Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của S.P Huntington về văn minh, sự va chạm của các nền văn minh và một trật tự thế giới dựa trên nền văn minh
lượt xem 6
download
Mục đích của luận văn là làm rõ quan điểm của Huntington về văn minh, sự va chạm của các nền văn minh và việc thiết lập một trật tự thế giới mới dựa trên các nền văn minh, chỉ ra những điểm hợp lý để kế thừa, những điểm bất hợp lý để phê phán; qua đó bảo vệ những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về những vấn đề trên. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của S.P Huntington về văn minh, sự va chạm của các nền văn minh và một trật tự thế giới dựa trên nền văn minh
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN VĂN QUYẾT QUAN ĐIỂM CỦA Samuel P. Huntington VỀ VĂ N MINH, SỰ VA CHẠM CỦA CÁC NỀN VẰN MINH VÀ MỘT TRẬT TỰ THẾ GIỚI DỰA TRÊN CÁC NỀN VĂN MINH Chuyên ngành: TRIẾT HỌC Mã số : 60.22.80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN PGS.TS. Phạm Văn Đức HÀ NỘI - 2008
- 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1 1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................... 3 2.Tình hình nghiên cứu ....................................................................................................... 4 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ................................................................................ 5 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 5 5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 6 6.Đóng góp của luận văn .................................................................................................... 6 7.Ý nghĩa của luận văn ....................................................................................................... 7 8.Kết cấu của luận văn........................................................................................................ 7 Chương 1 ............................................................................................................................ 8 QUAN ĐIỂM CỦA SAMUEL P. HUNTINGTON .................................................................. 8 VỀ VĂN MINH, SỰ VA CHẠM CỦA CÁC NỀN VĂN MINH................................................ 8 1.1. Một số nét khái quát về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh ra đời.............................................. 8 1.1.1. Tác giả ...................................................................................................................... 8 1.1.2. Tác phẩm .................................................................................................................. 9 1.2. Quan điểm của Huntington về văn minh, các nền văn minh trong lịch sử và đương đại, mối quan hệ giữa các nền văn minh ............................................................................................. 13 1.2.1. Quan điểm về văn minh .......................................................................................... 13 1.2.2.Các nền văn minh trong lịch sử và đương đại ......................................................... 20 1.2.3Mối quan hệ giữa các nền văn minh ......................................................................... 22 1.3.Quan điểm của Huntington về sự va chạm của các nền văn minh ........................................ 28 1.3.1 Sự va chạm của các nền văn minh .......................................................................... 28 1.3.2 Nguyên nhân sự xung đột của các nền văn minh .................................................... 31 1.3.2.1 Nguyên nhân từ bản thân nền văn minh .................................................................. 31 1.3.2.2.Các nguyên nhân lịch sử, dân số, chính trị ............................................................. 34 1.4. Về những cuộc xung đột gần đây trên thế giới thực chất có phải là bằng chứng của “Sự va chạm giữa các nền văn minh” như Huntington dự đoán. ................................................ 37 Chương 2 .......................................................................................................................... 41 MỘT TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI DỰA TRÊN CÁC NỀN VĂN MINH ................................. 41 2.1. Trật tự hai cực Ianta và sự sụp đổ của nó ......................................................................... 41 2.1.1. Trật tự hai cực Ianta ................................................................................................ 41 2.1.2.Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta .......................................................................... 44 2.2. Dự báo xu thế trật tự quốc tế trong những năm tới ........................................................... 44
- 2 2.2.1. Xu hướng thiết lập thế giới đơn cực ........................................................................ 44 2.2.2. Quan điểm về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ............................................. 47 2.3. Một trật tự thế giới mới dựa trên các nền văn minh .......................................................... 50 2.3.1. Nhà nước chủ chốt và tập hợp các nhóm quốc gia theo nền văn minh .................. 50 2.3.2.Các liên kết chính trị dựa trên bản sắc văn hóa ....................................................... 55 2.3.3Văn hoá và hợp tác kinh tế ....................................................................................... 58 2.3.4.Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc dựa trên sự phân chia quyền lực của văn minh ... 60 2.4. Các liên kết chính trị quốc tế hiện nay có phải hoàn toàn dựa trên cơ sở các nền văn minh ? 61 KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 71
- 3 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI chứng kiến rất nhiều cuộc xung đột mang tính chất dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và những vụ khủng bố đẫm máu. Đi tìm nguyên nhân cho những hiện tượng này có rất nhiều cách lý giải khác nhau. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là cơ hội thuận lợi cho một số quan điểm của các học giả tư sản nổi lên nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác bằng cách đưa ra những những cách lý giải khác nhau về sự phát triển của lịch sử loài người. Trong các quan điểm đó, phải kể đến quan điểm của các học giả như Alvin Topffler về Đợt sóng thứ ba, Fukuyama về Sự kết thúc của lịch sử và đặc biệt gần đây là quan điểm của S.P Huntington về Sự va chạm của các nền văn minh... Đặc điểm chung của các quan điểm trên đều phủ nhận một trong các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác về động lực phát triển của lịch sử loài người trong xã hội có đối kháng giai cấp là đấu tranh giai cấp; phủ nhận cách tiếp cận sự phát triển lịch sử loài người từ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, đi kèm với nó là sự sụp đổ của cả một hệ thống trật tự quốc tế, trật tự hai cực Ianta. Thế giới sẽ đi về đâu, trật tự nào sẽ thay thế trật tự Ianta? Mỹ và các nước phương Tây đang tạm thời nắm những ưu thế nhất định về kinh tế, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng… nhưng có phải họ có toàn quyền tự tung tự tác chủ động sắp đặt lại trật tự thế giới theo mưu đồ chủ quan của họ? Sự nổi lên của một số quốc gia châu Á và một số quốc gia ngoài văn minh phương Tây đang thách thức các sức mạnh siêu cường của phương Tây. Sự xuất hiện các mối quan hệ căng thẳng giữa phương Tây và các nước ngoài phương Tây nhất là các nước Hồi giáo đòi hỏi cũng phải được giải thích và tìm các biện pháp để giảm bớt căng thẳng đó.
