VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN QUANG

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN QUANG

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. CAO THỊ OANH Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MỤC LỤC

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI

TRỘM CẮP TÀI SẢN ..................................................................................... 6

1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản ............................................. 6

1.2. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm

1945 đến khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật ....................... 23

Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH

PHẠT TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN DU,

TỈNH BẮC NINH ........................................................................................... 32

2.1. Khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên du, tỉnh

Bắc Ninh ........................................................................................................... 32

2.2. Kết quả đạt được từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ........................... 36

2.3. Một số vướng mắc, hạn chế từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình

phạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và nguyên nhân của những

vướng mắc, hạn chế .......................................................................................... 46

Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH

TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH .......................... 56

3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm

cắp tài sản ......................................................................................................... 56

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ........................... 57

KẾT LUẬN ................................................................................................... 772

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật Hình sự

BLDS: Bộ luật Dân sự

BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự

CTTP: Cấu thành tội phạm

QĐHP: Quyết định hình phạt

TNHS: Trách nhiệm hình sự

TAND: Tòa án nhân dân

THTT: Tiến hành tố tụng

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 2.1. Số vụ án và số bị cáo về tội xâm phạm sở hữu đã được đưa ra xét xử

từ năm 2015 đến năm 2019 .................................................................... 32

Bảng 2.2: Số vụ án và số bị cáo về tội trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử

từ năm 2015 đến năm 2019 .................................................................... 34

Bảng 2.3. Hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội trộm cắp tài

sản từ năm 2015 đến năm 2019 ............................................................. 35

Biểu đồ 2.1. So sánh tỷ lệ nhóm tội xâm phạm sở hữu với nhóm tội khác từ

năm 2015 đến năm 2019 được TAND huyện Tiên Du đưa ra xét xử: .. 33

Biểu đồ 2.2. So sánh tội trộm cắp tài sản với các tội xâm phạm sở hữu đã được

TAND huyện Tiên Du đưa ra xét xử: .................................................... 34

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền dân sự cơ bản của con

người. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, các tội phạm xâm phạm quyền sở

hữu, trong đó có tội trộm cắp tài sản đang có xu hướng gia tăng, với nhiều thủ

đoạn ngày một tinh vi, phức tạp, các đối tượng sẵn sàng chống cự quyết liệt

khi bị phát hiện, gây rất nhiều khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, truy tố và

xét xử loại tội phạm này, trong đó có huyện Tiên Du, một huyện trực thuộc

tỉnh Bắc Ninh, nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam.

Theo thống kê của Tòa án nhân dân (TAND) huyện Tiên Du, tỉnh Bắc

Ninh trong thời gian 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 thì nhóm tội xâm

phạm sở hữu chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các nhóm tội mà TAND huyện Tiên

Du đưa ra xét xử, cụ thể là 369 vụ với 684 bị cáo, tương ứng tỷ lệ 59,9% về

vụ và 63,5% về số bị cáo trên tổng số vụ và bị cáo phạm tội được đưa ra xét

xử. Trong đó, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nhóm

tội xâm phạm sở hữu, với 196 vụ và 288 bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản,

chiếm tỷ lệ 51,04 % số vụ và 48,64 % số bị cáo trên tổng số tội xâm phạm sở

hữu và đang có xu hướng tăng mạnh khi năm 2019 có 43 vụ/ 60 bị cáo, chiếm

tỉ lệ 71,6 % về số vụ và 65,9 % về số bị cáo thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu

được đưa ra xét xử.

Với việc BLHS năm 2015 được ban hành mới, có hiệu lực kể từ ngày

01/01/2018, đã đáp ứng cơ bản với tình hình thực tiễn đấu tranh, phòng chống

tội phạm trộm cắp tài sản; tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án về tội trộm

cắp tài sản cho thấy, về mặt lý luận và quy định pháp lý vẫn còn những điểm

chưa phù hợp, gây khó khăn cho hoạt động định tội danh và quyết định hình

phạt, năng lực, trình độ của công chức cơ quan tiến hành tố tụng huyện Tiên

Du còn hạn chế... làm ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đấu tranh phòng

chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Do vây,

1

việc nghiên cứu tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc

Ninh là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng. Mặt khác, tính đến thời điểm

hiện tại chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn một huyện là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong khoảng thời

gian từ năm 2015 đến năm 2019.

Xuất phát từ lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tội

trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh” để làm để tài

nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Các công trình nghiên cứ liên quan đến đề tài trên có thể kể đến như:

(i) Tài liệu là giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:

Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2012), Giáo trình luật hình sự Việt Nam –

Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà

Nội (2012), Ths. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự

Phần các tội phạm, tập II – Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh; Cao Thị Oanh - chủ biên (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; v.v...

(ii) Luận văn, luận án tiến sĩ luật học: Nguyễn Ngọc Chí (2001), Trách

nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ, Viện Nhà

nước và Pháp luật, Hà Nội; Hoàng Văn Hùng, Tội trộm cắp tài sản và đấu

tranh phòng, chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại

học Luật Hà Nội; Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tội trộm cắp tài sản theo Luật

hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh), Luận

văn thạc sĩ, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Mộng Thúy

(2013), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh

Long An, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội; v.v...

(iii) Tài liệu là các bài viết trên các tạp chí: Trần Mạnh Hà (2007),Một

số dấu hiệu đặc trưng của tội "trộm cắp tài sản" cần nhận biết khi định tội

2

danh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3 (227); Hoàng Văn Hùng (2006),

Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, Tạp

chí Luật học, Số 7;v.v....

Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội trộm cắp tài sản ở

các góc độ khác nhau, trong đó có nhiều đề tài được nghiên cứu trước khi

BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật, một số đề tài nghiên cứu sau khi

BLHS năm 2015 có hiệu lực nhưng ở phạm vi không gian và thời gian khác

nhau. Tính đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến tội trộm

cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam, một cách cụ thể, chuyên sâu tại

địa bàn một huyện là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, trong phạm vi từ năm

2015 đến năm 2019.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, làm rõ những vấn đề lý

luận và pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng quy định về tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến

năm 2019, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của

pháp luật về tội trộm cắp tài sản trong BLHS Việt Nam và đề xuất những giải

pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ

nghiên cứu:

- Làm sáng tỏ những vấn đề chung như khái niệm, đặc điểm và các dấu

hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp tài sản với một

số tội phạm xâm phạm sở hữu khác trong luật hình sự Việt Nam cũng như tìm

hiểu lịch sử lập pháp của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt

Nam giai đoạn từ năm 1945 đến khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật.

3

- Phân tích những quy định hiện hành về tội trộm cắp tài sản. Đánh giá

những kết quả đạt được, những vướng mắc hạn chế và nguyên nhân của

những vướng mắc, hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết định hình

phạt tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động định tội

danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản nói chung và trên địa bàn

huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định

của luật thực định về tội trộm cắp tài sản và thực tiễn áp dụng (định tội danh

và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam về tội trộm cắp tài sản mà trọng tâm là BLHS năm 2015, trong

khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, trên phạm vi huyện Tiên Du,

tỉnh Bắc Ninh.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy

vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của

Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự,

đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của Nhà nước ta, làm kim chỉ nam

xuyên suốt trong toàn bộ cấu trúc nghiên cứu của luận văn.

Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật

hình sự như: lịch sử, so sánh, đối chiếu, thống kê, diễn dịch, quy nạp, phân

tích và tổng hợp…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

4

Về mặt lý luận: Từ một số giải pháp đưa ra, luận văn sẽ góp phần hoàn

thiện hơn những quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản, là cơ sở lý

luận – khoa học cho hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền

nói chung và ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu

tham khảo cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xây dựng

hoàn thiện các quy định về tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra, kết quả đạt được

trong nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo

trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối

với người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn; đặc biệt,

kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải

quyết các vụ án trộm cắp tài sản của các cơ quan có thẩm quyền ở huyện Tiên

Du, tỉnh Bắc Ninh.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản.

Chương 2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết

định hình phạt tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

1.1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Khái niệm tội phạm là khái niệm trung tâm, các khái niệm, phạm trù,

chế định khác đều xuất phát, xoay quanh khái niệm này. Việc xác định tội

phạm trong luật hình sự là cơ sở để quy định hình phạt nhưng việc quy định

hình phạt xét cho cùng cũng là một phần của việc xác định tội phạm. Khái

niệm tội phạm là cơ sở để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể với ý nghĩa

là mô hình pháp lý của từng loại tội phạm và qua đó cũng là cơ sở để quy

định hình phạt tương ứng [26, tr.8].

Trong pháp luật hình sự thực định, từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm

2015 thì nhà làm luật vẫn chưa đưa ra được khái niệm pháp lý về tội trộm cắp

tài sản. Tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS năm 2015, tội trộm cắp tài

sản được quy định tại Điều 173, chương XVI các tội xâm phạm sở hữu, với

khách thể trực tiếp của tội phạm là quyền sở hữu (quản lý, sử dụng, định đoạt)

tài sản của cá nhân, tổ chức. Là tội phạm có bản chất là tội chiếm đoạt, đó

là “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của

chủ tài sản thành tài sản của mình” [24, tr.184].

Bên cạnh đó, trong khoa học luật hình sự, liên quan đến khái niệm tội

trộm cắp tài sản cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm tội

trộm cắp tài sản, tiêu biểu như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường

Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm như sau: “trộm cắp tài sản là hành vi

chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút” [25; tr.33];

TS. Trần Văn Biên - TS. Đinh Thế Hưng có định nghĩa: Tội trộm cắp

tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn lén lút, lợi

6

dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản [4, tr. 222]. Tác giả

Nguyễn Ngọc Điệp lại cho rằng: Trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén

lút, bí mật chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành

của mình [11, tr. 115].

Có thể thấy, đa phần các tác giả đều thống nhất đặc trưng của tội trộm

cắp tài sản là lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, tức là người có hành

vi trộm cắp tài sản đã cố ý chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ người có tài

sản sang cho mình hoặc người khác mà mình quan tâm với thủ đoạn là lén lút,

không để lộ cho người khác biết để nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài

sản của họ.

Như vậy, trên cơ sở khái niệm pháp lý về tội phạm trong BLHS năm

2015 và tiếp thu các khái niệm nêu trên trong khoa học luật hình sự, tác giả

đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau:

Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản đang do người khác

quản lý bằng thủ đoạn lén lút, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt

độ tuổi luật định, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến quyền sở hữu

tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.

1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

Trong pháp luật hình sự hiện hành thì tội trộm cắp tài sản được quy

định tại Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và có hiệu

lực toàn bộ từ ngày 01/01/2018.

Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản được thể hiện qua các yếu

tố CTTP là khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của

tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm như sau:

*Khách thể của tội trộm cắp tài sản

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và

bị tội phạm xâm hại [26, tr. 78].

7

Đối với tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS năm

2015, thuộc chương các tội phạm xâm phạm sở hữu. Khách thể trực tiếp của

tội trộm cắp tài sản là quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu bao gồm: quyền

chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy

định của luật [19, Điều 158].

Để gây thiệt hại đến các quyền sở hữu về tài sản, người phạm tội trộm

cắp tài sản phải tác động đến đối tượng là tài sản của chủ sở hữu hoặc người

quản lý hợp pháp tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài

sản có thể là tài sản hợp pháp tức là những loại tài sản được xác lập quyền sở

hữu cho chủ sở hữu theo các căn cứ: do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh

doanh hợp pháp; được chuyển quyền sở hữu; thu hoa lợi, lợi tức; được thừa

kế tài sản; chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô

chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên…; chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp

luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu do Bộ luật dân

sự quy định …[19] hoặc có thể là tài sản bất hợp pháp như do phạm tội, vi

phạm pháp luật hành chính, vi phạm pháp luật dân sự mà có; đồng thời, tài

sản này vẫn chưa thoát ly khỏi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo quy

định của pháp luật, hoặc tài sản đó chưa được chủ sở hữu hoặc người quản lý

tài sản chuyển giao cho người thực hiện hành vi chiếm đoạt.

Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ

có giá và quyền tài sản” [19].

- Vật chỉ có thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản khi nó là

một bộ phận của thế giới vật chất, là sản phẩm lao động của con người, con

người chiếm hữu được, mang lại lợi ích cho chủ thể, có thể đang tồn tại hoặc

sẽ hình thành trong tương lai; đồng thời, chưa bị chủ tài sản hủy bỏ, từ bỏ

quyền sở hữu.

- Tiền: Tiền là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải có giá trị

đang được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận. Do vậy, tiền giả

8

không phải là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Trường hợp, tiền cũ

(tiền đồng qua các thời kỳ lịch sử trước đây) có giá trị văn hóa lịch sử khi bị trộm

cắp thì không được coi là tiền theo nghĩa này mà cần được xác định là vật.

- Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển

giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều

dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, công trái…

Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản và quyền này

được pháp luật bảo vệ. Giấy tờ có giá chia làm 02 loại là giấy tờ có giá ghi

danh và giấy tờ có giá hữu danh. Trong đó “Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ

có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở

hữu.” [22, khoản 2, Điều 2] và “Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát

hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô

danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá” [22, khoản 2,

Điều 3]. Đối với giấy tờ có giá ghi danh phải ghi rõ tên tổ chức, số giấy phép

thành lập hoặc giấy phép đăng ký kinh doanh, địa chỉ của tổ chức mua giấy tờ

có giá (nếu người mua là tổ chức); tên, số chứng minh nhân dân hoặc hộ

chiếu, địa chỉ của người mua giấy tờ có giá (nếu người mua là cá nhân). Với

quy định trên thì chỉ giấy tờ có giá vô danh mới có thể là đối tượng tác động

của tội trộm cắp tài sản bởi vì khi chiếm đoạt được các loại giấy tờ có giá vô

danh thì quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh hưởng và có khả năng xác

lập quyền sở hữu cho người phạm tội. Đối với giấy tờ có giá ghi danh do

quyền sở hữu các loại giấy tờ này gắn liền với cá nhân, tổ chức có tên trong

chính giấy tờ có giá đó. Do vậy, về nguyên tắc chỉ người có tên trên giấy tờ

có giá mới xác lập được quyền sở hữu đối với loại tài sản này.

- Quyền về tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài

sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài

sản khác. Quyền tài sản tuy được coi là tài sản nhưng có tính đặc thù, chỉ là

một quyền năng mang tính pháp lý được Nhà nước bảo hộ, để chuyển dịch

9

được phải thông qua các thủ tục pháp lý do Nhà nước quy định. Các quyền

này thường gắn liền với nhân thân con người hoặc được thể hiện qua các giấy

tờ có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Việc chiếm giữ được giấy tờ

chứng nhận quyền tài sản không đồng nghĩa với việc được thực hiện quyền sử

dụng và quyền định đoạt tài sản [13, tr.153]. Do vậy, theo tác giả quyền tài

sản không phải là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.

- Ngoài ra, một số tài sản sau không phải là đối tượng tác động của tội

trộm cắp tài sản:

+ Một số tài sản thuộc loại “bất động sản” có tính chất vật lý cố định, ví

dụ như: đất đai, nhà cửa, ao hồ. Những loại tài sản này không thể là đối tượng

tác động của tội trộm cắp tài sản, vì không dịch chuyển được. Tuy nhiên, có

một số động sản mà pháp luật dân sự quy định là bất động sản do công dụng

của nó như: cánh cửa gắn với ngôi nhà; cây cối trồng trên vườn… thì vẫn là

đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.

+ Tài sản vô chủ; tài sản bị rơi, bị bỏ quên, thất lạc; tài sản mà chủ sở

hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản đó.

