ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ CÁT KHOA TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM (TRONG SO SÁNH VỚI TRUYỆN KIỀU)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC

VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ CÁT KHOA TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM (TRONG SO SÁNH VỚI TRUYỆN KIỀU)

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC

VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. TRẦN NHO THÌN THÁI NGUYÊN - 201

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn: Truyện Lục Vân Tiên dưới góc nhìn thể

loại truyện Nôm (trong so sánh với Truyện Kiều) là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong

bất cứ công trình nào khác.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN Hà Cát Khoa

i

LỜI CẢM ƠN

Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS Trần Nho Thìn, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy, cô khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và cơ quan đã quan tâm, động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 09 tháng 7 năm 2018

Tác giả luận văn

Hà Cát Khoa

ii

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii

MỤC LỤC ................................................................................................................. iii

PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 7

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................... 7

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 7

6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 8

7. Đóng góp mới của đề tài ......................................................................................... 8

8. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................... 9

NỘI DUNG .............................................................................................................. 10

Chương 1. LỤC VÂN TIÊN TRONG DÒNG CHẢY TRUYỆN THƠ

NÔM VIỆT NAM ...................................................................................... 10

1.1. Khái niệm truyện thơ ................................................................................... 10

1.2.

Phân loại truyện thơ ..................................................................................... 11

1.3. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyện thơ Nôm ................ 13

1.3.1. Giai đoạn hình thành của truyện thơ ............................................................ 13

1.3.2. Giai đoạn phát triển của truyện thơ .............................................................. 14

1.3.3. Giai đoạn kết thúc truyện thơ ....................................................................... 15

1.4. Vai trò, vị trí của truyện Lục Vân Tiên trong dòng chảy thể loại truyện

thơ Nôm ....................................................................................................... 15

1.5. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu ..................... 15

Tiểu kết: .................................................................................................................... 18

Chương 2. KẾT CẤU VÀ MÔ THỨC TỰ SỰ CỦA TRUYỆN LỤC VÂN

TIÊN TRONG SO SÁNH VỚI TRUYỆN KIỀU ................................... 19

2.1. Kết cấu ......................................................................................................... 19

2.1.1. Về nguồn gốc và phân loại truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều ............. 19

iii

2.1.2. Đặc điểm kết cấu theo mô thức truyện Nôm bác học ở truyện Lục Vân

Tiên trong so sánh với Truyện Kiều ............................................................ 21

2.1.3. Đặc điểm kết cấu theo mô thức truyện Nôm bình dân ở truyện Lục

Vân Tiên trong so sánh với Truyện Kiều .................................................... 26

2.2. Mô thức tự sự ............................................................................................... 37

2.2.1. Mô thức tự sự của truyện Nôm bác học ở truyện Lục Vân Tiên trong

so sánh với Truyện Kiều .............................................................................. 37

2.2.2. Mô thức tự sự của truyện Nôm bình dân ở truyện Lục Vân Tiên trong

so sánh với Truyện Kiều .............................................................................. 45

Tiểu kết:..................................................................................................................... 56

Chương 3. NHÂN VẬT VÀ NGÔN NGỮ TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN

TRONG SO SÁNH VỚI TRUYỆN KIỀU .............................................. 57

3.1. Nhân vật ở truyện Lục Vân Tiên trong so sánh với Truyện Kiều .............. 57

3.1.1. Kiểu nhân vật theo mẫu hình tài tử giai nhân .............................................. 57

3.1.2. Kiểu nhân vật theo mẫu hình truyện Nôm bình dân .................................... 68

3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Lục Vân Tiên trong so sánh với

Truyện Kiều ................................................................................................ 70

3.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ của truyện Nôm bác học .............................................. 70

3.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ của truyện Nôm bình dân............................................ 74

Tiểu kết: .................................................................................................................... 80

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 83

iv

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu có một vị trí vô

cùng quan trọng và đặc biệt. Quan trọng bởi ông là nhà văn đại diện cho Nam

Bộ, đưa văn học Nam Bộ tham gia vào văn học Việt Nam. Đặc biệt không

phải chỉ bởi ông là người có tâm đức và tài năng vượt lên trên số phận, mà

còn bởi tác phẩm của ông là sự kết hợp độc đáo những đặc trưng của văn học

viết với văn học dân gian; có tác dụng mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng trong

đời sống tinh thần của nhân dân, được nhân dân yêu mến trân trọng, gìn giữ

như những bài học quý về đạo đức làm người. Với một vị trí trân trọng như

vậy, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành

đối tượng tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu.

Nói đến Nguyễn Đình Chiểu thì không thể không nói tới truyện Lục Vân

Tiên. Đó là tác phẩm lớn của nền văn học dân tộc. Ngay từ khi mới ra đời và

trước khi được in thành sách, truyện đã được lưu truyền rộng rãi theo lối

truyền miệng trong dân gian Nam Kì lục tỉnh. Nếu khi Nguyễn Đình Chiểu

còn sống, truyện chủ yếu được lưu hành trong Nam Bộ thì sau khi ông mất

truyện được phổ biến trong phạm vi cả nước từ Nam ra Bắc. Đến nay đã có

hơn bốn mươi bản Lục Vân Tiên bằng quốc ngữ được in của nhiều nhà xuất

bản khác nhau. Điều đó khẳng định giá trị to lớn về nhiều mặt và tình yêu của

nhân dân dành cho tác phẩm này.

Nghiên cứu về tác phẩm Lục Vân Tiên các tác giả đã khai thác dưới

nhiều góc độ văn hóa, văn học, tín ngưỡng, ngôn ngữ… và đã thu được những

kết quả nhất định. Tuy nhiên nghiên cứu tác phẩm dưới góc độ thể loại truyện

thơ trong sự đối xứng với một tác phẩm văn học khác thì đây còn là một vấn

đề còn bỏ ngỏ.

Với những lí do trên, luận văn lựa chọn vấn đề Truyện Lục Vân Tiên từ

góc nhìn thể loại truyện Nôm (trong so sánh với Truyện Kiều) làm hướng

nghiên cứu.

1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu tác gia Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Lục Vân Tiên

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt

Nam, đặc biệt là dòng văn học Nam Bộ ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Tên tuổi

của ông gắn với nhiều tác phẩm nổi tiếng trong đó phải kể đến tác phẩm Lục

Vân Tiên. Do vậy, đã có khá nhiều công trình lớn nhỏ khác nhau nghiên cứu

về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm này. Các công trình này có thể tập hợp

theo các giai đoạn như sau:

- Giai đoạn từ trước thế kỷ XIX

Ngay từ khi mới ra đời, Lục Vân Tiên không chỉ được đông đảo người

dân Nam Bộ ưa chuộng mà còn thu hút sự chú ý với nhiều người Pháp mới

đến Nam Kỳ. Do vậy ngay từ năm 1864, G.Aubret đã sưu tầm và dịch tác

phẩm ra tiếng Pháp và cho in trong tập Kỷ yếu châu Á (Journal asiatique).

Hai năm sau, báo Courrier de Saigon số 14, ra ngày 20/7/1866 đã hoan

nghênh việc làm của Aubaret cùng với sự khen ngợi tác phẩm Lục Vân Tiên:

“tập thơ nhỏ trong ấy ta thấy vẻ tươi sáng cứng cỏi của những tình cảm xứng

đáng với các dân tộc tiên tiến [dẫn theo 67, tr 626]. Bên cạnh người Pháp,

trong giai đoạn này còn có sự đóng góp của học giả người Việt mà tiêu biểu là

Trương Vĩnh Ký với việc cho in bản dịch Lục Vân Tiên sang chữ Quốc ngữ

năm 1889.

- Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX

Từ đầu thế kỷ XX, tình hình nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu khá bình

lặng, nhưng đến 1938 khi chuyên luận Nỗi lòng Đồ Chiểu của Phan Văn Hùm

được công bố đã khơi nguồn cảm hứng mới cho việc nghiên cứu Nguyễn

Đình Chiểu và các tác phẩm của ông. Trong đó tiêu biểu là công trình nghiên

cứu của các tác giả như: Khuông Việt, Ca Văn Thỉnh, Trương Sơn Chí, Vũ

Ngọc Phan...

2

- Giai đoạn từ sau 1945

Cùng với sự thay đổi của lịch sử, các công trình nghiên cứu về Nguyễn

Đình Chiểu và những sáng tác của ông nói chung cũng như tác phẩm Lục Vân

Tiên nói riêng cũng chịu ảnh hưởng của điều kiện lịch sử xã hội. Tuy nhiên

những nghiên cứu này vẫn được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và tập

hợp trong các tài liệu mang tính khái lược như: Việt Nam văn học sử trích yếu

của Nghiêm Toản (1949), Văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỷ thứ XIX

(1952) của Nguyễn Tường Phượng - Bùi Hữu Sủng, Khởi thảo văn học sử

Việt Nam - Văn chương chữ Nôm (1953) Thanh Lãng…

- Giai đoạn từ 1954 -1975

Từ sau năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc với hai

thể chế chính trị khác nhau. Do vậy, quá trình nghiên cứu, phê bình về tác giả

và tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu nói chung và tác phẩm Lục Vân Tiên nói

riêng có sự phân hóa thành hai miền rõ rệt.

Ở miền Bắc nổi bật có các nhà nghiên cứu như: Hoàng Tuệ, Vũ Đình

Liên, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn

Khánh Toàn, Trần Nghĩa, …

Ở miền Nam nổi lên với tạp chí Văn đàn đã ra số đặc biệt (37+38+39).

Ngoài ra còn hai công trình văn học sử của Phạm Thế Ngũ Việt Nam văn học

sử giản ước tân biên và Bảng lược đồ văn học Việt Nam (thượng - hạ 1967)

của Thanh Lãng. Kỷ yếu Lễ kỷ niệm Nguyễn Đình Chiểu cùng với bộ Sưu tập

những bài báo về Nguyễn Đình Chiểu và Sưu tập bổ túc các bài báo về

Nguyễn Đình Chiểu đã tập hợp 79 bài viết về Nguyễn Đình Chiểu từ đầu thế

kỷ đến năm 1971 với các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Duy Cần, Ái Lan, Võ

Văn Dung, Bàng Bá Lân, Vũ Bằng…

- Giai đoạn từ 1975 đến nay

Khi đất nước hoàn toàn độc lập, văn học không còn những vùng cấm

nữa. Do vậy, cách tiếp cận và nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm

3

Lục Vân Tiên cũng trở nên đa dạng và phong phú hơn tiêu biểu với các công

trình như: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX của nhà nghiên cứu Nguyễn

Lộc, Văn học Việt Nam nơi miền đất mới (4 tập, 2007-2008) của Nguyễn. Q.

Thắng, Văn học Nam Kỳ lục tỉnh, tập 3 của Nguyễn Văn Hầu,…Công trình

văn học sử mới nhất có đề cập đến Nguyễn Đình Chiểu là Văn học Việt Nam

từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX của Trần Nho Thìn (2012). Tiếp theo định

hướng tiếp cận văn học Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đã có từ các công trình

trước đó, Trần Nho Thìn đã xem xét Nguyễn Đình Chiểu trong tương quan

không gian văn học Nam Bộ, để làm nổi bật phong cách cá nhân cũng như

phong cách thời đại mà Nguyễn Đình Chiểu sống và sáng tác.

2.2. Lịch sử nghiên cứu thể loại truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn

Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt

Nam, đặc biệt là dòng văn học Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Ông sáng

tác trên nhiều thể loại và thể loại nào ông cũng đạt được những thành công

nhất định. Nghiên cứu về thể loại truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn

Đình Chiểu nói chung và tác phẩm truyện Lục Vân Tiên nói riêng đã được khá

nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến.

Trong bài viết Từ Lục Vân Tiên đến Dương Từ Hà Mậu, Nguyễn Văn

Hoàn đưa ra ý kiến: "Từ Lục Vân Tiên đến Dương Từ - Hà Mậu là sự tiếp tục

nhất quán của một phong cách, một khuynh hướng, là sự phát triển tự nhiên

của một tài năng sáng tạo trên một chặng đường mới của lịch sử. Tiếp theo

Lục Vân Tiên, tiếng kêu gọi bảo vệ đạo đức, bảo vệ chính nghĩa trong Dương

Từ - Hà Mậu đã báo hiệu tiếng kêu gọi kháng chiến, kêu gọi bảo vệ đất nước

trong giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Đình Chiểu" [dẫn theo 67,

tr.438]. Ở bài viết này, Nguyễn Văn Hoàn quan tâm đến sự chuyển biến về

nội dung tư tưởng trong hai truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu là Lục Vân

Tiên và Dương Từ - Hà Mậu.

4

Trong bài Truyện thơ Lục Vân Tiên với văn hóa dân gian Nguyễn Quang

Vinh cho rằng việc xây dựng nhân vật Lục Vân Tiên rất gần với văn học dân

gian. Số phận Vân Tiên “được tô vẽ theo màu sắc cổ tích dân gian”, những sự

kiện trong cuộc đời từ “thử thách gian nan, để rồi cuối cùng lại sum họp sau

nhiều thắng lợi” là kiểu kết cấu của loại hình tự sự xã hội dân gian. Nhân vật

Vân Tiên theo tác giả “rất gần với cái cương trực và nghĩa hiệp của con

người miền Nam” dẫn theo 67, tr.373.

Lâm Vinh trong bài viết Truyện “Lục Vân Tiên” và vấn đề mối quan hệ

đạo đức và thẩm mỹ đã nhận xét “Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm vừa

mang tính bác học, vừa mang tính bình dân của một tác giả nhưng được truyền

đi và bổ sung theo lối dân gian, được sáng tác trong điều kiện của một nền văn

hóa Đàng Trong nửa cuối thế kỉ XIX, với tất cả những đặc điểm về đời sống tinh

thần và văn chương và ngôn ngữ của miền đất mới.” dẫn theo 67, tr.382.

Vũ Đức Phúc trong bài viết Đạo nho và các nhân vật trí thức trong sáng

tác Nguyễn Đình Chiểu đã đi tìm hiểu các nhân vật trí thức trong ba truyện

Nôm của Nguyễn Đình Chiểu. Ông khẳng định: "Nhân vật trí thức trong các

truyện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp mà

tôi muốn nói ở đây trước hết là người thạo chữ Hán, thông hiểu kinh truyện

của đạo Nho" [dẫn theo 67, tr.241].

Trong bài viết Tính nhân dân của Nguyễn Đình Chiểu, tác giả Phan

Ngọc khẳng định “Thế giới của Lục Vân Tiên của Dương Từ - Hà Mậu, Ngư

Tiều y thuật vấn đáp ngoài một số yếu tố huyền thoại bắt buộc đối với mọi

truyện Nôm, là thế giới hiện thực Việt Nam” [dẫn theo 67, tr.259]. Với nhận

định này Phan Ngọc đã chú trọng đến chất liệu hiện thực trong đề tài sáng tác

của truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu.

Lê Ngọc Trà trong bài viết Nguyễn Đình Chiểu trong sự vận động của

văn chương Việt Nam cận đại đưa ra nhận định: "Lục Vân Tiên, Dương Từ -

Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp là những truyện thơ mang tính chất kể

5

nhiều hơn đọc. Với tính cách là những câu chuyện bằng thơ, các tác phẩm

này tập trung được khá nhiều truyền thống ưu tú của truyện thơ, câu thơ dân

gian [dẫn theo 67, tr.271]. Trong bài viết này tác giả chú trọng đến yếu tố

ngôn ngữ trong ba truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu đó là Lục Vân Tiên,

Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp.

Thể loại truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ

được nhìn trong tiến trình sáng tác của tác giả mà còn được so sánh với các

tác giả và tác phẩm khác. Nguyễn Đình Chú nhận xét “Về thể loại truyện thơ,

Lục Vân Tiên của Đồ Chiểu đáng xếp vào hàng thứ hai sau Truyện Kiều của

Nguyễn Du, sáng tạo nghệ thuật ở sức sống, ở khả năng phôn - cờ - lô -ri - dê

(dân gian hóa) của nó” [dẫn theo 67, tr.581].

Tác giả Nguyễn Phong Nam trong bài viết Hình tượng thời gian trong

các truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu đã nhận xét “Nhìn chung thời gian

trong truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu là thời gian có tính chất phiếm

định. Đấy là thời gian của truyện kể, các truyền thuyết, cổ tích nghĩa là thuộc

phạm trù trung cổ song đặt trong chỉnh thể tác phẩm, hình tượng thời gian ở

truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu có ý nghĩa rất quan trọng. Nó đã giữ một

vai trò lớn lao trong việc thể hiện ý thức tư tưởng nghệ thuật của nhà văn,

phục vụ đắc lực cho mục tiêu hàng đầu: truyền bá đạo lí, giáo huấn về đạo

đức. Hình tượng thời gian đã góp phần tạo nét cá biệt, độc đáo của phong

cách nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu ở thể loại truyện Nôm” [dẫn theo 67. tr.

454]. Ý kiến của tác giả đã chú trọng tới yếu tố thời gian trong truyện Nôm

của Nguyễn Đình Chiểu.

Như vậy, việc nghiên cứu truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình

Chiểu đã được khá nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm. Các nghiên cứu này

chủ yếu tập trung vào các truyện: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư

Tiều y thuật vấn đáp. Những nghiên cứu này quan tâm đến các phương diện

đạo đức, ngôn ngữ, nhân vật… trong truyện Nôm của Nguyễn Đình Chiểu.

6

Qua đó, các nhà nghiên cứu hướng đến khẳng định vai trò và vị trí quan trọng

của Nguyễn Đình Chiểu trong nền văn học nước nhà. Tuy nhiên chưa có công

trình nào nghiên cứu tổng thể phương diện nội dung và nghệ thuật của truyện

Lục Vân Tiên dưới góc nhìn thể loại truyện thơ Nôm trong quan hệ so sánh với

Truyện Kiều để làm rõ giá trị và đặc trưng nghệ thuật của Lục Vân Tiên như

một tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam nói chung, ở Nam Bộ nói riêng.

3. Mục đích nghiên cứu

Qua việc phân tích, nghiên cứu một cách nghiêm túc và khoa học về

phương diện nghệ thuật của truyện thơ Lục Vân Tiên dưới góc nhìn thể loại

truyện thơ Nôm và trong quan hệ so sánh với Truyện Kiều, chúng tôi mong

muốn có được những đánh giá khách quan, phát hiện và khẳng định giá trị

nghệ thuật đặc sắc riêng của tác phẩm; thấy được mối quan hệ giữa truyện

Lục Vân Tiên với Truyện Kiều - truyện thơ tiêu biểu nhất- dưới góc nhìn thể

loại truyện thơ. Trên cơ sở đó, đề tài góp thêm tiếng nói khẳng định tài năng

của Nguyễn Đình Chiểu cũng như giá trị và sức sống vượt thời gian của tác

phẩm trong lòng nhân dân. Chúng tôi cũng mong muốn và hi vọng rằng đề

tài này sẽ mang lại những tri thức bổ ích cho công việc giảng dạy và học tập

tác phẩm Lục Vân Tiên trong các nhà trường phổ thông.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài; đưa ra

được những nhận định khoa học, đánh giá khách quan, phát hiện và khẳng

định giá trị nghệ thuật đặc sắc riêng của tác phẩm; thấy được mối quan hệ

giữa truyện Lục Vân Tiên với Truyện Kiều dưới góc nhìn thể loại truyện thơ.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập trung tìm hiểu, phân

tích và đánh giá về phương diện nghệ thuật của truyện Lục Vân Tiên từ góc

nhìn thể loại truyện thơ Nôm trong sự so sánh với Truyện Kiều của Nguyễn

Du. Về văn bản hai tác phẩm, chúng tôi lựa chọn: Cuốn Lục Vân Tiên của

nhà xuất bản Văn học năm 1971 do Vũ Đình Liên và Nguyễn Sỹ Lâm biên

7

soạn; cuốn Truyện Kiều do Giáo sư Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú

giải, xuất bản lần thứ XIII, Nhà xuất bản Giáo dục năm 1996.

6. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tổng hợp nhiều bài

nghiên cứu, phê bình của các tác giả viết về Lục Vân Tiên. Luận văn sử

dụng lý thuyết về thi pháp học, vận dụng phương pháp nghiên cứu tác giả

văn học để nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng các nhân vật trong truyện

Lục Vân Tiên, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu như:

Phương pháp tiếp cận văn hóa học: chú trọng phân tích văn hóa từ

phương diện lịch sử để giải thích mối liên hệ giữa tác giả Nguyễn Đình

Chiểu và văn hóa Nam Bộ.

Phương pháp lịch sử: thông qua việc tìm hiểu điều kiện, hoàn cảnh xã

hội, không gian văn hóa Nam Bộ, tư tưởng Nho giáo và các yếu tố có ảnh

hưởng đến quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu để xác định vị trí

của ông trên tiến trình thơ văn trung đại.

Phương pháp thống kê để tìm ra những chi tiết, ý nghĩa quan trọng, được lặp

đi lặp lại như là dấu hiệu thi pháp riêng biệt của tác giả. Thông qua đó, chúng tôi

rút ra những nhận xét đánh giá mang tính khái quát, hệ thống về nhân vật và quan

niệm về con người trong truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác như: so sánh,

bình luận, phân tích, và chứng minh,… trong khoa học nghiên cứu văn học

để làm rõ hơn về nội dung của đề tài.

7. Đóng góp mới của đề tài

Về mặt lí luận, luận văn nghiên cứu phương diện nghệ thuật của truyện

thơ Lục Vân Tiên dưới góc nhìn thể loại truyện thơ Nôm trong quan hệ so

sánh với Truyện Kiều. Luận văn có những nhận định khoa học, phát hiện và

khẳng định những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm, mối quan

hệ giữa truyện Lục Vân Tiên với Truyện Kiều. Đề tài này sẽ mang lại những

8

tri thức bổ ích cho công việc giảng dạy và học tập tác phẩm Lục Vân Tiên

trong các nhà trường phổ thông.

