VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TÔ THỊ THỊNH
TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIẾN
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TÔ THỊ THỊNH
TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIẾN
TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan, luận văn của em là công trình nghiên cứu của cá nhân
em. Kết quả trình bày trong bài viết chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu là trung thực, được lấy từ nguồn báo cáo tổng kết hàng năm của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và trích dẫn theo đúng quy định.
Em xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của kết quả nghiên
cứu này.
Học viên
Tô Thị Thịnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................... Error! Bookmark not defined.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................... Error! Bookmark not defined.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn .. Error! Bookmark not defined.
3.1. Mục đích nghiên cứu ......................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................... Error! Bookmark not defined.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .... Error! Bookmark not defined.
4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................ Error! Bookmark not defined.
4.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................... Error! Bookmark not defined.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ..... Error! Bookmark not
defined.
5.1. Cơ sở lý luận ...................................................... Error! Bookmark not defined.
5.2. Phương pháp nghiên cứu ................................... Error! Bookmark not defined.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .......... Error! Bookmark not defined.
6.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn .......................... Error! Bookmark not defined.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn ................................................ Error! Bookmark not defined.
7. Kết cấu của luận văn .............................................. Error! Bookmark not defined.
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM.Error! Bookmark not defined.
1.1. Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử
hình sự sơ thẩm. .................................................. Error! Bookmark not defined.
1.1.1. Khái niệm hồ sơ vụ án hình sự ....................... Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Khái niệm về trả hồ sơ để điều tra bổ sung .... Error! Bookmark not defined.
1.2. Đặc điểm hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm
hình sự ................................................................. Error! Bookmark not defined.
1.3. Vai trò của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm
hình sự ................................................................. Error! Bookmark not defined.
Chương 2: QUY ĐỊNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM .. Error! Bookmark not defined.
2.1. Những căn cứ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ......... Error! Bookmark not
defined.
2.2. Thẩm quyền, thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án
............................................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Thẩm quyền, thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử ........................ Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Thẩm quyền, thủ tục, số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa hình sự sơ thẩm .............................................................. Error! Bookmark not defined.
2.3. Thời hạn chuẩn bị xét xử của Tòa án sau khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung
............................................................................. Error! Bookmark not defined.
2.4. Hệ quả của việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ...... Error! Bookmark not
defined.
2.5. Những vướng mắc khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử
sơ thẩm hình sự ................................................... Error! Bookmark not defined.
2.6. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm ...... Error! Bookmark not defined.
Chương 3: THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG Ở GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ CỦA TAND TỈNH QUẢNG NINH VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG NÀY ..... Error! Bookmark not defined.
3.1. Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử só thẩm hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh ...................... Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân tỉnh
Quảng Ninh ....................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Thực trạng Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh Error! Bookmark not defined.
3.2. Giải pháp bảo đảm trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh .. Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ở tỉnh Quảng Ninh đối với hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự ....................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân .................................................. Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Quảng Ninh trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sựError! Bookmark not defined.
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, chế dộ, chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án ............................................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ...................................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Số vụ án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã trả hồ sơ 35-36
để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình
sự ( từ năm 2015 đến năm 2020)
Bảng 3.2: Số vụ án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã trả hồ sơ 37
để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình
sự được Viện kiểm sát chấp nhận ( từ năm 2015 đến
năm 2020)
Bảng 3.3: Các căn cứ được Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh áp 38-39
dụng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm hình sự ( từ năm 2015 đến năm 2020)
Bảng 3.4: Kết quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân 39
dân tỉnh Quảng Ninh ( từ năm 2015 đến năm 2020)
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
HTND : Hội thẩm nhân dân
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với mục tiêu xây dựng một đất nước văn minh, dân chủ, một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do đó Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi mới một cách
sâu sắc và toàn diện. Quá trình đổi mới đã mang lại những thành tựu hết sức to lớn,
là một động lực để đưa đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới. Song song
với sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những biện
pháp để tăng cường, đẩy mạnh việc cải cách nền hành chính tư pháp bởi vì chỉ có
cải cách mạnh mẽ được nền hành chính tư pháp quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa mới được thúc đẩy mạnh mẽ, góp phần làm cho đất nước ta
thực sự là nước xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu trên thì trong Nghị quyết 49 – NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ ra chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 là “ Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
Theo mục tiêu trên để hoạt động xét xử các loại án được nâng cao về mặt
chất lượng, trong đó án hình sự được đặc biệt chú trọng và được xác định là nhiệm
vụ trọng tâm của chiến lược cải cách tư pháp. Do đó, đối với hoạt động tố tụng hình
sự, việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát khi có đầy đủ các
căn cứ pháp lý là yếu tố cần thiết để đảm bảo cho việc xét xử một cách khách quan,
đúng pháp luật, không làm oan người vô tội và đồng thời cũng là biện pháp để đáp
ứng cho công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.
Đối với Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Quảng Ninh trong thời gian vừa
1
qua thực hiện việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng có những bất cập, hạn chế
nhất định cả về hình thức và nội dung như việc trả hồ sơ không viện dẫn đầy đủ
các căn cứ pháp lý, không đúng đối tượng… dẫn đến tình trạng làm cho việc giải
quyết một số vụ án chậm chạp, kéo dài, gây tốn kém tiền của Nhà nước, gây lãng
phí thời gian, công sức và làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi chính đáng của
nhân dân. Do đó, việc nghiên cứu trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm không những góp phần hoàn thiện thể chế pháp luật dưới góc độ lý luận
và thực tiễn để có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy phạm pháp luật,
mà mục tiêu quan trọng là để đáp ứng yêu cầu xây dựng một Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Để Góp phần nâng cao chất lượng xét xử và sự phát triển của
ngành Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh thì việc nghiên cứu những quy
định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung là thực sự cần thiết nên hiểu
được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa sâu sắc của vấn đề cần nghiên cứu, tác giả
đã lựa chọn đề tài “ Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu các đề tài đã được công bố cho thấy, cho đến nay đã có khá nhiều các
công trình khoa học nghiên cứu về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung với những quy
mô, phương diện khác nhau, chẳng hạn như: “ Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của
Tòa án cấp sơ thẩm những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Xuân Huệ; “ Bình
luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự” năm 2003 của GS.TS Võ Khánh Vinh; “
Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm soát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện
nay” của PGS.TS Trần Văn Độ; “ Hoàn thiện chế định Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ
sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, tạp chí
Dân chủ và pháp luật số 7/2012; “ Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Luật
tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thị Hải Châu; “ Bàn về việc trả hồ sơ vụ án
2
hình sự để điều tra bổ sung” của Nguyễn Phúc Lưu; “ Hoàn thiện quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung” của
Vũ Gia Lâm, Tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2013; “ Bàn về quy quy định: “ Tòa án
Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung” trong điều kiện cải cách tư pháp” của Mai Văn
Lư; “ Bàn về chế định Trả hồ sơ để điều tra bổ sung” của Nguyễn Quang Lộc…
Đối với những đề tài nghiên cứu đã nêu trên, thì vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ
sung ở mức độ này hay mức độ khác đã được các tác giả đề cập đến, như là các căn
cứ pháp lý để Tòa án tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay trình tự, thủ tục
hoặc trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì sự cần
thiết của chế tài này có tính hợp lý, hợp pháp như thế nào. Mặc dù vậy, những đề tài
nghiên cứu trên cũng chỉ nghiên cứu một số tình tiết, khía cạnh chưa thống nhất,
còn đang có nhiều quan điểm khác nhau trong thực tiễn xét xử. Chưa thực sự có
nhiều đề tài nghiên cứu một cách tổng quát về nguyên nhân, hạn chế trong việc áp
dụng các quy định của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm án hình sự dẫn đến việc hiểu và áp dụng pháp luật chưa thống nhất ở các địa
phương khác nhau, thậm chí trong cùng cơ quan, đơn vị các Thẩm phán cũng có
những cách hiểu khác nhau, do đó gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khiến việc xét
xử chưa thực sự đạt hiệu quả cao và mang tính triệt để.
Trên thực tế hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn rất nhiều vấn đề chưa
thống nhất với cơ sở lý luận khoa học.
Lần đầu tiên tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần đảm bảo cho việc trả hồ
sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Quảng Ninh nói riêng và của Tòa án cấp sơ thẩm nói chung nên các công trình
khoa học đã được công bố trên đây vẫn là các tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên
cứu và hoàn thiện Luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
3
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự, tác giải đề xuất các quan điểm và giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án nhân
dân trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
- Nghiên cứu thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh, từ đó chỉ ra những ưu
điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng này.
- Xác định quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ điều tra
bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng
Ninh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như các quan điểm của khoa
học pháp lý hình sự trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung .
- Thực tiễn việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh.
- Những giải pháp bảo đảm hiệu quả việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp luật hình sự và tố tụng hình
sự, tác giả luận văn thu thập, thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh số liệu từ năm
2015 đến năm 2020 để phục vụ đề tài nghiên cứu của mình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân cũng như tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; các đường lối chỉ đạo của
Đảng về chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị trong Nghị quyết số 08/NQ –
TW ngày 02/01/2002 về “ Nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”
và Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày 02/6/2005 về “ Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” .
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như: Phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, đối chiếu. Ngoài ra, tác giả còn sử
dụng những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm của ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh; từ đó đã tổng hợp các kiến thức khoa học pháp luật trong tố tụng hình
sự và các vấn đề tương ứng để áp dụng trong việc nghiên cứu luận văn này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn có ý nghĩa khoa học vô cùng to lớn, có thể đóng góp những vấn đề lý
luận khoa học luật tố tụng hình sự trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự dưới góc độ pháp luật tố tụng hình sự, từ đó
góp phần hoàn thiện thể chế pháp lý trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
5
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể là nguồn cơ sở để cho những người làm thực tiễn tham khảo trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử để từ đó có cách nhìn nhận đúng đắn và việc áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự đạt hiệu quả cao trong hoạt động trả hồ sơ để điều
tra bổ sung. Mặt khác, luận văn cũng có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc học tập, giảng dạy môn Luật tố tụng hình sự và làm tài liệu trong hoạt động lập
pháp, những người làm công tác pháp luật, góp phần hoàn thiện các quy định của
pháp luật trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình
sự sơ thẩm.
Luận văn là công trình nghiên cứu về tố tụng hình sự về việc trả hồ sơ để điều tra
bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Quảng Ninh. Việc nghiên cứu sẽ đem lại những kết quả góp phần hoàn thiện cơ
sở lý luận, cũng như việc áp dụng trong thực tiễn, từ đó cũng góp phần nâng cao
chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung, trong hoạt động trả hồ sơ để
điều tra bổ sung nói riêng của ngành Tòa án nhân dân trong công cuộc cải cách tư
pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục của luận văn thì nội dung luận văn bao gồm có 03 chương với 10 tiết, cụ thể
như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm.
Chương 2: Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Quảng Ninh trong những năm gần đây ( từ năm 2015 đến năm 2020)
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động trả hồ sơ để
6
điều tra bổ sung.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM.
1.1. Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét
xử hình sự sơ thẩm.
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm hồ sơ vụ án hình sự
Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm cụ thể về hồ sơ vụ án hình sự, tuy nhiên
dựa trên những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì hồ sơ vụ án hình sự được
lập theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự, trong đó nội dung của hồ sơ vụ án
chính là nội dung của các vản bản, tài liệu được tập hợp trong hồ sơ. Mỗi tài liệu sẽ
phản ánh một hoặc nhiều vấn đề trong vụ án và các tài liệu này có quan hệ mật thiết
với nhau để phản ánh nội dung vụ án. Khi các văn bản, tài liệu đã được đưa vào hồ
sơ vụ án thì sẽ là cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền như Công an, Viện
kiểm sát, Tòa án sử dụng để giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện.
Các tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án hình sự sẽ được hình thành từ khi bắt
đầu có quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can do cơ quan cảnh
sát điều tra ra quyết định, sau đó sẽ được Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp phê chuẩn.
Khi tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội
phạm, thì cơ quan cảnh sát điều tra sẽ tiến hành việc xác minh, kiểm tra tính đúng
đắn của nguồn tin để từ đó ra quyết định có khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố
vụ án hình sự, trong trường hợp xác định có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì vụ án
sẽ được khởi tố. Sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì hoạt động điều
tra, thu thập và đánh giá chứng cứ để chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra và ai
7
là người thực hiện hành vi phạm tội sẽ được tiến hành. Nếu có đủ căn cứ pháp lý để
xác định có hành vi phạm tội xảy ra và người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ
quan cảnh sát điều tra sẽ ban hành bản kết luận điều tra, hoàn thiện hồ sơ vụ án và
chuyển sang cho VKSND cùng cấp đề nghị truy tố đối với bị can về tội danh cụ thể.
Còn trong trường hợp chưa có đủ căn cứ để việc khởi tố vụ án hình sự hoặc đã hết
thời hạn điều tra mà không chứng minh được ai là người đã thực hiện hành vi phạm
tội thì cơ quan cảnh sát điều tra phải ban hành quyết định đình chỉ vụ án. Trường
hợp xác định được người thực hiện hành vi phạm tội nhưng người đó lại mắc bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và có chứng nhận của Hội đồng chứng nhận y
khoa trong trường hợp không thể xác định được bị can hoặc không biết bị can đang
ở đâu thì cơ quan cảnh sát điều tra sẽ phải banh hành quyết định tạm đình chỉ điều
tra vụ án.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sẽ thấy rõ các hoạt động của cơ quan điều tra
đã tiến hành như việc ban hành các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự,
quyết định khởi tố bị can, quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam, lệnh cấm đi khỏi nơi
cư trú, quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định truy nã;
xác minh lý lịch bị can; tiến hành lấy lời khai của bị can và những người tham gia
tố tụng khác; vẽ sơ đồ hiện trường; lập biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh
hiện trường … ra bản kết luận điều tra. Khi hoàn tất hồ sơ thì cơ quan điều tra tiến
hành bàn giao hồ sơ và đề nghị VKS cùng cấp truy tố. Sau khi nhận được hồ sơ vụ
án do cơ quan cảnh sát điều tra cùng cấp chuyển đến thì tùy từng trường hợp mà
VKS phải ban hành một trong các quyết định như: Nếu không đủ căn cứ để truy tố
bị can theo tội danh, điều khoản bị khởi tố hoặc còn có người khác thực hiện hành
vi phạm tội hoặc bị can còn phạm tội khác ngoài tội danh bị khởi tố thì VKS phải
thực hiện việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung; trong trường hợp có đủ căn cứ để đình
chỉ vụ án thì VKS phải ban hành quyết định đình chỉ vụ án hoặc trong trường hồ sơ
đầy đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can thì VKS phải ban
8
hành Cáo trạng để truy tố bị can ra trước Tòa án. Những quyết định này được ban
hành tất cả đều dựa trên cơ sở là những tài liệu, chứng cứ mà đã được cơ quan cảnh
sát điều tra thu thập theo đúng trình tự quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và
được đưa vào hồ sơ vụ án trong giai đoạn điều tra. Khi chuyển hồ sơ cho Tòa án để
xét xử thì mọi thủ tục tố tụng cũng chỉ căn cứ vào hồ sơ vụ án, Tòa án nghiên cứu
hồ sơ và có thể ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho VKS, tạm đình chỉ
hoặc đình chỉ giải quyết vụ án hình sự hoặc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và mở
phiên tòa xét xử vụ án. Với quy định tại Điều 7 Bộ luật hình sự 2015 nhằm đảm bảo
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) đồng thời đảm bảo chính xác cho
việc áp dụng pháp luật thì việc lập hồ sơ vụ án hình sự phải tuân thủ những nguyên
tắc nhất định như cơ quan điều tra tiến hành việc xác minh lý lịch bị can thì bắt
buộc phải dán ảnh của bị cán vào tờ lý lịch bị can; sau khi có quyết định khởi tố bị
can thì cơ quan điều tra phải lập danh bản, chỉ bản của bị can trong đó thể hiện đầy
đủ bản ảnh bị can, thông tin lý lịch bị can, ngày tháng năm bị bắt, nhân thân… để
khi chuyển hồ sơ cho VKS, Tòa án thực hiện việc thẩm vấn công khai, có sự đối
chiếu, so sánh làm căn cứ để nhận diện đúng người được đưa ra xét xử và người có
tên trong hồ sơ có phải là một người hay không để tránh trường hợp xét xử một
người khác không phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội, tránh xét xử oan,
nhầm lẫn hay bỏ lọt tội phạm.
Như vậy, hồ sơ vụ án là tài liệu chính để cung cấp những thông tin, tình tiết cũng
như diễn biến của vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán sẽ phát hiện kịp
thời những vấn đề còn thiếu sót, chưa đủ căn cứ trong quá trình điều tra, truy tố của
cơ quan cảnh sát điều tra, của VKSND cùng cấp để từ đó có những thông báo yêu
cầu điều tra bổ sung hoặc ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu hồ sơ vụ
án đã được thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị
cáo thì sẽ được đưa ra xét xử. Đây là cơ sở để Hội đồng xét xử (HĐXX) ban hành
một bản án công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
9
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Do vậy, có thể thấy hồ sơ vụ án hình sự là tập hợp hệ thống các văn bản, tài liệu,
chứng cứ được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong quá trình khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử và được sắp xếp theo một trình tự nhất định để phục vụ cho việc
giải quyết vụ án và lưu trữ tài liệu.
1.1.1.2. Khái niệm về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Thực tế hiện nay ở nước ta trong các quy định của pháp luật thì khái niệm trả hồ
sơ để điều tra bổ sung chưa được quy định rõ ràng, cụ thể ở một văn bản pháp luật
nào. Tại Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 chỉ quy định căn cứ trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trả hồ sơ để điều
tra bổ sung trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015
không quy định cụ thể căn cứ để HĐXX sơ thẩm yêu cầu điều tra bổ sung. Tuy
nhiên, nghiên cứu tổng thể các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và qua
thực tiễn áp dụng pháp luật thấy rằng Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng
chính là căn cứ để HĐXX trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Đặc điểm của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm bao gồm:
Thứ nhất, Chủ thể tiến hành hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung là Thẩm phán
( ở giai đoạn chuẩn bị xét xử) hoặc HĐXX ( tại phiên tòa).
Thứ hai, Chủ thể tiếp nhận hồ sơ của Tòa án để điều tra bổ sung là VKS đã ra
quyết định truy tố ( Bản Cáo trạng).
Thứ ba, Cơ sở pháp lý để Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ
sung khi có các căn cứ được quy định tại Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
- Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại
Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được.
- Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện hành
10
vi khác mà Bộ luật hình sự (BLHS) quy định là tội phạm.
- Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành
vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ
án, khởi tố bị can.
- Việc khởi tố, điều tra, truy tố có sự vi phạm nghiêm trọng về mặt thủ tục tố tụng.
Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm có ý nghĩa vô cùng
quan trọng là nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, tránh xử oan người vô
tội cũng như việc bỏ lọt tội phạm. Để từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng ( cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và những người tiến hành tố tụng ( Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán) đánh giá một cách khách quan, toàn diện những kết quả
đạt được hay những nguyên nhân, hạn chế để từ đó đưa những giải pháp khắc phục
những vấn đề còn tồn tại. Do đó, vừa kịp thời sửa chữa, khắc phục những tồn tại,
vừa tích lũy thêm những kinh nghiệm trong thực tiễn của hoạt động điều tra, truy tố
và xét xử.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, có thể hiểu khái niệm về hoạt động trả
hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm như sau: Trả hồ sơ để
điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm là việc Tòa án cấp sơ thẩm
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa quyết định trả lại hồ sơ vụ án
hình sự cho Viện kiểm sát nhân dân đã ra quyết định truy tố để điều tra bổ sung
nhằm khắc phục những sai sót trong quá trình điều tra, truy tố, đảm bảo cho việc
giải quyết, xét xử vụ án hình sự được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.
1.1.1.3. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Để giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai
đoạn phản ánh một hướng nhất định của hoạt động tố tụng, các giai đoạn tuy độc
lập nhưng nằm trong mối quan hệ khăng khít và tạo thành một chuỗi thống nhất.
Các giai đoạn trong tố tụng hình sự là không giống nhau, mỗi giai đoạn mang
những đặc tính riêng của nó, khác nhau về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng cũng
11
như các văn bản tố tụng quy định.
Có thể nói giai đoạn trọng tâm của quá trình tố tụng chính là giai đoạn xét xử
vụ án hình sự sơ thẩm bởi lẽ “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có Bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Do đó, căn cứ để xác
định một người có tội hay không có tội, có phải chịu chế tài hình phạt hay không thì
đòi hỏi người đó phải được đưa ra xét xử một cách công khai tại phiên tòa ( trừ
những trường hợp pháp luật quy định phiên tòa xét xử kín) và họ có quyền xét xử ở
hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm nhưng trước hết là ở phiên tòa hình sự sơ
thẩm.
Trong Giáo trình giảng dạy bộ môn Luật tố tụng hình sự có nêu: Xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền
tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của
pháp luật. Hay theo tác giả Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công thì “Xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng, trong đó Tòa án cấp xét xử thứ nhất tiến hành
giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật”. Bên
cạnh đó các tác giả của cuốn Sổ tay Thẩm phán cũng nhìn nhận: Xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự và trong đó bao gồm ba công đoạn
chính, đó là: Nhận hồ sơ và thụ lý hồ sơ vụ án hình sự; chuẩn bị xét xử sơ thẩm và
phiên tòa hình sự sơ thẩm. Mỗi công đoạn lại bao gồm những công việc và kỹ năng
mà người tiến hành tố tụng cần phải thực hiện không giống nhau. Nhìn chung,
chúng tôi đồng tình với nhìn nhận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự dưới góc độ là một
giai đoạn tố tụng hình sự và có thể nói việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đóng vai
trò quan trọng trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được thực hiện kể từ khi Tòa án nhận
hồ sơ vụ án do VKS cùng cấp chuyển đến và tiến hành thụ lý vụ án. Những tài liệu
được thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố đều được Hội đồng xét xử đưa ra xem
xét công khai thông qua việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Từ đó Hội đồng xét
12
xử sẽ ban hành một bản án để xác định bị cáo có phạm tội hay không? Trong
trường hợp có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì bị cáo phạm tội gì và tội đó
được quy định trong điều, khoản nào của Bộ luật hình sự? Ngoài việc ban hành Bản
án thì HĐXX còn có thẩm quyền ban hành các quyết định cần thiết khác nhằm giải
quyết vụ án như: Quyết định tạm giam; quyết định trả tự do cho bị cáo ngay tại
phiên tòa; quyết định tạm ngừng phiên tòa; quyết định hoãn phiên tòa, quyết định
khởi tố vụ án…
Với nguyên tắc hai cấp xét xử, bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm quyền
lợi của bị cáo cũng như thực hiện quyền kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát cùng cấp
và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trường hợp đối với bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì khi hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị sẽ có hiệu lực pháp luật và sẽ được thi hành.Trường hợp bản án, quyết
định có kháng cáo, kháng nghị thì sẽ được đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Do đó, có thể nói việc xét xử sơ thẩm là xét xử ở cấp đầu tiên được tiến hành theo
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm đều
là xét xử lần đầu bởi lẽ có những trường hợp bản án, quyết định bị hủy, sau đó đươc
chuyển trả để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại ( Điều 358, Điều 360 BLTTHS
2015).
Tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động nhằm xem xét,
đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để
từ đó ban hành các bản án, quyết định để xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay
không? Ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội? Hình phạt được áp dụng đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác trong vụ án hình
sự như: Trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng...
Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là Tòa án nhân dân cấp
huyện, Tòa án quân sự khu vực, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp
13
quân khu, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn.
Trong Bộ luật tố tụng hình sự có quy định các nguyên tắc cơ bản, đây được
coi là những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự được
ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Mặc dù quá trình giải quyết vụ án được thực
hiện thông qua các giai đoạn khác nhau nhưng nhìn chung mỗi giai đoạn đều có
chung một mục đích, đó là tìm ra sự thật khách quan của vụ án, do đó việc xác định
sự thật của vụ án có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nguyên tắc hai cấp xét xử không
được xác định là một nguyên tắc mang tính đặc thù của BLTTHS nhưng nguyên tắc
này góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính công minh, không làm oan
người vô tội, đồng thời không để lọt tội phạm trong hoạt động tố tụng hình sự. Việc
xác định sự thật khách quan của vụ án chính là việc cơ quan tiến hành tố tụng phải
làm rõ những chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo một cách khách quan,
chính xác, đầy đủ và toàn diện.
Theo Điều 15 BLTTHS 2015 thì trách nhiệm chứng minh một người có tội
hay không có tội thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền
chứng minh mình vô tội mà không phải có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi, quyền hạn, nhiệm vụ của mình thì cơ quan tiến hành tố tụng phải áp
dụng tất cả các biện pháp cần thiết và đúng pháp luật để làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án, giải quyết vụ án một cách toàn diện và đầy đủ, để từ đó xác định
chứng cứ nào có tội và chứng cứ nào vô tội, có những tình tiết tăng nặng và tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị coi là tội phạm.
Các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án để xác định sự thật khách quan
của vụ án thì phải có những chứng cứ chứng minh một cách khách quan, toàn diện,
đầy đủ và chính xác tất cả các vấn đề của vụ án. Chỉ khi xem xét vấn đề một cách
khách quan thì nội dung vụ án mới được làm sáng tỏ và hoàn toàn không phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của con người. Do vậy, trong hoạt động tố tụng, người tiến hành
14
tố tụng cần hết sức tránh việc suy diễn duy ý chí trong quá trình xác định sự thật vụ
án vì nếu suy diễn sẽ là vi phạm nghiêm trọng tính khách quan của nguyên tắc này.
Để tránh sự suy diễn, đòi hỏi các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán cần phải
thu thập các tài liệu, chứng cứ hay tiến hành các hoạt động tố tụng một cách toàn
diện, đầy đủ. Trong trường hợp những người tiến hành tố tụng thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ đáp ứng được cả ba yếu tố trên thì mới có thể thực hiện một cách
chính xác nhất nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, để
nguyên tắc này thực hiện được tốt thì đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải là
những người có năng lực, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, được đào tạo về
nghiệp vụ một cách bài bản và làm chủ được nghề nghiệp, nắm chắc những quy
định của pháp luật, đặc biệt có tư duy pháp lý cao.
Việc chứng minh tội phạm là trách nhiệm thuộc về các cơ quan tiến hành tố
tụng để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Bởi lẽ, Nhà nước thành lập ra các cơ
quan tiến hành tố tụng và giao quyền áp dụng các biện pháp đặc thù được quy định
trong BLTTHS để xác định sự thật khách quan của vụ án. Ngoài ra, để buộc một
người phải chịu trách nhiệm hình sự thì Nhà nước thông qua công cụ của mình là
các cơ quan chuyên trách phải có trách nhiệm đưa ra các căn cứ buộc tội chứng
minh họ đã thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến lợi ích chung của Nhà nước,
lợi ích của tập thể, của cá nhân, của cộng đồng. Chính vì vậy, nghĩa vụ chứng minh
tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét
xử sơ thẩm hình sự
Một là, Tòa án cấp sơ thẩm là cơ quan duy nhất có thẩm quyền trả hồ sơ để
điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm, cụ thể là ở giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm thì Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa và tại phiên tòa là Hội đồng xét
xử khi thấy có các căn cứ được quy định tại Điều 280 BLTTHS năm 2015 thì có
thẩm quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho VKSND cùng cấp nhằm
15
đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng pháp luật, khách quan và toàn diện.
Hai là, Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì hoạt động trả hồ sơ để
điều tra bổ sung ở được thực hiện theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ được quy định
trong bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị quyết
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ( TANDTC), Thông tư liên tịch
… và quy trình trả hồ sơ để điều tra bổ sung về hình thức ban hành văn bản, về nội
dung văn bản và thủ tục cũng phải đảm bảo chặt chẽ theo đúng quy định trong
BLTTHS và các văn bản hướng dẫn áp dụng.
Ba là, Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực của Nhà nước, nó thể hiện mối
quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ( cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Tòa án) trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm đảm bảo tính đúng
đắn, khách quan, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Bốn là, Kết quả của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự là quyết định áp dụng pháp luật. Đó là việc ban hành các
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc quyết định yêu cầu bổ sung tài liệu,
chứng cứ. Các quyết định này có hiệu lực pháp luật và được thi hành ngay mà
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như một số quyết định tố
tụng khác.
1.1.3. Vai trò của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét
xử sơ thẩm hình sự
Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự có vai trò vô cùng quan trọng, được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: Đảm bảo việc xác định sự thật khách quan của vụ án, tránh bỏ lọt
tội phạm cũng như làm oan người vô tội. Qua hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng có điều kiện
đánh giá, tìm ra được nguyên nhân của những việc đã làm được cũng như những
16
tồn tại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Từ đó có biện pháp để kịp thời sửa
chữa, khắc phục những sai sót đồng thời tích lũy thêm được những kinh nghiệm
thực tiễn quý báu từ hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
Thứ hai: Đảm bảo mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng, cụ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Đồng thời cũng thể hiện
quan hệ chế ước giữa các cơ quan này trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Sự
phối hợp, quan hệ chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng càng chặt chẽ, nhịp
nhàng thì việc giải quyết vụ án hình sự càng đảm bảo tính đúng đắn, chính xác,
khách quan, toàn diện, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi
hành về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
1.2.1. Những căn cứ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm được quy
định trong BLTTHS nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo
đúng quy định của pháp luật; bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách
quan, toàn diện, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Theo khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015 chỉ quy định nội dung “ Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung”,
còn nội dung Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra
bổ sung lại được quy định tản mạn, rải rác ở những điều luật khác có liên quan như
điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS quy định: khi kết thúc nghị án, HĐXX phải
quyết định một trong số các vấn đề luật định, trong đó có vấn đề “ Trả hồ sơ vụ án
để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng
cứ”. Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, khi xét thấy có một trong các trường hợp cần
trả hồ sơ điều tra bổ sung như giai đoạn chuẩn bị xét xử, HĐXX hoàn toàn có thể ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Do đó, các trường hợp Tòa án trả hồ sơ
17
cho Viện kiểm sát nơi ra quyết định truy tố bao gồm:
Một là, Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ để điều tra bổ
sung sơ cho Viện kiểm sát trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Hai là, Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên
tòa sơ thẩm.
Cũng theo khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015 có 4 căn cứ để Tòa án trả hồ sơ
cho VKS để yêu cầu điều tra bổ sung. Các căn cứ này được hướng dẫn cụ thể tại
Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22
tháng 12 năm 2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc thực hiện các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể:
Thứ nhất: Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong số những vấn
đề được quy định tại Điều 85 BLTTHS mà không thể bổ sung tại phiên tòa được.
Theo các khoản 2, 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017 thì chứng cứ để chứng
minh những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự theo điểm a khoản 1 Điều
280 BLTTHS là chứng cứ dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại
Điều 85 ( cá nhân), Điều 441 ( pháp nhân thương mại) của BLTTHS mà nếu thiếu
những chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện,
đúng pháp luật. Các chứng cứ để chứng minh bao gồm: Có hành vi phạm tội xảy ra
hay không; Thời gian, địa điểm, những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là
người thực hiện hành vi phạm tội; Có lỗi hay không có lỗi; Lỗi cố ý hay vô ý; Có
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không; Tính chất, mức độ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết
khác liên quan đến việc loại trừ, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; Xác
định tuổi đối với người dưới 18 tuổi; Vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong
đồng phạm, phạm tội có tổ chức; Xác định trách nhiệm dân sự của từng bị cáo và
chứng minh điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.
Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS: “Chứng cứ là những gì có thật, được
18
thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để
xác định có hay không có hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong
việc giải quyết vụ án”.
Chứng cứ quan trọng đối với vụ án là những chứng cứ không thể thiếu để xác
định được sự thật khách quan của vụ án như: Nếu bị cáo có tội thì là tội gì, theo
điều, khoản nào của Bộ luật hình sự; Các tài liệu có liên quan mà thiếu nó sẽ không
thể xử lý được vật chứng, không thể áp dụng hình phạt bổ sung, áp dụng các biện
pháp tư pháp cũng như việc quyết định bồi thường thiệt hại.
Điều 88 BLTTHS quy định: “ Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của
Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật,
giữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án”.
Căn cứ vào quy định trên, ngoài Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thì Tòa án
cũng có quyền thu thập chứng cứ. Tòa án tiến hành các biện pháp thu thập chứng
cứ như: triệu tập những người biết về vụ án đến phiên tòa (người làm chứng) để hỏi
và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án ( bao gồm cả những
người đã được cơ quan điều tra lấy lời khai và cả những người chưa được Cơ quan
điều tra lấy lời khai), yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ
vật, trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản... Do đó, đối với những chứng cứ
mà Tòa án không thể tự mình tiến hành thu thập được, nó đòi hỏi phải có nghiệp vụ
điều tra mới thu thập được thì Tòa án buộc phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung
cho Viện kiểm sát. Theo quy định tại Điều 88 BLTTHS thì ở mỗi giai đoạn khác
nhau các cơ quan tiến hành tố tụng cách thức thu thập chứng cứ khác nhau và Tòa
án có thẩm quyền thu thập tài liệu, chứng cứ nhưng thẩm quyền cụ thể và cách thức
thu thập chứng cứ như thế nào thì lại phải căn cứ vào quy định của BLTTHS trong
từng giai đoạn tố tụng giải quyết vụ án hình sự ( điều tra, truy tố, xét xử). Trong
trường hợp những người mà chưa được Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát lấy lời
19
khai, tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán thấy rằng cần
thiết phải lấy lời khai của họ hoặc cần thiết phải triệu tập họ đến phiên tòa thì Thẩm
phán có quyền lấy lời khai bổ sung hoặc HĐXX có thể hỏi người đó. Tuy nhiên cần
phải hết sức lưu ý và thận trọng khi sử dụng lời khai đó làm chứng cứ bởi lẽ lời
khai đó chỉ được coi là chứng cứ khi nó phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có
trong hồ sơ của vụ án. Trường hợp lời khai đó không phù hợp, thậm chí là trái
ngược với các tài liệu, chứng cứ khác thì cần phải cân nhắc thật chặt chẽ, có thể
không coi đó là chứng cứ hoặc phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu làm rõ sự
khác nhau đó. Do đó, Tòa án tự mình thu thập chứng cứ và bổ sung chứng cứ quan
trọng tại phiên tòa là rất khó khăn nên ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa cần phải có trách nhiệm, tập trung cao độ để nghiên
cứu thật kỹ hồ sơ vụ án từ nội dung tố tụng cho đến nội dung vụ án để trên cơ sở đó
biết được những chứng cứ nào còn thiếu cần phải bổ sung và những chứng cứ nào
không thể bổ sung tại phiên tòa được để tránh trường hợp phiên tòa phải hoãn, tạm
ngừng, đặc biệt là HĐXX phải trả hồ sơ để điều tra ngay tại phiên tòa.
Thứ hai: Khi có căn cứ cho rằng bị can hoặc bị cáo còn thực hiện hành vi
khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Với quy định này có thể có hai
trường hợp xảy ra:
- Viện kiểm sát đã truy tố bị can về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong
hồ sơ lại cho thấy hành vi của bị can, bị cáo đã thực hiện cấu thành một hay nhiều
tội khác.
- Ngoài hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, chứng cứ lại cho thấy
còn có căn cứ để khởi tố bị can, bị cáo về một hay nhiều tội khác.
Tuy nhiên, có một vài trường hợp bị can, bị cáo có thực hiện hành vi khác mà
Bộ luật hình sự quy định là tội phạm nhưng Tòa án không trả hồ sơ điều tra bổ
20
sung, đó là:
+ Trường hợp Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ lại
cho thấy có thể xử bị can, bị cáo về một hay nhiều tội khác tương ứng bằng hoặc
nhẹ hơn, xử ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố.
+ Đã có quyết định tách vụ án hoặc có căn cứ để tách vụ án nếu xét thấy việc
tách vụ án đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện và
đã có quyết định tạm đình chỉ vụ án ( khoản 2 Điều 242 BLTTHS).
Thứ ba: Khi có căn cứ cho rằng còn đồng phạm khác hoặc có người khác
thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa
được khởi tố vụ, khởi tố bị can.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên
tòa hoặc Hội đồng xét xử phát hiện vụ án còn có đồng phạm khác hoặc có người
khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm thì ra quyết định trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát để điều tra, truy tố lại. Việc xác định có thêm người phạm tội
nhưng người này phải là đồng phạm với người đã bị truy tố hoặc người khác không
phải đồng phạm với người đã truy tố thì Tòa án trả hồ sơ.
Điều 17 Bộ luật hình sự quy định đồng phạm là trường hợp có hai người trở
lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Người đồng phạm là một trong những người
sau đây: người giúp sức, người xúi giục, người tổ chức, người thực hành. Người
giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm;
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm;
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm; Người
thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Còn phạm tội có tổ chức là một
hình thức đồng phạm nhưng có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội
phạm.
Thứ tư: Khi việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng. “ Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” được hiểu là trong quá trình điều tra,
21
truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS
quy định, nên đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng hoặc ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ
án ( khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-
TANDTC). Các trường hợp cụ thể được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
được liệt kê trong khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-
TANDTC-BCA-BQP như sau:
+ Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải
có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát
hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;
+ Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho
người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
+ Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi
ích hợp pháp của họ;
+ Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người
đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
+ Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều
242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
+ Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng
gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị
buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật
xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;
+ Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm
22
quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch hoạt động
của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến
hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại);
+ Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng
trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể
hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều
70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
+ Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các Điều 49, 51, 52, 53,
54, 68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
+ Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng
trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng
minh trong vụ án hình sự;
+ Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến
vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88
của Bộ luật Tố tụng hình sự;
+ Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình
điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn
đến sai lệch hồ sơ vụ án;
+ Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
+ Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến
hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;
+ Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác
không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của họ;
+ Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều
23
tra bổ sung.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử phát hiện có sự vi phạm
nghiêm trọng về mặt thủ tục tố tụng ở giai đoạn điều tra, tuy tố như: Các biên bản
tố tụng hình sự được lập không đúng quy định; Không có người chứng kiến trong
quá trình điều tra mà theo quy định của BLTTHS thì bắt buộc phải có người chứng
kiến; không có người bào chữa mà quy định của BLTTHS thì bắt buộc phải có
người bào chữa cho bị can; Có hành vi ép cung, bức cung, nhục hình đối với bị can;
Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong khi người bị hại không có yêu
cầu mà theo quy định của BLTTHS thì chỉ được phép khởi tố khi có yêu cầu của
người bị hại…
Trong một số trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát không thể khắc phục được như: khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, xác định nồng độ cồn trong máu, xác định tốc độ của phương
tiện… thì trả hồ sơ để điều tra bổ sung là không khả thi, do đó Tòa án không nên trả
hồ sơ để điều tra bổ sung mà căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và kết
quả thẩm vấn tại phiên tòa để giải quyết vụ án.
Đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho
rằng bị can, bị cáo phạm tội khác nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố thì thực
hiện thế nào?
Theo quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 02/2017, trường hợp Tòa án
trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo phạm tội khác
nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố thì thực hiện như sau:
- Trường hợp phải thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi
tố bị can về tội danh khác nặng hơn thì VKS trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều
tra bổ sung, thay đổi tội danh và ban hành bản kết luận điều tra kết luận về tội danh
khác nặng hơn;
- Trường hợp VKS đã yêu cầu Cơ quan điều tra nhưng Cơ quan điều tra
24
không thực hiện thì VKS tự mình ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án
hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn và yêu cầu Cơ quan
điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 156 và Điều 180 BLTTHS.
1.2.2. Thẩm quyền, thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung của
Tòa án
1.2.2.1. Thẩm quyền, thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung
của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Thứ nhất: Về thẩm quyền: Căn cứ vào khoản 1 Điều 280 BLTTHS, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa là người có thẩm quyền ra quyết định trả hồ
sơ điều tra bổ sung cho VKS. Nội dung yêu cầu điều tra bổ sung phải được ghi rõ
trong quyết định.
Thứ hai: Về thủ tục trả hồ sơ: Trước tiên, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ,
nếu phát hiện một trong các căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Thẩm phán phải
trao đổi với Kiểm sát viên để có biện pháp khắc phục mà không cần trả hồ sơ. Nếu
Kiểm sát viên phát hiện có căn cứ trả hồ sơ thì có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ.
Quyết định trả hồ sơ phải gửi cho VKS cùng cấp kèm theo hồ sơ trong thời hạn 03
ngày kể từ ngày ra quyết định.
Thứ ba: Về số lần Tòa án được trả hồ sơ để điều tra bổ sung: Theo quy định
tại khoản 2 Điều 174 BLTTHS, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ
điều tra bổ sung 01 lần.
Thứ tư: Về thời hạn điều tra bổ sung: Theo khoản 2 Điều 174 BLTTHS,
trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không
quá 01 tháng tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ và yêu cầu điều tra. Vấn
đề đặt ra là Luật không có quy định thời hạn VKS chuyển hồ sơ và quyết định điều
tra bổ sung cho Cơ quan điều tra bởi Tòa án trả hồ sơ cho VKS chứ không trả trực
tiếp cho Cơ quan điều tra. Liên quan đến vấn đề này, Thông tư liên tịch số 02/2017
25
đã có quy định hướng dẫn, tuy nhiên cũng chỉ dừng lại ở quy định chung chung là “
Viện kiểm sát ra quyết định… chuyển ngay cho cơ quan điều tra…”. Vậy, “ ngay”
là bao lâu hiện nay vẫn chưa được giải thích cụ thể.
1.2.2.2. Thẩm quyền, thủ tục, số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm
Hiện nay pháp luật tố tụng hình sự vẫn chưa có quy định cụ thể về căn cứ
cũng như thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Tuy nhiên khoản 6 Điều 326 BLTTHS lại quy định rằng khi kết thúc nghị án,
HĐXX phải quyết định một trong các vấn đề luật định, trong đó có vấn đề “ Trả hồ
sơ vụ án để VKS điều tra bổ sung; yêu cầu VKS bổ sung tài liệu, chứng cứ”. Như
vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, khi xét thấy có một trong các trường hợp cần trả hồ sơ
để điều tra bổ sung như giai đoạn chuẩn bị xét xử thì HĐXX hoàn toàn có thể ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Thứ nhất: Về thẩm quyền: Hội đồng xét xử có thẩm quyền ra quyết định trả
hồ sơ bổ sung cho VKS. Nội dung yêu cầu điều tra bổ sung phải được ghi rõ trong
quyết định.
Thứ hai: Về thủ tục trả hồ sơ: Theo quy định tại Thông tư liên tịch số
02/2017 thì việc trả hồ sơ phải lập thành văn bản, có chữ ký của người có thẩm
quyền và ghi rõ nội dung cần điều tra bổ sung, những vi phạm thủ tục tố tụng cần
khắc phục. Sau khi nhận được hồ sơ và quyết định trả hồ sơ của Tòa án, nếu xét
thấy không thể tự bổ sung, VKS phải chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, nếu thấy
quyết định trả hồ sơ của Tòa án không có căn cứ thì VKS gửi văn bản nêu rõ lý do
và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án. Đối với cơ quan điều tra, sau khi nhận được hồ sơ
phải tiến hành điều tra những nội dung trong quyết định. Sau khi kết thúc điều tra
phải ra Bản kết luận điều tra bổ sung. Tùy thuộc vào kết luận điều tra, VKS thông
báo, gửi văn bản cho Tòa án tiến hành xét xử vụ án.
Thứ ba: Về số lần trả hồ sơ của HĐXX tại phiên tòa sơ thẩm: Theo quy định
26
khoản 2 Điều 174 BLTTHS, HĐXX chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần.
Như vậy, vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung trong pháp luật tố tụng hình sự
nước ta đã ngày càng chi tiết và đầy đủ hơn, đáp ứng yêu cầu, diễn biến ngày càng
phức tạp của tội phạm.
1.2.2.3. Thời hạn chuẩn bị xét xử của Tòa án sau khi trả hồ sơ để điều tra
bổ sung
Theo hướng dẫn tại Mục 4 Phần I Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày
08/12/1988 của TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong
BLTTHS thì “ Khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát thì Tòa
án phải tiến hành xóa sổ thụ lý, Viện kiểm sát ghi việc Tòa án trả hồ sơ vào sổ thụ
lý của mình. Khi nhận lại hồ sơ, Tòa án thụ lý lại. Ngày chuyển hồ sơ cho Viện
kiểm sát và ngày thụ lý lại cũng được đóng dấu ( hoặc ghi) vào bìa hồ sơ; do đó, đối
với quyết định đưa vụ án ra xét xử trước đó Tòa án không phải giải quyết gì mà vẫn
được lưu trong hồ sơ vụ án. Sau khi Viện kiểm sát đã điều tra bổ sung hoặc không
bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung và chuyển hồ sơ vụ
án cho Tòa án thì Tòa án thụ lý lại và giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Khi nhận
lại hồ sơ trong thời hạn 15 ngày, Tòa án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 277 BLTTHS: “ Đối với vụ án được trả lại
để yêu cầu điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ,
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử”. Như vậy, thời
hạn để Tòa án nghiên cứu hồ sơ và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử là 15 ngày,
việc “ kéo dài” thời hạn chỉ có thể xem xét đối với thời hạn mở phiên tòa sau khi đã
có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 277 BLTTHS (
thêm được 15 ngày).
1.2.2.4. Hệ quả của việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Đối với các trường hợp Tòa án trả hồ sơ cho VKS được quy định tại Điều
27
280 BLTTHS có tính chất tương tự so với việc VKS trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra
để điều tra bổ sung. Tuy nhiên về hệ quả của việc trả hồ sơ có các trường hợp sau
đây:
Thứ nhất, nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến việc đình chỉ vụ án thì VKS
ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết trong thời hạn 03 ngày kể
từ ngày ra quyết định, căn cứ ra quyết định đình chỉ quy định tại Điều 248
BLTTHS.
Thứ hai, nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố
thì VKS ban hành Bản cáo trạng mới thay thế Bản cáo trạng trước đó. Trường hợp
VKS không thể bổ sung được thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố trước đó và Tòa
án tiến hành xét xử.
Thứ ba, nếu xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì
VKS có thể tự mình tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng
cứ bị thiếu. Nếu không tự mình điều tra được thì VKS chuyển ngay hồ sơ cho Cơ
quan điều tra ( điều này khác với quy định của BLTTHS 2003 vì BLTTHS 2003
không quy định rõ trình tự trả hồ sơ vụ án của Tòa án cho VKS và VKS có thể tiếp
tục trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra).
Kết luận chương 1
Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về trả
hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các nội dung
chính là: Đưa ra một số khái niệm; nguyên tắc xác định sự thật vụ án; mối quan hệ
giữa TAND và VKSND; khái niệm và đặc điểm Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ
sung.
Đối với nội dung thứ nhất, chúng tôi đã làm rõ được khái niệm về hồ sơ vụ án
hình sự, điều tra bổ sung và xét xử sơ thẩm.
Đối với nội dung thứ hai, chúng tôi đã phân tích nguyên tắc xác định sự thật của
vụ án được công minh, không để lọt tội phạm, đồng thời không làm oan người vô
28
tội.
Đối với nội dung thứ ba, chúng tôi đã phân tích đặc điểm của hoạt động trả hồ sơ
để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
của Tòa án nhân dân là một lĩnh vực của áp dụng pháp luật nói chung. Các vấn đề
về lý luận: căn cứ, thẩm quyền, trình tự thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ
sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự đã được phân tích để làm cơ sở cho việc
đánh giá thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
29
Quảng Ninh (trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2020 ) ở chương 2.
Chương 2
THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân
tỉnh Quảng Ninh
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là một tỉnh ở địa đầu phía đông bắc Việt Nam, phía tây tựa lưng
vào núi rừng trùng điệp, phía đông nghiêng xuống nửa phần đầu vịnh Bắc bộ với bờ
biển khúc khuỷu nhiều cửa sông.
Quảng Ninh có toạ độ địa lý khoảng 106o26' đến 108o31' kinh độ đông và từ
20o40' đến 21o40' vĩ độ bắc. Bề ngang từ đông sang tây, nơi rộng nhất là 195km. Bề
dọc từ bắc xuống nam khoảng 102km. Điểm cực bắc là dãy núi cao thuộc thôn Mỏ
Toòng, xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu. Điểm cực nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã
Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Điểm cực tây là sông Vàng Chua ở xã Bình Dương và
xã Nguyễn Huệ, TX Đông Triều. Điểm cực đông trên đất liền là mũi Gót ở đông
bắc xã Trà Cổ, TP Móng Cái.
Quảng Ninh có biên giới quốc gia và hải phận giáp giới nước Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa. Trên đất liền, phía bắc của tỉnh (có các huyện Bình Liêu, Hải Hà và
TP Móng Cái) giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây với
132,8km đường biên giới; phía đông là vịnh Bắc Bộ; phía tây giáp các tỉnh Lạng
Sơn, Bắc Giang, Hải Dương; phía nam giáp Hải Phòng. Bờ biển dài 250km.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh Quảng Ninh là tính đến ngày 1-10-1998 là
611.081,3 ha. Trong đó đất nông nghiệp 243.833,2 ha, đất chuyên dùng 36.513 ha,
đất ở 6.815,9 ha, đất chưa sử dụng 268.158,3 ha.
Quảng Ninh là tỉnh miền núi - duyên hải. Hơn 80% đất đai là đồi núi. Hơn
30
hai nghìn hòn đảo nổi trên mặt biển cũng đều là các quả núi.
Vùng núi chia làm hai miền: Vùng núi miền Đông từ Tiên Yên qua Bình
Liêu, Hải Hà, Đầm Hà đến Móng Cái. Đây là vùng nối tiếp của vùng núi Thập Vạn
Đại Sơn từ Trung Quốc, hướng chủ đạo là đông bắc - tây nam. Có hai dãy núi
chính: dãy Quảng Nam Châu (1.507m) và Cao Xiêm (1.330m) chiếm phần lớn diện
tích tự nhiên các huyện Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà, dãy Ngàn Chi (1.166m) ở phía
bắc huyện Tiên Yên. Vùng núi miền tây từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ, phía
bắc thị xã Uông Bí và thấp dần xuống ở phía bắc huyện Đông Triều. Vùng núi này
là những dãy nối tiếp hơi uốn cong nên thường được gọi là cánh cung núi Đông
Triều với đỉnh Yên Tử (1.068m) trên đất Uông Bí và đỉnh Am Váp (1.094m) trên
đất Hoành Bồ.
Vùng trung du và đồng bằng ven biển gồm những dải đồi thấp bị phong hoá
và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân núi thấp dần xuống các triền
sông và bờ biển. Đó là vùng Đông Triều, Uông Bí, bắc Yên Hưng, nam Tiên Yên,
Đầm Hà, Hải Hà và một phần Móng Cái. ở các cửa sông, các vùng bồi lắng phù sa
tạo nên những cánh đồng và bãi triều thấp. Đó là vùng nam Uông Bí, nam Yên
Hưng (đảo Hà Nam), đông Yên Hưng, Đồng Rui (Tiên Yên), nam Đầm Hà, đông
nam Hải Hà, nam Móng Cái. Tuy có diện tích hẹp và bị chia cắt nhưng vùng trung
du và đồng bằng ven biển thuận tiện cho nông nghiệp và giao thông nên đang là
những vùng dân cư trù phú của Quảng Ninh.
Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng địa hình độc đáo. Hơn hai
nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/ 2779), đảo trải dài theo đường
ven biển hơn 250km chia thành nhiều lớp. Có những đảo rất lớn như đảo Cái Bầu,
Bản Sen, lại có đảo chỉ như một hòn non bộ. Có hai huyện hoàn toàn là đảo là
huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô. Trên vịnh Hạ Long và Bái Tử Long có hàng ngàn
đảo đá vôi nguyên là vùng địa hình karst bị nước bào mòn tạo nên muôn nghìn hình
31
dáng bên ngoài và trong lòng là những hang động kỳ thú.
Vùng ven biển và hải đảo Quảng Ninh ngoài những bãi bồi phù sa còn những
bãi cát trắng táp lên từ sóng biển. Có nơi thành mỏ cát trắng làm nguyên liệu cho
công nghệ thuỷ tinh (Vân Hải), có nơi thành bãi tắm tuyệt vời (như Trà Cổ, Quan
Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng...).
Địa hình đáy biển Quảng Ninh, không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20m.
Có những lạch sâu là di tích các dòng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi
sinh trưởng các rạn san hô rất đa dạng. Các dòng chảy hiện nay nối với các lạch sâu
đáy biển còn tạo nên hàng loạt luồng lạch và hải cảng trên dải bờ biển khúc khuỷu
kín gió nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên một tiềm năng cảng biển và
giao thông đường thuỷ rất lớn.
Tỉnh Quảng Ninh có 13 đơn vị hành chính, trong đó có 04 thành phố, 02 thị
xã và 08 huyện. Trong 13 đơn vị hành chính thì tỉnh Quảng Ninh có 02 huyện đảo
đó là huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô.
Về dân cư: dân số toàn tỉnh Quảng Ninh đạt 1.320.324 người, mật độ dân số
đạt 198 người/km².Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 845.805 người, chiếm
64,1% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 474.519 người, chiếm 35,9%
dân số. Dân số nam đạt 671.522 người, trong khi đó nữ đạt 648.802 người. Dân cư
Quảng Ninh tập trung chủ yếu ở bốn thành phố và hai thị xã, là các trung tâm của
ngành công nghiệp khai thác than, du lịch và cửa khẩu của Việt Nam, phần 8 huyện
còn lại dân cư tương đối thưa thớt, sống chủ yếu bằng nghề nông.
Tỉnh Quảng Ninh có 22 dân tộc anh em. Trong đó, người kinh đông nhất với
1.011.794 người, tiếp sau đó là người Dao đông thứ nhì với 59.156 người, ngưoời
Tày 35.010 người, người Sán Dìu có 17.946 người, người Sán Chay có 13.786
người, người Hoa có 4.375 người. Ngoài ra còn có các dân tộc ít người như người
32
Nùng, người Mường, người Thái...
Quá trình thành lập và hoạt động: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thành
lập năm 1959. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thực hiện nhiệm vụ xét xử, giải
quyết các loại án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân tỉnh Quảng Ninh
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh hiện nay có 7 Tòa, Phòng gồm: Tòa Hình
sự; Tòa Dân sự; Tòa Gia đình và người chưa thành niên; Tòa Hành chính, Văn
phòng, Phòng TCCB, TTr & TĐKT; Phòng KTNV &THA và 13 Tòa án nhân dân
cấp huyện trực thuộc. Tổng biên chế toàn ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
là 265 công chức và người lao động (công chức 224 người, người lao động 41
người) gồm: 100 Thẩm phán, 96 Thư ký, 14 Thẩm tra viên và 14 chức danh khác.
Trong đó, TAND tỉnh Quảng Ninh có 58 cán bộ công chức và người lao động gồm:
01 Thẩm phán cao cấp, 14 Thẩm phán trung cấp, 08 Thẩm tra viên, 22 Thư ký, 06
chức danh khác và 07 hợp đồng 68.
Số lượng biên chế hiện có của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã
tuyển dụng, bố trí, sắp xếp đủ theo Quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao. Ngoài số biên chế trên, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh còn có đội ngũ Hội
thẩm nhân dân gồm 230 người, trong đó có 35 Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân
dân tỉnh và 195 Hội thẩm nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố.
Tóm lại: Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh tác động cả theo chiều hướng tích cực và tiêu cực tới
hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm án hình sự. Tuy
nhiên, sự tác động hiện nay chủ yếu là tác động tiêu cực và gây khá nhiều khó khăn
cho hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm án hình sự
của TAND tỉnh Quảng Ninh.
2.1.3. Thực trạng Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử
33
sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh
2.1.3.1. Ưu điểm trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh
Bảng 3.1. Các căn cứ được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh áp dụng
để trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
( Từ năm 2015 đến năm 2020)
Đơn vị tính: Vụ
Năm Tổng Theo điểm a Tỷ Theo điểm b Tỷ Theo điểm c Tỷ Theo Tỷ
số vụ khoản 1 Điều lệ khoản 1 Điều lệ khoản 1 Điều lệ căn lệ
trả 179 (điểm a % 179 ( điểm b, c % 179 ( điểm d % cứ %
hồ sơ khoản 1 Điều khoản 1 Điều khoản 1 Điều khác
280) BLTTHS 280) BLTTHS 280) BLTTHS
0 28,4 3 4,4 0 45 67,2 67 19 2015
1,7 18,3 6 5,2 2 86 74,8 115 21 2016
5,9 13,7 3 5,9 3 38 74,5 51 7 2017
6,1 15 1 3,1 2 25 75,8 33 5 2018
2,8 16,7 2 5,5 1 27 75 36 6 2019
8,8 20,6 2 5,9 3 22 64,7 34 7 2020
19,3 72,3 Tổng 336 243 17 5,1 11 3,3 65
( Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến
năm 2020)
Về lý do trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
Trong 336 vụ Tòa án đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung có
243 vụ trả hồ sơ vì cần xem xét những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không
thể bổ sung tại phiên tòa được ( theo điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003, hay
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015: Khi thiếu chứng cứ dùng để
34
chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 BLTTHS 2015 mà không
thể bổ sung được tại phiên tòa), chiếm tỷ lệ 72,3%; 65 vụ trả hồ sơ vì có căn cứ cho
rằng bị cáo phạm tội khác hoặc có đồng phạm khác ( quy định tại điểm b khoản 1
Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm b, c khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015: Có căn
cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà
BLHS quy định là tội phạm; Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có
người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án
nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can), chiếm tỷ lệ 19,3%; 17 vụ trả hồ sơ
để điều tra bổ sung vì phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ( quy định
tại điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm d khoản 1 Điều 280
BLTTHS 2015), chiếm tỷ lệ 5,1%; 11 vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì căn cứ
khác, chiếm tỷ lệ 3,3%. ( Tỷ lệ trên cũng thay đổi theo từng năm).
Bảng 3.2. Số vụ án Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh đã trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
( Từ năm 2015 đến năm 2020)
Đơn vị tính: Vụ
Năm Tổng số vụ án hình sự sơ thẩm Tòa Số vụ án Tòa án trả hồ Tỷ lệ %
án đã giải quyết, xét xử sơ để điều tra bổ sung
1.710 67 3,9 2015
1.696 115 6,8 2016
1.689 51 3,0 2017
1.745 33 1,9 2018
1.834 36 2,0 2019
1.856 34 1,8 2020
10.530 336 3,2 Tổng
( Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến
35
năm 2020)
Từ năm 2015 đến năm 2020, hai cấp xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh đã lựa chọn và quyết định trả hồ sơ cho VKSND tỉnh và VKSND cấp huyện
để điều tra bổ sung 336 vụ/10.530 vụ án hình sự sơ thẩm đã giải quyết, xét xử,
chiếm tỷ lệ 3,2%. Tỷ lệ số vụ án Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trên tổng số
vụ án đã giải quyết, xét xử thay đổi theo từng năm, cụ thể: Năm 2015 chiếm tỷ lệ
3,9%; năm 2016 tăng lên 6,8%; năm 2017 giảm xuống còn 3,0%; năm 2018 giảm
xuống còn 1,9%; năm 2019 tăng nhẹ lên 2,0% và giảm xuống còn 1,8% vào năm
2020.
Trong tổng số 336 vụ án Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tòa án cấp tỉnh
đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung 85 vụ; các Tòa án nhân dân cấp huyện đã trả hồ sơ
để điều tra bổ sung 251 vụ. Ở cấp tỉnh Toà Hình sự là đơn vị trả hồ sơ nhiều nhất
(85 vụ). Ở cấp huyện, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long là đơn vị trả hồ sơ nhiều
nhất ( 98 vụ), Tòa án nhân dân huyện Cô Tô là đơn vị trả hồ sơ ít nhất ( 01 vụ).
Trong 336 vụ, Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung do Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa trả trong thời hạn chuẩn bị xét xử là 312 vụ, chiếm tỷ lệ 92,9%; có 24
vụ do Hội đồng xét xử ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung, trả hồ sơ cho Viện
kiểm sát tại phiên tòa, chiếm tỷ lệ 7,1%. Các loại tội thường được trả hồ sơ nhiều
lần để điều tra bổ sung là: Cố ý gây thương tích; Giết người; Trộm cắp tài sản; Vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; Cướp tài sản; Còn lại là các loại
tội khác như: Đánh bạc; Gây rối trật tự công cộng; Buôn lậu; Tàng trữ trái phép
chất ma túy; Mua bán trái phép chất ma túy; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Hủy hoại tài sản…
Bảng 3.3. Số vụ án Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh đã trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự được Viện kiểm sát
chấp nhận ( Từ năm 2015 đến năm 2020)
36
Đơn vị tính: Vụ
Năm Số vụ án Tòa án trả hồ sơ để Số vụ trả hồ sơ được Viện Tỷ lệ %
điều tra bổ sung kiểm sát chấp nhận
67 64 95,5 2015
115 113 98,3 2016
51 50 98 2017
33 33 100 2018
36 35 97 2019
34 33 97,1 2020
336 328 97,6 Tổng
( Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến
năm 2020)
Trong tổng số 336 vụ đã được Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung có 328 vụ
án được VKS chấp nhận điều tra theo yêu cầu của Tòa án, chiếm tỷ lệ 97,6%. Tỷ lệ
số vụ án trả hồ sơ được Viện kiểm chấp nhận cũng thay đổi theo từng năm, cụ thể:
Năm 2015, tỷ lệ là 95,5%; năm 2016, tỷ lệ là 98,3%; năm 2017, tỷ lệ là 98%; năm
2018, tỷ lệ là 100%; năm 2019, tỷ lệ là 97%; năm 2020, tỷ lệ là 97,1%.
Bảng 3.4. Kết quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Quảng Ninh ( Từ năm 2015 đến năm 2020)
Đơn vị tính: Vụ
Năm VKS chấp nhận VKS chấp VKS không chấp VKS không chấp
yêu cầu điều tra nhận yêu nhận yêu cầu điều nhận yêu cầu điều
bổ sung; sau khi cầu điều tra tra bổ sung; Tòa tra bổ sung; Tòa án
điều tra bổ sung, bổ sung và án đưa vụ án ra đưa vụ án ra xét xử
Tòa án đưa vụ đình chỉ vụ xét xử và kiến nhưng không kiến
án ra xét xử nghị trong bản án nghị trong bản án án
37
62 2 1 2 2015
108 5 1 1 2016
49 1 1 0 2017
32 1 0 0 2018
34 1 1 0 2019
32 1 1 0 2020
317 11 6 2 Tổng
( Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến
năm 2020)
Về kết quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án: Trong tổng số 336 vụ án
đã được Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát, có 317 vụ được
Viện kiểm sát chấp nhận, thực hiện điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án, sau
khi nhận lại hồ sơ đã điều tra bổ sung, Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Có 11 vụ được
Viện kiểm sát chấp nhận, thực hiện điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và kết
quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án. Có 06 vụ án Viện kiểm sát không chấp
nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án, giữ nguyên quan điểm truy tố và chuyển
lại hồ sơ cho Tòa án, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử và kiến nghị trong bản án về
những yêu cầu điều tra bổ sung không được Viện kiểm sát thực hiện. Có 02 vụ án
Viện kiểm sát không chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án, giữ nguyên
quan điểm truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử
nhưng không có kiến nghị trong bản án về những yêu cầu điều tra bổ sung không
được Viện kiểm sát thực hiện. (Số liệu trên cũng có sự thay đổi theo từng năm).
Đánh giá chung về ưu điểm của các trường hợp Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Quảng Ninh đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
Thứ nhất, các Tòa án đã áp dụng đúng đắn và chỉ rõ các trường hợp cần trả
hồ sơ để điều tra bổ sung vì cần xem xét thêm các chứng cứ quan trọng đối với vụ
án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được ( theo điểm a khoản 1 Điều 179
38
BLTTHS 2003 hay chính là quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015:
Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều
85 BLTTHS 2015):
Đây là những trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều nhất,
chiếm tỷ lệ 72,3% các trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tỷ lệ trả hồ
sơ để điều tra bổ sung thuộc trường hợp này thay đổi theo từng năm, cụ thể: Năm
2015 chiếm tỷ lệ 67,2% các trường hợp trả hồ sơ; năm 2016 tăng lên 74,8%; năm
2017 giảm nhẹ xuống 74,5%; năm 2018 tăng lên 75,8%; năm 2019 giảm nhẹ xuống
75%; năm 2020 giảm xuống còn 64,7%.
Việc trả hồ sơ trong những trường hợp này có nguyên nhân chủ yếu là do
thiếu những chứng cứ quan trọng như: Để xác định năng lực chịu trách nhiệm hình
sự, xác định tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm bồi thường dân sự, xác định lại hiện trường vụ án, xác
định tên, tuổi của người bị hại mà không thể bổ sung, làm rõ tại phiên tòa được.
Ví dụ vụ án cụ thể:
Chiều 09/9/2019, Đinh Văn Nhường (có giấy phép lái xe hạng C) điều khiển
xe ôtô tải ISUZU, BKS 99C-161.03, đi từ huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương qua địa
phận thị xã Đông Triều (để đến huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang), ghế phụ bên phải
trong cabin có chị Vũ Thị Hà, là vợ của Nhường. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Nhường
điều khiển xe ôtô đi đến Km 48+500, Quốc lộ 18, thuộc thôn Bắc Mã, xã Bình
Dương, thị xã Đông Triều (theo lời khai của Nhường, thì tốc độ xe ôtô lúc này là
khoảng 40km/h). Khi xe ôtô đến khu vực đường giao nhau giữa Quốc lộ 18 với Tỉnh
lộ 345 đi huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang thì Nhường giảm tốc độ, bật tín hiệu đèn
xi nhan bên trái của xe ôtô để báo hướng rẽ. Lúc này, ở làn đường bên phải của phần
đường ngược chiều có xe môtô YAMAHA SIRIUS, BKS 19G1 - 282.17, do anh
Nguyễn Văn Quang, sinh năm 1996 điều khiển chở phía sau là anh Khởi cùng trú tại
xã Bình Dương, thị xã Đông Triều đang di chuyển theo hướng thị xã Đông Triều,
39
tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nhưng Nhường không
nhường đường cho xe môtô đi ngược chiều, mà tiếp tục điều khiển xe ôtô chuyển
hướng rẽ trái sang phần đường của xe ngược chiều, để đi vào Tỉnh lộ 345. Khi toàn
bộ xe ôtô của Nhường đã di chuyển sang phần đường của xe ngược chiều, thì xe
môtô do anh Quang điều khiển đi đến. Do xe ôtô của Nhường đã chắn hết làn đường
xe anh Quang đang đi, dẫn đến đầu xe môtô do anh Quang điều khiển đâm vào
thành bên phải thùng xe ôtô của Nhường, xe môtô bị đổ sang trái nằm dưới gầm sát
bánh sau bên phải của xe ôtô, còn anh Quang và anh Khởi bị ngã xuống nền đường
và văng trượt về phía sau xe ôtô. Thấy vậy, Nhường đạp phanh, xe ôtô tiếp tục trượt
rê về phía trước được 1,7m rồi dừng lại. Hậu quả: Anh Quang và anh Khởi bị thương
tích nặng, được đưa đi bệnh viện cấp cứu, điều trị. Đến ngày 01/4/2020, do thương
tích nặng anh Quang tử vong tại gia đình. Anh Khởi điều trị đến ngày 20/9/2019 thì
ra viện.
Kết quả khám nghiệm hiện trường ngày 09/9/2019, của Cơ quan cảnh sát điều tra
Công an thị xã Đông Triều, xác định: Mặt đường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông
được thảm nhựa bê tông áp phan tương đối bằng phẳng, thẳng, không có vật che
khuất tầm nhìn. Ở giữa tâm đường có vạch sơn màu vàng đứt đoạn phân chia hai
phần đường ngược chiều nhau, giữa mỗi phần đường có vạch sơn trắng đứt đoạn
rộng 0,2m, chia hai làn đường, mỗi làn đường rộng 3,5m.
Xe môtô biển kiểm soát 19G1-282.17 đổ (nằm nghiêng sang trái, dưới gầm sườn
thành thùng bên phải xe ôtô) và hai đám máu đều nằm trên phần đường hướng thị
xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Số đo dấu
vết, phương tiện được xác định như sau:
Xe ôtô biển kiểm soát 99C - 161.03 dừng đỗ (đầu xe quay hướng Đông Bắc,
phần đuôi xe quay hướng Tây Nam); dấu vết phanh kèm theo dấu vết trượt xước
trên mặt đường dài 1,7m (đầu dấu vết phanh kèm theo dấu vết trượt xước cách mép
ngoài vạch sơn màu vàng đứt đoạn giữa tâm đường 04m); Tâm trục lốp sau bên
40
phải xe ôtô cách mép ngoài vạch sơn màu vàng đứt đoạn giữa tâm đường là 4,5m.
Tâm trục lốp trước bên trái xe ôtô cách mép đường bên phải đường ra vào tỉnh lộ
345 về phía Tây 2,1m. Tâm trục lốp sau bên trái xe ôtô cách mép bên phải đường ra
vào tỉnh lộ 345 về phía Bắc 1,9m.
Tâm đám máu thứ nhất cách tâm trục lốp sau bên phải xe ôtô 1,2m cách tâm
đám máu thứ hai là 0,8m; Tâm đám máu thứ hai cách mép ngoài vạch sơn màu
vàng đứt đoạn giữa tâm đường về hướng Nam là 2,3m.
Kết quả khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông:
Xe ôtô biển kiểm soát 99C - 161.03: Tôn thành thùng xe khoang thứ nhất bên
phải bị bẹp lõm, có vết trượt chùi bụi đất kích thước (82 x 88)cm, điểm đầu vết
cách đầu xe ôtô về phía bên phải là 2,6m cách mặt đất là 1,3m; Sắt xi thành thùng
xe khoang thứ nhất bên phải và sắt xi sàn thùng xe có vết trượt xước sơn kim loại,
bám dính chất màu đen dài 1,95m điểm cuối cách mặt đất 83cm (chiều hướng đều
từ trước về sau, từ trái qua phải). Mép dưới phần chắn bùn lốp sau bằng kim loại bị
đẩy cong theo hướng từ trước về sau, từ phải sang trái.
Xe môtô biển kiểm soát 19G1 - 282.17: Toàn bộ dấu vết hư hỏng hầu hết
nằm ở phần đầu xe môtô, có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều đã thực nghiệm điều tra
xác định khả năng quan sát, thể hiện: Thời điểm 21 giờ, ánh sáng điện đường tương
tự thời điểm xảy ra tai nạn, người ngồi trên ghế lái điều khiển xe ô tô nhãn hiệu
ISUZU, biển kiểm soát 99C-161.03 quan sát được các phương tiện xe mô tô đang di
chuyển ở phần đường ngược chiều từ khoảng cách 100m trở lại.
Dựng lại hiện trường để xác định vị trí xe ô tô tải biển kiểm soát 99C-161.03 và
xe môtô biển kiểm soát 19G1-282.17 tại thời điểm 02 (hai) phương tiện này va
chạm với nhau, kết quả xác định: Tại thời điểm xảy ra va chạm xe môtô biển kiểm
soát 19G1-282.17 đi trên làn đường bên phải của phần đường (hướng thị xã Đông
Triều, tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Trục bánh trước
41
và trục bánh sau của xe mô tô biển kiểm soát 19G1-282.17, lần lượt cách tâm
đường là 5,15m và 5,16m. Toàn bộ xe ôtô tải biển kiểm soát 99C-161.03, nằm trên
phần đường bên phải hướng thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí
Linh, tỉnh Hải Dương (phần đường của xe ngược chiều, điểm cuối bên phải thùng
xe ôtô cách vạch sơn đứt đoạn phân chia hai phần đường là 2,2m, xe ô tô đã chắn
khoảng 3/4 phần đường ngược chiều và chắn hết làn đường bên phải chiều thị xã
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương).
Biên bản khám nghiệm tử thi và Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số
52/20/TT (cùng ngày 01/4/2020) của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Quảng Ninh,
kết luận: Anh Nguyễn Văn Quang bị dập não, tụ máu dưới màng cứng, tụ máu lều
tiểu não hai bên, rãnh liên bán cầu sau; vỡ xương thái dương hai bên, xương gò má
hai bên, gãy 1/3 giữa xương chày trái. Tử vong do suy kiệt, hậu quả của chấn thương
sọ não, dập não, mất não, chết não không hồi phục.
Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 607/19/TgT, ngày
13/12/2019 của Trung tâm pháp y, Sở y tế tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Anh Nguyễn
Văn Khởi bị chấn thương sọ não dập não thùy trán hai bên, chảy máu khoang duới
nhện hiện tại còn ổ giảm tỷ trọng nhu mô não thùy trán phải kích thước (15 x 11)
mm; trán trái kích thước (19x16) mm, không để lại di chứng về thần kinh. Các chấn
thương khác nhẹ, không để lại di chứng. Tổng tỷ lệ tổn thương về sức khỏe là 33%.
Tại bản kết luận định giá tài của Hội đồng định giá tài sản thị xã Đông Triều,
kết luận: Giá trị tài sản bị hư hỏng của xe môtô là 7.095.000đ
Nguyên nhân xảy ra tai nạn do Đinh Văn Nhường điều khiển xe ôtô tải biển
kiểm soát 99C - 161.03 chuyển hướng rẽ trái không chú ý quan sát, không nhường
đường cho xe đi ngược chiều, không đảm bảo an toàn, đã vi phạm khoản 2 Điều 15
Luật giao thông đường bộ; Một phần lỗi do anh Nguyễn Văn Quang điều khiển xe
môtô không giảm tốc độ để đảm bảo an toàn khi qua khu vực đường giao nhau.
VKSND thị xã Đông Triều viện dẫn Điều 15 Luật giao thông đường bộ để
42
làm căn cứ truy tố:
“... Điều 15. Chuyển hướng xe.
...2. Trong khi chuyển hướng, người lái xe phải ... nhường đường cho các xe đi
ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc
nguy hiểm cho người và phương tiện khác...”
- Bị cáo không tiền án tiền sự, có thành tích được địa phương xác nhận
- Cả hai bị hại và gia đình bị hại đều xin giảm nhẹ cho bị cáo và xác nhận
Quang mượn xe mô tô, không chú ý lái xe và có uống rượu khi lái xe.
- Bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho hai bị hại, bị hại và đại diện hợp pháp của bị
hại không yêu cầu bồi thường thêm.
- Ngày 09/7/2020 TAND thị xã Đông Triều quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị
cáo xin hoãn phiên tòa (22/7/2020).
- Sau đó bị cáo mời luật sư bào chữa, tại phiên tòa lần 2 (11/8/2020) bị cáo và
luật sư kêu oan và đề nghị tuyên bị cáo vô tội, HĐXX quyết định trả hồ sơ điều tra
bổ sung.
- Sau khi hoàn thiện và làm lại một số thủ tục, ngày 28/12/2020 VKSND thị xã
Đông Triều bàn giao hồ sơ sang Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều để xét xử.
- Quá trình làm lại bổ sung thêm một số tài liệu chứng cứ như sau:
Cơ quan điều tra thực nghiệm điều tra 2 lần, vào 21 giờ ngày 26/20/2020 và 16
giờ ngày 17/12/2020, cả hai lần này bị cáo đều không thừa nhận sơ đồ kích thước
hiện trường... trong Biên bản thực nghiệm điều tra. Lấy lời khai bị cáo, làm việc với
Chi cục quản lý đường bộ có trả lời về tốc độ đoạn đường nơi xẩy ra tai nạn (trả lời
không giới hạn tốc độ...nhưng lưu thông phải đảm bảo an toàn)...
* Về chứng cứ kết tội theo như trong hồ sơ gồm có:
- Các lời khai của bị cáo giai đoạn đầu đều thừa nhận do mình sang đường
không đảm bảo quy tắc an toàn theo pháp luật nên dẫn tới tai nạn (sau khi kêu oan bị
43
cáo không thừa nhận).
- Các người làm chứng khác gồm chị Hà (vợ bị cáo) lơ mơ ngủ khi tai nạn xảy
ra thấy xe mô tô đâm ngang xe mình và xe ô tô nằm hơi ngang mặt đường (còn số
còn lại đều xác định khi tai nạn xẩy ra xong mới ra xem, bị hại Khởi ngồi sau xe mô
tô gục đầu vào lưng anh Quang, tai nạn xảy ra mới biết).
- Biên bản khám nghiệm hiện trường + Sơ đồ hiện trường được thực hiện ngay
sau tai nạn, tuy nhiên không có mặt bị cáo, bị hại ....
- Hai lần thực nghiệm điều tra lại nhưng bị cáo có mặt lại hoàn toàn bác bỏ.
* Để có căn cứ kết tội bị cáo, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa đã ra Quyết
định yêu cầu điều tra bổ sung với những nội dung cụ thể như sau:
- Thu thập hình ảnh của Camera an ninh của cá nhân hoặc tổ chức (nếu có)
xung quanh vị trí và thời gian xảy ra va chạm giữa xe ô tô của Đinh Văn Nhường
và Bị hại vào khoảng 21 giờ ngày 09/9/2019.
- Thu thập kích thước cụ thể của phương tiện ô tô được cho là gây ra tai nạn
(chiều dài thực tế, chiều ngang thực tế...).
- Xác định tốc độ của xe mô tô do Nguyễn Văn Quang điều khiển trước và khi
xẩy ra va chạm với xe ô tô của Đinh Văn Nhường.
- Trong hồ sơ có 02 lần thực nghiệm điều tra diễn ra vào các ngày và khung
thời gian khác nhau (có kèm theo sơ đồ hiện trường..), Vậy cơ quan truy tố căn cứ
vào lần thực nghiệm điều tra nào để làm căn cứ và chứng cứ để chứng minh hành vi
phạm tội của Đinh Văn Nhường.
- Làm rõ xác định lý do của sự không có mặt của chủ xe ô tô được cho là gây
tai nạn hoặc chị Hà (là vợ và là người ngồi cùng cabin với Đinh Văn Nhường) khi
cơ quan chức năng tổ chức khám nghiệm hiện trường và vẽ sơ đồ hiện trường được
thực hiện ngay sau khi tai nạn (21 giờ 45 ngày 09/9/2019) .
- Thu thập làm rõ các vết xước, lõm, trượt...trên xe ô tô được cho là gây ra tai
nạn thể hiện tại Biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông được
44
hình thành từ bao giờ, mới hay cũ. Đồng thời làm rõ các vết xước , lõm, trượt...này
có phải do va chạm với xe mô tô vào ngày 09/9/2019 hay không?(các bản ảnh chưa
thể hiện rõ có va chạm hay không).
- Xác định cụ thể các tài liệu được xếp từ bút lục sau bút lục 389 đến bút lục
491a song song tồn tại hai loại bút lục cùng các số thứ tự khác nhau trên cùng một
tài liệu; Làm rõ bút lục từ số 450 đến bút lục số 456 (là bản cáo trạng bổ sung và tài
liệu kèm theo, tuy nhiên đây là số bút lục của các tài liệu cơ quan điều tra thu thập
tại địa phương của Đinh Văn Nhường trong giai đoạn điều tra bổ sung).
Thứ hai, Tòa án nhân dân hai cấp ở tỉnh Quảng Ninh đã áp dụng đúng các
quy phạm pháp luật để trả hồ sơ điều tra bổ sung vì có căn cứ cho rằng bị cáo
phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác ( những trường hợp trả hồ sơ khi có
căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm b, c khoản 1 Điều
280 BLTTHS 2015):
Có 65 trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có căn cứ cho rằng
bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác, chiếm tỷ lệ 19,3% số các vụ án
Tòa án đã trả hồ sơ. Tỷ lệ này cũng được thay đổi theo từng năm, cụ thể: Năm 2015
chiếm tỷ lệ 28,4%; năm 2016 tỷ lệ giảm mạnh xuống còn 18,3%; năm 2017 tỷ lệ
giảm mạnh xuống còn 13,7%; năm 2018 tỷ lệ tăng lên 15%; năm 2019 tỷ lệ tăng
lên 16,7%; năm 2020 tỷ lệ tăng cao 20,6%.
Ví dụ: Bị can Trần Thị Phương Thảo cùng đồng phạm bị VKSND tỉnh
Quảng Ninh truy tố về các tội “ Tham ô tài sản”, “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “
Cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại
các điểm a khoản 4 Điều 278, điểm a khoản 4 Điều 139 và khoản 3 Điều 165 của
BLHS. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án , Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh nhận thấy vợ của bị cáo Phạm Duy Nam có liên quan tới vụ án nhưng
chưa được đưa vào tham gia tố tụng trong vụ án. Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh
45
Quảng Ninh đã trả hồ sơ yêu cầu VKSND tỉnh Quảng Ninh đưa vợ của bị cáo Phạm
Duy Nam đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án.
Thứ ba, Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì phát hiện có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng ( những trường hợp trả hồ sơ khi có căn cứ tại điểm c
khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015):
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo trường hợp này có số lượng không nhiều
(17 vụ, chiếm tỷ lệ 5,1%) nhưng có diễn biến khá phức tạp; Tỷ lệ này cũng được
thay đổi theo từng năm, cụ thể: Năm 2015, chiếm tỷ lệ 4,4%; năm 2016 tỷ lệ tăng
lên 5,2%; năm 2017 tỷ lệ tăng cao 5,9%; năm 2018, tỷ lệ giảm xuống còn 3,1%;
năm 2019 tỷ lệ tăng 5,5%; đến năm 2020 tỷ lệ tăng cao 5,9%.
Các vi phạm thủ tục tố tụng thường gặp là không hoàn tất thủ tục tống đạt
Cáo trạng cho bị cáo tại ngoại; các Biên bản lấy lời khai của bị can ( sau khởi tố)
không có chữ ký của Điều tra viên; không thực hiện đúng các trình tự luật định khi
thu thập vật chứng, khám xét, nhận dạng, đối chất và đặc biệt là không đảm bảo
quyền được bào chữa cho bị can.
Ví dụ: Các bị can Phạm Xuân Thành, Nguyễn Anh Dũng bị VKSND thị xã
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh truy tố về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo
điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị can
chưa đủ 18 tuổi, tuy nhiên các biên bản lấy lời khai của Điều tra viên không có chữ
ký của người đại diện hợp pháp của các bị can chưa thành niên và cơ quan điều tra
Công an thị xã Đông Triều không tiến hành giải thích quyền được trợ giúp pháp lý
cho các bị can ( là những người bị buộc tội dưới 18 tuổi). Điều đó đã vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bị
can. Do vậy, Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều đã trả hồ sơ cho VKSND thị xã
Đông Triều.
Vi dụ: Bị can Nguyễn Đức Tâm bị VKSND thị xã Đông Triều truy tố tội “ Vi
46
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều
260BLHS. Nội dung vụ án thể hiện Nguyễn Đức Tâm là em trai ruột của Nguyễn
Đức Lân. Vào ngày 01/10/2020, Nguyễn Đức Lân có bằng lái xe ô tô hạng B2
nhưng lại điều khiển xe ô tô tải lưu thông trên quốc lộ 18A. Do thiếu chú ý quan sát
đã đâm vào xe môt ô do anh Phạm Phi Long điều khiển đi cùng chiều phía trước,
hậu quả anh Long bị chấn thương sọ não và bị chết trên đường đi bệnh viện cấp
cứu. Sau khi gây tai nạn Nguyễn Đức Lân bỏ trốn khỏi hiện trường, về nhà kể lại
cho em trai là Nguyễn Đức Tâm nghe. Lo sợ không có bằng lái xe ô tô hạng C nên
trong khi Nguyễn Đức Tâm có bằng lái xe ô tô hạng C nên Lân và Tâm đã bàn
nhau, Tâm sẽ ra đầu thú, khai nhận mình là người điều khiển xe ô tô tải gây tai nạn
chết người. Quá trình nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán nhận thấy lời khai có sự mâu
thuẫn, các tình tiết không phù hợp với diễn biến vụ án cũng như sơ đồ hiện trường,
biên bản khám nghiệm hiện trường…. nên đã trả hồ sơ cho VKSND thị xã Đông
Triều để điều tra lại. Sau đó cơ quan cảnh sát điều tra đã làm sáng tỏ nội dung vụ án
khi thực tế người điều khiển xe ô tô tải gây tai nạn là Nguyễn Đức Lân chứ không
phải Nguyễn Đức Tâm.
Trong thực tiễn, ngoài các căn cứ nêu trên, Tòa án còn trả hồ sơ vì các lý do
khác nằm ngoài quy định của Điều 179 BLTTHS 2003 hay Điều 280 BLTTHS
2015 như: Để chuyển, tách, nhập vụ án; để Tòa án có căn cứ áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh hoặc do VKS đề nghị được rút hồ sơ để xem xét lại việc truy tố…
Tỷ lệ trả hồ sơ vì các lý do này so với các trường hợp khác không nhiều (11 vụ,
chiếm tỷ lệ 3,3% các vụ án Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung) và ít thay đổi
qua từng năm.
Như vậy, so với tổng số các vụ án hình sự sơ thẩm đã được hai cấp Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh giải quyết, xét xử trong 06 năm ( từ năm 2015 đến năm
2020), các vụ án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ không lớn (
3,2%), trong khi tỷ lệ này ở toàn quốc là 4,3%. Số lượng các vụ án trả hồ sơ điều tra
47
bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh chiếm tỷ lệ 2,1% số lượng
các vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung trên toàn quốc. Tỷ lệ trả hồ sơ của Tòa án nhân
dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh có biến động qua các năm, cụ thể: Năm 2015 chiếm tỷ
lệ 3,9%; năm 2016 tỷ lệ tăng cao 6,3%; năm 2017 tỷ lệ giảm mạnh xuống còn
3,0%; năm 2018 tỷ lệ giảm mạnh xuống còn 1,9%; năm 2019 tỷ lệ tăng nhẹ lên 2%;
năm 2020 tỷ lệ giảm xuống còn 1,8%.
Nguyên nhân Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung phần lớn là cần xem xét
thêm các chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa
được ( theo điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay chính là quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015: Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một
trong những vấn đề quy định tại Điều 85 BLTTHS 2015), chiếm tỷ lệ 72,3%; thứ
hai là do có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác (
những trường hợp trả hồ sơ khi có căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS
2003 hay điểm b, c khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015), chiếm tỷ lệ 19,3%; tiếp theo
là vì phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ( những trường hợp trả hồ
sơ khi có că cứ tại điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm d khoản 1
Điều 280 BLTTHS 2015), chiếm tỷ lệ 5,1% và cuối cùng là vì các lý do khác,
chiếm tỷ lệ 3,3%.
Đa số các trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong thời hạn
chuẩn bị xét xử ( chiếm tỷ lệ 92,5%) nhưng cũng có những trường hợp từ kết quả
điều tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử mới quyết định trả hồ sơ để yêu
cầu điều tra bổ sung ( chiếm tỷ lệ 7,5%).
Chất lượng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhìn chung là đạt yêu cầu, thể
hiện ở các tiêu chí:
- Phần lớn các vụ án Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung được VKS chấp
nhận, thực hiện các yêu cầu điều tra bổ sung (chiếm tỷ lệ 97,6%).
- Chỉ có 08 vụ án ( chiếm tỷ lệ 2,4%) Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng
48
không được VKS chấp nhận. Tuy nhiên trong đó có 06 vụ án Tòa án đã có kiến
nghị trong Bản án về những vấn đề chưa được điều tra bổ sung, chỉ còn 02 vụ Tòa
án trả hồ sơ không có căn cứ ( chiếm tỷ lệ 0,6% tổng số vụ án Tòa án đã trả hồ sơ
để điều tra bổ sung).
- Hầu hết các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án đều tuân
thủ theo trình tự, thủ tục luật định, áp dụng theo đúng biểu mẫu do TANDTC
hướng dẫn.
Từ đó cho thấy chất lượng của việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung đang
được nâng cao trong khi số lượng các vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung đang có
chiều hướng giảm xuống. Điều này thể hiện năng lực của những người tiến hành tố
tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động trả
hồ sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm tại Quảng Ninh đã từng bước
được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
2.1.3.2. Hạn chế trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh
Thứ nhất: Trình tự, thủ tục điều tra bổ sung có trường hợp chưa được bảo
đảm như: Trong một vụ án, Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung đến 3 lần,
thời hạn điều tra bổ sung kéo dài hơn 02 tháng. Sau khi điều tra bổ sung, thay đổi
nội dung cáo trạng nhưng không nêu thay đổi cho bản cáo trạng ban hành trước đây
làm cho bị cáo nhận nhiều bản cáo trạng nhưng họ không biết cáo trạng nào là cáo
trạng mà Tòa án đưa ra xét xử.
Thứ hai: Vẫn còn trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ
hoặc nội dung yêu cầu điều tra bổ sung không khả thi dẫn đến việc điều tra bổ sung
không thực hiện được, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Thứ ba: Cơ quan thực hiện việc điều tra bổ sung có lúc thực hiện chưa đầy
đủ và đảm bảo những nội dung quan trọng phải làm rõ. Không đáp ứng được vấn đề
49
cần điều tra bổ sung làm ảnh hưởng đến thời gian, kết quả giải quyết vụ án. Vì vậy
chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra là điều tra, truy tố và xét xử vụ án một cách
nhanh chóng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ tư: Sự phối hợp giữa Tòa án với VKS và Cơ quan điều tra có lúc chưa
thực sự nhịp nhàng, cứng nhắc hoặc nể nang làm ảnh hưởng đến thời gian cũng như
kết quả điều tra bổ sung chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
2.1.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động trả hồ sơ để
điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Quảng Ninh
* Nguyên nhân khách quan:
- Tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, phương pháp, thủ đoạn
thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi, nhiều vụ án phạm tội có tổ chức, phạm tội
nhiều lần, địa điểm gây án ở nơi vắng vẻ, không có nhân chứng… nên công tác điều
tra và kiểm sát điều tra gặp nhiều khó khăn trong việc xác định sự thật khách quan
của vụ án. Nhiều tình huống phát sinh ngoài dự kiến nên việc nhận định, đánh giá
chứng cứ, điều tra vụ án chưa toàn diện, từ đó dẫn đến một số vụ án còn thiếu
chứng cứ, nhiều tình tiết chưa được làm rõ mà không thể khắc phục được nên phải
trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Một số loại tội phạm, nhất là tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, chức vụ
thường rất phức tạp vì liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực cần phải đi xác
minh nhiều nơi, làm việc với rất nhiều cơ quan liên quan nên việc xác minh gặp
nhiều khó khăn, phải gia hạn điều tra nhiều lần mới đủ thời gian kết luận điều tra, vì
vậy thiếu sót trong công tác điều tra là khó tránh khỏi.
- Hệ thống văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn, đặc biệt hệ thống văn bản
pháp luật liên quan đến các tội phạm về kinh tế, ma túy, sở hữu, môi trường, tham
nhũng và chức vụ… dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, cách hiểu và
50
vận dụng còn nhiều mâu thuẫn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Nhận thức pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Quảng Ninh
trong một số vụ việc còn chưa đồng nhất. Một số quy định của Bộ luật hình sự và
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành còn bất cập, chưa chi tiết và cụ thể, vẫn còn mâu
thuẫn, chồng chéo. Các bộ luật mới có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên công tác hướng
dẫn giải thích pháp luật của cơ quan có thẩm quyền chưa được thực hiện kịp thời và
đồng bộ dẫn đến việc nhận thức, đánh giá chứng cứ, xác định tội danh và đường lối
xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng không
thống nhất, nhất là đối với các vụ án nghiêm trọng và phức tạp.
- Hoạt động bổ trợ tư pháp có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động
tố tụng, đặc biệt là trình tự, thủ tục và thời gian giám định thương tật, giám định
chữ viết, định giá tài sản… Có vụ án do căn cứ vào kết quả giám định Viện kiểm
sát truy tố nhưng Tòa án nhận thấy không đủ cơ sở nên trả hồ sơ để điều tra bổ
sung.
- Việc thu thập các bản án, trích lục án hoặc giấy chứng nhận chấp hành xong
hình phạt tù của bị can có nhiều tiền án cũng gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý về
lý lịch hành chính tư pháp của các cơ quan chuyên môn chưa chặt chẽ dẫn đến tình
trạng một người có nhiều giấy khai sinh, địa chỉ khác nhau. Đối với các vụ án có bị
can hoặc bị hại do thiếu hiểu biết hoặc cố tình khai báo sai sự thật gây ảnh hưởng
đến kết quả điều tra, truy tố, xét xử phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Bên cạnh đó,
trong thời gian gần đây các đối tượng thường phản cung sau khi nhận bản kết luận
điều tra, cáo trạng hoặc tại phiên tòa, các đối tượng nại ra các tình tiết mới nhằm
chối tội từ đó Viện kiểm sát, Tòa án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung.
- Khi Quốc hội ra Nghị quyết 388/2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị
oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và Luật bồi
thường Nhà nước đã tác động đến tư tưởng và trách nhiệm của Điều tra viên, Kiểm
51
sát viên, Thẩm phán nên một số người tiến hành tố tụng tỏ ra dè dặt, thận trọng quá
mức trong việc đấu tranh xử lý tội phạm, từ đó tìm mọi lý do để trả hồ sơ điều tra
bổ sung mặc dù lý do đó không cần thiết hoặc thiếu căn cứ.
- Nhìn chung cơ sở vật chất cũng như điều kiện làm việc nhất là ở cấp huyện
của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Phương tiện làm
việc lạc hậu, chính sách cán bộ chưa tương xứng với nhiệm vụ và chức trách được
giao, kinh phí cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử án hình sự còn hạn hẹp. Trên
thực tế, có những trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng đùn đẩy trách nhiệm
trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với bị can ( bị cáo) có dấu hiệu mắc bệnh
tâm thần chỉ vì lý do thiếu kinh phí trả cho việc giám định.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Một số Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên có ý thức trách nhiệm,
năng lực nghiệp vụ chưa cao, chưa đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình
giải quyết vụ án, một số cán bộ chưa thực hiện đúng, đầy đủ các quy trình nghiệp
vụ cũng như quy định của BLTTHS trong việc thu thập, bảo quản chứng cứ, lấy lời
khai, hỏi cung… Một số Điều tra viên chưa cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ,
kịp thời tài liệu cho Kiểm sát viên nên Kiểm sát viên không phát hiện được hồ sơ
cần điều tra thêm những vấn đề gì. Do đó, không kịp thời đưa ra yêu cầu điều tra,
dẫn đến tình trạng khi hồ sơ được chuyển sang Viện kiểm sát đã không đầy đủ thủ
tục tố tụng, thiếu chứng cứ buộc tội hay bỏ lọt hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát
không tự khắc phục được. Tuy nhiên cũng có những trường hợp Viện kiểm sát đã
phát hiện ra và có yêu cầu điều tra nhưng Điều tra viên đã không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ song Kiểm sát viên vì nể nang đã không kiên quyết yêu cầu
Điều tra viên phải thực hiện đầy đủ.
- Một số Kiểm sát viên còn thụ động chờ việc, chưa chủ động đề ra những
yêu cầu điều tra trong hoạt động giám sát điều tra vụ án, vẫn còn thụ động chờ án
kết thúc điều tra chuyển đến thì Kiểm sát viên mới nghiên cứu hồ sơ vụ án, dẫn đến
52
việc chậm phát hiện những vi phạm về tố tụng, thiếu chứng cứ… Ngoài ra có
những trường hợp Kiểm sát viên không chủ động kiểm tra, giám sát những vấn đề
phát sinh đối với những vụ án do Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung để phối hợp
với cơ quan điều tra làm tốt yêu cầu điều tra bổ sung.
- Có lúc, có nơi lãnh đạo đơn vị chưa kịp thời kiểm tra, đôn đốc Kiểm sát
viên, Điều tra viên trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, chỉ nghe cấp dưới báo cáo
chứ không trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án. Dẫn đến tình trạng có một số vụ án
Kiểm sát viên, Điều tra viên khi báo cáo án đã không báo cáo hết, không báo cáo
đầy đủ các nội dung, tình tiết của vụ án nên gây khó khăn cho lãnh đạo trong việc
chỉ đạo nghiệp vụ, dẫn đến chỉ đạo không đúng, không trúng, không sâu, không
phát hiện ra những thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ, đánh giá tội danh.
- Lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thường xuyên tổ chức tổng
kết, rút kinh nghiệm về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm phát hiện kịp thời
những tồn tại, hạn chế và đề ra biện pháp khắc phục. Chưa thường xuyên và nghiêm
túc thực hiện việc tổ chức kiểm điểm với những trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ
sung không có căn cứ pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
không đầy đủ, kịp thời yêu cầu điều tra hoặc quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung nhằm xác định trách nhiệm cụ thể của từng người tiến hành tố tụng ở mỗi cấp
có liên quan để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.
- Bên cạnh đó, số lượng biên chế Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
còn thiếu trong khi đó phải đảm đương khối lượng công việc lớn nên phần nào đã
ảnh hưởng đến chất lượng công việc của những người tiến hành tố tụng, dẫn đến
những yêu cầu của hoạt động tố tụng hiện nay chưa được đáp ứng hiệu quả. Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán chưa được thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn
về nghiệp vụ nên trình độ nghiệp vụ chưa được nâng cao.
- Trách nhiệm của một số Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa
xét xử hình sự sơ thẩm chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án; việc đánh giá chứng cứ
53
chưa toàn diện, có tư tưởng sợ trách nhiệm, dẫn đến có nhiều nội dung yêu cầu điều
tra bổ sung chỉ là những thiếu sót giản đơn có thể khắc phục được tại Tòa, không
cần thiết phải trả hồ sơ nhưng Tòa vẫn trả hồ sơ dẫn đến VKS không chấp nhận, vụ
án được đưa ra xét xử, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội theo quyết định truy tố của
VKS.
- Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán có vụ án chưa được chặt chẽ, việc đánh giá chứng cứ, tội
danh nhất là đối với những vụ án phức tạp để bổ sung, khắc phục trước khi kết thúc
điều tra, truy tố, xét xử chưa kịp thời. Chưa có sự phối hợp, trao đổi giữa Kiểm sát
viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án với Thẩm
phấn chủ tọa phiên tòa nên một số vụ án có thể khắc phục tại phiên tòa xét xử,
không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng HĐXX vẫn trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, Viện kiểm sát không chấp nhận, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo
quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Kết luận chương 2
Từ thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của Tòa
án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh, bên cạnh đánh giá những ưu điểm đã đạt
được thì chúng tôi cũng chỉ ra được những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của
những tồn tại hạn chế đó để từ đó nêu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của
54
hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở chương 3.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG TRẢ HỒ SƠ
ĐỂ ĐIỀU TRẢ BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Những vướng mắc khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
theo đúng quy định của pháp luật; bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự được
khách quan, toàn diện, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Qua thực tiễn xét xử, còn có
những quan điểm, nhận thức khác nhau, chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể như sau:
Thứ nhất: khoản 2 Điều 174 BLTTHS quy định: Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa chỉ được quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử chỉ được quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần. Theo quy
định trên quá trình giải quyết vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán chỉ
được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa Hội đồng xét xử chỉ
được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Quy định này nhằm hạn chế việc lợi
dụng trả hồ sơ điều tra bổ sung để kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Đồng thời buộc
Thẩm phán phải nêu cao tinh thần trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án, phát hiện
các vấn đề cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tránh tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ
sung nhiều lần. Thực tế có những trường hợp sau khi Thẩm phán, Hội đồng xét xử
trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án lại xuất hiện những tình tiết mới, có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trường hợp này phải giải quyết như thế nào khi Tòa
án đã hai lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, vấn đề này cần được cơ quan chức
55
năng hướng dẫn cụ thể.
Thứ hai: khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT hướng dẫn
“Trường hợp phải tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì trong quyết định nêu rõ
những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa được điều tra bổ sung hoặc
đã điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm
phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung” hướng dẫn này hiện nay có những quan
điểm, cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết
định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát chấp nhận điều tra bổ
sung tất cả các yêu cầu của Tòa án nhưng còn sót vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung
của Tòa án hoặc có điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều
tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ
vụ án, trong thời hạn 15 ngày Thẩm phán được quyền tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung (lần 2 trong thời hạn chuẩn bị xét xử) và nêu rõ trong quyết định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung như hướng dẫn.
Quan điểm thứ hai: Trường hợp này, Thẩm phán không được trả hồ sơ yêu
cầu điều tra bổ sung mà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, HĐXX tiếp tục trả hồ sơ yêu
cầu điều tra bổ sung và nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước như
hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT.
Chúng tôi cho rằng BLTTHS quy định Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa được quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử được quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Tuy nhiên, trường hợp
Viện kiểm sát chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án nhưng kết quả điều
tra bổ sung còn sót những vấn đề Tòa án yêu cầu hoặc có điều tra bổ sung nhưng
không đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần
điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ
56
sơ yêu cầu điều tra bổ sung những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước và nêu
rõ lý do như hướng dẫn tại Khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT.
Bởi lẽ, trong trường hợp này Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung những vấn đề Viện kiểm sát đã chấp nhận nhưng điều tra bổ sung
còn thiếu sót, chưa đạt yêu cầu, hoặc do điều tra bổ sung làm phát sinh các vấn đề
mới cần Viện kiểm sát điều tra lại đầy đủ theo yêu cầu. Trường hợp nếu Viện kiểm
sát điều tra đầy đủ, đúng yêu cầu và kết quả điều tra không làm phát sinh vấn đề gì
mới, sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán phát hiện còn có vấn đề cần điều tra
bổ sung nhưng quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa yêu cầu
thì Thẩm phán không được trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, trường hợp này
HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Thứ ba: khoản 6 Điều 326 BLTTHS quy định, sau khi nghị án, Hội đồng xét
xử phải quyết định một trong các vấn đề sau: Ban hành bản án và tuyên án; Nếu có
những tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoặc đã xét hỏi nhưng chưa được làm
sáng tỏ thì HĐXX phải trở lại việc xét hỏi và tiếp tục tranh luận; Thiếu những
chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên tòa thì HĐXX phải trả hồ sơ
vụ án cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung
tài liệu, chứng cứ; Tạm đình chỉ vụ án.
Mặc dù trong Bộ luật tố tụng hình sự không quy định các trường hợp cụ thể
HĐXX phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho VKS. Tuy nhiên, theo hướng dẫn
Thông tư liên tịch số 02/2017/ TTLT các trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng là các trường hợp HĐXX trả hồ sơ
yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Vấn đề đặt ra ở đây là HĐXX trả hồ sơ để
điều tra bổ sung tại phiên tòa khi nào?
Trường hợp thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng không phát hiện ra các vấn đề cần điều tra
bổ sung hoặc tại phiên tòa xuất hiện các vấn đề mới mà tài liệu trong hồ sơ vụ án
57
không phản ánh nên Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không phát hiện ra được. Nếu
thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX trả hồ sơ
để điều tra bổ sung.
Trường hợp thứ hai: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phát hiện
những vấn đề trong vụ án chưa được làm rõ nhưng không trả hồ sơ để yêu cầu điều
tra bổ sung vì tự tin tại phiên tòa sẽ làm rõ hoặc bổ sung chứng cứ được, nhưng tại
phiên tòa không bổ sung, làm rõ chứng cứ được thì HĐXX trả hồ sơ yêu cầu điều
tra bổ sung.
Chúng tôi cho rằng, nếu tại phiên tòa, HĐXX thấy có những vấn đề thuộc các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS mà trước đó Thẩm phán chưa
trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung thì HĐXX trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát
điều tra bổ sung. Còn những vấn đề trước đó Thẩm phán đã trả hồ sơ để yêu cầu
điều tra bổ sung nhưng Viện kiểm sát có văn bản trả lời là không có căn cứ thì
HĐXX không được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Thứ tư: khoản 3 Điều 280 BLTTHS quy định: Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ
án trong trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu chứng cứ
nhưng VKS không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ
nguyên quyết định truy tố. Quy định trên được hiểu Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm
sát để yêu cầu điều tra bổ sung và Viện kiểm sát thấy yêu cầu của Tòa án là có căn
cứ và tiến hành điều tra bổ sung nhưng không bổ sung được và vẫn giữ nguyên
quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án; nếu những vấn đề Tòa án yêu
cầu điều tra bổ sung là những căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội, Viện kiểm sát
không điều tra bổ sung (cho rằng không có căn cứ) và giữ nguyên quyết định truy
tố, trường hợp này giải quyết như thế nào? Có hai quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: Nếu tại phiên tòa đã làm rõ những vấn đề Tòa án yêu
cầu điều tra bổ sung là có căn cứ thì HĐXX căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 280
và điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
58
sung.
Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của chúng tôi: Nếu tại phiên tòa đã làm
rõ những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là có căn cứ, HĐXX căn cứ quy
định tại Điều 298 BLTTHS để giải quyết vụ án. Nếu tiếp tục trả hồ sơ để yêu cầu
điều tra bổ sung, Viện kiểm sát cho rằng không có căn cứ thì có trả tiếp chỉ kéo dài
thời hạn giải quyết vụ án. Nếu không đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội thì HĐXX
tuyên bố bị cáo không phạm tội. Sau đó, kiến nghị lên Tòa án cấp trên. Nếu trả hồ
sơ yêu cầu điều tra bổ sung theo điểm b, c khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX
căn cứ khoản 1 Điều 298 BLTTHS xét xử vụ án và nhận định trong bản án.
Thứ năm: trường hợp có nghi ngờ về kết quả giám định, kết luận định giá tài
sản, cần giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản thì Tòa án trả
hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung hay Tòa án tiến hành yêu cầu giám
định bổ sung, giám định lại, yêu cầu định giá lại tài sản. Hiện nay, vấn đề này giữa
Tòa án và Viện kiểm sát có quan điểm khác nhau.
Quan điểm Viện kiểm sát cho rằng: Việc giám định, định giá tài sản đã tiến
hành đúng theo trình tự thủ tục; kết quả giám định, định giá tài sản là đúng và
khách quan, đầy đủ. Hơn nữa, Tòa án có thẩm quyền trưng cầu giám định bổ sung,
giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 252
BLTTHS nên Viện kiểm sát không tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa
án.
Quan điểm thứ hai và cũng là quan điểm của chúng tôi: Theo quy định tại
khoản 1 Điều 210; khoản 1 Điều 211; khoản 1 Điều 218 BLTTHS: Các chứng cứ
trên là cơ sở để Viện kiểm sát chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội
ở khoản nào của điều luật, nhưng những chứng cứ quan trọng đó không thể bổ sung
tại phiên tòa được. Vì vậy, Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là đúng theo
quy định.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trả hồ sơ để điều
59
tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm
3.2.1. Cần sửa đổi, bổ sung một số bất cập được quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn về hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ
sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm
Thứ nhất, hiện nay quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 BLTTHS còn tạo
ra nhiều trường hợp cho phép Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung. Theo đó, chỉ cần có
căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi
khác mà BLHS quy định là tội phạm thì Tòa án sẽ tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, không phụ thuộc vào việc hành vi đó có liên quan đến vụ án đang xét xử hay
không. Do đó, có thể loại bỏ bớt những trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung
bằng cách sửa đổi quy định này theo hướng chỉ nên quy định trường hợp hành vi
khác của bị can đã thực hiện có liên quan đến vụ án mà VKS đã truy tố. Cụ thể, sửa
đổi điểm b khoản 1 Điều 280 thành: “Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã
truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm và có liên
quan đến vụ án mà VKS đã truy tố. Trường hợp bị can thực hiện hành vi khác mà
BLHS quy định là tội phạm nhưng không liên quan đến vụ án sẽ tiến hành khởi tố
vụ án mới”.
Thứ hai, hiện nay đang có sự mâu thuẫn giữa quy định tại điểm d khoản 1
Điều 280 BLTTHS và khoản 2 Điều 6 Thông tư số 02/2017 ở chỗ: Quy định của
Thông tư nói rằng, Tòa án không trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người tham gia tố tụng trong khi BLTTHS lại quy định vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng là căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung. Theo quan điểm của tác
giả, quy định trong Thông tư là chưa phù hợp bởi như đã trình bày ở trên, hiện nay,
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được hiểu là trường hợp BLTTHS quy định
bắt buộc phải làm nhưng cơ quan, người tiến hành tố tụng đã không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của người tham gia
60
tố tụng. Do đó, khi đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đương nhiên sẽ xâm
phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng, do đó cần trả hồ
sơ để điều tra bổ sung. Vì vậy, nên điều chỉnh theo hướng bỏ quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 6 TTLT số 02/2017.
Thứ ba, pháp luật hiện hành không quy định về thời hạn cho VKS xem xét
quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án. Đây là thiếu sót và nguyên nhân
làm chậm quá trình giải quyết vụ án bởi khi Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra
bổ sung, VKS sẽ tiến hành xem xét, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho
Cơ quan điều tra tiến hành bổ sung các vấn đề mà Tòa án yêu cầu. Vì vậy, nếu
không quy định thời hạn cho VKS, việc bổ sung có thể bị chậm và không cơ quan
nào có trách nhiệm về sự chậm trễ đó. Do đó, cần bổ sung thêm quy định về thời
hạn để VKS xem xét quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, quyết định tự
bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra để rút ngắn thời gian tố tụng. Theo
đề xuất, nếu như thời hạn Tòa án chuyển quyết định, hồ sơ cho VKS là 03 ngày thì
cũng nên ghi nhận thời hạn VKS xem xét quyết định: “Trong thời hạn 03 ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, VKS phải
xem xét, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra”.
Thứ tư, hiện nay Tòa án chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung tối đa hai lần,
một lần ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và một lần tại phiên tòa. Quy định như vậy là
nhằm hạn chế tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, kéo dài thời gian tố tụng của các chủ
thể tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp sau khi trả hồ sơ điều
tra bổ sung một lần vẫn còn những vấn đề cần điều tra bổ sung thêm mới có thể giải
quyết vụ án một cách chính xác và khách quan. Trong những trường hợp đó, mặc
dù rất cần thiết nhưng vẫn không thể trả hồ sơ điều tra bổ sung, dẫn đến khó khăn
trong khi xét xử, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết án. Do đó, cần thay đổi quy
định về số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án bằng quy định: “Việc trả hồ sơ
61
điều tra bổ sung chỉ được thực hiện một lần đối với một nội dung nhất định”.
Thứ năm, cùng với việc ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, Tòa án cần
phải ra quyết định hoãn phiên tòa. Bản chất của hai quyết định này hoàn toàn khác
nhau và việc ban hành mỗi loại quyết định cũng dẫn đến những hệ quả pháp lý khác
nhau. Bản thân quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ khiến phiên tòa không thể
tiếp tục, nhưng không có nghĩa, khi có quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung là
phiên tòa sẽ chấm dứt về mặt hình thức. Thay vào đó, phiên tòa vẫn đang tiếp tục
được xét xử mặc dù trên thực tế phiên tòa này đã bị dừng lại để chờ kết quả điều tra
bổ sung. Do đó, cần bổ sung quy định việc Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa đi
kèm với quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, thời
hạn hoãn phiên tòa trong trường hợp này không giống như các trường hợp quy định
tại Điều 297 BLTTHS. Do đó, cần có quy định riêng cho trường hợp này là “Thời
hạn hoãn phiên tòa sẽ hết khi Tòa án nhận lại hồ sơ và tiếp tục giải quyết vụ án”.
3.2.2. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên
môn, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân
Trong mọi công việc vấn đề cán bộ - con người là nhân tố quan trọng, trung
tâm và “ động” nhất của tổ chức. Trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân thì chủ thể áp dụng pháp luật
là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Tòa án áp dụng pháp luật nhằm bảo vệ công
lý, mang lại sự công bằng, đảm bảo xã hội được ổn định và phát triển. Do vậy, đòi
hỏi cán bộ Tòa án nói chung, Thẩm phán nói riêng và Hội thẩm nhân dân phải có
trình độ chuyên môn cao, hiểu biết xã hội rộng, kỹ năng thuần thục và đạo đức nghề
nghiệp trong sáng.
Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới thì phải tiếp tục
kiện toàn về tổ chức, tăng cường hơn nữa công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức ngành Tòa án phải thực sự trong sạch, vững mạnh, phải có lộ trình từng bước
62
bổ sung đội ngũ cán bộ trẻ, có đủ về số lượng, đảm bảo phẩm chất đạo đức, bản
lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là đội ngũ Thẩm phán là những
người cầm cân nảy mực. Do đó, cần phải thực hiện các nội dung sau:
- Đối với Thẩm phán đương nhiệm cần rà soát cả về chuyên môn nghiệp vụ,
năng lực công tác và phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, từ đó có kế hoạch bố trí,
sắp xếp công việc hợp lý, khoa học. Nếu có Thẩm phán yếu về năng lực, chuyên
môn cần phải tiếp tục bồi dưỡng hoặc chuyển công tác khác. Thực hiện tốt công tác
cải cách hành chính, kiện toàn bộ máy tổ chức và làm tốt công việc bồi dưỡng về
nghiệp vụ, phẩm chất chính trị cho Thẩm phán, là giải pháp trực tiếp góp phần nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự.
- Bên cạnh việc kiểm tra, rà soát đội ngũ Thẩm phán đương nhiệm cần phải
có kế hoạch xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận, những Thẩm phán
tương lai mà nguồn chủ yếu là Thư ký, Thẩm tra viên. Những người này đều là cán
bộ trẻ, có trình độ, tâm huyết với nghề nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài
việc bồi dưỡng đào tạo họ về chuyên môn nghiệp vụ ( cử đi học, tập huấn thường
xuyên, khuyến khích đi học sau đại học) cần phải được rèn luyện trong thực tế, phải
bồi dưỡng, đào tạo về lý luận chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức. Thực hiện
được điều này cũng chính là thực hiện chiến lược đào tạo con người trong tiến trình
cải cách tư pháp trong giai đoạn mới.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, cập nhật các văn bản hướng dẫn áp dụng
pháp luật của các cơ quan cấp trên, đặc biệt là các hướng dẫn về thủ tục tố tụng
hình sự như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, các Thông tư liên tịch
của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng… Tiếp tục quán triệt
những chủ trương, nhiệm vụ về cải cách tư pháp đã được đề ra trong các Nghị
quyết số 08/NQ – TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị đã được cụ thể hóa trong mục tiêu, chương trình hành
63
động của TANDTC và Ban chỉ đạo cải cách tư pháp tỉnh Quảng Ninh.
- Đề cao công tác giáo dục chính trị tư tưởng, cụ thể hóa lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với công tác ngành Tòa án; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện cuộc vận động
“ Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán,
cán bộ công chức ngành Tòa án” gắn với phong trào thi đua “ Phụng công, thủ
pháp, chí công, vô tư” với phương châm “ Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.
Khen thưởng kịp thời đối với những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong
công tác và tuyên dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua
yêu nước của ngành, đồng thời kịp thời phát hiện những vi phạm để có biện pháp
uốn nắn và xử lý nghiêm.
3.2.3. Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, tăng cường sự phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Quảng Ninh trong hoạt động trả
hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
- Để nâng cao chất lượng xét xử và thống nhất áp dụng pháp luật thì không
thể thiếu công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, đây được coi là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của ngành Tòa án. Từ đó, tìm ra những hạn chế, tồn tại và
nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó để tìm ra những giải pháp khắc phục
những hạn chế trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Điều đó có ý nghĩa rất
quan trọng đối với yêu cầu đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật của hoạt động
hoạt động trả hồ sơ để điều tra bỏ sung. Ngoài ra, định kỳ hàng tháng, hàng quý,
thì ngành Tòa án cũng cần tự mình phải xác định cụ thể số lượng vụ án mà Tòa án
đã trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát. Trong đó, phải phân tích được lý
do mà Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung như: về chứng cứ, về tố tụng, số vụ trả
có căn cứ, số vụ trả không có căn cứ; trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra
bổ sung không có căn cứ pháp luật thì cần phải xác định rõ nguyên nhân và trách
nhiệm của cá nhân cụ thể để từ đó có biện pháp khắc phục và xử lý kịp thời tránh
64
lặp lại sau này.
- Cùng với việc tổng kết, rút kinh nghiệm trong hoạt động áp dụng pháp luật
của Tòa án, cần thường xuyên tổ chức các chuyên đề nghiên cứu khoa học nhằm
phục vụ công tác xét xử trong đó có các chuyên đề riêng về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung. Việc xây dựng chuyên đề cần có sự tham gia của cả ba cơ quan tiến hành tố
tụng. Chuyên đề cần được đưa ra hội thảo và áp dụng vào thực tiễn công tác để phát
huy hiệu quả.
- Một số giải pháp quan trọng nữa nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động
trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự là cần tăng cường sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan và cá nhân những người tiến hành tố tụng trên cơ sở đúng
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Hạn
chế tới mức thấp nhất, tiến tới loại bỏ tình trạng trả hồ sơ nhiều lần, trả hồ sơ để
hợp lý hóa thời hạn tố tụng. Cần xây dựng quy chế phối hợp liên ngành trong hoạt
động trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2017
để thống nhất vận dụng trong thực tiễn; cần tổ chức sơ kết việc thực hiện Thông tư
liên tịch số 02/2017 theo định kỳ đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, rút kinh
nghiệm đối với việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm phát hiện kịp thời những sai
sót, hạn chế để làm rõ những nguyên nhân và kiểm điểm nghiêm túc đối với những
cá nhân có trách nhiệm.
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, chế độ, chính sách đối với Thẩm phán,
cán bộ Tòa án
- Việc xây dựng, cải tạo, mở rộng trụ sở, đầu tư trang thiết bị hiện đại, tăng
thêm kinh phí hoạt động của Tòa án các cấp đáp ứng yêu cầu công tác xét xử hiện
nay và yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới là một nhiệm vụ quan trọng của
ngành TAND. Vấn đề khó khăn nhất đối với các Tòa án hiện nay là nguồn vốn đầu
tư xây dựng rất hạn chế. Trong khi chưa có sự đổi mới về cơ chế phân bổ, quản lý
ngân sách đối với Tòa án, TANDTC cần đề nghị Chính phủ đưa nguồn vốn đầu tư
65
xây dựng trụ sở TAND các cấp thuộc diện nguồn vốn ưu tiên đầu tư đồng thời chỉ
đạo các cấp chính quyền địa phương quan tâm hỗ trợ các điều kiện vật chất giúp
ngành TAND tỉnh Quảng Ninh luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án trong sạch, vững mạnh là một yêu cầu
quan trọng hiện nay. Tuy nhiên do những hạn chế, bất cập về chế độ chính sách,
đặc biệt là chế độ tiền lương đối với cán bộ, Thẩm phán còn thấp nên các Tòa án
đang gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng, quản lý, giáo dục cán bộ và tạo
nguồn Thẩm phán. Việc quy định Thẩm phán có mức lương tương đương với cán
bộ công chức hành chính là bất hợp lý, không phù hợp với vị trí, vai trò của Thẩm
phán trong xã hội và trách nhiệm rất cao của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp.
Cần sớm đề nghị Nhà nước sửa đổi chế độ tiền lương và ban hành các chính sách
ưu đãi khác cho phù hợp với đặc thù về tính chất và trách nhiệm nghề nghiệp của
Thẩm phán và cán bộ công chức Tòa án, giúp các Tòa án có điều kiện thu hút,
tuyển chọn những người có trình độ đồng thời động viên, khuyến khích Thẩm phán,
cán bộ, công chức yên tâm công tác, giữ gìn đạo đức, lối sống và sự liêm chính của
người cán bộ Tòa án.
3.2.5. Xây dựng và hoàn thiện các cơ quan, tổ chức bổ trợ Tư pháp
Hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp có ý nghĩa quan trọng đối
với việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung và việc trả
hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nói riêng. Hoạt động của các cơ quan, tổ chức
bổ trợ tư pháp đã góp phần không nhỏ trong việc cung cấp, bổ sung nhiều tài liệu,
chứng cứ quan trọng có giá trị chứng minh làm cho các tình tiết khách quan của vụ
án được sáng tỏ. Ví dụ: Kết quả giám định khoa học kỹ thuật hình sự, kết luận giám
định pháp y, kết luận giám định pháp y tâm thần… là một trong những căn cứ quan
trọng để Tòa án xem xét, đánh giá, xác định có hay không có hành vi phạm tội, tội
danh, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, căn cứ để áp dụng các biện pháp tư pháp cần
66
thiết khác cũng như để đánh giá việc điều tra, truy tố có đảm bảo tính khách quan,
đầy đủ và toàn diện không. Hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp ảnh
hưởng không nhỏ tới kết quả giải quyết các vụ án hình sự, chất lượng của quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án , vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện
tổ chức, hoạt động bổ trợ tư pháp ở tỉnh Quảng Ninh là hết sức cần thiết.
Thời gian vừa qua tại Quảng Ninh về cơ bản hoạt động này đã phát huy được
vai trò của mình, đặc biệt là trong việc giải quyết, xét xử các vụ án xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe, vi phạm an toàn giao thông, trật tự công cộng, trật tự hành
chính… góp phần đáng kể để các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cải cách tư pháp trong tình hình
mới.
Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động bổ trợ tư pháp mà đặc biệt là giám định tư
pháp còn bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về hình thức áp dụng cũng như hiệu quả
của việc trưng cầu, sử dụng kết quả của các hoạt động bổ trợ này trong tố tụng hình
sự, gây ảnh hưởng đến chất lượng của việc giải quyết vụ án. Để khắc phục vấn đề
này, trước mắt cần thực hiện ngay những giải pháp sau đây:
- Xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và tổ chức
giám định để áp dụng pháp luật thống nhất trong việc xác định căn cứ, thẩm quyền
và thời điểm trưng cầu giám định pháp y trong tố tụng hình sự.
- Thống nhất về mặt bằng đánh giá, xác định kết quả giám định, chuẩn hóa
các căn cứ kết luận giám định, hạn chế đến mức thấp nhất sự mâu thuẫn giữa kết
luận giám định của các tổ chức giám định, các lần giám định về cùng một vấn đề
cần giám định.
- Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm, sơ, tổng kết về hoạt động
giám định pháp y trong tố tụng hình sự để kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm, phát
67
huy hiệu quả đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của công tác này.
- Kiến nghị với các cơ quan Trung ương, kịp thời chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung,
xây dựng mới những văn bản quy chuẩn về giám định pháp y, đáp ứng đòi hỏi của
thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Kết luận chương 3
Trong chương này của luận văn, chúng tôi đưa ra các giải pháp cơ bản góp
phần nâng cao chất lượng của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Nhóm giải pháp thứ nhất là tổ chức thực hiện tốt quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn.
Nhóm giải pháp thứ hai là nâng cao nhận thức của người tiến hành tố tụng;
Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát; Tăng cường kinh
phí, cơ sở vật chất phục vụ công tác điều tra, truy tố…
KẾT LUẬN
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự là
một trong những chế định quan trọng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Ý nghĩa
của việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung nhằm khắc phục những tồn tại,
hạn chế, thiếu sót trong giai đoạn điều tra, truy tố để đảm bảo việc điều tra, truy tố
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật
về trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự một cách có hệ
thống sẽ góp phần làm rõ được bản chất, ý nghĩa và mục đích của chế định này
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại
phiên tòa, nếu Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng đắn, có căn
cứ sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết vụ án được kịp thời, chính xác,
khách quan, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như xét xử oan người vô tôi. Ngược lại việc
Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ sẽ làm cho quá trình giải
quyết vụ án bị kéo dài gây lãng phí thời gian, công sức, tiền của Nhà nước, mặt
68
khác còn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh trong thời gian vừa qua đã phát huy những tác
dụng quan trọng đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần giữ
vững an ninh, chính trị, ổn định trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để tỉnh Quảng
Ninh phát triển nhanh, bền vững, xứng đáng là một tỉnh công nghiệp, hiện đại, là
một trọng điểm kinh tế, một trung tâm thương mại lớn của cả nước. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh cũng
bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan khác nhau, cần được phân tích làm rõ để từ đó có những giải pháp khắc phục
mang tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động này, đáp ứng kịp thời
của yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về những kết quả đạt được cũng
như những hạn chế trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử
sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh thời gian vừa qua;
tìm hiểu về các nguyên nhân dẫn đến việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng
như những tồn tại trong việc ban hành các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
tác giả luận văn đã đề ra những giải pháp đúng đắn trong hoạt động trả hồ sơ để
điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự trong thời gian tới. Những kết
quả nghiên cứu của luận văn đã góp phần bổ sung và phát triển lý luận, phục vụ yêu
cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất lượng xét xử nói chung, trong
hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung nói riêng của ngành Tòa án nhân dân trong
69
công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết số 32 – NQ/TW ngày 05/8/2003 về xây dựng
và phát triển tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Hải Châu (2010), Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
6. Trịnh Duy Biên (2009), Về việc Thẩm phán trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số 11), tr.37-40.
7. Nguyễn Minh Đức (2003), “ Một số ý kiến về việc áp dụng quy định trả hồ
sơ để điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Tòa
án nhân dân, (6), tr.27-29.
8. Trần Xuân Huệ (2009), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ
thẩm những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
9. Vũ Gia Lâm (2003), “ Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án
nhân dân, (8), tr.41-44.
10. Nguyễn Quang Lộc (2013), “ Bàn về chế định Trả hồ sơ để điều tra bổ
70
sung trong điều kiện cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (11), tr.26-28.
11. Mai Văn Lư (2008), “ Cần xem xét lại quy định Tòa án trả hồ sơ để điều tra
bổ sung trong quan hệ với việc tăng cường tính khách quan, sự độc lập của
hoạt động xét xử”, Tạp chí Kiểm sát, (6), tr.33-35.
12. Mai Văn Lư (2010), “ Bàn về quy định: “ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ
sung” trong điều kiện cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (11), tr.26-28.
13. Nguyễn Phúc Lưu (2006), “ Bàn về việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra
bổ sung”, Tạp chí Kiểm sát, (11), tr.21-22.
14. Lê Tiến Châu (2008), “ Trả hồ sơ điều tra bổ sung nhìn từ mối quan hệ
giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử”, Tạp chí Kiểm sát, (17), tr.22-
26.
15. Nguyễn Văn Du (2005), “ Khái niệm chứng cứ trong tố tụng hình sự: nhìn
từ góc độ lịch sử và luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (11),
tr.37-43.
16. Nguyễn Ngọc Điệp (2001), “ Những điều cần biết về thủ tục khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”, NXB Công an nhân dân, Thành phố Hồ
Chí Minh.
17. Trần Văn Độ (2000), “ Hoàn thiện các quy định của pháp luật về giới hạn
xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (08), tr.01-03.
18. Đỗ Văn Đương (2006), “ Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự”,
NXB Tư pháp.
19. Phạm Hồng Hải (1999), “ Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc
tội”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
20. Nguyễn Viết Hoạt (2007), “ Bản chất của hoạt động điều tra trong tố tụng
hình sự”, Tạp chí khoa học pháp lý, (03), tr.51-57.
21. Nguyễn Đình Huề (2009), “ Một số vấn đề về trả hồ sơ vụ án hình sự để
71
điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (04), tr.33-37.
22. Nguyễn Hải Phong (2011), “ Nguyên nhân và biện pháp để hạn chế tình
trạng trả hồ sơ vụ án giữa các cơ quan tiến hành tố tụng”, Tạp chí Kiểm
sát, (4), tr.45-47.
23. Đặng Quang Phương (2002), “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
xây dựng pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân ( sửa đổi)”,
Thông tin Khoa học xét xử, (6), tr.26-29.
24. Trịnh Đức Thảo (2010), “ Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, (18).
25. Đinh Văn Quế (2004), “ Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ
thẩm hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003”, Tạp chí Tòa án nhân dân
(8), tr.3-10.
26. Đinh Văn Quế (2004), “ Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đinh Văn Quế (2006), “ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung – Những vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội (14), tr.29-34.
28. Võ Khánh Vinh (2004), “ Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”,
NXB Công an nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.
29. Võ Khánh Vinh (2012), “ Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp
năm 1992, NXB Sự thật, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật hình
sự năm 1999, Hà Nội.
32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức
72
Tòa án nhân dân năm 2002, Hà Nội.
33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật tố tụng
hình sự, Hà Nội.
34. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
35. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
năm 2013, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ – HĐTP ngày
05/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “ Xét xử
sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Các văn bản quy phạm pháp luật của
TANDTC hướng dẫn thi hành pháp luật, Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2020), Báo cáo tổng kết công tác từ năm
2015 đến năm 2020, Quảng Ninh.
39. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2020), Báo cáo chất lượng trả hồ sơ để
điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến
năm 2020, Quảng Ninh.
40. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2020), Báo cáo thực hiện nhiệm vụ kinh
tế - xã hội, quốc phòng – an ninh năm 2021; mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ,
giải pháp năm 2021, Quảng Ninh.
41. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Quốc phòng
– Bộ Công an (2008), Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT – VKSNDTC –
TANDTC – BCA – BQP ngày 20/10/2008 về quan hệ phối hợp trong một số
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự giữa các cơ quan tiến hành
73
tố tụng trong Quân đội và ngoài Quân đội, Hà Nội.
43. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Tòa án nhân dân tối cao
(2010), Thông tư liên tịch số 01/2010/ TTLT – VKSNDTC – BCA – TANDTC
ngày 27/8/2010 hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự về trả hồ sơ điều tra bổ sung, Hà Nội.
44. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an –
Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư liên tịch số 02/2017/ TTLT – VKSNDTC–
TANDTC – BCA – BQP ngày 22/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Hà Nội.
74
45. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Thẩm phán 2006, Hà Nội.