiến nghị để tránh xảy ra trường hợp tương tự như trên,
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban có hướng dẫn cụ thể đối với trường
hợp khai thác trái phép lâm sản thuộc rừng đặc dụng, trường hợp nào là thuộc
các tội xâm phạm sở hữu, trường hợp nào thuộc tội phạm khác, trường hợp
nào cấu thành hai tội, để áp dụng thống nhất theo quy định của pháp luật.
- Thứ tư, cần có hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp: hành vi tiêu thụ
tài sản do phạm tội trộm cắp tài sản mà có, thuộc 02 trường hợp sau đây.
Vụ dụ 1: Nguyễn Tấn L sinh ngày 11/5/2004 trộm cắp của một số
người dân trên địa bàn huyện TD, tỉnh BN một số tài sản gồm 05 máy tính
65
xách tay và 01 điện thoại di động tổng giá trị trên 51 triệu đồng. Sau khi lấy
trộm được tài sản, L đã kể cho Đặng Phúc N và Hoàng Minh T biết là tài do
mình trộm cắp được, đồng thời rủ N và T đi tiêu thụ số tài sản trên để lấy tiền
tiêu xài thì N và T đồng ý. Tuy nhiên, sau đó Cơ quan điều tra Công an huyện
TD, không khởi tố đối N và T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có”, vì cho rằng hành vi của L không cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” (do
L chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự), nên hành vi của N và T không
phạm tội với yếu tố “do người khác phạm tội mà có”. Liên quan đến hành vi
của N và T, có nhiều quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: phải xử lý N và T về tội “Tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có”, vì hành vi của L đã đủ yếu tố cấu thành
“Trộm cắp tài sản”, nhưng do L chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên chỉ
xử lý hành chính đối với L, nếu không xử lý hình sự đối với N và T là bỏ lọt
tội phạm.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: hành vi của N và T chưa đủ yếu tố cấu
thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, vì hành vi của L
chưa đủ yếu tố cấu thành “Trộm cắp tài sản”.
Theo quan điểm của cá nhân, tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất
nêu trên. Ở đây phải hiểu rằng, người phạm tội theo Điều 323 BLHS khi
người đó chứa chấp, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có. Nghĩa là nếu giá trị
của vật phạm pháp đủ để cấu thành cơ bản trong các điều luật tương ứng thì
người thực hiện hành vi tiêu thụ, chứa chấp phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Trong
trường hợp này, tài sản mà L chiếm đoạt đã đủ định lượng cấu thành tội
“Trộm cắp tài sản” (trên 2 triệu đồng), thuộc trường hợp tài sản “do người
khác phạm tội mà có” nên N và T phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, mà không cần quan tâm đến việc
xử lý trách nhiệm đối với L như thế nào.
66
Điều này cũng phù hợp với hướng dẫn tại Công văn 64/TANDTC-PC
ngày 03/4/2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng
mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính: “…người thực hiện hành vi
phạm tội trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự nhưng có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan
của người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp,
tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Ví dụ 2: Hoàng Đình H trộm cắp được 97 kg cà phê quả tươi, sau đó H
bán số cà phê nói trên cho Trịnh Thị Trang L (H nói cho L biết là cà phê do H
trộm cắp mà có), nhưng L vẫn đồng ý mua. Cơ quan điều tra tiến hành trưng
cầu giám định, Hội đồng định giá kết luận, 97kg cà phê quả tươi trị giá
1.000.000 đồng.
Sau đó, Cơ quan điều tra Công an huyện K, khởi tố H về tội: “Trộm
cắp tài sản” (do H có 02 tiền án về tội chiếm đoạt tài sản), nhưng không khởi
tố L về tội “Tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có”, vì cho rằng tài
sản do H phạm tội mà có chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, mà H bị khởi tố
về tội “Trộm cắp tài sản” là do yếu tố khác (nhân thân) của H. Liên quan đến
hành vi của L, có nhiều quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: hành vi của L đủ yếu tố cấu thành tội
Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vì biết rõ số lượng cà phê là
do H phạm tội mà có, nhưng vì hám lợi nên L vẫn mua (tiêu thụ) và hơn nữa,
hành vi của H đã đủ yếu tố cấu thành Trộm cắp tài sản.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: hành vi của L không đủ yếu tố cấu
thành tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vì H bị khởi tố về tội
“Trộm cắp tài sản” là do yếu tố khác (nhân thân) của H, còn tài sản mà H
trộm cắp chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
67
Với tình huống nêu trên, tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất. Điều
323 BLHS năm 2015 không quy định trong cấu thành cơ bản tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, định lượng tài sản phạm
tội nên chỉ cần đó là tài sản do phạm tội mà có là đã đủ dấu hiệu của tội phạm.
