VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THANH PHONG

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, NĂM 2020

HÀ NỘI - năm

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THANH PHONG

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN HỮU TRÁNG

HÀ NỘI, NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực, được thu thập trong thực tế, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả Phạm Thanh Phong

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự Bộ luật hình sự Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân tối cao Trộm cắp tài sản Trách nhiệm hình sự Xã hội chủ nghĩa Học viện khoa học xã hội Ủy ban nhân dân Pháp luật hình sự Chiếm đoạt tài sản Cấu thành tội phạm

BLDS BLHS TAND TANDTC TCTS TNHS XHCN HVKHXH UBND PLHS CĐTS CTTP

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 .......................................................................................................... 8 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH, QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ............................................................................ 8 1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản ........................................ 8 1.2. Lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ........................................................................................................... 15 Chương 2 ........................................................................................................ 23 THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI.......................................................... 23 2.1. Khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ..................................................................................... 23 2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ...................................................................... 24 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ...................................................................... 35 2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, sai lầm trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản .......................... 48 Chương 3 ........................................................................................................ 51 YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI TAND THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .... 51 3.1. Yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tội trộm cắp tài sản ..................................................................................................................... 51 3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt chính xác đối với tội trộm cắp tài sản tại TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ..................................................................................................................... 53 KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 61 DANH MỤC PHỤ LỤC ................................................................................ 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 67

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giai đoạn vừa qua, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân tỉnh Đồng Nai

đã có nhiều cố gắng trong công tác phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh,

trật tự, an toàn xã hội. Căn cứ các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, Tỉnh

ủy, UBND tỉnh Đồng Nai đã xây dựng các kế hoạch triển khai thực hiện

chương trình phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở đó, tỉnh

Đồng Nai nói chung, thành phố Biên Hòa nói riêng đã thực hiện nhiều giải

pháp phòng chống tội phạm như: Các cấp, các ngành quan tâm sâu sát trong

việc chỉ đạo, điều hành hoạt động đấu tranh, phòng ngừa tội phạm; Lực lượng

chức năng chủ động triển khai các biện pháp nghiệp vụ, lực lượng công an đã

mở các đợt cao điểm đấu tranh, tấn công trấn áp tội phạm trên các lĩnh vực,

bố trí công an chính quy về đến cơ sở. Đối với các cơ quan tố tụng đã có sự

phối hợp chặt chẽ trong việc giải quyết các vụ án, tránh để án kéo dài, tồn

đọng gây bức xúc trong nhân dân.

Tuy nhiên, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, trên thực tế vẫn

còn nhiều tồn tại. Giai đoạn năm 2015 đến năm 2019, TAND thành phố Biên

Hòa đã thụ lý và xét xử 2.537 vụ án, với 4.442 bị cáo phạm tội.

Trong đó tội trộm cắp tài sản, không chỉ chiếm một mức độ cao trong

tình hình tội phạm nói chung, mà còn có diễn biến ngày càng phức tạp, tính

chuyên nghiệp ngày càng cao, đã gây nên những thiệt hại về vật chất lẫn tinh

thần cho dân cư, các cơ quan, doanh nghiệp, trường học… và bất ổn trong đời

sống của nhân dân. Giai đoạn năm 2015 đến năm 2019, TAND thành phố

Biên Hòa đã thụ lý và xét xử 1.152 vụ án trộm cắp tài sản với 1.439 bị cáo

phạm tội, chiếm 45.41% trong tổng số các vụ án đã được xét xử trên địa bàn

thành phố.

1

Quá trình giải quyết các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản vẫn còn những

hạn chế, vướng mắc trong định tội danh và quyết định hình phạt đã làm giảm

hiệu quả điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hình sự…

Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có nhiều điểm

mới, tuy nhiên thực tiễn áp dụng vẫn còn những vướng mắc. Vấn đề áp dụng

những quy định của pháp luật hình sự để xử lý tội trộm cắp tài sản vẫn có

những mặt nhận thức chưa được thống nhất và còn khác nhau. Các văn bản

hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự vẫn chưa được các cơ

quan có thẩm quyền ban hành kịp thời.

Từ các lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội trộm cắp tài sản từ

thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn Thạc sĩ với

mong muốn kiến nghị được một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật

hình sự đối với tội trộm cắp tài sản, từ đó góp phần hiệu quả trong công tác

đấu tranh phòng và chống tội trộm cắp tài sản tại thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trên thực tế, trong những năm gần đây có rất nhiều công trình khoa học

nghiên cứu lý luận về pháp luật hình sự để áp dụng cho tội trộm cắp tài sản,

có thể chia thành ba nhóm lớn như sau:

Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu làm rõ lý luận về tội trộm cắp

tài sản và lý luận áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản (lý luận định tội

danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản) như: Nguyễn Ngọc

Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ

sung năm 2017 – Phần các tội phạm – Quyển 1, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Cao

Thị Oanh (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật hình sự

năm 2015 - Phần thứ hai - Các tội phạm, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà

2

Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

– Phần các tội phạm – Quyển 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại

học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam –

Phần các tội phạm – Quyển 1, Nxb Hồng Đức, Hà Nội; Võ Khánh Vinh

(2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ

Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội; … Các công trình nghiên cứu này là những thành quả

đóng góp vô cùng to lớn của các tác giả, đây là nền tảng cơ bản để nghiên cứu

về lý luận về tội trộm cắp tài sản, các tác giả đã phân tích, làm rõ rất nhiều

vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam. Từ đó

làm cơ sở quan trọng trọng việc nghiên cứu, học tập áp dụng trong thực tiễn

về khoa học hình sự đối với tội trộm cắp tài sản cho tất cả các đối tượng có

nhu cầu.

Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu làm rõ thực tiễn áp dụng pháp

luật (thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt) đối với tội trộm cắp tài

như: Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2016), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình

sự Việt Nam từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ,

Học viện Khoa học xã hội; Hoàng Thị Hoa (2016), Tội trộm cắp tài sản từ

thực tiễn của thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Luận văn thạc sĩ, Học viện

Khoa học xã hội; Nguyễn Bá Vinh (2019), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn

thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội; … Các công trình nghiên cứu này đã phân

tích, làm rõ được một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật

hình sự Việt Nam như: Khái niệm, đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, các dấu

hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản cũng như lịch sử hình thành và phát triển

của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó các luận văn

đều đã đề cập rất kỹ thực tiễn áp dụng PLHS về tội trộm cắp tài sản tại địa

3

phương nghiên cứu. Tuy nhiên có rất ít công trình nghiên cứu thực tiễn áp

dụng PLHS về tội trộm cắp tài sản tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu các giải pháp bảo đảm áp dụng

đúng pháp luật hình sự (bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng)

đối với tội trộm cắp tài sản như: Trần Mạnh Hà, Một số dấu hiệu đặc trưng

của tội “trộm cắp tài sản” cần nhận biết khi định tội danh, Tạp chí Nhà nước

và Pháp luật, (số 3/2007), trang. 70-77; Đỗ Lường Thiện, Hoàn thiện quy định

của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản, Tạp chí Nghề luật-Học viện tư

pháp, (số 4/2017), trang. 71-73; Võ Văn Trung, Định tội danh phải phù hợp

các yếu tố cấu thành tội phạm, Diễn đàn Luật sư Việt Nam, (số 7/2016),

trang. 22-25; Lê Hoàng Tấn, Nâng cao chất lượng định tội danh đối với các

tội xâm phạm sở hữu, Diễn đàn Luật sư Việt Nam, (số 3/2016), trang. 21-24.

Các bài viết khoa học nêu trên đã làm rõ thêm vấn đề về lý luận của tội

TCTS trong PLHS Việt Nam, trong đó làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng,

phân biệt giữa tội TCTS với các tội trong chương các tội phạm xâm phạm sở

hữu khác.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Luận văn có mục đích đề xuất được các giải pháp hoàn thiện quy định

của pháp luật hình sự về tội TCTS và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng

PLHS đối với tội TCTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa nói riêng và tỉnh

Đồng Nai nói chung.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Nhằm đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn cần thực

hiện những nhiệm vụ sau:

Nhiệm vụ thứ nhất:

4

- Phân tích đánh giá làm rõ một số vấn đề lý luận về tội TCTS trong

BLHS Việt Nam.

- Phân tích làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội TCTS trong PLHS Việt

Nam, bao gồm: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của tội

TCTS.

- Phân tích làm rõ nội dung lý luận về định tội danh và quyết định hình

phạt đối với tội TCTS.

Nhiệm vụ thứ hai:

- Khái quát tình hình định tội danh và quyết định hình phạt với tội TCTS

trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Phân tích làm rõ những kết quả đạt được trong áp dụng các quy định

PLHS Việt Nam về tội TCTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng

Nai.

- Phân tích làm rõ những tồn tại và hạn chế trong áp dụng các quy định

PLHS Việt Nam về tội TCTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng

Nai.

Nhiệm vụ thứ ba:

- Đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của PLHS về tội TCTS.

- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định PLHS về tội

TCTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận về tội TCTS; các

quy định của PLHS Việt Nam về tội TCTS và thực tiễn áp dụng PLHS đối

với tội TCTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015-

2019.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

5

Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu tội TCTS trên địa bàn thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn từ 2015 - 2019 và trong khuôn khổ

luận văn cao học này, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu trong hai hoạt động

áp dụng PLHS cơ bản là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

TCTS. Việc định tội danh diễn ra trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, tuy

nhiên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu định tội danh trong quá trình xét xử.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng Triết học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và

pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước và pháp luật

trong phòng chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp

phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê…

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao nhận thức chung cho

nhân dân cũng như các tổ chức, cá nhân áp dụng pháp luật về tội TCTS trong

PLHS Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn công

tác giải quyết các vụ án TCTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân, tổ

chức khi có nhu cầu.

6. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm 3 chương:

6

- Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội TCTS và lý luận về định tội

danh, quyết định hình phạt đối với tội TCTS.

- Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

TCTS tại TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả định tội

danh và quyết định hình phạt đối với tội TCTS tại TAND thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai.

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ LÝ

LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH, QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Theo Khoản 1 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có

quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,

tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức

kinh tế khác. [24, tr.24].

Theo Điều 158 BLDS năm 2015 quy định: Quyền sở hữu bao gồm

quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu

đối với tài sản theo quy định của pháp luật. [26, tr.88]

Qua đó, quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu (Chiếm hữu là việc

chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ

thể có quyền đối với tài sản) [26, tr. 98], quyền sử dụng (Quyền sử dụng là

quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản) [26, tr. 101] và

quyền định đoạt (Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản,

từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản) [26, tr. 102].

Để bảo vệ quyền sở hữu của công dân, Nhà nước có nhiều công cụ và

biện pháp khác nhau, trong đó biện pháp nghiêm khắc nhất là sử dụng PLHS,

bằng cách quy định những hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội xâm phạm

quyền sở hữu là tội phạm và quy định các biện pháp cưỡng chế hình sự đối

với người thực hiện tội phạm ấy.

Hành vi TCTS thuộc nhóm hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, hành vi "chiếm đoạt tài sản"

có thể được hiểu theo định nghĩa sau: “Chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển

8

dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản

của mình”. [35, tr.184]

Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều quan điểm khác nhau

định nghĩa về tội TCTS, cụ thể như sau:

Quan điểm thứ nhất: “(Tội) trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm

đoạt tài sản đang có người quản lý”. [35, tr.209]

Theo định nghĩa này, nội hàm quan trọng của tội TCTS gồm hai dấu

hiệu:

- Hành vi lén lút

- Hành vi chiếm đoạt tài sản đang có người quản lý

Quan điểm thứ hai: “TCTS là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang

trong sự quản lý của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới

hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành

chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội CĐTS, chưa được xóa

án tích mà còn vi phạm”. [38, tr.192]

Định nghĩa này cũng cho thấy các dấu hiệu:

- Hành vi lén lút

- Hành vi chiếm đoạt tài sản đang trong sự quản lý của người khác

- Trị giá tài sản bị chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu

đồng nhưng người thực hiện đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt

hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi

phạm.

Như vậy, so với định nghĩa trên, định nghĩa này đã cụ thể hóa hơn dấu

hiệu trị giá tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới phân biệt giữa tội phạm và vi

phạm pháp luật khác.

Quan điểm thứ ba: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài

sản của người khác”. [18, tr.207]

9

Định nghĩa này cho thấy 2 dấu hiệu:

- Hành vi lén lút

- Hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác.

So với hai định nghĩa trên, định nghĩa này có sự khác biệt: Trong khi hai

định nghĩa trên đều xác định tội TCTS là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản

đang có người quản lý thì định nghĩa này lại định nghĩa là hành vi chiếm đoạt

tài sản của người khác.

Tài sản đang có người quản lý được hiểu là tài sản đó có thể thuộc sở

hữu của người quản lý hoặc có thể không thuộc sở hữu của người quản lý, mà

người đó chỉ được giao quản lý.

Tài sản của người khác được hiểu là tài sản thuộc sở hữu của người khác

chứ không thuộc tài sản của người đang đề cập đến. Tài sản đó có thể đang do

chính người khác đó sở hữu quản lý hoặc có thể đang giao cho một người nào

đó khác quản lý.

Như vậy, có thể thấy, về cơ bản, các định nghĩa trên đều nêu được các

dấu hiệu cơ bản của tội TCTS. Tuy nhiên, các định nghĩa trên chưa toàn diện

vì chưa nêu đầy đủ đặc điểm của tài sản là đối tượng của tội TCTS là thuộc

người sở hữu hay người quản lý hay cả hai trường hợp.

Đặc điểm nổi bật của tội TCTS là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài

sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết mình bị mất tài sản,

chỉ sau khi tài sản đã bị chiếm đoạt thì họ mới biết bị mất tài sản.

Như phân tích ở trên, hành vi TCTS có một số đặc trưng như sau:

(1). Hành vi “lén lút”

Đặc điểm riêng biệt có tính đặc thù của tội “Trộm cắp tài sản” là hành vi

“lén lút”, bởi vì không có việc lén lút thì không phải là trộm cắp.

(2). Đối tượng mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành vi “lén lút” là

tài sản thuộc sở hữu của người khác hoặc đang có người quản lý

10

Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác

hoặc tài sản đang có người quản lý.

Chủ sở hữu tài sản

Theo pháp luật dân sự, chủ sở hữu tài sản là người có đầy đủ 3 quyền

năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo quy

định pháp luật. Có đầy đủ 3 quyền này mới là chủ sở hữu hợp pháp đối với tài

sản và được pháp luật bảo vệ. Hay nói cách khác, chủ sở hữu là người có

quyền: tự nắm giữ, quản lý, chi phối tài sản theo ý mình mà không bị hạn chế,

gián đoạn về thời gian; có quyền khai thác các công dụng, lợi ích, giá trị của

tài sản và quyết định về số phận của tài sản đó.

Người quản lý tài sản

Người quản lý tài sản không phải là chủ sở hữu tài sản và không có

quyền định đoạt tài sản mà chỉ được chủ tài sản giao cho nắm giữ hoặc trông

coi, bảo vệ tài sản.

Có thể nói, trộm cắp là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút.

Từ phân tích ở trên, có thể đưa ra định nghĩa về tội TCTS cụ thể như

sau:

"Trộm cắp tài sản là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự

và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý bằng thủ đoạn

lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của người khác hoặc đang do người

khác quản lý và theo quy định của BLHS hành vi này phải chịu trách nhiệm

hình sự".

1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

1.1.2.1. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

Chủ thể của tội TCTS là chủ thể thường. Tuy nhiên, người từ đủ 14 tuổi

đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS về tội TCTS thuộc trường hợp quy

định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 173 BLHS, vì theo quy định tại khoản 2

11

Điều 12 BLHS thì, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách

nhiệm hình về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy

định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169,

170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290,

299, 303 và 304 của BLHS, trong khi đó khoản 1 Điều 173 là tội phạm ít

nghiêm trọng và khoản 2 Điều 173 là tội phạm nghiêm trọng. [18, tr. 209]

1.1.2.2. Khách thể của tội trộm cắp tài sản

Khách thể của tội TCTS là quan hệ sở hữu: “tội TCTS xâm hại quan hệ

sở hữu”. [45, tr.183].

Hành vi phạm tội TCTS xâm phạm đến quan hệ sở hữu, cụ thể là quyền

chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ tài sản đối với tài sản bị trộm cắp.

[38, tr.192]

1.1.2.3. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản

Hành vi khách quan của tội phạm

Đặc điểm của tội TCTS là có hành vi “chiếm đoạt” bằng hình thức lén

lút, thủ đoạn là lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản để

chiếm đoạt tài sản.

Tội TCTS có thể diễn ra trong một số trường hợp đặc thù sau:

- Người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài sản, khi

có điều kiện mới lén lút chiếm đoạt tài sản.

- Người phạm tội lợi dụng địa điểm đông người, như nhà ga, bến xe để

chiếm đoạt tài sản của người khác.

- Người phạm tội lợi dụng sơ hở để chiếm đoạt tài sản nơi công cộng vì

không có người trông coi.

Dấu hiệu đặc trưng của tội TCTS thể hiện ở hành vi chiếm đoạt tài sản

được thực hiện một cách lén lút, bí mật đối với người quản lý tài sản. Trong ý

thức chủ quan của người phạm tội, họ mong muốn che giấu hành vi phạm tội

12

của mình, họ sợ người quản lý tài sản phát hiện ra hành vi chiếm đoạt tài sản

của mình. [38, tr.193]

Hậu quả của tội phạm

Tội TCTS gây ra hậu quả là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản

bị chiếm đoạt. Tài sản bị chiếm đoạt do hành vi trộm cắp gây ra thường là tiền

các loại, ngoại tệ, hàng hóa và các giấy tờ có giá trị thanh toán như phiếu

công trái, ngân phiếu, vàng, bạc, kím khí quý, đá quý và các động sản có giá

trị khác …

1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản

Người phạm tội TCTS có lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm

tội, họ mong muốn chiếm đoạt được tài sản của nạn nhân. Mục đích chiếm

đoạt bao giờ cũng có trước hành vi chiếm đoạt. Do đó, có thể nói dấu hiệu bắt

buộc của cấu thành tội TCTS là mục đích chiếm đoạt tài sản.

1.1.2.5. Hình phạt của tội trộm cắp tài sản

Điều 173 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định hình

phạt cho tội trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Khung 1: Có mức hình phạt: bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm

hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Khung 2: Có hình phạt từ 02 đến 07 năm tù.

Khung 3: Có hình phạt từ 07 đến 15 năm tù.

Khung 4: Có hình phạt từ 12 đến 20 năm tù.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

50.000.000 đồng theo khoản 5 Điều 173.

1.1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội có liên quan

1.1.3.1. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài

sản

13

Điều 172, BLHS hiện hành quy định tội công nhiên CĐTS. Tội công

nhiên CĐTS là hành vi lợi dụng chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản không

có điều kiện ngăn cản để công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ, không dùng

bất kỳ thủ đoạn nào khác như: Dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần… Điểm khác

nhau cơ bản giữa tội TCTS và tội công nhiên CĐTS là hành vi TCTS được

thực hiện hoàn toàn lén lút đối với chủ tài sản hoặc người người quản lý tài

sản. Ngược lại, hành vi công nhiên CĐTS lại được thực hiện hoàn toàn công

khai ngay trước mắt của người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản.

1.1.3.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp giật tài sản

Điều 173, BLHS hiện hành quy định tội tội cướp giật tài sản. Đó là hành

vi CĐTS, mà người phạm tội thực hiện một cách công khai, nhanh chóng

chiếm đoạt tài sản (giật) của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát. Trong tội

TCTS thì trị giá tài sản tối thiểu được quy định trong CTTP để làm cơ sở truy

cứu TNHS, còn ở tội cướp giật tài sản thì không quy định giá trị tài sản tối

thiểu, mà chỉ quy định hành vi “người nào cướp giật tài sản của người

khác…” tức chỉ cần có hành vi cướp giật là phạm tội.

1.1.3.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản

Về mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm là vay, mượn, thuê tài sản

của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp

đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc

đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không

trả. Còn đối với tội TCTS thì người thực hiện hành vi phạm tội một cách lén

lút để chiếm đoạt tài sản, tức chiếm đoạt tài sản mà chủ sở hữu không hề biết.

1.1.3.4. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Hành vi CĐTS của tội lừa đảo, chủ yếu dựa vào thủ đoạn gian dối, làm

cho chủ tài sản tin tưởng giao tài sản sau đó chiếm đoạt một cách công khai.

14

Tóm lại để phân biệt được tội TCTS với các loại tội khác chúng ta cần

chú ý phân biệt được người phạm tội dùng phương thức, thủ đoạn nào để

chiếm đoạt. Đối với tội trộm cắp thì chiếm đoạt một cách lén lút, tội cướp thì

dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt, tội lừa đảo thì dùng thủ

đoạn gian dối đưa ra các thông tin giả làm cho chủ tài sản giao tài sản rồi

chiếm đoạt,…

1.2. Lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

trộm cắp tài sản

1.2.1. Lý luận định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản

Đối với tội TCTS, đòi hỏi cần làm rõ các dấu hiệu đã xảy ra trong thực

tiễn, đặc biệt chú ý đến các dấu hiệu:

- Tính chất lén lút của hành vi chiếm đoạt tài sản.

- Giá trị của tài sản bị chiếm đoạt.

- Nhân thân của người phạm tội (Đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc

đã bị kết án hay chưa, …)

- Tính chất của tài sản bị chiếm đoạt (Tài sản có phải là di vật, cổ vật hay

không, …)

Sau khi làm rõ các vấn đề này thì sẽ đối chiếu với các dấu hiệu của

CTTP để xác định sự phù hợp giữa chúng.

Từ phân tích trên, có thể định nghĩa: Định tội danh đối với tội TCTS là

việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu

hiệu của hành vi tội phạm TCTS đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu

thành tội phạm TCTS đã được quy định trong khoản 1 Điều 173 BLHS.

Để việc định tội danh được đúng đắn, nhận thức của người áp dụng pháp

luật phải bao quát đầy đủ, chính xác, khách quan các loại yếu tố sau:

- Xác định chính xác, đầy đủ các tình tiết thực tế của vụ án;

15

- Nhận thức đúng nội dung của quy phạm pháp luật hình sự liên quan

đến tội phạm đã thực hiện;

- Nhận thức đầy đủ, đúng đắn về mối liên hệ giữa các tình tiết thực tế

của hành vi và các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong quy

phạm pháp luật hình sự.

Như vậy, định tội danh tội TCTS là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt

động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở

xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực

hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu

thành tội phạm tại Điều 173 BLHS và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu

hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại Điều 173 BLHS với các tình tiết cụ

thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn

nhất định. [50, tr. 26-27]

Các dấu hiệu cần lưu ý trong định tội danh tội trộm cắp tài sản

* Trường hợp tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng gây

hậu quả nghiêm trọng, Theo quy định mới trong BLHS năm 2015, trường hợp

trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng “gây hậu quả nghiêm

trọng” được thay bằng “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã

hội”.

Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội

Tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” có

thể hiểu là hành vi trộm cắp tài sản đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời

sống bình thường của dân cư trong một khu vực nhất định.

* Trường hợp tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng

người phạm tội trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt.

Theo Mục 6, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của

Hội đồng thẩm phán TANDTC thì:

16

Trong thời hạn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

nếu người đã bị xử phạt hành chính lại có hành vi trộm cắp tài sản và dù giá

trị tài sản dưới 2.000.000 đồng, thì hành vi này cấu thành tội trộm cắp tài sản.

* Trường hợp tài sản trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng

người phạm tội trước đó đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và chưa được

xóa án tích.

Khi đã bị kết án về tội CĐTS, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm

tội TCTS thì vẫn cấu thành tội phạm TCTS dù tài sản trộm cắp dưới hai triệu

đồng.

* Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng hành vi trộm cắp tài

sản, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu

TNHS theo quy định của BLHS và không thuộc một trong các trường hợp

khác để truy cứu TNHS (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính;

đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích...). Đồng thời, trong các hành vi

xâm phạm đó chưa lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử

phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên

mức tối thiểu để truy cứu TNHS.

Trong trường hợp này, theo quy định tại Mục 5 phần II của Thông tư

liên tịch số: 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày

25/12/2001, người thực hiện hành vi TCTS nhiều lần, phải bị truy cứu TNHS

về tội TCTS tương ứng theo tổng giá trị tài sản các lần bị xâm phạm, nếu:

Thứ nhất, các hành vi TCTS được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp

nhau về mặt thời gian.

Thứ hai, việc thực hiện các hành vi TCTS có tính chất chuyên nghiệp,

lấy tài sản trộm cắp làm nguồn sống chính.

17

Thứ ba, với mục đích TCTS, nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan,

nên việc TCTS được thực hiện nhiều lần, nên giá trị tài sản bị xâm phạm mỗi

lần dưới 2.000.000 đồng.

* Việc áp dụng hướng dẫn tình tiết “hành hung để tẩu thoát” và chuyển

hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản.

Theo quy định tại Mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số: 02/2001/TTLT-

TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 thì:

Khi áp dụng tình tiết “hành hung để tẩu thoát” (điểm đ khoản 2 Điều 138

BLHS năm 1999, nay là điểm đ khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015) cần chú

ý:

“6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp

mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài

sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những

hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh,

chém, bắn, xô ngã,... nhằm tẩu thoát.

6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm

đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà

người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn

công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì

trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà đã có đầy đủ các

dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản.”

1.2.2. Lý luận về quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

“Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp

luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể

được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để

áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội”. [44, tr. 386]

18

Từ định nghĩa trên ta có thể suy ra: Quyết định hình phạt đối với tội

TCTS là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng PLHS thể hiện ở việc Tòa

án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong Điều 173

BLHS theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội TCTS thể

hiện trong bản án buộc tội.

Từ định nghĩa trên cho thấy quyết định hình phạt có các đặc điểm sau:

- Quyết định hình phạt là một dạng hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận

thức của con người cụ thể;

- Quyết định hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Hội

đồng xét xử thực hiện trên thực tế, để quyết định một mức hình phạt hoặc có

thể miễn TNHS, miễn hình phạt đối với bị cáo, dựa trên cơ sở các quy định

của pháp luật;

- Quyết định hình phạt đối với tội TCTS mang tính tùy nghi cao, thể hiện

trong việc lựa chọn loại hình phạt áp dụng, mức hình phạt,…được quy định

tại Điều 173 BLHS.

Theo quy định trong khoản 1 của Điều 50 BLHS, các căn cứ quyết định

hình phạt đối với người phạm tội bao gồm:

- Các quy định của BLHS;

- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;

- Nhân thân người phạm tội;

- Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. [35, tr. 266]

* Về căn cứ thứ nhất – các quy định của BLHS

Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của

BLHS để lựa chọn loại và xác định hình phạt cụ thể áp dụng đối với người

phạm tội. Những quy định này bao gồm các quy định trong Phần thứ nhất của

BLHS – Những quy định chung và các quy định trong Phần thứ hai của

BLHS – Các tội phạm.

19

*Về căn cứ thứ hai – tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội

Các khung chế tài của các tội phạm được xây dựng chủ yếu dựa trên tính

chất nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm nhưng khi quyết định hình phạt

cụ thể trong phạm vi khung chế tài xác định, đòi hỏi tòa án vẫn phải cân nhắc

tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm.

Vì quyết định hình phạt là quyết định trong phạm vi khung hình phạt cho

phép nên khi quyết định hình phạt chủ yếu căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc trước hết vào những yếu tố sau:

- Tính chất của hành vi phạm tội như thủ đoạn, công cụ, phương tiện,

hình thức thực hiện…;

- Tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra;

- Mức độ lỗi như tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tội…;

- Hoàn cảnh phạm tội;

- Những tình tiết về nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của

hành vi phạm tội…[35, tr.269]

*Về căn cứ thứ ba – nhân thân của người phạm tội

Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội cần cân nhắc trong tổng

thể khi quyết định hình phạt là những đặc điểm nhân thân sau:

- Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội có ảnh hưởng đến mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như phạm tội lần đầu hay đã có

tiền án, tiền sự, tái phạm thường hay tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính

chất chuyên nghiệp hay không, là người chưa thành niên phạm tội hay đã

thành niên…;

- Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh khả năng giáo

dục họ như có thái độ tự thú hoặc hối cải, lập công chuộc tội hay có thái độ

ngoan cố…;

20

- Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc

biệt của họ như là người bị bệnh hiểm nghèo, già yếu, phụ nữ có thai hoặc

nuôi con nhỏ hoặc là người có hoàn cảnh bản thân hay gia đình đặc biệt khó

khăn…[35, tr. 269]

*Về căn cứ thứ tư – các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình

sự

Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự được nêu trong

căn cứ này là những tình tiết đã được quy định cụ thể tại Điều 51 và Điều 52

BLHS.

Khoản 2 của Điều 50 BLHS xác định, ngoài các căn cứ nêu tại khoản 1,

khi quyết định hình phạt tiền đối với người phạm tội, Tòa án còn phải căn cứ

vào tình hình tài sản và khả năng thi hành của người phạm tội. Đây là các căn

cứ đảm bảo cho hình phạt này được thi hành trên thực tế để đạt được mục

đích của hình phạt.

Tiểu kết chương 1

Các tội xâm phạm sở hữu nói chung, Tội TCTS nói riêng đều là những

hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, xâm phạm đến

quan hệ sở hữu về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà theo quy định của

BLHS phải bị xử lý hình sự. Trong chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên

cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về tội TCTS, cụ thể:

1. Luận văn đã đưa ra được định nghĩa về tội TCTS được xây dựng từ đặc

trưng của tội TCTS cũng như lý luận về các yếu tố cấu thành tội TCTS.

2. Luận văn đã nghiêu cứu về lý luận định tội danh và quyết định hình

phạt đối với tội TCTS, qua đó làm cơ sở để nghiên cứu thực tiễn định tội danh

và quyết định hình phạt đối với tội TCTS ở chương 2.

3. Qua phân tích như trên cho thấy BLHS năm 2015 đã xây dựng quy

định về Tội TCTS một cách chi tiết, rõ ràng, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan

21

tiến hành tố tụng áp dụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số vụ án nhất

định để những cơ quan này có điều kiện giải quyết các vụ án khác phức tạp

hơn.

22

Chương 2

THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI

VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH

PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

2.1. Khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Tình hình xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Biên Hòa:

Căn cứ vào số liệu thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm

trên phạm vi thành phố Biên Hòa từ năm 2015 đến năm 2019, số liệu cụ thể

như sau:

- Năm 2015: Tội trộm cắp tài sản/Tội phạm khác là 276/587 vụ: chiếm

47.02% về số vụ, 347/1062 bị cáo: chiếm 32.67% về bị cáo.

- Năm 2016: Tội trộm cắp tài sản/Tội phạm khác là 228/576 vụ: chiếm

39.58% về số vụ, 290/1071 bị cáo: chiếm 27.08% về bị cáo.

- Năm 2017: Tội trộm cắp tài sản/Tội phạm khác là 193/489 vụ: chiếm

39.47% về số vụ, 241/819 bị cáo: chiếm 29.43% về bị cáo.

- Năm 2018: Tội trộm cắp tài sản/Tội phạm khác là 204/407 vụ: chiếm

50.12% về số vụ, 250/721 bị cáo: chiếm 34.67% về bị cáo.

- Năm 2019: Tội trộm cắp tài sản/Tội phạm khác là 251/478 vụ: chiếm

52.51% về số vụ, 311/751 bị cáo: chiếm 41.41% về bị cáo.

Trong 5 năm, từ năm 2015 đến năm 2019, tổng số vụ án Tội trộm cắp tài

sản/Tội phạm khác là 1152/2537 vụ, chiếm 45.41% về số vụ án, và 1439/4424

bị cáo chiếm 32.53% về số bị cáo.

Qua số liệu trên cho thấy, tình hình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự

trên địa bàn thành phố Biên Hòa luôn ở mức rất cao về số vụ và số bị cáo.

Đặc biệt, tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ rất lớn trong tình hình tội phạm của

thành phố Biên Hòa, lớn hơn rất nhiều lần so với các tội chiếm đoạt tài sản

23

khác. Do đó, công tác cải cách tư pháp, đấu tranh phòng, chống tội phạm trên

địa bàn thành phố Biên Hòa cần tiếp tục tăng cường vì tội phạm hoạt động với

phương thức mới ngày càng phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nguy hiểm

hơn.

Căn cứ vào số liệu thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ

thẩm trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong 05 năm, từ năm

2015 đến năm 2019 từ TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho thấy

tội TCTS trong thực tiễn với số liệu cụ thể như sau:

Nhìn vào bảng 2.2 phần phụ lục cho thấy: trong vòng 5 năm từ năm

2015 đến năm 2019, đã khởi tố điều tra 1.152 vụ với 1.439 bị cáo về tội trộm

cắp tài sản thì đưa ra xét xử có 1.014 vụ (chiếm tỉ lệ 88%) và 1.261 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 88%).

2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.2.1. Những kết quả đạt được trong định tội danh tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Nhìn chung, phần lớn các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản được định tội

danh chính xác, chưa có trường hợp nào bị xét xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm,

thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng hình sự, không để án quá thời

hạn luật định.

- Định tội danh đúng đối với trường hợp phạm tội đơn lẻ:

Ví dụ 1: Bản án hình sự sơ thẩm số 560/2019/HS-ST ngày 25/11/2019

của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng 17 giờ ngày 13/7/2019, Lê Văn Tr (sinh

năm 1986) đi bộ trên Quốc Lộ 51 thuộc phường LBT, thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai thì phát hiện có một chiếc xe mô tô biển số 70K1-233.57, số

máy 039107, số khung 039102 của anh Nguyễn Văn T đang bán trái cây, chìa

24

khóa xe cắm ở trên ổ khóa điện xe mô tô, nên Tr đã lén lút đến lấy trộm chiếc

xe của anh T.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 265/TCKH-HĐĐG ngày 15/7/2019

của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: 01

xe mô tô biển số 70K1-233.57, số máy 039107, số khung 039102 có giá trị

định giá là là 9.250.000 đồng (chín triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng).

Phân tích vụ án:

Chủ thể tội phạm: Lê Văn Tr sinh năm 1986, tại thời điểm phạm tội là

ngày 13/7/2019, Tr đã 33 tuổi và không thuộc trường hợp không có năng lực

TNHS theo Điều 21 BLHS nên Tr hoàn toàn thỏa mãn dấu hiệu chủ thể tội

trộm cắp tài sản.

Khách thể: Hành vi phạm tội của Tr đã xâm phạm quyền sở hữu của

anh Nguyễn Văn T đối với chiếc xe mô tô biển số 70K1-233.57.

Hành vi thuộc mặt khách quan: Hành vi của Tr đã lén lút đến lấy trộm

chiếc xe của anh T.

Hậu quả: Anh T đã mất quyền sở hữu đối với chiếc xe mô tô biển số

70K1-233.57.

Lỗi của Tr là lỗi cố ý trực tiếp.

Như vậy, việc Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s

khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 41/2017/NQ-

QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự

năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy

ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, miễn, thu, nộp, quản lý

và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên bố bị cáo Lê Văn Tr phạm tội “Trộm

cắp tài sản” và xử phạt: Bị cáo Lê Văn Tr 01 (một) năm tù là đúng người,

đúng tội.

25

Bản án này sau đó đã bị Tr kháng cáo. Ngày 26/02/2020, tại trụ sở

TAND tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:

04/2020/HS-PT ngày 02/01/2020 đối với bị cáo Lê Văn Tr. Hội đồng xét xử

phúc thẩm nhận định: Bản án sơ thẩm đã đánh giá chính xác mọi tình tiết của

vụ án và tuyên Lê Văn Tr phạm tội TCTS là đúng người đúng tội. Hình phạt

một năm tù cho hành vi phạm tội của Tr là hoàn toàn tương xứng. Điều này

càng cho thấy bản án sơ thẩm đã đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Ví dụ 2: Bản án số: 104/2019/HSST, Ngày: 7/03/2019 của TAND

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 12/10/2018, Nguyễn Văn T đi bộ đến nhà số B1, tổ

6, khu phố 5, phường A, thành phố B để trộm cắp tài sản. Khi đến nơi T thấy

cửa phòng không khóa và có hai người đàn ông đang nằm ngủ, đèn điện sáng

nên T đã lén lút đi vào trong phòng lấy trộm tài sản...

Tổng tài sản mà T chiếm đoạt là 8.314.000 đồng (kết luận định giá tài

sản số 355/TCKH-HĐĐG ngày 16/10/2018 của hội đồng định giá thành phố

B) nên hành vi của T đã thỏa CTTP tội TCTS quy định tại khoản 1 Điều 173

BLHS.

* Trong vụ án này, khi định tội danh TAND thành phố Biên Hòa đã dựa

trên các căn cứ như sau:

Dấu hiệu chủ thể: Bị cáo Nguyễn Văn T sinh năm 1986, đến năm 2018

bị cáo T hoàn toàn đủ tuổi chịu TNHS và không thuộc trường hợp quy định

tại Điều 21 BLHS.

Dấu hiệu khách thể: Quyền sở hữu của anh D đối với chiếc điện thoại

Iphone 6 plus và anh Q đối với chiếc điện thoại Sam sung galaxy J7 Prime bị

xâm phạm.

26

Hành vi thuộc mặt khách quan: T có hành vi đã lén lút đi vào trong

phòng lấy trộm tài sản là hai chiếc điện thoại của anh D và anh Q, khi bị mất

tài sản thì chủ sở hữu tài sản là anh D, anh Q không hề hay biết.

Hậu quả: Anh D và anh Q đã bị mất tài sản là hai chiếc điện thoại. Như

vậy quyền sở hữu của anh D và anh Q đối với hai chiếc điện thoại đã bị xâm

phạm. Hậu quả này có mối quan hệ nhân quả với hành vi trộm cắp của T.

Mặt chủ quan: Lỗi của T là lỗi cố ý trực tiếp; mục đích: chiếm đoạt tài

sản của người khác.

Bị cáo Nguyễn Văn T có 03 tiền án:

+ Ngày 16/11/2006, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xử phạt

18 tháng tù giam về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo

bản án số 13/2006/HSST ngày 16/11/2006.

+ Ngày 12/09/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa

Vũng Tàu xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số

193/20013/HSST ngày 12/09/2013.

+ Ngày 21/7/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa

Vũng Tàu xử phạt 03 năm 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo

bản án số 130/20015/HSST ngày 21/7/2015.

Hành vi phạm tội của T trong trường hợp là thuộc trường hợp tái phạm

nguy hiểm "Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi

phạm tội do cố ý" (điểm b khoản 2 Điều 53 BLHS)

Như vậy, đối chiếu tất cả các hành vi phạm tội của T đều phù hợp với

CTTP cơ bản của tội TCTS, vì vậy có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo

Nguyễn Văn T đã thỏa mãn cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Mặt khác, T

phạm tội TCTS trong trường hợp đã tái phạm nguy hiểm nên hành vi của T

thỏa mãn điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS. Việc TAND Thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai căn cứ quy định tại khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS

27

năm 2015 để định tội TCTS cho T là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật.

Ví dụ 3: Bản án số 578/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của TAND

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Tóm tắt nội dung vụ án: Nguyễn Hiếu N, sinh năm 1978, nghiện ma túy,

không nghề nghiệp. Tiền án:

- Ngày 29/10/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng

Nai xử phạt 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 18/01/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng

Nai xử phạt 10 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 11/12/2018, N rủ T Đen (chưa rõ lai lịch) đến lẻn vào công trình

xây dựng nhà số 276, khu 5, phường T, thành phố Biên Hòa (được rào bên

ngoài) do chị Ngọc N là chủ sở hữu để trộm cắp 04 chân giàn giáo mang đi

bán.

Tại bản kết luận giám định số 490/TCKH-HĐĐG ngày 29/12/2018 của

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của UBND thành phố Biên

Hòa kết luận: 4 chân gián giáo có tổng giá trị định giá là 684.000 đồng (Sáu

trăm tám mươi bốn nghìn đồng).

Phân tích vụ án:

Chủ thể: Hiếu N sinh năm 1978, thời điểm phạm tội (ngày 11/12/2018)

đã đủ tuổi chịu TNHS và không thuộc trường hợp không có năng lực TNHS

theo Điều 21 BLHS.

Hành vi thuộc mặt khách quan: Hiếu N cùng T Đen lén lút lẻn vào khu

công trường đang xây của nhà chị Ngọc N để trộm cắp 4 chân gián giáo.

Hậu quả: Chị Ngọc N bị mất 4 chân giàn giáo.

Khách thể: Quyền sở hữu của chị Ngọc N đối với 4 chân giàn giáo.

Lỗi thuộc mặt chủ quan: lỗi của Hiếu N là lỗi cố ý trực tiếp.

28

Đối chiếu với cấu thành tội phạm của tội TCTS quy định tại khoản 1

Điều 173 BLHS cho thấy: Tài sản bị trộm cắp là 04 chân giàn giáo chỉ có giá

trị 684.000 đồng. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của Hiếu N thuộc trường hợp

đã bị kết án về tội TCTS, bị xử phạt 10 tháng tù về tội: TCTS, chưa được xóa

án tích mà lại đi thực hiện hành vi TCTS. Vì vậy, hành vi của Hiếu N thỏa

mãn điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS nên TAND thành phố Biên Hòa định tội

TCTS đối với Hiếu N là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Định tội danh trong trường hợp phạm tội có đồng phạm:

Ví dụ 4: Bản án số: 571/2019/HS-ST, Ngày: 26/11/2019 của TAND

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 02/8/2019, Nguyễn Tấn Đ rủ Trần Hoàng S và đối tượng tên

B (chưa rõ họ, địa chỉ) đi TCTS bán lấy tiền tiêu xài thì S, B đồng ý.

Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 02/8/2019, B chở Đ, S bằng xe mô tô hiệu

Attila (không rõ biển số) đi ngang qua đoạn đường trước nhà ông L Đình T,

sinh năm 1968 tại địa chỉ: số 34/15, tổ 32, khu phố A, phường T, thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện xe mô tô hiệu AirBlade màu xanh biển

số 77G1-378.85 của ông T dựng trước cổng nhà, trên xe còn cắm chìa khóa.

Đ nói B dừng xe lại để Đ quay lại lấy trộm xe thì B và S đồng ý, B điều khiển

xe dừng cách nhà ông T khoảng 30m để Đ đi bộ đến lấy trộm xe của ông T.

Kết luận định giá tài sản số 343/TC H-HĐĐG ngày 14/8/2019 của Hội

đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố Biên Hòa. Tài sản là chiếc xe

mô tô hiệu AirBlade màu xanh biển số 77G1-378.85 trị giá là 24.500.000

đồng (Hai mươi bốn triệu, năm trăm nghìn đồng).

* Trong vụ án này, khi định tội danh TAND thành phố Biên Hòa đã căn

cứ như sau:

29

Chủ thể: Bị cáo Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1993, tính đến thời điểm phạm

tội thì bị cáo được xác định là 26 tuổi. Bị cáo Trần Hoàng S, sinh ngày 01

tháng 8 năm 1998, tính đến thời điểm phạm tội thì bị cáo được xác định là 21

tuổi. Bị cáo Nguyễn Tấn Đ và Trần Hoàng S vào thời điểm thực hiện hành vi

phạm tội, không mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận

thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, như vậy bị cáo Nguyễn Tấn

Đ và Trần Hoàng S có đủ năng lực chịu TNHS đối với hành vi phạm tội của

mình. Do đó kết luận các bị cáo đủ tuổi và đủ năng lực chịu TNHS là đúng

quy định pháp luật.

Khách thể: Quyền sở hữu của ông T với chiếc xe mô tô hiệu AirBlade

màu xanh biển số 77G1-378.85 bị xâm hại.

Hành vi thuộc mặt khách quan: Đ và S đã dùng xe mô tô làm phương

tiện để trộm cắp tài sản (xe mô tô hiệu AirBlade màu xanh biển số 77G1-

378.85 của ông T).

Hậu quả: Ông T bị mất tài sản là chiếc xe mô tô hiệu AirBlade màu xanh

biển số 77G1-378.85.

Lỗi thuộc mặt chủ quan: Đ và S nhận thức rõ hành vi của mình là nguy

hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi trộm cắp tài sản và mong

muốn hậu quả xảy ra là chiếm đoạt được tài sản, như vậy cả Đ và S có lỗi cố

ý trực tiếp.

Như vậy, Đ và S đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản là chiếc xe mô tô

hiệu Honda AirBlade mà chủ tài sản (ông T) không hề hay biết, trị giá là

24.500.000 đồng (Hai mươi bốn triệu, năm trăm nghìn đồng). Hành vi đã

thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP tại khoản 1 Điều 173 BLHS, do đó

cơ quan tố tụng thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Nguyễn Tấn Đ, Trần

Hoàng S, về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự

là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

30

2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc, sai lầm trong định tội danh tội trộm

cắp tài sản

Do tội TCTS là tội có các tình tiết khá rõ ràng; các vụ phạm tội trên địa

bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 - 2019 đều có các tình tiết rõ ràng

nên việc định tội danh tội TCTS là chính xác: Trong số 17 bản án bị kháng

cáo, kháng nghị và đưa ra xét xử phúc thẩm (trong phần công bố bản án của

TANDTC) giai đoạn 2018-2020 thì không có vụ án nào định tội danh sai.

Tuy nhiên, thực tiễn định tội danh trên địa bàn thành phố Biên Hòa cũng

gặp phải một số khó khăn, vướng mắc sau đây

Thứ nhất, khó khăn trong việc định giá tài sản bị chiếm đoạt

Khi định tội danh đối với hành vi TCTS, thì việc xác định trị giá tài sản

bị chiếm đoạt là rất quan trọng. Xác định đúng giá trị tài sản sẽ giúp cho việc

định tội danh được chính xác. Ngược lại định giá tài sản không đúng thì có

thể làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Việc định giá tài sản trong các

vụ án xâm phạm sở hữu nói chung và trong tội trộm cắp tài sản nói riêng luôn

gặp phải những khó khăn, vướng mắc. Mặc dù Nghị định số 30/2018/NĐ-CP

ngày 07 tháng 3 năm 2018, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số

97/2019/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ đã quy định chi

tiết về việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ

tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự, tuy nhiên, việc định giá tài sản là

đối tượng của tội trộm cắp tài sản luôn gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc.

- Một số trường hợp, đối với một số loại tài sản không phổ biến trên thị

trường, tài sản không xác định rõ thời gian mua và một số thông tin khác nên

gây khó khăn cho việc định giá tài sản.

Ví dụ 5: Bản án số: 104/2019/HSST, Ngày: 7/03/2019 của TAND

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

31

Vụ án xét xử Nguyễn Văn T đã trộm cắp một chiếc điện thoại di động

nhãn hiệu Iphone 6 plus loại 64GB và 01 túi xách nhãn hiệu GUCCI màu đen

để trên đầu giường của anh Đinh Văn D và 01 chiếc điện thoại di động nhãn

hiệu Samsung galaxy J7 Prime màu vàng, để trên đầu giường của anh Đinh

Văn Q. Trong vụ án này, do chiếc túi xách nhãn hiệu GUCCI không rõ thời

gian mua, chủng loại, giá trị sử dụng, không đủ cơ sở định giá nên hội đồng

định giá thành phố Biên Hòa đã không định giá trị chiếc túi này. Rõ ràng ta

thấy, trường hợp này, việc không định giá chiếc túi xách nhãn hiệu GUCCI sẽ

làm cho việc xác định hậu quả của hành vi phạm tội là không chính xác.

GUCCI là một nhãn hiệu thời trang nổi tiếng với những sản phẩm cao cấp.

Một chiếc túi xách nhãn hiệu GUCCI nhiều khi có giá trị rất lớn. Chỉ vì

không rõ thời gian mua, chủng loại, giá trị sử dụng, nên Hội đồng định giá tài

sản thành phố Biên Hòa cho rằng không đủ cơ sở để định giá nên đã không

định giá chiếc túi xách. Đây là một hạn chế rất lớn cần có các giải pháp để

bảo đảm việc xác định đúng hậu quả của tội phạm, từ đó định tội danh chính

xác.

- Một số trường hợp tài sản bị người phạm tội làm hư hỏng gây khó khăn

cho việc định giá tài sản.

Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 17 của Nghị định số

30/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 3 năm 2018, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị

định số 97/2019/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ về định

giá tài sản quy định "Tài sản bị hủy hoại, hư hỏng một phần; tài sản bị hủy

hoại, hư hỏng toàn bộ nhưng vẫn có khả năng khôi phục lại tình trạng của tài

sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng: Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng yêu cầu xác định giá trị thiệt hại của tài sản bị hủy hoại, hư

hỏng một phần hoặc toàn bộ, Hội đồng định giá xác định giá trên cơ sở chi

phí khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư

32

hỏng một phần hoặc toàn bộ". Mặc dù Nghị định đã quy định rõ như vậy, tuy

nhiên, một số trường hợp, Hội đồng định giá tài sản lại cho rằng, tài sản bị hư

hỏng nên không định giá, dẫn đến không xác định chính xác mức độ thiệt hại

do hành vi phạm tội gây ra.

Ví dụ 6: Bản án số 314/2019/HS-ST ngày 17/7/2019 của TAND thành

phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Vụ án xét xử Trần Tuấn P, sinh năm 1993, trú tại 178E, tổ 35, khu phố 4,

phường B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Nội dung vụ án như sau:

Khoảng 15h00 ngày 15/12/2018, Trần Tuấn P rủ Nguyễn Văn C đến

tiệm game bắn cá "Bà Mỹ" chơi. Khi đến trước căn nhà số 98/57, tổ 9, khu

phố 3, cả hai phát hiện 1 chiếc mô tô dựng trước cửa nhà, trên tay lái bên phải

có treo một giỏ xách. P và C bàn nhau trộm túi xách. P dừng xe đứng bên

ngoài cảnh giới, C lén lút đến chỗ dựng xe và lấy được giỏ xách của chị T và

lên xe P chở đi.

Trong giỏ xách có các tài sản gồm: Số tiền 33.000.000 đồng (Ba mươi ba

triệu đồng), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, 01 điện

thoại di động nhãn hiệu SamSung Galasy J8 màu vàng, 01 giấy chứng minh

nhân dân và 02 thẻ ATM mang tên Nguyễn Thị T và 01 thẻ ATM mang tên

Nguyễn Nhật L. P và C chia số tài sản vừa trộm cắp sản như sau: C được số

tiền 18.500.000 đồng (Mười tám triệu năm trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại

di động Iphone 4S màu trắng; P được 14.500.000 đồng (Mười bốn triệu năm

trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galasy J8.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, model

A1387 qua kiểm tra, điện thoại bị hư hỏng nặng không kiểm tra được cấu

hình, chủng loại nên Hội đồng thống nhất không định giá và đã giao trả lại

cho chị T.

33

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J8 Model

SMJ810Y/DS, P đã bán cho người không rõ họ tên địa chỉ nên Cơ quan Cảnh

sát Điều tra Công an thành phố B không thu hồi được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 13/TCKH - HĐĐG ngày 19 tháng 01

năm 2019 của Hội đồng định giá thành phố Biên Hòa đã kết luận: 01 điện

thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J8 Model SM-J810Y/DS, có tổng

giá trị tài sản định giá 5.032.000 đồng (Năm triệu không trăm ba mươi hai

nghìn đồng).

Như vậy, trong vụ án trên, tài sản của tội trộm cắp tài sản là 01 (một)

điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, model A1387 do bị hư

hỏng nặng không kiểm tra được cấu hình, chủng loại, nên Hội đồng định giá

tài sản cũng không định giá tài sản này. Việc không định giá được chiếc điện

thoại Iphone 4S màu trắng, model A1387 sẽ không xác định chính xác hậu

quả do hành vi phạm tội của P và C, do đó ít nhiều đã gây khó khăn cho việc

định tội danh tội trộm cắp tài sản.

- Một số trường hợp tài sản bị trộm cắp không thu hồi được gây khó

khăn cho việc định giá.

Trong quá trình định tội danh các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản, một

số trường hợp tài sản bị chiếm đoạt không thu hồi được vì nhiều lí do khác

nhau. Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 17 của Nghị định số

30/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 3 năm 2018, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị

định số 97/2019/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ về định

giá tài sản quy định: "Tài sản bị mất, thất lạc; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng

toàn bộ và không có khả năng khôi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị

hủy hoại, hư hỏng: Hội đồng định giá xác định giá của tài sản theo hồ sơ của

tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định

giá". Theo đó, để xác định được trị giá tài sản trong trường hợp tài sản bị mất,

34

thất lạc; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng toàn bộ và không có khả năng khôi phục

lại tình trạng của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng này, cơ quan điều tra

phải xác định các thông tin của những người biết về tài sản này để xác định

loại tài sản gì; tình trạng tài sản và trị giá tài sản theo giá thực tế ở địa

phương, cũng như căn cứ vào các văn bản, giấy tờ thông tin về tài sản bị

chiếm đoạt… để định giá tài sản.

Tuy nhiên hoạt động định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị mất, thất

lạc; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng toàn bộ và không có khả năng khôi phục gặp

rất nhiều khó khăn trên thực tế bởi vì các nạn nhân của tội trộm cắp tài sản

thường có tâm lý mong muốn tìm lại được tài sản cũ của mình cũng như trừng

trị nghiêm khắc người phạm tội nên thường khai theo hướng làm tăng trị giá

tài sản bị chiếm đoạt. Do vậy việc tiến hành định giá tài sản dựa vào lời khai

của bị hại, người phạm tội thực sự còn nhiều khó khăn và bất cập và còn phụ

thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan định giá tài sản. Điều này làm cho việc

định giá tài sản không chính xác dẫn đến không xác định chính xác hậu quả

của hành vi phạm tội.

Trong Ví dụ 5: Bản án số 314/2019/HS-ST ngày 17/7/2019 của

TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong các tài sản mà P trộm cắp

của chị T có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J8 Model

SMJ810Y/DS, P đã bán cho người không rõ họ tên địa chỉ nên Cơ quan Cảnh

sát Điều tra Công an thành phố B không thu hồi được.

2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản tại

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

2.3.1. Kết quả đạt được

Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đất nước

ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Song vẫn còn đó những mặt trái của xã

hội, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức

35

tạp với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng cao. Hằng năm, các cơ quan

tư pháp của thành phố Biên Hòa phải giải quyết một số lượng khá lớn các vụ

án hình sự trong đó có nhiều vụ án về TCTS. Các cơ quan tiến hành tố tụng

đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. TAND thành phố Biên Hòa

đã đưa ra xét xử các bị cáo về tội trộm cắp tài sản với mức hình phạt được tác

giả thống kê như sau:

Giai đoạn 2015 – 2019 TAND thành phố Biên Hòa đã đưa ra xét xử là

1.014 vụ với 1.261 bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản. Trong số đó, số bị cáo bị

áp dụng hình phạt tù từ 3 năm trở xuống là 1.115 bị cáo, trong đó được hưởng

án treo chiếm 57 trường hợp là tỉ lệ tương đối thấp; không có trường hợp nào

được miễn hình phạt. Số vụ án bị kháng cáo chiếm tỉ lệ thấp, rất ít án bị kháng

nghị phúc thẩm và không có án bị giám đốc thẩm. (Bảng 2.3. phần phụ lục).

Điều đó cho thấy việc quyết định hình phạt của TAND thành phố Biên Hòa

tương đối chính xác, phù hợp với tính chất, hậu quả của hành vi, các Thẩm

phán đã vận dụng đúng các nguyên tắc và các căn cứ của quyết định hình phạt

để thực hiện việc quyết định hình phạt, từ đó đã đưa ra mức hình phạt tương

xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tác dụng tuyên truyền, giáo

dục và cải tạo người phạm tội.

Một số bản án sau đây cho thấy việc quyết định hình phạt là đúng quy

định, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.

- Quyết định hình phạt theo khung cơ bản (tại khoản 1 Điều 173)

Ví dụ 7: Bản án số: 08/2019/HS-ST, Ngày: 08/01/2019 của TAND

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lăng Đức T (sinh năm 1996) là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề

nghiệp. Khoảng 07 giờ ngày 04/10/2018, T đem theo một thanh kim loại hình

chữ L đi lang thang ở khu vực khu phố 3, phường Trảng Dài để tìm tài sản

36

của người khác để sơ hở thì lấy trộm, khi đi ngang qua dãy nhà trọ của bà

Nguyễn Thị H địa chỉ tổ 34, khu phố 3, phường T, thành phố B, T thấy dãy

trọ không có người, liền lén lút sử dụng thanh sắt hình chữ L đem theo phá

khóa cửa phòng trọ số 5 do chị Thân Thị Trà M, sinh năm 1995, hộ khẩu

thường trú xã H, huyện V, tỉnh B thuê trọ, rồi đột nhập vào bên trong trộm

cắp tài sản.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 349/TCKH-HĐĐG ngày 12/10/2018

của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa kết

luận: 01 ba lô màu xanh, 01 máy tính xách tay hiệu Asus Modell X4414, 01

chuột máy tính hiệu Genius, 01 chuột máy tính màu trắng hiệu Elecom, 01 sạc

máy tính xách tay hiệu Asus modell AD883020, 01 điện thoại di động hiệu

Samsung Modell SM G351H, 01 bóp da màu đen có tổng giá trị định giá là

8.477.000 đồng (tám triệu bốn trăm bảy mươi bảy nghìn đồng).

