VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÔ THỊ THỊNH

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN

XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIẾN

TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI - 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÔ THỊ THỊNH

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN

XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIẾN

TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan, luận văn của em là công trình nghiên cứu của cá nhân

em. Kết quả trình bày trong bài viết chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu là trung thực, được lấy từ nguồn báo cáo tổng kết hàng năm của

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và trích dẫn theo đúng quy định.

Em xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của kết quả nghiên

cứu này.

Học viên

Tô Thị Thịnh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................... Error! Bookmark not defined.

1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................... Error! Bookmark not defined.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................... Error! Bookmark not defined.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn .. Error! Bookmark not defined.

3.1. Mục đích nghiên cứu ......................................... Error! Bookmark not defined.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................... Error! Bookmark not defined.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .... Error! Bookmark not defined.

4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................ Error! Bookmark not defined.

4.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................... Error! Bookmark not defined.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ..... Error! Bookmark not

defined.

5.1. Cơ sở lý luận ...................................................... Error! Bookmark not defined.

5.2. Phương pháp nghiên cứu ................................... Error! Bookmark not defined.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .......... Error! Bookmark not defined.

6.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn .......................... Error! Bookmark not defined.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn ................................................ Error! Bookmark not defined.

7. Kết cấu của luận văn .............................................. Error! Bookmark not defined.

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM.Error! Bookmark not defined.

1.1. Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử

hình sự sơ thẩm. .................................................. Error! Bookmark not defined.

1.1.1. Khái niệm hồ sơ vụ án hình sự ....................... Error! Bookmark not defined.

1.1.2. Khái niệm về trả hồ sơ để điều tra bổ sung .... Error! Bookmark not defined.

1.2. Đặc điểm hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm

hình sự ................................................................. Error! Bookmark not defined.

1.3. Vai trò của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm

hình sự ................................................................. Error! Bookmark not defined.

Chương 2: QUY ĐỊNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM .. Error! Bookmark not defined.

2.1. Những căn cứ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ......... Error! Bookmark not

defined.

2.2. Thẩm quyền, thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án

............................................................................. Error! Bookmark not defined.

2.2.1. Thẩm quyền, thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử ........................ Error! Bookmark not defined.

2.2.2. Thẩm quyền, thủ tục, số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa hình sự sơ thẩm .............................................................. Error! Bookmark not defined.

2.3. Thời hạn chuẩn bị xét xử của Tòa án sau khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung

............................................................................. Error! Bookmark not defined.

2.4. Hệ quả của việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ...... Error! Bookmark not

defined.

2.5. Những vướng mắc khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử

sơ thẩm hình sự ................................................... Error! Bookmark not defined.

2.6. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trả hồ sơ để điều tra bổ

sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm ...... Error! Bookmark not defined.

Chương 3: THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG Ở GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ CỦA TAND TỈNH QUẢNG NINH VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG NÀY ..... Error! Bookmark not defined.

3.1. Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử só thẩm hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh ...................... Error! Bookmark not defined.

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân tỉnh

Quảng Ninh ....................................................... Error! Bookmark not defined.

3.1.2. Thực trạng Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh Error! Bookmark not defined.

3.2. Giải pháp bảo đảm trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh .. Error! Bookmark not defined.

3.2.1. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ở tỉnh Quảng Ninh đối với hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự ....................................................................... Error! Bookmark not defined.

3.2.2. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân .................................................. Error! Bookmark not defined.

3.2.3. Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Quảng Ninh trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sựError! Bookmark not defined.

3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, chế dộ, chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án ............................................................... Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN ...................................................................... Error! Bookmark not defined.

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Số vụ án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã trả hồ sơ 35-36

để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình

sự ( từ năm 2015 đến năm 2020)

Bảng 3.2: Số vụ án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã trả hồ sơ 37

để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình

sự được Viện kiểm sát chấp nhận ( từ năm 2015 đến

năm 2020)

Bảng 3.3: Các căn cứ được Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh áp 38-39

dụng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm hình sự ( từ năm 2015 đến năm 2020)

Bảng 3.4: Kết quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân 39

dân tỉnh Quảng Ninh ( từ năm 2015 đến năm 2020)

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX : Hội đồng xét xử

HTND : Hội thẩm nhân dân

TAND : Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

VKS : Viện kiểm sát

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với mục tiêu xây dựng một đất nước văn minh, dân chủ, một nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, do đó Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi mới một cách

sâu sắc và toàn diện. Quá trình đổi mới đã mang lại những thành tựu hết sức to lớn,

là một động lực để đưa đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới. Song song

với sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những biện

pháp để tăng cường, đẩy mạnh việc cải cách nền hành chính tư pháp bởi vì chỉ có

cải cách mạnh mẽ được nền hành chính tư pháp quá trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa mới được thúc đẩy mạnh mẽ, góp phần làm cho đất nước ta

thực sự là nước xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân

chủ, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu trên thì trong Nghị quyết 49 – NQ/TW

ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ ra chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 là “ Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,

bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến

hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.

Theo mục tiêu trên để hoạt động xét xử các loại án được nâng cao về mặt

chất lượng, trong đó án hình sự được đặc biệt chú trọng và được xác định là nhiệm

vụ trọng tâm của chiến lược cải cách tư pháp. Do đó, đối với hoạt động tố tụng hình

sự, việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát khi có đầy đủ các

căn cứ pháp lý là yếu tố cần thiết để đảm bảo cho việc xét xử một cách khách quan,

đúng pháp luật, không làm oan người vô tội và đồng thời cũng là biện pháp để đáp

ứng cho công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.

Đối với Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Quảng Ninh trong thời gian vừa

1

qua thực hiện việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng có những bất cập, hạn chế

nhất định cả về hình thức và nội dung như việc trả hồ sơ không viện dẫn đầy đủ

các căn cứ pháp lý, không đúng đối tượng… dẫn đến tình trạng làm cho việc giải

quyết một số vụ án chậm chạp, kéo dài, gây tốn kém tiền của Nhà nước, gây lãng

phí thời gian, công sức và làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi chính đáng của

nhân dân. Do đó, việc nghiên cứu trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm không những góp phần hoàn thiện thể chế pháp luật dưới góc độ lý luận

và thực tiễn để có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy phạm pháp luật,

mà mục tiêu quan trọng là để đáp ứng yêu cầu xây dựng một Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa. Để Góp phần nâng cao chất lượng xét xử và sự phát triển của

ngành Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh thì việc nghiên cứu những quy

định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung là thực sự cần thiết nên hiểu

được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa sâu sắc của vấn đề cần nghiên cứu, tác giả

đã lựa chọn đề tài “ Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu các đề tài đã được công bố cho thấy, cho đến nay đã có khá nhiều các

công trình khoa học nghiên cứu về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung với những quy

mô, phương diện khác nhau, chẳng hạn như: “ Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của

Tòa án cấp sơ thẩm những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Xuân Huệ; “ Bình

luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự” năm 2003 của GS.TS Võ Khánh Vinh; “

Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm soát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện

nay” của PGS.TS Trần Văn Độ; “ Hoàn thiện chế định Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ

sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, tạp chí

Dân chủ và pháp luật số 7/2012; “ Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Luật

tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thị Hải Châu; “ Bàn về việc trả hồ sơ vụ án

2

hình sự để điều tra bổ sung” của Nguyễn Phúc Lưu; “ Hoàn thiện quy định của Bộ

luật tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung” của

Vũ Gia Lâm, Tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2013; “ Bàn về quy quy định: “ Tòa án

Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung” trong điều kiện cải cách tư pháp” của Mai Văn

Lư; “ Bàn về chế định Trả hồ sơ để điều tra bổ sung” của Nguyễn Quang Lộc…

Đối với những đề tài nghiên cứu đã nêu trên, thì vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ

sung ở mức độ này hay mức độ khác đã được các tác giả đề cập đến, như là các căn

cứ pháp lý để Tòa án tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay trình tự, thủ tục

hoặc trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì sự cần

thiết của chế tài này có tính hợp lý, hợp pháp như thế nào. Mặc dù vậy, những đề tài

nghiên cứu trên cũng chỉ nghiên cứu một số tình tiết, khía cạnh chưa thống nhất,

còn đang có nhiều quan điểm khác nhau trong thực tiễn xét xử. Chưa thực sự có

nhiều đề tài nghiên cứu một cách tổng quát về nguyên nhân, hạn chế trong việc áp

dụng các quy định của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm án hình sự dẫn đến việc hiểu và áp dụng pháp luật chưa thống nhất ở các địa

phương khác nhau, thậm chí trong cùng cơ quan, đơn vị các Thẩm phán cũng có

những cách hiểu khác nhau, do đó gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khiến việc xét

xử chưa thực sự đạt hiệu quả cao và mang tính triệt để.

Trên thực tế hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn rất nhiều vấn đề chưa

thống nhất với cơ sở lý luận khoa học.

Lần đầu tiên tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần đảm bảo cho việc trả hồ

sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Quảng Ninh nói riêng và của Tòa án cấp sơ thẩm nói chung nên các công trình

khoa học đã được công bố trên đây vẫn là các tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên

cứu và hoàn thiện Luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn

3

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự, tác giải đề xuất các quan điểm và giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật,

nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung

ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh

hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án nhân

dân trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.

- Nghiên cứu thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh, từ đó chỉ ra những ưu

điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng này.

- Xác định quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ điều tra

bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng

Ninh hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như các quan điểm của khoa

học pháp lý hình sự trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung .

- Thực tiễn việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án

hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh.

- Những giải pháp bảo đảm hiệu quả việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn

xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh.

4

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp luật hình sự và tố tụng hình

sự, tác giả luận văn thu thập, thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh số liệu từ năm

2015 đến năm 2020 để phục vụ đề tài nghiên cứu của mình.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận văn là các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng

Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quan điểm của Đảng cộng

sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,

vì dân cũng như tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; các đường lối chỉ đạo của

Đảng về chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị trong Nghị quyết số 08/NQ –

TW ngày 02/01/2002 về “ Nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”

và Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày 02/6/2005 về “ Chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020” .

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu luận văn này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

như: Phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, đối chiếu. Ngoài ra, tác giả còn sử

dụng những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm của ngành Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh; từ đó đã tổng hợp các kiến thức khoa học pháp luật trong tố tụng hình

sự và các vấn đề tương ứng để áp dụng trong việc nghiên cứu luận văn này.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn

Luận văn có ý nghĩa khoa học vô cùng to lớn, có thể đóng góp những vấn đề lý

luận khoa học luật tố tụng hình sự trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung

trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự dưới góc độ pháp luật tố tụng hình sự, từ đó

góp phần hoàn thiện thể chế pháp lý trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

5

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể là nguồn cơ sở để cho những người làm thực tiễn tham khảo trong

công tác điều tra, truy tố, xét xử để từ đó có cách nhìn nhận đúng đắn và việc áp

dụng pháp luật tố tụng hình sự đạt hiệu quả cao trong hoạt động trả hồ sơ để điều

tra bổ sung. Mặt khác, luận văn cũng có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho

việc học tập, giảng dạy môn Luật tố tụng hình sự và làm tài liệu trong hoạt động lập

pháp, những người làm công tác pháp luật, góp phần hoàn thiện các quy định của

pháp luật trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình

sự sơ thẩm.

Luận văn là công trình nghiên cứu về tố tụng hình sự về việc trả hồ sơ để điều tra

bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Quảng Ninh. Việc nghiên cứu sẽ đem lại những kết quả góp phần hoàn thiện cơ

sở lý luận, cũng như việc áp dụng trong thực tiễn, từ đó cũng góp phần nâng cao

chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung, trong hoạt động trả hồ sơ để

điều tra bổ sung nói riêng của ngành Tòa án nhân dân trong công cuộc cải cách tư

pháp hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ

lục của luận văn thì nội dung luận văn bao gồm có 03 chương với 10 tiết, cụ thể

như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn

xét xử sơ thẩm.

Chương 2: Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh

Quảng Ninh trong những năm gần đây ( từ năm 2015 đến năm 2020)

Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động trả hồ sơ để

6

điều tra bổ sung.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM.

1.1. Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét

xử hình sự sơ thẩm.

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm hồ sơ vụ án hình sự

Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm cụ thể về hồ sơ vụ án hình sự, tuy nhiên

dựa trên những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì hồ sơ vụ án hình sự được

lập theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự, trong đó nội dung của hồ sơ vụ án

chính là nội dung của các vản bản, tài liệu được tập hợp trong hồ sơ. Mỗi tài liệu sẽ

phản ánh một hoặc nhiều vấn đề trong vụ án và các tài liệu này có quan hệ mật thiết

với nhau để phản ánh nội dung vụ án. Khi các văn bản, tài liệu đã được đưa vào hồ

sơ vụ án thì sẽ là cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền như Công an, Viện

kiểm sát, Tòa án sử dụng để giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện.

Các tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án hình sự sẽ được hình thành từ khi bắt

đầu có quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can do cơ quan cảnh

sát điều tra ra quyết định, sau đó sẽ được Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp phê chuẩn.

Khi tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội

phạm, thì cơ quan cảnh sát điều tra sẽ tiến hành việc xác minh, kiểm tra tính đúng

đắn của nguồn tin để từ đó ra quyết định có khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố

vụ án hình sự, trong trường hợp xác định có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì vụ án

sẽ được khởi tố. Sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì hoạt động điều

tra, thu thập và đánh giá chứng cứ để chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra và ai

7

là người thực hiện hành vi phạm tội sẽ được tiến hành. Nếu có đủ căn cứ pháp lý để

xác định có hành vi phạm tội xảy ra và người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ

quan cảnh sát điều tra sẽ ban hành bản kết luận điều tra, hoàn thiện hồ sơ vụ án và

chuyển sang cho VKSND cùng cấp đề nghị truy tố đối với bị can về tội danh cụ thể.

Còn trong trường hợp chưa có đủ căn cứ để việc khởi tố vụ án hình sự hoặc đã hết

thời hạn điều tra mà không chứng minh được ai là người đã thực hiện hành vi phạm

tội thì cơ quan cảnh sát điều tra phải ban hành quyết định đình chỉ vụ án. Trường

hợp xác định được người thực hiện hành vi phạm tội nhưng người đó lại mắc bệnh

tâm thần hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và có chứng nhận của Hội đồng chứng nhận y

khoa trong trường hợp không thể xác định được bị can hoặc không biết bị can đang

ở đâu thì cơ quan cảnh sát điều tra sẽ phải banh hành quyết định tạm đình chỉ điều

tra vụ án.

Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sẽ thấy rõ các hoạt động của cơ quan điều tra

đã tiến hành như việc ban hành các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự,

quyết định khởi tố bị can, quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam, lệnh cấm đi khỏi nơi

cư trú, quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định truy nã;

xác minh lý lịch bị can; tiến hành lấy lời khai của bị can và những người tham gia

tố tụng khác; vẽ sơ đồ hiện trường; lập biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh

hiện trường … ra bản kết luận điều tra. Khi hoàn tất hồ sơ thì cơ quan điều tra tiến

hành bàn giao hồ sơ và đề nghị VKS cùng cấp truy tố. Sau khi nhận được hồ sơ vụ

án do cơ quan cảnh sát điều tra cùng cấp chuyển đến thì tùy từng trường hợp mà

VKS phải ban hành một trong các quyết định như: Nếu không đủ căn cứ để truy tố

bị can theo tội danh, điều khoản bị khởi tố hoặc còn có người khác thực hiện hành

vi phạm tội hoặc bị can còn phạm tội khác ngoài tội danh bị khởi tố thì VKS phải

thực hiện việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung; trong trường hợp có đủ căn cứ để đình

chỉ vụ án thì VKS phải ban hành quyết định đình chỉ vụ án hoặc trong trường hồ sơ

đầy đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can thì VKS phải ban

8

hành Cáo trạng để truy tố bị can ra trước Tòa án. Những quyết định này được ban

hành tất cả đều dựa trên cơ sở là những tài liệu, chứng cứ mà đã được cơ quan cảnh

sát điều tra thu thập theo đúng trình tự quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và

được đưa vào hồ sơ vụ án trong giai đoạn điều tra. Khi chuyển hồ sơ cho Tòa án để

xét xử thì mọi thủ tục tố tụng cũng chỉ căn cứ vào hồ sơ vụ án, Tòa án nghiên cứu

hồ sơ và có thể ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho VKS, tạm đình chỉ

hoặc đình chỉ giải quyết vụ án hình sự hoặc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và mở

phiên tòa xét xử vụ án. Với quy định tại Điều 7 Bộ luật hình sự 2015 nhằm đảm bảo

nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) đồng thời đảm bảo chính xác cho

việc áp dụng pháp luật thì việc lập hồ sơ vụ án hình sự phải tuân thủ những nguyên

tắc nhất định như cơ quan điều tra tiến hành việc xác minh lý lịch bị can thì bắt

buộc phải dán ảnh của bị cán vào tờ lý lịch bị can; sau khi có quyết định khởi tố bị

can thì cơ quan điều tra phải lập danh bản, chỉ bản của bị can trong đó thể hiện đầy

đủ bản ảnh bị can, thông tin lý lịch bị can, ngày tháng năm bị bắt, nhân thân… để

khi chuyển hồ sơ cho VKS, Tòa án thực hiện việc thẩm vấn công khai, có sự đối

chiếu, so sánh làm căn cứ để nhận diện đúng người được đưa ra xét xử và người có

tên trong hồ sơ có phải là một người hay không để tránh trường hợp xét xử một

người khác không phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội, tránh xét xử oan,

nhầm lẫn hay bỏ lọt tội phạm.

Như vậy, hồ sơ vụ án là tài liệu chính để cung cấp những thông tin, tình tiết cũng

như diễn biến của vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán sẽ phát hiện kịp

thời những vấn đề còn thiếu sót, chưa đủ căn cứ trong quá trình điều tra, truy tố của

cơ quan cảnh sát điều tra, của VKSND cùng cấp để từ đó có những thông báo yêu

cầu điều tra bổ sung hoặc ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu hồ sơ vụ

án đã được thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị

cáo thì sẽ được đưa ra xét xử. Đây là cơ sở để Hội đồng xét xử (HĐXX) ban hành

một bản án công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để

9

lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Do vậy, có thể thấy hồ sơ vụ án hình sự là tập hợp hệ thống các văn bản, tài liệu,

chứng cứ được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong quá trình khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử và được sắp xếp theo một trình tự nhất định để phục vụ cho việc

giải quyết vụ án và lưu trữ tài liệu.

1.1.1.2. Khái niệm về trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Thực tế hiện nay ở nước ta trong các quy định của pháp luật thì khái niệm trả hồ

sơ để điều tra bổ sung chưa được quy định rõ ràng, cụ thể ở một văn bản pháp luật

nào. Tại Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 chỉ quy định căn cứ trả hồ sơ để

điều tra bổ sung của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trả hồ sơ để điều

tra bổ sung trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015

không quy định cụ thể căn cứ để HĐXX sơ thẩm yêu cầu điều tra bổ sung. Tuy

nhiên, nghiên cứu tổng thể các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và qua

thực tiễn áp dụng pháp luật thấy rằng Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng

chính là căn cứ để HĐXX trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.

Đặc điểm của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm bao gồm:

Thứ nhất, Chủ thể tiến hành hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung là Thẩm phán

( ở giai đoạn chuẩn bị xét xử) hoặc HĐXX ( tại phiên tòa).

Thứ hai, Chủ thể tiếp nhận hồ sơ của Tòa án để điều tra bổ sung là VKS đã ra

quyết định truy tố ( Bản Cáo trạng).

Thứ ba, Cơ sở pháp lý để Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ

sung khi có các căn cứ được quy định tại Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại

Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được.

- Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện hành

10

vi khác mà Bộ luật hình sự (BLHS) quy định là tội phạm.

- Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành

vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ

án, khởi tố bị can.

- Việc khởi tố, điều tra, truy tố có sự vi phạm nghiêm trọng về mặt thủ tục tố tụng.

Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm có ý nghĩa vô cùng

quan trọng là nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, tránh xử oan người vô

tội cũng như việc bỏ lọt tội phạm. Để từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng ( cơ quan

điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và những người tiến hành tố tụng ( Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán) đánh giá một cách khách quan, toàn diện những kết quả

đạt được hay những nguyên nhân, hạn chế để từ đó đưa những giải pháp khắc phục

những vấn đề còn tồn tại. Do đó, vừa kịp thời sửa chữa, khắc phục những tồn tại,

vừa tích lũy thêm những kinh nghiệm trong thực tiễn của hoạt động điều tra, truy tố

và xét xử.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, có thể hiểu khái niệm về hoạt động trả

hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm như sau: Trả hồ sơ để

điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm là việc Tòa án cấp sơ thẩm

trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa quyết định trả lại hồ sơ vụ án

hình sự cho Viện kiểm sát nhân dân đã ra quyết định truy tố để điều tra bổ sung

nhằm khắc phục những sai sót trong quá trình điều tra, truy tố, đảm bảo cho việc

giải quyết, xét xử vụ án hình sự được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

1.1.1.3. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Để giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai

đoạn phản ánh một hướng nhất định của hoạt động tố tụng, các giai đoạn tuy độc

lập nhưng nằm trong mối quan hệ khăng khít và tạo thành một chuỗi thống nhất.

Các giai đoạn trong tố tụng hình sự là không giống nhau, mỗi giai đoạn mang

những đặc tính riêng của nó, khác nhau về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng cũng

11

như các văn bản tố tụng quy định.

Có thể nói giai đoạn trọng tâm của quá trình tố tụng chính là giai đoạn xét xử

vụ án hình sự sơ thẩm bởi lẽ “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi

chưa có Bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Do đó, căn cứ để xác

định một người có tội hay không có tội, có phải chịu chế tài hình phạt hay không thì

đòi hỏi người đó phải được đưa ra xét xử một cách công khai tại phiên tòa ( trừ

những trường hợp pháp luật quy định phiên tòa xét xử kín) và họ có quyền xét xử ở

hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm nhưng trước hết là ở phiên tòa hình sự sơ

thẩm.

Trong Giáo trình giảng dạy bộ môn Luật tố tụng hình sự có nêu: Xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền

tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của

pháp luật. Hay theo tác giả Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công thì “Xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng, trong đó Tòa án cấp xét xử thứ nhất tiến hành

giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật”. Bên

cạnh đó các tác giả của cuốn Sổ tay Thẩm phán cũng nhìn nhận: Xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự và trong đó bao gồm ba công đoạn

chính, đó là: Nhận hồ sơ và thụ lý hồ sơ vụ án hình sự; chuẩn bị xét xử sơ thẩm và

phiên tòa hình sự sơ thẩm. Mỗi công đoạn lại bao gồm những công việc và kỹ năng

mà người tiến hành tố tụng cần phải thực hiện không giống nhau. Nhìn chung,

chúng tôi đồng tình với nhìn nhận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự dưới góc độ là một

giai đoạn tố tụng hình sự và có thể nói việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đóng vai

trò quan trọng trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự.

Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được thực hiện kể từ khi Tòa án nhận

hồ sơ vụ án do VKS cùng cấp chuyển đến và tiến hành thụ lý vụ án. Những tài liệu

được thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố đều được Hội đồng xét xử đưa ra xem

xét công khai thông qua việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Từ đó Hội đồng xét

12

xử sẽ ban hành một bản án để xác định bị cáo có phạm tội hay không? Trong

trường hợp có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì bị cáo phạm tội gì và tội đó

được quy định trong điều, khoản nào của Bộ luật hình sự? Ngoài việc ban hành Bản

án thì HĐXX còn có thẩm quyền ban hành các quyết định cần thiết khác nhằm giải

quyết vụ án như: Quyết định tạm giam; quyết định trả tự do cho bị cáo ngay tại

phiên tòa; quyết định tạm ngừng phiên tòa; quyết định hoãn phiên tòa, quyết định

khởi tố vụ án…

Với nguyên tắc hai cấp xét xử, bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm

vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm quyền

lợi của bị cáo cũng như thực hiện quyền kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát cùng cấp

và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trường hợp đối với bản án, quyết định của Tòa

án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì khi hết thời hạn kháng cáo,

kháng nghị sẽ có hiệu lực pháp luật và sẽ được thi hành.Trường hợp bản án, quyết

định có kháng cáo, kháng nghị thì sẽ được đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Do đó, có thể nói việc xét xử sơ thẩm là xét xử ở cấp đầu tiên được tiến hành theo

quy định của pháp luật. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm đều

là xét xử lần đầu bởi lẽ có những trường hợp bản án, quyết định bị hủy, sau đó đươc

chuyển trả để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại ( Điều 358, Điều 360 BLTTHS

2015).

Tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động nhằm xem xét,

đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để

từ đó ban hành các bản án, quyết định để xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay

không? Ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội? Hình phạt được áp dụng đối với

người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác trong vụ án hình

sự như: Trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng...

Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là Tòa án nhân dân cấp

huyện, Tòa án quân sự khu vực, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp

13

quân khu, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn.

Trong Bộ luật tố tụng hình sự có quy định các nguyên tắc cơ bản, đây được

coi là những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự được

ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Mặc dù quá trình giải quyết vụ án được thực

hiện thông qua các giai đoạn khác nhau nhưng nhìn chung mỗi giai đoạn đều có

chung một mục đích, đó là tìm ra sự thật khách quan của vụ án, do đó việc xác định

sự thật của vụ án có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nguyên tắc hai cấp xét xử không

được xác định là một nguyên tắc mang tính đặc thù của BLTTHS nhưng nguyên tắc

này góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính công minh, không làm oan

người vô tội, đồng thời không để lọt tội phạm trong hoạt động tố tụng hình sự. Việc

xác định sự thật khách quan của vụ án chính là việc cơ quan tiến hành tố tụng phải

làm rõ những chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và các

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo một cách khách quan,

chính xác, đầy đủ và toàn diện.

Theo Điều 15 BLTTHS 2015 thì trách nhiệm chứng minh một người có tội

hay không có tội thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền

chứng minh mình vô tội mà không phải có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội.

Trong phạm vi, quyền hạn, nhiệm vụ của mình thì cơ quan tiến hành tố tụng phải áp

dụng tất cả các biện pháp cần thiết và đúng pháp luật để làm sáng tỏ sự thật khách

quan của vụ án, giải quyết vụ án một cách toàn diện và đầy đủ, để từ đó xác định

chứng cứ nào có tội và chứng cứ nào vô tội, có những tình tiết tăng nặng và tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị coi là tội phạm.

Các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án để xác định sự thật khách quan

của vụ án thì phải có những chứng cứ chứng minh một cách khách quan, toàn diện,

đầy đủ và chính xác tất cả các vấn đề của vụ án. Chỉ khi xem xét vấn đề một cách

khách quan thì nội dung vụ án mới được làm sáng tỏ và hoàn toàn không phụ thuộc

vào ý chí chủ quan của con người. Do vậy, trong hoạt động tố tụng, người tiến hành

14

tố tụng cần hết sức tránh việc suy diễn duy ý chí trong quá trình xác định sự thật vụ

án vì nếu suy diễn sẽ là vi phạm nghiêm trọng tính khách quan của nguyên tắc này.

Để tránh sự suy diễn, đòi hỏi các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán cần phải

thu thập các tài liệu, chứng cứ hay tiến hành các hoạt động tố tụng một cách toàn

diện, đầy đủ. Trong trường hợp những người tiến hành tố tụng thực hiện các biện

pháp nghiệp vụ đáp ứng được cả ba yếu tố trên thì mới có thể thực hiện một cách

chính xác nhất nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, để

nguyên tắc này thực hiện được tốt thì đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải là

những người có năng lực, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, được đào tạo về

nghiệp vụ một cách bài bản và làm chủ được nghề nghiệp, nắm chắc những quy

định của pháp luật, đặc biệt có tư duy pháp lý cao.

Việc chứng minh tội phạm là trách nhiệm thuộc về các cơ quan tiến hành tố

tụng để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Bởi lẽ, Nhà nước thành lập ra các cơ

quan tiến hành tố tụng và giao quyền áp dụng các biện pháp đặc thù được quy định

trong BLTTHS để xác định sự thật khách quan của vụ án. Ngoài ra, để buộc một

người phải chịu trách nhiệm hình sự thì Nhà nước thông qua công cụ của mình là

các cơ quan chuyên trách phải có trách nhiệm đưa ra các căn cứ buộc tội chứng

minh họ đã thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến lợi ích chung của Nhà nước,

lợi ích của tập thể, của cá nhân, của cộng đồng. Chính vì vậy, nghĩa vụ chứng minh

tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.

1.1.2. Đặc điểm hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét

xử sơ thẩm hình sự

Một là, Tòa án cấp sơ thẩm là cơ quan duy nhất có thẩm quyền trả hồ sơ để

điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm, cụ thể là ở giai đoạn chuẩn bị

xét xử sơ thẩm thì Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa và tại phiên tòa là Hội đồng xét

xử khi thấy có các căn cứ được quy định tại Điều 280 BLTTHS năm 2015 thì có

thẩm quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho VKSND cùng cấp nhằm

15

đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng pháp luật, khách quan và toàn diện.

Hai là, Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì hoạt động trả hồ sơ để

điều tra bổ sung ở được thực hiện theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ được quy định

trong bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị quyết

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ( TANDTC), Thông tư liên tịch

… và quy trình trả hồ sơ để điều tra bổ sung về hình thức ban hành văn bản, về nội

dung văn bản và thủ tục cũng phải đảm bảo chặt chẽ theo đúng quy định trong

BLTTHS và các văn bản hướng dẫn áp dụng.

Ba là, Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực của Nhà nước, nó thể hiện mối

quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ( cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát và Tòa án) trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm đảm bảo tính đúng

đắn, khách quan, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Bốn là, Kết quả của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự là quyết định áp dụng pháp luật. Đó là việc ban hành các

Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc quyết định yêu cầu bổ sung tài liệu,

chứng cứ. Các quyết định này có hiệu lực pháp luật và được thi hành ngay mà

không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như một số quyết định tố

tụng khác.

1.1.3. Vai trò của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét

xử sơ thẩm hình sự

Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự có vai trò vô cùng quan trọng, được thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất: Đảm bảo việc xác định sự thật khách quan của vụ án, tránh bỏ lọt

tội phạm cũng như làm oan người vô tội. Qua hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ

sung, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng có điều kiện

đánh giá, tìm ra được nguyên nhân của những việc đã làm được cũng như những

16

tồn tại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Từ đó có biện pháp để kịp thời sửa

chữa, khắc phục những sai sót đồng thời tích lũy thêm được những kinh nghiệm

thực tiễn quý báu từ hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.

Thứ hai: Đảm bảo mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành

tố tụng, cụ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Đồng thời cũng thể hiện

quan hệ chế ước giữa các cơ quan này trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Sự

phối hợp, quan hệ chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng càng chặt chẽ, nhịp

nhàng thì việc giải quyết vụ án hình sự càng đảm bảo tính đúng đắn, chính xác,

khách quan, toàn diện, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi

hành về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

1.2.1. Những căn cứ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm được quy

định trong BLTTHS nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo

đúng quy định của pháp luật; bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách

quan, toàn diện, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Theo khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015 chỉ quy định nội dung “ Thẩm phán

chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung”,

còn nội dung Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra

bổ sung lại được quy định tản mạn, rải rác ở những điều luật khác có liên quan như

điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS quy định: khi kết thúc nghị án, HĐXX phải

quyết định một trong số các vấn đề luật định, trong đó có vấn đề “ Trả hồ sơ vụ án

để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng

cứ”. Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, khi xét thấy có một trong các trường hợp cần

trả hồ sơ điều tra bổ sung như giai đoạn chuẩn bị xét xử, HĐXX hoàn toàn có thể ra

quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Do đó, các trường hợp Tòa án trả hồ sơ

17

cho Viện kiểm sát nơi ra quyết định truy tố bao gồm:

Một là, Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ để điều tra bổ

sung sơ cho Viện kiểm sát trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Hai là, Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên

tòa sơ thẩm.

Cũng theo khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015 có 4 căn cứ để Tòa án trả hồ sơ

cho VKS để yêu cầu điều tra bổ sung. Các căn cứ này được hướng dẫn cụ thể tại

Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22

tháng 12 năm 2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong

việc thực hiện các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể:

Thứ nhất: Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong số những vấn

đề được quy định tại Điều 85 BLTTHS mà không thể bổ sung tại phiên tòa được.

Theo các khoản 2, 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017 thì chứng cứ để chứng

minh những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự theo điểm a khoản 1 Điều

280 BLTTHS là chứng cứ dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại

Điều 85 ( cá nhân), Điều 441 ( pháp nhân thương mại) của BLTTHS mà nếu thiếu

những chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện,

đúng pháp luật. Các chứng cứ để chứng minh bao gồm: Có hành vi phạm tội xảy ra

hay không; Thời gian, địa điểm, những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là

người thực hiện hành vi phạm tội; Có lỗi hay không có lỗi; Lỗi cố ý hay vô ý; Có

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không; Tính chất, mức độ thiệt

hại do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết

khác liên quan đến việc loại trừ, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; Xác

định tuổi đối với người dưới 18 tuổi; Vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong

đồng phạm, phạm tội có tổ chức; Xác định trách nhiệm dân sự của từng bị cáo và

chứng minh điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS: “Chứng cứ là những gì có thật, được

18

thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để

xác định có hay không có hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong

việc giải quyết vụ án”.

Chứng cứ quan trọng đối với vụ án là những chứng cứ không thể thiếu để xác

định được sự thật khách quan của vụ án như: Nếu bị cáo có tội thì là tội gì, theo

điều, khoản nào của Bộ luật hình sự; Các tài liệu có liên quan mà thiếu nó sẽ không

thể xử lý được vật chứng, không thể áp dụng hình phạt bổ sung, áp dụng các biện

pháp tư pháp cũng như việc quyết định bồi thường thiệt hại.

Điều 88 BLTTHS quy định: “ Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của

Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật,

giữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án”.

Căn cứ vào quy định trên, ngoài Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thì Tòa án

cũng có quyền thu thập chứng cứ. Tòa án tiến hành các biện pháp thu thập chứng

cứ như: triệu tập những người biết về vụ án đến phiên tòa (người làm chứng) để hỏi

và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án ( bao gồm cả những

người đã được cơ quan điều tra lấy lời khai và cả những người chưa được Cơ quan

điều tra lấy lời khai), yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ

vật, trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản... Do đó, đối với những chứng cứ

mà Tòa án không thể tự mình tiến hành thu thập được, nó đòi hỏi phải có nghiệp vụ

điều tra mới thu thập được thì Tòa án buộc phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung

cho Viện kiểm sát. Theo quy định tại Điều 88 BLTTHS thì ở mỗi giai đoạn khác

nhau các cơ quan tiến hành tố tụng cách thức thu thập chứng cứ khác nhau và Tòa

án có thẩm quyền thu thập tài liệu, chứng cứ nhưng thẩm quyền cụ thể và cách thức

thu thập chứng cứ như thế nào thì lại phải căn cứ vào quy định của BLTTHS trong

từng giai đoạn tố tụng giải quyết vụ án hình sự ( điều tra, truy tố, xét xử). Trong

trường hợp những người mà chưa được Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát lấy lời

19

khai, tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán thấy rằng cần

thiết phải lấy lời khai của họ hoặc cần thiết phải triệu tập họ đến phiên tòa thì Thẩm

phán có quyền lấy lời khai bổ sung hoặc HĐXX có thể hỏi người đó. Tuy nhiên cần

phải hết sức lưu ý và thận trọng khi sử dụng lời khai đó làm chứng cứ bởi lẽ lời

khai đó chỉ được coi là chứng cứ khi nó phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có

trong hồ sơ của vụ án. Trường hợp lời khai đó không phù hợp, thậm chí là trái

ngược với các tài liệu, chứng cứ khác thì cần phải cân nhắc thật chặt chẽ, có thể

không coi đó là chứng cứ hoặc phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu làm rõ sự

khác nhau đó. Do đó, Tòa án tự mình thu thập chứng cứ và bổ sung chứng cứ quan

trọng tại phiên tòa là rất khó khăn nên ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được

phân công chủ tọa phiên tòa cần phải có trách nhiệm, tập trung cao độ để nghiên

cứu thật kỹ hồ sơ vụ án từ nội dung tố tụng cho đến nội dung vụ án để trên cơ sở đó

biết được những chứng cứ nào còn thiếu cần phải bổ sung và những chứng cứ nào

không thể bổ sung tại phiên tòa được để tránh trường hợp phiên tòa phải hoãn, tạm

ngừng, đặc biệt là HĐXX phải trả hồ sơ để điều tra ngay tại phiên tòa.

Thứ hai: Khi có căn cứ cho rằng bị can hoặc bị cáo còn thực hiện hành vi

khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Với quy định này có thể có hai

trường hợp xảy ra:

- Viện kiểm sát đã truy tố bị can về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong

hồ sơ lại cho thấy hành vi của bị can, bị cáo đã thực hiện cấu thành một hay nhiều

tội khác.

- Ngoài hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, chứng cứ lại cho thấy

còn có căn cứ để khởi tố bị can, bị cáo về một hay nhiều tội khác.

Tuy nhiên, có một vài trường hợp bị can, bị cáo có thực hiện hành vi khác mà

Bộ luật hình sự quy định là tội phạm nhưng Tòa án không trả hồ sơ điều tra bổ

20

sung, đó là:

+ Trường hợp Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ lại

cho thấy có thể xử bị can, bị cáo về một hay nhiều tội khác tương ứng bằng hoặc

nhẹ hơn, xử ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố.

+ Đã có quyết định tách vụ án hoặc có căn cứ để tách vụ án nếu xét thấy việc

tách vụ án đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện và

đã có quyết định tạm đình chỉ vụ án ( khoản 2 Điều 242 BLTTHS).

Thứ ba: Khi có căn cứ cho rằng còn đồng phạm khác hoặc có người khác

thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa

được khởi tố vụ, khởi tố bị can.

Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên

tòa hoặc Hội đồng xét xử phát hiện vụ án còn có đồng phạm khác hoặc có người

khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm thì ra quyết định trả hồ sơ

cho Viện kiểm sát để điều tra, truy tố lại. Việc xác định có thêm người phạm tội

nhưng người này phải là đồng phạm với người đã bị truy tố hoặc người khác không

phải đồng phạm với người đã truy tố thì Tòa án trả hồ sơ.

Điều 17 Bộ luật hình sự quy định đồng phạm là trường hợp có hai người trở

lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Người đồng phạm là một trong những người

sau đây: người giúp sức, người xúi giục, người tổ chức, người thực hành. Người

giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm;

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm;

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm; Người

thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Còn phạm tội có tổ chức là một

hình thức đồng phạm nhưng có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội

phạm.

Thứ tư: Khi việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố

tụng. “ Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” được hiểu là trong quá trình điều tra,

21

truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã không thực

hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS

quy định, nên đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những

người tham gia tố tụng hoặc ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ

án ( khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-

TANDTC). Các trường hợp cụ thể được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

được liệt kê trong khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-

TANDTC-BCA-BQP như sau:

+ Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải

có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát

hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;

+ Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho

người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng

trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi

ích hợp pháp của họ;

+ Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người

đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều

242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng

gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị

buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật

xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị

buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;

+ Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm

22

quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch hoạt động

của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến

hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại);

+ Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng

trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể

hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều

70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố

tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các Điều 49, 51, 52, 53,

54, 68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng

trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng

minh trong vụ án hình sự;

+ Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến

vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88

của Bộ luật Tố tụng hình sự;

+ Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình

điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn

đến sai lệch hồ sơ vụ án;

+ Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

+ Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến

hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;

+ Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác

không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến

quyền, lợi ích hợp pháp của họ;

+ Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều

23

tra bổ sung.

Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử phát hiện có sự vi phạm

nghiêm trọng về mặt thủ tục tố tụng ở giai đoạn điều tra, tuy tố như: Các biên bản

tố tụng hình sự được lập không đúng quy định; Không có người chứng kiến trong

quá trình điều tra mà theo quy định của BLTTHS thì bắt buộc phải có người chứng

kiến; không có người bào chữa mà quy định của BLTTHS thì bắt buộc phải có

người bào chữa cho bị can; Có hành vi ép cung, bức cung, nhục hình đối với bị can;

Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong khi người bị hại không có yêu

cầu mà theo quy định của BLTTHS thì chỉ được phép khởi tố khi có yêu cầu của

người bị hại…

Trong một số trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng Cơ quan

điều tra, Viện kiểm sát không thể khắc phục được như: khám nghiệm hiện trường,

khám nghiệm tử thi, xác định nồng độ cồn trong máu, xác định tốc độ của phương

tiện… thì trả hồ sơ để điều tra bổ sung là không khả thi, do đó Tòa án không nên trả

hồ sơ để điều tra bổ sung mà căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và kết

quả thẩm vấn tại phiên tòa để giải quyết vụ án.

Đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho

rằng bị can, bị cáo phạm tội khác nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố thì thực

hiện thế nào?

Theo quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 02/2017, trường hợp Tòa án

trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo phạm tội khác

nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố thì thực hiện như sau:

- Trường hợp phải thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi

tố bị can về tội danh khác nặng hơn thì VKS trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều

tra bổ sung, thay đổi tội danh và ban hành bản kết luận điều tra kết luận về tội danh

khác nặng hơn;

- Trường hợp VKS đã yêu cầu Cơ quan điều tra nhưng Cơ quan điều tra

24

không thực hiện thì VKS tự mình ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án

hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn và yêu cầu Cơ quan

điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 156 và Điều 180 BLTTHS.

1.2.2. Thẩm quyền, thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung của

Tòa án

1.2.2.1. Thẩm quyền, thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung

của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

Thứ nhất: Về thẩm quyền: Căn cứ vào khoản 1 Điều 280 BLTTHS, Thẩm

phán được phân công chủ tọa phiên tòa là người có thẩm quyền ra quyết định trả hồ

sơ điều tra bổ sung cho VKS. Nội dung yêu cầu điều tra bổ sung phải được ghi rõ

trong quyết định.

Thứ hai: Về thủ tục trả hồ sơ: Trước tiên, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ,

nếu phát hiện một trong các căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Thẩm phán phải

trao đổi với Kiểm sát viên để có biện pháp khắc phục mà không cần trả hồ sơ. Nếu

Kiểm sát viên phát hiện có căn cứ trả hồ sơ thì có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ.

Quyết định trả hồ sơ phải gửi cho VKS cùng cấp kèm theo hồ sơ trong thời hạn 03

ngày kể từ ngày ra quyết định.

Thứ ba: Về số lần Tòa án được trả hồ sơ để điều tra bổ sung: Theo quy định

tại khoản 2 Điều 174 BLTTHS, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ

điều tra bổ sung 01 lần.

Thứ tư: Về thời hạn điều tra bổ sung: Theo khoản 2 Điều 174 BLTTHS,

trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không

quá 01 tháng tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ và yêu cầu điều tra. Vấn

đề đặt ra là Luật không có quy định thời hạn VKS chuyển hồ sơ và quyết định điều

tra bổ sung cho Cơ quan điều tra bởi Tòa án trả hồ sơ cho VKS chứ không trả trực

tiếp cho Cơ quan điều tra. Liên quan đến vấn đề này, Thông tư liên tịch số 02/2017

25

đã có quy định hướng dẫn, tuy nhiên cũng chỉ dừng lại ở quy định chung chung là “

Viện kiểm sát ra quyết định… chuyển ngay cho cơ quan điều tra…”. Vậy, “ ngay”

là bao lâu hiện nay vẫn chưa được giải thích cụ thể.

1.2.2.2. Thẩm quyền, thủ tục, số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa

hình sự sơ thẩm

Hiện nay pháp luật tố tụng hình sự vẫn chưa có quy định cụ thể về căn cứ

cũng như thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa xét xử sơ thẩm.

Tuy nhiên khoản 6 Điều 326 BLTTHS lại quy định rằng khi kết thúc nghị án,

HĐXX phải quyết định một trong các vấn đề luật định, trong đó có vấn đề “ Trả hồ

sơ vụ án để VKS điều tra bổ sung; yêu cầu VKS bổ sung tài liệu, chứng cứ”. Như

vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, khi xét thấy có một trong các trường hợp cần trả hồ sơ

để điều tra bổ sung như giai đoạn chuẩn bị xét xử thì HĐXX hoàn toàn có thể ra

quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Thứ nhất: Về thẩm quyền: Hội đồng xét xử có thẩm quyền ra quyết định trả

hồ sơ bổ sung cho VKS. Nội dung yêu cầu điều tra bổ sung phải được ghi rõ trong

quyết định.

Thứ hai: Về thủ tục trả hồ sơ: Theo quy định tại Thông tư liên tịch số

02/2017 thì việc trả hồ sơ phải lập thành văn bản, có chữ ký của người có thẩm

quyền và ghi rõ nội dung cần điều tra bổ sung, những vi phạm thủ tục tố tụng cần

khắc phục. Sau khi nhận được hồ sơ và quyết định trả hồ sơ của Tòa án, nếu xét

thấy không thể tự bổ sung, VKS phải chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, nếu thấy

quyết định trả hồ sơ của Tòa án không có căn cứ thì VKS gửi văn bản nêu rõ lý do

và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án. Đối với cơ quan điều tra, sau khi nhận được hồ sơ

phải tiến hành điều tra những nội dung trong quyết định. Sau khi kết thúc điều tra

phải ra Bản kết luận điều tra bổ sung. Tùy thuộc vào kết luận điều tra, VKS thông

báo, gửi văn bản cho Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

Thứ ba: Về số lần trả hồ sơ của HĐXX tại phiên tòa sơ thẩm: Theo quy định

26

khoản 2 Điều 174 BLTTHS, HĐXX chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần.

Như vậy, vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung trong pháp luật tố tụng hình sự

nước ta đã ngày càng chi tiết và đầy đủ hơn, đáp ứng yêu cầu, diễn biến ngày càng

phức tạp của tội phạm.

1.2.2.3. Thời hạn chuẩn bị xét xử của Tòa án sau khi trả hồ sơ để điều tra

bổ sung

Theo hướng dẫn tại Mục 4 Phần I Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày

08/12/1988 của TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong

BLTTHS thì “ Khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát thì Tòa

án phải tiến hành xóa sổ thụ lý, Viện kiểm sát ghi việc Tòa án trả hồ sơ vào sổ thụ

lý của mình. Khi nhận lại hồ sơ, Tòa án thụ lý lại. Ngày chuyển hồ sơ cho Viện

kiểm sát và ngày thụ lý lại cũng được đóng dấu ( hoặc ghi) vào bìa hồ sơ; do đó, đối

với quyết định đưa vụ án ra xét xử trước đó Tòa án không phải giải quyết gì mà vẫn

được lưu trong hồ sơ vụ án. Sau khi Viện kiểm sát đã điều tra bổ sung hoặc không

bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung và chuyển hồ sơ vụ

án cho Tòa án thì Tòa án thụ lý lại và giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Khi nhận

lại hồ sơ trong thời hạn 15 ngày, Tòa án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử”.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 277 BLTTHS: “ Đối với vụ án được trả lại

để yêu cầu điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ,

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử”. Như vậy, thời

hạn để Tòa án nghiên cứu hồ sơ và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử là 15 ngày,

việc “ kéo dài” thời hạn chỉ có thể xem xét đối với thời hạn mở phiên tòa sau khi đã

có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 277 BLTTHS (

thêm được 15 ngày).

1.2.2.4. Hệ quả của việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Đối với các trường hợp Tòa án trả hồ sơ cho VKS được quy định tại Điều

27

280 BLTTHS có tính chất tương tự so với việc VKS trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra

để điều tra bổ sung. Tuy nhiên về hệ quả của việc trả hồ sơ có các trường hợp sau

đây:

Thứ nhất, nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến việc đình chỉ vụ án thì VKS

ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết trong thời hạn 03 ngày kể

từ ngày ra quyết định, căn cứ ra quyết định đình chỉ quy định tại Điều 248

BLTTHS.

Thứ hai, nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố

thì VKS ban hành Bản cáo trạng mới thay thế Bản cáo trạng trước đó. Trường hợp

VKS không thể bổ sung được thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố trước đó và Tòa

án tiến hành xét xử.

Thứ ba, nếu xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì

VKS có thể tự mình tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng

cứ bị thiếu. Nếu không tự mình điều tra được thì VKS chuyển ngay hồ sơ cho Cơ

quan điều tra ( điều này khác với quy định của BLTTHS 2003 vì BLTTHS 2003

không quy định rõ trình tự trả hồ sơ vụ án của Tòa án cho VKS và VKS có thể tiếp

tục trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra).

Kết luận chương 1

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về trả

hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các nội dung

chính là: Đưa ra một số khái niệm; nguyên tắc xác định sự thật vụ án; mối quan hệ

giữa TAND và VKSND; khái niệm và đặc điểm Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ

sung.

Đối với nội dung thứ nhất, chúng tôi đã làm rõ được khái niệm về hồ sơ vụ án

hình sự, điều tra bổ sung và xét xử sơ thẩm.

Đối với nội dung thứ hai, chúng tôi đã phân tích nguyên tắc xác định sự thật của

vụ án được công minh, không để lọt tội phạm, đồng thời không làm oan người vô

28

tội.

Đối với nội dung thứ ba, chúng tôi đã phân tích đặc điểm của hoạt động trả hồ sơ

để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.

Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự

của Tòa án nhân dân là một lĩnh vực của áp dụng pháp luật nói chung. Các vấn đề

về lý luận: căn cứ, thẩm quyền, trình tự thủ tục, số lần, thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ

sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự đã được phân tích để làm cơ sở cho việc

đánh giá thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh

29

Quảng Ninh (trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2020 ) ở chương 2.

Chương 2

THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN

XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân

tỉnh Quảng Ninh

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh

Quảng Ninh là một tỉnh ở địa đầu phía đông bắc Việt Nam, phía tây tựa lưng

vào núi rừng trùng điệp, phía đông nghiêng xuống nửa phần đầu vịnh Bắc bộ với bờ

biển khúc khuỷu nhiều cửa sông.

Quảng Ninh có toạ độ địa lý khoảng 106o26' đến 108o31' kinh độ đông và từ

20o40' đến 21o40' vĩ độ bắc. Bề ngang từ đông sang tây, nơi rộng nhất là 195km. Bề

dọc từ bắc xuống nam khoảng 102km. Điểm cực bắc là dãy núi cao thuộc thôn Mỏ

Toòng, xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu. Điểm cực nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã

Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Điểm cực tây là sông Vàng Chua ở xã Bình Dương và

xã Nguyễn Huệ, TX Đông Triều. Điểm cực đông trên đất liền là mũi Gót ở đông

bắc xã Trà Cổ, TP Móng Cái.

Quảng Ninh có biên giới quốc gia và hải phận giáp giới nước Cộng hoà Nhân

dân Trung Hoa. Trên đất liền, phía bắc của tỉnh (có các huyện Bình Liêu, Hải Hà và

TP Móng Cái) giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây với

132,8km đường biên giới; phía đông là vịnh Bắc Bộ; phía tây giáp các tỉnh Lạng

Sơn, Bắc Giang, Hải Dương; phía nam giáp Hải Phòng. Bờ biển dài 250km.

Diện tích tự nhiên toàn tỉnh Quảng Ninh là tính đến ngày 1-10-1998 là

611.081,3 ha. Trong đó đất nông nghiệp 243.833,2 ha, đất chuyên dùng 36.513 ha,

đất ở 6.815,9 ha, đất chưa sử dụng 268.158,3 ha.

Quảng Ninh là tỉnh miền núi - duyên hải. Hơn 80% đất đai là đồi núi. Hơn

30

hai nghìn hòn đảo nổi trên mặt biển cũng đều là các quả núi.

Vùng núi chia làm hai miền: Vùng núi miền Đông từ Tiên Yên qua Bình

Liêu, Hải Hà, Đầm Hà đến Móng Cái. Đây là vùng nối tiếp của vùng núi Thập Vạn

Đại Sơn từ Trung Quốc, hướng chủ đạo là đông bắc - tây nam. Có hai dãy núi

chính: dãy Quảng Nam Châu (1.507m) và Cao Xiêm (1.330m) chiếm phần lớn diện

tích tự nhiên các huyện Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà, dãy Ngàn Chi (1.166m) ở phía

bắc huyện Tiên Yên. Vùng núi miền tây từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ, phía

bắc thị xã Uông Bí và thấp dần xuống ở phía bắc huyện Đông Triều. Vùng núi này

là những dãy nối tiếp hơi uốn cong nên thường được gọi là cánh cung núi Đông

Triều với đỉnh Yên Tử (1.068m) trên đất Uông Bí và đỉnh Am Váp (1.094m) trên

đất Hoành Bồ.

Vùng trung du và đồng bằng ven biển gồm những dải đồi thấp bị phong hoá

và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân núi thấp dần xuống các triền

sông và bờ biển. Đó là vùng Đông Triều, Uông Bí, bắc Yên Hưng, nam Tiên Yên,

Đầm Hà, Hải Hà và một phần Móng Cái. ở các cửa sông, các vùng bồi lắng phù sa

tạo nên những cánh đồng và bãi triều thấp. Đó là vùng nam Uông Bí, nam Yên

Hưng (đảo Hà Nam), đông Yên Hưng, Đồng Rui (Tiên Yên), nam Đầm Hà, đông

nam Hải Hà, nam Móng Cái. Tuy có diện tích hẹp và bị chia cắt nhưng vùng trung

du và đồng bằng ven biển thuận tiện cho nông nghiệp và giao thông nên đang là

những vùng dân cư trù phú của Quảng Ninh.

Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng địa hình độc đáo. Hơn hai

nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/ 2779), đảo trải dài theo đường

ven biển hơn 250km chia thành nhiều lớp. Có những đảo rất lớn như đảo Cái Bầu,

Bản Sen, lại có đảo chỉ như một hòn non bộ. Có hai huyện hoàn toàn là đảo là

huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô. Trên vịnh Hạ Long và Bái Tử Long có hàng ngàn

đảo đá vôi nguyên là vùng địa hình karst bị nước bào mòn tạo nên muôn nghìn hình

31

dáng bên ngoài và trong lòng là những hang động kỳ thú.

Vùng ven biển và hải đảo Quảng Ninh ngoài những bãi bồi phù sa còn những

bãi cát trắng táp lên từ sóng biển. Có nơi thành mỏ cát trắng làm nguyên liệu cho

công nghệ thuỷ tinh (Vân Hải), có nơi thành bãi tắm tuyệt vời (như Trà Cổ, Quan

Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng...).

Địa hình đáy biển Quảng Ninh, không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20m.

Có những lạch sâu là di tích các dòng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi

sinh trưởng các rạn san hô rất đa dạng. Các dòng chảy hiện nay nối với các lạch sâu

đáy biển còn tạo nên hàng loạt luồng lạch và hải cảng trên dải bờ biển khúc khuỷu

kín gió nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên một tiềm năng cảng biển và

giao thông đường thuỷ rất lớn.

Tỉnh Quảng Ninh có 13 đơn vị hành chính, trong đó có 04 thành phố, 02 thị

xã và 08 huyện. Trong 13 đơn vị hành chính thì tỉnh Quảng Ninh có 02 huyện đảo

đó là huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô.

Về dân cư: dân số toàn tỉnh Quảng Ninh đạt 1.320.324 người, mật độ dân số

đạt 198 người/km².Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 845.805 người, chiếm

64,1% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 474.519 người, chiếm 35,9%

dân số. Dân số nam đạt 671.522 người, trong khi đó nữ đạt 648.802 người. Dân cư

Quảng Ninh tập trung chủ yếu ở bốn thành phố và hai thị xã, là các trung tâm của

ngành công nghiệp khai thác than, du lịch và cửa khẩu của Việt Nam, phần 8 huyện

còn lại dân cư tương đối thưa thớt, sống chủ yếu bằng nghề nông.

Tỉnh Quảng Ninh có 22 dân tộc anh em. Trong đó, người kinh đông nhất với

1.011.794 người, tiếp sau đó là người Dao đông thứ nhì với 59.156 người, ngưoời

Tày 35.010 người, người Sán Dìu có 17.946 người, người Sán Chay có 13.786

người, người Hoa có 4.375 người. Ngoài ra còn có các dân tộc ít người như người

32

Nùng, người Mường, người Thái...

Quá trình thành lập và hoạt động: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thành

lập năm 1959. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thực hiện nhiệm vụ xét xử, giải

quyết các loại án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân tỉnh Quảng Ninh

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh hiện nay có 7 Tòa, Phòng gồm: Tòa Hình

sự; Tòa Dân sự; Tòa Gia đình và người chưa thành niên; Tòa Hành chính, Văn

phòng, Phòng TCCB, TTr & TĐKT; Phòng KTNV &THA và 13 Tòa án nhân dân

cấp huyện trực thuộc. Tổng biên chế toàn ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh

là 265 công chức và người lao động (công chức 224 người, người lao động 41

người) gồm: 100 Thẩm phán, 96 Thư ký, 14 Thẩm tra viên và 14 chức danh khác.

Trong đó, TAND tỉnh Quảng Ninh có 58 cán bộ công chức và người lao động gồm:

01 Thẩm phán cao cấp, 14 Thẩm phán trung cấp, 08 Thẩm tra viên, 22 Thư ký, 06

chức danh khác và 07 hợp đồng 68.

Số lượng biên chế hiện có của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã

tuyển dụng, bố trí, sắp xếp đủ theo Quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối

cao. Ngoài số biên chế trên, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh còn có đội ngũ Hội

thẩm nhân dân gồm 230 người, trong đó có 35 Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân

dân tỉnh và 195 Hội thẩm nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố.

Tóm lại: Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Ninh tác động cả theo chiều hướng tích cực và tiêu cực tới

hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm án hình sự. Tuy

nhiên, sự tác động hiện nay chủ yếu là tác động tiêu cực và gây khá nhiều khó khăn

cho hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm án hình sự

của TAND tỉnh Quảng Ninh.

2.1.3. Thực trạng Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử

33

sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh

2.1.3.1. Ưu điểm trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn

xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh

Bảng 3.1. Các căn cứ được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh áp dụng

để trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự

( Từ năm 2015 đến năm 2020)

Đơn vị tính: Vụ

Năm Tổng Theo điểm a Tỷ Theo điểm b Tỷ Theo điểm c Tỷ Theo Tỷ

số vụ khoản 1 Điều lệ khoản 1 Điều lệ khoản 1 Điều lệ căn lệ

trả 179 (điểm a % 179 ( điểm b, c % 179 ( điểm d % cứ %

hồ sơ khoản 1 Điều khoản 1 Điều khoản 1 Điều khác

280) BLTTHS 280) BLTTHS 280) BLTTHS

0 28,4 3 4,4 0 45 67,2 67 19 2015

1,7 18,3 6 5,2 2 86 74,8 115 21 2016

5,9 13,7 3 5,9 3 38 74,5 51 7 2017

6,1 15 1 3,1 2 25 75,8 33 5 2018

2,8 16,7 2 5,5 1 27 75 36 6 2019

8,8 20,6 2 5,9 3 22 64,7 34 7 2020

19,3 72,3 Tổng 336 243 17 5,1 11 3,3 65

( Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến

năm 2020)

Về lý do trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

Trong 336 vụ Tòa án đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung có

243 vụ trả hồ sơ vì cần xem xét những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không

thể bổ sung tại phiên tòa được ( theo điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003, hay

quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015: Khi thiếu chứng cứ dùng để

34

chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 BLTTHS 2015 mà không

thể bổ sung được tại phiên tòa), chiếm tỷ lệ 72,3%; 65 vụ trả hồ sơ vì có căn cứ cho

rằng bị cáo phạm tội khác hoặc có đồng phạm khác ( quy định tại điểm b khoản 1

Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm b, c khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015: Có căn

cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà

BLHS quy định là tội phạm; Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có

người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án

nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can), chiếm tỷ lệ 19,3%; 17 vụ trả hồ sơ

để điều tra bổ sung vì phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ( quy định

tại điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm d khoản 1 Điều 280

BLTTHS 2015), chiếm tỷ lệ 5,1%; 11 vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì căn cứ

khác, chiếm tỷ lệ 3,3%. ( Tỷ lệ trên cũng thay đổi theo từng năm).

Bảng 3.2. Số vụ án Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh đã trả hồ sơ để

điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự

( Từ năm 2015 đến năm 2020)

Đơn vị tính: Vụ

Năm Tổng số vụ án hình sự sơ thẩm Tòa Số vụ án Tòa án trả hồ Tỷ lệ %

án đã giải quyết, xét xử sơ để điều tra bổ sung

1.710 67 3,9 2015

1.696 115 6,8 2016

1.689 51 3,0 2017

1.745 33 1,9 2018

1.834 36 2,0 2019

1.856 34 1,8 2020

10.530 336 3,2 Tổng

( Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến

35

năm 2020)

Từ năm 2015 đến năm 2020, hai cấp xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Ninh đã lựa chọn và quyết định trả hồ sơ cho VKSND tỉnh và VKSND cấp huyện

để điều tra bổ sung 336 vụ/10.530 vụ án hình sự sơ thẩm đã giải quyết, xét xử,

chiếm tỷ lệ 3,2%. Tỷ lệ số vụ án Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trên tổng số

vụ án đã giải quyết, xét xử thay đổi theo từng năm, cụ thể: Năm 2015 chiếm tỷ lệ

3,9%; năm 2016 tăng lên 6,8%; năm 2017 giảm xuống còn 3,0%; năm 2018 giảm

xuống còn 1,9%; năm 2019 tăng nhẹ lên 2,0% và giảm xuống còn 1,8% vào năm

2020.

Trong tổng số 336 vụ án Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tòa án cấp tỉnh

đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung 85 vụ; các Tòa án nhân dân cấp huyện đã trả hồ sơ

để điều tra bổ sung 251 vụ. Ở cấp tỉnh Toà Hình sự là đơn vị trả hồ sơ nhiều nhất

(85 vụ). Ở cấp huyện, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long là đơn vị trả hồ sơ nhiều

nhất ( 98 vụ), Tòa án nhân dân huyện Cô Tô là đơn vị trả hồ sơ ít nhất ( 01 vụ).

Trong 336 vụ, Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung do Thẩm phán chủ

tọa phiên tòa trả trong thời hạn chuẩn bị xét xử là 312 vụ, chiếm tỷ lệ 92,9%; có 24

vụ do Hội đồng xét xử ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung, trả hồ sơ cho Viện

kiểm sát tại phiên tòa, chiếm tỷ lệ 7,1%. Các loại tội thường được trả hồ sơ nhiều

lần để điều tra bổ sung là: Cố ý gây thương tích; Giết người; Trộm cắp tài sản; Vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; Cướp tài sản; Còn lại là các loại

tội khác như: Đánh bạc; Gây rối trật tự công cộng; Buôn lậu; Tàng trữ trái phép

chất ma túy; Mua bán trái phép chất ma túy; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Hủy hoại tài sản…

Bảng 3.3. Số vụ án Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh đã trả hồ sơ để

điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự được Viện kiểm sát

chấp nhận ( Từ năm 2015 đến năm 2020)

36

Đơn vị tính: Vụ

Năm Số vụ án Tòa án trả hồ sơ để Số vụ trả hồ sơ được Viện Tỷ lệ %

điều tra bổ sung kiểm sát chấp nhận

67 64 95,5 2015

115 113 98,3 2016

51 50 98 2017

33 33 100 2018

36 35 97 2019

34 33 97,1 2020

336 328 97,6 Tổng

( Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến

năm 2020)

Trong tổng số 336 vụ đã được Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung có 328 vụ

án được VKS chấp nhận điều tra theo yêu cầu của Tòa án, chiếm tỷ lệ 97,6%. Tỷ lệ

số vụ án trả hồ sơ được Viện kiểm chấp nhận cũng thay đổi theo từng năm, cụ thể:

Năm 2015, tỷ lệ là 95,5%; năm 2016, tỷ lệ là 98,3%; năm 2017, tỷ lệ là 98%; năm

2018, tỷ lệ là 100%; năm 2019, tỷ lệ là 97%; năm 2020, tỷ lệ là 97,1%.

Bảng 3.4. Kết quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Quảng Ninh ( Từ năm 2015 đến năm 2020)

Đơn vị tính: Vụ

Năm VKS chấp nhận VKS chấp VKS không chấp VKS không chấp

yêu cầu điều tra nhận yêu nhận yêu cầu điều nhận yêu cầu điều

bổ sung; sau khi cầu điều tra tra bổ sung; Tòa tra bổ sung; Tòa án

điều tra bổ sung, bổ sung và án đưa vụ án ra đưa vụ án ra xét xử

Tòa án đưa vụ đình chỉ vụ xét xử và kiến nhưng không kiến

án ra xét xử nghị trong bản án nghị trong bản án án

37

62 2 1 2 2015

108 5 1 1 2016

49 1 1 0 2017

32 1 0 0 2018

34 1 1 0 2019

32 1 1 0 2020

317 11 6 2 Tổng

( Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến

năm 2020)

Về kết quả trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án: Trong tổng số 336 vụ án

đã được Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát, có 317 vụ được

Viện kiểm sát chấp nhận, thực hiện điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án, sau

khi nhận lại hồ sơ đã điều tra bổ sung, Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Có 11 vụ được

Viện kiểm sát chấp nhận, thực hiện điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và kết

quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án. Có 06 vụ án Viện kiểm sát không chấp

nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án, giữ nguyên quan điểm truy tố và chuyển

lại hồ sơ cho Tòa án, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử và kiến nghị trong bản án về

những yêu cầu điều tra bổ sung không được Viện kiểm sát thực hiện. Có 02 vụ án

Viện kiểm sát không chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án, giữ nguyên

quan điểm truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử

nhưng không có kiến nghị trong bản án về những yêu cầu điều tra bổ sung không

được Viện kiểm sát thực hiện. (Số liệu trên cũng có sự thay đổi theo từng năm).

Đánh giá chung về ưu điểm của các trường hợp Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh

Quảng Ninh đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

Thứ nhất, các Tòa án đã áp dụng đúng đắn và chỉ rõ các trường hợp cần trả

hồ sơ để điều tra bổ sung vì cần xem xét thêm các chứng cứ quan trọng đối với vụ

án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được ( theo điểm a khoản 1 Điều 179

38

BLTTHS 2003 hay chính là quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015:

Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều

85 BLTTHS 2015):

Đây là những trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều nhất,

chiếm tỷ lệ 72,3% các trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tỷ lệ trả hồ

sơ để điều tra bổ sung thuộc trường hợp này thay đổi theo từng năm, cụ thể: Năm

2015 chiếm tỷ lệ 67,2% các trường hợp trả hồ sơ; năm 2016 tăng lên 74,8%; năm

2017 giảm nhẹ xuống 74,5%; năm 2018 tăng lên 75,8%; năm 2019 giảm nhẹ xuống

75%; năm 2020 giảm xuống còn 64,7%.

Việc trả hồ sơ trong những trường hợp này có nguyên nhân chủ yếu là do

thiếu những chứng cứ quan trọng như: Để xác định năng lực chịu trách nhiệm hình

sự, xác định tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự, trách nhiệm bồi thường dân sự, xác định lại hiện trường vụ án, xác

định tên, tuổi của người bị hại mà không thể bổ sung, làm rõ tại phiên tòa được.

Ví dụ vụ án cụ thể:

Chiều 09/9/2019, Đinh Văn Nhường (có giấy phép lái xe hạng C) điều khiển

xe ôtô tải ISUZU, BKS 99C-161.03, đi từ huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương qua địa

phận thị xã Đông Triều (để đến huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang), ghế phụ bên phải

trong cabin có chị Vũ Thị Hà, là vợ của Nhường. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Nhường

điều khiển xe ôtô đi đến Km 48+500, Quốc lộ 18, thuộc thôn Bắc Mã, xã Bình

Dương, thị xã Đông Triều (theo lời khai của Nhường, thì tốc độ xe ôtô lúc này là

khoảng 40km/h). Khi xe ôtô đến khu vực đường giao nhau giữa Quốc lộ 18 với Tỉnh

lộ 345 đi huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang thì Nhường giảm tốc độ, bật tín hiệu đèn

xi nhan bên trái của xe ôtô để báo hướng rẽ. Lúc này, ở làn đường bên phải của phần

đường ngược chiều có xe môtô YAMAHA SIRIUS, BKS 19G1 - 282.17, do anh

Nguyễn Văn Quang, sinh năm 1996 điều khiển chở phía sau là anh Khởi cùng trú tại

xã Bình Dương, thị xã Đông Triều đang di chuyển theo hướng thị xã Đông Triều,

39

tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nhưng Nhường không

nhường đường cho xe môtô đi ngược chiều, mà tiếp tục điều khiển xe ôtô chuyển

hướng rẽ trái sang phần đường của xe ngược chiều, để đi vào Tỉnh lộ 345. Khi toàn

bộ xe ôtô của Nhường đã di chuyển sang phần đường của xe ngược chiều, thì xe

môtô do anh Quang điều khiển đi đến. Do xe ôtô của Nhường đã chắn hết làn đường

xe anh Quang đang đi, dẫn đến đầu xe môtô do anh Quang điều khiển đâm vào

thành bên phải thùng xe ôtô của Nhường, xe môtô bị đổ sang trái nằm dưới gầm sát

bánh sau bên phải của xe ôtô, còn anh Quang và anh Khởi bị ngã xuống nền đường

và văng trượt về phía sau xe ôtô. Thấy vậy, Nhường đạp phanh, xe ôtô tiếp tục trượt

rê về phía trước được 1,7m rồi dừng lại. Hậu quả: Anh Quang và anh Khởi bị thương

tích nặng, được đưa đi bệnh viện cấp cứu, điều trị. Đến ngày 01/4/2020, do thương

tích nặng anh Quang tử vong tại gia đình. Anh Khởi điều trị đến ngày 20/9/2019 thì

ra viện.

Kết quả khám nghiệm hiện trường ngày 09/9/2019, của Cơ quan cảnh sát điều tra

Công an thị xã Đông Triều, xác định: Mặt đường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông

được thảm nhựa bê tông áp phan tương đối bằng phẳng, thẳng, không có vật che

khuất tầm nhìn. Ở giữa tâm đường có vạch sơn màu vàng đứt đoạn phân chia hai

phần đường ngược chiều nhau, giữa mỗi phần đường có vạch sơn trắng đứt đoạn

rộng 0,2m, chia hai làn đường, mỗi làn đường rộng 3,5m.

Xe môtô biển kiểm soát 19G1-282.17 đổ (nằm nghiêng sang trái, dưới gầm sườn

thành thùng bên phải xe ôtô) và hai đám máu đều nằm trên phần đường hướng thị

xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Số đo dấu

vết, phương tiện được xác định như sau:

Xe ôtô biển kiểm soát 99C - 161.03 dừng đỗ (đầu xe quay hướng Đông Bắc,

phần đuôi xe quay hướng Tây Nam); dấu vết phanh kèm theo dấu vết trượt xước

trên mặt đường dài 1,7m (đầu dấu vết phanh kèm theo dấu vết trượt xước cách mép

ngoài vạch sơn màu vàng đứt đoạn giữa tâm đường 04m); Tâm trục lốp sau bên

40

phải xe ôtô cách mép ngoài vạch sơn màu vàng đứt đoạn giữa tâm đường là 4,5m.

Tâm trục lốp trước bên trái xe ôtô cách mép đường bên phải đường ra vào tỉnh lộ

345 về phía Tây 2,1m. Tâm trục lốp sau bên trái xe ôtô cách mép bên phải đường ra

vào tỉnh lộ 345 về phía Bắc 1,9m.

Tâm đám máu thứ nhất cách tâm trục lốp sau bên phải xe ôtô 1,2m cách tâm

đám máu thứ hai là 0,8m; Tâm đám máu thứ hai cách mép ngoài vạch sơn màu

vàng đứt đoạn giữa tâm đường về hướng Nam là 2,3m.

Kết quả khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông:

Xe ôtô biển kiểm soát 99C - 161.03: Tôn thành thùng xe khoang thứ nhất bên

phải bị bẹp lõm, có vết trượt chùi bụi đất kích thước (82 x 88)cm, điểm đầu vết

cách đầu xe ôtô về phía bên phải là 2,6m cách mặt đất là 1,3m; Sắt xi thành thùng

xe khoang thứ nhất bên phải và sắt xi sàn thùng xe có vết trượt xước sơn kim loại,

bám dính chất màu đen dài 1,95m điểm cuối cách mặt đất 83cm (chiều hướng đều

từ trước về sau, từ trái qua phải). Mép dưới phần chắn bùn lốp sau bằng kim loại bị

đẩy cong theo hướng từ trước về sau, từ phải sang trái.

Xe môtô biển kiểm soát 19G1 - 282.17: Toàn bộ dấu vết hư hỏng hầu hết

nằm ở phần đầu xe môtô, có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều đã thực nghiệm điều tra

xác định khả năng quan sát, thể hiện: Thời điểm 21 giờ, ánh sáng điện đường tương

tự thời điểm xảy ra tai nạn, người ngồi trên ghế lái điều khiển xe ô tô nhãn hiệu

ISUZU, biển kiểm soát 99C-161.03 quan sát được các phương tiện xe mô tô đang di

chuyển ở phần đường ngược chiều từ khoảng cách 100m trở lại.

Dựng lại hiện trường để xác định vị trí xe ô tô tải biển kiểm soát 99C-161.03 và

xe môtô biển kiểm soát 19G1-282.17 tại thời điểm 02 (hai) phương tiện này va

chạm với nhau, kết quả xác định: Tại thời điểm xảy ra va chạm xe môtô biển kiểm

soát 19G1-282.17 đi trên làn đường bên phải của phần đường (hướng thị xã Đông

Triều, tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Trục bánh trước

41

và trục bánh sau của xe mô tô biển kiểm soát 19G1-282.17, lần lượt cách tâm

đường là 5,15m và 5,16m. Toàn bộ xe ôtô tải biển kiểm soát 99C-161.03, nằm trên

phần đường bên phải hướng thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí

Linh, tỉnh Hải Dương (phần đường của xe ngược chiều, điểm cuối bên phải thùng

xe ôtô cách vạch sơn đứt đoạn phân chia hai phần đường là 2,2m, xe ô tô đã chắn

khoảng 3/4 phần đường ngược chiều và chắn hết làn đường bên phải chiều thị xã

Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đi thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương).

Biên bản khám nghiệm tử thi và Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số

52/20/TT (cùng ngày 01/4/2020) của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Quảng Ninh,

kết luận: Anh Nguyễn Văn Quang bị dập não, tụ máu dưới màng cứng, tụ máu lều

tiểu não hai bên, rãnh liên bán cầu sau; vỡ xương thái dương hai bên, xương gò má

hai bên, gãy 1/3 giữa xương chày trái. Tử vong do suy kiệt, hậu quả của chấn thương

sọ não, dập não, mất não, chết não không hồi phục.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 607/19/TgT, ngày

13/12/2019 của Trung tâm pháp y, Sở y tế tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Anh Nguyễn

Văn Khởi bị chấn thương sọ não dập não thùy trán hai bên, chảy máu khoang duới

nhện hiện tại còn ổ giảm tỷ trọng nhu mô não thùy trán phải kích thước (15 x 11)

mm; trán trái kích thước (19x16) mm, không để lại di chứng về thần kinh. Các chấn

thương khác nhẹ, không để lại di chứng. Tổng tỷ lệ tổn thương về sức khỏe là 33%.

Tại bản kết luận định giá tài của Hội đồng định giá tài sản thị xã Đông Triều,

kết luận: Giá trị tài sản bị hư hỏng của xe môtô là 7.095.000đ

Nguyên nhân xảy ra tai nạn do Đinh Văn Nhường điều khiển xe ôtô tải biển

kiểm soát 99C - 161.03 chuyển hướng rẽ trái không chú ý quan sát, không nhường

đường cho xe đi ngược chiều, không đảm bảo an toàn, đã vi phạm khoản 2 Điều 15

Luật giao thông đường bộ; Một phần lỗi do anh Nguyễn Văn Quang điều khiển xe

môtô không giảm tốc độ để đảm bảo an toàn khi qua khu vực đường giao nhau.

VKSND thị xã Đông Triều viện dẫn Điều 15 Luật giao thông đường bộ để

42

làm căn cứ truy tố:

“... Điều 15. Chuyển hướng xe.

...2. Trong khi chuyển hướng, người lái xe phải ... nhường đường cho các xe đi

ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc

nguy hiểm cho người và phương tiện khác...”

- Bị cáo không tiền án tiền sự, có thành tích được địa phương xác nhận

- Cả hai bị hại và gia đình bị hại đều xin giảm nhẹ cho bị cáo và xác nhận

Quang mượn xe mô tô, không chú ý lái xe và có uống rượu khi lái xe.

- Bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho hai bị hại, bị hại và đại diện hợp pháp của bị

hại không yêu cầu bồi thường thêm.

- Ngày 09/7/2020 TAND thị xã Đông Triều quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị

cáo xin hoãn phiên tòa (22/7/2020).

- Sau đó bị cáo mời luật sư bào chữa, tại phiên tòa lần 2 (11/8/2020) bị cáo và

luật sư kêu oan và đề nghị tuyên bị cáo vô tội, HĐXX quyết định trả hồ sơ điều tra

bổ sung.

- Sau khi hoàn thiện và làm lại một số thủ tục, ngày 28/12/2020 VKSND thị xã

Đông Triều bàn giao hồ sơ sang Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều để xét xử.

- Quá trình làm lại bổ sung thêm một số tài liệu chứng cứ như sau:

Cơ quan điều tra thực nghiệm điều tra 2 lần, vào 21 giờ ngày 26/20/2020 và 16

giờ ngày 17/12/2020, cả hai lần này bị cáo đều không thừa nhận sơ đồ kích thước

hiện trường... trong Biên bản thực nghiệm điều tra. Lấy lời khai bị cáo, làm việc với

Chi cục quản lý đường bộ có trả lời về tốc độ đoạn đường nơi xẩy ra tai nạn (trả lời

không giới hạn tốc độ...nhưng lưu thông phải đảm bảo an toàn)...

* Về chứng cứ kết tội theo như trong hồ sơ gồm có:

- Các lời khai của bị cáo giai đoạn đầu đều thừa nhận do mình sang đường

không đảm bảo quy tắc an toàn theo pháp luật nên dẫn tới tai nạn (sau khi kêu oan bị

43

cáo không thừa nhận).

- Các người làm chứng khác gồm chị Hà (vợ bị cáo) lơ mơ ngủ khi tai nạn xảy

ra thấy xe mô tô đâm ngang xe mình và xe ô tô nằm hơi ngang mặt đường (còn số

còn lại đều xác định khi tai nạn xẩy ra xong mới ra xem, bị hại Khởi ngồi sau xe mô

tô gục đầu vào lưng anh Quang, tai nạn xảy ra mới biết).

- Biên bản khám nghiệm hiện trường + Sơ đồ hiện trường được thực hiện ngay

sau tai nạn, tuy nhiên không có mặt bị cáo, bị hại ....

- Hai lần thực nghiệm điều tra lại nhưng bị cáo có mặt lại hoàn toàn bác bỏ.

* Để có căn cứ kết tội bị cáo, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa đã ra Quyết

định yêu cầu điều tra bổ sung với những nội dung cụ thể như sau:

- Thu thập hình ảnh của Camera an ninh của cá nhân hoặc tổ chức (nếu có)

xung quanh vị trí và thời gian xảy ra va chạm giữa xe ô tô của Đinh Văn Nhường

và Bị hại vào khoảng 21 giờ ngày 09/9/2019.

- Thu thập kích thước cụ thể của phương tiện ô tô được cho là gây ra tai nạn

(chiều dài thực tế, chiều ngang thực tế...).

- Xác định tốc độ của xe mô tô do Nguyễn Văn Quang điều khiển trước và khi

xẩy ra va chạm với xe ô tô của Đinh Văn Nhường.

- Trong hồ sơ có 02 lần thực nghiệm điều tra diễn ra vào các ngày và khung

thời gian khác nhau (có kèm theo sơ đồ hiện trường..), Vậy cơ quan truy tố căn cứ

vào lần thực nghiệm điều tra nào để làm căn cứ và chứng cứ để chứng minh hành vi

phạm tội của Đinh Văn Nhường.

- Làm rõ xác định lý do của sự không có mặt của chủ xe ô tô được cho là gây

tai nạn hoặc chị Hà (là vợ và là người ngồi cùng cabin với Đinh Văn Nhường) khi

cơ quan chức năng tổ chức khám nghiệm hiện trường và vẽ sơ đồ hiện trường được

thực hiện ngay sau khi tai nạn (21 giờ 45 ngày 09/9/2019) .

- Thu thập làm rõ các vết xước, lõm, trượt...trên xe ô tô được cho là gây ra tai

nạn thể hiện tại Biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông được

44

hình thành từ bao giờ, mới hay cũ. Đồng thời làm rõ các vết xước , lõm, trượt...này

có phải do va chạm với xe mô tô vào ngày 09/9/2019 hay không?(các bản ảnh chưa

thể hiện rõ có va chạm hay không).

- Xác định cụ thể các tài liệu được xếp từ bút lục sau bút lục 389 đến bút lục

491a song song tồn tại hai loại bút lục cùng các số thứ tự khác nhau trên cùng một

tài liệu; Làm rõ bút lục từ số 450 đến bút lục số 456 (là bản cáo trạng bổ sung và tài

liệu kèm theo, tuy nhiên đây là số bút lục của các tài liệu cơ quan điều tra thu thập

tại địa phương của Đinh Văn Nhường trong giai đoạn điều tra bổ sung).

Thứ hai, Tòa án nhân dân hai cấp ở tỉnh Quảng Ninh đã áp dụng đúng các

quy phạm pháp luật để trả hồ sơ điều tra bổ sung vì có căn cứ cho rằng bị cáo

phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác ( những trường hợp trả hồ sơ khi có

căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm b, c khoản 1 Điều

280 BLTTHS 2015):

Có 65 trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có căn cứ cho rằng

bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác, chiếm tỷ lệ 19,3% số các vụ án

Tòa án đã trả hồ sơ. Tỷ lệ này cũng được thay đổi theo từng năm, cụ thể: Năm 2015

chiếm tỷ lệ 28,4%; năm 2016 tỷ lệ giảm mạnh xuống còn 18,3%; năm 2017 tỷ lệ

giảm mạnh xuống còn 13,7%; năm 2018 tỷ lệ tăng lên 15%; năm 2019 tỷ lệ tăng

lên 16,7%; năm 2020 tỷ lệ tăng cao 20,6%.

Ví dụ: Bị can Trần Thị Phương Thảo cùng đồng phạm bị VKSND tỉnh

Quảng Ninh truy tố về các tội “ Tham ô tài sản”, “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “

Cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại

các điểm a khoản 4 Điều 278, điểm a khoản 4 Điều 139 và khoản 3 Điều 165 của

BLHS. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án , Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh nhận thấy vợ của bị cáo Phạm Duy Nam có liên quan tới vụ án nhưng

chưa được đưa vào tham gia tố tụng trong vụ án. Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh

45

Quảng Ninh đã trả hồ sơ yêu cầu VKSND tỉnh Quảng Ninh đưa vợ của bị cáo Phạm

Duy Nam đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan trong vụ án.

Thứ ba, Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì phát hiện có vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng ( những trường hợp trả hồ sơ khi có căn cứ tại điểm c

khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015):

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo trường hợp này có số lượng không nhiều

(17 vụ, chiếm tỷ lệ 5,1%) nhưng có diễn biến khá phức tạp; Tỷ lệ này cũng được

thay đổi theo từng năm, cụ thể: Năm 2015, chiếm tỷ lệ 4,4%; năm 2016 tỷ lệ tăng

lên 5,2%; năm 2017 tỷ lệ tăng cao 5,9%; năm 2018, tỷ lệ giảm xuống còn 3,1%;

năm 2019 tỷ lệ tăng 5,5%; đến năm 2020 tỷ lệ tăng cao 5,9%.

Các vi phạm thủ tục tố tụng thường gặp là không hoàn tất thủ tục tống đạt

Cáo trạng cho bị cáo tại ngoại; các Biên bản lấy lời khai của bị can ( sau khởi tố)

không có chữ ký của Điều tra viên; không thực hiện đúng các trình tự luật định khi

thu thập vật chứng, khám xét, nhận dạng, đối chất và đặc biệt là không đảm bảo

quyền được bào chữa cho bị can.

Ví dụ: Các bị can Phạm Xuân Thành, Nguyễn Anh Dũng bị VKSND thị xã

Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh truy tố về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo

điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị can

chưa đủ 18 tuổi, tuy nhiên các biên bản lấy lời khai của Điều tra viên không có chữ

ký của người đại diện hợp pháp của các bị can chưa thành niên và cơ quan điều tra

Công an thị xã Đông Triều không tiến hành giải thích quyền được trợ giúp pháp lý

cho các bị can ( là những người bị buộc tội dưới 18 tuổi). Điều đó đã vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bị

can. Do vậy, Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều đã trả hồ sơ cho VKSND thị xã

Đông Triều.

Vi dụ: Bị can Nguyễn Đức Tâm bị VKSND thị xã Đông Triều truy tố tội “ Vi

46

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều

260BLHS. Nội dung vụ án thể hiện Nguyễn Đức Tâm là em trai ruột của Nguyễn

Đức Lân. Vào ngày 01/10/2020, Nguyễn Đức Lân có bằng lái xe ô tô hạng B2

nhưng lại điều khiển xe ô tô tải lưu thông trên quốc lộ 18A. Do thiếu chú ý quan sát

đã đâm vào xe môt ô do anh Phạm Phi Long điều khiển đi cùng chiều phía trước,

hậu quả anh Long bị chấn thương sọ não và bị chết trên đường đi bệnh viện cấp

cứu. Sau khi gây tai nạn Nguyễn Đức Lân bỏ trốn khỏi hiện trường, về nhà kể lại

cho em trai là Nguyễn Đức Tâm nghe. Lo sợ không có bằng lái xe ô tô hạng C nên

trong khi Nguyễn Đức Tâm có bằng lái xe ô tô hạng C nên Lân và Tâm đã bàn

nhau, Tâm sẽ ra đầu thú, khai nhận mình là người điều khiển xe ô tô tải gây tai nạn

chết người. Quá trình nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán nhận thấy lời khai có sự mâu

thuẫn, các tình tiết không phù hợp với diễn biến vụ án cũng như sơ đồ hiện trường,

biên bản khám nghiệm hiện trường…. nên đã trả hồ sơ cho VKSND thị xã Đông

Triều để điều tra lại. Sau đó cơ quan cảnh sát điều tra đã làm sáng tỏ nội dung vụ án

khi thực tế người điều khiển xe ô tô tải gây tai nạn là Nguyễn Đức Lân chứ không

phải Nguyễn Đức Tâm.

Trong thực tiễn, ngoài các căn cứ nêu trên, Tòa án còn trả hồ sơ vì các lý do

khác nằm ngoài quy định của Điều 179 BLTTHS 2003 hay Điều 280 BLTTHS

2015 như: Để chuyển, tách, nhập vụ án; để Tòa án có căn cứ áp dụng biện pháp bắt

buộc chữa bệnh hoặc do VKS đề nghị được rút hồ sơ để xem xét lại việc truy tố…

Tỷ lệ trả hồ sơ vì các lý do này so với các trường hợp khác không nhiều (11 vụ,

chiếm tỷ lệ 3,3% các vụ án Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung) và ít thay đổi

qua từng năm.

Như vậy, so với tổng số các vụ án hình sự sơ thẩm đã được hai cấp Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Ninh giải quyết, xét xử trong 06 năm ( từ năm 2015 đến năm

2020), các vụ án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ không lớn (

3,2%), trong khi tỷ lệ này ở toàn quốc là 4,3%. Số lượng các vụ án trả hồ sơ điều tra

47

bổ sung của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh chiếm tỷ lệ 2,1% số lượng

các vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung trên toàn quốc. Tỷ lệ trả hồ sơ của Tòa án nhân

dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh có biến động qua các năm, cụ thể: Năm 2015 chiếm tỷ

lệ 3,9%; năm 2016 tỷ lệ tăng cao 6,3%; năm 2017 tỷ lệ giảm mạnh xuống còn

3,0%; năm 2018 tỷ lệ giảm mạnh xuống còn 1,9%; năm 2019 tỷ lệ tăng nhẹ lên 2%;

năm 2020 tỷ lệ giảm xuống còn 1,8%.

Nguyên nhân Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung phần lớn là cần xem xét

thêm các chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa

được ( theo điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay chính là quy định tại điểm

a khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015: Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một

trong những vấn đề quy định tại Điều 85 BLTTHS 2015), chiếm tỷ lệ 72,3%; thứ

hai là do có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác (

những trường hợp trả hồ sơ khi có căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS

2003 hay điểm b, c khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015), chiếm tỷ lệ 19,3%; tiếp theo

là vì phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ( những trường hợp trả hồ

sơ khi có că cứ tại điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 hay điểm d khoản 1

Điều 280 BLTTHS 2015), chiếm tỷ lệ 5,1% và cuối cùng là vì các lý do khác,

chiếm tỷ lệ 3,3%.

Đa số các trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong thời hạn

chuẩn bị xét xử ( chiếm tỷ lệ 92,5%) nhưng cũng có những trường hợp từ kết quả

điều tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử mới quyết định trả hồ sơ để yêu

cầu điều tra bổ sung ( chiếm tỷ lệ 7,5%).

Chất lượng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhìn chung là đạt yêu cầu, thể

hiện ở các tiêu chí:

- Phần lớn các vụ án Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung được VKS chấp

nhận, thực hiện các yêu cầu điều tra bổ sung (chiếm tỷ lệ 97,6%).

- Chỉ có 08 vụ án ( chiếm tỷ lệ 2,4%) Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng

48

không được VKS chấp nhận. Tuy nhiên trong đó có 06 vụ án Tòa án đã có kiến

nghị trong Bản án về những vấn đề chưa được điều tra bổ sung, chỉ còn 02 vụ Tòa

án trả hồ sơ không có căn cứ ( chiếm tỷ lệ 0,6% tổng số vụ án Tòa án đã trả hồ sơ

để điều tra bổ sung).

- Hầu hết các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án đều tuân

thủ theo trình tự, thủ tục luật định, áp dụng theo đúng biểu mẫu do TANDTC

hướng dẫn.

Từ đó cho thấy chất lượng của việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung đang

được nâng cao trong khi số lượng các vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung đang có

chiều hướng giảm xuống. Điều này thể hiện năng lực của những người tiến hành tố

tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động trả

hồ sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm tại Quảng Ninh đã từng bước

được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

2.1.3.2. Hạn chế trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn

xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh

Thứ nhất: Trình tự, thủ tục điều tra bổ sung có trường hợp chưa được bảo

đảm như: Trong một vụ án, Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung đến 3 lần,

thời hạn điều tra bổ sung kéo dài hơn 02 tháng. Sau khi điều tra bổ sung, thay đổi

nội dung cáo trạng nhưng không nêu thay đổi cho bản cáo trạng ban hành trước đây

làm cho bị cáo nhận nhiều bản cáo trạng nhưng họ không biết cáo trạng nào là cáo

trạng mà Tòa án đưa ra xét xử.

Thứ hai: Vẫn còn trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ

hoặc nội dung yêu cầu điều tra bổ sung không khả thi dẫn đến việc điều tra bổ sung

không thực hiện được, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

Thứ ba: Cơ quan thực hiện việc điều tra bổ sung có lúc thực hiện chưa đầy

đủ và đảm bảo những nội dung quan trọng phải làm rõ. Không đáp ứng được vấn đề

49

cần điều tra bổ sung làm ảnh hưởng đến thời gian, kết quả giải quyết vụ án. Vì vậy

chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra là điều tra, truy tố và xét xử vụ án một cách

nhanh chóng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Thứ tư: Sự phối hợp giữa Tòa án với VKS và Cơ quan điều tra có lúc chưa

thực sự nhịp nhàng, cứng nhắc hoặc nể nang làm ảnh hưởng đến thời gian cũng như

kết quả điều tra bổ sung chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

2.1.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động trả hồ sơ để

điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai

cấp tỉnh Quảng Ninh

* Nguyên nhân khách quan:

- Tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, phương pháp, thủ đoạn

thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi, nhiều vụ án phạm tội có tổ chức, phạm tội

nhiều lần, địa điểm gây án ở nơi vắng vẻ, không có nhân chứng… nên công tác điều

tra và kiểm sát điều tra gặp nhiều khó khăn trong việc xác định sự thật khách quan

của vụ án. Nhiều tình huống phát sinh ngoài dự kiến nên việc nhận định, đánh giá

chứng cứ, điều tra vụ án chưa toàn diện, từ đó dẫn đến một số vụ án còn thiếu

chứng cứ, nhiều tình tiết chưa được làm rõ mà không thể khắc phục được nên phải

trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

- Một số loại tội phạm, nhất là tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, chức vụ

thường rất phức tạp vì liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực cần phải đi xác

minh nhiều nơi, làm việc với rất nhiều cơ quan liên quan nên việc xác minh gặp

nhiều khó khăn, phải gia hạn điều tra nhiều lần mới đủ thời gian kết luận điều tra, vì

vậy thiếu sót trong công tác điều tra là khó tránh khỏi.

- Hệ thống văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn, đặc biệt hệ thống văn bản

pháp luật liên quan đến các tội phạm về kinh tế, ma túy, sở hữu, môi trường, tham

nhũng và chức vụ… dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, cách hiểu và

50

vận dụng còn nhiều mâu thuẫn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

- Nhận thức pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Quảng Ninh

trong một số vụ việc còn chưa đồng nhất. Một số quy định của Bộ luật hình sự và

Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành còn bất cập, chưa chi tiết và cụ thể, vẫn còn mâu

thuẫn, chồng chéo. Các bộ luật mới có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên công tác hướng

dẫn giải thích pháp luật của cơ quan có thẩm quyền chưa được thực hiện kịp thời và

đồng bộ dẫn đến việc nhận thức, đánh giá chứng cứ, xác định tội danh và đường lối

xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng không

thống nhất, nhất là đối với các vụ án nghiêm trọng và phức tạp.

- Hoạt động bổ trợ tư pháp có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động

tố tụng, đặc biệt là trình tự, thủ tục và thời gian giám định thương tật, giám định

chữ viết, định giá tài sản… Có vụ án do căn cứ vào kết quả giám định Viện kiểm

sát truy tố nhưng Tòa án nhận thấy không đủ cơ sở nên trả hồ sơ để điều tra bổ

sung.

- Việc thu thập các bản án, trích lục án hoặc giấy chứng nhận chấp hành xong

hình phạt tù của bị can có nhiều tiền án cũng gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý về

lý lịch hành chính tư pháp của các cơ quan chuyên môn chưa chặt chẽ dẫn đến tình

trạng một người có nhiều giấy khai sinh, địa chỉ khác nhau. Đối với các vụ án có bị

can hoặc bị hại do thiếu hiểu biết hoặc cố tình khai báo sai sự thật gây ảnh hưởng

đến kết quả điều tra, truy tố, xét xử phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Bên cạnh đó,

trong thời gian gần đây các đối tượng thường phản cung sau khi nhận bản kết luận

điều tra, cáo trạng hoặc tại phiên tòa, các đối tượng nại ra các tình tiết mới nhằm

chối tội từ đó Viện kiểm sát, Tòa án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung.

- Khi Quốc hội ra Nghị quyết 388/2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị

oan sai do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và Luật bồi

thường Nhà nước đã tác động đến tư tưởng và trách nhiệm của Điều tra viên, Kiểm

51

sát viên, Thẩm phán nên một số người tiến hành tố tụng tỏ ra dè dặt, thận trọng quá

mức trong việc đấu tranh xử lý tội phạm, từ đó tìm mọi lý do để trả hồ sơ điều tra

bổ sung mặc dù lý do đó không cần thiết hoặc thiếu căn cứ.

- Nhìn chung cơ sở vật chất cũng như điều kiện làm việc nhất là ở cấp huyện

của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Phương tiện làm

việc lạc hậu, chính sách cán bộ chưa tương xứng với nhiệm vụ và chức trách được

giao, kinh phí cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử án hình sự còn hạn hẹp. Trên

thực tế, có những trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng đùn đẩy trách nhiệm

trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với bị can ( bị cáo) có dấu hiệu mắc bệnh

tâm thần chỉ vì lý do thiếu kinh phí trả cho việc giám định.

* Nguyên nhân chủ quan:

- Một số Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên có ý thức trách nhiệm,

năng lực nghiệp vụ chưa cao, chưa đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình

giải quyết vụ án, một số cán bộ chưa thực hiện đúng, đầy đủ các quy trình nghiệp

vụ cũng như quy định của BLTTHS trong việc thu thập, bảo quản chứng cứ, lấy lời

khai, hỏi cung… Một số Điều tra viên chưa cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ,

kịp thời tài liệu cho Kiểm sát viên nên Kiểm sát viên không phát hiện được hồ sơ

cần điều tra thêm những vấn đề gì. Do đó, không kịp thời đưa ra yêu cầu điều tra,

dẫn đến tình trạng khi hồ sơ được chuyển sang Viện kiểm sát đã không đầy đủ thủ

tục tố tụng, thiếu chứng cứ buộc tội hay bỏ lọt hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát

không tự khắc phục được. Tuy nhiên cũng có những trường hợp Viện kiểm sát đã

phát hiện ra và có yêu cầu điều tra nhưng Điều tra viên đã không thực hiện hoặc

thực hiện không đầy đủ song Kiểm sát viên vì nể nang đã không kiên quyết yêu cầu

Điều tra viên phải thực hiện đầy đủ.

- Một số Kiểm sát viên còn thụ động chờ việc, chưa chủ động đề ra những

yêu cầu điều tra trong hoạt động giám sát điều tra vụ án, vẫn còn thụ động chờ án

kết thúc điều tra chuyển đến thì Kiểm sát viên mới nghiên cứu hồ sơ vụ án, dẫn đến

52

việc chậm phát hiện những vi phạm về tố tụng, thiếu chứng cứ… Ngoài ra có

những trường hợp Kiểm sát viên không chủ động kiểm tra, giám sát những vấn đề

phát sinh đối với những vụ án do Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung để phối hợp

với cơ quan điều tra làm tốt yêu cầu điều tra bổ sung.

- Có lúc, có nơi lãnh đạo đơn vị chưa kịp thời kiểm tra, đôn đốc Kiểm sát

viên, Điều tra viên trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, chỉ nghe cấp dưới báo cáo

chứ không trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án. Dẫn đến tình trạng có một số vụ án

Kiểm sát viên, Điều tra viên khi báo cáo án đã không báo cáo hết, không báo cáo

đầy đủ các nội dung, tình tiết của vụ án nên gây khó khăn cho lãnh đạo trong việc

chỉ đạo nghiệp vụ, dẫn đến chỉ đạo không đúng, không trúng, không sâu, không

phát hiện ra những thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ, đánh giá tội danh.

- Lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thường xuyên tổ chức tổng

kết, rút kinh nghiệm về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm phát hiện kịp thời

những tồn tại, hạn chế và đề ra biện pháp khắc phục. Chưa thường xuyên và nghiêm

túc thực hiện việc tổ chức kiểm điểm với những trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ

sung không có căn cứ pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,

không đầy đủ, kịp thời yêu cầu điều tra hoặc quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ

sung nhằm xác định trách nhiệm cụ thể của từng người tiến hành tố tụng ở mỗi cấp

có liên quan để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.

- Bên cạnh đó, số lượng biên chế Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán

còn thiếu trong khi đó phải đảm đương khối lượng công việc lớn nên phần nào đã

ảnh hưởng đến chất lượng công việc của những người tiến hành tố tụng, dẫn đến

những yêu cầu của hoạt động tố tụng hiện nay chưa được đáp ứng hiệu quả. Điều

tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán chưa được thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn

về nghiệp vụ nên trình độ nghiệp vụ chưa được nâng cao.

- Trách nhiệm của một số Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa

xét xử hình sự sơ thẩm chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án; việc đánh giá chứng cứ

53

chưa toàn diện, có tư tưởng sợ trách nhiệm, dẫn đến có nhiều nội dung yêu cầu điều

tra bổ sung chỉ là những thiếu sót giản đơn có thể khắc phục được tại Tòa, không

cần thiết phải trả hồ sơ nhưng Tòa vẫn trả hồ sơ dẫn đến VKS không chấp nhận, vụ

án được đưa ra xét xử, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội theo quyết định truy tố của

VKS.

- Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán có vụ án chưa được chặt chẽ, việc đánh giá chứng cứ, tội

danh nhất là đối với những vụ án phức tạp để bổ sung, khắc phục trước khi kết thúc

điều tra, truy tố, xét xử chưa kịp thời. Chưa có sự phối hợp, trao đổi giữa Kiểm sát

viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án với Thẩm

phấn chủ tọa phiên tòa nên một số vụ án có thể khắc phục tại phiên tòa xét xử,

không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng HĐXX vẫn trả hồ sơ để

điều tra bổ sung, Viện kiểm sát không chấp nhận, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo

quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Kết luận chương 2

Từ thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của Tòa

án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh, bên cạnh đánh giá những ưu điểm đã đạt

được thì chúng tôi cũng chỉ ra được những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của

những tồn tại hạn chế đó để từ đó nêu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của

54

hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở chương 3.

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG TRẢ HỒ SƠ

ĐỂ ĐIỀU TRẢ BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA

TÒA ÁN NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH QUẢNG NINH

3.1. Những vướng mắc khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai

đoạn xét xử sơ thẩm hình sự

Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm được quy định

trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử

theo đúng quy định của pháp luật; bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự được

khách quan, toàn diện, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Qua thực tiễn xét xử, còn có

những quan điểm, nhận thức khác nhau, chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành

tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể như sau:

Thứ nhất: khoản 2 Điều 174 BLTTHS quy định: Thẩm phán được phân công

chủ tọa phiên tòa chỉ được quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên

tòa, Hội đồng xét xử chỉ được quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần. Theo quy

định trên quá trình giải quyết vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán chỉ

được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa Hội đồng xét xử chỉ

được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Quy định này nhằm hạn chế việc lợi

dụng trả hồ sơ điều tra bổ sung để kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Đồng thời buộc

Thẩm phán phải nêu cao tinh thần trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án, phát hiện

các vấn đề cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tránh tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ

sung nhiều lần. Thực tế có những trường hợp sau khi Thẩm phán, Hội đồng xét xử

trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án lại xuất hiện những tình tiết mới, có vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trường hợp này phải giải quyết như thế nào khi Tòa

án đã hai lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, vấn đề này cần được cơ quan chức

55

năng hướng dẫn cụ thể.

Thứ hai: khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT hướng dẫn

“Trường hợp phải tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì trong quyết định nêu rõ

những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa được điều tra bổ sung hoặc

đã điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm

phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung” hướng dẫn này hiện nay có những quan

điểm, cách hiểu khác nhau.

Quan điểm thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết

định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát chấp nhận điều tra bổ

sung tất cả các yêu cầu của Tòa án nhưng còn sót vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung

của Tòa án hoặc có điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều

tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ

vụ án, trong thời hạn 15 ngày Thẩm phán được quyền tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu

điều tra bổ sung (lần 2 trong thời hạn chuẩn bị xét xử) và nêu rõ trong quyết định

trả hồ sơ để điều tra bổ sung như hướng dẫn.

Quan điểm thứ hai: Trường hợp này, Thẩm phán không được trả hồ sơ yêu

cầu điều tra bổ sung mà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn 15

ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, HĐXX tiếp tục trả hồ sơ yêu

cầu điều tra bổ sung và nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước như

hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT.

Chúng tôi cho rằng BLTTHS quy định Thẩm phán được phân công chủ tọa

phiên tòa được quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa, Hội đồng

xét xử được quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Tuy nhiên, trường hợp

Viện kiểm sát chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án nhưng kết quả điều

tra bổ sung còn sót những vấn đề Tòa án yêu cầu hoặc có điều tra bổ sung nhưng

không đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần

điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ

56

sơ yêu cầu điều tra bổ sung những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước và nêu

rõ lý do như hướng dẫn tại Khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT.

Bởi lẽ, trong trường hợp này Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu

điều tra bổ sung những vấn đề Viện kiểm sát đã chấp nhận nhưng điều tra bổ sung

còn thiếu sót, chưa đạt yêu cầu, hoặc do điều tra bổ sung làm phát sinh các vấn đề

mới cần Viện kiểm sát điều tra lại đầy đủ theo yêu cầu. Trường hợp nếu Viện kiểm

sát điều tra đầy đủ, đúng yêu cầu và kết quả điều tra không làm phát sinh vấn đề gì

mới, sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán phát hiện còn có vấn đề cần điều tra

bổ sung nhưng quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa yêu cầu

thì Thẩm phán không được trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, trường hợp này

HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Thứ ba: khoản 6 Điều 326 BLTTHS quy định, sau khi nghị án, Hội đồng xét

xử phải quyết định một trong các vấn đề sau: Ban hành bản án và tuyên án; Nếu có

những tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoặc đã xét hỏi nhưng chưa được làm

sáng tỏ thì HĐXX phải trở lại việc xét hỏi và tiếp tục tranh luận; Thiếu những

chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên tòa thì HĐXX phải trả hồ sơ

vụ án cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung

tài liệu, chứng cứ; Tạm đình chỉ vụ án.

Mặc dù trong Bộ luật tố tụng hình sự không quy định các trường hợp cụ thể

HĐXX phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho VKS. Tuy nhiên, theo hướng dẫn

Thông tư liên tịch số 02/2017/ TTLT các trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng là các trường hợp HĐXX trả hồ sơ

yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Vấn đề đặt ra ở đây là HĐXX trả hồ sơ để

điều tra bổ sung tại phiên tòa khi nào?

Trường hợp thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng không phát hiện ra các vấn đề cần điều tra

bổ sung hoặc tại phiên tòa xuất hiện các vấn đề mới mà tài liệu trong hồ sơ vụ án

57

không phản ánh nên Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không phát hiện ra được. Nếu

thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX trả hồ sơ

để điều tra bổ sung.

Trường hợp thứ hai: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phát hiện

những vấn đề trong vụ án chưa được làm rõ nhưng không trả hồ sơ để yêu cầu điều

tra bổ sung vì tự tin tại phiên tòa sẽ làm rõ hoặc bổ sung chứng cứ được, nhưng tại

phiên tòa không bổ sung, làm rõ chứng cứ được thì HĐXX trả hồ sơ yêu cầu điều

tra bổ sung.

Chúng tôi cho rằng, nếu tại phiên tòa, HĐXX thấy có những vấn đề thuộc các

trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS mà trước đó Thẩm phán chưa

trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung thì HĐXX trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát

điều tra bổ sung. Còn những vấn đề trước đó Thẩm phán đã trả hồ sơ để yêu cầu

điều tra bổ sung nhưng Viện kiểm sát có văn bản trả lời là không có căn cứ thì

HĐXX không được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.

Thứ tư: khoản 3 Điều 280 BLTTHS quy định: Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ

án trong trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu chứng cứ

nhưng VKS không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ

nguyên quyết định truy tố. Quy định trên được hiểu Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm

sát để yêu cầu điều tra bổ sung và Viện kiểm sát thấy yêu cầu của Tòa án là có căn

cứ và tiến hành điều tra bổ sung nhưng không bổ sung được và vẫn giữ nguyên

quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án; nếu những vấn đề Tòa án yêu

cầu điều tra bổ sung là những căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội, Viện kiểm sát

không điều tra bổ sung (cho rằng không có căn cứ) và giữ nguyên quyết định truy

tố, trường hợp này giải quyết như thế nào? Có hai quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất: Nếu tại phiên tòa đã làm rõ những vấn đề Tòa án yêu

cầu điều tra bổ sung là có căn cứ thì HĐXX căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 280

và điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ

58

sung.

Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của chúng tôi: Nếu tại phiên tòa đã làm

rõ những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là có căn cứ, HĐXX căn cứ quy

định tại Điều 298 BLTTHS để giải quyết vụ án. Nếu tiếp tục trả hồ sơ để yêu cầu

điều tra bổ sung, Viện kiểm sát cho rằng không có căn cứ thì có trả tiếp chỉ kéo dài

thời hạn giải quyết vụ án. Nếu không đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội thì HĐXX

tuyên bố bị cáo không phạm tội. Sau đó, kiến nghị lên Tòa án cấp trên. Nếu trả hồ

sơ yêu cầu điều tra bổ sung theo điểm b, c khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX

căn cứ khoản 1 Điều 298 BLTTHS xét xử vụ án và nhận định trong bản án.

Thứ năm: trường hợp có nghi ngờ về kết quả giám định, kết luận định giá tài

sản, cần giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản thì Tòa án trả

hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung hay Tòa án tiến hành yêu cầu giám

định bổ sung, giám định lại, yêu cầu định giá lại tài sản. Hiện nay, vấn đề này giữa

Tòa án và Viện kiểm sát có quan điểm khác nhau.

Quan điểm Viện kiểm sát cho rằng: Việc giám định, định giá tài sản đã tiến

hành đúng theo trình tự thủ tục; kết quả giám định, định giá tài sản là đúng và

khách quan, đầy đủ. Hơn nữa, Tòa án có thẩm quyền trưng cầu giám định bổ sung,

giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 252

BLTTHS nên Viện kiểm sát không tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa

án.

Quan điểm thứ hai và cũng là quan điểm của chúng tôi: Theo quy định tại

khoản 1 Điều 210; khoản 1 Điều 211; khoản 1 Điều 218 BLTTHS: Các chứng cứ

trên là cơ sở để Viện kiểm sát chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội

ở khoản nào của điều luật, nhưng những chứng cứ quan trọng đó không thể bổ sung

tại phiên tòa được. Vì vậy, Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là đúng theo

quy định.

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác trả hồ sơ để điều

59

tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm

3.2.1. Cần sửa đổi, bổ sung một số bất cập được quy định trong Bộ luật tố

tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn về hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ

sung trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm

Thứ nhất, hiện nay quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 BLTTHS còn tạo

ra nhiều trường hợp cho phép Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung. Theo đó, chỉ cần có

căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi

khác mà BLHS quy định là tội phạm thì Tòa án sẽ tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ

sung, không phụ thuộc vào việc hành vi đó có liên quan đến vụ án đang xét xử hay

không. Do đó, có thể loại bỏ bớt những trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung

bằng cách sửa đổi quy định này theo hướng chỉ nên quy định trường hợp hành vi

khác của bị can đã thực hiện có liên quan đến vụ án mà VKS đã truy tố. Cụ thể, sửa

đổi điểm b khoản 1 Điều 280 thành: “Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã

truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm và có liên

quan đến vụ án mà VKS đã truy tố. Trường hợp bị can thực hiện hành vi khác mà

BLHS quy định là tội phạm nhưng không liên quan đến vụ án sẽ tiến hành khởi tố

vụ án mới”.

Thứ hai, hiện nay đang có sự mâu thuẫn giữa quy định tại điểm d khoản 1

Điều 280 BLTTHS và khoản 2 Điều 6 Thông tư số 02/2017 ở chỗ: Quy định của

Thông tư nói rằng, Tòa án không trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu có vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp

pháp của người tham gia tố tụng trong khi BLTTHS lại quy định vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng là căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung. Theo quan điểm của tác

giả, quy định trong Thông tư là chưa phù hợp bởi như đã trình bày ở trên, hiện nay,

vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được hiểu là trường hợp BLTTHS quy định

bắt buộc phải làm nhưng cơ quan, người tiến hành tố tụng đã không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của người tham gia

60

tố tụng. Do đó, khi đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đương nhiên sẽ xâm

phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng, do đó cần trả hồ

sơ để điều tra bổ sung. Vì vậy, nên điều chỉnh theo hướng bỏ quy định tại điểm a

khoản 2 Điều 6 TTLT số 02/2017.

Thứ ba, pháp luật hiện hành không quy định về thời hạn cho VKS xem xét

quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án. Đây là thiếu sót và nguyên nhân

làm chậm quá trình giải quyết vụ án bởi khi Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra

bổ sung, VKS sẽ tiến hành xem xét, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho

Cơ quan điều tra tiến hành bổ sung các vấn đề mà Tòa án yêu cầu. Vì vậy, nếu

không quy định thời hạn cho VKS, việc bổ sung có thể bị chậm và không cơ quan

nào có trách nhiệm về sự chậm trễ đó. Do đó, cần bổ sung thêm quy định về thời

hạn để VKS xem xét quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, quyết định tự

bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra để rút ngắn thời gian tố tụng. Theo

đề xuất, nếu như thời hạn Tòa án chuyển quyết định, hồ sơ cho VKS là 03 ngày thì

cũng nên ghi nhận thời hạn VKS xem xét quyết định: “Trong thời hạn 03 ngày, kể

từ ngày nhận được quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, VKS phải

xem xét, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra”.

Thứ tư, hiện nay Tòa án chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung tối đa hai lần,

một lần ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và một lần tại phiên tòa. Quy định như vậy là

nhằm hạn chế tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, kéo dài thời gian tố tụng của các chủ

thể tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp sau khi trả hồ sơ điều

tra bổ sung một lần vẫn còn những vấn đề cần điều tra bổ sung thêm mới có thể giải

quyết vụ án một cách chính xác và khách quan. Trong những trường hợp đó, mặc

dù rất cần thiết nhưng vẫn không thể trả hồ sơ điều tra bổ sung, dẫn đến khó khăn

trong khi xét xử, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết án. Do đó, cần thay đổi quy

định về số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án bằng quy định: “Việc trả hồ sơ

61

điều tra bổ sung chỉ được thực hiện một lần đối với một nội dung nhất định”.

Thứ năm, cùng với việc ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, Tòa án cần

phải ra quyết định hoãn phiên tòa. Bản chất của hai quyết định này hoàn toàn khác

nhau và việc ban hành mỗi loại quyết định cũng dẫn đến những hệ quả pháp lý khác

nhau. Bản thân quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ khiến phiên tòa không thể

tiếp tục, nhưng không có nghĩa, khi có quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung là

phiên tòa sẽ chấm dứt về mặt hình thức. Thay vào đó, phiên tòa vẫn đang tiếp tục

được xét xử mặc dù trên thực tế phiên tòa này đã bị dừng lại để chờ kết quả điều tra

bổ sung. Do đó, cần bổ sung quy định việc Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa đi

kèm với quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, thời

hạn hoãn phiên tòa trong trường hợp này không giống như các trường hợp quy định

tại Điều 297 BLTTHS. Do đó, cần có quy định riêng cho trường hợp này là “Thời

hạn hoãn phiên tòa sẽ hết khi Tòa án nhận lại hồ sơ và tiếp tục giải quyết vụ án”.

3.2.2. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên

môn, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và Hội

thẩm nhân dân

Trong mọi công việc vấn đề cán bộ - con người là nhân tố quan trọng, trung

tâm và “ động” nhất của tổ chức. Trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở

giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân thì chủ thể áp dụng pháp luật

là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Tòa án áp dụng pháp luật nhằm bảo vệ công

lý, mang lại sự công bằng, đảm bảo xã hội được ổn định và phát triển. Do vậy, đòi

hỏi cán bộ Tòa án nói chung, Thẩm phán nói riêng và Hội thẩm nhân dân phải có

trình độ chuyên môn cao, hiểu biết xã hội rộng, kỹ năng thuần thục và đạo đức nghề

nghiệp trong sáng.

Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới thì phải tiếp tục

kiện toàn về tổ chức, tăng cường hơn nữa công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công

chức ngành Tòa án phải thực sự trong sạch, vững mạnh, phải có lộ trình từng bước

62

bổ sung đội ngũ cán bộ trẻ, có đủ về số lượng, đảm bảo phẩm chất đạo đức, bản

lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là đội ngũ Thẩm phán là những

người cầm cân nảy mực. Do đó, cần phải thực hiện các nội dung sau:

- Đối với Thẩm phán đương nhiệm cần rà soát cả về chuyên môn nghiệp vụ,

năng lực công tác và phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, từ đó có kế hoạch bố trí,

sắp xếp công việc hợp lý, khoa học. Nếu có Thẩm phán yếu về năng lực, chuyên

môn cần phải tiếp tục bồi dưỡng hoặc chuyển công tác khác. Thực hiện tốt công tác

cải cách hành chính, kiện toàn bộ máy tổ chức và làm tốt công việc bồi dưỡng về

nghiệp vụ, phẩm chất chính trị cho Thẩm phán, là giải pháp trực tiếp góp phần nâng

cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự.

- Bên cạnh việc kiểm tra, rà soát đội ngũ Thẩm phán đương nhiệm cần phải

có kế hoạch xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận, những Thẩm phán

tương lai mà nguồn chủ yếu là Thư ký, Thẩm tra viên. Những người này đều là cán

bộ trẻ, có trình độ, tâm huyết với nghề nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài

việc bồi dưỡng đào tạo họ về chuyên môn nghiệp vụ ( cử đi học, tập huấn thường

xuyên, khuyến khích đi học sau đại học) cần phải được rèn luyện trong thực tế, phải

bồi dưỡng, đào tạo về lý luận chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức. Thực hiện

được điều này cũng chính là thực hiện chiến lược đào tạo con người trong tiến trình

cải cách tư pháp trong giai đoạn mới.

- Thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ

cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, cập nhật các văn bản hướng dẫn áp dụng

pháp luật của các cơ quan cấp trên, đặc biệt là các hướng dẫn về thủ tục tố tụng

hình sự như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, các Thông tư liên tịch

của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng… Tiếp tục quán triệt

những chủ trương, nhiệm vụ về cải cách tư pháp đã được đề ra trong các Nghị

quyết số 08/NQ – TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ – TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị đã được cụ thể hóa trong mục tiêu, chương trình hành

63

động của TANDTC và Ban chỉ đạo cải cách tư pháp tỉnh Quảng Ninh.

- Đề cao công tác giáo dục chính trị tư tưởng, cụ thể hóa lời dạy của Chủ tịch

Hồ Chí Minh đối với công tác ngành Tòa án; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm

theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện cuộc vận động

“ Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán,

cán bộ công chức ngành Tòa án” gắn với phong trào thi đua “ Phụng công, thủ

pháp, chí công, vô tư” với phương châm “ Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.

Khen thưởng kịp thời đối với những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong

công tác và tuyên dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua

yêu nước của ngành, đồng thời kịp thời phát hiện những vi phạm để có biện pháp

uốn nắn và xử lý nghiêm.

3.2.3. Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, tăng cường sự phối

hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Quảng Ninh trong hoạt động trả

hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự

- Để nâng cao chất lượng xét xử và thống nhất áp dụng pháp luật thì không

thể thiếu công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, đây được coi là một trong những

nhiệm vụ quan trọng của ngành Tòa án. Từ đó, tìm ra những hạn chế, tồn tại và

nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó để tìm ra những giải pháp khắc phục

những hạn chế trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Điều đó có ý nghĩa rất

quan trọng đối với yêu cầu đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật của hoạt động

hoạt động trả hồ sơ để điều tra bỏ sung. Ngoài ra, định kỳ hàng tháng, hàng quý,

thì ngành Tòa án cũng cần tự mình phải xác định cụ thể số lượng vụ án mà Tòa án

đã trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát. Trong đó, phải phân tích được lý

do mà Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung như: về chứng cứ, về tố tụng, số vụ trả

có căn cứ, số vụ trả không có căn cứ; trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra

bổ sung không có căn cứ pháp luật thì cần phải xác định rõ nguyên nhân và trách

nhiệm của cá nhân cụ thể để từ đó có biện pháp khắc phục và xử lý kịp thời tránh

64

lặp lại sau này.

- Cùng với việc tổng kết, rút kinh nghiệm trong hoạt động áp dụng pháp luật

của Tòa án, cần thường xuyên tổ chức các chuyên đề nghiên cứu khoa học nhằm

phục vụ công tác xét xử trong đó có các chuyên đề riêng về trả hồ sơ để điều tra bổ

sung. Việc xây dựng chuyên đề cần có sự tham gia của cả ba cơ quan tiến hành tố

tụng. Chuyên đề cần được đưa ra hội thảo và áp dụng vào thực tiễn công tác để phát

huy hiệu quả.

- Một số giải pháp quan trọng nữa nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động

trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự là cần tăng cường sự phối hợp

chặt chẽ giữa các cơ quan và cá nhân những người tiến hành tố tụng trên cơ sở đúng

chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Hạn

chế tới mức thấp nhất, tiến tới loại bỏ tình trạng trả hồ sơ nhiều lần, trả hồ sơ để

hợp lý hóa thời hạn tố tụng. Cần xây dựng quy chế phối hợp liên ngành trong hoạt

động trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2017

để thống nhất vận dụng trong thực tiễn; cần tổ chức sơ kết việc thực hiện Thông tư

liên tịch số 02/2017 theo định kỳ đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, rút kinh

nghiệm đối với việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm phát hiện kịp thời những sai

sót, hạn chế để làm rõ những nguyên nhân và kiểm điểm nghiêm túc đối với những

cá nhân có trách nhiệm.

3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, chế độ, chính sách đối với Thẩm phán,

cán bộ Tòa án

- Việc xây dựng, cải tạo, mở rộng trụ sở, đầu tư trang thiết bị hiện đại, tăng

thêm kinh phí hoạt động của Tòa án các cấp đáp ứng yêu cầu công tác xét xử hiện

nay và yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới là một nhiệm vụ quan trọng của

ngành TAND. Vấn đề khó khăn nhất đối với các Tòa án hiện nay là nguồn vốn đầu

tư xây dựng rất hạn chế. Trong khi chưa có sự đổi mới về cơ chế phân bổ, quản lý

ngân sách đối với Tòa án, TANDTC cần đề nghị Chính phủ đưa nguồn vốn đầu tư

65

xây dựng trụ sở TAND các cấp thuộc diện nguồn vốn ưu tiên đầu tư đồng thời chỉ

đạo các cấp chính quyền địa phương quan tâm hỗ trợ các điều kiện vật chất giúp

ngành TAND tỉnh Quảng Ninh luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án trong sạch, vững mạnh là một yêu cầu

quan trọng hiện nay. Tuy nhiên do những hạn chế, bất cập về chế độ chính sách,

đặc biệt là chế độ tiền lương đối với cán bộ, Thẩm phán còn thấp nên các Tòa án

đang gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng, quản lý, giáo dục cán bộ và tạo

nguồn Thẩm phán. Việc quy định Thẩm phán có mức lương tương đương với cán

bộ công chức hành chính là bất hợp lý, không phù hợp với vị trí, vai trò của Thẩm

phán trong xã hội và trách nhiệm rất cao của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp.

Cần sớm đề nghị Nhà nước sửa đổi chế độ tiền lương và ban hành các chính sách

ưu đãi khác cho phù hợp với đặc thù về tính chất và trách nhiệm nghề nghiệp của

Thẩm phán và cán bộ công chức Tòa án, giúp các Tòa án có điều kiện thu hút,

tuyển chọn những người có trình độ đồng thời động viên, khuyến khích Thẩm phán,

cán bộ, công chức yên tâm công tác, giữ gìn đạo đức, lối sống và sự liêm chính của

người cán bộ Tòa án.

3.2.5. Xây dựng và hoàn thiện các cơ quan, tổ chức bổ trợ Tư pháp

Hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp có ý nghĩa quan trọng đối

với việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung và việc trả

hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nói riêng. Hoạt động của các cơ quan, tổ chức

bổ trợ tư pháp đã góp phần không nhỏ trong việc cung cấp, bổ sung nhiều tài liệu,

chứng cứ quan trọng có giá trị chứng minh làm cho các tình tiết khách quan của vụ

án được sáng tỏ. Ví dụ: Kết quả giám định khoa học kỹ thuật hình sự, kết luận giám

định pháp y, kết luận giám định pháp y tâm thần… là một trong những căn cứ quan

trọng để Tòa án xem xét, đánh giá, xác định có hay không có hành vi phạm tội, tội

danh, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, căn cứ để áp dụng các biện pháp tư pháp cần

66

thiết khác cũng như để đánh giá việc điều tra, truy tố có đảm bảo tính khách quan,

đầy đủ và toàn diện không. Hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp ảnh

hưởng không nhỏ tới kết quả giải quyết các vụ án hình sự, chất lượng của quyết

định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án , vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện

tổ chức, hoạt động bổ trợ tư pháp ở tỉnh Quảng Ninh là hết sức cần thiết.

Thời gian vừa qua tại Quảng Ninh về cơ bản hoạt động này đã phát huy được

vai trò của mình, đặc biệt là trong việc giải quyết, xét xử các vụ án xâm phạm về

tính mạng, sức khỏe, vi phạm an toàn giao thông, trật tự công cộng, trật tự hành

chính… góp phần đáng kể để các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cải cách tư pháp trong tình hình

mới.

Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động bổ trợ tư pháp mà đặc biệt là giám định tư

pháp còn bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về hình thức áp dụng cũng như hiệu quả

của việc trưng cầu, sử dụng kết quả của các hoạt động bổ trợ này trong tố tụng hình

sự, gây ảnh hưởng đến chất lượng của việc giải quyết vụ án. Để khắc phục vấn đề

này, trước mắt cần thực hiện ngay những giải pháp sau đây:

- Xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và tổ chức

giám định để áp dụng pháp luật thống nhất trong việc xác định căn cứ, thẩm quyền

và thời điểm trưng cầu giám định pháp y trong tố tụng hình sự.

- Thống nhất về mặt bằng đánh giá, xác định kết quả giám định, chuẩn hóa

các căn cứ kết luận giám định, hạn chế đến mức thấp nhất sự mâu thuẫn giữa kết

luận giám định của các tổ chức giám định, các lần giám định về cùng một vấn đề

cần giám định.

- Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm, sơ, tổng kết về hoạt động

giám định pháp y trong tố tụng hình sự để kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm, phát

67

huy hiệu quả đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của công tác này.

- Kiến nghị với các cơ quan Trung ương, kịp thời chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung,

xây dựng mới những văn bản quy chuẩn về giám định pháp y, đáp ứng đòi hỏi của

thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Kết luận chương 3

Trong chương này của luận văn, chúng tôi đưa ra các giải pháp cơ bản góp

phần nâng cao chất lượng của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai

đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.

Nhóm giải pháp thứ nhất là tổ chức thực hiện tốt quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn.

Nhóm giải pháp thứ hai là nâng cao nhận thức của người tiến hành tố tụng;

Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát; Tăng cường kinh

phí, cơ sở vật chất phục vụ công tác điều tra, truy tố…

KẾT LUẬN

Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự là

một trong những chế định quan trọng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Ý nghĩa

của việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung nhằm khắc phục những tồn tại,

hạn chế, thiếu sót trong giai đoạn điều tra, truy tố để đảm bảo việc điều tra, truy tố

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật

về trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự một cách có hệ

thống sẽ góp phần làm rõ được bản chất, ý nghĩa và mục đích của chế định này

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại

phiên tòa, nếu Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng đắn, có căn

cứ sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết vụ án được kịp thời, chính xác,

khách quan, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như xét xử oan người vô tôi. Ngược lại việc

Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ sẽ làm cho quá trình giải

quyết vụ án bị kéo dài gây lãng phí thời gian, công sức, tiền của Nhà nước, mặt

68

khác còn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án

nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh trong thời gian vừa qua đã phát huy những tác

dụng quan trọng đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần giữ

vững an ninh, chính trị, ổn định trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để tỉnh Quảng

Ninh phát triển nhanh, bền vững, xứng đáng là một tỉnh công nghiệp, hiện đại, là

một trọng điểm kinh tế, một trung tâm thương mại lớn của cả nước. Tuy nhiên, bên

cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai

đoạn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh cũng

bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ

quan khác nhau, cần được phân tích làm rõ để từ đó có những giải pháp khắc phục

mang tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động này, đáp ứng kịp thời

của yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về những kết quả đạt được cũng

như những hạn chế trong hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử

sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh thời gian vừa qua;

tìm hiểu về các nguyên nhân dẫn đến việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng

như những tồn tại trong việc ban hành các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung,

tác giả luận văn đã đề ra những giải pháp đúng đắn trong hoạt động trả hồ sơ để

điều tra bổ sung ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự trong thời gian tới. Những kết

quả nghiên cứu của luận văn đã góp phần bổ sung và phát triển lý luận, phục vụ yêu

cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất lượng xét xử nói chung, trong

hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung nói riêng của ngành Tòa án nhân dân trong

69

công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết số 32 – NQ/TW ngày 05/8/2003 về xây dựng

và phát triển tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,

định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Hải Châu (2010), Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong

Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

6. Trịnh Duy Biên (2009), Về việc Thẩm phán trả hồ sơ để điều tra bổ sung,

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số 11), tr.37-40.

7. Nguyễn Minh Đức (2003), “ Một số ý kiến về việc áp dụng quy định trả hồ

sơ để điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Tòa

án nhân dân, (6), tr.27-29.

8. Trần Xuân Huệ (2009), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ

thẩm những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

9. Vũ Gia Lâm (2003), “ Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về

việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án

nhân dân, (8), tr.41-44.

10. Nguyễn Quang Lộc (2013), “ Bàn về chế định Trả hồ sơ để điều tra bổ

70

sung trong điều kiện cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (11), tr.26-28.

11. Mai Văn Lư (2008), “ Cần xem xét lại quy định Tòa án trả hồ sơ để điều tra

bổ sung trong quan hệ với việc tăng cường tính khách quan, sự độc lập của

hoạt động xét xử”, Tạp chí Kiểm sát, (6), tr.33-35.

12. Mai Văn Lư (2010), “ Bàn về quy định: “ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ

sung” trong điều kiện cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (11), tr.26-28.

13. Nguyễn Phúc Lưu (2006), “ Bàn về việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra

bổ sung”, Tạp chí Kiểm sát, (11), tr.21-22.

14. Lê Tiến Châu (2008), “ Trả hồ sơ điều tra bổ sung nhìn từ mối quan hệ

giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử”, Tạp chí Kiểm sát, (17), tr.22-

26.

15. Nguyễn Văn Du (2005), “ Khái niệm chứng cứ trong tố tụng hình sự: nhìn

từ góc độ lịch sử và luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (11),

tr.37-43.

16. Nguyễn Ngọc Điệp (2001), “ Những điều cần biết về thủ tục khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”, NXB Công an nhân dân, Thành phố Hồ

Chí Minh.

17. Trần Văn Độ (2000), “ Hoàn thiện các quy định của pháp luật về giới hạn

xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (08), tr.01-03.

18. Đỗ Văn Đương (2006), “ Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự”,

NXB Tư pháp.

19. Phạm Hồng Hải (1999), “ Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc

tội”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

20. Nguyễn Viết Hoạt (2007), “ Bản chất của hoạt động điều tra trong tố tụng

hình sự”, Tạp chí khoa học pháp lý, (03), tr.51-57.

21. Nguyễn Đình Huề (2009), “ Một số vấn đề về trả hồ sơ vụ án hình sự để

71

điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (04), tr.33-37.

22. Nguyễn Hải Phong (2011), “ Nguyên nhân và biện pháp để hạn chế tình

trạng trả hồ sơ vụ án giữa các cơ quan tiến hành tố tụng”, Tạp chí Kiểm

sát, (4), tr.45-47.

23. Đặng Quang Phương (2002), “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc

xây dựng pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân ( sửa đổi)”,

Thông tin Khoa học xét xử, (6), tr.26-29.

24. Trịnh Đức Thảo (2010), “ Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người

đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, (18).

25. Đinh Văn Quế (2004), “ Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ

thẩm hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003”, Tạp chí Tòa án nhân dân

(8), tr.3-10.

26. Đinh Văn Quế (2004), “ Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Đinh Văn Quế (2006), “ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung – Những vấn

đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội (14), tr.29-34.

28. Võ Khánh Vinh (2004), “ Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”,

NXB Công an nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.

29. Võ Khánh Vinh (2012), “ Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”,

NXB Tư pháp, Hà Nội.

30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp

năm 1992, NXB Sự thật, Hà Nội.

31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật hình

sự năm 1999, Hà Nội.

32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức

72

Tòa án nhân dân năm 2002, Hà Nội.

33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật tố tụng

hình sự, Hà Nội.

34. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

35. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

năm 2013, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

36. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ – HĐTP ngày

05/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “ Xét xử

sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.

37. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Các văn bản quy phạm pháp luật của

TANDTC hướng dẫn thi hành pháp luật, Hà Nội.

38. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2020), Báo cáo tổng kết công tác từ năm

2015 đến năm 2020, Quảng Ninh.

39. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2020), Báo cáo chất lượng trả hồ sơ để

điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến

năm 2020, Quảng Ninh.

40. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2020), Báo cáo thực hiện nhiệm vụ kinh

tế - xã hội, quốc phòng – an ninh năm 2021; mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ,

giải pháp năm 2021, Quảng Ninh.

41. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Quốc phòng

– Bộ Công an (2008), Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT – VKSNDTC –

TANDTC – BCA – BQP ngày 20/10/2008 về quan hệ phối hợp trong một số

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự giữa các cơ quan tiến hành

73

tố tụng trong Quân đội và ngoài Quân đội, Hà Nội.

43. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an – Tòa án nhân dân tối cao

(2010), Thông tư liên tịch số 01/2010/ TTLT – VKSNDTC – BCA – TANDTC

ngày 27/8/2010 hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự về trả hồ sơ điều tra bổ sung, Hà Nội.

44. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Công an –

Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư liên tịch số 02/2017/ TTLT – VKSNDTC–

TANDTC – BCA – BQP ngày 22/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các

cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Hà Nội.

74

45. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Thẩm phán 2006, Hà Nội.