- 4 S.P Huntington, trong tác phẩm “Sự va chạm của các nền văn minh”, là người đưa ra câu trả lời khá mạch lạc về những vấn đề trên. Tuy nhiên, câu trả lời của Huntington có nhiều điểm cần xem xét, bàn luận; nó có những điểm hợp lý, những điểm chưa hợp lý, thậm chí có những điểm còn mang tính chủ quan, gò ép. Phân tích làm rõ để tiếp thu những điểm hợp lý, phê phán các điểm chưa hợp lý nhằm góp phần nhận thức những vấn đề quốc tế hiện nay là lý do tôi chọn đề tài “Quan điểm của S.P Huntington về văn minh, sự va chạm của các nền văn minh và một trật tự thế giới dựa trên nền văn minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2.Tình hình nghiên cứu “Sự va chạm của các nền văn minh” là một tác phẩm lớn, gây được nhiều sự tranh luận trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu về tác phẩm này ở nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ như tác giả Dương Văn Lượng phê phán về nguồn gốc chiến tranh của S.P Huntington [38]; tác giả Hồ Sĩ Quí phê phán thế giới quan về văn minh qua đó cũng thể hiện mưu đồ chính trị của Huntington khi ông “quá chú ý tới những khác biệt và mâu thuẫn, thổi phồng ý nghĩa và vai trò tiêu cực của chúng, lãng quên hay cố tình lãng quên những giá trị khác của văn hoá và văn minh” [50-23]. Đặc biệt, gần đây nhất, tác giả Nguyễn Chí Tình xuất bản tác phẩm “Số phận các nền văn minh và thế giới ngày nay”, một tác phẩm lớn nhất ở Việt Nam đưa ra các quan điểm tranh luận mang tính toàn diện những vấn đề mà Huntington đặt ra từ khái niệm văn hoá, văn minh; diện mạo các nền văn minh; mối quan hệ giữa các nền văn minh; số phận các nền văn minh ... Trong đó, quan điểm cốt lõi mà tác giả Nguyễn Chí Tình nhấn mạnh là thế giới hiện nay không phải xung đột văn minh đã thay thế các hình thái xung đột khác, mà trái lại các xung đột giai cấp và hệ tư tưởng vẫn đóng vai trò chủ đạo và nó biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Điểm
- 5 quan trọng nữa là, trái với Huntington dự đoán xu hướng xung đột giữa các nền văn minh, Nguyễn Chí Tình cho rằng xu thế chung là đối thoại văn hoá, văn minh; các nền văn minh phải cùng học hỏi để tồn tại trong hoà bình [59]. Tuy nhiên, trong đề tài luận văn của tôi “Quan điểm của S.P Huntington về văn minh, sự va chạm của các nền văn minh và một trật tự thế giới dựa trên các nền văn minh” dưới cái nhìn triết học, chính trị học thì chưa ai nghiên cứu một cách có hệ thống. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là làm rõ quan điểm của Huntington về văn minh, sự va chạm của các nền văn minh và việc thiết lập một trật tự thế giới mới dựa trên các nền văn minh, chỉ ra những điểm hợp lý để kế thừa, những điểm bất hợp lý để phê phán; qua đó bảo vệ những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về những vấn đề trên. Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể như sau: Thứ nhất, làm rõ quan điểm của Huntington về văn minh (khái niệm, các yếu tố để xác định, mối quan hệ giữa các nền văn minh), sự va chạm của các nền văn minh (nguyên nhân, biểu hiện sự va chạm), một trật tự thế giới mới dựa trên các nền văn minh (văn minh với hợp tác kinh tế, văn minh với chính trị, Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc dựa trên nền văn minh) Thứ hai, từ những quan điểm đó, so sánh, đối chiếu với những sự kiện thực tế xảy ra trong những năm gần đây để chỉ ra những điểm hợp lý, những điểm chưa hợp lý của Huntington. 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Các phạm trù văn hoá, văn minh, sự va chạm của các nền văn minh trong luận văn được nghiên cứu không phải dưới góc độ văn hoá học mà được
- 6 nghiên cứu chủ yếu trong mối quan hệ với chính trị học, nhất là chính trị học hiện đại giai đoạn cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào hai nội dung mà Huntington đã đề cập đến trong tác phẩm “Sự va chạm của các nền văn minh” đó là: thứ nhất, quan điểm của Huntington về văn minh và sự va chạm của các nền văn minh; thứ hai, những dự đoán của Huntington về một trật tự thế giới mới trong đó các liên kết chính trị chủ yếu dựa trên cơ sở văn minh. Tác phẩm mà chúng tôi sử dụng trong luận văn này là bản dịch “Sự va chạm của các nền văn minh” Nxb Lao động, Hà Nội 2003 do nhóm tác giả Nguyễn Phương Sửu, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Phương Nam, Lưu Ánh Tuyết dịch. 5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm, nhận định của Đảng cộng sản Việt Nam về những mâu thuẫn và xu thế chủ yếu của thời đại trong những năm đầu thế kỷ XXI là cơ sở lý luận trực tiếp của luận văn này. Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính như: lôgíc và lịch sử, trừu tượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp, so sánh đối chiếu, gắn lý luận với thực tiễn… 6.Đóng góp của luận văn Luận văn cố gắng làm rõ quan điểm của Huntington về văn minh, sự va chạm của các nền văn minh và một trật tự thế giới dựa trên các nền văn minh; nhằm chỉ ra những điểm hợp lý để kế thừa, những điểm không hợp lý để đấu tranh, phê phán; qua đó, bảo vệ các quan điểm, đường lối của Đảng ta về những vấn đề này.
- 7 7.Ý nghĩa của luận văn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về văn hoá, văn minh, về các vấn đề quốc tế hiện nay; đặc biệt vấn đề quan hệ giữa các trung tâm quyền lực lớn trên thế giới trong những năm đầu thế kỷ XXI nói chung; nghiên cứu về tác giả - Huntington, tác phẩm – “Sự va chạm của các nền văn minh” nói riêng. 8.Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm hai chương, tám tiết.
- 8 Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA SAMUEL P. HUNTINGTON VỀ VĂN MINH, SỰ VA CHẠM CỦA CÁC NỀN VĂN MINH 1.1. Một số nét khái quát về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh ra đời 1.1.1. Tác giả Samuel P. Huntington sinh ngày 18 tháng Tư năm 1927 tại New York, đã từng học đại học tại Đại học Yale, lấy bằng thạc sĩ khoa học chính trị tại đại học Chicago năm 1948, lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Harvard năm 1951, là giáo sư của trường Đại học Weatherhead III (USA), Chủ tịch Viện Hàn lâm Harvard nghiên cứu về quốc tế, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Quan hệ quốc tế và là Chủ tịch khoa nghiên cứu về chính phủ. Những năm 1977, 1978 Huntington làm việc tại Nhà Trắng với tư cách là điều phối viên của dự án an ninh cho Hội đồng an ninh quốc gia. Trong hai năm 1986, 1987 ông là Chủ tịch Hội Khoa học Chính trị Hoa Kỳ. Ông còn là người sáng lập và là Tổng biên tập trong nhiều năm liền của tờ Tạp chí Foreign Policy. Là nhà nghiên cứu chính trị và chiến lược, Huntington quan tâm nhiều đến các lĩnh vực an ninh quốc gia; dân chủ và sự phát triển ở những nước kém phát triển; văn hoá trong chính trị và bản sắc dân tộc của nước Mỹ. Huntington có nhiều công trình nghiên cứu về các lĩnh vực trên được đăng trên các tạp chí của Mỹ như: Quân nhân và nhà nước (The Soldier and The State), Lý thuyết và quan điểm chính trị của quan hệ dân sự - quân đội (The Theory and Politics of Civil – Military) 1957; Trật tự chính trị trong xã hội thay đổi (Political Order in Changing Societies) 1968; Làn sóng thứ ba: Dân chủ hoá cuối thế kỷ XX (The third wave: Democratization in the late Twentieth Century) 1991; Sự va
- 9 chạm của các nền văn minh và trật tự thế giới, (The Clash of Cilivizations and the Remaking of World Order) 1996…[Tham khảo các tài liệu số 32, 52] 1.1.2. Tác phẩm “Sự va chạm của các nền văn minh” có nguồn gốc từ một bài báo có tên “Sự va chạm của các nền văn minh” đăng trên Tạp chí Foreign Affairs, số 3, năm 1993. Sau khi bài báo được đăng, có nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Tổng hợp chi tiết các cuộc tranh luận, Huntington đã đào sâu thêm từng chi tiết và viết lại thành một quyển sách dày 367 trang với tựa đề “The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order” (Sự va chạm của các nền văn minh và việc tái thiết lập trật tự thế giới) xuất bản năm 1996. Ở Việt Nam, tác phẩm này được nhóm dịch giả Nguyễn Phương Sửu, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Phương Nam, Lưu Ánh Tuyết nhà xuất bản Lao động ấn hành năm 2003 với tiêu đề “Sự va chạm của các nền văn minh” 1.1.3. Một số đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội cơ bản giai đoạn cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến nhiều sự biến to lớn về mọi mặt cả kinh tế, chính trị, xã hội. Sự biến đổi này đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu và cả các chính trị gia phân tích tỉ mỉ, chi tiết trên nhiều góc cạnh khác nhau. Khái quát lại, có thể thấy các đặc điểm chính như sau: Thứ nhất, sự khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa xã hội nói chung và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô nói riêng đã và đang tác động nghiêm trọng đến cục diện chính trị thế giới. Sự kiện này dẫn đến ba hệ quả trực tiếp đó là: sự sụp đổ của trật tự thế giới cũ - trật tự Ianta và sự hình thành những quan điểm về trật tự thế giới mới; nhiều liên kết chính trị trước đây dựa trên nền tảng hệ tư tưởng mất đi và các liên kết chính trị quốc tế mới đang hình thành; sự khủng hoảng về bản sắc, xác định các giá trị cá nhân và vấn đề quay trở lại chủ nghĩa dân tộc. Ví dụ, trước đây để ngăn
- 10 chặn chủ nghĩa cộng sản, nhiều quốc gia thuộc thế giới Hồi giáo tham gia liên minh quân sự với các nước phương Tây. Hiện nay, chủ nghĩa cộng sản không còn là nguồn đe dọa nữa thì các liên kết này cũng tan rã theo, thế vào đó là các mối quan hệ dựa trên các nền tảng khác nhất là văn hóa. Cũng tương tự như vậy, trước đây một người là “cộng sản” (có tính chất hệ tư tưởng) bây giờ chủ nghĩa cộng sản không còn nữa, họ lấy bản sắc dân tộc làm điểm xác định “người Nga”, “người Serbia”, “người Ucraina”…(có tính chất văn hóa, văn minh) là những khái niệm thay thế. Đây chính là cơ sở khách quan để hình thành các quan điểm về “văn minh – xung đột văn minh”, “sự hình thành trật tự thế giới mới.” Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại diễn ra như vũ bão nhất là cuộc cách mạng trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã làm cho thế giới trở nên nhỏ bé hơn, thế giới được coi như một “ngôi làng toàn cầu” (chữ của T.L Friedman). Theo chúng tôi, đây cũng là một lý do dẫn tới sự xuất hiện những tư tưởng “xung đột văn minh”, tại sao trước đó không ai nhắc tới, không ai chú ý hay không diễn ra các hành động mà chúng ta gọi là xung đột văn minh? Phải chăng cuộc cách mạng thông tin, quá trình toàn cầu hoá về kinh tế làm cho con người có nhu cầu khẳng định và bảo vệ bản sắc riêng của mình. Cách mạng thông tin làm cho mỗi hành vi đơn lẻ có giá trị toàn cầu, điều mà T. L. Friedman gọi là “toàn cầu hoá cá nhân”. Thứ ba, quá trình khu vực hoá và quốc tế hoá, trước hết trên lĩnh vực kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ tác động sâu sắc tới mọi mặt của thế giới, quá trình này đang bị chi phối bởi các nước phát triển và các tập đoàn xuyên quốc gia. Quá trình quốc tế hoá kinh tế đã đưa đến hệ quả chính trị - xã hội và quan hệ quốc tế là: chủ nghĩa tư bản đã trở thành một hệ thống toàn thế giới của một nhóm nhỏ các nước phát triển áp bức các nước kém phát triển và dùng sức mạnh tài chính để thống trị đại đa số nhân dân thế giới. Quá trình quốc tế hoá
- 11 kinh tế cũng kéo theo các mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản, giữa các dân tộc phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc, giữa các nước giàu và nước nghèo, giữa các nước đế quốc với nhau tăng cao. Hệ quả chính trị rõ rang nhất của quá trình toàn cầu hóa này là: các nước tư bản phát triển đang ra sức bành trướng các quan hệ tư bản chủ nghĩa ra toàn thế giới và thiết lập hệ thống phân công lao động thế giới theo mô hình “trung tâm - ngoại vi” do họ là trung tâm phần còn lại của thế giới là ngoại vi; ngược lại, các nước đang phát triển và chậm phát triển đang nỗ lực tranh thủ quá trình toàn cầu hoá kinh tế để thực hiện kiểu phát triển rút ngắn và phấn đấu cho một hệ thống phân công lao động thế giới và hệ thống quan hệ quốc tế dân chủ và bình đẳng; các nước lớn vừa hợp tác vừa kiềm chế lẫn nhau, cạnh tranh quyết liệt với nhau trong việc đấu tranh để hình thành “trật tự thế giới mới” thay thế cho “trật tự hai cực” đã tan vỡ cùng với sự sụp đổ của Liên Xô. Mỹ muốn “trật tự đơn cực” do Mỹ làm bá chủ. Các nước khác, nhất là Nga, Trung Quốc, EU, Ấn Độ…muốn “trật tự đa cực” mà bản thân họ cũng là các cực đối trọng với Mỹ. Thứ tư, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố xảy ra nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Quá trình toàn cầu hoá, bên cạnh tăng thêm quan hệ hợp tác, hiểu biết giữa các quốc gia dân tộc cũng làm nảy sinh sự thức tỉnh về lợi ích của các quốc gia dân tộc. Cộng với sự phát triển của chủ nghĩa bá quyền, mưu toan làm bá chủ thế giới của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã đẩy xung đột trong xã hội loài người hiện nay diễn ra dưới những màu sắc dân tộc, tôn giáo, sắc tộc với những quy mô, phạm vi, mức độ căng thẳng, quyết liệt khác nhau. Xu hướng của các xung đột này khi âm ỉ, khi bùng phát; phạm vi của nó có thể trong một quốc gia, dân tộc thậm chí khu vực hay toàn cầu. Từ những cuộc xung đột đó làm nảy sinh nhiều tình huống phức tạp như chạy đua sản xuất, buôn bán vũ khí, chiến tranh, khủng
- 12 bố, can thiệp, lật đổ…Những đặc điểm chính của các cuộc xung đột liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo giai đoạn hiện nay là: xu hướng chính trị hóa các vấn đề tôn giáo; xu hướng quốc tế hóa các vấn đề tôn giáo và các cuộc xung đột tôn giáo ngày càng mang yếu tố bạo lực gắn với các hoạt động khủng bố. Việc giải quyết vấn đề này liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều dân tộc, nhiều lĩnh vực. Vấn đề đặt ra là, các quốc gia, các dân tộc, các tôn giáo phải biết tôn trọng những quy luật chung để cùng tồn tại, tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của mọi người, mọi quốc gia, dân tộc khác. Có thể thấy rằng, ở giai đoạn hiện nay của quá trình toàn cầu hoá, sự hợp tác và đấu tranh cũng như các liên kết, liên minh, tập hợp lực lượng trên trường quốc tế đang xoay quanh mấy chủ đề lớn là: chiến tranh và hoà bình; độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; sự phát triển bền vững; sự hình thành trật tự thế giới mới. Văn minh không phải là cái mới xuất hiện, cũng không phải là khái niệm mới mà trái lại, “lịch sử nhân loại là lịch sử của các nền văn minh” [52-32]. Trong các nền văn minh đương đại, có những cái đã tồn tại rất lâu như văn minh Trung Hoa (Khổng giáo), văn minh Ấn Độ (Hinđu), có những cái mới hơn như văn minh phương Tây hay văn minh Mỹ Latinh nhưng tại sao trước đó các nền văn minh này lại không va chạm với nhau (trước đó đã có nhưng không thành một xu thế chủ đạo) mà chỉ sau chiến tranh Lạnh các nền văn minh này mới va chạm với nhau tạo thành một xu thế chủ yếu trong chính trường quốc tế? Chắc hẳn các điều kiện kinh tế xã hội là nguyên nhân không nhỏ chi phối xu thế này.
- 13 1.2. Quan điểm của Huntington về văn minh, các nền văn minh trong lịch sử và đương đại, mối quan hệ giữa các nền văn minh 1.2.1. Quan điểm về văn minh Có thể thấy, trong tác phẩm “Sự va chạm của các nền văn minh” Huntington không đưa ra một khái niệm đầy đủ về văn minh (một định nghĩa), cũng không bàn sâu khái niệm văn minh theo nghĩa hàn lâm, truyền thống mà ông chỉ đề cập và phân tích khái niệm này trong mối tương quan với chính trị học, nhất là chính trị học gắn với thực tiễn giai đoạn cuối thế kỷ XX. Bản chất, diện mạo, những yếu tố của nền văn minh được Huntington phân tích qua các điểm chính như sau: Thứ nhất, ông trích dẫn các nhà nghiên cứu và cho rằng văn minh được các nhà tư tưởng Pháp đưa ra từ thế kỷ XVIII để đối lập với “man rợ”, xã hội văn minh khác xã hội nguyên thủy vì nó được ổn định, đô thị hoá và có học vấn. Khái niệm văn minh được hiểu theo nghĩa số nhiều – các nền văn minh. Thứ hai, cơ sở để xác định và phân chia các nền văn minh khác nhau Huntington căn cứ vào rất nhiều đặc điểm như chủng tộc, ngôn ngữ, lịch sử, lối sống, huyết thống, tín ngưỡng, văn hóa... “Văn minh có thể là một sự hoà trộn phức tạp các mức cao của đạo đức, tôn giáo, học vấn, nghệ thuật, triết học, công nghệ, phồn thịnh và có thể còn nhiều tố chất khác”[52-447]. Nhưng theo ông yếu tố quan trọng nhất để phân chia và xác định các nền văn minh đó là tôn giáo (TG nhấn mạnh). Ông cho rằng, những nền văn minh lớn trong lịch sử nhân loại thường hiện diện trong mối quan hệ chặt chẽ với các tôn giáo lớn của thế giới ví dụ như Thiên chúa giáo gắn với văn minh phương Tây, Khổng giáo gắn với văn minh Trung Hoa, đạo Hồi gắn với văn minh Hồi giáo... Những người khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ và lịch sử nhưng có thể rất đoàn kết với nhau do cùng chung tôn giáo. Ngược lại, những người khác nhau về tôn giáo rất có thể xung đột dữ dội với nhau mặc dù họ cùng
- 14 chủng tộc với nhau. Các ví dụ cụ thể như Thiên chúa giáo và Hồi giáo là những tôn giáo bao trùm nhiều xã hội có nhiều chủng tộc, huyết thống, ngôn ngữ khác nhau nhưng các tín đồ vẫn đoàn kết với nhau. Ông đi đến kết luận rằng khác biệt cốt lõi giữa các nhóm người liên quan đến các giá trị, tín ngưỡng, thể chế và cấu trúc xã hội của họ - tức văn minh, chứ không phải về thể chất, hình thù hay mầu da – chủng tộc. Như vậy, có thể thấy, theo Huntington có nhiều điểm khác nhau để xác định, phân chia các nền văn minh nhưng tiêu chí quan trọng nhất là tôn giáo. Thứ ba, văn minh theo quan điểm của Huntington mang tính toàn diện, có nghĩa là người ta không thể hiểu đầy đủ một thành tố của văn minh mà không xem xét quan hệ của nó trong tổng thể của nền văn minh bao trùm. Ví dụ được ông đưa ra và phân tích rất sinh động là: một ngôi làng miền nam nước Ý khác văn hóa ngôi làng miền bắc nước Ý những cả hai thuộc văn hóa Ý và rõ ràng là nó khác một ngôi làng của nước Đức. Nhưng cả Ý và Đức đều thuộc văn minh phương Tây và chắc chắn cả hai ngôi làng của văn minh phương Tây này khác hẳn tính chất của một ngôi làng của Trung Quốc hay Ấn Độ (thuộc các nền văn minh khác). Như vậy, ta không thể xác định nền văn minh cho các ngôi làng này một cách độc lập mà phải xem xét nó trong tính toàn diện của nền văn minh bao trùm. Điều đó cho thấy trong quan niệm của Huntington, khái niệm văn minh rộng hơn khái niệm văn hoá, do đó, khi xem xét một nền văn minh chúng ta phải xem xét trong phạm vi phổ quát của nó. Theo Huntington, các nền văn minh không có ranh giới hữu hình, không có điểm xuất phát và điểm kết thúc một cách rành mạch như ranh giới địa lý, lãnh thổ hay lịch sử. Mỗi quốc gia, dân tộc hay cá nhân có thể xác định lại bản sắc văn hóa của mình. Và do vậy, thành phần, đặc điểm của các nền văn minh có thể được thay đổi theo thời gian. Đường ranh giới giữa các nền văn minh không thực sự rành mạch nhưng có thực.
- 15 Thứ tư, nền văn minh không phải là cái cố định, bất biến, nó có thể chết nhưng cũng có thể sống rất lâu; chúng tiến hoá, điều chỉnh, biến đổi tùy theo các điều kiện xã hội cụ thể. Lịch sử đã chứng minh rằng, có nhiều nền văn minh đã chết đi và nhiều nền văn minh mới xuất hiện (xem them trang 17,18 của luận văn). So với các thể chế chính trị hay các nhà nước thì nền văn minh thường tồn tại dài hơn. Văn minh phương Tây, văn minh Hồi giáo, Trung Hoa… là những nền văn minh như vậy, có nhiều thể chế chính trị đã ra đời, lụi tàn và thể chế khác hình thành trên nền văn minh đó. Văn minh Khổng giáo kéo dài hơn hai nghìn năm và nó chứng kiến rất nhiều những thể chế chính trị của Trung Quốc trên đó. Thứ năm, nền văn minh khác nhà nước, chúng không mang các bản chất, chức năng như nhà nước. Nhà nước là các thực thể chính trị cấu thành của các nền văn minh. Một nền văn minh có thể chứa đựng một hoặc nhiều đơn vị chính trị. Các đơn vị này có thể là các bang, tiểu bang, các bộ tộc, dân tộc hay các nhà nước. Nhật Bản, Ấn Độ là một nền văn minh và đồng thời là một nhà nước. Các nền văn minh còn lại như phương Tây, Chính thống, Hồi giáo, Khổng giáo, Mỹ Latinh có nhiều hơn một nhà nước. Diện mạo của các nền văn minh được Hutington xác định ở năm đặc điểm trên nhưng xuyên suốt tác phẩm ta thấy ông chỉ nhấn mạnh đặc điểm thứ hai đó là tôn giáo. Các nền văn minh khác nhau là do theo các tôn giáo khác nhau, xung đột giữa các nền văn minh cũng là xung đột tôn giáo, liên kết quốc tế cũng được hình thành chủ yếu dựa trên sự tương đồng về tôn giáo. Nếu so với các quan niệm truyền thống về văn minh thì ta thấy có những sự khác biệt nhất định trong quan niệm của Huntington với các quan niệm trước đó. Ví như, A.Toybee cho văn minh “là một kiểu xã hội mang tính lịch sử nhất định, được đặc trưng bởi sự thống nhất văn hoá, tôn giáo mang tính lãnh thổ và bởi những khuân khổ thời gian nhất định”. Quan điểm của Z.