Trong trường hợp trên, mặc dù tài sản do H phạm tội mà có chỉ 1.000.000
đồng, nhưng hành vi của H đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, tội “Trộm cắp tài
sản” (bất luận vì lý do gì) thì hành vi tiêu thụ của L phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội “Tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Tuy nhiên, về hai nội dung trên hệ thống pháp luật chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể mà mới chỉ là hướng dẫn mang tính nội bộ của ngành Tòa
án. Do vậy, theo tác giả trong thời gian tới nhà làm luật cần phải có hướng
dẫn cụ thê, rõ ràng về 02 nội dung trên để áp dụng thống nhất, theo hướng:
+ Đối với trường hợp 1: Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội
trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự nhưng có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người
có hành vi chứa chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là
do người khác phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
+ Đối với trường hợp thứ 2: Trong trường hợp người thực hiện hành vi
phạm tội chiếm đoạt tài sản bất kể giá trị định lượng bao nhiêu nhưng đã cấu
thành tội trộm cắp tài sản thi người (đủ tuổi và năng lực TNHS) chứa chấp,
tiêu thụ tài sản vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS.
3.2.3. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và tổng kết
thực tiễn áp dụng, xây dựng án lệ về tội trộm cắp tài sản
- Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo điều hành công tác điều tra, truy tố, xét
xử của lãnh đạo cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp nói riêng.
68
- Cần thường xuyên tổ chức các hội nghị trực tuyến liên ngành như:
Hội nghị giữa các cơ quan tiến hành tố tụng Công an, Viện kiểm sát nhân dân,
Tòa án nhân dân 2 cấp rút kinh nghiệm về công tác giải quyết án hình sự liên
quan đến tội phạm có tính chất chiếm đoạt, trong đó có trộm cắp tài sản; hội
nghị liên ngành giải quyết các vụ án hình sự cụ thể có khó khăn vướng mắc,
quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng không thống nhất...tổng kết
thực tiễn áp dụng và chọn lựa những bản án điển hình, có tính chuẩn mực về
tội trộm cắp tài sản để lựa chọn thành án lệ để áp dụng thống nhất. Qua đó
giải đáp những khó khăn vướng mắc của các đơn vị, cá nhân trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ..
3.2.4. Giải pháp về công tác cán bộ
- Tiến hành rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
nghiệp vụ trong các cơ quan tư pháp, để phân loại trình độ năng lực của từng
người, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo phù hợp.
- Nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ, năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Phải tạo điều kiện cho
cán bộ, công chức được nâng cao trình độ nghiệp vụ thông qua các lớp tập
huấn, bồi dưỡng do ngành cấp trên tổ chức. Qua đó, mới kịp thời bổ sung
lượng kiến thức mới đáp ứng được với sự thay đổi của tình hình mới, đặc biệt
là trong giai đoạn hiện nay khi mà BLHS năm 2015; BLTTHS năm 2015 và
nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới đang có hiệu lực thi hành, đã có nhiều
sửa đổi, bổ sung mới về các tội xâm phạm sở hữu. Bản thân mỗi cán bộ, công
chức làm công tác nghiệp vụ nói chung và liên quan đến xứ lý các tội xâm
phạm sở hữu nói riêng phải không ngừng nỗ lực học hỏi, nâng cao ý thức
trách nhiệm, có tâm huyết cao trong công việc để không những hoàn thành tốt
nhiệm vụ cho bản thân mà còn hướng đến lợi ích chung cho tập thể đơn vị.
- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, trao đổi kinh
nghiệm trong việc giải quyết án xâm phạm sở hữu giữa cá cơ quan tư pháp
69
trong tỉnh; tổ chức nghiên cứu khoa học, hội thảo, đào tạo ngoại ngữ, tin học,
để các cán bộ tư pháp nắm bắt thêm những kinh nghiệm trong việc giải quyết
án xâm phạm sở hữu nhằm vận dụng linh hoạt trong việc xử lý, phát huy được
tính độc lập, chủ động trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ do pháp luật
quy định bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời, xử lý
nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
3.2.5. Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ
- Nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và TAND là mỗi cơ quan có vị trí,
chức năng khác nhau đặc biệt trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng
song việc thực thi chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan tư pháp chỉ có thể
thực hiện được khi đặt nó trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng
khác. Các mối quan hệ đó có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến quá
trình giải quyết các vụ án hình sự. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh, Công an
tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh chủ động phối hợp với các cơ quan hữu
quan ký văn bản mang tính phối hợp liên ngành. Ví dụ: Phối hợp trong công
tác tiếp nhận, giải quyết, tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự trong đó có tội xâm phạm sở hữu…
3.2.6. Một số giải pháp khác
Đầu tư trang thiết bị và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác
điều tra tội phạm nói chung và tội phạm sở hữu nói riêng; đầu tư máy in, cấp
phát các văn bản pháp luật, tài liệu, sách báo cho Công chức cơ quan tư pháp
nghiên cứu học tập, áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc cụ thể và tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân biết các thủ đoạn trộm cắp và chiếm
đoạt tài sản để phòng tránh.
70
Tiểu kết Chương 3
Tại Chương 3 của luận văn, tác giả đã phân tích một số yêu cầu phải
nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản;
đồng thời, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản như hoàn
thiện một số quy định của pháp luật về tội trộm cắp tai sản, tăng cường công
tác tập huấn, giải thích và hướng dẫn pháp luật, tăng cường công tác tập huấn,
bồi dưỡng kiến thức pháp luật đặc biệt là những quy định mới về nhóm tội
xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng cho công chức
trong hệ thống cơ quan tư pháp, giải pháp về công tác cán bộ và về chuyên
môn, nghiệp vụ...góp phần nâng cao hiệu quả của công tác định tội danh và
quyết định hình phạt của trộm cắp tài sản.
Kết quả nghiên cứu của luận văn, có thể góp phần hoàn thiện lý luận về
tội trộm cắp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam và là cơ sở để các
cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh tham
khảo trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt.
71
KẾT LUẬN
Thông qua 03 Chương của luận văn thạc sĩ luật học tác giả đã lần lượt
phân tích, làm rõ được những vấn đề chung về tội trộm cắp tài sản cũng như
thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Tại Chương 1 của luận văn, tác giả đã nghiên cứu, phân tích một số vấn
đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản, phân biệt tội trộm cắp tài sản
trong luật hình sự Việt Nam với một số tội có tính chất chiếm đoạt, cũng như
khái quát được lịch sử lập pháp của tội trộm cắp tài sản giai đoạn từ năm 1945
đến nay.
Tại Chương 2 của luận văn, tác giả đã phân tích, đánh giá một cách
khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du
trong thời gian từ 2015 đến năm 2019, từ đó chỉ ra những vướng mắc, hạn chế
trong thực tiễn áp dụng áp dụng các quy định pháp luật về tội trộm cắp tài sản
và những nguyên nhân của vướng mắc, hạn chế đó.
Tại Chương 3 của luận văn, tác giả đã phân tích một số yêu cầu và đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản như hoàn thiện một số quy định của
pháp luật về tội trộm cắp tài sản, tăng cường công tác tập huấn, giải thích và
hướng dẫn pháp luật, tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật đặc biệt là những quy định mới về nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung
và tội trộm cắp tài sản nói riêng cho công chức trong hệ thống cơ quan tư
pháp, giải pháp về công tác cán bộ và về chuyên môn, nghiệp vụ và nhóm giải
pháp khác.
Tác giả hy vọng, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc
hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, luận văn được nghiên cứu trong bối
72
cảnh BLHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 với nhiều quy định mới
trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói
riêng, trong khi kiến thức tác giả có thể còn hạn chế, do vậy luận văn khó
tránh khỏi khiếm khuyết nhất định.. /.
73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002,
Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.
4. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (chủ biên), Bình luận khoa học
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
6. Nguyễn Mai Bộ (2010), Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm
1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Phạm Văn Beo (2010), Luật Hình sự Việt Nam (quyển 2 - Phần các
tội phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận, hướng
dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
9. Chủ tịch nước (1948), Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1948 quy định
trừng trị các hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ
chiến tranh, Hà Nội.
10. Chủ tịch nước (1956), Sắc lệnh 267/SL ngày 15/6/1956, trừng trị
những hành động phá hoại an toàn quốc gia, Hà Nội
11. Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học Phần các tội phạm
BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội
12. Cao Thị Oanh - chủ biên (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
13. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
14. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
15. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
16. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
17. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
18. Quốc hội (2001), Luật di sản văn hóa, Hà Nội.
19. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
20. Đinh Văn Quế, 2003, Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm,
tập II- Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. TP.HCM.
21. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình
phạt theo luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Thông tư số 14/VBHN-
NHNN ngày 13/01/2016 quy định về phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ
tiền gửi, trái phiếu trong nước của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài.
23. Hoàng Văn Tiến (2016),Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình
sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc
sĩ, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
24. Trường Đại học luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, Phần các tội phạm (tập 2), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (tập II), Nxb CAND, Hà Nội.
26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (tập II), Nxb CAND, Hà Nội.
27. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2011), Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam, tập 2 - Phần các tội phạm, Nxb Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh.
28. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của phần chung BLHS năm
1985, Hà Nội.
29.Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 02/HĐTP-NQ ngày
16/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ
sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số
quy định của phần chung Bộ luật hình sự, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày
19/4/1989 của HĐTP hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của
BLHS 1985, Hà Nội.
31. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày
04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật
Hình sự 1999, Hà Nội.
32. Tòa án nhân dân tối cao, Các văn bản quy phạm pháp luật của Tòa
án nhân dân tối cao và hướng dẫn thi hành pháp luật, Hà Nội, 2005.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn số 212/TANDTC-PC
ngày 13/9/2019 v/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc
trong xét xử có hướng dẫn, Hà Nội.
34. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn 64/TANDTC-PC ngày
03/4/2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về
hình sự, dân sự và tố tụng hành chính,Hà Nội.
35. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 207/2018/HS-ST
ngày 30/11/2018 .
36. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 47/2019/HSST
ngày 12/4/2019.
37. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 45/2019/HSST
ngày 24/4/2019.
38. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 54/2018/HSST
ngày 14/03/2018.
39. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 42/2018/HSST
ngày 29/01/2018.
40. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số182/2018/HS-ST
ngày 06/11/2018.
41. TAND tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017.
42. TAND tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 39/2018/HS-PTngày 18/9/2018.
43. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công
an, Bộ tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BTP, Hà Nội.
44. Thủ tướng Chính phủ (1955),Thông tư 442-TTg ngày 19/1/1955,
quy định thống nhất một số tội phạm, Hà Nộ.
45. Hồ Sỹ Sơn (2008), Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật
hình sự nước ta với pháp luật hình sự của một số nước thuộc hệ thống pháp
luật châu âu lục địa, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2008.
46. PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn (2018),Luật hình sự so sánh (sách chuyên
khảo), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
47. Lê Thị Sơn (2007), Đổi mới chính sách hình sự - Định hướng cho
việc hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 1999, Luật học (số 8), tr.54-59.
48. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 149-LCT ngày
21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, Hà Nội.
49. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 150-LCT ngày
21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân, Hà Nội.
50. Viện Nhà nước và Pháp luật (1993), Tội phạm học, luật hình sự,
luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia.
51.https://plo.vn/phap-luat/ai-da-lam-cho-vu-cua-go-kho-them-phuc-
tap-848330.html
52. https://plo.vn/phap-luat/kho-hieu-toa-ket-toi-nam-nguoi-cua-go-
kho-851729.html