ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HIỀN

TRUYỆN KỂ DÂN GIAN

VÙNG VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HIỀN

TRUYỆN KỂ DÂN GIAN

VÙNG VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ HUẾ

THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích

dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung

thực và chưa được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nguyễn Thị Hiền

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám

hiệu, khoa sau đại học, khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học, Trường Đại học

Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ

tác giả trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên hướng dẫn là: PGS.

TS. Nguyễn Thị Huế, đã luôn tận tình, hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt quá trình tác

giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng tác giả xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu Trường THPT Yên

Dũng số 1, Phòng văn hóa huyện Yên Dũng, Ban quản lí di tích và danh thắng

huyện Yên Dũng, Thư viện Tỉnh Bắc Giang, Thư viện các huyện Yên Dũng, Lục

Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, gia đình, người thân, bạn bè, đã giúp đỡ, động viên tạo

điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 05 năm 2019

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nguyễn Thị Hiền

iii

MỤC LỤC

Trang

TRANG BÌA PHỤ

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii

DANH MỤC BẢNG BIỂU ....................................................................................... v

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................ vi

A. MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 2

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ......................................................................... 5

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................................... 5

5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 7

6. Cấu trúc của luận văn.............................................................................................. 7

7. Những đóng góp của luận văn ................................................................................ 7

B. PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 8

Chương 1. VÙNG VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ VÀ VĂN HỌC

DÂN GIAN VÙNG VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ ................................ 8

1.1. Vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử .................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm vùng văn hóa tâm linh ..................................................................... 8

1.1.2.Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên, xã hội ......................................................... 11

1.1.3. Văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo ................................................... 16

1.2. Văn học dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử ...................................... 24

1.2.1. Khái niệm truyện kể dân gian ......................................................................... 24

1.2.2. Truyện kể dân gian và thư tịch, thần tích, thần phả ........................................ 26

1.2.3. Thơ ca dân gian ............................................................................................... 30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 35

iv

Chương 2. KHẢO SÁT HỆ THỐNG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN VÙNG

VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ ................................................................ 36

2.1. Nhận diện và phân loại truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử ..... 36

2.2. Một số đặc điểm nghệ thuật của truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh

Tây Yên Tử ...................................................................................................... 41

2.2.1. Cốt truyện ....................................................................................................... 41

2.2.2. Nhân vật .......................................................................................................... 43

2.2.3. Một số motif tiêu biểu ..................................................................................... 49

2.3. Giá trị phản ánh của truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử .......... 57

2.3.1. Truyện kể dân gian về nhiên thần phản ánh quan niệm vạn vật hữu linh,

quan niệm về môi trường sống ...................................................................... 57

2.3.2. Truyện kể dân gian về nhân thần phản ánh quan niệm “uống nước nhớ

nguồn”, đề cao các nhân vật văn hóa, nhân vật lịch sử ................................. 64

2.3.3. Truyện kể dân gian về Phật giáo và con người Phật pháp phản ánh tinh

thần Phật giáo Trúc Lâm ................................................................................ 69

Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 74

Chương 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỆN KỂ DÂN GIAN VÀ LỄ HỘI

DÂN GIAN VÙNG VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ .............................. 76

3.1. Truyện kể dân gian và lễ hội dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử ..... 76

3.2. Mối quan hệ giữa truyện kể dân gian và lễ hội dân gian (qua khảo sát lễ hội

Suối Mỡ, lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm) ................................................................ 85

3.2.1. Truyện kể dân gian và lễ hội Suối Mỡ............................................................ 85

3.2.2. Truyện kể dân gian và lễ hội Chùa Vĩnh Nghiêm .......................................... 89

3.3. Vai trò, ý nghĩa, giá trị của truyện kể và lễ hội vùng Tây Yên Tử .................... 95

Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 100

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 102

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 104

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

PHỤ LỤC

v

Trang

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Hệ thống các truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng thờ nhiên thần .... 37

Bảng 2.2: Hệ thống các truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng thờ nhân thần .... 39

Bảng 2.3: Hệ thống các truyện kể dân gian phản ánh tinh thần Phật giáo Trúc Lâm ... 40

Bảng 2.4: Bảng hệ thống motif sinh đẻ thần kỳ trong truyện kể dân gian vùng văn

hóa tâm linh Tây Yên Tử ........................................................................ 50

Bảng 3.1: Bảng thống kê một số truyện kể và lễ hội tiêu biểu vùng văn hóa tâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

linh Tây Yên Tử ...................................................................................... 80

vi

GS

: Giáo sư

GS.TS

: Giáo sư Tiến sĩ

Nxb ĐHQGHN

: Nxb Đại học quốc gia Hà Nội

Nxb GD

: Nhà xuất bản Giáo dục

Nxb KHXH

: Nxb Khoa học xã hội

Nxb VHDT

: Nxb Giáo dục

Nxb VHTT

: Nxb Văn hóa thông tin

Nxb

: Nhà xuất bản

PGS

: Phó giáo sư

PGS.TS

: Phó giáo sư Tiến sĩ

tr

: Trang

TS

: Tiến sĩ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1

A. MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Yên Tử là một dãy núi lớn nằm trên cánh cung Đông Triều ôm gọn vùng

trung du Đông Bắc của miền Bắc Việt Nam. Cùng với sườn Đông Yên Tử thuộc

tỉnh Quảng Ninh, sườn Tây Yên Tử thuộc các huyện Yên Dũng, Lục Nam, Lục

Ngạn, Sơn Động của tỉnh Bắc Giang còn lưu lại nhiều di tích, công trình lịch sử,

văn hóa có giá trị với nhiều di sản liên quan đến đời Lí - Trần. Đặc biệt cách chùa

Đồng 2,84 km dưới chân núi Yên Tử là khu bảo tồn sinh thái Đồng Thông thuộc

huyện Sơn Động. Ngoài cảnh quan thiên nhiên với nhiều động thực vật quý hiếm,

Tây Yên Tử còn gắn với nhiều huyền thoại hốt cấu nên hình sông thế núi, với con

đường hoằng dương Phật pháp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và chốn tổ Vĩnh

Nghiêm được coi là trường đại học Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Có thể nói Tây

Yên Tử là một vùng đất có vị trí địa lí quan trọng, là một vùng văn hóa tâm linh đặc

sắc đồng thời là một vùng đất thiêng hội tụ linh khí non sông.

Như suối nguồn bất tận, văn học dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên

Tử nổi bật là mảng truyện kể phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo thấm vào tận cùng

máu thịt mỗi người từ thuở ấu thơ. Mảng truyện kể dân gian này đưa ru tâm hồn

con người muôn đời bằng giá trị đặc sắc và phương thức lưu truyền độc đáo của nó.

Số phận của truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo vùng văn hóa tâm

linh Tây Yên Tử không chỉ tồn tại trong tâm thức và trí nhớ dân gian mà còn tồn tại

trong mối quan hệ sinh tử với những giá trị vật thể hữu hình - nơi các di tích lịch sử

và danh thắng trên khắp các bản làng, các làng quê từ miền núi cao Sơn Động, Lục

Ngạn đến vùng đồi thấp Lục Nam, Yên Dũng. Được nuôi dưỡng trong trí nhớ nhân

dân và di tích lịch sử, truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo vùng văn

hóa tâm linh Tây Yên Tử trở nên sống động, linh thiêng vô cùng trong không khí

diễn xướng ở các lễ hội dân gian. Tìm hiểu hệ thống truyện kể dân gian này ngoài

việc khám phá, phát hiện giá trị của tác phẩm ta còn có thể giải thích được các vấn

đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo... tồn tại trong đời sống tâm linh của người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dân vùng Tây Yên Tử.

2

Trong đời sống hiện nay, cuốn theo hệ lụy của cuộc sống xô bồ giữa thời

đại bùng nổ công nghệ thông tin, số lượng truyện kể dân gian vùng Tây Yên Tử

ngày càng mai một theo thời gian. Nhiều người dân đặc biệt là giới trẻ trong

vùng không biết và không quan tâm đến bảo tồn di sản văn học dân gian trong đó

có các truyện kể phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo. Tư liệu thành văn về truyện kể

dân gian trong vùng cũng rất khiêm tốn với một số cuốn sách của các nhà

nghiên cứu tâm huyết. Hơn thế nữa, trong đời sống đương đại, Tây Yên Tử là

một vùng đất giàu tiềm năng du lịch tâm linh. Năm 2010, tỉnh Bắc Giang đã đề

xuất được chính phủ cho phép xây dựng ĐT 293 dài 73 km nối từ trung tâm

thành phố Bắc Giang tới khu bảo tồn sinh thái Đồng Thông (chân núi chùa

Đồng, Yên Tử). Hiện nay tuyến đường đã hoàn thành và trở thành tuyến giao

thông huyết mạch cho những tuor du lịch tâm linh và sinh thái vùng Tây Yên

Tử. Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử huyện Sơn Động cũng được Ủy Ban

Nhân Dân tỉnh Bắc Giang chọn là một trong 3 cụm di tích trọng điểm về phát

triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cần ưu tiên đầu tư từ ngân sách để xây dựng

hạ tầng du lịch. Các dự án xây dựng khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử đã và

đang được triển khai.

Nghiên cứu “Truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử” vì

thế là một việc làm cần thiết một mặt giúp người viết mở rộng hiểu biết về văn

hóa, văn học dân gian đặc biệt là mảng truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng, tôn

giáo của vùng đất nơi mình trưởng thành, tích lũy thêm tri thức về kho tàng truyện

kể dân gian để có thể liên hệ thực tế trong giảng dạy phần văn học dân gian địa

phương trong nhà trường; mặt khác nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa,

văn học dân gian truyền thống đang có nguy cơ bị mai một trong nhịp sống hối

hả thường ngày đồng thời góp phần làm cho vùng đất Tây Yên Tử trở thành điểm

đến của nhiều du khách trên hành trình du lịch tâm linh tìm về nguồn cội. Từ đó góp

phần phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Tình hình nghiên cứu truyện kể dân gian ở Bắc Giang

Một trong những nét đặc sắc của văn học dân gian nói chung và truyện kể

dân gian nói riêng là gắn bó chặt chẽ với văn hóa vùng, miền. Ở Bắc Giang truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

kể dân gian đã được quan tâm nghiên cứu trong một số công trình như: Địa chí Bắc

3

Giang (2005), Di sản văn hóa Bắc Giang, Văn học dân gian Bắc Giang tập 4 (2008,

Ngô Văn Trụ, Bùi Văn Thành), Báo cáo chuyên đề “Truyện kể dân gian Bắc

giang” (2005, Nguyễn Thu Minh),... Những công trình nghiên cứu này chủ yếu hệ

thống các truyện kể theo hướng sưu tầm, bảo tồn di sản văn hóa mà chưa đi phân

loại truyện kể hay tìm hiểu giá trị của chúng theo các phương pháp nghiên cứu khoa

học văn học để thấy được giá trị của nó trong đời sống tâm linh của nhân dân. Cũng

chưa có công trình nào đi sâu khai thác đặc điểm, tính chất của thể loại trong không

gian văn hóa vùng Bắc Giang.

Phải đến luận án tiến sĩ năm 2011 về đề tài Truyện kể dân gian trong không

gian văn hóa xứ Bắc của Nguyễn Huy Bỉnh, luận văn thạc sĩ năm 2015 về đề tài

Khảo sát truyền thuyết dân gian Bắc Giang của tác giả Phạm Thị Xuyên, truyện kể

dân gian Bắc Giang mới được soi chiếu dưới cái nhìn của khoa học văn học. Nhìn

chung đây là hai công trình nghiên cứu dưới góc độ khoa học văn học rất có giá trị

về truyện kể dân gian tỉnh Bắc Giang. Ngoài ra, vấn đề trên còn được trình bày

trong những tập sách di tích và danh thắng các huyện trong tỉnh, trong một số bài

viết lẻ của các nhà nghiên cứu về phong tục, tín ngưỡng vùng Bắc Giang.

Có thể thấy vấn đề truyện kể dân gian ở tỉnh Bắc Giang đã được các nhà

nghiên cứu tập trung tìm hiểu trong những năm gần đây và đã đạt được kết quả nhất

định. Đây sẽ là nguồn tư liệu quý để người viết áp dụng nghiên cứu đề tài của mình.

2.2. Tình hình nghiên cứu truyện kể dân gian ở vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

Ở vùng Tây Yên Tử, việc sưu tầm, giới thiệu, lưu giữ truyện kể dân gian

cũng được đã được đề cập đến trong một số cuốn sách như: Văn hóa truyền thống

làng xã huyện Yên Dũng (2004, Trần Quốc Thịnh), Di tích danh thắng huyện Yên

Dũng, tập 1 (2016, Ban quản lí di tích của huyện Yên Dũng), Di tích danh thắng

- miền đất địa linh nhân kiệt (2018, Ban quản lí di tích của huyện Yên Dũng), Văn

huyện Yên Dũng, tập 2 (2017, Ban quản lí di tích của huyện Yên Dũng), Yên Dũng

hóa phi vật thể huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang (2007), Văn hóa dân gian huyện

Sơn Động (2006, Nguyễn Thu Minh)... Ở những cuốn sách này các tác giả chủ yếu

tập hợp sưu tầm các giai thoại, truyền thuyết, sự tích, lịch sử, các địa danh, các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phong tục tập quán, nhà thờ dòng họ, giỗ tổ, lễ hội đình, chùa... trong không gian

4

văn hóa thôn, làng. Mảng nghiên cứu của các tác giả trong các cuốn sách có ý nghĩa

đặt nền móng đầu tiên cho việc sưu tầm truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh

Tây Yên Tử. Đến luận văn thạc sĩ Truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả ở Lục

Ngạn - Bắc Giang của tác giả Trần Duy Phương được hoàn thành vào năm 2008,

truyện kể dân gian trong vùng mới được nghiên cứu dưới góc độ khoa học văn học.

Tuy nhiên phạm vi của đề tài chỉ tập trung đề cập đến truyền thuyết Vũ Thành và

những dị bản của nó ở huyện Lục Ngạn mà chưa nghiên cứu về truyện kể dân gian

của cả vùng Tây Yên Tử.

Về nghiên cứu văn hóa du lịch vùng đất Tây Yên Tử phải kể đến các công

trình nghiên cứu có giá trị như: Bảo tồn và khai thác các giá trị di sản văn hóa khu

thắng cảnh suối Mỡ (2011,Trần Văn Lạng, Nguyễn Văn Phong, Phùng Thị Mỹ,

Trần Thu Hương), Bảo tồn di sản văn hóa khu vực Tây Yên Tử gắn với phát triển du

lịch (2015, Hoàng Thị Hoa), Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa phía Tây Yên Tử

(2015, Nguyễn Thị Yến),...

Có thể khẳng định cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu

tìm hiểu về truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử dưới góc độ khoa

học văn học với các phương pháp nghiên cứu của văn học dân gian. Tất cả các công

trình nghiên cứu nói trên chỉ là dấu ấn tư liệu để cho chúng tôi nghiên cứu và hoàn

thiện đề tài luận văn của mình.

Là công trình đầu tiên nghiên cứu về truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm

linh Tây Yên Tử đặc biệt là mảng truyện kể phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo, đề tài

luận văn "Truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử” của chúng tôi

hy vọng sẽ là một công trình góp phần giới thiệu về kho tàng văn hóa, văn học dân

gian truyền thống của vùng đất Tây Yên Tử. Đồng thời đề tài nhằm khẳng định vị

trí quan trọng của truyện kể dân gian phản ánh tín ngương, tôn giáo trong đời sống

tâm linh của người dân địa phương. Từ đó đề cập tới vấn đề bảo tồn và phát huy các

giá trị của truyện kể dân gian, gìn giữ vốn văn hóa, bản sắc vùng, miền, góp phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quảng bá du lịch tâm linh trên địa bàn Tây Yên Tử.

5

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1 . Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu mà đề tài luận văn hướng tới là: Hệ thống truyện kể

dân gian đặc biệt là mảng truyện kể gắn với tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống

tâm linh của nhân dân vùng Tây Yên Tử.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Thực hiện đề tài nghiên cứu chúng tôi hướng đến những mục tiêu cụ thể:

- Nhận diện, phân loại và khảo sát hệ thống truyện kể dân gian đạc biệt là

mảng truyện kể phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử;

tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật và giá trị phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo của hệ

thống truyện kể dân gian trong vùng.

- Xem xét mối quan hệ giữa truyện kể dân gian và lễ hội dân gian vùng văn

hóa tâm linh Tây Yên Tử.

Thực hiện đề tài nghiên cứu chúng tôi hướng tới những nhiệm vụ cụ thể:

- Giới thiệu khái quát vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử; tập hợp và hệ

thống truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử; phân loại, khảo sát

các nhóm truyện kể phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo để chỉ ra một số đặc điểm nghệ

thuật và giá trị phản ánh đời sống tâm linh của hệ thống truyện kể dân gian vùng

văn hóa tâm linh Tây Yên Tử.

- Tìm hiểu mối quan hệ giữa truyện kể dân gian và lễ hội thông qua việc lựa

chọn, giới thiệu truyện kể dân gian và hai lễ hội tiêu biểu là: Lễ hội Suối Mỡ, lễ hội

chùa Vĩnh Nghiêm trong vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điều tra, điền dã: Nghiên cứu luận văn chúng tôi chọn điều

Thực hiện luận văn chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

tra, điền dã là một trong những phương pháp chủ đạo. Chúng tôi tiến hành điền dã

để tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu các truyện kể dân gian, các di tích, lễ hội, phỏng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vấn các bậc cao niên am hiểu về lịch sử, văn hóa của địa phương hay các thành viên

6

trong ban quản lí trùng tu, tôn tạo di tích tại một số làng, xã; ghi chép, chụp ảnh tư

liệu về lễ hội, đền miếu, đình chùa. Ngoài ra chúng tôi còn trực tiếp dự lễ hội Suối

Mỡ và lễ hội Chùa Vĩnh Nghiêm để có thể mô tả về lễ hội và phát hiện ra những nét

- Phương pháp thống kê: Trên cơ sở tập hợp những tài liệu về truyện kể dân

đặc sắc của nó một cách chân xác nhất phục vụ cho nghiên cứu đề tài.

gian đã thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau chúng tôi tiến hành hệ thống, thống

kê, phân loại, sắp xếp thành từng nhóm tài liệu theo các nhóm truyện kể gắn với tín

ngưỡng, truyện kể gắn với tôn giáo trong vùng. Từ đó chúng tôi thống kê, lựa chọn

những truyện kể đặc sắc, những lễ hội tiêu biểu gắn với truyện kể dân gian để thuận

tiện tiến hành việc nghiên cứu đề tài.

- Phương pháp so sánh loại hình: Chúng tôi tiến hành khảo sát các bản kể,

các dị bản truyện kể đã thu thập được, so sánh những motif nổi bật trong các bản kể

để chỉ rõ những nét chung và riêng mang đậm dấu ấn văn hoá vùng Tây Yên Tử ở

hệ thống truyện kể đang nghiên cứu trong đề tài. Đồng thời chúng tôi so sánh truyện

kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử với truyện kể của các vùng lân cận,

gần gũi khác, để tìm ra nét đặc trưng riêng của hệ thống truyện kể được nghiên cứu

- Phương pháp tự sự học: Chúng tôi sử dụng phương pháp tự sự học để xem xét

trong đề tài.

đối tượng nghiên cứu từ cấu trúc tự sự bên trong với những mối quan hệ đa diện ở các

cấp độ khác nhau nhằm chỉ ra những giá trị đặc sắc của nó.

- Phương pháp thi pháp học: Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi

vận dụng phương pháp thi pháp học để nghiên cứu tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật

của các truyện kể trên các phương diện cơ bản như: Kết cấu, nhân vật, một số motif

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Chúng tôi xuất phát từ đặc trưng

tiêu biểu....Từ đó làm sáng rõ đối tượng nghiên cứu

nguyên hợp của văn học dân gian nên vận dụng phương pháp nghiên cứu của các

ngành khoa học khác như: Sử học, Dân tộc học, Văn hóa học, Tôn giáo học... để có

thể soi chiếu truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử từ nhiều góc độ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhiều phương diện.

7

5. Phạm vi nghiên cứu

5.1. Phạm vi về địa lý

Thực hiện luận văn chúng tôi hướng đến phạm vi nghiên cứu về địa lí là:

Vùng Tây Yên Tử (bao gồm các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên

Dũng của tỉnh Bắc Giang).

5.2. Phạm vi về nội dung nghiên cứu

Phạm vi nội dung nghiên cứu là: Hệ thống truyện kể dân gian vùng văn hóa

tâm linh Tây Yên Tử đặc biệt là mảng truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng, tôn

giáo trong vùng.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tư liệu tham khảo nội dung chính

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử và văn học dân gian vùng văn

hóa tâm linh Tây Yên Tử

Chương 2: Khảo sát hệ thống truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây

Yên Tử

Chương 3: Mối quan hệ giữa truyện kể dân gian và lễ hội dân gian vùng văn

hóa tâm linh Tây Yên Tử

7. Những đóng góp của luận văn

Luận văn góp phần bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu giảng dạy truyện kể

dân gian địa phương trong nhà trường, đồng thời bổ sung thêm nguồn tư liệu vốn rất

khan hiếm cho công tác bảo tồn di sản văn hóa, văn học của vùng Tây Yên Tử.

Luận văn cũng góp phần khẳng định Tây Yên Tử là vùng đất có đời sống

tâm linh phong phú với kho tàng truyện kể dân gian rất đặc sắc cần được bảo tồn và

phát huy. Từ đó bồi dưỡng thêm lòng tự hào về truyền thống văn hóa quý báu của quê

hương Bắc Giang, khơi dậy ý thức gìn giữ vốn văn hóa, văn học trong vùng, góp phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quảng bá du lịch trên vùng đất tâm linh Tây Yên Tử và phát triển kinh tế địa phương.

8

B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

VÙNG VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ VÀ VĂN HỌC DÂN GIAN

VÙNG VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ

Trong giới hạn cho phép của đề tài, chúng tôi không đi tìm hiểu, phân tích

sâu về tất cả các vấn đề địa lí, tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội... của vùng Tây

Yên Tử mà chỉ đi vào những yếu tố tạo nên không gian sinh thành và môi trường

lưu truyền của truyện kể dân gian vùng đất này. Vì thế trong quá trình nghiên cứu,

chúng tôi tập trung vào hai vấn đề cụ thể là: Vùng văn hóa tâm linh và văn học dân

gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử.

1.1. Vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

1.1.1. Khái niệm vùng văn hóa tâm linh

1.1.1.1.Vùng văn hóa và sự phân vùng văn hóa

Trên thế giới, các nhà nghiên cứu văn hóa đã thừa nhận có sự tồn tại của các

vùng văn hóa. Nửa cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, L.Moocgan và E.Taylo, những

người đi tiên phong của trường phái tiến hóa hiện đại đã đề cập đến vấn đề tương

đồng văn hóa. Theo Ngô Đức Thịnh, cho đến nay có ba khuynh hướng nghiên cứu

và lí thuyết chính: “Một là lí thuyết “khuếch tán” văn hóa ở Tây Âu, hai là lí thuyết

“vùng văn hóa” ở Mỹ và ba là lí thuyết loại hình kinh tế - văn hóa và khu vực văn

hóa - lịch sử của các nhà khoa học Liên Xô (trước đây)”[65]. Khái niệm vùng văn

hóa cũng được nhiều nhà nghiên cứu trong nước quan tâm trong nhiều công trình

nghiên cứu có giá trị. Ngô Đức Thịnh trong cuốn Văn hóa vùng và phân vùng văn

hóa ở Việt Nam khẳng định: “Vùng văn hóa là một vùng lãnh thổ có những tương

đồng về mặt hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có những mối

quan hệ nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế -

xã hội, giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong

vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong sinh hoạt vật chất và văn

hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với các vùng văn hóa khác” [65, tr.84].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Bỉnh trong công trình nghiên cứu Truyện kể dân gian

9

trong không gian văn hóa xứ Bắc quan niệm “Vùng văn hóa là một dạng thức cơ

bản của không gian văn hóa” [13, tr.26]. Tác giả Võ Đông Hồ trong bài giảng Các

vùng văn hóa Việt Nam cho rằng: “Vùng văn hóa là một không gian văn hóa nhất

định, được tạo thành bởi các đơn vị dân cư trên một phạm vi địa lí của một hay

nhiều tộc người, sáng tạo ra một hệ thống các dạng thức văn hóa mang đậm sắc

thái tâm lí cộng đồng thể hiện trong môi trường xã hội nhân văn thông qua các hình

thức ứng xử của con người với tự nhiên, xã hội và ứng xử với nhau trên một tiến

trình lịch sử phát triển lâu dài” [26, tr.2]. TS Lê Ngọc Thống trong bài giảng Đại

cương văn hóa Việt Nam quan niệm: “Vùng văn hóa là khái niệm phản ánh tính hệ

thống tổng thể của một không gian văn hóa với những đặc trưng chung có thể tạo

nên những nét khác biệt trong so sánh với các vùng văn hóa khác” [70, tr.8].

Vấn đề phân định các vùng văn hóa ở nước ta cũng được nhiều nhà nghiên

cứu quan tâm. Trong công trình nghiên cứu Cơ sở văn hóa Việt Nam nhà nghiên

cứu Trần Quốc Vượng chia các vùng văn hóa Việt Nam thành 6 vùng: “Vùng văn

hóa Tây Bắc; vùng văn hóa Việt Bắc; vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ; vùng văn hóa

Trung Bộ; vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên; vùng văn hóa Nam Bộ” [82].

Ngô Đức Thịnh trong cuốn Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam chia

các vùng văn hóa việt Nam làm 7 vùng: “Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ; vùng việt Bắc;

vùng Tây Bắc và miền núi Trung Bộ; vùng Đồng bằng duyên hải Bắc Trung Bộ;

vùng duyên hải Trung và Nam Trung Bộ; vùng Trương Sơn - Tây Nguyên; vùng Gia

Định - Nam Bộ” [65]. Trong cuốn sách Các Vùng văn hóa Việt Nam Đinh Gia

Khánh, Cù Huy Cận, lại phân chia thành 9 vùng: “Vùng Văn hóa đồng bằng miền

Bắc; vùng văn hóa Việt Bắc; vùng văn hóa Tây Bắc; vùng văn hóa Nghệ Tĩnh; vùng

văn hóa Thuận Hóa - Phú Xuân; vùng văn hóa Tây Nguyên; vùng văn hóa Nam

Trung Bộ; vùng văn hóa đồng bằng miền Nam; vùng văn hóa Thăng Long - Đông

Đô - Hà Nội” [36]. Trong mỗi vùng văn hóa, có thể chia làm nhiều tiểu vùng văn

hóa với những nét đặc thù về không gian địa lí, khí hậu, lịch sử hình thành văn hóa,

tín ngưỡng... của nó.

Kế thừa các quan niệm về vùng văn hóa và sự phân định các vùng văn hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đã trình bày ở trên của các nhà nghiên cứu, ở đề tài này, chúng tôi nhìn nhận vùng

10

văn hóa tâm linh Tây Yên Tử là một tiểu vùng văn hóa nằm trong vùng văn hóa

châu thổ Bắc Bộ theo chủ trương chia vùng của Trần Quốc Vượng - vùng văn hóa

đồng bằng Bắc Bộ theo quan niệm phân vùng của Ngô Đức Thịnh - vùng văn hóa

đồng bằng miền Bắc trong sự phân chia vùng văn hóa của Đinh Gia khánh, Cù Huy

Cận. Đây cũng là vùng đất nằm trong tiểu vùng văn hóa Kinh Bắc (tên dân gian) -

văn hóa xứ Bắc (tên do nhà nước đặt ra) - vùng đất cụ thể ở phía Bắc kinh thành

Thăng Long - Hà Nội xưa.

1.1.1.2. Khái niệm văn hóa tâm linh và vùng văn hóa tâm linh

Ở Việt Nam hiện nay, tâm linh là một vấn đề phức tạp còn nhiều ý kiến tranh

cãi. Văn hóa tâm linh cũng là một khái niệm mới xuất hiện và vẫn còn nhiều ý kiến

khác nhau. Tác giả Nguyễn Đăng Duy trong cuốn Văn hóa tâm linh quan niệm:

“Văn hóa tâm linh được hiểu là văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong

cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng

tôn giáo” [20, tr.26]. Tác giả Hoàng Minh Phương trong công trình nghiên cứu Văn

hóa tâm linh trong văn xuôi trung đại cho rằng: “Văn hóa tâm linh là những giá trị

văn hóa tinh thần thiêng liêng bao gồm những giá trị văn hóa vô hình (những nghi

lễ, ý niệm, tập tục, lễ hội...) và những giá trị hữu hình phát tín hiệu thiêng liêng

(đình, đền, miếu, chùa....) [56, tr.14]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài viết

Văn học và văn hóa tâm linh khẳng định: “Xét về góc độ nhân loại văn hóa tâm linh

là một bình diện của văn hóa các tộc người gắn với các phong tục tập quán cố định

trong ngôn ngữ, đúc rút thành các motif, các mẫu gốc thi pháp của các truyện kể

truyền thống” [59]. Tác giả Đặng Văn Bài trong bài viết Tản mạn về văn hóa tâm

linh của người Việt lại cho rằng: “Văn hóa tâm linh là thái độ ứng xử văn hóa của

con người đối với các lực lượng siêu nhiên, thần linh với người đã khuất” [5]. Quan

điểm về văn hóa tâm linh của các nhà nghiên cứu kể trên tuy chưa thống nhất

nhưng cùng đề cập đến diện mạo chung của văn hóa tâm linh gắn với đời sống

tinh thần của con người. Xuất phát từ sự gặp gỡ trong những quan điểm đó,

chúng tôi coi văn hóa tâm linh là một bình diện văn hóa của các tộc người gắn

với những giá trị văn hóa thiêng liêng vừa vô hình vừa hữu hình trong đời sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tinh thần của nhân dân.

11

Ở Bắc Giang hiện nay, kế hoạch xây dựng khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

tại khu vực Đồng Thông xã Tuấn Mậu huyện Sơn Động đã và đang được triển khai

nhằm làm sống lại không gian văn hóa, hệ thống đền, chùa, di tích lịch sử, danh

lam, thắng cảnh trong vùng. Khu văn hóa tâm linh được qui hoạch thuộc trục đường

mòn phía sườn Tây Yên Tử lên chùa Đồng có diện tích 13,8 ha. Song, theo quan

điểm của chúng tôi văn hóa tâm linh không chỉ tồn tại ở khu vực Đồng Thông mà

nó bao trùm cả vùng Tây Yên Tử. Tiếp thu và kế thừa những nghiên cứu của các

học giả kể trên về vùng văn hóa và văn hóa tâm linh chúng tôi coi vùng văn hóa tâm

linh là vùng văn hóa gắn với những giá trị thiêng liêng vừa vô hình vừa hữu hình

trong đời sống tinh thần của con người. Tây Yên Tử là một tiểu vùng văn hóa nằm

trong vùng văn hóa Đồng Bằng Bắc Bộ đồng thời là một vùng văn hóa tâm linh đặc

sắc bởi nó gắn với con đường hoằng dương phật pháp của Phật Hoàng Trần Nhân

Tông, với những giá trị văn hóa vô hình và hữu hình rất thiêng liêng như: tín ngưỡng,

tôn giáo vùng Tây Yên Tử và nhiều lễ hội đi liền với hệ thống đình, đền, chùa, miếu ...

trải khắp vùng. Nó có vai trò quan trọng góp phần hình thành và phát triển vùng văn

hóa Đồng Bằng Bắc Bộ nói riêng và nền văn hóa Việt Nam nói chung.

1.1.2.Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên, xã hội

Yên Tử là một dãy núi lớn nằm trong vùng cánh cung Đông Triều thuộc

vùng trung du Đông Bắc của miền Bắc Việt Nam. Chùa Đồng tọa lạc trên đỉnh Yên

Tử được coi là trung tâm thánh địa phật giáo, nơi tế trời linh thiêng đến mức có thể

“hô phong, hoán vũ” được. Nơi đây còn in đậm dấu ấn tâm linh với những di tích

lịch sử, văn hóa gắn với sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và những chứng

tích quý giá của thời đại nhà Trần.

Tây Yên Tử gồm 4 huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Dũng của

tỉnh Bắc Giang với diện tích 2680,32 km2. Đây là vùng đất có vị trí chiến lược quan

trọng nằm trong vùng phên dậu phía Bắc của Tổ quốc cũng là nơi diễn ra các trận

đánh lớn của nhân dân ta với các thế lực xâm lược phương Bắc. Trong sách Dư địa

chí Nguyễn Trãi đã xác định: “Kinh Bắc là trấn thứ tư trong bốn kinh trấn và đứng

đầu phên dậu phía Bắc”. Đây cũng là con đường hoằng dương phật pháp của Phật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hoàng Trần Nhân Tông. Về ranh giới hành chính, Tây Yên Tử thuộc khu vực phía

12

Đông Bắc của tỉnh Bắc Giang: Phía Bắc giáp với huyện Lộc Bình, Đồng Mỏ, Chi

Lăng tỉnh Lạng Sơn; phía Nam, Đông Nam giáp huyện Đông Triều tỉnh Quảng

Ninh, huyện Chí Linh Hải Dương; phía Đông, Đông Bắc giáp huyện Đình Lập tỉnh

Lạng Sơn, huyện Ba Chẽ tỉnh Quảng Ninh; phía Tây, Tây Bắc giáp huyện Lạng

Giang, huyện Việt Yên và thành phố Bắc Giang; phía Tây Nam giáp huyện Quế Võ,

tỉnh Bắc Ninh. Trên địa bàn của vùng có tuyến quốc lộ 31 từ thành phố Bắc Giang

đi Sơn Động chạy qua trung tâm của một số huyện Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động;

Quốc lộ 37 nối liền Bắc Giang với Hải Dương qua trung tâm thị trấn Đồi Ngô của

huyện Lục Nam và ĐT 293 - con đường tâm linh đã được hoàn thành kết nối sườn

Tây Yên Tử với khu di tích danh thắng Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh...Các tuyến

đường này tạo điều kiện khá thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa của các

huyện trong vùng với các huyện khác trong tỉnh.

Về điều kiện tự nhiên, Tây Yên Tử có địa hình phong phú đa dạng: Đồi núi

và trung du có đồng bằng xen kẽ, nghiêng dần từ hướng Đông Bắc xuống Tây Nam.

Địa hình đồi núi cao chia cắt mạnh, phức tạp, chênh lệch về độ cao lớn chủ yếu

thuộc huyện Sơn Động xuôi dần về một phần huyện Lục Ngạn và một phần huyện

Lục Nam. Giữa các triền núi là những cánh đồng nhỏ hẹp thuận lợi cho phát triển

nông nghiệp. Địa hình đồi thấp trung du và đồng bằng xen kẽ thuộc về một phần

của huyện Lục Ngạn, Lục Nam và toàn bộ diện tích của huyện Yên Dũng. Khí hậu

Tây Yên Tử mang đặc trưng đầy đủ của khí hậu vùng Đông Bắc, Bắc Bộ là nhiệt

đới gió mùa với 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ trung bình hàng năm của

vùng khoảng 23,5oC, tương đối ôn hòa. Lượng mưa hàng năm trung bình khoảng

1500 mm tập trung từ tháng 5 đến tháng 9. Độ ẩm không khí trung bình dao động

từ 72% - 85%. Đây cũng là vùng chịu ảnh hưởng sâu của gió mùa Đông Bắc vào

mùa đông, tốc độ gió trung bình 2,2m/s; vào mùa hè có gió Đông Nam và là vùng

ít có ảnh hưởng của bão...Tất cả những điều kiện về khí hậu này đủ đáp ứng nhu

cầu canh tác và thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp với nhiều loại cây trồng

đa dạng trong vùng.

Tây Yên Tử có nguồn tài nguyên thiên nhiên khá đa dạng và phong phú.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Theo kết quả điều tra gần đây nhất vùng có 6 nhóm đất chính và 14 nhóm đất phụ.

13

Tiêu biểu là nhóm đất phù sa được bồi đắp bởi 3 con sông: Sông Cầu, sông Thương,

sông Lục Nam tạo nên những đồng bằng trù phú xen kẽ ở khắp vùng đặc biệt ở các

vùng lưu vực sông Lục Nam huyện Lục Nam và lưu vực sông Thương, sông Cầu ở

huyện Yên Dũng. Nhóm đất này, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp

và góp phần tác động đến sự hình thành và phát triển nền văn hóa, văn minh nông

nghiệp lúa nước; nhóm đất Feralit trên núi trên núi cao và đồi thấp thích hợp với

phát triển lâm nghiệp với việc trồng rừng, trồng các cây công nghiệp, cây ăn quả

như: Nhãn, vải thiều, hồng, na... Đáng chú ý là cây vải thiều ở huyện Lục Ngạn cho

hiệu quả kinh tế cao. Tài nguyên nước trong vùng cũng khá dồi dào. Nguồn nước

ngầm nằm không quá sâu, chất lượng nước tương đối tốt đáp ứng nhu cầu sinh hoạt

của người dân trong vùng. Nguồn nước mặt có lưu lượng khá lớn được tập trung từ

3 con sông nói trên dài khoảng 130 km,cùng với các hồ chứa lớn như: Hồ Cấm Sơn

huyện Lục Ngạn (trữ lượng nước khoảng 307 triệu m3), hồ Suối Mỡ huyện Lục

Nam (trữ lượng nước khoảng 2,024 triệu m3)... và nhiều sông, suối, hồ nhỏ khác

đáp ứng nhu cầu sản xuất và phát triển kinh tế của nhân dân trong vùng. Tây Yên

Tử còn có nguồn tài nguyên khoáng sản quý như: Than, đồng, vàng, sa khoáng, đá,

sỏi, cát, đất sét với các mỏ nằm rải rác khắp vùng tạo điều kiện thuận lợi phát triển

kinh tế trong vùng. Nguồn tài nguyên rất đáng chú ý của vùng là tài nguyên rừng

với hệ động, thực vật phong phú nơi những cánh rừng nguyên sinh đại ngàn chủ yếu

thuộc xã An Lạc, Thanh Sơn, Thanh Luận huyện Sơn Động và xã Lục Sơn, huyện

Lục Nam. Diện tích rừng tự nhiên chiếm khoảng 64% diện tích tự nhiên của cả

vùng (khoảng 1736ha/2686ha). Theo thống kê sơ bộ rừng Tây Yên Tử có tới 728

loài thực vật, thuộc 129 Chi của 86 Họ và 226 loài động vật thuộc 81 Họ của 24 Bộ,

trong đó nhiều loại động, thực vật quý hiếm nằm trong sách đỏ của Việt Nam. Thực

vật có các loài như: Đinh, Lim, Sến, Gụ, Táu lá nhỏ...Các loại dược liệu quý hiếm

như: Sa nhân, Mộc hoa trắng, Ba kích, Ngũ gia bì, Hoàng tỉnh lá có cánh... Động

vật có các loài như Vọoc đen, Chó Sói, Khỉ vàng, Sóc bay, Gà tiền, Hổ mang chúa...

Tây Yên Tử là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi về cả vị trí địa lí và điều

kiện tự nhiên. Sự ưu đãi của thiên nhiên khiến cho vùng đất này được biết đến với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

những thắng cảnh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ say đắm lòng người như: Thắng

14

cảnh rừng nguyên sinh khe Rỗ, xã An Lạc, huyện Sơn Động; thắng cảnh suối

Nước Vàng, xã Lục Sơn, suối Mỡ, xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam; thắng cảnh

Đồng Cao, xã Thạch Sơn, huyện Sơn Động; thắng cảnh khu du lịch sinh thái Đồng

Thông, xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động; thắng cảnh Hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần,

huyện Lục Ngạn... Ngoài ra sông Lục Nam hòa cùng núi rừng trùng điệp của vùng

Đông Bắc tạo nên một thắng cảnh hùng vĩ được mệnh danh là “một trường giang

đẹp nhất Bắc kì”. Xen kẽ với thắng cảnh thiên nhiên là hệ thống đình, chùa, am,

tháp trải dọc các triền sông và nằm rải rác trên những ngọn núi cao nuôi dưỡng đời

sống tâm linh của nhân dân trong vùng.

Về điều kiện xã hội, Tây Yên Tử là một vùng đất đa dân tộc. Theo số liệu

điều tra năm 2016 dân số của Tây Yên Tử có khoảng 652 000 người với 13 dân tộc

sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Cao Lan, Dao, Sán Dìu,

Sán Chí, Hoa. Trong quá trình sinh sống vùng đất này cũng đón nhận cư dân ở

nhiều vùng, miền đến khai phá, làm ăn và cư trú.

Trong các dân tộc sinh sống ở vùng Tây Yên Tử, người Kinh có số lượng

đông đảo. Họ cư trú ở khắp các huyện trong vùng, nhiều nhất là ở huyện Yên Dũng.

Họ là chủ nhân của quá trình làm ăn, sinh sống và phát triển kinh tế của vùng.

Người Kinh nơi đây chủ yếu trồng lúa, làm nghề thủ công, kinh doanh, buôn bán.

Sau một quá trình dài trồng lúa nước và làm ăn buôn bán họ đã tích lũy được những

kinh nghiệm quý báu, hoàn thiện các phương pháp, qui trình canh tác, nắm bắt được

qui luật thị trường nên đời sống của họ ngày càng được nâng cao. Nhiều hợp tác xã,

nhiều làng nghề truyền thống xuất hiện trong vùng khiến cho kinh tế vùng ngày

càng phát triển.

Các dân tộc thiểu số trong vùng sinh sống chủ yếu ở các huyện Sơn Động,

Lục Ngạn, Lục Nam. Mỗi dân tộc có đời sống sinh hoạt cũng như đặc điểm cư trú

khác nhau tạo nên bức tranh đa sắc màu dân tộc của vùng Tây Yên Tử. Người Tày

xuất hiện sớm nhất trong các cộng đồng dân tộc thiểu số trong vùng. Đây là một tộc

người có kết cấu nội bộ cộng đồng khá thuần nhất. Họ thường cư trú ở các thung

lũng trong các bản làng, trên những cánh đồng màu mỡ, trong các ngôi nhà to, rộng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chắc như: Nhà sàn, nhà đất, nhà phòng thủ. Nông nghiệp là nghề chính của người

15

Tày gắn với việc canh tác nhiều loại cây trồng. Ngoài ra người Tày cũng giỏi nghề

chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn và bắt cá. Nếu như người Tày sống phân tán ở

cả bốn huyện nhưng chủ yếu tập trung ở huyện Lục Ngạn thì người Nùng lại sinh

sống trên địa bàn của ba huyện: Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động. Họ sống quây

quần trên các bản làng ở sườn đồi và chân núi và lấy nương dãy làm nguồn sống

chủ yếu. Ngoài canh tác thành thạo, người Nùng còn trồng bông, kéo sợi, dệt vải,

chăn nuôi gia súc. Đặc biệt, người Nùng có nghề rèn, đúc đạt đến trình độ kĩ thuật

cao. Các sản phẩm rèn, đúc của họ được người tiêu dùng khắp nơi ưa chuộng. Cao

Lan - Sán Chí cũng là tộc người sinh sống chủ yếu ở các huyện Lục Ngạn, Sơn

Động trong vùng Tây Yên Tử. Người Cao Lan chủ yếu sống ở nhà sàn và lấy nghề

trồng trọt làm nguồn sống chính. Còn người Sán Chí chủ yếu ở nhà đất, nói ngôn

ngữ Hán Quảng Đông. Đồng bào dân tộc Dao cũng quần tụ tập trung ở hai huyện

Lục Nam, Lục Ngạn của vùng. Người Dao vốn là một cộng đồng người sống du

canh, du cư tới Việt Nam và sống trên địa bàn Tây Yên Tử. Người Dao ban đầu lấy

nương rẫy du canh, du cư làm nguồn sống chính nên trình độ canh tác thấp. Về sau,

họ chuyển dần sang làm ruộng, làm nương và định canh, định cư nên đời sống ổn

định hơn, trình độ canh tác ngày càng nâng cao. Nghề thủ công của người Dao cũng

phát triển với những sản phẩm đan lát, dệt vải, chạm bạc, đồ trang sức tinh xảo

được nhiều người ưa chuộng. Cộng đồng người Sán Dìu cũng có mặt ở sườn Tây

Yên Tử. Họ sống tập trung ở các chân núi và vùng đồi thấp trên địa bàn huyện Lục

Nam, Lục Ngạn. Họ giỏi trồng lúa nước, trồng màu, giàu kinh nghiệm khai hoang,

đánh bắt và nổi trội về nghề mộc. Bên cạnh người Sán Dìu, người Hoa cũng có mặt

ở vùng Tây Yên Tử. Đây là một dân tộc thiểu số du nhập vào nước ta từ rất sớm.

Họ sống tập trung theo dòng họ, có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp

và trồng cây công nghiệp. Ngoài các dân tộc thiểu số đã nói ở trên Tây Yên Tử còn

có một số dân tộc ít người khác sinh sống song số lượng không đáng kể.

Nhìn chung các dân tộc sinh sống và cư trú trên địa bàn Tây Yên Tử đều lấy

nghề nông làm nguồn sống chính. Các dân tộc đều có đời sống tinh thần phong phú.

Người Kinh coi trọng tổ tiên, gia đình quần tụ bên nhau, quan hệ họ hàng làng xóm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

gắn bó. Trong các làng xã đều có các đình, chùa, miếu mạo gắn với các lễ hội lớn

16

nhỏ trải khắp vùng. Sinh hoạt văn hóa của người Kinh cũng rất phong phú đa dạng

với nhiều đặc sản như: Hát quan họ, hát chèo, hát Ống, hát Ví.... Đời sống tinh thần

của người Tày cũng gắn với đình, chùa, lễ hội hàng năm. Cây đàn tính và điệu hát

Then trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người Tày. Gia đình người

Nùng sống với nhau rất hòa thuận. Cha mẹ yêu thương con cái và con cái biết nghe

lời cha mẹ, biết kính trên nhường dưới. Hát Sli cùng với kho tàng truyện thơ khá đồ

sộ và lễ hội Lồng Tồng đã nuôi dưỡng đời sống tinh thần của người Nùng vùng Tây

Yên Tử từ khi xuất hiện cho đến nay. Kiểu gia đình của người Cao Lan - Sán Chí

cũng là kiểu gia đình phụ quyền. Người Cao Lan - Sán Chí cũng luôn khao khát

nhận thức về thế giới xung quanh. Đời sống tinh thần của họ được phản ánh trong

mảng truyện kể phong phú kể về quá trình sáng tạo vũ trụ, nguồn gốc loài người và

trong hình tượng các nhân vật anh hùng chinh phục thiên nhiên. Đặc biệt họ thường

đắm mình trong hình thức dân ca Sịnh Ca để thể hiện những nhận thức của đồng

bào dân tộc mình về tự nhiên, xã hội, con người. Bên cạnh những tộc người kể trên

người Dao cũng có đời sống tinh thần rất phong phú với hệ thống truyện kể dân

gian, ca dao, tục ngữ khá đặc sắc.