* Trong vụ án này, TAND thành phố Biên Hòa đã căn cứ quyết định

hình phạt như sau:

- Giá trị tài sản mà Lăng Đức T đã trộm cắp. Tổng giá trị tài sản mà T

trộm cắp của chị M là 11.477.000 đồng (mười một triệu bốn trăm bảy mươi

bảy nghìn đồng). Hành vi của bị cáo Lăng Đức T đã cấu thành tội “Trộm cắp

tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

- Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS:

+ Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, tỏ thái độ ăn năn, hối

cải, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ nêu tại điểm s khoản 1 Điều

51 BLHS;

+ Tổng tài sản mà bị cáo chiếm đoạt chỉ có giá trị là 11.477.000 đồng.

Đây là số tài sản giá trị không lớn và đã được thu hồi trả cho người bị hại, vì

vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 Điều

51 BLHS;

37

+ Đây là trường hợp phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm

trọng, nên bị cáo cũng được hưởng tình tiết quy định tại điểm i khoản 1 Điều

51 BLHS. Hơn nữa bị cáo là người dân tộc thiểu số có trình độ hiểu biết hạn

chế nên cũng là tình tiết theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm

nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Căn cứ vào các lý do trên đây khi quyết định hình phạt, TAND thành

phố Biên Hòa đã quyết định: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s, h, i khoản 1,2

Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lăng Đức T phạm tội “trộm cắp tài

sản”. Xử phạt: Bị cáo Lăng Đức T: 12 (mười hai) tháng tù.

Như vậy, trong vụ án này, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã xem

xét một cách đầy đủ toàn diện, đúng pháp luật về các căn cứ của BLHS, căn

cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn

cứ vào nhân thân người phạm tội, và căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng

nặng TNHS để xét xử và quyết định hình phạt đúng pháp luật, tương xứng với

tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của T.

- Quyết định hình phạt theo khung tăng nặng (tại khoản 2 Điều 173)

Ví dụ 8: Bản án số: 55/2019/HS-ST, Ngày: 24/01/2019 của TAND

thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 45 phút ngày 17 tháng 10 năm 2018, Đinh Thái Đ điều

khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 60B2-415.48 đi từ thành

phố H về huyện T tỉnh Đ, khi đi ngang nhà anh Nguyễn Xuân T tại địa chỉ số

464/8, khu phố 5B, phường T, thành phố B, thấy không có người trông coi

nên Đ liền dựng xe môtô 60B2-415.48 bên ngoài rồi lén lút đi vào trong

phòng ngủ nhà anh T lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia M5

màu trắng của anh T đang sạc pin để trên giường rồi tẩu thoát thì bị anh T

phát hiện, tri hô cùng người dân bắt giữ Đ giao cho Công an phường T.

38

Tiền án:

- Ngày 24/8/2010, Đ bị Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh B xử phạt 09

tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm

1999, Đ chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/02/2011.

- Ngày 05/5/2012, Đ bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh B xử phạt 01

năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm

1999, Đ chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/1/2013.

- Ngày 18/8/2013, Đ bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ xử phạt 02

năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật hình

sự năm 1999, Đ chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/9/2015.

- Ngày 10/3/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 03

năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm

1999, Đ chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/8/2018.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 377 ngày 29/10/2018 của Hội đồng

định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: “01 (một) điện thoại di động

hiệu Sony Xperia M5 đã qua sử dụng, chất lượng còn lại 50%, trị giá

3.495.000 đồng (ba triệu bốn trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

* Trong vụ án này, TAND thành phố Biên Hòa đã căn cứ quyết định

hình phạt như sau:

- Về căn cứ vào các quy định của BLHS:

+ Giá trị tài sản là đối tượng của tội trộm cắp: Đinh Thái Đ đã có hành

vi trộm cắp của anh Nguyễn Xuân T 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia

M5 màu trắng, số Imei: 352191073669369, trị giá 3.495.000 đồng (ba triệu

bốn trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về căn cứ vào nhân thân người phạm tội:

39

Bị cáo có nhiều tiền án, đã tái phạm, chưa được xóa án tích nay lại tiếp

tục phạm tội nên trường hợp phạm tội của bị cáo là trường hợp tái phạm nguy

hiểm theo điểm b khoản 2 Điều 53 BLHS. Vì vậy đối chiếu với quy định của

Điều 173 BLHS thì hành vi của bị cáo thỏa mãn tình tiết định khung là “tái

phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm

2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Về căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS:

Mặc dù hành vi của bị cáo thỏa mãn tình tiết định khung là “tái phạm

nguy hiểm” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015, sửa

đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối

cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s Điều 51 BLHS; Hành vi

phạm tội của bị cáo chưa gây thiệt hại; tài sản đã thu hồi và trả cho người bị

hại nên bị cáo được hưởng tình tiết quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51

BLHS.

Căn cứ vào các lý do trên đây khi quyết định hình phạt, TAND thành

phố Biên Hòa đã quyết định: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Thái Đ phạm

tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173;

điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung

năm 2017. Xử phạt: Đinh Thái Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù

tính từ ngày 17/10/2018.

Như vậy, TAND thành phố Biên Hòa khi quyết định hình phạt đã xem

xét đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật, các yếu tố khách quan của

vụ án để đưa ra quyết định hình phạt đúng quy định pháp luật, đúng người

đúng tội, đảm bảo chính sách khoan hồng của nhà nước.

Thực tiễn xét xử các vụ phạm tội trộm cắp tài sản tại TAND thành phố

Biên Hòa chủ yếu là các vụ phạm tội ít ngiêm trọng và phạm tội nghiêm trọng

40

quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 138 BLHS năm 1999 và khoản 1 và

khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015.

2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc, sai lầm trong quyết định hình phạt

đối với tội trộm cắp tài sản tại thành phố Biên Hòa

Số liệu thống kê tại Bảng 2.4 (phần phụ lục) cho thấy, trong số 17 bản án

của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử tội trộm cắp tài sản giai

đoạn 2018-2019 bị kháng cáo, kháng nghị thì có 07 bản án bị sửa hình phạt

(chiếm tỷ lệ 41,17%), trong đó có 06 bản án được cấp phúc thẩm chuyển từ

hình phạt tù sang hình phạt tù cho hưởng án treo, chiếm tỷ lệ 35,29% tổng số

vụ án bị kháng cáo, kháng nghị và chiếm 85,71% trong tổng số vụ án bị sửa

về hình phạt. Điều này cho thấy một thực tế là TAND thành phố Biên Hòa đã

rất hạn chế cho bị cáo hưởng án treo mặc dù Nghị quyết số 02/2018/NQ-

HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao đã hướng dẫn rất chi tiết, cụ thể về việc áp dụng Điều 65 BLHS.

Án treo là chế định mang tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, đồng

thời để giảm bớt số lượng người chấp hành án tại các cơ sở cải tạo. Tuy nhiên

trên thực tế vì nhiều lý do, TAND thành phố Biên Hòa đã rất hạn chế cho bị

cáo hưởng án treo, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người được hưởng án

treo khi họ đủ điều kiện theo luật định.

Nghiên cứu các vụ án được Tòa án cấp phúc thẩm sửa hình phạt tù thành

hình phạt tù cho hưởng án treo, có thể thấy một số hạn chế sau đây:

- TAND thành phố Biên Hòa chưa vận dụng triệt để các điều kiện để cho

bị cáo hưởng án treo theo đúng hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2018/NQ-

HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao

Ví dụ 9: Bản án số: 352/2019/HS-PT, Ngày: 08/11/2019 của TAND

tỉnh Đồng Nai.

41

Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 16/02/2019, Trần Thị Ngọc T đi xe đạp đến nhà ông

Võ Trí M, sinh năm 1958 (trú tại khu phố E, phường N, thành phố B, tỉnh

Đồng Nai) để giúp việc gia đình. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, T đi lên lầu 3

để lấy rác thì phát hiện trong phòng để máy tính thanh lý không đóng cửa nên

đã trộm cắp một chiếc láp tốp nhãn hiệu HP Probook 450G3, số seri:

5CD61212DL và một sợi dây sạc pin máy tính. Tại kết luận định giá tài sản

số: 44/TCKH-HĐĐG, ngày 28/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành

phố Biên Hòa kết luận: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probook 450G3,

số seri: 5CD61212DL và một sợi dây sạc bin của máy tính có tổng giá trị định

giá là 6.578.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 294/2019/HS-ST, ngày 05 tháng 7 năm

2019 của TAND dân thành phố Biên Hòa đã tuyên bị cáo T phạm tội “Trộm

cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật

hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt: Bị cáo Trần Thị

Ngọc T 06 (sáu) tháng tù. Bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Bản án phúc thẩm số 352/2019/HS-PT ngày 08/11/2019 của TAND tỉnh

Đồng Nai (29.11.2019) đã chấp nhận kháng cáo. HĐXX áp dụng khoản 1

Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP,

ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, xử phạt:

Bị cáo Trần Thị Ngọc T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội

“Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án

phúc thẩm. Trong vụ án này, mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị

cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: bị cáo chưa

có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít

nghiêm trọng; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; thành khẩn khai báo, ăn năn

42

hối cải. Do đó, Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 tháng tù là có căn cứ pháp

luật. Tuy nhiên, tại Tòa án cấp sơ thẩm chưa khai thác hết các tình tiết giảm

nhẹ của bị cáo, như gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vợ chồng đã ly

thân, bị cáo là lao động chính trong gia đình phải nuôi 02 con (con lớn bị rối

loạn hỗn hợp về hành vi và cảm xúc không biệt định nên không làm việc

được, con nhỏ đang học đại học), phải nuôi cha mẹ đang bị bệnh, bản thân bị

cáo hiện nay cũng đang có bệnh. Như vậy, bị cáo là người có nhân thân tốt,

hoàn cảnh thật sự khó khăn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết

tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần thiết phải

cách ly ra khỏi xã hội mà nên giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị

cáo cư trú giám sát, giáo dục là cũng đủ nghiêm, tạo điều kiện cho bị cáo lao

động, chăm sóc, nuôi dưỡng các con và cha mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử phúc

thẩm đã chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo

hình phạt 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo để thể hiện sự khoan hồng của

pháp luật.

Ví dụ 10: Bản án số 333/2019/HS-ST ngày 23/7/2019 của TAND

thành phố Biên Hòa

Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng 14 giờ ngày 11/01/2019, Trần Thị Nh

mượn chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60C2-366.70 của Nguyễn

Phước H là chồng sắp cưới của chị Võ Tiểu Y để đi làm thẻ Ngân hàng. Trên

đường đi, Nh phát hiện chìa khóa xe của H có móc thêm chìa khóa phòng trọ

số 2, địa chỉ: 65H, tổ 9, khu phố 3, phường A, thành phố Biên Hòa nên Nh đã

điều khiển xe đến phòng trọ trên dùng chìa khóa mở cửa đột nhập, lục soát

trộm cắp được 2.000.000đ (hai triệu đồng) của chị Y; 01 thẻ Ngân hàng

VPBank, 01 chứng minh nhân dân của bà Tăng Thị Ngh. Sau đó Nh điều

khiển xe mô tô đến trụ ATM tại số 30/6, khu phố 1, phường Tam Hòa, thành

phố Biên Hòa nhập mật khẩu một lần là 6666 không được, nhập lần hai là

43

7777 thì đúng mật khẩu và rút toàn bộ số tiền 4.800.000đ (bốn triệu támtrăm

nghìn đồng), sau đó đem số tiền 6.800.000đ (sáu triệu tám trăm nghìn đồng)

trộm cắp được về phòng cất giấu. HĐXX sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều

173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt

Trần Thị Nh 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn tù tính từ

ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

Bản án phúc thẩm số: 363/2019/HS- PT, ngày: 13/11/2019 đã chấp nhận

kháng cáo, tuyên phạt Nh 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, với thời gian

thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm

Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm đã vận dụng điểm h, i, s khoản 1,

khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 173 BLHS xử phạt bị cáo 06 (sáu) tháng tù,

về nguyên tắc là phù hợp. Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm chưa cho bị cáo hưởng

tình tiết "Người phạm tội đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục toàn

bộ hậu quả" (điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS). Như vậy, đây là trường hợp bị

cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm

nhẹ quy định tại các điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, Tòa án

cấp sơ thẩm cũng chưa xem xét các tình tiết khác, như bị cáo có hoàn cảnh

khó khăn, là lao động chính trong gia đình, có con còn nhỏ, hiện nay bị cáo

có nơi cư trú rõ ràng, công việc ổn định. Theo hướng dẫn của Nghị quyết số

02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018, của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

dân Tối cao, trường hợp này hoàn toàn không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi

xã hội mà nên giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú

quản lý, giáo dục là cũng đủ răn đe, cũng như thể hiện được chính sách nhân

đạo của pháp luật đối với người đã biết ăn năn hối cải.

Ví dụ 11: Bản án hình sự sơ thẩm số 348/2018/HSST ngày

03/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

44

Tóm tắt nội dung vụ án: Phạm Thị Y và anh Đỗ Tất P cùng làm công

nhân tại Công ty Taekwang thuộc Khu công nghiệp Long Bình nên có quen

biết và phát sinh quan hệ tình cảm. Khoảng 21 giờ, ngày 18/4/2018, anh P đến

phòng trọ của Y. Tại đây, lợi dụng lúc anh P say rượu đi ngủ, Y đã lén lút

trộm cắp xe môtô 36B5-960.41 cùng giấy đăng ký xe đem đến tiệm cầm đồ

Văn D tại ấp 2, xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai bán được

10.000.000đ (Mười triệu đồng) rồi Y đón xe về quê Vĩnh Phúc.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 153/TCKH-HĐĐG ngày 04-6-2018

của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa đã kết luận: “01 (một)

chiếc xe mô tô biển số 36B5-960.41 hiệu Future có giá trị tài sản định giá là

26.550.000đ (Hai mươi sáu triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng)”.

Bản án hình sự sơ thẩm số 348/2018/HSST đã áp dụng khoản 1 Điều

173; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 BLHS 2015, tuyên bị cáo Phạm Thị

Y phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo 10 (mười) tháng tù.

Bản án phúc thẩm số 68/2019 ngày 06/03/2019 của TAND tỉnh Đồng

Nai chấp nhận kháng cáo, sửa bản án là 10 (mười) tháng tù, cho hưởng án

treo, ấn định thời gian thử thách là 20 tháng.

Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm cũng chưa cho bị cáo hưởng tình

tiết "Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả"

vì Y đã tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền 21.550.000đ (Hai mươi mốt

triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) cho bị hại Đỗ Tất P (điểm b khoản 1

Điều 51 BLHS). Hơn nữa, bị cáo có ông nội là ông Phạm Thanh S được tặng

huy chương kháng chiến, bị cáo hiện nay đang là lao động chính để nuôi con

dưới 36 tháng tuổi. Như vậy, đây là trường hợp bị cáo bị xử phạt tù không

quá 03 năm, bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, i, s khoản

1 Điều 51 và các tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS,

không có tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 BLHS; bị cáo có nhân

45

thân tốt, nơi cư trú cụ thể rõ ràng. Đối chiếu với hướng dẫn tại Nghị quyết

02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao, đây là trường hợp hoàn toàn không cần thiết phải bắt bị cáo chấp

hành hình phạt tù do bị cáo hoàn toàn có khả năng tự cải tạo và việc cho bị

cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên việc cho bị cáo hưởng án treo là hoàn

toàn phù hợp.

- Vận dụng chưa đúng tình tiết tình tiết tăng nặng định khung

Đáng chú ý, trong số các bản án sơ thẩm của TAND thành phố Biên Hòa

xét xử về tội trộm cắp tài sản bị kháng cáo, có 01 vụ án trong đó Tòa án cấp

sơ thẩm đã vận dụng chưa đúng tình tiết tăng nặng định khung dẫn đến quyết

định hình phạt không đúng cho bị cáo.

Ví dụ 12: bản án hình sự sơ thẩm số: 405/2019/HS-ST ngày

05/9/2019 của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 03/05/2019, Huỳnh Tấn T đi bộ qua cửa

hàng mua bán xe đạp điện ở tại khu phố T, phường T1, thành phố Biên Hòa

thì T nhìn thấy cửa hàng không có ai trông coi nên đã lén lút đi vào trong lấy

trộm một chiếc xe đạp điện hiệu AZI Bike (BMX).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 146/TCKH-HĐĐG ngày 07/5/2019

đối với 01 một chiếc xe đạp điện hiệu AZI (BMX) có giá trị là 7.100.000

đồng (bảy triệu một trăm nghìn đồng).

Tại bản án sơ thẩm số 405/2019/HS-ST ngày 05/9/2019 của Tòa án nhân

dân thành phố Biên Hòa đã áp dụng điểm g, khoản 2, Điều 173; điểm h, s,

khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

xử phạt Huỳnh Tấn T 03 (ba) năm tù.

46

Ngày 03/10/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai

kháng nghị đề nghị xét xử bị cáo Huỳnh Tấn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo

khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và áp

dụng hình phạt tương xứng.

Bản án số 395/2019/HS-PT ngày 22/11/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai

chấp nhận kháng cáo, áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS, sửa hình phạt từ 3

năm tù thành hình phạt 1 năm 6 tháng tù.

Trong vụ án này, bị cáo Huỳnh Tấn T trước đây đã bị xét xử bằng Bản

án Hình sự sơ thẩm số 534/2016/HSST ngày 09/9/2016 của Tòa án nhân dân

thành phố Biên Hòa, tuyên bị cáo Huỳnh Tấn T phạm tội "Tàng trữ trái phép

chất ma túy, áp dụng khoản 1 Điều 194, Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 "

Miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Huỳnh Tấn T". Ngày 21/01/2018, bị cáo

lại bị xét xử bằng Bản án Hình sự sơ thẩm số 16/2018/HSST của Tòa án nhân

dân quận Thủ Đức thành phố Hồ Chí Minh, áp dụng khoản 1, điều 138, điểm

g, p khoản 1 điều 46, điểm g khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 xử

phạt bị cáo Huỳnh Tấn T 01 năm 06 tháng tù về tội "trộm cắp tài sản".

Trong trường hợp này, Tòa án sơ thẩm cho rằng, ngày 03/5/2019, bị cáo

T thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe đạp điện hiệu AZI Bike (BMX), thì đây

thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm g khoản 1, Điều 173

BLHS là không chính xác. Bởi vì trong Bản án Hình sự sơ thẩm số

534/2016/HSST ngày 09/9/2016 của TAND thành phố Biên Hòa, bị cáo được

miễn hình phạt. Như vậy theo quy định tại khoản 1 Điều 64 bộ luật hình sự

năm 1999 thì trường hợp này Huỳnh Tấn T thuộc trường hợp đương nhiên

được xóa án tích. Như vậy Huỳnh Tấn T chỉ còn một án tích là Bản án Hình

sự sơ thẩm số 16/2018/HSST ngày 21/01/2018 của TAND quận Thủ Đức

thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 03/5/2019, bị cáo Huỳnh Tấn T phạm tội

"Trộm cắp tài sản" là thuộc trường hợp "tái phạm" chứ không phải là "Tái

47

phạm nguy hiểm" như nhận định trong bản án hình sự sơ thẩm số

405/2019/HSST ngày 05/9/2019 của TAND thành phố Biên Hòa đã áp dụng

tình tiết định khung "tái phạm nguy hiểm" quy định tại điểm g khoản 2 Điều

173 bộ luật hình sự. Như vậy việc Tòa án sơ thẩm áp dụng tình tiết định

khung "Tái phạm nguy hiểm" cho T là không chính xác, vi phạm nghiêm

trọng việc áp dụng pháp luật.

2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, sai lầm trong định

tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Những hạn chế vướng mắc, sai lầm trong định tội danh và quyết định

hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai nói trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:

Thứ nhất là hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hình sự, vụ thể

là trong BLHS hiện hành, một số tội danh được nhà làm luật định nghĩa rõ

ràng, nhưng một số tội danh lại chỉ nêu tên tội danh mà không định nghĩa. Tội

trộm cắp tài sản thuộc loại tội mà nhà làm luật chỉ nêu tên tội danh mà không

định nghĩa. Chính vì không định nghĩa trong BLHS nên các chủ thể có thẩm

quyền không có căn cứ để vận dụng. Mặt khác, BLHS năm 2015, sửa đổi năm

2017 đã bổ sung 03 tình tiết mới là các tình tiết định tội trong trường hợp tài

sản bị trộm cắp dưới 2 triệu đồng tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều 173

BLHS. Tuy nhiên, các tình tiết này, nhất là tình tiết quy định tại điểm c khoản

1 Điều 173 BLHS "Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội"

là tình tiết còn nhiều cách hiểu trong thực tiễn mà chưa có văn bản hướng

dẫn.

Nguyên nhân thứ hai là việc nhận thức các quy định pháp luật hình sự

còn chưa thống nhất. Để bảo đảm định tội danh đúng và QĐHP chính xác,

bên cạnh việc hoàn thiện quy định của BLHS và tăng cường hướng dẫn áp

dụng pháp luật thì việc nâng cao nhận thức chính xác về các quy phạm pháp

48

luật hình sự là một trong các giải pháp quan trọng. Định tội danh và quyết

định hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật của những con người cụ thể, là

hoạt động thực tiễn, thông qua nhận thức, tư duy của chủ thể áp dụng pháp

luật, vì vậy yếu tố con người đóng vai trò then chốt. Luật có hoàn thiện đến

mấy, hướng dẫn áp dụng có cụ thể đến mấy, như bản thân người áp dụng hiểu

không đúng, không chính xác theo tinh thần của điều luật thì không thể định

tội danh đúng và QĐHP chính xác được. Việc nâng cao hiểu biết chính xác về

các quy phạm pháp luật về tội “Trộm cắp tài sản” sẽ tạo điều kiện cho hoạt

động áp dụng pháp luật được thực hiện chính xác và có hiệu quả; đảm bảo

tính thống nhất và tính pháp chế trong việc áp dụng pháp luật.

Nguyên nhân thứ ba là việc tổng kết thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản

chưa được thực hiện thường xuyên. Thực tiễn xét xử luôn nảy sinh vô vàn các

tình huống phức tạp khác nhau. Có thể nói, không có vụ án nào là không phát

sinh những vướng mắc, bất cập, khó khăn trong định tội danh và quyết định

hình phạt. Bản chất của định tội danh và QĐHP là hoạt động nhận thức của

các chủ thể, đây là hoạt động vô cùng phức tạp đòi hỏi không chỉ kiến thức

mà cả kỹ năng, thái độ, đạo đức, nhân cách của người áp dụng pháp luật. Để

bảo đảm định tội danh đúng và QĐHP chính xác, bảo đảm công bằng xã hội,

đòi hỏi những người áp dụng pháp luật phải thường xuyên trau dồi nghiệp vụ,

nâng cao hiểu biết. Chính vì vậy, việc tổng kết thực tiễn chính là tổng kết

những bài học kinh nghiệm, những tình huống điển hình là những cẩm nang

không thể thiếu trong hành trang của những người áp dụng pháp luật. Tổng

kết thực tiễn, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm sẽ không chỉ mang lại những hiểu

biết, làm phong phú thêm nhận thức về thực tiễn khách quan mà còn là dịp để

nâng cao ý thức, thái độ, kỹ năng, bản lĩnh nghề nghiệp. Có thể nói, chỉ khi có

bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, không sợ trách nhiệm thì những chủ thể áp

dụng pháp luật mới mạnh dạn, sáng tạo trong áp dụng pháp luật, vận dụng hết

49

các nguyên tắc, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước để

bảo đảm định tội danh đúng, quyết định hình phạt chính xác, góp phần bảo

đảm công bằng xã hội, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hình sự, từ

đó góp phần quan trọng trong bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Nguyên nhân thứ tư là năng lực của đội ngũ cán bộ, người tiến hành tố

tụng vẫn còn có những hạn chế nhất định cả về trình độ chuyên môn nghiệp

vụ và đạo đức nghề nghiệp của điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2, tác giả đã đưa ra và phân tích những nội dung thuộc về

mặt thực tiễn trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt theo quy

định của PLHS Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu thực trạng việc áp dụng

pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai. Qua đó cho thấy thực tiễn hoạt động định tội danh và quyết định

hình phạt đối với tội TCTS trên địa bàn thành phố Biên Hòa đã được Tòa án

(HĐXX) thực hiện tương đối tốt. Đã áp dụng đầy đủ các quy định của BLHS,

Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn liên quan để định tội danh và quyết

định hình phạt. Tỉ lệ án bị kháng cáo, án kháng nghị rất ít; việc cải sửa của

cấp phúc thẩm ít, chủ yếu là xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo hưởng án

treo. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn

chế, bất cập trong việc định tội danh và áp dụng hình phạt đối với tội TCTS.

Những tồn tại, bất cập, hạn chế này đã được thể hiện trong luận văn

thông qua các vụ án cụ thể. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó chủ

yếu là do cách nhận thức, hiểu các quy định của pháp luật nói chung và pháp

luật về tội trộm cắp nói riêng chưa được thống nhất; hiểu sai tinh thần của

điều luật, dẫn đến việc áp dụng quy định của pháp luật để định tội danh và

quyết định hình phạt chưa chính xác.

50

Chương 3

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH

TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP

TÀI SẢN TẠI TAND THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

3.1. Yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tội trộm cắp

tài sản

3.1.1. Yêu cầu của việc bảo vệ quyền con người

Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền công dân ở

chương II với 35 điều luật từ Điều 14 đến Điều 49. Như vậy, thừa nhận các

quyền tự nhiên không thể tước đoạt của con người, pháp luật Việt Nam ghi

nhận chúng thành các quyền hiến định. Một hệ thống các đảm bảo và các cơ

chế bảo vệ quyền con người cũng được quy định chặt chẽ trong pháp luật, đặc

biệt là quyền sở hữu được pháp luật bảo hộ (bảo vệ bằng tòa án, bảo vệ bằng

cơ quan hành chính nhà nước, bảo vệ thông qua giám sát, v.v…) [47, tr.30]

Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 quy định rõ nhiệm vụ bảo

vệ " quyền con người, quyền công dân, … chống mọi hành vi phạm tội; giáo

dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội

phạm" (Điều 1). Như vậy, Pháp luật là công cụ rất quan trọng của Nhà nước

trong việc thực hiện bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền sở hữu. Chính vì

vậy áp dụng pháp luật để định tội danh và quyết định hình phạt đúng đã nâng

cao hiệu quả điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hình sự. Từ đó giúp nâng

cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân, tổ

chức trong xã hội.

Yêu cầu bảo vệ quyền con người cũng đề cập đến việc tăng cường bảo

vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Khoản 1 Điều 31 Hiến

pháp năm 2013 quy định "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến

khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án

51

đã có hiệu lực pháp luật." Bộ luật TTHS năm 2015 đã chính thức ghi nhận

nguyên tắc suy đoán vô tội tại Điều 13. Việc thừa nhận nguyên tắc suy đoán

vô tội trong tố tụng hình sự là phù hợp quan điểm xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đã thể hiện rõ nét trong Hiến pháp

2013. Hiến pháp 2013 của Việt Nam đã quy định những điểm rất mới phù hợp

với tiêu chuẩn của nhà nước pháp quyền như: khẳng định nhà nước pháp

quyền phải ghi nhận đầy đủ và cam kết bảo vệ quyền con người trong đó có

quyền con người trong TTHS; quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp có

nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người… Việc quy định nguyên

tắc suy đoán vô tội là sự cụ thể hóa tinh thần đó của Hiến pháp 2013 trong

lĩnh vực TTHS.

3.1.2. Yêu cầu của việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do

nhân dân vì nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền đã được Đảng và Nhà

nước xem là mục tiêu quan trọng trong công cuộc đổi mới. Đến nay hệ thống

pháp luật đã được hoàn thiện dần, đáp ứng những yêu cầu trước mắt.

Từ đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Muốn xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN thì bên cạnh việc tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ

quan CSĐT, VKSND, Tòa án cũng cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật,

tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi

nhất cho hoạt động áp dụng pháp luật thống nhất trong phạm vi cả nước.

3.1.3. Yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp hình sự

Trong thời gian qua, công tác cải cách tư pháp đã đạt được nhiều kết quả

tích cực. Tuy nhiên, công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Các chính

sách về PLHS, Tổ chức bộ máy, Cơ sở vật chất, Đội ngũ cán bộ tư pháp còn

nhiều hạn chế.

52

Thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Tuy nhiên, việc chỉ đạo thực hiện một số

nhiệm vụ cải cách tư pháp vẫn còn chậm, chưa theo đúng lộ trình của Chiến

lược cải cách tư pháp.

Để khắc phục tình trạng nêu trên thì việc đẩy mạnh tổng kết Nghị quyết

49-NQ/TW và đưa ra các giải pháp mới theo yêu cầu thực tiễn cuộc sống là

việc làm rất cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt

chính xác đối với tội trộm cắp tài sản tại TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh

Đồng Nai

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và

khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS

Việc định tội danh đúng và quyết định hình phạt chính xác phụ thuộc rất

lớn vào các quy định của pháp luật hình sự. Các quy định của PLHS càng cụ

thể, rõ ràng thì càng giúp các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật hiểu

một cách đầy đủ, chính xác, thống nhất các quy định đó thể vận dụng đúng

trong thực tiễn áp dụng. Chính vì vậy, hoàn thiện PLHS và khẩn trương ban

hành văn bản hướng dẫn thi hành BLHS chính là giải pháp đầu tiên để bảo

đảm định tội danh đúng và QĐHP chính xác đối với tội TCTS.

- Cần bổ sung định nghĩa về tội trộm cắp tài sản trong BLHS

Như trong chương 1 đã phân tích, trong BLHS hiện hành, một số tội

danh được nhà làm luật định nghĩa rõ ràng, nhưng một số tội danh lại chỉ nêu

tên tội danh mà không định nghĩa. Tội trộm cắp tài sản thuộc loại tội mà nhà

làm luật chỉ nêu tên tội danh mà không định nghĩa. Chính vì không định nghĩa

trong BLHS nên các chủ thể có thẩm quyền không có căn cứ để vận dụng.

Thực tiễn các chủ thể có thẩm quyền chủ yếu dựa vào các định nghĩa tội trộm

cắp tài sản trong các tài liệu khoa học, chủ yếu trong các giáo trình của các cơ

53

sở đào tạo. Tuy nhiên, như đã phân tích, mỗi cơ sở đào tạo lại có các định

nghĩa không hoàn toàn giống nhau. Điều này dẫn đến cách hiểu không giống

nhau, gây khó khăn cho thực tiễn định tội danh. Những vấn đề gây tranh cãi

nhất trong định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu "lén lút". Đây

chính là dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội công

nhiên chiếm đoạt tài sản. Đây cũng là vướng mắc trong thực tiễn định tội

danh trong vụ án Phạm Thị Y chiếm đoạt chiếc xe môtô 36B5-960.41 cũng

giấy đăng ký xe của anh Đỗ Tất P (là người tình của Y) (Bản án hình sự sơ

thẩm số 348/2018/HSST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố

Biên Hòa ). Hành vi lợi dụng lúc anh P say rượu đi ngủ, Y đã lục ví anh P để

lấy giấy tờ xe và chiếm đoạt chiếc xe là hành vi được các cơ quan tiến hành tố

tụng tranh luận nhiều nhất để xác định có hay không có dấu hiệu lén lút. Đã

có quan điểm cho rằng, trường hợp này, vì anh P và chị Y là người tình của

nhau nên ngay cả trong lúc Y đang dắt xe ra khỏi nhà, anh P có tỉnh dậy thì

cũng không nghĩ rằng Y đang chiếm đoạt xe của mình. Mặt khác, hành vi

chiếm đoạt của Y lại xảy ra ngay tại nhà Y, trong lúc anh P đến thăm Y.

Chính vì vậy, việc định nghĩa rõ nội hàm của tội trộm cắp tài sản sẽ có ý

nghĩa quan trọng, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có đầy đủ căn cứ pháp lý

để định tội danh cũng như tạo thuận lợi cho việc nhận thức và vận dụng thống

nhất trong phạm vi cả nước.

Thực tiễn xét xử các tội trộm cắp tài sản cho thấy, tội trộm cắp tài sản có

một số đặc trưng như sau:

Thứ nhất, thủ đoạn phạm tội trộm cắp trong tuyệt đại đa số các trường

hợp đều thuộc một trong hai thủ đoạn sau:

- Lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của người chủ tài sản hoặc người

quản lý tài sản. Ví dụ: Lợi dụng lúc hành khách ngủ gật trên tàu, xe, … để

móc túi, lục đồ hoặc lợi dụng lúc không có người trông coi để lấy tài sản,

54

hoặc lợi dụng tình trạng nhà cửa không khóa, không có người trông giữ để lẻn

vào lấy tài sản.

- Cố ý tạo ra sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu hoặc người quản lý

tài sản. Ví dụ: giả va chạm giao thông, giả vờ gây lộn, đánh nhau, giả vờ nói

xe ô tô thủng lốp...

Thứ hai, sau khi sử dụng các thủ đoạn trên, người phạm tội thực hiện

hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản. Như vậy, dấu hiệu lén lút chỉ phản ánh ý

thức chủ quan của người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

Nghĩa là, khi chiếm đoạt tài sản, ý thức chủ quan của người phạm tội cho rằng

người chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản không biết được hành vi chiếm

đoạt của mình đang thực hiện.

Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa tội trộm cắp tài sản như

sau:

Người nào dùng thủ đoạn lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác hoặc tạo ra

sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu hoặc của người quản lý tài sản mà

lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng thì ….

- Khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn một số tình tiết trong cấu

thành tội trộm cắp tài sản

BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 đã bổ sung 03 tình tiết mới là các

tình tiết định tội trong trường hợp tài sản bị trộm cắp dưới 2 triệu đồng tại các

điểm c, d và đ khoản 1 Điều 173 BLHS. Tuy nhiên, các tình tiết này, nhất là

tình tiết quy định tại điểm c khoản 1 Điều 173 BLHS "Gây ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội" là tình tiết còn nhiều cách hiểu trong thực

tiễn.

Trước hết thế nào là "an ninh, trật tự, an toàn xã hội" là một khái niệm

mà cho đến nay chưa được định nghĩa trong bất kỳ văn bản luật nào. Luật

Công an nhân số 37/2018/QH14 mới ban hành cũng hoàn toàn không có định

55

nghĩa về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, mặc dù khoản 2 Điều 2 của Luật có

định nghĩa "Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là phòng ngừa, phát hiện, ngăn

chặn, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã

hội". Luật cũng quy định trách nhiệm của Chính phủ và Bộ, ngành trung ương

đối với hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, …

tại Điều 12 nhưng hoàn toàn không định nghĩa về an ninh, trật tự, an toàn xã

hội. Chính vì không có định nghĩa thế nào là an ninh, trật tự, an toàn xã hội

nên khái niệm "Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội" cũng

là một khái niệm mà nội hàm của nó cần phải được làm rõ. Thực tiễn ở thành

phố Biên Hòa đã có vụ án người phạm tội do nghiện hút, cần tiền để mua ma

túy nên trong một thời gian ngắn gây ra rất nhiều vụ trộm cắp tài sản. Mặt dù

giá trị tài sản trộm cắp là không lớn, nhưng hành vi của bị cáo cũng gây ra

những lo lắng trong xã hội và do vậy cũng có ảnh hưởng đến an ninh, trật tự,

an toàn xã hội. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng như thế nào là "xấu" thì đây là

một vấn đề nhất thiết phải được làm rõ. BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017

đã bỏ được tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" trong cấu thành cơ bản của

tội trộm cắp tài sản, tuy nhiên lại bổ sung tình tiết "Gây ảnh hưởng xấu đến

an ninh, trật tự, an toàn xã hội" là một tình tiết cũng gây nhiều khó khăn

trong thực tiễn xét xử. Ví dụ, như trong Ví dụ 8 Bản án số: 55/2019/HS-ST,

Ngày: 24/01/2019 của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử

Đinh Thái Đ phạm tội trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia M5

màu trắng của anh Nguyễn Xuân T. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội

này, Đ đã thực hiện rất nhiều hành vi phạm tội:

- Ngày 24/8/2010, Đ bị Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh B xử phạt 09

tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm

1999, Đ chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/02/2011.

56

- Ngày 05/5/2012, Đ bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh B xử phạt 01

năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm

1999, Đ chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/1/2013.

- Ngày 18/8/2013, Đ bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ xử phạt 02

năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật hình

sự năm 1999, Đ chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/9/2015.

- Ngày 10/3/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 03

năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm

1999, Đ chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/8/2018.

Mặc dù hành vi của Đ là không liên tục, tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, vì

các lần trộm cắp này Đ đều bị phát hiện, bắt giữ và xét xử nên không còn điều

kiện để thực hiện tiếp các hành vi phạm tội. Nếu không bị bắt, chắc chắn Đ sẽ

liên tục thực hiện hành vi trộm cắp. Vậy trường hợp này có "Gây ảnh hưởng

xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội" không?

Theo học viên, để bảo đảm định tội danh đúng đối với tội trộm cắp tài

sản, Hội đồng thẩm phán TAND TC cần nhanh chóng ban hành hướng dẫn cụ

thể cho tình tiết này.

Theo học viên, cần hướng dẫn cụ thể tình tiết này như sau: Trước hết cần

làm rõ nội hàm của khái niệm “Trật tự, an toàn xã hội”. Theo đó, “Trật tự, an

toàn xã hội” là trạng thái xã hội bảo đảm trật tự, an ninh, kỉ cương, an toàn

trong đó mọi người trong xã hội luôn được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức

khỏe và các quyền, lợi ích hợp pháp khác, luôn có cuộc sống bình yên, không

phải lo lắng đến bất cứ mối nguy hại nào. Mọi người trong xã hội đều tuân

thủ triệt để các quy phạm pháp luật và tôn trọng các giá trị đạo đức. “Gây ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là các hành vi gây tác động

xấu đến trật tự, an ninh, kỉ cương, an toàn của mọi cá nhân, tổ chức trong xã

57

hội, đến mức khiến người dân cảm thấy lo lắng, bất an, ảnh hưởng đến sức

khỏe và công việc hàng ngày của họ.

Theo học viên, để có cơ sở áp dụng tình tiết này thì cần có các minh

chứng về sự "Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội", như kết

quả các cuộc họp của tổ dân phố về tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

đơn kiến nghị của tổ dân phố về việc tăng cường bảo đảm an ninh, trật tự, an

toàn xã hội hoặc các nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về mức độ an tâm về tình

hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội, … Có như vậy mới tránh được sự tùy tiện

trong áp dụng tình tiết này.

3.2.2. Tăng cường nhận thức đúng về quy phạm pháp luật

Thực tiễn QĐHP đối với vụ án Huỳnh Tấn T trộm cắp chiếc xe đạp điện

hiệu AZI Bike (BMX) trong Bản án sơ thẩm số 405/2019/HS-ST ngày

05/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa được phân tích ở trên đã

cho thấy rõ: Chính vì các cơ quan tiến hành tố tụng và đặc biệt là Hội đồng

xét xử nhận thức chưa đúng về tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm quy

định tại Điều 53 BLHS nên đã xác định sai trường hợp phạm tội của T. Nhẽ

ra, khi T bị xét xử bằng Bản án Hình sự sơ thẩm số 534/2016/HSST ngày

09/9/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa về tội "Tàng trữ trái phép

chất ma túy, theo khoản 1 Điều 194, Điều 25 BLHS năm 1999 và được "Miễn

hình phạt thì cần xác định ngay đây là trường hợp "không bị coi là có án tích"

theo quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS. Tuy nhiên HĐXX sơ thẩm vẫn coi

hành vi này của T là có án tích nên cộng với bản án Hình sự sơ thẩm số

16/2018/HSST của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức thành phố Hồ Chí Minh,

ngày 21/01/2018 xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn T 01 năm 06 tháng tù về tội "trộm

cắp tài sản" thì HĐXX coi đây là trường hợp tái phạm. Vì vậy, khi xét xử T

với hành vi trộm cắp chiếc xe đạp điện hiệu AZI Bike (BMX) trong Bản án sơ

thẩm số 405/2019/HS-ST ngày 05/9/2019, HĐXX đã coi đây là trường hợp đã

58

tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý

(quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 BLHS) để áp dụng tình tiết tăng nặng

định khung quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS tuyên phạt T 3 năm

tù. Như vậy, trường hợp này, do nhận thức chưa đúng mà HĐXX sơ thẩm đã

có sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật dẫn đến quyết định hình phạt

không đúng cho T. HĐXX phúc thẩm phải sửa lại bản án sơ thẩm, tuyên mức

hình phạt phù hợp cho T là 1 năm 6 tháng tù.

Tương tự như vậy, 06 trường hợp mà Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận

kháng cáo, sửa hình phạt của các bản án sơ thẩm của TAND thành phố Biên

Hòa từ hình phạt tù thành hình phạt tù cho hưởng án treo cũng cho thấy,

HĐXX sơ thẩm vận dụng chưa tốt Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày

15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Phân tích các vụ

án đều cho thấy, cả sáu vụ án, HĐXX đều không vận dụng hết các tình tiết

giảm nhẹ của các bị cáo, nhất là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2

Điều 51 BLHS. Khoản 2 Điều 51 BLHS đã nêu rất rõ: "Khi quyết định hình

phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ,

nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án". Đây là một quy định đòi hỏi

các chủ thể áp dụng pháp luật phải hiểu biết cặn kẽ, chính xác các quy định

của pháp luật, đồng thời, các chủ thể cũng cần nâng cao ý thức trách nhiệm,

nâng cao đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi

ích hợp pháp cho bị can, bị cáo.

3.2.3. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, người tiến hành tố tụng

- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp đói với đội ngũ cán bộ, điều tra viên, kiểm

sát viên và thẩm phán.

- Đổi mới và cải tiến công tác trao đổi, tập huấn nghiệp vụ.

3.2.5. Nâng cao ý thức xã hội

59

Nâng cao nhận thức của người dân trong việc đấu tranh phòng chống tội

phạm trong đó có tội phạm “Trộm cắp tài sản” là một trong những điều kiện

quan trọng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, điều tra nhanh chóng xác

minh, tìm ra sự thật của vụ án, truy tố đúng người, đúng tội, tránh oan sai,

đồng thời, góp phần ngăn ngừa tội phạm trong xã hội.

Do đó cần phải có giải pháp nâng cao trình độ dân trí, giải quyết công

ăn việc làm, đảm bảo an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe vật chát và tinh thần

cho nhân dân nhằm hạn chế tình hình tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài

sản nói riêng.

Tiểu kết chương 3

Từ những nội dung về lý luận và thực tiễn được phân tích đánh giá ở

chương 1 và chương 2, trong phạm vi chương 3 này, tác giả đã đưa ra các yêu

cầu và giải pháp nhằm áp dụng đúng pháp luật về tội trộm cắp tài sản, nhằm

đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trộm cắp trên địa bàn thành phố

Biên Hòa nói riêng. Đồng thời, tác giả đưa ra một số đề xuất hoàn thiện quy

định của pháp luật hình sự, cũng như kiến nghị các giải pháp trước mắt nhằm

áp dụng pháp luật được thống nhất. Bảo đảm phán quyết của Tòa án đưa ra

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

60

KẾT LUẬN CHUNG

Qua thực tiễn nghiên cứu đề tài “Trộm cắp tài sản từ thực tế thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai”, cho thấy:

Thứ nhất: Về quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản chưa rõ ràng,

chưa chặt chẽ, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng pháp luật của các cơ quan

tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chưa thống nhất, mặc dù hiện nay

đã được sửa đổi bổ sung, nhưng vẫn cần những văn bản giải thích.

Thứ hai: Về thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản vẫn

còn bộc lộ một số sơ hở, hạn chế đó là việc thu thập tài liệu, chứng cứ của

điều tra viên đôi lúc còn chậm trễ thiếu sót, chủ quan dẫn đến không đủ căn

cứ buộc tội; về trình độ nhận thức của cán bộ công chức của các cơ quan tố

tụng chưa đồng đều; về trình độ nhận thức pháp luật của một bộ phận nhân

dân còn chưa cao dẫn đến vi phạm pháp luật còn nhiều.

Tội trộm cắp tài sản là loại hình tội phạm xẩy ra rất phổ biến trong xã hội

hiện nay. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật thời gian quan, về cơ bản những

bản án đã tuyên là đúng người đúng tội, phù hợp với mức độ, tính chất nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tuy vậy, trong quá trình xét xử vẫn

còn một số điểm mà theo tôi Tòa án đã áp dụng chưa thật sự chính xác. Thiết

nghĩ, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có điều chỉnh kịp thời, hướng

dẫn cụ thể để các cơ quan chức năng áp dụng đảm bảo đúng người, đúng tội,

phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, góp phần đấu tranh một

cách có hiệu quả đối với loại tội phạm này./.

61

DANH MỤC PHỤ LỤC

Bảng 2.1. Thống kê các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản và các tội phạm

khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015-2019

Tội Trộm cắp TS Tội phạm khác

Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

2015 276 347 587 1.062

2016 228 290 576 1.071

2017 193 241 489 819

2018 204 250 407 721

2019 251 311 478 751

TC 1.152 1.439 2.537 4.424

Nguồn: TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai: Số liệu thống kê kết quả điều

tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự từ năm 2015 đến năm 2019.

Bảng 2.2. Số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm

2015 đến năm 2019

Số vụ và số bị cáo đã bị Số vụ và số bị cáo bị đưa ra

Năm khởi tố, điều tra xét xử sơ thẩm

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

2015 242 304 276 347

2016 209 266 228 290

2017 175 220 193 241

2018 179 217 204 250

2019 209 254 251 311

1.261

Nguồn: TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai: Số liệu thống kê kết quả điều tra, truy

tố, xét xử các vụ án hình sự từ năm 2015 đến năm 2019

Tổng cộng 1.152 1.439 1.014

62

Bảng 2.3. Bảng thống kê về chế tài áp dụng đối với tội Trộm cắp tài

sản trong giai đoạn từ 2015 – 2019 trên địa bàn thành phố Biên Hòa

Năm

Số vụ

Số bị cáo

Phạt tiền

Tù từ 3 năm trở xuống

Tù chung thân

Tử hình

Cải tạo không giam giữ

Cho hưởng án treo

Tù từ trên 7 năm đến 15 năm

Hình phạt được áp dụng Tù từ trên 3 năm đến 7 năm

Tù từ trên 15 năm đến 20 năm

2015

242

304

4

0

18

271

10

1

0

0

0

2016

209

266

0

2

8

220

33

3

0

0

0

2017

175

220

0

2

10

200

8

0

0

0

0

2018

179

217

0

4

12

197

2

2

0

0

0

2019

209

254

0

0

9

227

18

0

0

0

0

4

8

71

6

0

0

0

TC 1.014 1.261

57

1.115

Nguồn: TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai: Số liệu thống kê kết quả điều tra, truy

tố, xét xử các vụ án hình sự từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.4. Thống kê tình hình xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh

Đồng nai với các bản án của TAND TP Biên Hòa xét xử tội trộm cắp tài

sản bị kháng cáo, kháng nghị giai đoạn 2018-2019

BẢN ÁN SƠ THẨM TT KẾT QUẢ BẢN ÁN XÉT XỬ PHÚC THẨM

1

Bản án:số 22/2020/HS-PT ngày 10/02/2020 của TAND tỉnh Đồng Nai (13.04.2020) chấp nhận kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 446/2019/HS-ST ngày 25/9/2019 của TTAND TP Biên Hòa xử phạt Phạm Thị Mỹ L 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”

2

Bản án hình sự sơ thẩm số 446/2019/HS-ST, ngày 25/9/2019của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử Phạm Thị Mỹ L - Bản án số 22/2020/HS-PT ngày 10/02/2020 của TAND tỉnh Đồng Nai (13.04.2020), chấp nhận kháng cáo Sửa hình phạt thành 6 tháng tù cho hưởng án treo,thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm Sửa hình phạt thành 6 tháng tù cho hưởng án treo,thời gian thử thách là 12

63

tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

3

Bản án:số 352/2019/HS- PT ngày 08/11/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (29.11.2019) chấp nhận kháng cáo,

4

phạm tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS 2015, sửa đổi 2017), mức hình phạt 6 tháng tù. Bản án hình sự sơ thẩm số: 294/2019/HS-ST, ngày 05 tháng 7 năm 2019 của TTAND TP Biên Hòaxét xử Trần Thị Ngọc T phạm tội“Trộm cắp tài sản”, mức hình phạt 06 (sáu) tháng tù Bản án số 333/2019/HS- ST ngày 23/7/2019 của TTAND TP Biên Hòa xét xử Trần Thị Nh tội trộm cắp tài sản, mức hình phạt là 06 (sáu) tháng tù Bản án:số 363/2019/HSPT ngày 13/11/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (27.11.2019) chấp nhận kháng cáo,

5

Bản án hình sự sơ thẩm số 348/2018/HSST ngày 03/10/2018 của TAND TP Biên Hòa đã xử phạt bị cáo Phạm Thị Y 10 (mười) tháng tù về tội“Trộm cắp tài sản” Bản án:số 68/2019 ngày 06/03/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (14.05.2019) chấp nhận kháng cáo

Sửa hình phạt thành 6 tháng tù cho hưởng án treo,thời gian thử thách là 1 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm Sửa hình phạt thành 6 tháng tù cho hưởng án treo,thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Sửa hình phạt 10 tháng tù thành 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 20 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm

6

Bản án số 62/2020/HS-PT ngày 26/02/2020 của TAND tỉnh Đồng Nai (12.03.2020) không chấp nhận kháng cáo

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 560/2019/HS- ST ngày 25/11/2019 của TAND TP Biên Hòa

Bản án hình sựsơ thẩm số560/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử Lê Văn Tr - phạm tội trộm cắp tài sản Điều 173 BLHS 2015, sửa đổi 2017), mức hình phạt 1 năm tù

7 Bản án sơ thẩm Bản án số 395/2019/HS- Sửa hình phạt

64

PT ngày 22/11/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (10.01.2020) chấp nhận kháng cáo, từ 3 năm tù thành hình phạt 1 năm 6 tháng tù.

8 Giữ nguyên bản án sơ thẩm

Bản án:số 414/2019 ngày 25/11/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (17.12.2019) không chấp nhận kháng cao.

9 Giữ nguyên bản án sơ thẩm

Bản án:số 306 ngày 21/10/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (29.11.2019) không chấp nhận kháng cáo

10

Bản án:số 339/2019/HS- PT ngày 01/11/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (19.11.2019) không chấp nhận kháng cáo Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 255/2019/HS- ST ngày 12/6/2019

11

Bản án:số 201/2018/HSPT ngày 21/09/2018 của TAND tỉnh Đồng Nai (31.10.2019) không chấp nhận kháng cáo Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 188/2018/HSST ngày 13/6/2018

12

số405/2019/HS-ST ngày 05/9/2019 của TAND TP Biên Hòa xử phạt Huỳnh Tấn T. phạm tội trộm cắp tài sản, mức hình phạt: 03(ba) năm tù. Bản án hình sự sơ thẩm số 440/2019/HS-ST ngày 25/9/2019 của TAND TP Biên Hòa xét xử Võ Nhật N phạm tội“Trộm cắp tài sản”, mức hình phạt là 02(hai) năm tù. Bản án hình sự sơ thẩm số:309/2019/HS-ST ngày 16/7/2019 của TAND TP Biên Hòa xử phạt Nguyễn Viết T phạm tội “Trộm cắp tài sản", mức hình phạt: 10 (Mười) tháng tù. Bản án sơ thẩm số 255/2019/HS-ST ngày 12/6/2019 của TTAND TP Biên Hòa xét xử Bì Trương T phạm tội trộm cắp tài sản, mức hình phạt 01 (một) năm 02(hai) tháng tù. Bản án sơ thẩm số 188/2018/HSST ngày 13/6/2018 của TAND TP Biên Hòa xét xử Trần Xuân H phạm tội trộm cắp tài sản, mức hình phạt 01 năm 04 tháng tù. Bản án sơ thẩm số 304/2018/HSST ngày 07/9/2018 của TAND TP Biên Hòa xử phạt bị cáo Bùi Việt T 02 (hai) năm tù Bản án:số 302/2018/HSPT ngày 23/11/2018 của TAND tỉnh Đồng Nai (31.10.2019) không chấp nhận kháng cáo Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 304/2018/HSST ngày 07/9/2018

65

13

Bản án số 207/2019/HS- PT ngày 12/07/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (04.10.2019) không chấp nhận kháng cáo Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số175/2019/HS- ST ngày 17/4/2019

14

Bản án:số 278/2019/HSPT ngày 18/09/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (25.09.2019) không chấp nhận kháng cáo Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 129/2019/HS- ST ngày 18/3/2019

15

Bản án:số 143/2019/HS- PT ngày 13/05/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (22.08.2019) không chấp nhận kháng cáo Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 432/2018/HSST ngày 16/11/2018

16

Bản án:số 210/2019/HS- PT ngày 17/07/2019 của TAND tỉnh Đồng Nai (15.08.2019) không chấp nhận kháng cáo Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 140/2019/HSST ngày 27/3/2019

17

Bản án:số 227/2018/HS- PT ngày 22/10/2018 của TAND tỉnh Đồng Nai (16.05.2019) không chấp nhận kháng cáo

Nguồn: Tổng kết từ 17 bản án của TAND tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm các bản án sơ thẩm của TAND TP Biên Hòa xét xử tội trộm cắp tài sản. Nguồn đăng tại cổng thông tin điện tử của TAND Tối cao.

về tội “ Trộm cắp tài sản”. Bản án sơ thẩm số175/2019/HS-ST ngày 17/4/2019 của TAND TP Biên Hòa xử phạt Trần Thị N 04(bốn) tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Bản án sơ thẩm số 129/2019/HS-ST ngày 18/3/2019, của TTAND TP Biên Hòa xử phạt Nguyễn Thiên D 08(tám) tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Bản án hình sự sơ thẩm số 432/2018/HSST ngày 16/11/2018 của TAND thành phố Biên Hòa xử phạt Vũ Đức H 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắptài sản” Bản án hình sự sơ thẩm số: 140/2019/HSST ngày 27/3/2019 của TAND TP Biên Hòa xử phạt Trần Hữu T 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” Bản án sơ thẩm số: 264/2018/HS-ST ngày 09 tháng 8 năm 2018 của TAND TP Biên Hòa xử phạt Huỳnh Quốc D 12 (mười hai) tháng tù về tội trộm cắp tài sản Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 264/2018/HS- ST ngày 09 tháng 8 năm 2018

66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Vân Anh (2014), Yếu tố định lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài

sản, Tạp chí Kiểm sát, (số 23/2014), tr. 49-52

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Triết học, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

3. Chính phủ (2018), Nghị định 37/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

5. Trần Mạnh Hà (2007), Một số dấu hiệu đặc trưng của tội “trộm cắp tài sản” cần nhận biết khi định tội danh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 3), tr. 70-77.

6. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2016), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, 2016, HVKHXH.

7. Hoàng Thị Hoa (2016), Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ, 2016, HVKHXH.

8. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017- Phần chung, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

9. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017- Phần các tội phạm-Quyển 1, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

10. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017- Phần các tội phạm-Quyển 2, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

67

11. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số: 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.

12. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị quyết số: 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

13. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2013), Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.

14. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2013), Nghị quyết số:

01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật hình năm 1999.

15. Hội đồng thẩm phán (2018), Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn

áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.

16. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

17. Cao Thị Oanh (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chât chiếm đoạt,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

18. Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ Luật hình sự năm 2015-Phần thứ

hai-Các tội phạm, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

19. Quốc hội (1985), Bộ Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 1985.

20. Quốc hội (1999), Bộ Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

68

21. Quốc hội (2003), Bộ Luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 2003.

22. Quốc Hội (2005), Bộ Luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam năm 2005.

23. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam năm 2012.

24. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

25. Quốc hội (2015), Bộ Luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 2015.

26. Quốc Hội (2015), Bộ Luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam năm 2015. Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

27. Quốc hội (2017), Bộ Luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

28. Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật hình sự so sánh, Nxb Chính trị quốc gia sự thật,

Hà Nội.

29. TAND thành phố Biên Hòa: Bản án hình sự sơ thẩm số: 99/2018/HSST ngày 26/3/2018; Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2019/HSST ngày 03/01/2019; Bản án hình sự sơ thẩm số: 76/2019/HSST ngày 25/02/2019; Bản án hình sự sơ thẩm số: 94/2019/HSST ngày 01/03/2019; Bản án hình sự sơ thẩm số: 104/2019/HSST ngày 07/03/2019; Bản án hình sự sơ thẩm số: 147/2019/HSST ngày 28/03/2019.

30. Lê Hoàng Tấn (2016), Nâng cao chất lượng định tội danh đối với các tội

xâm phạm sở hữu, Diễn đàn Luật sư Việt Nam, (số 3), tr. 21-24.

31. Đinh Công Thành (2018), Bình luận về tội trộm cắp tài sản, Tạp chí Kiểm

sát, (số 10), tr. 43-49.

32. Đỗ Lường Thiện (2017), Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản, Tạp chí Nghề luật-Học viện tư pháp, (số 4), tr. 71-78.

69

33. Nguyễn Ngọc Trâm (2019), Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn của thành

phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Luận văn thạc sĩ, 2019, HVKHXH.

34. Võ Văn Trung (2016), Định tội danh phải phù hợp các yếu tố cấu thành

tội phạm, Diễn đàn Luật sư Việt Nam, (số 7), tr. 22-25.

35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam-

Phần các tội phạm-Quyển 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

37. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật

hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

38. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm – quyển 1, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

39. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2016), Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

40. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

41. Nguyễn Bá Vinh (2019), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ, 2019, HVKHXH.

42. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

44. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam-Phần chung, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

45. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam-Phần các tội phạm, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

70

46. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Xã hội học pháp luật, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

47. Võ Khánh Vinh (2015), Quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

71