+ Tài sản thuộc các loại có tính chất và công dụng đặc biệt. Ví dụ như:

vũ khí quân dụng, ma tuý, hàng cấm, máy bay…Nếu người phạm tội trộm cắp

những loại tài sản này thì tuỳ trường hợp mà phạm vào các tội danh cụ thể, có

thể là tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng, tội chiếm đoạt chất ma tuý.

* Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản

a) Về hành vi khách quan

Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là dấu hiệu

quan trọng nhất, một hành vi được coi là hành vi khách quan của tội phạm khi

hội tụ được ba đặc điểm sau:

Thứ nhất, hành vi khách quan đó phải có tính nguy hiểm cho xã hội,

tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thể hiện hành vi đó gây ra hoặc đe dọa

gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

10

Thứ hai, hành vi khách quan đó phải là hoạt động có ý thức và có ý chí

nếu hành vi đó là cách xử sự của một con người không có nhận thức không có

ý chí thì đó không phải là hành vi phạm tội.

Thứ ba, hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự.

Hành vi khách quan của tội phạm có thể được thực hiện dưới hình thức

hành động hoặc không hành động.

- Đối với tội trộm cắp tài sản thì hành vi khách quan có đầy đủ các đặc

điểm nêu trên, được thực hiện bằng hành động, đó là hành vi chiếm đoạt tài

sản của người khác. Được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật

tài sản của người khác thành của mình, làm cho chủ sở hữu mất khả năng thực

hiện quyền sở hữu (sử dụng, chiếm hữu, định đoạt của mình). Đặc trưng của

hành vi chiếm đoạt được thực tiễn cũng như lý luận đều xác định là chiếm

đoạt tài sản của người khác một cách lén lút.

Về thủ đoạn lén lút: thông thường thủ đoạn lén lút được thể hiện qua

các dạng sau:

+ Che giấu toàn bộ hành vi: Trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người

quản lý tài sản không biết được bất cứ thông tin nào về người phạm tội cũng

như hành vi phạm tội (ví dụ: lợi dụng đêm tối, lẻn vào nhà người khác lấy

trộm tài sản).

+ Che giấu một phần hành vi: Tức chỉ che giấu riêng hành vi phạm tội (ví

dụ: người phạm tội giả vờ vào hỏi chủ nhà xin nước uống, sau đó nhanh tay trộm

tài sản của chủ nhà giấu vào người). Trong trường hợp này chủ sở hữu hoặc người

quản lý tài sản biết rõ người phạm tội nhưng không biết hành vi phạm tội.

+ Che giấu tính chất của hành vi phạm tội: Được hiểu là hành vi phạm

tội được diễn ra công khai nhưng không ai biết việc phạm tội.

Ví dụ: A là nhân viên của Công ty điện tử SL đã lợi dụng Thủ kho và

người quản lý công ty đi vắng, A đã mở cửa kho lấy 10 bộ máy vi tính để bàn

lên ô tô một cách đàng hoàng như là có việc xuất kho hàng bình thường.

11

Trong trường hợp này A không che giấu hành vi thực tế của mình mà chỉ che

giấu tính phi pháp của hành vi. Những người không phải là chủ tài sản hoặc

người được giao quản lý tài sản (Thủ kho) vẫn biết sự việc xảy ra nhưng

không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản.

- Tội trộm cắp tài sản hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã chiếm

đoạt được tài sản.

b) Về hậu quả.

Hậu quả của tội phạm là các thiệt hại do hành vi khách quan gây ra cho

quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự và cũng là khách thể của

tội phạm [24, tr.127]. Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể hiện qua sự

biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là

khách thể của tội phạm. Về thực chất, hậu quả của tội phạm là thiệt hại gây ra

cho quan hệ xã hội nhưng về hình thức, dấu hiệu trong CTTP phản ánh nội

dung này là dấu hiệu thể hiện sự biến đổi tình trạng bình thường của đối

tượng tác động của tội phạm hoặc thể hiện đặc điểm của đối tượng tác động

của tội phạm. Do vậy, trong thực tiễn áp dụng, việc xác định, đánh giá hậu

quả của tội phạm được thực hiện thông qua việc xác định, đánh giá đặc điểm

của đối tượng tác động của tội phạm.

Trong tội trộm cắp tài sản sự biến đổi tình trạng bình thường của đối

tượng vật chất là khách thể của quan hệ xã hội: sự biến đổi này thường được

gọi là thiệt hại về vật chất. Đó là thiệt hại về giá trị tài sản bị chiếm đoạt bất

hợp pháp. Tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt bao gồm các loại tiền, vật,

giấy tờ có giá như ngân phiếu, công trái, trái phiếu…

- Căn cứ quy định của BLHS hiện hành, giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ

2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm.

- Nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng, thì người vi phạm bị truy

cứu TNHS nếu thuộc một trong các trường hợp sau: [13].

12

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà

còn vi phạm. Đây là trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

chiếm đoạt (như cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản…), chưa hết thời hạn được

coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định của Luật xử lý vi

phạm hành chính năm 2012 thì nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp

hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm kể từ ngày chấp hành

xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành

quyết định xử phạt hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử

phạt hành chính [13].

+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các

Điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được

xóa án tích mà còn vi phạm. [13].

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Có thể hiểu là

gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự,

an toàn xã hội. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ

thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ. Đây là trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 2 triệu đồng nhưng tài sản bị

chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống của người bị hại hoặc gia đình họ. Xác

định trường hợp này cần chú ý phương tiện kiếm sống chính là trường hợp

cuộc sống của người bị hại và gia đình họ phụ thuộc vào việc sử dụng tài sản

đó làm phương tiện kiếm sống, việc bị chiếm đoạt làm cho người đó không

còn phương tiện kiếm sống khác.

+ Tài sản là di vật, cổ vật. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá

trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị

tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên [18,

Điều 4].

13

Tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất bởi dấu hiệu hậu quả được

phản ánh trong cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản. Đối với những

trường hợp một người có ý định trộm cắp tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn

như ôtô, xe máy, máy tính xách tay, đồng hồ đắt tiền… và người này có đủ

các dấu hiệu khác của tội phạm (như chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và

hành vi khách quan là lén lút chiếm đoạt tài sản) nhưng thực tế người đó chưa

chiếm đoạt được tài sản (Ví dụ: B biết được A để số tiền 500 triệu đồng trong

két sắt tại nhà riêng, nên đã lén lút đột nhập vào nhà A với ý định chiếm đoạt

số tiền trên, nhưng khi đang tìm cách mở két sắt thì A về, nên B trốn khỏi nhà

A...) thì dù người đó chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội trộm

cắp tài sản, nhưng tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.

c) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối

quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên

nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là

hậu quả của tội phạm).

Dựa vào cơ sở lý luận của cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả trong

phép biện chứng có thể xác định được các điều kiện của mối quan hệ nhân

quả giữa hành vi và hậu quả của tội trộm cắp tài sản như sau:

- Hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn lén lút phải xảy ra trước thiệt hại

cho tài sản của người khác về mặt thời gian.

- Trong bản thân hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác phải chứa

đựng khả năng thực tế, mầm mống nội tại, nguyên nhân trực tiếp làm phát

sinh hậu quả (thiệt hại về tài sản).

- Hậu quả của tội phạm (thiệt hại về tài sản của người khác) xảy ra là

thực hiện hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi chiếm đoạt

tài sản.

14

- Một hậu quả (thiệt hại về tài sản) của tội phạm có thể do một hoặc

nhiều nguyên nhân (một hoặc nhiều hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn

lén lút) trực tiếp gây ra.

* Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định

và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [26, tr.122].

Theo đó thì người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã

hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.

Xét từ góc độ pháp luật, năng lực trách nhiệm hình sự là khái niệm có

nhiều mặt. Một mặt, khái niệm này được dùng để khẳng định khả năng bị

buộc tội của một con người về hành vi tội phạm mà họ thực hiện. Mặt khác,

khái niệm này nêu bật khả năng của con người phải chịu trách nhiệm hình sự

về tội phạm mà họ đã thực hiện [49, tr. 69].

Luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định thế nào là người có

năng lực TNHS mà chỉ quy định thông qua độ tuổi chịu TNHS tại Điều 12

BLHS năm 2015 và tình trạng không có năng lực TNHS tại Điều 21 BLHS

năm 2015.

BLHS năm 2015 quy định về độ tuổi chịu TNHS như sau:

“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội

phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự

về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại

một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,

171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,

303 và 304 của Bộ luật này”. [16, Điều 12].

Như vậy, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là

có năng lực TNHS chưa đầy đủ. Do đó, họ chỉ phải chịu TNHS về những tội

15

phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong

các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178,

248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của

BLHS. Và người từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu TNHS về mọi tội phạm,

việc xác định tuổi đối với người chưa thành niên do cơ quan tiến hành tố tụng

thực hiện theo quy định của pháp luật.

Đồng thời tại BLHS năm 2015 quy định về tình trạng không có năng

lực TNHS như sau: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi

đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc

khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình

sự. [16, Điều 21].

Theo đó, một người chỉ được coi là không có năng lực TNHS khi đồng

thời thỏa mãn hai dấu hiệu sau:

Về y học - người đó mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn

hoạt động tâm thần, đồng thời về tâm lý họ bị mất năng lực nhận thức, hoặc

mất năng lực điều khiển hành vi của mình, việc xác định hai dấu hiệu này do

hội đồng giám định pháp y xác định và kết luận.

Như vậy chủ thể của tội phạm phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và

không trong tình trạng không có năng lực TNHS.

Bên cạnh đó, một số CTTP đòi hỏi chủ thể phải có thêm dấu hiệu đặc

biệt chỉ khi có dấu hiệu này mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội mà

CTTP phản ánh, khoa học luật hình sự gọi đây là chủ thể đặc biệt.

Từ phân tích trên, đối chiếu với quy định tại Điều 173 BLHS cho thấy

tội trộm cắp tài sản thì chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS và

phải thỏa mãn điều kiện sau:

+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm

cắp tài sản.

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà thực hiện hành vi trộm cắp

16

tài sản thì chỉ phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3 và khoản 4

Điều 173 BLHS.

Ngoài ra, tội này cũng không đòi hỏi người thực hiện hành vi phạm tội

phải có những dấu hiệu đặc biệt, nghĩa là bất kì ai cũng có thể là chủ thể của

tội phạm này. Tuy nhiên, trong trường hợp người có hành vi lén lút chiếm

đoạt tài sản nhưng là người có những dấu hiệu đặc biệt được quy định trong

Điều 353 BLHS năm 2015 và lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

mà mình có trách nhiệm quản lý thì hành vi người đó không phạm trộm cắp

tài sản mà phạm tội tham ô tài sản theo Điều 353 BLHS năm 2015.

* Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản.

Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người

phạm tội [26, tr. 133]. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ, mục

đích của người phạm tội.

Đối với tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp.

Người phạm tội trộm cắp tài sản nhận thức được rõ hành vi của mình là trái

pháp luật và nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó khi

tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái phép và mong muốn hậu quả xảy ra

[12, tr.314].

Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan của người phạm tội

đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội [26, tr. 153]. Đối với tội

trộm cắp tài sản thì mục đích của người phạm tội nhằm chiếm đoạt được tài

sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước

khi thực hiện hành vi chiếm đoạt sản. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt

tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực

hiện hành vi phạm tội cố ý [26, tr. 152]. Đối với tội trộm cắp tài sản người

phạm tội có thể xuất phát từ việc chiếm đoạt tài sản để trả nợ, để ăn

chơi…Tuy nhiên, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu định tội của tội

17

trộm cắp tài sản, nó chỉ có ý nghĩa khi xem xét quyết định hình phạt đối với

người trộm cắp tài sản.

* Về hình phạt

Hình phạt của tội trộm cắp tài sản được chia thành bốn khung, cụ thể

như sau:

- Khung một (khoản 1): Có mức hình phạt là hình phạt cải tạo không

giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

- Khung hai (khoản 2): Có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Được áp

dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

+ Có tổ chức. Đây là trường hợp có từ 02 người trở lên cố ý câu kết

chặt chẽ với nhau cùng tham gia phạm tội trộm cắp tài sản.

+ Có tính chất chuyên nghiệp. Là trường hợp có từ 05 lần trở lên phạm

tội trộm cắp tài sản, trong đó có lần đã bị xét xử nhưng chưa được xóa án tích,

hoặc chưa lần nào bị xét xử và chưa lần phạm tội nào hết thời hiệu truy cứu

TNHS; và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy

kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt là

việc sử dụng phương pháp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có tính chất tinh

vi, gian dối cao làm cho mọi người dễ nhầm và không cho rằng đó là hành vi

trộm cắp tài sản. Phạm tội dùng thủ đoạn nguy hiểm là dùng thủ đoạn trộm

cắp tài sản nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của

người khác [13, tr.188].

+ Hành hung để tẩu thoát. Đây là trường hợp mà người phạm tội chưa

chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện

và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại

người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém…nhằm tẩu thoát.

18

+ Tài sản là bảo vật quốc gia. Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu

truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn

hóa, khoa học [18].

+ Tái phạm nguy hiểm. Đây là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích

mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản theo khoản 3, khoản 4 (tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) hoặc đã tái phạm, chưa được

xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

- Khung ba (khoản 3): Có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Được áp

dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

- Khung 4 (khoản 4): Có mức phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù

chung thân. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên.

+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

- Hình phạt bổ sung (khoản 5): Ngoài việc phải chịu một trong các hình

phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị

phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

1.1.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội xâm phạm sở

hữu trong pháp luật hình sự Việt Nam

1.1.2.1. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp giật tài sản

- Thứ nhất, về khách thể của tội phạm

+ Tội trộm cắp tài sản: Khách thể của tội này chỉ là quan hệ sở hữu tài

sản của người khác.

+ Tội cướp giật tài sản: Ngoài quan hệ sở hữu tài sản, thì khách thể của

tội này còn có quan hệ nhân thân (tính mạng, sức khỏe của người khác).

- Thứ hai, về thủ đoạn của hành vi khách quan

19

+ Tội trộm cắp tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội trộm cắp tài sản là

hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản của người khác.

+ Tội cướp giật tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội cướp giật tài sản là

hành vi công khai và nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác.

- Thứ ba, CTTP và thời điểm hoàn thành tội phạm

+ Tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất, hậu quả được quy định là

dấu hiệu bắt buộc trong CTTP và mức trị giá tối thiểu để làm cơ sở truy cứu

TNHS được điều luật quy định từ 02 triệu đồng trở lên. Trường hợp dưới 02

triệu đồng phải kèm theo các dấu hiệu định tội khác theo khoản 1 Điều 173.

Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản.

+ Tội cướp giật tài sản có cấu thành hình thức, dấu hiệu hậu quả không

được phản ánh trong CTTP, điều luật không quy định mức tối thiểu trị giá tài

sản bị chiếm đoạt mà chỉ cần người phạm tội có hành vi cướp giật là tội phạm

hoàn thành. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội có hành vi

cướp giật tài sản.

- Thứ tư, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

+ Tội trộm cắp tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn.

+ Tội cướp giật tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn.

- Thứ năm, hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.

+ Tội trộm cắp tài sản: Có hình phạt ít nghiêm khắc hơn.

Thể hiện: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt

tù từ 06 tháng đến 03 năm; khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; khoản 3:

phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khoản 4: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Hình

phạt bổ sung: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

+ Tội cướp giật tài sản: Có hình phạt nghiêm khắc hơn. Thể hiện:

Khoản 1: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; khoản 2: phạt tù từ 03 năm đến 10

năm; khoản 3: phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khoản 4: phạt tù từ 12 năm đến

20

20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: phạt tiền từ 10.000.000 đồng

đến 100.000.000 đồng.