Trong quá trình sinh sống hàng ngàn năm các dân tộc không không ngừng

giao lưu tiếp xúc về nhiều mặt: Văn hóa, kinh tế, đời sống tinh thần ...tạo nên một

vùng giao thoa văn hóa đồng thời hình thành một vùng văn hóa tâm linh đặc sắc cho

sườn Tây Yên Tử. Những yếu tố văn hóa tâm linh đặc sắc ấy qua cảm quan nghệ

thuật của các tác giả dân gian đã đi vào hệ thống truyện kể dân gian của vùng một

cách tự nhiên.

1.1.3. Văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo

Tây Yên Tử là một vùng văn hóa đa dạng và đặc sắc vừa có tính chất đan

xen vừa có tính chất hội tụ và giao thoa. Đây là vùng đất giao thoa giữa hai miền

văn hóa Việt cổ (Bắc Ninh) và văn hóa Tày - Nùng (Lạng Sơn). Vùng đất này còn

là nơi quần cư của nhiều tộc người khác nhau nên nền văn hóa của các tộc người

cùng tồn tại tạo nên bức tranh đa sắc màu của văn hóa vùng. Trong quá trình hình

thành và phát triển cư dân ở nhiều nơi như: Thái Bình, Hải Dương, Thanh Hóa ... di

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chuyển đến và sinh sống tại vùng. Họ đem theo những tập tục văn hóa của vùng đất

17

họ đã từng sinh sống tác động đến văn hóa của cư dân bản xứ khiến cho văn hóa

của cư dân bản xứ biến đổi ở một mức độ nào đó và ngược lại văn hóa của họ cũng

có những biến đổi nhất định theo văn hóa truyền thống của cư dân bản xứ tạo nên

tính chất hội tụ của văn hóa trong vùng. Đặc điểm văn hóa này là một trong những

yếu tố góp phần hình thành ở Tây Yên Tử một kho tàng văn hóa vật thể và phi vật

thể cùng với văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần vô cùng phong phú, đặc sắc.

Về di sản văn hóa vật thể, Tây Yên Tử còn lưu giữ được nhiều địa điểm khảo

cổ cùng những di vật quí hiếm thuộc văn hóa thời đại đá cũ ở An Châu, Khe Táu

(Sơn Động), Chũ (Lục Ngạn) và di chỉ thuộc văn hóa thời đại đồ đá mới như chiếc

rìu đá có vai lệch màu vàng được các nhà khảo cổ tìm thấy ở Mai Sưu (Lục Nam).

Những di vật khảo cổ quí hiếm cùng với những huyền tích, thần tích, thần phả còn

lưu lại cho thấy con người đã đến vùng đất này cư trú từ rất sớm. Trên đất Tây Yên

Tử còn khá nhiều di tích lịch sử - văn hóa với nhiều loại hình và giá trị độc đáo

khác nhau. Theo thống kê sơ bộ đến năm 2017 cả vùng có 192 di tích lịch sử - văn

hóa được công nhận là di tích lịch sử - văn hoa cấp Tỉnh (Lục Nam: 67 di tích; Sơn

Động: 12 di tích; Lục Ngạn: 40 di tích; Yên Dũng: 73 di tích). Trong đó có 2 di tích

cấp quốc gia đặc biệt là: Chùa Kem (Sùng Nham Tự) thuộc xã Nham Sơn, huyện

Yên Dũng; chùa Vĩnh Nghiêm (chùa Đức La) thuộc xã Trí Yên, huyện Yên Dũng -

nơi lưu giữ kho Mộc Bản kinh phật nổi tiếng được UNESCO vinh danh công nhận

là di sản tư liệu kí ức thế giới khu vực Châu Á -Thái Bình Dương vào năm 2012.

Dân gian còn lưu truyền nhiều câu ca gợi về niềm tự hào của nhân dân địa phương

trước di sản văn vật thể chùa Vĩnh Nghiêm như: “Ai qua Yên Tử, Quỳnh Lâm/ Vĩnh

Nghiêm chưa tới thiền tâm chưa đành” hay “Thứ nhất là chùa Đức La/ Thứ nhì

chùa Bổ, thứ ba chùa Đền”. Ngoài ra còn 778 di tích văn hóa - lịch sử là các đình,

đền, chùa miếu... nằm ở khắp các làng, xã, thôn, bản trong vùng. Hệ thống di tích

này là những chứng tích của lịch sử đồng thời là minh chứng cho kho tàng văn hóa

vật thể đặc sắc của nhân dân Tây Yên Tử.

Di sản văn hóa vật chất của các tộc người trong vùng cũng rất phong phú.

Người Tày còn lưu giữ những ngôi nhà sàn độc đáo với bộ vì kèo truyền thống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

gồm: Cái ghé hình quả bầu dài và cây trụ ngồi trên quá giang sà nách. Nhà Sàn của

18

người Cao Lan - Sán Chí lại được quan niệm là con trâu thần (Thủy Ngưu - Trâu

nước) với bố cục chức năng rất độc đáo. Nhạc cụ trong các dân tộc thiểu số nơi đây

cũng rất đa dạng bao gồm: Trống da, chuông, sáo trúc, nhị, đàn tính, đàn tì bà, tam

thập lục, tù và... Nghệ thuật tạo hình của các tộc người cũng in đậm dấu ấn văn hóa

vật chất với tranh thờ, dệt thổ cẩm trên y phục, chạm bạc, khắc gỗ...

Về di sản văn hóa phi vật thể, Tây Yên Tử cũng là nơi sản sinh, truyền lưu

nhiều di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc. Di sản văn hóa đặc sắc ấy trước hết được

in đậm trong kho tàng dân ca của các dân tộc. Nếu như người Kinh trong vùng tự

hào vì có dân ca Quan họ, hát Chèo, hát Ống, hát Ví thì đồng bào các dân tộc thiểu

số lại kiêu hãnh với điệu hát Sli của dân tộc Nùng, điệu hát Then, dân ca Lượn và

Phong - Slư của người Tày, dân ca Sịnh Ca của người Cao Lan, dân ca Sọong cô

của dân tộc Sán Dìu... Những điệu hát dân ca này đã nuôi dưỡng đời sống tinh thần

của cộng đồng người cư trú trên địa bàn Tây Yên Tử tự ngàn đời. Bên cạnh đó, các

dân tộc trong vùng còn có một kho tàng truyện kể, ca dao, tục ngữ, truyện cười, di

sản Hán Nôm....phong phú, đặc sắc và độc đáo vô cùng. Vùng đất Tây Yên Tử còn

là xứ sở của hội hè. Hàng năm vùng có đến hàng trăm lễ hội gắn với đời sống tâm

linh của con người. Tiêu biểu như lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng), lễ hội

Suối Mỡ (Lục Nam), lễ hội đền Hả (Lục Ngạn), lễ hội bơi chải ở An Châu (Sơn

Động), lễ hội Tây Yên Tử ở xã Tuấn Mậu (Sơn Động)... Lễ hội đã trở thành một

phần đời sống tâm linh rất thiêng liêng trong mỗi con người Tây Yên Tử. Đó là nhu

cầu tinh thần không thể thiếu trong đời sống của họ .

Văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú trong vùng cũng

là những di sản văn hóa phi vật thể đã và đang được bảo tồn. Ngoài các làn điệu dân

ca đặc sắc phản ánh đời sống tâm hồn của các tộc người, phong tục tập quán của họ

cũng in đậm dấu ấn văn hóa tinh thần: Người Cao Lan có tục tổ chức tết cơm mới

vào kì thu hoạch (vào tháng 8 âm); người Sán Chí luôn cầu mong thần linh phù hộ

cho con người bảo vệ mùa màng nên họ phụng thờ các vị thần; người Sán Dìu luôn

cầu mong nhà cửa được bình an, mọi người trong gia đình khỏe mạnh, làm ăn may

mắn nên hàng năm vào dịp đầu xuân thường tổ chúc lễ Kì Yên (khí on son); người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Dao trong vùng có tục thờ cúng Bàn Vương, tục cấp sắc; người Hoa có tục lệ thờ

19

cúng Táo quân rất lớn vào ngày 23 tháng chạp... Những tập tục này đã ăn sâu vào

nếp cảm, nếp nghĩ của các tộc người từ nhiều thế hệ. Nó góp phần tạo nên sự phong

phú, đa dạng của kho tàng văn hóa tinh thần của nhân dân trong vùng.

Trải qua hàng ngàm năm dựng nước và giữ nước người Tây Yên Tử không

ngừng đấu tranh để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc, bảo vệ từng tấc đất của cha

ông. Quá trình đấu tranh ấy gắn liền với truyền thống yêu nước thiết tha, truyền

thống đoàn kết của đồng bào các dân tộc trong suốt tiến trình lịch sử. Lịch sử đấu

tranh của nhân dân Tây Yên Tử là lịch sử của một tư thế sống không biết cúi đầu.

Từ thời Hùng Vương đến nay nhân dân trong vùng dưới sự chỉ đạo của những

người anh hùng đã vùng lên đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi. Tên tuổi và dấu ấn

chiến công oai hùng của nhiều anh hùng chống ngoại xâm còn lưu giữ ở khắp các

làng quê trong vùng. Đó là Cao Sơn - Quý Minh - những vị tướng tài giỏi thời vua

Hùng; là Vũ Thành, Vi Hùng Thắng, Vi Đức Lục, Trần Tuấn Sơn, Trần Hưng Đạo -

những vị tướng tài của các triều đại phong kiến đã cống hiến hết mình cho sự

nghiệp phá Tống, bình Nguyên của dân tộc; là biết bao người con của quê hương

Tây Yên Tử đã dâng hiến đời xanh tuổi trẻ của mình cho đời xanh tuổi trẻ của dân

tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Họ đã thắp sáng ngọn lửa

yêu nước cho thế hệ mai hậu. Ghi nhớ công ơn của những người anh hùng chống

giặc ngoại xâm, nhân dân trong vùng lập đền, miếu thờ phụng với niềm tin bất diệt

về sự phù hộ độ trì của họ đối với con cháu về sau.

Người dân sườn Tây Yên Tử cũng luôn tự hào về truyền thống đoàn kết, lao

động, xây dựng quê hương giàu đẹp của mình. Ở huyền thoại, huyền tích truyền

thống này đã đằm sâu trong hình ảnh ông khổng lồ với những nàng tiên giúp ông

khổng lồ đắp núi tạo nên thắng cảnh núi non sơn thủy, hữu tình. Cư dân trong vùng

từ xa xưa, chủ yếu lấy nông nghiệp làm nguồn sống nên họ chăm chỉ, cần cù, yêu

lao động. Trải qua các triều đại phong kiến người dân nơi đây cũng luôn đặt việc

đắp đê làm thủy lợi lên hàng đầu. Tên tuổi của các nhân vật văn hóa vì thế còn lưu

lại khắp vùng miền qua các truyền tích và những truyện kể dân gian, những đình,

đền, miếu mạo thờ cúng những nhân vật anh hùng văn hóa và các phong tục tập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quán lâu đời về thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, mở hội xuân... trong vùng. Thời Hùng

20

Vương có công chúa Quế Mị Nương giúp dân mở đất, mở nước làm nông nghiệp.

Thời Trần có vua Trần Minh Tông giúp dân đắp đê Tiên La, Trần Thủ Độ giúp dân

làm thủy lợi diệt trừ mãng xà ở khu vực Hương Tảo, Yên Dũng... Ngày nay con em

các dân tộc Tây Yên Tử có tri thức, có học vị và thành đạt trong nhiều lĩnh vực. Họ

trở về đem sức mình xây dựng quê hương. Nhiều hợp tác xã được thành lập, nhiều

thương hiệu nổi tiếng xuất hiện là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của truyền

thống đoàn kết, lao động xây dựng quê hương của người dân nơi đây.

Tây Yên Tử còn là vùng đất giàu truyền thống hiếu học, khoa cử, truyền

thống cách mạng và nhiều truyền thống khác. Song, trong phạm vi của luận văn

chúng tôi chỉ đề cập đến một số truyền thống liên quan đến đề tài.

Tín ngưỡng, tôn giáo đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử loài người. Nó tồn

tại, phát triển và có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội ở mọi thời đại. Ở

Việt Nam tín ngưỡng và tôn giáo có nhiều điểm khác biệt song đều là sự thể hiện

niềm tin vào cái thiêng, sự ngưỡng mộ của chủ thể con người vào một thực thể siêu

nhiên nào đó như: Thượng đế, Thần, Phật, Thánh... nhằm thể hiện khát vọng xây

dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và hướng con người tới sự giải thoát về mặt tinh

thần. Tín ngưỡng và tôn giáo vì thế có mối quan hệ chặt chẽ và có sự giao thoa với

nhau. Trong thực tế đời sống của người dân Việt Nam, tín ngưỡng dân gian cũng

được coi là tôn giáo dân gian.

Về khái niệm văn hóa tín ngưỡng, tác giả Nguyễn Văn Bốn trong bài Văn hóa

tín ngưỡng đã viết: “Văn hóa tín ngưỡng là hệ thống giá trị về những phương cách

ứng xử của con người đối với thế giới siêu nhiên hay xã hội có liên quan đến đời

sống của mình. Những phương cách ứng xử đó phản ánh các điều kiện vật chất và

tinh thần tương ứng với môi trường tự nhiên và xã hội của một cộng đồng cư dân”

[14]. Hiểu theo quan niệm này văn hóa tín ngưỡng được tiếp cận từ những giá trị văn

hóa vật thể, văn hóa phi vật thể thông qua các cơ sở thừa tự, nghi lễ thờ cúng, các

truyện kể dân gian, địa danh và lễ hội liên quan đến tín ngưỡng bản địa và tín ngưỡng

ngoại lai của người Việt.

Ở Việt Nam từ thời cổ đã có các hình thức thực hành tín ngưỡng, tôn giáo

đối với các đối tượng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản

ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy. Trong đó mô tả rất nhiều về hình ảnh một loài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chim, mà cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng, chúng là đối tượng được

21

người Việt cổ tin thờ. Ngoài ra, con rồng cũng được xuất hiện nhiều trong các sản

phẩm nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ, kính Lạc Long Quân -

một huyền thoại về người được cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó,

các đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi, sông, biển... cũng được người

Việt tôn làm thần bảo vệ, ban phúc cho con người. Tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt

Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ nhưng người

Việt đã kết hợp yếu tố truyền thống đạo đức dân tộc mình vào đó để hình thành bản

sắc dân tộc riêng biệt.

Các tôn giáo có mặt lâu đời tại Việt Nam là: Khổng giáo, Lão giáo và Phật

giáo (gọi chung là tam giáo). Trong số các tôn giáo đó, Phật giáo có số tín đồ đông

đảo nhất. Phật giáo là một tôn giáo ngoại lai du nhập vào Việt Nam khá sớm. Từ Ấn

Độ, Phật giáo đến với trung tâm Luy Lâu của Quận Giao Chỉ qua các đoàn thuyền

buôn và dung hợp với những tín ngưỡng bản địa trở thành tôn giáo không thể thiếu

trong đời sống của nhân dân. Người dân đất Việt từ ngàn xưa, tin vào thuyết luân

hồi từ, bi, hỉ, xả của nhà Phật. Họ tin rằng: Ông trời ở trên cao thấu hiểu mọi việc,

biết rõ người tốt kẻ xấu, phù giúp người hiền, trừng phạt kẻ ác. Phật giáo du nhập

vào Việt Nam qua một quá trình dài và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống người dân

đất Việt qua các thế kỉ phong kiến đặc biệt ở thời đại Lý - Trần. Ở thời nhà Lý, Phật

giáo trở thành trung tâm của ý thức niềm tin vào độc lập dân tộc, là nơi hun đúc

lòng yêu nước nhằm tạo dựng một bản sắc văn hóa đầy tính nhân bản. Đến thời đại

nhà Trần, dòng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử trở thành quốc giáo chi phối cả thể chế

chính trị và đời sống tâm linh của con người.

Tây Yên Tử nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên tương

đối phong phú, đa dạng đồng thời nằm trong vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ -

trung tâm hợp lưu của các nền văn hóa nên mang những nét đặc trưng chung về tín

ngưỡng, tôn giáo của người Việt. Vùng đất này có nền văn hóa bản địa vững chắc

gắn với những tín ngưỡng dân gian được coi là tôn giáo dân gian từ lâu đời. Những

tín ngưỡng dân gian này bao gồm: Tín ngưỡng vật linh, tín ngưỡng thờ nhiên nhần

(thần tự nhiên), tín ngưỡng thờ nhân thần (thờ Thành hoàng, thờ Mẫu), tín ngưỡng

thờ cúng tổ tiên.... Đây chính là cội nguồn cho sự ra đời của kho tàng truyện kể

phản ánh tín ngưỡng dân gian rất đặc sắc còn lưu truyền và ghi chép trong vùng.

Tây Yên Tử cũng là vùng đất nằm ở vị trí chiến lược, vị trí tiền tiêu ở cửa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngõ Đông Bắc của Việt Nam. “Vua Trần Nhân Tông sau thắng lợi của cuộc kháng

22

chiến chống quân Mông - Nguyên, chọn núi Yên Tử là điểm dừng chân để tu hành

đắc đạo nhưng cũng là để tìm một vọng gác tiền tiêu bao quát vùng Đông Bắc nhằm

ngừa mối lo nước ngoài xâm phạm chủ quyền lãnh thổ” [60]. Nếu như Đông Yên

Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh được nhà Trần chọn là nơi phát tích của dòng Thiền phái

Trúc Lâm Yên Tử thì Tây Yên Tử lại là nơi ghi dấu những bước chân hoằng dương

phật pháp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Đây cũng là nơi được chọn để xây

dựng những trung tâm khai tràng thuyết pháp lớn của Thiền phái như Chùa Vĩnh

Nghiêm - Trường đại học Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam.

Dòng Thiền phái Trúc lâm Yên Tử do 3 vị tam tổ sáng lập và truyền bá đã

trở thành dòng Phật giáo đầy tính nhân văn lại đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Vị tổ

thứ nhất của dòng Thiền là vua Trần Nhân Tông chính thức xuất gia tu hành năm

1299 lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Với việc bỏ ngai vàng khoác áo cà sa lên

núi Yên Tử tu hành, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã thống nhất các thiền phái Tì ni

Đa lưu chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường trước đó và đưa toàn bộ Phật giáo thời

Trần về một mối với tinh thần sáng tạo, dung hợp và nhập thế. Trần Nhân Tông đã

khéo léo kết hợp giữa triết học siêu nhiên của Phật giáo với nhân sinh quan của Nho

giáo, vũ trụ quan của Lão giáo; lấy lợi ích quốc gia và lợi ích chúng sinh là yếu tố

cơ bản trong quá trình tu tập của mỗi người. Vị tổ thứ hai của dòng Thiền phái Trúc

Lâm Yên Tử là Pháp Loa (Đồng Kiên Cương), là người con ưu tú của làng Cửu Na,

huyện Chí Linh, Tỉnh hải Dương. Tương truyền sự ra đời của Pháp Loa thấm đẫm

màu sắc huyền thoại với hương thơm kỳ lạ bay tỏa khắp nhà. Pháp Loa ngay từ nhỏ

đã thông minh học một biết mười. Tuổi còn trẻ đã rất uyên bác, vừa tinh thông phật

học, vừa am tường Nho, Lão lại trọng đức hiếu sinh. Năm 1304 ông tìm đến yết

kiến Hoàng Giác Trần Nhân Tông, xin đi xuất gia và được chấp thuận. Trên con

đường tu hành, Pháp Loa chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp có được sở ngộ, tinh

thông kinh điển trở thành chủ giảng ở chùa Siêu Loại, chủ trì chùa Báo Ân và được

suy tôn là tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vào năm 1307. Kế tục sự

nghiệp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông trong 22 năm Pháp Loa đi khắp nơi thuyết

pháp và thu hút nhiều đệ tử cho giáo phái của mình. Trong số đó đắc pháp khoảng

3000 người. Các công trình Phật giáo được xây dựng như: 800 tự viện, 2 đài giảng

kinh, 5 cây bảo tháp, 1300 tượng Phật lớn, nhỏ bằng đồng... Có thể nói Pháp Loa

xứng đáng là người kế nghiệp xuất sắc của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ông đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đưa dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử phát triển đến độ thịnh vượng nhất trong

23

thời đại nhà Trần. Nối tiếp Pháp Loa vị tổ thứ ba của dòng Thiền phái Trúc Lâm

Yên Tử là Huyền Quang - Lý Đạo Tái quê ở Vạn Tải phía Nam lộ Bắc Giang (nay

thuộc huyện Gia Lương - Bắc Ninh). “Ông là người có đức độ của bậc thần tăng

trác việt, chứng nhập sâu xa đạo pháp đồng thời là người có trí tuệ uyên bác, văn

chương xuất chúng” [60]. Huyền Quang sẵn sàng chối bỏ cuộc đời trần thế, gác lại

phú quý vinh hoa bước vào giới chân tu để mong đạt tới tĩnh lặng của Thiềnvào

năm 1305. Ông hành đạo tu tập 30 năm, trong đó 22 năm làm phụ tá cho Pháp Loa

và 4 năm chính thức trở thành người lãnh đạo của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Dù

trở thành người lãnh đạo Thiền phái trong thời gian ngắn ngủi, Huyền Quang vẫn có

những đóng góp lớn cho giáo phái đã trở thành quốc giáo của thời đại nhà Trần.

Ông là đệ tử được Giác Hoàng Điều Ngự tin cậy được giao những công việc hệ

trọng như: soạn giảng kinh sách, phụ tá cho Pháp Loa, trụ trì chùa Vân Yên... Học

trò của Huyền Quang khá đông khi những bài thuyết pháp của ông được truyền tải

theo phương pháp dẫn giải một cách dung dị, tạo không khí gần gũi, ấm áp giữa

thầy và trò. Trong suốt cuộc đời tu tập, hành đạo, Huyền Quang đã đóng góp phần

trí tuệ của mình cho việc đào tạo, giác ngộ tăng ni đồng thời duy trì chốn Tổ Yên

Tử, giữ cho Thiền Phái Trúc Lâm một “Tào Khê” thanh tịnh giữa bốn mùa cây lá,

góp phần làm nên một thời hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam.

Khác với các thiền phái khác, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân

Tông khởi xướng và được Pháp Loa, Huyền Quang kế nhiệm, duy trì, phát triển chủ

trương nhập thế và tu tâm. “Người con Phật phải dấn thân vào cuộc sống, vui với

niềm vui của đất nước, đau với nỗi đau của dân tộc, khi đất nước thái bình lại trở

về với cuộc sống tu hành và nghiên cứu đưa hiểu biết của mình đến với nhân dân.

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cũng lấy chữ tâm làm cốt lõi với quan niệm tu thiền

chính là trở lại với tâm mình, đem tâm mình trở về từng giờ từng phút, sống với nội

tâm thanh tịnh. Sáng được tâm là đạt đến yếu chỉ thiền, Phật tức tâm, ai có tâm đều

có phật, không phân biệt tuổi tác, giới tính, trong đạo hay ngoài đạo. Thành phật là

thành ngay trong tâm mình không phải ở trên núi cao hay ở cõi trời xa xôi. Tâm

sáng ắt sẽ đưa con người đến cõi màu nhiệm của sự thông tuệ trong nhận thức về

thế giới và bản thân để từ đó hành xử đúng đắn trước mọi vấn đề của cuộc sống”

[38]. Dù tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ thiền phái

Trúc Lâm Yên Tử vẫn mang trong nó những nét cá tính riêng biệt với bản sắc dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tộc đậm đà. Nó lấy con người làm gốc, tôn trọng con người và nâng cao giá trị con

24

người. Tinh thần Phật giáo thời trần vì thế góp phần nuôi dưỡng đời sống tâm linh

của người Việt nhiều thế hệ đồng thời góp phần củng cố mệnh mạch của đất nước,

cố kết cộng đồng tạo nên những chiến công hiển hách trong suốt chiều dài lịch sử

của dân tộc. Thấm nhuần tinh thần Phật giáo thời Trần, mọi tầng lớp nhân dân Tây

Yên Tử từ khi được giác ngộ phật pháp luôn trau dồi tâm ý, thực hành thiện tâm, tu

tâm dưỡng tính một cách tự nhiên và nhiệt tình. Đời sống tâm linh của họ ngày càng

phong phú bởi có sự góp mặt của những truyện kể dân gian phản ánh tinh thần Phật

giáo theo dòng Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần (Hay còn gọi là tinh thần

Phật giáo thời Trần, tinh thần Phật giáo Trúc Lâm).

Có thể nói tín ngưỡng, tôn giáo chính là cái nôi tạo tác và nuôi dưỡng hệ

thống truyện kể dân gian rất độc đáo ở vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử. Ở luận

văn này, chúng tôi đi sâu nghiên cứu những truyện kể dân gian phản ánh tín

ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong vùng. Chúng tôi lấy những vấn đề về tín

ngưỡng, tôn giáo tồn tại trong vùng như đã trình bày ở trên làm cơ sở để thực hiện

nghiên cứu đề tài.

1.2. Văn học dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

1.2.1. Khái niệm truyện kể dân gian

Truyện kể là một khái niệm có nội hàm tương đối rộng. Nhiều nhà nghiên

cứu đã quan tâm đến khái niệm này. PGS Lê Bá Hán, GS.TS Trần Đình Sử, GS.

Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng truyện kể là:

“Phương thức tái hiện đời sống bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch,

được dùng làm cở sở để phân loại tác phẩm văn học”[53]. R. Barthes trong “Thi

pháp của truyện kể” cũng quan niệm: “Truyện kể bắt đầu với chính lịch sử của

nhân loại, không có, và không bao giờ có bất cứ một nơi nào một dân tộc nào lại

không có truyện kể; tất cả mọi tầng lớp, tất cả mọi cộng đồng nhân loại đều có

truyện kể của mình…”. Hiểu theo quan điểm của các nhà nghiên cứu trên truyện kể

có phạm vi rất rộng. Nó bao gồm cả truyện truyền miệng tồn tại trong dân gian và

truyện văn học đã được viết và xuất bản thành sách.

Truyện kể dân gian hay truyện cổ dân gian nói chung là sản phẩm văn hóa

tinh thần sớm được hình thành từ trong đời sống lao động, sinh hoạt của các dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tộc. Nó có khả năng phản ánh khá phong phú và toàn diện các mặt đời sống tâm tư,

25

tình cảm, ước mơ, khát vọng của nhân dân lao động. Đây cũng là những sáng tác

truyền miệng được lưu truyền trong dân gian từ xa xưa.Trong bảng kết cấu thể loại

cơ bản của văn học dân gian Việt Nam do tác giả Hoàng Tiến Tựu hệ thống ở cuốn

Văn học dân gian tập 2, truyện kể dân gian cùng với vè thuộc vào nhóm thứ II với

phương thức phản ánh chủ yếu là tự sự. GS. Đinh Gia Khánh trong cuốn Văn học

dân gian Việt Nam cũng quan niệm “Văn tự sự dân gian chủ yếu gồm có truyện và

vè. Truyện dân gian thường là văn xuôi nhưng cũng có khi là văn vần. Còn vè thì

bao giờ cũng là văn vần”[35]. Như vậy, có thể hiểu truyện kể dân gian là một bộ

phận của phương thức tự sự dân gian. Đây là bộ phận quan trọng tạo tác nên văn

hóa của mỗi dân tộc, mỗi vùng đất.

Việc phân loại truyện kể dân gian ở Việt Nam cũng rất phức tạp với nhiều

quan điểm khác nhau. Trước đây các nhà nghiên cứu lấy một danh từ chỉ chung cho

toàn bộ hệ thống truyện kể dân gian là: Truyện đời xưa. Ở những giai đoạn về sau,

truyện kể dân gian được phân chia thành nhiều thể loại khác nhau. GS. Đinh Gia

Khánh chia truyện kể dân gian thành bốn thể loại: Thần thoại, truyện cổ tích, truyện

ngụ ngôn, truyện cười. Trong đó truyền thuyết nằm trong tiểu loại cổ tích lịch sử.

GS. Lê Chí Quế trong cuốn Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam lại chia truyện

kể dân gian thành bảy loại: Thần thoại, sử thi anh hùng, truyền thuyết, truyện cổ

tích, truyện cười, vè, truyện thơ. Điểm nổi bật trong cuốn giáo trình này là tác gỉả đã

khẳng định sự tồn tại độc lập của thể loại truyền thuyết. Nhìn chung danh giới giữa

các thể loại truyện kể dân gian nhiều khi rất khó phân định. Các nghiên cứu đã kể

trên đều đánh dấu những giai đoạn tìm tòi, phát hiện có giá trị về phương diện thể

loại của truyện kể dân gian.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn chúng tôi nhận thấy truyện kể

dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử bao gồm các thể loại như: Thần thoại,

truyền thuyết, cổ tích, truyện cười và giai thoại. Mảng truyện kể phản ánh tín

ngưỡng, tôn giáo trong vùng có những nét riêng rất đáng chú ý. Bởi lẽ mảng truyện

kể này bao gồm ba thể loại: Thần thoại, truyền thuyết và cổ tích. Song danh giới

giữa các thể loại nhiều khi có sự giao thoa. Có những truyện kể thuộc thể loại thần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thoại được truyền thuyết hóa. Có những truyện kể thuộc thể loại truyền thuyết lại

26

được cổ tích hóa. Vì thế chúng tôi không tách bạch các thể loại khi nghiên cứu đề

tài mà sử dụng chung thuật ngữ truyện kể để đi sâu khám phá những đặc điểm nghệ

thuật cũng như giá trị rất độc đáo của mảng truyện kể dân gian phản ánh tín

ngưỡng, tôn giáo trong vùng Tây Yên Tử.

1.2.2. Truyện kể dân gian và thư tịch, thần tích, thần phả

Tây Yên Tử nằm trong không gian văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thu

hẹp hơn đây là vùng đất nằm trong không gian văn hóa xứ Bắc - nơi hợp lưu của

các dòng văn hóa nên kho tàng truyện kể dân gian trong vùng khá phong phú với

nhiều thể loại như: Thần thoại, Truyền thuyết, Cổ tích, Truyện cười và Giai thoại.

Thần thoại là thể loại truyện kể xuất hiện sớm nhất trong vùng. Theo khảo

sát mới nhất ở các bản kể được ghi chép chúng tôi thống kê được 12 truyện kể thuộc

thể loại này như: Truyện quả bầu (Tày, Dao, Nùng, Cao Lan, Sán Chí), Truyện Bàn

Hồ, Vì sao chỉ có mặt trời chiếu sáng ban ngày, Truyện cây bông (Dao), Hạt lúa

khổng lồ (Tày), Giống lúa then, Sự tích bọ hung (Tày), Ngưu Lang - Chức Nữ, Sự

tích ngày hàn thực (Hoa), Tục kiêng kị dòng họ Cao Lan, Sự tích cây lúa (Cao Lan),

Lằm pắc và Lằm Lò (Sán Dìu). Nhìn chung thần thoại còn lưu lại trong vùng Tây

Yên Tử là những truyện kể ngắn gọn, cốt truyện đơn giản, ít chặt chẽ nhưng giàu

giá trị. Những truyện kể này tập trung phản ánh một cách kì diệu nhận thức của

người dân trong vùng từ thuở hồng hoang về sự hình thành vũ trụ và thế giới tự

nhiên, về nguồn gốc muôn loài, nguồn gốc loài người và tộc người. Tuy thể hiện

những nhận thức rất đơn giản, rất hồn nhiên của con người từ thuở sơ khai nhưng

kho tàng thần thoại trong vùng vẫn nuôi dưỡng đời sống tinh thần của nhân dân nơi

đây.

Truyền thuyết chiếm số lượng tương đối lớn trong các truyện kể được sưu

tầm và ghi chép, lưu truyền trong vùng. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi thể

loại này gồm 43 truyện kể, tiêu biểu là: Truyện Ông Cộc - Ông Dài, Sự tích núi Cô

Tiên, Truyện kể về Thái Sư Trần Thủ Độ, Truyện kể về làng Đức La, Truyền thuyết

Vũ Thành, Sự tích Cao Sơn - Quý Minh, Truyền thuyết núi Nham Biền, Truyện về

Vĩnh Nghiêm Tự (Kinh), Tướng quân Vi Hùng Thắng (Tày), Truyện Quế Mị Nương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ở Nghĩa Phương (Kinh - Sán Dìu)...Hệ thống truyền thuyết ở Tây Yên Tử mang

27

những nét đặc trưng thể loại truyền thuyết của văn học dân gian. Đó là những ánh

xạ của lịch sử nói cách khác là một phần sự thực lịch sử đời sống qua trí tưởng

tượng siêu việt và những hư cấu kì ảo của nhân dân được thêu dệt thành những câu

chuyện huyền bí vừa hư vừa thực làm say đắm lòng người. Hệ thống truyền thuyết

này cũng được sáng tạo theo các giai đoạn phát triển lịch sử của vùng. Nó tập trung

thể hiện quan điểm thẩm mĩ cũng như tập tục, tín ngưỡng ở mỗi giai đoạn lịch sử

khác nhau của nhân dân địa phương. Hệ thống truyền thuyết ở Tây Yên Tử đa dạng

về chủ đề. Những truyền thuyết thuộc chủ đề nhân vật lịch sử chiếm số lượng nhiều

nhất (15/43 truyền thuyết), nhằm thể hiện thái độ trân trọng và niềm ngưỡng vọng

sâu sắc của nhân dân địa phương đối với người con ưu tú của quê hương cũng như

những nhân vật lịch sử, văn hóa có công khai cơ lập ấp, mở mang địa bàn, đánh

đuổi thù trong, giặc ngoài đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Những truyền

thuyết về chủ đề lập quốc (12/43 truyền thuyết) và chủ đề nhiên thần (10/43 truyền

thuyết) cũng có số lượng lớn thể hiện tín ngưỡng về vùng đất thiêng, tín ngưỡng thờ

thần núi, thần sông, thần đá, thần nước đã ăn sâu vào nếp cảm nếp nghĩ của nhân

dân. Số lượng truyền thuyết về chủ đề Nữ thần ít hơn cả (6 truyền thuyết) nhưng

cũng vô cùng đặc sắc. Đó là nơi nương náu của tín ngưỡng thờ Mẫu trong tâm thức

người dân Tây Yên Tử nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Truyền thuyết

vùng Tây Yên Tử được sáng tạo, lưu truyền, gắn bó với đời sống và trở thành niềm

tự hào của người dân nơi đây.

Bên cạnh đó, trên địa bàn Tây Yên Tử, những câu chuyện cổ tích cũng được

nhân dân lưu giữ và kể lại với số lượng khá phong phú. Bước đầu, chúng tôi đã

thống kê, hệ thống truyện cổ tích với số lượng là 36 truyện kể, chủ yếu là những

truyện cổ tích của đồng bào các dân tộc thiểu số trong vùng. Tiêu biểu như: Chàng

rắn chàng rồng (Cao Lan), Anh chàng mồ côi, Nàng Manh Chan, Tai San - Xảo

Ánh (Dao), Em bé thông minh,Chàng nhà nghèo lém lỉnh thông minh lấy vợ (Nùng),

Tấm Cám, Sự tích chim Cố Ơi (Tày)... Cũng như truyền thuyết, truyện cổ tích của

vùng Tây Yên Tử mang những nét đặc trưng của thể loại cổ tích trong văn học dân

gian Việt Nam. Thể loại truyện kể này gồm 3 tiểu loại: Cổ tích thần kì (10/36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

truyện), cổ tích sinh hoạt (12/36 truyện), cổ tích loài vật (3/36 truyện). Có thể thấy

28

truyện cổ tích thần kì và cổ tích sinh hoạt là hai tiểu loại được lưu truyền chủ yếu

trong vùng. Cổ tích loài vật còn được lưu giữ với số lượng khiêm tốn và xuất hiện

tương đối mờ nhạt. Hệ thống truyện cổ tích ở đây được các tác giả dân gian trong

vùng sáng tạo bằng những motif quen thuộc của truyện cổ tích Việt Nam như: Motif

người đội lốt vật, motif sự hóa thân kì diệu, motif kết thúc có hậu... tập trung phản

ánh các vấn đề xã hội qua mối xung đột, mâu thuẫn trong gia đình phụ quyền như:

Mâu thuẫn dì ghẻ - con chồng, mâu thuẫn mẹ chồng - nàng dâu, mâu thuẫn anh cả -

em út, mâu thuẫn giàu - nghèo, mâu thuẫn thiện - ác... Từ đó thể hiện ước mơ của

con người về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và công bằng xã hội.

Truyện cười cũng là một đặc sản của người dân vùng Tây Yên Tử. Đây là

thể loại truyện kể dân gian chiếm số lượng lớn nhất trong vùng. Ngoài những tác

phẩm đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số, truyện cười của người Kinh tập

hợp chủ yếu ở huyện Yên Dũng với 3 làng cười tiêu biểu là: Làng nói tức Đông

Loan, Nội Hoàng, làng nói ngang Phụng Pháp. Nhà nghiên cứu Trần Quốc Thịnh

trong cuốn Truyện làng cười xứ Bắc đã tập hợp được hàng trăm sáng tác của 14

làng cười trong đó có những truyện cười rất đặc sắc về ba làng cười này. Đặc điểm

của truyện cười trong vùng không nằm ngoài đặc điểm của truyện cười nói chung.

Nó thường có kết cấu ngắn gọn nhưng chặt chẽ, ít nhân vật, tình huống diễn biến tự

nhiên, nhanh chóng, ngôn ngữ giản dị, tinh sắc, chủ yếu sử dụng thủ pháp khoa

trương, phóng đại, kết thúc bất ngờ... tất cả hướng vào mục đích gây cười. Nội dung

phản ánh của truyện cười vùng Tây Yên Tử cũng rất đa dạng gắn với các sự vật, sự

việc, những mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với con vật,

những câu chuyện sản xuất, những đặc sản và thói quen, tập tục địa phương, những

bắt bẻ câu chữ mang ý vị dí dỏm, bông lơn....trong đời sống thường nhật nhằm thể

hiện tâm lí hài hước, tinh thần lạc quan của người lao động trong cuộc sống còn

nhiều vất vả, lo toan. Truyện cười trong vùng vì thế mang tính ứng tác rất cao. Nó

ra đời rất tự nhiên trong mọi hoàn cảnh của đời sống. Trong hội hè, đình đám, trong

bữa cơm gia đình, trong lúc đi cấy đi cày, trong những buổi chợ phiên, trong những

ngày giáp hạt... Tiếng cười bật lên rất giòn giã làm phong phú thêm đời sống tinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thần của con người. Bên cạnh tính phổ quát của truyện cười nói chung, truyện cười

29

trong vùng còn vô cùng đặc sắc gắn với tính địa phương hóa. Mang hơi thở ngồn

ngộn, tươi rói của đời sống thường nhật nên truyện cười in đậm dấu ấn văn hóa vật

thể và phi vật thể rất đặc trưng của những địa bàn làng, xóm mà chủ nhân sáng tạo

ra nó cư trú. Về làng cười Đông Loan là về với làng nói tức. Dù nói tức Đông Loan

có những nét tương đồng với nói tức Can Vũ ở lối nói tức có đầu có đuôi song từ

chất giọng đến tính chất châm chọc, châm biếm của truyện cười ở làng cười này đều

mang những nét văn hóa riêng biệt mà không làng cười nào có được. Làng nói tức

Nội Hoàng cũng mang phong vị riêng. Những câu chuyện cười ở làng cười này

thường không định hình. Cái cười bật lên ở cung độ bậc cao, ít có những câu nói tức

sắc cạnh, châm chọc, sâu cay. Người Nội Hoàng nói tức cho vui, càng tức lại càng

vui, nói tức xong người nói thì khoái trí mà người bị chọc cũng cười xòa, nói xong,

cười xong thì quên đi ngay, không ai để bụng. Cách nói ấy làm vơi bớt đi biết bao

nhiêu khó nhọc còn tồn tại trong đời sống hối hả thường ngày của con người. Làng

Phụng Pháp (còn gọi là làng Cua) lại nổi tiếng nói ngang. Tính chất nói ngang cũng

in đậm văn hóa đặc trưng của một vùng đất từng là nơi khai sinh của giống cua

ngon nổi tiếng nấu canh tiến vua. Đặc sản nói ngang ở làng cười này là tính chất

nước đôi với những so sánh đối lập bất ngờ thú vị thuộc loại truyện cười khôi hài

nhằm mục đích giải trí. Ngày nay truyện cười trong vùng vẫn tiếp tục được sáng tạo

bởi các nghệ nhân là những người dân bình dị trong các làng cười. Số lượng truyện

cười vì thế ngày càng phong phú góp phần làm giàu có thêm kho tàng truyện kể dân

gian của vùng. Có thể nói đặc sản truyện cười ở vùng Tây Yên Tử là sản phẩm

chung của cộng đồng người cư trú trên địa bàn. Nó là đứa con tinh thần được thai

nghén từ những nét văn hóa, những sự việc, sự kiện đời sống phong phú của nhân

dân. Nó cũng được nhân dân sáng tạo gìn giữ trong mọi sinh hoạt văn hóa cộng

đồng từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Vũ Ngọc Khánh cho rằng: “Giai thoại là cuốn sổ biên niên của cuộc sống, là

người bạn thường xuyên của con người và của các sự kiện lịch sử xã hội” [37]. Giai

thoại trong vùng Tây Yên Tử chủ yếu tồn tại trong trí nhớ của nhân dân. Trong

những bản kể được ghi chép số lượng giai thoại còn rất ít tồn tại rải rác ở các huyện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Các giai thoại trong vùng chủ yếu là những câu chuyện ngắn gọn kể về từng mảng đời

30

của các danh nhân và những cấp độ dị thường trong cuộc đời của họ: Truyện về Trạng

nguyên Đào Sư Tích đi thi, Truyện về tướng quân Vũ Thành trong những lần đi đánh

giặc....Tuy số lượng không nhiều nhưng giai thoại cũng góp phần làm cho mảng truyện

kể dân gian trong vùng thêm lí thú, giàu màu sắc địa phương

Thư tịch, thần tích, thần phả của các làng xã thuộc các huyện trong vùng văn

hóa tâm linh Tây Yên Tử đặc biệt có giá trị trong quá trình lưu giữ những sự tích về

địa danh hay sự tích về các vị thần được tôn thờ làm Thành hoàng trong các làng xã.

Tiêu biểu là các thần tích còn được lưu truyền như: Thần tích thôn An Phú xã Mỹ

An huyện Lục Ngạn; Thần tích xã Phấn Lôi hạ, tổng Hương Tảo, huyện yên Dũng;

Thần tích xã Đà Hy, tổng Trí Yên, huyện Yên Dũng; Thần tích làng Biềng, xã Nam

Dương, huyện Lục Ngạn; Thần tích Lưu Đình Nội Đông xã Yên Sơn huyện Lục

Nam; Thần tích làng Bồng Lai, … Đây sẽ là những văn bản thành văn có ý nghĩa cơ

sở để chúng tôi tham khảo, bổ sung cho quá trình khảo sát kho tàng truyện kể dân

gian nơi đây.

1.2.3. Thơ ca dân gian

Thơ ca dân gian vùng Tây Yên Tử khá phong phú với kho tàng thành ngữ,

tục ngữ, ca dao, phương ngôn, thơ ca, đồng dao, câu đối, câu đố của các dân tộc

Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Dìu, Sán Chí. Về cơ bản kho tàng thơ ca dân

gian này như tấm gương phản chiếu đa chiều về đời sống tâm tư tình cảm rất phong

phú của các tộc người cư trú trên địa bàn sườn Tây Yên Tử.

Về với thơ ca dân gian của người Tây Yên Tử là về với di sản phương

ngôn, tục ngữ, ca dao mang đậm hởi thở cuộc sống. Đó là những bài ca đầy tự hào

về cảnh đẹp quê hương, về những miền quê trù phú:

“Ai xuôi đến giáp Lục Đầu

Đức La thôn cổ nhuộm màu biếc xanh

Sông Thương, sông Lục bao quanh

Cô Tiên nằm ngủ cây xanh bóng dày.

- Ai về đất Lục quê tôi

Thăm cảnh suối Mỡ du chơi lạ lùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thăm đền Thượng ,viếng đền Trung

31

Đường cheo leo dốc gập ghềnh suối khe

- Chợ Neo, chợ Cáu quê anh

Nước trong, gạo trắng cây xanh phủ đồi

Quê anh đẹp lắm mình ơi

Hãy về Neo, Cáu nên đôi vợ chồng”[40]

Hoạt động thủ công nghiệp với những sản vật quê hương Tây Yên Tử

cũng được phương ngôn, tục ngữ, ca dao đề cập đến trong những câu nói thấm

đượm tình người:

- “Gậy Phấn Lôi, xôi Hương Tảo, xáo Yên Hồng

Cua Đồng Quan, lụa vàng Cảnh Thụy.

- Muốn ăn cơm trắng, cá mè

Thì về Lão Hộ hái chè cùng anh

- Cô bán vải Lịm cũng xinh

Đó là vải lụa quê mình đồn xa

Lưỡi cày đúc tại Đức La

Bừa rào bền đẹp câu ca lâu rồi” [40]

Là cư dân nông nghiệp, người dân trong vùng ăn đời ở kiếp với làng mạc,

ruộng vườn, nương rẫy. Trong khó khăn, trong cả áp bức bóc lột họ vẫn không

ngừng vươn lên, không ngừng sáng tạo và đúc rút những kinh nghiệm sản xuất quý

báu. Những câu phương ngôn, tục ngữ, ca dao được khai sinh rất giản dị nhưng

cũng rất sâu sắc chứa đựng nhiều đời tải nghiệm của cha ông đem đến cho con cháu

những bài học giàu giá trị để nhận biết các hiện tượng thời tiết phục vụ mùa màng

hay những kinh nghiệm cấy trồng, mùa vụ:

“Ráng mỡ gà, ai có nhà thì giữ

- Khoai đất lạ, mạ đất quen

- Lúa chiêm lấp ló đầu bờ

Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.

- Bươn slan lồng chả, bươn hả đăm nà

(Tháng ba gieo mạ, tháng năm cấy ruộng)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Phước bấu quá xinh minh

32

Khinh bấu quá cốc vụ)

(Khoai sọ đừng trồng quá thanh minh

Gừng đùng trồng sau cốc vũ (tháng sáu)”[40]

Tây Yên Tử là vùng đất bán sơn địa - nơi giao thoa và hội tụ văn hóa - nơi

quần cư của nhiều tộc người từ nhiều địa phương trong cả nước nên người dân nơi

đây vừa đoàn kết, gắn bó, yêu lao động lại vừa sâu nặng nghĩa tình. Những đường

cày của cha, hạt lúa của mẹ, giọt mồ hôi của người lao động... đi vào thơ ca dân

gian một cách tự nhiên. Người dân nơi đây thường nói về tổ tông, ông bà, cha mẹ

với một niềm thành kính vô bờ. Người Sán Dìu vẫn nhắn nhủ con cháu bằng những

lời ca giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày mà vẫn chứa chan tình nghĩa:

“Ca dịu vòng kín xen man loạng

Dìu xèn nàn mại hu mụ gin

(Nhà có vàng quý nghìn vạn lạng

Có tiền khó mua thân cha mẹ)

- Hu mụ giang ghi bú công lệnh

Gí hoi hồ láo hốc cúi gìn

(Bố mẹ còn sống không cung kính

Bố mẹ chết rồi khóc cho quỷ thần nghe) ”[40]

Người Tày lại khuyên răn:

“Khúy mạ khin keng chính chắc công pèng pò mẻ

(Cưỡi ngựa lên đèo mới biết công lao cha mẹ)” [40]

Người Tây Yên Tử trong lao động vất vả, trong biết bao nhọc nhằn, cơ cực

vẫn giữ cho mình điệu tâm hồn tươi rói đặc biệt là những chàng trai cô gái đang độ

thanh xuân. Những bài ca dao ngọt ngào, tình tứ mà thấm đượm nghĩa tình mang

theo điệu tâm hồn của những chàng trai cô gái sườn Tây Yên Tử thuở nào vẫn lưu

truyền trong trí nhớ và tâm thức của con người nhiều thế hệ:

“Anh như gạo nếp đầu mùa

Em như men ủ nên vò rượu ngon

Anh như một chiếc lồng son

Em như chim khiếu véo von sớm chiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Em như là một cánh diều

33

Để anh là gió làm siêu lòng nàng

Đò đã tới bến thì sang

Gặp nhau ghi tạc đá vàng nên duyên

- Anh ở nơi đầu nguồn

Em ở nơi cuối nguồn

Nơi biên cương anh nhớ

Vẫn cùng chung nhịp thở

Tha thiết điệu hát Then

Ám áp và thân quen”[40]

Về với thơ ca dân gian Tây Yên Tử còn là về với kho tàng đồng dao - câu

đối - câu đố vô cùng đặc sắc. Trong trò chơi của người Kinh, những bài đồng dao

vẫn đi cùng năm tháng như: Kéo cưa lừa xẻ, Giã gạo, Lộn cầu vồng dưới nước, Xỉa

cá mè đè cá chép, Cưỡi ngựa, Tập tầm vông, Nu na nu nống, Sưởi đống rấm, Vừa

mưa vừa nắng, Thả đỉa ba ba, Đếm sao... Những bài đồng dao đã nuôi dưỡng đời

sống tâm hồn, lưu giữ kí ức tuổi thơ và trở thành một phần đời thiêng liêng của biết

bao người dân trong vùng. Đi qua bao năm tháng, những bài đồng dao vì thế vẫn

văng vẳng trong tâm khảm mỗi người:

“Chi chi chành chành

Cái đanh thổi lửa

Con gựa chết trương

Ba vương ngũ đế

Cắp rế đi tìm

Con chim bỏ tổ

Con gà bỏ con

Ù à ù ập

(Trò chơi ù ập)” [40]

“Khói về đằng kia ăn cơm với cá

Khói về đằng này lấy đá đập đầu”

(Sưởi đống rấm)” [40]

Câu đối cũng tồn tại phổ biến trong đời sống của đồng bào các dân tộc cư trú

trên địa bàn Tây Yên Tử. Họ thường treo câu đối ở hai bên bàn thờ trong nhà đặc

biệt vào dịp năm mới nhằm thể hiện tình cảm thành kính với ông bà, tổ tiên và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mong muốn một năm mới an khang, thịnh vượng:

34

“Tổ tiên nhân đức muôn đời thượng

Con cháu thảo hiền vạn tết xuân

(Dân tộc Kinh)

- Cha con nhiều cháu nhiều phú quý

Được tài được lộc được bình an.

(Dân tộc Sán Dìu)

- Hương vào đỉnh quý tài thêm sức

Đức tổ sáng soi nghiệp tài năng

(Dân tộc Sán Chí)” [40]

Câu đố là một bộ phận của thơ ca dân gian trong vùng. Vốn là cư dân nông

nghiệp lấy gieo trồng, chăn nuôi, trồng trọt làm nguồn sống chính, người Tây Yên

Tử sáng tác câu đố trong mọi hoàn cảnh. Đối tượng được đưa ra để thách đố là tất

cả những gì đang tồn tại trong đời sống xung quanh họ như: Con người, đồ dùng,

vật nuôi, hoa quả, cây cối, sinh hoạt ăn uống... Kết cấu của câu đối thường ngắn

gọn, ngôn ngữ hình ảnh gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày nên dễ nhớ, dễ thuộc và

gây ấn tượng mạnh với người đọc người nghe:

“Râu dài trắng muốt

Tóc mượt xanh rì

Sống hôi xì xì

Chín thơm phưng phức

(Củ hành)

- Con gì sáng đi bốn chân

Trưa đi hai chân

Chiều đi ba chân

(Con người)

- Hoa gì chỉ nở về đêm

Muốn xem phải đợi trăng lên ngang đầu

(Hoa Quỳnh)” [40]

Có thể nói thơ ca dân gian vùng Tây Yên Tử đa dạng phong phú về thể loại.

Nó tập trung phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Ngày

nay, các thể loại thơ ca dân gian trong vùng vẫn tiếp tục được bảo lưu, gìn giữ và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

không ngừng phát triển. Trong quá trình sáng tạo, nhiều đồng bào các dân tộc cư trú

35

trên dải đất phía Tây núi Yên Tử trở thành những nghệ nhân dân gian. Họ không

ngừng tiếp thu tinh hoa của đồng bào các dân tộc lân cận để làm giàu có thêm vốn

thơ ca của tộc người mình. Sự tiếp biến này góp phần thúc đẩy quá trình giao lưu,

tiếp biến để văn hóa, văn học của vùng ngày càng giàu có và đặc sắc.

Tiểu kết chương 1

Tây Yên Tử có thể xem là một vùng văn hóa tâm linh đặc sắc. Đây là quê

hương của những huyền thoại, huyền tích - lịch sử đồng thời là vùng đất được tạo

hóa ưu đãi về cả vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên. Về với Tây Yên Tử là về với

những thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ đắm say lòng người, về với nơi giao thoa, hội

tụ văn hóa, về với đời sống tinh thần phong phú của 13 dân tộc anh em. Về với Tây

Yên Tử cũng là về với mảnh đất vừa giàu truyền thống yêu nước chống giặc ngoại

xâm lại vừa giàu truyền thống đoàn kết lao động xây dựng quê hương với kho tàng

văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc, độc đáo không thể trộn lẫn với bất cứ miền

quê nào. Đó cũng là miền đất in đậm dấu ấn tín ngưỡng, tôn giáo đặc biệt là màu

sắc tôn giáo theo dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần. Những đặc điểm về

vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, xã hội và văn hóa truyền thống đã đề cập đến chính

là cái nôi sinh thành của hệ thống truyện kể dân gian vô cùng độc đáo trong vùng.

Văn học dân gian được bảo lưu và gìn giữ trong vùng văn hóa tâm linh Tây

Yên Tử là một kho tàng văn học vô giá. Ở đó, hệ thống truyện kể dân gian bao gồm

nhiều thể loại vừa mang những nét đặc trưng chung của các thể loại văn học dân

gian Việt Nam lại vừa mang màu sắc địa phương hóa gắn với nếp cảm, nếp nghĩ với

những phong tục, tập quán đã ăn đời ở kiếp với cư dân trong vùng. Thơ ca dân gian

cũng được đồng bào các dân tộc trong vùng lưu truyền, gìn giữ và tạo tác với sự đa

dạng về thể loại. Đó là đứa con tinh thần tràn đầy sức sống nội sinh, phản ánh trí tuệ

nhân dân và đời sống tâm tư, tình cảm của người lao động trên quê hương Tây Yên

Tử tự ngàn đời. Được sản sinh từ cái nôi văn hóa, văn học dân gian đặc sắc, hệ

thống truyện kể dân gian gắn với đời sống tâm linh vùng Tây Yên Tử một mặt tái

hiện đời sống tinh thần phong phú của nhân dân địa phương, mặt khác thể hiện mối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quan hệ chặt chẽ giữa văn học và văn hóa trong vùng.

36

Chương 2

KHẢO SÁT HỆ THỐNG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN VÙNG VĂN HÓA

TÂM LINH TÂY YÊN TỬ

2.1. Nhận diện và phân loại truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

Trong quá trình tập hợp khảo sát các bản kể, tư liệu để nghiên cứu đề tài

chúng tôi dựa vào các bản kể được ghi chép và in trong các cuốn sách: Di sản văn

hóa Bắc Giang tập 4, Văn hóa làng xã huyện Yên Dũng, Di tích danh thắng huyện Yên

Dũng tập 1,2, Yên Dũng - miền đất địa linh nhân kiệt, Văn hóa dân gian huyện Sơn

Động, Bắc Giang. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số bản kể truyền miệng được

lưu truyền trong vùng mà chúng tôi thu thập được trong quá trình điền dã. Những bản

kể chúng tôi tập hợp, hệ thống và khảo sát đảm bảo tiêu chí sau:

- Đó là những truyện kể dân gian được lưu truyền trên mảnh đất Tây Yên Tử

(bao gồm các truyện kể do nhân dân Tây Yên Tử sáng tác và các truyện kể gắn với

các nhân vật từ những vùng đất khác đến với Tây Yên Tử được nhân dân trong

vùng lưu giữ, truyền tụng, được các nhà nghiên cứu sưu tầm, ghi chép, xuất bản).

- Đó là những truyện kể dân gian vừa phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo của

nhân dân trong vùng, vừa gắn liền với các chứng tích văn hóa lịch sử (đình, đền

chùa, miếu...) đã và đang tồn tại trong vùng Tây Yên Tử.

Vấn đề phân loại truyện kể dân gian theo hệ thống thể loại văn học dân gian

đã được nhiều học giả đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi không phân loại truyện kể dân gian

theo lí thuyết thể loại mà chủ yếu dựa vào chức năng phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo

trong đời sống tâm linh của người dân vùng Tây Yên Tử để phân loại truyện kể

trong vùng. Trong thực tế vùng Tây Yên Tử là một vùng văn hóa tâm linh đặc sắc.

Chúng tôi đã đề cập đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo tồn tại trong vùng ở chương 1.

Chúng tôi nhận thấy vùng đất này mang đậm màu sắc tín ngưỡng dân gian như tín

ngưỡng thờ nhân thần, tín ngưỡng thờ nhiên thần. Đặc biệt vùng đất Tây Yên Tử

còn là nơi in dấu chân hoằng dương Phật pháp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông gắn

vơi một hệ thống đình, chùa, đền, miếu, am, tháp nên mang đậm dấu ấn Phật giáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

theo dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trong đời sống tâm linh của nhân dân nơi

37

đây tinh thần Phật giáo thời Trần còn hoà quyện cùng với tín ngưỡng thờ nhân thần

để nâng cao giá trị con người. Nó có những biểu hiện rất phong phú.

Dựa trên những tiêu chí trên chúng tôi tập hợp được 35 truyện kể phản ánh

tín ngưỡng, tôn giáo trong vùng. Chúng tôi chia hệ thống truyện kể này thành 3

nhóm chính như sau:

- Nhóm truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng thờ nhiên thần(14/35 truyện

chiếm 40%)

- Nhóm truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng thờ nhân thần (13/35 truyện

chiếm 37 %)

- Nhóm truyện kể dân gian phản ánh tinh thần Phật giáo Trúc Lâm ( 8/35

truyện chiếm 23%)

* Nhóm truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng thờ nhiên thần

Bảng 2.1: Hệ thống các truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng

thờ nhiên thần

STT

Tên truyện

Tín ngưỡng

Nguồn

Truyện Ông Khổng Lồ

Vùng đất thiêng Yên Dũng

1

Truyện núi Nham Biền

Vùng đất thiêng Nham Sơn,Yên Dũng

2

Sự tích núi Cô Tiên

Vùng đất thiêng Trí Yên, Yên Dũng

3

Truyền thuyết về 99 ao Phượng Hoàng Vùng đất thiêng Tiến Dũng, Yên Dũng

4

5.

Sự tích về Cao Sơn - Quý Minh

Thờ thần núi

Thị Trấn Neo, Yên Dũng

Sự tích về đức Thánh Tam Giang

Thờ thần Sông

Tiến Dũng, Yên Dũng

6

Truyện Ông Cộc, Ông Dài

Thờ thần rắn

Khám Lạng, Lục Nam

7

Sự tích chùa Dâu

Thờ thần Đá

Nội Hoàng, Yên Dũng

8

Sự tích ngôi nhà ở của người Cao Lan Thờ Trâu thần

Sơn Động

9

10 Truyện Bàn Hồ

Thờ vật tổ

Sơn Động

11 Lằm Pắc và Lằm Nò

Thờ vật tổ

An Bá, Sơn Động

12 Truyện quả Bầu

Thờ vật tổ

Sơn Động

13

Sự tích cây lúa

Thờ Thần Nông Sơn Động

14 Huyền thoại tam giới

Thờ Thần Nông Hữu Sản, Sơn Động

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

38

Trong nhóm truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng thờ nhiên thần đã hệ

thống chúng tôi nhận thấy truyện kể của người Kinh chiếm 50% (7/14 truyện). Các

truyện kể này tập trung phản ánh tín ngưỡng về vùng đất thiêng, về những nhân vật

kì vĩ, chinh phục thiên nhiên, dời non lấp vực mở rộng đất đai, những vị thần tự

nhiên như: Thần núi, thần sông, thần đá, thần rắn...Các nhân vật này có nguồn gốc

từ những đấng sáng tạo thế giới bằng sức mạnh phi thường trong thần thoại nhưng

càng về sau càng gần gũi với con người bình thường và được truyền thuyết hóa một

cách mạnh mẽ. Nó cũng thể hiện xu hướng biến đổi nhân vật từ nhiên thần sang

nhân thần, từ thần thoại sang truyền thuyết của truyện kể dân gian nói chung. Có thể

thấy hình tượng Cao Sơn, Quý Minh trong Sự tích Cao Sơn - Quý Minh vốn có

nguồn gốc từ các vị thần núi khi đi vào truyện kể dân gian trong vùng, hai nhân vật

này được khoác lên mình tấm áo của lịch sử trở thành những vị tướng tài của buổi

đầu dựng nước. Họ có lai lịch, hành trạng, chiến công cụ thể rất gần gũi với con

người. Đức Thánh Tam Giang trong Sự tích về đức Thánh Tam Giang cũng có

nguồn gốc từ các vị thần sông được nhân dân thần hóa ở thế kỉ thứ X và được

phong Thần và thờ cúng ở nhiều nơi. Đi vào truyện kể được lưu truyền ở vùng Tây

Yên Tử các vị thần sông này cũng được trang bị tấm áo lịch sử với motif sinh nở

thần kì, tạo lập chiến công, hóa thân và hiển linh âm phù để trở thành người anh

hùng, phúc thần đem đến cuộc sống thái bình cho nhân dân. Rắn cũng là linh vật

dưới nước được nhân dân phụng thờ. Thần rắn trong Truyện Ông Cộc - Ông dài

cũng mang trong mình một lai lịch rõ ràng với nguồn gốc xuất thân là con của một

bà mẹ nghèo mò cua, bắt ốc. Thần đá trong Sự tích chùa Dâu lại trở thành Phật phù

trợ cho người đánh dậm nghèo túng, trung thực, thật thà trở nên giàu có, an hưởng

phúc lành. Như vậy một số nhiên thần xuất hiện trong truyện kể vùng Tây Yên Tử

có nguồn gốc nửa thần tự nhiên, nửa lịch sử hóa như Cao Sơn, Quý Minh, Đức

Thánh Tam Giang. Một số khác có nguồn gốc từ thần tự nhiên như: Đá thần, rắn

thần, trâu thần mà không có sự xuất hiện của thần tứ pháp: Mây, mưa, sấm, chớp

như trong truyện kể ở Bắc Ninh và các vùng lân cận. Đây là một trong những đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

điểm riêng về tín ngưỡng của cư dân vùng Tây Yên Tử.

39

Với 50% truyện kể còn lại là những đứa con tinh thần khá độc đáo của đồng

bào các dân tộc ở Sơn Động, Lục Nam như dân tộc Dao, dân tộc Cao Lan... tín

ngưỡng thờ vật tổ với nguồn gốc các dòng họ hay nguồn gốc về tộc người, về nòi

giống, về các vị thần trong cảm quan của đồng bào các dân tộc vùng Tây Yên Tử

được phản ánh khá rõ nét. Đây cũng là các truyện kể có nguồn gốc từ thần thoại giải

thích nguồn gốc vũ trụ và muôn loài càng về sau càng gần gũi với cuộc sống con

người nên đậm màu sắc truyền thuyết hóa.

* Nhóm truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng thờ nhân thần

Bảng 2.2: Hệ thống các truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng

thờ nhân thần

Stt

Tên truyện

Tín ngưỡng

Nguồn

1 Truyện Quế Mị Nương ở Nghĩa Phương Thờ Mẫu

Nghĩa Phương, Lục Nam

2 Truyện công chúa Lê Chân

Thờ Mẫu

Mĩ An, Lục Ngạn

3 Truyện nữ thần đền Ngọc Lâm

Thờ Mẫu

Tân Mỹ, Yên Dũng

4 Truyện công chúa Thiều Dương

Thờ Mẫu

Tiền Phong, Yên Dũng

5

Sự tích ngôi đền Từ Co

Thờ Mẫu

Hương Gián, Yên Dũng

6 Huyền thoại nghè Hang xanh và Cây dã Thờ Thành hoàng Đồng Phúc, Yên Dũng

Truyện về vị thành hoàng làng Đặng xã

7

Thờ Thành hoàng Vĩnh Khương, Sơn Động

Vĩnh Khương

8 Huyền thoại về vị thành hoàng xã Đồng Việt Thờ Thành hoàng Đồng Việt, Yên Dũng

9 Truyền thuyết Vũ Thành

Thờ Thành hoàng Hồng Giang, Lục Ngạn

10 Truyện về Thiên Bồng tướng và Thuận Thiên Thờ Thành hoàng Thắng Cương, Yên Dũng

Thờ Thành hoàng Nghĩa Phương, Lục Nam

11 Truyện về Hà Văn Chiếu ở Nghĩa Phương

12 Truyện kể về Hà Công Dong

Thờ Thành hoàng Xuân Phú, Yên Dũng

13 Tướng quân Vi Đức Lục

Thờ Thành hoàng Sơn Động

Ở nhóm truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng thờ nhân thần, chúng tôi

nhận thấy các truyện kể chủ yếu là của người Kinh. Những nhân vật được tôn vinh

ở đây những nhân vật văn hóa có công chinh phục thiên nhiên mở đất, mở nước, lập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ấp, lập làng hay tu sửa đình miếu và các nhân vật lịch sử có công trong các cuộc

40

kháng chiến chống quân xâm lược đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân

dân Tây Yên Tử. Những nhân vật được tôn vinh này gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu và

thờ Thành hoàng ở các địa phương trong vùng.

*Nhóm truyện kể dân gian phản ánh tinh thần Phật giáo Trúc Lâm

Bảng 2.3: Hệ thống các truyện kể dân gian phản ánh tinh thần Phật giáo Trúc Lâm

Tinh thần Phật giáo

STT

Tên truyện

Nguồn

Trúc Lâm

Tinh thần nhập thế

1

Tướng quân Trần Tuấn Sơn

Lãng Sơn, Yên Dũng

tích cực

Tinh thần nhập thế

2

Tướng quân Vi Hùng Thắng

Thị Trấn Chũ, Lục Ngạn

tích cực

Truyện kể về ngôi đền Cổ

Tinh thần nhập thế

3

Nham Sơn,Yên Dũng

Phao xã Đồng Việt

tích cực

Tinh thần nhập thế

4

Đồn Việt, Yên Dũng

Truyện về Thái Sư Trần Thủ Độ

tích cực

Tinh thần nhập thế

5

Sự tích chùa Hang Tràm

Tân Liễu, Yên Dũng

tích cực

Tinh thần nhập thế

6

Truyền thuyết Vĩnh Nghiêm tự

Trí Yên, Yên Dũng

tích cực

Tinh thần nhập thế

7

Truyện tên Làng Đức La

Trí Yên, Yên Dũng

tích cực

Tinh thần thoát tục,

8

Truyện về con gái bản Mậu

Tuấn Mậu, Sơn Động

xuất gia tu hành

Có thể thấy các truyện kể dân gian trong nhóm chủ yếu là truyện kể của

người Kinh ở huyện Yên Dũng. Ngoài ra còn một số ít truyện kể của đồng bào các

dân tộc thiểu số ở vùng núi cao Lục Ngạn, Sơn Động. Các truyện kể này xoay

quanh các nhân vật anh hùng chống ngoại xâm thời Trần, các nhân vật văn hóa thời

Trần và cả những người dân rất bình dị với tinh thần nhập thế tích cực. Điều đáng

chú ý là những truyện kể dân gian này thể hiện sự hòa quện giữa tôn giáo và tín

ngưỡng tạo nên một nét văn hóa rất độc đáo cho vùng Tây Yên Tử. Gắn với những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nhóm truyện kể này là hệ thống đình, chùa, đền, miếu tọa lạc trên nhiều làng quê

41

trải khắp 4 huyện. Thêm vào đó là nhiều giai thoại về các nhân vật lịch sử tồn tại

trong đời sống tâm linh của người dân địa phương.

2.2. Một số đặc điểm nghệ thuật của truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh

Tây Yên Tử

Truyện kể dân gian vùng Tây Yên Tử lôi cuốn người đọc trước hết bởi một

số đặc điểm nghệ thuật khá độc đáo của nó. Đó là đặc điểm cấu tạo cốt truyện và

các yếu tố tự sự được các tác giả dân gian sáng tạo nhằm phản ánh đời sống tâm

linh của nhân dân trong vùng.

2.2.1. Cốt truyện

Cốt truyện là xương sống của tác phẩm tự sự nói chung. Đây là một trong

những yếu tố đặc trưng cơ bản nhất cấu thành nên tác phẩm tự sự. Truyện kể dân

gian thuộc thể loại tự sự dân gian nên tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật của nó không

thể không chú ý đến yếu tố cốt truyện. Theo các tác giả cuốn Từ điển tiếng Việt, cốt

truyện được định nghĩa: “Là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các

mối quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học loại tự

sự” [52]. Các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học lại cho rằng: “Cốt truyện là

hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định

tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự”

[53]. Từ quan niệm của các tác giả đã trình bày, chúng tôi nhận thấy hình thức tổ

chức kết cấu cốt truyện là yếu tố nghệ thuật quan trọng góp phần làm sáng rõ những

đặc điểm nội dung, tư tưởng nghệ thuật của truyện kể dân gian nói riêng và thể loại

tự sự nói chung.

Dựa trên những văn bản khảo sát chúng tôi nhận thấy cốt truyện của hệ

truyện kể dân gian được khảo sát đa số được tổ chức theo kết cấu ba phần: Hoàn

cảnh xuất hiện, đặc điểm nhân vật; hành trạng của nhân vật; thái độ của nhân dân.

Cách tổ chức cốt truyện này gần giống với kết cấu truyền thống của thể loại truyền

thuyết trong văn học dân gian nói chung theo quan điểm của các tác giả cuốn giáo

trình Văn học dân gian (Đại học Sư phạm Hà Nội) trong phần Kết cấu của truyền

thuyết: “Cốt truyện thường chia làm ba phần: Hoàn cảnh và đặc điểm nhân vật;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hành trạng và chiến công nhân vật; kết thúc sự nghiệp của nhân vật và đánh giá

42

của nhân dân” [87]. Tuy nhiên kết cấu chuẩn mực của cốt truyện truyền thuyết

truyền thống còn được nhiều nhà nghiên cứu gắn liền với sự xuất hiện đầy đủ của

ba motif: Sự sinh nở thần kì, tạo lập chiến công và hiển linh âm phù. Soi vào tiêu

chí này thì số lượng truyện kể trong vùng có cốt truyện được tổ chức theo kết cấu

truyền thống không nhiều. Đó chủ yếu là những truyện kể gắn với tín ngưỡng thờ

nhiên thần như Sự tích về Cao Sơn - Quý Minh, Sự tích về Đức thánh Tam Giang.

Phần lớn các truyện kể có cốt truyện kết cấu ba phần khuyết thiếu về motif. Có

truyện chỉ có một motif như: Truyện ông Cộc, ông Dài (motif sinh đẻ thần kì),Tên

làng Đức La (motif tài năng và hành trạng khác thường), Truyện về vị thành hoàng

làng Đặng xã Vĩnh Khương (motif tài năng và hành trạng khác thường )...; có

truyện xuất hiện hai motif như: Truyện kể về Hà Văn Chiếu ở Nghĩa Phương,

Tướng quân Trần Tuấn Sơn (motif sinh đẻ thần kì, tài năng và hành trạng khác

thường)... Nhìn chung, các truyện kể phản ánh tín ngưỡng, tôn gáo trong vùng

thường có cốt truyện được tổ chức theo kết cấu lỏng lẻo, chưa hoàn chỉnh so với kết

cấu cốt truyện truyền thống. Các truyện kể chủ yếu nhấn vào hành trạng của nhân

vật, chiến công của nhân vật được miêu tả bằng sự kiện cụ thể gần với đời sống

thực. Song phần kết thúc vẫn thể hiện thái độ của nhân dân đối với các nhân vật

được kể gắn với hệ thống đình, đền, miếu, chùa trải khắp vùng. Bên cạnh đó, còn

một số truyện kể có cốt truyện đơn giản với những chi tiết, sự kiện cụ thể không

phân định ba phần rõ rệt như: Truyện núi Nham Biền, Sự tích núi Cô Tiên, Sự tích

99 ao Cổ Dũng... nhằm giải thích địa danh và phản ánh tín ngưỡng vùng đất thiêng.

Một số ít truyện kể như Truyền thuyết Vũ Thành, Truyện ông khổng lồ có cốt truyện

được tổ chức theo kết cấu đa dạng, phức tạp: Vừa có kết cấu từng đơn vị mẫu riêng

lẻ vừa có kết cấu xâu chuỗi. Đó là những truyện kể mà cốt truyện được tạo bởi

nhiều mẫu kể. Mỗi mẫu kể tập trung tái hiện một sự kiện tương đối hoàn chỉnh xoay

quanh cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật. Tập hợp và xâu chuỗi lại các mẫu kể, ta

được một cốt truyện hoàn chỉnh về cuộc đời, số phận nhân vật. Truyền thuyết Vũ

Thành gồm nhiều mẫu kể tiêu biểu như: Con ngựa của tướng quân Vũ Thành,

Truyện bà hàng nước quán Hả,Truyện tại sao có tên Biển Động, Sự tích về thánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Vũ Thành, Cái Chết Vũ Thành. Tập hợp và xâu chuỗi các mẫu kể lại, ta có thể tạo

43

dựng bức chân dung đầy đủ nhất về cuộc đời, sự nghiệp của người anh hùng dân

tộc. Đó là hình ảnh kết tinh cho tinh thần anh dũng, cho tài năng, mưu trí tuyệt vời

và tinh thần yêu nước của người Tây Yên Tử nói riêng và người Việt Nam nói

chung. Truyện ông Khổng Lồ cũng gồm nhiều mẫu kể: Truyện Cầu Long Hoa,

Truyện chín chín ngọn núi Phượng Hoàng, Truyện núi nham Biền, Truyện núi Cô

Tiên, Núi con Voi... Xâu chuỗi các mẫu kể, ta được một huyền thoại đẹp về mảnh

đất Yên Dũng khí thiêng hội tụ.

Điểm qua hình thức tổ chức cốt truyện ở một số truyện kể trên, có thể thấy

truyện kể dân gian vùng Tây Yên Tử có hệ thống cốt truyện được tổ chức theo

nhiều hình thức kết cấu rất đa dạng từ kết cấu truyền thống, kết cấu đơn giản đến

phức tạp. Đặc điểm nghệ thuật này cho thấy cốt truyện của truyện kể trong vùng

vừa mang những nét đặc trưng, chuẩn mực về cốt truyện của truyện kể dân gian

Việt Nam nói chung vừa phản ánh trí tưởng tượng rất phong phú và sự sáng tạo

tuyệt vời của nhân dân trong vùng.

2.2.2. Nhân vật

Cùng với hình thức tổ chức cốt truyện, nhân vật cũng là yếu tố rất quan trọng

tạo nên giá trị phản ánh độc đáo của truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây

Yên Tử. Hệ thống nhân vật trong các nhóm truyện kể được khảo sát khá đa dạng. Ở

mỗi nhóm truyện kể nhân vật lại được lựa chọn và thể hiện theo một cách riêng.

Nhân vật trong nhóm truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ nhiên thần là những

nhân vật có nguồn gốc thần thoại, được xây dựng bằng trí tưởng tượng rất phong

phú của nhân dân. Đó là ông Khổng Lồ được Ngọc Hoàng sai xuống vùng đất Yên

Dũng đào sông, đắp núi; là cô Tiên thứ 99 say ngắm cảnh ngủ quên đến khi đóng

cửa trời mới hoàn thành ngọn núi đắp vội để đàn phượng hoàng không tìm thấy chỗ

đậu, khiến Ngọc Hoàng tức giận đày cô vĩnh viễn xuống trần gian, là con Phượng,

con Voi theo chân cô tiên thứ 99 mãi mãi ở lại cõi trần; là 99 con Phượng Hoàng

bay về vùng Cổ Dũng tắm gội...Tất cả tạo nên những vùng đất thiêng lấp lánh màu

sắc huyền thoại. Bên cạnh đó là các nhân vật gắn với motif người đội lốt vật thấm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đẫm màu sắc cổ tích với những yếu tố kì ảo, hoang đường nhằm linh thiêng hóa

44

những nhân vật, sự kiện có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người và phản ánh tín

ngưỡng của người dân địa phương.

Truyện ông Cộc - ông Dài kể rằng: “Một bà mẹ đi làm buổi sáng sớm ướm

chân mình vào tảng đá lớn có hình bàn chân người rồi mang thai, sinh ra một bọc ba

quả trứng, nở thành ba con rắn. Khi mẹ vắng nhà ba con rắn lại hóa thành ba chàng

trai khôi ngô tuấn tú. Một lần bị bà mẹ bất chợt bắt gặp ba chàng trai lại chui vào lốt

rắn và chạy lên núi cao. Bà mẹ đuổi theo gọi con trở lại không may dẫm phải đuôi

một con rắn, người ta gọi đó là ông Cộc, còn hai con kia gọi là ông Dài. Từ đó nhân

dân có tục thờ rắn thần” [40].

Sự tích ngôi nhà ở của người Cao Lan cũng kể: “Người con trai út của Thủy

thần mải chơi bị vua cha phạt đội lốt lợn rừng một tháng tức 30 năm trên trần.

Chàng gặp một cô gái xấu xí và kết duyên chồng vợ. Họ sinh được một người con

trai. Cậu bé có tài bơi lội như một con dái cá và làm bạn với trâu thần. Một hôm

trâu thần rụng một cái răng nanh, chú bé đem về vẽ cái gì cái đó trở thành sự thật.

Cậu vẽ ngôi nhà to cho bố mẹ ở bãi đất trống ngôi nhà mới hiện ra thay thế túp lều

cũ. Cha chú hỏi sự tình và biết vua cha cho người gọi mình về. Từ đó, người Cao

Lan quan niệm trâu nước cho họ ngôi nhà vững trãi và họ có tục thờ trâu thần” [40].

Nhân vật trong những truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ vật tổ hay các vị

Thần Nông được xây dựng bằng những yếu tố vừa li kì vừa chân thực gắn với đời

sống hàng ngày của con người. Đó là người nông dân tạo ra hạt mác - hu và dạy dân

biết cày, cấy ruộng nương được tôn là Thần Nông trong Sự tích về cây lúa; là hai

chị em trong Truyện quả bầu cùng trải qua cơn đại hồng thủy thuở trời đất hỗn

mang vì cởi trói cho thiên lôi trở thành thủy tổ sinh ra trăm họ và dựng lại trời đất

để con cháu có nơi sinh tụ lâu dài; là hai anh em họ Lâm hay cụ tổ họ La trong Lằm

Pắc và Lằm Lò...Có thể nói các nhân vật trong nhóm truyện kể phản ánh tín ngưỡng

thờ nhiên thần được xây dựng bằng sự kết hợp giữa hai yếu tố thực và ảo song yếu

tố kì ảo chiếm ưu thế khiến cho những câu chuyện thấm đẫm màu sắc huyền thoại,

góp phần làm phong phú thêm đời sống tâm linh của nhân dân trong vùng.

Ở nhóm truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ nhân thần, hệ thống nhân vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

được lựa chọn chủ yếu là những nhân vật lịch sử, nhân vật văn hóa có nhiều công

45

trạng trong nhiều cuộc kháng chiến chống lại các thế lực ngoại xâm, hay trong công

cuộc khai khẩn đất hoang, lập ấp, lập làng đem lại cuộc sống thái bình cho nhân dân

từ thời Hùng Vương cho đến thời Lý, thời Lê. Trong hệ thống truyện kể này, ngoài

nhân vật Vũ Thành trong Truyền thuyết Vũ Thành - niềm tự hào của quê hương Tây

Yên Tử còn lại hầu hết là những nhân vật xuất thân từ những miền quê khác vì

nhiều lí do cùng hội tụ về và tạc dáng hình của mình vào dáng hình của miền đất

này bằng tên tuổi và sự nghiệp vĩ đại với những chiến công hiển hách, những công

trạng hiếm có. Từ miền đất lân cận Hải Dương, nữ tướng tài ba bậc nhất của hai bà

Trưng là Thánh Thiên nổi tiếng ham học, tinh thông võ nghệ ngay từ khi còn nhỏ đã

thay cha phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân giặc đem lại thái bình cho vùng đất Yên

Dũng. Tên tuổi và sự nghiệp của bà bất tử đời đời trong tâm thức của nhân dân Tây

Yên Tử với danh thơm nữ thần đền Ngọc Lâm. Từ mảnh đất Lạng Sơn giáp ranh

với Tây Yên Tử, Hà Công Dong trong Truyện về Hà Công Dong có công tu sửa

đình miếu, sắm sửa đồ tế rước được nhân dân phong làm Thành hoàng và thờ cúng,

lưu truyền muôn đời. Khác với các nhân vật đến từ những vùng lân cận, tướng quân

Vi Đức Lục - người con ưu tú của mảnh đất Nghệ An xa xôi, phụng mệnh triều đình

nhà Lê đưa quân lên trấn giữ của ngõ Đông Bắc thuộc huyện Sơn Động. Không chỉ

đẩy lùi giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi, ông còn dạy dân lao động xây dựng cuộc

sống, sáng lập và trở thành thủy tổ của dòng họ Vi ở trong vùng. Tri ân sâu sắc với

công đức của tướng quân, người dân Sơn Động lập miếu ngàn năm phụng thờ ông ở

nhiều địa bàn trong huyện như An Châu, An Lập...

Đặc biệt hơn, các nhân vật trong nhóm truyện kể này còn là những hoàng tử,

những công chúa xuất thân từ kinh đô hoa lệ của các triều đại, không quản khó

khăn, gian khổ vượt qua bao núi cao, vực sâu, rừng rậm đến với Tây Yên Tử để

khai khẩn đất hoang, chinh phục thiên nhiên, kiến tạo xóm, làng đem lại cuộc sống

bình yên cho nhân dân. Đó là hoàng tử Lý Quảng Thông và Lý Quảng Phùng trong

Truyện về vị thành hoàng làng Đặng xã Vĩnh Khương. Hai hoàng tử nhận chỉ dụ

của vua lý xuống địa phương phối hợp với các tù trưởng trấn giữ vùng Sơn Động xa

xôi. Ngoài việc trấn ải giữ yên bờ cõi, củng cố chính quyền, tự tạo vũ khí, xây dựng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lực lượng địa phương, họ còn đem tư tưởng khuyến nông cùng chính sách ruộng đất

46

đến với đồng bào dân tộc, dạy người dân cách sản xuất. Trong những trận chiến

giáp lá cà với quân Tống, hai hoàng tử tả xung, hữu đột lao vào trận địa tiêu diệt

giặc khiến cho nhân dân vô cùng khâm phục. Trước lực lượng áp đảo của giặc

Tống, họ đã chiến đấu dũng cảm đến hơi thở cuối cùng và ngã xuống tại vùng đất

Tây Yên Tử. Nhân dân nơi đây tôn thờ hai hoàng tử, phong Thành hoàng và lập đền

thờ phụng muôn đời tại làng Đặng xã Vĩnh Khương. Đó cũng là công chúa Quế Mị

Nương, công chúa Lê Chân (Ả Nương Mỵ Nương) con gái vua Hùng Định Vương

đến tuổi trưởng thành không muốn kết duyên, cầu xin vua cha cho đi ngao du sơn

thủy. Hai nàng công chúa cùng khước từ cuộc sống vương giả ở nơi cung vàng, điện

ngọc để vượt qua bao con đường gai góc hiểm trở, bao vực thẳm hang sâu để đến

với Tây Yên Tử. Nàng Quế Mị Nương nương theo rừng xanh tìm mẹ và dừng chân

ở thung lũng thuộc đất Nghĩa Phương - “nơi đất đai khô cằn, cháy khét, cuộc sống

đang đuối dần bên những túp lều siêu vẹo, những mái lá dột nát, những con người

bệnh tật, đói gầy, ngơ ngác vì hạn hán”[40]. Nàng băng qua khu cây cối bốc lửa âm

ỉ, chinh phục từng ngọn núi khuất chân mây, đi tìm nước, đem mùa xuân về cho

miền đất khát cháy này. Gặp được tiên ông sau khi tìm thấy hồ nước đầy trên núi

cao mà không có cửa mở, nàng lập hành cung tu luyện, dốc tâm sức đọc sách đến

khi có đủ sức mạnh dùng năm đầu ngón tay ấn nhẹ xuống mỏm núi mở nước, tái

sinh sự sống cho vùng đất Nghĩa Phương. “Dòng nước chảy tới đâu, núi đồi bờ bãi

xanh trở lại tới đó; suối chảy tới đâu,bản làng đông đúc, ấm áp tới đấy” [40]. Sự

sống trở về trên thung lũng Nghĩa Phương lại bắt đầu với những mùa nảy lộc, sinh

sôi. Còn Ả Nương công chúa chọn điểm dừng chân tại thôn An Phú, xã Mỹ An,

huyện Lục Ngạn. Trên đường du lãm, công chúa cảm kích trước sự thân thiện và

tấm lòng chân thành của nhân dân An Phú đã lập hành cung tại nơi đây, ban cho các

phụ lão vàng, bạc để mở rộng đất đai đem đến cuộc sống ấm no cho nhân dân. Ghi

nhớ công ơn của hai nàng công chúa nhân dân Tây Yên Tử đã lập đền thờ phụng

các nàng. Cụm di tích đền Trung, đền Thượng, đền Hạ và năm bậc thác ở suối Mỡ

là những chứng tích lưu lại đến muôn đời sau về công ơn của công chúa Quế Mị

Nương. Còn đền thờ Trấn quốc Tam Giang, Ả Nương công chúa tại An Phú và ba

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mươi nhăm nơi khác ghi nhớ công ơn của công chúa Lê Chân. Đó còn là công chúa

47

Thiều Dương con gái vua Lê Thánh Tông vừa đẹp người, đẹp nết vừa được vua cha

yêu quý, cưng chiều. Đến tuổi kết duyên, nàng xin vua cha đi chu du thiên hạ và

đến vùng Hoàng Mai thuộc đất Yên Dũng. Nàng cấp tiền cho dân tu tạo, chỉnh trang

ngôi chùa linh thiêng để hàng năm đến đó thành tâm niệm phật, trau dồi pháp thuật

tinh thông. Khi giặc Chiêm kéo đến xâm lược, nàng xin phép vua cha cho đi dẹp

giặc. Thiều Dương công chúa đến Hoàng Mai lập hành cung cầu đảo và được linh

thần phù giúp. Nàng cải trang thành nam nhi, kéo quân dẹp giặc và đánh đuổi kẻ thù

ra khỏi bờ cõi. Đất nước thanh bình, nàng xin ở lại đất Hoàng Mai và ra đi tại vùng

đất này khi đang đi thuyền trên sông gặp mưa to, gió lớn. Người dân Hoàng Mai đời

đời hương hỏa, phụng thờ công chúa Thiều Dương tại đền thờ của Phường. Cách đó

không xa là Xa Lâu điện thuộc làng Ảm xã Tiền Phong huyện Yên Dũng cũng thờ

công chúa Thiều Dương với sự tri ân sâu sắc với nữ tướng đồng thời là Thánh Mẫu

có công dẹp giặc đem lại cuộc sống thái bình cho nhân dân địa phương. Nhìn

chung, các nhân vật trong nhóm truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ nhân thần được

lựa chọn và xây dựng có nguồn gốc xuất thân rõ ràng, ngày sinh, ngày mất cụ thể

rất gần gũi với đời sống hiện thực. Các yếu tố kì ảo cũng được các tác giả dân gian

sử dụng để xây dựng nhân vật trong những nhóm truyện này nhằm thiêng hóa họ

trong tâm thức của nhân dân.

Thế giới nhân vật trong nhóm truyện kể phản ánh tinh thần Phật giáo Trúc

Lâm Yên Tử là những nhân vật anh hùng chống ngoại xâm hay anh hùng văn hóa,

các nhân vật là vua, quan trong triều đại nhà Trần. Các nhân vật anh hùng chống

giặc ngoại xâm thường được tái hiện trong không khí quyết chiến, quyết thắng của

thời đại Đông A buổi bình Nguyên. Nhân vật Trần Tuấn Sơn trong truyện Tướng

quân Trần Tuấn Sơn được tái hiện là “một trong ba vị tướng tài của vua Trần Nhân

Tông. Ông cùng với Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải tiến công đại phá đồn

giặc ở ải Chi Lăng khiến cho quân Nguyên thất bại nhục nhã” [40]. Danh thơm của

ông còn lưu truyền khắp vùng. Tướng quân Vi Hùng Thắng trong truyện kể cùng

tên cũng được xây dựng gắn với không gian chiến trận ác liệt, với những chiến công

chói lọi của nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông: “Khi đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nước có giặc ngoại xâm vua Trần cho sứ giả đi khắp nơi cầu người tài giúp nước. Vi

48

Hùng Thắng ngay từ nhỏ đã khỏe mạnh, thông minh hơn người lại chăm chỉ tập

luyện võ nghệ khi trưởng thành trở thành người chỉ huy lực lương trai tráng trong

làng. Nghe tin nhà vua cầu người tài giúp nước ông liền đầu quân và được nhà vua

tin dùng cho về quê tập binh sĩ để đánh giặc. Ông trở thành tướng tài của Trần hưng

Đạo trấn giữ ải Xa Lý và dũng cảm cùng quân sĩ chiến đấu chống trả lại quân xâm

lược. Thế giặc quá mạnh Vi Hùng Thắng bị phục kích bất ngờ. Ông chiến đấu đến

hơi thở cuối cùng và ngã xuống giữa chiến trường...” [40]. Từ miền đất lân cận Hải

Dương, tướng quân Nghĩa Xuyên trong Truyện kể về ngôi đền Cổ Phao, xã Đồng

Việt đã nuôi chí lớn và trở thành một vị tướng tài của Trần Hưng Đạo. Ông theo

Hưng Đạo Đại Vương đuổi giặc Nguyên đến Lục Đầu Giang, bị đánh lén và tự tiết

nơi đây. Trong tâm thức của nhân dân địa phương, tướng quân Nghĩa Xuyên được

coi là một trong những “Yết Kiêu” của thời đại nhà Trần. Được tái hiện trong không

khí oai hùng của thời đại Đông A, các nhân vật anh hùng chống giặc ngoại xâm

trong nhóm truyện kể được thêu dệt bằng nhiều yếu tố kì ảo về sự sinh nở thần kì,

về quá trình tạo lập chiến công để gửi gắm niềm tin và sự ngưỡng mộ của nhân dân:

Cho dù thể xác người anh hùng có tan vào chín suối thì hồn vía, anh linh của họ vẫn

như vầng nhật nguyệt chói lòa tiếp lửa cho truyền thống yêu nước chống giặc ngoại

xâm của người dân Tây Yên Tử nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung.

Bên cạnh nhân vật anh hùng chống giặc ngoại xâm là những nhân vật anh

hùng văn hóa góp mặt trong nhóm truyện kể. Có thể kể đến nhân vật Trần Thủ Độ

trong Truyện kể về Thái Sư Trần Thủ Độ với công trạng lớn ở vùng đất Hương Tảo

xưa. Cùng với các nhân vật anh hùng văn hóa là những nhân vật gắn với địa danh

phật giáo thời Trần như nhân vật Hoàng Bà có công xây dựng chùa Hang Tràm

trong Sự tích chùa Hang Tràm, nhân vật người đánh dậm có công cõng vua Trần

Nhân Tông qua lải nước trong truyện Tên làng Đức La, nhân vật là vua Trần Nhân

Tông đi tìm đất thiêng xây chùa trong Truyền thuyết Vĩnh Nghiêm Tự. Đó là những

nhân vật của đời thực xuất hiện trong các truyện kể nhằm mục đích giải thích cho

những tên đất, tên làng linh thiêng mang tinh thần Phật giáo thời Trần.

Qua cách lựa chọn và xây dựng nhân vật trong các nhóm truyện kể ở trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chúng tôi nhận thấy hệ thống nhân vật của truyện kể dân gian vùng Tây Yên Tử chủ

49

yếu được tập trung tái hiện bằng sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo thể

hiện trí tưởng tượng và sức sáng tạo tuyệt vời của nhân dân trong vùng. Nhân vật

trong hệ thống truyện kể này còn được chú trọng miêu tả ở hành động và bối cảnh

xã hội của hành động, ít chú trọng miêu tả suy nghĩ, trăn trở trong thế giới nội tâm

nhân vật. Điều này cho thấy truyện kể dân gian trong vùng mang những đặc trưng

nổi bật trong nghệ thuật xây dựng nhân vật trong phương thức tự sự nói chung.

2.2.3. Một số motif tiêu biểu

Nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật của truyện kể dân gian không thể không

nhắc đến yếu tố motif. Bởi lẽ motif là “Những thành tố những bộ phận lớn hoặc

nhỏ đã được hình thành ổn định, bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng

tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian”[53, tr.136].

