VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN CAO CƯỜNG
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN CAO CƯỜNG
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng. Những kết luận
nghiên cứu, các số liệu được trình bày trong luận văn “Tội trộm cắp tài sản từ
thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” là trung thực, chính xác và
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.
Đà Nẵng, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Cao Cường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ............................................................................... 12
1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản ..................................... 12
1.2. Lịch sử quy định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay ......................................................................... 29
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG... 40
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản ................................. 40
2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội trộm cắp tài sản ............................................................................................................... 42
CHƯƠNG 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ............................................................................................................. 64
3.1. Các yêu cầu đối với việc áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 64
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự và tội trộm cắp tài sản ................................................................................ 67
KẾT LUẬN ................................................................................................ 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 85
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 BLHS Bộ luật hình sự
2 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
3 CAND Công an nhân dân
4 KHXH Khoa học xã hội
5 Nxb Nhà xuất bản
6 TAND Tòa án nhân dân
7 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
8 XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản
2.1 của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giai 35
đoạn 2010 - 2019
Hình phạt được Tòa án nhân dân quận Thanh Khê,
2.2 thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng đối với người 35
bị kết án về tội trộm cắp tài sản giai đoạn 2015-2019
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do sự tác
động của mặt trái kinh tế thị trường nên các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội
trộm cắp tài sản nói riêng xảy ra khá phổ biến trên phạm vi cả nước cũng như ở
từng địa phương, trong đó có quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Thực trạng
này đặt ra vấn đề cần tăng cường đấu tranh phòng, chống
Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc phát hiện xử lý các tội xâm phạm
sở hữu, BLHS hiện hành quy định khá chi tiết, cụ thể các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng.
Mặc dù vậy, qua một thời gian áp dụng cho thấy quy định của Bộ luật này về tội
trộm cắp tài sản đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho
việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt.
Về mặt lý luận, xoay quanh một số vấn đề về tội trộm cắp tài sản vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau, nhất là vấn đề ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành
chính đối với hành vi trộm cắp tài sản.
Về mặt thực tiễn, do nhận thức được tầm quan trọng của việc xét xử các
vụ án về tội trộm cắp tài sản, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên
trong những năm qua TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng không ngừng
đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án, hạn chế đến mức thấp
nhất các bản án, quyết định bị sửa, bị hủy do lỗi chủ quan của thẩm phán. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn còn một số ít trường hợp áp dụng
pháp luật hình sự giải quyết vụ án về tội trộm cắp tài sản chưa đúng, dẫn tới việc
định tội danh cũng như quyết định hình phạt chưa thật sự chính xác, dẫn tới sai
sót cần phải khắc phục.
Như vậy, cả về lý luận, quy định của luật thực định và thực tiễn áp dụng
để giải quyết các vụ án về tội trộm cắp tài sản đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu 7
một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu để nhận thức và áp dụng đúng đắn
pháp luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trong thời
gian tới.
Xuất phát từ lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài:“Tội trộm cắp từ
thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ: Luật học, Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam được nhiều nhà
khoa học và cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu do vậy đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu khoa học về chủ đề này, điển hình là:
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm do GS. TS Võ
Khánh Vinh chủ biên, NXB khoa học xã hội, 2014; Bình luận khoa học chuyên
sâu BLHS Phần các tội phạm, Tập II. “Các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả
Đinh Văn Quế, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2005; Bình luận khoa học BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Phần các tội phạm, quyển I của tác giả
Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp 2018; cuốn sách chuyên khảo “Các tội xâm
phạm sở hữu trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)” của tác giả
Mai Bộ, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2010;
- Luận án tiến sĩ, luận văn cao học: “Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận án Tiến sĩ của
tác giả Nguyễn Văn Thanh, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016; “Trách nhiệm
hình sự đối với với các tội chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam”,
Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Tường Vy, Học viện Khoa học Xã hội năm 2016;
“Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc
Giang,”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH năm 2017; “Tội trộm cắp tài sản
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà
Nội”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật
8
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Luận văn thạc sĩ, Học viện
KHXH năm 2018; “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH năm 2020.
- Các bài báo khoa học: “Về các tội xâm phạm sở hữu” của TS. Nguyễn
Mai Bộ, Tạp chí TAND số 7/2018, tr 1-9; “Một số điểm mới cần thống nhất
nhận thức và áp dụng pháp luật đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại BLHS
năm 2015” của tác giả Đinh Công Thành và Nguyễn Thị Tuyết Loan, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số 2/2018; tr 47-54; “Dấu hiệu pháp lý và cách phân loại
các tội xâm phạm sở hữu theo BLHS năm 2015” của tác giả Nguyễn Trường
Giang, Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11/2017, tr 18-23.
Như vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học về tội trộm cắp tài
sản theo Luật hình sự Việt Nam ở các cấp độ, phạm vi khác nhau. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về “Tội trộm cắp từ thực
tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng”. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài này
không trùng với các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố về chủ đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu luận văn là hướng tới làm sâu sắc thêm về lý luận,
đánh giá quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản qua các
thời kỳ và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở
đó, đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS hiện
hành về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
+ Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội trộm cắp tài sản;
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về
9
tội trộm cắp tài sản của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, rút ra
những mặt tích cực cũng như hạn chế, sai sót và nguyên nhân;
+ Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của
BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp
tài sản và thực tiễn áp dụng của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tội trộm cắp tài sản dưới góc độ Luật hình sự và tố
tụng hình sự
Về thực tiễn, luận văn tập trung nghiên cứu hai nội dung cơ bản của áp
dụng pháp luật hình sự là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm
cắp tài sản trong xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Về thời gian: từ năm 2015 - 2019
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận (cơ sở lý luận)
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội
phạm và đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của
công dân.
Ngoài ra, luận văn còn dựa trên những tri thức nền tảng của khoa học luật
hình sự để luận giải đối tượng nghiên cứu trong luận văn của mình.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực
tiễn của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
chuyên gia… để làm rõ từng nội dung nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
10
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm những
vấn đề lý luận của khoa học luật hình sự về tội phạm cụ thể như: khái niệm, các
dấu hiệu định tội, định khung hình phạt; dấu hiệu phân định giữa tội phạm với
hành vi trộm cắp không phải là tội phạm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để hoàn thiện các quy
định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản; khắc phục những hạn chế, sai
sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết vụ án của TAND, bảo đảm đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu,
giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được cơ cấu thành ba chương
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản
Chương 2. Thực tiễn về pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại quận
Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp
11
luật hình sự về tội trộm cắp tài sản.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Trong khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm là khái niệm trung tâm,
khái niệm cơ bản nhất, đóng vai trò là cơ sở để xây dựng khái niệm về từng tội
phạm cụ thể, cũng như các khái niệm khác liên quan đến tội phạm.
Khái niệm tội trộm cắp tài sản là một trong những khái niệm về một tội
phạm cụ thể, do vậy phải được xây dựng dựa trên khái niệm tội phạm nói chung.
Hiện nay, xoay quanh khái niệm tội phạm có nhiều cách diễn đạt khác
nhau, nhất là việc phản ánh các dấu hiệu (đặc điểm) đặc trưng của tội phạm
trong nội hàm khái niệm. Song dựa trên định nghĩa lập pháp về khái niệm tội
phạm được quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành, đa số các nhà khoa học luật
hình sự Việt Nam đều thống nhất cho rằng: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, được quy định trong BLHS, do cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và phải bị xử lý hình sự”.
Từ khái niệm này cho thấy, tội phạm với tính chất là một hiện tượng xã
hội, pháp lý, có các đặc điểm đặc trưng khác với các hiện tượng không phải là tội
phạm, đó là:
+ Đặc điểm “Là hành vi nguy hiểm cho xã hội” (tính nguy hiểm cho xã
hội).
Trước hết, tội phạm phải là hành vi của con người. Hành vi bị coi là tội
phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều đó có nghĩa là: Về mặt khách
quan, hành vi bị coi là tội phạm phải gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây
12
thiệt hại đáng kể cho những lợi ích được pháp luật hình sự bảo vệ.
Đây là đặc điểm phản ánh nội dung chính trị - xã hội của tội phạm, đặc
điểm quan trọng nhất, quyết định các đặc điểm khác của tội phạm (đặc điểm về
hình thức và hậu quả pháp lý của tội phạm).
+ Đặc điểm “được quy định trong BLHS”
Đặc điểm này cho thấy chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS mới có thể bị coi là tội phạm, nghĩa là hành vi bị coi là tội
phạm phải là những xử sự trái với quy định của BLHS, cấm thực hiện hoặc cấm
không thực hiện (phải thực hiện khi có điều kiện để thực hiện). Đây chỉ là đặc
điểm về hình thức pháp lý của tội phạm, phản ánh đặc điểm nội dung của tội
phạm (tính nguy hiểm cho xã hội), nhưng có tính độc lập tương đối và có ý
nghĩa quan trọng. Bởi việc khẳng định tội phạm phải có đặc điểm này là biểu
hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế, là sự thừa nhận nguyên tắc đã được ghi
nhận trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hợp quốc: “Không ai bị kết án
vì một hành vi mà lúc họ thực hiện pháp luật quốc gia hay quốc tế không coi là
tội phạm” (Khoản 2 Điều 11)
+ Đặc điểm “do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”.
Đây là dấu hiệu về chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo
đó họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà luật định và không trong
“Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” do mắc bệnh tâm thần hoặc
bệnh khách làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của
mình. Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực pháp lý được Nhà nước xác định
và thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Đồng thời, năng lực trách nhiệm
hình sự cũng là điều kiện để chủ thể thực hiện hành vi có thể có lỗi. Do có ý
nghĩa như vậy, nên dấu hiệu về chủ thể “Có năng lực trách nhiệm hình sự” cần
được coi là một dấu hiệu của tội phạm [16;tr.58].
+ Đặc điểm “Thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”
Đặc điểm này cho thấy, tội phạm phải là hành vi có lỗi, tức là phải do chủ
13
thể cố ý hoặc vô ý thực hiện. Việc thừa nhận dấu hiệu này là một dấu hiệu độc
lập của tội phạm cho thấy, Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội
khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào việc một người
đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Do
vậy, “tính có lỗi” phải được xác định là một đặc điểm của tội phạm.
+ Đặc điểm “phải bị xử lý hình sự”.
Đây là đặc điểm thể hiện hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm.
Tuy nhiên, không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm, mà là đặc điểm có
tính quy kết, kèm theo của tội phạm; nó được xác định bởi chính những thuộc
tính bên trong của tội phạm. Theo đó, chỉ những hành vi bị coi là tội phạm thì
mới “phải bị xử lý hình sự”, không có tội phạm thì cũng không có biện pháp “xử
lý hình sự”. Đây là lý do mà BLHS năm 2015 bổ sung đặc điểm “phải bị xử lý
hình sự” trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8.
Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm nói chung, do vậy cũng
có đầy đủ những đặc điểm, đặc trưng chung của tội phạm. Mặc dù vậy, khi đưa
ra các khái niệm khoa học về tội trộm cắp tài sản, các nhà nghiên cứu luật hình
sự chỉ tập trung phản ánh những đặc điểm (dấu hiệu) riêng có của tội phạm này,
chẳng hạn như:
“Tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản”
[43;tr.49]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của
người khác” [31;tr.196]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác một cách lén lút” [4, tr.199].
Qua đây thấy rằng, các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam có nhiều cách
diễn đạt khác nhau khi đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản, nhưng đều thống
nhất ở chỗ, tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người
khác.
Chúng tôi cho rằng, các định nghĩa nêu trên mới chỉ là những định nghĩa
khái quát về tội trộm cắp tài sản, phản ánh đặc điểm đặc trưng riêng có của tội
14
trộm cắp, đó là “hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”.
Theo chúng tôi, để đưa ra được một khái niệm đầy đủ về tội trộm cắp tài
sản thì trong nội hàm khái niệm này phải thể hiện được đầy đủ các đặc điểm, đặc
trưng của tội phạm này. Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm tội
trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản của người khác, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được
pháp luật hình sự bảo vệ và theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự”.
Như vậy, khái niệm này không chỉ thể hiện được những dấu hiệu (đặc
điểm) chung của tội phạm mà còn thể hiện được dấu hiệu (đặc điểm) riêng của tội
trộm cắp tài sản, đó là “lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác nắm giữ”.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
* Những dấu hiệu định tội
Nghiên cứu lý luận và quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài
sản thấy rằng, tội trộm cắp tài sản có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau đây:
- Dấu hiệu khách thể, đối tượng tác động của tội phạm.
Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
Quyền sở hữu tài sản gồm ba quyền năng cụ thể, đó là: quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Khi tài sản
bị trộm cắp chủ sở hữu sẽ mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản bị chiếm đoạt.
Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải là tài sản đang có người
quản lý, nghĩa là: tài sản đó đang ở trong sự chiếm hữu, sự chi phối về mặt thực
tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc tài sản đang
nằm trong khu vực quản lý của chủ tài sản. Với đặc điểm như vậy thấy rằng,
những hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lý, hoặc chưa có
người quản lý đều không phải là hành vi trộm cắp tài sản.
- Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm
15
Mặc dù điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản
nhưng cả lý luận và thực tiễn đều thừa nhận hành vi khách quan của tội trộm cắp
tài sản là “Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý”
Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu: về mặt khách quan, hành vi
này được thực hiện bằng hình thức có khả năng không cho chủ tài sản (người
quản lý tài sản) biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra; Về mặt chủ
quan, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản người phạm tội có ý thức che giấu
hành vi đang thực hiện của mình. Đối với chủ tài sản, người phạm tội không chỉ
che giấu mặt thực tế của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn che
giấu tính chất bất hợp pháp của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tuy
nhiên, đối với những người không phải là chủ tài sản, không biết rõ nguồn gốc
tài sản thì có trường hợp người phạm tội chỉ che giấu tính chất bất hợp pháp của
việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Tội trộm cắp tài sản được nhà lập pháp quy định dưới dạng cấu thành tội
phạm vật chất. Do vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ coi là hoàn thành khi người phạm
tội đã chiếm hữu được tài sản trên thực tế. Để xác định thời điểm tài sản đã được
chiếm hữu trên thực tế phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Cụ thể
là: nếu tài sản bị chiếm đoạt nhỏ gọn thì chỉ coi là đã chiếm hữu được khi người
phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người; nếu tài sản bị chiếm đoạt không
thuộc loại nhỏ gọn thì chỉ coi là chiếm hữu được khi người phạm tội đã mang
được tài sản ra khỏi khu vực quản lý; nếu tài sản bị chiếm đoạt là tài sản để ở nơi
không hình thành khu vực bảo quản riêng thì chỉ coi là chiếm hữu được khi đã
dịch chuyển được tài sản ra khỏi vị trí ban đầu.
- Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Theo quy định của BLHS hiện hành, chủ thể của tội trộm cắp tài sản là bất
kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự mà luật định.
Như vậy, chủ thể của tội phạm này chỉ có thể là cá nhân (thể nhân) mà
16
không bao hàm pháp nhân thương mại
Cá nhân chỉ được coi là chủ thể của tội trộm cắp tài sản khi đáp ứng được
những điều kiện sau:
+ Là con người cụ thể, đang sống đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt
tài sản của người khác
+ Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà luật định. Theo quy định của Điều
12 và Điều 173 BLHS hiện hành, thì: nếu hành vi được thực hiện, được quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 BLHS thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi trở
lên; còn hành vi được thực hiện quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 173 BLHS
thì người phạm tội phải đủ 14 tuổi trở lên.
+ Họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là không trong
tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (Điều 21 BLHS).
- Dấu hiệu lỗi
Tội trộm cắp tài sản luôn được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp của chủ thể.
Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, người phạm tội luôn mong muốn chiếm
đoạt được tài sản của người khác. Động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu
hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản.
* Dấu hiệu phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với hành vi trộm cắp tài
sản chưa phải là tội phạm (vi phạm pháp luật).
Theo quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành thì hành vi trộm cắp tài sản
chỉ cấu thành tội phạm nếu tài sản bị trộm cắp phải có trị giá từ 02 triệu đồng trở
lên. Trường hợp tài sản bị trộm cắp có trị giá dưới 02 triệu thì chỉ cấu thành tội
phạm nếu có một trong những dấu hiệu sau đây:
+ Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.
Đây là trường hợp chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản (như công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản…) chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm
17
hành chính mà còn vi phạm. Theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 thì cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 06
tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể
từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc kể từ ngày hết
thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính mà không tái phạm thì được coi
là chưa bị xử phạt hành chính [27;tr.18]
+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều
168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm.
Đây là trường hợp chủ thể đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản hoặc về một
trong các tội chiếm đoạt tài sản quy định tại các Điều 168 (tội cướp tài sản);
Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài
sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 172 (tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản); Điều 174 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 175 (tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản) và Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của BLHS năm 2015,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội
Đây là trường hợp mới được quy định trong BLHS năm 2015. Đến nay
vẫn chưa có văn bản hướng dẫn vào giải thích về tình tiết này. Tuy nhiên, căn cứ
vào các văn bản quy phạm pháp luật quy định về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ
gìn trật tự an toàn xã hội có thể hiểu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội”, là trường hợp hành vi trộm cắp tài sản, ngoài gây hậu quả về tài
sản còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn công cộng ở một địa bàn
nhất định, gây xáo trộn cuộc sống bình thường của người dân, hoặc tâm lý hoang
mang, lo lắng trong nhân dân…
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ
Đây là cũng tình tiết mới bổ sung trong BLHS năm 2015 và cũng chưa
18
được hướng dẫn, giải thích. Tuy nhiên, về cơ bản có thể hiểu tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ là tài sản có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, là phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình
họ, nếu bị trộm cắp thì người bị hại và gia đình họ, sẽ lâm vào tình trạng hết sức
khó khăn về kinh tế. Chẳng hạn, nguồn thu chính của gia đình người bị hại là thu
từ việc sử dụng chiếc xe máy chở khách để kiếm tiền mưu sinh, nhưng đã bị
người phạm tội trộm cắp mất.
+ Tài sản là di vật, cổ vật
Theo quy định tại Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2010 thì: di vật là hiện
vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; cổ vật là hiện vật
được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ 100
năm tuổi trở lên.
* Hình phạt là các dấu hiệu định khung hình phạt.
BLHS hiện hành quy định bố khung hình phạt chính đối với tội trộm cắp
tài sản
- Khoản 1 Điều 173 BLHS hiện hành quy định khung hình phạt cơ bản
gồm phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm. Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội mà trị giá tài
sản trộm cắp dưới 50 triệu đồng.
- Khoản 2 của Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ
nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm
tội có một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau đây:
+ Có tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản có sự câu kết
chặt chẽ giữa những người đồng phạm (đồng phạm có tổ chức).
+ Có tính chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên
tiếp phạm tội trộm cắp tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu thập
chính [33;tr.44]
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng
19
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt là
trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản bằng những thủ đoạn tinh vi để che giấu
hành vi chiếm đoạt tài sản, làm cho mọi người dễ nhầm và không cho rằng đó là
hành vi trộm cắp tài sản; còn dùng thủ đoạn nguy hiểm là dùng thủ đoạn trộm
cắp tài sản có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại
hoặc của người khác.
+ Hành hung để tẩu thoát: Đây là trường hợp người trộm cắp tài sản đã có
hành vi chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát. Mục đích chống trả là để tẩu thoát.
Nếu mục đích chống trả để giữ bằng được tài sản vừa trộm cắp được thì có sự
chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản [16; tr.298]
+ Tài sản là bảo vật quốc gia: Đây là trường hợp đối tượng tác động của
tội trộm cắp tài sản là bảo vật quốc gia, tức là hiện vật được lưu truyền lại, có giá
trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học (Điều 4
Luật Di sản văn hóa năm 2010).
+ Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp bị kết án về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà
lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 173
BLHS hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm
cắp tài sản.
- Khoản 3 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai
(rất tăng nặng) có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường
hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung hình phạt
tăng nặng sau đây:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng
+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh
- Khoản 4 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba
(đặc biệt tăng nặng) có mức phạt tù từ 12 đến 20 năm được áp dụng cho trường
hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung tăng nặng
20
sau đây:
+ Chiếm đoạt có trị giá 500 triệu đồng trở lên
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
- Khoản 5 Điều 178 BLHS, quy định phạt tiền từ 05 triệu đến 50 triệu là
hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản
Những tình tiết (dấu hiệu) định khung hình phạt tăng nặng trên đây là cơ
sở để xác định khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội
1.1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt khác
* Phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt được
quy định tại Chương XVI BLHS: “Các tội xâm phạm sở hữu”
Trong BLHS hiện hành (Chương XVI) có quy định 8 tội có tính chất
chiếm đoạt gồm: tội cướp tài sản (Điều 168); tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
(Điều 169); tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170); tội cướp giật tài sản (Điều 171);
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); tội trộm cắp tài sản (Điều 173); tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
(Điều 175).
Những tội phạm này có nhiều dấu hiệu pháp lý giống tội trộm cắp tài sản
như: có cùng khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản; hành vi phạm tội đều có
tính chất chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý; đều được thực hiện với
lỗi cố ý trực tiếp với động cơ, mục đích phạm tội có tính chất vụ lợi; chủ thể của
tội phạm là chủ thể bình thường.
Tuy nhiên, so với các tội có tính chất chiếm đoạt khác, tội trộm cắp tài sản
có những điểm khác sau đây:
+ Về hành vi khách quan và thủ đoạn thực hiện hành vi khách quan của tội
phạm: Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản (cũng như một số tội khác
như: cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm…) là hành
vi chiếm đoạt tài sản, còn hành vi khách quan của tội cướp, tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản thì hành vi khách quan của tội phạm
21
không phải là hành vi chiếm đoạt, mà là hành vi: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
lực ngay tức khắc hay hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 168 tội cướp tài sản;
hoặc là hành vi bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản), (Điều
169 tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản )hoặc là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực
hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều
170 tội cưỡng đoạt tài sản). Như vậy, đối với 03 tội phạm này “chiếm đoạt tài
sản của người khác” được quy định là mục đích của việc thực hiện hành vi
khách quan.
Nếu so với các tội có tính chất chiếm đoạt còn lại (cướp giật, công nhiên
chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) thì tội trộm cắp tài
sản khác những tội phạm này ở thủ đoạn chiếm đoạt tài sản: Đối với tội cướp
giật tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt là “công khai, nhanh chóng chiếm đoạt”; đối
với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn
“lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công khai chiếm đoạt tài
sản”; đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là thủ
đoạn “gian dối”; đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn
“lợi dụng niềm tin sẵn có của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản mà chủ tài sản
giao cho trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản… sau đó dùng thủ đoạn
gian dối hoặc bỏ trốn hoặc cố tình không trả lại tài sản đó mặc dù có điều kiện,
khả năng để trả lại, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản”.
+ Về trị giá tài sản bị chiếm đoạt là ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý
hành chính
Ở tội trộm cắp tài sản: trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu đồng
trở lên mới xử lý hình sự, dưới mức đó chỉ có thể xử phạt hành chính (nếu không
có tình tiết khác làm tăng tính nguy hiểm của hành vi).
Ở các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản
22
và cướp giật tài sản thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt không có ý nghĩa đối với việc
xử lý hình sự.
Ở các tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo thì trị giá tài sản chị
chiếm đoạt cũng giống như tội trộm cắp, tức là phải từ 02 triệu đồng trở lên mới
xử lý hình sự, dưới mức đó thì phải có bổ sung các dấu hiệu khác.
Riêng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì trị giá tài sản
bị chiếm đoạt phải từ 04 triệu đồng trở lên mức bị xử lý hình sự.
* Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS
năm 2015)
Theo quy định tại Điều 290 BLHS hiện hành thì tội sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
là hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử
thực hiện một trong các hành vi sau đây nếu không thuộc một trong các trường
hợp được quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này:
a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá
nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa,
dịch vụ;
b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm
chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân
nhằm chiếm đoạt tài sản;
d) Lừa đảo trong thương mại diện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền
tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng
nhằm chiếm đoạt tài sản;
đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm
đoạt tài sản.
Qua đây cho thấy, điểm khác cơ bản giữa tội trộm cắp tài sản (Điều 173)
23
với tội phạm này (Điều 290) là ở chỗ:
+ Về khách thể trực tiếp của tội phạm
Đối với tội trộm cắp tài sản, khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài sản
Đối với tội phạm này, khách thể trực tiếp là an toàn mạng máy tính, mạng
viễn thông và phương tiện điện tử, một trong những lĩnh vực an toàn công cộng.
Ngoài khách thể trực tiếp cơ bản này, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản còn xâm phạm
đến quyền sở hữu tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ.
+ Về hành vi khách quan của tội phạm.
Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản (Điều 173) chỉ là hành vi lén
lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý. Thủ đoạn chiếm đoạt tài sản
là thủ đoạn lén lút chứ không thông qua thủ đoạn sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như là ở
tội quy định tại Điều 290 BLHS.
Hành vi khách quan của tội quy định tại Điều 290 BLHS là hành vi: sử
dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức cá nhân để
chiếm đoạt tài sản; làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả
nhằm chiếm đoạt tài sản…; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn
thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. Việc chiếm đoạt tài sản không phải là
hành vi khách quan mà là mục đích của việc thực hiện một trong những hành vi
khách quan nêu trên.
+ Về trị giá tài sản bị chiếm đoạt
Đối với tội trộm cắp tài sản thì trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu
đồng trở lên mới xử lý hình sự (hành vi mới cấu thành tội phạm) dưới mức đó thì
phải có bổ sung các dấu hiệu khác.
Còn đối với tội quy định tại Điều 290 thì trị giá tài sản mà người phạm tội
có mục đích chiếm đoạt không có ý nghĩa định tội (nghĩa là bất kỳ có trị giá là
24
bao nhiêu từ 02 triệu trở lên hay dưới 02 triệu)
Điều 290 BLHS còn quy định dấu hiệu “không thuộc một trong các
trường hợp quy định tại Điều 173…” Điều đó có nghĩa là các hành vi quy định
tại Điều 290 cũng có thể được thực hiện bằng thủ đoạn lén lút và trị giá tài sản bị
chiếm đoạt cũng từ 02 triệu đồng trở lên (đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài
sản) thì sẽ bị xử lý về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS, mà
không xử lý về tội quy định tại Điều 290 BLHS. Chẳng hạn, hành vi sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử lén lút chiếm đoạt tài sản
của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ có giá trị từ 02
triệu đồng trở lên thì xử lý về tội trộm cắp tài sản (Điều 173); ngược lại, nếu tài
sản bị chiếm đoạt dưới 02 triệu và không thuộc các trường hợp có bổ sung dấu
hiệu khác mà BLHS quy định đối với tội trộm cắp tài sản thì sẽ xử lý về tội sử
dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS)
Nắm vững những điểm khác nhau này giúp cho việc định tội danh được
chính xác, hạn chế sự nhầm lẫn giữa tội phạm này với tội phạm khác có liên quan.
1.1.4 Khái quát lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội trộm cắp tài sản
Định tội danh tội trộm cắp tài sản là một trong những trường hợp định tội
danh đối với một hành vi phạm tội cụ thể, đó là hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy,
khái niệm định danh tội trộm cắp tài sản phải được xây dựng dựa trên khái niệm
chung về định tội danh.
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều cách diễn đạt
khác nhau về định tội danh như: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về
mặt pháp lý sự phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ
thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định
trong quy phạm pháp luật hình sự” [46;tr.10]; hoặc “Định tội danh là quá trình
nhận thức lý luận có tính logic, là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
25
cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ,
các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định
sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện
với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định
nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm
về pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cụ thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình
sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [44;tr.71].
Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về định tội danh, nhưng đều thống
nhất ở chỗ, định tội danh thực chất là việc xác định về mặt pháp lý hình sự đối
với hành vi phạm tội đã được thực hiện, tức là xác định sự phù hợp (đồng nhất)
giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu
thành tội phạm tương ứng được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự.
Kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm nêu trên về định tội
danh, người nghiên cứu cho rằng: “Định tội danh tội trộm cắp tài sản là việc xác
định sự phù hợp, tương đồng giữa các dấu hiệu (tình tiết) của hành vi trộm cắp
tài sản cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài
sản được quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành”.
Từ khái niệm trên cho thấy, định tội danh tội trộm cắp tài sản thực chất là
việc đánh giá chính xác về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản được thực hiện trên thực tế; Là hoạt động của cơ quan, người có
thẩm quyền trong việc xác định và ghi nhận sự phù hợp giữa những tình tiết của
vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên thực tế với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm
cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS.
Định tội danh tội trộm cắp tài sản còn là một trong những hoạt động thực
tiễn pháp lý, một nội dung cơ bản của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm
giải quyết đúng đắn vụ án về tội trộm cắp tài sản. Hoạt động này (định tội danh)
thường được triển khai qua một số bước nhất định như: xác định đúng, khách
quan các tình tiết của vụ án trộm cắp tài sản, tìm hiểu, nhận thức đầy đủ nội dung
26
các quy phạm pháp luật hình sự quy định các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, bắt
buộc đối với tội trộm cắp tài sản; Xác định sự tương đồng, phù hợp giữa các dấu
hiệu (tình tiết) thực tế của hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được thực hiện với
các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định trong BLHS trên
cơ sở chứng cứ, tài liệu thu thập được... Như vậy, việc định tội danh tội trộm cắp
tài sản không thể không dựa vào các quy định của BLHS hiện hành về tội trộm
cắp tài sản Vì đây là những quy phạm pháp luật hình sự quy định khuôn mẫu
pháp lý (cấu thành tội phạm) của tội trộm cắp tài sản.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, việc định tội danh tội trộm cắp
tài sản được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự và do nhiều chủ thể
có thẩm quyền tiến hành như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm. Ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, đặc biệt ở giai đoạn xét xử thì việc xác
định tội danh tội trộm cắp tài sản phải bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
1.1.5. Lý luận về quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là một trong những nội
dung quan trọng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án về
tội trộm cắp tài sản. Do vậy, về mặt lý luận phải nhận thức một cách đúng đắn và
toàn diện về quyết định hình phạt đối với tội phạm này.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về quyết định hình phạt như:
“Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật
hình sự, thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy
định trong điều luật theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm
tội, thể hiện trong bản án kết tội” [47, tr. 298] hoặc: “Quyết định hình phạt là
hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác
định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt
động quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
27
hoặc nếu tòa án quyết định áp dụng hình phạt thì hoạt động quyết định hình phạt
là việc xác định loại, mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng
đối với bị cáo” [22; tr.63]
Từ những khái niệm nền tảng về quyết định hình phạt nêu trên, theo chúng
tôi có thể hiểu: “Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là việc Hội
đồng xét xử căn cứ vào quy định của BLHS, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi trộm cắp tài sản, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, lựa chọn loại, mức hình phạt cụ thể được quy
định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với người
phạm tội trộm cắp tài sản và được thể hiện trong bản án buộc tội”.
Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, quyết định hình phạt đúng đối với người
phạm tội trộm cắp tài sản có ý nghĩa rất lớn, là cơ sở để đạt được mục đích của
hình phạt. Ngoài ra, quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp đúng còn là điều
kiện bảo đảm tính khả thi của hình phạt đã tuyên, qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả của hình phạt.
Khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử phải
tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt, đó là:
+ Căn cứ vào quy định của BLHS;
Khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử phải
căn cứ vào các quy định của phần chung và phần các tội phạm của BLHS có liên
quan đến việc quyết định hình phạt đối với tội phạm này, đặc biệt là phần chế tài
của quy phạm pháp luật hình sự được thể hiện ở Điều 173 BLHS hiện hành.
+ Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội trộm cắp tài sản.
Đây là căn cứ hết sức quan trọng, giúp Hội đồng xét xử có cơ sở vững
chắc để lựa chọn loại, mức hình phạt cụ thể tương xứng với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp tài sản, đáp ứng được yêu cầu của
nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt
28
+ Căn cứ vào nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trộm cắp, Hội đồng xét
xử cần cân nhắc những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh khả
năng cải tạo, giáo dục người phạm tội, phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người
phạm tội đáng được khoan hồng.
+ Căn cứ vào những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có
trong vụ án trộm cắp tài sản
Căn cứ vào những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có
trong vụ án trộm cắp tài sản giúp Hội đồng xét xử đánh giá đầy đủ, toàn diện
Hơn về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, người
phạm tội trộm cắp tài sản.
Tóm lại, khi quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội đồng
xét xử phải xem xét, cân nhắc tất cả các căn cứ nêu trên, không thể quá coi trọng
hoặc bỏ qua bất kỳ căn cứ nào. Có như vậy, loại, mức hình phạt cụ thể mà Hội
đồng xét xử lựa chọn để áp dụng đối với người bị kết án về tội trộm cắp tài sản
mới tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội mà họ thực hiện.
1.2. Lịch sử quy định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt
Nam từ năm 1945 đến nay
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự
đầu tiên năm 1985
Nghiên cứu quá trình quy định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến trước năm 1985 (năm ban hành BLHS đầu tiên của
nước ta) thấy rằng, để đấu tranh phòng chống tội phạm bảo vệ tài sản của nhà
nước, của công dân, bên cạnh tạm thời sử dụng các luật lệ cũ, các nhà làm luật
Việt Nam đã chú ý đến việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới quy
định những hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản là tội phạm và hình phạt đối
29
với những tội phạm này, trong đó có tội trộm cắp tài sản như: Sắc lệnh ngày
15/1/1946 trừng phạt những người phạm tội ăn trộm, ăn cắp và tự ý phá hủy dây
điện thoại điện tín; Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/2/1946 về các tội phá hủy công
sản; Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1948 quy định về trừng trị các hành vi trộm
cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh; Nghị định số 32-
NĐ ngày 6/4/1952 của Bộ Tư pháp quy định đường lối xét xử các tội trộm cắp,
lừa đảo, biển thủ tài sản…; Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/6/1958 trừng trị những
âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân
dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của nhà nước về xây dựng
kinh tế văn hóa. Chẳng hạn, Điều 2 của Sắc lệnh này quy định: “Kẻ nào vì mục
đích phá hoại mà trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cướp bóc tài sản của
Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân sẽ bị phạt từ 5 năm đến 20 năm tù”
[34; tr.95]
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu xã
hội chủ nghĩa và sở hữu của công dân trong tình hình mới, ngày 21/10/1970,
Nhà nước ta thông qua hai Pháp lệnh mới, đó là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài
sản riêng của công dân. Trong hai pháp lệnh này đã thể hiện tương đối toàn diện
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với các tội xâm phạm sở hữu,
trong đó có tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa quy định 16
tội, trong đó tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa được quy định tại Điều 7 với
nội dung như sau: “1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ
06 tháng đến 5 năm;
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chuyên
nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) có móc ngoặc; d) Dùng thủ
đoạn xảo quyệt; đ) Trộm cắp tài sản có số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc
biệt; e) Dùng tài sản trộm cắp vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ hoặc những
30
việc phạm tội khác thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
3) Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có
nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt
tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” [35; tr.106]
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy định
13 tội, trong đó tội trộm cắp tài sản riêng của công dân quy định tại Điều 6 như
sau: “1. Kẻ nào trộm cắp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến
3 năm.
2. Phạm tội thuộc những trường hợp sau: a) Có tính chất chuyên nghiệp
hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Gây
hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 10 năm
3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm”[35; tr.108]
Từ những quy định này cho thấy, đường lối xử lý các tội xâm phạm tài sản
xã hội chủ nghĩa nghiêm khắc hơn các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.
Cụ thể Điều 7 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa quy
định chế tài nghiêm khắc nhất đối với tội phạm này đến tù chung thân hoặc tử
hình, trong khi đó chế tài được quy định đối với tội trộm cắp tài sản riêng của
công dân chỉ là phạt tù có thời hạn đến 15 năm. Điều đặc biệt là: cả hai pháp
lệnh đều quy định nhiều khung hình phạt khác nhau đối với tội trộm cắp tài sản
phù hợp với mức độ nguy hiểm của từng trường hợp phạm tội cụ thể. Đây là
bước tiến bộ rõ nét trong việc quy định đường lối xử lý có sự phân biệt, phân hóa
của Đảng và Nhà nước ta ở thời kỳ này.
Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thống nhất, ngày
15/3/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban
hành Sắc luật số 03/SL-76 quy định các tội phạm và hình phạt, trong đó có các
tội xâm phạm tài sản nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Các tội xâm phạm
31
tài sản xã hội chủ nghĩa và các tội xâm phạm tài sản của công dân được quy định
trong Sắc luật này tương đối thống nhất với các tội xâm phạm tài sản được quy
định trong hai pháp lệnh ban hành năm 1970.
Tóm lại, từ năm 1945 đến trước năm 1985, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản quy định việc trừng trị các tội chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và tài
sản riêng của công dân. Song các văn bản được ban hành vào thời kỳ này chủ
yếu là văn bản dưới luật, do vậy hiệu lực pháp lý không cao. Nhìn chung, các
quy định của pháp luật hình sự nước ta ở thời kỳ này còn sơ khai cả về nội dung
lẫn hình thức pháp lý. Có một số tội phạm cụ thể (trong đó có tội trộm cắp tài
sản) nhà lập pháp nước ta lại dùng quy phạm giản đơn để quy định tội phạm, tức
là chỉ nhắc lại tội danh mà không mô tả dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm.
Điều đó dẫn tới sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật xử lý các tội
xâm phạm tài sản.
Mặc dù có một số hạn chế, khiếm khuyết nhưng những văn bản này thực
sự là cơ sở pháp lý để xử lý các tội xâm phạm tài sản trong giai đoạn miền Bắc
xây dựng xã hội chủ nghĩa và sau đó là giai đoạn đầu cả nước thống nhất đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, trước đòi hỏi của tình hình thực tiễn, những văn bản pháp luật
được ban hành trước đó có nhiều nội dung không còn phù hợp nữa, cần phải sửa
đổi, bổ sung một cách căn bản và tổng thể nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng trong tình
hình mới. Xuất phát từ yêu cầu này, ngày 27/6/1985 Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành BLHS đầu tiên để thay thế các văn bản
pháp luật hình sự ban hành trước đây. Bộ luật này có hiệu lực kể từ ngày 01
tháng 01 năm 1986
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 2015
* Quy định của BLHS năm 1985 về tội trộm cắp tài sản
32
Trong BLHS năm 1985, các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại hai
chương: Chương IV. Các tội xâm phạm sở hữu XHCN và Chương VI. Các tội
xâm phạm sở hữu của công dân.
Tội trộm cắp tài sản XHCN được quy định tại Điều 132 BLHS năm 1985
như sau: “1. Người nào trộm cắp tài sản XHCN thì bị phạt cải tạo không giam
giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 5 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm
đến 12 năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt nguy hiểm; c) Hành hung
để tẩu thoát; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ) Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10
năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”
Tội trộm cắp tài sản của công dân được quy định tại Điều 155 BLHS năm
1985 như sau: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02
năm đến 10 năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành
hung để tẩu thoát; c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm
trọng khác; đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 07
năm đến 20 năm”.
Từ quy định trên BLHS năm 1985 cho thấy, BLHS năm 1985 đã kế thừa
những kỹ thuật lập pháp hình sự về các tội trộm cắp tài sản trong các văn bản
được ban hành trước đây, nhưng có quy định chặt chẽ, cụ thể hơn. Đặc biệt là
vẫn có sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội trộm cắp tài
sản của công dân, nhất là trong việc quy định chế tài đối với hai tội phạm này, cụ
thể: Đối với tội xâm phạm tài sản XHCN thì chế tài nghiêm khắc nhất là tử hình,
còn đối với tội trộm cắp tài sản của công dân thì chế tài nghiêm khắc nhất là 20
năm tù.
33
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm mà thực tiễn đặt ra
cho từng giai đoạn, BLHS năm 1985 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung 4 lần
vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Trong các lần sửa đổi, bổ sung này, quy
định về các tội: trộm cắp tài sản gần như được giữ nguyên ngoại trừ có bổ sung
một tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất chuyên nghiệp” vào điểm b
khoản 2 Điều 155 tội trộm cắp tài sản của công dân.
Như vậy, BLHS năm 1985 được ban hành, trong đó có quy định hai tội:
trộm cắp tài sản XHCN và trộm cắp tài sản của công dân với các chế tài khác
nhau đã đánh dấu một bước phát triển trong kỹ thuật lập pháp hình sự. Những
quy định của BLHS năm 1985 về hai tội trộm cắp tài sản là cơ sở pháp lý thống
nhất để định tội danh và quyết định hình phạt đối với hành vi trộm cắp tài sản.
Song, do được ban hành trong thời kỳ tập trung quan liêu, bao cấp, đồng thời sau
nhiều lần sửa đổi, bổ sung thì BLHS năm 1985 không còn là một chính thể thống
nhất, bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, gây khó khăn, vướng mắc trong việc áp
dụng, nhất là việc xác định tài sản bị trộm cắp thuộc tài sản XHCN hay là tài sản
của công dân. Điều đó đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện
Bộ luật này để khắc phục những vướng mắc trong thực tế áp dụng và đáp ứng
yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. BLHS năm 1999
ra đời chủ yếu để đáp ứng yêu cầu trên.
* Quy định của BLHS năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội trộm
cắp tài sản
BLHS năm 1999 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày
21/12/1999 có hiệu lực từ ngày 01/01/2000
Trong BLHS năm 1999, Chương IV. Các tội xâm phạm tài sản XHCN và
Chương VI. Các tội xâm phạm tài sản của công dân của BLHS năm 1985 đã
được nhập làm một gọi chung là “các tội xâm phạm sở hữu” được quy định tại
Chương IV của Bộ luật này. Trong BLHS năm 1999, tội trộm cắp tài sản được
quy định tại Điều 138 như sau: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác
34
có giá trị từ 500 nghìn đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 500 nghìn đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 3 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02
năm đến 7 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy
hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e)
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; g) Gây
hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 7
năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới
500 triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500
triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng”.
Như vậy, BLHS năm 1999 có sự sửa đổi, bổ sung đáng kể về tội trộm cắp
tài sản so với quy định của BLHS năm 1985 về tội phạm này. Cụ thể:
+ Một là, tội trộm cắp tài sản XHCN (Điều 132) và tội trộm cắp tài sản của
công dân (Điều 155 BLHS năm 1985) đã được nhập làm một tội, gọi chung là tội
trộm cắp tài sản, không có sự phân biệt tài sản XHCN với tài sản của công dân.
Điều này đã tạo thuận lợi cho thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý người có
hành vi trộm cắp tài sản, nhất là trong định tội danh và quyết định hình phạt.
+ Hai là, nhà làm luật đã định lượng trị giá tài sản bị trộm cắp làm ranh
giới giữa xử lý hình sự với xử phạt hành chính hành vi trộm cắp tài sản.
+ Ba là, nhà làm luật quy định 4 khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài
sản. Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm
35
hình sự và cá thể hóa hình phạt mà còn giúp cho việc quyết định hình phạt phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản trong
các trường hợp phạm tội khác nhau.
+ Bốn là, nhà làm luật quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này,
đó là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng
Để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, cũng như đáp ứng yêu cầu thực
tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Bộ luật hình sự năm
1999 đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, trong đó có sự sửa đổi quan trọng
liên quan đến tội trộm cắp tài sản, đó là nâng mức trị giá tài sản bị trộm cắp từ
500.000 đồng lên 2.000.000 đồng làm ranh giới giữa xử lý hình sự với xử lý
hành chính.
Từ sự phân tích, đánh giá trên cho thấy, quy định của bộ luật hình sự năm
1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội trộm cắp tài sản ngày càng được hoàn
thiện, chặt chẽ, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước trong từ thời
kỳ nhất định. Tuy nhiên, qua hơn 15 năm áp dụng cho thấy, quy định của bộ luật
hình sự năm 1999 về tội phạm này, đã bộc lộ những hạn chế bất cập như: Nhà
làm luật không mô tả những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm cắp tài sản
mà chỉ nhắc lại tội danh khi quy định tại Điều 138; một số tình tiết định tội, định
khung hình phạt chưa thật cụ thể, rõ ràng, khó xác định như: Tình tiết “gây hậu
quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng”.... Trong khi đó, các văn bản hướng dẫn áp dụng các tình tiết này
thì ban hành chưa kịp thời, nhiều nội dung vẫn còn chung chung, chưa thật cụ
thể, rõ ràng. Điều đó dẫn tới việc áp dụng pháp luật hình sự khi giải quyết các vụ
án về tội trộm cắp tài sản chưa được thống nhất.
Những hạn chế này, đã được BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm
2017) khắc phục.
* Quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) về tội trộm
cắp tài sản.
36
Trong BLHS hiện hành, tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173
Chương XVI như sau: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm. b). Đã bị kết án về tội này hoặc về
một trong các tội quy định tại Điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175, và 290
của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính
của người bị hại và gia đình họ; đ. Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
2năm đến 7 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt
tài sản trị giá từ 50.000.000 đến dưới 200.000.000 đồng; d) Dùng thủ đoạn xảo
quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Tài sản là bảo vật quốc gia;
g)Tái phạm nguy hiểm.
3) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: thì bị phạt tù từ 07
năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản chị giá từ 200.000.000 đến dưới
500.000.000 đồng; b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên; b)
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp;
5) Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng
So với quy định của BLHS 1999, quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) về tội trộm cắp có một số điểm mới sau đây:
+ Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã phi hình sự hóa hình phạt tù chung thân
đối với tội trộm cắp tài sản. Do vậy, hình phạt nghiêm khắc nhất đối với tội
phạm này là phạt tù đến 20 năm;
37
+ Thứ hai, BLHS năm 2015 bỏ tình tiết chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu định tội quy định tại khoản 1
Điều 138 BLHS năm 1999;
+ Thứ ba, BLHS năm 2015 bãi bỏ các tình tiết định khung có tính chất
định tính, trừu tượng, chung chung như: “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu
quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, quy định tại điểm
d khoản 2, điểm b khoản 3, điểm b khoản 4, Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999
+ Thứ tư, BLHS năm 2015 bổ sung một số tình tiết định tội như: “gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, tại điểm c, “tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” điểm d, “tài sản là di vật,
cổ vật” điểm d khoản 1 Điều 173;
+ Thứ năm, BLHS năm 2015 bổ sung một số tình tiết định khung hình
phạt tăng nặng như: “tài sản là bảo vật quốc gia” điểm a khoản 2; “lợi dụng
thiên tai dịch bệnh” điểm b khoản 3; “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh tình trạng
khẩn cấp” điểm 3 khoản 4 Điều 173.
Với những sửa đổi, bổ sung này cho thấy, quy định của BLHS hiện hành về
tội trộm cắp tài sản thực sự là cơ sở pháp lý vững chắc cho định tội danh, và quyết
định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng trong tình hình mới.
Tuy nhiên, qua hơn 02 năm áp dụng Bộ luật này cho thấy, quy định của
BLHS hiện hành về tội trộm cắp đã bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế cần tiếp
tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung vào thời gian tới (vấn đề này sẽ trình bày ở
38
Chương 3 luận văn)
Tiểu kết Chương 1
Từ kết quả nghiên cứu ở Chương 1, có thể rút ra một số kết luận cơ bản
sau đây:
+ Mặc dù tội trộm cắp tài sản đã được quy định khá sớm trong pháp luật
hình sự Việt Nam, đồng thời là một trong những tội có tính phổ biến trong đời
sống xã hội, nhưng đến nay một số vấn đề lý luận về tội phạm này vẫn chưa có
sự nhận thức thống nhất, đặc biệt là dấu hiệu lén lút chiếm đoạt tài sản của người
khác. Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận.
+ Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội có tính chất chiếm đoạt tài
sản, do vậy có nhiều dấu hiệu giống với các tội có tính chất chiếm đoạt tài sản
khác được quy định trong pháp luật hình sự. Tuy nhiên, giữa những tội phạm này
cũng có những điểm, dấu hiệu khác nhau. Nắm vững được những điểm giống và
khác nhau này giúp cho việc định tội danh đúng, hạn chế được sự nhầm lẫn giữa
tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chất chiếm đoạt tài sản khác
+ Tội trộm cắp tài sản được quy định trong luật hình sự Việt Nam phù hợp
với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội cũng như yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm bảo vệ quyền sở hữu tài sản của nhà nước cũng như của công dân trong
mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước và ngày càng được hoàn thiện. Những quy
định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản thực sự là cơ sở pháp lý cho
định tội danh và quyết định hình phạt bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp
39
luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TẠI QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản
2.1.1. Đánh giá chung về tình hình xét xử của TAND quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng
Theo số liệu thống kê về xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố
Đà Nẵng thấy rằng, trong 05 năm từ 2015 đến 2019 TAND quận đã thụ lý, xét
xử 216/287 vụ, với 304/255 bị cáo về tội trộm cắp tài sản đạt 86,6 % về số vụ và
83,9 % về số bị cáo. Ở giai đoạn này, trung bình mỗi năm TAND quận đã thụ lý,
xét xử 43/37 vụ, với với 60/57 bị cáo. Cụ thể các năm được thể hiện ở bảng số
liệu thống kê sau đây:
Bảng 2.1. Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản của
TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010 - 2019
Thụ lý Xét xử Tỉ lệ % Năm Vụ (1) Bị cáo (2) Vụ (3) Bị cáo (4) 3/1 4/2
2015 64 85 80 92,1 94,1 59
2016 61 92 64 80,3 69,5 49
2017 62 88 72 80,6 81,8 50
2018 27 34 34 100,0 100,0 27
2019 2 5 5 100,0 100,0 2
Tổng 216 304 187 255 86,6 83,9
Nguồn: TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng
Hình phạt được hội đồng xét xử quyết định áp dụng đối với người bị kết
40
án về tội trộm cắp tài sản được thể hiện ở bản hai.hai dưới đây
Bảng 2.2. Hình phạt được Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng quyết định áp dụng đối với người bị kết án về tội trộm cắp tài sản
giai đoạn 2015-2019
Hình phạt được áp dụng Bị Năm Cải tạo Tù Tù đến Tù đến 7 Tù đến Tù trên cáo giam giữ treo 3 năm năm 15 năm 15 năm
02 06 68 04 0 0 80 2015
2016 01 04 56 03 0 0 64
03 03 64 02 0 0 72 2017
2018 01 02 28 03 0 0 34
0 0 5 0 0 0 5 2019
Tổng 07 15 221 12 0 0 255
Nguồn: Số liệu thống kê xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng
Qua bảng số liệu thống kê này thấy rằng, hình phạt mà Hội đồng xét xử
TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng đối với các bị
cáo phạm tội trộm cắp tài sản chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn, theo đó
221/255 bị cáo có mức phạt tù đến 3 năm; 12/255 bị cáo có mức phạt tù đến 7
năm; 15/255 bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Chỉ có 07 bị cáo bị phạt
cải tạo không giam giữ.
Từ số liệu thống kê được thể hiện ở hai bảng trên đây có thể thấy, số vụ và
bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản được TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng đưa ra xét xử sơ thẩm chiếm tỉ lệ cao (86,6% về số vụ và 83,9 % về số bị
cáo). Mặc dù những số liệu thống kê này chỉ là số liệu có tính chất định lượng,
nhưng phần nào cũng phản ánh chất lượng xét xử nói chung định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng. Bởi, các vụ án về tội
trộm cắp tài sản được xét xử chiếm tỉ lệ cao so với các vụ án được thụ lý chứng
41
tỏ những nỗ lực của TAND quận trong việc xét xử kịp thời, nhanh chóng các vụ
án về tội trộm cắp tài sản, khắc phục được tình trạng tồn đọng án.
Về cơ bản, công tác xét xử nói chung, định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Trong giai đoạn này, không có trường hợp nào Hội đồng xét xử kết án
oan người vô tội, hoặc để lọt tội phạm. Số bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị chiếm tỉ lệ không đáng kể. Bản án, quyết định sơ thẩm bị hủy do
lỗi chủ quan của Hội đồng xét xử mặc dù vẫn còn nhưng có chiều hướng giảm
(năm sau giảm hơn năm trước). Tranh tụng tại phiên tòa được đẩy mạnh và bảo
đảm thực chất hơn. Tình trạng bản án tuyên không rõ rằng gây khó khăn cho
công tác thi hành án đã được khắc phục. Hình phạt được Hội đồng xét xử quyết
định áp dụng đối với người bị kết án tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trong từng vụ án cụ thể, bảo đảm hình phạt đã tuyên có tính khả thi, góp phần đạt
được mục đích phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.
2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội trộm cắp
tài sản
2.2.1 Kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt theo
cấu thành cơ bản
Khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, Hội
đồng xét xử đã xác định và đánh giá một cách khách quan, toàn diện những tình
tiết thực tế liên quan đến vụ án qua việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa. Những tình tiết mà hội đồng xét xử tập trung đánh giá
gồm: hành vi phạm tội được thực hiện có trực tiếp xâm phạm đến quyền sử hữu
hợp pháp của người khác hay không (khách thể của tội phạm), đối tượng tác
động của hành vi vi phạm tội có phải là tài sản đang có người quản lý hay là tài
sản bị bỏ quên, bị thất lạc, tức là không còn nằm trong sự chiếm hữu của chủ tài
sản? Do xác định được chính xác đối tượng tác động của hành vi phạm tội nên
42
đã khắc phục được tình trạng nhầm lẫn giữa tội trộm cấp tài sản với tội chiếm
giữ trái phép tài sản. Cùng với việc xác định khách thể, đối tượng tác động của
tội phạm, Hội đồng xét xử còn chú ý đến việc xác định, đánh giá mặt khách quan
của tội trộm cắp tài sản, nhất là xác định hành vi mà người phạm tội thực hiện có
phải là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác hay không. Đây là vấn
đề quan trọng nhất cần chứng minh làm rõ, bởi cũng giống như một số tội có
hành vi chiếm đoạt tài sản khác (như công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo, lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt...) mặt khách quan của tội trộm cắp mặc dù cũng có hành
vi chiếm đoạt tài sản, nhưng khác những tội phạm này ở thủ đoạn chiếm đoạt.
Do vậy, chỉ có thể kết luận là tội trộm cắp tài sản nếu hành vi chiếm đoạt tài sản
được thực hiện bằng thủ đoạn lén lút mà không phải là thủ đoạn khác như: công
khai, ngang nhiên chiếm đoạt, hoặc thủ đoạn gian dối. Do đánh giá đúng thủ
đoạn chiếm đoạt, mà trong thực tiễn xét xử, TAND quận Thanh Khê, thành phố
Đà Nẵng đã định tội danh tội trộm cắp tài sản một cách chính xác, không có sự
nhầm lẫn tội phạm này với các tội phạm khác mà mặt khách quan cũng có hành
vi chiếm đoạt tài sản.
Để có cơ sở áp dụng biện pháp xử lý hình sự hay hành chính, TAND quận
Thanh Khê đã chủ động phối hợp với cơ quan hữu quan trong việc xác định trị
giá tài sản bị chiếm đoạt có đáp ứng được mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm
hình sự hay không. Đây là vấn đề hết sức phức tạp, gây không ít khó khăn,
vướng mắc trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi
trộm cắp tài sản. Bởi theo quy định của Điều 138 BLHS năm 1999 (Sửa đổi, bổ
sung năm 2009), nay là Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017),
thì hành vi trộm cắp tài sản chỉ cấu thành tội phạm nếu tài sản bị chiếm đoạt có
trị giá từ 02 triệu đồng trở lên, dưới mức đó thì phải thuộc một trong các trường
hợp sau mới cấu thành tội phạm: (1) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; (2) Đã bị kết án về tội này hoặc về một
trong những tội quy định tại các Điều: 168, 169, 170, 171, 172, 174,179 và 290
43
của Bộ luật này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Nhận thức được điều
này, Hội đồng xét xử đã bám sát vào các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy
định của BLHS để xác định trị giá tài sản bị chiếm đoạt làm cơ sở cho việc truy
cứu trách nhiệm hình sự nói chung, định tội danh cũng như xác định khung hình
phạt để áp dụng nói riêng. Vụ án cụ thể sau đây là một minh chứng. Tại Bản án
số 67/2019/HS-TS ngày 01/8/2019, TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng
đã căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51
BLHS…. tuyên bố: Bị cáo Ngô Thị Kim Liên phạm tội: “Trộm cắp tài sản” xử
phạt: Bị cáo Ngô Thị Kim Liên 9 tháng tù. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
“Để có tiền tiêu xài nên Ngô Thị Kim Liên cùng Hồ Quang Minh Thành đã thực
hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản của người khác:
+ Vụ thứ nhất: khoảng 13 giờ ngày 01/01/2019 Hồ Quang Minh Thành
đến điều khiển mô tô biển kiểm soát năm tư 54Z5-7056 chở Ngô Thị Kim Liên đi
dạo trên một số tuyến đường ở quận Thanh Khê nhằm phát hiện sơ hở của chủ
tài sản để trộm cắp tài sản. Khi đến chiếc shop bán quần áo “Bồ Công Anh” tại
số 28 A đường Phan Thanh, phường Thạch Gián, quận Thanh Khê, thành phố
Đà Nẵng, thấy anh Nguyễn Văn Vĩnh để xe ô tô ở trước cửa shop bồ công anh
trên xe có treo một túi xách, bên trong đựng một áo giả da, hai áo khoác và một
áo thun, Thành dừng xe đứng cảnh giới còn Liên tiếp cận đến vị trí chiếc xe đậu
lấy chiếc túi xách của anh Vinh rồi nhanh chóng lên xe cùng thành tẩu thoát vụ
việc được camera tại shop bồ công anh ghi lại. Sau đó, cả hai mang tài sản trộm
cắp được đến chợ Cồn bán cho một người không rõ lai lịch với số tiền là
600.000 đồng rồi chia nhau tiêu xài.
Theo Bản án kết luận định giá tài sản 31/01/2019 của Hội đồng định giá tài
sản trong tố tụng hình sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thì số tài sản bị
trộm cắp trong vụ án này do không thu hồi được lên không có cơ sở đánh giá.
Người bị hại Nguyễn Văn Vinh xác định tổng chị giá tài sản bị mất là 1.810.000 đ
(Một triệu, tám trăm mười nghìn đồng) và yêu cầu Ngô Thị Kim Liên phải bồi
44
thường số tiền trên. Ngô Thị Kim Liên không thống nhất với trị giá tài sản mà
người bị hại đưa ra và chỉ đồng ý mức bồi thường là 1.000.000 đồng (Một triệu
đồng).
+ Vụ thứ hai, khoảng 20 giờ ngày 12/01/2019, Ngô Thị Kim Liên một
mình tự điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 54Z5-7056 đi trên tuyến đường Phan
Thành, quận Thanh Khê. Khi đến chiếc shop bán quần áo “18+ strore” tại số
42B, đường Phan Thanh thấy anh Từ Văn Tuấn có để xe mô tô trước cửa shop,
trên xe có treo ba túi xách bên trong có 01 quần Jean dài, 02 quần Jean lửng, 02
áo sơ mi và 02 nón lưỡi trai, Liên dừng xe đến lấy ba túi xách trên rồi lên xe tẩu
thoát. Sau đó Liên mang đến chợ Cồn bán cho 01 người không rõ nhân thân, lai
lịch với số tiền 500.000 đồng. Do tài sản không thu hồi được nên không thể định
giá tài sản bị trộm cắp. Nhưng anh Tuấn người bị hại cung cấp được hóa đơn
mua các tài sản bị trộm cấp với tổng số tiền là 1.950.000 đồng (Một triệu, chín
trăm năm mươi nghìn đồng).
+ Vụ thứ ba, lúc 16 giờ 30 phút ngày 15/3/2019, Hồ Quang Minh Thành
điều khiển xe mô tô BKS 43C1-403.79 chở Ngô Thị Kim Liên đi dạo trên các
tuyến đường tìm kiếm sơ hở của chủ tài sản để trộm cắp. Khi đến trước số nhà
150 đường Hàm Nghi, phường Thạc Gián, quận Thanh Khê thấy ông Nguyễn
Văn Linh có treo trên xe mô tô 01 mũ bảo hiểm và 01 túi xách, trong đó có 10
đôi đũa gỗ, 05 muỗng sắt, 03 hộp nhựa và 01 đồng hồ thông minh màu đen hiệu
Lenovo G03 nhưng không có người trông coi. Thành dừng xe đứng cảnh giới,
còn Liên tiếp cận đến chỗ kia, sẽ lấy chiếc túi treo trên xe của ông Linh rồi cùng
Thành tẩu thoát. Sau đó cả hai mang tài sản trộm cắp được đến chợ Hàn bán
cho 01 người không rõ nhân thân lai lịch được 150.000 đồng rồi chia nhau tiêu
xài, riêng chiếc đồng hồ hiệu Lenovo G03 thì Liên giữ lại sử dụng cá nhân.
Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 19/4/2019 của Hội đồng định giá
tài sản trong đó trong tố tụng hình sự quận Thanh Khê kết luận: 10 đôi đũa gỗ
có trị giá 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng); 05 muỗng sắt có trị giá 15.000
45
đồng; 03 hộp nhựa có trị giá 40.000 đồng; 01 đồng hồ thông minh hiệu Lenovo
G03 có chị giá 650.000 đồng. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 725.000 đồng”.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: “Tính chất vụ
án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cho thấy bị cáo Ngô Thị Kim Liên
có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, để có tiền tiêu xài, bị cáo đã thực hiện
nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản với tổng số tiền 2.725.000 đồng. Hành vi
phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1
Điều 173 BLHS…”.
Chúng tôi thấy rằng nhận định như vậy của hội đồng xét xử là có cơ sở.
Bởi, mặc dù mỗi lần bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp trị giá tài sản đều dưới
2.000.000 đồng, nhưng đây là trường hợp bị cáo thực hiện nhiều lần cùng một
hành vi phạm tội trộm cắp tài sản và tổng trị giá tài sản của các lần trộm cắp là
2.728.000 đồng lên đã trên mức tối thiểu mà luật định để truy cứu trách nhiệm
hình sự. Do vậy, bị cáo Ngô Thị Kim Liên (người thực hiện nhiều lần cùng hành
vi trộm cắp tài sản) phải chịu trách nhiệm về tội trộm cắp tài sản theo quy định
tại khoản 1 Điều 173 BLHS hiện hành”
Đối với hành vi giúp sức của Hồ Quang Minh Thành trong vụ án này, Hội
đồng xét xử nhận thấy, về mặt hình thức là hành vi đồng phạm, nhưng tính chất
mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, bản thân Thành chưa bị kết án về
tội phạm sở hữu, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài
sản vì vậy Hội đồng xét xử không truy cứu trách nhiệm hình sự là có cơ sở.
2.2.2. Kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt
theo cấu thành tăng nặng
Đối với những vụ án trộm cắp tài sản có tình tiết định khung tăng nặng
quy định tại khoản 2, 3, 4 của điều luật, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung,
Hội đồng xét xử nói riêng đã tập trung thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ
những tình tiết này để có cơ sở áp dụng tình tiết định khung tăng nặng theo đúng
46
quy định của BLHS.
Chẳng hạn, theo Bản án số 78/2017/HS-ST ngày 6/8/2017 của TAND
quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Hội đồng xét xử đã tuyên bố bị cáo Mai
Văn Lạc phạm tội: “Trộm cắp tài sản, áp dụng Điểm c, khoản 2, Điều 138 BLHS
năm 1999; Điểm a khoản 1 Điều 48, điểm b khoản 1 Điều 46 xử phạt bị cáo Mai
Văn Lạc 05 năm tù. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong khoảng thời
gian từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2017, bị cáo Mai Văn Lạc đã thực hiện nhiều
vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Thanh Khê và các quận khác của thành
phố Đà Nẵng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo Lạc chiếm đoạt lên tới 42.650.000
đồng. Cụ thể là 14/2/2017 trộm cắp tài sản của anh Bùi Thanh Hùng, có tổng trị
giá tài sản chiếm đoạn là 8.700.000 đồng, ngày 17/2/2017 trộm cắp tài sản của
ông Lê Phương có tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 15.000.000 đồng; ngày
2/3/17 trộm cắp của bà Huỳnh Thị Phượng một số máy móc thiết bị có tổng trị
giá tài sản là 16.100.000 đồng; ngày 13/4/2017 trộm cắp của ông Trần Quốc Sỹ
có trị giá là 1.350.000 (Một triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng)”. Bị cáo là
người có nhân thân xấu, cụ thể là vào ngày 27/2/2016, bị TAND quận Thanh
Khê xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, ngày 25/12/2007, bị TAND
thành phố Đà Nẵng xử phạt 04 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”, ngày 22/4/2011,
bị TAND quận Thanh Khê xử phạt 9 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, ngày
23/4/2012, bị TAND quận Thanh Khê xử phạt 03 năm tù về tội “trộm cắp tài
sản”; ngày 10/9/2015 bị TAND huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt 18
tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Bị cáo phạm tội lần này khi đã tái phạm nguy
hiểm chưa được xóa án tích nên phải chịu trách nhiệm về tình tiết định khung
tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS
năm 1999. Đồng thời, chỉ trong một thời gian ngắn bị cáo thực hiện nhiều vụ
trộm cắp tài sản nên bị cáo còn phải chịu trách nhiệm về tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS
năm 1999. Việc Hội đồng xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà
47
Nẵng áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm
1999 xử phạt bị cáo Mai Văn Lạc là hoàn toàn có cơ sở, đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
2.2.3. Kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định hình phạt đối
với trường hợp đặc biệt
Đối với những trường hợp phạm tội đặc biệt, nhất là trường hợp đồng
phạm tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử của TAND quận Thanh Khê Đà
Nẵng đã tập trung làm rõ vai trò của từng người đồng phạm trên cơ sở đó thực
hiện triệt để nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm. Vụ án
cụ thể sau đây thể hiện điều này. Tại Bản án số 80/2019/HS-ST ngày 27/8/2019
của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở nội dung vụ án, căn
cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử quyết định: Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Trần Phương, Nguyễn Văn Tấn
Đạt và Nguyễn Đức Anh phạm tội “Trộm cắp tài sản”, căn cứ vào điểm a, b
khoản 2 Điều 173; điểm b, s, r khoản 1, khoản 2, Điều 51 BLHS năm 2015, xử
phạt bị cáo Huỳnh Trần Phương 3 năm 6 tháng tù; căn cứ điểm a khoản 2 Điều
173 điểm b, s, g khoản 1 khoản 2 điều 51 BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo
Nguyễn Văn Tấn Đạt 3 năm tù; căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173, điểm b, s,
g khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 xử phạt bị
cáo Nguyễn Đức Anh 18 tháng tù.
Hội đồng xét xử của TAND quận Thanh Khê áp dụng điều, khoản, điểm
nêu trên tuyên phạt các bị cáo là có cơ sở. Bởi lẽ đây là một vụ án đồng phạm có
tổ chức (phạm tội có tổ chức). Khi thực hiện tội trộm cắp tài sản, bị cáo Phương,
Đạt, Anh đã cấu kết chặt chẽ cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo
có sự bàn bạc, phân công vai trò, trách nhiệm của từng người và cùng nhau thực
hiện hành vi phạm tội. Do vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS hiện
hành thì đây là trường hợp phạm tội có tổ chức. Đồng thời, tình tiết “có tổ chức”
được BLHS quy định là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm a khoản 2 Điều
48
173. Vì thế, các bị cáo đều phải chịu trách nhiệm về tình tiết định khung tăng
nặng này. Ngoài ra, đối với vụ án này, Hội đồng xét xử của TAND quận Thanh
Khê còn xác định rõ tính chất, mức độ tham gia của từng người đồng phạm trong
vụ phạm tội trộm cắp tài sản nhằm thực hiện triệt để nguyên tắc cá thể hóa hình
phạt khi giải quyết vụ án. Cụ thể là Hội đồng xét xử đã nhận định: Trong vụ
đồng phạm này, bị cáo Huỳnh Trần Phương là người rủ rê, khởi xướng và
Phương là người thực hành tích cực nhất. Bị cáo đã thực hiện tổng cộng 10 lần
trộm cắp tài sản với tổng trị giá tài sản là 46.490.000 đồng. Bị cáo phạm tội có
tổ chức và có tính chất chuyên nghiệp lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
những tình tiết “có tổ chức” và tình tiết “có tính chất chuyên nghiệp” quy định
tại điểm a, b khoản 2 Điều 173 BLHS hiện hành. Với tính chất, mức độ phạm tội
của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải xử phạt bị cáo Phương với mức
án nghiêm khắc, tương xứng với tình tiết tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi mà bị cáo đã thực hiện”.
Đối với bị cáo Nguyễn Văn Tuấn Đạt, Hội đồng xét xử nhận định: “Bị
cáo tham gia vụ trộm cắp tài sản với vai trò giúp sức tích cực trong vụ án. Bị
cáo tham gia 8 lần trộm cắp tài sản cùng với bị cáo Phương cảnh giới cho
Phương thực hiện việc trộm cắp tài sản. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo Đạt tham
gia cùng với bị cáo Phương chiếm đoạn là 39.790.000 đồng. Do vậy, cũng như
bị cáo Phương, bị cáo Nguyễn Văn Tấn Đạt phạm tội với 02 tình tiết định khung
tăng nặng quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 173 BLHS hiện hành. Hội đồng
xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo Đạt với mức hình phạt tương xứng với
hành vi mà bị cáo đã thực hiện.
Đối với bị cáo Nguyễn Đức Anh, Hội đồng xét xử nhận thấy rằng: “Bị cáo
chỉ tham gia 03 lần trộm cắp tài sản cùng với Phương với tổng trị giá tài sản bị
chiếm đoạt là 11.390.000 đồng. Tuy nhiên, mặc dù không phải là người trực
tiếp trộm cắp tài sản, nhưng bị cáo là người giúp sức tích cực để các bị cáo thực
hiện hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy, bị cáo Anh cũng phải chịu trách nhiệm về
49
tình tiết định khung tăng nặng có tổ chức quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173
BLHS năm 2015”
2.2.4. Những hạn chế, sai sót trong định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội trộm cắp tài sản
Bên cạnh những mặt tích cực, những kết quả đạt được nêu trên, hoạt động
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản của TAND
quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng cũng không tránh khỏi một số hạn chế, sai
sót nhất định, đó là:
* Thứ nhất, thiếu sót trong định tội danh.
Qua tìm hiểu Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác xét xử và phân
tích ngẫu nhiên 20 bản án về tội trộm cắp tài sản của TAND quận Thanh Khê
thấy rằng, trong định tội danh ít xảy ra sai sót hơn so với hoạt động quyết định
hình phạt. Song không vì thế, mà hoạt động định tội danh của TAND quận
Thanh Khê hoàn toàn không có hạn chế, sai sót nhất định, đó là:
- Sai sót phổ biến nhất là sai sót trong việc xác định trị giá tài sản bị trộm
cắp làm cơ sở cho việc định tội cũng như định khung hình phạt.
Đối với tội trộm cắp tài sản , vấn đề định giá nhằm xác định chính xác trị
giá tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định hành
vi trộm cắp tài sản có cấu thành tội phạm hay không, và nếu cấu thành tội phạm
thì áp dụng khung hình phạt nào (khung cơ sở hay khung tăng nặng) để truy cứu
trách nhiệm hình sự người phạm tội.
Hiện nay, việc xác định trị giá tài sản được giao cho Hội đồng định giá tài
sản trong tố tụng hình sự. Song chưa có những quy định cụ thể nhằm ràng buộc
trách nhiệm của Hội đồng định giá đối với kết quả định giá tài sản của mình,
cũng như chưa có những tiêu chí cụ thể làm căn cứ để xác định trị giá tài sản bị
chiếm đoạt. Điều này có thể dẫn tới sự thiếu khách quan, chính xác, thậm chí có
sự tùy tiện trong việc định giá tài sản. Trong khi đó, theo quy định của Điều 138
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Điều 173 BLHS năm 2015 thì
50
hành vi trộm cắp tài sản chỉ cấu thành tội phạm và bị xử lý hình sự nếu tài sản bị
chiếm đoạt có trị giá từ 2 triệu đồng trở lên. Do vậy, nếu trị giá tài sản bị trộm
cắp dưới 2 triệu đồng và không thuộc một trong những trường hợp có bổ sung
tình tiết như: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
còn vi phạm, hoặc đã bị kết án về một trong các tội chiếm đoạt tài sản, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm thì hành vi trộm cắp tài sản chưa cấu thành tội
phạm và chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính.
Trong thực tiễn xét xử các vụ án trộm cắp tài sản, TAND quận Thanh Khê
dường như chỉ căn cứ vào kết luận định giá tài sản bị chiếm đoạt của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự người phạm
tội, kể cả trường hợp nội dung kết luận định giá tài sản thiếu chính xác. Điều này
có thể dẫn tới xét xử oan sai hoặc để lọt tội phạm.
Ngoài hạn chế nêu trên trong quá trình xét xử các vụ án trộm cắp tài sản,
Hội đồng xét xử TAND quận Thanh Khê còn mắc sai sót trong việc xác định
tổng trị giá tài sản các lần bị xâm phạm để giải quyết vụ án đối với trường hợp
một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi trộm cắp tài sản, nhưng mỗi lần
tổng trị giá tài sản bị xâm phạm đều dưới mức tối thiểu (dưới 2 triệu đồng) để
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điển hình là vụ: “Nguyễn Đức Gia Huân và Bùi Quốc Huy là những
người làm thuê tại cửa hàng sơn Minh Thành Phát tại địa chỉ 470 Lê Duẩn,
phường Chính Giám, quận Thanh Khê, Đà Nẵng do ông Lê Sáu làm chủ. Căn cứ
vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy từ ngày 24/4/2015 đến ngày 29/4/2015
lợi dụng sơ hở của chủ cửa hàng sơn “Minh Thành Pháp”, Huân cùng Huy thực
hiện 03 vụ trộm cắp tài sản của cửa hàng.
+ Lần thứ nhất, khoảng 10 giờ ngày 24/4/2015, Huân cùng Huy trộm cắp
2 thùng sơn dầu Expo của cửa hàng đem bán được 700.000 đồng rồi chia nhau
tiêu xài cá nhân. Qua định giá xác định trị giá 2 thùng sơn bị trộm cắp là
900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng).
51
+ Lần thứ hai, khoảng 12 giờ ngày 28/4/2015 lợi dụng chủ cửa hàng ngủ
trưa, Quân cùng Huy trộm cắp 2 thùng sơn dầu EXPO của cửa hàng (mỗi thùng
có bốn lon loại 3 lít) rồi đem bán được 1.400.000 đồng chia đôi mỗi người
700.000 đồng tiêu xài cá nhân. Qua định giá xác định tại trị giá tài sản (2 thùng
sơn) mà Quân và Huy trộm cắp là 1.950.000 đồng.
+ Lần thứ ba, khoảng 15 giờ ngày 29/4/2015 Quân và Huy trộm cắp 2
thùng sơn dầu EXPO (mỗi thùng 12 lon loại 0,8 lít) rồi đem bán được 1.100.000
đồng chia nhau tiêu xài. Qua định giá, xác định trị giá tài sản Quân và Huy trộm
cắp của cửa hàng là 1.850.000 đồng. Tổng trị giá tài sản ba lần Quân và Huy
trộm cắp là 4.700.000 đồng”.
Đối với vụ án này, Hội đồng xét xử TAND quận Thanh Khê, thành phố
Đà Nẵng đã căn cứ vào điểm a, mục 5, Phần II Thông tư liên tịch số
02/2001/TTLT ngày 25/12/2001 của TAND, VKSNDTC – Bộ công an, Bộ Tư
pháp để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Quân và Huy về tội trộm cắp tài
sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Chúng
tôi cho rằng, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 5, Phần II Thông tư liên
tịch số 02/2001/TTLT để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Quân và bị
cáo Huy là chưa thật chính xác và thuyết phục. Bởi, theo mục 5, Phần II thông tư
này thì: “Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm
phạm sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS và không thuộc một trong
các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời trong các hành
vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử
phạt hành chính nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên
mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, thì người
thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phạm xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng giá trị tài sản của các lần
bị xâm phạm, nếu:
52
a) Các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp
nhau về thời gian.
b). Việc thực hiện các hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chuyên
nghiệp, lấy tài sản do xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính.
c) Với mục đích xâm phạm sở hữu, nhưng do điều kiện, hoàn cảnh khách
quan nên việc xâm phạm phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị
xâm phạm mỗi lần dưới 500.000 đồng (nay là dưới 02 triệu đồng)
Đối chiếu diễn biến của vụ trộm cắp này với điểm a Phần II Thông tư liên
tịch số 02/2011/TTLT, theo chúng tôi đây không phải là trường hợp các hành vi
trộm cắp tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về thời gian, mà
là trường hợp quy định tại điểm c mục 5 Phần II của Thông tư liên tịch số
02/2001/TTLT, tức là với mục đích xâm phạm sở hữu (mục đích chiếm đoạt tài
sản của cửa hàng) nhưng do tài sản công kềnh, có trọng lượng tương đối nặng,
khó chuyển dịch, dễ bị phát hiện…do hoàn cảnh khách quan nên các bị cáo Huân
và Huy không thể lấy một lần mà phải thực hiện ba lần với tổng giá trị tài sản
trộm cắp là 4.700.000 đồng (Bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng) nên các bị cáo phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS
năm 1999, điểm c mục 5 phần II của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT
- Sai sót trong việc đánh giá tình tiết “hành hung để tẩu thoát” dẫn tới
định tội danh không đúng trường hợp có sự chuyển hóa từ tội trộm cấp tài sản
thành tội cướp tài sản (đầu trộm đuôi cướp). Cụ thể là tại Bản án hình sự sơ thẩm
số 129/2015/HS-ST ngày 12/8/2015 của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng đã quyết định: “Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tứ phạm tội trộm cắp tài
sản, áp dụng điểm d khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 xử phạt Nguyễn Văn Tú
phạm tội trộm cắp tài sản, áp dụng điểm d khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 xử
phạt Nguyễn Văn Tú 03 năm, 06 tháng tù”. Nội dung vụ án như sau: “Khoảng
19 giờ ngày 16/5/2015, Nguyễn Văn Tú đi bộ quanh khu dân cư để tìm xe máy
trộm cắp. Khi đi ngang qua số nhà 136/3 đường Hải Phòng, thành phố Đà
53
Nẵng, Tú thấy một xe mô tô hiệu Honda Air Blake màu đỏ bạc, biển kiểm soát
54N3-7310 của anh Nguyễn Văn Huệ để dưới chân cầu thang. Lợi dụng không
có ai trông coi, Tú đột nhập vào dùng đoản đem theo phá được khóa xe rồi dắt
xe ra ngoài đường tẩu thoát. Nhưng vừa ra khỏi cổng thì bị anh Huệ đi bộ về
phát hiện hô hoán những người hàng xóm cùng bắt giữ khi Tú vừa ngồi lên xe
của anh Huệ nổ máy tẩu thoát thì bị anh Huệ giữ lại được. Thấy vậy, Tú dùng
chân đạp mạnh vào người anh Huệ làm anh ngã xuống đường. Rồi nổ xe máy
cho xe chạy, nhưng bị mọi người hàng xóm bắt giữ được”.
Về vụ án này, khi xét xử tại phiên tòa, luật sư của người bị hại cho rằng,
Hội đồng xét xử áp dụng khoản d điểm d khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 xử
phạt Tú 03 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung tăng
nặng là “hành hung để tẩu thoát” là không chính xác. Bởi theo quy định tại mục
6 (6.1 và 6.2) của Phần II Thông tư liên tịch số 02/2011/ TTLT của TAND -
VKSNDTC – BCA – BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 thì phạm tội thuộc trường
hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt
được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ thì
đã có hành vi chống trả lại người bị bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như
đánh, chém, bắn, xô ngã ... nhằm tẩu thoát; Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt
được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác dành lại, mà người phạm
tội tiếp tục dùng vũ lực đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực tấn công người bị hại
hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không
phải là hành hung để tẩu thoát mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp
tài sản.
Trở lại vụ án này thấy rằng, vướng mắc ở đây là việc xác định Tú đã
chiếm đoạt được chiếc xe máy của anh Huệ chưa? Theo quy định tại Điều 138
BLHS năm 1999, tội trộm cắp hoàn thành khi chiếm đoạt được tài sản, tức là
người phạm tội đã thực sự chiếm hữu được tài sản trên thực tế. Căn cứ vào các
tình tiết của vụ án có thể thấy Tú chỉ mới dắt được chiếc xe máy của anh Huệ ra
54
tới cổng chưa kịp nổ máy tẩu thoát thì bị anh Huệ phát hiện giữ lại được. Vì thế,
Tú đã dùng chân đạp anh Huệ ngã xuống đất nhằm chiếm đoạt cho được chiếc
xe máy của anh Huệ. Thực chất, đây là trường hợp dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt
tài sản chứ không phải là trường hợp hành hung để tẩu thoát. Do vậy, cần phải
xử phạt Tú về tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999 mới
đúng.
* Thứ hai, thiếu sót trong quyết định hình phạt
Qua tìm hiểu thực tiễn xét xử các vụ án về tội “trộm cắp tài sản” của
TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thấy rằng, những sai sót trong
quyết định hình phạt chủ yếu được thể hiện ở một số trường hợp sau:
+ Một là, quyết định hình phạt chưa thật sự tương xứng với tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp tài sản và người phạm tội. Điển
hình là vụ án sau đây: “Trong tháng 01/2019, tại quận Thanh Khê, Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Phi Hùng đã liên tiếp thực hiện 06 vụ trộm cắp tài
sản, tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Phi Hùng trộm cắp là 204.200.000 đồng. Xét
tính chất vụ án và hành vi phạm tội của Nguyễn Phi Hùng thì thấy, Hùng là một
đối tượng sống lang thang, không có nghề nghiệp. Để có tiền nuôi sống bản thân
và tiền tiêu xài cá nhân, Hùng đã tự chế tạo đoạn phá khóa điện, khóa cốp xe mô
tô làm công cụ để thực hiện các vụ trộm cắp xe máy. Hùng đã thực hiện trót lọt
được 06 vụ thì bị bắt.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử quyết định: Tuyên bố bị cáo
Nguyễn Phi Hùng phạm tội trộm cắp tài sản, áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173,
điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt
Nguyễn Phi Hùng 08 năm tù, thời hạn tù tính từ 13/2/2019”.
Về vụ án này chúng tôi thấy, mức hình phạt tù mà Hội đồng xét xử TAND
quận Thanh Khê quy định áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Phi Hùng chưa thật sự
tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
55
Bởi, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
không đầy đủ, toàn diện, cụ thể là đã bỏ lọt một tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm b Điều 52
BLHS hiện hành. Theo mục 5, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLHS năm 1999 thì: “Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân
biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án
tích.
b) Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết
quả của việc phạm tội là nguồn sống chính”.
Đối chiếu với hướng dẫn tại nghị quyết này cho thấy, hành vi phạm tội
của Nguyễn Phi Hùng hoàn toàn thỏa mãn điều kiện của tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.
Song, Hội đồng xét xử TAND quận Thanh Khê chỉ căn cứ vào tình tiết
phạm tội từ hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 không căn cứ
vào tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” để quyết định áp dụng mức
hình phạt đối với bị cáo Hùng. Do vậy, mức hình phạt 08 năm tù được áp dụng
đối với bị cáo Hùng chưa thật sự tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội.
+ Hai là, cân nhắc chưa đầy đủ, toàn diện các tình tiết giảm nhẹ, dẫn tới
mức hình phạt đã tuyên không thỏa đáng, ảnh hưởng đến chính sách hình sự
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội được đề cập trong Nghị quyết số
49/NQ-TW của Bộ chính trị ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020. Vụ án sau đây là một minh chứng: “Ngày 8/3/2015, Hoàng Duy Tùng
sinh năm 1998 đã có hành vi trộm cắp tài sản của chị Loan là chị gái của Tùng
56
gồm: 01 máy tính laptop hiệu Acer và 01 điện thoại di động iPhone 6 plus màu
vàng. Sau đó đến chợ Cồn thành phố Đà Nẵng bán được 15 triệu đồng để tiêu
xài. Buổi chiều ngày 8/3/2015 Tùng về nhà khai nhận với gia đình về việc trộm
cắp tài sản của chị Loan. Nghe theo lời khuyên của gia đình ngày 10/3/2015,
Tùng đến công an quận Thanh Khê khai báo toàn bộ sự việc. Ngày 18/3/2015
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Thanh Khê kết luận: Tổng giá trị
tài sản mà Tùng trộm cắp của chị Loan là 20.150.000 đồng”.
Căn cứ vào nội dung vụ án cũng như các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét thấy hành vi của bị cáo Tùng gây
nguy hiểm cho xã hội, nhưng Tùng phạm tội khi còn dưới 18 tuổi, đồng thời tại
Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo có thái độ khai báo thành
khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị
cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự.
Mặt khác, người bị hại (chị Loan) là người thân đã có đơn gửi TAND
quận thanh Khê tha thiết đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Với những nhận định trên 16/6/2015 tại Bản án số 15/HS-TS Hội đồng xét
xử của TAND quận Thanh Khê quyết định: “Tuyên bố bị cáo Hoàng Duy Tùng
phạm tội trộm cắp tài sản, áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999, điểm h, b
khoản 1 Điều 146, Điều 3 BLHS năm 199 xử phạt bị cáo Hoàng Duy Tùng 09
tháng tù. Thời hạn tù tính từ 16/3/2015”.
Theo chúng tôi, trong vụ án này, mức hình phạt mà Hội đồng xét xử quyết
định áp dụng đối với bị cáo Tùng về cơ bản là tương xứng với tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999. Tuy
nhiên, Hội đồng xét xử lại không áp dụng khoản 1 Điều 46 để coi tình tiết
“người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây thiệt
hại về tài sản” theo quy định tại điểm c mục 5, Nghị quyết số 01/2000/NQ-
HĐTP ngày 4 tháng 8 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn
57
áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999. Như vậy, trong vụ án này, Hội
đồng xét xử chỉ căn cứ vào hai tình tiết giảm nhẹ là: “Phạm tội lần đầu và thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng” điểm h và tình tiết “người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải” điểm b khoản 1 Điều 46 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Chúng tôi cho rằng, đối với vụ án này, Hội đồng xét xử có thể căn cứ vào
Điều 47, Điều 69 BLHS năm 1999 để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
BLHS mà cụ thể là chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ (một hình phạt
thuộc loại nhẹ hơn). Có như vậy, vừa bảo đảm được nguyên tắc nhân đạo, vừa
bảo đảm được nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội quy định
tại Điều 69 BLHS năm 1999.
+ Ba là, vẫn còn trường hợp cho hưởng án treo không đúng quy định của
pháp luật. Cụ thể là: “Tại Bản án sơ thẩm số 109/2017/HS-ST 26/9/2017 của
TAND dân quận Thanh Khê, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, các
điểm g, b khoản 1 Điều 46, Điều 60 BLHS năm 1999 phải xử phạt: bị cáo Trần
Thị Mỹ Duyên sinh 19/7/2000 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, bị cáo
Nguyễn Huỳnh Phương Thúy sinh ngày 15 tháng 3 năm 2000 12 tháng tù cho
hưởng án treo, thời gian 02 năm kể từ ngày tuyên án về tội trộm cắp tài sản. Nội
dung vụ án tóm tắt như sau: Vào khoảng 16 giờ ngày 1 tháng 5 năm 2017 Trần
Thị Mỹ Duyên và Nguyễn Huỳnh Phương Thúy lợi dụng một số sinh viên về quê
nghỉ lễ không có mặt ở khu nhà trọ, đã dùng phương tiện mang theo cậy cửa ba
phòng trọ trộm cắp một máy tính xách tay nhãn hiệu Dell, 01 máy tính xách tay
hiệu Acer và 3 quần bò. Ngay buổi tối hôm đó 1/5/2017 thấy một số phòng trọ
cũng không có người, Duyên và Thúy tiếp tục cậy cửa trộm cắp hai xe đạp điện,
một nồi cơm điện hiệu Sanyo. Khi mang tài sản trộm cắp đi tiêu thụ thì bị phát
hiện bắt giữ.
Tại bản kết luận định giá tài sản của hội đồng định giá trong tố tụng quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xác định tổng giá trị tài sản mà Duyên và
Thúy trộm cắp là 32.150.800 đồng”
58
Bản án sơ thẩm này của TAND quận Thanh Khê bị VKSND thành phố Đà
Nẵng kháng nghị phúc thẩm và ngày 2/10/2017 theo hướng không áp dụng Điều
60 BLHS năm 1990 cho các bị cáo hưởng án treo. Lý do Viện Kiểm sát kháng
nghị là vì:
Trong vụ án này, xét tính chất, mức độ phạm tội của hai bị cáo là nghiêm
trọng, đã dùng phương tiện chuẩn bị sẵn cạy cửa phòng trọ của sinh viên tiến
hành hai vụ trộm cắp tài sản trong vòng một ngày với tổng giá trị tài sản bị
chiếm đoạt lên tới 32.150.000 đồng. Như vậy, đây không thuộc trường hợp chưa
gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn quy định tại điểm g khoản 1 Điều 36
BLHS năm 1999. Trong khi đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm lại áp dụng tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này để cho các bị cáo hưởng án treo là không
đúng. Mặt khác, hành vi của các bị cáo thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy
định tại điểm g Điều 48 BLHS là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Song
cấp sơ thẩm không xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này
là thiếu sót.
Căn cứ Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 thì: “Chỉ xem
xét cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
… d) Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản
1 Điều 48 của BLHS và có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên
trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của
BLHS, nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có 3 tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 1 tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS”. Đối chiếu với vụ án này thấy rằng, các bị
cáo không đủ điều kiện được hưởng án treo, vì chỉ có một tình tiết giảm nhẹ và
một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm quận
Thanh Khê cho các bị cáo trong vụ án này hưởng án treo là không đúng theo
pháp luật. Có sự sai sót này, một phần là do lỗi của VKSND quận Thanh Khê,
bởi trong Bản cáo trạng không thể hiện rõ nội dung vụ án, bỏ sót tình tiết phạm
59
tội nhiều lần.
2.2.5. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót
Những thiếu sót, hạn chế khi định tội danh và quyết định hình phạt nêu
trên là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan chủ yếu sau đây:
* Thứ nhất, do những hạn chế, bất cập của những quy phạm pháp luật
hình sự quy định về các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói
riêng. Cụ thể là:
- Trong BLHS năm 1999, cũng như trong BLHS năm 2015, nhà lập pháp
vẫn sử dụng quy phạm giản đơn để quy định một số tội có hành vi chiếm đoạt tài
sản như: cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp tài sản, tức là chỉ nêu tội
danh mà không mô tả cụ thể các dấu hiệu của hành vi phạm tội. Điều đó đã dẫn
tới việc nhận thức và áp dụng tội trộm cắp tài sản, thậm chí có sự nhầm lẫn giữa
tội phạm này với các tội có tính chất chiếm đoạt tài sản khác.
- Một số tình tiết được nhà lập pháp quy định là dấu hiệu định tội cũng
như định khung hình phạt mang tính định tính, chẳng hạn, tình tiết “gây hậu quả
nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng” (trong BLHS năm 1999); hoặc tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội”, “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị
hại và gia đình họ” trong BLHS năm 2015. Trong khi đó, những tình tiết này
chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng, hoặc khi có văn bản hướng dẫn áp dụng
nhưng chưa thật sự cụ thể, rõ ràng, minh bạch. Điều đó khó có thể áp dụng thống
nhất những tình tiết này khi định tội cũng như khi quyết định hình phạt.
Hiện nay, trong BLHS năm 2015 có nhiều tình tiết mới được quy định là
dấu hiệu định tội, cũng như định khung hình phạt của tội trộm cắp tài sản nhưng
muốn xác định chính xác những tình tiết này thì vẫn phải vận dụng các văn bản
(hướng dẫn cũ hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999 thậm chí
của BLHS năm 1985) để xác định, hoặc có những tình tiết định tội được quy định
trong cấu thành cơ bản của tội trộm cắp như “tài sản là cổ vật, di vật”, nhưng
60
muốn xác định được những tài sản đặc biệt này để định tội thì lại phải viện dẫn
đến văn bản quy phạm pháp luật khác (Luật di sản văn hóa năm 2001)… Điều đó
cũng gây không ít khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng ); hoặc tình tiết
“gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là một tình tiết cũng
gây nhiều khó khăn trong thực tiễn xét xử
- Các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù như: phạt tiền, cải tạo không giam
giữ trong BLHS hiện hành mặc dù đã được mở rộng phạm vi áp dụng so với
trước đây, nhưng lại được quy định là chế tài lựa chọn với hình phạt tù, thêm vào
đó khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa của khung hình phạt được quy
định đối với tội trộm cắp tài sản còn tương đối rộng, dẫn đến sự tùy tiện hoặc áp
dụng không đồng nhất trong thực tiễn…
* Thứ hai, do hạn chế về trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, bản
lĩnh nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm trong công tác của những người có thẩm
quyền định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản.
Thực tế xét xử ở quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng những năm qua
cho thấy, những thiếu sót hạn chế trong định tội danh tội trộm cắp tài sản là do
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận người có thẩm quyền, định tội
danh và quyết định hình phạt (Thẩm phán, Hội thẩm) chưa theo kịp yêu cầu ngày
càng cao của công tác xét xử, chưa tích cực nghiên cứu, học tập để nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân. Về phía cơ quan Tòa án thì chưa
chú trọng đầy đủ đến việc tăng cường bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, kỹ năng
xét xử cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm. Mặt khác, trên thực tế trong áp dụng
pháp luật giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản, một số người có thẩm phán chưa
thật sự nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, làm việc qua loa, đại khái,
thiếu sự thận trọng cần thiết dẫn đến để sót một số tình tiết quan trọng có ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án, đồng thời cũng không loại trừ khả năng có biểu
hiện tiêu cực khi xét xử vụ án trộm cắp tài sản vì những động cơ khác nhau. Sự
phối hợp, chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đôi khi chưa thật sự chặt
61
chẽ, vẫn còn tình trạng “Quyền anh, quyền tôi” trong quá trình giải quyết vụ án.
* Thứ ba, do cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện khoa học, kỹ thuật,
công nghệ phục vụ công tác điều tra, truy tố xét xử các vụ án trộm cắp tài sản,
chế độ, chính sách đối với những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự
chưa được quan tâm đúng mức…
Như vậy, có nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho hoạt động định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ở quận thanh Khê thành
62
phố Đà Nẵng còn có những hạn chế, thiếu sót nhất định cần phải khắc phục.
Tiểu kết Chương 2
Từ kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của Luận văn có thể thấy rằng, trong
05 năm qua từ 2015 đến 2019, TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã
thụ lý, xét xử một số lượng lớn các vụ án về tội trộm cắp tài sản, bảo đảm đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng.
Hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài
sản, bên cạnh những kết quả đạt được, những mặt tích cực vẫn còn những hạn
chế, sai sót nhất định, song mặt tích cực vẫn là cơ bản, qua đó có tác dụng không
nhỏ trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền sở hữu của nhà nước, của tổ chức
và cá nhân.
Những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói
chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói
riêng do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau cần khắc phục để
nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản đang xảy ra khá phổ
biến hiện nay
Kết quả nghiên cứu ở chương này là cơ sở thực tế để xây dựng các giải
pháp nâng cao chất lượng định tội danh và quyết định hình phạt trong hoạt động
63
xét xử của tòa án trong thời gian tới.
CHƯƠNG 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
3.1. Các yêu cầu đối với việc áp dụng đúng quy định của pháp luật
hình sự về tội trộm cắp tài sản
Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản nói riêng là một quá trình hoạt động có
mục đích làm cho các quy phạm pháp luật hình sự đi vào đời sống, phát huy vai
trò của mình trong phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm.
Mục đích trực tiếp của áp dụng pháp luật hình sự là bảo đảm cho các quy
phạm pháp luật hình sự được thực hiện đầy đủ, chính xác, nghiêm minh trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự, trong đó có vụ án về tội trộm cắp tài sản.
Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc.
Để đạt được mục đích trên, hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự nói chung, các quy định về tội trộm cắp nói riêng phải đáp ứng được
những yêu cầu sau đây:
3.1.1. Yêu cầu bảo vệ quyền con người
Ở Việt Nam, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người (nhân quyền) là động
lực đồng thời là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay.
Do vậy, mọi hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự trong việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung, vụ án về tội trộm cắp
tài sản nói riêng cũng phải đáp ứng yêu cầu bảo vệ, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân.
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp,
pháp luật.
64
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong những trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”
Trên cơ sở Hiến pháp, Điều 1 BLHS hiện hành quy định: “Bộ luật hình sự
có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa
đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật;
chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật,
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm” [25; tr.2]
Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên (trong đó có nhiệm vụ bảo vệ quyền con
người, quyền công dân) BLHS quy định tội phạm và hình phạt.
Quyền sở hữu về tài sản hợp pháp là một trong những quyền cơ bản của
con người, của công dân. Để bảo vệ quyền này, BLHS hiện hành đã dành 01
chương để quy định những hành vi xâm phạm sở hữu là tội phạm và quy định
hình phạt đối với những tội phạm đó (Chương XVI). Như vậy, để bảo vệ quyền
con người, quyền công dân (trong đó có quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp),
Nhà nước đã sử dụng BLHS như là một phương tiện pháp lý quan trọng để đấu
tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Mặt
khác, trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, các cơ quan có thẩm quyền, nhất
là Tòa án: “Phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của
những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó
nếu xét thấy có sự vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết” (Điều 8
BLTTHS năm 2015).
Khi định tội danh, đặc biệt là khi quyết định hình phạt đối với người bị kết
án về tội trộm cắp tài sản, Tòa án phải bảo đảm mọi hành vi phạm tội trộm cắp
tài sản phải được phát hiện kịp thời, xử lý công minh theo đúng pháp luật, không
để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Hình phạt mà Tòa án tuyên phạt
65
người bị kết án về tội trộm cắp tài sản phải bảo đảm phù hợp với tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; phải kết hợp hài hòa, chặt chẽ
giữa trừng trị với khoan hồng, giáo dục, cảm hóa người phạm tội và luôn đề cao
quyền con người của người bị kết án.
Như vậy, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là một trong những yêu cầu
hàng đầu đối với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, định tội danh
và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng. Vì thế, khi áp dụng
các quy định của pháp luật hình sự để giải quyết vụ án trộm cắp tài sản, chủ thể
có thẩm quyền luôn luôn phải quán triệt yêu cầu này.
3.1.2. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu
Hiện nay dưới sự tác động của nhiều yếu tố đặc biệt là mặt trái của nền
kinh tế thị trường, tình hình tội phạm diễn biến hết sức phức tạp và có xu hướng
ngày càng gia tăng, đặc biệt là nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Theo số liệu
thống kê của TANDTC, thì từ năm 2001 đến năm 2017 (thời kỳ áp dụng BLHS
năm 1999) trên phạm vi cả nước đã xảy ra 1.022.238 vụ phạm tội với 1.872.478
bị cáo đưa ra xét xử về các tội phạm khác nhau. Trong đó, có 415.510 vụ với
633.382 bị cáo bị đưa ra xét xử về các tội xâm phạm sở hữu, chiếm 40.65% về
số vụ và 33,83% về số bị cáo.
Trong số các tội xâm phạm sở hữu bị đưa ra xét xử trong phạm vi toàn
quốc thì tội trộm cắp tài sản chiếm tỉ lệ cao nhất. Ở địa bàn quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng cũng không phải là một ngoại lệ, bởi chỉ trong vòng 05 năm
(từ năm 2015 đến 2019), TAND quận đã đưa ra xét xử 216 vụ, với 255 bị cáo về
tội trộm cắp tài sản. Thực trạng này đòi hỏi phải tăng cường đấu tranh phòng,
chống. Để đáp ứng yêu cầu này, các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Tòa án
khi định tội danh, cũng như quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản phải
bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội. Hình phạt (loại, mức hình phạt cụ thể) được lựa chọn và quyết
66
định áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản phải có tác dụng phòng
ngừa chung và phòng ngừa riêng.
3.1.3. Yêu cầu tạo lập môi trường, hành lang pháp lý an toàn, thuận lợi
và bình đẳng, minh bạch cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng
như của địa phương
Hiện nay, ở nước ta đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn của đất nước”, đó là “nền kinh tế có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ
thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp
luật” [11, tr.102-103]. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế này đã làm thay đổi mọi mặt
đời sống xã hội. Trong sự chuyển đổi cơ chế kinh tế, pháp luật nói chung, pháp
luật hình sự nói riêng cũng phải thay đổi để kịp thời phải ánh những nhu cầu của
sự phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, việc hoàn thiện cũng như áp dụng pháp luật
hình sự đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quan hệ sở hữu phải hướng tới
việc tạo ra một môi trường, một hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn, bình đẳng,
minh bạch cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như ở từng địa
phương. Đặc biệt, không làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội bảo vệ được
lợi ích kinh tế - xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển.
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự và tội trộm cắp tài sản
Để nâng cao chất lượng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
trộm cắp tài sản, ngoài việc quán triệt các yêu cầu nêu trên cần phải triển khai
67
đồng bộ các giải pháp sau đây:
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường hướng dẫn áp dụng kịp thời
các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội trộm cắp tài sản
Thực tế cho thấy, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật hình sự, trong đó
có những quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội trộm cắp tài sản là một
trong những tiền đề quan trọng cho việc áp dụng đúng pháp luật hình sự để giải
quyết chính xác các vụ án trộm cắp tài sản. Bởi, chỉ trên cơ sở hệ thống pháp luật
hình sự hoàn thiện, tức là thỏa mãn những tiêu chí như: tính phù hợp, toàn diện,
đồng bộ và trình độ kỹ thuật lập pháp cao, đáp ứng được các yêu cầu mà thực
tiễn đặt ra thì hệ thống pháp luật đó mới phát huy được vai trò của mình trong
đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Khó
có thể nói tới chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự, trong đó có hoạt
động định tội danh và quyết định hình phạt khi hệ thống pháp luật hình sự còn
chưa hoàn thiện, còn chồng chéo, mâu thuẫn, không phù hợp với yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm bảo vệ quyền con người, quyền sở hữu đối với tài
sản hợp pháp của công dân.
Trong khi đó, BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) và trước đây
là BLHS năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) bên cạnh những mặt tích cực
thì vẫn còn những hạn chế, bất cập, gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp
dụng. Tất nhiên, những hạn chế, bất cập trong các quy định của BLHS năm 1999
vừa qua đã được BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 khắc phục một
cách căn bản. Tuy nhiên, qua hơn 2 năm áp dụng cho thấy, một số quy định của
BLHS hiện hành đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, trong đó có quy
định về tội trộm cắp tài sản như: khi quy định tội trộm cắp tài sản tại Điều 173
BLHS hiện hành, nhà làm luật vẫn sử dụng quy phạm giản đơn, nghĩa là không
mô tả dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này trong nội dung của điều luật.
Điều đó gây khó khăn cho việc nhận thức và áp dụng thống nhất đúng đắn Điều
173 khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội này. Do vậy, chúng
68
tôi cho rằng cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Điều 173 BLHS theo hướng mô tả
rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của hành vi trộm cắp tài sản đủ để có thể phân
biệt được tội trộm cắp tài sản với các tội khác mà trong mặt khách quan của tội
phạm cũng có hành vi chiếm đoạt tài sản.
Theo chúng tôi, khoản 1 Điều 173 BLHS hiện hành cần sửa đổi, bổ sung
như sau: “1. Người nào lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng
thuộc một trong những trường hợp sau:….”
Mặt khác, một số tình tiết được quy định là dấu hiệu định tội, định khung
hình phạt của tội trộm cắp tài sản vẫn còn mang tính “định tính”, do vậy việc áp
dụng những tình tiết này chủ yếu dựa vào ý thức chủ quan của chủ thể có thẩm
quyền áp dụng pháp luật hình sự. Đó là những tình tiết như: “Gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” (điểm c khoản 1); “Tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” (điểm d khoản 1); “Tài
sản là di vật, cổ vật” (điểm đ, khoản 1); “Tài sản là bảo vật quốc gia” (điểm e,
khoản 2); Điều 173 BLHS hiện hành. Đây là những tình tiết mới được quy định
trong BLHS năm 2015. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có văn bản giải thích,
hướng dẫn áp dụng. Do vậy, trên thực tế, nhận thức của những người có thẩm
quyền áp dụng pháp luật hình sự về những tình tiết này vẫn chưa có sự thống
nhất; việc áp dụng những tình tiết này gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Để
khắc phục những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng những tình tiết nêu trên,
chúng tôi kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương cần sớm ban hành
văn bản hướng dẫn áp dụng những tình tiết này, cụ thể là:
+ Đối với tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội” cần quy định một cách cụ thể, rõ ràng, chi tiết việc gây ảnh hưởng xấu đến
từng lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; mức độ, phạm vi gây ảnh hưởng…
+ Đối với tình tiết “Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị
hại và gia đình họ” cần giải thích rõ tài sản là phương tiện kiếm sống chính của
69
người bị hại và gia đình họ là tài sản gì? Mặt khác, tài sản đó có được sử dụng
như là một phương tiện để kiếm sống chính cho bản thân người bị hại và gia
đình họ hay không.
+ Đối với tình tiết “Tài sản là di vật, cổ vật”; “Tài sản là bảo vật quốc
gia”, cơ quan có thẩm quyền phải dựa vào Luật di sản văn hóa năm 2001 (Sửa
đổi, bổ sung năm 2009) để giải thích, theo đó di vật là hiện vật được lưu truyền
lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có
giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học có từ 100 tuổi trở lên, còn bảo vật
quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của
đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học (Điều 4 Luật Di sản văn hóa).
Cùng với việc ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng những tình tiết mới
được quy định trong BLHS nêu trên, cần xem xét lại tình tiết “hành hung để tẩu
thoát” được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BTP (mục 6 Phần I), trên cơ sở đó sửa đổi, để tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc khi áp dụng tình tiết này, theo hướng quy định cụ thể, rõ
ràng trường hợp nào thì áp dụng là tình tiết định khung tăng nặng của tội trộm
cắp tài sản (điểm d khoản 2 Điều 173), khi nào thuộc trường hợp chuyển hóa từ
tội trộm cắp tài sản thành tội cướp tài sản.
3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức
công vụ của đội ngũ cán bộ có thẩm quyền định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội trộm cắp tài sản
Việc nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ
của chủ thể áp dụng pháp luật hình sự (Thẩm phán, Hội thẩm…) là một đòi hỏi
cấp bách của công cuộc cải cách tư pháp. Bởi năng lực, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, đạo đức công vụ của chủ thể áp dụng pháp luật hình sự là một trong
những điều kiện quan trọng bảo đảm hoạt động định tội danh và quyết định hình
phạt được chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế được tình
trạng oan, sai trong hoạt động tư pháp. Nhận thức được tầm quan trọng của công
70
tác cán bộ tư pháp, trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh theo hướng đề
cao quyền và trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính
trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội
đối với từng loại cán bộ…” [8;tr.3]
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án… có nhiệm vụ xét xử nói chung,
định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo nói riêng. Nếu họ hạn chế về
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, thiếu trách nhiệm trong
thực thi nhiệm vụ, sa sút về đạo đức, lối sống… thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với
việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, trong đó có vụ án về tội trộm cắp tài sản.
Ở quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm
không chỉ thiếu về số lượng mà còn hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội… Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng, hiệu quả xét xử các vụ án hình sự. Do vậy trong thời gian tới cần có
những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến
thức pháp luật, kỹ năng xét xử cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Cụ
thể là:
+ Trước tiên, cần đổi mới, hoàn thiện quy chế tuyển chọn, bổ nhiệm, tái
bổ nhiệm Thẩm phán đảm bảo đúng tiêu chuẩn theo quy định của Luật Tổ chức
TAND năm 2014, Pháp lệnh thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 (Sửa đổi,
bổ sung năm 2011); Mở rộng nguồn thi tuyển Thẩm phán để thu hút nguồn nhân
lực có chất lượng; công khai hóa kế hoạch thi tuyển chọn thẩm phán, đảm bảo
tính dân chủ, công khai, minh bạch, tính cạnh tranh trong các kỳ thi tuyển chọn,
nâng ngạch thẩm phán.
+ Vấn đề tiếp theo là tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương
thức đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán phù hợp với yêu cầu chuyên môn, công việc
và từng ngạch của Thẩm phán. Chú trọng truyền đạt các nội dung mới của pháp
71
luật, kỹ năng xét xử, kiến thức quản lý nhà nước, lý luận chính trị, pháp luật
quốc tế, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng dân vận… Đảm bảo kiến thức được truyền
đạt vừa rộng, vừa chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lý
thuyết với thực hành (nhất là diễn án) nhằm giúp Thẩm phán nắm vững kiến
thức chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp. Ngoài
ra chú trọng khuyến khích việc đào tạo sau đại học đối với Thẩm phán tạo điều
kiện về thời gian kinh phí cho thẩm phán nâng cao trình độ
+ Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề
nghiệp, cần chú trọng hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức lối
sống cho đội ngũ Thẩm phán theo hướng tập trung vào các nội dung thiết thực,
để Thẩm phán, cán bộ tòa án thực sự là người có phẩm chất đạo đức tốt, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý,
liêm khiết và trung thực; có lý tưởng thượng tôn pháp luật, tôn trọng sự thật
khách quan, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, tôn trọng và tận tụy
phục vụ nhân dân. Trong bối cảnh hiện nay cùng với việc nghiêm túc học tập các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, cần tập trung giáo dục Thẩm phán, cán bộ tòa án,
thấm nhuần sâu sắc di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ tòa án
“Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, “tận tụy phục vụ nhân dân” không
thiên vị, tư lợi trong thực thi công vụ.
+ Trong bối cảnh kinh tế thị trường cũng như đời sống sinh hoạt hiện nay,
cần quan tâm hơn nữa đến chế độ tiền lương trợ cấp nghề nghiệp cho đội ngũ
thẩm phán để họ thực sự yên tâm thực thi công vụ, hạn chế tối đa những hiện
tượng tiêu cực tham nhũng không đáng có.
Mặt khác cần quan tâm chú trọng đến công tác khen thưởng, kỷ luật theo
hướng thiết thực, ý nghĩa và kịp thời, đánh giá thành tích và tôn vinh, khen
thưởng đúng người, đúng việc, tạo hiệu ứng lan tỏa sâu rộng trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị mình cũng như trong toàn hệ thống tòa án.
Bên cạnh đó cần xử lý nghiêm khắc các hành vi sai phạm về đạo đức lối
72
sống vi phạm quy tắc nghề nghiệp, kỷ luật công vụ, vi phạm pháp luật, tham
nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp; kiên quyết không bao che dung túng,
nương nhẹ đối với các vi phạm của Thẩm phán trong rèn luyện đạo đức, lối sống
và trong hoạt động xét xử, giữ nghiêm kỷ cương kỷ luật trong thực hiện chức
năng xét xử, thực thi quyền tư pháp của tòa án.
* Đối với Hội thẩm nhân dân
Theo quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 thì: “1. Việc xét xử sơ thẩm
của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
2. Thẩm phán Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…”
[tr.55]. Với tầm quan trọng như vậy, nhưng trên thực tế nhận thức về vị trí, vai
trò của Hội thẩm đối với việc bảo đảm dân chủ trong xét xử chưa thật sự đúng
đắn. Điều cơ bản là hiện nay trình độ của Hội thẩm chưa thật sự đáp ứng với
nhiệm vụ được giao để bảo đảm ngang quyền với thẩm phán. Ở quận Thanh Khê
Thành phố Đà Nẵng chỉ có 20 Hội thẩm của TAND nhưng trình độ kỹ năng xét
xử, kiến thức pháp luật còn hạn chế, không đồng đều. Mặc dù, số lượng Hội
thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử chiếm đa số, nhưng chế độ trách nhiệm thì
không rõ ràng. Chính vì vậy sự tham gia của họ trong xét xử vụ án mang nặng
tính hình thức. Một số Hội thẩm nhân dân do trình độ, kiến thức pháp luật còn
hạn chế, nên có tư tưởng “ỷ lại vào thẩm phán”, không phát huy được tính độc
lập của mình trong xét xử… Những hạn chế yếu kém này ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng xét xử của các vụ án hình sự, trong đó có vụ án về tội trộm cắp
tài sản. Do vậy, trong thời gian tới, cần tập trung làm tốt một số công việc sau
đây, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội trộm cắp tài sản:
+ Cơ quan có thẩm quyền cần lựa chọn kỹ và giới thiệu những người đủ
tiêu chuẩn làm Hội thẩm quy định tại Điều 85 Luật tổ chức TAND năm 2014, cụ
thể: “1. Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt có bản lĩnh
73
chính trị vững vàng có uy tín trong cộng đồng dân cư có tinh thần dũng cảm và
kiên quyết bảo vệ công lý liêm khiết và trung thực
2. Có kiến thức pháp luật;
3. Có hiểu biết xã hội;
4. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao”
Theo chúng tôi, ngoài những tiêu chuẩn này, cần bổ sung tiêu chuẩn về
chuyên môn, nghiệp vụ đối với Hội thẩm, nhất là nghiệp vụ xét xử. Bởi hiện nay
có sự chênh lệch khá rõ nét về trình độ chuyên môn giữa Thẩm phán và Hội
thẩm. Pháp luật đòi hỏi Thẩm phán phải có những tiêu chuẩn về chuyên môn
nghiệp vụ như: có trình độ cử nhân luật trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ xét
xử, có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật … trong khi đó lại quy định
chung chung về tiêu chuẩn chuyên môn các Hội thẩm là: “Có kiến thức pháp
luật được tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ tham gia hội nghị tổng kết công tác xét
xử của Tòa án”. Do vậy để phát huy vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét xử
cần quy định cụ thể, rõ ràng các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của Hội thẩm
như có kiến thức cơ bản về pháp luật; được bồi dưỡng, tập huấn về những vấn đề
liên quan đến hoạt động xét xử; có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật.
Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi kiến nghị Học viện Tòa án cần nghiên cứu,
biên soạn tài liệu nghiệp vụ và tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, xét xử
cho Hội thẩm. Thêm vào đó, cần tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên sâu theo
từng chuyên đề, phổ biến kịp thời các văn bản pháp luật mới liên quan đến công
tác xét xử nhằm đảm bảo Hội thẩm được cập nhật thường xuyên các chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Bên cạnh việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ xét xử
kiến thức pháp luật, cần chú trọng công tác giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề
nghiệp cho Hội thẩm, đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức của Hội
thẩm mà luật định.
Vấn đề tiếp theo là phải quy định rõ chế độ trách nhiệm tham gia xét xử
74
của Hội thẩm, nhất là trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án, trách nhiệm đối với
các vụ án mà mình tham gia xét xử. Trường hợp có nhiều bản án, quyết định bị
hủy, bị cải sửa do lỗi chủ quan của Hội thẩm, hoặc do thiếu trách nhiệm trong
công tác tham gia xét xử thì cần áp dụng các hình thức miễn nhiệm, bãi nhiệm
hoặc các chế tài xử lý khác.
Cuối cùng là cần có chính sách đãi ngộ, thù lao thỏa đáng đối với Hội
thẩm. Hiện nay theo Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg ngày 5/10/2012 của Thủ
tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với người tham gia phiên tòa, phiên
họp giải quyết vụ án đối với Hội thẩm là 90.000 đồng/ngày. Mức thù lao này,
theo chúng tôi là bất hợp lý. Chính vì thế, khoản 4 Điều 88 Luật tổ chức TAND
năm 2014 có quy định: “Chế độ phụ cấp xét xử do Ủy ban thường vụ quốc hội
quy định theo đề nghị của Chánh án TANDTC”. Mặc dù vậy, cho đến nay, Luật
tổ chức TAND đã có hiệu lực thi hành gần 05 năm nhưng Ủy ban Thường vụ
Quốc hội vẫn chưa ban hành quy định về chế độ phụ cấp xét xử của Hội thẩm.
Do vậy, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần sớm ban hành để quy định về
vấn đề này
3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa Tòa án nhân dân với cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp tài sản
Việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
không thể không dựa trên kết quả của hoạt động điều tra, truy tố của Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát. Do vậy sự phối hợp giữa Tòa án với Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Chính vì thế trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2 tháng 01 năm 2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đề ra
một trong những nhiệm vụ là: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư
pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm” [tr.47]
Vấn đề cơ bản ở đây là phải xây dựng một cơ chế phối hợp, chế ước lẫn
75
nhau giữa ba cơ quan tiến hành tố tụng một cách chặt chẽ, khoa học, trong đó
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan và trách nhiệm
phối hợp, kiểm tra, giám sát lẫn nhau trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp
tài sản. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục hiện tượng hữu khuynh “Quyền
anh, quyền tôi” hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Đối với từng vụ án, từng giai đoạn tố tụng cần xác định nội dung, hình
thức phối hợp cụ thể sát với tình hình thực tế giải quyết vụ án. Đặc biệt là việc
phối hợp phải được tiến hành kịp thời, thường xuyên, liên tục. Thực tế cho thấy,
nếu 3 cơ quan được tiến hành tố tụng hình sự xây dựng được một cơ chế phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng thì việc điều tra, truy tố xét xử vụ án trộm cắp tài sản
sẽ được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, chính xác, việc định tội danh và quyết
định hình phạt bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế được tình
trạng oan sai trong tố tụng hình sự.
Trước hết, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra phải phối hợp chặt chẽ ngay
từ khi tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố về tội
trộm cắp tài sản do Cơ quan điều tra cùng cấp phụ lý để phân công Kiểm sát viên
theo dõi, nghiên cứu hồ sơ tài liệu và nắm nội dung vụ việc ngay từ giai đoạn
này, khắc phục được tình trạng bỏ lọt tội phạm và chủ động áp dụng các biện
pháp tố tụng tiếp theo. Trong suốt quá trình điều tra vụ án trộm cắp tài sản, Điều
tra viên phải chủ động gửi đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ đã thu thập
được cho Kiểm sát viên thụ lý vụ án và thực hiện đầy đủ các yêu cầu điều tra của
Viện Kiểm sát. Kiểm sát viên phải thường xuyên theo dõi, nắm bắt tiến độ điều
tra vụ án, nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên thu thập, kịp thời
đề ra yêu cầu điều tra, chủ động trao đổi với Điều tra viên để điều tra làm rõ
những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các hoạt
động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, bảo đảm việc điều tra
vụ án trộm cắp tài sản khách quan, toàn diện đúng pháp luật.
Trước khi kết thúc điều tra vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối
76
hợp để đánh giá chứng cứ, tài liệu, xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đã
thu thập được.
Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Kiểm sát viên phải
nghiên nghiên cứu kỹ hồ sơ, kiểm tra việc tuân thủ các thủ tục tố tụng đầy đủ của
các tài liệu, chứng cứ trong vụ án. Nếu thấy còn thiếu chứng cứ tài liệu hoặc có
vi phạm thủ tục tố tụng mà tự mình có thể bổ sung được thì kiểm tra viên phải
phối hợp với điều tra viên để bổ sung khắc phục kịp thời.
Trong thời hạn truy tố, nếu thấy vụ trộm cắp tài sản có những vấn đề phức
tạp về chứng cứ, về tội danh, kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo, Viện kiểm sát
để chủ động tổ chức họp liên ngành làm rõ những vấn đề cần phải điều tra bổ
sung nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng trọng tâm, triệt để và
kịp thời.
Trong giai đoạn xét xử vụ án trộm cắp tài sản cần thực hiện tốt mối quan
hệ chế ước giữa Viện kiểm sát với Tòa án Nhân dân theo hướng bảo đảm tính
độc lập của mỗi cơ quan trong sự phối hợp chung để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình. Điều đó có nghĩa là khi thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, Viện kiểm sát không được can thiệp
trực tiếp vào việc xét xử của Tòa án. Khi giải quyết vụ án trộm cắp tài sản Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là vấn đề có tính
nguyên tắc. Do vậy khi xét xử vụ án về tội trộm cắp tài sản, Hội đồng xét xử
không bị phụ thuộc vào sự đánh giá về mặt pháp lý đối với tội phạm mà Viện
kiểm sát truy tố, có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ các chứng cứ, tài liệu mà Viện
kiểm sát đưa ra, có quyền tuyên bố bị cáo không phạm tội. Mọi hành vi can thiệp
vào hoạt động xét xử đều bị coi là vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng tới tính
khách quan, toàn diện của hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối
77
với tội trộm cắp tài sản.
3.2.4. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám đốc xét
xử; coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử các vụ án trộm cắp tài sản,
xây dựng án lệ
Để hoạt động xét xử của TAND nói chung, hoạt động định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng diễn ra công khai,
minh bạch, công bằng, đúng pháp luật … vấn đề không kém phần quan trọng là
phải tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra và thực hiện công
tác giám đốc xét xử của tòa án cấp trên đối với tòa án cấp dưới
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm
vụ: “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của đảng, phát huy vai trò giám sát của
cơ quan dân cử, của công luận và nhân dân đối với hoạt động tư pháp”. Đây là
chủ trương hết sức quan trọng, bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án được
đúng hướng. Do vậy, ở địa phương nào, tòa án cấp nào, kể cả TAND quận
Thanh Khê, công tác này được tăng cường thì hoạt động xét xử nói chung hoạt
động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản sẽ bảo
đảm đúng luật. Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy, nhưng công tác lãnh đạo,
chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra và thực hiện giám đốc xét xử có nơi, có lúc bị buông
lỏng chưa thường xuyên hoặc mang tính hình thức, chất lượng không cao. Ở
quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng cũng không nằm ngoài thực trạng đó. Ở
địa phương này còn thiếu một cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát một
cách đầy đủ, công khai, minh bạch và có hiệu quả để ngăn chặn những biểu hiện
tiêu cực, khắc phục kịp thời những hạn chế, sai sót trong hoạt động xét xử của
tòa án. Việc thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành tòa án đối với hoạt động xét
xử của tòa án dường như chưa đạt được kết quả mong muốn do nhiều nguyên
nhân khác nhau. Trong khi đó, giám sát Hội đồng nhân dân cũng như cơ quan
thanh tra chuyên ngành đôi khi còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu
thực tế. Giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của tòa án chưa thực sự
78
phát huy tác dụng vì chưa có quy định cụ thể, chặt chẽ, đầy đủ về hoạt động
giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp… Về vấn đề này, trong Báo cáo
tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Vai trò lãnh đạo của các
cấp ủy, tổ chức Đảng đối với một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, nơi
lỏng, thiếu kiểm tra, đôn đốc, sự phối hợp giữa các cấp ủy Đảng và các cơ quan tư
pháp với nhau và với cấp ủy Đảng địa phương chưa thực sự chặt chẽ”
Có thể thấy, những hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát và giám đốc xét xử đã ảnh hưởng không nhỏ đối với chất
lượng, hiệu quả xét xử của tòa án. Do vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động xét
xử nói chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
nói riêng, khắc phục những hạn chế, những sai sót không đáng có trong quá trình
giải quyết vụ án, nhất là vấn đề oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm cần chú ý tăng
cường hơn nữa công tác lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo
của Tòa án cấp trên (Tòa án Thành phố Đà Nẵng) nhưng phải đảm bảo: “Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp pháp luật”
Mặt khác, cần đề cao vai trò của Viện Kiểm sát trong việc thực hiện chức
năng kiểm tra giám sát hoạt động xét xử, vai trò của thanh tra chuyên ngành đối
với việc giải quyết vụ án trộm cắp tài sản của Tòa án. Đồng thời, xây dựng một
cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân của công luận và người dân đối với hoạt
động xét xử của tòa án một cách cụ thể, công khai, minh bạch.
Cùng với việc đổi mới, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra,
kiểm tra và thực hiện giám đốc xét xử, cần định kỳ tổng kết thực tế xét xử nói
chung, xét xử các vụ án về tội trộm cắp nói riêng để đánh giá những kết quả đạt
được, rút ra bài học kinh nghiệm, nếu có đủ điều kiện xây dựng thành án lệ. Mặt
khác, khi tổng kết cần chú ý đến việc chỉ ra những hạn chế sai sót trong hoạt
động xét xử, tác động đến việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
trộm cắp tài sản, trên cơ sở đó đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục kịp
79
thời, không để những hạn chế, sai sót tiếp tục xảy ra, gây ảnh hưởng đến chất
lượng hiệu quả xét xử của tòa án nói chung, định tội danh quyết định hình phạt
đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng.
3.2.5. Đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác, nhất
là phương tiện khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các cơ quan có
chức năng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra phương hướng: “Tổ chức các cơ quan
tư pháp và các chế định hỗ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ
chức và điều kiện, phương tiện làm việc”.
Đây là một trong những phương hướng đúng đắn, nhất là trong bối cảnh
tác động của cuộc cách mạng 4.0. Do vậy, Nhà nước, Thành phố Đà Nẵng cần
đầu tư thỏa đáng kinh phí, đảm bảo các điều kiện, phương tiện công tác cho các
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án quận, huyện.
Trước hết cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ
quan tư pháp, hoạt động tư pháp, nhất là TAND. Tiếp tục đầu tư xây dựng trụ sở
làm việc của TAND cấp huyện, quận khang trang phù hợp với yêu cầu thực tế
của từng tòa án; tăng cường áp dụng công nghệ thông tin và hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử nhất là hoạt động tống đạt giấy tờ, tài liệu, tiến tới xây dựng Tòa
án điện tử.
Trên đây là những giải pháp cơ bản, nhưng hết sức quan trọng. Nếu được
triển khai kịp thời, đồng bộ, quyết liệt chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng xét xử,
bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản đúng
80
pháp luật, khắc phục được những hạn chế sai sót không đáng có xảy ra.
Tiểu kết chương 3
Xuất phát từ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
trộm cắp tài sản của TAND quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng, nhất là
những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động này đặt ra vấn đề là phải tìm ra những
giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật
Việc thiết lập các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của pháp luật hình
sự trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp trước hết phải
quán triệt các yêu cầu, đòi hỏi có tính nguyên tắc mà thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử đặt ra như: Yêu cầu bảo vệ các quyền con người, quyền công dân (nhất là
quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp); Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm, tạo môi trường ổn định, an toàn cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa
phương; yêu cầu hội nhập quốc tế …
Cùng với việc quán triệt các yêu cầu trên, cần triển khai áp dụng đồng bộ
các giải pháp như: Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường hướng dẫn áp dụng kịp
thời các quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản; nâng cao năng
lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ có
thẩm quyền định tội danh và áp dụng hình phạt nhất là Thẩm phán và Hội thẩm;
tăng cường phối hợp giữa TAND với Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá
trình giải quyết vụ án; bảo đảm sự độc lập của Hội đồng xét xử và tăng cường
tranh tụng tài tại phiên tòa, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thanh tra kiểm
tra giám đốc xét xử, coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm, xây dựng án lệ;
đầu tư thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác cho các cơ quan tiến hành tố
tụng …
Các giải pháp này nếu được thực hiện kịp thời, đồng bộ, quyết liệt thì sẽ
góp phần nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm định tội danh và quyết định hình
81
phạt đối với tội trộm cắp tài sản đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
82
KẾT LUẬN
Tội trộm cắp tài sản được quy định rất sớm trong pháp luật hình sự Việt
Nam và ngày càng hoàn thiện. Mặc dù vậy cho đến nay vẫn chưa có sự nhận
thức thống nhất, toàn diện về mặt pháp lý và áp dụng chính sách trong thực tiễn
xét xử của TAND. Qua khảo sát thực tế thấy rằng, TAND quận Thanh Khê,
Thành phố Đà Nẵng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự giải quyết vụ án
tội trộm cắp tài sản đã được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn một số tồn
tại, sai sót nhất định do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau như:
hạn chế bất cập của các quy phạm pháp luật của bộ luật hình sự hiện hành cũng
như các văn bản hướng dẫn áp dụng; sự hạn chế về trình độ, chuyên môn nghiệp
vụ, kỹ năng xét xử của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm…
Từ thực tế đó, vấn đề cấp bách trong thời gian tới là phải có các giải pháp
phù hợp, hữu hiệu để khắc phục những hạn chế, sai sót trong thực tiễn xét xử các
vụ án về tội trộm cắp tài sản, bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội phạm này được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Các giải pháp được thiết lập phải đồng bộ, phù hợp và có tính khả thi, đặc
biệt là phải đáp ứng các yêu cầu mà thực tiễn đặt ra như: yêu cầu bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, nhất là quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp; yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền sở hữu tài sản; yêu cầu tạo
môi trường xã hội ổn định, an toàn để phát triển kinh tế xã hội; yêu cầu hội nhập
quốc tế…
Trong thời gian tới, cần tập trung triển khai thực hiện các giải pháp như:
Tiếp tục hoàn thiện và hướng dẫn kịp thời các quy định của BLHS hiện hành về
tội trộm cắp tài sản; nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức
công vụ cho đội ngũ cán bộ tòa án; tăng cường mối quan hệ phối hợp, chế ước
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; tăng cường,
83
đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám đốc xét xử các vụ
án trộm cắp tài sản; tổng kết rút kinh nghiệm xây dựng án lệ; đầu tư thỏa đáng
kinh phí phương tiện công tác cho cơ quan tiến hành tố tụng…
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, dưới
sự hướng dẫn khoa học của thầy, cô giáo, sự giúp đỡ của các cơ quan, đồng
nghiệp nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả của luận
văn rất mong được sự đánh giá, đóng góp của các nhà lý luận, các cán bộ thực
84
tiễn, các thầy, cô để tác giả chỉnh sửa, hoàn thiện luận văn có chất lượng tốt hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Anh (2009), “Hoàn thiện quy định của BLHS về các tội xâm
phạm sở hữu”, Tạp chí CAND, số 4, tr. 22-26;
2. Ban chấp hành Trung ương - Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2014) Báo cáo
tổng kết 8 năm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, Hà Nội
3. Nguyễn Thị Bình (2018), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội
4. Nguyễn Mai Bộ (2010), Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 1999,
được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Nguyễn Mai Bộ (2018), “Về các tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí TAND số
7, tr.1-9
6. Nguyễn Mai Bộ (2005), “Quy định của BLHS năm 1999 về tội trộm cắp tài
sản”, Tạp chí TAND, số 9, tr. 16-18
7. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm
vụ trọng tâm trong công tác tư pháp thời gian tới, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội
9. Bộ Tư pháp, Tạp chí dân chủ pháp luật (2000), số chuyên đề Bộ luật hình
sự Việt Nam (năm 1999), Hà Nội
10. Nguyễn Ngọc Chí (1997), “Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở
hữu”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8, tr. 39-47
11. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, Nxb CAND Hà Nội.
13. Trần Thị Thu Hằng (2018), “Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
85
hoạt động của Hội thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí
TAND số 15, tr.26-30
14. Nguyễn Mạnh Hà (2007), “Một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm
cắp tài sản cần nhận biết khi định tội danh”, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 3, tr. 70-77
15. Hoàng Văn Hùng (2006) “Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản theo
luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 7, tr 14-19
16. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa
đổi bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm), Quyển 1, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.
17. Nguyễn Trường Giang (2017), “Dấu hiệu pháp lý và cách phân loại các tội
xâm phạm sở hữu theo BLHS năm 2015”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 11,
tr. 22-24
18. Lê Văn Luật (2002), “Bàn về định tội danh đối với một số tội xâm phạm sở
hữu”, Tạp chí TAND, số 4, tr.
19. Đỗ Ngọc Lợi (2013), “Xác định hành vi chiếm đoạt của các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt”, Tạp chí Kiểm sát số 4, tr. 16-19
20. Đỗ Xuân Lân (2000), “Cần nhận thức thống nhất về tình tiết đã bị kết án về
tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm pháp luật”,
số 2, tr. 27-29
21. Vũ Thị Hương Mai (2017), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tình Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội.
22. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb
CAND, Hà Nội.
23. Cao Thị Oanh, Chủ biên (2015), các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt, Nxb CAND, Hà Nội.
24. Trần Văn Quang (2020), Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du,
86
tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội
25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Hiến pháp
năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
26. Quốc hội (2018), Bộ luật hình sự Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
28. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
29. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
30. Nguyễn Văn Quang (2018), “Rèn luyện, nâng cao đạo đức Thẩm phán để
hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, xây dựng TAND trong sạch, vững
mạnh”, Tạp chí TAND số 3, tr. 17-22
31. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS, Phần các tội phạm, tập
II. Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Hồ Chí Minh.
32. Quản Thị Ngọc Thảo (2017), “Nguyên tắc thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, Tạp chí TAND
số 18, tr 30-33
33. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12/05/2006, Hà Nội
34. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập I,
Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (1977), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập II,
Hà Nội.
36. Tòa án quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng (2015), Báo cáo tổng kết công
tác các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.
37. Lê Hoàng Tấn (2016) “Nâng cao chất lượng định tội danh đối với các tội
87
xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 3, tr. 21-24
38. Đinh Công Thành (2018), “Một số điểm mới cần thống nhất nhận thức và
áp dụng pháp luật đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại BLHS năm 2015”
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2, tr. 47-54
39. Nguyễn Minh Tuấn (2003), “Vai trò của Thẩm phán trước yêu cầu cải cách
tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9, tr. 28-35
40. Đỗ Hồng Thủy (2018), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
41. TANDTC, VKSNDTC, BCA, BTP (2001), Thông tư liên tịch số 02/TTLT
ngày 25/12/2001 Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV,
“Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999, Hà Nội
42. Nguyễn Ngọc Trâm (2019), Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn của thành phố
Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội.
43. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo tình luật hình sự Việt N am, Tập II,
Nxb CAND, Hà Nội.
44. Trịnh Quốc Toản (2004), Định tội danh: Lý luận và hướng dẫn mẫu, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
45. Lê Tường Vy (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các tội chiếm đoạt tài
sản trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện
KHXH, Hà Nội
46. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
47. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam –
Phần các tội phạm, Nxb KHXH, Hà Nội.
48. Chu Thị Trang Vân (2009), Học động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa
luật ĐHQG, Hà Nội.
49. Nguyễn Bá Vinh (2019), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt
88
Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ, Học
viện KHXH, Hà Nội.
50. Trương Quang Vinh (2000), “Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm
1999”, Tạp chí Luật học số 4, tr. 7-10
89
51. Nguyễn Như Ý (2009), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.