1.1.2.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài

sản.

- Thứ nhất, về thủ đoạn của hành vi khách quan.

+ Tội trộm cắp tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội này là hành vi lén lút

chiếm đoạt tài sản của người khác.

+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội này là

hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản ngay trước sự chứng kiến

của chủ tài sản, hoặc người quản lý tài sản.

- Thứ hai, về nhận thức của chủ tài sản, người quản lý tài sản khi bị

chiếm đoạt tài sản.

+ Tội trộm cắp tài sản: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được thực

hiện bằng khả năng không cho phép chủ tài sản, người quản lý tài sản biết khi

xảy ra hành vi phạm tội, trước khi xảy ra hành vi phạm tội thì tài sản vẫn đang

trong sự kiểm soát của chủ tài sản, người quản lý tài sản nhưng khi xảy ra

hành vi phạm tội họ không hề biết tài sản của mình bị chiếm đoạt, chỉ sau khi

mất tài sản họ mới biết.

+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Khi có hành vi chiếm đoạt tài sản

chủ tài sản, người quản lý tài sản vẫn nhận biết được có hành vi chiếm đoạt

nhưng do họ không có điều kiện bảo vệ tài sản của mình nên người phạm tội

mới ngang nhiên chiếm đoạt tài sản mà không cần dùng bất kì thủ đoạn nào

để đối phó với chủ tài sản, người quản lý tài sản.

- Thứ ba, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.

+ Tội trộm cắp tài sản: Mặc dù hình phạt chính là giống nhau nhưng

hình phạt bổ sung của tội này ít nghiêm khắc hơn.

Cụ thể: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

21

+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Hình phạt bổ sung nghiêm khắc

hơn. Cụ thể: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

1.1.2.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản

- Thứ nhất, về thủ đoạn của hành vi khách quan.

+ Tội trộm cắp tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội này là hành vi lén lút

chiếm đoạt tài sản của người khác.

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Thủ đoạn đặc trưng của tội này là

dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.

- Thứ hai, về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

+ Tội trộm cắp tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn.

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn.

- Thứ ba, về hình phạt áp dụng với người phạm tội.

+ Tội trộm cắp tài sản: Có hình phạt ít nghiêm khắc hơn.

Cụ thể: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù

từ 06 tháng đến 03 năm; khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; khoản 3:

phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khoản 4: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Hình

phạt bổ sung: phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: Có hình phạt nghiêm khắc hơn.

Cụ thể: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù

từ 06 tháng đến 03 năm; khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; khoản 3:

phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; khoản 4: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù

chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ

10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một

phần hoặc toàn bộ tài sản.

- Trong thực tế, có trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối

tiếp cận tài sản để đến khi có điều kiện mới lén lút chiếm đoạt tài sản của nạn

22

nhân thì đó là dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản chứ không phải lừa đảo chiếm

đoạt tài sản.

Ví dụ: D đóng giả Công an vào ngủ nhờ nhà ông T, ông T tưởng D là

Công an thật nên cho ngủ. Đến 12 giờ đêm, D thức giấc thấy mọi người trong

nhà đã ngủ say, D đã lục tủ lấy được 5.000.000 đồng và một điện thoại của

ông T. Hành vi này của D được xác định là tội trộm cắp tài sản.

1.2. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn

từ năm 1945 đến khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình

sự năm 1985

Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu sự ra đời

của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ

nghĩa Việt Nam. Với thắng lợi mang ý nghĩa Chính trị - lịch sử này, bên cạnh

việc hình thành một nhà nước kiểu mới thì đồng thời cũng đánh dấu mốc quan

trong trong lịch sử lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói riêng.

Trong giai đoạn đầu khi nhà nước mới thành lập phải đương đầu với

nhiều khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, chính vì vậy để điều chỉnh quan

hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật hình sự nói riêng. Nhà nước ta đã

ban hành sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945, tạm thời giữ lại các luật lệ cũ

tại ba miền cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật mới đề điều chỉnh các

quan hệ trên với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân

chủ cộng hòa.

Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, luật cũ có nhiều quy định không

thích hợp Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự quan

trọng để xử lý hành vi trộm cắp tài sản như: Sắc lệnh số 12-SL ngày

12/3/1948 quy định trừng trị các hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh trong

thời bình và thời kỳ chiến tranh, Nghị định số 32-NĐ ngày 06/4/1952 của Bộ

tư pháp quy định đường lối xét xử các tội trộm cắp, lừa đảo, biển thủ tài sản;

23

Thông tư số 1-BK ngày 14/12/1949 của liên Bộ nội vụ, Quốc phòng, Tư pháp

ấn định phương pháp đối phó với các vụ trộm cắp tại nơi có chiến sự.

Ví dụ: Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1948 quy định trừng trị các hành vi

trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh, có quy

định: "Trong thời bình, tội ăn cắp, lấy trộm các đồ quân giới, quân trang,

quân dụng nói tóm lại các vật dụng nhà binh, bị phạt theo điều khoản của

hình luật chung" [9, Điều 1].

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc tiến hành

xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Để góp phần vào việc bảo vệ sự nghiệp xây dựng

kinh tế và văn hoá mới, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành

một số văn bản điều chính về hành vi trộm cắp tài sản như: Thông tư 442-TTg

ngày 19/1/1955 của Thủ tuớng Chính phủ, quy định thống nhất một số tội

phạm, trong đó có tội trộm cắp tài sản:

“1. Trộm cắp: phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp trộm có tổ

chức, có bạo lực, có dùng vũ khí để doạ nạt thì phạt tù từ 3 đến 10 năm.”[47]

Điểm đặc biệt của Thông tư này là tại mục 4 cho phép áp dụng tương

tự, có nghĩa là nếu ngoài tội trộm cắp tài sản, đối với những tội tượng tự với

tội trộm cắp, các Toà án có thể phạt theo như tội đó.

Do yêu cầu khách quan của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,

ngày 21/101970, Nhà nước ta đã thông qua hai Pháp lệnh mới, trên tinh thần

pháp điển hóa các văn bản pháp luật trước đó quy định về tội trộm cắp tài sản

nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu nói chung. Đó là: Pháp lệnh số 149-

LCT ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp

lệnh số 150-LCT ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng

của công dân.

Trong đó, tội trộm cắp được quy định tại hai pháp lệnh với tên tội danh

là tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội trộm cắp tài sản riêng của công

24

dân. Cụ thể: Điều 7, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ

nghĩa quy định tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, như sau:

“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng

đến 5 năm.

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chuyên

nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Có móc ngoặc; d) Dùng

thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Trộm tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản

có giá trị đặc biệt; e) Dùng tài sản trộm cắp vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu

cơ hoặc vào những việc phạm tội khác;

Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.

3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có

nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì phạt

tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình” [51].

Điều 6, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân

quy định tội trộm cắp tài sản riêng của công dân, như sau:

“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3

tháng đến 3 năm.

Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chuyên

nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt,

nguy hiểm; d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại

hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.

2. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị

phạt tù từ 7 năm đến 15 năm” [52].

Việc ban hành song song hai bản Pháp lệnh thời điểm này thể hiện sự

quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ không những đối với tài

sản nhà nước, của hợp tác xã, mà cả đối với tài sản riêng của công dân, góp

phần xây dựng chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc.

Tóm lại, sơ lược giai đoạn luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến

25

trước khi nhà nước ta ban hành BLHS năm 1985, tội trộm cắp tài sản đã đuợc

quy định tại nhiều văn bản đơn lẻ khác nhau. Đặc biệt với sự ra đời của Pháp

lệnh số 149-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và

Pháp lệnh số 150-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công

dân, Nhà nuớc ta đã xây dựng đuợc hai CTTP về tội trộm cắp tài sản trong đó

quy định riêng biệt về trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và trộm cắp tài sản

riêng của công dân. Tuy nhiên, các quy định trên vẫn còn nằm tản mạn nhiều

văn bản, quy định vẫn chưa cụ thể, rõ ràng gây khó khăn khi áp dụng.

1.2.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 về tội trộm cắp tài sản

BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của nhà nước ta, có hiệu lực từ ngày

1/1/1986, đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp hình sự của

đất nước. Trong BLHS năm 1985, tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa được

quy định tại Điều 132, Chương 4 (có mức hình phạt cao nhất là tử hình) và tội

trộm cắp tài sản của công dân quy định tại Điều 155, Chương 6 của BLHS năm

1985 (có mức hình phạt cao nhất là tù hai mươi năm).

“Điều 132. Tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa

1. Người nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm

đến mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; c) Hành

hung để tẩu thoát; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”[14].

Về tội trộm cắp tài sản của công dân đuợc quy định tại Điều 155

BLHS:

“Điều 155. Tội trộm cắp tài sản của công dân

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không

giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

26

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ

hai năm đến mười năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy

hiểm; hành hung để tẩu thoát; c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây

hậu quả nghiêm trọng khác; d) Tái phạm nguy hiểm

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

bảy năm đến hai mươi năm”.[14]

Về hình phạt ngoài hình phạt tử hình, hình phạt tù (có thời hạn và

chung thân), thì nhà làm luật còn quy định việc áp dụng hình phạt cải tạo

không giam giữ, nhằm mở rộng hơn nữa các chế tài hình sự áp dụng với

người phạm tội, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm trong từng hành

vi, thuận lợi cho việc quyết định hình phạt.

Để phù hợp với tình hình thực tiễn, BLHS năm 1985 đã được Quốc hội

nước ta bốn lần sửa đổi, bổ sung (vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997)

những lần sửa đổi, bổ sung này chủ yếu nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh đối

với một số loại tội phạm nhất định, trong đó bổ sung thêm quy định về một

tình tiết định khung tăng nặng TNHS đối với người phạm tội vào điểm b

khoản 2 Điều 155 tội trộm cắp tài sản của công dân, đó là“có tính chất

chuyên nghiệp”. Tuy nhiên, trong thời gian này chưa có văn bản hướng dẫn

cụ thể về tình tiết phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp”.

Tóm lại, BLHS năm 1985 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển trong

kỹ thuật lập pháp, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nhà nước ta đã xây

dựng được cơ sở pháp lý thống nhất đề truy cứu TNHS hành vi trộm cắp tài

sản, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân cũng như hiệu quả

của công tác đấu tranh chống tội phạm. Tuy nhiên, BLHS năm 1985 được ban

hành trong thời kỳ tập trung, quan liêu, bao cấp, có sự phân biệt rõ ràng trong

việc bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, và sau nhiều lần

sửa đổi, bổ sung thì BLHS năm 1985 đã không còn là một chỉnh thể thống

nhất; đồng thời, quy định của BLHS về tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa

27

và công dân vẫn còn giản đơn, chưa rõ ràng (chưa xác định ngay trong CTTP

giá trị tài sản bị chiếm đoạt để truy cứu TNHS), gây khó khăn trong việc áp

dụng, đòi hỏi phải được sửa đổi một cách toàn diện.

1.2.3. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội trộm cắp tài sản

BLHS năm 1999 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2000. BLHS

năm 1999 đã gộp hai chương xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 1985 thành

một chương và tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138.

Như vậy, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã có những sửa

đổi, bổ sung quan trọng về tội trộm cắp tài sản. Cụ thể:

Thứ nhất, BLHS năm 1999 đã hợp nhất hai điều luật về tội trộm cắp tài

sản xã hội chủ nghĩa (Điều 132) và tội trộm cắp tài sản của công dân (Điều

155) của BLHS năm 1985 thành một điều luật quy định về tội trộm cắp tài sản

(Điều 138). Đồng thời, để đáp ứng đường lối xử lý người phạm tội xâm phạm

quyền sở hữu tài sản, Điều 48 BLHS năm 1999 quy định tình tiết tăng nặng

mới "Xâm phạm tài sản nhà nước".

Thứ hai, khi quy định về tội trộm cắp tài sản, BLHS năm 1999 đã định

lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt, người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS

theo các khoản khác nhau của Điều 138 BLHS. Điều này tạo thuận lợi cho

các chủ thể áp dụng pháp luật khi định tội danh và quyết định hình phạt.

Thứ ba, BLHS năm 1999 quy định bốn khung hình phạt so với ba

khung hình phạt trước đây như quy định của Điều 132 và Điều 155 BLHS

năm 1985. Điều này giúp thu hẹp khoảng cách giữ mức tối đa và mức tối

thiểu của một khung hình phạt và tạo cơ sở pháp lý cho việc truy cứu TNHS

chuẩn xác hơn.

Thứ tư, Điều 138 BLHS năm 1999 đã xác định ranh giới giữa trường

hợp hành vi vi phạm pháp luật hành chính với trường hợp phạm tội. Người

lấy tài sản của người khác có giá trị dưới 500.000 đồng và hành vi này không

gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó chưa bị xử lý hành chính về hành vi

28

chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản thì chỉ bị xử phạt

hành chính.

Thứ năm, BLHS năm 1999 quy định về hình phạt bổ sung bị phạt tiền

từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

Để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trong thời kỳ mới, BLHS

năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung một lần vào năm 2009, xác định lại ranh

giới giữa trường hợp hành vi vi phạm pháp luật hành chính với trường hợp

phạm tội cụ thể: Người lấy tài sản của người khác có giá trị dưới 2 triệu đồng

và hành vi này không gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó chưa bị xử lý

hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài

sản thì chỉ bị xử phạt hành chính.

Tóm lại, BLHS năm 1999 đã quy định về tội trộm cắp tài sản khá chặt

chẽ, phù hợp với tình hình phát triển thời điểm đó. Tuy nhiên, kể từ sau khi

BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi

to lớn về mọi mặt, việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội

nhập quốc tế của Việt Nam, nhiều quy định của BLHS năm 1999 (trong đó có

tội trộm cắp tài sản) đã không còn phù hợp, đòi hỏi cần được sửa đổi.

1.2.4. Điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội trộm cắp tài sản

So với quy định của BLHS năm 1999, thì BLHS năm 2015 có những

điểm mới sau:

Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã bỏ hình phạt tù chung thân, khung hình

phạt cao nhất tội này đến 20 năm tù. Quy định này nhằm góp phần tiếp tục thể

chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp được khẳng

định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Thứ hai, bãi bỏ tình tiết chiếm đoạt tài sản dưới 02 triệu đồng nhưng

gây hậu quả nghiêm trọng là điều kiện cấu thành tội trộm cắp tài sản quy định

tại khoản 1, Điều 138 BLHS năm 1999; bãi bỏ các tình tiết định khung (Gây

hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt

29

nghiêm trọng) quy định tại điểm d khoản 2, điểm b khoản 3 và điểm b khoản

4 Điều 138 BLHS năm 1999.

Thứ ba, về yếu tố cấu thành tội phạm, thì đồng thời với việc bổ sung

hai tình tiết định tội: c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã

hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ; tài sản là di vật, cổ vật, BLHS không quy định hành vi trộm cắp tài sản

của người khác có giá trị dưới 2.000.000 đồng thuộc một trong các trường

hợp sau đây là phạm tội: Một là, đã bị xử phạt hành chính về hành vi tham ô

tài sản hoặc hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, chưa

hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm;

Hai là, đã bị kết án về tội tham ô tài sản hoặc tội lạm dụng chức vụ, quyền

hạn chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Thứ năm, bổ sung 01 tình tiết định khung mới:

+ Khoản 2 bổ sung tình tiết: Tài sản là bảo vật quốc gia.

+ Khoản 3 bổ sung tình tiết: Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

+ Khoản 4 bổ sung tình tiết: Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng

khẩn cấp.

30

Tiểu kết Chương 1

Tại Chương 1 của luận văn, tác giả đã nghiên cứu, phân tích một số vấn

đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản, như khái niệm và các đặc điểm

của tội trộm cắp tài sản trên cơ sở nghiên cứu khái niệm chung của tội phạm

tại Điều 8 BLHS năm 2015 và các bài viết, bình luận khoa học, giáo trình của

các trường đại học trên cả nước để xây dựng khái niệm tội trộm cắp tài sản,

chỉ ra được những đặc điểm của tội trộm cắp tài sản. Qua đó, luận văn đã

phân biệt tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một số tội có

tính chất chiếm đoạt như tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản,

lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong chương này, tác giả cũng đã khái quát lịch

sử lập pháp của tội trộm cắp tài sản giai đoạn từ năm 1945 đến nay. Kết quả

nghiên cứu tại Chương 1 của luận văn là cơ sở, nền tảng để tác giả nghiên

cứu, phân tích đánh giá quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản

và thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt trên địa bàn huyện Tiên

Du, tỉnh Bắc Ninh trong các chương tiếp theo của luận văn.

31

Chương 2

THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

2.1. Khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện

Tiên du, tỉnh Bắc Ninh

Trong 5 năm từ năm 2015 đến năm năm 2019, Tòa án nhân dân huyện Tiên

Du, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử tổng số 616 vụ án và 1077 bị cáo, trong đó có 369 vụ

án và 684 bị cáo bị xét xử về nhóm tội xâm phạm sở hữu cụ thể như sau:

Bảng 2.1. Số vụ án và số bị cáo về tội xâm phạm sở hữu đã được đưa ra

STT Nhóm tội

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Năm 2015 Năm 2016 Số bị cáo

Số bị cáo

Năm 2017 Số bị cáo

Năm 2018 Số bị cáo

Năm 2019 Số bị cáo

41

64

56

186

57

83

170

271

45

80

1

09

19

10

16

05

06

07

14

07

12

2

17

18

15

15

54

62

10

22

08

19

3

19

68

19

67

17

76

12

25

06

10

4

02

02

02

03

02

05

05

06

02

02

5

01

01

01

01

01

08

01

01

01

01

6

7

Xâm phạm sở hữu Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người Ma túy Xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng Xâm phạm trật tự quản lý hành chính Xâm phạm trât tự quản lý kinh tế Khác

0 92

0 172

1 186

0 137

0 246

08 213

09 348

01 70

Tổng

01 1 104 125 (Nguồn: TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

xét xử từ năm 2015 đến năm 2019

32

Biểu đồ 2.1. So sánh tỷ lệ nhóm tội xâm phạm sở hữu với nhóm tội khác

Biểu đồ so sánh tỷ lệ tội xâm phạm sở hữu với các tội khác từ năm 2015 đến năm 2019

Tội xâm phạm sở hữu

Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người

Ma túy

Xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng

Xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Xâm phạm trât tự quản lý kinh tế

Tội khác

từ năm 2015 đến năm 2019 được TAND huyện Tiên Du đưa ra xét xử:

Qua bảng thống kê và biểu đồ so sánh giữa nhóm tội xâm phạm sở hữu

với các nhóm tội danh khác được TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đưa

ra xét xử, chúng ta có thể thấy:

Số vụ án và số bị cáo thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ lớn

nhất trong các nhóm tội, cụ thể là 369 vụ và 684 bị cáo, tương ứng tỷ lệ

59,9% về vụ và 63,5% về số bị cáo trên tổng số vụ và bị cáo được đưa ra xét

xử. Cho thấy sự phổ biến và phức tạp của nhóm tội này trên địa bàn huyện

Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

33

Bảng 2.2: Số vụ án và số bị cáo về tội trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét

Tỷ lệ % (2)/ (1)

Tổng số vụ án và bị cáo thuộc nhóm tội xâm sở hữu (1)

Tổng số vụ án và bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản bị xét xử (2)

Năm

Số vụ

Số bị cáo

Số vụ

Số bị cáo

Số vụ

Số bị cáo

2015

41

64

32

51

78,04

79,6

2016

56

83

36

56

64,2

67,4

2017

57

83

40

58

70,17

69,8

2018

170

271

45

63

26,47

23,2

2019

60

91

43

60

71,6

65,9

Tổng

384

592

196

288

51,04

48,64

xử từ năm 2015 đến năm 2019

(Nguồn: TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

Biểu đồ 2.2. So sánh tội trộm cắp tài sản với các tội xâm phạm sở hữu đã

Biểu đồ so sánh tổng số tội xâm phạm sở hữu với tội trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

180

160

140

120

100

80

60

40

20

0

2015

2016

2017

2018

Thg6-19

Tổng số vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu

Tổng số vụ trộm cắp tài sản

được TAND huyện Tiên Du đưa ra xét xử:

Qua bảng thống kê và biểu đồ so sánh giữa tội trộm cắp tài sản với tổng

34

số vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu, được TAND huyện Tiên Du, tỉnh

Bắc Ninh đưa ra xét xử, có thể thấy:

- Số vụ phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nhóm tội

xâm phạm sở hữu, cụ thể là Tòa án nhân dân huyện Tiên Du đã đưa ra xét xử

196 vụ với 288 bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản, chiếm tỷ lệ 51,04 % số vụ và

48,64 % số bị cáo trên tổng số các tội xâm phạm sở hữu đưa ra xét xử.

- Số liệu thống kê cũng cho thấy, tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện

Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong 5 năm qua luôn duy trì ở mức cao. Thấp nhất

vào năm 2015 với 32 vụ/51 bị cáo, nhưng lại chiếm tỉ lệ cao nhất trong nhóm

tội xâm phạm sở hữu là 78,04 % về số vụ, 79,6 % về số bị cáo. Cao nhất vào

năm 2018 với 45 vụ và 63 bị cáo, do thời điểm này Tòa án thay đổi cách tính

năm công tác của ngành Tòa án từ 30/9 lên 30/10, nên số vụ án tăng mạnh.

Tội trộm cắp tài sản đang có xu hướng tăng mạnh, khi năm 2019 có 43 vụ/ 60

bị cáo, chiếm tỉ lệ 71,6 % về số vụ và 65,9 % về số bị cáo so với tổng số vụ án

và bị cáo thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu đã đưa ra xét xử.

Điều này đặt ra yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống tội trộm

cắp tài sản cần phải được đẩy mạnh trong thời gian tới nhằm hạn chế sự gia

tăng của loại tội này trong thực tiễn.

Bảng 2.3. Hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội trộm cắp

Năm

Án treo

Số bị cáo đã xét xử

Tù dưới 03 năm

Tù 03 năm đến 07 năm

Tù 07 năm đến 15 năm

Tù chung thân, tử hình

Cảnh cáo, cải tạo không giam giữ 05 05 07 06 09 32

51 56 58 63 60 288

04 06 09 11 08 38

24 29 19 29 28 129

12 12 16 13 14 67

06 04 07 04 01 22

Tù từ 15 năm đến 20 năm 00 00 00 00 00 00

Tù từ 20 năm đến chung thân 00 00 00 00 00 00

00 00 00 00 00 00

2015 2016 2017 2018 2019 Tổng

tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

(Nguồn: TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh)

35

2.2. Kết quả đạt được từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình

phạt tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

2.2.1. Một số vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt

tội trộm cắp tài sản

* Về định tội danh:

Mặc dù trong khoa học luật hình sự có nhiều khái niệm khác nhau về

định tội danh. Do vậy, chúng ta có thể hiệu định tội danh tội trộm cắp tài sản

là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp

dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành

trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của

vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy

hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản được

quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 nhằm đạt được sự thật khách quan,

tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền

đề cho việc cá thể hóa và phân hóa TNHS một cách công minh, có căn cứ và

đúng pháp luật.

- Định tội danh được phân thành hai loại định tội danh: định tội danh

chính thức và định tội danh không chính thức. Định tội danh chính thức là

hoạt động định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát, Tòa án mà trực tiếp là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa người thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

thể hiện qua các quyết định như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, kết luật điều tra,

cáo trạng, bản án…Định tội danh không chính thức là hoạt động định tội danh

của các chủ thể khác nhau như những người nghiên cứu khoa học, luật gia,

giảng viên, sinh viên luật…thể hiện quan điểm khoa học, nhận thức cán nhân

đối với một hành vi phạm tội trên thực tế, và không làm phát sinh quyền và

nghĩa vụ giữa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với các cơ quan

36

nhà nước có thẩm quyền.

- Căn cứ vào cách phân loại cấu thành tội phạm theo mức độ nguy hiểm

cho xã hội của cấu thành tội trộm cắp tài sản, định tội danh tội trộm cắp tài

sản được chia thành định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm

cơ bản (khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015) là cấu thành tội phạm chỉ có dấu

hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội

khác và định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm tăng nặng

(theo các khoản 2, 3, 4 Điều 173 BLHS năm 2015) là cấu thành tội phạm mà

ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ

của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (so với trường hợp

bình thường).

* Về quyết định hình phạt

Bộ luật hình sự hiện hành không quy định cụ thể quyết định hình phạt

là gì. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu: Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa

chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành, Tòa án lựa chọn hình

phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu, phải tuân theo những quy định của Bộ luật

hình sự” [21, tr. 3].

Đây là, các căn cứ quyết định hình phạt có tính chất bắt buộc Hội đồng

xét xử phải tuân thủ để hình phạt được quyết định một cách đúng đắn. Thứ ba,

yêu cầu tuân thủ đúng căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện quan trọng để

hình phạt được tuyên bố có khả năng đạt được các mục đích của hình phạt ở

mức cao nhất [23, tr. 13, 16].

- Các căn cứ quyết định hình phạt:

Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính

nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích pháp luật mà có, buộc

Tòa án phải tuân theo khi Quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội

phạm [53, tr. 237]. Nội dung các căn cứ được quy định tại Điều 50 BLHS.

37

Như vậy, khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Tòa án phải

xét đến 04 căn cứ sau:

Thứ nhất, các quy định của Bộ luật hình sự. Các quy định của BLHS

năm 2015 chia làm 02 loại là quy định ở phần chung và phần các tội phạm cụ

thể (tội trộm cắp tài sản). Đó là nhóm những quy định có tính nguyên tắc

chung cho từng loại hình phạt (quy định về hệ thống hình phạt, về nội dung,

phạm vi và điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt), những quy định có

tính nguyên tắc chung cho việc miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn chấp hành

hình phạt tù có điều kiện và những quy định về tội phạm cụ thể, trong trường

hợp này là quy định về tội trộm cắp tài sản như: Quy định về nguyên tắc xử lý

(Điều 3 BLHS); các quy định liên quan đến hình phạt như: mục đích hình

phạt, nội dung, phạm vi, điều kiện của các loại hình phạt (từ Điều 30 đến

Điều 45 BLHS); các quy định về căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50

BLHS), các tình tiết giảm nhẹ (Điều 51 BLHS) và tăng nặng TNHS (Điều 52

BLHS...các quy định cụ thể về khung hình phạt, mức hình phạt, loại hình phạt

quy định tại Điều 173 BLHS.

Thứ hai, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội. Căn cứ này được quyết định bởi ý nghĩa, tầm quan trọng của khách thể do

tội phạm xâm hại, phụ thuộc vào yếu tố về mặt khách quan như hành vi khách

quan, hậu quả, công cụ phương tiện phạm tội, tính chất mức độ lỗi, các mức

độ thực hiện tội phạm (hoàn thành, chưa đạt hay chuẩn bị phạm tội), động cơ,

mục đích của người có hành vi phạm tội trộm cắp tài sản...

Thứ ba, về nhân thân người phạm tội. Nhân thân người phạm tội trong

luật hình sự có thể hiểu là những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý

nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ. Do

vậy, khi xem xét nhân thân người phạm tội Tòa án chỉ xem xét những đặc

điểm nhất định có liên quan đến mục đích của hình phạt, đó là những đặc

38

điểm ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,

phản ánh khả năng giáo dục và cải tạo người phạm tội, hoàn cảnh của người

phạm tội.

Thứ tư, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS của người phạm tội.

Các tình tiết giảm nhẹ được quy định trong BLHS hoặc do Tòa án xác định

nhưng phải nêu rõ lý do trong bản án, các tình tiết tăng nặng TNHS được quy

định trong BLHS.

2.2.2. Kết quả đạt được từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình

phạt tội trộm cắp tài sản trên địa huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

2.2.2.1. Định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản theo

cấu thành tội phạm cơ bản

Cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1

Điều 173 BLHS năm 2015 (khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999).

Qua nghiên cứu các bản án của TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

xét xử tội trộm cắp tài sản trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019

cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng cơ bản đều định tội danh và quyết

định hình phạt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Toà án nhân dân huyện

Tiên Du đảm bảo việc xét xử các vụ án trong thời hạn luật quy định, không có

vụ án nào oan sai.

Một số vụ án điển hình như:

- Bản án số 207/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 của TAND huyện Tiên

Du, tỉnh Bắc Ninh.

Khoảng 09 giờ ngày 04/10/2018, tại thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc

Ninh, Nguyễn Công T (sinh năm 1988, ĐKHKTT: thôn N, xã M, huyện T,

tỉnh Bắc Ninh) đã đột nhập vào nhà bà Nguyễn Thị B, trộm cắp được số tiền

500.000 đồng và 02 chiếc khuyên tai màu vàng đựng trong 01 hộp nhựa màu

đỏ, được định giá là 6.860.000 đồng. Tổng số tài sản bị cáo trộm cắp được tại

nhà bà B là 7.360.000 đồng. Ngày 30/11/2018, TAND huyện Tiên Du, tỉnh

39

Bắc Ninh đã ra bản án 207/2018/HS-ST tuyên bố bị cáo Nguyễn Công T

phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173.

Như vậy, TAND huyện Tiên Du đã tiến hành định tội danh hành vi của

Nguyễn Công T theo các dấu hiệu sau:

+ Về khách thể: Hành vi đột nhập vào nhà bà Nguyễn Thị B của

Nguyễn Công T, đã xâm phạm trực tiếp quan hệ sở hữu về tài sản của bà B,

làm mất khả năng quản lý, sử dụng và định đoạt số tiền 500.000 đồng và 02

chiếc khuyên tai màu vàng của bà B.

+ Về chủ thể: Nguyễn Công T là người đã thành niên, đạt độ tuổi phải

chịu TNHS, có khả năng nhận thức và điều hiển hành vi của mình nhưng vẫn

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bà B.

+ Về mặt khách quan: Nguyễn Công T đã đột nhập vào nhà bà Nguyễn

Thị B, trộm cắp được số tiền 500.000 đồng và 02 chiếc khuyên tai màu vàng

đựng trong 01 hộp nhựa màu đỏ. Hành vi này được thực hiện một cách lén

lút, chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015. Hậu quả

đã gây thiệt hại cho bà B tổng số là 7.360.000 đồng.

TAND huyện Tiên Du đã định tội danh đối với hành vi của Nguyễn

Công T theo khoản 1 Điều 173 trên cơ sở các dấu hiệu trên là hoàn toàn đúng

quy định của pháp luật.

Về quyết định hình phạt: TAND huyện Tiên Du đã căn cứ vào các yếu

tố sau đây để quyết định hình phạt với Nguyễn Công T.

+ Căn cứ vào quy định của BLHS: Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu

thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1

Điều 173 Bộ luật hình sự, với mức hình phạt “cải tạo không giam giữ đến 03

năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

+ Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội: hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm

đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ.

40

+ Nhân thân của Nguyễn Công T: Bị cáo đã sử dụng trái phép chất ma

túy bị Công an thị xã Từ Sơn xử phạt hành chính năm 2015 nhưng chưa nộp

tiền do vậy xác định bị cáo có 01 tiền sự. Bị cáo đã từng bị kết án về tội

“Trộm cắp tài sản” đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài

học cho bản thân lại tiếp tục phạm tội.

+ Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy:

Bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi

phạm tội của mình, đồng thời bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị

hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được

hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều

51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở đó, Tòa án tuyên phạt bị cáo Nguyễn Công T 08 (Tám)

tháng tù về tội trộm cắp tài sản [35].

* Với việc vận dụng linh hoạt quy trình định tội danh và quyết định

hình phạt, TAND huyện Tiên Du đã định tội danh và quyết định hình phạt

nhiều vụ án khác như sau:

- Bản án số 47/2019/HSST ngày 12/4/2019 của TAND huyện Tiên Du,

tỉnh Bắc Ninh.

Khoảng 14h ngày 11/01/2019, Nguyễn Văn H đi xe ôm của một người

thanh niên không quen biết từ nhà đến huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh với mục

đích xem có ai sơ hở thì trộm cắp, H phát hiện trên vỉa hè đối diện trường học

X có dựng 01 xe máy Super Dream màu nâu BKS 99H5-8746. H quan sát

xung quanh có đông người đang chờ đón con nhưng không có ai trông chiếc

xe trên. H đến gần xe rồi dùng vam phá khóa mang theo chọc vào ổ điện vặn

mạnh theo chiều kim đồng hồ thì ổ khóa bị toét. H đang loay hoay tìm cách đề

nổ chiếc xe thì bị anh Nguyễn Văn Ngữ và anh Nguyễn Ngọc Bình bắt quả

tang; 01 chiếc xe mô tô trên có giá trị là 10.000.000đ. Ngày 12/4/2019, Tòa

án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, đã ra ản án số 47/2019/HSST,

41

tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1

Điều 173.

Quyết định hình phạt: Căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính

chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người

phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: TAND

huyện Tiên Du đã áp dụng điểm s, khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 điều 52

BLHS, xử phạt: Nguyễn Văn H 18 (Mười tám) tháng tù. [36].

- Bản án số 45/2019/HSST ngày 24/4/2019 của TAND huyện Tiên Du,

tỉnh Bắc Ninh.

Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Mậu C là anh em họ. Khoảng 19h ngày

28/12/2018, H rủ C đi trộm cắp xe máy. H và C phát hiện thấy vỉa hè trước

cửa một phòng trọ có dựng một chiếc xe máy Honda Wave màu trắng-đen-

bạc, BKS 99H1-058.80 của anh Vi Văn T. Thấy xung quanh không có người

trông coi, H và C nẩy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy đó. Đến gần chỗ

dựng xe, C dừng lại đứng cảnh giới xung quanh. H đi bộ lại gần xe máy rồi

dùng chiếc vam phá khóa mang theo chọc vào ổ khóa điện vặn mạnh theo

chiều kim đồng hồ thì thấy đèn mo bật sáng. H nhanh chóng lên xe đề nổ máy

và điều khiển xe phóng nhanh theo đường ra hướng thị xã Từ Sơn. C thấy H

trộm cắp được xe liền đi xe máy về nhà. Trên đường đi, H đỗ xe lại tháo BKS

và vứt BKS cùng chiếc cờ lê xuống ao gần đó. H đi xe đến nhà nghỉ Thanh

Bình ở phường Đồng Nguyên, TX. Từ Sơn gọi điện thoại hẹn C đến. C đến và

điện thoại cho anh Dương Văn Minh ở TX. Từ Sơn đến xem xe. H và C đã bán

xe cho anh Minh với giá 4.000.000đ chia nhau mỗi người 2.000.000đ để chi tiêu

cá nhân. Chiếc xe máy sau được định giá 18.000.000 đồng. Ngày 24/4/2019,

TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ra bản án số 45/2019/HSST tuyên bố các

bị cáo Nguyễn Ngọc H; Nguyễn Mậu C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về quyết định hình phạt: Căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính

chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người

42

phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tòa án đã căn

cứ điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt: Nguyễn Ngọc H 36 (Ba mươi sáu)

tháng tù. Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt: Nguyễn Mậu C 15

(Mười lăm) tháng tù.Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày 14/01/2019 [37].

- Bản án số 54/2018/HSST ngày 14/03/2018 của TAND huyện Tiên Du,

tỉnh Bắc Ninh.

Sáng ngày 20/12/2017, lợi dụng sơ hở của Công ty S tại khu công

nghiệp T thuộc xã H, huyện T, Bùi Hữu B đã lấy 08 màn hình điện thoại

Samsung J730 (thành phẩm). Kết luận định giá tài sản xác định 08 chiếc màn

hình điện thoại Samsung J730 có giá trị là 5.845.000 đồng. Ngoài hành vi

trên, B còn khai nhận trong tháng 11/2017 đã 03 lần chiếm đoạt tài sản công

ty. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 18.985.000 đồng. Ngày 14/03/2018,

TAND huyện Tiên Du đã ra bản án số 54/2018/HSST, tuyên Bùi Hữu B phạm

tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999.

Quyết định hình phạt: Căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính

chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người

phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tòa án đã

áp dụng điểm b, o, p, q khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Bộ luật

hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Bùi Hữu B 14

tháng tù nhưng cho hương an treo. Thời gian thử thách 28 tháng tính từ ngày

tuyên án sơ thẩm [38].

2.2.2.2. Định tội danh và quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm

tăng nặng

Đây là trường hợp định tội danh và quyết định hình phạt theo khoản 2,

3, 4 BLHS năm 2015 (khoản 2, 3, 4 BLHS năm 1999). Thực tiễn xét xử trên

địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh trong khoảng thời gian từ năm 2015

đến năm 2019, các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện đa số đều định tội

danh và quyết định hình phạt theo các cấu thành tăng nặng đúng người, đúng

43

tội, đúng pháp luật và điều này được thể hiện thông qua nhiều các vụ án về tội

trộm cắp tài sản được Tòa án nhân dân huyện Tiên Du đưa ra xét xử.

- Bản án số 42/2018/HSST ngày 29/01/2018 của TAND huyện Tiên Du,

tỉnh Bắc Ninh.

Nguyễn Gia K, sinh năm 1989; ĐKHKTT: Thôn N, xã X, huyện X,

tỉnh Nam Định; thuê trọ tại thôn M, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh từ tháng

10/2017 để làm thợ phụ hồ. Khoảng 12h ngày 08/11/2017, K đi bộ từ phòng

trọ của mình đến khu trọ của bà Nguyễn Thị H (cùng thôn), K đi vào bên

trong, thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu xanh – trắng

không khóa cổ, khóa càng. K lấy 1 mũi vam tra vào ổ khóa, dùng Clê vặn

mạnh, mở được khóa điện; rồi dắt xe ra khỏi khu nhà trọ và điều khiển xe đi

ra thị xã T. Đi đến khu vực chợ X, phường D, quận C, thành phố Hà Nội, K

đã bán xe cho một người đàn ông không quen biết được 3.200.000đ. Biên bản

định giá tài sản đã xác định: chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius giá

trị còn lại 14.000.000 đồng. Trước đó, bị cáo đã 2 lần bị Tòa án nhân dân xử

phạt tù. Tính đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, chưa được xóa án

tích, lại tái phạm, nên với lần phạm tội này, bị cáo bị truy tố theo tình tiết tăng

nặng định khung: “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm c khoản 2 Điều

138 – BLHS năm 1999. Ngày 29/01/2018, TAND huyện Tiên Du đã ra Bản

án số 42/2018/HSST tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Gia K phạm tội: “Trộm cắp tài

sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS 1999.

Về quyết định hình phạt: Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết

giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường

toàn bộ giá trị thiệt hại mà bị cáo đã gây ra cho người bị hại; Sau khi phạm

tội, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi

phạm tội của mình. Bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Gia N có thời gian hoạt

44

động kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam Dioxin. Đồng thời, ông N là

người có công với cách mạng, được tặng Huy hiệu vì nghĩa vụ quốc tế.

Như vậy, bị cáo được hưởng 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, p

khoản 1 Điều 46 – BLHS; và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều

46 BLHS. Bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, bản thân lại nghiện

ma túy, nên không áp dụng hình phạt bổ sung. Trên cơ sở đó, TAND huyện

Tiên Du xử phạt: Nguyễn Gia K: 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính

từ ngày tạm giam 11/11/2017. [39].

- Bản án số 182/2018/HS-ST, ngày 06/11/2018 của TAND huyện Tiên

Du, tỉnh Bắc Ninh.

Trong khoảng thời gian từ ngày 13/5/2018 đến ngày 19/5/2018 Nguyễn

Tuấn A, sinh năm 1985, ĐKHKTT: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh đã

02 lần thực hiện các hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản trộm cắp

được là 8.200.000 đồng. Trước khi phạm tội A đã bị kết án, chưa được xóa án

tích về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Và tại Bản án hình sự số 74 ngày

29/7/2016 Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xử phạt bị cáo 12

tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tính tiết tăng nặng là “Tái phạm”. Ngày

06/5/2017, A chấp hành xong hình phạt về địa phương. Như vậy tính đến

ngày phạm tội 13/5/2018, A cũng chưa được xóa án tích đối với bản án số 74

ngày 29/7/2016. Do đó, lần phạm tội này bị cáo bị xác định là phạm tội với

tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2

Điều 173 Bộ luật hình sự. Ngày 06/11/2018, TAND huyện Tiên Du đã ra bản

án số 182/2018/HS-ST tuyên Nguyễn Tuấn A phạm tội “Trộm cắp tài sản

theo điểm điểm g khoản 2 Điều 173.

Về quyết định hình phạt: Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết

giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51;

điểm g khoản1 Điều 52. TAND huyện Tiên Du xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn

45

A 28 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 11/7/2018. Tạm giam bị

cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án đề đảm bảo thi hành án [40].

2.3. Một số vướng mắc, hạn chế từ thực tiễn định tội danh và quyết

định hình phạt trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và nguyên

nhân của những vướng mắc, hạn chế

2.3.1. Một số vướng mắc, hạn chế

Mặc dù thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt trên địa bàn

huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đạt được nhiều kết quả thuận lợi, đa số các bản

án đều xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét

xử của TAND huyện Tiên Du vẫn còn có một số vướng mắc, hạn chế như vẫn

còn bản án, quyết định bị hủy, sửa (chiếm tỉ lệ nhỏ). Nguyên nhân chủ yếu do

xuất hiện các tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, hoặc do trình độ, năng lực của

người tiến hành tố tụng còn hạn chế. Sau đây là một số vướng mắc điển hình:

- Xác định sai tội danh

Ví dụ: Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017 của TAND tỉnh Bắc Ninh.

Vào tối ngày 13/8/2015, Lê Văn H, Nguyễn Đức T là những lái xe chở

hàng của Công ty Cổ phần Dược SL hoạt động trong lĩnh vực dược liệu, đang

lấy trộm 10 kg Ba kích khô bán cho Lê Thị D khi đang chuyển sang xe ô tô

tải do Nguyễn Doãn H điều khiển để tiêu thụ thì bị bắt quả tang. Quá trình

điều tra xác định được, từ đầu tháng 7/2015 đến ngày 13/8/2015, Lê Văn H,

Nguyễn Đức T cùng với 02 phụ xe là Nguyễn Thành L và Lê Quang T, đã

bán cho D 02 lần, mỗi lần 05 kg Ba kích khô. Tổng giá trị tài sản bị chiếm

đoạt có giá trị 22.284.500 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2016/HSST ngày 14/4/2016 của

TAND huyện Tiên Du đã áp dụng Điều 138 BLHS, xử phạt bị cáo Lê Văn H,

Nguyễn Đức T, Nguyễn Doãn H, Nguyễn Thành L và Lê Quang T, Lê Thị D

về tội "Trộm cắp tài sản". Trong thời hạn luật định, các bị cáo kháng cáo xin

46

giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo, cho rằng mức án cấp sơ thẩm xử

phạt nặng.

Nhận xét: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, thấy cấp sơ thẩm có sai lầm về

đánh giá chứng cứ và tội danh: Công ty cổ phần Dược SL hoạt động trong

lĩnh vực bán dược liệu cho các đơn vị trên địa bàn. Công ty có đội xe chuyên

chở loại dược liệu này từ kho cho các đơn vị mua hàng, các bị cáo Lê Văn H,

Nguyễn Đức T là lái xe; Lê Quang T, Nguyễn Thành L là phụ xe. Hành vi

phạm tội của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản” nhưng cấp sơ thẩm tuyên xử các bị cáo về tội “Trộm cắp

tài sản” là không đúng, có sai lầm trong việc xác định tội danh vụ án [41].

- Xác định không đúng khung hình phạt.

Ví dụ: Bản án hình sự phúc thẩm số 129/2017/HSPT ngày 08/12/2017

của TAND tỉnh BN.

Nội dung: Nguyễn Văn C nảy sinh ý định trộm chó để bán cho Nguyễn

Xuân N, nên C và N, cùng Trần Văn H (nghề lái xe) cùng nhau bàn bạc thống

nhất: C thực hiện việc bắt trộm chó; H sẽ điều khiển ô tô thu gom chó đem về

nhà Nguyễn Xuân N tiêu thụ. Sau khi bàn bạc như trên, N trực tiếp đứng ra

điều động và giao xe cho H để phối hợp với nhóm của C thực hiện việc bắt

trộm chó. Khoảng 22 giờ ngày 17/10/2016, Nguyễn Văn C cùng với 1 người

chưa xác định được lai lịch điều khiển xe mô tô mang theo dụng cụ gồm:

Thòng lọng, ná cao su, bao tải, băng keo, ớt bột… thực hiện bắt trộm được 04

con chó, Trần Văn H dùng xe ô tô vận chuyển số chó trên về bán cho Nguyễn

Xuân N thì bị bắt quả tang. Bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định

giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 04 con chó trị giá 2.750.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 06/9/2017 của TAND huyện

Tiên Du áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình

sự năm 1999 xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 01 năm tù; bị cáo Nguyễn Xuân

N và Trần Văn H mỗi bị cáo 06 tháng tù. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo

47

kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. VKSND huyện T kháng nghị phúc thẩm

theo hướng tăng nặng với dấu hiệu phạm tội là “có tổ chức”.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 129/2017/HSPT ngày 08/12/2017 của

TAND tỉnh BN chấp nhận kháng nghị và xét xử các bị cáo theo điểm a, khoản

2 Điều 138 BLHS. [42].

Nhận xét: Bản án hình sự sơ thẩm tuyên xử các bị cáo về tội “Trộm cắp

tài sản” là có căn cứ, đúng tội danh. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1

Điều 138 BLHS năm 1999 để xét xử các bị cáo là không đúng khung hình

phạt. Bởi lẽ trong vụ án, bị cáo C là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ,

phương tiện để thực hiện hành vi trộm cắp; bị cáo N là người điều động xe ô

tô để vận chuyển; bị cáo H lái xe theo sự chỉ đạo của N đến địa điểm tập kết

để chở chó trộm cắp được về cho N. Để việc trộm cắp trót lọt, các bị cáo đã

lên kế hoạch, chuẩn bị cụ thể và thực hiện đúng như kế hoạch đã vạch ra.

Hành vi phạm tội của các bị cáo luôn có sự giúp sức, hỗ trợ, phối hợp cho

nhau, mỗi bị cáo đều có vai trò cụ thể, không tách rời nhau. Vì vậy, hành vi

phạm tội của các bị cáo phải bị xét xử theo điểm a khoản 2 Điều 138 BLHS

năm 1999 với tình tiết định khung “có tổ chức” mới đúng tính chất của vụ án.

Tòa án cấp sơ thẩm chưa phân tích, đánh giá đúng tính chất vụ án, hành

vi phạm tội của các bị cáo; chưa nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ đã thu

thập được có trong hồ sơ vụ án dẫn đến xét xử mức án nhẹ, không đúng

khung hình phạt

- Áp dụng không đúng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS.

Ví dụ: Bản án hình sự số 19/2016/HSPT ngày 13/8/2016 của TAND

tỉnh BN.

Khoảng 23h30 ngày 13/11/2015, Trần Văn T dùng dùi đục cạy cửa khu

nhà trọ của anh Lê Văn H ở xã Đại Đồng, huyện Tiên Du vào trộm cắp 01

máy tính xách tay nhãn hiệu Dell; 01 máy tính xách tay hiệu HP của Nguyễn

Thành C đem về phòng trọ của mình cất giấu. Sau đó, T tiếp tục sang khu trọ

48

nói trên trộm cắp 01 máy tính xách tay hiệu HP của Nguyễn Xuân L và 01

máy tính xách tay hiệu TOSIBA. Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 28-11-

2015 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tiên Du kết luận: 04 máy tính xách

tay có tổng giá trị 29.900.000đ. Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2016/HS-ST

ngày 04/5/2016 của TAND huyện Tiên Du đã áp dụng khoản 1 Điều 138; các

điểm g, p khoản 1 Điều 46; Điều 60 BLHS xử phạt bị cáo Trần Văn T 12

tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm kể từ ngày

tuyên án về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 8/5/2016, VKSND tỉnh B kháng

nghị phúc thẩm theo hướng không áp dụng điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS và

không cho bị cáo T hưởng án treo. Ngày 13/8/2016, TAND tỉnh BN xét xử

phúc thẩm chấp nhận kháng nghị trên của VKSND tỉnh Bắc Ninh.

Nhận xét: Trong vụ án này, Hành vi của bị cáo là phạm tội nhiều lần, là

tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 138

BLHS nhưng cấp sơ thẩm không xem xét áp dụng là thiếu sót. Với tính chất,

mức độ phạm tội như phân tích ở trên và căn cứ Nghị quyết 01/2007/NQ-

HĐTP ngày 02 tháng 10 năm 2007 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao

hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS: “Chỉ cho người bị xử phạt tù

hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:... c) Có từ hai tình tiết giảm

nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết

giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình

tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiêt giảm nhẹ phải nhiều hơn

tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên”. Do đó, bị cáo không đủ điều kiện

để được hưởng án treo (chỉ có 01 tình tiêt giảm nhẹ và có 01 tình tiết tăng

nặng). Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử cho bị cáo hưởng án treo là không

đúng pháp luật và quyết định của cấp phúc thẩm là hoàn toàn chính xác.

Tuy nhiên, Bản án phúc thẩm cũng nhận đinh: thiếu sót trên của TAND

huyện Tiên Du một phần do lỗi của VKSND huyện Tiên Du khi: Quá trình

điều tra, bị can T đều khai nhận đã dùng dùi đục cạy cửa vào trộm cắp 02 máy

49

tính xách tay đem về phòng trọ của mình cất giấu. Sau đó, T tiếp tục sang

phòng trọ nói trên trộm cắp 02 máy tính xách tay. Bản kết luận điều tra cũng

thể hiện rõ hành vi phạm tội của bị can như trên. Thế nhưng, Cáo trạng chỉ

xác định: T dùng dùi đục cạy cửa phòng trọ, vào trộm cắp 04 máy tính xách

tay. Cáo trạng không thể hiện rõ nội dung vụ án, bỏ sót tình tiết bị can phạm

tội nhiều lần. Từ đó dẫn đến quan điểm giải quyết vụ án của VKS đề nghị cho

bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ "Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít

nghiêm trọng”, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS là không đúng.

- Vẫn còn có trường hợp vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng

khi định tội danh và quyết định hình phạt.

Ví dụ: Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017 của Tòa án nhân dân

tỉnh Bắc Ninh.

Lợi dụng sơ hở của Công ty cổ phần Th, trong khoảng thời gian từ đêm

17, rạng sáng ngày 18/7/2017 đến đêm ngày 8, rạng sáng ngày 09/3/2017, T1,

S là công nhân Công ty và Nguyễn Sỹ H (bạn của S) đã thực hiện 03 vụ trộm

cắp tài sản là nguyên liệu hạt nhựa dùng để sản xuất phao cứu sinh của Công

ty tổng cộng là 34 bao có trọng lượng là 850 kg, trị giá 29.078.500 đồng. Mỗi

lần trộm được tài sản thì H đều chở đến bán cho chị Vũ Thị M. Quá trình điều

tra và giai đoạn truy tố, đại diện gia đình của ba bị cáo đã tự nguyện nộp tổng

số tiền 20.526.000đ để bồi thường, khắc phục hậu quả. Về phía chị Vũ Thị M,

quá trình điều tra chị M chỉ thừa nhận mua 04 bao hạt nhựa của H vào ngày

09/3/2017 với giá là 1.600.000đ, H không nói là hàng trộm cắp và chị cũng

không biết đó là hàng trộm cắp. Do vậy, Cơ quan điều tra và VKS xác định M

không liên quan đến vụ án.

Với nội dung nêu trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 100/2017/HSST

ngày 03 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc

Ninh đã xét xử và tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đương T1, Nguyễn Sỹ H và

Nguyễn Nam S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

50

Nhận xét: Có thể thấy, quá trình điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm

thì TAND huyện Tiên Du chưa đưa chị Vũ Thị M tham gia tố tụng, đồng thời

có dấu hiệu của bỏ lọt tội phạm đối với hành vi tiêu thụ tài sản do phạm tội

mà có.

Chính vì vậy, tại Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017 của Tòa án

nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã tuyên hủy bản án hình sự sơ thẩm số

100/2017/HSST ngày 03/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du do Tòa

án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi không đưa Vũ Thị

M vào tham gia tố tụng, ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án và có dấu hiệu bỏ

lọt tội phạm đối với M về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”

nhưng Tòa án không trả hồ sơ, Viện kiểm sát không truy tố[43].

- Tuyên mức hình phạt không tương xứng với tính chất và mức mức độ

nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện

Ví dụ: Cũng trong vụ án mà tác giả nêu trên, sau khi TAND tỉnh Bắc

Ninh ra Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017 tuyên hủy bản án hình sự

sơ thẩm số 100/2017/HSST ngày 03/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tiên

Du do Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục: khi không đưa chị

Vũ Thị M vào tham gia tố tụng, ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án và có dấu

hiệu bỏ lọt tội phạm đối với chị M về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác

phạm tội mà có”. Sau khi chuyển hồ sơ, tiến hành điều tra theo thủ tục chung.

Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 07/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân

huyện Tiên Du xác định do H không nói là tài sản trộm cắp nên chị M không

biết và cũng không nhận thức được đây là tài sản các bị cáo trộm cắp mà có

nên không có căn cứ xác định chị M phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác

phạm tội mà có”, đồng thời truy tố các bị cáo T1, H, S về tội “Trộm cắp tài

sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Với nội dung nêu trên, Bản án

hình sự sơ thẩm số 92/2018/HS-ST ngày 28 tháng 5 năm 2018 của Tòa án

nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử và tuyên bố các bị cáo

51

Nguyễn Đương T1, Nguyễn Sỹ H và Nguyễn Nam S phạm tội “Trộm cắp tài

sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46;

điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt Nguyễn

Sỹ H 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian

tạm giam từ 10/3/2017 đến ngày 08/5/2017. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm

b, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt: Nguyễn

Nam S 08 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian

tạm giam từ 10/3/2017 đến ngày 08/5/2017.

Nhận xét: Có thể thấy lợi dụng sơ hở của Công ty Cổ phần Th, trong

các đêm ngày 17/02; 27/2 và 08/3/2017, T1 đã rủ H và S 03 lần trộm cắp

được 34 bao hạt nhựa của Công ty với tổng trọng lượng là 850kg, trị giá là

29.078.500 đồng. Vì vậy Bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo T1, H và S phạm

tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999

là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, bị cáo H và S tuổi đời còn trẻ, có nhân

thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội ít nghiêm trọng; cả hai đều do bị rủ

rê lôi kéo nên phạm tội. Đối với bị cáo S chỉ có hành vi đẩy cửa giúp bị cáo

T1, không được hưởng lợi, do vậy bị cáo chỉ là vai trò thứ yếu. Cả hai bị cáo

đều thành khẩn, ăn năn hối cải và gia đình các bị cáo đều đã tự nguyện nộp

tiền để bồi thường thiệt hại nhưng phía Công ty tự nguyện không yêu cầu, các

bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46, có nhân thân tốt nên

cần chiếu cố khoan hồng phạt các bị cáo mức án treo, cải tạo tại địa phương

cũng đủ giáo dục thành người lương thiện, nên không cần phải áp dụng hình

phạt tù.

Do vậy, trên cơ sở kháng cáo của H và S ngày 18/9/2018 TAND tỉnh

Bắc Ninh đã ra Bản án số 39/2018/HS-PT theo hướng sửa Bản án sơ thẩm:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ H 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài

sản”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày

tuyên án phúc thẩm. Xử phạt bị cáo Nguyễn Nam S 08 (tám) tháng tù về tội

52

“Trộm cắp tài sản”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng

tính từ ngày tuyên án phúc thẩm [44].

2.3.2. Nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế

- Thứ nhất,quy định của BLHS năm 2015 về tội trộm cắp tài sản vẫn

còn một số vướng mắc, bất cập; nhiều quy định chưa có hướng dẫn kịp thời

để áp dụng trong thực tiễn, cụ thể: Quy định hiện hành vẫn chưa nêu khái

niệm (mô tả cụ thể hành vi khách quan) của tội trộm cắp tài sản trong điều

luật, điều này có thể dẫn đến nhầm lẫn trong việc định tội danh giữa tội trộm

cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và cướp giật tài sản; pháp

luật hiện hành chưa hướng dẫn thế nào là “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,

trật tự, an toàn xã hội”; căn cứ xác định“Tài sản là phương tiện kiếm sống

chính của người bị hại và gia đình họ; chưa có hướng dẫn cụ thể đối với

trường hợp hành vi tiêu thụ tài sản do phạm tội trộm cắp tài sản mà có, thuộc

một số trường hợp: Ví dụ: Người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị

truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng

có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người có hành vi chứa

chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là do người khác

phạm tội mà có thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc

tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hay không? hoặc trường hợp

người thực hiện hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản bất kể giá trị định lượng

bao nhiêu nhưng đã cấu thành tội trộm cắp tài sản, thì người (đủ tuổi và năng

lực TNHS) chứa chấp, tiêu thụ tài sản có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về

tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hay

không?...

- Thứ hai, chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác điều tra, truy

tố, xét xử của lãnh đạo cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ

án xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp nói riêng còn hạn chế.

53

- Thứ ba, trình độ năng lực đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán và Hội thẩm nhân dân còn không đồng đều, ý thức chính trị, phẩm chất

đạo đức và trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ chưa cao. Trong thực thi

nhiệm vụ còn có tình trạng chưa làm hết trách nhiệm được giao, chưa tự rèn

luyện để nâng cao phẩm chất, năng lực. Quá trình xử lý vụ án còn bị tác động

bởi các yếu tố bên ngoài dẫn đến việc xử lý án không khách quan, tiêu cực.

- Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như: Công tác tuyên

truyền về tội trộm cắp tài sản chưa sâu sát, tích cực; công tác phối hợp giữa

các cơ quan tố tụng huyện Tiên Du trong điều tra, truy tố, xét xử tội trộm cắp

tài sàn vẫn còn chưa chặt chẽ, đồng bộ; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ

cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn hạn chế...cũng là những

nguyên nhân của những vướng mắc nêu trên.

54

Tiểu kết Chương 2

Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của luận văn được thể hiện qua một

số nội dung sau: Tác giả đã phân tích, đánh giá một cách khái quát tình hình

xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du trong thời gian từ 2015

- 2019, từ đó chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong thực tiễn áp dụng áp

dụng các quy định pháp luật về tội trộm cắp tài sản và những nguyên nhân

của vướng mắc, hạn chế đó. Kết quả nghiên cứu này, làm nền tảng cho các

giải pháp áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản mà tác giả sẽ

nêu ở Chương 3 của luận văn.

55

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH TỘI DANH

VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA

BÀN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình

phạt tội trộm cắp tài sản

Thứ nhất, yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp

Cải cách tư pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ quan

trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, được Đảng ta đề ra tại các

văn kiện Đại hội từ năm 1991 đến nay, đặc biệt là tại Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020 để đạt được những yêu cầu như:

Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư

pháp. [3].

Để góp phần thực hiện những mục tiêu trên thì việc nâng cao hiệu quả

hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt nói chung và với tội trộm cắp

tài sản nói riêng có vai trò thiết yếu, cần được giải quyết kịp thời.

Thứ hai, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu

trong giai đoạn hiện nay

Hiện nay, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm

có chiều hướng gia tăng, nhất là tội phạm xâm phạm sở hữu như trộm cắp tài sản

xảy ra trên địa bàn cả nước nói chung và huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nói

riêng...Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định

hình phạt tội trộm cắp tài sản cũng chính là góp phần nâng cao hiệu quả đấu

tranh phòng chống tội phạm hiện nay, góp phần bảo vệ quan hệ sở hữu về tài sản

của tổ chức, cá nhân, duy trì trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới.

Thứ ba, yêu cầu khắc phục những yếu kém của việc định tội danh và

quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản.

56

Những yếu kém trong việc định tội danh và quyết định hình phạt tội

trộm cắp tài sản chủ yếu xuất phát từ một số quy định của pháp luật hình sự

còn chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ, cũng như một số công chức Cơ quan tư pháp

trong quá trình giải quyết công việc thiếu bản lĩnh, còn bị tác động bởi lợi ích

vật chất; do quan hệ hoặc do thiếu trách nhiệm, không tận tâm, tận lực trong

công việc, do trình độ, năng lực, kinh nghiệm chuyên môn, trình độ chuyên

sâu của cán bộ các chức danh tư pháp còn hạn chế, còn có biểu hiện nôn

nóng, chạy theo thành tích, giải quyết cho xong việc, cộng với trình độ, năng

lực yếu kém nên dẫn đến thiếu sót. Chính vì vậy, để thực hiện tốt công cuộc

cải cách tư pháp, đấu tranh phòng chống tội phạm thì việc khắc phục những

yếu kém trong công tác định tội danh có vai trò vô cùng quan trọng và cần

thiết, cần được tiến hành ngay.

Những yêu cầu này nếu được đáp ứng đầy đủ thì sẽ góp phần nâng cao

hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình

phạt tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

Việc nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm

cắp tài cần tiến hành theo các hướng sau:

Thứ nhất, cần hoàn thiện luật theo hướng có những quy định cụ thể,

cần thiết, hạn chế bớt khả năng xảy ra trong thực tiễn áp dụng trường hợp một

hành vi có dấu hiệu của một số tội xâm phạm sở hữu.

Thứ hai, cần tăng cường nghiên cứu, giải thích pháp luật, xây dựng cơ

sở pháp lý giải quyết một số vướng mắc trong thực tiễn định tội danh và quyết

định hình phạt tội trộm cắp tài sản.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ người tiến hành định tội danh mạnh về cả số

lượng và chất lượng, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp vững vàng.

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015

về tội trộm cắp tài sản

57

Mặc dù BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực

vào ngày 01/01/2018, nhưng ở góc độ nghiên cứu khoa học tác giả cho rằng

cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện một số vấn đề sau:

- BLHS năm 1985 cho đến BLHS năm 2015, nhà làm luật vẫn chưa nêu

khái niệm (mô tả cụ thể hành vi khách quan) của tội trộm cắp tài sản trong

điều luật, điều này có thể dẫn đến nhầm lẫn trong việc định tội danh giữa tội

trộm cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và cướp giật tài sản, đây

là cũng là 02 tội danh chưa được nêu khái niệm (mô tả hành vi).

Do vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi CTTP cơ bản của tội trộm cắp tài sản

theo khoản 1 Điều 173 theo hướng: “Người nào bằng thủ đoạn lén lút chiếm

đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000

đồng...”

- Có thể thấy đa số hành vi trộm cắp tài sản thường đi kèm với hành vi

bí mật đột nhập vào chỗ ở người khác, thực tiễn định tội danh và quyết định

hình phạt đều xử lý về hành vi trộm cắp tài sản mà không xử lý về hành vi

xâm phạm chỗ ở của người khác.

Quy định này sẽ có bất cập như sau: Điều 158 BLHS năm 2015 quy

định về tội xâm phạm trái phép chỗ ở công dân như sau: 1. Người nào thực

hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị

phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02

năm:....d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác. 2. Phạm tội thuộc

một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:...đ)

Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Trong khi, PLHS

hiện hành chưa hướng dẫn xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác là

như thế nào? Điều 173 BLHS năm 2015 quy định về tội trộm cắp tài sản như

sau: “1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng

đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong

các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc

58

phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:...c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự,

an toàn xã hội...”

Ví dụ: A đột nhập trái phép vào nhà B với mục đích trộm cắp tài sản,

nhưng do chủ nhà đi vắng nên A đã ở lại một đêm và còn uống rượu, ăn uống

tại nhà B, sau đó lấy đi 1,5 triệu của gia đình B. Giả sử hành vi của A đã gây

ảnh hướng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cấu thành tội trộm cắp tài

sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 có mức hình phạt cao nhất đến

03 năm tù (thực tiễn chỉ xử lý về tội trộm cắp tài sản mà không xét đến hành

vi xâm phạm trái phép chỗ ở công dân do mục đích của A là nhằm chiếm đoạt

tài sản). Tuy nhiên, nếu xem xét trường hợp này thì có thể thấy hành vi A đột

nhập trái phép của A còn có dấu hiệu theo điểm đ khoản 2 Điều 158 BLHS

năm 2015 (Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội) với mức

hình phạt cao nhất là 05 năm tù. Rõ ràng, hành vi của A có dấu hiệu của 02

tội danh trên, nhưng khi xử lý về tội trộm cắp tài sản thì lại có mực hình phạt

nhẹ hơn tội xâm phạm trái phép chỗ ở công dân, là không phù hợp.

+ Mặt khác, tham khảo BLHS của Cộng hòa Liên bang Nga và Cộng

hòa Liên bang Đức cho thấy trong CTTP của tội trộm cắp tài sản đều quy

định hành vi xâm nhập, đột nhập trái phép vào nhà của người khác là tình tiết

định khung tăng của tội trộm cắp tài sản.

Ví dụ: Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1996 quy định những tình

tiết định khung tăng nặng của tội trộm cắp tài sản: “khoản 2 Điều 158: ....b)

Xâm nhập trái pháp luật vào nhà ở, công trình hoặc nơi lưu giữ hay bảo quản

tài sản khác....Theo khoản 3 Điều 158, phạm tội trộm cắp tài sản thuộc một

trong các trường hợp: a) Đột nhập trái phép vào chỗ ở của người bị hại....[50,

tr. 415, 416].

Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức thì bị coi là phạm tội trộm

cắp tài sản có tình tiết định khung tăng nặng khi: a) Xâm nhập vào nhà ở hay

59

công sở bằng cách phá khóa hoặc mở khóa bằng chìa khóa hay thiết bị khác

...[50, tr. 423].

Do vậy, để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, tác

giả kiến nghị cần bổ sung tình tiết “Xâm nhập trái pháp luật vào nhà ở, công

trình hoặc nơi lưu giữ hay bảo quản tài sản khác” là tình tiết định khung tăng

nặng tại khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015, đồng thời có văn bản hướng dẫn

- Về dấu hiệu định tội “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của

chi tiết về tình tiết này để áp dụng trong thực tiễn.

người bị hại và gia đình họ” quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017). Đây là tình tiết vẫn mang yếu tố định tính, phụ thuộc vào

ý thức chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đánh

giá tính chất của loại tài sản bị chiếm đoạt. Điều này không phù hợp với

nguyên tắc lỗi và hành vi của khoa học luật hình sự. Đồng thời, quy định này

vô tình chung đã làm cho thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài do chủ thể có

thẩm quyền phải xem xét, kiểm tra xem tài sản đó có phải là “tài sản là

phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” hay không?, để

ra các quyết định đối với vụ án. Mặt khác, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng

diện người bị hại bao gồm cả cơ quan, tổ chức.

Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định về xác định tư cách bị hại. Với

cách quy định như trên thì nhiều trường hợp nếu tài sản bị chiếm đoạt liên

quan đến sự tồn tại, phát triển của một cơ quan, tổ chức lại không có cơ sở áp

dụng, đặc biệt là những tổ chức chịu trách nhiệm pháp lý vô hạn bằng cả tài

sản cá nhân người đại diện theo pháp luật (Doanh nghiệp tư nhân, Công tư

hợp danh, Hộ gia đình). Theo tác giả quy định như trên là chưa thật sự công

bằng cho những bị hại là cơ quan, tổ chức.

Do vậy, tác giả kiến nghị nên bỏ tình tiết này ra khỏi dấu hiệu định tội

của tội trộm cắp tài sản hoặc sửa đổi quy định trên theo hướng:“Tài sản là

phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ hoặc là liên

60

quan đến sự tồn tại, phát triển của bị hại là cơ quan, tổ chức” và cần phải

được hướng dẫn thật cụ thể, chi tiết những dấu hiệu để xác định trường hợp

nào thì tài sản được coi thuộc trường hợp này để tránh sự tùy nghi, chủ quan

duy ý chí khi áp dụng.

Theo đó Điều 173 BLHS năm 2015 về tội trộm cắp tài sản, theo kiến

nghị của tác giả như sau:

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản (mới)

1. Người nào bằng thủ đoạn lén lút chiếm

đoạt tài sản của người khác trị giá từ

2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000

đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng

thuộc một trong các trường hợp sau đây,

thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03

năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03

năm:

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống

chính của người bị hại và gia đình họ

hoặc liên quan đến tồn tại, phát triển của

bị hại là cơ quan, tổ chức.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường

hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến

07 năm:..

h) Xâm nhập trái pháp luật vào nhà ở,

công trình hoặc nơi lưu giữ hay bảo quản

tài sản khác (mới).

3.2.2. Tăng cường công tác tập huấn, giải thích và hướng dẫn pháp

luật về tội trộm cắp tài sản

61

- Tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật đặc biệt

là những quy định mới về nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm

cắp tài sản nói riêng cho công chức trong hệ thống cơ quan tư pháp.

* Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản giải thích, hướng

dẫn những nội dung sau đây:

- Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa hướng dẫn thế nào là “gây ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” sẽ dẫn đến khó khăn trong

việc hiểu và áp dụng, vì đây là tình tiết, hậu quả mang tính phi vật chất; việc

đánh giá, áp dụng nếu không được hướng dẫn cụ thể sẽ có thể dẫn tới tùy

nghi, phụ thuộc vào nhận thức của các cơ quan, người tiến hành tố tụng cũng

như phụ thuộc vào đặc trưng, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng

vùng miền, địa phương khác nhau. Do vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền

cần sớm ban hành quy định hướng dẫn đối với tình tiết này cụ thể trong từng

lĩnh vực cụ thể, mức độ, phạm vi ảnh hưởng đối vi tình hình trật tự, an toàn,

xã hội.

- Thứ hai, tại điểm d khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 quy định tình

tiết “hành hung để tẩu thoát”. Tình tiết này trước đây được hướng dẫn tại

Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP về

dấu hiệu “hành hung để tẩu thoát” trong tội trộm cắp tài sản.

6.1. Phạm tội thuộc trường hợp "hành hung để tẩu thoát" là trường

hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt

được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã

có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như

đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát.

Tuy nhiên, đây là thông tư hướng dẫn quy định của tội trộm cắp tài sản

theo Điều 138 BLHS năm 1999 đã hết hiệu lực. Đồng thời, nếu vận dụng tinh

thần trong hướng dẫn nêu trên, thực tế vẫn tồn tại hạn chế chưa khắc phục

được đó là: Trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản thì

62

khoảng thời gian từ khi chiếm đoạt được đến khi bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị

bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại là bao lâu? Trường hợp người phạm tội đã

bỏ đi vài giờ thì mới bị phát hiện, có được xem xét, áp dụng tình tiết này

không hay?

Do vậy, tác giả kiến nghị cần có hướng dẫn cụ thể đối với tình tiết này

theo hướng: “6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là

trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau

khi chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây

bắt giữ thì đã có những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức

khắc chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây nhằm tẩu thoát”.

- Thứ ba, các quy định của pháp luật đối với trường hợp chiếm đoạt tài

sản mà đối tượng là lâm sản, trong đó có cây rừng đã chết, khô...thuộc rừng

đặc dụng là chưa cụ thể, rõ ràng. Có thể nói, trong thời gian vừa qua lần đầu

tiên Cơ quan tố tụng ở nước ta đã xử lý một hành vi cưa cây gỗ trắc đã chết

khô thuộc rừng đặc dụng là hành vi trộm cắp tài sản so với chỉ xử lý về hành

vi vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng trước đó.

Cụ thể: 05 bị cáo bị đưa ra xét xử về hành vi cưa 1 cây gỗ trắc đã chết

khô thuộc rừng đặc dụng Đăk Uy (Kon Tum), chiều dài 2m, khối lượng

0,123m3 (được định giá hơn 19 triệu đồng). Vụ án trên đã trải qua 2 lần xét

xử sơ thẩm và 3 lần xét xử phúc thẩm, khi TAND huyện Đăk Hà xử sơ thẩm

tuyên 5 bị cáo trên phạm tội trộm cắp tài sản thì Tòa án nhân dân tỉnh Kon

Tum xét xử phúc thẩm và tuyên hủy bản sơ thẩm, trả hồ sơ điều tra lại vì vi

phạm tố tụng. Sau đó, Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà xử sơ thẩm lần hai, tiếp

tục xử lý về tội trộm cắp tài sản, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum mở phiên tòa

Phúc thẩm lần 2 tuyên các bị cáo không phạm tội. Vụ án sau đó bị TAND tối

cao kháng nghị giám đốc thẩm. TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã mở phiên tòa

giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm tuyên vô tội trước đó của

63

TAND tỉnh Kom Tum. Ngày 12/8/2019, TAND tỉnh Kon Tum đã tuyên 05 bị

cáo phạm tội trộm cắp tài sản.

Trong kì án này, quan điểm chủ yếu của Cơ quan tố tụng và người bào

chữa cho các bị cáo đưa ra như sau:

+ Quan điểm người bào chữa: Thông tư 19/2007/TLT-BNN-BTP-

BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08/3/2017 quy định: “....Trường hợp khai

thác trái phép rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh đã được cơ quan nhà

nước có thẩm quyền quyết định giao cho tổ chức, tập thể, hộ gia đình, cá nhân

sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp mà người được giao đã bỏ

vốn đầu tư trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ... thì bị xử lý như sau:

a) Nếu chủ rừng khai thác cây rừng trái phép thì bị truy cứu

trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 175 BLHS;

b) Nếu người khai thác cây rừng trái phép mà không phải là chủ rừng

thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điều luật tương ứng quy định tại

Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS.

Trong khi, các bị cáo cưa cây gỗ trắc đã chết, thuộc rừng đặc dụng là

rừng tự nhiên, không phải là tài sản do con người bỏ sức lao động tạo ra, nên

hành vi của các bị cáo không cấu thành tội trộm cắp tài sản. Các bị cáo chỉ có

dấu hiệu của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, mà tội

danh đòi hỏi phải khai thác trên 5 m3. Vụ án này các bị cáo khai thác 0,123

m3 nên không đủ định lượng để xử lý hình sự các bị cáo tội này được mà chỉ

có thể xử phạt hành chính theo nghị định 157/2013, về xử phạt hành chính

trong quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản [51].

+ Quan điểm của Cơ quan tố tụng: Rừng đặc dụng Đăk Uy là rừng tự

nhiên nhưng khác biệt cơ bản là không phải rừng tự nhiên thuần túy do cây

rừng tự phát triển mà do Nhà nước thành lập trên sự phát triển của rừng tự

nhiên để phục vụ mục đích bảo tồn nguồn gen quý hiếm. Do tính chất đặc thù

của rừng đặc dụng Đăk Uy, UBND tỉnh KonTum đã thành lập và giao Ban

64

quản lý rừng đại diện cho Nhà nước quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Cây

gỗ trắc chết khô mà các bị cáo cưa trộm là tài sản do Nhà nước làm chủ sở

hữu. Hành vi chiếm đoạt khúc gỗ trắc trị giá hơn 19 triệu đồng của các bị cáo

đã xâm phạm khách thể là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước [52].

Đến ngày 01/10/2019, TAND tối cao có Công văn số 233/TANDTC-

PC, có hướng dẫn: “Trường hợp người thực hiện nhiều hành vi (chuỗi hành

vi) một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, trong đó, hành vi trước là

tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về

nhiều tội tương ứng với từng hành vi, nếu mỗi hành vi đều có đủ các yếu tố

cấu thành tội phạm. Ví dụ 4. Nguyễn Văn A lén lút vào rừng chặt cây sau đó

đưa ra khỏ rừng bán kiếm lời thì có thể bị xử lý về 02 tội là tội hủy hoại rừng

(quy định tại Điều 243 của Bộ luật Hình sự) và tội trộm cắp tài sản (quy định

tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự), nếu mỗi hành vi đều có đủ yếu tố cấu

thành tội phạm. Bởi vì, hành vì cưa, chặt, đốt, phá, sử dụng hóa chất làm cây

rừng chết...đã có dấu hiệu cấu thành tội hủy hoại rừng quy định tại Điều 243

của Bộ luật Hình sự, không phụ thuộc vào việc A đã lấy được tài sản gì từ

rừng hay chưa. Hành vi lén lút lấy các sản phẩm từ rừng (như gỗ, cây, con, tài

sản khác) thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có dấu hiệu cấu

thành tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự”.

Do vậy, tác giả kiến nghị để tránh xảy ra trường hợp tương tự như trên,

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban có hướng dẫn cụ thể đối với trường

hợp khai thác trái phép lâm sản thuộc rừng đặc dụng, trường hợp nào là thuộc

các tội xâm phạm sở hữu, trường hợp nào thuộc tội phạm khác, trường hợp

nào cấu thành hai tội, để áp dụng thống nhất theo quy định của pháp luật.

- Thứ tư, cần có hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp: hành vi tiêu thụ

tài sản do phạm tội trộm cắp tài sản mà có, thuộc 02 trường hợp sau đây.

Vụ dụ 1: Nguyễn Tấn L sinh ngày 11/5/2004 trộm cắp của một số

người dân trên địa bàn huyện TD, tỉnh BN một số tài sản gồm 05 máy tính

65

xách tay và 01 điện thoại di động tổng giá trị trên 51 triệu đồng. Sau khi lấy

trộm được tài sản, L đã kể cho Đặng Phúc N và Hoàng Minh T biết là tài do

mình trộm cắp được, đồng thời rủ N và T đi tiêu thụ số tài sản trên để lấy tiền

tiêu xài thì N và T đồng ý. Tuy nhiên, sau đó Cơ quan điều tra Công an huyện

TD, không khởi tố đối N và T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội

mà có”, vì cho rằng hành vi của L không cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” (do

L chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự), nên hành vi của N và T không

phạm tội với yếu tố “do người khác phạm tội mà có”. Liên quan đến hành vi

của N và T, có nhiều quan điểm khác nhau:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng: phải xử lý N và T về tội “Tiêu thụ tài

sản do người khác phạm tội mà có”, vì hành vi của L đã đủ yếu tố cấu thành

“Trộm cắp tài sản”, nhưng do L chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên chỉ

xử lý hành chính đối với L, nếu không xử lý hình sự đối với N và T là bỏ lọt

tội phạm.

- Quan điểm thứ hai cho rằng: hành vi của N và T chưa đủ yếu tố cấu

thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, vì hành vi của L

chưa đủ yếu tố cấu thành “Trộm cắp tài sản”.

Theo quan điểm của cá nhân, tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất

nêu trên. Ở đây phải hiểu rằng, người phạm tội theo Điều 323 BLHS khi

người đó chứa chấp, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có. Nghĩa là nếu giá trị

của vật phạm pháp đủ để cấu thành cơ bản trong các điều luật tương ứng thì

người thực hiện hành vi tiêu thụ, chứa chấp phải chịu trách nhiệm hình sự về

tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Trong

trường hợp này, tài sản mà L chiếm đoạt đã đủ định lượng cấu thành tội

“Trộm cắp tài sản” (trên 2 triệu đồng), thuộc trường hợp tài sản “do người

khác phạm tội mà có” nên N và T phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tiêu

thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, mà không cần quan tâm đến việc

xử lý trách nhiệm đối với L như thế nào.

66

Điều này cũng phù hợp với hướng dẫn tại Công văn 64/TANDTC-PC

ngày 03/4/2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng

mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính: “…người thực hiện hành vi

phạm tội trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu

trách nhiệm hình sự nhưng có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan

của người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp,

tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự

về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Ví dụ 2: Hoàng Đình H trộm cắp được 97 kg cà phê quả tươi, sau đó H

bán số cà phê nói trên cho Trịnh Thị Trang L (H nói cho L biết là cà phê do H

trộm cắp mà có), nhưng L vẫn đồng ý mua. Cơ quan điều tra tiến hành trưng

cầu giám định, Hội đồng định giá kết luận, 97kg cà phê quả tươi trị giá

1.000.000 đồng.

Sau đó, Cơ quan điều tra Công an huyện K, khởi tố H về tội: “Trộm

cắp tài sản” (do H có 02 tiền án về tội chiếm đoạt tài sản), nhưng không khởi

tố L về tội “Tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có”, vì cho rằng tài

sản do H phạm tội mà có chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, mà H bị khởi tố

về tội “Trộm cắp tài sản” là do yếu tố khác (nhân thân) của H. Liên quan đến

hành vi của L, có nhiều quan điểm khác nhau:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng: hành vi của L đủ yếu tố cấu thành tội

Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vì biết rõ số lượng cà phê là

do H phạm tội mà có, nhưng vì hám lợi nên L vẫn mua (tiêu thụ) và hơn nữa,

hành vi của H đã đủ yếu tố cấu thành Trộm cắp tài sản.

- Quan điểm thứ hai cho rằng: hành vi của L không đủ yếu tố cấu

thành tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vì H bị khởi tố về tội

“Trộm cắp tài sản” là do yếu tố khác (nhân thân) của H, còn tài sản mà H

trộm cắp chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

67

Với tình huống nêu trên, tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất. Điều

323 BLHS năm 2015 không quy định trong cấu thành cơ bản tội chứa chấp

hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, định lượng tài sản phạm

tội nên chỉ cần đó là tài sản do phạm tội mà có là đã đủ dấu hiệu của tội phạm.

Trong trường hợp trên, mặc dù tài sản do H phạm tội mà có chỉ 1.000.000

đồng, nhưng hành vi của H đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, tội “Trộm cắp tài

sản” (bất luận vì lý do gì) thì hành vi tiêu thụ của L phải chịu trách nhiệm

hình sự về tội “Tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Tuy nhiên, về hai nội dung trên hệ thống pháp luật chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể mà mới chỉ là hướng dẫn mang tính nội bộ của ngành Tòa

án. Do vậy, theo tác giả trong thời gian tới nhà làm luật cần phải có hướng

dẫn cụ thê, rõ ràng về 02 nội dung trên để áp dụng thống nhất, theo hướng:

+ Đối với trường hợp 1: Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội

trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm

hình sự nhưng có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người

có hành vi chứa chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là

do người khác phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa

chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

+ Đối với trường hợp thứ 2: Trong trường hợp người thực hiện hành vi

phạm tội chiếm đoạt tài sản bất kể giá trị định lượng bao nhiêu nhưng đã cấu

thành tội trộm cắp tài sản thi người (đủ tuổi và năng lực TNHS) chứa chấp,

tiêu thụ tài sản vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “chứa chấp hoặc

tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS.

3.2.3. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và tổng kết

thực tiễn áp dụng, xây dựng án lệ về tội trộm cắp tài sản

- Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo điều hành công tác điều tra, truy tố, xét

xử của lãnh đạo cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án

xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp nói riêng.

68

- Cần thường xuyên tổ chức các hội nghị trực tuyến liên ngành như:

Hội nghị giữa các cơ quan tiến hành tố tụng Công an, Viện kiểm sát nhân dân,

Tòa án nhân dân 2 cấp rút kinh nghiệm về công tác giải quyết án hình sự liên

quan đến tội phạm có tính chất chiếm đoạt, trong đó có trộm cắp tài sản; hội

nghị liên ngành giải quyết các vụ án hình sự cụ thể có khó khăn vướng mắc,

quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng không thống nhất...tổng kết

thực tiễn áp dụng và chọn lựa những bản án điển hình, có tính chuẩn mực về

tội trộm cắp tài sản để lựa chọn thành án lệ để áp dụng thống nhất. Qua đó

giải đáp những khó khăn vướng mắc của các đơn vị, cá nhân trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ..

3.2.4. Giải pháp về công tác cán bộ

- Tiến hành rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

nghiệp vụ trong các cơ quan tư pháp, để phân loại trình độ năng lực của từng

người, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo phù hợp.

- Nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ, năng lực

chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Phải tạo điều kiện cho

cán bộ, công chức được nâng cao trình độ nghiệp vụ thông qua các lớp tập

huấn, bồi dưỡng do ngành cấp trên tổ chức. Qua đó, mới kịp thời bổ sung

lượng kiến thức mới đáp ứng được với sự thay đổi của tình hình mới, đặc biệt

là trong giai đoạn hiện nay khi mà BLHS năm 2015; BLTTHS năm 2015 và

nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới đang có hiệu lực thi hành, đã có nhiều

sửa đổi, bổ sung mới về các tội xâm phạm sở hữu. Bản thân mỗi cán bộ, công

chức làm công tác nghiệp vụ nói chung và liên quan đến xứ lý các tội xâm

phạm sở hữu nói riêng phải không ngừng nỗ lực học hỏi, nâng cao ý thức

trách nhiệm, có tâm huyết cao trong công việc để không những hoàn thành tốt

nhiệm vụ cho bản thân mà còn hướng đến lợi ích chung cho tập thể đơn vị.

- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, trao đổi kinh

nghiệm trong việc giải quyết án xâm phạm sở hữu giữa cá cơ quan tư pháp

69

trong tỉnh; tổ chức nghiên cứu khoa học, hội thảo, đào tạo ngoại ngữ, tin học,

để các cán bộ tư pháp nắm bắt thêm những kinh nghiệm trong việc giải quyết

án xâm phạm sở hữu nhằm vận dụng linh hoạt trong việc xử lý, phát huy được

tính độc lập, chủ động trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ do pháp luật

quy định bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời, xử lý

nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

3.2.5. Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ

- Nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành

tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và TAND là mỗi cơ quan có vị trí,

chức năng khác nhau đặc biệt trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng

song việc thực thi chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan tư pháp chỉ có thể

thực hiện được khi đặt nó trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng

khác. Các mối quan hệ đó có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến quá

trình giải quyết các vụ án hình sự. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh, Công an

tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh chủ động phối hợp với các cơ quan hữu

quan ký văn bản mang tính phối hợp liên ngành. Ví dụ: Phối hợp trong công

tác tiếp nhận, giải quyết, tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, trong

quá trình giải quyết vụ án hình sự trong đó có tội xâm phạm sở hữu…

3.2.6. Một số giải pháp khác

Đầu tư trang thiết bị và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác

điều tra tội phạm nói chung và tội phạm sở hữu nói riêng; đầu tư máy in, cấp

phát các văn bản pháp luật, tài liệu, sách báo cho Công chức cơ quan tư pháp

nghiên cứu học tập, áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc cụ thể và tuyên

truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân biết các thủ đoạn trộm cắp và chiếm

đoạt tài sản để phòng tránh.

70

Tiểu kết Chương 3

Tại Chương 3 của luận văn, tác giả đã phân tích một số yêu cầu phải

nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản;

đồng thời, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản như hoàn

thiện một số quy định của pháp luật về tội trộm cắp tai sản, tăng cường công

tác tập huấn, giải thích và hướng dẫn pháp luật, tăng cường công tác tập huấn,

bồi dưỡng kiến thức pháp luật đặc biệt là những quy định mới về nhóm tội

xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng cho công chức

trong hệ thống cơ quan tư pháp, giải pháp về công tác cán bộ và về chuyên

môn, nghiệp vụ...góp phần nâng cao hiệu quả của công tác định tội danh và

quyết định hình phạt của trộm cắp tài sản.

Kết quả nghiên cứu của luận văn, có thể góp phần hoàn thiện lý luận về

tội trộm cắp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam và là cơ sở để các

cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh tham

khảo trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt.

71

KẾT LUẬN

Thông qua 03 Chương của luận văn thạc sĩ luật học tác giả đã lần lượt

phân tích, làm rõ được những vấn đề chung về tội trộm cắp tài sản cũng như

thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Tại Chương 1 của luận văn, tác giả đã nghiên cứu, phân tích một số vấn

đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản, phân biệt tội trộm cắp tài sản

trong luật hình sự Việt Nam với một số tội có tính chất chiếm đoạt, cũng như

khái quát được lịch sử lập pháp của tội trộm cắp tài sản giai đoạn từ năm 1945

đến nay.

Tại Chương 2 của luận văn, tác giả đã phân tích, đánh giá một cách

khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên Du

trong thời gian từ 2015 đến năm 2019, từ đó chỉ ra những vướng mắc, hạn chế

trong thực tiễn áp dụng áp dụng các quy định pháp luật về tội trộm cắp tài sản

và những nguyên nhân của vướng mắc, hạn chế đó.

Tại Chương 3 của luận văn, tác giả đã phân tích một số yêu cầu và đưa

ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng định tội danh và quyết định

hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản như hoàn thiện một số quy định của

pháp luật về tội trộm cắp tài sản, tăng cường công tác tập huấn, giải thích và

hướng dẫn pháp luật, tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp

luật đặc biệt là những quy định mới về nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung

và tội trộm cắp tài sản nói riêng cho công chức trong hệ thống cơ quan tư

pháp, giải pháp về công tác cán bộ và về chuyên môn, nghiệp vụ và nhóm giải

pháp khác.

Tác giả hy vọng, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc

hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả thực thi pháp

luật về tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, luận văn được nghiên cứu trong bối

72

cảnh BLHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 với nhiều quy định mới

trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói

riêng, trong khi kiến thức tác giả có thể còn hạn chế, do vậy luận văn khó

tránh khỏi khiếm khuyết nhất định.. /.

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002,

Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định

hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.

4. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (chủ biên), Bình luận khoa học

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội.

6. Nguyễn Mai Bộ (2010), Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm

1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Phạm Văn Beo (2010), Luật Hình sự Việt Nam (quyển 2 - Phần các

tội phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận, hướng

dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

9. Chủ tịch nước (1948), Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1948 quy định

trừng trị các hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ

chiến tranh, Hà Nội.

10. Chủ tịch nước (1956), Sắc lệnh 267/SL ngày 15/6/1956, trừng trị

những hành động phá hoại an toàn quốc gia, Hà Nội

11. Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học Phần các tội phạm

BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới, Hà Nội

12. Cao Thị Oanh - chủ biên (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

13. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017), Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

14. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

15. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

16. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

17. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.

18. Quốc hội (2001), Luật di sản văn hóa, Hà Nội.

19. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

20. Đinh Văn Quế, 2003, Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm,

tập II- Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. TP.HCM.

21. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình

phạt theo luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Thông tư số 14/VBHN-

NHNN ngày 13/01/2016 quy định về phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ

tiền gửi, trái phiếu trong nước của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng

nước ngoài.

23. Hoàng Văn Tiến (2016),Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình

sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc

sĩ, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,

24. Trường Đại học luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, Phần các tội phạm (tập 2), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật hình sự Việt

Nam (tập II), Nxb CAND, Hà Nội.

26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật hình sự Việt

Nam (tập II), Nxb CAND, Hà Nội.

27. Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2011), Giáo trình

Luật hình sự Việt Nam, tập 2 - Phần các tội phạm, Nxb Hồng Đức, Thành

phố Hồ Chí Minh.

28. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 02/HĐTP ngày

05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của phần chung BLHS năm

1985, Hà Nội.

29.Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 02/HĐTP-NQ ngày

16/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ

sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số

quy định của phần chung Bộ luật hình sự, Hà Nội.

30. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày

19/4/1989 của HĐTP hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của

BLHS 1985, Hà Nội.

31. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày

04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật

Hình sự 1999, Hà Nội.

32. Tòa án nhân dân tối cao, Các văn bản quy phạm pháp luật của Tòa

án nhân dân tối cao và hướng dẫn thi hành pháp luật, Hà Nội, 2005.

33. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn số 212/TANDTC-PC

ngày 13/9/2019 v/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc

trong xét xử có hướng dẫn, Hà Nội.

34. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn 64/TANDTC-PC ngày

03/4/2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về

hình sự, dân sự và tố tụng hành chính,Hà Nội.

35. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 207/2018/HS-ST

ngày 30/11/2018 .

36. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 47/2019/HSST

ngày 12/4/2019.

37. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 45/2019/HSST

ngày 24/4/2019.

38. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 54/2018/HSST

ngày 14/03/2018.

39. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 42/2018/HSST

ngày 29/01/2018.

40. TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Bản án số182/2018/HS-ST

ngày 06/11/2018.

41. TAND tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 53/2017/HSPT ngày 20/11/2017.

42. TAND tỉnh Bắc Ninh, Bản án số 39/2018/HS-PTngày 18/9/2018.

43. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công

an, Bộ tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-

VKSNDTC-BCA-BTP, Hà Nội.

44. Thủ tướng Chính phủ (1955),Thông tư 442-TTg ngày 19/1/1955,

quy định thống nhất một số tội phạm, Hà Nộ.

45. Hồ Sỹ Sơn (2008), Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật

hình sự nước ta với pháp luật hình sự của một số nước thuộc hệ thống pháp

luật châu âu lục địa, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2008.

46. PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn (2018),Luật hình sự so sánh (sách chuyên

khảo), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

47. Lê Thị Sơn (2007), Đổi mới chính sách hình sự - Định hướng cho

việc hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 1999, Luật học (số 8), tr.54-59.

48. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 149-LCT ngày

21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, Hà Nội.

49. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 150-LCT ngày

21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân, Hà Nội.

50. Viện Nhà nước và Pháp luật (1993), Tội phạm học, luật hình sự,

luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia.

51.https://plo.vn/phap-luat/ai-da-lam-cho-vu-cua-go-kho-them-phuc-

tap-848330.html

52. https://plo.vn/phap-luat/kho-hieu-toa-ket-toi-nam-nguoi-cua-go-

kho-851729.html