8. Cấu trúc luận văn

Cấu trúc luận văn gồm ba phần: ngoài phần mở đầu và kết luận, nội

dung chính của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Lục Vân Tiên trong dòng chảy truyện thơ Nôm Việt Nam.

Chương 2: Kết cấu và mô thức tự sự của truyện Lục Vân Tiên.

Chương 3: Nhân vật và ngôn ngữ trong truyện Lục Vân Tiên.

9

NỘI DUNG

Chương 1

LỤC VÂN TIÊN TRONG DÒNG CHẢY

TRUYỆN THƠ NÔM VIỆT NAM

1.1. Khái niệm truyện thơ

Truyện thơ là một khái niệm được nhắc nhiều trong các lĩnh vực nghiên

cứu thể loại văn học trung đại cũng như văn học dân gian. Các nhà khoa học

đã khẳng định truyện thơ là một thể loại quan trọng trong văn học Đông Nam

Á nói chung và văn học Việt Nam nói riêng.

Từ khi ra đời cho đến nay, truyện thơ có tầm ảnh hưởng nhất định đối

với nền văn học của nước nhà, đặc biệt là quần chúng nhân dân lao động. Để

phù hợp với đối tượng thưởng thức, ở nước ta truyện thơ viết bằng chữ Hán

không phổ biến mà chủ yếu là truyện thơ viết bằng chữ Nôm. Do vậy, thuật

ngữ truyện thơ không được dùng phổ biến mà thay vào đó là thuật ngữ truyện

Nôm. Nguyên nhân của tên gọi truyện Nôm “là cách rút gọn của khái niệm

truyện thơ Nôm, và cũng do điều kiện lịch sử văn xuôi Nôm không phát triển,

nghĩa là văn Nôm chỉ tồn tại dưới dạng văn vần và biền ngẫu, cho nên gọi

như vậy mà không sợ nhầm lẫn là truyện văn xuôi Nôm” [56, tr.395].

Trần Đình Sử cho rằng “Truyện thơ Nôm là một sáng tạo độc đáo của

văn học dân tộc” [56, tr.395]. Nhà nghiên cứu đưa ra quan điểm không nên

đồng nhất truyện Nôm với thể loại truyện cổ tích. Bởi trong truyện Nôm yếu

tố tự sự, yếu tố trữ tình rất phong phú. Ngoài ra trong truyện Nôm có sự kịch

tính, lời thoại các nhân vật đặc biệt thể loại này còn xuất hiện những lời bình

triết lý hoặc bình về trữ tình.

Phương Lựu cho rằng truyện thơ “Là thể loại tự sự bằng thơ. Người

phương Tây gọi là “poème” - thường dịch là trường ca. Người Trung Quốc

gọi là “tự sự thi” hoặc “trường thiên tự sự thi” [43, tr.383]. Như vậy, ông coi

10

truyện thơ cũng là một loại tiểu thuyết do nó nghiêng về thể loại và bút pháp

tiểu thuyết.

Cùng chung quan điểm Phương Lựu, các tác giả khác như Đặng Thanh

Lê, Hà Minh Đức, Lê Hoài Nam… đều cho rằng truyện Nôm là một thể loại

tiểu thuyết.

Hà Minh Đức và Bùi Văn Nguyên cho rằng: “truyện thơ có khả năng

phản ánh những mặt phong phú của đời sống xã hội. Trên ý nghĩa đó truyện

thơ có thể được xem như một tiểu thuyết. Một mặt khác do chỗ vận dụng ngôn

ngữ thơ ca để diễn đạt nên từ hình ảnh, nhịp điệu đến cú pháp thơ ca, truyện

thơ tự xác định chỗ khác nhau với tiểu thuyết” [10, tr.329].

Lê Hoài Nam cho rằng: “Truyện Nôm là một loại hình văn học đã có từ

lâu. Đó là những sáng tác văn học hầu hết có tính chất trung thiên tiểu thuyết,

và viết bằng thể thơ lục bát, có khi bằng thất ngôn bát cú. Mặc dù trải qua

thời gian, nhiều truyện Nôm đã bị mất mát thất truyền, nhưng số còn lại hiện

nay cũng khá nhiều. Xét về mặt nội dung cũng như mặt hình thức, truyện Nôm

có nhiều yếu tố phức tạp. Nhiều tác giả thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau

ở vào nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, đã chung sức xây dựng nên cái gia

tài to lớn ấy.” [51, tr.170].

Truyện thơ có thể hiểu như sau: là những sáng tác tự sự dưới hình thức

thơ ca trường thiên.

1.2. Phân loại truyện thơ

Để phân loại truyện thơ, giới nghiên cứu đã dựa chủ yếu vào các tiêu chí sau:

Tiêu chí thứ nhất: dựa vào thể thơ dùng để sáng tác. Lại Nguyên Ân và

Bùi Văn Trọng Cường phân truyện thơ thành hai loại: truyện thơ Đường luật

và truyện thơ lục bát. Tác phẩm ở thể loại thứ nhất “là một liên hoàn gồm một

loạt bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt. Ví dụ: Tô Công phụng sứ gồm 24

bài, Vương Tường 49 bài (39 bài bát cú, 10 bài tứ tuyệt), Lâm Tuyền kỳ ngộ -

146 bài bát cú, 1 bài tứ tuyệt, 1 bài ca khúc…” [1, tr.664]. Do việc cố tìm

11

xem có phải truyện thơ Đường luật là một dạng xuất hiện sớm của truyện

Nôm và cũng có nhiều người lại muốn tìm kiếm niên đại của nó nên vô hình

chung họ đã “coi truyện thơ Đường luật chỉ là dạng ít thuận lợi nên ít được

dùng cho truyện thơ Nôm” [1, tr.665]. Ở thể loại truyện thơ lục bát “hầu như

hoàn toàn dùng thơ lục bát, chỉ đôi khi mới xen một vài đoạn ngắn các thể

khác (như nói lối, thơ Đường luật, từ khúc)” [1, tr.665].

Tiêu chí thứ hai: dựa vào tác giả sáng tác. Nguyễn Lộc trong cuốn Văn

học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thể kỉ XIX) đưa ra cách phân loại

truyện Nôm thành hai loại truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học.

Trong đó “Truyện Nôm bác học phần lớn có tên tác giả, chỉ có một số ít là

khuyết danh. Nói chung, tác giả của truyện Nôm bác học là những người

thuộc tầng lớp phong kiến quý tộc, có trình độ học vấn uyên bác, có qua trình

tu dưỡng nghệ thuật… Truyện Nôm bình dân là những truyện hầu hết khuyết

danh… tác giả của nó không phải thuộc tầng lớp trên mà thuộc tầng lớp dưới.

[41, tr.476 - 477].

Đồng quan điểm với Nguyễn Lộc, Trần Đình Sử trong công trình Mấy

vấn đề về thi pháp văn học trung đại [56], Trần Đình Sử cho rằng: “Mặc dù

giữa hai loại truyện Nôm có nhiều mối liên hệ sâu sắc, song việc phân loại

như vậy là phù hợp thực tế và thuận lợi cho nghiên cứu. Truyện Nôm khuyết

danh phần lớn sử dụng cốt truyện dân gian, hãn hữu sử dụng cốt truyện nước

ngoài. Phần lớn truyện Nôm có tên tác giả, bác học vay mượn cốt truyện

Trung Quốc hoặc tự sáng tác. Do truyện khuyết danh có khi vì chưa tìm ra

tên tác giả, cho nên đúng hơn nên phân loại truyện Nôm thành hai loại bình

dân và bác học” [56, tr.395]. Cũng theo Trần Đình Sử: “Đối với truyện Nôm

bác học - truyện Nôm của văn nhân - lấy đề tài từ các tiểu thuyết chương hồi

Trung Quốc như Song Tinh, Hoa Tiên, Truyện Kiều, Ngọc Kiều Lê… vốn đầy

rẫy chi tiết, tình tiết thì tác giả truyện Nôm lại tướt bỏ bớt chi tiết rườm rà cụ

thể để làm nhạt đi màu sắc Trung Quốc, mà tôn lên những tính chất chung về

12

con người, hoặc thay vào đó các chi tiết, cảnh gợi nhớ đến làng quê hoặc

kinh kỳ Việt Nam” [56, tr.408].

Còn truyện Nôm bình dân gồm các tác phẩm như: Phạm Tải Ngọc Hoa,

Tống Trân Cúc Hoa, Phương Hoa, Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Thoại Khanh

Châu Tuấn… Trong Từ điển Văn học có đề cập đến loại này như sau: “Đó là

những truyện được viết lại trên cơ sở truyện cổ tích hay diễn ca truyện cổ

tích. Tất cả đều khuyết tên tác giả” [25, tr.1847].

Tiêu chí thứ ba: dựa vào nguồn gốc trực tiếp của đề tài truyện Nôm. Tác

giả Lê Hoài Nam trong Lịch sử Văn học Việt Nam tập 3 [51], đã dựa vào hai

tiêu chí trên để phân loại truyện Nôm thành 3 loại.

Loại thứ nhất: Truyện Nôm có nguồn gốc đề tài dựa vào truyện cổ tích,

thần thoại, hay sự tích thần thoại với các tác phẩm Trương Chi, Tấm Cám…;

loại thứ hai: dựa vào các tiểu thuyết Trung Quốc gồm những tác phẩm như

Nhị độ mai, Hoa Tiên, Vương Tường, Tô công phụng sứ, Bạch Vân Tôn Các,

Hoàng Trừu, Truyện Kiều…; cuối cùng là kiểu tự thuật, tự truyện như: Sơ

Kính tân trang, Lục Vân Tiên…

Cho dù theo tiêu chí phân loại nào các tác giả cũng đảm bảo được nội

dung mà từng thể loại truyện Nôm đề cập. Và một lần nữa khẳng định rằng

thể loại văn học cổ đặc sắc này đã có ảnh hưởng không nhỏ trong nền văn học

dân tộc.

1.3. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyện thơ Nôm

1.3.1. Giai đoạn hình thành của truyện thơ

Sự hình thành và phát triển của thể loại truyện thơ không thể tách rời quá

trình hình thành và phát triển của văn học Nôm nói riêng cũng như quá trình

hình thành và phát triển của loại hình tự sự trong văn học Việt Nam nói chung.

Theo sử sách cũ còn để lại thì việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn

học đã khởi phát từ đời Trần. Tuy các tác giả sáng tác văn thơ Nôm cũng như

các tác phẩm văn học Nôm thời Trần chưa nhiều nhưng nó là giai đoạn hình

thành những cơ sở bước đầu của nền văn học Nôm.

13

Sang thời Lê, sự phát triển của thể loại tự sự bằng thơ lục bát đã góp

phần thúc đẩy quá trình hình thành của thể loại truyện Nôm.

1.3.2. Giai đoạn phát triển của truyện thơ

Giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, truyện thơ bước

sang thời kỳ nở rộ và đạt đến đỉnh cao thành tựu. Bên cạnh hàng loạt truyện

Nôm bình dân (khuyết danh) là hàng loạt truyện Nôm bác học (hữu danh):

Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Truyện

Kiều của Nguyễn Du, Mai Đình mộng ký của Nguyễn Huy Hổ, Truyện Tây

sương và Ngọc Kiều Lê tân truyện của Lý Văn Phức, Bích Câu kỳ ngộ của Vũ

Quốc Trân,... Truyện Kiều của Nguyễn Du là đỉnh cao của thể loại truyện

Nôm và là tác phẩm bất hủ trong lịch sử văn học dân tộc. Tuy nhiên trước khi

Truyện Kiều xuất hiện, phải có vai trò báo trước của những tác phẩm đi trước,

đặc biệt là Hoa tiên ký.

Hoa tiên ký (thường gọi là truyện Hoa Tiên) của Nguyễn Huy Tự là

truyện Nôm đầu tiên xuất hiện ở Đàng Ngoài vẫn giữ nguyên được tên tác

giả. Đây là tác phẩm đã để lại ảnh hưởng khá sâu đậm đối với truyện Nôm

bác học giai đoạn sau. Song tinh truyện của Nguyễn Hữu Hào là truyện Nôm

bác học ra đời sớm nhất ở Đàng Trong.

Thành công và nghệ thuật của Hoa tiên ký đã thực sự đánh một dấu

mốc quan trọng đối với việc định hình, phát triển của thể loại, góp phần

không nhỏ cho sự phát triển của thể loại, cho sự xuất hiện của hàng loạt

truyện Nôm bác học sau này.

Sự chuyển thể sáng tạo của Nguyễn Huy Tự từ một tác phẩm mang

nguồn gốc Trung Quốc vào thể loại truyện Nôm trong văn học Việt Nam có ý

nghĩa hết sức quan trọng.

Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX truyện Nôm bắt đầu chững lại. Riêng

Nguyễn Đình Chiểu viết liền ba truyện Nôm dài, có thể xem đây như một

hiện tượng của truyện Nôm Việt Nam.

14

1.3.3. Giai đoạn kết thúc truyện thơ

Như trên đã đề cập thì giai đọạn phát triển cực thịnh của thể loại truyện

Nôm diễn ra trong suốt nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Tuy

nhiên, khoảng thời gian từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhiều

biến cố, thay đổi quan trọng diễn ra khiến cho thể loại truyện Nôm không còn

chỗ đứng. Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ cùng với sự du nhập của nền văn

hóa phương Tây đã có tác động rất lớn vào mọi mặt của đời sống xã hội…

Chính vì lẽ đó mà nền văn học Hán, Nôm ngày càng bị mai một dần.

1.4. Vai trò, vị trí của truyện Lục Vân Tiên trong dòng chảy thể loại

truyện thơ Nôm

Với tác phẩm Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã ý thức được trách

nhiệm của mình đối với xã hội, với cộng đồng, với đất nước. Nguyễn Đình

Chiểu đã đưa truyện Nôm theo một hướng khác hẳn với truyện Nôm trước đó.

Tất cả đều vì cộng đồng, vì xã hội, vì đất nước. Có thể xem đây là bước

ngoặt, là sự đóng góp quan trọng nhất vào lịch sử của thể loại truyện Nôm.

Truyện Lục Vân Tiên được sáng tác sau khoảng thời gian tác giả bị mù

tức là sau năm 1848. Bản chữ Nôm được khắc in năm 1864. Tác phẩm ra đời

trong giai đoạn cuối của thể loại truyện thơ Nôm. Do vậy, truyện đã có sự tiếp

thu và hoàn thiện về nhiều mặt so với những tác phẩm truyện Nôm trước đó.

Cùng với nhiều thể loại khác (thơ, văn tế, hịch), truyện Nôm của Nguyễn

Đình Chiểu tiêu biểu là tác phẩm Lục Vân Tiên đã làm sống dậy văn học Nam

Bộ, và đưa văn học Nam Bộ vào quỹ đạo của văn học cả nước.

1.5. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (tức 1 tháng 7

năm 1822) tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh

Gia Định. Ông xuất thân trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy,

người làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.

15

Thuở nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu được mẹ nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi,

ông theo học với một ông thầy đồ ở làng. Khi Lê Văn Khôi con nuôi Lê Văn

Duyệt nổi lên chống triều đình, chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm

cả Nam Kỳ. Trong cơn binh biến, cha của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế,

nên bị cách hết chức tước. Song vì thương con, cha ông lén trở vào Nam, đem

ông ra gửi cho một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học.

Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840). Giai

đoạn này văn học chữ Nôm đang trong thời kỳ hưng thịnh. Nhiều tác phẩm

được phổ biến rộng rãi trong đó nổi bật nhất là Truyện Kiều. Tác phẩm không

chỉ được đông đảo công chúng trong cả nước biết đến mà còn được vua tôi

nhà Nguyễn yêu thích và đề vịnh rất sôi nổi. Sống trong bối cảnh như vậy

Nguyễn Đình Chiểu chắc chắn đã đọc Truyện Kiều và chịu ảnh hưởng từ tác

phẩm ở mức độ nào đó.

Năm Quý Mão (1843), ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi.

Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông. Năm 1847, ông ra Huế học

để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849). Nhưng kế hoạch của Nguyễn Đình

Chiểu đã bị gián đoạn vì mẹ ông qua đời vào cuối năm 1848 sau trận ốm

nặng. Ông rời Huế về quê chịu tang mẹ. Đường xa, nhiều gian khổ, lại thương

khóc mẹ, ông bị đau mắt rồi mù vĩnh viễn. Lâm cảnh đui mù, hôn thê bội ước,

cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến

năm 1851, thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định). Truyện

thơ Lục Vân Tiên của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.

Nguyễn Đình Chiểu ngoài ba mươi tuổi mà vẫn chưa xây dựng gia đình.

Thương cảnh thầy, một người học trò đã nói với cha gả em gái của minh cho

thầy. Do vậy, năm 1854 Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền làm vợ.

Tình hình đất nước bấy giờ rối ren hơn trước. Giặc Pháp không phải chỉ

khiêu khích, mà ngày 11 tháng 2 năm 1859 đã đánh thẳng vào của biển Cần

Giờ sau đó chúng chiếm luôn Gia Định. Nguyễn Đình Chiểu bỏ Gia Định

16

chạy về quê vợ ở Cần Giuộc. Với hàng ước năm 1862, triều đình Huế đã giao

ba tỉnh miền Đông cho Pháp; Nguyễn Đình Chiểu lại dọn về Ba Tri, Bến Tre.

Ông tham gia chống Pháp bằng cách cùng bàn mưu kế với Trương Định. Thơ

văn yêu nước của ông gắn liền với những biến cố trong giai đoạn này. Ngày 3

tháng 7 năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu qua đời trong sự tiếc thương vô hạn

của nhân dân.

Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiều có thể chia làm hai giai

đoạn. Giai đoạn thứ nhất là trước khi Pháp đánh chiếm Gia Định. Những sáng

tác của ông tập trung ca ngợi các giá trị đạo đức truyền thống tiêu biểu như:

Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu. Giai đoạn thứ hai là sau khi Pháp đánh

chiếm Gia Định, các tác phẩm tập trung lên án quân xâm lược, phê phán triều

đình nhu nhược, ngợi ca các tấm gương chiến đấu của nhân dân: Chạy Tây,

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế

nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh… Đây được coi là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất

của sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu.

Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác bằng chữ Nôm, với

ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, khiến cho tác phẩm của ông

có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam.

Thông qua những sáng tác của mình, Nguyễn Đình Chiểu cũng là nhà thơ

đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong văn

học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ tiên phong

trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời Nguyễn Đình

Chiểu cũng đề cao tư tưởng Nho gia. Tuy nhiên điều đáng chú ý là các tư

tưởng ấy mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách

nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn,

khởi đầu cho một thời đại văn chương sử thi mới sau này. Như vậy, so với

các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn,

vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông

rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ tinh thần yêu nước nước, lòng căm

ghét quân địch và bọn bán nước.

17

Tiểu kết:

Truyện thơ là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn

học Việt Nam. Nó là những sáng tác tự sự dưới hình thức thơ ca trường thiên.

Mặc dù hiện nay chưa xác định chính xác được thời điểm xuất hiện của truyện

thơ nhưng có thể khẳng định rằng nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX

là giai đoạn nở rộ nhất của thể loại này. Nó bắt đầu suy tàn từ những năm cuối

thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong lịch sử tồn tại của truyện Nôm trong nền

văn học dân tộc đã ghi nhận hai tác phẩm xuất sắc là Truyện Kiều của Nguyễn

Du và truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Vấn đề phần loại truyện

thơ tuy vẫn chưa nhận được sự thống nhất của các nhà nghiên cứu nhưng dù

phân loại theo tiêu chí nào các tác giả cũng đảm bảo được nội dung mà từng

thể loại truyện Nôm đề cập.

Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm ra đời trong thời kì cuối của truyện

Nôm. Do vậy tác phẩm đã có sự tiếp thu và hoàn thiện về nhiều mặt so với

những tác phẩm truyện Nôm trước đó. Điều này góp phần khẳng định vai trò

và vị thế của truyện thơ Nôm trong nền văn học nước nhà.

Nguyễn Đình Chiểu là một tác gia lớn của văn học dân tộc, cuộc đời

ông đã trải qua nhiều thăng trầm, biến cố và qua đó đã khơi nguồn cho những

sáng tác của ông. Trong thời gian ở Huế có tác động không nhỏ đến sự nghiệp

của Nguyễn Đình Chiểu sau này. Đó là giai đoạn mà văn học chữ Nôm đặc

biệt là các tác phẩm truyện thơ Nôm như Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm,

Cung oán Ngâm khúc đang rất thịnh hành, Do vậy, Nguyễn Đình Chiểu chịu

ảnh hưởng của những tác phẩm này là điều không thể phủ nhận.

18

Chương 2

KẾT CẤU VÀ MÔ THỨC TỰ SỰ CỦA TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN

TRONG SO SÁNH VỚI TRUYỆN KIỀU

2.1. Kết cấu

2.1.1. Về nguồn gốc và phân loại truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều

2.1.1.1. Nguồn gốc truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều

Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu,

được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỉ XIX. Bản chữ

Nôm được khắc in năm 1864. Tác phẩm bằng chữ quốc ngữ được Trương

Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Đây là một trong những

sáng tác có vị trí cao của văn học miền Nam. Xoay quanh nguồn gốc tác

phẩm hiện có hai luồng ý kiến trái chiều. Sự chưa thống nhất này xuất phát từ

câu thơ mở đầu tác giả viết “Trước đèn xem chuyện Tây minh”. Hai chữ “Tây

minh” khiến cho các nhà nghiên cứu đưa ra những quan điểm khác nhau về

nguồn gốc của truyện. Trong đó quan điểm thứ nhất cho rằng truyện được

Nguyễn Đình Chiểu sáng tác dựa trên một cốt truyện có sẵn. Tiêu biểu cho

quan điểm này là nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm. Trong bài viết Lục Vân

Tiên của Nguyễn Đình Chiểu ông cho rằng: “Nhân đọc một cuốn tiểu thuyết

nhan là “Tây minh” thấy vai chính trong truyện là Lục Vân Tiên gặp cảnh

ngộ thảm thương tựa thân thế mình, bèn theo đấy mà thảo ra bản truyện

Nôm” [dẫn theo 67, tr.359]. Tuy đưa ra nhận định đó, nhưng trong bài viết,

Dương Quảng Hàm chưa đưa ra được cuốn tiểu thuyết có tên Tây minh của

Trung Quốc. Nếu theo quan điểm này thì xét về nguồn gốc truyện Lục Vân

Tiên và Truyện Kiều có sự tương đồng. Truyện Kiều của Nguyễn Du có tên là

Ðoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột). Tác phẩm không

phải do Nguyễn Du hoàn toàn hư cấu mà tác giả đã dựa vào một tác phẩm của

văn học cổ Trung Quốc có tên là Kim Vân Kiều truyện của tác giả có biệt hiệu

là Thanh Tâm Tài Nhân.

19

Trái ngược với quan điểm truyện Lục Vân Tiên được sáng tác dựa trên

cốt truyện có sẵn thì nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác phẩm do Nguyễn

Đình Chiểu hư cấu. Tiêu biểu cho quan điểm này là nhà nghiên cứu Trần

Nghĩa. Trong Thử bàn về nguồn gốc truyện Lục Vân Tiên ông đã đưa ra

những lập luận khoa học để giải thích nguyên nhân và trình bày nguồn gốc

của chữ “Tây minh” mà Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng. Tác giả viết: “Tây

minh trước hết không phải là một “cuốn truyện” hay một cuốn “tiểu thuyết”.

Tây minh rõ ràng là một cuốn sách thuộc phạm trù đạo đức, triết học” [dẫn

theo 67, tr. 363]. Năm 1978, Nguyễn Thạch Giang viết Nguyễn Đình Chiểu -

Thân thế và sự nghiệp đã chỉ ra Tây minh là một thiên trong cuốn Tính lý tiết

yếu của Trương Tái. Trong Tây minh, Trường Tái bàn về đạo lý, đặc biệt

nhắc đến “đồng bào”. Trương Tái quan niệm rằng, đồng bào là những người

sinh ra trong cùng một bọc nên phải yêu thương nhau, con người phải hiếu

thảo với cha mẹ, thuận hòa với anh em, bà con làng xóm. Với việc chỉ ra

nguồn gốc và nội dung của Tây minh, Nguyễn Thạch Giang viết: “Tư tưởng

về “đồng bào” đó của Trương Tái rất phù hợp với tư tưởng nhân nghĩa

truyền thống của dân gắn với đức tính truyền thống của Gia Định mà Nguyễn

Đình Chiểu hấp thu được. Cho nên khi sáng tác Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình

Chiểu đã thấm thía về tình nghĩa đối với dân, đối với đồng bào. Do đó mà tác

giả Lục Vân Tiên khi mở đầu tập thơ của mình đã lấy Tây minh làm chuẩn

mực triết lý - đạo đức” [dẫn theo 67, tr.51]. Tác giả còn khẳng định: “Ngoài

Lục Vân Tiên ra, triết lý Tây minh còn ảnh hưởng đến Dương Từ - Hà Mậu,

Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca và toàn bộ thơ, văn tế của ông” [dẫn theo 67,

tr.51]. Theo chúng tôi, những tư liêụ và lập luâṇ của Trần Nghĩa và Nguyễn

Thạch Giang là những căn cứ đủ thuyết phục để khẳng điṇh Lục Vân Tiên là

tác phẩm do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác.

Như vậy khi xét về nguồn gốc truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều,

chúng ta đã thấy sự phát triển của thể loại truyện thơ Nôm. Từ Truyện Kiều,

20

Nguyễn Du dựa một tác phẩm của Trung Quốc để sáng tác đến truyện Lục

Vân Tiên đã có ý kiến cho rằng đây là tác phẩm do Nguyễn Đình Chiểu tự

sáng tác.

2.1.1.2. Phân loại truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều

Hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất trong việc phân loại

truyện Nôm. Do vậy để phân loại truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều chúng

tôi căn cứ vào các tiêu chí sau:

Tiêu chí thứ nhất: dựa vào thể thơ dùng để sáng tác. Hai tác phẩm Lục

Vân Tiên và Truyện Kiều cùng được sáng tác theo thể thơ lục bát. Đây là một

thể thơ truyền thống của dân tộc.

Tiêu chí thứ hai: dựa vào tác giả sáng tác. Truyện Kiều và truyện Lục Vân

Tiên nếu xét theo tiêu chí này thì hai tác phẩm đều do hai văn nhân sáng tác.

Truyện Kiều do Nguyễn Du còn truyện Lục Vân Tiên là do Nguyễn Đình Chiểu

sáng tác. Do vậy hai tác phẩm được phân loại là truyện thơ Nôm bác học.

Tiêu chí thứ ba: dựa vào nguồn gốc trực tiếp của đề tài truyện Nôm. Dựa

theo tiêu chí này thì Truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên không nằm chung

nhóm. Bởi Truyện Kiều được sáng tác dựa vào tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài

Nhân của Trung Quốc còn Lục Vân Tiên hoàn toàn sáng tác dựa vào thực tế

Việt Nam.

2.1.2. Đặc điểm kết cấu theo mô thức truyện Nôm bác học ở truyện Lục

Vân Tiên trong so sánh với Truyện Kiều

2.1.2.1. Cốt truyện

Theo đánh giá của Nguyễn Lộc, truyện Nôm bác học “Hầu hết là loại

truyện được viết dựa theo những cốt truyện trong văn học cổ Trung Quốc, cá

biệt mới có truyện được nhà thơ hư cấu sáng tác” [41, tr. 476]. Như vậy đặc

điểm nổi bật nhất của cốt truyện Nôm bác học chính là việc vay mượn cốt

truyện. Đặc điểm này thể hiện rõ nhất ở Truyện Kiều. Bởi Nguyễn Du sáng

21

tác dựa trên tác phẩm văn học cổ Trung Quốc có tên là Kim Vân Kiều truyện

của Thanh Tâm Tài Nhân.

Theo Dương Quảng Hàm trong bài viết Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình

Chiểu cho rằng: “Nhân đọc một cuốn tiểu thuyết nhan là “Tây minh” thấy vai

chính trong truyện là Lục Vân Tiên gặp cảnh ngộ thảm thương tựa thân thế

mình, bèn theo đấy mà thảo ra bản truyện Nôm” [dẫn theo 67, tr. 359]. Như

vậy, theo nhận định của tác giả thì truyện Lục Vân Tiên có cốt truyện thuộc

loại truyện Nôm bác học. Tuy nhiên nguồn gốc chính xác truyện Tây minh

cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Bởi theo Hoàng Ngọc

Phách, Lê Trí Viễn, Vũ Đình Liên “Truyện Tây minh thì đến nay vẫn chưa

biết là có hay không vì những bảng kê tác phẩm trong các văn học sử Trung

Quốc không thấy đâu nói đến” [dẫn theo 67, tr. 362]. Còn theo Trần Nghĩa

“Thực ra ở Trung Quốc không phải không có cuốn Tây minh nào. Có đấy! Lật

sách Từ Hải tìm hai chữ “Tây minh” chúng ta sẽ thấy ngay chú thích: Tây

minh là một cuốn sách do một người đời Tống tên là Trương Tái soạn [dẫn

theo 67, tr.362].

Như vậy xét về cốt truyện trên tiêu chí vay mượn thì Truyện Kiều của

Nguyễn Du mang dấu ấn của truyện Nôm bác học rõ nét hơn so với truyện

Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Bởi hiện nay các nhà nghiên cứu đã

xác định được chính xác tác phẩm mà Nguyễn Du mượn cốt truyện để viết

Truyện Kiều. Còn với truyện Lục Vân Tiên hiện các nghiên cứu về việc

Nguyễn Đình Chiểu mượn cốt truyện chỉ mang tính chất phỏng đoán.

Cốt truyện trong truyện Nôm bác học ngoài việc được xác định dựa trên

tiêu chí vay mượn còn căn cứ vào tiêu chí “truyện được nhà thơ hư cấu sáng

tác” [41, tr.476]. Nếu xét tiêu chí này, ta thấy rằng truyện Lục Vân Tiên thể

hiện rõ đặc điểm của thể loại truyện Nôm này. Bởi theo Trần Nho Thìn,

“Truyện thơ Lục Vân Tiên có nhiều dấu hiệu của một thiên tự truyện. Điểm

này có nhiều nhà nghiên cứu đã lưu ý. Ông và Lục Vân Tiên đều vì từng khóc

thương mẹ mất mà mù mắt; cả hai đều bị vị hôn thê bội ước” [66, tr. 637].

22

Mặc dù không đồng nhất cùng một tiêu chí, Truyện Kiều có cốt truyện

vay mượn còn truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm mang tính chất tự truyện được

nhà văn hư cấu nhưng cả hai tác phẩm đều thỏa mãn những tiêu chí cơ bản

của mô thức truyện Nôm bác học.

2.1.2.2. Nội dung

Nội dung truyện Nôm bác học “có nhiều mặt phong phú, tiến bộ đồng

thời ghi lại dấu vết đậm nét những mâu thuẫn và hạn chế trong thế giới quan

và nhân sinh quan của tác giả, vốn là những người thuộc tầng lớp trên” [41,

tr 477]. Nếu xét trên tiêu chí này thì Truyện Kiều của Nguyễn Du thể hiện

đặc điểm của truyện Nôm bác học đậm nét hơn so với truyện Lục Vân Tiên.

Bởi Truyện Kiều phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của

giai cấp thống trị. Đồng thời tác phẩm cũng tố cáo sức mạnh của đồng tiền đã

băng hoại số phận những con người đặc biệt là người phụ nữ. Gia đình Thúy

Kiều đang sống bình yên, chỉ vì một lời “vu oan giá hoạ” của thằng bán tơ mà

tai hoạ ập xuống. Sau cái cớ ấy, bọn sai nha được lũ quan lại dung túng, bảo

hộ, giật dây nên đã đến cướp phá, đánh đập gia đình Kiều. Kẻ cầm đầu lũ vô

lại ấy đã tuyên bố: “Có ba trăm lạng, việc này mới xong”. Sức mạnh của đồng

tiền khi nó nằm trong tay kẻ xấu thật kinh khủng, đồng tiền đã thành một thế

lực vạn năng chi phối mọi hoạt động, làm băng hoại lương tâm, nhân phẩm

của con người.

Còn truyện Lục Vân Tiên cũng hướng tới vạch trần cái ác, cái xấu trong

xã hội gian ác, bất công, tráo trở, bội bạc, phản phúc như cha con Võ Công,

những kẻ bất nghĩa, bất nhân như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, bọn người làm ăn

bất lương chuyên nghề lừa bịp như bọn thầy bói, thầy pháp, bọn lang băm…

Nhưng vấn đề phán ánh xã hội trong tác phẩm lại không được đề cao bởi mục

đích Nguyễn Đình Chiểu sáng tác tác phẩm là để “muốn nêu lên những tấm

gương về luân lý đạo đức kiểu Nhị thập tứ hiếu” [41, tr.638].

23

2.1.2.3. Nhân vật sử dụng nhiều ngôn ngữ đối thoại và độc thoại

Một điểm khác biệt lớn giữa truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình

dân đó chính là việc sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Bởi “trong

truyện Nôm bình dân, nhân vật đối thoại ít hơn so với truyện Nôm bác học,

còn độc thoại thì dường như rất hiếm “[41, tr. 491]. Khi xét trên tiêu chí này

thì truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều thể hiện khá rõ đặc điểm của truyện

Nôm bác học.

Đối thoại là một hình thức tồn tại của nhân vật và của tác phẩm. Nó có

nhiều dạng thức tồn tại khác nhau. Trong truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều

có khi đối thoại biểu hiện dưới dạng trực tiếp thông qua hệ thống câu hỏi:

Hỏi: "Ai than khóc ở trong xe nầy?"

Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 139 - 140]

Rằng: Sao nói lạ lùng thay!

Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?

[Truyện Kiều, câu 1320- 1321]

Ngôn ngữ đối thoại ngoài biểu hiện dưới dạng trực tiếp còn được biểu

hiện gián tiếp thông qua lời của tác giả kể chuyện, thuật lại hành động phát

ngôn của nhân các nhân vật …

Công rằng: "Ngãi tế mới sang,

Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà".

Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,

Đại khoa dầu đặng tiểu khoa lo gì".

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 355 - 358]

- Vân rằng: Chị cũng nực cười,

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.

Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ?(…)

24

Quan rằng: Chị nói hay sao,

Một lời là một vận vào khó nghe

- Kiều rằng: những đấng tài hoa

Thác là thể phách, còn là tinh anh (…)

Đặc điểm kết cấu của truyện Nôm bác học trong Truyện Kiều và truyện

Lục Vân Tiên còn được thể hiện qua việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại. Độc

thoại là phát ngôn của nhân vật nói với chính bản thân, trực tiếp phản ánh quá

trình tâm lý bên trong, kiểu độc thoại thầm, mô phỏng hoạt động suy nghĩ,

xúc cảm của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó.

Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình!

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 239 - 240]

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

[Truyện Kiều, câu 1039 - 1043]

Truyện Lục Vân Tiên chủ yếu dùng để kể nên thiên về miêu tả hành động

trực tiếp của nhân vật, bởi vậy ngôn ngữ độc thoại của nhân vật không nhiều

như Truyện Kiều. Trong Truyện Kiều riêng nhân vật Thuý Kiều có 17 lần độc

thoại, Kim Trọng 7 lần, Thúc Sinh 2 lần, Hoạn Thư 2 lần… Ngôn ngữ độc

thoại trong Truyện Kiều chủ yếu biểu hiện những xung đột, mâu thuẫn trong

thế giới nội tâm nhân vật, khắc hoạ sâu sắc hơn tính cách nhân vật. Thuý Kiều

là nhân vật luôn cảm xúc, luôn trầm tư, đó là con người cảm nghĩ. Bảy lần

Kiều nhớ nhà là bảy lần nàng ngồi độc thoại. Khi đi chơi xuân về đêm ngủ

nàng nhớ và nghĩ đến Đạm Tiên, đến Kim Trọng cho thấy sự nhạy cảm, đa

cảm của tâm hồn Kiều.

25

2.1.3. Đặc điểm kết cấu theo mô thức truyện Nôm bình dân ở truyện Lục

Vân Tiên trong so sánh với Truyện Kiều

2.1.3.1. Cốt truyện

Truyện Nôm bình dân có cốt truyện “thường được viết dựa theo những

câu chuyện cổ dân gian Việt Nam, chứ không phải dựa theo những cốt truyện

của Trung Quốc” [41, tr. 477 - 478]. Khi xét về cốt truyện của tác phẩm Lục

Vân Tiên ngoài những phần giống cuộc đời thực của Nguyễn Đình Chiểu như

từ thuở bé được học hành chu đáo, thi đậu tú tài, trên đường chuẩn bị đi thi

kỳ thi tiếp thì mẹ mất nên đã bỏ thi trở về chịu tang mẹ, giữa đường vì quá

thương khóc mẹ nên bị mù mắt, bị vị hôn thê bội ước thì trong tác phẩm ta

thấy bóng dáng của truyện dân gian. Đầu tiên là môtip dũng sĩ cứu người

đẹp, trong truyện cổ dân gian, Thạch Sanh đã giết đại bàng cứu Quỳnh Nga

còn trong truyện của mình Nguyễn Đình Chiểu cũng sử dụng môtíp này qua

hành động Lục Vân Tiên đánh bọn cướp Phong Lai cứu Nguyệt Nga. Ngoài

môtip dũng sĩ cứu người đẹp trong truyện Lục Vân Tiên còn sử dụng môtip

đánh thắng giặc vinh hiển. Trong truyện dân gian nhân vật chính sau khi

chiến thắng những kẻ tiểu nhân, giặc ngoại xâm kéo đến chàng đánh thắng và

được nhường ngôi còn trong truyện Lục Vân Tiên, Vân Tiên sau khi thoát

nạn thi đỗ vinh hiển có công đánh thắng giặc nên được trọng thưởng. Như

vậy, truyện Lục Vân Tiên mang đặc điểm kết cấu theo mô thức truyện Nôm

bình dân khá rõ ràng còn Truyện Kiều của Nguyễn Du hoàn toàn không mang

đặc điểm của thể loại truyện này.

2.1.3.2. Nhân vật được miêu tả qua hành động

Nhân vật trong truyện Nôm bình dân “thường được miêu tả thông qua

hành động, chứ không phải thông qua miêu tả ngoại hình hay phân tích nội

tâm” [41, tr. 490]. Ảnh hưởng của truyện Nôm bình dân thể hiện trong truyện

Lục Vân Tiên và Truyện Kiều được thể hiện khá rõ qua nghệ thuật xây dựng

nhân vật.

26

Trong truyện Lục Vân Tiên, các nhân vật thường được miêu tả qua

hành động “ngắn gọn, gợi nghệ thuật diễn xướng của tuồng hát bội”[66, tr.

638]. Trên đường đi thi, gặp bọn cướp Phong Lai hoành hành chàng xông vào

đánh cướp để cứu dân. Đây là một việc nghĩa mà chàng không thể không làm

với mục đích cao đẹp, xuất phát từ tấm lòng tự nguyện.

Vân Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 123 - 126]

Lục Vân Tiên khi chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, gây họa cho

người dân với bản tính cương trực, căm ghét cái ác đã thôi thúc chàng hành

động, và hành động của chàng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng

không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất mà lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại

bảo vệ người dân. Trong tình huống đánh bọn cướp Phong Lai chàng không

kịp chuẩn bị mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ

cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Nhân nghĩa trong hành động mà

lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của

chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”. Trong

tác phẩm Lục Vân Tiên không chỉ có chàng họ Lục được miêu tả thông qua

hành động mà còn có nhiều nhân vật khác. Trong đó phải kể đến Hớn Minh,

một trang nam tử hán gặp tên quan huyện Đặng Sinh “gặp con gái tốt cưỡng

gian không nghì” tức thì nổi giận hành động:

Tôi bèn nổi giận một khi

Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 1161 - 1162]

Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hành động của nhân vật trong truyện Lục

Vân Tiên nhanh, mạnh, dứt khoát, đặc biệt tác giả hầu như không phân tích

27

động cơ tâm lý khi hành động. Những điểm này cho thấy hành động của các

nhân vật trong tác phẩm rất giống với kịch tuồng. Qua nghệ thuật xây dựng

hành động của nhân vật, rõ ràng Nguyễn Đình Chiểu chịu ảnh hưởng của nghệ

thuật trình diễn ở vùng đất phương Nam trong sáng tác là khá đậm nét.

Hành động của nhân vật trong truyện Lục Vân Tiên không chỉ chịu ảnh

hưởng kịch tuồng mà nó còn bị chi phối sâu sắc bởi giáo dục Nho giáo. Trong

lần đầu gặp mặt, sau khi đánh tan bọn cướp Nguyệt Nga định xuống xe để tạ

ơn cứu mạng nhưng Vân Tiên đã vội cản lại.

Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái ta là phận trai.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 145 - 146]

Qua hành động trên, có thể khẳng định Vân Tiên ảnh hưởng khá đậm

nét giáo dục của lễ, quy định quan hệ nam nữ thụ thụ bất thân.

Trong truyện Lục Vân Tiên ảnh hưởng của Nho giáo ngoài thể hiện qua

hành động còn được thể hiện qua phát ngôn:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi.

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 179 - 180]

Vân Tiên tự khẳng định hành động cứu Nguyệt Nga là hành động vì

nghĩa, bởi sách thánh hiền từng dạy “Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã” (Thấy việc

nghĩa không làm thì không phải người anh hùng - Luận ngữ, thiên Vi chính).

Ngoài nhân vật Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực cũng được miêu tả

thông qua hành động của một người đọc sách thánh hiền thông qua hành động

phản kháng khi gia đình Võ Công định gả con gái cho.

Tới đây thời ở lại đây,

Cùng con gái lão sum vầy thất gia.

Phòng khi hôm sớm vào ra,

Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên".

28

Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên.

Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.

Vợ Tiên là Trực chị dâu,

Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.

Chẳng hay người học sách chi,

Nói sao những tiếng dị kì khó nghe?

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 1223 - 1232]

Nói sao chẳng biết hổ thầm,

Người ta há phải là cầm thú sao?

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 1239 - 1240]

Nguyệt Nga tuy là phận nữ nhi nhưng cũng được Nguyễn Đình chiểu

miêu tả thông qua những hành động vì nghĩa. Gặp Vân Tiên trong hoàn cảnh éo

le, trước một chàng trai khôi ngô tuấn tú, anh hùng trượng nghĩa thì nàng không

tránh được việc nảy sinh tình cảm. Nhưng vì xuất thân trong gia đình gia giáo,

nàng đã nhanh chóng chuyển cảm xúc sang bổn phận và trách nhiệm.

Vân Tiên từ giã phản hồi,

Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình!

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông!

Trăm năm cho vẹn chữ tùng mới an.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 237 - 244]

Miêu tả nhân vật qua hành động cũng là điểm tương đồng khá rõ nét

giữa truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều. Trong Truyện Kiều, Mã Giám Sinh

29

sau khi làm lễ “vấn danh”, được Mụ mối đưa vào “lầu trang”, lúc này bản

chất hạ lưu trong con người hắn mới dần dần được bộc lộ.

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.

[Truyện Kiều, câu 630 - 631]

Chỉ bằng cử chỉ “ngồi tót”, Nguyễn Du đã phơi bày chân tướng vô học,

bản chất con buôn của Mã Giám Sinh. Đó là một cử chỉ vội vàng, khiếm nhã,

không phù hợp với địa vị người đi hỏi vợ và không đúng với phẩm cách văn

hóa của một giám sinh trường Quốc học.

Cũng cùng phường xấu xa, lừa lọc với Mã Giám Sinh còn có Sở Khanh.

Chỉ bằng hành động “lẻn” và cử chỉ “lẩm nhẩm gật đầu” Nguyễn Du đã lột

trần bộ mặt đáng ghê sợ của Sở Khanh khi đánh lừa Kiều:

Tường đông lay động bóng cành

Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào

[Truyện Kiều, câu 1094 - 1095]

Rồi khi nghe Kiều ân cần kể lể, hắn:

Lặng nghe lẩm nhẩm gật đầu

Ta đây nào phải ai đâu mà rằng

[Truyện Kiều, câu 1100 - 1101]

Hành động “lẻn” và cử chỉ “lẩm nhẩm” của Sở Khanh được Nguyễn

Du sử dụng đã hàm ý chỉ một người không tử tế.

Miêu tả nhân vật bằng hành động, không chỉ Nguyễn Du vận dụng khi

khắc họa phường buôn thịt bán người mà một viên quan đại thần như Hồ Tôn

Hiến cũng được tác giả vận dụng thành công để làm bật lên bộ mặt lưu manh,

xảo trá. Phụng chỉ quân vương đi dẹp loạn nhưng hắn không đấu với Từ Hải

bằng tài năng mà lại dùng mưu mô thấp hèn để mua chuộc Thuý Kiều, lừa hại

chết Từ Hải. Vô liêm sỉ hơn, sau khi Từ chết, hắn còn ép Kiều “hầu hạ dưới

màn”, làm nhục Kiều:

30

Nghe càng đắm, ngắm càng say

Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình

[Truyện Kiều, câu 2579 - 2580]

Trước vẻ đẹp của Thuý Kiều, hành động “ngây” đã bộc lộ rõ một hình

ảnh si mê, thấp hèn…

Không chỉ có các nhân vật phản diện mà đối với các nhân vật chính

diện, Nguyễn Du cũng lựa chọn cách miêu tả nhân vật qua hành động, cử chỉ

để khắc hoạ tính cách. Trong tiết thanh minh, Thúy Kiều và Kim Trọng gặp

nhau đã nảy sinh tình cảm trong lòng.

Người quốc sắc kẻ thiên tài

Tình trong như đã mặt ngoài còn e.

[Truyện Kiều, câu 2579 - 2580]

Thúy Kiều, vì tình yêu, vì khao khát hạnh phúc, được tâm sự với người

yêu nàng đã:

Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

[Truyện Kiều, câu 431 - 432]

Với cử chỉ “xăm xăm” bộc lộ rõ Kiều là con người dám vượt ra khỏi

những quy định khắt khe của lễ giáo phòng kiến để hành động theo sự mách

bảo của trái tim mình.

Mặc dù nhân vật cùng được miêu tả qua hành động của nhân vật trong

truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều có sự khác nhau rõ rệt. Truyện Lục Vân

Tiên, Nguyễn Đình Chiểu chỉ đơn thuần miêu tả hành động nhưng trong

Truyện Kiều, hành động nhân vật thường được tác giả bình luận, tỏ thái độ và

phân tích tâm lý nhân vật khi hành động. Trước hành động bán mình chuộc

cha thì Nguyễn Du đã có đoạn thơ rất dài miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều

khi trao lại duyên cho Thúy Vân. Thúy Kiều bắt đầu giãi bày nỗi lòng của

mình bằng những câu thơ như dao cắt:

31

Giữa đường dứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

[Truyện Kiều, câu 725 - 730]

Trước khi hành động Thúy Kiều đã đắn đo bên tình bên nghĩa “Hiếu tình

khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Nguyễn Du đã miêu tả khá sinh động những mâu

thuẫn nội tâm của nhân vật.

Như vậy, bằng cách miêu tả nhân vật qua hành động, Nguyễn Đình

Chiểu và Nguyễn Du đã khiến cho nhân vật trong truyện Lục Vân Tiên và

Truyện Kiều hiện lên cụ thể, sinh động. Tuy nhiên hành động của các nhân

vật trong hai tác phẩm bị chi phối bởi những yếu tố khác nhau. Trong truyện

Lục Vân Tiên các nhân vật được miêu tả qua hành động mang tính đạo lí, còn

hành động của các nhân vật trong Truyện Kiều mang tính hiện thực.

2.1.3.3. Nhân vật phân theo hai tuyến đối lập

Trong các truyện Nôm bình dân, khi sử dụng lối kết cấu tương phản, đối

lập, cho dù truyện có số lượng nhân vật ít hay nhiều, thì tính cách cũng được phân

chia thành các phe/ tuyến khác nhau: thiện - ác, chính - tà, tốt - xấu… Do vậy,

“Tính cách của nhân vật trong truyện Nôm bình dân, nét nổi bật là tính chất

đơn giản, một chiều bất biến” [41, tr.491]. Ở truyện thơ Nôm bình dân, tuyến

thiện là những nhân vật xuất thân nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng

trong xã hội. Họ thuộc những người chính nghĩa mang đầy đủ những nét đẹp

của con người như tài năng, ngay thẳng, đẹp người đẹp nết, hiếu nghĩa, hoặc

vua sáng và quan chức thanh liêm... Tiêu biểu cho tuyến nhân vật chính diện

trong truyện Nôm bình dân có thể kể đến các nhân vật: Phạm Công, Cúc Hoa,

32

Phạm Tải, Ngọc Hoa, Phương Hoa, Lão bà, Lý Công, Diêm Vương… Trong

truyện Lục Vân Tiên nhân vật Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh,

Vương Tử Trực ... Truyện Kiều có nhân vật: Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương

Quan, Kim Trọng, Từ Hải, sư Giác Duyên … cũng được xếp vào tuyến nhân

vật này.

Tuy nhiên khác với truyện kể dân gian hay truyện Nôm bình dân, nhân

chính diện trong Lục Vân Tiên là sự kết hợp của lý tưởng đạo lý dân gian và lí

tưởng của nhà Nho. Do vậy, trong truyện còn có kiểu nhân vật mang màu sắc

ẩn sĩ theo Nho giáo, rõ nhất là ở nhân vật ông Quán với lối sống lánh đời.

Dấn thân vào chốn an nhàn

Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 617 - 618]

Đồng cảm với Vân Tiên khi biết chàng vừa mất người thân nên ông đã

giúp đỡ vô tư, khảng khái.

Quán rằng: thương đấng anh hùng

Đưa ba hườn thuốc để dành hộ thân.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 607 - 608]

Tuyến ác là những con người nắm quyền kinh tế và chính trị thường là

từ anh chị cả đến phú nông, vua quan. Họ thuộc những người phi nghĩa, mang

đầy đủ những đặc tính xấu từ ngoại hình đến nhân cách: họ là kẻ ác thường

mưu mô xảo trá, ỷ thế cậy quyền, coi thường kỷ cương, đạo lý, nhân nghĩa.

Điển hình cho tuyến nhân vật phản diện trong truyện Lục Vân Tiên có: Trịnh

Hâm, Bùi Kiệm, cha con nhà họ Võ, thái sư đương triều… Những nhân vật

này hành động hoàn toàn trái ngược với đạo lý. Gia đình họ Võ có hôn ước

với họ Lục, khi Vân Tiên khôi ngô tuấn tú, tài năng hơn người thì họ săn đón,

thậm chí còn lo sợ chàng “tham đó bỏ đăng”, “chơi lê quên lựu chơi trăng

quên đèn”. Nhưng khi Vân Tiên gặp nạn họ sẵn sàng bỏ mặc, thập chí còn

33

ruồng rẫy, hãm hại chàng. Cha con Võ Thể Loan nhẫn tâm đem bỏ Vân Tiên

bị mù vào hang tối. Còn Trịnh Hâm ganh ghét Vân Tiên hơn người nên đã lập

mưu hãm hại bằng việc trói tiểu đồng hòng cho hổ ăn thịt, đẩy chàng xuống

biển hòng giết người. Bùi Kiệm bất chấp mối thân tình với Vân Tiên mà ép

duyên Nguyệt Nga. Còn trong Truyện Kiều, điển hình cho nhân vật phản diện

có thể kể đến viên quan xấu xa như Hồ Tôn Hiến, bọn “buôn thịt bán người”

như: Tú Bà, Mã Giám Sinh ... Cách xây dựng nhân vật phân tuyến trong

truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều là sự lí giải cho quy luật nhân quả.

Trong Truyện Kiều ngoài kết cấu nhân vật theo hai tuyến đối lập chính

diện - phản diện thì có thêm kiểu “nhân vật trung gian” khó phân tuyến như

Hoạn Thư, Thúc Sinh… Hoạn Thư thoạt nhìn có thể coi đây là nhân vật tiêu

biểu cho sự tàn bạo độc ác, một con người có tính ghen tuông cay nghiệt…

nhưng thật ra đó chỉ là lớp vỏ bề ngoài. Vượt qua tất cả, Hoạn Thư còn là một

con người luôn biết cách giữ cho gia đình êm ấm, tránh điều tiếng, giữ gìn

danh dự cho chồng, cho mình, trả thù thói đen bạc của chồng nhưng không

đối xử cạn tàu ráo máng với tình địch mà còn có chút vị tha, trước hoàn cảnh

bờ vực vẫn tỏ ra bình tĩnh, khôn ngoan để thoát chết…

Ngoài ra Thúy Kiều mặc dù là nhân vật chính diện nhưng vẫn có mặt

hạn chế. Khi khuyên Từ Hải đầu hàng triều đình, Nguyễn Du đã phơi bày sự

tham lam và chủ nghĩa cơ hội của nàng.

Nàng thời thật dạ tin người,

Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.

Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,

Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.

Bằng nay chịu tiếng vương thần,

Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!

Công tư vẹn cả hai bề,

34

Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.

Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,

Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.

Trên vì nước dưới vì nhà,

Một là đắc hiếu hai là đắc trung.

Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,

E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa.

[Truyện Kiều, Câu 2473 - 2486]

Ở truyện Lục Vân Tiên, nhân vật được nhà thơ xây dựng theo quan niệm

ở hiền gặp lành, ác giả ác báo. Vì vậy, “nhân vật có tính cách nhất phiến

được biểu hiện từ đầu đến cuối truyện không có sự thay đổi. Tốt thì tốt hẳn,

xấu thì xấu hẳn, đã ác thì việc gì cũng ác, hoàn cảnh nào cũng ác, còn đẹp thì

cái gì cũng đẹp, ở đâu cũng đẹp, hầu như không có sự biến chuyển. Trong

truyện, các tính cách nhất phiến đều cố định không di dịch, khiến câu chuyện

chỉ là một diễn trình, không phải tiến trình. Cốt truyện vận động, phát triển,

các sự kiện tiếp nối, dồn dập, gay cấn nhưng tính cách nhân vật tĩnh tại. Khi

xây dựng nhân vật chính diện, các tác giả thường thiên về tính chất lý tưởng

hóa. Tập trung vun đắp cho nhân vật này mọi giá trị tốt đẹp, cả về hình thể

bên ngoài lẫn phẩm chất đạo đức, đẹp cả về ngôn ngữ lẫn hành động” [21].

Như vậy, truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều được hai tác giả xây

dựng theo kết cấu hai tuyến đối lập. Nhưng sự đối lập trong truyện Lục Vân

Tiên mang tính chất tính cách nhất phiến, chịu ảnh hưởng của quan niệm đạo

đức Nho giáo sâu sắc. Còn trong Truyện Kiều mặc dù Nguyễn Du ngoài xây

dựng nhân vật theo hai tuyến đối lập còn có nhân vật trung gian. Nhưng

trong từng tuyến lại có những những điểm khác so với quan niệm truyền

thống của nhà Nho.

35

2.1.3.4. Kết cấu mạch truyện

Truyện Nôm bình dân “được sáng tác để kể là chính, chứ không phải để

xem hay để đọc” [41, tr.478]. Do vậy, để phục vụ cho mục đích này mạch

truyện thường không được xây dựng liền. Trong truyện Lục Vân Tiên đặc

điểm này được thể hiện khá rõ. Bởi trong tác phẩm có những đoạn tản mạn,

không gắn bó chặt chẽ với câu chuyện, chủ đề của tác phẩm như những đoạn

triết lý về sự đời của ông quán, ông ngư, ông tiều, hay những đoạn chế giễu

các thầy lang băm, thầy bói, thầy pháp…

Pháp rằng “ấn ấy cao tay

Lại thêm phù chú xưa nay ai bì

Qua sông ca thấy xếp vi,

Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.

Pháp hay hú gió kêu mưa,

Sai chim khiến vượn đuổi lừa vật trâu.

Pháp hay miệng niệm một câu,

Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.

Pháp hay sái đậu thành binh,

Bện hình làm tướng phá thành Diêm vương.

Pháp hay đạo hỏa phó thang,

Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.

Có ba lượng bạc trao sang,

Đặng thầy sắm sửa lập dàn chữa cho

Một đoạn thơ dài miêu tả những lời khoác lác tài của thầy pháp đối với

những tác phẩm dùng để đọc là một sự không cần thiết nhưng đối với tác

phẩm dùng để kể nó lại làm cho tác phẩm trở nên hấp dẫn.

Còn Truyện Kiều là tác phẩm được Nguyễn Du sáng tác để đọc, do vậy

trong tác phẩm mạch truyện được xây dựng liền mạch và đều hướng đến phục

vụ dụng ý nghệ thuật của tác giả.

36

2.2. Mô thức tự sự

2.2.1. Mô thức tự sự của truyện Nôm bác học ở truyện Lục Vân Tiên trong

so sánh với Truyện Kiều

2.1.2.1. Phần gặp gỡ

Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm thuộc thể loại truyện Nôm bác học, do

vậy ngay trong phần gặp gỡ kết cấu của tác phẩm đã tuân thủ đúng theo mô

thức chung của loại truyện này, cụ thể là kiểu nhân vật tài tử giai nhân.

Trong kết cấu phần gặp gỡ của truyện Nôm bác học được xây dựng theo

khuôn thức chung đó là cuộc gặp gỡ giữa tài tử với giai nhân. Nhân vật Lục

Vân Tiên trong truyện thơ cùng tên quê ở huyện Đông Thành, chàng là người

khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên

từ giã thầy xuống núi đua tài. Còn Kiều Nguyệt Nga là con gái của tri phủ đại

nhân nàng vốn là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Nguyệt Nga vâng lời cha nên

đã đến phủ đường tính chuyện trăm năm. Trên đường đi nàng gặp toán cướp

Phong Lai và được Lục Vân Tiên cứu. Mô típ gặp gỡ tài tử giai nhân cũng là

điểm tương đồng trong phần gặp gỡ giữa truyện Lục Vân Tiên và Truyện

Kiều. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng thành công cuộc gặp gỡ

giữa Thúy Kiều, một tuyệt thế giai nhân với tài cầm kì thi họa với chàng Kim

Trọng một văn nhân hào hoa phong nhã .

Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa

[Truyện Kiều, câu 149 - 152]

Trong phần gặp gỡ giữa tài tử giai nhân, Truyện Lục Vân Tiên và Truyện

Kiều cùng sử dụng về mô típ làm thơ.

Truyện Lục Vân Tiên sau khi đánh tan bọn cướp, Vân Tiên và Kiều

Nguyệt Nga đã làm thơ đối đáp trực tiếp với nhau. Nguyệt Nga là người chủ

động làm thơ trước.

37

Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 216]

Trước tài thơ phú của Nguyệt Nga, Vân Tiên cũng đáp lại nàng bằng thơ.

Vân Tiên họa lại một bài trao ra.

Xem thơ biết ý gần xa,

Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai

Có câu xúc cảnh hứng hoài

Đường xa vòi vọi dặm dài vơi vơi.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 230 - 235]

Mô típ làm thơ không chỉ được Nguyễn Đình Chiểu sử dụng ở phần gặp gỡ

của truyện Lục Vân Tiên, trước đó trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã sử dụng. Ở

Truyện Kiều giữa các nhân vật không có đối đáp thơ trực tiếp mà mãi về sau, khi

hai người đã trao tặng kỷ vật cho nhau, Thúy Kiều mới đề thơ vào tranh.

Trên yên bút giá thi đồng,

Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên.

Phong sương được vẻ thiên nhiên,

Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi.

Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,

Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.

Tay tiên gió táp mưa sa,

Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.

[Truyện Kiều, câu 397- 404]

Truyện Nôm bác học nói chung hay truyện Lục Vân Tiên, Truyện Kiều

nói riêng nội dung hướng tới khẳng định khát vọng tình yêu lứa đôi, sự chiến

thắng của tình yêu tự do. Do vậy, nội dung đó được tập trung thể hiện ở sự

kiện gặp gỡ. Nên trong phần gặp gỡ chúng ta thấy các tác giả tập trung thể

hiện những hành động, xúc cảm các nhân vật. Kiều Nguyệt Nga đã thầm

thương trộm nhớ Lục Vân Tiên ngay từ buổi đầu gặp gỡ:

38

Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông!

Trăm năm cho vẹn chữ tùng mới an.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 240 - 244]

Còn trong Truyện Kiều, sau khi gặp Kiều trong hội Đạp Thanh, Kim

Trọng trở về ôm tương tư. Để có cơ hội gặp gỡ Kiều, Kim Trọng đã thuê một

căn gác nhỏ sát bên cạnh vườn nhà nàng, suốt ngày ngồi bên cửa sổ ngóng

trông bóng hình.

Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Du khắc họa khát vọng tình yêu mãnh

liệt của các nhân vật thông qua những hành động cụ thể. Trong Truyện Kiều,

Nguyễn Du đã thể hiện được hành động mạnh mẽ trong tình yêu thông qua

việc Kim Trọng tìm đến gần nhà Kiều thuê trọ để có cơ hội gặp nàng, còn

Thúy Kiều dám vượt qua các quy tắc khắt khe của xã hội phong kiến để vượt

rào sang gặp chàng Kim. Dường như Nguyễn Du miêu tả khát vọng yêu của

hai người đều cháy bỏng ngang nhau. Nhưng trong truyện Lục Vân Tiên

người chủ động trong tình yêu lại là Kiều Nguyệt Nga. Sự chủ động của nàng

cho ta thấy một sự tiến bộ vượt bậc trong quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu.

Bởi trong xã hội phong kiến phụ nữ không được xem trọng, đặc biệt là họ bị

chi phối bởi quan niệm tam tòng, hôn nhân là do sắp đặt. Để có một người

phụ nữ dám chủ động trong tình yêu là một bước ngoặt lớn.

Như vậy, ở phần gặp gỡ trong truyện Lục Vân Tiên, tác giả Nguyễn Đình

Chiểu đã tuân thủ đúng kết cấu mô thức chung của truyện Nôm bác học.

Đồng thời, chúng ta nhận thấy ảnh hưởng từ Truyện Kiều của Nguyễn Du đối

với tác phẩm truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu thông qua mô típ

gặp gỡ của tài tử giai nhân. Không những vậy, chúng ta còn thấy những điểm

khác biệt trong việc xây dựng mô thức phần gặp gỡ của Nguyễn Đình Chiểu,

qua đó thấy được tư tưởng tiến bộ của ông.

39

2.1.2.2. Tai biến

Ở nhóm truyện Nôm bác học, sau sự kiện gặp gỡ dẫn đến lời thề nguyền,

gắn bó, đôi lứa yêu nhau phải xa nhau, truyện Lục Vân Tiên cũng được

Nguyễn Đình Chiểu xây dựng theo mô típ này.

Cứu được Nguyệt Nga, Vân Tiên tiếp tục cuộc hành trình, chàng về nhà

thăm cha mẹ rồi cùng tiểu đồng lên đường đi thi. Sau đó, chàng ghé thăm gia

đình Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho Vân Tiên. Đến

gia đình họ Võ, Vân Tiên gặp Vương Tử Trực. Từ đây, chàng có thêm người

bạn đồng hành, tới kinh đô Vân Tiên gặp thêm Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy

Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét. Lúc sắp vào trường

thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở về quê chịu tang. Dọc

đường về, Vân Tiên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa

đẩy xuống sông. Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình

ông ngư cứu mạng. Sau đó chàng lại bị gia đình Võ Công lừa gạt nhưng được

thần tiên cho thuốc chữa mắt. Sau đó, Vân Tiên may mắn gặp lại Hớn Minh

và được chàng đón về dưỡng bệnh.

Còn về phần Kiều Nguyệt Nga, nàng cảm ân đức của Lục Vân Tiên nên

tự nguyện gắn bó suốt đời, tự hoạ bức chân dung chàng và luôn giữ bên mình.

Nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Kiều Nguyệt Nga thề sẽ thủ tiết suốt đời.

Nhưng Thái sư đương triều hay tiếng nàng đẹp người đẹp nết nên đến hỏi

nàng cho con trai. Việc không thành, hắn đem lòng thù oán nên đã tâu vua bắt

Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Nguyệt Nga vì sợ lệnh vua, lo cho gia đình

nên đã cầm lòng đồng ý. Thuyền đi tới biên giới, nàng mang theo bức hình

Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Phật Bà Quan Âm đưa nàng dạt vào vườn

hoa nhà họ Bùi. Bùi Công nhận nàng làm con nuôi, nhưng Bùi Kiệm lại nằng

nặc đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải trốn khỏi nhà họ Bùi, vào rừng

nương tựa một bà lão dệt vải.

40

Như vậy sau phần gặp gỡ, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hàng loạt

biến cố đối với hai nhân vật chính. Những biến cố này góp phần giúp nhân vật

khẳng định phẩm giá của mình. Truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều, có sự

tương đồng về mô típ sau sự kiện gặp gỡ dẫn đến lời thề nguyền, gắn bó, đối

lứa yêu nhau phải xa nhau. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại lựa chọn diễn biến phần

lưu lạc theo những hướng riêng.

Trong Truyện Kiều, Kim Trọng phải xa Thúy Kiều vì về quê hộ tang

chú, ngoài ra Kim Trọng không gặp trắc trở, gian truân, tai biến nào. Còn với

Thúy Kiều, Nguyễn Du đã để nhân vật nữ chính trải qua rất nhiều thăng trầm

suốt mười lăm năm lưu lạc. Bắt đầu từ khi gia đình Kiều gặp tai biến, bị thằng

bán tơ vu oan. Cha và em của Thúy Kiều bị bắt, bị tra tấn dã man. Bọn sai

nha, lũ đầu trâu mặt ngựa ập đến đập phá nhà cửa tan hoang, cướp bóc tài sản,

Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em. Mã Giám Sinh đưa

nàng về Lâm Tri. Kiều biết mình bị đẩy vào lầu xanh bèn rút dao tự vẫn

nhưng không chết. Nàng được ma Đạm Tiên báo mộng là phải đến sông Tiền

Đường sau này mới hết kiếp đoạn trường. Mụ Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở lầu

Ngưng Bích, mụ thuê Sở Khanh đánh lừa Kiều, đưa nàng đi trốn. Kiều bị Tú

Bà giăng bẫy, mắc lừa Sở Khanh. Thúy Kiều bị Tú Bà đánh đập, ép nàng phải

sống cuộc đời ô nhục. Tại lầu xanh, Kiều gặp Thúc Sinh, một khách làng chơi

giàu có. Thúc Sinh chuộc Kiều ra lầu xanh và lấy Kiều làm vợ lẽ. Hoạn Thư,

vợ cả Thúc Sinh lập mưu bắt cóc Thúy Kiều đưa về Vô Tích để đánh ghen.

Kiều bỏ trốn, nương tựa cửa chùa Giác Duyên... Kiều lại rơi vào tay Bạc Bà,

Bạc Hạnh, bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai. Từ Hải, khách biên đình tìm đến

gặp Kiều. Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cưới nàng làm vợ. Từ Hải mắc

lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Hắn bắt Kiều hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc

quan và ép gả Kiều cho viên thổ quan. Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự

tử. Giác Duyên đã cứu sống Kiều và đưa nàng nương nhờ cửa Phật.

41

Như vậy, Nguyễn Du đã kể cuộc đời Thúy Kiều trải qua hai giai đoạn:

xuất thân trong gia đình gia giáo rồi rơi vào nhà chứa, thân phận của kỹ nữ ả

đào. Cuộc đời Thúy Kiều là một thứ thuốc thử cho quan niệm nhân đạo của

tác giả và người đọc trước một phụ nữ chốn thanh lâu. Nguyễn Du đã dám lên

tiếng bênh vực, cảm thông cho số phận của nàng trong khi đó còn không ít

nhà nho phê phán, đả kích. Trong khi đó, nhân vật Nguyệt Nga không gây ra

tranh luận giữa các nhà nho vì đó là mẫu phụ nữ lý tưởng.

Thông qua phần lưu lạc trong tác phẩm truyện Lục Vân Tiên và Truyện

Kiều chúng ta đều thấy hai tác giả đã tạo ra những biến cố nhằm thử thách số

phận các nhân vật. Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra hai hệ thống

nhân vật thiện và ác để cản trở cũng như phò giúp cho nhân vật chính. Nhân

vật thuộc phe ác trong truyện Lục Vân Tiên, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, cha con

nhà họ Võ… còn Truyện Kiều có Mã Giám Sinh,Tú Bà, Sở Khanh, Hồ Tôn

Hiến,… Hệ thống nhân vật thiện thì nổi bật có: Hớn Minh, Ngư ông, Phật Bà

Quan Âm…trong truyện Lục Vân Tiên hay Thúc Sinh, Giác Duyên, Từ

Hải,… trong Truyện Kiều.

Sự tương đồng trong phần gia biến, lưu lạc giữa truyện Lục Vân Tiên và

Truyện Kiều cho thấy sự tiếp thu và phát huy kết cấu của truyện Nôm bác học

của Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu.

Trong phần lưu lạc của truyện Lục Vân Tiên so sánh với Truyện Kiều,

chúng ta thấy tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã đồng thời tạo ra những biến cố

cho hai nhân vật, trong đó chú trọng nhân vật nam, còn Nguyễn Du chú trọng

hơn tới những biến cố của nhân vật nữ chính. Sở dĩ Nguyễn Du chọn nhân vật

Thúy Kiều với cuộc phiêu lưu qua các nhà chứa là đã đi theo một quan niệm

đạo đức - thẩm mỹ chống Nho giáo, chống xã hội nam quyền, thách thức Nho

giáo khác hẳn Lục Vân Tiên. Thúy Kiều bị đẩy vào nhà chứa, thực chất làm

đĩ, điều mà một số nhà nho đến mãi đầu thế kỷ XX như Ngô Đức Kế, Huỳnh

Thúc Kháng, Tản Đà vẫn không chấp nhận, còn Nguyễn Du khẳng định nàng

42

lấy hiếu làm trinh. Còn Lục Vân Tiên lại ca ngợi những hành động mà thử

thách khó khăn lại càng sáng rõ hơn các phẩm chất đạo đức phù hợp với quan

niệm trung hiếu, tiết hạnh.

2.1.2.3. Đoàn viên

Ở truyện Nôm, đoàn viên là sự kiện hoàn chỉnh số phận nhân vật chính.

Do vậy, các tác phẩm đều kết thúc ở thời điểm nhân vật chính thoát khỏi gian

nan. Sau những ngày lưu lạc, Lục Vân Tiên ở với Hớn Minh, được tiên cho

thuốc, mắt lại sáng, liền trở về nhà thăm cha, viếng mộ mẹ, thăm cha của

Kiều Nguyệt Nga. Đến khoa thi, chàng đỗ trạng nguyên và được nhà vua cử

đi dẹp giặc Ô Qua. Hớn Minh được tiến cử làm phó tướng. Đánh tan giặc,

Vân Tiên một mình lạc trong rừng và gặp lại Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu

hết sự tình, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp, Lục Vân

Tiên và Kiều Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc.

Trong Truyện Kiều, Thuý Kiều gặp lại Kim Trọng sau mười lăm năm

lưu lạc. Câu chuyện thoạt nhìn thì kết thúc là có hậu, song thực ra, cuộc đời

đau khổ của nàng Kiều vẫn còn tiếp tục và bước sang một trang khác. Trong

không khí đầm ấm của bữa tiệc đoàn viên, Thuý Vân chủ động đứng lên nêu

vấn đề:

Quả mai ba bảy đương vừa

Đào non sớm liệu se tơ kịp thì

[Truyện Kiều, câu 3075 - 3076]

Nàng muốn trao lại lương duyên vợ chồng cho Kiều. Ban đầu, Kiều

một mực từ chối không sống như vợ chồng với Kim Trọng vì nghĩ mình

không còn trinh tiết, dẫu cho chàng Kim tha thiết khẩn cầu nàng.

Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,

Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa.

Thiếp từ ngộ biến đến giờ.

Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.

[Truyện Kiều, câu 3095 - 3098]

43

Thuý Kiều đã kiên quyết gạt bỏ ý kiến của Thuý Vân:

Dứt lời nàng vội gạt đi,

Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ ?

Một lời tuy có ước xưa

Xét mình dãi gió dầm mưa đã nhiều.

Nói càng hổ thẹn trăm chiều,

Thà cho ngọn nước thuỷ triều chảy xuôi.

[Truyện Kiều, câu 3077 - 3082]

Và nàng đã cắt nghĩa đầy đủ lý do chối từ:

Nàng rằng gia thất duyên hài,

Xót lòng ân ái ai ai cũng lòng.

Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,

Hoa thơm phong nhị, trăng vòng tròn gương.

Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,

Đuốc hoa chẳng thẹn với cành mai xưa?

Thiếp từ ngộ biến đến giờ,

Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.

[Truyện Kiều, câu 3091 - 3098]

Nhưng khi Kim Trọng nhắc lại lời thề năm xưa:

Dẫu rằng vật đổi sao dời

Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh

[Truyện Kiều, câu 3087 - 3088]

Đồng thời chàng Kim lập luận về tấm lòng hi sinh của Kiều:

Xưa nay trong đạo đàn bà,

Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,

Có khi biến có khi thường,

Có quyền nào phải một đường chấp kinh.

Như nàng lấy hiếu làm trinh,

Bụi nào cho đục được mình ấy vay?

[Truyện Kiều, câu 3115 - 3120]

44

Kết hợp với lời thúc giục của hai ông bà Vương, Kiều đã phải nhận lời.

Nhưng trong đêm động phòng, Kiều cho Kim Trọng biết nàng nhận làm vợ

chàng vì tình xưa nghĩa cũ nhưng tấm thân nàng đã ô uế không thể ân ái vợ

chồng với chàng.

Mặc dù cùng kết thúc khi các nhân vật thoát khỏi những gian truân trở

về đoàn tụ nhưng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du xây dựng kết thúc phức tạp

hơn và gợi ra nhiều vấn đề khác còn truyện Lục Vân Tiên kết thúc có phần

đơn giản hơn và kết thúc mang tính đóng lại hoàn toàn. Kết cấu này mang

đậm dáng dấp của truyện cổ dân gian, thế giới quan tuần hoàn.

Truyện Kiều của Nguyễn Du và truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình

Chiểu được xây dựng theo mô thức chung của truyện Nôm bác học gồm gặp gỡ/

hội ngộ - tai biến - đoàn viên. Tuy nhiên với mỗi tác giả lại có những cách khai

thác mô thức khác nhau. Nguyễn Đình Chiểu xây dựng mô thức tự sự của truyện

Lục Vân Tiên tuân thủ chính xác mô thức chung. Còn Truyện Kiều có nét của tiểu

thuyết hiện thực phê phán chứ không đơn giản là theo mô hình hội ngộ - tai biến -

đoàn viên. Điều này có thể được lí giải bởi Truyện Kiều có nhiều chủ đề phức tạp

hơn còn Lục Vân Tiên chỉ có chủ đề “trung hiếu, tiết hạnh”.

2.2.2. Mô thức tự sự của truyện Nôm bình dân ở truyện Lục Vân Tiên

trong so sánh với Truyện Kiều

2.1.3.1. Phần gặp gỡ

Nhân vật chính trong truyện thơ Nôm bình dân thường là người của cõi

trời cõi phật đầu thai xuống trần. Mô típ thường thấy là do đôi vợ chồng côi

cút nào đó ở cõi trần luôn “tu nhân tích đức”, “hiếu trung tiết nghĩa”, kính

tín trời phật, nên khiến cho các đấng quyền năng siêu nhiên cảm động cho

người đầu thai xuống “kế hậu nối dòng”. Truyện Lục Vân Tiên cũng được

xây dựng theo mô típ này.

45

Có người ở quận Đông Thành,

Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.

Đặt tên là Lục Vân Tiên,

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 8-10]

Sự ra đời có tính thần kì của nhân vật chính thể hiện rõ nét tín ngưỡng

thờ trời và tư tưởng khuyến thiện của Phật giáo trong dân gian.

Ngoài mô típ xuất thân của nhân vật chính trong phần gặp gỡ, khung

cảnh thiên nhiên của truyện Lục Vân Tiên cho thấy sự gần gũi của tác phẩm

với truyện Nôm bình dân. Bởi trong truyện Nôm bác học, khung cảnh thiên

nhiên thường là dạo chơi, viếng cảnh. Điều này thể hiện rất rõ qua Truyện

Kiều của Nguyễn Du.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

[Truyện Kiều, câu 41 - 48]

Còn trong truyện Lục Vân Tiên khung cảnh thiên nhiên mang đậm màu

sắc bình dân đó là giữa đường.

Vân Tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 123 - 124]

So với Truyện Kiều của Nguyễn Du, phần gặp gỡ của truyện Lục Vân

Tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc về kết cấu theo mô thức truyện Nôm bình dân.

Bởi trong Truyện Kiều, Nguyễn Du xây dựng kết cấu theo mô thức truyện

46

điển hình của truyện Nôm bác học. Cuộc gặp gỡ Kim Trọng và Thúy Kiều là

cuộc gặp gỡ của tài tử giai nhân thuộc tầng lớp trên của xã hội.

Truyện Lục Vân Tiên ảnh hưởng kết cấu mô thức truyện Nôm bình dân

còn được thể hiện qua dung lượng. Phần gặp gỡ dẫn đến tình yêu trong tác

phẩm diễn biến đơn giản nên tác giả trình bày với số lượng câu thơ ít, khoảng

284 câu. Còn trong Truyện Kiều vì được kết cấu theo mô thức truyện Nôm

bác học, phần gặp gỡ là phần tập trung thể hiện nội dung của tác phẩm. Do

đó, ở phần này sự kiện được miêu tả rất kĩ lưỡng. Đây là “biến cố trữ tình”

được xây dựng là sự kiện chính tạo nên sức hấp dẫn cho cốt truyện nên trong

Truyện Kiều phần này chiếm một số lượng lớn khoảng 572 câu thơ.

Như vậy, thông qua việc so sánh đối chiếu phần găp gỡ của truyện Lục

Vân Tiên và Truyện Kiều chúng tôi nhận thấy rằng truyện Lục Vân Tiên chịu

ảnh hưởng sâu của truyện Nôm bình dân hơn so với Truyện Kiều. Sự ảnh

hưởng này thể hiện ở mô típ xuất thân của nhân vật chính, khung cảnh thiên

nhiên của phần gặp gỡ tài tử giai nhân và dung lượng.

2.1.3.2. Phần tai biến

Đây là sự kiện thể hiện tập trung nhất chủ đề của tác phẩm. Nó tập

trung thể hiện khát vọng bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ phẩm giá, giá trị

con người đặc biệt là người phụ nữ, và bảo vệ công lí xã hội. Phần tai biến là

hoàn cảnh hiện thực có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh số phận các nhân

vật chính. Họ đã trải qua những cảnh ngộ éo le, những nỗi oan khổ, những

cuộc đấu tranh gay go chống lại những thế lực tàn bạo. Và ở mọi tác phẩm,

hiện thực đó đều được thể hiện với sự tập trung, đôi khi cường điệu, phóng

đại nhằm đưa người đọc cảm nhận được một cách hiệu quả vấn đề bức thiết

của cuộc sống thời đại.

Truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều được Nguyễn Đình Chiểu và

Nguyễn Du xây dựng phần tai biến theo công thức, các nhân vật gặp kẻ xấu

hãm hại, nhưng sau hoạn nạn, vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình.

47

Trong truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nhân vật Lục

Vân Tiên sau khi đánh tan toán cướp cứu Kiều Nguyệt Nga đã liên tiếp gặp

những biến cố lớn. Trong đó chi tiết gặp kẻ xấu hãm hại được lặp đi lặp lại

khá nhiều lần.

Đầu tiên tới kinh đô lại gặp Lục Vân Tiên gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm.

Thấy Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét.

Kiệm Hâm là đứa so đo,

Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.

Khoa này Tiên ắt đầu công,

Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 543- 546]

Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở

về quê chịu tang. Dọc đường về, Vân Tiên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai

mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy xuống sông.

Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.

Trịnh Hâm khi ấy ra tay

Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 937- 940]

Nhờ giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình ông ngư cứu

mạng. Sau đó chàng lại bị Võ Công khinh rẻ và bị Võ Thể Loan gạt bỏ vào

hang núi Thương Tòng.

Võ công ra trước dỗ chàng:

"Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông Thành".

Ra đi đương lúc tam canh,

Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.

Bỏ rồi rón rén bước liền,

Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 1047- 1052]

48

Trong truyện Lục Vân Tiên không chỉ có nhân vật Lục Vân Tiên mà

Kiều Nguyệt Nga cũng gặp biến cố bị kẻ tiểu nhân hãm hại. Thái sư đương

triều hay tiếng nàng đẹp người nên ngỏ ý hỏi cưới cho con trai. Bị Nguyệt

Nga khước từ, hắn đem lòng thù oán, tâu vua bắt nàng đi cống giặc. Thuyền

đi tới biên giới, nàng mang theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử.

Truyện Kiều cũng được Nguyễn Du xây dựng theo mô thức gặp kẻ tiểu

nhân hãm hại.

Đầu tiên gia đình Thúy Kiều bị vu oan của “thằng bán tơ”.

Hỏi ra sau mới biết rằng:

Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ

Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ

Tiếng oan dậy đất, án ngờ dựng mây.

[Truyện Kiều, câu 586 - 589]

Tiếp theo, Kiều tiếp tục đối mặt với một loại tiểu nhân khác, hắn là Mã

Giám Sinh một tên bợm gái giả dạng thư sinh. Đây cũng là kẻ đầu tiên lừa và

chiếm đoạn trinh tiết của Kiều.

Gần miền có một mụ nào

Đa người viễn khách tìm vào vấn danh

Hỏi tên, rằng “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Quá niên, trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Trước thầy sau tớ xôn xao

Nhà băng đa mối rước vào lầu trang

Ghế trên ngồi tót sẵn sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.

[Truyện Kiều, câu 623 - 632]

49

Mã Giám Sinh là người đầu tiên chiếm đoạn thân thể Kiều, còn người ép

nàng tiếp khách làng chơi lại là Tú Bà.

Nàng càng thổn thức gan vàng

Sở Khanh đã rẽ dây cương lối vào

Một mình khôn biết làm sao

Dặm sừng bước thấp, bước cao hãi hùng.

[Truyện Kiều, câu 1094 - 1097]

Những kẻ tiểu nhân hãm hại đời Kiều không dùng lại ở đó mà nàng còn

tiếp tục bị Tú Bà, Hoạn Thư, Hô Tôn Hiến hành hạ.

Cùng mô típ bị kẻ tiểu nhân hãm hãi nhưng nguyên do của sự việc trong

hai tác phẩm là hoàn toàn khác nhau. Trong truyện Lục Vân Tiên, lý do hãm

hại mang tính chất đạo đức bởi tác phẩm được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác

hướng tới là câu chuyện về những thử thách đạo đức, ngọc càng mài càng

sáng. Gây nên số phận đau khổ cho con người theo Nguyễn Đình Chiểu là

bọn người bất nhân bất nghĩa. Còn Truyện Kiều của Nguyễn Du nhấn mạnh lý

do thuộc về chính trị xã hội: bọn bán tơ vu oan, sai nha, quan lại, nhà chứa,

đồng tiền … Qua đó Nguyễn Du muốn lên án xã hội đen tối đã gây ra đau khổ

cho Thúy Kiều.

Một điểm riêng biệt nữa trong phần gia biến của hai tác phẩm là các

nhân vật trong truyện Lục Vân Tiên mặc dù bị kẻ tiểu nhân hãm hại nhưng

vẫn giữ được phẩm giá còn Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã không

giữ được mình trong sạch, vì hoàn cảnh khách quan bị ném vào cuộc đời.

Thúy Kiều bị ném vào thanh lâu và chấp nhận cuộc sống ô nhục Dập dìu lá

gió cành chim/ Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh. Nhân vật của Lục

Vân Tiên có tính chất của con người lý tưởng đáng mơ ước còn nhân vật

Truyện Kiều là nhân vật của cuộc sống hiện thực, là những con người trần thế,

hiện thực.

50

Truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều có sự tương đồng với truyện Nôm

bình dân ở phần tai biến, không chỉ dừng lại ở mô típ nhân vật chính bị kẻ

tiểu nhân hãm hại mà còn thể hiện ở thủ pháp dựng truyện. Trong cả hai tác

phẩm các nhân vật chính đều được cứu giúp nhờ một lực lượng siêu nhiên

nào đó. Lực lượng này được xây dựng theo mô típ thần kì.

Trong truyện Lục Vân Tiên thì yếu tố thần kì xuất hiện với tần số khác

lớn để phù trợ cho người ngay và trừng phạt các lực lượng hắc ám. Trong đó

những mô típ phổ biến nổi bật là: Cọp cắn dây mở trói, cõng tiểu đồng từ

rừng sâu ra đường cái.

Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,

Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên.

Sơn quân ghé lại một bên,

Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 895 - 899]

Giao Long dìu Vân Tiên từ giữa sông vào trong bãi.

Vân Tiên mình lụy giữa dòng,

Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 945 - 946]

Lục Vân Tiên được giao long (cá sấu) cứu, đây là yếu tố thần kỳ gần với

truyện cổ tích dân gian.

Ngoài ra yếu tố thần kì trong truyện Lục Vân Tiên còn được thể hiện

qua chi tiết Du thần qua hang Thương Tòng, dắt Vân Tiên từ trong hang ra

chân núi.

Du thần xem thấy ai hoài,

Xét trong mình gã có bài phù tiên.

Mới hay là Lục Vân Tiên.

Cùng nhau dìu dắt đều liền đem ra

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 1077 - 1080]

51

Trong truyện Lục Vân Tiên không chỉ chàng họ Lục nhận được sự phò

trợ của các nhân vật thần kì mà Kiều Nguyệt Nga cũng nhận được sự trợ giúp

này. Nghe tin Lục Vân Tiên đã chết, Kiều Nguyệt Nga thề sẽ thủ tiết suốt đời.

Thái sư đương triều hỏi nàng cho con trai không được, đem lòng thù oán, tâu

vua bắt Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua. Thuyền đi tới biên giới, nàng mang

theo bức hình Vân Tiên nhảy xuống sông tự tử. Sóng thần dìu Nguyệt Nga

vào bãi cát.

Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời,

Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 1519 - 1520]

Phật Quan Âm đưa Nguyệt Nga vào vườn hoa nhà Bùi ông.

Quan âm thương đấng thảo ngay,

Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 1524 - 1525]

Phật Bà mách bảo Lão bà đi tìm đón Nguyệt Nga khi nàng vừa trốn khỏi

nhà Bùi Kiệm.

Người ngay trời phật cũng vưng,

Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.

Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga,

Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta.

Khi khuya nằm thấy Phật bà,

Người đà mách bảo nên già tới đây".

Nguyệt Nga bán tín bán nghi,

Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 1651 - 1658]

Đặc biệt là hình tượng ông tiên đã cứu giúp Lục Vân Tiên sáng mắt,

sau sáu năm mù lòa.

52

Nửa đêm nằm thấy ông tiên

Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 1667-1668]

Trong Truyện Kiều, yếu tố hoang đường, thần kì xuất hiện rất mờ nhạt

thông qua chi tiết giấc mộng mà Đạm Tiên nhắn Kiều phải tiếp tục sống để trả

xong món nợ từ kiếp trước và chi tiết Đạo cô có khả năng tiên tri Thúy Kiều

sẽ tự tử tại sông Tiền Đường.

Phần tai biến là trường đoạn li kì, gay cấn, hấp dẫn nhất của câu chuyện.

Để cường điệu những gian lao, khó khăn mà nhân vật “đáng thương” trải qua,

tai nạn thường diễn ra theo kiểu “họa vô đơn chí”, hết họa này lại đến nạn kia,

và thường thì các nhân vật chính luôn thoát khỏi một cách thần kì. Do vậy yếu

tố thần kì ngoài việc giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn còn là cách tác giả

giải quyết bi kịch của nhân vật, cách đem lại dư vị ngọt ngào mà người đọc

mong chờ.

Ngoài những yếu tố thần kì khiến cho phần tai biến của truyện Lục Vân

Tiên và Truyện Kiều có kết cấu theo mô thức gần với truyện Nôm bình dân thì

chúng ta còn thấy ở hai tác phẩm có sử dụng các hình tượng thầy pháp, thầy bói:

Tiểu đồng người khá qua cầu

Cùng ông thầy bói ở đầu Tây Viên

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 709 - 710]

Hay hình tượng đạo sĩ, đạo cô.

Chợ đông buôn bán lao xao,

Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.

Đồng đi một buổi tới nhà,

Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay!

Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,

Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".

Pháp rằng: "Ấn đã cao tay,

Lại thêm phù chú xưa nay ai bì.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 757 - 764]

53

Gặp bà Tam Hợp đạo cô,

Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng.

[Truyện Kiều, câu 2651 - 2652]

Như vậy, thông qua phần tai biến trong truyện Lục Vân Tiên và Truyện

Kiều chúng ta thấy rằng Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu đã có những tiếp

thu từ văn học dân gian trong việc xây dựng yếu tố hoang đường kì ảo, hình

tượng thầy bói, đạo sĩ, đạo cô… Tuy nhiên tần số sử dụng những yếu tố này ở

truyện Lục Vân Tiên cao hơn so với Truyện Kiều qua đó thấy được sự tiếp thu

của Nguyễn Đình Chiểu từ văn học dân gian có phần đậm nét hơn so với

Nguyễn Du.

2.1.3.3. Phần đoàn viên

Truyện Nôm bình dân thường có kết cấu phần đoàn viên theo thuyết

nhân quả. Ở truyện Lý Công, Phạm Tải - Ngọc Hoa nhân vật nam được

nhường ngôi vua trị nước, nhân vật nữ được phong hoàng hậu. Ở truyện Hoa

Tiên, Nữ tú tài, Nhị độ mai, Tây Sương, Thoại Khanh Châu Tuấn, Song Tinh,

Tống Chân Cúc Hoa… các nhân vật nam đều đỗ đạt cao, các nhân vật nữ

sánh vai quan trạng bước vào cuộc sống vinh hoa. Cho dù kết thúc có hậu đó

có tính lí tưởng hoá nhưng các nhân vật đã giành được hạnh phúc thật sự. Mọi

vấn đề đã được giải quyết triệt để cho sự kiện này được xây dựng theo hướng

hoàn thiện, trọn vẹn. Phần nhiều trong những kết cục đoàn viên, tác giả

thường khái quát bằng những công thức “quan giai”, “vinh hoa”, “phong lưu

phú quý”, “ hoè quế đầy sân”, “cõi thọ đền xuân”. Theo quan niệm trung đại

thì đó là “tuyệt đỉnh hạnh phúc trần gian”, là sự đền bù cho người tốt, là chân

lý “thiện thắng ác”. Truyện Lục Vân Tiên mặc dù là truyện Nôm bác học

nhưng tác giả Nguyễn Đình Chiểu chịu ảnh hưởng của truyện Nôm bình dân

thông qua việc xây dựng phần đoàn tụ có hậu.

Lục Vân Tiên sau khi vượt qua hoạn nạn chàng tiếp tục lên kinh ứng thí

đỗ trạng nguyên, được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Đánh tan giặc, Vân

54

Tiên một mình lạc trong rừng và gặp lại Nguyệt Nga. Chàng về triều tâu hết

sự tình, kẻ gian ác bị trừng trị, người nhân nghĩa được đền đáp, Lục Vân Tiên

và Kiều Nguyệt Nga sum vầy hạnh phúc.

So với Truyện Kiều của Nguyễn Du, truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn

Đình Chiểu ảnh hưởng kết cấu mô thức của truyện Nôm bình dân thể hiện rõ

nét hơn. Thúy Kiều sau mười lăm năm lưu lạc, chịu nhiều khổ cực đã được

đoàn tụ. Để mừng đón nàng về, gia đình mở tiệc đoàn viên. Nhưng đây cũng

chính là một màn tái hợp thể hiện nghịch lý của cuộc đời, tâm trạng bi kịch và

tình huống bi kịch mới. Đánh giá phần kết của Truyện Kiều, nhà thơ Xuân

Diệu rất sâu sắc khi cho rằng, đó là “Bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện

Kiều”. Từ hai sự kiện “tiệc đoàn viên’ và “đêm tái hợp” bi kịch của Kiều lại

càng thêm đau đớn, với tình huống đầy kịch tính, “mối quan hệ tay ba” hết

sức đặc biệt và chua xót giữa ba con người: Thúy Kiều - Kim Trọng - Thúy

Vân. Với “tiệc đoàn viên”, bên cạnh hạnh phúc đoàn tụ với gia đình, tưởng

như Thúy Kiều còn có thể tìm lại hạnh phúc tình yêu. Thế nhưng, qua “đêm

tái hợp”, hạnh phúc lứa đôi đã vĩnh viễn trôi đi. Nếu so sánh với phần kết của

truyện Lục Vân Tiên thì rõ ràng Truyện Kiều có tính hiện thực đậm đà, còn

Lục Vân Tiên vẫn dừng lại ở ước mơ, mong ước hay ảo tưởng của dân gian về

cái thiện thắng cái ác, ở hiền gặp lành, đó không phải là sự thực ở đời.

55

Tiểu kết:

Truyện Lục Vân Tiên của tác giả Nguyễn Đình Chiểu mặc dù là một

truyện Nôm bác học nhưng xét về kết cấu và mô thức tự sự tác phẩm có ảnh

hưởng không nhỏ của truyện Nôm bình dân. Truyện Lục Vân Tiên có đặc

điểm kết cấu theo mô thức truyện Nôm bác học được thể hiện cốt truyện theo

phỏng đoán là có thể là do tác giả vay mượn hoặc là tự hư cấu. Nội dung

hướng tới vạch trần cái ác, cái xấu trong xã hội bất công. Nhân vật sử dụng

nhiều ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Đặc điểm kết cấu theo mô thức truyện

Nôm bình dân thể hiện qua truyện Lục Vân Tiên qua cốt truyện sử dụng mô

típ dũng sĩ cứu người đẹp, đánh thắng giặc vinh hiển. Nhân vật phân theo hai

tuyến đối lập, mạch truyện thường không được xây dựng liền; ngoài ra còn

chịu ảnh hưởng của nghệ thuật diễn xướng Nam Bộ như tuồng hát bội trong

miêu tả nhân vật chú trọng hành động

Dấu ấn mô thức tự tự của truyện Nôm bác học ở truyện Lục Vân Tiên thể

hiện ở phần gặp gỡ giữa tài tử giai nhân, các nhân vật chính đều dụng mô típ

thơ. Còn trong phần tai biến tác giả đã tạo ra những biến cố gắn với những kẻ

tiểu nhân phá hoại nhằm thử thách số phận các nhân vật. Tác phẩm kết thúc

khi các nhân vật đã thoát mọi gian truân, trở về đoàn tụ gia đình. Dấu ấn mô

thức tự sự của truyện Nôm bình dân thể hiện ở phần gặp gỡ của tác phẩm Lục

Vân Tiên đó là nhân vật được giới thiệu trọn vẹn từ xuất thân cho đến những

diễn biến chính trong cuộc đời. Phần gặp gỡ dẫn đến tình yêu trong tác phẩm

diễn biến đơn giản. Phần tai biến xây dựng theo công thức, các nhân vật gặp

kẻ xấu hãm hại, nhưng sau hoạn nạn, vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp của

mình. Truyện Lục Vân Tiên còn ảnh hưởng của các tác phẩm dân gian qua mô

típ sử dụng yếu tố thần kì và kết thúc truyện theo thuyết nhân quả. Phần đoàn

viên theo thuyết nhân quả.

56

Chương 3

NHÂN VẬT VÀ NGÔN NGỮ TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN

TRONG SO SÁNH VỚI TRUYỆN KIỀU

3.1. Nhân vật ở truyện Lục Vân Tiên trong so sánh với Truyện Kiều

3.1.1. Kiểu nhân vật theo mẫu hình tài tử giai nhân

3.1.1.1. Mẫu hình tài tử

Mẫu hình tài tử trong truyện Nôm bác học thường được xây dựng theo

mô típ: tài, sắc, tình, hiệp. Tài có nhiều thứ: tài học, tài khoa cử, tài kinh bang

tế thế… Nhưng cái tài làm nên phẩm chất tài tử chính là tài hoa, tài gắn liền

với tình: tài tình. Sắc là cái đẹp. Nó không phải là đặc quyền của người tài tử,

nhưng quả thực người tài tử rất ham thích cái đẹp, theo đuổi cái đẹp: cái đẹp

trong thiên nhiên, cái đẹp trong nghệ thuật, cái đẹp của con người. Người tài

tử coi thường cái lợi, nhưng dùng cái đẹp để đối lập với lợi. Hiệp ở đây chính

là tinh thần xả thân vì nghĩa.

Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Nôm cùng tên được Nguyễn Đình

Chiểu là một trang nam tử tiêu biểu cho mẫu hình nhân vật tài tử. Trước hết

Lục Vân Tiên được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa là một chàng trai văn võ

song toàn.

Văn đà khởi phụng đằng giao

Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.

[Lục Vân Tiên, câu 14- 15]

Cái tài của Lục Vân Tiên còn được thể hiện qua khả năng đối thơ khi

gặp Kiều Nguyệt Nga.

Vân Tiên họa lại một bài trao ra

[Lục Vân Tiên, câu 230]

Tài ứng thơ của Vân Tiên còn khiến cho những người đồng môn như:

Trịnh Hâm, Bùi Kiệm lo ngại.

57

Khoa này Tiên ắt đầu công,

Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 545 - 546]

Nhân vật Lục Vân Tiên được miêu tả không chỉ giỏi văn mà còn giỏi võ

nhưng chàng lại “không được nhấn mạnh tài nghệ thuật” [66, tr. 636]. Đây là

điểm khác biệt giữa nhân vật tài tử do Nguyễn Đình Chiểu xây dựng và các

nhân vật tài tử trong các truyện tài tử giai nhân khác.

Mẫu hình tài tử được xây dựng theo khuôn thức văn nhân có tài phú thơ ca

trong văn học trung đại Việt Nam ngoài Lục Vân Tiên trong tác phẩm truyện cùng

tên còn có nhân vật Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Nền phú hậu, bậc tài danh,

Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

[Truyện Kiều, câu 149 - 150]

Mẫu hình tài tử ngoài tiêu chí về tài còn phải thỏa mãn tiêu chí có diện

mạo đẹp. Trong Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu khắc họa mẫu

hình tài tử cũng theo quy tắc này.

Mày tằm, mắt phụng, môi son

Mười phân cốt cách, vuông tròn mười phân.

Chân dung Vân Tiên hiện lên như một tuyệt tác nghệ thuật. Đó là một

cái đẹp mà không phải bất cứ nam nhân nào cũng có. Ngoài ra diện mạo Lục

Vân Tiên còn được khắc họa mang dáng dấp của anh hùng lý tưởng với đầu

đội “kim khôi bằng vàng”, tay cầm “siêu bạc”, ngồi “ngựa ô”. Đó hoàn toàn

không phải nhân vật kẻ sĩ.

Vân Tiên đầu đội kim khôi

Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô

Còn trong Truyện Kiều nhà văn Nguyễn Du khắc họa Kim Trọng một

nhân vật thuộc mẫu hình tài tử với sắc mạo hơn người.

58

Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa

[Truyện Kiều, câu 151 - 152]

Vẻ đẹp về sắc mạo của Kim Trọng mang dáng dấp của một văn nhân với

sự hào hoa phong nhã.

Một đặc trưng không thể thiếu được của mẫu hình tài từ chính là “tình”.

Tình, có nhiều loại tình: tình cha con, tình anh em, tình bè bạn, tình yêu nước,

tình yêu kính quân vương… Nhưng tình làm nên phẩm chất của người tài tử

là: hữu tình và ái tình. Hữu tình được hiểu là có nhiều tình cảm (đa tình), nhạy

cảm, ái tình không hẳn chỉ là “sự hôn nhân” mà có khi vượt ra khỏi “ngũ

luân” của Nho gia.

Cái tình ở Lục Vân Tiên xuất phát từ sự cảm động trước tấm lòng thuỷ

chung đầy ân nghĩa của Kiều Nguyệt Nga đối với chàng và gia đình chàng.

Bởi sau khi đánh xong toán cướp Vân Tiên hoàn toàn không tơ vương tới

Nguyệt Nga. Chỉ sau này nghe cha kể lại tấm tình của Nguyệt Nga, chàng mới

thảng thốt:

Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!

Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.

Đó là lần đầu tiên Vân Tiên có những xúc cảm về Kiều Nguyệt Nga

“Đặng con đến đó đáp câu ân tình". Sau này, khi đã trở thành trạng nguyên

và đánh tan giặc Ô Qua, trên đường trở về, tác giả đã để cho nhân vật của

mình bị lạc trong rừng. Bước chân của kẻ lạc đường đã đưa Lục Vân Tiên gặp

lại Kiều Nguyệt Nga. Nhưng chàng không thể nhận ra người con gái năm xưa

được chàng cứu giúp mà chỉ “sinh nghi”. Khi nghe Kiều Nguyệt Nga giãi bày

sự tình, Vân Tiên mới biết nỗi Nguyệt Nga chung thuỷ chờ đợi mình, quỳ

xuống tạ từ nàng và thổ lộ tình cảm.

Thưa rằng: "May gặp nàng đây,

Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.

59

Qua hành động “quỳ lạy Nguyệt Nga”, Nguyễn Đình Chiểu vẫn xây

dựng cái tình là chuyện tình nghĩa chứ không phải tình yêu. Tình yêu với Lục

Vân Tiên trước hết phải là chuyện ân nghĩa, vì nghĩa mà gắn bó.

Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nhân vật Vân Tiên tuân theo mẫu hình anh

hùng thánh nhân, mang cốt cách và phẩm chất trung thành với đạo đức Nho

giáo, ít chú ý đến tính chất “tài tử”. Do vậy nhân vật được tác giả khắc họa

tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc nam nữ thụ thụ bất thân. Khi đánh tan bọn cướp

cứu Nguyệt Nga, con người ấy trở về với thái độ của một môn sinh đạo

Khổng biết giữ lễ khi tiếp xúc với phụ nữ. Trong trận mạc chàng xông pha

chủ động bao nhiêu thì với phụ nữ chàng lại dè dặt, giữ lễ bấy nhiêu. Khi

Nguyệt Nga muốn xuống xe để đáp tạ ân nhân, Vân Tiên vội vã xua tay:

Khoan khoan ngồi đó chớ ra,

Nàng là phận gái, ta là phận trai

[Truyện Lục Vân Tiên, câu 145 - 146]

Sách Lễ Kí từng quan niệm nam nữ không được phép ngồi lẫn với

nhau, không được dùng chung lược, không được đón tay nhau. Lục Vân Tiên

là nho sinh am hiểu sách thánh hiền, thông thuộc phép ứng xử, nhất tín điều

nam nữ thụ thụ bất thân.

Trái ngược với Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện

Kiều cái tình của mẫu hình tài tử mang tính chất của tình yêu đích thực, một

tình yêu bản năng, tình yêu không nằm trong lễ. Kim Trọng vốn là nho sinh

xuất thân từ “cửa Khổng sân Trình” nhưng trong tình yêu có yếu tố nhục dục.

- Người quốc sắc kẻ thiên tài

Tình trong như đã mặt ngoài còn e.

[Truyện Kiều, câu 163 - 164]

60

- Hoa hương càng thức càng nồng

Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu

Sóng tình dường đã xiêu xiêu

Xem trong âu yếm có phần lả lơi.

[Truyện Kiều, câu 497 - 500]

Bằng những từ hoa hương,nồng, đầu mày, cuối mắt, sóng tình, xiêu

xiêu, âu yếm, lả lơi Nguyễn Du đã nhấn mạnh cảm xúc sâu sắc trong tình yêu

của Kim Trọng.

Trong truyện Lục Vân Tiên, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng

thành công hình tượng Vân Tiên một chàng trai trọng nghĩa, khi giúp người

không màng sự đền đáp. Sau khi cứu Nguyệt Nga khỏi tay bọn cướp, được

nàng tỏ ý đáp tạ ơn, chàng thẳng thắn từ chối.

Vân Tiên nghe nói liền cười:

Làm ơn há dễ trông người trả ơn

[Lục Vân Tiên, câu 175 - 176]

Nếu so sánh nhân vật tài tử trong truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều

chúng ta dễ dàng nhận thấy Nguyễn Đình Chiểu có tiếp nhận ảnh hưởng của

tiểu thuyết tài tử giai nhân nói chung và Truyện Kiều nói riêng. Tuy nhiên,

các yếu tố hình thức của tài tử giai nhân trong tác phẩm có sự tiếp thu có trọn

lọc. Lục Vân Tiên không chỉ giỏi văn mà còn giỏi cả võ, trong con người

chàng là sự kết hợp phẩm chất của hai nhân vật Kim Trọng và Từ Hải. Đó là

người anh hùng trọng nghĩa khinh tài là mẫu người cần cho vùng đất Nam Bộ.

3.1.1.1. Mẫu hình giai nhân

Truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều là hai tác phẩm đều có kiểu nhân

vật giai nhân. Trong truyện Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga là hình mẫu giai

nhân được Nguyễn Đình Chiểu dụng công xây dựng còn trong tác phẩm

Truyện Kiều của Nguyễn Du tác giả đã xây dựng thành công hai nhân vật đó

là Thúy Kiều và Thúy Vân.

61

Nhân vật giai nhân trong mỗi truyện đều được xây dựng theo hình mẫu

chung đó là: tài, tình, mạo, thức. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có những nét

riêng trong việc xây dựng hình mẫu giai nhân.

Trong truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa Nguyệt

Nga là một giai nhân có tài. Cái tài trước tiên của Nguyệt Nga làm thơ.

Thơ ngâm dũ xuất dũ kì

Cho hay tài gái kém gì tài trai.

Như vầy ai lại thua ai,

[Lục Vân Tiên, câu 227 - 230]

Ngoài tài làm thơ thì Nguyệt Nga còn thể hiện cái tài của mình bằng việc

tự họa chân dung của Vân Tiên.

Họa ra một bức tượng hình Vân Tiên.

[Lục Vân Tiên, câu 284]

Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều cũng khắc họa thành công nhân

vật giai nhân Thúy Kiều một cô gái đa tài.

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lầu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương

[Truyện Kiều, câu 29 - 33]

Cái tài thơ ca của Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả khiến nhiều bậc

văn nhân phải nể phục.

Tay tiên gió táp mưa sa

Khoảng trên dừng bút thảo vào bốn câu

Khen tài nhả ngọc phun châu

Nàng Ban Ả Tạ cũng đâu thế này

[Truyện Kiều, câu 405 - 408]

62

Khi Kiều đàn, tiếng đàn của nàng khiến Kim Trong phải nể phục:

Trong như tiếng hạc bay qua

Đục như nước suối mới sa nửa vời

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.

[Truyện Kiều, câu 481 - 484]

So về tài thì Nguyễn Du xây dựng Thúy Kiều là một cô gái đa tài hơn so

với Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nhân vật Nguyệt Nga. Cách xây dựng cái

tài của nhân vật giai nhân bị chi phối bởi mục đích sáng tác. Bởi Nguyễn Du

xây dựng Thúy Kiều theo mẫu hình “tài nữ” nên ông thiên về nhấn mạnh con

người nghệ sĩ của nàng. Còn Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nhân vật Nguyệt

Nga thuộc loại phụ nữ “tiết hạnh”.

Một vẻ đẹp không thể thiếu được của mẫu hình giai nhân đó là tình. Tình

là tình cảm, tình yêu. Giai nhân sống chung tình hết lòng vì tình yêu. Tình yêu

của giai nhân không phải là sự sắp đặt của cha mẹ mà để có được tình yêu họ

chủ động, đấu tranh giành lấy.

Mẫu hình nhân vật giai nhân được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng qua

nhân vật Kiều Nguyệt Nga là một người chủ động trong tình yêu. Nhưng tình

yêu đến với nàng “rụt rè, bình tĩnh chứ không ào ạt: xúc động vì nghĩa hơn là

tài mạo” [66, tr. 636]. Bởi Kiều Nguyệt Nga chỉ gặp Lục Vân Tiên một lần

duy nhất mà ôm nỗi nhớ thương da diết. Hình bóng chàng họ Lục khắc sâu

vào tâm khảm đến nỗi nàng họa bức hình chàng mang theo bên mình cho vơi

nỗi nhớ và cũng để nhớ mãi thâm ân cứu mạng. Đến khi hay tin Lục Vân Tiên

đã chết, nàng thề:

Trăm năm thề chẳng lòng phàm,

Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người

Thân con còn đứng giữa trời,

Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi

[Lục Vân Tiên, câu 1360 - 1364]

63

Trong xã hội phong kiến phận nữ nhi phải giữ chữ tiết hạnh, tại gia tòng

phụ xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử là lẽ thường nhưng đó chỉ dành cho

những người được cưới hỏi hoặc ít nhất cũng có đính ước đàng hoàng, còn

Nguyệt Nga gắn bó với Vân Tiên là do chính nàng tự nguyện. Lúc này tình

yêu ở Nguyệt Nga đã biến thành nghĩa.

Sự mạnh dạn và chủ động trong tình yêu của nhân vật giai nhân không

phải đến truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu mới có mà trước đó

Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều đã khắc họa thành công nhân vật

Thúy Kiều một giai nhân sống chung tình, chủ động đấu tranh giành lấy tình

yêu. Sau khi gặp và yêu Kim Trọng, Thúy Kiều đã nguyện gắn bó trọn đời

với chàng.

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh minh hai miệng một lời song song

Tóc tơ căn vặn tấc lòng

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

[Truyện Kiều, câu 449 - 452]

Đặc biệt trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng thành

công hình tượng một giai nhân chủ động tìm kiếm tình yêu.

Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

[Truyện Kiều, câu 431 - 432]

Mặc dù trải qua bao tủi hờn nhục nhã nhưng Kiều vẫn dành tấm lòng

chung tình với Kim Trọng bằng một thứ trinh tiết rất riêng.

Chữ trinh còn một chút này

Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan.

[Truyện Kiều, câu 3161 - 3162]

Một tiêu chí không thể thiếu của mẫu hình giai nhân đó là mạo. Mạo là

dung mạo, vẻ đẹp hình thể. Trong truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu

64

không khắc họa chi tiết dung nhan của Nguyện Nga mà ông chọn cách mượn

lời của một kẻ thường dân.

Con ai vóc ngọc mình vàng

Má đào mày liễu, dung nhan lạnh lùng.

[Lục Vân Tiên, câu 109 - 110]

Hay qua lời đánh giá của của Thái Sư đương triều.

Nàng đà có sắc khuynh thành,

Lại thêm rất bực tài tình hào hoa.

[Lục Vân Tiên, câu 1385 - 1386]

Còn trong Truyện Kiều, Nguyễn Du miêu tả kĩ lưỡng tài năng vẻ đẹp

của Thúy Kiều và Thúy Vân. Sự miêu tả này khiến mỗi nàng đều toát lên một

vẻ đẹp riêng.

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo, mặn mà,

So bề tài, sắc, lại là phần hơn.

Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Thông minh vốn sẵn tư trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.

65

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.

Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê

[Truyện Kiều, câu 15 - 36]

Một bước tiến trong nhận thức được Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu

thể hiện thông qua việc xây dựng mẫu hình giai nhân, đó là xây dựng vẻ đẹp

của người phụ nữ về lòng dũng cảm. Bởi trong quan niệm của lễ giáo phong

kiến, phận nữ nhi phải giữ chữ tiết hạnh, tại gia tòng phụ xuất giá tòng phu,

phu tử tòng tử mới hợp lẽ thường. Đặc biệt trong tình yêu, phụ nữ buộc phải

tuân theo sự sắp đặt của cha mẹ, phải có cưới hỏi hoặc ít nhất cũng có đính

ước đàng hoàng. Còn trong truyện Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga gắn bó với Vân

Tiên là do chính nàng tự nguyện. Hai người chỉ gặp nhau một lần duy nhất mà

nàng ôm nỗi nhớ thương da diết. Hình bóng chàng họ Lục khắc sâu vào tâm

khảm đến nỗi nàng họa bức hình chàng mang theo bên mình cho vơi nỗi nhớ

và cũng để nhớ mãi thâm ân cứu mạng. Đến khi hay tin Lục Vân Tiên đã chết,

nàng thề:

Trăm năm thề chẳng lòng phàm,

Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người

Thân con còn đứng giữa trời,

Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi

[Lục Vân Tiên, câu 1360 - 1364]

Qua hành động này cho thấy Nguyệt Nga là một cô gái chủ động trong

tình yêu. Sự mạnh dạn và chủ động trong tình yêu của nhân vật giai nhân

không phải đến truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu mới có mà

trước đó Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều đã khắc họa thành công

66

nhân vật Thúy Kiều một giai nhân tự nguyện đến với Kim Trọng là do nể

sắc, tài của nhau họ thề ước trăm năm gắn bó mà không hề có sự sắp đặt của

cha mẹ.

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song

Tóc tơ căn vặn tấc lòng

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương

[Truyện Kiều, câu 449 - 452]

Qua nghệ thuật xây dựng nhân vật giai nhân, chúng ta thấy Nguyễn Đình

Chiểu đã có sự tiếp thu hình mẫu giai nhân trong truyện thơ Nôm bác học nói

chung và Truyện Kiều nói riêng. Sự tiếp thu này cho thấy mạch nguồn của

truyện thơ Nôm bác học ngày càng phát triển và khẳng định vị thế của mình

trên thi đàn dân tộc.

Nhân vật trong văn học nhà Nho thường là những con người sát thân

thành nhân (muốn có nhân đức thì có thể hy sinh tính mạng), xả sinh thủ

nghĩa (xả thân vì nghĩa), hoặc nội thánh ngoại vương (bên trong là thánh, bên

ngoài là vua) tu kỉ trị nhân (tu thân trị người)... Khi muốn ca ngợi một ai đó,

nhà nho thường nhấn mạnh trên phương diện sức khoẻ, những hành động phi

thường, những tấm gương về đạo đức. Nguyễn Đình Chiểu đi theo mạch văn

học nhà nho chính thống do vậy ông loại các yếu tố dục tính, thân thể ra khỏi

nhân vật chính diện, chỉ những kẻ đạo đức thấp kém - những nhân vật phản

diện mới ham nhục dục. Trong truyện Lục Vân Tiên, ngay từ lần đầu tiên gặp

gỡ, Lục Vân Tiên đã có ý thức giữ khoảng cách từ hành động, lời nói và tư

tưởng với Nguyệt Nga. Sau khi biết được ý định của Nguyệt Nga muốn cảm

tạ mình chàng hành động “Khoan khoan ngồi đó chớ ra/ Nàng là phận gái ta

là phận trai”. Chàng ý thức sâu sắc về “phận gái/ phận trai” theo nguyên tắc

nam nữ thụ thụ bất thân chứ không phải là sự rung động trước người đẹp. Còn

Nguyễn Du là nhà văn dẫn đầu trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa ở thế kỷ

67

XVIII do vậy, dục tính thể hiện khá rõ ở Truyện Kiều. Đó là cảnh Kiều ê chề

khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt:

Tiếc thay một đoá trà mi,

Con ong đã tỏ đường đi lối về

Một cơn mưa gió nặng nề

Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương

[Truyện Kiều, câu 845 - 848]

Trong lần đầu Thúy Kiều và Từ Hải gặp nhau, Nguyễn Du đã miêu tả

cái nhìn nồng nàn “Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa”, tình cảm giữa hai

nhân vật đã được bộc lộ rõ ràng, công khai. Thậm chí, Nguyễn Du không

ngần ngại miêu tả cuộc sống chăn gối.

Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn

Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

[Truyện Kiều, câu 2209 - 2210]

Qua việc miêu tả tính dục của nhân vật trong tác phẩm truyện Lục Vân

Tiên và Truyện Kiều cho thấy Nguyễn Đình Chiểu ảnh hưởng sâu sắc tư

tưởng Nho gia còn Nguyễn Du lại có cái nhìn chân thực về con người. Đó là

những con người trần tục, nhục cảm xuất hiện trong thơ để khẳng định nhu

cầu sống tự nhiên của con người.

3.1.2. Kiểu nhân vật theo mẫu hình truyện Nôm bình dân

Nhân vật trong truyện Nôm bình dân cũng như truyện Nôm bác học đều

được xây dựng theo những hình mẫu. Trong truyện Nôm bình dân nhân vật

nam như: Thạch Sanh, Tống Trân, Phạm Công, Phạm Tải, Châu Tuấn, Lý

Công… thường là người chịu cảnh mồ côi cha hoặc cả cha lẫn mẹ. Họ đều là

những học trò nghèo phải đi ăn xin hoặc dắt mẹ đi ăn xin nhưng vẫn nuôi chí

học hành. Truyện Lục Vân Tiên tuy là truyện Nôm bác học những có ảnh

hưởng trong xây dựng mẫu hình nhân vật của truyện Nôm bình dân. Điều này

68

được thể hiện ở ngay nhân vật Lục Vân Tiên. Chàng là học trò xuất thân trong

một gia đình thường dân.

Có người ở quận Đông Thành,

Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.

Đặt tên là Lục Vân Tiên,

(Lục Vân Tiên câu 8-10)

Tuy vậy, chàng vẫn nuôi chí học hành.

Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành.

Theo thầy nấu sử xôi kinh,

Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao.

Văn đà khởi phụng đằng giao,

Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.

[Lục Vân Tiên câu 10 -15]

Nhân vật Lục Vân Tiên cũng như nhiều nhân vật trọng truyện Nôm bình

dân sau nhiều biến cố đều tiếp tục đi thi và được hưởng công danh vinh hiển.

Lục Vân Tiên đã đỗ trạng nguyên.

Kinh sư ngàn dặm một đường thẳng ra.

Vân Tiên dự trúng khôi khoa

Đương trong nhâm tý thiệt là năm nay.

[Lục Vân Tiên, câu 1740 -1743]

Nhân vật nam hiển vinh và được bổ chức quan cũng là điểm tương

đồng giữa truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều. Qua đây ta thấy rằng Nguyễn

Đình Chiểu khi sáng tác truyện Lục Vân Tiên không chỉ ảnh hưởng các truyện

Nôm bình dân mà còn có sự ảnh hưởng từ Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Ảnh hưởng kiểu nhân vật theo mẫu hình truyện Nôm bình dân trong

truyện Lục Vân Tiên không chỉ dừng lại ở gia thế và kết cục của nhân vật mà

ngay trong cách xây dựng tính cách nhân vật cũng có nhiều điểm tương đồng.

Trong tình yêu, các nhân vật nam là những người thủy chung son sắt. Lục

69

Vân Tiên khi đánh thắng giặc về triều tâu hết sự tình để giải oan cho Nguyệt

Nga sau đó hai người được sum vầy và hưởng hạnh phúc.

Tấm lòng thủy chung trong tình yêu cũng là nét tương đồng giữa truyện

Lục Vân Tiên và Truyện Kiều. Kim Trọng thể hiện quyết tâm son sắc với tình,

sẵn sàng từ bỏ con đường công danh để đi tìm cho được người tri âm, tri kỷ,

trong tâm tưởng Kim Trọng hình thành ý định:

Rắp mong treo ấn từ quan

Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng pha

[Truyện Kiều, câu 2939 -2940]

Không chỉ trong suy nghĩ mà ngay khi gặp lại Thúy Kiều mặc dù biết

nàng đã không còn trinh tiết những chàng vẫn chấp nhận lấy làm vợ và dành

những lời bênh vực cho nàng “lấy hiếu làm trinh”.

3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Lục Vân Tiên trong so sánh với

Truyện Kiều

3.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ của truyện Nôm bác học

3.2.1.1. Từ Hán - Việt

Từ Hán - Việt là lớp từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng

Trung Quốc nhưng đọc theo âm Việt. Cùng với sự ra đời của chữ quốc ngữ từ

Hán - Việt ngày nay được ghi bằng ký tự La tinh.

Trong tác phẩm truyện Lục Vân Tiên, tác giả đã vận dụng một hệ thống

từ Hán - Việt rất nhuần nhuyễn và mang lại hiệu quả cao. Trong đó có thể kể

đến lớp từ xưng hô của vua, quan, mối quan hệ vợ chồng, thầy trò, bạn bè,

chủ tớ như: trẫm, nàng, chàng, thiếp, quân tử, bằng hữu, tiểu sanh, tôn sư…

Chính những từ này làm cho mối quan hệ của các nhân vật có vẻ trang trọng,

đượm màu sắc phong kiến. Đồng thời qua hệ thống từ này chúng ta biết được

xuất thân và nghề nghiệp từng con người trong tác phẩm. Ngoài ra, lớp từ

xưng hô Nguyễn Đình Chiểu dùng những từ Hán - Việt còn muốn thể hiện

quan điểm sống, khuyên con người biết nhân nghĩa, đạo đức như: điểm phấn,

70

ngãi sâu, hoạn nạn, thác đà, bia danh...Khi nói lên quan điểm sống của đấng

nam nhi trong xã hội, tác giả đã dùng:

Làm trai ơn nước nợ nhà

Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.

[Lục Vân Tiên, câu 1765 - 1766]

Không chỉ Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm truyện Lục Vân Tiên mà

Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng đã sử dụng thành công hệ thống từ Hán -

Việt góp phần làm nên sự thành công cho tác phẩm. Theo thống kê của các

nhà nghiên cứu thì tỉ lệ từ Hán Việt trong Truyện Kiều cũng không quá lớn,

chỉ vào khoảng 35%, và đều được sử dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt, hiệu quả.

Chẳng hạn để để chỉ cha mẹ thì tác giả thường dùng những từ thay thế như

hai thân, song thân, hai đường; người mối lái thì nhà băng, băng nhân…,

trăng thì có cung quảng, gương nga, bóng nga, chị Hằng…

Hệ thống từ Hán - Việt được sử dụng trong truyện Lục Vân Tiên không

chỉ cho thấy ảnh hưởng của Truyện Kiều mà còn chứng minh được sự tài năng

của Nguyễn Đình Chiểu trong việc vận dụng ngôn ngữ.

3.2.2.2. Điển cố

Truyện Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm điển hình của

Nguyễn Đình Chiểu trong việc sử dụng điển cố văn học. Các điển cố khi được

sử dụng đều mang lại những giá trị thẩm mĩ cao, góp phần biểu hiện tư tưởng,

tình cảm của tác giả. Có những điển cố mang ý nghĩa phê phán, nhưng cũng

có những điển cố mang ý nghĩa ca ngợi. Nguyễn Đình Chiểu sử dụng điển cố

cũng có nhiều sáng tạo riêng có những điển cố được tác giả dụng nguyên

dạng nhưng cũng có những điển cố được ông biến hóa phù hợp với nội dung

khi sử dụng.

Điển cố được sử dụng trong truyện Lục Vân Tiên được sử dụng đa phần

lấy từ những tích chuyện xưa bao gồm các sự vật, sự việc, nhân vật biểu trưng

cho loại tính cách, phẩm chất, quyền năng hay hành vi. Những nhân vật này

71

có thực trong lịch sử hoặc hư cấu trong tác phẩm văn học hay là những địa

danh (vùng đất, sông hồ, núi non, biển cả,...) gắn với một tích truyện hay

tượng trưng cho một khái niệm, một tư tưởng, tình cảm nào đó...

Nghệ thuật sử dụng điển cố trong sáng tác cũng là điểm tương đồng lớn

trong tác phẩm truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều. Phần lớn điển cố trong

Truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên được dùng trong lời đối thoại của nhân

vật, đặc biệt là nhân vật cao quý, lí tưởng, tạo nên cách nói trang trọng, văn

hóa cho nhân vật.

Trong đoạn Tử Trực mắng cha con Võ Thể Loan Nguyễn Đình Chiểu đã

sử dụng khá nhiều điển cố:

Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.

Chẳng hay người học sách chi,

Nói sao những tiếng dị kì khó nghe?

Hay là học thói nước Tề,

Vợ người tử Củ đưa về Hoàn Công

Hay là học thói Đường cung

Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân?

Người nay nào phải nhà Tần,

Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm

Nói sao chẳng biết hổ thầm,

[Lục Vân Tiên, câu 1230 - 1240]

Trong đoạn này tác giả đã sử dụng điển cố khi nhắc tới các nhân vật

trong các tích truyện cổ của Trung Quốc như: Hoàn Công sai người nói với

vua Lỗ giết Tử Củ, chiếm vợ của em; Đường cung: cung vua Đường; Bất

Vi kén trong số vợ mình, một người tuyệt đẹp đã có mang, dâng cho Tử Sở

làm vợ. Thái tử Sở lên làm vua, tức Trang Tương vương. Ba năm sau chết,

con Sở (thực chất là con Bất Vi) lên ngôi Tần vương (Tần Thủy Hoàng).

Thông qua việc dùng điển cố trong lời mắng của Tử Trực với cha con Thể

72

Loan tác giả đã thể hiện được thái độ lên án bản chất xấu xa của cha con nhà

họ Võ. Đồng thời khắc họa được phẩm chất anh hùng của Tử Trực.

Đỉnh cao trong việc sử đụng điển tích trong truyện Lục Vân Tiên phải kể

đến đoạn thương ghét của ông Quán:

Quán rằng: "Ghét việc tầm phào

Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.

Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời U Lệ đa đoan,

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời ngũ bá phân vân,

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

Ghét đời thúc quí phân băng

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

Thương là thương đức thánh nhân,

Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông.

Thương thầy Nhan tử dở dang,

Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.

Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hớn mạt đã đành phôi pha.

Thương thầy Đồng tử cao xa,

Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên lượng ngùi ngùi,

Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.

Thương ông Hàn Dũ chẳng may,

Sớm dưng lời biểu tối đày đi xa.

Thương thầy Liêm Lạc đã ra,

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.

[Lục Vân Tiên, câu 479 - 502]

73

Trong khoảng 20 câu lục bát mà Nguyễn Đình chiểu đã nhắc tới khá

nhiều điển cố. Điều này khẳng định tài năng của Nguyễn Đình Chiểu trong

việc vận dụng linh hoạt điển cố vào sáng tác của mình.

Còn Truyện Kiều, điển cố được sử dụng trong lời đối thoại Kim Trọng

với Kiều:

Thoa này bắt được hư không,

Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?

[Truyện Kiều, câu 305 - 306 ]

Kiều nói với Thúc Sinh

Lòng còn gửi áng mây Vàng.

Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.

[Truyện Kiều, câu 1319-1320]

Việc sử dụng thành công điển cố, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ khiến

cho tác phẩm truyện Lục Vân Tiên mang một tầng ý nghĩa thâm sâu mà còn

làm nổi bật đặc điểm của truyện Nôm bác học.

3.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ của truyện Nôm bình dân

3.2.2.1. Từ thuần Việt

Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện Lục Vân Tiên nhằm mục đích giáo

huấn, răn đời. Vì vậy, để có thể đến gần được hơn với quần chúng lao động

ông sử dụng trong tác phẩm của hệ thống từ thuần Việt như: thuyền, chìm, cá

nuốt, giữa dòng, hai tám, lao đao, đà, đục trong, mây trời, nên hư, nguồn cơn,

chẳng phen, hai bảy, thang mây, dồi, đó, đăng, chớ nghi, …

Từ thuần Việt còn được ông thể hiện qua lớp từ xưng hô. Chẳng hạn qua

lời Kiều Nguyệt Nga với Kim Liên ta dễ dàng nhận thấy mối quan hệ của hai

người không đơn giản là chủ với tớ mà nó giống như của một người chị và

một người em:

Thôi thôi em hỡi Kim Liên!

Ðẩy xe cho chị qua miền Hà Khê.

[Lục Vân Tiên, câu 47 - 48]

74

Sử dụng lớp từ thuần Việt vào truyện Lục Vân Tiên không những làm

cho tác phẩm tăng giá trị giáo dục đạo đức mà còn khiến người đọc có thể

hiểu ngay những vấn đề tác giả muốn truyền tải.

3.2.2.2. Từ địa phương

Truyện Lục Vân Tiên là bước chuyển tiếp, chiếc cầu nối giữa văn chương

trung đại với văn học cận đại. Một trong những cái độc đáo, đặc sắc của Lục Vân

Tiên cũng chính là cái chất phương ngôn Nam bộ thấm đẫm tác phẩm.

Trong Truyện Lục Vân Tiên tác giả đã sử dụng hàng loạt từ ngữ dân gian

trong lời ăn tiếng nói Nam Bộ và xứ Huế như: lướt dặm, nhắm kiểng, thưa

việc, trở việc, bôn chôn, bịn rịn, bĩ bàng, bậu, qua, mặt như sề thịt trâu, ê hề,

tầm phào, vắng hoe, hỏi phăn, mưa tro, quày quả, đổ thừa, ni… Việc này

nhằm tạo ra tính giao thoa của ngôn ngữ hai vùng miền, từ đó góp phần làm

giàu thêm ngôn ngữ của dân tộc.

Truyện Lục Vân Tiên, ta thấy xuất hiện một lớp từ vựng mang dấu ấn

vùng miền Nam Bộ: heo/ lợn; bắp/ ngô; nhang/ hương; nhợ/ dây ; đui/ mù ;

hối/ giục ; kêu/ gọi ; quái/ treo, chơn/chân

Người rằng: " Một gã con trai,

"Ở đâu không biết lạc loài đến đây.

"Chơn tay mặt mũi tốt thay,

"Đau chi nên nỗi nước nầy khá thương.

[Lục Vân Tiên, câu 917 - 920]

Sở dĩ có hiện tượng này tác phẩm Lục Vân Tiên, được truyền miệng trong

quần chúng nhân dân, cho nên có hiện tượng biến âm như thế có thể nghĩ là do

người kể, người sao chép, người đọc đã theo cách phát âm phương ngữ.

Có thể nói nhân dân miền nam yêu thích Lục Vân Tiên không phải chỉ do

phương ngữ tao ra, nhưng phương ngữ vẫn có vai trò rất quan trọng. Phương

ngữ miền Nam chính là một yếu tố trong giá trị hiện thực của thơ văn Nguyễn

Đình Chiểu.

75

3.2.2.3. Thi liệu văn học dân gian

Truyện Lục Vân Tiên là một tác phẩm truyện Nôm bác học nhưng lại

được người bình dân yêu thích và lưu truyền. Điều đó được tạo nên chính vì

Nguyễn Đình Chiểu đã biết vận dụng sáng tạo những thi liệu văn học dân

gian vào sáng tác của mình.

Trong tác phẩm Lục Vân Tiên nhưng chúng ta dễ dàng nhận thấy nhiều

tứ thơ được khơi nguồn từ văn học dân gian như tục ngữ, thành ngữ, ca dao…

Tục ngữ, thành ngữ trong truyện Lục Vân Tiên đặc biệt hơn so với các

truyện Nôm khác là do nó mang đậm dấu ấn Nam Bộ. Hàng trăm câu thành

ngữ, tục ngữ dân gian như: vật đổi sao dời, màn trời chiếu đất, sớm còn tối

mất, phận bạc như vôi, tiền mất tật còn… đã hòa lẫn vào những câu thơ.

Việc trong trời đất biết chi,

Sao dời vật đổi còn gì mà trông!

[Lục Vân Tiên, câu 579 - 580]

Nào hay nước chảy hoa trôi,

Nào hay phận bạc như vôi thế này

[Lục Vân Tiên, câu 629 - 630]

Hoặc có thể thấy trong tác phẩm Lục Vân Tiên những mảnh rời của tục

ngữ như Chùa rách Phật vàng, nước có nguồn cây có cội, sống sao thác vậy,

trọng nghĩa khinh tài, chuông chẳng đánh sao kêu, đèn chẳng khêu sao rạng,

vạch lá tìm sâu… Cho dù tác giả sử dụng nguyên vẹn hay những mảnh rời thì

nội dung diễn đạt của câu thơ không mất đi.

Mục đích Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện Lục Vân Tiên là để giáo

huấn, răn đe nên đối tượng mà tác giả hướng là những con người bình dân lao

động, những người theo học đạo đức thánh hiền. Do vậy, ông thường vận

dụng những câu thành ngữ, tục ngữ ngắn gọn mà có nội dung sâu xa.

Nghệ thuật vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác cũng là điểm

tương đồng giữa Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Du.

76

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng tài tình những câu tục ngữ

qua đó thể hiện được những kinh nghiệm sống muôn thuở:

Ở đây tai vách mạch rừng,

Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi

Kẻo khi sấm sét bất kỳ,

Con ong cái kiến kêu gì được oan.

[Truyện Kiều, câu 1755 -1758]

Nếu như tục ngữ, thành ngữ giúp truyện thơ Nôm bác học thể hiện một

cách đặc sắc nội dung tư tưởng giàu tính triết lý của tác phẩm, thì ca dao, dân

ca lại giúp các nhà thơ một cách đắc lực khi thể hiện nội dung trữ tình phong

phú của nó.

Cái tài của Nguyễn Đình Chiểu chính là ở cách vận dụng thể loại văn

học dân gian này. Có lúc ông sử dụng nguyên bản một câu ca dao, dân ca làm

cho lời thơ thêm duyên dáng, nhuần nhị, ngọt ngào. Cũng giống như người

dân lao động, ông đã sử dụng ca dao để thể hiện những điều mà bản thân

muốn nói trong tác phẩm. Khi đọc Lục Vân Tiên, ta sẽ bị ngỡ ngàng và khó

khăn khi có lúc không phân định được đâu là lời thơ của tác giả với ca dao.

Chẳng hạn như trọng đoạn Võ Thể Loan ngày tiễn Vân Tiên tỏ ra hết sức bịn

rịn, đã mượn một câu ca dao nhắn chàng:

Xin đừng tham đó bỏ đăng

Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn

[Lục Vân Tiên, câu 412 - 413]

Ngoài sử dụng sáng tạo những câu ca dao, tác giả còn đem vào tác phẩm

của mình một hệ thống những câu hát dân ca. Trong truyện Lục Vân Tiên câu

“Ví dầu còn nhớ tích xưa” nghe giống như những câu hát ru quen thuộc trong

dân gian mà bà và mẹ thường cất lên khi dỗ cho con ngủ.

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo, ghập ghềnh khó đi

77

Việc vận dụng ca dao, dân ca vào sáng tác không chỉ đem lại hiệu quả

cao ở tác phẩm truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu mà trước đó

Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều. Ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều có rất

nhiều câu mang bóng dáng của ca dao như vậy

Còn non, còn nước, còn trời

Còn về, còn nhớ đến ngày hôm nay.

(Truyện Kiều)

Còn non, còn nước, còn trời

Còn cô bán rượu anh còn say sưa.

(Ca dao)

Ngoài ra, ảnh hưởng của diễn xướng dân gian trong truyện Lục Vân Tiên

đậm nhất, và rất dễ nhận ra thể hiện rõ rệt nhất ở cách phân truyện ra làm sáu

lớp minh bạch.

Truyện nàng sau hãy còn lâu

Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra.

[Lục Vân Tiên, câu 287 - 288]

Cách sắp đặt cốt truyện thành từng khối rõ ràng, việc kết thúc từng đoạn

nhanh gọn đã làm cho người nghe khỏi phải chờ đợi, nội dung tác phẩm cũng

dễ nắm bắt.

Việc vận dụng thi liệu văn học dân gian vào tác phẩm truyện Lục Vân

Tiên tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã khiến cho tác phẩm đến được gần hơn với

quần chúng nhân dân.

3.2.2.4. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị

Truyện Lục Vân Tiên được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhằm mục đích

để kể nhiều hơn là để đọc. Do vậy, từ ngữ không mấy trau chuốt, hầu như

không có những vế câu đăng đối chỉn chu. Ngôn ngữ đối thoại rất sống động,

rất tự nhiên.

78

Thằng nào dám tới lẫy lừng ở đây

Trước gây việc dữ tại mày

Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng...

[Lục Vân Tiên, câu 128 -130]

Kể cả nhưng nhân vật rất nho nhã như Lục Vân Tiên, ngôn ngữ sử dụng

cũng rất bình dân.

Khoan khoan ngồi đó chớ ra,

Nàng là phận gái, ta là phận trai.

[Lục Vân Tiên, câu 145 - 146]

Đối ngược với truyện Lục Vân Tiên, ngôn ngữ Truyện Kiều cầu kì, điêu

luyện, bác học. Khi miêu tả sự hào hoa phong nhã của Kim Trọng, Nguyễn

Du sử dụng điển tích.

Khen tài nhả ngọc phun châu

Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này.

[Truyện Kiều, câu 405 - 406]

Ngoài ra trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện là một bậc

thầy trong việc sử dụng cấu trúc tiểu đối chiếm trọn vẹn một dòng thơ.

Trai anh hùng / gái thuyền quên

Hoa ghen thua thắm / liễu hờn kém xanh

Như vậy, qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm truyện Lục

Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện sử ảnh hưởng của truyện Nôm bình

dân rõ hơn so với tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngoài ra với hệ

thống “ngôn ngữ truyện Lục Vân Tiên mộc mạc, giản dị, đó là thứ ngôn ngữ

vừa để kể vừa làm tác động, và nghe kể là hiểu ngay tức khắc” [41, tr. 647] đã

rất đắc dụng với mục đích sáng tác của tác giả.

79

Tiểu kết:

Nhân vật ở truyện Lục Vân Tiên được xây dựng theo mẫu hình tải tử

giai nhân, các nhân vật chính đều là những người tài sắc vẹn toàn. Đây cũng

là điểm tương đồng lớn nhất trong nghệ thuật xây dựng nhân vật giữa truyện

Lục Vân Tiên và Truyện Kiều. Tuy nhiên trong truyện Lục Vân Tiên tác giả

không nhấn mạnh vào con người với tài nghệ thuật mà nhấn mạnh vào con

người hành động vì chính nghĩa. Ngoài ra trong truyện Lục Vân Tiên chúng ta

còn thấy ảnh hưởng của truyện Nôm bình dân trong cách xây dựng nhân vật

nam được giới thiệu trọn vẹn từ xuất thân đến những diễn biến chính trong

cuộc đời.

Xét về nghệ thuật ngôn từ trong truyện Lục Vân Tiên ta thấy tác phẩm

là sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ truyện Nôm bác học và truyện Nôm

bình dân. Ngôn ngữ truyện Nôm bác học thể hiện qua tác phẩm thông qua

hệ từ Hán - Việt, điển tích điển cố, còn ngôn ngữ của truyện Nôm bình dân

thể hiện qua việc tác giả sử dụng hệ thống từ phương ngữ, thi liệu văn học

dân gian. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ kết hợp giữa ngôn ngữ trong truyện

Nôm Bác học và truyện Nôm bình dân trong một tác phẩm là điểm tương

đồng lớn của Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Du thể hiện qua hai tác phẩm

truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều. Qua điểm tương đồng này chúng ta

thấy được sự ảnh hưởng của Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều đối với

Nguyễn Đình Chiểu thông qua tác phẩm Lục Vân Tiên. Đồng thời thấy

được tài năng của Nguyễn Đình Chiểu trong việc làm phong phú cho thể

loại thơ Nôm nước nhà.

80

KẾT LUẬN

Truyện thơ là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn

học Việt Nam. Mặc dù hiện nay chưa xác định chính xác được thời điểm xuất

hiện của truyện thơ nhưng trong vốn truyện thơ dân tộc đã ghi nhận hai tác

phẩm nổi tiếng: Truyện Kiều của Nguyễn Du và truyện Lục Vân Tiên của

Nguyễn Đình Chiểu. Vấn đề phần loại truyện thơ tuy vẫn chưa nhận được sự

thống nhất của các nhà nghiên cứu nhưng dù phân loại theo tiêu chí nào các

tác giả cũng đảm bảo được nội dung mà từng thể loại truyện Nôm đề cập.

Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là một truyện Nôm bác

học gắn với những đặc điểm về cốt truyện có tính chất tự truyện kết hợp với

hư cấu, nhân vật được miêu tả qua đối thoại và độc thoại. Tuy là một truyện

Nôm bác học nhưng truyện Lục Vân Tiên chịu chi phối khá nhiều về kết cấu

và mô thức tự sự của truyện Nôm bình dân. Xét về mô thức tự sự, truyện

được xây dựng trên mô hình chính: gặp gỡ - tai biến/ lưu lạc - đoàn viên. Còn

về kết cấu, truyện được xây dựng theo cốt truyện dân gian, thời gian tuyến

tính, mạch truyện không liền mạch, nhân vật được miêu tả qua hành động, kết

hợp với kết cấu của kịch đó là đặc điểm nổi bật nhất về kết cấu tự sự của

truyện Nôm bác học được thể hiện qua truyện Lục Vân Tiên.

Nhân vật ở truyện Lục Vân Tiên được xây dựng theo mẫu hình tài tử

giai nhân, các nhân vật chính đều là những người tài sắc vẹn toàn. Đây cũng

là điểm tương đồng lớn nhất trong nghệ thuật xây dựng nhân vật giữa truyện

Lục Vân Tiên và Truyện Kiều. Ngoài ra trong truyện Lục Vân Tiên chúng ta

còn thấy ảnh hưởng của truyện Nôm bình dân trong cách xây dựng nhân vật

nam chính có xuất thân bần hàn. Xét về nghệ thuật ngôn từ trong truyện Lục

Vân Tiên ta thấy tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ truyện Nôm

bác học và truyện Nôm bình dân. Ngôn ngữ truyện Nôm bác học thể hiện

qua tác phẩm thông qua hệ từ Hán - Việt, điển tích điển cố, còn ngôn ngữ của

truyện Nôm bình dân thể hiện qua việc tác giả sử dụng hệ thống từ phương

81

ngữ, thi liệu văn học dân gian. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ kết hợp giữa

ngôn ngữ trong truyện Nôm Bác học và truyện Nôm bình dân trong một tác

phẩm là điểm tương đồng lớn của Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Du thể

hiện qua hai tác phẩm truyện Lục Vân Tiên và Truyện Kiều. Qua điểm tương

đồng này chúng ta thấy được sự ảnh hưởng của Nguyễn Du và tác phẩm

Truyện Kiều đối với Nguyễn Đình Chiểu thông qua tác phẩm Lục Vân Tiên.

Đồng thời thấy được tài năng của Nguyễn Đình Chiểu trong việc làm phong

phú cho thể loại thơ Nôm nước nhà.

82

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (1999), Từ điển văn học Việt

Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội

2. Hoàng Giật Cầu (1972), “Lược khảo về hai tên sách “Truyện Tây Minh”

và “Truyện Tam Công”, Nguyễn Đình Chiểu, tấm gương yêu nước và

lao động nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Nguyễn Huệ Chi (1972), “Con đường thơ của Nguyễn Đình Chiểu”,

Nguyễn Đình Chiểu, tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Đình Chú (1972), “Từ lý tưởng nhân nghĩa đến chủ nghĩa yêu

nước”, Nguyễn Đình Chiểu, tấm gương yêu nước và lao động nghệ

thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Mai Cao Chương (1984), “Tìm hiểu quan điểm văn học của Nguyễn

Đình Chiểu và sự vận dụng quan điểm đó vào thực tiễn sáng tác của

ông”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học về Nguyễn Đình Chiểu, Sở văn hóa

thông tin và Hội văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre xuất bản.

6. Xuân Diệu (1963), Mấy cảm nghĩ về cụ Đồ Chiểu: Đâm mấy thằng gian

bút chẳng tà, Báo Thống nhất, (314).

7. Xuân Diệu (1972), Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Tác phẩm mới,

(20).

8. Võ Văn Dung (1974), “Nguyễn Đình Chiểu, chiến sĩ”, Nxb Trí Đăng

9. Văn Dương (1933), “Giá trị cuốn “Lục Vân Tiên” và cuốn “Kim Vân

Kiều” hơn kém nhau thế nào?, Tạp chí Văn học, (14).

10. Hà Minh Đức và Bùi Văn Nguyên (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và

thể loại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

11. Cao Huy Đỉnh (1972), “Đồ Chiểu với sự chuyển mình của văn hóa dân tộc”,

Tạp chí văn học, (4)

83

12. Phạm Văn Đồng (1963), “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn

nghệ của dân tộc”, Tạp chí văn học, (1). In lại trong Mấy vấn đề về cuộc

đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, (in lần 1) Nxb Khoa học, Hà Nội.

13. E. Hoeffel (1943), “Đức trung hiếu, tiết, nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu”

In lại trong Nguyễn Đình Chiểu về tác gia tác phẩm, Nxb Giáo dục.

14. Bảo Định Giang (1963), “Một tấm gương yêu nước lớn, một nhà thơ

lớn”, Tuần báo Văn nghệ, (10). In lại trong Mấy vấn đề về cuộc đời và

thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Khoa học, Hà Nội.

15. Bảo Định Giang (1990), Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam

Bộ nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.

16. Bảo Định Giang, Vũ Đình Liên, Nguyễn Sỹ Lâm (1963), Thơ văn

Nguyễn Đình Chiểu, (in lần 1), Nxb Văn học.

17. Hà Huy Giáp (1972), “Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn yêu nước chống

xâm lăng, một tâm hồn vằn vặc nhân nghĩa, một tấm gương kiên trung

và bất khuất”, Tạp chí văn học, (4).

18. Trần Văn Giàu (1963), “Nhân nghĩa trong văn chương Nguyễn Đình

Chiểu”, Báo Văn nghệ, (10).

19. Trần Văn Giàu (1963), “Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp

chí văn học, (1).

20. Trần Văn Giàu (1983), Nguyễn Đình Chiểu, đạo làm người, Sở Văn hóa

thông tin Long An xuất bản.

21. Bùi Thị Ngọc Hà (2016), Về cách xây dựng nhân vật trong truyện Nôm,

Tạp chí VHNT số 390.

22. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1997), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Trung Hiếu (1972), “Cái nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu và tấm

lòng, ý chí Việt Nam”, Nguyễn Đình Chiểu, tấm gương yêu nước và lao

động nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

84

24. Nguyễn Trung Hiếu (1982), “Để hiểu Đồ Chiểu rõ hơn về mặt nghệ

thuật”, Tạp chí Văn học (4)

25. Đỗ Đức Hiểu (2004), Từ điển Văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.

26. Trần Phương Hồ (1997), Điển tích trong Truyện Kiều, Nxb Đồng Nai.

27. Mai Huỳnh Hoa (1982), “Tâm đạo của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu”,

Tạp chí Văn học, (4).

28. Đỗ Thị Huyền (2014), Nguyễn Đình Chiểu trong thể loại truyện Nôm,

luận văn thạc sĩ trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn

29. Lê Hữu (1998), “Để có một văn bản Lục Vân Tiên gần với nguyên tác”,

Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.

30. Ngô Huy Khanh (1998), “Nguyễn Đình Chiểu, nhà văn hóa lớn”, Văn

hóa nghệ thuật, (7).

31. Vũ Khiêu (1972), “Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu trong văn học Việt Nam”,

Báo Văn nghệ,(455)

32. Vũ Khiêu, Nguyễn Đức Sự (1982), Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng

của người trí thức Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

33. Lê Đình Kỵ (1995), Trên đường văn học, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.

34. Võ Lang (1964), “Tìm hiểu Đồ Chiểu qua Lục Vân Tiên”, Văn hóa

nguyệt san, tập XIII. Q.2. In lại trong Sưu tập những bài báo về Nguyễn

Đình Chiểu, Phủ quốc vụ khanh, đặc trách văn hóa xuất bản.

35. Bàng Bá Lân (1971), “Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ bình dân lớn của

miền Nam”, Tạp chí Văn học, (133).

36. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

37. Vũ Đình Liên (1955), Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ yêu nước miền Nam,

Nxb Minh Đức - Thời Đại, Hà Nội.

38. Vũ Đình Liên (1972), “Từ nhân sinh quan đến thẩm mỹ quan của

Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí Văn học, (4).

85

39. Mai Quốc Liên (1998), “Người đọc”, Văn nghệ (17).

40. Nguyễn Lộc (1984), Những cống hiến đặc sắc của Nguyễn Đình

Chiểu trong lịch sử văn hóa dân tộc, Nxb Bến Tre.

41. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ

XIX, Nxb Giáo dục.

42. Đặng Văn Lung (1982), “Nguyễn Đình Chiểu và văn học dân gian”, Tạp

chí Văn học, (4).

43. Phương Lựu (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 1997

44. Đặng Thai Mai (1965), “Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ yêu nước lớn của

nhân dân Việt Nam”, Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

45. Nguyễn Phong Nam (1995), “Để làm rõ điều nghi vấn về truyện Lục

Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí Văn học, (2).

46. Nguyễn Phong Nam (1998), Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

47. Trần Nghĩa (1963), “Thử bàn về nguồn gốc truyện Lục Vân Tiên”, Tạp

chí Văn học, (1).

48. Phan Ngọc (1982), “Tính nhân dân của Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí

Văn học, (4).

49. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện

Kiều, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

50. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Nxb

Đồng Tháp.

51. Lạc Quang Nhơn (1943), “Xứng nhau mà chẳng gặp nhau”, Nam Kỳ

tuần báo, (số đặc biệt).

52. Nhiều tác giả (1978), Lịch sử văn học Việt Nam (Tập 3), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

53. Vũ Ngọc Phan (1971), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

86

54. Vũ Đức Phúc (1982), “ Đạo Nho và các nhân vật trí thức trong sáng tác

của Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí Văn học,

55. Đặng Văn Phước (2012), Đặc trưng nghệ thuật truyện Nôm của Nguyễn

Đình Chiểu, Luận văn thạc sĩ trường Đại học Vinh.

56. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

57. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

58. Nguyễn Đức Sự (1978), “Sự vận dụng Nho giáo trên lập trường nhân

dân của Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí Triết học, (3).

59. Văn Tân (1972), “Nguyễn Đình Chiểu, một nhà trí thức yêu nước nồng

nàn, một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc Việt Nam”, Nghiên cứu lịch sử, (143)

60. Hoài Thanh (1964), “Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm

gương chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam”, Mấy vấn đề

về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Nxb Khoa học.

61. Hoài Thanh (2002), “Quyền sống của con người trong truyện Kiều của

nguyễn Du”, Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

62. Cao Tự Thanh - Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Nguyễn Đình Chiểu với văn

hóa Việt Nam, Sở Văn hóa thông tin Long An xuất bản..

63. Ca Văn Thỉnh (1943), “Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu”, Đại

Việt tạp chí, (19)

64. Ca Văn Thỉnh (1972), “Truyền thống quật cường Nam Bộ và Việt Nam

với tinh thần đấu tranh của Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí Văn học, (4)

65. Lã Nhâm Thìn (2001), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt

Nam từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

66. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ

XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

67. Nguyễn Ngọc Thiện (1998), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

87

68. Nguyễn Khánh Toàn (1972), “Nguyễn Đình Chiểu, nhà trí thức miền

Nam yêu nước vĩ đại”, Tạp chí Văn học, (4)

69. Đặng Văn Tính (2011), Từ ngữ văn hóa Truyện Lục Vân Tiên, luận văn

tạc sĩ trường Đại học Đà Nẵng.

70. Lê Trí Viễn (2002), Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao càng nhìn càng sáng,

Nxb Giáo dục tái bản.

71. Viện Văn học (1964), Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình

Chiểu, (in lần 1) Nxb Khoa học, Hà Nội.

72. Viện Văn học (1965), Một số tư liệu về cuộc đời và thơ văn Nguyễn

Đình Chiểu, (in lần 1) Nxb Khoa học, Hà Nội.

73. Nguyễn Quang Vinh (1972), Truyện thơ Lục Vân Tiên với văn hóa dân gian,

Tạp chí Văn học, (4).

74. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

75. Nguyễn Văn Xuân (1961), Đại danh từ và các tiếng xưng hô trong”

Truyện Kiều” và “Lục Vân Tiên, Văn hữu (10), Sài Gòn.

88