Motif như vậy được hiểu là một đơn vị tham gia cấu tạo cốt truyện dân gian nhằm

thể hiện một quan niệm, một tư tưởng, một triết lí nhân sinh nào đó của tác giả. Đây

là một trong những phương tiện nghệ thuật truyền tải dụng ý nghệ thuật của các tác

giả dân gian.Trong truyện kể dân gian, motif được xem là công thức để triển khai

cốt truyện hay còn được xem là yếu tố hợp thành cốt truyện. Gắn với đặc trưng

phản ánh văn hóa vùng, miền của văn học dân gian nói chung, motif cũng biến đổi

theo từng vùng đất, từng tộc người nhằm phản ánh đời sống tâm tư, tình cảm cũng

như nếp cảm, nếp nghĩ của nhân dân địa phương. Khảo sát ba nhóm truyện kể phản

ánh tín ngưỡng, tôn giáo ở vùng Tây Yên Tử chúng tôi nhận thấy sự tồn tại của ba

motif tiêu biểu: Sinh đẻ thần kỳ; tài năng và hành trạng khác thường; hóa thân và

hiển linh âm phù.

* Motif sinh đẻ thần kỳ

Một trong những mẫu đề rất quen thuộc của truyện kể dân gian nói chung là

motif sinh đẻ thần kỳ (hay còn gọi là motif sinh nở thần kỳ, sự thụ thai thần kỳ, sự

ra đời kỳ lạ). Nó có nguồn gốc từ thần thoại và phổ biến trong thể loại truyền thuyết

và cổ tích. Nhiều truyện kể ở các vùng lân cận và nhiều vùng đất xa xôi trên dải đất

hình chữ S như Truyền thuyết về Thạch Tướng Quân (Việt Yên - Bắc Giang),

Thánh Gióng (Bắc Ninh), Truyền thuyết về Mẫu Thượng Thiên (Thái Bình), Truyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thuyết Đình Phúc Hòa (Yên Bái) đều gắn với motif này. Ở các nhóm truyện kể đã

50

tập hợp, phân loại ở trên motif sinh đẻ thần kỳ cũng tồn tại ở một số truyện với biểu

hiện cụ thể trong như sau:

Bảng 2.4: Bảng hệ thống motif sinh đẻ thần kỳ trong truyện kể dân gian vùng

văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

Tên Motif sinh STT truyện Tóm tắt nội dung đẻ thần kì kể

Mẹ Đức Thánh Tam Giang sau một đêm nằm mơ thấy Sự sinh đẻ

mình đi tắm sông Lục Đầu, bỗng thấy có thần Long bắt nguồn Sự tích quấn quanh thân nên cảm động có thai 14 tháng. Đến từ việc về Đức ngày mùng 5 tháng giêng, năm Nhâm Ngọ, đi đến người mẹ 1. Thánh chùa hành hương, dâng lễ về đến xứ Cửa Ấu thì sinh kết hợp với Tam ra một bọc có bốn nam, một nữ. Con trai đặt tên là con vật có Giang Hống Hát, Lừng Lẫy, con gái đặt tên là Đạm Nương. nguồn gốc

thần linh

Người mẹ vào rừng kiếm củi thấy một tảng đá lớn có Sự sinh đẻ

hình bàn chân người. Bà liền lấy chân mình ướm thử, bắt nguồn Truyện sau đó nằm ngủ thiếp đi. Bà mơ thấy một người đàn từ việc Ông ông cao lớn đưa bà đến một lâu đài nguy nga, tráng lệ. người mẹ Cộc, 2 Tỉnh dạy bà thấy trong người khác thường và sau đó ướm vào lốt Ông bà đã mang thai. Sau 3 năm bà sinh ra một bọc có 3 chân lạ và Dài quả trứng. Vào ngày 13 tháng 3 âm lịch năm ấy ba về nhà nằm

quả trứng nở thành 3 con rắn. mộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Cao Sơn và Quý Minh đại vương sinh ra trong một gia Sự sinh đẻ Sự tích đình hiếm muộn. Cha mẹ ông chuyên tích đức thành thần kì bắt về Cao thiện, đến nhiều đình, miếu linh thiêng để làm lễ cầu nguồn từ Sơn - 3 tự. Tới ngày 15 tháng 3 năm Nhâm Ngọ bà sinh ra hai việc làm Quý người con trai diện mạo khác thường và đặt tên người phúc đức Minh con trai lớn là Cao Sơn, con thứ là Quý Minh của bố mẹ

51

Tên Motif sinh STT truyện Tóm tắt nội dung đẻ thần kì kể

Ngọ Tiên Nương là con gái của một gia đình giàu có Sự sinh đẻ

lại yêu cảnh thiên nhiên ham du ngoạn. Trong một bắt nguồn

chuyến đi chơi đến thôn Khê Khẩu trời tối bà vào ngôi từ sự ban Sự tích đền bên sông nghỉ lại. Ban đêm bỗng có ánh sáng chói ơn của thần ngôi 4 lòa, một vị thần xuất hiện bảo: Ta thấy ngươi có tư cho những đền Từ cách tốt đẹp nên ban cho hai trái đào tiên này. Sau đó người có tư Co bà có thai đủ ngày đủ tháng sinh được hai cái bọc, nở cách tốt đẹp

ra hai người con trai khôi ngô tuấn tú, thông minh lạ

thường.

Công chúa Lý Thị Cảnh và chồng là quan Tả bộc xạ Sự sinh đẻ

quan sát Mật Lệnh Công lấy nhau đã lâu mà chưa có thần kì bắt

con, trong lòng lấy làm buồn bã. Khi ấy trong nhà có nguồn từ

nuôi một con chó cái. Đến một hôm con chó sắp đến việc làm

ngày sinh đẻ bỗng bỏ đi mất, được hai ngày lại thấy phúc đức

Truyền trở về. Ông lấy cơm cho chó ăn, ăn xong nó lại vượt của bố mẹ

thuyết sông mà đi. Ông lập tức chèo thuyền đi tìm. Đến thôn 5 Vũ Bồng Lai, xã Lão Hương, huyện Bảo Lộc, ông thấy

Thành con chó đã sinh được ba con chó cái, mắt đã mở sáng

long lanh. Ông trở về kể lại sự việc trên cho công

chúa nghe. Hai người đồng tình chuyển nhà sang ở tại

nơi ấy, xây dựng nhà cửa, vỗ về dân chúng. Ở đất này

một thời gian, công chúa thụ thai. Đến kỳ sinh được

một người con trai, đặt tên là Vũ Thành.

Truyện Khi chùa Vạn Khánh làm lễ đúc chuông Hà Công Sự sinh đẻ

về Hà gánh củi ra chợ bán được 18 đồng kẽm đem cúng cả thần kì bắt

văn vào chùa. Bà Phạm Thị là vợ ở chợ về qua đấy có bao nguồn từ 6 Chiếu ở nhiêu tiền cũng đem quyên cả vào việc đúc chuông. việc làm

Nghĩa Sau đó trở về nhà thấy tâm thần chuyển động sinh ra phúc đức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Phương một chàng trai đặt tên là Hà Văn Chiếu. của bố mẹ

52

Tên Motif sinh STT truyện Tóm tắt nội dung đẻ thần kì kể

Ở làng Vai, xã Kim Sơn, huyện Lục Ngạn có gia đình Sự sinh đẻ

họ Vi rất nghèo, người con trai tên là Vi Phúc Tính, thần kì bắt

hàng ngày vẫn phải lên rừng chăn trâu thuê cho nhà nguồn từ

giàu trong làng. Một hôm cậu bé đang chăn trâu thì việc gia

thấy nhà giàu cùng thày địa lý người Tàu đi xem đất, đình ăn ở Tướng cậu bèn lẻn đi theo, đến một khu đất có tên là Đồng phúc đức quân Vi 7 Voòng, họ dừng chân lại. Nghe được lời thầy địa lý, gặp thầy Đức cậu đã đánh tráo cành lá ở hai huyệt đất. Sáng hôm địa lý giỏi Lục sau nhà giàu thấy hố có cành lá tươi bèn táng mộ của chỉ cho

cha ông mình ở đó. Thời gian dần trôi đi, sau này Vi long mạch

Phúc Tính lấy vợ sinh được cậu con trai, từ lúc mới tốt

sinh ra trông cậu bé khôi ngô, sáng sủa hơn người.

Cậu bé được bố mẹ đặt tên là Vi Hùng Thắng

Huệ Nương, là bậc nữ tài, tuyệt mỹ vô song. Một ngày Sự sinh đẻ

kia nàng đến trang Ngư Uyên, huyện Yên Dũng, bỗng bắt nguồn

nhiên thấy trời đất tối sầm, mưa to gió lớn nổi lên, lại từ sự ban

thấy một đám mây vàng bao phủ thân thể. Trần thị ơn của thần

hoảng sợ, bỏ chạy vào trú ở miếu trang Ngư Uyên. cho những

Đột nhiên thấy hào quang khí lành chói lòa trên miếu người có

Tướng điện. Lại thấy một ông lão ngồi ở thượng điện nói là đức dày

quân bản cảnh Thành hoàng ở miếu này tự hiện là Tuấn

8 Trần Sơn đại đức chi thần được nhà trời đã chiếu ban xuất

Tuấn thế vào làm con nàng. Nói rồi ông lão biến mất. Bầu

Sơn trời lại sáng như thường. Bà trở về nhà thì trời đã tối.

Đêm ấy, bà nằm mộng thấy một dải hào quang tựa

như bọc bạch ngọc từ trên trời giáng xuống. Khi tỉnh

dậy bà thất kinh, hoảng sợ thấy mình có chửa. Năm

Nhâm Ngọ, tháng Giêng, ngày 10 bà sinh được người

con trai, thiên chất khác thường, diện mạo khôi ngô,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tuấn tú.

53

Dựa vào bảng hệ thống trên chúng tôi nhận thấy motif sinh đẻ thần kỳ tồn tại

trong các truyện kể khá đa dạng và biến hóa về kiểu motif. Ở mỗi truyện kể sự ra

đời thần kì của nhân vật lại mang một sắc thái riêng. Ngay cả những truyện cùng

chung kiểu motif vẫn có những đặc điểm riêng không thể trộn lẫn với bất cứ truyện

kể nào. Nhìn chung sự thụ thai thần kỳ của các nhân vật đều không có sự cộng tác

của nam giới mà có hình thức đa dạng như đã thống kê các kiểu motif trong bảng hệ

thống trên nhằm lạ hóa nguồngốc nhân vật, thần thánh hóa nhân vật ngay từ nguồn

gốc xuất thân và dự báo những hành trạng phi thường, những thành tích bất ngờ,

những khả năng kì diệu của nhân vật.

Bằng những chi tiết kì ảo, hoang đường trong quá trình thụ thai của nhân vật,

motif sinh đẻ thần kỳ ở các nhóm truyện kể cũng tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc

và thể hiện khát vọng của nhân dân về những nhân vật có tài cao, đức trọng hơn

người có thể giúp đỡ và bảo vệ con người khỏi thiên tai, địch họa. Nói như nhà

nghiên cứu Nguyễn Bích Hà: “Sự ra đời kỳ ảo của các nhân vật một mặt làm truyện

thêm li kì, hấp dẫn và mang màu sắc đặc trưng của truyện cổ, mặt khác nó thường

báo hiệu những hành trạng phi thường, những thành tích bất ngờ hoặc những khả

năng kỳ diệu của nhân vật” [23].

* Motif tài năng và hành trạng khác thường

Tài năng và hành trạng khác thường là motif khá phổ biến trong truyện kể

dân gian. Motif này tạo ra mối dây liên kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trong

cuộc đời của nhân vật truyện kể. Nó cũng gắn liền với những hành động phi thường,

chiến công hiển hách, những việc làm bình dị nhưng khác thường...của các nhân vật

được tái hiện nhằm thể hiện thái độ trân trọng và cái nhìn đầy ngưỡng vọng của

nhân dân đối với những người có công đức, công trạng đem lại cuộc sống ấm no,

hạnh phúc cho mình. Đây cũng có thể coi là motif trung tâm của các truyện kể dân

gian nói chung. Ở ba nhóm truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo vùng

Tây Yên Tử chúng tôi nhận thấy tất cả các truyện kể đều có kết cấu cốt truyện và

nhân vật gắn với motif tài năng và hành trạng khác thường. Tuy nhiên mức độ biểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hiện của motif này trong mỗi truyện kể lại có những nét riêng rất độc đáo.

54

Một số truyện kể tái hiện tài năng và hành trạng của các nhân vật bằng sức

mạnh phi thường, kì vĩ tạo nên hình sông thế núi rất đỗi thiêng liêng như Truyện

Ông Khổng Lồ, Sự tích núi Cô Tiên.

Một số truyện kể đề cập đến tài năng và hành trạng khác thường của nhân vật

bằng những chi tiết rất đời thường, ghi nhận công lao của những con người bình dị

ở địa phương hoặc từ nhiều nơi đến với vùng đất Tây Yên Tử. Truyện Ông Cộc,

Ông Dài đề cập đến công khai thiên, lập địa của mẹ con người đàn bà mò cua bắt ốc

kiếm ăn. Sự tích chùa Hang Tràm lại ghi nhận công lao xây dựng chùa tháp của

Hoàng Bà. Công lao cõng vua qua lải nước của người đánh dậm cũng được tái hiện

trong truyện Tên Làng Đức La.

Một số truyện lại tập trung tái hiện hành trạng của nhân vật khác thường và

rất đỗi li kì. Sự tích về Cây Lúa kể: “Người nông dân vào rừng hái củ mài và săn bắt

thú rừng để kiếm sống thấy đàn gà rừng ăn những hạt cỏ bay tán loạn nên dùng

súng bắn đàn gà. Đàn hạt cỏ bay đến bái lạy và cảm ơn anh. Anh đem hạt cỏ về nhà

và ném ra vườn. Hạt cỏ mọc lên xanh tốt ra hạt chín vàng rụng xuống lại xin người

nông dân cho vào nhà để khỏi bị gà ăn. Người nông dân phải quây cót cho chúng ở

chờ mùa sau sinh nở. Khi không còn gì ăn vợ anh cho hạt cỏ vào ống nứa đổ nước

vào đốt, hạt cỏ nở bung ra, người vợ ăn no bụng, người chồng trở về ăn theo và hạt

cỏ trở thành lương thực của họ. Mùa xuân họ phát nương đem hạt cỏ ra vãi. Khi

chín rụng hạt cỏ bay về nhà tới tấp làm người vợ ngứa ngáy hết người nên mắng và

cấm hạt cỏ không được tự về nhà nếu không được chồng chị trói cổ đem về. Hạt cỏ

khóc hu hu rồi bay đi hết. Người chồng trở về giận quá, đánh cho vợ một trận rồi

mang một tải hạt lên đỉnh núi cao, vãi hạt cỏ ra những bãi đất màu mỡ và đặt tên

chúng là mác - hu (quả lúa - hạt lúa). Đến mùa hạt lúa chín bay đi khắp nơi để

người dân có cái ăn. Người nông dân có công tạo ra hạt lúa dạy dân biết cày, cấy

ruộng nương được tôn làm Thần Nông...” [40].

Đáng chú ý hơn là các truyện kể về tài năng và hành trạng khác thường của

những nhân vật lịch sử và nhân vật văn hóa trong ba nhóm truyện kể được khảo sát.

Motif về tài năng và hành trạng khác thường ở những truyện kể này gắn với những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

chiến công hiển hách của những người anh hùng. Trong công cuộc chống giặc ngoại

55

xâm, truyện kể phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo vùng Tây Yên Tử tái hiện chiến công

rạng rỡ của nhiều người anh hùng từ thời Hùng Vương cho đến thời kì phong kiến

tự chủ. Đó là chiến công oanh liệt của Cao - Sơn Quý Minh “Hai ông bày binh bố

trận, quyết chiến. Đánh nhau được vài mươi hiệp giặc yếu thế, quân ta thừa thắng

đuổi theo chém được đầu tướng giặc Thản La và vài tên thuộc tướng của hắn. Quân

giặc mất chư tướng như rắn mất đầu chạy tán loạn” [7]; là chiến thắng lẫy lừng của

Đức Thánh Tam Giang khiến “quân Lương không sao chống cự nổi đại bại rã rời,

dẫm đạp lên nhau chết nhiều vô kể” [6]; là chiến tích của hai hoàng tử nhà Lý trong

Truyện về vị thành hoàng làng Đặng Xã Vĩnh Khương; là chiến công đánh đuổi giặc

của nữ thần đền Ngọc Lâm, của công chúa Thiều Dương và chiến công hiển hách

của tướng quân Vũ Thành, của Trần Tuấn Sơn, Vi Hùng Thắng.... Trong công cuộc

khai khẩn đất hoang, các nhóm truyện kể được nghiên cứu cũng vinh danh công

trạng lớn lao của các nhiều anh hùng văn hóa. Tiêu biểu là công chúa Quế Mị

Nương có công đưa nước về tái sinh sự sống cho cả vùng đất Nghĩa Phương. Với

bàn tay mang sức mạnh vô hình được nhân vật thiêng là Phật Lão phù trợ, Công

Chúa có thể làm: “Khe núi nứt ra, đất đá ầm ầm xô chuyển, nước từ khe vỡ ào ào

dội xuống vùng thấp” [40]; là Thái sư Trần Thủ Độ với tài năng hơn người đã diệt

trừ bạch xà, mở mang thực ấp, lập đất, lập làng cho nhân dân Hương Tảo an cư, lập

nghiệp...Tất cả nhằm thần thánh hóa, lí tưởng hóa người anh hùng và thái độ đề cao,

suy tôn công lao của người anh hùng đồng thời thể hiện tinh thần đoàn kết, ý thức

tự cường và truyền thống yêu nước trong tâm thức của nhân dân Tây Yên Tử .

* Motif hóa thân và hiển linh âm phù

Đây là một trong những motif tiêu biểu và quen thuộc của truyện kể dân gian

nói chung. Kiều thu Hoạch cho rằng: “Khi sáng tạo hình tượng nhân vật truyền

thuyết, tác giả dân gian dường như đã gặp một nghịch lý trong quan niệm về người

anh hùng: Một mặt họ nhìn thấy tính chu kỳ của thời gian đời người, mặt khác

họ lại không muốn tin người anh hùng phải chết. Để giải quyết nghịch lý này, tác

giả sử dụng motif hóa thân để nói về sự bất tử của người anh hùng” [28, tr.162].

Tác giả Vũ Anh Tuấn cũng khẳng định: “Motif hóa thân đã trở thành công thức kết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thúc, đặc điểm nổi bật của hư cấu lịch sử của nhân loại... Đặt trong chỉnh thể nghệ

56

thuật xây dựng nhân vật truyền thuyết, có thể nói đây là những tình tiết đạt đến giá

trị tuyệt đối về chức năng tư tưởng thẩm mĩ đặc trưng thể loại. Nó vừa phản ánh

nhận thức của nhân dân về sự hi sinh, vừa biểu hiện khát vọng của nhân dân về sự

bất tử của người anh hùng, vừa đem vào tín ngưỡng bản địa những lớp nghĩa mới

để củng cố niềm tin của nhân dân vào một nguồn sức mạnh từ nơi cõi thiêng” [74].

Như vậy motif hóa thân và hiển linh âm phù trong truyện kể dân gian đã được rất

nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đây vừa là sợi dây liên kết bền chặt giữa các thế hệ

người trong dòng chảy lịch sử dân tộc vừa nhen lên niềm tin về sức sống bất diệt

của những người con ưu tú của quê hương trong kí ức nhân dân. Trong hệ thống

truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo vùng Tây Yên Tử motif này được

biểu hiện với số lượng không nhiều nhưng cũng rất đặc sắc.

Sự tích về Cao Sơn - Quý Minh kể: “Vua lệnh cho dân trang khu tổ chức thờ

cúng, tế lễ hai ông theo đúng nghi thức...Về sau hễ trong dân có việc gì đến cầu đảo

đều rất linh ứng” [7].

Sự tích Thánh Tam Giang được lưu truyền trong vùng cũng kể: “Đến thời Lý

Nhân Tông, niên hiệu Thái Ninh năm thứ 5, nhà Tống sai Quách Quì, Triệu Cảo

đến hợp với quân Chiêm Thành xâm lấn nước ta. Nam Đế mệnh cho Lý Thường

Kiệt đem quân chống lại quân địch, đóng tại trước đền Trương Đại Vương. Trăng

sáng vằng vặc như ban ngày, bỗng nghe thấy từ trên không có tiếng ngựa phi, kiếm

vọng và thấy hai vị thần mặc áo bào trắng và đỏ cưỡi ngựa, giáp binh rất đông, đều

ở trong mây cùng đồng thanh ngâm bài Nam quốc sơn hà khiến quân Tống nghe

thấy tiếng run hết chân tay,vỡ mật không đánh mà tan... Năm Trùng Hưng thứ tư,

quân Nguyên sang xâm lược, kinh thành bị vây hãm, Trần Quốc Tuấn phụng mệnh

nhà vua cầu đảo bách thần, tiến đến huyện Kim Hoa (nay là huyện Kim Anh) ở

trang Tiên Tạo, nghe ở đó có đền thiêng bèn vào cầu thần xin kế đánh giặc. Người

anh cả cũng linh ứng và bình được Ô Mã Nhi... Năm Lê Cảnh Đức nguyên niên, có

bọn Văn Tuyển, Văn Hiệp nhiễu loạn làm biến động khắp nơi. Vua sai cầu đảo bách

thần. Ban đêm thấy có thần binh từ đền Tam Giang đến trợ chiến và dẹp yên giặc,

sắc sai Nhị Quận công Trịnh Ngô Dụng sửa sang miếu đền làm lễ và ban phong là:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Lĩnh Nam danh tướng, Giang Bắc phúc thần” [6].

57

Người dân Tây Yên Tử từ đời này sang đời khác, vẫn lưu truyền về sự hóa

thân và hiển linh âm phù của tướng quân Vũ Thành. Nếu như An Dương Vương

đến đường cùng cầm sừng tê bảy tấc rẽ nước về với biển, Thánh Gióng sau khi đánh

đuổi giặc Ân một người, một ngựa bay về trời thì Vũ Thành khi thất trận đã chạy

đến ngọn núi Lệ rồi hóa thân ở đó. Các bậc cao niên ở Hồng Giang, Lục Ngạn vẫn

kể với con cháu từ khi đền Hả được dựng lên thờ đức thánh Vũ Thành thiên tai,

địch họa ít khi xảy ra. Mỗi khi hạn hán hoành hành, người dân lại lập đàn cầu mưa

trước cửa đền Hả tất trời sẽ linh ứng. Tương truyền đức thánh Vũ Thành còn che

chở, bảo vệ cho những người con của quê hương Hả Hộ lên đường đánh giặc để họ

chiến thắng trở về sum họp với gia đình. Điểm qua biểu hiện của motif hóa thân và

hiển linh âm phù ở một số truyện kể tiêu biểu dễ nhận thấy sự kết tinh của hồn

thiêng sông núi trong các nhân vật anh hùng trên đất Tây Yên Tử. Trong đời sống

tâm linh của nhân dân địa phương, nhân vật anh hùng trong truyện kể không bao

giờ chết. Họ chỉ đơn giản kết thúc kiếp sống trần tục của mình và bất tử trong sự

hóa thân và hiển linh âm phù. Điều này một mặt xuất phát từ quan niệm “vạn vật

hữu linh” của người xưa mặt khác xuất phát từ quan niệm “sinh vi tướng, tử vi

thần” (sống làm tướng giúp nước, chết làm thần giúp dân) của nhân dân tự ngàn

đời. Các nhân vật anh hùng trong truyện kể dân gian nói chung và trong các truyện

kể phản ánh tín ngưỡng tâm linh vùng Tây Yên Tử nói riêng trở thành những phúc

thần động viên, khích lệ con cháu vượt qua nguy nan. Motif hóa thân và hiển linh

âm phù cũng vì thế góp phần hun đúc khí thiêng, hội tụ tinh hoa, kết nối quá khứ

với hiện tại tạo nên sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân để con cháu

muôn đời vượt qua mọi khó khăn, thử thách đẩy lùi thiên tai, địch họa và được sống

bình an.

2.3. Giá trị phản ánh của truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

2.3.1. Truyện kể dân gian về nhiên thần phản ánh quan niệm vạn vật hữu linh,

quan niệm về môi trường sống

Từ xa xưa, quan niệm vạn vật hữu linh đã len lỏi vào mọi ngõ ngách trong

đời sống của người dân Tây Yên Tử. Người nguyên thủy quan niệm mọi vật bao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

gồm từ các sự vật vô tri, vô giác như: đất, đá, núi sông, mây mù, biển, hồ, sấm sét,

58

cây cối đến các loài động vật, thực vật và con người, tất cả đều có linh hồn. Những

hạn chế về khoa học hiện đại khiến họ cho rằng thế giới tự nhiên xung quanh đều do

thần linh sinh ra và cai quản. Tuy nhiên ngay cả đến sau này khi khoa học phát triển

với nhiều khám phá vĩ đại, ở những khu vực nông thôn và miền núi, đa phần người

dân vẫn nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng tự nhiên, mỗi địa danh đình, chùa, miếu

mạo đều có một vị Thần, Phật hay đức Thánh rất linh thiêng. Quan niệm vạn vật

hữu linh vì thế trở thành tín ngưỡng bản địa gắn liền với tín ngưỡng thờ nhiên thần

trong đời sống tâm linh của con người. Các truyện kể phản ánh tín ngưỡng vùng đất

thiêng, tín ngưỡng thờ thần núi, thần sông, thần rắn, thần đá, tín ngưỡng thờ vật tổ,

thờ thần nông trong nhóm truyện đã khảo sát thể hiện đời sống tín ngưỡng, tâm linh

rất phong phú của người dân Tây Yên Tử. Nó cũng đồng thời thể hiện mong muốn

về một cuộc sống an lành, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt của người dân

trên mảnh đất sườn Tây núi Yên Tử linh thiêng.

Trong nếp cảm, nếp nghĩ của người dân Tây Yên Tử, nhiều vùng đất thiêng

đã trở thành niềm tự hào của nhiều thế hệ. Người Tây Yên Tử tin vào những điều

linh thiêng, những sức mạnh huyền bí mà những mảnh đất hội tụ linh khí non sông

trong vùng đem đến cho con người. Chúng tôi gọi đó là tín ngưỡng vùng đất thiêng

tồn tại trong đời sống tâm linh của người dân nơi đây. Đất thiêng sẽ có thần thiêng.

Huyền thoại về ông khổng lồ cùng với 99 cô tiên được Ngọc Hoàng sai xuống đắp

núi vùng Yên Dũng với truyền thuyết về 99 con Phượng Hoàng bay về Nham Biền

chọn đất đế đô và 99 ao Phượng Hoàng... còn lưu truyền khắp vùng. Con số 99 theo

quan niệm của người phương Đông là con số may mắn, trường cửu khi đi vào các

truyện kể dân gian dường như nó mang ý nghĩa biểu trưng cho những vùng đất có

khí thiêng hội tụ. Theo các tác giả cuốn Yên Dũng - miền đất địa linh nhân kiệt:

“Dãy núi Nham Biền mang hình thế con rồng bay, lượn ngự trị vùng Nguyệt Đức

cùng với hình con Phượng ở phía bắc Sông Nhật Đức. Mắt con chim Phượng nằm ở

ngã ba Phượng Nhỡn tạo nên thế đất “Long Phượng trình tường” cho đất thiêng

Yên Dũng. Lại thêm ba con sông cùng hội tụ về khiến vùng đất này là nơi “Tam

Long hội tụ”. Đất ấy rất vượng khí, lại thêm thế đất con qui nên rất thiêng. Sau này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vua Trần Nhân Tông tìm đất dựng chùa đã chọn thế đất con qui để dựng chùa Vĩnh

59

Nghiêm - trường đại học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam” [8]. Đó cũng là vùng đất

có “cuộc đất tiên nữ giáng trần” với hình bóng cô tiên thứ 99 còn ở mãi chốn trần

gian trong Sự tích núi Cô Tiên; là nơi đất lành chim đậu với 99 con Phượng Hoàng

bay về đậu núi Nham Biền trong Truyện núi Nham Biền. Truyền thuyết về ao

phượng hoàng cũng kể: “99 con phượng hoàng rời núi Nham Biền đến địa phận

Ninh Xuyên cả đàn xà xuống uống nước, một con lại thiếu ao bay đi, cả đàn lại bay

theo nếu không kinh đô sẽ ở đất Ninh Xuyên..” [40]. Dù không được chọn làm đất

đế đô, người dân địa phương vẫn luôn tin rằng đất ấy là đất thiêng hội tụ linh khí

ngàn đời. Ngoài vùng đất Yên Dũng, nhiều vùng đất khác của Tây Yên Tử cũng rất

thiêng liêng như: Thung lũng Nghĩa Phương (Lục Nam), đất Nam Dương - nơi tọa

lạc của chùa Am Vãi (Lục Ngạn), khu vực Đồng Thông, xã Tuấn Mậu huyện Sơn

Động. Vượng khí linh thiêng của vùng đất sẽ đem đến cho người dân nhiều may

mắn. Đối chiếu với truyện kể dân gian Việt Nam ở những vùng đất khác, chúng tôi

tìm thấy trong Truyện kể về núi Hồng Lĩnh của nhân dân Xứ Nghệ, tín ngưỡng vùng

đất thiêng cũng được tái hiện với 99 ngọn Ngàn Hống. Truyền thuyết về núi con voi

ở Phú Thọ cũng kể về 99 ngọn núi hình con voi chầu đất Tổ Hùng Vương. Sự xuất

hiện của 99 ngọn núi voi phục dường như hội tụ linh khí 4000 năm của non sông

góp phần dựng đế đô Phong Châu của nước Đại Việt. Như vậy niềm tin vào đất

thiêng đã tồn tại trong đời sống của người dân Tây Yên Tử nói riêng và người dân

Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước nói chung như một tín ngưỡng tâm linh. Nó

vừa phản ánh trí tưởng tượng rất phong phú lại vừa thể hiện niềm tự hào, thái độ

yêu quý vô cùng với đất đai quê hương của người dân Tây Yên Tử nói riêng và

người dân đất Việt nói chung.

Tín ngưỡng thờ đá tồn tại khá lâu đời trong tâm thức nhân dân vùng Tây Yên

Tử. Gắn với tín ngưỡng này là truyện Sự tích chùa Dâu. Đá vốn là một sự vật của tự

nhiên ăn đời ở kiếp với con người từ buổi hồng hoang. Từ xa xưa, đá được thờ cúng

sùng bái như những vị thần. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy nhiều di tích gắn với

đá trong vùng như: Phiến đá vuông bàn thạch ở làng Chu Sơn xã Chu Điện huyện

Lục Nam, đống đá cát kết ở núi Am Ni huyện Lục Ngạn, khối đá có vết lõm tương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

truyền là vết chân tiên ở chùa Kem, phiến đá hình bàn cờ trên núi Vua bà ở Yên

60

Dũng... Trong thế giới nghệ thuật của truyện kể dân gian, thần đá gắn liền với

những câu chuyện vừa hoang đường vừa gần gũi với cuộc sống của con người. Nếu

như trong Truyền thuyết về Thạch Tướng Quân ở vùng Tiên lát Việt Yên thần đá

được truyền thuyết hóa trở thành vị tướng oai phong lẫm liệt, đánh tan 50 vạn quân

Bắc quốc đem lại khúc ca khải hoàn cho dân tộc thì ở Sự tích chùa Dâu thần đá xuất

hiện rất gần gũi với đời sống hàng ngày của người dân Tây Yên Tử. Nó gắn liền với

câu chuyện về người đánh dậm nghèo khó nhưng tận tâm giúp đỡ mọi người được

nhân dân yêu quý. Người đánh dậm ấy trong một lần đi đánh dậm bên sông nhấc lên

ba lần đều thấy hòn đá, lấy làm lạ đành ôm lên bờ để một chỗ rồi nói rằng: “Quả

đây là hòn đá thiêng thì thương lấy tôi, cho tôi làm ăn khá giả, tôi nguyện xin lập

chùa thờ Phật tại đây và thờ luôn cả hòn đá. Hòn đá linh ứng, thấu lời cầu nguyện

của người đánh dậm phù trợ cho ông đánh được nhiều cá và trở nên giàu có. Người

đánh dậm giữ đúng lời hứa lập đền thờ Phật và thờ hòn đá trên bến sông” [41]. Nội

dung câu chuyện rất dung dị, ít yếu tố kì ảo nhưng lại lôi cuốn người đọc bởi tính

chất tâm linh của nó. Hòn đá như một phần thưởng cho người đánh dậm nghèo khó

mà trung thực, giàu lòng nhân ái. Ẩn sâu trong đó là tín ngưỡng dân gian rất độc

đáo gắn với triết lí nhà Phật “ở hiền, gặp lành” của người dân trong vùng. Hiện nay

nhân dân vùng Tây Yên Tử vẫn phụng thờ hòn đá tại Chùa Dâu ở xã Nội Hoàng,

Yên Dũng. Hòn đá được coi là linh thần, là đức Phật ban phúc lành cho con người.

Đức Thánh Tam Giang mặc dù không có nguồn gốc ở Tây Yên Tử song

những câu chuyện về vị thánh này vẫn lưu truyền khắp vùng tiêu biểu là Sự tích

Đức Thánh Tam Giang. Nhiều nơi dọc sông Cầu và Sông Thương đặc biệt là ngã ba

Phượng Nhỡn - nơi hợp lưu của ba con sông: Sông Cầu, Sông Thương, Sông Lục

Nam tại vùng đất mắt con Phượng rất đỗi thiêng liêng, phụng thờ đức Thánh Tam

Giang với tư cách là thủy thần đồng thời là những người anh hùng chống giặc ngoại

xâm ở buổi đầu dựng nước. Tác giả Nguyễn Huy Bỉnh trong công trình Truyện kể

dân gian xứ Bắc cho rằng: “Thế giới thủy phủ luôn bí ẩn và huyền ảo mà cư dân

vùng sông nước không thể chạm tới nên họ luôn gán cho những loài vật dưới biển

sâu sức mạnh của thần linh. Những rồng, rắn, giao long... đều là những linh vật về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nước” [13]. Người dân Tây Yên Tử ngoài thờ Thánh Tam Giang còn thờ thần rắn là

61

Ông Cộc - Ông Dài nhằm tôn vinh vị thần có công khai thiên, lập địa. Truyện kể về

Ông Cộc - Ông Dài cũng lưu truyền khắp vùng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Bỉnh

cũng nhận định: “Hình tượng Trương Hống Trương Hát ban đầu là hình tượng Ông

Cộc - Ông Dài hai vị thần sông nước trong thần thoại về sau trải qua quá trình lịch

sử hóa, truyền thuyết hóa hai nhân vật này trở thành những anh hùng lịch sử chống

giặc ngoại xâm nhưng bản chất thần tự nhiên vốn có vẫn không hề mất đi. Trong

quan niệm dân gian Trương Hống, Trương Hát vẫn là những vị thần điều khiển

nguồn nước trên các dòng sông hoặc có thể làm mưa, làm gió chống khô hạn mất

mùa” [13]. Kế thừa quan niệm này chúng tôi cho rằng những truyện kể phản ánh tín

ngưỡng thờ thần rắn, thần sông (thủy thần) ở vùng Tây Yên Tử thể hiện mong

ước về sông nước hiền hòa, mùa màng tươi tốt và mơ ước đẩy lùi những thảm

họa, thiên tai do nước gây ra của cư dân sinh sống bằng nghề chài lưới và trồng

lúa nước nơi đây.

Cao Sơn - Quý Minh cũng không phải là người con của quê hương Tây Yên

Tử song những truyện kể về hai vị Thánh này cùng với đền thờ họ còn tồn tại khắp

vùng. Có thể kể đến truyện Sự tích về Cao Sơn - Quý Minh. Trong tín ngưỡng người

Việt, nói chung biểu hiện núi, sông rất rõ ràng. Nếu như Thủy Thần cai quản địa

vực sông nước thì Sơn thần sẽ ngự trị trên núi cao. Tây Yên Tử là vùng đất trung du

với điạ hình đồi núi rất đa dạng nên còn tồn tại rất nhiều đền thờ thần núi. Sự tích

Cao Sơn - Quý Minh tái hiện hai nhân vật với tư cách là bộ tướng của Tản Viên Sơn

Thánh với những chiến công chói lọi thời Hùng - Thục nghĩa là hai nhận vật đã

được khoác tấm áo lịch sử trong quá trình truyền thuyết hóa. Trong tâm thức của

người dân sườn Tây Yên Tử hai vị thần này vẫn tồn tại là những vị thần nửa tự

nhiên (thần núi), nửa lịch sử hóa (người anh hùng) che chở, bảo hộ đem đến cuộc

sống thái bình cho nhân dân.

Theo khảo sát ở phần nhận diện, phân loại 50% truyện kể trong nhóm truyện

phản ánh tín ngưỡng thờ nhiên thần trong vùng Tây Yên Tử là truyện của đồng bào

các dân tộc thiểu số. Tư duy hồn nhiên của các tộc người Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu,

Cao Lan... đã đem đến cho những truyện kể này những sắc màu rất riêng. Nổi bật

trong đó là tín ngưỡng thờ vật tổ. Người dân ở mỗi cộng đồng dân tộc đều có nhu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cầu truy nguyên nguồn gốc của mình. Nếu người Kinh tự hào vì mình có dòng dõi

62

con Lạc, cháu Hồng với Truyền thuyết con Rồng cháu Tiên lấp lánh ánh sáng huyền

thoại thì đồng bào các dân tộc thiểu số trong vùng cũng đầy hãnh diện về nguồn

gốc, nòi giống của mình. Mỗi dân tộc có một nguồn gốc riêng. Người Dao tin rằng

thủy tổ của họ là một con long khuyển tên là Bàn Hồ có sức mạnh phi thường do

trời giáng xuống hỗ trợ cho vua Bình Hoàng trong vương quốc nhỏ ở Trung Quốc.

Truyện Bàn Hồ đã tái hiện niềm tin đó một cách tự nhiên mà hấp dẫn vô cùng.

Trước mưu đồ thôn tính của Cao Vương, vua Bình Hoàng và bá quan văn võ trăn

trở tìm kế sách thì long khuyển bỗng nhiên lên tiếng xin đi đánh giặc. Nhà vua đồng

ý và hứa gả cung nữ cho Bàn Hồ. Đến cung điện của Cao Vương, Bàn Hồ lợi dụng

lúc Cao Vương quá chén ngủ say, cắn chết Cao Vương hoàn thành nhiệm vụ trở về.

Vua Bình Hoàng giữ đúng lời giao ước ban gả cung nữ, ban đất đai cho Bàn Hồ.

Khi họ sinh được 12 người con nhà vua lại ban sắc cho 12 người con này lấy 12 họ.

Và đó là các họ của người Dao hiện nay. Cũng như người Kinh, người Dao ý thức

sâu sắc về nguồn gốc của mình. Đây là tộc người di cư từ đất nước láng giềng

Trung Quốc đến Tây Yên Tử từ rất sớm và quần tụ trong các bản làng nơi đây.

Giống như con Rồng của người Kinh, con Đại Thử của một số bộ lạc thổ dân Úc,

con Gấu ở một số bộ lạc thổ dân Xibia, con Chó thần Bàn Hồ dã trở thành vật tổ của

dân tộc Dao. Người Dao vì thế có tục kiêng ăn thịt chó.

Truyện Lằm Pắc và Lằm Lò của cộng đồng tộc Cao Lan kể rằng: “Ngày xưa

cụ tổ họ La đi làm ăn ở nơi xa, gặp trời hạn hán không có nước để uống. Đang lúc

gặp cơn khát cháy lòng không thể sống nổi bỗng nhiên cụ gặp con cá chép. Nó dẫn

đường cho cụ tới nơi tìm nguồn nước để duy trì sự sống. Cả dòng họ La đều coi cá

chép là vị cứu tinh nên không bao giờ ăn thịt cá chép. Họ coi đó là vật tổ nên trong lễ

cúng tổ tiên của các gia đình họ La bao giờ cũng có cá chép” [40]. Dòng họ Dương ở

Sơn Động cũng có câu chuyện tương tự. Họ coi cá Ba - Lay là vật tổ nên thường thờ

cúng tổ tiên bằng loài cá này. Ngoài ra còn có dòng họ Lâm (thờ thịt) và dòng họ

Lâm (thờ rau).

Nhiều đồng bào dân tộc thiểu số trong vùng như: Tày, Dao, Nùng, Cao Lan,

Sán Dìu cùng kể về nguồn gốc của mình qua Truyện quả bầu. Cốt truyện của truyện

kể này mang dáng dấp của kiểu truyện Quả bầu mẹ ở việt Nam. Nhà nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đặng Nghiêm Vạn cho rằng: “Cốt lõi chung của các dị bản có thể tóm tắt trong một

63

câu: Qua trận lũ lụt lớn, chỉ còn sống sót một cặp trai gái, sau trở thành vợ chồng

và sinh ra các dân tộc” [80, tr.106]. Truyện quả bầu của các dân tộc Tây Yên Tử

cũng không nằm ngoài kết cấu chung của cốt truyện trên. Tuy nhiên các chi tiết

trong câu chuyện được kể khá đơn giản và hấp dẫn. Câu chuyện xuất phát từ một

thằng bé rất nghịch ngợm. Vì lời thách đố của bạn bè nên lừa cả bố mẹ khiến Ngọc

Hoàng ở trên trời tức giận sai ông sấm xuống trừng phạt. “Cậu bé biết vậy, lập mưu

bắt ông Sấm trói gô lại định giết thịt chơi. Có hai chị em ở gần đấy lén cởi trói cho

ông Sấm. Trước khi về trời ông đưa cho họ một cái răng và bảo trồng xuống đất sẽ

có lúc cần tới. Hai chị em đem răng về trồng và cây lớn nhanh ra một quả bầu. Ông

Sấm lại xuống nói với họ ngày mai sẽ cho nước ngập trần gian. Ông khoét quả bầu

cho hai chị em chui vào rồi về trời, cho mưa xuống ngập cả trần gian, muôn loài

chết hết chỉ còn hai chị em. Họ đành phải lấy nhau. Hai chị em sai chim Ri lên trời

lấy thóc về nhưng chim Ri ngậm hạt thóc đói quá ăm mất. Họ lại sai chuột đi lấy

thóc về chuột cũng ăn mất thóc chỉ còn một ngà thóc dính ở kẽ răng.Thổ địa lấy

thóc đó đem đi gieo trồng và có gạo ăn. Hai chị em lấy nhau sinh ra được một quả

bí đao. Người em giận quá mang ra vườn băm nhỏ vãi ra xung quanh. Những miếng

bí đó trở thành nhà, thành người, thành làng bản” [40]. Có dị bản khác kể: “Hai chị

em có công cứu thiên lôi được thiên lôi cho hạt giống đem về trồng được một quả

bầu. Trong cơn đại hồng thủy họ tự khoét lỗ chui vào quả bầu và thoát chết. Họ

đành lấy nhau và sinh ra trăm họ trong đó có Bàn Vương” [40]. So với người Kinh

trong truyền thuyết kể về nòi giống của mình như Con Rồng - Cháu Tiên thì tư duy

của đồng bào các dân tộc đơn giản, mộc mạc hơn nhiều. Khi truy nguyên nguồn gốc

của mình họ tìm về với những sự vật giản dị gắn với đời sống hàng ngày của dân

tộc mình. Văn hóa bầu bí đã ăn sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ của họ và trở thành tín

ngưỡng rất độc đáo. Đồng bào một số dân tộc trong vùng tin rằng cội nguồn của họ

là quả bầu thiêng. Họ cũng quan niệm bầu bí là yếu tố tiếp sức cho lúa mọc tốt. Vì

vậy trong nghi lễ làm nhà mới, bầu, bí là tượng trưng cho sự thịnh vượng của gia

đình. Đó còn là vật tượng trưng có thể xua đuổi được gió, bão, bảo hộ cho đời sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

của con người.

64

Tín ngưỡng thờ Thần Nông cũng được phản ánh qua những câu chuyện đầy

hấp dẫn trong vùng. Trong tâm thức người Việt, Thần Nông là vị thần ban cho mùa

màng tươi tốt, nên việc thờ Thần Nông trở thành một nét văn hóa đặc sắc. Đời sống

của người dân Tây Yên Tử gắn liền với nông nghiệp trồng lúa nước cho nên ở các

làng bản thờ Thần Nông là tín ngưỡng chung. Họ không thờ mẹ lúa mà tôn sùng

những vị Thần Nông đã tạo ra hạt lúa và dạy dân biết cày cấy, biết làm ruộng để có

hạt gạo ăn hàng ngày. Ngoài truyện Sự tích cây lúa của người Cao Lan mang đậm

sắc thái cổ tích nhằm ghi nhớ công ơn của Thần Nông tìm thấy và phát tán hạt mác -

hu để cho người dân có hạt gạo ăn, người Tày trong vùng còn có Huyền thoại tam

giới lấp lánh màu sắc huyền thoại. Truyện đưa ta về với những ngày tháng hồng

hoang rất xa xưa khi đất tời phân thành tam giới: “Mường trời do Ngọc Hoàng cai

quản, Mường âm phủ do Diêm Vương trị vì, chỉ còn Mường đất là hỗn độn. Con

người dưới trần gian lúc ấy cũng chưa biết cách làm ăn và vẫn sống theo bầy đần

trong cảnh hỗn mang. Trước cảnh tượng đó, Ngọc Hoàng sai các vị thần xuống hạ

giới dạy con người cách làm ăn, ứng xử giúp họ thoát khỏi cuộc sống hỗn mang ấy.

Thần Nông là vị thần có công lớn nhất trong tất cả các vị thần được Ngọc Hoàng

phái xuống từ Mường trời. Thần dạy dân phát dãy, làm nương, be bờ, san ruộng,

cày bừa, gieo giống... người Tày biết làm ruộng từ đó. Họ tôn Thần Nông làm tổ sư

của nghề trồng lúa và hàng năm đều tổ chức cầu mùa, cúng Thần Nông”[40]. Ngày

nay, đồng bào dân tộc Cao Lan, dân tộc Tày và nhiều đồng bào dân tộc khác trong

vùng vẫn tổ chức cúng tế Thần Nông vào những dịp tết cơm mới, lễ cầu đảo cho

mưa thuận gió hòa hay lễ tạ điền, lễ thượng điền. Niềm tin vào Thần Nông góp phần

nâng đỡ đời sống tâm linh của đồng bào các dân tộc thiểu số trong vùng và giúp họ

không ngừng vươn lên trong quá trình lao động sản xuất, cải thiện chất lượng cuộc

sống. Những truyện kể phản ánh tín ngưỡng Thần Nông còn tồn tại và lưu truyền ở

vùng Tây Yên Tử có ý nghĩa gìn giữ một nét văn hóa đẹp của nhân dân trong vùng

2.3.2. Truyện kể dân gian về nhân thần phản ánh quan niệm “uống nước nhớ

nguồn”, đề cao các nhân vật văn hóa, nhân vật lịch sử

Trong đời sống tâm linh của người Tây Yên Tử, ngoài tục lệ thờ cúng tổ tiên,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thờ cúng thổ công khá phổ biến ở nhiều nơi trên khắp mọi miền đất nước nhằm

65

đánh thức ý thức về nguồn cội trong đáy sâu tâm linh Việt, còn lưu giữ rất đậm nét

tín ngưỡng thờ nhân thần gắn với tục thờ Mẫu và thờ Thành hoàng. Soi vào hệ

thống truyện kể trong vùng chúng tôi nhận thấy có 13 truyện kể phản ánh tín

ngưỡng này.

Trong số 13 truyện kể được khảo sát có 5 truyện phản ánh tín ngưỡng thờ

Mẫu khá độc đáo. Thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian đồng thời là tín ngưỡng bản

địa có nguồn gốc xã hội sâu xa. Nó thể hiện sự tôn vinh các vị thần là nữ có khả

năng siêu phàm có thể điều khiển được thiên nhiên, con người đem lại cuộc sống

yên bình cho nhân dân. Thờ Mẫu vốn có nguồn gốc nhiên thần song trong tâm thức

của cư dân vùng Tây Yên Tử các Mẫu được tôn vinh tồn tại như những nhân thần

đem đến cuộc sống tốt đẹp cho con người. Trong các truyện kể: Quế Mị Nương ở

Nghĩa Phương, Công chúa Lê Chân, Nữ thần đền Ngọc Lâm, Công chúa Thiều

Dương, Sự tích ngôi đền Từ Co chúng tôi nhận thấy các nhân vật được xây dựng

đều là những công chúa xinh đẹp, đài các như Quế Mị Nương, Lê Chân, Thiều

Dương hay những liệt nữ quả cảm như Thánh Thiên, Ngọ Tiên Nương. Họ đều vượt

khỏi vùng an toàn của phận nữ nhi để trở thành những người phụ nữ anh hùng và

được suy tôn là nữ thần, mẫu thần che chở bảo vệ cho đời sống còn nhiều khó khăn

của con người. Hành trạng của nàng Quế Mị Nương còn in dấu ấn ở 5 ngón tay mở

nước với 5 bậc thác và cụm di tích đền Suối ở suối Mỡ - Nghĩa Phương - Lục Nam.

Đây là vị Thánh Mẫu Thượng Ngàn có công chinh phục thiên nhiên, mở nước tái

sinh sự sống cho con người đồng thời là vị Thánh Mẫu yêu thương dân chúng, che

chở cho nhân dân, giúp họ vượt qua những hiểm họa khôn lường trong những

chuyến đi rừng, vượt suối. Công chúa Lê Chân lại tạc khắc dáng hình của mình ở

các đền miếu trong 35 vùng đất nàng đi qua đặc biệt là ở bến Bò - Lục Nam với 8

chữ vua ban: “Trấn quốc Tam Giang Ả Nương công chúa”. Nhân dân Tây Yên Tử

đời đời ghi nhớ tấm lòng yêu nước, thương dân và công lao mở mang làng xóm,

phát triển dân sinh của công chúa - con gái xinh đẹp và hết mực yêu quý của vua

Hùng Định Vương. Dân gian còn suy tôn công chúa là bà chúa Giếng. Công chúa

Thiều Dương cũng in đậm hình bóng của mình trong tâm thức nhân dân trong vùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

như một đức Thánh Mẫu. Đền thờ nàng được xây dựng ở hành cung tại phường

66

Hoàng Mai với sắc phong mỹ tự: “Tối linh công chúa thượng đẳng phúc thần, dữ

quốc đồng hưu, vĩnh vi bá thúc”. Còn nữ thần đền Ngọc Lâm có công đánh đuổi

giặc Hán đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân trong vùng lại anh dũng hi sinh

trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nên được nhân dân trong vùng từ thế hệ

này đến thế hệ khác thờ phụng tại đền Ngọc Lâm - Yên Dũng. Tấm lòng vì nước vì

dân và sự quả cảm, tận hiến cho đất nước của bà như ngọn hải đăng soi đường cho

thế lớp con cháu mai sau. Không phải là công chúa hay nữ tướng nhưng Ngọ Tiên

Nương trong Sự tích ngôi đền Từ Co cũng được suy tôn là đức Thánh Mẫu trong

tâm thức nhân dân địa phương. Vì không chịu chở giặc qua sông nên bà và hai

người con bị giặc giết rồi vứt xác xuống sông. Bà được triều đình phong là: “Thánh

Mẫu Ngọ Tiên Nương tối linh đại vương”. Cũng có dị bản kể bà là mẹ của hai

người con tài giỏi có công dẹp giặc giữ yên bờ cõi. Giặc tan ba mẹ con lên thuyền

về quê gặp mây đen kéo đến. Họ bị cuốn trôi vào dòng nước. Đền thờ bà được xây

dựng ở xã Hương Gián, huyện Yên Dũng. Chúng tôi cũng nhận thấy, các Thánh

Mẫu được tôn vinh trong những câu chuyện trên đều có tài năng xuất chúng, có ý

chí kiên cường đủ để chinh phục thiên nhiên và chiến thắng giặc ngoại xâm nhằm

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Có thể thấy những truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ Mẫu đã khảo sát ở

trên thể hiện mong muốn được thần linh chở che, bảo vệ, được sống trong điều kiện

mưa thuận gió hòa để an cư lập nghiệp của nhân dân trong vùng. Nó cũng đồng thời

phản ánh nét lịch sử văn hóa lâu đời của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước trong

vùng và liên kết tinh thần giữa những người có niềm tin vào các Mẫu tạo nên sức

mạnh cố kết cộng đồng trong một môi trường sống lành mạnh, giàu cảm thông và sẻ

chia. Trong đời sống đương đại, tín ngưỡng thờ Mẫu đã, đang tồn tại và phát triển

không ngừng. Nó hướng đến đời sống thực tại của con người với ước vọng sức

khỏe, tài lộc, may mắn. Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng lấy chữ tâm làm cốt lõi nên thu

hút mọi tầng lớp trong xã hội. Nhiều chùa, chiền, đền miếu trong vùng thờ các

Thánh Mẫu với niềm tin được chở che, bảo vệ, niềm tin mọi lời cầu xin sẽ được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thiêng hóa với quan niệm “phúc đức tại mẫu”. Tín ngưỡng thờ mẫu được phản ánh

67

trong các truyện kể dân gian vì thế còn có ý nghĩa góp phần giáo dục và hướng con

người đến với các giá trị chân - thiện - mỹ trong cuộc đời.

Chiếm số lượng nhiều hơn trong nhóm truyện kể thờ nhân thần được khảo

sát là 8/13 truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ Thành hoàng. Thành hoàng có nguồn

gốc từ Trung Quốc thời cổ đại. Theo tác giả Nguyễn Duy Hinh trong cuốn Tín

ngưỡng Thành hoàng Việt Nam: “Thành hoàng là một phạm trù ngoại lai, nhưng

lại mang một nội hàm bản địa Việt không hoàn toàn giống nguyên bản. Đó là một

đặc điểm vay mượn ngôn từ và khái niệm ngoại quốc một cách sáng tạo của người

Việt” [25]. Cũng theo tác giả này,trong tâm thức người Việt “Tín ngưỡng Thành

hoàng thực chất là tín ngưỡng phúc thần đóng vai trò liên kết cộng đồng người

trong một cộng đồng lãnh thổ nông nghiệp hữu hạn, làm nơi quy y tâm linh cho cư

dân. Tín ngưỡng Thành hoàng mang màu sắc Việt trong bản chất dù đã tiếp thu bao

nhiêu yếu tố tôn giáo và văn hoá khác” [25]. Ở vùng Tây Yên Tử tín ngưỡng thờ

Thành hoàng tồn tại với tư cách là tín ngưỡng bản địa có từ lâu đời. Nhóm truyện kể

phản ánh tín ngưỡng này cũng rất phong phú. Ngoài những Thành hoàng có nguồn

gốc nhiên thần như Cao Sơn, Quý Minh, Thánh Tam Giang các Thành hoàng đi vào

truyện kể chủ yếu là những nhân thần cụ thể, là những nhân vật lịch sử ở các triều

đại đã được lưu danh trong sử sách gắn liền với các thần tích, thần phả. Đó là những

hoàng tử Lý Quảng Thông, Lý Quảng Phùng trong Truyện về vị thành hoàng làng

Đặng xã Vĩnh Khương; Hoàng tử Chiêu Văn, Chiêu Hoàng trong Huyền thoại nghè

Hang xanh và cây Dã, những danh tướng có công trạng lớn trong công cuộc chống

ngoại xâm như: Tướng quân Vũ Thành trong Truyền thuyết Vũ Thành, tướng quân

Vi Đức Lục trong truyện cùng tên và Đô chỉ huy sứ tướng quân trong Huyền thoại

về vị thành hoàng xã Đồng Việt, Thiên Bồng tướng và Thuận Thiên trong truyện kể

cùng tên,Thắng Địch Hầu trong Truyện về Hà văn Chiếu ở Nghĩa Phương, được

triều đình sắc phong và nhân dân các địa phương tôn thờ. Đó cũng là những nhân

vật văn hóa có công tu sửa đình miếu như Hà Công Dong trong Truyện về Hà Công

Dong được nhân dân ngưỡng mộ, suy tôn. Điều đáng chú ý là các truyện kể được

khảo sát chủ yếu phản ánh cuộc kháng chiến chống quân Tống trong triều đại nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Lý của nhân dân Tây Yên Tử. Các nhân vật trong các truyện kể này hầu hết là

68

những hoàng tử, danh tướng hay nhân vật văn hóa có công trạng trong triều đại nhà

Lý. Có những vị được nhân dân tôn thờ là Thành hoàng như hai hoàng tử nhà Lý và

Hà Công Dong; có những vị được triều đình sắc phong đương cảnh Thành hoàng, bản

cảnh Thành hoàng, thượng đẳng tối linh thần đại vương như Thiên Bồng Tướng và

Thuận Thiên hay Đô chỉ huy sứ tướng quân và vị thần giúp Đô chỉ huy sứ tướng quân

đánh bại quân Tống và giặc Chiêm Thành...Họ cũng đồng thời là những phúc thần luôn

hiển linh, âm phù che chở, bảo vệ cho nhân dân từ trong vùng.

Nhóm truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ Thành hoàng thể hiện truyền

thống đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của nhân dân Tây Yên Tử nói riêng và nhân

dân Việt Nam nói chung. Truyện kể về các vị Thành hoàng thêm một lần cung cấp

cho nhân dân tri thức về những vị Thành hoàng họ đang thờ phụng. Từ đó, họ bày

tỏ niềm tri ân sâu sắc đối với những con người bằng tài năng xuất chúng đã đem lại

cuộc sống yên bình cho con người. Nhóm truyện kể này cũng có ý nghĩa qui tụ tâm

linh, cố kết cộng đồng trong đời sống của nhân dân Tây Yên Tử. Ngày nay, với

công nghệ 4.0 và sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, con người đã lý

giải được những khoảng trống trong nhận thức, những bất công về mặt xã hội,

những hiểm họa, may, rủi truy đuổi cuộc sống của mình nhưng tín ngưỡng thờ

Thành hoàng vẫn có những giá trị nhất định. Trong thẳm sâu tâm thức, người dân

địa phương luôn ngưỡng mộ, tôn vinh những vị Thành hoàng và cầu mong họ với

uy quyền to lớn, sẽ hiển linh âm phù giúp đỡ mọi thành viên trong cộng đồng vượt

qua những trở ngại, khó khăn trong cuộc sống đời thường. Mỗi khi gặp rủi ro, mỗi

khi đối mặt với hiểm họa khôn lường người dân vẫn đến đình, chùa, miếu của làng

cầu cúng Thành hoàng mong được chở che để tai qua, nạn khỏi và được bình an.

Nhóm truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ Thành hoàng còn góp phần duy trì và bảo

tồn các giá trị văn hoá truyền thống của nhân dân Tây Yên Tử. Việc thực hành tín

ngưỡng thờ cúng Thành hoàng gắn bó chặt chẽ với môi trường diễn xướng lễ hội -

nét sinh hoạt văn hóa độc đáo trên nhiều địa bàn trong vùng. Các truyện kể phản

ánh tín ngưỡng thờ thành hoàng vì thế có sức sống mãnh liệt trong tâm thức nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dân sườn Tây núi Yên Tử.

69

2.3.3. Truyện kể dân gian về Phật giáo và con người Phật pháp phản ánh tinh

thần Phật giáo Trúc Lâm

Nhóm truyện kể phản ánh tinh thần Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử trong vùng

được khảo sát ở phần nhận diện, phân loại cũng rất giàu giá trị. Phật giáo thời Trần

chú trọng nhân tâm nên sắc dân tộc đậm đà. Phật giáo thời Trần cũng mang tinh

thần nhập thế tích cực vừa có ý nghĩa định hướng chuẩn mực ứng xử cho con người

vừa gắn liền với tín ngưỡng dân gian. Nó cũng đi vào thế giới truyện kể dân gian

vùng Tây Yên Tử với nhiều mức độ khác nhau.

Ở một số truyện kể về những nhân vật lịch sử là những vị tướng lĩnh thời

Trần, màu sắc tôn giáo xuất hiện có phần mờ nhạt. Đó là biểu hiện của sự hòa quện

giữa tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo với tín ngưỡng thờ nhân thần góp

phần nâng cấp và làm phong phú thêm tín ngưỡng dân gian nhằm hướng con người

đến một cuộc sống tốt đời, đẹp đạo. Những truyện kể này hầu hết qui tụ các nhân

vật anh hùng chống giặc ngoại xâm như tướng quân Trần Tuấn Sơn, tướng quân Vi

Hùng Thắng trong những truyện kể cùng tên, tướng quân Nghĩa Xuyên trong

Truyện kể về ngôi đền Cổ Phao ở xã Đồng Việt và anh hùng văn hóa có công diệt

trừ yêu quái, khai khẩn đất hoang lập đất, lập làng như Thái Sư Trần Thủ Độ trong

Truyện về Thái Sư Trần Thủ Độ. Các nhân vật này đều là những nhân vật có thật và

là những con người có tài năng xuất chúng của thời đại Đông A. Hành trạng và

chiến công của họ được đề cập đến đều rất đỗi phi thường. Đó là hành động quả

cảm của những con người sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì chủ quyền

dân tộc, vì nền thái bình, thịnh trị của đất nước và cuộc sống ấm no hạnh phúc của

nhân dân. Họ đều bất tử trong lòng dân tộc.

Tướng quân Trần Tuấn Sơn cùng với Trần Quốc Tuấn, Trần quang Khải cắt

quân tiến công đại phá đồn giặc ở Ải Chi Lăng giành thắng lợi lớn đánh đuổi quân

xâm lược Mông - Nguyên ra khỏi bờ cõi. Đất nước thái bình, ông cùng với mẹ và

em gái lên núi Lãm Sơn du ngoạn cảnh đẹp và bị cuốn theo đám mây vàng như hình

dải lụa hồng từ trên trời giáng xuống trong khoảnh khắc đất trời âm u. “Vua Trần

Nhân Tông sai quân trở về lập miếu phụng thờ Ngài và ban sắc phong giữ nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thần hiệu: “Tuấn Sơn đại đức hiển ứng đại vương”, tặng phong: “Tế thế, hộ quốc, khang

70

dân, phù vận bảo cảnh hiệu hùng tuấn linh thông thượng đẳng thần”. Đến đời vua

Trần Anh Tông gia phong mĩ tự: “Đông Sơn đại đức hùng tài vĩ lược đại vương

thượng đẳng thần”. Đến đời vua Lê Thái Tổ phong mĩ tự: “Phỉ tế vương nghị anh

linh”. Sắc ban cấp chuẩn cho trang Ngư Uyên trùng tu miếu điện phụng thờ Ngài

mãi mãi về sau. Trang Ngư Uyên xưa bao gồm có đình - đền Đà Hy thuộc làng Đà

Hy, nay là thôn Mỹ Tượng, xã Lãng Sơn, huyện Yên Dũng” [7].

Tướng quân Vi Hùng Thắng trong truyện kể cùng tên có tài năng xuất chúng

khi lãnh đạo một lực lượng hùng mạnh ngày bình thì “quân biến vi dân”, đến lúc

cần thì “Dân biến vi quân” quyết chiến, quyết thắng với kẻ thù. Phối hợp với Trần

Quốc Tuấn đánh quân Nguyên - Mông ở ải Xa Lý, Vi Hùng Thắng cùng những

người cộng sự của mình chiến đấu vô cùng quả cảm và ngã xuống giữa chiến

trường. Sự hi sinh anh dũng của ông đã được triều đình ghi nhận khi vua Trần ban

cho ông các chữ “sinh vi tướng, tử vi thần, vạn cổ anh linh đồng nhật nguyệt” và

cho lập đền thờ ở núi Tân Dã (nay thuộc thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn).

Tướng quân Nghĩa Xuyên trong Truyện kể về ngôi đền Cổ Phao ở xã Đồng

Việt được biết đến là một tướng tài của Trần Hưng Đạo, một Yết Kiêu của thời đại

nhà Trần. Khi giao chiến bị giặc bắn lén ông đã tự tiết tại Lục Đầu Giang. Tên tuổi

và sự hi sinh anh dũng của ông đã được nhân dân ghi tạc và thờ phụng tại ngôi đền

Cổ Phao rất đỗi linh thiêng ở xã Đồng Việt, huyện Yên Dũng.

Truyện kể về Thái Sư Trần Thủ Độ lại đề cao công trạng của Trần Thủ Độ

với tư cách là một nhân vật văn hóa có công trừ yêu, khai hoang lập ấp đem đến

cuộc sống đủ đầy cho nhân dân. Truyện kể rằng: “Vùng Neo - Cáu xưa còn rất

hoang vu rậm rạp, cây cối ngút nàn thú dữ nhiều không kể xiết, cư dân lại thưa thớt.

Người dân nơi đây sợ nhất là bạch xà (rắn trắng) đã hóa thành tinh. Hàng năm, bạch

xà bắt dân làng phải mang người đến nộp để chúng ăn thịt. Thương dân vì nạn bạch

xà, Trần Thủ Độ nhận lời đi trị rắn thần. Bằng tài năng, mưu lược hơn người, ông

đã tiêu diệt rắn thần bằng vôi hòn dồn vào từng quả trứng trong hai gánh trứng. Diệt

trừ xong bạch xà, Trần Thủ Độ gọi dân lưu tán khắp nơi về khai khẩn đất hoang,

dựng lên làng xóm để người dân an cư lập nghiệp. Trên thực tế vùng đất này cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

là thang mộc ấp của Thái Sư Trần Thủ Độ dưới triều đại nhà Trần. Ghi nhớ công ơn

71

diệt bạch xà của ông người dân phụng thờ, hương hỏa đời đời ở đền Thanh Nhàn.

Nhân dân làng Cáu còn tôn ông làm Thành hoàng làng và dựng đình Cáu để thờ

phụng” [40].

Rõ ràng các truyện kể dân gian kể trên đều tập trung thể hiện tinh thần nhập

thế của các tướng lĩnh thời Trần ở vùng Tây Yên Tử. Nhập thế theo cuốn Đại từ

điển tiếng Việt được hiểu là: “Vào gánh vác việc đời, không xa lánh đời” [85]. Phật

giáo thời Trần chủ trương đi theo Phật không phải là xuất thế mà là nhập thế,gánh

vác việc đời và hướng đến một cuộc sống an nhiên, tự tại. Con người thời đại nhà

Trần cũng thấm nhuần tinh thần nhập thế tích cực ấy. Các nhân vật kể trên vì thế

mang trong mình khí phách ngang tàng và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của

thời đại Đông A. Họ sẵn sàng gánh vác trách nhiệm của một bề tôi trước cảnh đất

nước nguy nan. Họ nguyện xả thân vì sự tồn vong của Tổ quốc và vì sự bình yên

của nhân dân. Ngay cả khi không còn trên cõi đời, họ vẫn hóa thân vào hồn thiêng

sông núi và được triều đình ban sắc, được nhân dân suy tôn làm Thần, Thánh, làm

Thành hoàng để che chở, bảo vệ, ban phúc cho con người. Trong các truyện kể này,

chúng tôi nhận thấy tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo thời Trần gắn liền với

tín ngưỡng thờ nhân thần nhằm nâng cao giá trị con người và thể hiện lòng yêu

nước, tinh thần đoàn kết, ý thức tự cường đồng thời tô đậm truyền thống “uống

nước nhớ nguồn” của nhân dân Tây Yên Tử. Nó cũng thể hiện quá trình chuyển

hóa từ nhân vật lịch sử đến nhân vật được phụng thờ được đề cao theo tinh thần

Phật giáo.

Một số truyện kể gắn với các địa danh Phật giáo thời Trần trong vùng như:

Truyền thuyết Vĩnh Nghiêm Tự, Tên làng Đức La, Sự tích chùa Hang Tràm lại mang

tinh thần Phật giáo khá đậm nét. Thông thường những truyện kể về các địa danh chủ

yếu là gò, đồi, cầu, cống... gắn liền với các sự kiện lịch sử nhằm giải thích sự xuất

hiên của những tên đất, tên làng, tên núi tên sông nhưng những truyện kể được

thống kê, khảo sát có những nét độc đáo riêng. Nó vừa có ý nghĩa giải thích địa

danh lại vừa mở ra những khám phá về những ngôi đất tôn quý, thiêng liêng mang

đậm màu sắc tôn giáo. Từ khi sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Phật Hoàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Trần Nhân Tông luôn nhập thế tích cực để đưa đạo vào đời. Ngài chăm lo đến việc

72

tổ chức giáo hội, phát triển tín đồ, xây dựng tự viện. Ngài đã đặt chân lên khắp các

bản làng Tây Yên Tử truyền bá phật pháp và chọn đất dựng chùa.

Truyền thuyết Vĩnh Nghiêm Tự kể rằng: “Trên đường đi du ngoạn, chọn đất

dựng chùa, Trần Nhân Tông đến vùng Đức La. Con ngựa chiến của ngài bỗng nhiên

lồng lên giẫm nát cả hoa màu. Chỉ đến khi dân làng ra sụp lạy nó mới chịu dừng.

Ngài bèn hỏi dân làng mới biết đây là đất “con qui ẩm thực”. Biết là đất thiêng ngài

cho dựng một ngôi chùa lớn và đặt tên là Vĩnh Nghiêm Tự” [38, tr221]. Truyện Tên

làng Đức La cũng kể: “Xưa kia Đức La có tên là Làng La hay tên ông La. Vào thời

Trần, vua Trần nhân Tông trên đường du ngoạn qua vùng đất này để ngắm nhìn non

sông gấm vóc, chọn đất dựng chùa, đến thôn Ông La ngài gặp một lải nước sâu khó

lội qua được. Vua tôi đang lúng túng tìm cách vượt qua ải nước thì người dân

thường đánh dậm lên tiếng: “Lải nước sâu lắm, hai ông không lội qua được đâu để

tôi cõng qua”. Người đánh dậm nói xong thì xăm xăm bước tới cõng người khách lạ

qua lải nước mà không biết đó là vua Trần. Khi người khách hỏi ở đâu anh chỉ nói ở

làng La - Ông La. Cảm kích trước đức thiện giúp đỡ khách qua đường của người

dân nơi đây, vua Trần khi hồi triều đã đổi tên thôn Ông La thành Đức La”

[40,tr.75]. Dễ nhận thấy hai câu chuyện đều tái hiện sự việc vua Trần đi khắp các

bản làng Tây Yên Tử vừa ngoạn cảnh, vừa tìm đất dựng chùa. Qua đó thể hiện tinh

thần nhập thế tích cực của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Trong suốt quá trình sáng

lập và truyền bá tư tưởng nhà Phật theo dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ngài

không ở núi tu hành khổ hạnh mà đi khắp các hang cùng, ngõ hẻm từ đồng bằng

đến miền núi cao trên dải đất sườn Tây Yên Tử khuyên nhân dân bỏ dâm từ làm

theo Ngũ giới và thực hiện Thập thiện để tu bồi đạo đức. Nhân vật người đánh dậm

trong truyện Tên làng Đức La dường như đã mang trong mình tâm sáng của tinh

thần Phật giáo thời Trần. Đối diện với khó khăn của người đi đường không quen

biết, người đánh dậm tự nguyện cõng người khách lạ vượt qua lải nước. Sự giúp đỡ

vô tư đó khiến vua Trần vô cùng xúc động và cảm kích. Ngài như nhìn thấy chân

tâm của dòng Thiền phái Trúc Lâm mà mình sáng lập ở ngay trong cuộc sống rất

đời thường của người nông dân chân lấm tay bùn. Tên làng Đức La được nhà vua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đặt thay thế cho làng Ông La là minh chứng cho sự xúc động và cảm kích ấy. Ngôi

73

làng này là nơi quần tụ của những con người giàu thiện tâm lại là nơi ngự trị của

ngôi đất tôn quý “đất con qui ẩm thực” nên xứng đáng là đất thiêng để dựng chùa

Vĩnh Nghiêm. Không đơn thuần giải thích địa danh Vĩnh Nghiêm tự hay tên làng

Đức La, hai truyện kể trên mang màu sắc phật giáo đậm nét là vì thế.

Cũng đề cập tới địa danh thiêng mang màu sắc Phật giáo đậm nét, Sự tích

chùa Hang Tràm lại ghi nhận công đức xây chùa của Hoàng Bà ở đời vua Trần

Nhân Tông. Thấy thế đất ở chân núi là gò cao như hình rùa nằm ăn lộc nên Hoàng

Bà chọn nơi đó để xây dựng chùa. Cùng với hai truyện kể trên, Sự tích chùa Hang

Tràm thể hiện niềm tự hào về những vùng đất thiêng gắn với phật giáo thời Trần

với niềm tin vào thiện tâm của con người và niềm tin về một cuộc sống ấm no

hạnh phúc của nhân dân địa phương.

Màu sắc Phật giáo thời Trần còn in dấu ấn trong Truyện kể về con gái bản

Mậu được lưu truyền khắp vùng Tây Yên Tử. Truyện kể rằng: “Vua Trần Nhân

Tông từ bỏ ngai vàng để đi tu trên đỉnh Yên Tử lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên

Tử. Khi vua trên đường lên đỉnh cao nghìn mét để trở thành người tu hành thì hàng

trăm mĩ nữ cung tần cùng vua tới cõi Phật, ai cũng mong trở thành tỳ thiếp để được

vua sủng ái. Nhưng đã là đi tu thì phải giữ giới, phải chay tịnh, phải rũ bỏ mọi trần

tục tầm thường. Thế là nghiễm nhiên đám tỳ nữ theo vua phải tìm chốn nương thân

tại một nơi dưới chân núi Yên Tử. Nơi ấy chính là bản Mậu ngày nay và bản Mậu vì

thế là nơi sinh sống của nhiều cô gái xinh đẹp” [49, tr. 891]. Tương tự truyện kể này

ở bên kia dãy Yên Tử thuộc sườn Đông còn lưu truyền Truyền thuyết Trần Nhân

Tông và những cô gái đẹp. Có điều các tỳ nữ theo vua không nương thân dưới chân

núi mà trẫm mình xuống suối để tỏ lòng trung trinh. Về hành tung của các tỳ nữ sau

khi bị vua Trần từ chối ở hai câu chuyện có những chi tiết khác nhau song cả hai

đều tái hiện tinh thần ngộ đạo và thái độ dứt khoát của Trần Nhân Tông khi tử bỏ

ngai vàng và cuộc sống đế vương quyền quý để lên núi Yên Tử tu hành. Trong lịch

sử Việt Nam Trần Nhân Tông là một đấng quân vương vừa có tài năng lại vừa giàu

thiện tâm với ước muốn cả đời chuyên tâm Phật pháp. Dù lãnh đạo quân dân nhà

trần thắp sáng hào khí Đông A, hai lần chiến thắng đội quân hùng mạnh của đế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

quốc Nguyên - Mông, dù đã nắm trong tay sinh mệnh của cả thiên hạ với quyền lực

74

tối cao ngài vẫn quyết định xuất gia nơi đại ngàn Yên Tử hoang vu để tìm đường

bước vào chân tu và sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm đậm đà bản sắc dân tộc. Việc

theo đuổi Phật pháp với ngài đã trở thành niềm vui và chỉ có theo đuổi Phật pháp

mới giúp ngài dùng hết khả năng của mình để cảm hóa chúng sinh, tạo phúc cho

bách tính. Không giống các bậc tổ phụ chọn hành cung tu tập tại gia Trần Nhân

Tông kiên quyết từ giã cung vàng, điện ngọc để đến với non thiêng Yên Tử tu tập.

Bước vào chân tu, ngài tuân thủ mọi qui định của nhà Phật. Bản thân ngài không

tham, sân, si, không màng tửu sắc, thực hành chay tịnh, rũ bỏ mọi trần tục tầm

thường nhằm “rèn lòng thành bụt”, tĩnh dưỡng thân tâm. Hàng trăm mỹ nữ theo

ngài đến cõi Phật vì thế không đạt được tâm nguyện, đành nương thân ở chân núi

Yên Tử. Con gái bản Mậu cũng vì thế xinh đẹp vô cùng. Câu chuyện nhằm lí giải

về sự xinh đẹp của con gái bản Mậu nhưng mang màu sắc tôn giáo đậm nét. Nó

phản ánh tinh thần thoát tục, hướng Phật, xuất gia tu hành của Phật Hoàng Trần

Nhân Tông.

Tiểu kết chương 2

Ở chương 2 của luận văn, chúng tôi tập trung khảo sát hệ thống truyện kể

dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử trên một số phương diện: Nhận diện,

phân loại, đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu, giá trị phản ánh.

Xuất phát từ thực tế văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo tồn tại trong vùng, người

dân Tây Yên Tử bằng trí tưởng tượng phong phú và sức sáng tạo mãnh liệt đã cho

ra đời một hệ thống truyện kể dân gian khá đặc sắc. Dựa trên những tiêu chí nhất

định, chúng tôi phân loại hệ thống truyện kể thành ba nhóm chính: Nhóm truyện kể

phản ánh tín ngưỡng thờ nhiên thần; nhóm truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ nhân

thần; nhóm truyện kể phản ánh tinh thần Phật giáo Trúc Lâm. Mỗi nhóm truyện kể

đều mang màu sắc tín ngưỡng, tôn giáo riêng biệt thể hiện đời sống tâm linh rất

phong phú của nhân dân Tây Yên Tử.

Hệ thống truyện kể dân vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử được xây dựng

bằng một số yếu tố nghệ thuật độc đáo. Đó là hệ thống truyện kể có cốt truyện được

tổ chức theo nhiều hình thức kết cấu rất đa dạng từ kết cấu truyền thống, kết cấu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đơn giản đến phức tạp. Hệ thống nhân vật trong các nhóm truyện kể cũng được xây

75

dựng bằng sự kết hợp chặt chẽ giữa hai yếu tố kì ảo và hiện thực và được chú trọng

miêu tả ở hành động với bối cảnh xã hội của hành động, ít chú trọng miêu tả suy

nghĩ, trăn trở trong thế giới nội tâm nhân vật. Đó cũng chủ yếu là những nhân vật

lịch sử, những hoàng tử, công chúa, những người anh hùng chống giặc ngoại xâm hay

những nhân vật văn hóa được nhân dân ngưỡng mộ, tôn thờ. Trong tâm thức nhân

dân địa phương, những nhân vật này trở thành những phúc thần che chở và bảo vệ

cho cuộc sống của họ. Motif tiêu biểu của hệ thống truyện kể được khảo sát là: Sinh

đẻ thần kỳ, tài năng và hành trạng khác thường; hóa thân và hiển linh âm phù.

Hệ thống truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử được khảo

sát rất giàu giá trị phản ánh. Nhóm truyện kể dân gian về nhiên thần phản ánh quan

niệm vạn vật hữu linh, quan niệm về môi trường sống gắn với những tín ngưỡng

dân gian như: tín ngưỡng vùng đất thiêng, tín ngưỡng thờ thần đá, thần rắn, thần

núi, thần sông, thần nông, tín ngưỡng thờ vật tổ đã trở thành nhu cầu tinh thần

không thể thiếu trong đời sống của nhân dân địa phương. Nhóm truyện kể này thể

hiện niềm tự hào của nhân dân Tây Yên Tử về vùng đất thiêng trên quê hương mình

và mong muốn được các vị thánh, thần, tổ tiên che chở, bảo vệ cho mưa thuận gió

hòa và được sống bình an của họ. Nhóm truyện kể dân gian về nhân thần phản ánh

quan niệm “uống nước nhớ nguồn” và sự đề cao các nhân vật văn hóa, lịch sử của

người dân vùng Tây Yên Tử. Nhóm truyện kể này, gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ

Thành hoàng vừa có ý nghĩa tạo nên sức mạnh cố kết cộng đồng, qui tụ tâm linh

vừa có ý nghĩa giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đồng thời duy trì và

bảo tồn nét văn hóa truyền thống của nhân dân trong vùng. Nhóm truyện kể dân

gian về Phật giáo và con người Phật pháp mang màu sắc tôn giáo ở các mức độ đậm

nhạt khác nhau nhưng đều thể hiện cốt lõi nhân tâm, tinh thần nhập thế tích cực,

tinh thần xuất gia, tu hành của dòng Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử đậm đà bản sắc

dân tộc.

Giá trị đặc sắc của hệ thống truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây

Yên Tử còn được thể hiện trong không gian diễn xướng của nó khi chúng tôi tập

trung tìm hiểu mối quan hệ giữa những truyện kể phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

lễ hội dân gian trong vùng ở chương 3.

76

Chương 3

MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỆN KỂ DÂN GIAN VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN

VÙNG VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ

3.1. Truyện kể dân gian và lễ hội dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

Lễ hội là một hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hóa có mặt ở Việt Nam từ

lâu đời. Đó là một trong những hoạt động văn hóa nổi trội trong đời sống con

người. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất tinh

thần của người dân trong từng giai đoạn lịch sử.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Lễ hội là cuộc vui chung có tổ chức, có các hoạt

động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống” [52]. Tác giả Toan Ánh trong cuốn

Nếp cũ hội hè đình đám cho rằng: “Lễ hội là một loại hình văn hóa dân gian tổng

hợp, tồn tại trong môi trường diễn xướng và tiến tới mục đích mua vui cho người

dân, chứng tỏ ý kiến tôn giáo thiêng liêng của người dân qua lễ nghi, nêu cao lòng

biết ơn của người dân đối với các bậc anh hùng đất nước cũng như đối với các vị

thần linh, nhất là các vị Thành hoàng đã che chở phù hộ cho dân mỗi xã và đây cũng

là dịp người dân ôn lại lễ nghi, nhớ lại phong tục” [3, tr.68 ]. Nhà nghiên cứu Nguyễn

Bích Hà trong cuốn Giáo trình văn học dân gian khẳng định: “Lễ hội có hai phần, phần

lễ và phần hội. Phần lễ gồm các hoạt động tín ngưỡng, các nghi thức cúng tế (đồ

cúng lễ, các chủ tết chủ lễ, các hình thức đưa rước, các bài khấn nguyện…) gắn với

việc diễn xướng sự tích các nhân vật thần linh hay anh hùng. Phần hội gồm các trò

chơi dân gian mang tính chất cộng đồng, vui vẻ, đồng thời thuyết giải cho phần lễ,

thể hiện quan niệm và tín ngưỡng một cách sinh động. Các trò chơi vui nhộn trong

hội tạo nên một không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng sinh động của các địa

phương và gắn kết các thành viên trong cộng đồng” [23 tr.58-59]. Giáo sư Đinh Gia

Khánh trong bài viết Lễ hội dân gian và sự phản ánh những truyền thống văn học lại

định nghĩa rõ ràng về danh từ Lễ và Hội như sau: “Danh từ hội lễ cần được coi như

một thuật ngữ văn hóa. Ý nghĩa của thuật ngữ này được xác định trên cơ sở ý nghĩa

của hai thành tố “Hội” và “lễ”.“Hội” là sự tập hợp đông người trong một sinh

hoạt văn hóa cộng đồng.“Lễ” là các tín ngưỡng (các niềm tin thiêng liêng) và các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

nghi thức đặc thù gắn với các tín ngưỡng ấy trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng kể

77

trên” [34, tr.7-11]. Tác giả Thuận Hải trong cuốn Bản sắc văn hóa lễ hội cũng đưa

ra khái niệm: “Lễ hội là hệ thống các động tác biểu hiện sự tôn kính của con người

đối với thần linh phản ánh ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà

bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ

thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại phát triển của cộng

đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho

từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng bao đời nay đã

qui tụ niềm mơ ước chung với 4 chữ: nhân, khang, vật, linh” [24,tr.4].

Điểm qua các khái niệm về lễ hội được các nhà nghiên cứu uy tín đưa ra

chúng tôi nhận thấy lễ hội dân gian là một trong những yếu tố hình thành bản sắc

riêng của dân tộc. Đây là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng có sự kết hợp

chặt chẽ trong một thể thống nhất giữa phần tín ngưỡng tâm linh (bao gồm niềm tin

vào cái thiêng hay còn gọi là phần đạo) và các hoạt động vui chơi giải trí trong đời

sống văn hóa hàng ngày (còn gọi là phần đời). Ý nghĩa quan trọng của lễ hội là sự

kết hợp giữa đạo và đời tạo nên chiều sâu văn hóa tâm linh và đời sống tinh thần

phong phú của nhân dân. Trong quá trình khảo sát chúng tôi cũng nhận thấy lễ hội

truyền thống ở vùng Tây Yên Tử thường gắn với môi trường nông thôn vào các

dịp xuân thu nhị kì và linh hồn của các lễ hội ấy hầu hết là những tín ngưỡng, tôn

giáo tồn tại trong đời sống của người dân hàng ngàn năm. Những tín ngưỡng, tôn

giáo này được phản ánh một cách tự nhiên và dung dị trong những truyện kể dân

gian tồn tại trong các thôn, làng khắp nơi trên địa bàn Tây Yên Tử. Truyện kể dân

gian phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội dân gian trong vùng vì thế có mối quan

hệ qua lại mật thiết với nhau. Truyện kể cần có lễ hội để thổi bùng sức sống, lễ hội

cần có truyện kể mới linh thiêng, hấp dẫn cuốn hút nhân dân địa phương và du

khách gần xa.

Truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử tồn tại ở dạng sống

gắn với những di tích lịch sử, danh thắng, những tập tục, tín ngưỡng, tôn giáo và

đặc biệt là các lễ hội dân gian với không khí diễn xướng rất độc đáo. Trong 3 nhóm

truyện kể được khảo sát ở trên có 20 truyện kể gắn với 52 lễ hội trong vùng. Những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

truyện kể tồn tại trong không gian lễ hội này đã nuôi dưỡng tâm hồn của biết bao

78

người dân Tây Yên Tử. Nó dạy con người biết yêu thương sẻ chia, biết kính trên

nhường dưới, biết phân biệt phải - trái, đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác, biết hướng

về tổ tiên, nguồn cội với những tình cảm chân thành nhất. Nó cũng trở thành tín vật

tinh thần trong hành trang của mỗi người dân sườn Tây Yên Tử.

Tồn tại trong không gian diễn xướng 20 truyện kể dân gian được khảo sát

gắn với số lượng lễ hội ở những mức độ khác nhau. Một số lễ hội còn lưu giữ bản

sắc xưa với những màn tái hiện truyện kể rất sinh động, một số lễ hội không còn lưu

giữ lại tích xưa, các trò diễn cũng dần được hiện đại hóa song nhìn chung vẫn bảo

lưu và gìn giữ không gian văn hóa tâm linh đặc sắc trong vùng. Theo số lượng lễ

hội gắn với truyện kể đã khảo sát chúng tôi nhận thấy một số truyện kể gắn với

nhiều lễ hội như: Sự tích Cao Sơn - Quý Minh, Truyện kể về tướng quân Vũ Thành,

Sự tích về Đức Thánh Tam Giang.

Sự tích về Cao Sơn - Quý Minh với hai nhân vật có nguồn gốc nhiên thần là

Cao Sơn - Quý Minh trở thành nhân vật được thờ phụng trong tâm thức nhân dân

tồn tại trong 20 lễ hội của vùng. Đó là các lễ hội được tổ chức long trọng với nhiều

trò chơi dân gian đặc sắc như: Hội đình Đào Tràng; hội đình Trung, thị trấn Tân

Dân; hội đình Nội, xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng cùng được tổ chức vào ngày 06

tháng Giêng âm lịch; hội đình Quỳnh Sơn, xã Quỳnh Sơn, huyện Yên Dũng, hàng

năm được tổ chức từ ngày 06 đến 07 tháng Giêng; hội đình Ba Tổng, thị trấn Neo,

huyện Yên Dũng được tổ chức vào ngày 09 tháng Giêng âm lịch; hội đình Ngọc

Lâm, xã Lãng Sơn; hội đình, chùa Âm Dương, xã Tân An, huyện Yên Dũng; hội

làng Sàn, thôn Sàn, xã Phương Sơn, huyện Lục Nam cùng diễn ra vào ngày 09 -10

tháng Giêng âm lịch; hội đình Hạ Long, xã Đồng Phúc; hội đình Thượng, thị trấn

Tân Dân; hội đình Nam Sơn, xã Đồng Phúc, huyện Yên Dũng cùng được tổ chức

vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch hàng năm; hội đình Lão Hộ và hội chùa Linh Sơn,

xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng diễn ra vào ba ngày 13,14,15 tháng Giêng âm lịch; hội

Hà Mỹ, thôn Hà Mỹ, xã Chu Điện, huyện Lục Nam được tổ chức vào ngày 14 -15

tháng Giêng âm lịch; hội đình Yên Tập Bến, xã Yên Lư, huyện Yên Dũng được tổ

chức vào ba ngày 14,15,16 tháng Giêng; hội đình Chẽ, thị trấn An Châu, Sơn Động

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

được tổ chức vào ngày 18 tháng 01 âm lịch; hội đình Trung xã Nội Hoàng, huyện

79

Yên Dũng diễn ra vào ngày 14 tháng 02 âm lịch; hội đình Cống, thôn Cống, xã Kiên

Lao, huyện Lục Ngạn diễn ra vào ngày 18 tháng 02 âm lịch; hội Chẽ, xã An Lập

huyện Sơn Động được tổ chức vào ngày 10 tháng 04 âm lịch; hội đình Chiền, xã

Nội Hoàng, huyện Yên Dũng diễn ra vào ngày 10 tháng 08 âm lịch; hội đình Cảnh

Mỹ, xóm Dưới, xã Cảnh Thụy, huyện Yên Dũng hàng năm được tổ chức vào ngày

06 tháng 11 âm lịch. Đáng chú ý là lễ hội đình Ba Tổng tại thị trấn Neo huyện Yên

Dũng với cuộc hành lễ lớn ngoài trời là nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn như: Kéo

chữ, cướp cầu, vật giải, hát hò ...nhằm cầu mong mùa màng tươi tốt, thiên hạ thái

bình.

Truyền thuyết Vũ Thành cũng gắn với số lượng lớn lễ hội trong vùng. Cụ thể:

Hội đền Cầu Từ xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn diễn ra từ ngày 6 đến ngày 9

tháng Giêng âm lịch hàng năm; hội Tòng Lệnh xã Trường Giang huyện Lục Ngạn

diễn ra vào ngày 7 tháng Giêng âm lịch; hội đền Lũ Phú xã Xuân Phú, huyện Yên

Dũng được tổ chức vào ngày 8 tháng Giêng âm lịch; hội Từ Hả xã Hồng Giang,

huyện Lục Ngạn; hội Chể xã Phượng Sơn Lục Ngạn; hội đình làng Xuân An, xã

Xuân Phú huyện Yên Dũng. Đặc biệt, tại lễ hội Từ Hả, xã Hồng Giang huyện Lục

Ngạn Truyền thuyết Vũ Thành được tái hiện trong nhiều nghi lễ tưởng niệm người

anh hùng của quê hương Tây Yên Tử. Cứ đến ngày 08 tháng Giêng âm lịch hàng

năm người dân đôi bờ sông Lục lại nô nức kéo đến bãi Dược, xã Hồng Giang để ôn

lại lịch sử oai hùng một thời qua màn diễn lại tích đức Thánh Vũ Thành cầm quân

đánh giặc giữ nước, giữ nhà. Các sự kiện Vũ Thành đánh giặc được tái hiện sinh

động qua từng chi tiết của màn diễn hấp dẫn người xem, khơi gợi niềm thành kính

thiêng liêng và niềm tự hào dân tộc trong tâm thức nhân dân. Lễ hội Từ Hả vì thế

trở thành một nét đẹp văn hóa rất đặc sắc hấp dẫn du khách của người dân sườn Tây

Yên Tử.

Sự tích về Đức Thánh Tam Giang được lưu truyền ở nhiều nơi trong vùng

Tây Yên Tử và trở thành linh hồn của những lễ hội sau: Lễ hội đền Phượng Nhỡn -

ngôi đền soi bóng nước sông trong, tọa lạc tại ngã ba Phượng Nhỡn xã Trí Yên,

huyện Yên Dũng; lễ hội đình Trung, xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng; lễ hội đình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Ninh Xuyên, xã Tiến Dũng, huyện Yên Dũng; lễ hội đình Lão Hộ, xã Lão Hộ,

80

huyện Yên Dũng; lễ hội đình Yên Tập Bến, xã Yên Lư, huyện Yên Dũng; lễ hội đền

Tam Giang, thôn Chể, xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn; hội đền Tam Giang, xã

Trường Giang, huyện Lục Nam; lễ hội đình Nam Sơn, xã Đồng Phúc, huyện Yên

Dũng; lễ hội đình Sàng Bến, xã Tân Quang, huyện Lục Ngạn. Các lễ hội hầu hết

được tổ chức vào tháng 04 âm lịch hàng năm. Lễ hội Thánh Tam Giang xưa được tổ

chức rất long trọng với trò cướp cầu có nội dung diễn lại quá trình luyện quân của

quân sĩ đức Thánh Tam Giang. Ngoài ra các hội còn nhiều trò chơi như: Thi nấu

cơm, bắt vịt, chọi gà, thổi sôi, múa rối đánh cờ, đánh đu... không khí các lễ hội diễn

ra rất sôi nổi. Ngày nay, lễ hội này bị mai một dần không còn diễn lại tích trò nữa

song vẫn mang nét văn hóa tâm linh đặc sắc của vùng.

Sau đây là bảng thống kê bước đầu về số lượng các truyện kể gắn với lễ hội

tiêu biểu ở các địa phương trong vùng Tây Yên Tử. Cụ thể như sau:

Bảng 3.1: Bảng thống kê một số truyện kể và lễ hội tiêu biểu

vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

Tên lễ hội gắn với truyện kể Thời gian tổ Stt Tên truyện và hình thức tổ chức lễ hội chức lễ hội

Truyện Quế Mị Lễ hội suối Mỡ, xã nghĩa Phương, huyện Ngày 30/3 – 1 Nương ở Nghĩa Lục Nam với hình thức tổ chức rất đặc 02/4 âm lịch. Phương sắc hấp dẫn khách thập phương.

Lễ hội đền Sú, xã Mỹ An huyện Lục

Ngạn. Đáng chú ý là lễ hội rước công Truyện công Ngày 04/03 2 chúa từ đền Sú về bến Bò thu hút sự chúa Lê Chân âm lịch tham gia cử đông đảo nhân dân địa

phương và các vùng lân cận.

Lễ hội đền Ngọc Lâm, xã Tân Mỹ,

huyện Yên Dũng. Nổi bật là lễ khao Truyện nữ thần Ngày 07/01 âm quân với tục cúng cháo và lễ rước nồi 3 đền Ngọc Lâm lịch Hương, lễ rước sắc, lễ rước nước về đình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cúng tế,

81

Tên lễ hội gắn với truyện kể Thời gian tổ Stt Tên truyện và hình thức tổ chức lễ hội chức lễ hội

Lễ hội Làng Hoàng Mai, xã Tân Mỹ,

Truyện Công huyện Yên Dũng. Lễ hội được tổ chức Ngày 10/01 4 chúa Thiều long trọng với nghi thức cúng tế và các âm lịch Dương trò chơi dân gian như: Hát chèo, hát nhà

tơ, đánh cờ, đấu vật...

Lễ hội Từ Co, xã Hương Gián, huyện 12/03 âm Sự tích ngôi đền Yên Dũng. Nổi bật là lễ rước đòn bát lịchxưa, nay 5 Từ Co cống, lễ tế rước nước, dâng trâu tượng thất truyền. trưng kết hợp hát chèo, hát ca trù.

Truyện Ông Cộc, Lễ hội Hang Non, xã Khám Lạng huyện Ngày 13- 6 Ông Dài Lục Nam 15/03âm lịch

Lễ hội đình Đặng, xã Vĩnh Khương,Sơn

Truyện về vị Động. Lễ hội nổi tiếng với lễ rước sách,

Thành hoàng lễ đọc văn tế kể lại công lao của hai vị Ngày 07 - 09/01 7 làng Đặng xã thành hoàng với nhiều trò chơi dân gian âm lịch

Vĩnh Khương truyền thống như: Đập niêu, hát then, hát

chèo, cờ tướng...

Lễ hội làng Phấn Lôi, xã Thắng Cương

huyện Yên Dũng. Lễ hội diễn ra trang

trọng với các nghi thức thể hiện sự thành

kính và các trò chơi dân gian thể hiện

Truyện về Thiên lòng yêu quê hương, đất nước và niềm Ngày 15/02 8 Bồng tướng và tự hào dân tộc. Những năm chẵn hội âm lịch Thuận Thiên làng tổ chức long trọng hơn với nghi

thức rước Thánh, múa rồng, múa Lân,

các trò chơi dân gian như: Đập niêu, bịt

mắt bắt dê và các trò chơi hiện đại như:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bóng chuyền hơi, bóng đá...

82

Tên lễ hội gắn với truyện kể Thời gian tổ Stt Tên truyện và hình thức tổ chức lễ hội chức lễ hội

Truyện kể về Hà Lễ hội đình Lũ Phú, xã Xuân Phú, huyện Ngày 8 - 9/01 9 Công Dong Yên Dũng. âm lịch

Lễ hội bơi chải, xã An Châu, thị trấn An

Châu, Sơn Động. Tục truyền tướng quân

Vi Đức Lục luyện quân ở nơi đây nên

hàng năm lễ hội bơi chải diễn ra rất sôi

nổi. Dân làng vào ngày hội thường làm

lễ tế Thành hoàng sau đó là lễ tế chải

Tướng quân Vi diễn ra như một cuộc ra quân trước giờ Ngày 10/04 10 Đức Lục xuất trận. Hội thi bơi chải được bắt đầu âm lịch

ngay sau lễ tế này. Vì thế lễ hội như tái

hiện không khí luyện quân rất hăng say

của tướng Vi Đức Lục thu hút sự tham

gia của nhiều trai tráng trong vùng thể

hiện mong muốn nguồn nước dồi dào,

tốt tươi nhà nhà no ấm, bình yên.

Lễ hội đền Đà Hy, xã Lãng Sơn, huyện

Yên Dũng. Lễ hội thu hút nhân dân

trong vùng bằng các nghi thức rước

kiệu, rước nước và hoạt cảnh tái hiện Tướng quân Ngày 03/03 11 trận thủy chiến trên sông do chính người Trần Tuấn Sơn âm lịch dân địa phương tham gia. Gắn liền với

hoạt cảnh là các trò chơi dân gian mang

đậm bản sắc dân tộc như: Bơi chải, bắt

ngỗng, cướp cờ...

Lễ hội đền Khánh Vân, Thị Trấn Chũ,

Tướng quân huyện Lục Ngạn nhằm tưởng nhớ công Ngày 18 - 20/02 12 Vi Hùng Thắng đức của tướng quân Vi Hùng Thắng gắn âm lịch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

với nhiều trò chơi dân gian đặc sắc.

83

Tên lễ hội gắn với truyện kể Thời gian tổ Stt Tên truyện và hình thức tổ chức lễ hội chức lễ hội

Lễ hội đền Cổ Phao, xã Đồng Việt,

huyện Yên Dũng. Trong lễ hội xưa dân

làng thường tế thánh bằng lợn sống với

đầy đủ cờ quạt, chiêng, trống, tàn lọng. Truyện kể về Ngày Dưới sông là các trò chơi vui vẻ như bơi ngôi đền Cổ 9-11/02; 13 chải, bơi thi lấy cờ...Ngày nay, lễ hội Phao xã Đồng 10 -11/08 vẫn được tổ chức với nhiều nghi thức Việt âm lịch đặc biệt là nghi thức tái hiện màn tập

trận của tướng quân Nghĩa Xuyên với

hội bơi chải thu hút sự tham gia của

đông đảo nhân dân địa phương.

Lễ hội đền Thanh Nhàn, lễ hội Hương

Tảo xã Nham Sơn huyện Yên Dũng. Lễ

hội xưa thu hút đông đảo nhân dân tham

gia với nhiều trò chơi dân gian như: Hát

chầu văn, đấu vật, cờ người đặc biệt là Truyện về Thái màn múa bông đánh bệt tượng trưng cho Ngày15-26/01; 14 Sư việc nhử rắn và tiêu diệt rắn của. Lễ hội 8-9/4 âm lịch Trần Thủ Độ ngày nay không còn biểu diễn tích trò,

múa bông, đánh bệt song vẫn được tổ

chức long trọng nhằm ghi nhớ công lao

diệt trừ yêu quái, khai khẩn đất hoang

lập ấp lập làng của Thái sư Trần Thủ Độ

Sự tích Lễ hội chùa Hang Tràm, xã Tân Liễu, Ngày 8/01 15 chùa Hang Tràm huyện Yên Dũng. âm lịch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Truyền thuyết Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm với hình thức Ngày 12-15/02 16 Vĩnh Nghiêm tự tổ chức rất đặc sắc. âm lịch

84

Tên lễ hội gắn với truyện kể Thời gian tổ Stt Tên truyện và hình thức tổ chức lễ hội chức lễ hội

Lễ hội Tây yên Tử, xã Tuấn Mậu, huyện

Sơn Động. Lễ hội gắn với tuần văn hóa

du lịch “khám phá vùng đất thiêng Tây

Yên Tử với nhiều hoạt động như: Khánh

thành chùa Thượng Tây Yên Tử, lễ hội Truyện về con vùng cao Tân Sơn, hội hát soong hao, Ngày 10 – 17 gái giải marathon chinh phục đỉnh Non Vua, 16/01 âm lịch bản Mậu cuộc thi ảnh đẹp “07 ngày khám phá

vùng đất thiêng Yên Tử” nhằm tái hiện

không gian văn hóa tâm linh rất đỗi

thiêng liêng của nơi hội tụ bản sắc ngàn

năm văn hóa Phật giáo.

Có thể thấy 20 truyện kể được khảo sát đã thổi hồn vào không khí của 52 lễ

hội văn hóa tâm linh trong vùng khiến cho các di tích lịch sử gắn liền với tín

ngưỡng, tôn giáo trở nên thiêng liêng vô cùng. Truyện kể dân gian và lễ hội là hai

lĩnh vực khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Truyện kể khiến lễ hội

mang nội dung thiêng liêng còn lễ hội làm cho việc diễn xướng truyện kể trở nên

sinh động nói cách khác truyện kể là cốt lõi của lễ hội còn lễ hội là minh chứng cho

sự tồn tại rất sinh động của truyện kể. Thông qua các tích trò, các màn sân khấu hóa

truyện kể rất độc đáo và đặc sắc, lễ hội dân gian trở nên giàu bản sắc và hấp dẫn

nhân dân địa phương cùng du khách thập phương. Mỗi lễ hội dân gian gắn với một

hoặc một vài truyện kể đã thống kê ở trên đều nhằm tái hiện những chiến công hiển

hách, những hành động phi thường hay những việc làm thể hiện công đức lớn của

những nhân vật gắn với tín ngưỡng, tôn giáo mà nhân dân trong vùng ngưỡng mộ,

phụng thờ. Trở thành linh hồn của các lễ hội, truyện kể dân gian phản ánh tín

ngưỡng, tôn giáo tiếp tục hành trình thâm nhập vào đời sống và được nhắc nhớ đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đời trong kí ức của người Tây Yên Tử. Là sản phẩm tinh thần của nhân dân, do

85

nhân dân sáng tạo, gìn giữ và liên tục bồi đắp, thể hiện, truyện kể dân gian và lễ hội

dân gian vùng Tây Yên Tử cùng tập trung thể hiện niềm tự hào, thành kính đối với

những nhân vật thiêng trong vùng đồng thời giáo dục truyền thống đạo lí ngàn đời

của nhân dân. Điều này chúng tôi sẽ phân tích cụ thể ở phần sau.

3.2. Mối quan hệ giữa truyện kể dân gian và lễ hội dân gian (qua khảo sát lễ

hội Suối Mỡ, lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm)

3.2.1. Truyện kể dân gian và lễ hội Suối Mỡ

Suối Mỡ là một một quần thể thắng tích gồm hệ thống đền, đình cổ nổi tiếng

của huyện Lục Nam, nằm trong sơn phận của sườn Tây Yên Tử hùng vĩ. Truyện kể

về Quế Mị Nương ở Nghĩa Phương là truyện kể dân gian đặc sắc gắn liền với lễ hội

Suối Mỡ - di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Lễ hội Suối Mỡ nhằm tưởng nhớ

công chúa Quế Mị Nương thời Hùng Vương - người có công giúp dân mở đất, mở

nước, làm ruộng trồng lúa...Trong tâm thức nhân dân, công chúa được suy tôn là

Thánh mẫu Thượng Ngàn và được thờ cúng ở cụm di tích đền Suối bao gồm ba

ngôi đền: Đền Hạ, đền Trung, đền Thượng tại xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam.

“Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” - câu ca xưa - vẫn tươi xanh vẻ đẹp

truyền thống của dân tộc với tín ngưỡng thờ Mẫu đã tồn tại trong đời sống nhân dân

đất Việt tự bao đời. Hướng về ngày “giỗ mẹ” hàng năm, người dân khu Vực Mỡ

náo nức chuẩn bị trảy hội Suối Mỡ. Lễ hội diễn ra trên địa bàn xã Nghĩa Phương,

huyện Lục Nam thường kéo dài ba ngày từ 30 tháng 03 đến mùng 02 tháng 04 âm

lịch hằng năm. Ngày mồng 01 tháng 04 (âm lịch) là khai hội chính. Lễ hội xưa diễn

ra ở làng Dùm do nhân dân làng Dùm chuẩn bị tổ chức. Ngày nay lễ hội chính diễn

ra ở Đảo Nổi và cụm di tích đền Suối tại khu du lịch sinh thái suối Mỡ. Vào dịp lễ

hội, hàng nghìn du khách thập phương cùng nô nức trảy hội về miền đất in đậm dấu

ấn huyền thoại sông Lục - núi Huyền, dâng một nén tâm hương, hoặc thả hồn hòa

quyện với thiên nhiên núi rừng, suối thác.

Lễ hội Suối Mỡ hàng năm được chuẩn bị rất kĩ lưỡng. Trong lễ hội xưa, công

tác chuẩn bị cho lễ hội được họp bàn từ ngày 16 tháng chạp năm trước. Làng Dùm

được chia làm 2 giáp: Giáp Đông và giáp Đoài. Mỗi giáp được phân công công việc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cụ thể chuẩn bị toàn bộ đồ rước sách và cỗ bàn phục vụ lễ hội. Danh sách những

86

người trong ban tế cũng được niêm yết từ tháng chạp ở đình. Đội quan tế gồm 15

người (11 người tế chính, 4 người dự bị) được lựa chọn kĩ lưỡng theo các tiêu chí

nhất định như: Chủ tế có độ tuổi từ 40 - 45 trở lên, các quan viên khác từ 35 tuổi trở

lên; các thành viên trong đội tế phải có chân trong nhiêu xã, có tư cách đạo đức

được người dân trong làng kính trọng, nể phục, gia đình trong năm đó không có

tang. Đội rước kiệu cũng được tuyển chọn từ các làng thông thường gồm 4 thanh

đồng là những cô gái khiêng kiệu Thánh, 8 thanh đồng khiêng kiệu bát cống, 34

nam thanh, nữ tú (mỗi giới 17 người) được chọn để tham gia đám rước vào ngày

khai hội chính. Từ năm 2015 lễ hội được tổ chức qui mô cấp huyện nên lực lượng

chuẩn bị tham gia lễ rước, dâng hương có số lượng rất đông. Mỗi thôn 1 đoàn rước

lễ, dâng hương mỗi đoàn tối thiểu 50 người trở lên, 3 mâm lễ trở lên, cờ Tổ quốc 10

cờ, cờ thần 15 cờ riêng thôn Dùm, Tân Hương, Quỷnh, Ba Gò bố trí đoàn rước ít

nhất 100 người trở lên. Ban tổ chức lễ hội được thành lập với 4 tiểu ban: Tiểu ban

rước, lễ tân; tiểu ban khánh tiết - thể dục thể thao; tiểu ban an ninh; tiểu ban hậu

cần, ngân sách.

Đồ lễ Thánh được chuẩn bị chu đáo.Trước đây gần đến lễ hội dân làng Dùm,

Quỷnh phải tát ao để bắt 4 con cá mè nướng khô, nếu không có cá thì thay bằng 10

quả trứng vịt luộc sẵn.Đồ lễ còn được chuẩn bị rất công phu với tục giã bánh dày

thờ của hàng hội. Người ta vừa giã bánh dày vừa nói vui: “Của bà thì méo, của tôi

thì tròn, giã trật hai hòn, thờ cô Tích Mễ”. Ngày nay đồ cúng chuẩn bị cho lễ hội

vẫn duy trì thủ lợn úp lên mâm xôi trắng cùng trầu cau, rượu, nước, hoa quả. Ngoài

ra các mâm cỗ chay cũng được chuẩn bị chu đáo để tiếp đón quan khách và khách

thập phương từ mọi nơi về trảy hội.

Lễ hội diễn ra trong không khí vui tươi náo nức và có tiến trình gồm 2 phần:

Phần lễ và phần hội.

* Phần lễ

Sáng ngày 01 tháng 04 âm lịch là ngày khai hội chính. Từ chiều 30 tháng 03

nhân dân các làng tập lễ rước thử (gọi là tập ngơi). Sáng sớm ngày khai hội, dân

làng tổ chức tế lễ ở đình làng Dùm. Tế xong, xin rước sắc và bài vị ra đền suối.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đám rước qua đền cây Xanh rồi tới đền Hạ. Cùng thời điểm, dân làng Quỷnh cũng

87

rước kiệu Thánh từ đình Quỷnh ở phía Tây Suối Mỡ rước lên, qua nghè Hàn Lâm

để vào đền Trung làm lễ. Khi đám rước tới đền Hạ thì tế an vị, thờ cúng ở đó ba

ngày rồi cùng rước lên đền Trung đóng đám và tế vọng lên đền Thượng. Từ năm

2015 đến nay sau khi đón nhận bằng di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, phần lễ

của lễ hội được tổ chức rất long trọng. Ngay từ sáng sớm, 25 đoàn rước lễ, dâng

hương do bí thư chi bộ hay trưởng thôn của 25 thôn làm trưởng đoàn với hơn 2000

người tham gia cùng kiệu, lọng, cờ, hoa đủ màu sắc sặc sỡ, xuất phát từ tất cả các

thôn trên địa bàn xã Nghĩa Phương tiến về Đảo Nổi - trung tâm lễ hội. Sau màn khai

mạc lễ hội là nghi thức tế lễ, rước kiệu, dâng hương. Các đoàn rước tỏa đi các đền

của khu du lịch sinh thái Suối Mỡ để làm lễ, cầu cho mưa thuận gió hòa, vạn vật tốt

tươi và dự lễ Thượng lương tại đền Hạ. Phần lễ rước kiệu, dâng hương kết thúc vào

khoảng 9 giờ sáng. Sau đó các du khách và khách thập phương vào các đền thắp

hương cầu nguyện.

* Phần hội

Tiếng pháo lệnh - nghi thức biểu hiện sự may mắn cho cả làng cất lên mở

đầu phần hội của lễ hội Suối Mỡ. Theo quan niệm dân gian nếu pháo ông lệnh nổ to

điềm báo một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, dân an, vật thịnh. Nếu

chẳng may pháo không nổ thì là điềm xui của dân làng. Trong đêm chính hội (đêm

01 tháng 04) các nghệ sĩ, diễn viên Nhà hát Chèo Bắc Giang trình diễn những tiết

mục vô cùng đặc sắc tại sân khấu ngoài trời trên Đảo Nổi như: “Trống hội quê

hương”,“Huyền thoại dòng Suối Mỡ”, múa kỳ lân...Tiết mục Huyền thoại dòng

Suối Mỡ để lại trong lòng người những ấn tượng sâu sắc khi tái hiện hành trình vượt

qua bao gian nan để mở nước, đem sự sống về cho thung lũng Nghĩa Phương khô

của công chúa Quế Mị Nương. Tiết mục đầy xúc động khiến cho Truyện kể về Quế

Mị Nương ở Nghĩa Phương khắc sâu trong tâm trí của nhân dân trong vùng và du

khách gần xa. Dù không được tái hiện tích trò ở phần lễ, tiết mục biểu diễn nghệ

thuật của các nghệ sĩ tài năng vẫn đưa truyện kể dân gian hòa vào không khí lễ hội

để nó tồn tại ở dạng sống thể hiện nét văn hóa tín ngưỡng độc đáo của người dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

vùng Tây Yên Tử.

88

Trong khuôn khổ lễ hội, nhiều hoạt động văn hóa, thể thao và tín ngưỡng

tâm linh cũng được diễn ra như: Hát đối đáp giao duyên quan họ, hát Then của dân

tộc Tày, thi biểu diễn nghệ thuật của các thôn trước đền Trung, giao lưu văn nghệ

giữa nhân dân trong vùng và khách thập phương, trưng bày các sản vật độc đáo của

huyện... Bên cạnh đó còn có các trò chơi dân gian như: Cờ tướng, cờ bỏi, đấu vật,

đánh đu, chọi gà, bắn cung, võ dân tộc, đi cầu thùm, bịt mắt đập niêu…Trong đó,

bắn cung và võ dân tộc do người bản địa biểu diễn. Thi bắn cung được mở ở gần

khu đền. Cung làm bằng gỗ dâu, néo dây căng. Tên là tre già và cứng, vát nhọn đầu,

đuôi gấp mo tre làm cánh tên. Đích bắn làm bằng cót hay lấy mẹt vẽ hồng tâm.

Người bắn đứng xa năm chục bước, tuỳ theo ban giám khảo quy định. Ai bắn trúng

cả ba mũi tên vào giữa hồng tâm là thắng. Còn võ dân tộc thì có đi quyền, múa côn,

múa kiếm, múa đao….

Nét văn hóa đặc trưng nhất của hội Suối Mỡ là hát văn gắn với tín ngưỡng

thờ Mẫu của người Tây Yên Tử nói riêng và người Việt Nam nói chung. Đây là

hình thức hát thờ trong các dịp lễ tiết ở các đền trong khu vực suối Mỡ. Hát văn gắn

với hầu bóng có đủ 36 giá đồng, mỗi giá có một điệu hát văn khác nhau. Hát văn

thường đi cùng với múa trong Lên đồng. Người múa trong hát văn gọi là ngồi đồng.

Bằng cách sử dụng âm nhạc độc đáo, trang phục ấn tượng,cách sắp đặt bài trí không

gian đặc sắc với lời hát trau chuốt, nghiêm trang các thanh đồng, cung văn đã hóa

thân thành các vị thần, thánh, biểu diễn những màn múa hát đặc sắc đưa người nghe

vào trạng thái mông lung, huyền ảo với sự giao hòa giữa đời sống trần tục và thế

giới thần linh. Tại lễ hội suối Mỡ năm 2019 liên hoan hát văn - diễn xướng hầu

đồng huyện Lục Nam lần thứ VI được tổ chức, thu hút 20 câu lạc bộ hát văn từ

nhiều vùng trong cả nước nhằm tái hiện không gian văn hóa đặc trưng của tín

ngưỡng thờ Mẫu. Hát văn không phải là hoạt động mê tín dị đoan mà là một hoạt

động văn hóa tín ngưỡng đã và đang được giữ gìn, bảo tồn ở khu vực suối Mỡ và

vùng Tây Yên Tử.

Lễ hội Suối Mỡ hội tụ đầy đủ các nét văn hóa dân tộc độc đáo của các dân

tộc anh em trên địa bàn Tây Yên Tử. Lễ hội cũng là môi trường bảo lưu và tái hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

một cách sinh động Truyện kể về Quế Mị Nương ở Nghĩa Phương. Lễ hội thể hiện

89

lòng thành kính, biết ơn sâu sắc của nhân dân địa phương đối với Thánh Mẫu

Thượng Ngàn. Trong tâm thức nhân dân Thánh Mẫu Thượng Ngàn vẫn hóa thân

trong từng tế bào cỏ cây, suối thác để phù hộ độ trì và đem đến cho họ cuộc sống

bình yên. Đây cũng là điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.

Năm 2015 lễ hội Suối Mỡ được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di

sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

3.2.2. Truyện kể dân gian và lễ hội Chùa Vĩnh Nghiêm

Chùa Vĩnh Nghiêm được đánh giá là ngôi chùa cổ đẹp nhất đất Kinh Bắc

được nhà nước xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt vào năm 2015. Trên tấm bia lục

lăng khắc bằng chữ Hán vào năm Hoằng Định thứ 7 tại sân chùa còn ghi: “Chùa

Vĩnh nghiêm là một danh lam được xây dựng giữa một khung cảnh thiên nhiên tươi

đẹp của vùng Kinh Bắc. Nơi đây trang nghiêm rực rỡ non cao ngàn dặm, trùng

trùng điệp điệp vây quanh thành hình cái nong, chùa ở chỗ con sông sóng nước dạt

dào mênh mông, quanh co uốn lượn chầu về như dải lụa bạc. Đây là một danh lam

đứng đầu trong thiên hạ”. Chùa tọa lạc nơi ngã ba Phượng Nhãn - ngôi đất tôn quí

trên vùng đất thiêng hội tụ đủ tứ linh của huyện Yên Dũng. Đây được xem là chốn

tổ, là trường đại học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam gắn với dòng Thiền Trúc Lâm

Yên Tử danh tiếng. Năm 2012, bộ Mộc bản còn lưu giữ trong chùa gồm 3.050 bản

được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công

nhận là Di sản tư liệu ký ức Thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chùa

Vĩnh Nghiêm gắn liền với Truyền thuyết Vĩnh Nghiêm tự, và tín ngưỡng thờ Phật

theo dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang đậm màu sắc tâm linh. Lễ hội chùa

Vĩnh Nghiêm là lễ hội truyền thống đặc sắc của vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử

nhằm tưởng nhớ đến ba vị Tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông,

Pháp Loa và Huyền Quang đồng thời tôn vinh vẻ đẹp của di sản văn hóa kiến trúc

độc đáo tại ngôi chùa được coi là đại danh lam cổ tự của nước ta. Người dân Tây

Yên Tử nhiều thế hệ truyền tụng những câu ca:

“Vĩnh Nghiêm chùa ở Đức La

Chùa thờ Tam tổ phái là Trúc Lâm

Bên kia Yên Tử, Quỳnh Lâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Đây đền Kiếp Bạc, kia chùa Côn Sơn’’

90

Để rồi nhắn nhủ:

“Người ơi hãy nhớ câu ca

Tháng hai mười bốn nhớ ra mà về

.........Vĩnh nghiêm chốn tổ chùa quê

Danh lam thắng cảnh không hề thua đâu

.........Trúc Lâm Tam tổ giỗ đầu

Linh thiêng nhất xứ đứng đầu bốn phương”

Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (còn gọi là chùa La) xưa được tổ chức vào ngày

01-11 âm lịch hằng năm. Nhân dân trong vùng vẫn quen gọi đó là tiết lệ của chùa

La - ngày hóa của Giác hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông. Những năm gần đây, lễ

hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức trong ba ngày từ ngày 12 đến ngày14 tháng 02

âm lịch hàng năm cho hợp với thời tiết mùa xuân, hợp mùa lễ hội và cũng là ngày

giỗ Tổ của các vị trụ trì thuộc hàng tổ thứ hai như tổ Trần Như, tổ Thích Thanh

Hanh… Năm 2019 lễ hội được tổ chức trang trọng nhằm khơi dạy truyền thống và

phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của nhân dân trong huyện gắn với chuỗi các hoạt

động trong Tuần Văn hóa - Du lịch với chủ đề “Khám phá vùng đất thiêng Tây Yên

Tử” của tỉnh Bắc Giang.

Hội chùa La xưa mở ra được ba làng La tham gia với sự chuẩn bị tổ chức

chặt chẽ. Ba làng La gồm La Thượng, La Trung và La Hạ. Cả ba làng đều thờ ba vị

tổ Trúc Lâm Yên Tử. Lễ vật gồm: La Thượng chuẩn bị gạo nếp, thổi xôi đóng oản,

hoa quả hương đăng, trang trí cho kiệu của làng. Cỗ La Thượng sắp 5 tầng, trên

cùng là phẩm oản lớn cao, tầng 4 là 4 phẩm oản, tầng 3 là 6 phẩm oản, tầng 2 là 8

phẩm oản, tầng 1 là 10 phẩm oản cấu trúc hình tháp; La Trung: Truyền thống làm

bánh dầy, làng có 1 khu ruộng cấy tăng gia. Hàng năm giao cho Hội người cao tuổi

cấy lúa nếp, thổi xôi làm bánh dầy. Giống gạo nếp này gọi là nếp trục vừa trắng vừa

thơm, khi làm thành bánh có độ dẻo, màu trắng mịn màng hương thơm tinh khiết.

Năm nào làng cũng kết 1 chiếc bánh dày to bằng cái nia con, nặng 30-40kg, trang trí

để vào bóng kính xinh đẹp, ngon lành, sắp lên kiệu rước; La Hạ: Chuẩn bị gạo nếp,

đường đen xay giã chè lam, đóng bánh trang trí lên kiệu làng mình. Trong ngày hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mở, mỗi làng tổ chức rước một kiệu lên chùa. Người điều hành toàn bộ cuộc rước

91

của ba làng là Chánh tổng cầm trịch. Thành phần tham gia vác cờ, khiêng kiệu trong

cuộc rước được tuyển chọn là các chàng trai thanh, gái lịch. Họ là những thanh niên

nam, nữ chưa vợ, chưa chồng, khỏe mạnh, ngoan ngoãn, tử tế, đức độ có uy tín với

làng xóm. Những người này đều mặc áo nâu đỏ, đầu đội nón chóp, chân quấn xà

cạp, thắt lưng màu vàng bó múi cạnh sườn, đầu chít khăn vàng bỏ múi. Việc tế tổ do

các sư đảm nhiệm. Dưới sự điều hành của sư trụ trì, các cụ dân thôn tụng kinh niệm

phật. Trước ngày mở hội, các cụ quan viên các làng họp bàn phân công cụ thể công

việc diễn ra trong ba ngày.

Trong những năm gần đây, UBND huyện Yên Dũng luôn quan tâm, phối

hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Phật giáo tỉnh Bắc Giang phối hợp tổ

chức Lễ hội Chùa Vĩnh Nghiêm mỗi năm một lần với quy mô cấp huyện khá hoành

tráng nhưng vẫn gìn giữ được những tiết lễ truyền thống. Công tác chuẩn bị cho lễ

hội được tiến hành theo kế hoạch cụ thể. Ban chỉ đạo tổ chức lễ hội được thành lập

bao gồm: Đại diện chính quyền huyện là phó chủ tịch UBND huyện làm trưởng

ban, chính quyền xã, trụ trì chùa và Ban trị sự giáo hội Phật giáo Tỉnh Bắc Giang.

Trước thời gian lễ hội khoảng một tháng, ban chỉ đạo tổ chức lễ hội, họp bàn để lo

liệu công việc. Các phòng ban trong huyện được phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ

ràng, phối hợp chặt chẽ để phục vụ tiến hành mọi hoạt động của lễ hội.Trong từng

làng cụ thể lại có những tiểu ban được làng bầu ra thường do trưởng thôn làm

trưởng ban để lo công việc của làng mà nhà chùa phân công. Thành viên trong ban

là các đoàn thể như: Hội Mặt trận, hội Thanh niên, hội Phụ nữ, hội Nông dân, hội

người cao tuổi…

Đồ lễ trong lễ hội cũng được các làng chuẩn bị chu đáo. Làng La Thượng

chuẩn bị lễ đặt kiệu gồm: Chuối, oản được bày thành năm tầng. Làng La Trung

chuẩn bị cỗ đặt trên kiệu của 35 cặp bánh dày to. Làng La Hạ chuẩn bị cỗ rước trên

kiệu là 21kg chè lam. Ngoài ra lễ chung còn được chuẩn bị với những mâm cỗ chay,

bánh kẹo hương hoa đầy đủ.

Lễ hội thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân địa phương và khách thập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phương với hai phần: Phần lễ và phần hội.

92

* Phần lễ

Mở đầu cho phần lễ là màn trống hội chào mừng rộn ràng như thúc giục du

khách gần, xa rảo bước về trảy hội. Tiếp sau là nghi thức rước lễ, dâng hương của

ba làng La. Các đám rước của ba làng được khởi hành từ trung tâm làng tiến về

chùa. Nghi thức rước lễ được mô tả cụ thể trong tài liệu được lưu hành tại các cơ

quan văn hóa tỉnh Bắc Giang như sau:

“Đoàn rước của La Thượng, đi đầu là đội múa kỳ lân, sau là cờ tổ quốc do

một người trung tuổi mặc quần hồng áo vàng, khăn vàng thắt dây đỏ cầm. Tiếp đó,

đội nhạc mặc áo màu nâu đỏ viền vàng, quần trắng, chân quấn xà cạp đỏ, 2 người

khiêng trống lớn, 2 trống con, nhị và chập cheng. Sau đội nhạc, 12 người mặc áo

dài vàng, quần hồng, khăn đỏ bỏ múi bên tai cầm cờ hội, tiếp sau là đội chấp kích

gồm 8 người trong đó 2 người mang gươm, 6 người mang bát bửu, đều mặc áo nâu

đỏ, quần trắng, chân quấn xà cạp đỏ, đầu đội nón chóp sơn đỏ. Đội rước kiệu đi

sau, gồm 8 người khiêng, 2 người cầm tàn, lọng đi hai bên. Họ đều mặc áo màu

hồng, quần trắng, thắt khăn vàng dây đỏ.Trên kiệu để cỗ của làng. Các cụ lão ông,

lão bà vừa đi vừa tụng kinh niệm phật, sau cùng là những người đi quy và nhân dân

thôn La Thượng.

Đoàn rước của La Trung tiến vào lễ hội với biểu tượng rùa vàng đi đầu, đi

sau là cờ tổ quốc. Người vác cờ mặc quần xanh, áo đỏ thắt khăn dây đỏ bỏ múi bên

tai. Tiếp sau là 2 người khiêng trống lớn, 2 người mang trống con, 2 người khiêng

chiêng đều mặc áo đỏ quần trắng chân quấn xà cạp đỏ, đội nón chóp sơn đỏ của

đoàn nhạc. Sau đội nhạc là 12 người vác cờ hội, mặc áo xanh, quần đỏ thắt lưng bỏ

múi cạnh sườn, đầu thắt khăn đỏ bỏ múi. Tiếp đến là 10 người mang bát bửu, tiếp

đến là kiệu. Kiệu của thôn La Trung gồm 16 người khiêng cùng 2 người mang tàn,

lọng đều mặc quần xanh, áo đỏ, khăn đỏ, chân quấn xà cạp đỏ, thắt lưng màu

vàng.. Sau kiệu là đội tế của làng mặc áo thụng vàng, đỏ, quần trắng, đầu đội khăn

vàng. Sau cùng là các cụ lão ông, lão bà và dân làng.

Đoàn rước của La Hạ, với lá cờ tổ quốc đi đầu, tiếp là 12 lá cờ hội, cả đoàn

cùng mặc áo nâu đỏ quần trắng, chân quấn xà cạp đỏ tiến vào lễ hội. Đội chấp kích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

gồm 9 thanh niên mặc áo nâu đỏ, quần vàng, đội nón chóp sơn đỏ, chân mang xà

93

cạp. Sau đội chấp kích là một người vác lá cờ hội rất lớn và đội nhạc gồm 5 người.

Tiếp đến là kiệu do 14 thanh nữ khiêng và 2 người mang tàn, lọng che cho kiệu. Đi

sau kiệu là các cụ lão ông, lão bà và dân làng.

Khi ba đám rước về đến trước cửa chùa thì dừng lại để ổn định trật tự

của đội hình.

Theo lệ cổ, phần lễ ở chùa Vĩnh Nghiêm có ba lễ: Lễ Phật ở Tam Bảo do

đoàn La Thượng đảm nhiệm; lễ Tam Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do đoàn La

Trung đảm nhiệm; lễ các tổ sau ba tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do đoàn La

Hạ đảm nhiệm.

Đoàn rước của La Thượng được phép vào trong khu vực tiền đường, cờ, lọng

và chấp kích tản ra hai bên. Kiệu tiến thẳng vào trong khu vực tam bảo, lúc này kiệu

được chuyển quay ngược ra ngoài sân, từ từ hạ xuống. Tất cả những người có chân

trong đám rước đều đứng thành hai hàng dọc sát hai bên sườn của kiệu, tay chắp

trước ngực, miệng đọc kinh niệm Phật. Cỗ đặt trên kiệu được hạ xuống, đặt trên ban

thờ tam bảo. Dưới sự điều hành của sư trụ trì, các cụ trong làng La Thượng tổ chức

lễ Phật và dâng lễ.

Đoàn rước của La Thượng dâng lễ xong thì đoàn rước của La Trung mới

được phép tiếp tục hành rước. Đoàn rước của La Trung được rước vào nhà tổ đệ

nhất. Đến trước cửa nhà tổ, chiêng trống nổi liên hồi. Kiệu từ từ tiến lên phía trước

cửa nhà tổ, hạ xuống ngay trước sân. Cỗ cúng tổ của dân thôn La Trung gồm 34 kg

bánh dày, tế tổ xong để lại nhà chùa một nửa, còn lại đem về chia đều cho các cụ

trong thôn gọi là lộc chùa. Ban tế của La Trung gồm 14 người, gồm các cụ khoảng

từ 60 tuổi trở lại, có đức độ được nhân dân quý mến và kính trọng.

Thôn La Trung cúng tổ xong thì tới lượt La Hạ. Cỗ cúng tổ của La Hạ được

rước vào nhà tổ đệ nhị, gồm chè lam do toàn dân trong thôn đóng góp. Cúng tổ

xong, cỗ này để lại cho nhà chùa một phần, còn lại mọi người trong thôn cùng

hưởng lộc.

Sau khi cả ba làng dâng lễ cúng bái, buổi tối ngày 13 - 02 nhà chùa lập đàn

giảng quy tại chùa Hộ. Nhà chùa thỉnh chuông hoằng dương Phật pháp vào hai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

buổi sáng và tối của các ngày giỗ Tổ” [38].

94

Phần rước và tế lễ diễn ra đến khoảng 10 giờ sáng, tiếp đó khách thập

phương được vào thắp hương cầu nguyện trong chùa. Các đoàn đại biểu thăm quan

nhà lưu giữ và trưng bày mộc bản, những hình ảnh tư liệu về chùa Vĩnh Nghiêm.

Năm 2018, 2019 lễ hội được tổ chức rất hoành tráng, Ban tổ chức lễ hội đầu

tư đón đoàn nghệ thuật nhà hát Tuồng Việt Nam về biểu diễn chương trình nghệ

thuật đặc sắc với chủ đề “Linh thiêng chốn tổ Vĩnh Nghiêm” trong buổi sáng khai

hội. Điểm nhấn của chương trình biểu diễn nghệ thuật nàylà màn tái hiện về cuộc

đời và sự nghiệp tu hành của "Trúc Lâm Tam Tổ" (Phật hoàng Trần Nhân Tông;

Pháp Loa Đồng Kiên Cương và Huyền Quang). Truyền thuyết Vĩnh Nghiêm tự cũng

được lồng ghép trong màn biểu diễn này khắc sâu trong tâm thức nhân dân về một

miền đất thiêng với con đường hoằng dương phật pháp và công đức sáng lập dòng

Thiền Trúc Lâm Yên Tử mang đậm bản sắc dân tộc Việt của ba vị Tam Tổ. Đặt

trong không gian lễ hội truyền thuyết tiếp tục hành trình thâm nhập vào đời sống

tâm linh của người dân Tây Yên Tử với niềm thành kính, biết ơn và tự hào của nhân

dân địa phương.

* Phần hội

Phần hội của chùa Vĩnh Nghiêm diễn ra trong không khí tưng bừng nhộn

nhịp và diễn ra trong suốt thời gian lễ hội với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa

cộng đồng rất đặc sắc.Vào những ngày hội, các thôn ở Đức La tổ chức thi hát với

nhau, thanh niên các thôn thường hát những bài hát truyền thống ca ngợi quê

hương, đất nước, những người trung tuổi lại thích hát những làn điệu dân ca quan

họ.Ngoài ra, cuộc thi hát quan họ còn được tổ chức rộng rãi tại hồ bán nguyệt thu

hút sự tham gia của khách thập phương. Những làn điệu dân ca quan họ thắm tình

quê hương với những ca từ giản dị, mộc mạc lại ngọt ngào sâu lắng đem đến cho lễ

hội nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.

Một hình thức văn hóa, văn nghệ không thể không kể đến trong lễ hội chùa

Vĩnh Nghiêm là Kể hạnh - hình thức đọc và kể lại nội dung viết trong tập Thiền

tông bản hạnh, nội dung nói về thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đây là “một hình

thức bảo tồn tư tưởng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử trong dân gian, diễn ra vào

buổi tối, do nhà sư và các cụ kể” [38] thể hiện mong muốn về sức khỏe và cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

sống bình an của nhân dân.

95

Lễ hội còn tưng bừng, nhộn nhịp với các trò chơi mang đậm sắc thái dân gian

rất độc đáo như: Đấu vật, chọi gà, kéo co, bịt mắt, đập niêu, chơi cờ, đi cầu

kiều...Trò chơi thường gắn với việc thi tài để tìm ra người thắng cuộc, động viên,

khuyến khích người chơi hăng hái, nhiệt tình hơn. Các hoạt động thể dục - thể thao

cũng được triển khai tại lễ hội như: Giải bóng chuyền hơi nữ, bóng chuyền da

nam... tăng thêm phần sôi động, náo nhiệt cho không khí ngày hội.

Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm là lễ hội lịch sử, văn hóa mang đậm màu sắc tôn

giáo đã và đang được bảo tồn, phát huy. Lễ hội là niềm tự hào của người dân Tây

Yên Tử về vùng đất thiêng của quê hương mình. Lễ hội cũng thể hiện ảnh hưởng to

lớn của Phật giáo trong đời sống xã hội đồng thời đề cao công lao của 3 vị sư tổ đã

có công khai sáng ra Thiền phái Trúc Lâm. Thông qua lễ hội, người dân Tây Yên

Tử bày tỏsự tri ân sâu sắc với vị tổ đệ nhất (Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân

Tông) - người có công lớn trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm Nguyên - Mông,

giữ yên bờ cõi Đại Việt. Lễ hội còn là sự cụ thể hóa cho mối quan hệ chặt chẽ giữa

Truyền thuyết về Vĩnh Nghiêm Tự với không khí diễn xướng của nó gắn với sức

sống bất diệt của kho tàng truyện kể dân gian trong tâm thức nhân dân. Đặc biệt lễ

hội là nơi lưu giữ và bảo tồn di sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm được coi là sức

những tuor du lịch tâm linh khám phá vùng đất thiêng Tây Yên Tử của du

khách gần xa. Năm 2003 lễ hội được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận

mạnh nội sinh của dân tộc trong thời đại mới. Đây cũng là điểm đến hấp dẫn của

là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

3.3. Vai trò, ý nghĩa, giá trị của truyện kể và lễ hội vùng Tây Yên Tử

Lễ hội dân gian có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống của người dân

Tây Yên Tử. Nó vừa là môi trường bảo lưu và tái hiện truyện kể dân gian ở dạng

sống thể hiện đặc trưng nguyên hợp của văn học dân gian lại vừa hướng tới cội

nguồn văn hóa thiêng liêng của mảnh đất gắn liền với con đường hoằng dương Phật

pháp của Phật Hoàng Tần Nhân Tông. Các lễ hội khiến cho truyện kể dân gian vượt

qua danh giới của những con chữ ép khô trên trang giấy, vượt qua mọi qui luật

nghiệt ngã của thời gian để ăn đời ở kiếp với cuộc sống của con người. Nhờ lễ hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

mà các truyện kể dân gian đã khảo sát được bảo lưu, gìn giữ và khắc sâu trong tâm

96

trí nhân dân nhiều thế hệ. Nói như nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật: “Lễ hội là một

bộ bách khoa đồ sộ, là một bảo tàng sống về đời sống văn hóa tinh thần người Việt.

Nó đã và sẽ tác động mạnh mẽ và sâu sắc vào tâm linh, vào việc khuôn đúc tâm hồn

và tính cách Việt Nam xưa nay và mai sau” [49,tr.54].

Giá trị của hệ thống truyện kể dân gian phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo cùng

với môi trường diễn xướng lễ hội được thể hiện ở nhiều mặt trong đời sống tinh

thần của con người sườn Tây Yên Tử như: Đời sống tâm linh, văn hóa truyền

thống, phát triển du lịch.

Về đời sống tâm linh: Lễ hội truyền thống là đỉnh cao của văn hóa tâm linh.

Đó chính là thái độ ứng xử có văn hóa của con người đối với các lực lượng siêu

nhiên, thần linh và những người đã khuất. 20 truyện kể và 52 lễ hội liên quan ở

vùng Tây Yên Tử góp phần không nhỏ nuôi dưỡng đời sống tâm linh của con người

nơi đây.

Những lễ hội và truyện kể về nhiên thần, nhân thần thể hiện niềm tin bất diệt

của nhân dân vào sự bất tử những nhân vật văn hóa, nhân vật lịch sử có công với đất

nước.Vì thế, mỗi người dân khi thắp một nén nhang dâng lên Thánh Mẫu, Thành

hoàng hay thần núi, thần nước hoặc những nhân vật văn hóa, nhân vật lịch sử, họ

không chỉ thể hiện sự kính trọng ngưỡng mộ mà còn gửi gắm niềm tin với mong

muốn bình an, hóa giải mọi tai ương, bệnh tật cho cả gia đình. Cư dân Tây Yên Tử

chủ yếu lấy sản xuất nông nghiệp làm nghề chính nên đến với lễ hội tại các đình

chùa, các di tích lịch sử thờ nhiên thần, nhân thần họ còn cầu mong mưa thuận gió

hòa, mùa màng tươi tốt và cuộc sống no đủ cho cả dân làng.

Các lễ hội và truyện kể dân gian mang màu sắc Phật giáo thời Trần có giá trị

đặc biệt trong đời sống tâm linh của con người vùng Tây Yên Tử. Dõi theo con

đường hoằng dương Phật pháp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và các vị Tổ như

Pháp Loa, Huyền Quang... với tinh thần nhập thế tích cực của các tướng lĩnh nhà

Trần, người dân trong vùng thấm nhuần tư tưởng, giáo lí của thiền phái Trúc Lâm

Yên Tử. Chính vì thế, không chỉ gìn giữ, lưu truyền các truyện kể phản ánh tinh

thần Phật giáo mà người dân nơi đây còn đến với các lễ hội thấm đượm màu sắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Phật giáo thời Trần để thỏa mãn ước nguyện hòa mình vào chốn tâm linh, để“rèn

97

lòng làm bụt”. Họ tin rằng Phật ở tại tâm, tâm sáng ắt sẽ có một cuộc sống tốt đẹp.

Mỗi con người có thể chảy đi trong cuộc đời như sông kia mỗi ngày cập bến bờ

khác lạ nhưng luôn giữ cho mình tâm sáng để nhập thế tích cực, để sống có trách

nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội và làm nhiều điều thiện giúp ích cho đời. Có

thể nói không khí linh thiêng của lễ hội được tái hiện qua hình thức diễn xướng

truyện kể có giá trị cân bằng đời sống tâm linh, giúp con người tránh bớt sự tham -

sân - si và được thăng hoa tâm hồn vươn tới những giá trị chân - thiện -mỹ.

Về văn hóa truyền thống: 20 truyện kể thổi hồn vào 52 lễ hội kể trên có ý

nghĩa phản chiếu những nét văn hóa đặc sắc đồng thời bảo tồn, làm giàu và phát

huy các giá trị văn hóa truyền thống vùng Tây Yên Tử nói riêng và văn hóa truyền

thống của dân tộc Việt nói chung. Đó là niềm tự hào của nhân dân trên quê hương

Tây Yên Tử.

Các lễ hội được tổ chức gắn với sinh hoạt văn hóa lâu đời của người dân

trong vùng, với những phong tục tín ngưỡng tốt đẹp đã, đang và sẽ tồn tại trong đời

sống văn hóa của nhân dân địa phương. Đó là sự phản ánh đậm nét của những tín

ngưỡng, tôn giáo đã ăn sâu vào nếp cảm nếp nghĩ của người dân sườn Tây Yên Tử

như: Tín ngưỡng vùng đất thiêng, tín ngưỡng thờ vật tổ, tín ngưỡng thờ thần nông,

thờ thần núi, thần sông, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Phật

theo dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần. Cùng với tín ngưỡng, tôn giáo là

những nghi lễ, phong tục, tập quán lâu đời vào những ngày giỗ chạp của các vị

Thánh hay những ngày lễ hội trong dịp xuân, thu nhị kì như: Nghi lễ tái hiện màn

tập trận của tướng quân Nghĩa Xuyên tại hội Đền Cổ Phao xã Đông Việt; lễ khao

quân, lễ đảo cờ nhằm tái hiện tích Vũ Thành đánh giặc tại hội Đền Hả, tục rước lễ

ở hội suối Mỡ, tục làm bánh dày ở thôn La Trung tại hội chùa Vĩnh Nghiêm...Tất cả

thể hiện sự tôn vinh niềm ngưỡng mộ, thành kính thiêng liêng của người dân đối với

những đức Thánh mà họ tôn thờ. Bên cạnh đó là những sinh hoạt văn hóa văn nghệ

mang đậm màu sắc tín ngưỡng rất đặc sắc không thể trộn lẫn với bất cứ vùng nào

trong các lễ hội của người dân Tây Yên Tử như: Hoạt cảnh “Huyền Thoại Suối

Mỡ”, hát Văn ở lễ hội Suối Mỡ, kể hạnh, hát quan họ, chương trình nghệ thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đặc sắc với chủ đề “Linh thiêng chốn tổ Vĩnh Nghiêm” ở hội chùa Vĩnh Nghiêm,

98

hát Soong hao ở lễ hội Tây Yên Tử, hoạt cảnh tái hiện trận thủy chiến trên sông

của tướng quân Trần Tuấn Sơn tại hội Đền Đà Hy, màn múa bông, đánh bệt tái hiện

quá trình tiêu diệt rắn của Thái sư Trần Thủ Độ ở hội Hương Tảo... Ngoài ra các lễ

hội còn bảo tồn và lưu giữ nhiều trò chơi dân gian như: Kéo co, cờ người, chọi gà,

đẩy gậy, cướp cầu, đập niêu...đồng thời sáng tạo nhiều trò chơi mang tính chất thể

thao hiện đại như: Bóng đá nam, bóng chuyền hơi nam, nữ... Những phong tục tập

quán, nghi lễ và sinh hoạt văn hóa văn nghệ, thể thao độc đáo này hầu hết do nhân

dân tổ chức thực hiện, biểu diễn nên thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu

sắc. Điều đáng chú ý là trong quá trình tổ chức lễ hội và diễn xướng truyện kể, thực

hiện nghi lễ nhân dân là chủ thể sáng tạo, hưởng thụ văn hóa đồng thời bảo tồn và

làm giàu có hơn vốn văn hóa trong vùng. Lễ hội của cư dân Tây Yên Tử chủ yếu diễn

ra vào mùa xuân hàng năm. Có những lễ hội không biết bắt đầu từ khi nào và nó vẫn

sẽ tiếp tục được bảo lưu, gìn giữ, phát huy cho đến mai sau. Những phong tục, tín

ngưỡng tôn giáo và những hình thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ trong các lễ hội sẽ

tiếp tục được bảo lưu và trao truyền cho nhân dân trong vùng qua các thế hệ. Mỗi khi

lễ hội đến là một “bảo tàng sống” về văn hóa dân tộc được hồi sinh là vì thế.

Các lễ hội và truyện kể mang đậm màu sắc tín ngưỡng tôn giáo vùng Tây

Yên Tử còn có giá trị rất lớn trong việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa

truyền thống của nhân dân trong vùng. Đó là truyền thống hướng về nguồn cội vẫn

tiềm ẩn trong đáy sâu tâm linh Việt tự bao đời. Hệ thống truyện kể và lễ hội dân

gian đã được tập hợp ở trên đề cao nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh

ra trong những tín ngưỡng thờ vật tổ, thờ thần linh. Nó còn nêu cao truyền thống

đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của nhân dân trong vùng.

Về với các lễ hội và truyện kể phản ánh tín ngưỡng thờ nhân thần và lễ hội mang

màu sắc Phật giáo thời Trần con người không chỉ thỏa mãn nhu cầu tâm linh mà còn

gửi gắm niềm tri ân sâu sắc đối với những hoàng tử, công chúa, tướng lĩnh, các

nhân vật văn hóa, tôn giáo ở các triều đại cha ông trong quá khứ đã không ngại gian

khó, hiểm nguy mở đất, mở nước, lập làng, lập ấp, đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi

đem lại cuộc sống bình an cho nhân dân. Những lễ hội và truyện kể mang màu sắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giáo lí của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử còn biểu hiện sâu sắc lòng thành kính biết

99

ơn của nhân dân địa phương đối với Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã dạy nhân dân

sống cư trần lạc đạo, hướng thiện, giữ gìn tâm sáng để đức cho muôn đời. Đặc biệt

những truyện kể và lễ hội này góp phần gìn giữ và bảo tồn di sản văn hóa Phật giáo

Trúc Lâm - một trong những nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng của dân tộc ta. Về

với các lễ hội Tây Yên Tử thực sự là hành trình hành hương du lịch của các du

khách khắp mọi nơi trên cả nước.

Cùng với truyền thống hướng về nguồn cội các lễ hội và truyện kể dân gian

được tìm hiểu còn thể hiện truyền thống đoàn kết và sự cố kết cộng đồng, sự biểu

dương sức mạnh cộng đồng của người dân trong vùng cũng như nhân dân trong cả

nước. Mỗi lễ hội đều thuộc về một cộng đồng người nhất định. Lớn là cộng đồng dân

tộc, nhỏ là làng xã, gia đình, dòng họ. Ở Tây Yên Tử các lễ hội hầu như thuộc về

những làng xã nhất định. Một vài năm lại đây một số lễ hội có qui mô cấp huyện như:

Lễ hội Suối Mỡ, lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm, lễ hội Tây Yên Tử. Tất cả các lễ hội được

tổ chức đều là dịp để nhân dân các làng tụ họp lại bàn bạc, tổ chức nhằm duy trì

những nét văn hóa phong tục truyền thống. Ví như lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm từ xưa là

sự tập hợp tổ chức của ba làng: La Trung, La Thượng, La Hạ; hội Suối mỡ là sự tập

hợp cùng tổ chức của nhân dân hai làng Quỳnh, Dủm; hội đền Hả tập trung nhân dân

các làng trong xã Hồng Giang...Thông qua quá trình chuẩn bị và tổ chức lễ hội, thông

qua các trò chơi dân gian như: Kéo co, đấu vật, trọi gà... hay các trò chơi hiện đại

như: Giải bóng chuyền hơi, giải bóng đá...nhân dân trong các làng xã có dịp giao lưu,

học hỏi từ đó tạo nên chất kết dính cố kết, biểu dương sức mạnh cộng đồng. Đây là

một nét đẹp truyền thống vốn có được duy trì, phát huy qua các lễ hội từ năm này

sang năm khác.

Về phát triển du lịch: Nét đặc sắc về giá trị, ý nghĩa của truyện kể và lễ hội

phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử là những đóng

góp của nó trong việc phát triển du lịch tâm linh hướng về nguồn cội theo chủ

trương của Uỷ Ban nhân dân Tỉnh Bắc Giang. Phía sườn Tây Yên Tử còn tồn tại

nhiều di tích liên quan chặt chẽ đến quá trình hình thành và hưng thịnh của Phật

giáo Trúc Lâm Yên Tử như: Chùa Vĩnh Nghiêm,Chùa Am Vãi, Hồ Bấc, Hòn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Tháp...Những di tích này là minh chứng cho một không gian văn hóa Phật giáo Trúc

100

Lâm rất đặc sắc về tâm linh đã đang và sẽ ngự trị trong vùng. Đây sẽ là điểm đến

của các tour du lịch tâm linh trong những năm tới. Những truyện kể và lễ hội đã

khảo sát, góp phần tô đậm tính chất linh thiêng cho không gian văn hóa tâm linh nói

trên. Nó cũng góp phần giải mã những mong muốn hiểu biết của du khách về chốn

tổ Vĩnh Nghiêm, về con đường hoằng dương Phật pháp của Phật Hoàng Trần Nhân

Tông hay những địa danh mang đậm màu sắc tín ngưỡng, tôn giáo trên hành trình

hành hương tìm về chốn Tổ của Thiền phái Trúc Lâm... Có thể nói hệ thống truyện

kể và lễ hội dân gian phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo đã khảo sát có ý nghĩa góp phần

quảng bá du lịch tâm linh vùng Tây Yên Tử đến với mọi du khách gần, xa. Từ đó

phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.

Tiểu kết chương 3

Truyện kể và lễ hội dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử có mối quan

hệ qua lại mật thiết với nhau. Nhờ có truyện kể mà lễ hội được hình thành ngược lại

nhờ có lễ hội mà truyện kể được tồn tại ở dạng sống và được nhắc nhớ trong tâm

thức nhân dân. 20 truyện kể dân gian được lưu truyền trong 52 lễ hội được khảo sát

đã khẳng định sức sáng tạo mãnh liệt của người dân Tây Yên Tử trong quá trình bảo

tồn, lưu giữ kho tàng truyện kể mang đậm màu sắc tín ngưỡng, tôn giáo trong vùng.

Mối quan hệ qua lại, chặt chẽ giữa truyện kể dân gian và lễ hội dân gian ở

vùng Tây Yên Tử được thể hiện rất cụ thể qua nhiều lễ hội trong vùng đặc biệt là

hai lễ hội tiểu biểu: Lễ hội Suối Mỡ và lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm. Hai lễ hội được

nhân dân trong vùng chuẩn bị tổ chức rất chu đáo. Phần lễ và phần hội diễn ra vừa

trang trọng vừa thiêng liêng gắn với những nghi lễ độc đáo và nhiều hình thức tổ

chức hội, lễ đa dạng. Qua hai lễ hội này Truyện kể về Quế Mị Nương ở Nghĩa

Phương và Truyền thuyết Vĩnh Nghiêm Tự đã khẳng định sức sống mãnh liệt của

nó. Các nhân vật tín ngưỡng, tôn giáo như Thánh Mẫu Thượng Ngàn Quế Mị

Nương và Phật Hoàng Trần Nhân Tông... qua các lễ hội cũng trở nên bất tử trong

tâm thức nhân dân.

Các lễ hội dân gian trong vùng được thổi hồn bởi truyện kể dân gian đã khảo

sát có ý nghĩa và giá trị nhiều mặt trong đời sống tinh thần của nhân dân sườn Tây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Yên Tử nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Nó vừa thể hiện đời sống tâm

101

linh rất phong phú của cư dân địa phương vừa góp phần bảo tồn di sản văn hóa

truyền thống, văn hóa phi vật thể lại vừa góp phần quảng bá du lịch tâm linh vùng

Tây Yên Tử. Từ đó, nâng cao đời sống của nhân dân trên mảnh đất phía Tây núi

Yên Tử xanh ngút ngàn trời, mây.

Bất chấp mọi thăng trầm biến thiên của thời gian, các truyện kể dân gian và

lễ hội dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử vẫn tồn tại như một mạch nước

ngầm trong mát, đưa ru tâm hồn con người vào không gian văn hóa tâm linh huyền

thoại với niềm kiêu hãnh và tự hào về mảnh đất nơi mình sinh ra. Đó là di sản văn

hóa phi vật thể quý báu mà cha ông trong quá khứ truyền lại cho lớp con cháu mai

hậu. Ngoài những giá trị văn hóa truyền thống thông thường nó góp phần đưa tâm

thế Phật giáo Trúc Lâm ngày càng thêm tỏa sáng trong vùng cũng như trên cả nước.

Và như thế nó có đóng góp lớn trong việc bảo tồn di sản hóa Phật giáo Trúc Lâm,

đưa đất nước phát triển bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy

một số truyện kể và lễ hội dân gian trong vùng đang có nguy cơ mai một do xu

hướng phát triển chung của thời đại công nghệ 4.0 và những xô bồ của cuộc sống

đương đại với những biến tướng của tín ngưỡng, tôn giáo. Vì thế chúng ta cần

không ngừng bảo tồn, gìn giữ vốn di sản văn hóa phi vật thể lâu đời của cha ông

đồng thời đấu tranh gạt bỏ những yếu tố lai căng, lỗi thời đặc biệt là yếu tố mê tín dị

đoan và một số tôn giáo phản nhân văn đang len lỏi vào cả lễ hội và đời sống con

người để hệ thống truyện kể và lễ hội nói trên trở thành một trong những nơi lưu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giữ di sản tinh thần quý báu nhất của quê hương Tây Yên Tử.

102

KẾT LUẬN

1. Tây Yên Tử là một vùng văn hóa tâm linh đặc sắc đồng thời là vùng đất

thiêng hội tụ linh khí ngàn năm. Đây là mảnh đất sản sinh và lưu truyền những

huyền thoại, huyền tích gắn với hệ thống chùa tháp, di tích cùng sự kì vĩ của núi

rừng liên quan đến sự hình thành Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử thời Trần. Nếu như

Đông Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh là nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tông tu tập,

niết bàn và lập ra Thiền phái Trúc Lâm mang đậm bản sắc dân tộc Việt thì sườn Tây

Yên Tử hoang sơ, bạt ngàn rừng núi hiểm trở là nơi Đức Phật Hoàng hoằng dương

phật pháp. Con đường hoằng dương của vị vua Trần được cả dân tộc ngưỡng mộ

còn tồn tại trên mảnh đất Tây Yên Tử lộng gió gắn với những giá trị văn hóa vô

hình và hữu hình rất đỗi thiêng liêng. Vùng đất này cũng là cái nôi sinh thành của

kho tàng văn học dân gian vô cùng phong phú và đặc sắc. Trong kho tàng văn học

dân gian ấy đáng lưu ý là mảng truyện kể dân gian. Mảng truyện kể này đa dạng về

thể loại, chủ đề và mang trong mình lớp trầm tích văn hóa rất độc đáo của vùng.

Thực hiện nghiên cứu đề tài “Truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây

Yên Tử” chúng tôi dựa vào vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo tồn tại trong đời sống văn

hóa, tâm linh của cộng đồng các dân tộc sinh sống trên địa bàn sườn Tây Yên Tử để

xem xét hệ thống truyện kể dân gian trong tính địa phương hóa của nó.

2. Trên cơ sở kế thừa những công trình văn hóa của địa phương, cùng với

việc sưu tầm, tập hợp, bổ sung những tư liệu mới, luận văn đã khảo sát, hệ thống và

phân loại truyện kể dân gian trong vùng thành ba nhóm chính. Ba nhóm truyện kể

này mang đậm nét đặc trưng văn hóa tâm linh của vùng Tây Yên Tử.

Luận văn cùng với việc nhận diện truyện kể dân gian Tây Yên Tử qua nội

dung phản ánh tín ngưỡng, tôn giáo, phản ánh đời sống tâm linh của người dân,

cũng chỉ ra một số đặc điểm nghệ thuật của các nhóm truyện, thông qua các yếu tố

của thi pháp truyện kể, như: Cốt truyện; Nhân vật; Motif tiêu biểu. Truyện kể dân

gian Tây Yên Tử với những phương thức nghệ thuật riêng biệt đã thể hiện nếp cảm,

nếp nghĩ của cư dân nơi đây trong sự ảnh hưởng của dấu ấn không gian văn hóa

vùng, miền cùng quá trình lịch sử lâu dài của vùng đất.

Luận văn cũng đã chỉ ra các giá trị phản ánh phong phú của các nhóm truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

kể. Đó là giá trị phản ánh quan niệm vạn vật hữu linh, quan niệm về môi trường

103

sống của nhóm truyện kể dân gian về nhiên thần; đó là giá trị phản ánh quan niệm

“uống nước nhớ nguồn” và tôn vinh các nhân vật văn hóa, nhân lịch sử của nhóm

truyện kể dân gian về nhân thần. Đáng chú ý nhất là giá trị phản ánh con người Phật

pháp và tinh thần Phật pháp gắn với đức trọng, tâm lành và tinh thần nhập thế tích

cực thời Trần của nhóm truyện kể về Phật giáo.

3. Luận văn cũng đồng thời chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa truyện kể dân gian và lễ hội dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử. Giới thiệu truyện kể và

lễ hội Suối Mỡ, luận văn đã chỉ ra mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Mẫu,

phản ánh tín ngưỡng thờ Mẫu từ lâu đời đã được người dân Tây Yên Tử đề cao và

tôn vinh. Giới thiệu truyền thuyết về vị cao Tổ của Thiền phái Trúc Lâm (Trần

Nhân Tông) chọn đất dựng chùa và lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm, luận văn chỉ ra sự gắn

bó chặt chẽ giữa truyện kể dân gian và lễ hội tôn giáo lớn nhất vùng Tây Yên Tử.

Lễ hội Suối Mỡ và lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm đã góp phần đưa truyện kể dân gian

vào “bảo tàng sống” gắn với tín ngưỡng dân gian và di sản Phật giáo Trúc Lâm.

4. Luận văn với đề tài “Truyện kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên

Tử” nhằm mong muốn góp phần vào công cuộc bảo tồn di sản văn hóa cổ truyền

dân tộc đặc biệt là di sản Phật giáo Trúc Lâm, cũng như góp phần quảng bá du lịch

tâm linh của địa phương. Từ đó nêu cao tình yêu quê hương đất nước của nhân dân

vùng Tây Yên Tử.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, bên cạnh những thuận lợi chúng tôi còn

gặp nhiều khó khăn như chưa có điều kiện đi sâu khảo sát toàn bộ hệ thống truyện

kể dân gian vùng văn hóa tâm linh Tây Yên Tử, nên các vấn đề đặt ra cũng mang

tính bước đầu.Trong khuôn khổ của một luận văn Thạc sĩ, chúng tôi không tránh

khỏi những hạn chế nhất định. Rất mong có được sự đóng góp của các quí thầy cô,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bạn bè và đồng nghiệp!

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị An (1999), Truyện kể dân gian từ góc nhìn hiện đại, Tạp chí Văn học, số 3.

2. Trần Thị An (2000), Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân

gian Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.

3. Toan Ánh (2005), Nếp cũ hội hè đình đám, Quyển Thượng, Nxb Trẻ

4. Nguyễn Quang Ân, Ngô văn Trụ (2006), Địa chí Bắc Giang, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

5. Đặng Văn Bài (2018), Tản mạn về văn hóa tâm linh người Việt, Bizwweb Quỹ

hỗ trợ bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam.

6. Ban quản lí di tích lịch sử văn hóa Yên Dũng (2016), Di tích danh thắng huyện

Yên dũng tập 2, Bắc Giang xuất bản.

7. Ban quản lí di tích lịch sử, văn hóa Yên Dũng (2017), Di tích danh thắng huyện

Yên dũng tập II, Bắc Giang xuất bản.

8. Ban quản lí di tích lịch sử, văn hóa Yên Dũng (2018), Yên Dũng - miền đất địa

linh nhân kiệt, Bắc Giang xuất bản.

9. Ban Quản lí di tích Bắc Giang (2012), Di tích Bắc Giang, Nxb Thông tấn.

10. Ban chấp hành Đảng Bộ huyện Yên Dũng (1993), Lịch sử huyện Yên Dũng, Bắc

Giang xuất bản.

11. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2011), Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa

Lý - Trần tỉnh Bắc Giang, Nxb Thông tấn.

12. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2005), Di sản văn hóa Bắc Giang tập 1, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

13. Nguyễn Huy Bỉnh (2011), Truyện kể dân gian trong không gian văn hóa xứ Bắc,

Luận án tiến sĩ văn học, Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Bốn (2010), Văn hóa tín ngưỡng, web cdk.edu.vn

15. Nguyễn Đổng Chi (1967), Văn học dân gian là một kho tàng quý báu cho sử học,

Tạp chí Văn học, số 1/1967.

16. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian mấy vấn đề phương pháp luận và

nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

17. Chu Xuân Diên (1962), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

105

18. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb

Văn nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh.

19. Bùi Văn Dũng, Nguyễn Thị Cẩm Tú (2017), Các yếu tố ảnh hưởng đến tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng Đồng Bằng Bắc Bộ, Tạp chí Khoa học xã

hội Việt Nam, số 6.

20. Nguyễn Đăng Duy (2009), Văn hóa tâm linh, Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội.

21. Nguyễn Đăng Duy (1998), Việt Nam phong tục và các nghi lễ cổ truyền, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

22. Cao Huy Đỉnh (1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội. (Xuất bản lần thứ 2).

23. Nguyễn Bích Hà (2012), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội

24. Thuận Hải (2006), Bản sắc văn hóa lễ hội, Nxb Giao thông vận tải

25. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, Nxb Khoa học.

26. Võ Đông Hồ (2012), Các vùng văn hóa Việt Nam

27. Hoàng Thị Hoa (2015), Bảo tồn di sản văn hóa khu vực Tây yên Tử gắn với phát

triển du lịch, Luận án tiến sĩ văn hóa, Hà Nội.

28. Kiều Thu Hoạch (1971), Truyền thuyết anh hùng trong thời kì phong kiến, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

29. Kiều Thu Hoạch (1971), Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự

dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. Nguyễn Thị Huế (1980), Người dân Hà bắc kể truyện Lạc Long Quân - Âu Cơ,

Tạp chí Văn học, số 4.

31. Nguyễn Thị Huế (1981), Nhìn lại truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ và ngọn

nguồn dân tộc, Tạp chí Văn học, số 6.

32. Nguyễn Thị Huế (2008), Thần thoại các dân tộc Việt Nam thể loại và bản chất,

Tạp chí Văn học, số 2.

33. Đinh gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2001), Văn học dân gian Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Đinh Gia Khánh (2000), Lễ hội dân gian và sự phản ánh những truyền thống của

dân tộc, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

35. Đinh Gia Khánh (chủ biên 2004), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

106

36. Đinh Gia Khánh Cù Huy Cận (chủ biên 1995), Các vùng văn hóa Việt Nam (Tái

bản lần thứ 6), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

37. Vũ Ngọc Khánh (1994), Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin.

38. Trần văn Lạng, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Thị Nga (2012),Chùa Vĩnh Nghiêm

với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Nxb Thông Tấn.

39. Nguyễn Văn Lạng, Nguyễn Thu Minh, Nguyễn Xuân Cần (2006), Di sản văn hóa

Bắc Giang, Tập 2, Tổng quan văn hóa phi vật thể, Nxb Bảo tàng tỉnh Bắc Giang.

40. Nguyễn Văn Lạng, Bùi Văn Thành, Khổng Đức Thiêm, Nguyễn Xuân Cần, Anh

Vũ, Thùy Trâm, Đỗ Đức Thuận... (2006), Di sản văn hóa dân gian Bắc Giang

tập 4, Nxb Văn hóa thông tin.

41. Trần Văn Lạng, Nguyễn Văn Phong, Phùng Thị Mỹ, Trần Thu Hương đồng chủ

biên (2011), Bảo tồn và khai thác các giá trị di sản văn hóa khu thắng cảnh Suối

Mỡ, Nxb Thông Tấn.

42. Thu Linh, Đặng Văn Lung (1984), Lễ hội truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

43. Dương Hoàng Lộc (2016), Tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng từ góc nhìn văn hóa

Việt, Tạp chí Khoa học Đại Học Sài Gòn, số 2.

44. Nguyễn Đức Lữ (2001), Tín ngưỡng Thành hoàng và thờ vua Hùng ở Việt Nam,

Tạp chí Sinh hoạt lý luận.

45. Đặng Văn Lung, Thu Linh (1990), Lễ hội truyền thống và hiện đại, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

46. Đặng Văn Lung (1997), Ý nghĩa của việc nghiên cứu diễn xướng dân gian,Tạp

chí Văn học, số 6.

47. Hoàng Lương (2011), Lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam, các tỉnh phía

Bắc, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

48. Nguyễn Thu Minh (2011), Những vùng văn hóa dân gian tiêu biểu ở Hiệp Hòa,

Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội.

49. Nguyễn Thu Minh, Trần Văn Lạng (2011), Văn hóa dân gian Sơn Động Bắc

Giang, Nxb văn hóa thông tin.

50. Phan Đăng Nhật (1981), Phương pháp nghiên cứu văn học dân gian trong hệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

thống các tác phẩm, Tạp chí Văn học, số 5.

107

51. Bùi Mạnh Nhị (1985), Tiếp cận văn hóa dân gian địa phương từ đặc trưng của

văn học dân gian, Tạp chí Văn học, số 3.

52. Nhiều tác giả (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa

53. Nhiều tác giả (2002), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

54. Nhiều tác giả (1971), Truyền thống anh hùng trong loại hình tự sự dân gian Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

55. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội

56. Hoàng Minh Phương (2007), Văn hóa tâm linh trong văn xuôi Trung Đại, Luận

văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh.

57. Trần Duy Phương (2008), Truyền Thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả ở Lục Ngạn

Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ văn học, Thái Nguyên.

58. Lê Chí Quế (chủ biên) (1990), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại Học Quốc

Gia, Hà Nội.

59. Trần Đình Sử (2014), Văn học và văn hóa tâm linh, web trandinhsu.

Wordpress.com

60. Trần Thị Băng Thanh (chủ biên), Trần Quốc Vượng, Nguyễn Thị Huế, Nguyễn Hữu

Sơn (2001), Huyền Quang - cuộc đời, Thơ và Đạo, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.

61. Bùi văn Thành (2010), Tổng quan về đất và người, Tạp chí Thế gới di sản, số

1,2, ,Nxb Văn hóa thông tin, HàNội

62. Phạm Minh Thảo - Trần Thị An - Bùi Xuân Mỹ (1997), Thành hoàng Việt Nam,

Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

63. Bùi Thiết (1984), Từ điển lễ hội Việt Nam, Nxb Văn Hóa, Hà Nội.

64. Ngô Đức Thịnh (chủ biên, 2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb

Trẻ, Thành phố PHCM.

66. Ngô Đức Thịnh (chủ biên 1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam tập 1, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

67. Ngô Đức Thịnh (chủ biên 1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam tập 2, Nxb Văn hóa thông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

tin, Hà Nội.

108

68. Trần Quốc Thịnh (2004), Văn hóa truyền thống làng xã huyện Yên Dũng, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

69. Ngô Đức Thọ (chủ biên) (1992), Từ điển Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

70. Lê Ngọc Thống (2018), Bài giảng đại cương văn hóa Việt Nam

71. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội

72. Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học dân gian Việt Nam,

Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

73. Tạ Chí Đại Trường (2017), Thần và người đất Việt, Nxb Tri Thức

74. Vũ Anh Tuấn (chủ biên), Phạm Thu Yến, Nguyễn Việt Hùng, Phạm Đặng Xuân

Hương (2012), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

75. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1993), Giảng văn văn học dân gian Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

76. Duy Tuệ (2011), Những điều dạy về Phật của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Nxb

văn hóa thông tin.

77. Nguyễn Minh Tường (2013), Tín ngưỡng thờ Thần Thành Hoàng trong các làng

xã Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10.

78. Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

79. Hoàng Tiến Tựu (1990), Giáo trình văn học dân gian, Sách Đại học sư phạm Hà

Nội, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

80. Đặng Nghiêm Vạn (1972), Về chuyện “Quả bầu mẹ” ở Việt Nam, Tạp chí Văn

học số 3.

81. Đặng Nghiêm Vạn (1987), Huyền thoại về nguồn gốc các tộc người, Tạp chí Văn

hóa dân gian, số 4.

82. Trần Quốc Vượng (chủ biên in lần thứ 6, 2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb

Giáo Dục Hà Nội.

83. Trần Quốc Vượng (2013), Văn hóa Việt Nam, Nxb thời đại và Tạp chí Văn hóa

nghệ thuật.

84. Phạm Thị Xuyên (2015), Khảo sát truyền thuyết Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

học, Hà Nội.

109

85. Nguyễn Như Ý (chủ biên, 2013), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc Gia

Thành Phố Hồ Chí Minh.

86. Nguyễn Thị Yến (2015), Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa phía Tây Yên Tử

(Tỉnh Bắc Giang), Luận văn thạc sĩ văn hóa, Hà Nội.

87. Phạm Thu Yến (2002), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Sư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

phạm, Hà Nội.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC I: MỘT SỐ TRUYỆN KỂ DÂN GIAN VÙNG VĂN HÓA TÂM

LINH TÂY YÊN TỬ

1. Truyện kể về Quế Mị Nương ở Nghĩa Phương

*Truyện kể thứ nhất: Truyền thuyết Thánh Mẫu Thượng Ngàn

Vào đời Hùng Vương thứ chín, Hùng Định Vương cùng hoàng hậu An

Nương sinh hạ được công chúa Quế Nương. Càng lớn Quế Nương càng nổi tiếng

xinh đẹp. Tới tuần cập kê thì sắc đẹp của nàng đã nghiêng thành nghiêng nước.

Nàng lại nổi tiếng khéo tay hay làm, nết na thuỳ mị. Hoàng tử các nước chỉ nghe

tiếng nàng đã đua nhau tìm đến cầu hôn, nhưng tất thảy nàng đều từ chối khéo

chẳng để mất lòng ai. Nào ngờ công chúa chưa kịp lên kiệu hoa thì mẫu hậu bỗng

nhiên không bệnh mà chết. Nói sao cho hết nỗi đau đớn của nàng công chúa. Vua

cha còn đó mà sao nàng vẫn cảm thấy bơ vơ. Nàng thường buồn rầu hỏi "Mẹ ta

đâu?" và mọi người đề chỉ tay về phía rừng xanh. Thế rồi ngày kia Quế Nương xin

vua cha được đi ngao du sơn thuỷ cho vơi bớt nỗi buồn và mong được gặp mẹ. Nhà

vua tìm mọi cách can ngăn, sau thấy con gái quyết ý nên đành nén lòng ưng thuận.

Sáng sớm hôm ấy Quế Nương cùng 12 thị nữ khăn gói lên đường. Ngày đi

đêm nghỉ, qua hết cánh rừng này đến vạt đồi khác, họ tới rừng Khả Lễ. Đây là một

vùng núi đồi thoáng đãng, rộng rãi nhưng cây cỏ héo tàn, cỗi cằn xơ xác. Các thị nữ

đều khuyên công chúa rời khỏi vùng này nhưng Quế Nương quyết ở lại tìm hiểu sự

tình. Người dân ở đây cho biết nơi này thường xuyên khô hạn quanh năm không có

mùa xuân. Nàng nghĩ rằng muốn đem lại mùa xuân cho dân bản thì phải có nước.

Thế là nàng cùng 12 thị nữ quyết tâm đi tìm nguồn nước. Sau nhiều ngày trèo đèo

lội suối, họ đã gặp được hồ nước trên núi. Đang tìm cách mở đường đưa nước về

bản, công chúa gặp ngay một ông già râu tóc bạc phơ ban cho một cuốn sách luyện

phép lạ cứu đời. Quế Nương liền lập hành cung làm nơi tu luyện. Sau một thời gian

uống nước suối, ăn quả rừng, đọc đến trang sách cuối cùng, tâm trí nàng bỗng bừng

sáng. Nàng tới hồ nước thì có một đám mây ngũ sắc từ từ hạ xuống cho nàng bước

lên. Từ trên cao, Quế Nương đưa mắt nhìn khắp các khe núi đầy ứ nước, nàng xoè 5

ngón tay ra ấn xuống. Như có sức mạnh vô hình từ bàn tay công chúa, núi nứt ra,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đất đá ầm ầm xô chuyển, nước từ các khe núi ào ạt dội xuống vùng nước thấp rồi

chảy thành dòng nước thác. Đêm hôm đó, công chúa lại nằm mơ thấy tiên ông hiện

về, khuyên nàng hãy bỏ chốn phồn hoa đô hội mà ở lại đây sống với dân làng. Tỉnh

dậy nhớ lại, công chúa Quế Nương thấy lời khuyên của tiên ông thật hợp với ý mình

bèn cho lập hành cung cạnh suối và ở lại đó. Quế Nương lại đem hết tiền của hộ

thân ban phát cho dân chúng trong vùng để mua sắm dụng cụ sản xuất, khai sơn,

phá thạch lập làng. Theo nết mẹ truyền, nàng công chúa tài khéo sớm hôm chuyên

cần dạy dân làm đủ các việc cày ruộng, cấy lúa, trồng dâu, dệt vải, rèn sắt, làm đồ

gốm, săn bắt thú rừng. Những người nghèo đều được công chúa cưu mang, hết lòng

giúp đỡ. Bởi thế trăm họ đều kính trọng yêu mến Quế Mị Nương. Chẳng bao lâu,

nơi đây đã trở nên một miền quê đẹp, trù phú. Lúa vàng trĩu bông dưới ruộng, sắn

ngô xanh biếc trên nương, chim chóc khắp nơi bay về ca hát, lòng người rạng rỡ

tươi vui, bản làng đông đúc thanh bình.

Thế rồi bỗng một sớm mai tỉnh dậy Quế Nương thấy trong người khác lạ.

Nàng bèn ngược theo dòng suối lên mãi lên dãy Huyền Sơn rồi hoá ở đó. Hôm ấy là

ngày 25 tháng Ba. Nghe tin, nhân dân trong vùng vô cùng thương tiếc nàng công

chúa nhân hậu. Họ cùng nhau lập đền thờ nàng dọc theo con suối, đó là đền Hạ, đền

Trung, đền Thượng, còn chính nơi nàng qua đời thì lập chùa, gọi là chùa Hoá để

bốn mùa hương hoả thành kính vong linh nàng. Dòng suối dẫn nước về bản làm cho

đất đai màu mỡ được nhân dân gọi là Suối Mỡ. Nhân dân suy tôn nàng là Thánh

Mẫu thượng ngàn. Năm vệt ngón tay nàng xoè ra, ấn xuống để khai mở dòng nước

đã in dấu thành năm bậc thác mẹ con tạc vào đá núi, suốt năm rì rầm nước chảy như

bài ca bất diệt về tình mẫu tử muôn đời.

Hàng năm hội đền Suối Mỡ mở từ ngày 30 tháng Ba đến ngày 01 tháng Tư,

nhưng suốt năm du khách bốn phương vẫn náo nức hành hương về đây để thưởng

ngoạn cảnh đẹp thần tiên của vùng Suối Mỡ và tưởng nhớ Thánh Mẫu thượng ngàn

- công chúa Quế Nương. (Theo Truyện cổ xứ Bắc - bảo tàng Hà Bắc xuất bản năm

1990 và Lễ hội Bắc Giang - Sở văn hoá - thông tin Bắc Giang xuất bản năm 2002).

*Truyện kể thứ hai: Truyện kể về Quế Mị Nương ở Nghĩa Phương

Ngày xưa có nàng công chúa Quế Mị Nương là con gái vua Hùng Định

Vương. Nguyên Hùng Định Vương có ba bà hoàng hậu, tình cờ cùng một mùa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xuân, ba bà đều có tin vui. Đủ ngày đủ tháng, bà cả bà hai đều sinh được hoàng tử.

Riêng bà ba An Nương chẳng hiểu sao bụng vẫn kệnh nệnh chưa chịu đẻ. Càng lâu

người trong cung cấm đều lấy làm lạ. Mãi ba năm sau khi hai hoàng tử đã cứng cáp,

biết chạy, biết chơi bà An Nương mới sinh được một người con gái. Lần ấy bà đang

thưởng hoa trong vườn thượng uyển chợt thấy xây xẩm mặt mày vội ôm lấy một

gốc cây quế già từ từ khuỵu xuống rồi đẻ luôn. Nhưng đúng lúc đứa bé cất tiếng

khóc chào đời người mẹ cũng kiệt sức chết ngay.

Thương đứa con gái vừa sinh đã mồ côi mẹ, nhà vua mượn việc công chúa

được đẻ dưới gốc cây quế ngát hương mà đặt tên nàng là Quế Mị Nương.

Lớn lên trong sự chăm sóc yêu chiều của vua cha, Quế Mị Nương ngày càng

nổi tiếng xinh đẹp. Nhiều vị vua trẻ ở các nước láng giềng, nhiều quan tướng văn võ

trong triều có đánh tiếng để xin được kết duyên cùng nàng nhưng nàng vẫn thờ ơ lắc

đầu. Nàng thường hỏi những người xung quanh: "Mẹ ta đâu?" các thị nữ đều lúng

túng nhìn nhau rồi chỉ tay về phía rừng xanh. Theo hướng tay trỏ của thị nữ, công

chúa lại đăm đắm nhìn về chốn cây rừng thăm thẳm. Mỗi khi chiều xuống nàng lại

thấy bâng khuâng. Tiếng chim non chiêm chiếp gọi mẹ, tiếng bầy nghé quẩng lên

nghé ọ theo mẹ sao mà thiết tha đến thế. Cả đêm Quế Mị Nương thao thức với trận

gió ào ào lật lá cây rừng xa xa. Sớm hôm sau, nàng đến gặp vua cha xin được ngao

du sơn thủy, bởi phía ấy ngày xưa mẹ Âu cơ đã mang năm chục người con lên núi,

biết đâu mẹ nàng chẳng ở đấy...

Mới đầu Hùng Định Vương còn tìm đủ kế ngăn cản con. Sau thấy Quế Mị

Nương quyết ý, Hùng Định Vương đành phải nén lòng ưng thuận. Nhà vua thầm

mong rằng chỉ dăm bữa, nửa tháng nữa, con đường gai góc hiểm nghèo sẽ làm

người đi nản chí mà quay về với cuộc sống đế vương ở nơi cung vàng điện

ngọc...mà không ngờ càng đi Quế Mị Nương càng thấy non xanh, nước biếc

cuốn hút.

Rời kinh đô Phong Châu cao ráo, Quế Mị Nương men theo những rừng cọ

rợp xanh chân núi Tam Đảo. Vượt qua những con sông trùng trùng sóng vỗ trắng

xóa, công chúa len lỏi trong những núi non, khe đá đầy vực thẳm hang sâu. Qua

mấy bản làng đông đúc, Quế Mị Nương lại đi tới những cánh rừng già um tùm với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cây cao bóng cả...

Nước non mỗi nơi một vẻ thật kì thú. Chỗ mạnh mẽ, hùng tráng; chỗ lại gân

guốc lạnh lùng; có chỗ lại như dịu dàng e lệ. Trước cảnh đẹp non sông vỗ về, Quế

Mị Nương thường thốt lên gọi: mẹ ơi, mẹ ơi... Tiếng gọi của công chúa thì nhỏ mà

rừng cây âm u truyền nhau vọng đài càng vang càng lớn. Tiếng ơi cuối cùng ngân

dội trở lại như có ai trả lời. Nghe rừng cây đáp lại Quế Mị Nương rơm rớm nước

mắt, thấy phảng phất trong rừng cây thế đá như có hình bóng bà An Nương - người

mẹ mà nàng mới chỉ nghe kể chứ chưa từng biết mặt... mười hai cô thị nữ tận tụy

tháo vát chả kém gì cánh đàn ông xốc vác lúc nào cũng theo sát bước chân nàng.

Đoàn du khách cứ đi, gặp đêm xuống thì quây màn hạ trại, trời hửng sáng lại thu

dọn lên đường.

Lần ấy Quế Mị nương đi qua con sông trong xanh vời vợi, vượt hết cánh

rừng này lại tới cánh rừng kia...cuối cùng công chúa tới thung lũng đất Nghĩa

Phương này.

Trước mặt Quế Mị nương là một vùng đất rộng rãi, phẳng phiu nhưng không

hiểu sao tất cả đều héo tàn, xơ xác. Lấp ló sau những bụi cây cọc còi là một vài túp

lều xiêu vẹo. Trong mái lá dột nát đó lại có những con người đói gầy, ngơ ngác.

Người lớn cáu bẳn với nhau, trẻ con không được ăn no thét lên gào mẹ. Thấy cảnh

thương tâm, bất giác quế Mị Nương bật lên thành tiếng gọi: Mẹ ơi! Mẹ ơi! Cảnh

thung lũng khô khốc chết chóc không chịu vọng đưa tiếng nàng. Quế Mị nương lại

gọi to hơn, gọi mãi đến khản cả cổ nhưng bốn bề lặng tờ, mờ mịt bốc hơi lên hầm

hập với mùi khét cháy ghê người.

Thấy Quế Mị Nương buồn rầu, mười hai nàng thị nữ cùng xúm lại khuyên

giải: “Chúng ta đi nhanh khỏi đây đi” nhưng công chúa lắc đầu: “Bỏ người dân

nghèo khổ thế này ư?”. Nói xong Quế Mị Nương lần lượt tiến đến các lều, tới đâu

nàng cũng hỏi: “Sao mùa xuân không về nơi này?”. Một người mặt mày ràu ràu khô

héo trả lời: “đất chúng tôi chỉ có hạn hán thôi”. Người thứ hai thều thào: “mùa xuân

ư”? chúng tôi nào biết có mùa xuân là gì?”. Người thứ ba gân cổ quát lên: “Cút đi!

Chúng tao đang đói khổ sắp chết đây!”.

Bị người hô xua đuổi mười hai nàng thị nữ ra sức khuyên ngăn công chúa nên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bỏ nơi thiên tai hoành hành này đi cho thoát. Quế Mị Nương khăng khăng giữ ý

mình: “các em muốn trở về nơi nhung lụa thì cứ về, mặc ta ở đây mà đi đi”. Các thị

nữ trung thành đều nhất tâm xin ở lại. Quế Mị Nương bàn: “Muốn có mùa xuân thì

phải có nước”. Thế là đoàn du khách trở thành người đi tìm nước cho dân. Ngày đêm

họ đi mãi, đi mãi. Tiến qua khu cây cối bốc lửa âm ỉ, leo lên khoảng núi khuất lấp

màn mây thấp, cuối cùng Quế Mị Nương gặp một hồ nước mênh mông ứ đầy khe

núi. Bao nhiêu nước đọng lại không có của mở, không có dòng chảy dẫn đến thung

lũng khô khát dưới kia.

Quế Mị Nương đang băn khoăn, suy tính chưa biết làm cách nào, chợt thấy

sáng lòa trước mặt và một làn hương thơm phức tỏa ra. Trong vầng hào quang lung

linh chói lọi ấy một ông già râu tóc bạc phơ hiện đến bảo: “Lão sinh từ đời vua

Hoàng đế từng học Phật đạo, thấy công chúa có lòng thương dân muốn trao cho

cuốn sách luyện phép lạ cứu đời và trường sinh bất tử. Cần nhất công chúa phải tĩnh

tâm mới thâu thái được lẽ đạo tự nhiên”.

Nghe tiếng tiên ông sang sảng như chuông khánh, Quế Mị Nương vội vàng

quỳ xuống xin vâng. Lúc công chúa ngẩng lên tiên ông đã biến mất, chỉ để lại trên

tảng đá một cuốn sách mỏng tỏa mùi hương thơm ngát lâng lâng...

Từ đó, Quế Mị Nương bèn lấy ngay hốc núi, thiết lập một hành cung tu

luyện. Có 1 thị nữ chuyên lo kiếm nước suối, quả rừng. Quế Mị Nương để hết tâm

sức vào việc đọc sách. Học đến đâu công chúa đều giảng lại cho 12 thị nữ cùng

nghe. Càng đọc tâm trí Quế Mị Nương càng nhẹ nhõm, sáng láng. Học xong trang cuối

cùng Quế Mị Nương bèn đi ra khe núi, các thị nữ cùng vẫy tay lên trời. Tự nhiên một

đám mây ngũ sắc bay tới, hạ xuống cho công chúa bước lên. Từ trên mây cao, Quế Mị

Nương nhìn khắp khe núi ứa nước, nàng xòe năm ngón tay ra ấn nhẹ xuống.

Như có một sức mạnh vô hình bàn tay công chúa dội xuống mỏm núi, tức

khắc khe núi nứt ra, đá ầm ầm xô chuyển, nước từ khe vỡ ào ào dội xuống vùng đất

thấp. Mới đầu sức nước còn hung hãn, dần dà nước cộn thành dòng êm xuôi. Nước

chảy đến đâu cây lá ngùn ngụt mọc lên, thi nhau đâm hoa kết trái. Gốc cỏ trơ cằn có

nước cùng nảy đọt xanh tươi. Chim chóc khắp nơi đua nhau về ríu rít ca hót. Con trâu,

con bò sởn sơ chạy tung tăng khắp đồi bãi, trẻ con người lớn rạng rỡ vui tươi. Người nọ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

bảo người kia: “có nước là hết hạn hán đây, có nước là mùa xuân về rồi đây”

Dòng suối chảy ra từng núi đồi bờ bãi đều xanh tươi trở lại. Chẳng mấy chốc

đã đến mùa lúa chín. Khắp thung lũng vàng rượi một màu thơm no ấm. Bên bờ suối

cây lá tốt bời bời. Có bao nhiêu cây thuốc quý chỉ việc lấy về chữa bệnh tật tiêu tan.

Tục truyền: Suối chảy tới đâu, bản làng đông đúc ấm áp tới đấy. Con gái con

trai lấy nước suối làm gương nhờ mặt nước soi thấy hình nhau. Vui quá người ta

hỏi: “Có phải nước đã về nhờ công chúa ngày trước đi qua đây?”. Rồi người nọ kể

với người kia hình như công chúa có tên trùng với cây quế thơm tho trong rừng?

Hình như có ai đó trông thấy nàng lên mây mở suối?. Hình như có nàng Quế Mị

Nương đứng trên hốc núi đỉnh thác kia? Tất cả mọi người đều tự hỏi: “Nàng công

chúa đã biến đi đâu rồi? Có phải nàng và thị nữ đều được về cõi tiên? Đưa được

dòng nước mùa xuân về sao công chúa không ở lại chia vui với mọi người?”

Đá núi còn khắc ghi rằng: chưa ai trả lời được những câu hỏi ấy. Chỉ biết các

ngôi đền Thượng, đền Trung, đền Hạ là dấu tích hành cung của Quế Mị Nương.

Còn 5 vệt ngón tay nàng trỏ xuống đã in dấu thành năm bậc thác Suối Mỡ vẫn còn

đến ngày nay. Và giữa núi rừng ai gọi tên mẹ ơi cây lá sẽ âm âm, u u vang xa rồi

dội lại một tiếng “ơi” - trả lời. (Theo Di sản văn hóa dân gian Bắc Giang tập 4-

NXB văn hóa thông tin năm 2006).

2. Truyện tên làng Đức La

* Truyện kể thứ nhất

Xưa kia Đức La có tên là Làng La hay tên ông La. Vào thời Trần vua Trần

nhân Tông trên đường du ngoạn qua vùng đất này để ngắm nhìn non sông gấm vóc,

chọn đất dựng chùa, đến thôn Ông La ngài gặp một lải nước sâu khó lội qua được.

Vua tôi đang lúng túng tìm cách vượt qua ải nước thì người dân thường đánh dậm

lên tiếng: “Lải nước sâu lắm, hai ông không lội qua được đâu để tôi cõng qua”.