- 16 Osadikaja: “Văn minh là một giai đoạn nhất định trong sự phát triển của loài người, kế tiếp sau các kỷ nguyên man rợ và dã man. Nói cách khác, văn minh chỉ có nghĩa là một kỷ nguyên nhất định trong sự phát triển lịch sử xã hội”. V. S. Stepin và V.Z. Tolotykh thì cho rằng: “Văn minh – đó là những thành tựu của loài người, bảo đảm cho sự tiến bộ của nó, đi từ trạng thái động vật và sau đó là từ giai đoạn man rợ và dã man tiến đến các hình thức sống đặc biệt mang tính con người. Các thành tựu văn minh liên quan đến cả chiếm lĩnh giới tự nhiên bằng công nghệ lẫn sự hoàn thiện công việc điều tiết các mối quan hệ xã hội”. A. A. Zinoviev lại hiểu: “Nền văn minh là một hiện tượng mang tính lịch sử, ra đời, sống, được hoàn thiện, thay đổi và chết đi. Nó ra đời và sống trong những điều kiện xác định; trong số những điều kiện ấy có quy mô của các tập đoàn người, mức độ tính phức tạp của chúng, tình trạng văn hoá vật chất, đặc tính của chất liệu người, những khả năng tồn tại tự lập của các khu vực tương đối lớn trong một thời gian dài và nhiều yếu tố khác nữa.” (phần này có tham khảo và trích dẫn từ nguồn tài liệu số 59) Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra các quan niệm về văn minh khác nhau như: Phan Ngọc khi phân biệt giữa văn hoá và văn minh ông cho rằng: “văn minh liên quan trước hết đến kỹ thuật, tức là biện pháp riêng của con người để tác động tới tự nhiên và làm chủ nó” và “sự tiến bộ của văn minh bao gồm hai mặt: trước hết là một sự tiến bộ trong kỹ thuật để làm chủ tự nhiên và sau đó là một sự tiến bộ về tổ chức xã hội theo cái nghĩa các thành tựu về kỹ thuật giải phóng được một số lượng người ngày càng đông đảo khỏi sự sản xuất trực tiếp để quan tâm đến các mặt khác như chính trị, nghệ thuật, đạo đức, văn học…” [42-96]. Tác giả Phạm Thái Việt và Đào Thế Tuấn lại cho rằng: “Văn minh dùng để chỉ trình độ phát triển cao của một nền văn hoá”, “Ở cấp độ chung nhất,
- 17 văn minh được hiểu là sự tổng hoà những thành quả vật chất và tinh thần của loài người trong quá trình cải tạo thế giới; là thước đo của tiến bộ xã hội và mức độ khai hoá của con người. Khi loài người tách mình khỏi giới động vật thì cũng là bước khởi đầu của văn minh” [61-15]. Xét về mặt nguồn gốc, khái niệm “văn minh” có nguồn gốc từ phương Tây bắt nguồn từ chữ civitas (tiếng Latinh có nghĩa là “thành phố”). Từ nghĩa gốc này kéo theo hàng loạt từ và nghĩa phái sinh trong các ngôn ngữ châu Âu như “thị dân”, “công dân” (civilis), civilization là “làm cho trở thành đô thị, đầy đủ tiện nghi như đô thị”. Như vậy, văn minh là khái niệm có nguồn gốc từ phương Tây dùng để chỉ trình độ phát triển của con người về phương diện vật chất kỹ thuật [57-31]. Trong cách hiểu và trình bày của mình, dường như Huntington đã đồng nhất văn minh với văn hóa “văn minh và văn hoá, cả hai đều hướng đến lối sống tổng thể của một dân tộc và nền văn minh là một nền văn hoá mở rộng” [52-34]. Chúng ta có thể tham khảo hai định nghĩa về văn hóa sau đây: văn hóa theo quan niệm của E.B. Taylor (1871-1925) “Văn hóa là một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đã đạt được”; còn Federico Mayo, Tổng giám đốc UNESCO cho rằng “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống, lao động. Cách hiểu này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại Venise” [57-17]. Theo tác giả Hồ Sĩ Quý, thì cách hiểu văn minh của Huntington là hoàn toàn khác biệt so với các nhà văn hóa học khác, đây là “khái niệm mới về văn minh, chưa ai hiểu văn minh theo kiểu này”[50-18]. Cơ sở để phân chia các
- 18 nền văn minh khác nhau được ông căn cứ vào các yếu tố chính như: ngôn ngữ, chủng tộc, lịch sử, phong tục, tôn giáo, huyết thống, thể chế…nhưng quan trọng nhất là tôn giáo, “trong tất cả các yếu tố khách quan xác định các nền văn minh thì tôn giáo thường là yếu tố quan trọng nhất…những nền văn minh lớn trong lịch sử nhân loại thường hiện diện trong mối quan hệ chặt chẽ với các tôn giáo lớn của thế giới”[52-35]. Trong số năm tôn giáo thế giới, thì bốn gồm: Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Khổng giáo, liên hệ chặt chẽ với các nền văn minh lớn là phương Tây, Hồi giáo, Ấn Độ, Trung Hoa và Chính thống (Phật giáo, Huntington không coi là một tôn giáo). Và căn cứ vào đó, Huntington chia thế giới hiện nay thành bảy hay tám nền văn minh chủ yếu. Ở đây, chúng ta thấy, văn minh phương Tây hay Hồi giáo khá thống nhất ở điểm này, tuy nhiên các nền văn minh khác thì không hoàn toàn. Ví như Nhật Bản, Nhật bản có thể có nền văn hoá riêng nhưng không có tôn giáo riêng (hầu hết người Nhật theo đạo Shinto - đạo thần Nhật Bản, tựa như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam. Ở Nhật Bản, có khoảng 95% người Nhật theo đạo Shinto, 75% theo đạo Phật) [55-11]; văn minh Trung Hoa Huntington cho Khổng giáo là tôn giáo (tín ngưỡng trung tâm) nhưng Khổng giáo cũng chưa hẳn là một tôn giáo. Việt Nam được xếp trong nền văn minh Khổng giáo nhưng Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo mà đạo Phật chiếm đa số (trong những trường hợp này phải xác định là văn hóa mới chính xác). Trường hợp văn minh châu Phi hay Mỹ Latinh cũng vậy, cả hai nền văn minh này không có tôn giáo riêng mà chủ yếu họ cũng theo Thiên chúa, Tin Lành hay Hồi giáo. Trường hợp Phật giáo, Phật giáo là một trong năm tôn giáo thế giới nhưng Phật giáo lại không gắn một nền văn minh nào, mà nguyên nhân Huntington cho là do Phật giáo chia làm hai nhánh Tiểu thừa và Đại thừa, điều này cũng sẽ dẫn đến những sự mâu thuẫn (Cơ đốc cũng chia làm Thiên chúa, Tin lành và Chính thống) nhưng tôn giáo này lại được gắn với văn minh
- 19 phương Tây. Không phải ngẫu nhiên mỗi nền văn minh thường gắn với một hoặc một vài quốc gia có tiềm lực mạnh về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng. Từ đó ta thấy, cách phân loại của ông hình như có vẻ dựa vào việc nhìn xem quốc gia hoặc nhóm hoặc quốc gia nào có thể tạo nên thế lực thách thức được sức mạnh kinh tế và quân sự của Mỹ và phương Tây, rồi gán ghép một thứ văn minh cho mỗi một nhóm hay quốc gia đó (việc xác định các nền văn minh lớn, các nhà nước chủ chốt hay có thể trở thành nhà nước chủ chốt của các nền văn minh). Trong thực tế, có nhiều cách khác nhau để xác định các nền văn minh ví như: nếu căn cứ vào địa lý ta có văn minh phương Đông, văn minh phương Tây, văn minh Tây Á, văn minh sông Hồng…Người ta cũng có thể căn cứ vào tôn giáo để xác định các nền văn minh như: văn minh Cơ đốc giáo, văn minh Chính thống giáo, văn minh Hồi giáo…, hoặc căn cứ vào quan hệ sản xuất, hay thể chế chính trị có: văn minh xã hội chủ nghĩa, văn minh tư bản chủ nghĩa. Gần đây, có quan điểm gắn văn minh với trình độ phát triển của sản xuất nên có văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp…[2] Cách phân loại của Huntington chỉ là một cách, nó phục vụ cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của ông. Như vậy, có thể thấy, các quan niệm truyền thống thường quan niệm văn minh là một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử và thường nó hay gắn với trình độ phát triển nhất định của khoa học kỹ thuật (lực lượng sản xuất) còn Huntington thì hiểu văn minh ở những đặc điểm dùng để phân biệt sự khác nhau giữa các nền văn minh (huyết thống, tôn giáo, lối sống…) điều này dẫn đến cách nhìn mang tính chất chính trị chiến lược của ông trong việc xác định các nền văn minh và mối quan hệ của chúng hiện nay.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Triết học: Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội) - Đặng Thị Kim Anh
21 p | 275 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Triết lý nhân sinh trong Tây du ký
116 p | 469 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên với việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay
26 p | 363 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển
85 p | 163 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Nghệ thuật và vai trò của nghệ thuật trong việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay
91 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Một số tính chất của đồng điều địa phương cho môđun Compắc tuyến tính
42 p | 106 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm về con người trong chủ nghĩa hiện sinh
106 p | 6 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai sáng
98 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đạo đức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa thời đại
110 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay
94 p | 6 | 4
-
tr.Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát huy giá trị truyền thống của gia đình Nghệ An trong giai đoạn hiện nay
15 p | 86 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm tự do trong triết học hiện sinh - Giá trị và hạn chế
115 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề chân lý trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ
104 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Quan điểm của Karl Popper về xã hội mở
116 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Nghệ Tĩnh
100 p | 3 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Nguyễn Phước Đức Đạt qua tác phẩm
107 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Triết lý nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
127 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper trong một số tác phẩm
108 p | 3 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn