VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN CAO CƯỜNG

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN

QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN CAO CƯỜNG

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN

QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số : 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng. Những kết luận

nghiên cứu, các số liệu được trình bày trong luận văn “Tội trộm cắp tài sản từ

thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” là trung thực, chính xác và

được trích dẫn theo đúng quy định.

Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.

Đà Nẵng, ngày tháng năm 2020

Tác giả luận văn

Nguyễn Cao Cường

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 7

CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ............................................................................... 12

1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản ..................................... 12

1.2. Lịch sử quy định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay ......................................................................... 29

CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG... 40

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản ................................. 40

2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội trộm cắp tài sản ............................................................................................................... 42

CHƯƠNG 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ............................................................................................................. 64

3.1. Các yêu cầu đối với việc áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 64

3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự và tội trộm cắp tài sản ................................................................................ 67

KẾT LUẬN ................................................................................................ 83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 85

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

1 BLHS Bộ luật hình sự

2 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

3 CAND Công an nhân dân

4 KHXH Khoa học xã hội

5 Nxb Nhà xuất bản

6 TAND Tòa án nhân dân

7 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

8 XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản

2.1 của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giai 35

đoạn 2010 - 2019

Hình phạt được Tòa án nhân dân quận Thanh Khê,

2.2 thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng đối với người 35

bị kết án về tội trộm cắp tài sản giai đoạn 2015-2019

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do sự tác

động của mặt trái kinh tế thị trường nên các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội

trộm cắp tài sản nói riêng xảy ra khá phổ biến trên phạm vi cả nước cũng như ở

từng địa phương, trong đó có quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Thực trạng

này đặt ra vấn đề cần tăng cường đấu tranh phòng, chống

Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc phát hiện xử lý các tội xâm phạm

sở hữu, BLHS hiện hành quy định khá chi tiết, cụ thể các dấu hiệu pháp lý đặc

trưng của các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng.

Mặc dù vậy, qua một thời gian áp dụng cho thấy quy định của Bộ luật này về tội

trộm cắp tài sản đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho

việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt.

Về mặt lý luận, xoay quanh một số vấn đề về tội trộm cắp tài sản vẫn còn

nhiều ý kiến khác nhau, nhất là vấn đề ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành

chính đối với hành vi trộm cắp tài sản.

Về mặt thực tiễn, do nhận thức được tầm quan trọng của việc xét xử các

vụ án về tội trộm cắp tài sản, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên

trong những năm qua TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng không ngừng

đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án, hạn chế đến mức thấp

nhất các bản án, quyết định bị sửa, bị hủy do lỗi chủ quan của thẩm phán. Tuy

nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn còn một số ít trường hợp áp dụng

pháp luật hình sự giải quyết vụ án về tội trộm cắp tài sản chưa đúng, dẫn tới việc

định tội danh cũng như quyết định hình phạt chưa thật sự chính xác, dẫn tới sai

sót cần phải khắc phục.

Như vậy, cả về lý luận, quy định của luật thực định và thực tiễn áp dụng

để giải quyết các vụ án về tội trộm cắp tài sản đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu 7

một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu để nhận thức và áp dụng đúng đắn

pháp luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trong thời

gian tới.

Xuất phát từ lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài:“Tội trộm cắp từ

thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu làm luận văn

thạc sĩ: Luật học, Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu

Hiện nay, tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam được nhiều nhà

khoa học và cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu do vậy đã có khá nhiều công

trình nghiên cứu khoa học về chủ đề này, điển hình là:

- Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm do GS. TS Võ

Khánh Vinh chủ biên, NXB khoa học xã hội, 2014; Bình luận khoa học chuyên

sâu BLHS Phần các tội phạm, Tập II. “Các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả

Đinh Văn Quế, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2005; Bình luận khoa học BLHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Phần các tội phạm, quyển I của tác giả

Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp 2018; cuốn sách chuyên khảo “Các tội xâm

phạm sở hữu trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)” của tác giả

Mai Bộ, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2010;

- Luận án tiến sĩ, luận văn cao học: “Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận án Tiến sĩ của

tác giả Nguyễn Văn Thanh, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016; “Trách nhiệm

hình sự đối với với các tội chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam”,

Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Tường Vy, Học viện Khoa học Xã hội năm 2016;

“Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc

Giang,”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH năm 2017; “Tội trộm cắp tài sản

theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà

Nội”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật

8

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Luận văn thạc sĩ, Học viện

KHXH năm 2018; “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc

Ninh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH năm 2020.

- Các bài báo khoa học: “Về các tội xâm phạm sở hữu” của TS. Nguyễn

Mai Bộ, Tạp chí TAND số 7/2018, tr 1-9; “Một số điểm mới cần thống nhất

nhận thức và áp dụng pháp luật đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại BLHS

năm 2015” của tác giả Đinh Công Thành và Nguyễn Thị Tuyết Loan, Tạp chí

Dân chủ và pháp luật số 2/2018; tr 47-54; “Dấu hiệu pháp lý và cách phân loại

các tội xâm phạm sở hữu theo BLHS năm 2015” của tác giả Nguyễn Trường

Giang, Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11/2017, tr 18-23.

Như vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học về tội trộm cắp tài

sản theo Luật hình sự Việt Nam ở các cấp độ, phạm vi khác nhau. Tuy nhiên,

cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về “Tội trộm cắp từ thực

tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng”. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài này

không trùng với các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố về chủ đề này.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu luận văn là hướng tới làm sâu sắc thêm về lý luận,

đánh giá quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản qua các

thời kỳ và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở

đó, đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS hiện

hành về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ

nghiên cứu sau đây:

+ Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam về tội trộm cắp tài sản;

+ Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về

9

tội trộm cắp tài sản của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, rút ra

những mặt tích cực cũng như hạn chế, sai sót và nguyên nhân;

+ Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của

BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn

Là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp

tài sản và thực tiễn áp dụng của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu tội trộm cắp tài sản dưới góc độ Luật hình sự và tố

tụng hình sự

Về thực tiễn, luận văn tập trung nghiên cứu hai nội dung cơ bản của áp

dụng pháp luật hình sự là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm

cắp tài sản trong xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Về thời gian: từ năm 2015 - 2019

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận (cơ sở lý luận)

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội

phạm và đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của

công dân.

Ngoài ra, luận văn còn dựa trên những tri thức nền tảng của khoa học luật

hình sự để luận giải đối tượng nghiên cứu trong luận văn của mình.

5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực

tiễn của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,

chuyên gia… để làm rõ từng nội dung nghiên cứu trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

10

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm những

vấn đề lý luận của khoa học luật hình sự về tội phạm cụ thể như: khái niệm, các

dấu hiệu định tội, định khung hình phạt; dấu hiệu phân định giữa tội phạm với

hành vi trộm cắp không phải là tội phạm.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để hoàn thiện các quy

định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản; khắc phục những hạn chế, sai

sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết vụ án của TAND, bảo đảm đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật.

Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu,

giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn được cơ cấu thành ba chương

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản

Chương 2. Thực tiễn về pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại quận

Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng.

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp

11

luật hình sự về tội trộm cắp tài sản.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Trong khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm là khái niệm trung tâm,

khái niệm cơ bản nhất, đóng vai trò là cơ sở để xây dựng khái niệm về từng tội

phạm cụ thể, cũng như các khái niệm khác liên quan đến tội phạm.

Khái niệm tội trộm cắp tài sản là một trong những khái niệm về một tội

phạm cụ thể, do vậy phải được xây dựng dựa trên khái niệm tội phạm nói chung.

Hiện nay, xoay quanh khái niệm tội phạm có nhiều cách diễn đạt khác

nhau, nhất là việc phản ánh các dấu hiệu (đặc điểm) đặc trưng của tội phạm

trong nội hàm khái niệm. Song dựa trên định nghĩa lập pháp về khái niệm tội

phạm được quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành, đa số các nhà khoa học luật

hình sự Việt Nam đều thống nhất cho rằng: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho

xã hội, được quy định trong BLHS, do cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự

và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm

các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và phải bị xử lý hình sự”.

Từ khái niệm này cho thấy, tội phạm với tính chất là một hiện tượng xã

hội, pháp lý, có các đặc điểm đặc trưng khác với các hiện tượng không phải là tội

phạm, đó là:

+ Đặc điểm “Là hành vi nguy hiểm cho xã hội” (tính nguy hiểm cho xã

hội).

Trước hết, tội phạm phải là hành vi của con người. Hành vi bị coi là tội

phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều đó có nghĩa là: Về mặt khách

quan, hành vi bị coi là tội phạm phải gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây

12

thiệt hại đáng kể cho những lợi ích được pháp luật hình sự bảo vệ.

Đây là đặc điểm phản ánh nội dung chính trị - xã hội của tội phạm, đặc

điểm quan trọng nhất, quyết định các đặc điểm khác của tội phạm (đặc điểm về

hình thức và hậu quả pháp lý của tội phạm).

+ Đặc điểm “được quy định trong BLHS”

Đặc điểm này cho thấy chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy

định trong BLHS mới có thể bị coi là tội phạm, nghĩa là hành vi bị coi là tội

phạm phải là những xử sự trái với quy định của BLHS, cấm thực hiện hoặc cấm

không thực hiện (phải thực hiện khi có điều kiện để thực hiện). Đây chỉ là đặc

điểm về hình thức pháp lý của tội phạm, phản ánh đặc điểm nội dung của tội

phạm (tính nguy hiểm cho xã hội), nhưng có tính độc lập tương đối và có ý

nghĩa quan trọng. Bởi việc khẳng định tội phạm phải có đặc điểm này là biểu

hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế, là sự thừa nhận nguyên tắc đã được ghi

nhận trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hợp quốc: “Không ai bị kết án

vì một hành vi mà lúc họ thực hiện pháp luật quốc gia hay quốc tế không coi là

tội phạm” (Khoản 2 Điều 11)

+ Đặc điểm “do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”.

Đây là dấu hiệu về chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo

đó họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà luật định và không trong

“Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” do mắc bệnh tâm thần hoặc

bệnh khách làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của

mình. Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực pháp lý được Nhà nước xác định

và thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Đồng thời, năng lực trách nhiệm

hình sự cũng là điều kiện để chủ thể thực hiện hành vi có thể có lỗi. Do có ý

nghĩa như vậy, nên dấu hiệu về chủ thể “Có năng lực trách nhiệm hình sự” cần

được coi là một dấu hiệu của tội phạm [16;tr.58].

+ Đặc điểm “Thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”

Đặc điểm này cho thấy, tội phạm phải là hành vi có lỗi, tức là phải do chủ

13

thể cố ý hoặc vô ý thực hiện. Việc thừa nhận dấu hiệu này là một dấu hiệu độc

lập của tội phạm cho thấy, Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội

khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào việc một người

đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Do

vậy, “tính có lỗi” phải được xác định là một đặc điểm của tội phạm.

+ Đặc điểm “phải bị xử lý hình sự”.

Đây là đặc điểm thể hiện hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm.

Tuy nhiên, không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm, mà là đặc điểm có

tính quy kết, kèm theo của tội phạm; nó được xác định bởi chính những thuộc

tính bên trong của tội phạm. Theo đó, chỉ những hành vi bị coi là tội phạm thì

mới “phải bị xử lý hình sự”, không có tội phạm thì cũng không có biện pháp “xử

lý hình sự”. Đây là lý do mà BLHS năm 2015 bổ sung đặc điểm “phải bị xử lý

hình sự” trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8.

Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm nói chung, do vậy cũng

có đầy đủ những đặc điểm, đặc trưng chung của tội phạm. Mặc dù vậy, khi đưa

ra các khái niệm khoa học về tội trộm cắp tài sản, các nhà nghiên cứu luật hình

sự chỉ tập trung phản ánh những đặc điểm (dấu hiệu) riêng có của tội phạm này,

chẳng hạn như:

“Tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản”

[43;tr.49]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của

người khác” [31;tr.196]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài

sản của người khác một cách lén lút” [4, tr.199].

Qua đây thấy rằng, các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam có nhiều cách

diễn đạt khác nhau khi đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản, nhưng đều thống

nhất ở chỗ, tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người

khác.

Chúng tôi cho rằng, các định nghĩa nêu trên mới chỉ là những định nghĩa

khái quát về tội trộm cắp tài sản, phản ánh đặc điểm đặc trưng riêng có của tội

14

trộm cắp, đó là “hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”.

Theo chúng tôi, để đưa ra được một khái niệm đầy đủ về tội trộm cắp tài

sản thì trong nội hàm khái niệm này phải thể hiện được đầy đủ các đặc điểm, đặc

trưng của tội phạm này. Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm tội

trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài

sản của người khác, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách

nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được

pháp luật hình sự bảo vệ và theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự”.

Như vậy, khái niệm này không chỉ thể hiện được những dấu hiệu (đặc

điểm) chung của tội phạm mà còn thể hiện được dấu hiệu (đặc điểm) riêng của tội

trộm cắp tài sản, đó là “lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác nắm giữ”.

1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

* Những dấu hiệu định tội

Nghiên cứu lý luận và quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài

sản thấy rằng, tội trộm cắp tài sản có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau đây:

- Dấu hiệu khách thể, đối tượng tác động của tội phạm.

Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.

Quyền sở hữu tài sản gồm ba quyền năng cụ thể, đó là: quyền chiếm hữu, quyền

sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Khi tài sản

bị trộm cắp chủ sở hữu sẽ mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng,

định đoạt tài sản bị chiếm đoạt.

Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải là tài sản đang có người

quản lý, nghĩa là: tài sản đó đang ở trong sự chiếm hữu, sự chi phối về mặt thực

tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc tài sản đang

nằm trong khu vực quản lý của chủ tài sản. Với đặc điểm như vậy thấy rằng,

những hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lý, hoặc chưa có

người quản lý đều không phải là hành vi trộm cắp tài sản.

- Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm

15

Mặc dù điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản

nhưng cả lý luận và thực tiễn đều thừa nhận hành vi khách quan của tội trộm cắp

tài sản là “Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý”

Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu: về mặt khách quan, hành vi

này được thực hiện bằng hình thức có khả năng không cho chủ tài sản (người

quản lý tài sản) biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra; Về mặt chủ

quan, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản người phạm tội có ý thức che giấu

hành vi đang thực hiện của mình. Đối với chủ tài sản, người phạm tội không chỉ

che giấu mặt thực tế của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn che

giấu tính chất bất hợp pháp của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tuy

nhiên, đối với những người không phải là chủ tài sản, không biết rõ nguồn gốc

tài sản thì có trường hợp người phạm tội chỉ che giấu tính chất bất hợp pháp của

việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

Tội trộm cắp tài sản được nhà lập pháp quy định dưới dạng cấu thành tội

phạm vật chất. Do vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ coi là hoàn thành khi người phạm

tội đã chiếm hữu được tài sản trên thực tế. Để xác định thời điểm tài sản đã được

chiếm hữu trên thực tế phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Cụ thể

là: nếu tài sản bị chiếm đoạt nhỏ gọn thì chỉ coi là đã chiếm hữu được khi người

phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người; nếu tài sản bị chiếm đoạt không

thuộc loại nhỏ gọn thì chỉ coi là chiếm hữu được khi người phạm tội đã mang

được tài sản ra khỏi khu vực quản lý; nếu tài sản bị chiếm đoạt là tài sản để ở nơi

không hình thành khu vực bảo quản riêng thì chỉ coi là chiếm hữu được khi đã

dịch chuyển được tài sản ra khỏi vị trí ban đầu.

- Dấu hiệu chủ thể của tội phạm

Theo quy định của BLHS hiện hành, chủ thể của tội trộm cắp tài sản là bất

kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình

sự mà luật định.

Như vậy, chủ thể của tội phạm này chỉ có thể là cá nhân (thể nhân) mà

16

không bao hàm pháp nhân thương mại

Cá nhân chỉ được coi là chủ thể của tội trộm cắp tài sản khi đáp ứng được

những điều kiện sau:

+ Là con người cụ thể, đang sống đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt

tài sản của người khác

+ Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà luật định. Theo quy định của Điều

12 và Điều 173 BLHS hiện hành, thì: nếu hành vi được thực hiện, được quy định

tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 BLHS thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi trở

lên; còn hành vi được thực hiện quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 173 BLHS

thì người phạm tội phải đủ 14 tuổi trở lên.

+ Họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là không trong

tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức

hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (Điều 21 BLHS).

- Dấu hiệu lỗi

Tội trộm cắp tài sản luôn được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp của chủ thể.

Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, người phạm tội luôn mong muốn chiếm

đoạt được tài sản của người khác. Động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu

hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản.

* Dấu hiệu phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với hành vi trộm cắp tài

sản chưa phải là tội phạm (vi phạm pháp luật).

Theo quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành thì hành vi trộm cắp tài sản

chỉ cấu thành tội phạm nếu tài sản bị trộm cắp phải có trị giá từ 02 triệu đồng trở

lên. Trường hợp tài sản bị trộm cắp có trị giá dưới 02 triệu thì chỉ cấu thành tội

phạm nếu có một trong những dấu hiệu sau đây:

+ Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.

Đây là trường hợp chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm

đoạt tài sản (như công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản…) chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm

17

hành chính mà còn vi phạm. Theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành

chính năm 2012 thì cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 06

tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể

từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc kể từ ngày hết

thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính mà không tái phạm thì được coi

là chưa bị xử phạt hành chính [27;tr.18]

+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều

168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này chưa được xóa án tích

mà còn vi phạm.

Đây là trường hợp chủ thể đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản hoặc về một

trong các tội chiếm đoạt tài sản quy định tại các Điều 168 (tội cướp tài sản);

Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài

sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 172 (tội công nhiên chiếm đoạt tài

sản); Điều 174 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 175 (tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản) và Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của BLHS năm 2015,

chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội

Đây là trường hợp mới được quy định trong BLHS năm 2015. Đến nay

vẫn chưa có văn bản hướng dẫn vào giải thích về tình tiết này. Tuy nhiên, căn cứ

vào các văn bản quy phạm pháp luật quy định về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ

gìn trật tự an toàn xã hội có thể hiểu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an

toàn xã hội”, là trường hợp hành vi trộm cắp tài sản, ngoài gây hậu quả về tài

sản còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn công cộng ở một địa bàn

nhất định, gây xáo trộn cuộc sống bình thường của người dân, hoặc tâm lý hoang

mang, lo lắng trong nhân dân…

+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ

Đây là cũng tình tiết mới bổ sung trong BLHS năm 2015 và cũng chưa

18

được hướng dẫn, giải thích. Tuy nhiên, về cơ bản có thể hiểu tài sản là phương

tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ là tài sản có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng, là phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình

họ, nếu bị trộm cắp thì người bị hại và gia đình họ, sẽ lâm vào tình trạng hết sức

khó khăn về kinh tế. Chẳng hạn, nguồn thu chính của gia đình người bị hại là thu

từ việc sử dụng chiếc xe máy chở khách để kiếm tiền mưu sinh, nhưng đã bị

người phạm tội trộm cắp mất.

+ Tài sản là di vật, cổ vật

Theo quy định tại Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2010 thì: di vật là hiện

vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; cổ vật là hiện vật

được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ 100

năm tuổi trở lên.

* Hình phạt là các dấu hiệu định khung hình phạt.

BLHS hiện hành quy định bố khung hình phạt chính đối với tội trộm cắp

tài sản

- Khoản 1 Điều 173 BLHS hiện hành quy định khung hình phạt cơ bản

gồm phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03

năm. Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội mà trị giá tài

sản trộm cắp dưới 50 triệu đồng.

- Khoản 2 của Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ

nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm

tội có một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau đây:

+ Có tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản có sự câu kết

chặt chẽ giữa những người đồng phạm (đồng phạm có tổ chức).

+ Có tính chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên

tiếp phạm tội trộm cắp tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu thập

chính [33;tr.44]

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng

19

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt là

trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản bằng những thủ đoạn tinh vi để che giấu

hành vi chiếm đoạt tài sản, làm cho mọi người dễ nhầm và không cho rằng đó là

hành vi trộm cắp tài sản; còn dùng thủ đoạn nguy hiểm là dùng thủ đoạn trộm

cắp tài sản có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại

hoặc của người khác.

+ Hành hung để tẩu thoát: Đây là trường hợp người trộm cắp tài sản đã có

hành vi chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát. Mục đích chống trả là để tẩu thoát.

Nếu mục đích chống trả để giữ bằng được tài sản vừa trộm cắp được thì có sự

chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản [16; tr.298]

+ Tài sản là bảo vật quốc gia: Đây là trường hợp đối tượng tác động của

tội trộm cắp tài sản là bảo vật quốc gia, tức là hiện vật được lưu truyền lại, có giá

trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học (Điều 4

Luật Di sản văn hóa năm 2010).

+ Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp bị kết án về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà

lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 173

BLHS hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm

cắp tài sản.

- Khoản 3 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai

(rất tăng nặng) có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường

hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung hình phạt

tăng nặng sau đây:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng

+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh

- Khoản 4 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba

(đặc biệt tăng nặng) có mức phạt tù từ 12 đến 20 năm được áp dụng cho trường

hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung tăng nặng

20

sau đây:

+ Chiếm đoạt có trị giá 500 triệu đồng trở lên

+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

- Khoản 5 Điều 178 BLHS, quy định phạt tiền từ 05 triệu đến 50 triệu là

hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản

Những tình tiết (dấu hiệu) định khung hình phạt tăng nặng trên đây là cơ

sở để xác định khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội

1.1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt khác

* Phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt được

quy định tại Chương XVI BLHS: “Các tội xâm phạm sở hữu”

Trong BLHS hiện hành (Chương XVI) có quy định 8 tội có tính chất

chiếm đoạt gồm: tội cướp tài sản (Điều 168); tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

(Điều 169); tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170); tội cướp giật tài sản (Điều 171);

tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); tội trộm cắp tài sản (Điều 173); tội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

(Điều 175).

Những tội phạm này có nhiều dấu hiệu pháp lý giống tội trộm cắp tài sản

như: có cùng khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản; hành vi phạm tội đều có

tính chất chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý; đều được thực hiện với

lỗi cố ý trực tiếp với động cơ, mục đích phạm tội có tính chất vụ lợi; chủ thể của

tội phạm là chủ thể bình thường.

Tuy nhiên, so với các tội có tính chất chiếm đoạt khác, tội trộm cắp tài sản

có những điểm khác sau đây:

+ Về hành vi khách quan và thủ đoạn thực hiện hành vi khách quan của tội

phạm: Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản (cũng như một số tội khác

như: cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm…) là hành

vi chiếm đoạt tài sản, còn hành vi khách quan của tội cướp, tội bắt cóc nhằm

chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản thì hành vi khách quan của tội phạm

21

không phải là hành vi chiếm đoạt, mà là hành vi: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ

lực ngay tức khắc hay hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng

không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 168 tội cướp tài sản;

hoặc là hành vi bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản), (Điều

169 tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản )hoặc là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực

hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều

170 tội cưỡng đoạt tài sản). Như vậy, đối với 03 tội phạm này “chiếm đoạt tài

sản của người khác” được quy định là mục đích của việc thực hiện hành vi

khách quan.

Nếu so với các tội có tính chất chiếm đoạt còn lại (cướp giật, công nhiên

chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) thì tội trộm cắp tài

sản khác những tội phạm này ở thủ đoạn chiếm đoạt tài sản: Đối với tội cướp

giật tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt là “công khai, nhanh chóng chiếm đoạt”; đối

với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn

“lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công khai chiếm đoạt tài

sản”; đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là thủ

đoạn “gian dối”; đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn

“lợi dụng niềm tin sẵn có của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản mà chủ tài sản

giao cho trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản… sau đó dùng thủ đoạn

gian dối hoặc bỏ trốn hoặc cố tình không trả lại tài sản đó mặc dù có điều kiện,

khả năng để trả lại, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến

không có khả năng trả lại tài sản”.

+ Về trị giá tài sản bị chiếm đoạt là ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý

hành chính

Ở tội trộm cắp tài sản: trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu đồng

trở lên mới xử lý hình sự, dưới mức đó chỉ có thể xử phạt hành chính (nếu không

có tình tiết khác làm tăng tính nguy hiểm của hành vi).

Ở các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản

22

và cướp giật tài sản thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt không có ý nghĩa đối với việc

xử lý hình sự.

Ở các tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo thì trị giá tài sản chị

chiếm đoạt cũng giống như tội trộm cắp, tức là phải từ 02 triệu đồng trở lên mới

xử lý hình sự, dưới mức đó thì phải có bổ sung các dấu hiệu khác.

Riêng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì trị giá tài sản

bị chiếm đoạt phải từ 04 triệu đồng trở lên mức bị xử lý hình sự.

* Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS

năm 2015)

Theo quy định tại Điều 290 BLHS hiện hành thì tội sử dụng mạng máy

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

là hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử

thực hiện một trong các hành vi sau đây nếu không thuộc một trong các trường

hợp được quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này:

a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá

nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa,

dịch vụ;

b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm

chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân

nhằm chiếm đoạt tài sản;

d) Lừa đảo trong thương mại diện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền

tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng

nhằm chiếm đoạt tài sản;

đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm

đoạt tài sản.

Qua đây cho thấy, điểm khác cơ bản giữa tội trộm cắp tài sản (Điều 173)

23

với tội phạm này (Điều 290) là ở chỗ:

+ Về khách thể trực tiếp của tội phạm

Đối với tội trộm cắp tài sản, khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản

Đối với tội phạm này, khách thể trực tiếp là an toàn mạng máy tính, mạng

viễn thông và phương tiện điện tử, một trong những lĩnh vực an toàn công cộng.

Ngoài khách thể trực tiếp cơ bản này, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản còn xâm phạm

đến quyền sở hữu tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ.

+ Về hành vi khách quan của tội phạm.

Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản (Điều 173) chỉ là hành vi lén

lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý. Thủ đoạn chiếm đoạt tài sản

là thủ đoạn lén lút chứ không thông qua thủ đoạn sử dụng mạng máy tính, mạng

viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như là ở

tội quy định tại Điều 290 BLHS.

Hành vi khách quan của tội quy định tại Điều 290 BLHS là hành vi: sử

dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức cá nhân để

chiếm đoạt tài sản; làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả

nhằm chiếm đoạt tài sản…; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ

chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn

thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. Việc chiếm đoạt tài sản không phải là

hành vi khách quan mà là mục đích của việc thực hiện một trong những hành vi

khách quan nêu trên.

+ Về trị giá tài sản bị chiếm đoạt

Đối với tội trộm cắp tài sản thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu

đồng trở lên mới xử lý hình sự (hành vi mới cấu thành tội phạm) dưới mức đó thì

phải có bổ sung các dấu hiệu khác.

Còn đối với tội quy định tại Điều 290 thì trị giá tài sản mà người phạm tội

có mục đích chiếm đoạt không có ý nghĩa định tội (nghĩa là bất kỳ có trị giá là

24

bao nhiêu từ 02 triệu trở lên hay dưới 02 triệu)

Điều 290 BLHS còn quy định dấu hiệu “không thuộc một trong các

trường hợp quy định tại Điều 173…” Điều đó có nghĩa là các hành vi quy định

tại Điều 290 cũng có thể được thực hiện bằng thủ đoạn lén lút và trị giá tài sản bị

chiếm đoạt cũng từ 02 triệu đồng trở lên (đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài

sản) thì sẽ bị xử lý về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS, mà

không xử lý về tội quy định tại Điều 290 BLHS. Chẳng hạn, hành vi sử dụng

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử lén lút chiếm đoạt tài sản

của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ có giá trị từ 02

triệu đồng trở lên thì xử lý về tội trộm cắp tài sản (Điều 173); ngược lại, nếu tài

sản bị chiếm đoạt dưới 02 triệu và không thuộc các trường hợp có bổ sung dấu

hiệu khác mà BLHS quy định đối với tội trộm cắp tài sản thì sẽ xử lý về tội sử

dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi

chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS)

Nắm vững những điểm khác nhau này giúp cho việc định tội danh được

chính xác, hạn chế sự nhầm lẫn giữa tội phạm này với tội phạm khác có liên quan.

1.1.4 Khái quát lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với

tội trộm cắp tài sản

Định tội danh tội trộm cắp tài sản là một trong những trường hợp định tội

danh đối với một hành vi phạm tội cụ thể, đó là hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy,

khái niệm định danh tội trộm cắp tài sản phải được xây dựng dựa trên khái niệm

chung về định tội danh.

Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều cách diễn đạt

khác nhau về định tội danh như: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về

mặt pháp lý sự phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ

thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định

trong quy phạm pháp luật hình sự” [46;tr.10]; hoặc “Định tội danh là quá trình

nhận thức lý luận có tính logic, là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

25

cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ,

các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định

sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện

với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định

nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm

về pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cụ thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình

sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [44;tr.71].

Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về định tội danh, nhưng đều thống

nhất ở chỗ, định tội danh thực chất là việc xác định về mặt pháp lý hình sự đối

với hành vi phạm tội đã được thực hiện, tức là xác định sự phù hợp (đồng nhất)

giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu

thành tội phạm tương ứng được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự.

Kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm nêu trên về định tội

danh, người nghiên cứu cho rằng: “Định tội danh tội trộm cắp tài sản là việc xác

định sự phù hợp, tương đồng giữa các dấu hiệu (tình tiết) của hành vi trộm cắp

tài sản cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài

sản được quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành”.

Từ khái niệm trên cho thấy, định tội danh tội trộm cắp tài sản thực chất là

việc đánh giá chính xác về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi lén lút chiếm

đoạt tài sản được thực hiện trên thực tế; Là hoạt động của cơ quan, người có

thẩm quyền trong việc xác định và ghi nhận sự phù hợp giữa những tình tiết của

vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên thực tế với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm

cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS.

Định tội danh tội trộm cắp tài sản còn là một trong những hoạt động thực

tiễn pháp lý, một nội dung cơ bản của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm

giải quyết đúng đắn vụ án về tội trộm cắp tài sản. Hoạt động này (định tội danh)

thường được triển khai qua một số bước nhất định như: xác định đúng, khách

quan các tình tiết của vụ án trộm cắp tài sản, tìm hiểu, nhận thức đầy đủ nội dung

26

các quy phạm pháp luật hình sự quy định các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, bắt

buộc đối với tội trộm cắp tài sản; Xác định sự tương đồng, phù hợp giữa các dấu

hiệu (tình tiết) thực tế của hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được thực hiện với

các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định trong BLHS trên

cơ sở chứng cứ, tài liệu thu thập được... Như vậy, việc định tội danh tội trộm cắp

tài sản không thể không dựa vào các quy định của BLHS hiện hành về tội trộm

cắp tài sản Vì đây là những quy phạm pháp luật hình sự quy định khuôn mẫu

pháp lý (cấu thành tội phạm) của tội trộm cắp tài sản.

Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, việc định tội danh tội trộm cắp

tài sản được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự và do nhiều chủ thể

có thẩm quyền tiến hành như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội

thẩm. Ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, đặc biệt ở giai đoạn xét xử thì việc xác

định tội danh tội trộm cắp tài sản phải bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.

1.1.5. Lý luận về quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là một trong những nội

dung quan trọng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án về

tội trộm cắp tài sản. Do vậy, về mặt lý luận phải nhận thức một cách đúng đắn và

toàn diện về quyết định hình phạt đối với tội phạm này.

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về quyết định hình phạt như:

“Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật

hình sự, thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy

định trong điều luật theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm

tội, thể hiện trong bản án kết tội” [47, tr. 298] hoặc: “Quyết định hình phạt là

hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác

định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt

động quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt

27

hoặc nếu tòa án quyết định áp dụng hình phạt thì hoạt động quyết định hình phạt

là việc xác định loại, mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng

đối với bị cáo” [22; tr.63]

Từ những khái niệm nền tảng về quyết định hình phạt nêu trên, theo chúng

tôi có thể hiểu: “Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là việc Hội

đồng xét xử căn cứ vào quy định của BLHS, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã

hội của hành vi trộm cắp tài sản, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm

nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, lựa chọn loại, mức hình phạt cụ thể được quy

định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với người

phạm tội trộm cắp tài sản và được thể hiện trong bản án buộc tội”.

Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, quyết định hình phạt đúng đối với người

phạm tội trộm cắp tài sản có ý nghĩa rất lớn, là cơ sở để đạt được mục đích của

hình phạt. Ngoài ra, quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp đúng còn là điều

kiện bảo đảm tính khả thi của hình phạt đã tuyên, qua đó góp phần nâng cao hiệu

quả của hình phạt.

Khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử phải

tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt, đó là:

+ Căn cứ vào quy định của BLHS;

Khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử phải

căn cứ vào các quy định của phần chung và phần các tội phạm của BLHS có liên

quan đến việc quyết định hình phạt đối với tội phạm này, đặc biệt là phần chế tài

của quy phạm pháp luật hình sự được thể hiện ở Điều 173 BLHS hiện hành.

+ Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội trộm cắp tài sản.

Đây là căn cứ hết sức quan trọng, giúp Hội đồng xét xử có cơ sở vững

chắc để lựa chọn loại, mức hình phạt cụ thể tương xứng với tính chất, mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp tài sản, đáp ứng được yêu cầu của

nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt

28

+ Căn cứ vào nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trộm cắp, Hội đồng xét

xử cần cân nhắc những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến

tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả

năng cải tạo, giáo dục người phạm tội, phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người

phạm tội đáng được khoan hồng.

+ Căn cứ vào những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có

trong vụ án trộm cắp tài sản

Căn cứ vào những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có

trong vụ án trộm cắp tài sản giúp Hội đồng xét xử đánh giá đầy đủ, toàn diện

Hơn về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, người

phạm tội trộm cắp tài sản.

Tóm lại, khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội đồng

xét xử phải xem xét, cân nhắc tất cả các căn cứ nêu trên, không thể quá coi trọng

hoặc bỏ qua bất kỳ căn cứ nào. Có như vậy, loại, mức hình phạt cụ thể mà Hội

đồng xét xử lựa chọn để áp dụng đối với người bị kết án về tội trộm cắp tài sản

mới tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội mà họ thực hiện.

1.2. Lịch sử quy định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt

Nam từ năm 1945 đến nay

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự

đầu tiên năm 1985

Nghiên cứu quá trình quy định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự

Việt Nam từ năm 1945 đến trước năm 1985 (năm ban hành BLHS đầu tiên của

nước ta) thấy rằng, để đấu tranh phòng chống tội phạm bảo vệ tài sản của nhà

nước, của công dân, bên cạnh tạm thời sử dụng các luật lệ cũ, các nhà làm luật

Việt Nam đã chú ý đến việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới quy

định những hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản là tội phạm và hình phạt đối

29

với những tội phạm này, trong đó có tội trộm cắp tài sản như: Sắc lệnh ngày

15/1/1946 trừng phạt những người phạm tội ăn trộm, ăn cắp và tự ý phá hủy dây

điện thoại điện tín; Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/2/1946 về các tội phá hủy công

sản; Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1948 quy định về trừng trị các hành vi trộm

cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh; Nghị định số 32-

NĐ ngày 6/4/1952 của Bộ Tư pháp quy định đường lối xét xử các tội trộm cắp,

lừa đảo, biển thủ tài sản…; Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/6/1958 trừng trị những

âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân

dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của nhà nước về xây dựng

kinh tế văn hóa. Chẳng hạn, Điều 2 của Sắc lệnh này quy định: “Kẻ nào vì mục

đích phá hoại mà trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cướp bóc tài sản của

Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân sẽ bị phạt từ 5 năm đến 20 năm tù”

[34; tr.95]

Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu xã

hội chủ nghĩa và sở hữu của công dân trong tình hình mới, ngày 21/10/1970,

Nhà nước ta thông qua hai Pháp lệnh mới, đó là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm

phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài

sản riêng của công dân. Trong hai pháp lệnh này đã thể hiện tương đối toàn diện

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với các tội xâm phạm sở hữu,

trong đó có tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân.

Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa quy định 16

tội, trong đó tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa được quy định tại Điều 7 với

nội dung như sau: “1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ

06 tháng đến 5 năm;

2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chuyên

nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) có móc ngoặc; d) Dùng thủ

đoạn xảo quyệt; đ) Trộm cắp tài sản có số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc

biệt; e) Dùng tài sản trộm cắp vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ hoặc những

30

việc phạm tội khác thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.

3) Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có

nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt

tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” [35; tr.106]

Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy định

13 tội, trong đó tội trộm cắp tài sản riêng của công dân quy định tại Điều 6 như

sau: “1. Kẻ nào trộm cắp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến

3 năm.

2. Phạm tội thuộc những trường hợp sau: a) Có tính chất chuyên nghiệp

hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Gây

hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả

nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 10 năm

3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị

phạt tù từ 07 năm đến 15 năm”[35; tr.108]

Từ những quy định này cho thấy, đường lối xử lý các tội xâm phạm tài sản

xã hội chủ nghĩa nghiêm khắc hơn các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Cụ thể Điều 7 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa quy

định chế tài nghiêm khắc nhất đối với tội phạm này đến tù chung thân hoặc tử

hình, trong khi đó chế tài được quy định đối với tội trộm cắp tài sản riêng của

công dân chỉ là phạt tù có thời hạn đến 15 năm. Điều đặc biệt là: cả hai pháp

lệnh đều quy định nhiều khung hình phạt khác nhau đối với tội trộm cắp tài sản

phù hợp với mức độ nguy hiểm của từng trường hợp phạm tội cụ thể. Đây là

bước tiến bộ rõ nét trong việc quy định đường lối xử lý có sự phân biệt, phân hóa

của Đảng và Nhà nước ta ở thời kỳ này.

Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thống nhất, ngày

15/3/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban

hành Sắc luật số 03/SL-76 quy định các tội phạm và hình phạt, trong đó có các

tội xâm phạm tài sản nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Các tội xâm phạm

31

tài sản xã hội chủ nghĩa và các tội xâm phạm tài sản của công dân được quy định

trong Sắc luật này tương đối thống nhất với các tội xâm phạm tài sản được quy

định trong hai pháp lệnh ban hành năm 1970.

Tóm lại, từ năm 1945 đến trước năm 1985, Nhà nước ta đã ban hành nhiều

văn bản quy định việc trừng trị các tội chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và tài

sản riêng của công dân. Song các văn bản được ban hành vào thời kỳ này chủ

yếu là văn bản dưới luật, do vậy hiệu lực pháp lý không cao. Nhìn chung, các

quy định của pháp luật hình sự nước ta ở thời kỳ này còn sơ khai cả về nội dung

lẫn hình thức pháp lý. Có một số tội phạm cụ thể (trong đó có tội trộm cắp tài

sản) nhà lập pháp nước ta lại dùng quy phạm giản đơn để quy định tội phạm, tức

là chỉ nhắc lại tội danh mà không mô tả dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm.

Điều đó dẫn tới sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật xử lý các tội

xâm phạm tài sản.

Mặc dù có một số hạn chế, khiếm khuyết nhưng những văn bản này thực

sự là cơ sở pháp lý để xử lý các tội xâm phạm tài sản trong giai đoạn miền Bắc

xây dựng xã hội chủ nghĩa và sau đó là giai đoạn đầu cả nước thống nhất đi lên

chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, trước đòi hỏi của tình hình thực tiễn, những văn bản pháp luật

được ban hành trước đó có nhiều nội dung không còn phù hợp nữa, cần phải sửa

đổi, bổ sung một cách căn bản và tổng thể nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh

phòng, chống tội phạm nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng trong tình

hình mới. Xuất phát từ yêu cầu này, ngày 27/6/1985 Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành BLHS đầu tiên để thay thế các văn bản

pháp luật hình sự ban hành trước đây. Bộ luật này có hiệu lực kể từ ngày 01

tháng 01 năm 1986

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự

năm 2015

* Quy định của BLHS năm 1985 về tội trộm cắp tài sản

32

Trong BLHS năm 1985, các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại hai

chương: Chương IV. Các tội xâm phạm sở hữu XHCN và Chương VI. Các tội

xâm phạm sở hữu của công dân.

Tội trộm cắp tài sản XHCN được quy định tại Điều 132 BLHS năm 1985

như sau: “1. Người nào trộm cắp tài sản XHCN thì bị phạt cải tạo không giam

giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 5 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm

đến 12 năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt nguy hiểm; c) Hành hung

để tẩu thoát; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ) Tái phạm nguy hiểm

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10

năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”

Tội trộm cắp tài sản của công dân được quy định tại Điều 155 BLHS năm

1985 như sau: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02

năm đến 10 năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành

hung để tẩu thoát; c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm

trọng khác; đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 07

năm đến 20 năm”.

Từ quy định trên BLHS năm 1985 cho thấy, BLHS năm 1985 đã kế thừa

những kỹ thuật lập pháp hình sự về các tội trộm cắp tài sản trong các văn bản

được ban hành trước đây, nhưng có quy định chặt chẽ, cụ thể hơn. Đặc biệt là

vẫn có sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội trộm cắp tài

sản của công dân, nhất là trong việc quy định chế tài đối với hai tội phạm này, cụ

thể: Đối với tội xâm phạm tài sản XHCN thì chế tài nghiêm khắc nhất là tử hình,

còn đối với tội trộm cắp tài sản của công dân thì chế tài nghiêm khắc nhất là 20

năm tù.

33

Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm mà thực tiễn đặt ra

cho từng giai đoạn, BLHS năm 1985 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung 4 lần

vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Trong các lần sửa đổi, bổ sung này, quy

định về các tội: trộm cắp tài sản gần như được giữ nguyên ngoại trừ có bổ sung

một tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất chuyên nghiệp” vào điểm b

khoản 2 Điều 155 tội trộm cắp tài sản của công dân.

Như vậy, BLHS năm 1985 được ban hành, trong đó có quy định hai tội:

trộm cắp tài sản XHCN và trộm cắp tài sản của công dân với các chế tài khác

nhau đã đánh dấu một bước phát triển trong kỹ thuật lập pháp hình sự. Những

quy định của BLHS năm 1985 về hai tội trộm cắp tài sản là cơ sở pháp lý thống

nhất để định tội danh và quyết định hình phạt đối với hành vi trộm cắp tài sản.

Song, do được ban hành trong thời kỳ tập trung quan liêu, bao cấp, đồng thời sau

nhiều lần sửa đổi, bổ sung thì BLHS năm 1985 không còn là một chính thể thống

nhất, bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, gây khó khăn, vướng mắc trong việc áp

dụng, nhất là việc xác định tài sản bị trộm cắp thuộc tài sản XHCN hay là tài sản

của công dân. Điều đó đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện

Bộ luật này để khắc phục những vướng mắc trong thực tế áp dụng và đáp ứng

yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. BLHS năm 1999

ra đời chủ yếu để đáp ứng yêu cầu trên.

* Quy định của BLHS năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội trộm

cắp tài sản

BLHS năm 1999 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày

21/12/1999 có hiệu lực từ ngày 01/01/2000

Trong BLHS năm 1999, Chương IV. Các tội xâm phạm tài sản XHCN và

Chương VI. Các tội xâm phạm tài sản của công dân của BLHS năm 1985 đã

được nhập làm một gọi chung là “các tội xâm phạm sở hữu” được quy định tại

Chương IV của Bộ luật này. Trong BLHS năm 1999, tội trộm cắp tài sản được

quy định tại Điều 138 như sau: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác

34

có giá trị từ 500 nghìn đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 500 nghìn đồng

nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi

chiếm đoạt hoặc bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà

còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06

tháng đến 3 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02

năm đến 7 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy

hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e)

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; g) Gây

hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 7

năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới

500 triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12

năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500

triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng”.

Như vậy, BLHS năm 1999 có sự sửa đổi, bổ sung đáng kể về tội trộm cắp

tài sản so với quy định của BLHS năm 1985 về tội phạm này. Cụ thể:

+ Một là, tội trộm cắp tài sản XHCN (Điều 132) và tội trộm cắp tài sản của

công dân (Điều 155 BLHS năm 1985) đã được nhập làm một tội, gọi chung là tội

trộm cắp tài sản, không có sự phân biệt tài sản XHCN với tài sản của công dân.

Điều này đã tạo thuận lợi cho thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý người có

hành vi trộm cắp tài sản, nhất là trong định tội danh và quyết định hình phạt.

+ Hai là, nhà làm luật đã định lượng trị giá tài sản bị trộm cắp làm ranh

giới giữa xử lý hình sự với xử phạt hành chính hành vi trộm cắp tài sản.

+ Ba là, nhà làm luật quy định 4 khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài

sản. Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm

35

hình sự và cá thể hóa hình phạt mà còn giúp cho việc quyết định hình phạt phù

hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản trong

các trường hợp phạm tội khác nhau.

+ Bốn là, nhà làm luật quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này,

đó là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng

Để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, cũng như đáp ứng yêu cầu thực

tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Bộ luật hình sự năm

1999 đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, trong đó có sự sửa đổi quan trọng

liên quan đến tội trộm cắp tài sản, đó là nâng mức trị giá tài sản bị trộm cắp từ

500.000 đồng lên 2.000.000 đồng làm ranh giới giữa xử lý hình sự với xử lý

hành chính.

Từ sự phân tích, đánh giá trên cho thấy, quy định của bộ luật hình sự năm

1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội trộm cắp tài sản ngày càng được hoàn

thiện, chặt chẽ, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước trong từ thời

kỳ nhất định. Tuy nhiên, qua hơn 15 năm áp dụng cho thấy, quy định của bộ luật

hình sự năm 1999 về tội phạm này, đã bộc lộ những hạn chế bất cập như: Nhà

làm luật không mô tả những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm cắp tài sản

mà chỉ nhắc lại tội danh khi quy định tại Điều 138; một số tình tiết định tội, định

khung hình phạt chưa thật cụ thể, rõ ràng, khó xác định như: Tình tiết “gây hậu

quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt

nghiêm trọng”.... Trong khi đó, các văn bản hướng dẫn áp dụng các tình tiết này

thì ban hành chưa kịp thời, nhiều nội dung vẫn còn chung chung, chưa thật cụ

thể, rõ ràng. Điều đó dẫn tới việc áp dụng pháp luật hình sự khi giải quyết các vụ

án về tội trộm cắp tài sản chưa được thống nhất.

Những hạn chế này, đã được BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm

2017) khắc phục.

* Quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) về tội trộm

cắp tài sản.

36

Trong BLHS hiện hành, tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173

Chương XVI như sau: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ

2.000.000 đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng

thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt hành chính về

hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm. b). Đã bị kết án về tội này hoặc về

một trong các tội quy định tại Điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175, và 290

của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính

của người bị hại và gia đình họ; đ. Tài sản là di vật, cổ vật.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ

2năm đến 7 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt

tài sản trị giá từ 50.000.000 đến dưới 200.000.000 đồng; d) Dùng thủ đoạn xảo

quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Tài sản là bảo vật quốc gia;

g)Tái phạm nguy hiểm.

3) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: thì bị phạt tù từ 07

năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản chị giá từ 200.000.000 đến dưới

500.000.000 đồng; b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12

năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên; b)

Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp;

5) Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

50.000.000 đồng

So với quy định của BLHS 1999, quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017) về tội trộm cắp có một số điểm mới sau đây:

+ Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã phi hình sự hóa hình phạt tù chung thân

đối với tội trộm cắp tài sản. Do vậy, hình phạt nghiêm khắc nhất đối với tội

phạm này là phạt tù đến 20 năm;

37

+ Thứ hai, BLHS năm 2015 bỏ tình tiết chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000

đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu định tội quy định tại khoản 1

Điều 138 BLHS năm 1999;

+ Thứ ba, BLHS năm 2015 bãi bỏ các tình tiết định khung có tính chất

định tính, trừu tượng, chung chung như: “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu

quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, quy định tại điểm

d khoản 2, điểm b khoản 3, điểm b khoản 4, Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999

+ Thứ tư, BLHS năm 2015 bổ sung một số tình tiết định tội như: “gây ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, tại điểm c, “tài sản là phương

tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” điểm d, “tài sản là di vật,

cổ vật” điểm d khoản 1 Điều 173;

+ Thứ năm, BLHS năm 2015 bổ sung một số tình tiết định khung hình

phạt tăng nặng như: “tài sản là bảo vật quốc gia” điểm a khoản 2; “lợi dụng

thiên tai dịch bệnh” điểm b khoản 3; “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh tình trạng

khẩn cấp” điểm 3 khoản 4 Điều 173.

Với những sửa đổi, bổ sung này cho thấy, quy định của BLHS hiện hành về

tội trộm cắp tài sản thực sự là cơ sở pháp lý vững chắc cho định tội danh, và quyết

định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,

chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng trong tình hình mới.

Tuy nhiên, qua hơn 02 năm áp dụng Bộ luật này cho thấy, quy định của

BLHS hiện hành về tội trộm cắp đã bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế cần tiếp

tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung vào thời gian tới (vấn đề này sẽ trình bày ở

38

Chương 3 luận văn)

Tiểu kết Chương 1

Từ kết quả nghiên cứu ở Chương 1, có thể rút ra một số kết luận cơ bản

sau đây:

+ Mặc dù tội trộm cắp tài sản đã được quy định khá sớm trong pháp luật

hình sự Việt Nam, đồng thời là một trong những tội có tính phổ biến trong đời

sống xã hội, nhưng đến nay một số vấn đề lý luận về tội phạm này vẫn chưa có

sự nhận thức thống nhất, đặc biệt là dấu hiệu lén lút chiếm đoạt tài sản của người

khác. Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận.

+ Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội có tính chất chiếm đoạt tài

sản, do vậy có nhiều dấu hiệu giống với các tội có tính chất chiếm đoạt tài sản

khác được quy định trong pháp luật hình sự. Tuy nhiên, giữa những tội phạm này

cũng có những điểm, dấu hiệu khác nhau. Nắm vững được những điểm giống và

khác nhau này giúp cho việc định tội danh đúng, hạn chế được sự nhầm lẫn giữa

tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt tài sản khác

+ Tội trộm cắp tài sản được quy định trong luật hình sự Việt Nam phù hợp

với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội cũng như yêu cầu đấu tranh phòng, chống

tội phạm bảo vệ quyền sở hữu tài sản của nhà nước cũng như của công dân trong

mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước và ngày càng được hoàn thiện. Những quy

định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản thực sự là cơ sở pháp lý cho

định tội danh và quyết định hình phạt bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp

39

luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

TẠI QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản

2.1.1. Đánh giá chung về tình hình xét xử của TAND quận Thanh Khê,

thành phố Đà Nẵng

Theo số liệu thống kê về xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố

Đà Nẵng thấy rằng, trong 05 năm từ 2015 đến 2019 TAND quận đã thụ lý, xét

xử 216/287 vụ, với 304/255 bị cáo về tội trộm cắp tài sản đạt 86,6 % về số vụ và

83,9 % về số bị cáo. Ở giai đoạn này, trung bình mỗi năm TAND quận đã thụ lý,

xét xử 43/37 vụ, với với 60/57 bị cáo. Cụ thể các năm được thể hiện ở bảng số

liệu thống kê sau đây:

Bảng 2.1. Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản của

TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010 - 2019

Thụ lý Xét xử Tỉ lệ % Năm Vụ (1) Bị cáo (2) Vụ (3) Bị cáo (4) 3/1 4/2

2015 64 85 80 92,1 94,1 59

2016 61 92 64 80,3 69,5 49

2017 62 88 72 80,6 81,8 50

2018 27 34 34 100,0 100,0 27

2019 2 5 5 100,0 100,0 2

Tổng 216 304 187 255 86,6 83,9

Nguồn: TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

Hình phạt được hội đồng xét xử quyết định áp dụng đối với người bị kết

40

án về tội trộm cắp tài sản được thể hiện ở bản hai.hai dưới đây

Bảng 2.2. Hình phạt được Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà

Nẵng quyết định áp dụng đối với người bị kết án về tội trộm cắp tài sản

giai đoạn 2015-2019

Hình phạt được áp dụng Bị Năm Cải tạo Tù Tù đến Tù đến 7 Tù đến Tù trên cáo giam giữ treo 3 năm năm 15 năm 15 năm

02 06 68 04 0 0 80 2015

2016 01 04 56 03 0 0 64

03 03 64 02 0 0 72 2017

2018 01 02 28 03 0 0 34

0 0 5 0 0 0 5 2019

Tổng 07 15 221 12 0 0 255

Nguồn: Số liệu thống kê xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

Qua bảng số liệu thống kê này thấy rằng, hình phạt mà Hội đồng xét xử

TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng đối với các bị

cáo phạm tội trộm cắp tài sản chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn, theo đó

221/255 bị cáo có mức phạt tù đến 3 năm; 12/255 bị cáo có mức phạt tù đến 7

năm; 15/255 bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Chỉ có 07 bị cáo bị phạt

cải tạo không giam giữ.

Từ số liệu thống kê được thể hiện ở hai bảng trên đây có thể thấy, số vụ và

bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản được TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà

Nẵng đưa ra xét xử sơ thẩm chiếm tỉ lệ cao (86,6% về số vụ và 83,9 % về số bị

cáo). Mặc dù những số liệu thống kê này chỉ là số liệu có tính chất định lượng,

nhưng phần nào cũng phản ánh chất lượng xét xử nói chung định tội danh và

quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng. Bởi, các vụ án về tội

trộm cắp tài sản được xét xử chiếm tỉ lệ cao so với các vụ án được thụ lý chứng

41

tỏ những nỗ lực của TAND quận trong việc xét xử kịp thời, nhanh chóng các vụ

án về tội trộm cắp tài sản, khắc phục được tình trạng tồn đọng án.

Về cơ bản, công tác xét xử nói chung, định tội danh và quyết định hình

phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật. Trong giai đoạn này, không có trường hợp nào Hội đồng xét xử kết án

oan người vô tội, hoặc để lọt tội phạm. Số bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng

cáo, kháng nghị chiếm tỉ lệ không đáng kể. Bản án, quyết định sơ thẩm bị hủy do

lỗi chủ quan của Hội đồng xét xử mặc dù vẫn còn nhưng có chiều hướng giảm

(năm sau giảm hơn năm trước). Tranh tụng tại phiên tòa được đẩy mạnh và bảo

đảm thực chất hơn. Tình trạng bản án tuyên không rõ rằng gây khó khăn cho

công tác thi hành án đã được khắc phục. Hình phạt được Hội đồng xét xử quyết

định áp dụng đối với người bị kết án tương xứng với tính chất, mức độ nguy

hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

trong từng vụ án cụ thể, bảo đảm hình phạt đã tuyên có tính khả thi, góp phần đạt

được mục đích phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.

2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội trộm cắp

tài sản

2.2.1 Kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt theo

cấu thành cơ bản

Khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội

đồng xét xử đã xác định và đánh giá một cách khách quan, toàn diện những tình

tiết thực tế liên quan đến vụ án qua việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và kết quả

tranh tụng tại phiên tòa. Những tình tiết mà hội đồng xét xử tập trung đánh giá

gồm: hành vi phạm tội được thực hiện có trực tiếp xâm phạm đến quyền sử hữu

hợp pháp của người khác hay không (khách thể của tội phạm), đối tượng tác

động của hành vi vi phạm tội có phải là tài sản đang có người quản lý hay là tài

sản bị bỏ quên, bị thất lạc, tức là không còn nằm trong sự chiếm hữu của chủ tài

sản? Do xác định được chính xác đối tượng tác động của hành vi phạm tội nên

42

đã khắc phục được tình trạng nhầm lẫn giữa tội trộm cấp tài sản với tội chiếm

giữ trái phép tài sản. Cùng với việc xác định khách thể, đối tượng tác động của

tội phạm, Hội đồng xét xử còn chú ý đến việc xác định, đánh giá mặt khách quan

của tội trộm cắp tài sản, nhất là xác định hành vi mà người phạm tội thực hiện có

phải là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác hay không. Đây là vấn

đề quan trọng nhất cần chứng minh làm rõ, bởi cũng giống như một số tội có

hành vi chiếm đoạt tài sản khác (như công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt...) mặt khách quan của tội trộm cắp mặc dù cũng có hành

vi chiếm đoạt tài sản, nhưng khác những tội phạm này ở thủ đoạn chiếm đoạt.

Do vậy, chỉ có thể kết luận là tội trộm cắp tài sản nếu hành vi chiếm đoạt tài sản

được thực hiện bằng thủ đoạn lén lút mà không phải là thủ đoạn khác như: công

khai, ngang nhiên chiếm đoạt, hoặc thủ đoạn gian dối. Do đánh giá đúng thủ

đoạn chiếm đoạt, mà trong thực tiễn xét xử, TAND quận Thanh Khê, thành phố

Đà Nẵng đã định tội danh tội trộm cắp tài sản một cách chính xác, không có sự

nhầm lẫn tội phạm này với các tội phạm khác mà mặt khách quan cũng có hành

vi chiếm đoạt tài sản.

Để có cơ sở áp dụng biện pháp xử lý hình sự hay hành chính, TAND quận

Thanh Khê đã chủ động phối hợp với cơ quan hữu quan trong việc xác định trị

giá tài sản bị chiếm đoạt có đáp ứng được mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm

hình sự hay không. Đây là vấn đề hết sức phức tạp, gây không ít khó khăn,

vướng mắc trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi

trộm cắp tài sản. Bởi theo quy định của Điều 138 BLHS năm 1999 (Sửa đổi, bổ

sung năm 2009), nay là Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017),

thì hành vi trộm cắp tài sản chỉ cấu thành tội phạm nếu tài sản bị chiếm đoạt có

trị giá từ 02 triệu đồng trở lên, dưới mức đó thì phải thuộc một trong các trường

hợp sau mới cấu thành tội phạm: (1) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành

vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; (2) Đã bị kết án về tội này hoặc về một

trong những tội quy định tại các Điều: 168, 169, 170, 171, 172, 174,179 và 290

43

của Bộ luật này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Nhận thức được điều

này, Hội đồng xét xử đã bám sát vào các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy

định của BLHS để xác định trị giá tài sản bị chiếm đoạt làm cơ sở cho việc truy

cứu trách nhiệm hình sự nói chung, định tội danh cũng như xác định khung hình

phạt để áp dụng nói riêng. Vụ án cụ thể sau đây là một minh chứng. Tại Bản án

số 67/2019/HS-TS ngày 01/8/2019, TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

đã căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51

BLHS…. tuyên bố: Bị cáo Ngô Thị Kim Liên phạm tội: “Trộm cắp tài sản” xử

phạt: Bị cáo Ngô Thị Kim Liên 9 tháng tù. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

“Để có tiền tiêu xài nên Ngô Thị Kim Liên cùng Hồ Quang Minh Thành đã thực

hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản của người khác:

+ Vụ thứ nhất: khoảng 13 giờ ngày 01/01/2019 Hồ Quang Minh Thành

đến điều khiển mô tô biển kiểm soát năm tư 54Z5-7056 chở Ngô Thị Kim Liên đi

dạo trên một số tuyến đường ở quận Thanh Khê nhằm phát hiện sơ hở của chủ

tài sản để trộm cắp tài sản. Khi đến chiếc shop bán quần áo “Bồ Công Anh” tại

số 28 A đường Phan Thanh, phường Thạch Gián, quận Thanh Khê, thành phố

Đà Nẵng, thấy anh Nguyễn Văn Vĩnh để xe ô tô ở trước cửa shop bồ công anh

trên xe có treo một túi xách, bên trong đựng một áo giả da, hai áo khoác và một

áo thun, Thành dừng xe đứng cảnh giới còn Liên tiếp cận đến vị trí chiếc xe đậu

lấy chiếc túi xách của anh Vinh rồi nhanh chóng lên xe cùng thành tẩu thoát vụ

việc được camera tại shop bồ công anh ghi lại. Sau đó, cả hai mang tài sản trộm

cắp được đến chợ Cồn bán cho một người không rõ lai lịch với số tiền là

600.000 đồng rồi chia nhau tiêu xài.

Theo Bản án kết luận định giá tài sản 31/01/2019 của Hội đồng định giá tài

sản trong tố tụng hình sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thì số tài sản bị

trộm cắp trong vụ án này do không thu hồi được lên không có cơ sở đánh giá.

Người bị hại Nguyễn Văn Vinh xác định tổng chị giá tài sản bị mất là 1.810.000 đ

(Một triệu, tám trăm mười nghìn đồng) và yêu cầu Ngô Thị Kim Liên phải bồi

44

thường số tiền trên. Ngô Thị Kim Liên không thống nhất với trị giá tài sản mà

người bị hại đưa ra và chỉ đồng ý mức bồi thường là 1.000.000 đồng (Một triệu

đồng).

+ Vụ thứ hai, khoảng 20 giờ ngày 12/01/2019, Ngô Thị Kim Liên một

mình tự điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 54Z5-7056 đi trên tuyến đường Phan

Thành, quận Thanh Khê. Khi đến chiếc shop bán quần áo “18+ strore” tại số

42B, đường Phan Thanh thấy anh Từ Văn Tuấn có để xe mô tô trước cửa shop,

trên xe có treo ba túi xách bên trong có 01 quần Jean dài, 02 quần Jean lửng, 02

áo sơ mi và 02 nón lưỡi trai, Liên dừng xe đến lấy ba túi xách trên rồi lên xe tẩu

thoát. Sau đó Liên mang đến chợ Cồn bán cho 01 người không rõ nhân thân, lai

lịch với số tiền 500.000 đồng. Do tài sản không thu hồi được nên không thể định

giá tài sản bị trộm cắp. Nhưng anh Tuấn người bị hại cung cấp được hóa đơn

mua các tài sản bị trộm cấp với tổng số tiền là 1.950.000 đồng (Một triệu, chín

trăm năm mươi nghìn đồng).

+ Vụ thứ ba, lúc 16 giờ 30 phút ngày 15/3/2019, Hồ Quang Minh Thành

điều khiển xe mô tô BKS 43C1-403.79 chở Ngô Thị Kim Liên đi dạo trên các

tuyến đường tìm kiếm sơ hở của chủ tài sản để trộm cắp. Khi đến trước số nhà

150 đường Hàm Nghi, phường Thạc Gián, quận Thanh Khê thấy ông Nguyễn

Văn Linh có treo trên xe mô tô 01 mũ bảo hiểm và 01 túi xách, trong đó có 10

đôi đũa gỗ, 05 muỗng sắt, 03 hộp nhựa và 01 đồng hồ thông minh màu đen hiệu

Lenovo G03 nhưng không có người trông coi. Thành dừng xe đứng cảnh giới,

còn Liên tiếp cận đến chỗ kia, sẽ lấy chiếc túi treo trên xe của ông Linh rồi cùng

Thành tẩu thoát. Sau đó cả hai mang tài sản trộm cắp được đến chợ Hàn bán

cho 01 người không rõ nhân thân lai lịch được 150.000 đồng rồi chia nhau tiêu

xài, riêng chiếc đồng hồ hiệu Lenovo G03 thì Liên giữ lại sử dụng cá nhân.

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 19/4/2019 của Hội đồng định giá

tài sản trong đó trong tố tụng hình sự quận Thanh Khê kết luận: 10 đôi đũa gỗ

có trị giá 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng); 05 muỗng sắt có trị giá 15.000

45

đồng; 03 hộp nhựa có trị giá 40.000 đồng; 01 đồng hồ thông minh hiệu Lenovo

G03 có chị giá 650.000 đồng. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 725.000 đồng”.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã

được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: “Tính chất vụ

án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cho thấy bị cáo Ngô Thị Kim Liên

có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, để có tiền tiêu xài, bị cáo đã thực hiện

nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản với tổng số tiền 2.725.000 đồng. Hành vi

phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1

Điều 173 BLHS…”.

Chúng tôi thấy rằng nhận định như vậy của hội đồng xét xử là có cơ sở.

Bởi, mặc dù mỗi lần bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp trị giá tài sản đều dưới

2.000.000 đồng, nhưng đây là trường hợp bị cáo thực hiện nhiều lần cùng một

hành vi phạm tội trộm cắp tài sản và tổng trị giá tài sản của các lần trộm cắp là

2.728.000 đồng lên đã trên mức tối thiểu mà luật định để truy cứu trách nhiệm

hình sự. Do vậy, bị cáo Ngô Thị Kim Liên (người thực hiện nhiều lần cùng hành

vi trộm cắp tài sản) phải chịu trách nhiệm về tội trộm cắp tài sản theo quy định

tại khoản 1 Điều 173 BLHS hiện hành”

Đối với hành vi giúp sức của Hồ Quang Minh Thành trong vụ án này, Hội

đồng xét xử nhận thấy, về mặt hình thức là hành vi đồng phạm, nhưng tính chất

mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, bản thân Thành chưa bị kết án về

tội phạm sở hữu, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài

sản vì vậy Hội đồng xét xử không truy cứu trách nhiệm hình sự là có cơ sở.

2.2.2. Kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt

theo cấu thành tăng nặng

Đối với những vụ án trộm cắp tài sản có tình tiết định khung tăng nặng

quy định tại khoản 2, 3, 4 của điều luật, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung,

Hội đồng xét xử nói riêng đã tập trung thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ

những tình tiết này để có cơ sở áp dụng tình tiết định khung tăng nặng theo đúng

46

quy định của BLHS.

Chẳng hạn, theo Bản án số 78/2017/HS-ST ngày 6/8/2017 của TAND

quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Hội đồng xét xử đã tuyên bố bị cáo Mai

Văn Lạc phạm tội: “Trộm cắp tài sản, áp dụng Điểm c, khoản 2, Điều 138 BLHS

năm 1999; Điểm a khoản 1 Điều 48, điểm b khoản 1 Điều 46 xử phạt bị cáo Mai

Văn Lạc 05 năm tù. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong khoảng thời

gian từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2017, bị cáo Mai Văn Lạc đã thực hiện nhiều

vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Thanh Khê và các quận khác của thành

phố Đà Nẵng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo Lạc chiếm đoạt lên tới 42.650.000

đồng. Cụ thể là 14/2/2017 trộm cắp tài sản của anh Bùi Thanh Hùng, có tổng trị

giá tài sản chiếm đoạn là 8.700.000 đồng, ngày 17/2/2017 trộm cắp tài sản của

ông Lê Phương có tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 15.000.000 đồng; ngày

2/3/17 trộm cắp của bà Huỳnh Thị Phượng một số máy móc thiết bị có tổng trị

giá tài sản là 16.100.000 đồng; ngày 13/4/2017 trộm cắp của ông Trần Quốc Sỹ

có trị giá là 1.350.000 (Một triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng)”. Bị cáo là

người có nhân thân xấu, cụ thể là vào ngày 27/2/2016, bị TAND quận Thanh

Khê xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, ngày 25/12/2007, bị TAND

thành phố Đà Nẵng xử phạt 04 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”, ngày 22/4/2011,

bị TAND quận Thanh Khê xử phạt 9 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, ngày

23/4/2012, bị TAND quận Thanh Khê xử phạt 03 năm tù về tội “trộm cắp tài

sản”; ngày 10/9/2015 bị TAND huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt 18

tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Bị cáo phạm tội lần này khi đã tái phạm nguy

hiểm chưa được xóa án tích nên phải chịu trách nhiệm về tình tiết định khung

tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS

năm 1999. Đồng thời, chỉ trong một thời gian ngắn bị cáo thực hiện nhiều vụ

trộm cắp tài sản nên bị cáo còn phải chịu trách nhiệm về tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS

năm 1999. Việc Hội đồng xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà

47

Nẵng áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm

1999 xử phạt bị cáo Mai Văn Lạc là hoàn toàn có cơ sở, đáp ứng yêu cầu đấu

tranh phòng, chống tội phạm.

2.2.3. Kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt đối

với trường hợp đặc biệt

Đối với những trường hợp phạm tội đặc biệt, nhất là trường hợp đồng

phạm tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử của TAND quận Thanh Khê Đà

Nẵng đã tập trung làm rõ vai trò của từng người đồng phạm trên cơ sở đó thực

hiện triệt để nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm. Vụ án

cụ thể sau đây thể hiện điều này. Tại Bản án số 80/2019/HS-ST ngày 27/8/2019

của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở nội dung vụ án, căn

cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng

xét xử quyết định: Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Trần Phương, Nguyễn Văn Tấn

Đạt và Nguyễn Đức Anh phạm tội “Trộm cắp tài sản”, căn cứ vào điểm a, b

khoản 2 Điều 173; điểm b, s, r khoản 1, khoản 2, Điều 51 BLHS năm 2015, xử

phạt bị cáo Huỳnh Trần Phương 3 năm 6 tháng tù; căn cứ điểm a khoản 2 Điều

173 điểm b, s, g khoản 1 khoản 2 điều 51 BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo

Nguyễn Văn Tấn Đạt 3 năm tù; căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173, điểm b, s,

g khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 xử phạt bị

cáo Nguyễn Đức Anh 18 tháng tù.

Hội đồng xét xử của TAND quận Thanh Khê áp dụng điều, khoản, điểm

nêu trên tuyên phạt các bị cáo là có cơ sở. Bởi lẽ đây là một vụ án đồng phạm có

tổ chức (phạm tội có tổ chức). Khi thực hiện tội trộm cắp tài sản, bị cáo Phương,

Đạt, Anh đã cấu kết chặt chẽ cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo

có sự bàn bạc, phân công vai trò, trách nhiệm của từng người và cùng nhau thực

hiện hành vi phạm tội. Do vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS hiện

hành thì đây là trường hợp phạm tội có tổ chức. Đồng thời, tình tiết “có tổ chức”

được BLHS quy định là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm a khoản 2 Điều

48

173. Vì thế, các bị cáo đều phải chịu trách nhiệm về tình tiết định khung tăng

nặng này. Ngoài ra, đối với vụ án này, Hội đồng xét xử của TAND quận Thanh

Khê còn xác định rõ tính chất, mức độ tham gia của từng người đồng phạm trong

vụ phạm tội trộm cắp tài sản nhằm thực hiện triệt để nguyên tắc cá thể hóa hình

phạt khi giải quyết vụ án. Cụ thể là Hội đồng xét xử đã nhận định: Trong vụ

đồng phạm này, bị cáo Huỳnh Trần Phương là người rủ rê, khởi xướng và

Phương là người thực hành tích cực nhất. Bị cáo đã thực hiện tổng cộng 10 lần

trộm cắp tài sản với tổng trị giá tài sản là 46.490.000 đồng. Bị cáo phạm tội có

tổ chức và có tính chất chuyên nghiệp lên phải chịu trách nhiệm hình sự về

những tình tiết “có tổ chức” và tình tiết “có tính chất chuyên nghiệp” quy định

tại điểm a, b khoản 2 Điều 173 BLHS hiện hành. Với tính chất, mức độ phạm tội

của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải xử phạt bị cáo Phương với mức

án nghiêm khắc, tương xứng với tình tiết tính chất, mức độ nguy hiểm của hành

vi mà bị cáo đã thực hiện”.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn Tuấn Đạt, Hội đồng xét xử nhận định: “Bị

cáo tham gia vụ trộm cắp tài sản với vai trò giúp sức tích cực trong vụ án. Bị

cáo tham gia 8 lần trộm cắp tài sản cùng với bị cáo Phương cảnh giới cho

Phương thực hiện việc trộm cắp tài sản. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo Đạt tham

gia cùng với bị cáo Phương chiếm đoạn là 39.790.000 đồng. Do vậy, cũng như

bị cáo Phương, bị cáo Nguyễn Văn Tấn Đạt phạm tội với 02 tình tiết định khung

tăng nặng quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 173 BLHS hiện hành. Hội đồng

xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo Đạt với mức hình phạt tương xứng với

hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Đối với bị cáo Nguyễn Đức Anh, Hội đồng xét xử nhận thấy rằng: “Bị cáo

chỉ tham gia 03 lần trộm cắp tài sản cùng với Phương với tổng trị giá tài sản bị

chiếm đoạt là 11.390.000 đồng. Tuy nhiên, mặc dù không phải là người trực

tiếp trộm cắp tài sản, nhưng bị cáo là người giúp sức tích cực để các bị cáo thực

hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy, bị cáo Anh cũng phải chịu trách nhiệm về

49

tình tiết định khung tăng nặng có tổ chức quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173

BLHS năm 2015”

2.2.4. Những hạn chế, sai sót trong định tội danh và quyết định hình

phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Bên cạnh những mặt tích cực, những kết quả đạt được nêu trên, hoạt động

định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản của TAND

quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng cũng không tránh khỏi một số hạn chế, sai

sót nhất định, đó là:

* Thứ nhất, thiếu sót trong định tội danh.

Qua tìm hiểu Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác xét xử và phân

tích ngẫu nhiên 20 bản án về tội trộm cắp tài sản của TAND quận Thanh Khê

thấy rằng, trong định tội danh ít xảy ra sai sót hơn so với hoạt động quyết định

hình phạt. Song không vì thế, mà hoạt động định tội danh của TAND quận

Thanh Khê hoàn toàn không có hạn chế, sai sót nhất định, đó là:

- Sai sót phổ biến nhất là sai sót trong việc xác định trị giá tài sản bị trộm

cắp làm cơ sở cho việc định tội cũng như định khung hình phạt.

Đối với tội trộm cắp tài sản , vấn đề định giá nhằm xác định chính xác trị

giá tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định hành

vi trộm cắp tài sản có cấu thành tội phạm hay không, và nếu cấu thành tội phạm

thì áp dụng khung hình phạt nào (khung cơ sở hay khung tăng nặng) để truy cứu

trách nhiệm hình sự người phạm tội.

Hiện nay, việc xác định trị giá tài sản được giao cho Hội đồng định giá tài

sản trong tố tụng hình sự. Song chưa có những quy định cụ thể nhằm ràng buộc

trách nhiệm của Hội đồng định giá đối với kết quả định giá tài sản của mình,

cũng như chưa có những tiêu chí cụ thể làm căn cứ để xác định trị giá tài sản bị

chiếm đoạt. Điều này có thể dẫn tới sự thiếu khách quan, chính xác, thậm chí có

sự tùy tiện trong việc định giá tài sản. Trong khi đó, theo quy định của Điều 138

BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Điều 173 BLHS năm 2015 thì

50

hành vi trộm cắp tài sản chỉ cấu thành tội phạm và bị xử lý hình sự nếu tài sản bị

chiếm đoạt có trị giá từ 2 triệu đồng trở lên. Do vậy, nếu trị giá tài sản bị trộm

cắp dưới 2 triệu đồng và không thuộc một trong những trường hợp có bổ sung

tình tiết như: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà

còn vi phạm, hoặc đã bị kết án về một trong các tội chiếm đoạt tài sản, chưa

được xóa án tích mà còn vi phạm thì hành vi trộm cắp tài sản chưa cấu thành tội

phạm và chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính.

Trong thực tiễn xét xử các vụ án trộm cắp tài sản, TAND quận Thanh Khê

dường như chỉ căn cứ vào kết luận định giá tài sản bị chiếm đoạt của Hội đồng

định giá tài sản trong tố tụng giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự người phạm

tội, kể cả trường hợp nội dung kết luận định giá tài sản thiếu chính xác. Điều này

có thể dẫn tới xét xử oan sai hoặc để lọt tội phạm.

Ngoài hạn chế nêu trên trong quá trình xét xử các vụ án trộm cắp tài sản,

Hội đồng xét xử TAND quận Thanh Khê còn mắc sai sót trong việc xác định

tổng trị giá tài sản các lần bị xâm phạm để giải quyết vụ án đối với trường hợp

một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi trộm cắp tài sản, nhưng mỗi lần

tổng trị giá tài sản bị xâm phạm đều dưới mức tối thiểu (dưới 2 triệu đồng) để

truy cứu trách nhiệm hình sự.

Điển hình là vụ: “Nguyễn Đức Gia Huân và Bùi Quốc Huy là những

người làm thuê tại cửa hàng sơn Minh Thành Phát tại địa chỉ 470 Lê Duẩn,

phường Chính Giám, quận Thanh Khê, Đà Nẵng do ông Lê Sáu làm chủ. Căn cứ

vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy từ ngày 24/4/2015 đến ngày 29/4/2015

lợi dụng sơ hở của chủ cửa hàng sơn “Minh Thành Pháp”, Huân cùng Huy thực

hiện 03 vụ trộm cắp tài sản của cửa hàng.

+ Lần thứ nhất, khoảng 10 giờ ngày 24/4/2015, Huân cùng Huy trộm cắp

2 thùng sơn dầu Expo của cửa hàng đem bán được 700.000 đồng rồi chia nhau

tiêu xài cá nhân. Qua định giá xác định trị giá 2 thùng sơn bị trộm cắp là

900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng).

51

+ Lần thứ hai, khoảng 12 giờ ngày 28/4/2015 lợi dụng chủ cửa hàng ngủ

trưa, Quân cùng Huy trộm cắp 2 thùng sơn dầu EXPO của cửa hàng (mỗi thùng

có bốn lon loại 3 lít) rồi đem bán được 1.400.000 đồng chia đôi mỗi người

700.000 đồng tiêu xài cá nhân. Qua định giá xác định tại trị giá tài sản (2 thùng

sơn) mà Quân và Huy trộm cắp là 1.950.000 đồng.

+ Lần thứ ba, khoảng 15 giờ ngày 29/4/2015 Quân và Huy trộm cắp 2

thùng sơn dầu EXPO (mỗi thùng 12 lon loại 0,8 lít) rồi đem bán được 1.100.000

đồng chia nhau tiêu xài. Qua định giá, xác định trị giá tài sản Quân và Huy trộm

cắp của cửa hàng là 1.850.000 đồng. Tổng trị giá tài sản ba lần Quân và Huy

trộm cắp là 4.700.000 đồng”.

Đối với vụ án này, Hội đồng xét xử TAND quận Thanh Khê, thành phố

Đà Nẵng đã căn cứ vào điểm a, mục 5, Phần II Thông tư liên tịch số

02/2001/TTLT ngày 25/12/2001 của TAND, VKSNDTC – Bộ công an, Bộ Tư

pháp để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Quân và Huy về tội trộm cắp tài

sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Chúng

tôi cho rằng, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 5, Phần II Thông tư liên

tịch số 02/2001/TTLT để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Quân và bị

cáo Huy là chưa thật chính xác và thuyết phục. Bởi, theo mục 5, Phần II thông tư

này thì: “Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm

phạm sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để

truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS và không thuộc một trong

các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời trong các hành

vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử

phạt hành chính nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên

mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, thì người

thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phạm xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng giá trị tài sản của các lần

bị xâm phạm, nếu:

52

a) Các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp

nhau về thời gian.

b). Việc thực hiện các hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chuyên

nghiệp, lấy tài sản do xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính.

c) Với mục đích xâm phạm sở hữu, nhưng do điều kiện, hoàn cảnh khách

quan nên việc xâm phạm phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị

xâm phạm mỗi lần dưới 500.000 đồng (nay là dưới 02 triệu đồng)

Đối chiếu diễn biến của vụ trộm cắp này với điểm a Phần II Thông tư liên

tịch số 02/2011/TTLT, theo chúng tôi đây không phải là trường hợp các hành vi

trộm cắp tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về thời gian, mà

là trường hợp quy định tại điểm c mục 5 Phần II của Thông tư liên tịch số

02/2001/TTLT, tức là với mục đích xâm phạm sở hữu (mục đích chiếm đoạt tài

sản của cửa hàng) nhưng do tài sản công kềnh, có trọng lượng tương đối nặng,

khó chuyển dịch, dễ bị phát hiện…do hoàn cảnh khách quan nên các bị cáo Huân

và Huy không thể lấy một lần mà phải thực hiện ba lần với tổng giá trị tài sản

trộm cắp là 4.700.000 đồng (Bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng) nên các bị cáo phải

chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS

năm 1999, điểm c mục 5 phần II của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT

- Sai sót trong việc đánh giá tình tiết “hành hung để tẩu thoát” dẫn tới

định tội danh không đúng trường hợp có sự chuyển hóa từ tội trộm cấp tài sản

thành tội cướp tài sản (đầu trộm đuôi cướp). Cụ thể là tại Bản án hình sự sơ thẩm

số 129/2015/HS-ST ngày 12/8/2015 của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà

Nẵng đã quyết định: “Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tứ phạm tội trộm cắp tài

sản, áp dụng điểm d khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 xử phạt Nguyễn Văn Tú

phạm tội trộm cắp tài sản, áp dụng điểm d khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 xử

phạt Nguyễn Văn Tú 03 năm, 06 tháng tù”. Nội dung vụ án như sau: “Khoảng

19 giờ ngày 16/5/2015, Nguyễn Văn Tú đi bộ quanh khu dân cư để tìm xe máy

trộm cắp. Khi đi ngang qua số nhà 136/3 đường Hải Phòng, thành phố Đà

53

Nẵng, Tú thấy một xe mô tô hiệu Honda Air Blake màu đỏ bạc, biển kiểm soát

54N3-7310 của anh Nguyễn Văn Huệ để dưới chân cầu thang. Lợi dụng không

có ai trông coi, Tú đột nhập vào dùng đoản đem theo phá được khóa xe rồi dắt

xe ra ngoài đường tẩu thoát. Nhưng vừa ra khỏi cổng thì bị anh Huệ đi bộ về

phát hiện hô hoán những người hàng xóm cùng bắt giữ khi Tú vừa ngồi lên xe

của anh Huệ nổ máy tẩu thoát thì bị anh Huệ giữ lại được. Thấy vậy, Tú dùng

chân đạp mạnh vào người anh Huệ làm anh ngã xuống đường. Rồi nổ xe máy

cho xe chạy, nhưng bị mọi người hàng xóm bắt giữ được”.

Về vụ án này, khi xét xử tại phiên tòa, luật sư của người bị hại cho rằng,

Hội đồng xét xử áp dụng khoản d điểm d khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 xử

phạt Tú 03 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung tăng

nặng là “hành hung để tẩu thoát” là không chính xác. Bởi theo quy định tại mục

6 (6.1 và 6.2) của Phần II Thông tư liên tịch số 02/2011/ TTLT của TAND -

VKSNDTC – BCA – BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 thì phạm tội thuộc trường

hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt

được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ thì

đã có hành vi chống trả lại người bị bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như

đánh, chém, bắn, xô ngã ... nhằm tẩu thoát; Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt

được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác dành lại, mà người phạm

tội tiếp tục dùng vũ lực đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực tấn công người bị hại

hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không

phải là hành hung để tẩu thoát mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp

tài sản.

Trở lại vụ án này thấy rằng, vướng mắc ở đây là việc xác định Tú đã

chiếm đoạt được chiếc xe máy của anh Huệ chưa? Theo quy định tại Điều 138

BLHS năm 1999, tội trộm cắp hoàn thành khi chiếm đoạt được tài sản, tức là

người phạm tội đã thực sự chiếm hữu được tài sản trên thực tế. Căn cứ vào các

tình tiết của vụ án có thể thấy Tú chỉ mới dắt được chiếc xe máy của anh Huệ ra

54

tới cổng chưa kịp nổ máy tẩu thoát thì bị anh Huệ phát hiện giữ lại được. Vì thế,

Tú đã dùng chân đạp anh Huệ ngã xuống đất nhằm chiếm đoạt cho được chiếc

xe máy của anh Huệ. Thực chất, đây là trường hợp dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt

tài sản chứ không phải là trường hợp hành hung để tẩu thoát. Do vậy, cần phải

xử phạt Tú về tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999 mới

đúng.

* Thứ hai, thiếu sót trong quyết định hình phạt

Qua tìm hiểu thực tiễn xét xử các vụ án về tội “trộm cắp tài sản” của

TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thấy rằng, những sai sót trong

quyết định hình phạt chủ yếu được thể hiện ở một số trường hợp sau:

+ Một là, quyết định hình phạt chưa thật sự tương xứng với tính chất, mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp tài sản và người phạm tội. Điển

hình là vụ án sau đây: “Trong tháng 01/2019, tại quận Thanh Khê, Hải Châu,

thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Phi Hùng đã liên tiếp thực hiện 06 vụ trộm cắp tài

sản, tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Phi Hùng trộm cắp là 204.200.000 đồng. Xét

tính chất vụ án và hành vi phạm tội của Nguyễn Phi Hùng thì thấy, Hùng là một

đối tượng sống lang thang, không có nghề nghiệp. Để có tiền nuôi sống bản thân

và tiền tiêu xài cá nhân, Hùng đã tự chế tạo đoạn phá khóa điện, khóa cốp xe mô

tô làm công cụ để thực hiện các vụ trộm cắp xe máy. Hùng đã thực hiện trót lọt

được 06 vụ thì bị bắt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã

được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử quyết định: Tuyên bố bị cáo

Nguyễn Phi Hùng phạm tội trộm cắp tài sản, áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173,

điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt

Nguyễn Phi Hùng 08 năm tù, thời hạn tù tính từ 13/2/2019”.

Về vụ án này chúng tôi thấy, mức hình phạt tù mà Hội đồng xét xử TAND

quận Thanh Khê quy định áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Phi Hùng chưa thật sự

tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

55

Bởi, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

không đầy đủ, toàn diện, cụ thể là đã bỏ lọt một tình tiết tăng nặng trách nhiệm

hình sự “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b Điều 52

BLHS hiện hành. Theo mục 5, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày

12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy

định của BLHS năm 1999 thì: “Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất

chuyên nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân

biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình

sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án

tích.

b) Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết

quả của việc phạm tội là nguồn sống chính”.

Đối chiếu với hướng dẫn tại nghị quyết này cho thấy, hành vi phạm tội

của Nguyễn Phi Hùng hoàn toàn thỏa mãn điều kiện của tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

Song, Hội đồng xét xử TAND quận Thanh Khê chỉ căn cứ vào tình tiết

phạm tội từ hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 không căn cứ

vào tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” để quyết định áp dụng mức

hình phạt đối với bị cáo Hùng. Do vậy, mức hình phạt 08 năm tù được áp dụng

đối với bị cáo Hùng chưa thật sự tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi phạm tội.

+ Hai là, cân nhắc chưa đầy đủ, toàn diện các tình tiết giảm nhẹ, dẫn tới

mức hình phạt đã tuyên không thỏa đáng, ảnh hưởng đến chính sách hình sự

hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội được đề cập trong Nghị quyết số

49/NQ-TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020. Vụ án sau đây là một minh chứng: “Ngày 8/3/2015, Hoàng Duy Tùng

sinh năm 1998 đã có hành vi trộm cắp tài sản của chị Loan là chị gái của Tùng

56

gồm: 01 máy tính laptop hiệu Acer và 01 điện thoại di động iPhone 6 plus màu

vàng. Sau đó đến chợ Cồn thành phố Đà Nẵng bán được 15 triệu đồng để tiêu

xài. Buổi chiều ngày 8/3/2015 Tùng về nhà khai nhận với gia đình về việc trộm

cắp tài sản của chị Loan. Nghe theo lời khuyên của gia đình ngày 10/3/2015,

Tùng đến công an quận Thanh Khê khai báo toàn bộ sự việc. Ngày 18/3/2015

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Thanh Khê kết luận: Tổng giá trị

tài sản mà Tùng trộm cắp của chị Loan là 20.150.000 đồng”.

Căn cứ vào nội dung vụ án cũng như các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã

được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét thấy hành vi của bị cáo Tùng gây

nguy hiểm cho xã hội, nhưng Tùng phạm tội khi còn dưới 18 tuổi, đồng thời tại

Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo có thái độ khai báo thành

khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị

cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự.

Mặt khác, người bị hại (chị Loan) là người thân đã có đơn gửi TAND

quận thanh Khê tha thiết đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Với những nhận định trên 16/6/2015 tại Bản án số 15/HS-TS Hội đồng xét

xử của TAND quận Thanh Khê quyết định: “Tuyên bố bị cáo Hoàng Duy Tùng

phạm tội trộm cắp tài sản, áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999, điểm h, b

khoản 1 Điều 146, Điều 3 BLHS năm 199 xử phạt bị cáo Hoàng Duy Tùng 09

tháng tù. Thời hạn tù tính từ 16/3/2015”.

Theo chúng tôi, trong vụ án này, mức hình phạt mà Hội đồng xét xử quyết

định áp dụng đối với bị cáo Tùng về cơ bản là tương xứng với tính chất, mức độ

nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Tuy

nhiên, Hội đồng xét xử lại không áp dụng khoản 1 Điều 46 để coi tình tiết

“người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây thiệt

hại về tài sản” theo quy định tại điểm c mục 5, Nghị quyết số 01/2000/NQ-

HĐTP ngày 4 tháng 8 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn

57

áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999. Như vậy, trong vụ án này, Hội

đồng xét xử chỉ căn cứ vào hai tình tiết giảm nhẹ là: “Phạm tội lần đầu và thuộc

trường hợp ít nghiêm trọng” điểm h và tình tiết “người phạm tội thành khẩn khai

báo, ăn năn hối cải” điểm b khoản 1 Điều 46 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Chúng tôi cho rằng, đối với vụ án này, Hội đồng xét xử có thể căn cứ vào

Điều 47, Điều 69 BLHS năm 1999 để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của

BLHS mà cụ thể là chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ (một hình phạt

thuộc loại nhẹ hơn). Có như vậy, vừa bảo đảm được nguyên tắc nhân đạo, vừa

bảo đảm được nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội quy định

tại Điều 69 BLHS năm 1999.

+ Ba là, vẫn còn trường hợp cho hưởng án treo không đúng quy định của

pháp luật. Cụ thể là: “Tại Bản án sơ thẩm số 109/2017/HS-ST 26/9/2017 của

TAND dân quận Thanh Khê, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, các

điểm g, b khoản 1 Điều 46, Điều 60 BLHS năm 1999 phải xử phạt: bị cáo Trần

Thị Mỹ Duyên sinh 19/7/2000 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, bị cáo

Nguyễn Huỳnh Phương Thúy sinh ngày 15 tháng 3 năm 2000 12 tháng tù cho

hưởng án treo, thời gian 02 năm kể từ ngày tuyên án về tội trộm cắp tài sản. Nội

dung vụ án tóm tắt như sau: Vào khoảng 16 giờ ngày 1 tháng 5 năm 2017 Trần

Thị Mỹ Duyên và Nguyễn Huỳnh Phương Thúy lợi dụng một số sinh viên về quê

nghỉ lễ không có mặt ở khu nhà trọ, đã dùng phương tiện mang theo cậy cửa ba

phòng trọ trộm cắp một máy tính xách tay nhãn hiệu Dell, 01 máy tính xách tay

hiệu Acer và 3 quần bò. Ngay buổi tối hôm đó 1/5/2017 thấy một số phòng trọ

cũng không có người, Duyên và Thúy tiếp tục cậy cửa trộm cắp hai xe đạp điện,

một nồi cơm điện hiệu Sanyo. Khi mang tài sản trộm cắp đi tiêu thụ thì bị phát

hiện bắt giữ.

Tại bản kết luận định giá tài sản của hội đồng định giá trong tố tụng quận

Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xác định tổng giá trị tài sản mà Duyên và

Thúy trộm cắp là 32.150.800 đồng”

58

Bản án sơ thẩm này của TAND quận Thanh Khê bị VKSND thành phố Đà

Nẵng kháng nghị phúc thẩm và ngày 2/10/2017 theo hướng không áp dụng Điều

60 BLHS năm 1990 cho các bị cáo hưởng án treo. Lý do Viện Kiểm sát kháng

nghị là vì:

Trong vụ án này, xét tính chất, mức độ phạm tội của hai bị cáo là nghiêm

trọng, đã dùng phương tiện chuẩn bị sẵn cạy cửa phòng trọ của sinh viên tiến

hành hai vụ trộm cắp tài sản trong vòng một ngày với tổng giá trị tài sản bị

chiếm đoạt lên tới 32.150.000 đồng. Như vậy, đây không thuộc trường hợp chưa

gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn quy định tại điểm g khoản 1 Điều 36

BLHS năm 1999. Trong khi đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm lại áp dụng tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này để cho các bị cáo hưởng án treo là không

đúng. Mặt khác, hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy

định tại điểm g Điều 48 BLHS là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Song

cấp sơ thẩm không xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này

là thiếu sót.

Căn cứ Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 thì: “Chỉ xem

xét cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

… d) Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản

1 Điều 48 của BLHS và có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên

trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của

BLHS, nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có 3 tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 1 tình tiết giảm nhẹ

quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS”. Đối chiếu với vụ án này thấy rằng, các bị

cáo không đủ điều kiện được hưởng án treo, vì chỉ có một tình tiết giảm nhẹ và

một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm quận

Thanh Khê cho các bị cáo trong vụ án này hưởng án treo là không đúng theo

pháp luật. Có sự sai sót này, một phần là do lỗi của VKSND quận Thanh Khê,

bởi trong Bản cáo trạng không thể hiện rõ nội dung vụ án, bỏ sót tình tiết phạm

59

tội nhiều lần.

2.2.5. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

Những thiếu sót, hạn chế khi định tội danh và quyết định hình phạt nêu

trên là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan chủ yếu sau đây:

* Thứ nhất, do những hạn chế, bất cập của những quy phạm pháp luật

hình sự quy định về các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói

riêng. Cụ thể là:

- Trong BLHS năm 1999, cũng như trong BLHS năm 2015, nhà lập pháp

vẫn sử dụng quy phạm giản đơn để quy định một số tội có hành vi chiếm đoạt tài

sản như: cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp tài sản, tức là chỉ nêu tội

danh mà không mô tả cụ thể các dấu hiệu của hành vi phạm tội. Điều đó đã dẫn

tới việc nhận thức và áp dụng tội trộm cắp tài sản, thậm chí có sự nhầm lẫn giữa

tội phạm này với các tội có tính chất chiếm đoạt tài sản khác.

- Một số tình tiết được nhà lập pháp quy định là dấu hiệu định tội cũng

như định khung hình phạt mang tính định tính, chẳng hạn, tình tiết “gây hậu quả

nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng” (trong BLHS năm 1999); hoặc tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,

trật tự, an toàn xã hội”, “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị

hại và gia đình họ” trong BLHS năm 2015. Trong khi đó, những tình tiết này

chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng, hoặc khi có văn bản hướng dẫn áp dụng

nhưng chưa thật sự cụ thể, rõ ràng, minh bạch. Điều đó khó có thể áp dụng thống

nhất những tình tiết này khi định tội cũng như khi quyết định hình phạt.

Hiện nay, trong BLHS năm 2015 có nhiều tình tiết mới được quy định là

dấu hiệu định tội, cũng như định khung hình phạt của tội trộm cắp tài sản nhưng

muốn xác định chính xác những tình tiết này thì vẫn phải vận dụng các văn bản

(hướng dẫn cũ hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999 thậm chí

của BLHS năm 1985) để xác định, hoặc có những tình tiết định tội được quy định

trong cấu thành cơ bản của tội trộm cắp như “tài sản là cổ vật, di vật”, nhưng

60

muốn xác định được những tài sản đặc biệt này để định tội thì lại phải viện dẫn

đến văn bản quy phạm pháp luật khác (Luật di sản văn hóa năm 2001)… Điều đó

cũng gây không ít khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng ); hoặc tình tiết

“gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là một tình tiết cũng

gây nhiều khó khăn trong thực tiễn xét xử

- Các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù như: phạt tiền, cải tạo không giam

giữ trong BLHS hiện hành mặc dù đã được mở rộng phạm vi áp dụng so với

trước đây, nhưng lại được quy định là chế tài lựa chọn với hình phạt tù, thêm vào

đó khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa của khung hình phạt được quy

định đối với tội trộm cắp tài sản còn tương đối rộng, dẫn đến sự tùy tiện hoặc áp

dụng không đồng nhất trong thực tiễn…

* Thứ hai, do hạn chế về trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, bản

lĩnh nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm trong công tác của những người có thẩm

quyền định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản.

Thực tế xét xử ở quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng những năm qua

cho thấy, những thiếu sót hạn chế trong định tội danh tội trộm cắp tài sản là do

năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận người có thẩm quyền, định tội

danh và quyết định hình phạt (Thẩm phán, Hội thẩm) chưa theo kịp yêu cầu ngày

càng cao của công tác xét xử, chưa tích cực nghiên cứu, học tập để nâng cao

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân. Về phía cơ quan Tòa án thì chưa

chú trọng đầy đủ đến việc tăng cường bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, kỹ năng

xét xử cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm. Mặt khác, trên thực tế trong áp dụng

pháp luật giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản, một số người có thẩm phán chưa

thật sự nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, làm việc qua loa, đại khái,

thiếu sự thận trọng cần thiết dẫn đến để sót một số tình tiết quan trọng có ảnh

hưởng đến việc giải quyết vụ án, đồng thời cũng không loại trừ khả năng có biểu

hiện tiêu cực khi xét xử vụ án trộm cắp tài sản vì những động cơ khác nhau. Sự

phối hợp, chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đôi khi chưa thật sự chặt

61

chẽ, vẫn còn tình trạng “Quyền anh, quyền tôi” trong quá trình giải quyết vụ án.

* Thứ ba, do cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện khoa học, kỹ thuật,

công nghệ phục vụ công tác điều tra, truy tố xét xử các vụ án trộm cắp tài sản,

chế độ, chính sách đối với những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự

chưa được quan tâm đúng mức…

Như vậy, có nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho hoạt động định tội

danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ở quận thanh Khê thành

62

phố Đà Nẵng còn có những hạn chế, thiếu sót nhất định cần phải khắc phục.

Tiểu kết Chương 2

Từ kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của Luận văn có thể thấy rằng, trong

05 năm qua từ 2015 đến 2019, TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã

thụ lý, xét xử một số lượng lớn các vụ án về tội trộm cắp tài sản, bảo đảm đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng.

Hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài

sản, bên cạnh những kết quả đạt được, những mặt tích cực vẫn còn những hạn

chế, sai sót nhất định, song mặt tích cực vẫn là cơ bản, qua đó có tác dụng không

nhỏ trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền sở hữu của nhà nước, của tổ chức

và cá nhân.

Những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói

chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói

riêng do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau cần khắc phục để

nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản đang xảy ra khá phổ

biến hiện nay

Kết quả nghiên cứu ở chương này là cơ sở thực tế để xây dựng các giải

pháp nâng cao chất lượng định tội danh và quyết định hình phạt trong hoạt động

63

xét xử của tòa án trong thời gian tới.

CHƯƠNG 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

3.1. Các yêu cầu đối với việc áp dụng đúng quy định của pháp luật

hình sự về tội trộm cắp tài sản

Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng các quy định của

pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản nói riêng là một quá trình hoạt động có

mục đích làm cho các quy phạm pháp luật hình sự đi vào đời sống, phát huy vai

trò của mình trong phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm.

Mục đích trực tiếp của áp dụng pháp luật hình sự là bảo đảm cho các quy

phạm pháp luật hình sự được thực hiện đầy đủ, chính xác, nghiêm minh trong

quá trình giải quyết các vụ án hình sự, trong đó có vụ án về tội trộm cắp tài sản.

Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc.

Để đạt được mục đích trên, hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật

hình sự nói chung, các quy định về tội trộm cắp nói riêng phải đáp ứng được

những yêu cầu sau đây:

3.1.1. Yêu cầu bảo vệ quyền con người

Ở Việt Nam, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (nhân quyền) là động

lực đồng thời là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay.

Do vậy, mọi hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật

hình sự trong việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung, vụ án về tội trộm cắp

tài sản nói riêng cũng phải đáp ứng yêu cầu bảo vệ, bảo đảm quyền con người,

quyền công dân.

Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh

tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp,

pháp luật.

64

2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định

của luật trong những trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc

gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”

Trên cơ sở Hiến pháp, Điều 1 BLHS hiện hành quy định: “Bộ luật hình sự

có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã

hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa

đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật;

chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật,

phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm” [25; tr.2]

Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên (trong đó có nhiệm vụ bảo vệ quyền con

người, quyền công dân) BLHS quy định tội phạm và hình phạt.

Quyền sở hữu về tài sản hợp pháp là một trong những quyền cơ bản của

con người, của công dân. Để bảo vệ quyền này, BLHS hiện hành đã dành 01

chương để quy định những hành vi xâm phạm sở hữu là tội phạm và quy định

hình phạt đối với những tội phạm đó (Chương XVI). Như vậy, để bảo vệ quyền

con người, quyền công dân (trong đó có quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp),

Nhà nước đã sử dụng BLHS như là một phương tiện pháp lý quan trọng để đấu

tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Mặt

khác, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, các cơ quan có thẩm quyền, nhất

là Tòa án: “Phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của

những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó

nếu xét thấy có sự vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết” (Điều 8

BLTTHS năm 2015).

Khi định tội danh, đặc biệt là khi quyết định hình phạt đối với người bị kết

án về tội trộm cắp tài sản, Tòa án phải bảo đảm mọi hành vi phạm tội trộm cắp

tài sản phải được phát hiện kịp thời, xử lý công minh theo đúng pháp luật, không

để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Hình phạt mà Tòa án tuyên phạt

65

người bị kết án về tội trộm cắp tài sản phải bảo đảm phù hợp với tính chất, mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; phải kết hợp hài hòa, chặt chẽ

giữa trừng trị với khoan hồng, giáo dục, cảm hóa người phạm tội và luôn đề cao

quyền con người của người bị kết án.

Như vậy, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là một trong những yêu cầu

hàng đầu đối với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, định tội danh

và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng. Vì thế, khi áp dụng

các quy định của pháp luật hình sự để giải quyết vụ án trộm cắp tài sản, chủ thể

có thẩm quyền luôn luôn phải quán triệt yêu cầu này.

3.1.2. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu

Hiện nay dưới sự tác động của nhiều yếu tố đặc biệt là mặt trái của nền

kinh tế thị trường, tình hình tội phạm diễn biến hết sức phức tạp và có xu hướng

ngày càng gia tăng, đặc biệt là nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Theo số liệu

thống kê của TANDTC, thì từ năm 2001 đến năm 2017 (thời kỳ áp dụng BLHS

năm 1999) trên phạm vi cả nước đã xảy ra 1.022.238 vụ phạm tội với 1.872.478

bị cáo đưa ra xét xử về các tội phạm khác nhau. Trong đó, có 415.510 vụ với

633.382 bị cáo bị đưa ra xét xử về các tội xâm phạm sở hữu, chiếm 40.65% về

số vụ và 33,83% về số bị cáo.

Trong số các tội xâm phạm sở hữu bị đưa ra xét xử trong phạm vi toàn

quốc thì tội trộm cắp tài sản chiếm tỉ lệ cao nhất. Ở địa bàn quận Thanh Khê,

thành phố Đà Nẵng cũng không phải là một ngoại lệ, bởi chỉ trong vòng 05 năm

(từ năm 2015 đến 2019), TAND quận đã đưa ra xét xử 216 vụ, với 255 bị cáo về

tội trộm cắp tài sản. Thực trạng này đòi hỏi phải tăng cường đấu tranh phòng,

chống. Để đáp ứng yêu cầu này, các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Tòa án

khi định tội danh, cũng như quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản phải

bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm

oan người vô tội. Hình phạt (loại, mức hình phạt cụ thể) được lựa chọn và quyết

66

định áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản phải có tác dụng phòng

ngừa chung và phòng ngừa riêng.

3.1.3. Yêu cầu tạo lập môi trường, hành lang pháp lý an toàn, thuận lợi

và bình đẳng, minh bạch cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng

như của địa phương

Hiện nay, ở nước ta đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo

các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ

nghĩa phù hợp với từng giai đoạn của đất nước”, đó là “nền kinh tế có quan hệ

sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều

hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế nhà nước giữ vai

trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ

thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp

luật” [11, tr.102-103]. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế này đã làm thay đổi mọi mặt

đời sống xã hội. Trong sự chuyển đổi cơ chế kinh tế, pháp luật nói chung, pháp

luật hình sự nói riêng cũng phải thay đổi để kịp thời phải ánh những nhu cầu của

sự phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, việc hoàn thiện cũng như áp dụng pháp luật

hình sự đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quan hệ sở hữu phải hướng tới

việc tạo ra một môi trường, một hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn, bình đẳng,

minh bạch cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như ở từng địa

phương. Đặc biệt, không làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội bảo vệ được

lợi ích kinh tế - xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển.

3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật

hình sự và tội trộm cắp tài sản

Để nâng cao chất lượng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

trộm cắp tài sản, ngoài việc quán triệt các yêu cầu nêu trên cần phải triển khai

67

đồng bộ các giải pháp sau đây:

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường hướng dẫn áp dụng kịp thời

các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội trộm cắp tài sản

Thực tế cho thấy, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật hình sự, trong đó

có những quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội trộm cắp tài sản là một

trong những tiền đề quan trọng cho việc áp dụng đúng pháp luật hình sự để giải

quyết chính xác các vụ án trộm cắp tài sản. Bởi, chỉ trên cơ sở hệ thống pháp luật

hình sự hoàn thiện, tức là thỏa mãn những tiêu chí như: tính phù hợp, toàn diện,

đồng bộ và trình độ kỹ thuật lập pháp cao, đáp ứng được các yêu cầu mà thực

tiễn đặt ra thì hệ thống pháp luật đó mới phát huy được vai trò của mình trong

đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Khó

có thể nói tới chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự, trong đó có hoạt

động định tội danh và quyết định hình phạt khi hệ thống pháp luật hình sự còn

chưa hoàn thiện, còn chồng chéo, mâu thuẫn, không phù hợp với yêu cầu đấu

tranh phòng, chống tội phạm bảo vệ quyền con người, quyền sở hữu đối với tài

sản hợp pháp của công dân.

Trong khi đó, BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) và trước đây

là BLHS năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) bên cạnh những mặt tích cực

thì vẫn còn những hạn chế, bất cập, gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp

dụng. Tất nhiên, những hạn chế, bất cập trong các quy định của BLHS năm 1999

vừa qua đã được BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 khắc phục một

cách căn bản. Tuy nhiên, qua hơn 2 năm áp dụng cho thấy, một số quy định của

BLHS hiện hành đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, trong đó có quy

định về tội trộm cắp tài sản như: khi quy định tội trộm cắp tài sản tại Điều 173

BLHS hiện hành, nhà làm luật vẫn sử dụng quy phạm giản đơn, nghĩa là không

mô tả dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này trong nội dung của điều luật.

Điều đó gây khó khăn cho việc nhận thức và áp dụng thống nhất đúng đắn Điều

173 khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội này. Do vậy, chúng

68

tôi cho rằng cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Điều 173 BLHS theo hướng mô tả

rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của hành vi trộm cắp tài sản đủ để có thể phân

biệt được tội trộm cắp tài sản với các tội khác mà trong mặt khách quan của tội

phạm cũng có hành vi chiếm đoạt tài sản.

Theo chúng tôi, khoản 1 Điều 173 BLHS hiện hành cần sửa đổi, bổ sung

như sau: “1. Người nào lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có trị giá từ

2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng

thuộc một trong những trường hợp sau:….”

Mặt khác, một số tình tiết được quy định là dấu hiệu định tội, định khung

hình phạt của tội trộm cắp tài sản vẫn còn mang tính “định tính”, do vậy việc áp

dụng những tình tiết này chủ yếu dựa vào ý thức chủ quan của chủ thể có thẩm

quyền áp dụng pháp luật hình sự. Đó là những tình tiết như: “Gây ảnh hưởng

xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” (điểm c khoản 1); “Tài sản là phương

tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” (điểm d khoản 1); “Tài

sản là di vật, cổ vật” (điểm đ, khoản 1); “Tài sản là bảo vật quốc gia” (điểm e,

khoản 2); Điều 173 BLHS hiện hành. Đây là những tình tiết mới được quy định

trong BLHS năm 2015. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có văn bản giải thích,

hướng dẫn áp dụng. Do vậy, trên thực tế, nhận thức của những người có thẩm

quyền áp dụng pháp luật hình sự về những tình tiết này vẫn chưa có sự thống

nhất; việc áp dụng những tình tiết này gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Để

khắc phục những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng những tình tiết nêu trên,

chúng tôi kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương cần sớm ban hành

văn bản hướng dẫn áp dụng những tình tiết này, cụ thể là:

+ Đối với tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã

hội” cần quy định một cách cụ thể, rõ ràng, chi tiết việc gây ảnh hưởng xấu đến

từng lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; mức độ, phạm vi gây ảnh hưởng…

+ Đối với tình tiết “Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị

hại và gia đình họ” cần giải thích rõ tài sản là phương tiện kiếm sống chính của

69

người bị hại và gia đình họ là tài sản gì? Mặt khác, tài sản đó có được sử dụng

như là một phương tiện để kiếm sống chính cho bản thân người bị hại và gia

đình họ hay không.

+ Đối với tình tiết “Tài sản là di vật, cổ vật”; “Tài sản là bảo vật quốc

gia”, cơ quan có thẩm quyền phải dựa vào Luật di sản văn hóa năm 2001 (Sửa

đổi, bổ sung năm 2009) để giải thích, theo đó di vật là hiện vật được lưu truyền

lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có

giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học có từ 100 tuổi trở lên, còn bảo vật

quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của

đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học (Điều 4 Luật Di sản văn hóa).

Cùng với việc ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng những tình tiết mới

được quy định trong BLHS nêu trên, cần xem xét lại tình tiết “hành hung để tẩu

thoát” được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-

VKSNDTC-BCA-BTP (mục 6 Phần I), trên cơ sở đó sửa đổi, để tháo gỡ những

khó khăn, vướng mắc khi áp dụng tình tiết này, theo hướng quy định cụ thể, rõ

ràng trường hợp nào thì áp dụng là tình tiết định khung tăng nặng của tội trộm

cắp tài sản (điểm d khoản 2 Điều 173), khi nào thuộc trường hợp chuyển hóa từ

tội trộm cắp tài sản thành tội cướp tài sản.

3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức

công vụ của đội ngũ cán bộ có thẩm quyền định tội danh và quyết định hình

phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Việc nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ

của chủ thể áp dụng pháp luật hình sự (Thẩm phán, Hội thẩm…) là một đòi hỏi

cấp bách của công cuộc cải cách tư pháp. Bởi năng lực, trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, đạo đức công vụ của chủ thể áp dụng pháp luật hình sự là một trong

những điều kiện quan trọng bảo đảm hoạt động định tội danh và quyết định hình

phạt được chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế được tình

trạng oan, sai trong hoạt động tư pháp. Nhận thức được tầm quan trọng của công

70

tác cán bộ tư pháp, trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính

trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng

đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh theo hướng đề

cao quyền và trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính

trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội

đối với từng loại cán bộ…” [8;tr.3]

Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án… có nhiệm vụ xét xử nói chung,

định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo nói riêng. Nếu họ hạn chế về

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, thiếu trách nhiệm trong

thực thi nhiệm vụ, sa sút về đạo đức, lối sống… thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với

việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, trong đó có vụ án về tội trộm cắp tài sản.

Ở quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm

không chỉ thiếu về số lượng mà còn hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,

kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội… Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến

chất lượng, hiệu quả xét xử các vụ án hình sự. Do vậy trong thời gian tới cần có

những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến

thức pháp luật, kỹ năng xét xử cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Cụ

thể là:

+ Trước tiên, cần đổi mới, hoàn thiện quy chế tuyển chọn, bổ nhiệm, tái

bổ nhiệm Thẩm phán đảm bảo đúng tiêu chuẩn theo quy định của Luật Tổ chức

TAND năm 2014, Pháp lệnh thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 (Sửa đổi,

bổ sung năm 2011); Mở rộng nguồn thi tuyển Thẩm phán để thu hút nguồn nhân

lực có chất lượng; công khai hóa kế hoạch thi tuyển chọn thẩm phán, đảm bảo

tính dân chủ, công khai, minh bạch, tính cạnh tranh trong các kỳ thi tuyển chọn,

nâng ngạch thẩm phán.

+ Vấn đề tiếp theo là tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương

thức đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán phù hợp với yêu cầu chuyên môn, công việc

và từng ngạch của Thẩm phán. Chú trọng truyền đạt các nội dung mới của pháp

71

luật, kỹ năng xét xử, kiến thức quản lý nhà nước, lý luận chính trị, pháp luật

quốc tế, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng dân vận… Đảm bảo kiến thức được truyền

đạt vừa rộng, vừa chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lý

thuyết với thực hành (nhất là diễn án) nhằm giúp Thẩm phán nắm vững kiến

thức chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp. Ngoài

ra chú trọng khuyến khích việc đào tạo sau đại học đối với Thẩm phán tạo điều

kiện về thời gian kinh phí cho thẩm phán nâng cao trình độ

+ Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề

nghiệp, cần chú trọng hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức lối

sống cho đội ngũ Thẩm phán theo hướng tập trung vào các nội dung thiết thực,

để Thẩm phán, cán bộ tòa án thực sự là người có phẩm chất đạo đức tốt, có bản

lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý,

liêm khiết và trung thực; có lý tưởng thượng tôn pháp luật, tôn trọng sự thật

khách quan, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, tôn trọng và tận tụy

phục vụ nhân dân. Trong bối cảnh hiện nay cùng với việc nghiêm túc học tập các

nghị quyết, chỉ thị của Đảng, cần tập trung giáo dục Thẩm phán, cán bộ tòa án,

thấm nhuần sâu sắc di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ tòa án

“Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, “tận tụy phục vụ nhân dân” không

thiên vị, tư lợi trong thực thi công vụ.

+ Trong bối cảnh kinh tế thị trường cũng như đời sống sinh hoạt hiện nay,

cần quan tâm hơn nữa đến chế độ tiền lương trợ cấp nghề nghiệp cho đội ngũ

thẩm phán để họ thực sự yên tâm thực thi công vụ, hạn chế tối đa những hiện

tượng tiêu cực tham nhũng không đáng có.

Mặt khác cần quan tâm chú trọng đến công tác khen thưởng, kỷ luật theo

hướng thiết thực, ý nghĩa và kịp thời, đánh giá thành tích và tôn vinh, khen

thưởng đúng người, đúng việc, tạo hiệu ứng lan tỏa sâu rộng trong cơ quan, tổ

chức, đơn vị mình cũng như trong toàn hệ thống tòa án.

Bên cạnh đó cần xử lý nghiêm khắc các hành vi sai phạm về đạo đức lối

72

sống vi phạm quy tắc nghề nghiệp, kỷ luật công vụ, vi phạm pháp luật, tham

nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp; kiên quyết không bao che dung túng,

nương nhẹ đối với các vi phạm của Thẩm phán trong rèn luyện đạo đức, lối sống

và trong hoạt động xét xử, giữ nghiêm kỷ cương kỷ luật trong thực hiện chức

năng xét xử, thực thi quyền tư pháp của tòa án.

* Đối với Hội thẩm nhân dân

Theo quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 thì: “1. Việc xét xử sơ thẩm

của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

2. Thẩm phán Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…”

[tr.55]. Với tầm quan trọng như vậy, nhưng trên thực tế nhận thức về vị trí, vai

trò của Hội thẩm đối với việc bảo đảm dân chủ trong xét xử chưa thật sự đúng

đắn. Điều cơ bản là hiện nay trình độ của Hội thẩm chưa thật sự đáp ứng với

nhiệm vụ được giao để bảo đảm ngang quyền với thẩm phán. Ở quận Thanh Khê

Thành phố Đà Nẵng chỉ có 20 Hội thẩm của TAND nhưng trình độ kỹ năng xét

xử, kiến thức pháp luật còn hạn chế, không đồng đều. Mặc dù, số lượng Hội

thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử chiếm đa số, nhưng chế độ trách nhiệm thì

không rõ ràng. Chính vì vậy sự tham gia của họ trong xét xử vụ án mang nặng

tính hình thức. Một số Hội thẩm nhân dân do trình độ, kiến thức pháp luật còn

hạn chế, nên có tư tưởng “ỷ lại vào thẩm phán”, không phát huy được tính độc

lập của mình trong xét xử… Những hạn chế yếu kém này ảnh hưởng không nhỏ

đến chất lượng xét xử của các vụ án hình sự, trong đó có vụ án về tội trộm cắp

tài sản. Do vậy, trong thời gian tới, cần tập trung làm tốt một số công việc sau

đây, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả định tội danh và quyết định hình

phạt đối với tội trộm cắp tài sản:

+ Cơ quan có thẩm quyền cần lựa chọn kỹ và giới thiệu những người đủ

tiêu chuẩn làm Hội thẩm quy định tại Điều 85 Luật tổ chức TAND năm 2014, cụ

thể: “1. Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt có bản lĩnh

73

chính trị vững vàng có uy tín trong cộng đồng dân cư có tinh thần dũng cảm và

kiên quyết bảo vệ công lý liêm khiết và trung thực

2. Có kiến thức pháp luật;

3. Có hiểu biết xã hội;

4. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao”

Theo chúng tôi, ngoài những tiêu chuẩn này, cần bổ sung tiêu chuẩn về

chuyên môn, nghiệp vụ đối với Hội thẩm, nhất là nghiệp vụ xét xử. Bởi hiện nay

có sự chênh lệch khá rõ nét về trình độ chuyên môn giữa Thẩm phán và Hội

thẩm. Pháp luật đòi hỏi Thẩm phán phải có những tiêu chuẩn về chuyên môn

nghiệp vụ như: có trình độ cử nhân luật trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ xét

xử, có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật … trong khi đó lại quy định

chung chung về tiêu chuẩn chuyên môn các Hội thẩm là: “Có kiến thức pháp

luật được tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ tham gia hội nghị tổng kết công tác xét

xử của Tòa án”. Do vậy để phát huy vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét xử

cần quy định cụ thể, rõ ràng các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của Hội thẩm

như có kiến thức cơ bản về pháp luật; được bồi dưỡng, tập huấn về những vấn đề

liên quan đến hoạt động xét xử; có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật.

Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi kiến nghị Học viện Tòa án cần nghiên cứu,

biên soạn tài liệu nghiệp vụ và tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, xét xử

cho Hội thẩm. Thêm vào đó, cần tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên sâu theo

từng chuyên đề, phổ biến kịp thời các văn bản pháp luật mới liên quan đến công

tác xét xử nhằm đảm bảo Hội thẩm được cập nhật thường xuyên các chủ trương

chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.

Bên cạnh việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ xét xử

kiến thức pháp luật, cần chú trọng công tác giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề

nghiệp cho Hội thẩm, đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức của Hội

thẩm mà luật định.

Vấn đề tiếp theo là phải quy định rõ chế độ trách nhiệm tham gia xét xử

74

của Hội thẩm, nhất là trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án, trách nhiệm đối với

các vụ án mà mình tham gia xét xử. Trường hợp có nhiều bản án, quyết định bị

hủy, bị cải sửa do lỗi chủ quan của Hội thẩm, hoặc do thiếu trách nhiệm trong

công tác tham gia xét xử thì cần áp dụng các hình thức miễn nhiệm, bãi nhiệm

hoặc các chế tài xử lý khác.

Cuối cùng là cần có chính sách đãi ngộ, thù lao thỏa đáng đối với Hội

thẩm. Hiện nay theo Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg ngày 5/10/2012 của Thủ

tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với người tham gia phiên tòa, phiên

họp giải quyết vụ án đối với Hội thẩm là 90.000 đồng/ngày. Mức thù lao này,

theo chúng tôi là bất hợp lý. Chính vì thế, khoản 4 Điều 88 Luật tổ chức TAND

năm 2014 có quy định: “Chế độ phụ cấp xét xử do Ủy ban thường vụ quốc hội

quy định theo đề nghị của Chánh án TANDTC”. Mặc dù vậy, cho đến nay, Luật

tổ chức TAND đã có hiệu lực thi hành gần 05 năm nhưng Ủy ban Thường vụ

Quốc hội vẫn chưa ban hành quy định về chế độ phụ cấp xét xử của Hội thẩm.

Do vậy, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần sớm ban hành để quy định về

vấn đề này

3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa Tòa án nhân dân với cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp tài sản

Việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

không thể không dựa trên kết quả của hoạt động điều tra, truy tố của Cơ quan

điều tra và Viện kiểm sát. Do vậy sự phối hợp giữa Tòa án với Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Chính vì thế trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2 tháng 01 năm 2002 của Bộ

Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đề ra

một trong những nhiệm vụ là: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư

pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm” [tr.47]

Vấn đề cơ bản ở đây là phải xây dựng một cơ chế phối hợp, chế ước lẫn

75

nhau giữa ba cơ quan tiến hành tố tụng một cách chặt chẽ, khoa học, trong đó

phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan và trách nhiệm

phối hợp, kiểm tra, giám sát lẫn nhau trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp

tài sản. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục hiện tượng hữu khuynh “Quyền

anh, quyền tôi” hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.

Đối với từng vụ án, từng giai đoạn tố tụng cần xác định nội dung, hình

thức phối hợp cụ thể sát với tình hình thực tế giải quyết vụ án. Đặc biệt là việc

phối hợp phải được tiến hành kịp thời, thường xuyên, liên tục. Thực tế cho thấy,

nếu 3 cơ quan được tiến hành tố tụng hình sự xây dựng được một cơ chế phối

hợp chặt chẽ, nhịp nhàng thì việc điều tra, truy tố xét xử vụ án trộm cắp tài sản

sẽ được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, chính xác, việc định tội danh và quyết

định hình phạt bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế được tình

trạng oan sai trong tố tụng hình sự.

Trước hết, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra phải phối hợp chặt chẽ ngay

từ khi tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố về tội

trộm cắp tài sản do Cơ quan điều tra cùng cấp phụ lý để phân công Kiểm sát viên

theo dõi, nghiên cứu hồ sơ tài liệu và nắm nội dung vụ việc ngay từ giai đoạn

này, khắc phục được tình trạng bỏ lọt tội phạm và chủ động áp dụng các biện

pháp tố tụng tiếp theo. Trong suốt quá trình điều tra vụ án trộm cắp tài sản, Điều

tra viên phải chủ động gửi đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ đã thu thập

được cho Kiểm sát viên thụ lý vụ án và thực hiện đầy đủ các yêu cầu điều tra của

Viện Kiểm sát. Kiểm sát viên phải thường xuyên theo dõi, nắm bắt tiến độ điều

tra vụ án, nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên thu thập, kịp thời

đề ra yêu cầu điều tra, chủ động trao đổi với Điều tra viên để điều tra làm rõ

những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các hoạt

động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, bảo đảm việc điều tra

vụ án trộm cắp tài sản khách quan, toàn diện đúng pháp luật.

Trước khi kết thúc điều tra vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối

76

hợp để đánh giá chứng cứ, tài liệu, xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đã

thu thập được.

Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Kiểm sát viên phải

nghiên nghiên cứu kỹ hồ sơ, kiểm tra việc tuân thủ các thủ tục tố tụng đầy đủ của

các tài liệu, chứng cứ trong vụ án. Nếu thấy còn thiếu chứng cứ tài liệu hoặc có

vi phạm thủ tục tố tụng mà tự mình có thể bổ sung được thì kiểm tra viên phải

phối hợp với điều tra viên để bổ sung khắc phục kịp thời.

Trong thời hạn truy tố, nếu thấy vụ trộm cắp tài sản có những vấn đề phức

tạp về chứng cứ, về tội danh, kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo, Viện kiểm sát

để chủ động tổ chức họp liên ngành làm rõ những vấn đề cần phải điều tra bổ

sung nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng trọng tâm, triệt để và

kịp thời.

Trong giai đoạn xét xử vụ án trộm cắp tài sản cần thực hiện tốt mối quan

hệ chế ước giữa Viện kiểm sát với Tòa án Nhân dân theo hướng bảo đảm tính

độc lập của mỗi cơ quan trong sự phối hợp chung để thực hiện chức năng, nhiệm

vụ của mình. Điều đó có nghĩa là khi thực hiện chức năng thực hành quyền công

tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, Viện kiểm sát không được can thiệp

trực tiếp vào việc xét xử của Tòa án. Khi giải quyết vụ án trộm cắp tài sản Thẩm

phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là vấn đề có tính

nguyên tắc. Do vậy khi xét xử vụ án về tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử

không bị phụ thuộc vào sự đánh giá về mặt pháp lý đối với tội phạm mà Viện

kiểm sát truy tố, có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ các chứng cứ, tài liệu mà Viện

kiểm sát đưa ra, có quyền tuyên bố bị cáo không phạm tội. Mọi hành vi can thiệp

vào hoạt động xét xử đều bị coi là vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng tới tính

khách quan, toàn diện của hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối

77

với tội trộm cắp tài sản.

3.2.4. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám đốc xét

xử; coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử các vụ án trộm cắp tài sản,

xây dựng án lệ

Để hoạt động xét xử của TAND nói chung, hoạt động định tội danh và

quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng diễn ra công khai,

minh bạch, công bằng, đúng pháp luật … vấn đề không kém phần quan trọng là

phải tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra và thực hiện công

tác giám đốc xét xử của tòa án cấp trên đối với tòa án cấp dưới

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm

vụ: “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của đảng, phát huy vai trò giám sát của

cơ quan dân cử, của công luận và nhân dân đối với hoạt động tư pháp”. Đây là

chủ trương hết sức quan trọng, bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án được

đúng hướng. Do vậy, ở địa phương nào, tòa án cấp nào, kể cả TAND quận

Thanh Khê, công tác này được tăng cường thì hoạt động xét xử nói chung hoạt

động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản sẽ bảo

đảm đúng luật. Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy, nhưng công tác lãnh đạo,

chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra và thực hiện giám đốc xét xử có nơi, có lúc bị buông

lỏng chưa thường xuyên hoặc mang tính hình thức, chất lượng không cao. Ở

quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng cũng không nằm ngoài thực trạng đó. Ở

địa phương này còn thiếu một cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát một

cách đầy đủ, công khai, minh bạch và có hiệu quả để ngăn chặn những biểu hiện

tiêu cực, khắc phục kịp thời những hạn chế, sai sót trong hoạt động xét xử của

tòa án. Việc thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành tòa án đối với hoạt động xét

xử của tòa án dường như chưa đạt được kết quả mong muốn do nhiều nguyên

nhân khác nhau. Trong khi đó, giám sát Hội đồng nhân dân cũng như cơ quan

thanh tra chuyên ngành đôi khi còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu

thực tế. Giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của tòa án chưa thực sự

78

phát huy tác dụng vì chưa có quy định cụ thể, chặt chẽ, đầy đủ về hoạt động

giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp… Về vấn đề này, trong Báo cáo

tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị

về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Vai trò lãnh đạo của các

cấp ủy, tổ chức Đảng đối với một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, nơi

lỏng, thiếu kiểm tra, đôn đốc, sự phối hợp giữa các cấp ủy Đảng và các cơ quan tư

pháp với nhau và với cấp ủy Đảng địa phương chưa thực sự chặt chẽ”

Có thể thấy, những hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,

kiểm tra, giám sát và giám đốc xét xử đã ảnh hưởng không nhỏ đối với chất

lượng, hiệu quả xét xử của tòa án. Do vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động xét

xử nói chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

nói riêng, khắc phục những hạn chế, những sai sót không đáng có trong quá trình

giải quyết vụ án, nhất là vấn đề oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm cần chú ý tăng

cường hơn nữa công tác lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo

của Tòa án cấp trên (Tòa án Thành phố Đà Nẵng) nhưng phải đảm bảo: “Thẩm

phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp pháp luật”

Mặt khác, cần đề cao vai trò của Viện Kiểm sát trong việc thực hiện chức

năng kiểm tra giám sát hoạt động xét xử, vai trò của thanh tra chuyên ngành đối

với việc giải quyết vụ án trộm cắp tài sản của Tòa án. Đồng thời, xây dựng một

cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân của công luận và người dân đối với hoạt

động xét xử của tòa án một cách cụ thể, công khai, minh bạch.

Cùng với việc đổi mới, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra,

kiểm tra và thực hiện giám đốc xét xử, cần định kỳ tổng kết thực tế xét xử nói

chung, xét xử các vụ án về tội trộm cắp nói riêng để đánh giá những kết quả đạt

được, rút ra bài học kinh nghiệm, nếu có đủ điều kiện xây dựng thành án lệ. Mặt

khác, khi tổng kết cần chú ý đến việc chỉ ra những hạn chế sai sót trong hoạt

động xét xử, tác động đến việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

trộm cắp tài sản, trên cơ sở đó đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục kịp

79

thời, không để những hạn chế, sai sót tiếp tục xảy ra, gây ảnh hưởng đến chất

lượng hiệu quả xét xử của tòa án nói chung, định tội danh quyết định hình phạt

đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng.

3.2.5. Đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác, nhất

là phương tiện khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các cơ quan có

chức năng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra phương hướng: “Tổ chức các cơ quan

tư pháp và các chế định hỗ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ

chức và điều kiện, phương tiện làm việc”.

Đây là một trong những phương hướng đúng đắn, nhất là trong bối cảnh

tác động của cuộc cách mạng 4.0. Do vậy, Nhà nước, Thành phố Đà Nẵng cần

đầu tư thỏa đáng kinh phí, đảm bảo các điều kiện, phương tiện công tác cho các

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án quận, huyện.

Trước hết cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ

quan tư pháp, hoạt động tư pháp, nhất là TAND. Tiếp tục đầu tư xây dựng trụ sở

làm việc của TAND cấp huyện, quận khang trang phù hợp với yêu cầu thực tế

của từng tòa án; tăng cường áp dụng công nghệ thông tin và hoạt động điều tra,

truy tố, xét xử nhất là hoạt động tống đạt giấy tờ, tài liệu, tiến tới xây dựng Tòa

án điện tử.

Trên đây là những giải pháp cơ bản, nhưng hết sức quan trọng. Nếu được

triển khai kịp thời, đồng bộ, quyết liệt chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng xét xử,

bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản đúng

80

pháp luật, khắc phục được những hạn chế sai sót không đáng có xảy ra.

Tiểu kết chương 3

Xuất phát từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

trộm cắp tài sản của TAND quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng, nhất là

những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động này đặt ra vấn đề là phải tìm ra những

giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật

Việc thiết lập các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của pháp luật hình

sự trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp trước hết phải

quán triệt các yêu cầu, đòi hỏi có tính nguyên tắc mà thực tiễn điều tra, truy tố,

xét xử đặt ra như: Yêu cầu bảo vệ các quyền con người, quyền công dân (nhất là

quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp); Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm, tạo môi trường ổn định, an toàn cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa

phương; yêu cầu hội nhập quốc tế …

Cùng với việc quán triệt các yêu cầu trên, cần triển khai áp dụng đồng bộ

các giải pháp như: Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường hướng dẫn áp dụng kịp

thời các quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản; nâng cao năng

lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ có

thẩm quyền định tội danh và áp dụng hình phạt nhất là Thẩm phán và Hội thẩm;

tăng cường phối hợp giữa TAND với Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá

trình giải quyết vụ án; bảo đảm sự độc lập của Hội đồng xét xử và tăng cường

tranh tụng tài tại phiên tòa, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thanh tra kiểm

tra giám đốc xét xử, coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm, xây dựng án lệ;

đầu tư thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác cho các cơ quan tiến hành tố

tụng …

Các giải pháp này nếu được thực hiện kịp thời, đồng bộ, quyết liệt thì sẽ

góp phần nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm định tội danh và quyết định hình

81

phạt đối với tội trộm cắp tài sản đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

82

KẾT LUẬN

Tội trộm cắp tài sản được quy định rất sớm trong pháp luật hình sự Việt

Nam và ngày càng hoàn thiện. Mặc dù vậy cho đến nay vẫn chưa có sự nhận

thức thống nhất, toàn diện về mặt pháp lý và áp dụng chính sách trong thực tiễn

xét xử của TAND. Qua khảo sát thực tế thấy rằng, TAND quận Thanh Khê,

Thành phố Đà Nẵng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự giải quyết vụ án

tội trộm cắp tài sản đã được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn một số tồn

tại, sai sót nhất định do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau như:

hạn chế bất cập của các quy phạm pháp luật của bộ luật hình sự hiện hành cũng

như các văn bản hướng dẫn áp dụng; sự hạn chế về trình độ, chuyên môn nghiệp

vụ, kỹ năng xét xử của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm…

Từ thực tế đó, vấn đề cấp bách trong thời gian tới là phải có các giải pháp

phù hợp, hữu hiệu để khắc phục những hạn chế, sai sót trong thực tiễn xét xử các

vụ án về tội trộm cắp tài sản, bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đối

với tội phạm này được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Các giải pháp được thiết lập phải đồng bộ, phù hợp và có tính khả thi, đặc

biệt là phải đáp ứng các yêu cầu mà thực tiễn đặt ra như: yêu cầu bảo vệ quyền

con người, quyền công dân, nhất là quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp; yêu

cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền sở hữu tài sản; yêu cầu tạo

môi trường xã hội ổn định, an toàn để phát triển kinh tế xã hội; yêu cầu hội nhập

quốc tế…

Trong thời gian tới, cần tập trung triển khai thực hiện các giải pháp như:

Tiếp tục hoàn thiện và hướng dẫn kịp thời các quy định của BLHS hiện hành về

tội trộm cắp tài sản; nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức

công vụ cho đội ngũ cán bộ tòa án; tăng cường mối quan hệ phối hợp, chế ước

giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; tăng cường,

83

đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám đốc xét xử các vụ

án trộm cắp tài sản; tổng kết rút kinh nghiệm xây dựng án lệ; đầu tư thỏa đáng

kinh phí phương tiện công tác cho cơ quan tiến hành tố tụng…

Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, dưới

sự hướng dẫn khoa học của thầy, cô giáo, sự giúp đỡ của các cơ quan, đồng

nghiệp nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả của luận

văn rất mong được sự đánh giá, đóng góp của các nhà lý luận, các cán bộ thực

84

tiễn, các thầy, cô để tác giả chỉnh sửa, hoàn thiện luận văn có chất lượng tốt hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Ngọc Anh (2009), “Hoàn thiện quy định của BLHS về các tội xâm

phạm sở hữu”, Tạp chí CAND, số 4, tr. 22-26;

2. Ban chấp hành Trung ương - Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2014) Báo cáo

tổng kết 8 năm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, Hà Nội

3. Nguyễn Thị Bình (2018), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội

4. Nguyễn Mai Bộ (2010), Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 1999,

được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

5. Nguyễn Mai Bộ (2018), “Về các tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí TAND số

7, tr.1-9

6. Nguyễn Mai Bộ (2005), “Quy định của BLHS năm 1999 về tội trộm cắp tài

sản”, Tạp chí TAND, số 9, tr. 16-18

7. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm

vụ trọng tâm trong công tác tư pháp thời gian tới, Hà Nội.

8. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội

9. Bộ Tư pháp, Tạp chí dân chủ pháp luật (2000), số chuyên đề Bộ luật hình

sự Việt Nam (năm 1999), Hà Nội

10. Nguyễn Ngọc Chí (1997), “Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở

hữu”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8, tr. 39-47

11. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự

Việt Nam, Nxb CAND Hà Nội.

13. Trần Thị Thu Hằng (2018), “Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng

85

hoạt động của Hội thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí

TAND số 15, tr.26-30

14. Nguyễn Mạnh Hà (2007), “Một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm

cắp tài sản cần nhận biết khi định tội danh”, Tạp chí Nhà nước và pháp

luật, số 3, tr. 70-77

15. Hoàng Văn Hùng (2006) “Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản theo

luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 7, tr 14-19

16. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa

đổi bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm), Quyển 1, Nxb Tư pháp, Hà

Nội.

17. Nguyễn Trường Giang (2017), “Dấu hiệu pháp lý và cách phân loại các tội

xâm phạm sở hữu theo BLHS năm 2015”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 11,

tr. 22-24

18. Lê Văn Luật (2002), “Bàn về định tội danh đối với một số tội xâm phạm sở

hữu”, Tạp chí TAND, số 4, tr.

19. Đỗ Ngọc Lợi (2013), “Xác định hành vi chiếm đoạt của các tội xâm phạm

sở hữu có tính chất chiếm đoạt”, Tạp chí Kiểm sát số 4, tr. 16-19

20. Đỗ Xuân Lân (2000), “Cần nhận thức thống nhất về tình tiết đã bị kết án về

tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm pháp luật”,

số 2, tr. 27-29

21. Vũ Thị Hương Mai (2017), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tình Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

22. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb

CAND, Hà Nội.

23. Cao Thị Oanh, Chủ biên (2015), các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt, Nxb CAND, Hà Nội.

24. Trần Văn Quang (2020), Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du,

86

tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội

25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Hiến pháp

năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

26. Quốc hội (2018), Bộ luật hình sự Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2017),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

28. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

29. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

30. Nguyễn Văn Quang (2018), “Rèn luyện, nâng cao đạo đức Thẩm phán để

hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, xây dựng TAND trong sạch, vững

mạnh”, Tạp chí TAND số 3, tr. 17-22

31. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS, Phần các tội phạm, tập

II. Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Hồ Chí Minh.

32. Quản Thị Ngọc Thảo (2017), “Nguyên tắc thẩm phán và Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, Tạp chí TAND

số 18, tr 30-33

33. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày

12/05/2006, Hà Nội

34. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập I,

Hà Nội.

35. Tòa án nhân dân tối cao (1977), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập II,

Hà Nội.

36. Tòa án quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng (2015), Báo cáo tổng kết công

tác các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.

37. Lê Hoàng Tấn (2016) “Nâng cao chất lượng định tội danh đối với các tội

87

xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 3, tr. 21-24

38. Đinh Công Thành (2018), “Một số điểm mới cần thống nhất nhận thức và

áp dụng pháp luật đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại BLHS năm 2015”

Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2, tr. 47-54

39. Nguyễn Minh Tuấn (2003), “Vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu cải cách

tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9, tr. 28-35

40. Đỗ Hồng Thủy (2018), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

41. TANDTC, VKSNDTC, BCA, BTP (2001), Thông tư liên tịch số 02/TTLT

ngày 25/12/2001 Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV,

“Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999, Hà Nội

42. Nguyễn Ngọc Trâm (2019), Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn của thành phố

Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội.

43. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo tình luật hình sự Việt N am, Tập II,

Nxb CAND, Hà Nội.

44. Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận và hướng dẫn mẫu, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội.

45. Lê Tường Vy (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các tội chiếm đoạt tài

sản trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện

KHXH, Hà Nội

46. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

47. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam –

Phần các tội phạm, Nxb KHXH, Hà Nội.

48. Chu Thị Trang Vân (2009), Học động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa

luật ĐHQG, Hà Nội.

49. Nguyễn Bá Vinh (2019), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt

88

Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ, Học

viện KHXH, Hà Nội.

50. Trương Quang Vinh (2000), “Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm

1999”, Tạp chí Luật học số 4, tr. 7-10

89

51. Nguyễn Như Ý (2009), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.