Người đánh dậm nói xong thì xăm xăm bước tới cõng người khách lạ qua lải nước

mà không biết đó là vua Trần. Khi người khách hỏi ở đâu anh chỉ nói ở làng La -

Ông La. Cảm kích trước đức thiện giúp đỡ khách qua đường của người dân nơi đây

vua Trần khi hồi triều đã đổi tên thôn Ông La thành Đức La”. (Theo Di sản văn hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dân gian Bắc Giang tập 4- NXB văn hóa thông tin năm 2006)

* Truyện kể thứ 2

Có lần Phật hoàng Trần Nhân Tông sau khi nghỉ ngơi tại chùa, để chuẩn bị

lên Yên Tử, nhưng vì không có đò để đi qua sông, đang lúc không biết làm gì thì có

một ông già đi đến nơi và hỏi thăm. Vua nói "ta muốn qua sông, nhưng giờ không

có đò", ông cụ liền thưa "Tôi cõng ông qua", vậy là ông cụ cõng Vua qua sông. Sau

khi đến bờ bên kia, Vua cảm ơn và hỏi thăm cụ ở làng nào và tên gì?. Cụ đáp "tôi

sống ở làng này và người dân thường gọi tôi là Ông La". Để cảm ơn ông cụ, từ đó

Vua cho gọi chùa là Chùa La (hay chùa Đức La). Kể từ đó cái tên "Đức La" gắn

liền với những địa danh nơi đây, như chùa La, đền, đình La, làng La, chợ La, bến đò

Tiên La. ( Theo cụ Vũ Trí Sáng ở thôn Đức La huyện Yên Dũng kể )

3. Truyền thuyết Vũ Thành

* Truyện kể thứ nhất

Thủa ấy, vua Lý Thái Tông tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được hoàng tử nào,

bèn truyền ngôi cho người con gái cả là công chúa Lý Chiêu Hoàng, người con gái

thứ hai là công chúa Bình Dương được vua gả cho quan thị Phó vương Tả bộc xạ Vũ

Tỉnh. sau khi Lý Thái Tông mất, Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho chồng là Trần

Cảnh. Các quan công thần nhà Lý hết sức bàng hoàng trước cảnh thay vương đổi

triều, nhiều người đã cáo quan về quê ở ẩn. Quan Vũ Tỉnh cũng lui về quê tại thôn

An Khánh, rồi rời sang thôn Bồng Lai và sống ẩn dật tại đấy.

Một hôm, Vũ Tỉnh cùng Lý phu nhân dong thuyền chơi trên sông Lục vớt

được một chiếc vỏ kiếm có khắc hai chữ Công Thành, lấy làm lạ sự lạ liền đem về

nhà cất kín. Đêm hôm đó, phu nhân Vũ Tỉnh trong lúc mơ màng thấy thần nhân

xuất hiện và cho biết bà sẽ có thai. Quả nhiên, sau mười một tháng, bà sinh được

một người con trai khôi ngô tuấn tú. Vợ chồng Vũ Tỉnh vô cùng sung sướng liền

theo lời thần mộng đặt tên con là Vũ Thành.

Vốn con nhà tông lại được gia đình nuôi dạy cẩn thận nên mới đến tuổi

thành niên Vũ Thành đã tỏ rõ là một chàng trai thông minh, tài giỏi, văn võ thông

suốt. Đến kỳ vua mở khoa thi, Vũ Thành đỗ luôn thám hoa và được vua ban thưởng

rất nhiều gấm vóc, tiền bạc. Đại đăng khoa rồi tiểu đăng khoa, Vũ Thành kết duyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

với người con gái thôn Giáp, xã Hả Hộ là Giáp Thị Tuấn. Vợ chồng sống với nhau

thật hạnh phúc, nhưng rồi chỉ được vài tháng,Vũ Thành đã nhận được chiếu của vua

mời về triều thi hành quốc sự.

Lại nói Vũ Thành về triều được một thời gian thì hay tin cha mất. Ông dâng

biểu xin từ quan về nhà chịu tang ba năm. Một hôm, lên núi Phượng du chơi, tình

cờ Vũ Thành nhặt được một lưỡi kiếm trên khắc nổi hai chữ Công Thành liền đem về

khoe với mẹ. Sực nhớ lại chuyện cũ, bà mẹ vội chạy vào trong nhà lấy chiếc vỏ kiếm

Vũ Tỉnh vớt được năm xưa ra ướm thử thì thấy vừa khít, liền bảo với con rằng:

- Âu là thần linh sông núi cùng hợp lại giúp gia đình ta, việc nước lớn lao tất

con sẽ hoàn thành.

Đất nước đang bình yên thì đầu tháng hai năm ấy quân tướng nhà Tống đã

tràn qua ải quan tiến vào xâm lược nước ta. Vua liền triệu Vũ Thành về triều bàn

cách chống giặc. Vũ Thành lễ lạy phụ mẫu rồi đem theo kiếm thần tới kinh đô dâng

vua. Nhà vua rất lấy đắc ý trao lại kiếm thần cho Vũ Thành và phong ông làm Tri

hiệu đầu thượng tướng đồng thời truyền cho các trung thần nghĩa sĩ hiệp sức cùng

ông đánh giặc. Vũ Thành vâng mệnh lĩnh ba vạn quân đi chia làm hai đạo, tiền quân

là hộ quốc đại thần làm đô đốc quân vụ, hậu quân là Long chu đại thần làm đề đốc

chuyển quân lương. Quân sĩ đang ráo riết chuẩn bị lên đường thì thấy con bạch mã

thường ngày không ai có thể được chạy thẳng vào trước cung điện. Vũ Thành bái

mệnh vua, đeo kiếm thần bên mình mà khấn rằng:

- Nếu trời phù đức giúp ta thì xin cho con ngựa quỳ xuống, sự việc tất thành.

Quả nhiên Vũ Thành vừa dứt lời, bạch mã từ từ quỳ xuống đón ông, rồi phi

nước kiệu cùng ba quân tiến thẳng lên tuyến phòng thủ Xa Lý - Nội Bàng

Vũ Thành có con ngựa diệu kỳ lại có kiếm thần giúp sức nên đánh đâu thắng

đó. Chín trần liền giao chiến với địch, Vũ Thành toàn thắng. Nhờ bạch mã có nước

phi như gió lướt nên cứ sau một ngày xông pha trận mạc Vũ Thành lại trỏ về người

vợ hiền ở quê nhà. Mờ sáng hôm sau, khi quân sĩ còn đang yên giấc, bạch mã lại đã

đưa ông trở ra chiến địa mà vẫn không ai hay biết gì. Vì thế, một hôm phu nhân Vũ

Thành từ Bồng Lai đến thăm mẹ tại cung An Khánh đã bị bà căn vặn:

- Con ta đang ở nơi chiến trận chưa có dịp về cung, cớ sao ở nhà lại mang thai?

Phu nhân bình tĩnh đáp:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

- Chồng con tuy suốt ngày ra trận nhưng tối nào cũng về nhà nghỉ

Phụ mẫu không tin, nổi giận nói:

- Việc này không thể cho là thực, lấy gì để làm tin?

Dù đã kể lể hết sự tình, phu nhân Vũ Thành vẫn không thể khiến bà mẹ tin

theo lời mình, bèn sụp lạy mẹ rội đáp:

- Xin mẹ cứ yên lòng, con thề rằng dã không làm gì trái với đạo vợ chồng.

Một mai chồng con về, con sẽ lưu lại kiếm thần để mẹ hay.

Nói rồi phu nhân quyết trần tình lòng ngay thẳng của mình. Nàng nhờ cánh

thợ rèn cho một thanh kiếm sắt giống hệt kiếm thần rồi đem ra đổi. Tảng sáng hôm

sau, Vũ Thành đã thấy tình thế bất lợi. Bạch mã dẫn đường tìm mọi cách xông xáo

vẫn không thể tiến lên được. Vũ Thành liền rút kiếm thần ra chém giặc. Lạ thay

giặc chẳng chịu lùi. Bấy giờ, Vũ Thành mới biết kiếm thần bị tráo. Ông bỗng cảm

thấy đầu óc choáng váng, định ra lệnh lui quân nhưng không kịp, giặc đã ào ào tới

chém ngã ông. Vũ Thành vội nhặt đầu mình lắp vào cổ rồi một mình một ngựa phi

thẳng một mạch về làng. Thấy bên đường có một hàng nước, Vũ Thành bèn dừng

ngựa hỏi bà lão:

- Người không đầu thì sống hay chết?

Bà lão trả lời:

- Người không đầu thì sống sao được!

Vũ Thành buồn bã dong ngựa lên đến đỉnh ngọn núi Kỳ Sơn thì hoá. Sau

này, nhà vua cho lập đền thờ Vũ Thành ở chính nơi ông hoá, gọi là đền Hả. Hằng

năm, cứ đến ngày 8 thnág Giêng, nhân dân khắp nơi lại nô nức trẩy hội về đây để

tưởng nhớ Vũ Thành - người con yêu quý của quê hương và truyền cho nhau nghe câu

chuyện bi tráng này.(Theo Truyện cổ xứ Bắc - Bảo tàng Hà Bắc xuất bản năm 1990)

* Truyện kể thứ hai

Tương truyền rằng đời vua thứ tám nhà Lý làm vua nước Nam Việt sinh

được năm người con gái. Người con gái cả là Chiêu Hoàng, thứ hai là Thái Đường

công chúa Lý Thị Cảnh, thứ ba là Thụy Thiên, thứ tư là công chúa Bình Dương, thứ

năm là công chúa An Hoa. trong đó người con gái thứ hai là Thái Đường công chúa

Lý Thị Cảnh lấy chồng về huyện Na Ngạn. Chồng là quan Tả bộc xạ quan sát Mật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Lệnh Công. Ông bà lấy nhau đã lâu mà chưa có con, trong lòng lấy làm buồn bã.

Khi ấy trong nhà có nuôi một con chó cái. Đến một hôm con chó sắp đến ngày sinh

đẻ bỗng bỏ đi mất, được hai ngày lại thấy trở về. Ông lấy cơm cho chó ăn, ăn xong

nó lại vượt sông mà đi. Ông lập tức chèo thuyền đi tìm. Đến thôn Bồng Lai, xa Lão

Hương, huyện Bảo Lộc, ông thấy con chó đã sinh được ba con chó cái, mắt đã mở

sáng long lanh. Ông trở về kể lại sự việc trên cho công chúa nghe. Hai người đồng

tình chuyển nhà sang ở tại nơi ấy, xây dựng nhà cửa, vỗ về dân chúng, tự dấy thành

một chốn lâu dài. Ở đất này một thời gian, công chúa thụ thai. Đến kỳ sinh được

một người con trai, đặt tên là Vũ Thành. Đến khi lớn lên thấy ở thôn Lang Sỹ, xã Bà

Lão quả thực là nơi thắng cảnh đẹp lại dời chuyển nhà cửa sang xây dựng ở đất ấy.

Đến khi giặc phương Bắc (giặc Tống) sang xâm phạm, quân đội đánh nhau

hàng trăm trận tại cửa ải. Thấy ông có thần kiếm, các trung thần nghĩa sỹ trong

vùng cùng quy tụ về, hợp cùng với nghĩa quân của ông. Tất cả đều vâng mệnh hiệp

lực đánh giặc.

Trong vùng có con ngựa trắng không ai cưỡi được, mọi người dắt con ngựa

trắng đến trước điện tiền mời thượng tướng quân lên yên. Lạ thay thấy Vũ Thành cầm

kiếm đi tới, con ngựa trắng bỗng nhiên quỳ xuống cho ông lên yên một cách dễ dàng.

Vũ Thành ngày thường đem quân chặn giặc, đêm đến vẫn về thăm vợ mà

mẫu thân không biết. Khi ấy mẫu thân đã trở về trông nom nhà cửa tại thôn An

Khánh, còn vợ Vũ Thành ở lại Bồng Lai. Một hôm con dâu đến chơi, thấy con dâu

có thai, Thánh Mẫu mắng rằng: Chồng con trận mạc, chưa từng được ghé thăm nhà,

cớ sao lại mang thai? Con dâu mới thưa rằng: “Chồng con tuy ngày ở chiến trường

dẹp giặc, nhưng đêm thường về”. Mẫu thân không tin nói rằng: “Việc đó lấy gì làm

tin”. Nàng dâu thưa: “Xin mẹ yên tâm, con chân tình không làm trái đạo người vợ,

đợi đêm nào chồng con về nhà, con giữ thần kiếm ở lại sẽ chứng minh sự thực”.

Nàng bèn sai thợ rèn đánh một thanh kiếm khác giống hệt kiếm thần chờ chồng về

đổi để thanh minh với Thánh Mẫu.

Đêm ấy Vũ Thành lại trở về thăm vợ. Kiếm thần được để bên giường. Chờ

chồng ngủ say bà lấy kiếm sắt thay vào. Mờ sáng hôm sau Vũ Thành lên ngựa như

thường ngày, trở lại trại quân đốc xuất quân lính xông ra trận tiền. Trận này, thế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

giặc bỗng cường hẳn lên, quân ta tiến lên không được lanh lợi, con ngựa trắng cũng

không hăng hái xông pha như các trận trước. Kiếm thần chỉ vào hàng ngũ quân

giặc, lẽ ra chúng phải tan, nhưng lần này chúng không lui mà tiến lên. Vũ Thành

phải cho quân rút chạy. Vũ Thành bị tướng giặc chém một nhát sâu vào cổ. Ông ôm

đầu nằm rạp trên mình ngựa. Ngựa trắng mang chủ tướng thoát khỏi vòng vây. Trên

đường gặp bà lão ông hỏi: “Người bị chém đứt đầu thì sống chết ra sao?”. Bà lão trả

lời: “Tất chết”. Đến xã Hả Hộ thật là nơi đất thiêng ông lìa đầu ở đó. Tại đây dân đã

lập đền thờ, phong làm Thượng đẳng thần. Còn thân thể ông cùng cưỡi ngựa bay đi,

qua nơi nào, nơi đó có lập đền, nghè, miếu thờ phụng...((Theo cuốn Di tích danh

thắng Yên Dũng tập 2 - Bắc giang xuất bản năm 2016)

4. Truyện ông Khổng Lồ

Từ thời hồng hoang, vùng đất Yên Dũng xưa kia còn nhiều nơi hoang sơ úng

trũng, biển cả mênh mông suốt một dải từ chân núi Bảo Đài, Cai Kinh, Yên Tử qua

đến vùng Lục Đầu. Đôi chỗ có nổi lên mấy bãi đất trống giữa vùng nước ấy. Thuở

đó, ở chốn thiên đình Ngọc Hoàng cai quản các miền thượng giới, hạ giới khắp nơi

đều được bình an. Bấy giờ, mùa xuân đã đến hoa đào, hoa mận nở rộ đẹp khắp mọi

nơi. Ngọc Hoàng cùng các tiên nữ xuống thưởng ngoạn cuộc vui từ lúc hoa đào nở

cho tới khi có trái đào chín đỏ, họ ăn và hái về trời. Chiều chiều, sau những cuộc

vui chơi nơi vườn đào, Ngọc Hoàng cùng các tiên nữ xuống bãi biển tắm mát (chỗ

ấy sau gọi là Bến Tắm, Đông Loan và Ổ Cá) đùa giỡn với những loài cá, tôm. Hộ

tống các vị xuống trần là một trăm con phượng hoàng rực rỡ. Khi xuống tới bãi tắm,

thấy vùng bãi tắm trống trải, các tiên nữ bàn với Ngọc Hoàng đắp một khu gò nổi

xa bờ để làm nơi trút bỏ xiêm áo và làm nơi ngắm cảnh. Ngọc Hoàng chấp thuận

cho một vị khổng lồ đến đào đắp gò, công việc thật khẩn trương. Vào một chiều oi

ả, mấy vị tiên nữ mỏi mệt, ngồi bên sườn núi không muốn xuống biển tắm, thấy

thần mây bay qua, bèn nhờ múc nước để tắm gội, quên không thấy vị khổng lồ dưới

bãi đang đào đắp gò. Vị ấy đang đào, thấy nước ở trên núi ầm ầm đổ về liền đắp

một con trạch để ngăn nước. Ông khổng lồ tiên đoán trước sau vài vạn năm nơi này

sẽ là thắng địa. Con trạch ông đắp là hình con rồng, đầu ngoảnh về phía Đông Bắc,

thân rồng cuộn về phía Tây, đuôi rồng uốn vồng lên ở phía Tây Bắc. Con rồng như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

đang bay với đường nét uyển chuyển, sinh động. Giáp đầu rồng về phía Nam, ông

dậm chân ấn huyệt, đặt tên là Long Hoa (về sau chỗ này là cầu Long Hoa). Ông dự

kiến đắp 100 gò nổi bằng 100 quả núi như hình con chim phượng hoàng. Công việc

sắp xong thì Ngọc Hoàng đi vi hành xem công việc làm đến đâu, đến nơi thấy vị

khổng lồ còn đang sửa sang đôi chút nữa trên thân rồng nên ông bị quở trách, bèn

vội vã gánh đất. Ông vô ý khi gánh để trật mấu đòn gánh, một bên quang văng ra

ngoài, đất đá bị vung ra thành mấy chỏm đất ở ngã ba Nhãn.

Sau này đất chật người đông, các vua hạ giới cầu xin Ngọc Hoàng giúp nới

rộng đất đai, Ngọc Hoàng cảm thông cho thần nước cào đất từ trên núi đồi đưa

xuống lấn biển qua dãy Phượng Hoàng. Ở mỏm đầu Bắc có một khoảng trống, thần

nước liền phá dòng sông Thương lách qua, từ đó núi Phượng Hoàng chỉ còn 99

ngọn núi liên kết. Vào thời vua Hùng, đồng bằng trải rộng. Vua Hùng muốn dời đô

về đồng bằng cho thuận tiện cày cấy. Vua sai các quan theo 100 con phượng hoàng

đi đầu tìm đất dựng Kinh đô. Tới vùng đất Nham Biền, Yên Dũng đàn phượng

hoàng thấy nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp. Ở vào vùng trên của sông Lục Đầu rất

hợp với đất xây dựng Kinh đô. Nơi đây thuận lợi đường đi các ngả, núi sông quanh

vòng, địa thế cao ráo, cảnh sắc có một không hai. Có rồng bay, phượng múa,

phượng hoàng hướng ra biển Đông đúng là nơi phúc địa.Đàn chim phượng hoàng

bay vòng quanh núi Nham Biền rồi lần lượt đỗ lại, mỗi con một ngọn đủ 99 con có

chỗ đỗ, duy chỉ có con đầu đàn chưa tìm ra chỗ đỗ của mình ở dãy Nham Biền “cửu

thập cửu phong”. Hóa ra ngọn ấy bị trật quang gánh, đất văng sang vùng Quỳnh

Sơn, Lãng Sơn, Bằng Lương thành các núi ô núp xúp khiến con đầu đàn không

nhận ra nên bay về nơi vua Hùng ngự ở núi Nghĩa Lĩnh và cả đàn cũng bay theo.

Vua hỏi ý đàn chim thế nào? Đàn chim ra hiệu khu Nham Biền là nơi đất đẹp. Vua

Hùng rất vui. Nhưng các quan theo đàn chim lại bảo: Đất ấy chỉ có 99 ngọn núi

không đủ trăm ngọn, không thể dựng Kinh đô. Cho nên vua Hùng buồn trách ông

trời sao lại vô tình.

Qua đất Cảnh Thụy tới vùng Cổ Dũng. Đối diện với Cổ Dũng là ngọn núi Ô

nho nhỏ. Đó là dấu tích ngọn núi thứ 100, mà bên quang gánh bị trật mấu văng đất

ra quanh đó. Nơi đây xưa là bãi tắm của các nàng tiên. 100 cô tiên cưỡi phượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

xuống đây giúp việc ông khổng lồ đào sông, đắp núi. 99 nàng tiên chăm chỉ giúp

việc ông khổng lồ. Hết ngày kéo nhau về bãi tắm này cùng nhau tắm gội. Chỗ các

nàng dừng nghỉ để xiêm, để áo sau còn lưu lại địa danh: Quỳnh Sơn, Lãng Sơn,

Ngọc Sơn, Đông Loan, Ổ Cá, Bến Tắm… Duy chỉ có một nàng tiên thấy vùng Lục

Đầu tươi đẹp, có sông Lục, núi Huyền, sông Thương trong xanh bên đục bên trong,

sông Cầu nước chảy lơ thơ, lững lờ nên nàng ấy cưỡi phượng vào thăm núi Huyền

(tức là ngàn Treo Đinh– núi Huyền Đinh). Thấy voi đi dạo núi, nàng rời lưng

phượng, xuống cưỡi trên lưng voi cùng voi đi dạo. Hoàng hôn đã xuống, trăng non

đã lên, cả 99 nàng tiên nữ về trời, chỉ có cô tiên thứ 100 mải du sơn du thủy cùng

voi, tối mà chẳng thèm để ý. Rồi nàng nằm giữa vùng đất ngã ba sông Thương,

sông Lục ngắm trăng non mới mọc, ngắm sao trời chẳng thiết về nơi cung đình xa

tít. Rồi nàng tiên ấy ngủ quên ở đó. Con phượng, con voi vẫn bên cạnh chờ nàng.

Hôm sau, 99 cô tiên lại theo lệnh Ngọc Hoàng xuống trần giúp ông khổng lồ làm

việc. Ngọc Hoàng thấy thiếu vắng một nàng tiên, hỏi rõ ngọn nguồn. Ngọc Hoàng

bực lắm, nói rằng nếu ý nó muốn thế thì cho được thế. Thế là nàng tiên thứ 100 hóa

thành núi Cô Tiên ở giữa ngã ba sông Thương và sông Lục Nam. Con phượng, con

voi thương chủ chẳng đi đâu cả. Thế là Ngọc Hoàng cũng cho hai con vật ấy toại

nguyện. Đến tận bây giờ con voi hóa thành núi Con Voi. Con phượng hóa thành đất

Phượng Sơn. Cảm giác muôn đời nó muốn chờ nàng tiên thứ 100 cưỡi lên mình nó

đưa về trời. Ngày nay đất Phượng Sơn vẫn còn. Nơi giữa hai con sông Thương,

sông Lục Nam gặp nhau gọi là ngã ba Phượng Nhãn (mắt Phượng). Núi Con Voi

vẫn còn.

Ông khổng lồ tỉnh dậy xong xuôi trở về trời báo cáo Ngọc Hoàng đã xong

việc. Ngọc Hoàng nhìn xuống cũng ưng lòng, các tiên nữ đều khen ngợi ông khổng

lồ chịu khó mà tài giỏi ghê. Đời sau dân gian bảo rằng cái chỗ ông khổng lồ ngồi

nghỉ trên núi có tên là núi Ông Cụ, bàn chân ông hằn lên đá ở sau núi chùa Kem

hình như vẫn còn, dân gian gọi là vết chân thần.( Theo ông Trần Văn Trân thôn

Minh Phượng xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng kể )

5. Sự tích Cao Sơn - Quý Minh

Vào đời vua Hùng Vương thứ 18 ở tại Nghệ An có một đôi vợ chồng là dòng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

dõi thi lễ nhiều đời làm công khanh. Ông bà đã ngoại tứ tuần mà vẫn chưa có con.

Ông bà thường đến nơi đình, chùa, đền, miếu linh thiêng để làm lễ cầu tự. Nghe tin

ở Thanh Hóa có một ngôi đền linh ứng lắm, ông bà liền sắm sửa nghi lễ đầy đủ, chu

tất để đến đó cầu cúng. Tới ngày 15 tháng 3 năm Nhâm Ngọ bà sinh được hai người

con trai diện mạo khác thường. Ông đặt tên người con trai lớn là Cao Sơn, con thứ

là Quý Minh. Đến năm 12 tuổi thiên tư tỏ ra rất thông minh, võ nghệ hơn người, ít

ai địch nổi. Khi hai ông 18 tuổi thì cha mẹ quy tiên. Hai ông đã chịu tang cha mẹ ba

năm chu tất. Trong thời gian đó Hùng Duệ Vương hạ chiếu lệnh cho các châu,

huyện, đạo chọn tuyển người có tài năng đức độ lên làm quan. Hai ông thấy vậy xin

triều ứng tuyển và vua thấy hai ông có tài văn võ hơn người và truyền lệnh cho giữ

chức chỉ huy sứ.

Khi ấy, ở đất Tượng Quận lại có người họ Thục, tên Phán vốn dòng dõi nhà

Hùng, khi sang trị vì tại vùng đất này nên đã đổi họ. Nghe tin Hùng Duệ Vương

truyền ngôi báu cho con rể. Thục Phán sinh lòng ghen tức bèn đem quân sang quấy

rối. Hùng Duệ Vương lấy làm lo lắng bèn cho mời phò mã Sơn Thánh đến tấu trình

và hiến kế. Nhà vua bèn phong cho Cao sơn - Quý Minh làm tả hữu Tướng quân

tiên phong lên đường dẹp quân Thục Phán ở miền Đông Bắc. Khi tới lộ Bắc Giang

thì trời sẩm tối nên hai ông đã hạ trại đóng quân tại đó. Thấy vùng đất này có nhiều

lợi thế cho việc quân, hai ông truyền lệnh cho quân sĩ và nhân dân trong vùng xây

dựng, thiết lập đồn lũy để chống phản tặc. Đêm ấy hai ông đều mộng thấy nhân thần

tự xưng là thần linh trong vùng đến trợ giúp dẹp loạn. Sáng hôm sau, hai ông làm lễ

bái yết và cho khao thưởng quân sĩ cùng dân thôn. Dân trang khu vô cùng hưởng

ứng hai vị Cao Sơn - Quý Minh lại nói với các bô lão rằng: Ta vâng lệnh thiên sứ

giúp nước an dân, đem quân đến đây lập đồn lũy bố phòng quân giặc. Thấy được có

nhân thần báo mộng trợ giúp lại được dân trang hết lòng hưởng ứng, vậy ta cho 500

nén bạc để nhân dân lập miếu từ làm nơi thờ phụng mãi mãi.

Hai ông vâng mệnh vua mang quân tới miền Đông Bắc lộ Bắc Giang xây

đồn đắp lũy được nhân dân phù trợ nên đã giành được thắng lợi rực rỡ nay xin báo

đáp bệ hạ. Vua nghe xong liền cho y chuẩn hai ông bái tạ vua rồi trở về đóng đồn

binh nơi trang khu. Tới nơi, hai ông được các vị bô lão và nhân dân đến chúc mừng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Các cụ tấu rằng: Từ khi hai ông đóng quân ở đây, dân thôn ở đây được yên nghiệp

làm ăn sinh sống, ngày một thịnh vượng. Nhân đây, trên mảnh đất này, xưa làm nơi

đồn trú, nay lập đền thờ cúng tưởng niệm. Hai ông ưng thuận và chuẩn cho các cụ

rằng: “Dân trang có lòng ngưỡng vọng và kính trọng ta để truyền tới muôn đời

nhưng khi thiết lập miếu từ để thờ phụng, tưởng niệm thì xin hãy cho linh thần cùng

phối hưởng”. Hai ông ban cho dân trang khu 1000 nén bạc để tu bổ đền từ và hương

hoa, nghi lễ. Cùng lúc ấy tự nhiên trời đất tối sầm, có hai đám mây vàng từ trên trời

hạ xuống trước mặt hai ông rồi đưa hai ông đi. Hôm đó là ngày 15 tháng 8 âm lịch.

Lúc ấy dân trang không biết hai ông đã hóa về trời nên rất lấy làm kinh sợ. Mọi

người làm sớ tấu trình lên vua. Vua lệnh cho dân trang khu tổ chức thờ cúng, tế lễ

hai ông theo đúng nghi thức. Nhân đó, vua ban sắc cho các ông, phong cho đức Cao

sơn là: Thông minh đại vương tặng phong: Tế thế hộ quốc an dân, phù vận dương

vũ dực thánh bảo cảnh, hiển hựu tôn thần. Nguyên tặng hiệu linh đôn tĩnh, hùng

lược trác vĩ dực bảo trung hưng thượng đẳng thần. Phong cho đức Quý Minh là:

Hiển ứng Đại Vương. Tặng phong phụ úy uy dũng hộ quốc an dân, phù hiếu chiếu

cảm, trật ưu tôn thần. Tặng: Thanh lãng cao hiệu, địch cát, cát tĩnh, dịch bảo trung

hưng thượng đẳng thần. Chuẩn cho dân làng trang khu phụng thờ. (Theo cuốn Di

tích danh thắng Yên Dũng tập 2 - Bắc giang xuất bản năm 2016)

6. Truyền thuyết về ngôi đền Cổ Phao ở xã Đồng Việt

Truyền thuyết kể lại rằng: Dưới thời Trần, khi ngài Nghĩa Xuyên theo Hưng

Đạo Đại Vương đuổi giặc Nguyên đến bờ sông Lục Đầu Giang. Khi quân Nguyên

kéo đến, hai bên giao chiến với nhau, bị giặc Nguyên bắn lén và ngài đã tuẫn tiết ở

nơi đây. Sau khi quân dân nhà Trần đánh thắng quân Nguyên nhà Trần cùng quân

dân ở đây lập nên đền thờ ông ngay tại chỗ ông đã hy sinh ở soi Bạc (tức là ở một

gò đất nổi lên ở giữa đoạn sông Thương này).

Các cụ cao niên trong thôn Cổ Phao kể lại, xưa kia dân Cổ Phao thuộc

phường đánh cá quanh năm lênh đênh trên song nước trong vùng Lục Đầu Giang.

Những người dân hàng ngày đi đánh bắt cá đã phát hiện ra một ngôi miếu nhỏ ở

trên một roi đất nổi lên ở giữa song. Ngôi miếu này thờ một vị tướng của Trần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hưng Đạo là Nghĩa Xuyên tiền quân đại tướng tri đức tôn thần. Ngày ấy, nước lên

to ngập tràn ngôi miếu cổ. Dân phường Cổ Phao mới xin phép xã Bằng Lương được

xây dựng lên một ngôi đèn to lớn gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung rồi di bài vị

của thần từ ngôi miếu về làng để dân làng thờ phụng. Ngôi đền Cổ Phao được mang

tên ngôi làng từ dạo đó. (Theo Di sản văn hóa dân gian Bắc Giang tập 4- NXB văn

hóa thông tin năm 2006)

7. Sự tích về cây lúa

Có một người nông dân nghèo ngày ngày vào rừng đào củ mài và săn bắt thú

rừng để kiếm sống. Một hôm trên bãi cỏ rộng lớn ở gần đó, người nông dân thấy

một đàn gà rừng đang kiếm ăn. Lũ gà ăn đến đâu là những hạt cỏ bay tán loạn.

Người nông dân liền lấy súng bắn vào đàn gà rừng. Một viên đạn bắn ra hạ được

một con gà.

Anh nông dân liền đến nhặt con gà vừa bị bắn chết bỗng thấy đàn hạt cỏ

chạy đến bái lạy và cảm ơn anh đã giết được kẻ thù cho chúng. Anh nông dân thấy

lạ bèn vơ lấy một vốc hạt cỏ đút vào túi và đem về nhà. Đến nhà, anh ném nắm hạt

cỏ ra vườn.

Vài ngày sau, chỗ đất có hạt cỏ mà người nông dân vứt ra đã mọc lên xanh

tốt sau đó chúng ra những hạt cỏ đầu tiên còn xanh rồi đến lúc chín vàng rụng

xuống chúng lại tự bay vào nhà. Những hạt cỏ lại xin người nông dân chỗ ở để khỏi

bị đàn gà rừng ăn hết. Người nông dân phải quây phên cót cho chúng đẻ chờ mùa

sau sinh nở.

Một ngày kia khi nhà không có gì ăn nữa, người vợ anh nông dân ở nhà bèn

cho hạt cỏ ấy vào ống nứa, đổ nước vào trong rồi đem đốt. Lũ hạt cỏ bị đốt nóng

kêu khóc hu hu rồi nở bung ra. Bà vợ người nông dân liền đưa vào mồm nhai thử,

thấy ngon và bà ăn liền cho đến khi no bụng. Ông chồng về nhà nghe bà nói vậy

liền ăn theo và hai vợ chồng cứ thế mà ăn gần hết số hạt cỏ.

Mùa xuân đến, người nông dân lại phát một vạt nương rồi đem số hạt cỏ còn

lại ra vãi khắp nương. Chả bao lâu, chúng lại xanh tốt. Từ đó, người nông dân nọ

chẳng phải đi vào rừng đào củ mài mà vẫn có cái ăn. Đến khi chín rụng, hạt cỏ bay

vào tới tấp như đàn ong mật. Bà vợ tắm xong đứng chải đầu làm cỏ bay vào ngứa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ngáy hết cả người. Tức quá bà cầm cái chổi quét, hất, đánh chúng túi bụi, vừa đánh

vừa quát: Từ nay tao cấm chúng mày tự về, chỉ khi nào chồng tao ra cắt cổ trói lại

đem về…Đàn hạt cỏ lại khóc hu hu rồi bay đi hết.

Ông chồng về nhà thấy thế giận quá, đánh cho bà vợ một trận rồi vào bồ xúc

lấy một tải hạt mang lên ngọn núi cao chọc trời bốn mùa mây phủ. Ở đấy có một

dòng sông hai bên bờ đầy những bãi đất màu mỡ. Người nông dân nọ vãi hết những

hạt cỏ trong tải ra bãi và chẳng bao lâu chúng mọc lên như rừng lau, rừng lách. Suốt

đường đi ông lại nghe thấy chúng khóc hu hu nên ông đặt tên cho chúng là “mác

hu” tức là quả lúa-hạt lúa.

Ở trên núi mây - nơi người nông dân vãi cỏ ấy không có chỗ ở nên hết mùa

mác hu chín rụng, chúng bay khắp bầu trời lấp lánh trở thành triệu triệu ngôi sao

bay trên bầu trời vào ban đêm. Dòng sông ấy người Cao Lan vẫn gọi là dòng “ngắn

tờ”- sông Ngân Hà.

Từ đó con người có hạt mác - hu ăn. Nhớ công lao nông dân nọ, người ta tôn

ông là Thần Nông- người đã dạy cho dân biết cày cấy ruộng nương để có hạt gạo ăn

hàng ngày.(Theo Di sản văn hóa dân gian Bắc Giang tập 4- NXB văn hóa thông tin

năm 2006)

8. Truyện kể về ngôi nhà ở của người Cao lan

Một người con trai út của vua Thủy thần (Màng Táy Num) đang mải chơi

đánh quay. Đúng lúc ấy thì nhà vua đi qua. Con quay bật mạnh làm vỡ chỏm mũ

vàng của nhà vua. Nhà vua bực quá phạt cậu phải lên mặt đất làm con lợn rừng một

tháng. Một ngày ở dưới nước bằng một năm ở trên trần- 30 ngày tức 30 năm. Chàng

út phải lầm lũi kiếm ăn trong rừng. Một lần đi vào rừng, chàng gặp một cô gái mồ

côi xấu xí cuốc đất làm nương. Chàng lợn rừng bèn ra giúp đỡ rồi hai bên thân quen

với nhau. Một đêm trời mưa to, nước lũ dâng cao, nàng phải ngủ lại lán trong rừng.

Đến nửa đêm, chàng lợn rừng lột bỏ áo da lợn trở thành một chàng trai khỏe đẹp

đến tình tự với nàng. Từ đó, ban ngày chàng là chú lợn, tối lại là chàng trai và hai

người chở thành vợ chồng. Ngày qua tháng lại, hai người sinh được một cậu con

trai. Chú bé suốt ngày chỉ thích nhẩy xuống nước và bơi lặn như một con dái cá.

Dưới vực sâu nọ có một con trâu thần và hàng ngày chú bé thường lặn xuống vực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

để chơi với trâu thần. Lâu dần, chú bé và trâu thần quen thân nhau, làm bạn với

nhau. Một hôm trâu thần rụng một cái răng nanh. Chú bé cầm chiếc răng trâu chơi

và còn mang cả về nhà. Trong bản lũ trẻ con ham chơi thường vẽ các con vịt con gà.

Khi chúng vẽ xong chú bé lấy răng trâu thần chấm vào mắt thì con vịt vẽ ấy bỗng

nhiên rùng mình và trở thành con vịt thật. Chú bé lấy làm thích thú bèn vẽ cả đàn

vịt, chúng liền vỗ cánh ùa xuống ao thành đàn. Chú bé thích chí vẽ cả đàn trâu, gà,

chó, ngựa… Cứ vẽ xong con gì thì con ấy lại hiện lên thật. Nhà cha mẹ chú bé (ông

lợn và bà mồ côi )trở lên giàu có nhưng vẫn chưa có ngôi nhà đàng hoàng. Chú bé

liền ra một bãi đất rộng vẽ một ngôi nhà sàn to. Chú bé vừa vẽ xong nét cuối cùng

là cái cầu thang thì bỗng nhiên mây đen kéo đến, sấm chớp ầm ầm, gió bão nổi lên

cuốn theo túp lều ọp ẹp cũ kỹ của họ đi. Một cơn mưa to đổ xuống. Sau một thời

gian, khi mưa tạnh, trời quang bỗng hiện lên một ngôi nhà sàn thật to đẹp. Cả nhà

chú vào trong ngôi nhà đó ở.

Người cha hỏi con kiếm đâu ra cây bút thần mà vẽ gì được nấy vậy. Chú bé

kể lại chuyện chiếc răng nanh của con trâu ở dưới vực nước kia. Bố chú bé biết rằng

nhà vua đã cho quản gia về đón. Vào một hôm trời mưa to gió lớn, người cha ra bờ

sông nhảy ào xuống nước biến mất

Từ đó, người Cao Lan quan niệm là thần trâu đã cho họ những ngôi nhà sàn

vững chắc để ở. Ngôi nhà của người Cao Lan được mang biểu trưng là con trâu thần

trong đó bốn cây cột là bốn chân trâu thể hiện sự ngay thẳng, sự nối tiếp giữa đất và

trời, sự giao hòa âm dương như bốn chân con trâu thần luôn sống giữa thế gian để

bảo vệ mọi người, các xà kèo giằng níu là xương của con trâu, mái lợp, tường vách

là xương con trâu. Đầu trâu(đầu nhà là nơi người Cao Lan dành để làm nơi thờ

phụng).(Theo Di sản văn hóa dân gian Bắc Giang tập 4- NXB văn hóa thông tin

năm 2006).

9. Truyện Ông cộc, Ông dài

Vào thời Hùng Vương, khi đất trời bắt đầu buổi khai thiên lập địa, có một

người đàn bà ở nơi khác đến đây sinh cơ lập nghiệp. Hàng ngày, bà mò cua, bắt

ốc kiếm ăn. Một hôm trên đường lên rừng kiếm củi(đến đền Trung hiện nay) bà

thấy có một tảng đá lớn , trên đó có hình bàn chân người. Bà liền lấy chân mình ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ướm thử, sau đó ngủ thiếp đi . Bà mơ thấy một người đàn ông cao lớn đưa Bà đến

một lâu đài nguy nga tráng lệ. Sau khi tỉnh dậy, bà thấy trong người khác thường

và sau đó bà mang thai. Vì không thể ở được trong làng vì lời đàm tiếu của dân

làng , người đàn bà ấy phải làm lều ra bìa rừng (khu vực đền Hạ ngày nay) để ở

tạm. Sau ba năm, bà sinh được một cái bọc có ba quả trứng. Hàng ngày đi làm bà

thường giấu ba quả trứng ấy trong chăn. Vào ngày 13 tháng 3 năm ấy, ba quả trứng

ấy bỗng nở ra ba con rắn. Tuy vậy, bà không bỏ mà bẫn nuôi con bằng tình mẫu tử,

không một lời oán thán. Hàng ngày, khi bà đi chợ, làm đồng vắng nhà, ba con rắn

lột xác thành ba chàng hoàng tử khôi ngô tuấn tú. Một lần bà mẹ bất chợt trở về, bắt

gặp ba chàng hoàng tử hoảng hốt chui vào lốt rắn và bỏ chạy lên núi cao.Bà mẹ liền

chạy theo gọi con trở lại nhưng ba con của bà vẫn chạy miết lên rừng bà chui bào ba

cái lỗ trong một cái hang lớn. Bà tìm cách lôi con trở lại, không may bà dẫm phải

đuôi một con. Tuy đứt đuôi nhưng con rắn ấy vẫn chui được vào hang và người đời

gọi con rắn ấy là "ông Cộc" và hai con kia là "ông Dài". Từ truyền thuyết đó để

tưởng nhớ những người có công khai thiên lập địa, người dân ở đây vẫn duy trì

hương hỏa thờ cúng họ. Đền thờ bà mẹ (đền Mẫu) nằm bên bờ sông Cầu Lồ.Trên

núi có đền Hang Non. Trước đây, dân làng thờ ba ông lộ thiên ở đỉnh hang- ông Ba

ở giữa ông Hai và ông Cả ở hai bên. Sau này dân làng đưa mẫu và ba ông thờ trong

Hang Non và các đền: đền Hạ, đền Trung, đền Thượng. (Theo Di sản văn hóa dân

gian Bắc Giang tập 4- NXB văn hóa thông tin năm 2006).

10. Truyện Công Chúa Thiều Dương

Thiều Dương công chúa là con gái thứ 8 của vua Lê Thánh Tông sinh vào

ngày mồng 9 tháng tư năm Kỷ Mùi (1439). Nàng là người có nhan sắc: Mặt đẹp

như hoa, mắt phượng mày ngài, môi đỏ như son, da trắng như phấn, dáng đi yểu

điệu. Năm 17 tuổi, Thiều Dương tài sắc hơn cả con gái vua Nghiêu, vua Thuấn. Nhà

vua định gả chồng cho con nhưng Thiều Dương không chịu và nàng xin phép vua

cha được đi chu du thiên hạ. Yêu quý con gái, vua cha cũng bằng lòng. Thiều

Dương du ngoạn đến vùng Hoàng Mai thấy người dân nơi đây có phong tục thuần

hậu, lại thấy ngôi chùa ở đây rất linh thiêng liền cấp tiền cho dân tu tạo, chỉnh trang để

ngôi chùa được huy hoàng rực rỡ. Cũng từ đó, hàng năm công chúa thương về Hoàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Mai và đến thăm cảnh chùa thành tâm niệm phật, trau dồi pháp thuật tinh thông.

Khi quân giặc Chiêm Thành kéo vào bờ cõi, nhà vua và các tướng lĩnh trong

triều nhiều phen xuất trận mà chưa phân thắng bại. Công chúa Thiều Dương bèn xin

phép vua cha được đi đánh giặc. Nàng đến đất Hoàng Mai cùng nhân dân bản

phường lập một hành cung là nơi cầu đảo thiên địa thần kỳ để được âm phù, dương

trợ. Quả nhiên linh nghiệm, Thiều Dương mơ thấy thần linh trợ giúp. Nàng bèn làm

lễ tạ rồi cải trang thành nam nhi kéo quân đi dẹp giặc. Quân giặc tan tác tìm đường

tháo chạy, đất nước thanh bình, vua cùng công chúa đến thăm chiến địa. Thiều

Dương xin phép vua cha được trở lại Hoàng Mai, nơi nàng đã cầu đảo linh ứng. Khi

thuyền công chúa đang trên sông bỗng gió lớn nổi lên, mưa to trút xuống, mặt sông

nổi sóng ầm ầm lật sấp thuyền của công chúa. Ba ngày sau, thi thể của công chúa

nổi lên mặt nước rồi trôi theo dòng sông nhỏ về phía hành cung của phường Hoàng

Mai thì dừng lại. Nhân dân nhìn thấy dung mạo của công chúa vẫn y nguyên như

lúc còn sống thì lấy làm kinh sợ bèn báo về triều. Nhà vua ra lệnh cho nhân dân

trong phường làm lễ an táng cho công chúa ngay trên tại mảnh đất hành cung rồi

dựng một ngôi miếu ngay cạnh mộ địa để phụng sự hương hỏa. Vua còn chu cấp

cho phường Hoàng Mai 1000 quan tiền để đèn hương thờ tự trong các dịp xuân thu

hàng năm đồng thời sắc phong mỹ tự: “Tối linh công chúa thượng đẳng phúc thần,

dữ quốc đồng hưu, vĩnh vi bá thúc”. Lại gia ân cho nhân dân bản phường được miễn

thuế trong hai năm. Chuẩn cho nhân dân phường Hoàng Mai, huyện Yên Dũng, phủ

Lạng Giang, trấn Kinh Bắc làm đền thờ chính để cho nhân dân các nơi hương hỏa,

phụng sự.(Theo Di sản văn hóa dân gian Bắc Giang tập 4- NXB văn hóa thông tin

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

năm 2006)

PHỤ LỤC II

MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐÌNH ĐỀN VÀ LỄ HỘI, DI TÍCH, DANH THẮNG Ở VÙNG

VĂN HÓA TÂM LINH TÂY YÊN TỬ

1. Ảnh Chùa Vĩnh Nghiêm và lễ hội Chùa Vĩnh Nghiêm

Cổng chùa Vĩnh Nghiêm vào ngày hội (Nguồn do tác giả chụp)

Màn trình diễn “Linh Thiêng Cổ Tự Vĩnh Nghiêm” tại lễ hội chùa Vĩnh

Nghiêm năm 2019 ( Nguồn do tác giả chụp)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Màn rước lễ của làng La Thượng về trước cửa Tam Bảo tại lễ hội chùa Vĩnh

Nghiêm năm 2019 (Nguồn do tác giả chụp)

Hành lễ Tam Tổ do thôn La Trung đảm nhiệm tại lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm

năm 2019 (Nguồn do tác giả chụp)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2. Ảnh Tây Yên Tử và lễ hội Tây Yên Tử

Toàn cảnh Tây Yên Tử năm 2019 ( Nguồn do tác giả chụp)

Chùa Hạ - Tây Yên Tử năm 2019 (Nguồn do tác giả chụp)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Khai hội Tây yên Tử năm 2019 ( Nguồn internet)

)

Triển khai hoạt động tuần văn hóa du lịch Tây Yên Tử năm 2019

(Nguồn do tác giả chụp)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

3. Ảnh đền Suối Mỡ, lễ hội Suối Mỡ và thắng cảnh Suối Mỡ

Cổng đền Hạ – Suối Mỡ năm 2019 (Nguồn do tác giả chụp)

Đền Thượng vào ngày chính hội Suối Mỡ năm 2019 (Nguồn do tác giả chụp)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Thắng cảnh thác Suối Mỡ năm 2019 (Nguồn do tác giả chụp)

4. Hình ảnh Đền Thanh Nhàn năm 2019 (Nguồn do tác giả chụp)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

5. Hình ảnh Đền Cổ Phao năm 2019 (Nguồn do tác giả chụp)

6. Hình ảnh Đình Ba Tổng - Yên Dũng năm 2019 (Nguồn do tác giả chụp)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn