ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRỊNH THÙY DƯƠNG

TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN

TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2016

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRỊNH THÙY DƯƠNG

TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN

TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Cao Thị Hảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luâ ̣n văn “Truyện ngắ n Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thá i” là kết quả nghiên cứ u củ a riêng tôi, hoàn toàn không sao chép của bất cứ ai. Các kết quả củ a đề tài là trung thực và chưa đươ ̣c công bố ở các công trình khác.

Nội dung của luận văn có sử du ̣ng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các

tác phẩm, ta ̣p chí, các trang web theo danh mục tài liê ̣u tham khảo của luâ ̣n văn.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chi ̣u trách nhiê ̣m.

Thá i Nguyên, thá ng 4 năm 2016

i

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Tá c giả luâ ̣n văn Tri ̣nh Thuỳ Dương

LỜ I CẢ M ƠN

Em xin bày tỏ lò ng biết ơn sâu sắc tớ i PGS.TS Cao Thị Hảo - Trường Đa ̣i học Sư phạm Thái Nguyên về sự hướ ng dẫn tâ ̣n tình, đầy đủ , chu đáo và đầy tinh thần trách nhiê ̣m củ a cô trong toàn bô ̣ quá trình em hoàn thành luâ ̣n văn.

Em xin trân trọng cảm ơn sự ta ̣o điều kiê ̣n giúp đỡ củ a Ban chủ nhiê ̣m

Khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trườ ng Đại ho ̣c Sư pha ̣m

Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luâ ̣n văn này.

Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, ba ̣n bè, đồ ng nghiê ̣p đã đô ̣ng

viên và nhiê ̣t tình giú p đỡ em trong thời gian hoàn thành luâ ̣n văn.

Thá i Nguyên, thá ng 4 năm 2016

Tác giả luâ ̣n văn

ii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trịnh Thuỳ Dương

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i

LỜ I CẢ M ƠN ....................................................................................................... ii

MỤC LỤC............................................................................................................ iii

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7

5. Các phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 7

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8

7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 8

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 9

Chương 1: LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH

SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN CAO DUY SƠN .................................................... 9

1.1. Một số vấn đề lý thuyết phê bình sinh thái ................................................... 9 1.1.1. Khái niê ̣m phê bình sinh thái ..................................................................... 9 1.1.2. Phê bình sinh thái trong văn ho ̣c Việt Nam hiện đại ............................... 13 1.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Cao Duy Sơn .......................................... 20

1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp ............................................................................. 20

1.2.2. Những ngả đường đến với văn chương của Cao Duy Sơn ...................... 22

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 25

Chương 2: QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VÀ TỰ NHIÊN TRONG

TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN ..................................................................... 26

2.1. Con người và tự nhiên trong sự đối sánh ................................................... 26

2.2. Con người và tự nhiên trong mối quan hệ gắn bó, hòa hợp ....................... 31

2.2.1. Con người hòa hợp với tự nhiên .............................................................. 31

iii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.2.2. Tự nhiên phản chiếu tâm hồn con người ................................................. 35

2.3. Con người và tự nhiên trong quy luật nhân quả ......................................... 41

2.3.1. Con người tác động tiêu cực đến tự nhiên ............................................... 41

2.3.2. Tự nhiên đáp trả lại con người ................................................................ 55

2.4. Con người và tự nhiên trong khát vọng đồng hóa ...................................... 62

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 65

Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA CON

NGƯỜI VÀ TỰ NHIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN .............. 67

3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ................................................................. 67

3.2. Nghệ thuật tạo dựng bối cảnh không gian .................................................. 71

3.2.1. Không gian hoang dã, nguyên sơ ............................................................ 72

3.2.2. Không gian tự nhiên gắn liền với sinh hoạt của người miền núi ............ 77

3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ..................................................................... 78

3.3.1. Sử dụng hình ảnh tự nhiên trong ngôn ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật ... 78

3.3.2. Sử dụng hình ảnh tự nhiên trong ngôn ngữ khắc họa tâm lý nhân vật .... 81

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 84

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 89

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Văn học dân tộc thiểu số có một vị trí quan trọng trong đời sống văn

học nước nhà. Trong đội ngũ nhà văn là người dân tộc thiểu số Việt Nam, Cao

Duy Sơn là cây bút trẻ, có sức sáng tạo dồi dào ở mảng đề tài viết về dân tộc và

miền núi. Tuy mới xuất hiện trên văn đàn nhưng tên tuổi Cao Duy Sơn đã dần

trở lên quen thuộc với độc giả, tác phẩm của ông cũng tạo được tiếng vang lớn

và đạt được nhiều giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam. Là một cây bút

đương sung sức, các sáng tác của Cao Duy Sơn bao gồm cả truyện ngắn và tiểu

thuyết, nhưng truyện ngắn là địa hạt có nhiều mùa gặt bội thu hơn cả. Với hai

giải A của Hội văn học dân tộc thiểu số Việt Nam, Tặng thưởng của Hội Nhà

văn Việt Nam và giải thưởng văn học ASEAN của Hoàng gia Thái Lan năm

2009 cho những tập truyện ngắn xuất sắc, truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã

“mang một thương hiệu riêng, in đậm dấu ấn văn hóa Tày và soi bóng tâm hồn

con người miền núi đặc sắc, sinh động”[9, tr88]. Nghiên cứu truyện ngắn của

Cao Duy Sơn sẽ góp phần khẳng định đóng góp và vị trí của nhà văn trong tiến

trình phát triển của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

1.2. Nghiên cứu về truyện ngắn Cao Duy Sơn gần đây đã có một số tác

giả quan tâm nhưng chủ yếu đề cập đến các vấn đề như: Đặc điểm truyện ngắn,

nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật, bản sắc văn hóa dân tộc…

Một vấn đề khá mới mẻ và độc đáo trong truyện ngắn Cao Duy Sơn đó là mối

quan hệ giữa con người và tự nhiên vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ

thống. Từ góc nhìn phê bình sinh thái chúng tôi hi vọng sẽ đem lại những khám

phá mới mẻ về vấn đề này trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.

1.3. Phê bình sinh thái là một lý thuyết mới đã được giới nghiên cứu trên

thế giới quan tâm và ứng dụng vào nghiên cứu văn học. Gần đây, lý thuyết này

cũng bắt đầu được ứng dụng trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam và có những

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thành tựu khả quan. Đây là hướng nghiên cứu mới nhiều triển vọng, cho thấy

mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, đặc biệt là cách ứng xử của con người

với thế giới tự nhiên và những tác động ngược lại của giới tự nhiên đến đời

sống con người. Điều này cũng thể hiện rõ ý nghĩa thực tiễn và tính thời sự của

nó trong bối cảnh hiện nay, trước nhu cầu nóng bỏng của nhân loại về cải thiện

môi trường sinh thái, khát vọng về mối giao hòa vĩnh cửu giữa con người và

thiên nhiên. Trong truyện ngắn của mình, Cao Duy Sơn đã có tiếng nói của

riêng mình về vấn đề này bằng một quan điểm mới mẻ và sâu sắc. Chính bởi

những lý do trên mà chúng tôi lựa chọn đề tài: “Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ

góc nhìn phê bình sinh thái” để nghiên cứu. Hi vọng công trình hoàn thành sẽ

góp phần khẳng định những đóng góp mới mẻ của nhà văn Cao Duy Sơn cho

dòng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, đồng thời qua đó cũng cho

thấy hiệu quả của một hướng tiếp cận mới mẻ trong văn học.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những nghiên cứu chung về truyện ngắn của Cao Duy Sơn

Là một cây bút đang nổi danh, các sáng tác của Cao Duy Sơn trong thời

điểm hiện tại chưa phải là nhiều (5 tiểu thuyết, 4 tập truyện ngắn) nhưng nhà văn

dân tộc Tày này đã khẳng định được phong cách riêng, độc đáo của mình trong

dòng chảy văn học dân tộc thiểu số. Ông đã có những đóng góp nhất định cho văn

học dân tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung.

Truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã nhận được sự quan tâm của khá nhiều

các nhà nghiên cứu. Trên các báo chí (cả báo in và báo điện tử) đã đăng tải một

loạt các bài viết về Cao Duy Sơn và truyện ngắn của anh, đặc biệt là sau khi

anh đoạt giải thưởng. Chúng ta có thể kể đến các bài viết sau:

Nhà văn người Cô Sầu đoạt giải văn chương, tác giả Hứa Hiếu Lễ, báo

Văn hóa văn nghệ Cao Bằng.

Văn xuôi độc chiếm giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 2008, tác giả

Hà Linh, báo Văn nghệ Quân đội.

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Viết văn phải có sự ám ảnh, tác giả Huy Sơn, Trang văn hóa giải trí.

Bông hoa sen đang ngát, tác giả Hứa Hiếu Lễ, báo Vietnam.net.

Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 2008 với tác giả “Ngôi nhà xưa

bên suối”, tác giả Mai Thi, báo Hà Nội mới

Ban mai có một giọt sương, tác giả Đỗ Đức, báo Văn nghệ.

Viết văn là một cuộc viễn du về cội nguồn, tác giả Võ Thị Thúy, báo

kinh tế đô thị.

Hầu hết các bài viết đều khẳng định những đóng góp của nhà văn Cao

Duy Sơn đối với văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, phong cách riêng

và tài năng của nhà văn đất Cô Sầu. Có tác giả cho rằng: “Đề tài miền núi

không mới nhưng viết để người đọc thổn thức và nhớ đến không phải ai cũng

làm được, có lẽ xuất thân của một người con sau bao nhiêu năm xa cách quê

hương đã làm nên một Cao Duy Sơn thành thực và đầy tình cảm” [47, tr.9].

Trong bài viết Cao Duy Sơn giọng văn nhẹ nhàng mà sắc bén, tác giả

Sông Lam (báo Dân tộc và phát triển) cũng khẳng định: “Kí ức tuổi thơ, con

người đất Cô Sầu và những vỉa tầng văn hóa truyền thống dân tộc Tày đã bán

rễ, ám ảnh sâu vào tâm trí Cao Duy Sơn. Nó khiến anh khắc khoải, day dứt, tựa

hồ như đang mang một món nợ đối với quê hương. Và nếu không trả được món

nợ đó, anh không thể tìm thấy một chốn bình an để neo đậu tâm hồn” [16, tr.20].

Cũng đồng quan điểm này, nhà nghiên cứu Đào Thủy Nguyên đã quan

tâm tới yếu tố tạo nên những trang viết sâu nghĩa nặng tình của Cao Duy Sơn

và lí giải rõ “Cội nguồn văn hóa dân tộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn”

bắt nguồn từ tâm hồn con người đậm chất Tày trong truyện ngắn của anh.

Nhà phê bình Lâm Tiến, tác giả của một số công trình nghiên cứu về văn

học dân tộc thiểu số Việt Nam, khi nhận xét về cá tính sáng tạo của nhà văn

Cao Duy Sơn cho rằng: “Ông miêu tả nhận vật dưới góc độ đời tư, có số phận

riêng và có một sự tự ý thức. Điều đó càng được thể hiện rõ trong những truyện

ngắn sau này của ông (…….). Nhân vật của ông thường khỏe khoắn, mạnh mẽ,

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

có cuộc sống nội tâm phong phú, phức tạp, dữ dội nhưng lại lặng lẽ, kín đáo.

Truyện của Cao Duy Sơn còn hấp dẫn người đọc ở cách viết giàu cảm xúc,

giàu hình tượng với cách cảm nhận sự vật, hiện tượng tinh tế, chính xác, sắc

sảo với những tình huống căng thẳng, gay gắt, bất ngờ. Với cách viết đó Cao

Duy Sơn đã đem lại cho văn xuôi các dân tộc thiểu số một cách cảm nhận mới

về con người và cuộc sống của các dân tộc” [41, tr.10].

Không chỉ quan tâm tới các yếu tố về cảm hứng, nhân vật, cách viết,

ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn cũng được quan tâm

tìm hiểu. Tác giả Cao Thị Hảo trong bài viết: Ngôn ngữ nghệ thuật trong

truyện ngắn của Cao Duy Sơn đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (số 361,

tháng 7/2014) khẳng định: “Trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, ngôn ngữ nghệ

thuật được thể hiện khá độc đáo, mang màu sắc riêng và đậm chất Tày, thể

hiện qua việc sử dụng lối ví von, so sánh, liên tưởng gần gũi với cách tư duy

của người dân miền núi, sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, lối nói phuối pác,

phuối rọi của văn học dân gian Tày”[9, tr.88].

Nhìn chung, truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã được nghiên cứu từ nhiều

phương diện. Các tác giả cũng đã khẳng định những đóng góp tiêu biểu của nhà

văn cho dòng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, tìm hiểu

truyện ngắn Cao Duy Sơn từ những góc nhìn khác, nhất là từ những lý thuyết

mới sẽ cho chúng ta những đánh giá khách quan và toàn diện hơn nữa về vị trí

cũng như đóng góp của nhà văn dân tộc Tày này.

2.2. Những nghiên cứu về truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình

sinh thái

Nghiên cứu về truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái

cho đến nay chưa có công trình nào đề cập đến một cách hệ thống và chuyên

biệt. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan về mối quan hệ giữa con người với tự

nhiên đã được các tác giả ít nhiều quan tâm đến trong những công trình nghiên

cứu chung về văn học dân tộc thiểu số và truyện ngắn Cao Duy Sơn. Chúng tôi

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

xin điểm qua một số vấn đề cơ bản có liên quan đến đề tài.

Trong công trình Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại -

một số đặc điểm (2011), các tác giả Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo cũng

bước đầu đề cập đến thủ pháp “vật hóa” khi miêu tả các nhân vật phản diện

trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn: “Với thủ pháp “vật hóa”, các nhân vật

phản diện trở thành những con người tầm thường, thậm chí dung tục, bản năng

như loài cầm thú” [49, tr.144]. Lấy hình ảnh của thế giới tự nhiên - đặc biệt là

những con vật ác độc, xấu xí để miêu tả nhân vật phản diện cho thấy ngòi bút

của Cao Duy Sơn đã chú ý đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Tuy

nhiên các tác giả chưa đi sâu phân tích kĩ vấn đề mà bước đầu đề cập đến hiện

tượng này như là một thủ pháp xây dựng nhân vật của nhà văn Cao Duy Sơn.

Tác giả Đào Thủy Nguyên (chủ biên) - Dương Thu Hằng trong công

trình Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu

số Việt Nam (2014) khẳng định: “Thiên nhiên Cao Bằng trong sáng tác của

Cao Duy Sơn không chỉ mang vẻ đẹp của một bức tranh sơn thủy mà còn hiện

lên như một sinh thể hữu tình, biết sẻ chia với con người những vui buồn trong

cuộc sống” [26, tr.163]. Rất tiếc nhận định này cũng chỉ mới được đưa ra như

một gợi dẫn, các tác giả chưa tập trung nghiên cứu sâu về vấn đề này.

Không chỉ ở những công trình nghiên cứu chung về văn học dân tộc

thiểu số như trên chúng tôi đã đề cập mà ở một số luận văn thạc sĩ khi nghiên

cứu về truyện ngắn Cao Duy Sơn cũng đề cập đến sự tác động của giới tự nhiên

đối với đời sống con người trong truyện ngắn của nhà văn dân tộc Tày này.

Chúng ta có thể kể tới: Đặc điểm truyện ngắn Cao Duy Sơn (2009) của tác giả

Đinh Thị Minh Hảo, Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn

(2010) của Lý Thị Thu Phương, Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của

Cao Duy Sơn (2011) của La Thúy Vân, Con người trong văn xuôi miền núi

đương đại của các tác giả trẻ đương đại (Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Phạm Duy Nghĩa) (2012) của Cao Thị Hồng Vân.

Tác giả Lý Thị Thu Phương đã chú ý cách miêu tả thiên nhiên trong

truyện ngắn Cao Duy Sơn và cho rằng: “Cao Duy Sơn đã khám phá và sáng tạo

nên thế giới thiên nhiên giàu sức sống, đa sắc màu, hùng vĩ và thơ mộng, đưa

người đọc đến với miền đất hoang sơ và xa ngái chứa bao điều bí ẩn, diệu kì,

cảm nhận phong vị miền núi phía Bắc độc đáo, khó quên” [32, tr.55].

La Thúy Vân nhận thấy trong sáng tác của Cao Duy Sơn, “thiên nhiên

vừa là môi trường sinh thái, vừa là cuộc sống thiết yếu nhất để con người tồn

tại, đồng thời cũng là người bạn thiết thân của con người. Con người miền núi

tựa vào thiên nhiên để sống và lao động, nuôi dưỡng thể chất, bồi đắp tình cảm

và thanh lọc tâm hồn. Văn xuôi của Cao Duy Sơn thể hiện rất rõ mối quan hệ

hữu cơ này” [50, tr.63].

Có thể nói, xung quanh vấn đề về truyện ngắn Cao Duy Sơn và truyện

ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái đến nay đã có nhiều bài

nghiên cứu phê bình của các tác giả như: Chu Thị Hằng; Nguyễn Thanh Bình;

Lâm Tiến; Nguyễn Chí Hoa; Trung Trung Đỉnh; Đào Thủy Nguyên, Cao Thị

Hảo;… Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một

cách cảm nhận riêng. Ở mức độ tổng quát, chúng tôi nhận thấy, chủ yếu các tác

giả tiếp nhận Cao Duy Sơn trên bình diện cơ bản là: Đón nhận và tôn vinh. Tuy

nhiên, hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về mối

quan hệ, ứng xử, tương tác giữa con người với tự nhiên trong truyện ngắn của

Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái.

Dựa trên những ý kiến bàn luận và các kết quả nghiên cứu đã có về

truyện ngắn Cao Duy Sơn, chúng tôi nhận thấy còn một khoảng trống cần lấp

đầy để làm hoàn chỉnh hơn bức tranh toàn cảnh về truyện ngắn của ông. Chính

vì lẽ đó chúng tôi đã chọn vấn đề nghiên cứu của mình là: Truyện ngắn Cao

Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái. Hi vọng công trình hoàn thiện sẽ góp

một góc nhìn mới về truyện ngắn Cao Duy Sơn để khẳng định những thành

công và hạn chế của nhà văn đối với đời sống văn học đương đại Việt Nam,

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhất là ở mảng văn học dân tộc thiểu số.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung tìm hiểu và phân tích và làm sáng tỏ những đóng góp

của truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn của lý thuyết phê bình sinh thái.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Cao Duy Sơn là một cây bút tài năng đã khẳng định được vị trí của mình

trên văn đàn cũng như trong lòng công chúng yêu văn chương. Ông thành công

trên cả hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Trong phạm vi luận văn này

chúng tôi tập trung khảo sát thể loại truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Cụ thể là 4

tập truyện ngắn sau:

1. Những chuyện ở lũng Cô Sầu, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà

Nội, 2003 (tái bản lần thứ nhất).

2. Những đám mây hình người, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002.

3. Ngôi nhà xưa bên suối, Nhà xuất bản Văn học Dân tộc, Hà Nội, 2008.

4. Người chợ, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2010.

Ngoài ra chúng tôi cũng tham khảo thêm sáng tác của các nhà văn khác

để so sánh, đối chiếu khi cần thiết.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Để hoàn thành luận văn này chúng tôi sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:

Làm sáng tỏ các khái niệm lý luận liên quan về phê bình sinh thái và

thực tế nghiên cứu văn học từ góc độ phê bình sinh thái ở Việt Nam. Hình trình

sáng tạo của nhà văn Cao Duy Sơn.

Ứng dụng lý thuyết phê bình sinh thái vào tìm hiểu truyện ngắn Cao Duy

Sơn để chỉ ra những đóng góp tiêu biểu của nhà văn. Qua đó góp thêm một cái

nhìn mới về giá trị của truyện ngắn Cao Duy Sơn. Và cũng khẳng định hiệu quả

của một hướng nghiên cứu mới trong văn học hiện đại.

5. Các phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu, trong đó tập

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trung ở một số phương pháp cơ bản sau:

Phương pháp phân tích tác phẩm được sử dụng trong luận văn để làm

sáng tỏ đối tượng nghiên cứu.

Chúng tôi sử dụng phương pháp khái quát, tổng hợp để kết luận và nâng

cao vấn đề đã phân tích.

Luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh, thống kê để làm nổi bật

đóng góp riêng các tập truyện ngắn của Cao Duy Sơn

Vấn đề lý thuyết sinh thái học có liên quan đến một số lĩnh vực khoa học

khác như: địa lý, sinh học, văn hóa, nhân chủng học… Vì vậy sự vận dụng tổng

hợp các phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học giúp chúng tôi soi

sáng và làm rõ các phương diện, khía cạnh của vấn đề lý thuyết phê bình sinh

thái và ứng dụng vào nghiên cứu truyện ngắn của Cao Duy Sơn.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu truyện ngắn của nhà văn Cao

Duy Sơn từ góc nhìn của lý thuyết phê bình sinh thái, do đó kết quả nghiên cứu

của luận văn sẽ góp phần hoàn chỉnh hơn bức tranh toàn cảnh về truyện ngắn

của Cao Duy Sơn.

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ mang đến một cách tiếp cận mới cho

các tác phẩm văn học, mở ra hướng đánh giá, thẩm định giá trị nhân văn của

văn học từ góc nhìn sinh thái. Đồng thời đánh thức cách ứng xử bình đẳng của

con người đối với môi trường hiện nay.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần MỞ ĐẦU, KẾT LUẬN và thư mục TÀI LIỆU THAM

KHẢO, nội dung chính của luận văn được triển khai thành 3 chương:

Chương 1: Lý thuyết phê bình sinh thái và hành trình sáng tác của nhà

văn Cao Duy Sơn.

Chương 2: Quan hệ giữa con người và tự nhiên trong truyện ngắn Cao

Duy Sơn.

Chương 3: Nghệ thuật thể hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên

8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI

VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN CAO DUY SƠN

1.1. Một số vấn đề lý thuyết phê bình sinh thá i 1.1.1. Khá i niê ̣m phê bình sinh thá i

Phê bình sinh thái manh nha vào những năm 70 của thế kỉ 20. Năm 1974,

học giả người Mỹ Joseph W.Meeker cho xuất bản cuốn chuyện luận “Sinh thái

học của văn học”. Trong tác phẩm này, cụm từ sinh thái học văn học lần đầu

tiên được nhắc đến để chỉ mối quan hệ “ảnh hưởng của văn học đối với hành vi

nhân loại và môi trường tự nhiên”.

Năm 1978, Wiliam Rueckert trên tạp chí “Bình luận Iowa” (số mùa

đông) có bài Văn học và sinh thái học: Một phác thảo thử nghiệm phê bình

sinh thái học (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticison) lần đầu

tiên sử dụng thuật ngữ “Phê bình sinh thái” (Ecocriticison) với ý nghĩa “kết

hợp văn học và sinh thái học”. Nhà phê bình cho rằng nên có cái nhìn sinh thái

học và phải xây dựng được một hệ thống thi pháp học sinh thái. Tuy nhiên

trong thời kỳ này, phần lớn giới phê bình văn học vẫn chưa biết thực chất phê

bình sinh thái học là gì. Chính vì vậy, năm 1994, Hội văn học miền tây Blanche

và Sean O Grady đã tổ chức hội nghị bàn tròn trong đó có ý kiến của khoảng 20

học giả xung quanh vấn đề về khái niệm “Phê bình sinh thái”. Tháng 6 năm

1995 ASLE lần đầu tiên tổ chức hội thảo khoa học tại Trường đại học

Colorado, hội nghị nhận được hơn 200 báo cáo. Mọi người coi đại hội lần này

của ASLE là tiêu chí đánh dấu sự hình thành của trào lưu phê bình sinh thái.

Năm 1996, tuyển tập Phê bình sinh thái do Cheryll Glolfelty và Harold

From chủ biên được xuất bản. Cuốn sách này được công nhận là tài liệu nhập

môn của phê bình sinh thái. Cuốn sách chia làm ba phần, phân biệt thảo luận

9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sinh thái học và lý luận văn học sinh thái, phê bình sinh thái của văn học và phê

bình của văn học sinh thái. Cuốn sách này còn liệt kê và giới thiệu sơ lược

những bài báo và chuyên luận phê bình sinh thái quan trọng nhất.

Năm 1998, tại Luân Đôn, tuyển tập: Phê bình sinh thái và văn học do

nhà phê bình người Anh R.kerridge và N.Sammells chủ biên được xuất bản.

Đây là bộ tuyển tập phê bình sinh thái đầu tiên ở Anh. Sách được chia làm ba

phần: Lý luận phê bình sinh thái, Lịch sử phê bình sinh thái và Văn học sinh

thái đương đại (tổng cộng 15 chương, tác giả là những nhà phê bình sinh thái

Âu Mỹ). Bước sang thế kỉ 21, phê bình sinh thái phát triển sâu rộng hơn. Năm

2001 Buell cho xuất bản cuốn “Viết vì thế giới đang lâm nguy: Văn học, văn

hóa, môi trường nước Mỹ và các quốc gia khác”.

Có thể thấy, phê bình sinh thái vớ i tư cách là mô ̣t khuynh hướ ng phê bình văn hoá và văn học đươ ̣c hình thành ở Mỹ vào giữa những năm 90 củ a thế kỷ 20, tiếp đó xuất hiê ̣n ở nhiều nướ c trên thế giớ i. Trong số khá nhiều giớ i thuyết về thuâ ̣t ngữ “phê bình sinh thái” thì cách hiểu của nhà phê bình sinh thái Mỹ - Cheryll Glotfelty được cho là ngắn gọn nhất: “Phê bình sinh thái là phê bình bà n về mối quan hê ̣ giữa văn học và tự nhiên”.

Tác giả Karl Kroeber lại cho rằng: “Phê bình sinh thá i không phải đem phương pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hó a học, toá n học hoặc phương phá p nghiên cứ u của bất kỳ khoa học tự nhiên nào khá c và o phân tích văn học. Nó chỉ dẫn nhập quan điểm cơ bản nhất của triết học sinh thá i và o phê bình văn học mà thôi” [dẫn theo 12].

10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Vớ i tư cách là khuynh hướ ng phê bình văn hoá văn ho ̣c, phê bình sinh thái có nhiê ̣m vu ̣ chủ yếu mang giá tri ̣ đă ̣c thù và đă ̣c trưng bản thể luâ ̣n củ a nó . Đó là thông qua văn học để thẩm định la ̣i văn hoá nhân loa ̣i, tiến hành phê phán - nghiên cứ u tư tưở ng, văn hoá, mô hình phát triển xã hội của loài ngườ i đã ảnh hưở ng như thế nào đến thái đô ̣ và hành vi củ a nhân loa ̣i đố i vớ i đời sống tự nhiên. Jonathan Levin đã chỉ ra: “Tất cả phương diê ̣n văn hoá xã hội của chú ng ta cù ng quyết đi ̣nh phương thứ c độc nhất vô nhi ̣ sinh tồn của chú ng ta trên thế giớ i nà y. Không nghiên cứ u những điều nà y, chú ng ta không thể nhận thứ c sâu

sắ c quan hê ̣ giữa con ngườ i và môi trườ ng tự nhiên mà chỉ có thể biểu đạt những lo lắ ng nông cạn... Vì thế, ngoà i nghiên cứ u văn học biểu hiê ̣n tự nhiên như thế nà o, chú ng ta tất yếu cò n phải dù ng rất nhiều tinh lực để phân tích tất cả cá c nhân tố văn hoá xã hội quyết đi ̣nh thá i độ đố i vớ i con ngườ i, đối vớ i tự nhiên và hà nh vi tồ n tại trong môi trườ ng tự nhiên, đồng thờ i kết hợp những phân tích nà y vớ i nghiên cứ u văn học” [dẫn theo 12].

Nhìn chung phê bình sinh thái đã được khá nhiều tác giả trên thế giới quan

tâm và trở thành một xu hướng nghiên cứu văn học có tính chất liên ngành và có

hiệu quả nhất định. Trong xu hướng nghiên cứu này, các tác giả quan tâm tới

mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên, đặc biệt là thông qua đó

muốn cảnh báo về tình trạng lâm nguy của môi trường tự nhiên trong mối quan

hệ với con người qua những tác động ngược chiều và thuận chiều.

Hiểu một cách khách quan, phê bình sinh thái không phải đem phương

pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hoặc phương pháp

nghiên cứu của bất kì khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích văn học. Nó

chỉ dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn

học mà thôi. Với tư cách là khuynh hướng phê bình văn hóa văn học, phê bình

sinh thái có nhiệm vụ thẩm định lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán,

nghiên cứu tư tưởng văn hóa, mô hình phát triển xã hội của loài người đã ảnh

hưởng như thế nào đến thái độ và hành vi của nhân loại đối với tự nhiên và

điều đó dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường sinh thái như thế nào.

Manh nha vào những năm 70 củ a thế kỷ 20, đến giữa thâ ̣p niên 90, phê bình sinh thái đã thực sự trở thành mô ̣t khuynh hướ ng nghiên cứ u văn ho ̣c ở Mỹ và lan ra nhiều nướ c khác trên thế giớ i. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc áp dụng lý thuyết phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học vẫn là vấn đề khá

mới mẻ và chưa nhận được nhiều sự quan tâm. Năm 2012 trong một bài nói

chuyện ở Viện văn học, nhà nghiên cứu người Mỹ Karen Thornber đã giới

thiệu về trường phái phê bình sinh thái nhưng cho đến nay có rất ít bài viết hay

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

công trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề này.

Có thể thấy, sau đổ i mớ i, ở Việt Nam giớ i nghiên cứ u văn ho ̣c khá cở i mở trong viê ̣c tiếp thu, giớ i thiê ̣u các lý thuyết văn học phương Tây hiê ̣n đa ̣i, đương đa ̣i, nhưng la ̣i rất thận tro ̣ng đối vớ i “Phê bình sinh thái”. Ngay cả các lý thuyết mới mẻ như Chủ nghĩa li ̣ch sử mớ i, Chủ nghĩa duy vâ ̣t văn hoá hay lý thuyết tương đối nha ̣y cảm như “Diễn ngôn quyền lực” của Foucault cũng đã đươ ̣c nhắc đến ở Viê ̣t Nam, nhưng riêng về “Phê bình sinh thái” la ̣i vắng bó ng. Phê bình sinh thái thi ̣nh hành ở nhiều nướ c phương Tây, hiện nay tâ ̣p trung vào vấn đề dù ng tư tưởng sinh thái để đánh giá văn ho ̣c trong viê ̣c biểu hiê ̣n vấn đề sinh thái, khẳng định vai trò củ a tự nhiên. Lý thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam được coi là khá mớ i mẻ, chưa nhâ ̣n đươ ̣c nhiều sự quan tâm. Cho đến nay vẫn có ít bài viết hay công trình nghiên cứu cu ̣ thể về vấn đề này. Trong các công trình nghiên cứu văn ho ̣c trước đây chúng ta tập trung nghiên cứu mố i quan hệ vớ i hiện thực, với các chức năng xã hô ̣i củ a văn ho ̣c như nhâ ̣n thứ c, giáo dục, tuyên truyền, thẩm mỹ trong ý thứ c văn ho ̣c phu ̣c vu ̣ chính tri ̣ chủ yếu là xét theo nguyên tắc ý chí, nhân ta ̣o. Mố i quan hệ giữa môi trường sinh thái tự nhiên và văn hoá tinh thần vớ i văn nghê ̣ chưa đươ ̣c đă ̣t ra một cách sâu sắc. Vì thế cò n nhiều vấn đề về quan hê ̣ giữa văn học với môi trường sinh thái chưa đươ ̣c xem xét.

12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nhìn chung, vấn đề cân bằng sinh thái đảm bảo cho văn học phát triển, là đô ̣ng lực củ a sáng tạo và tự do sáng ta ̣o. Suy cho cùng cô ̣i nguồ n của mất cân bằng sinh thái là do sự phát triển phiến diê ̣n của xã hô ̣i và con ngườ i. Quan điểm con người là trung tâm đã dẫn đến huỷ hoa ̣i môi trườ ng tự nhiên. Chính vì lẽ đó mà chúng ta phải quan tâm nhiều hơn nữa đến cách tiếp câ ̣n các tác phẩm văn ho ̣c từ lý thuyết phê bình sinh thái. Nghiên cứ u về vấn đề này Trần Đình Sử và Huỳnh Như Phương đều nhấn mạnh đến sự tương tác giữa môi trườ ng tự nhiên với con người. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra vấn đề sinh thái không còn đơn thuần là của riêng ngành khoa học nào nữa mà đã trở thành vấn đề toàn cầu trong đó có trách nhiê ̣m củ a văn chương. Đây có thể coi là vấn đề đa ̣o đứ c đồng thời cũng là vấn đề thẩm mỹ.

Trên cơ sở tiếp thu lý thuyết về phê bình sinh thái qua một số bài báo

liên quan đến vấn đề này, cũng như qua việc tìm hiểu những truyện ngắn của

một số nhà văn hiện đại trên thế giới và Việt Nam, đặc biệt là truyện ngắn của

Cao Duy Sơn, chúng tôi nhận thấy đã đến lúc chúng ta cần dành sự quan tâm

hơn nữa đến hướng nghiên cứu này.

1.1.2. Phê bình sinh thá i trong văn học Việt Nam hiện đại

Ở thời trung đại, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên đã được đề cập

đến trong văn học. Chủ yếu văn học hướng đến hòa hợp với tự nhiên, con người

được đặt trong thế bình đẳng với trời đất. Chính vì thế chúng ta thường bắt gặp

những mô típ con người được miêu tả trên cơ sở lấy thiên nhiên làm chuẩn mực.

Hoặc con người sống hài hòa, ẩn mình trong thiên nhiên. Tuy nhiên, ở thời hiện

đại, cùng với sự thay đổi của quan niệm văn hóa, văn học, trong văn học hiện đại

đã xuất hiện những góc nhìn khác về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên

mang tính đa chiều hơn.

Vượt trên những quan niệm đề cao môi trườ ng đi ̣a lý, môi trường tự nhiên

hay sự khác biê ̣t mô ̣t chiều của con ngườ i đố i với tự nhiên, triết ho ̣c Mác - Lênin

không những khẳng định tính tất yếu phải đảm bảo thố ng nhất hài hoà giữa con người và tự nhiên trong quá trình phát triển mà còn chỉ ra vai trò củ a con ngườ i

trong viê ̣c đảm bảo, duy trì sự thố ng nhất hài hoà ấy. Chính con ngườ i giữ vi ̣ trí

quyết định trong hệ thống “tự nhiên - con ngườ i - xã hô ̣i”. Cách thức mà con

người tác đô ̣ng đến tự nhiên ra sao thì tự nhiên sẽ đố i xử vớ i con ngườ i như vậy.

Con ngườ i hay tự nhiên hoà hơ ̣p hay đối lập là do chính con người quyết đi ̣nh.

Thái độ ứng xử của con ngườ i đối vớ i thiên nhiên xưa nay bao giờ cũng là thân

thiết, trân tro ̣ng và dường như ít nhiều thuần phu ̣c trước sứ c ma ̣nh và sự hào

phó ng của trờ i mây đối với cuô ̣c số ng muôn loài:

“Trông trờ i trông đất trông mây

13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trông mưa trông nắ ng trông ngà y trông đêm

Trông cho chân cứ ng đá mềm Trờ i yên biển lặng mớ i yên tấm lò ng” (Ca dao)

Thiên nhiên là người bạn tốt, thiên nhiên là tài nguyên “Chỉ cần mưa thuận gió hoà” “Rừng vàng biển ba ̣c”,... nơi đâu con người biết quý tro ̣ng thiên nhiên sẽ đươ ̣c thiên nhiên ưu đãi và cuô ̣c số ng nơi đó sẽ dễ dàng.

Đề cập đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trong văn học Việt

Nam hiện đại giai đoạn trước 1945 đã xuất hiện ở sáng tác của một số tác giả

viết theo xu hướng “truyện đường rừng” như Lan Khai, Thế Lữ, Đái Đức Tuấn,

Nguyễn Tuân với các tác phẩm tiêu biểu như: Ai hát giữa rừng khuya, Vàng và

máu, Cô Dó…. Ở đây các tác giả đã phần nào đề cập đến mối quan hệ giữa môi

trường tự nhiên và đời sống con người. Sống nơi đô thị hay sống hòa mình vào

thiên nhiên tinh khiết, trong trẻo là vấn đề được một số tác giả quan tâm chú ý.

Đôi khi các tác giả cũng ảo hóa thế giới tự nhiên, coi đó như là những bí ẩn hoặc

hoang dã chưa được khai phá. Đôi khi con người cũng muốn trở về với tự nhiên

để trốn tránh thực tại nơi đô hội đầy bon chen, nhưng dường như là thất bại.

Điều này cho thấy sự không thể dung hòa giữa con người đô thị và thế giới tự

nhiên hoang sơ. Con người và tự nhiên vẫn được nhìn nhận như những thực thể

tách biệt, thậm chí mâu thuẫn nhau. Qua con mắt của các nhà văn giai đoạn này,

chúng ta thấy con người thành thị không thể hòa nhập với tự nhiên và luôn nhìn

tự nhiên bằng con mắt xa lạ, là chốn “rừng thiêng nước độc” đầy ám ảnh.

Giai đoạn từ 1945 đến 1975 là thời kỳ văn học có chung “khuôn mặt”,

“dáng hình”, bởi mục đích chính là tập trung phục vụ kháng chiến, cứu quốc.

Tuy nhiên các tác giả cũng chú ý đề cập đến mối quan hệ giữa con người và tự

nhiên. Thậm chí con người và tự nhiên còn có mối quan hệ hữu cơ tương đồng

“Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Cao hơn một bậc, con người được thiên

nhiên hóa và thiên nhiên cũng được người hóa. Bằng thủ pháp nhân hóa được

14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

vận dụng phổ biến, Nguyên Ngọc đã miêu tả thiên nhiên đặc biệt hấp dẫn, sinh

động, gần gũi với con người. “Tự nhiên trên đỉnh núi Chư Lây tảng đá to nhất

nổi giận, Trước tiên nó xô mấy miếng đất dưới chân nó ra, Nó chuyển mình, rồi

bất thình lình nó lật ngược và vụt chạy xuống núi. Nó chạy mau không thể cái

gì chạy theo kịp. Nó bẻ gãy hết cây nào cản đường nó. Gặp con thú, nó đấm

một cái, con thú chết bẹp ngay. Đến giữa đường, gặp đá bạn, đá con, nó thúc

mỗi đứa một cái, tất cả đá ùa nhau chạy theo nó. Thôi thì cả núi rừng rung lên

ào ào, đất thành khói đỏ bay mù mịt” (Đất nước đứng lên).

Qua đây cho thấy mối quan hệ hòa hợp giữa con người và tự nhiên trong một

thể thống nhất để gìn giữ non sông đất nước và cuộc sống ấm no của con người.

Có thể nó i, dù chưa thực sự làm nên mô ̣t trào lưu “xanh hoá” trong văn ho ̣c, nhưng không thể phủ nhâ ̣n văn học Việt Nam sau 1975 đến nay đã có được một độ nhạy bén nhất đi ̣nh, cũng như có đươ ̣c mô ̣t số điểm nhấn đáng lưu

ý trong việc phản ánh những thực tra ̣ng môi trườ ng - tự nhiên - xã hô ̣i nó i

trên. Mô ̣t trong số các hiê ̣n tươ ̣ng sớm nhất và đáng ghi nhớ nhất củ a văn ho ̣c đương đa ̣i là ngòi bú t Nguyễn Minh Châu - “người mở đường” cho công cuô ̣c đổ i mớ i văn ho ̣c. Vấn đề sinh thái xuất hiê ̣n trên những trang văn củ a ông ngay từ những năm 80 - 90 củ a thế kỷ trướ c vớ i các truyê ̣n ngắn như: Một lần đố i chứ ng (1982), Số ng mãi vớ i cây xanh (1983), Khá ch ở quê ra (1984),... Có thể nó i, bằng dự cảm nha ̣y bén và sự nghiền ngẫm sâu sắc của mô ̣t con ngườ i biết gắn mình vào thờ i đa ̣i, Nguyễn Minh Châu trong các tác phẩm củ a mình, đã đă ̣t ra được nhiều câu hỏ i mang tính chất vấn đố i vớ i những bất ổ n trong bướ c chuyển mình củ a xã hô ̣i Viê ̣t Nam thờ i hâ ̣u chiến trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.

Bên ca ̣nh đề tài ngườ i lính và cảm hứ ng “nhìn la ̣i” chiến tranh, bên ca ̣nh sự “đố i chứ ng” giữa ngườ i số ng và ngườ i chết, giữa hiê ̣n ta ̣i và tương lai còn là

15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sự phản ánh mối quan hệ giữa con ngườ i vớ i thế giớ i tự nhiên, giữa loài ngườ i và cỏ cây, loài vâ ̣t. Truyê ̣n ngắn Khá ch ở quê ra củ a Nguyễn Minh Châu là mô ̣t minh chứ ng khá cu ̣ thể. Mu ̣ Huê ̣ xuất thân là “một cô gá i thà nh phố chính

cống”, mụ chấp thuâ ̣n lấy lão Khú ng không phải vì tình yêu, cũng không phải vì mong muố n có mô ̣t cuô ̣c số ng thôn quê. Sự ra đi củ a Huê ̣ là để từ biê ̣t mô ̣t cuô ̣c tình phu ̣ ba ̣c, để che giấu bản thân và đứ a con vô thừ a nhâ ̣n cô đang mang trong bu ̣ng. Nghĩa là sự lựa cho ̣n ấy chỉ như mô ̣t “bướ c đườ ng cù ng” trong hoàn cảnh không thể tránh khỏ i. Nỗi nhớ về anh ngườ i yêu thành phố lú c nào cũng hiê ̣n diê ̣n trong tâm tưở ng củ a Huê ̣, ngay cả khi bi ̣ “lão Khú ng biến thà nh

cá i má y đẻ” hay sau gần hai mươi năm bỏ đi, mụ không cò n “đặt chân đến một thà nh phố nà o cả , kể cả cá c thi ̣ trấn lâm nghiê ̣p cỏn con”; “đến bây giờ đã trở

thà nh một ngườ i đà n bà thôn quê thực sự, một bà ké miền rừ ng thực sự, chắ c hẳn Huê ̣ vẫn cất giữ cho riêng mình một chú t hình ả nh cuối cù ng của cá i thờ i thiếu nữ sống ở thà nh phố ” [3, tr.333]. Thực vâ ̣y, quá khứ đô thi ̣ đe ̣p đẽ ấy vẫn xuất hiê ̣n thườ ng xuyên trong mỗi suy nghĩ, mỗi so sánh củ a Huê ̣. Vớ i mụ Huê ̣ cũng như vớ i bao nhiêu ngườ i dân thành thi ̣ khác, viê ̣c thích nghi vớ i mô ̣t không gian phi đô thi ̣ không bao giờ có thể tro ̣n ve ̣n, hết sứ c miễn cưỡng và lú c nào cũng đầy đi ̣nh kiến: “Chao ơi! chỉ có Huê ̣ mớ i hiểu hết được tất cả nỗi đau đớ n, tù tú ng của một cuộc đờ i bi ̣ bưng bít và cá ch biê ̣t vớ i chung quanh, dù kẻ thông minh và hiểu biết đến đâu cũng sẽ trở thà nh he ̣p hò i và thiển cận không trá nh được... Huê ̣ đã lấy cả bả n thân số phận để là m vật thí nghiê ̣m cho cá i điều nà y cơ mà [3, tr.345]. Không nó i ra nhưng thà nh phố , vớ i Huê ̣ đã trở thà nh một nơi

chốn lý tưởng, một không gian mà cô luôn muố n được quay trở về số ng vớ i nó , dù bằ ng cá ch nà y hay cá ch khá c “có thể nó i rằ ng suố t cả đờ i mình, Huê ̣ số ng ở đâu để chờ đợi một thà nh phố mớ i sẽ ra đờ i... một thà nh phố công nghiê ̣p của hà ng vạn công nhân khai thá c mỏ quặng của một thứ kim loại quý . Huê ̣ biết rằ ng đến lú c đó , đờ i số ng con ngườ i và thiên nhiên chỗ nà y sẽ hoà n toà n khá c bây giờ , con ngườ i sẽ không cò n bi ̣ bưng bít bởi sự hẻo lá nh nữa và đứ ng ở đây, ngườ i ta có thể nhận được tin tứ c của mọi nơi khá c” [3, tr.345].

16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Có thể thấy nhân vâ ̣t đang phủ nhâ ̣n nơi mình số ng, đồ ng thờ i, phủ nhâ ̣n mố i quan hê ̣ hiê ̣n ta ̣i cô đang cù ng ngườ i chồ ng củ a mình trải nghiê ̣m giữa con

ngườ i và thế giớ i tự nhiên. Rõ ràng nhi ̣p số ng, âm thanh, ánh sáng, sự tiê ̣n nghi vâ ̣t chất nơi đô thi ̣ đã làm nảy sinh cảm giác chán chườ ng cảnh số ng giản đơn nhàm tẻ và có phần nho ̣c nhằn ở nông thôn hay vù ng hoang dã trong tâm tra ̣ng Huê ̣. Như thế sự gắn kết giữa con ngườ i vớ i thế giớ i tự nhiên đã bắt đầu biểu hiê ̣n cho mô ̣t quan hê ̣ lỏ ng lẻo, đe doa ̣.

Sau Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiê ̣p đã đề câ ̣p đến sự bất ổ n này trong truyê ̣n ngắn củ a mình: “Chuyê ̣n tình kể trong đêm mưa” là mô ̣t câu chuyê ̣n như thế. Cuô ̣c tình tan vỡ giữa Ba ̣c Kỳ Sinh và Muôn thực chất là sự chia rẽ vì sự bất đồng trong quan điểm số ng. Muôn tin vào những hứ a he ̣n mớ i củ a con đườ ng “Kinh hoá ”, “đô thi ̣ hoá ”, “cô tỏ ý chê bai lố i sống khép kín quá gần tự nhiên thậm chí tăm tố i của ngườ i dân miền nú i”. Ngươ ̣c la ̣i Ba ̣c Kỳ Sinh “đứ a con hoang của nú i rừ ng” - hoài nghi điều này. Anh khó chi ̣u vớ i viê ̣c ngày càng có nhiều người Kinh lên Tây Bắc vớ i khẩu hiê ̣u: “đi xa hơn nữa”, “khai hoá văn minh”, “thắ p lên á nh sá ng văn hoá ”[46, tr.590].

Giố ng như nhân vâ ̣t trong Khá ch ở quê ra, đồn trưởng đồ n biên phò ng Lò Văn Ngân trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiê ̣p chính là đa ̣i diê ̣n cho lớ p ngườ i “khai hoá” mớ i này. Anh ta không chiếm đươ ̣c trái tim Muôn, nhưng lại toát ra một sức hú t củ a sự mớ i mẻ, đủ khả năng đẩy tình yêu xuố ng hàng thứ yếu. Muôn đã từ chối Bạc Kỳ Sinh như từ chố i sự chung số ng với thiên nhiên. Sau sự đánh đổ i ấy, cái mà cô có đươ ̣c là cuô ̣c số ng trưởng giả theo mô hình “dân thành thị”. Dù thế nào, có thể thấy Ba ̣c Kỳ Sinh hay ngườ i kể đều không hề có ý trách mó c Muôn. Như rất nhiều ngườ i dân tô ̣c nhạy bén khác cô đã đoán trướ c đươ ̣c sự thay đổi tất yếu củ a mảnh đất mà mình sinh sống. Đú ng như Ba ̣c Kỳ Sinh nó i, Muôn đã chọn cho mình một con đườ ng dễ dàng hơn nhiều. Né tránh những thách thứ c mà tình yêu và thiên nhiên mang la ̣i, cô đến vớ i “mô ̣t môi trườ ng tầm thường hơn nhưng an toàn hơn”.

17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Cò n vớ i lão Khú ng trong Khá ch ở quê ra thì la ̣i có mô ̣t quan điểm hoàn toàn khác về mô ̣t cuô ̣c số ng “văn minh”. Lão không thể mườ ng tươ ̣ng đươ ̣c viê ̣c con ngườ i có thể khao khát đến mô ̣t cuô ̣c số ng phi tự nhiên, phi nhân bản

đến vâ ̣y. Quả thâ ̣t con mắt lão Khú ng khi lang thang giữa thành phố thâ ̣t đú ng như con mắt củ a mô ̣t con thú hoang đang chứ ng kiến cảnh đồ ng loa ̣i mình bi ̣ giam cầm trong những chiếc lồ ng, không tiếp xú c vớ i thiên nhiên không đất đai cỏ cây truyền sứ c số ng, bứ c bố i, tù tú ng yếu ớ t đến thảm ha ̣i: “Ừ cũng lạ thật cá i anh dân thà nh phố , sống như thế nà y mà sống được, chẳng có vườ n tược, chẳng có cây cối, ăn, ở, ỉa trên đầu nhau, chỉ thấy tườ ng và tườ ng, chẳng trá ch ngườ i nà o ngườ i ấy cứ trắ ng nhợt, nó i khẽ, cườ i khẽ, đi khẽ là phải,...” [3, tr.353]. Lão Khú ng hay chính là hiê ̣n thân củ a tự nhiên, củ a bản tính hoang dã. Lão không thể dễ dàng tiếp xú c vớ i ho ̣. Mô ̣t điều rõ ràng là cảm giác, cách ứ ng xử củ a lão Khú ng vớ i nơi chố n sinh tồ n củ a mình khác hoàn toàn vớ i mu ̣ Huê ̣, vơ ̣ lão. Những tương lai mà hai con ngườ i ấy kiếm tìm cũng hoàn toàn khác nhau. Khác vớ i Huê ̣, lão Khú ng sinh ra từ đồ ng quê, là mô ̣t ngườ i con củ a nông

thôn. Lão như mô ̣t hiê ̣n thân cho sự gắn kết mâ ̣t thiết củ a con ngườ i vớ i đồ ng đất nguyên thuỷ. Đó không phải chỉ là sự nương tựa, phu ̣ thuô ̣c, bò n rú t đất đai mà số ng. Đú ng hơn, đó là mố i quan hê ̣ trao đổ i, tương tác qua la ̣i, và hơn thế, là sự chuyển hoá lẫn nhau. Hai bàn tay lão đã làm hồ i sinh vù ng đất “chó ăn đá gà ăn sỏ i”. Và đến lươ ̣t mình, thiên nhiên thấm vào lão. “Chẳng cò n là hình thù một cá i bà n tay con ngườ i nữa! Hai bà n tay lão đầy những chỗ nổi u nổi cục, cá c ngó n tay văn ve ̣o và bọc một lớ p da giống như một lớ p vỏ cây, và cả bà n tay lão giống y như một toà rễ cây vừ a mớ i đà o dướ i đất lên” [3, tr.320].

Đó là sự chuyển hoá về thể xác. Nhưng các chất tự nhiên thuần phác ấy cò n thấm đẫm cả trong tâm hồ n lão. Khác vớ i không gian đô thi ̣ như cái nhà tù về thể xác lẫn tinh thần đã từ ng không dung chứ a Huê ̣, ép buô ̣c cô phải ra đi bở i nó cò n khép con ngườ i vào những bô ̣ khung vâ ̣t chất cũng như vào những khuôn khổ đa ̣o đứ c khắc nghiê ̣t, lão Khú ng hồ n nhiên như đất và không đi ̣nh

kiến như đất, đã rô ̣ng lò ng đó n cô, chấp nhâ ̣n và yêu quý tất cả những đứ a con

18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

riêng, con chung củ a hai ngườ i, không phân biê ̣t. Nhưng cuô ̣c số ng lao đô ̣ng cù ng lão cù ng đất đai dườ ng như vì quá nho ̣c nhằn nên cũng dễ bi ̣ bô ̣i phản.

Viễn cảnh về mô ̣t thành phố công nghiê ̣p có vẻ có sứ c hấp dẫn hơn nhiều. Lão van xin những đứ a con mình là bở i lão đã mườ ng tươ ̣ng ra sự quay lưng không thể níu giữ củ a chú ng vớ i lão, vớ i đồ ng đất, vớ i tự nhiên. Viê ̣c triển khai những dự án khai thác mớ i trên mảnh đất lão đang số ng đã đánh dấu mô ̣t bướ c chuyển trong mố i quan hê ̣ củ a con ngườ i vớ i tự nhiên nơi đây. Sự cô ̣ng tác mâ ̣t thiết đã đứ t gãy đến không thể hàn gắn: Từ bây giờ ngườ i ta sẽ không chấp nhâ ̣n viê ̣c phải đổ mồ hôi để có miếng ăn hay bi ̣ thiên nhiên chuyển hoá nữa.

Tư duy khai thác một chiều đang thay thế và thố ng tri ̣, hứ a he ̣n sự ra đờ i một đô thị phi tự nhiên mới, nơi con ngườ i vừ a bò n rú t ca ̣n kiê ̣t tự nhiên để phu ̣c vu ̣ đờ i sống vâ ̣t chất củ a mình, vừ a tách biê ̣t và xa la ̣ vớ i tự nhiên. So vớ i cách lão Khúng chống lại cái phi nhân, phi tự nhiên của chiến tranh bằng sứ c người bằng chính tự nhiên, thử hỏi giải pháp nào ít gây áp lực đến môi trườ ng và mang tính cộng sinh vớ i thiên nhiên nhiều hơn? Câu trả lờ i củ a Nguyễn Minh Châu, có lẽ là cách số ng chất phác hồn hậu của lão Khúng, hay chính là của một truyền thố ng nông nghiê ̣p xưa cũ đang bi ̣ quy kết là “chậm tiến” “la ̣c hâ ̣u” trong mắt nhiều ngườ i thờ i bấy giờ .

19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Có thể nó i Nguyễn Minh Châu là mô ̣t nhà văn đă ̣t nền mó ng cho văn ho ̣c đổ i mớ i, bở i trong sáng tác củ a mình, ông đã lần đầu tiên đă ̣t ra những cuô ̣c đố i thoa ̣i vớ i tự nhiên, lắng nghe tiếng nó i củ a tự nhiên. Không phải là ở vi ̣ thế củ a kẻ thố ng tri ̣, cũng không phải là tình yêu thiên nhiên theo cách “nhân hoá” nó , phú cho nó các hình thái cảm xú c suy nghĩ củ a con ngườ i. Ngươ ̣c la ̣i, vớ i ông, tự nhiên có mô ̣t tiếng nó i “khác” củ a riêng mình. Nó vẫn không ngừ ng cất tiếng nó i vớ i chú ng ta từ ng giây từ ng phú t, chỉ có điều con ngườ i dần đánh mất đi khả năng thấu hiểu. Mố i quan tâm tác giả muố n đă ̣t ra như ông nó i chính là vấn đề “thiên nhiên và môi trườ ng sinh thá i”. Những dò ng văn kéo trí tươ ̣ng tươ ̣ng củ a ngườ i đo ̣c vào li ̣ch sử , nhắc la ̣i vớ i chú ng ta rằng, sự xuất hiê ̣n củ a không gian môi trườ ng sinh thái, không gì khác là hê ̣ quả lâu dài củ a mô ̣t quá trình chinh phu ̣c tự nhiên: “Đú ng, đờ i sống loà i ngườ i là một chuỗi dà i quá trình

chinh phục tự nhiên”. Thế nhưng, “thật là thiếu thoả đá ng, và thậm chí nguy hiểm” nếu không nghĩ đến công viê ̣c hoà hơ ̣p vớ i tự nhiên. Bởi tự nhiên là cái nôi nâng đỡ và xoa di ̣u con ngườ i, là nơi ươm mầm những tình cảm đe ̣p đẽ nhất, thánh thiê ̣n nhất.

Nhìn chung, nghiên cứu văn học từ góc độ phê bình sinh thái trong văn

học Việt Nam hiện đại đã bước đầu được quan tâm, nghiên cứu thông qua

những sáng tác của các tác giả tiêu biểu như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh

Châu. Đây có thể coi là một xu hướng có nhiều triển vọng trong nghiên cứu

văn học Việt Nam hiện đại.

1.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Cao Duy Sơn

1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp

Nhà văn Cao Duy Sơn tên thâ ̣t là Nguyễn Cao Sơn, sinh năm 1956, trong

một gia đình cha là ngườ i Kinh, me ̣ ngườ i Tày. Ngoài sự thừ a hưở ng hai dò ng

văn hoá của hai dân tô ̣c Kinh - Tày, Cao Duy Sơn cò n đươ ̣c nuôi dưỡng bở i

nguồ n ma ̣ch trầm tích văn hoá li ̣ch sử lâu đờ i củ a vù ng đất “dồ i dào sứ c số ng

bền lâu”: Cô Sầu - vù ng đất cổ thuô ̣c huyện Trùng Khánh, nằm ở phía Đông Bắc

tỉnh Cao Bằng. Cô Sầu là nơi in dấu tuổ i thơ, gắn bó vớ i những kỉ niê ̣m buồ n

vui, ân nghĩa của cuộc đời Cao Duy Sơn, vì vâ ̣y đi ̣a danh này xuất hiê ̣n dày đă ̣c

trong tác phẩm củ a ông. Nhà văn họ Cao ấy đã từ ng khẳng đi ̣nh rằng: “Tôi sinh

ra và lớ n lên ở thi ̣ trấn Cô Sầu (huyê ̣n Trù ng Khá nh, Cao Bằ ng). Đó là một thi ̣

trấn cổ rất nổi tiếng. Nghiê ̣p văn chương của tôi cứ bá m lấy thị trấn Cô Sầu mà

khá m phá , viết mãi vẫn chưa thấy đủ, chưa thấy thấu cá i tầng sâu văn hoá tiềm

ẩn ở vùng đất này. Tôi viết như một sự trả nợ, trả nợ quê hương, trả nợ những

ngườ i đã sinh ra mình, bạn bè, xó m giềng… Cả đời tôi, sẽ vẫn là những khá m

phá về Cô Sầu với những con ngườ i miền nú i chân chất” [10, tr.11].

Cao Duy Sơn đã sinh ra và lớn lên tại Trùng Khánh - Cao Bằng. Cả một

20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thời trai trẻ và tuổi thơ đã in dấu tâm hồn trên mảnh đất này. Hiê ̣n ta ̣i ông là

Hô ̣i viên Hô ̣i nhà văn Viê ̣t Nam, Hô ̣i viên hô ̣i văn ho ̣c nghê ̣ thuâ ̣t các dân tô ̣c

thiểu số Viê ̣t Nam. Tổ ng biên tâ ̣p Ta ̣p chí văn hoá các dân tô ̣c. Năm 1984 Cao

Duy Sơn chính thứ c bướ c vào làng văn vớ i đứ a con đầu lò ng là truyê ̣n ngắn

Dướ i chân nú i Nục Vèn. Đến năm 1996 Cao Duy Sơn mớ i ra mắt tâ ̣p truyê ̣n

ngắn Những chuyê ̣n ở lũng Cô Sầu. Tâ ̣p truyê ̣n ngắn này đã đươ ̣c Hô ̣i nhà văn

tă ̣ng thưở ng năm 1997. Trên đà thành công đó , năm 2002 ông lại cho ra đờ i tâ ̣p

truyê ̣n ngắn Những đá m mây hình ngườ i. Tâ ̣p truyê ̣n đươ ̣c giải B củ a Hô ̣i văn

ho ̣c nghê ̣ thuâ ̣t các dân tô ̣c thiểu số Viê ̣t Nam năm 2003. Năm 2007 Cao Duy

Sơn tiếp tu ̣c trình làng tâ ̣p truyê ̣n ngắn Ngôi nhà xưa bên suố i gồ m bảy truyê ̣n

ngắn đươ ̣c nhà văn cho ̣n lo ̣c trong những tác phẩm sáng tác từ năm 2002 đến

2006. Ngay sau khi ra mắt đô ̣c giả Ngôi nhà xưa bên suố i đã gây đươ ̣c sự chú

ý đố i vớ i ba ̣n đo ̣c và giớ i nghiên cứ u phê bình. Có thể nó i đây là tâ ̣p truyê ̣n

ngắn hay, xứ ng đáng nhận đươ ̣c hai giải thưở ng lớ n liên tiếp củ a Hô ̣i nhà văn

Viê ̣t Nam năm 2008 và Giải thưở ng văn ho ̣c Asean củ a Hoàng gia Thái Lan

năm 2009. Giải thưở ng không chỉ là sự ghi nhâ ̣n tinh thần trách nhiê ̣m, trái tim

nhân ái trong quá trình sáng tác, mà cò n đô ̣ng viên, khích lê ̣ để nhà văn ho ̣ Cao

tiếp tu ̣c că ̣m cu ̣i trên cánh đồ ng chữ nghĩa. Trên đà những mù a gă ̣t bô ̣i thu đó ,

Cao Duy Sơn đã ra mắt ba ̣n đo ̣c tâ ̣p truyê ̣n ngắn Ngườ i chợ vào năm 2010. Tâ ̣p

truyê ̣n ngắn này vẫn tiếp tu ̣c nguồ n ma ̣ch đề tài miền nú i, nhưng la ̣i có cách

khám phá, thể hiê ̣n mớ i, có chiều sâu hơn, sắc ca ̣nh hơn.

Ở thể loa ̣i tiểu thuyết nổ i bâ ̣t nhất là Đà n trờ i (2006) nhận được giải

thưởng Hô ̣i văn học nghệ thuâ ̣t các Dân tô ̣c thiểu số Viê ̣t Nam, sau đó là Chòm

ba nhà (2009), Hoa mận đỏ, Cực lạc. Có thể nó i khi Cao Duy Sơn bước vào

làng văn và “dấn thân” vào đề tài miền nú i thì trên văn đàn văn ho ̣c Viê ̣t Nam đã

sừng sững với nhiều tên tuổ i lớ n như Tô Hoài; Nguyên Ngọc; Ma ̣c Phi,... Thế

nhưng nhà văn vẫn chung thuỷ vớ i đề tài về dân tộc miền núi. Ông đã có những

21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đó ng gó p nhất định đối vớ i mảng văn ho ̣c dường như còn ít được chú ý này.

1.2.2. Những ngả đường đến với văn chương của Cao Duy Sơn

Cao Duy Sơn là mô ̣t nhà văn kiên trì vớ i đề tài miền nú i. Tác phẩm củ a ông đều bắt nguồ n từ tình cảm gắn bó với quê hương và con ngườ i miền nú i. Theo ông “Viết văn nhất đi ̣nh phải có sự á m ả nh. Không có sự á m ả nh sẽ không

thể nà o tạo ra được một tá c phẩm, và mọi cá i đều trở nên hờ i hợt”. Đó là lý do

vì sao các tác phẩm của ông gắn chặt vớ i vù ng đất quê hương, với đề tài miền núi. Trong số những nhà văn gă ̣t hái đươ ̣c nhiều thành công ở mảng đề tài viết về

miền nú i thì người đươ ̣c biết đến nhiều hơn cả chính là Cao Duy Sơn.

Mảnh đất và con ngườ i Cô Sầu chính vì thế đã trở thành mô ̣t phần “má u thi ̣t”, “mang một sứ mệnh văn chương” không thể thiếu trong cuộc đời và hành

trình sáng ta ̣o nghê ̣ thuâ ̣t của Cao Duy Sơn. Mái trườ ng thị trấn Trù ng Khánh

quê hương (tiếng Tày gọi Trù ng Khánh là Cô Sầu) - nơi Cao Duy Sơn theo ho ̣c

thuở nhỏ, cũng là nơi mà các nhà thơ Bế Thành Long, Y Phương từ ng ho ̣c tâ ̣p.

Địa danh lũng Cô Sầu trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm củ a nhà văn đến

mứ c ta ̣o lên mô ̣t hình dung quen thuô ̣c cho người đo ̣c về một miền đất xa xôi,

vùng biên viễn của tổ quốc. Hình ảnh quê nhà đã hằn rất sâu trong ký ứ c mà có

đi đến trọn đờ i ông cũng không thể nào quên đươ ̣c. Dẫu xa quê đã nhiều năm

nhưng tình cảm mà nhà văn dành cho quê hương mình dườ ng như vẫn còn đó , mãi mãi và đe ̣p đẽ như thuở thiếu thờ i. Có lẽ vì thế mà khi đươ ̣c hỏ i: “Có khi nà o anh có ý định “vượt Cô Sầu” đến khá m phá một vù ng đất khác không ?”.

Cao Duy Sơn đã trả lờ i rất thành thực: “Trên thực tế, không gian truyê ̣n của tôi

dàn trải trong nhiều tỉnh vào tận Đà Lạt, sang tận Trung Quố c, nhưng... vẫn là

bám theo những bướ c chân của người Cô Sầu. Hiê ̣n tại tôi đang có ý đi ̣nh viết

về ngườ i Cô Sầu di cư và o Tây Nguyên để xem sau nhiều năm xa quê hương,

văn hoá của họ đã bi ̣ đồng hoá ra sao, cá i gì cò n giữ được, cá i gì đã mất....”.

22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Từ đây có thể thấy Cao Duy Sơn là mô ̣t nhà văn rất kiên trì vớ i đề tài miền nú i. Theo ông: “Mỗi ngườ i đều có một vù ng đất của riêng mình. Tứ c là anh có thuộc nó hay không, nếu anh không thuộc nó thì là m sao anh có thể viết được.

Tôi về thà nh thi ̣ bố n đến năm năm nay nhưng những gì của thà nh thi ̣, mặc dù hằ ng ngà y tôi vẫn số ng vớ i nó , vẫn chưa đủ thờ i gian để mình có cả m xú c viết về nó . Cá i để tạo lên trong tôi cả m xú c là quãng đờ i ấu thơ, nơi mình sinh ra và lớ n lên. Mà hầu như nhà văn nà o cũng bi ̣ tá c động bởi những kỉ niê ̣m rất riêng. Bên cạnh đó là những gì đã qua trong cuộc đờ i mình ở vù ng đất mình đã sinh ra, nó trở thà nh một sự á m ả nh. Viết văn nhất đi ̣nh phả i có sự á m ả nh. Không có sự á m ả nh sẽ không thể nà o tạo ra được một tá c phẩm, vì mọi cá i đều trở nên hờ i hợt. Sự á m ả nh đó từ ngà y nà y qua ngà y khá c, nó khiến anh không một lú c nà o nguôi nghĩ đến nó và phả i tìm cá ch thể hiê ̣n theo một cá ch nà o đó . Tôi nghĩ rằ ng kiên trì theo đuổi chỉ là một cá ch thôi. Phải nó i rằ ng vù ng đất đó thuộc mình và mình cũng thuộc nó . Điều đó quan trọng hơn rất nhiều. Không thuộc sẽ không là m được gì” [21, tr.5]. Rõ ràng, với Cao Duy Sơn, viết văn là một sự thai nghén lâu dài chứ không đơn giản là sự ăn xổi. Bởi có hiểu, có cảm, có “ám ảnh” với một

hiện thực, một vấn đề thì người viết mới có đủ bút lực để viết ra nó. Phải chăng

đó cũng là lí do anh viết chậm nhưng chắc?

Hầu hết các sáng tác của Cao Duy Sơn, dù là tiểu thuyết hay truyện ngắn

đều gắn chặt với vùng đất quê hương ông, vớ i đề tài miền nú i về con người dân

tộc ông. Tuy nhiên, ông cũng chỉ dám nhâ ̣n là đang trong quá trình tích luỹ, khám phá để “mã hoá” những vỉa tầng văn hoá nguyên bản, hồ n nhiên củ a

ngườ i dân tô ̣c để đưa nó vào những trang văn của mình.

Cao Duy Sơn cũng là nhà văn có trách nhiê ̣m vớ i công viê ̣c sáng ta ̣o.

23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Ông cho rằng: “Bất cứ ngườ i viết nà o cũng không có chuyê ̣n vô trá ch nhiê ̣m trướ c tá c phẩm của mình. Thậm chí trá ch nhiê ̣m ấy cò n có mặt thườ ng xuyên,... Thườ ng ngườ i ta viết ra giống như một sự giải toả như được đố i thoại vớ i chính bản thân mình. Khi tá c phẩm ra đờ i và được in ấn thì những điều mình viết ra được truyền tả i bằ ng ngôn ngữ mà ngôn ngữ ấy là của mình thì cảm thấy hạnh phú c vì điều đó ”. Một di ̣p khá c ông nó i: “Quan trọng nhất là tá c phẩm phải hay từ nội dung đến hình thứ c thể hiê ̣n. Điều đó rất quan trọng. Để

có được một chữ hay, ngườ i viết phả i suố t đờ i phấn đấu”. Chính vì thế ông đã tâm sự rằ ng: “Tôi viết khó nhọc lắ m, một năm chỉ viết được từ 1 - 2 truyê ̣n ngắ n” [10, tr.15].

Cao Duy Sơn quan niê ̣m: “Văn chương là một chuyến đi dà i. Chuyến đi

ấy, chỉ khi nào người viết dừ ng lại, không còn số ng nữa, thì mớ i biết đâu là tá c phẩm hay nhất của đời ngườ i cầm bú t ấy. Mình đã viết về vùng đất mình được sinh ra, lớ n lên, gắ n bó suốt mấy chục năm đầu đờ i đầy ắ p những kỉ niê ̣m. Bây giờ viết ra, mình thấy vui, vì qua đó , đã có nhiều ngườ i hơn biết, nhiều ngườ i

tìm về cá i lũng Cô Sầu heo hú t của mình. Mình đã giớ i thiê ̣u được vù ng quê nghè o khó ấy, ghi danh nó trong văn học”.

Với những tập truyê ̣n ngắn và tiểu thuyết viết về miền nú i, Cao Duy Sơn

đã khẳng đi ̣nh đươ ̣c bướ c phát triển vượt bâ ̣c củ a văn xuôi miền nú i. Các tác

phẩm củ a ông phản ánh cuô ̣c số ng và số phận của con ngườ i miền núi vớ i

những phong tục tâ ̣p quán đă ̣c trưng hiê ̣n lên chân thực và sinh đô ̣ng. Không

chỉ vậy, tác phẩm củ a ông còn hướng đến số phận và bi ki ̣ch của mỗi con ngườ i

trong cuô ̣c số ng thườ ng nhâ ̣t khiến cho bứ c tranh về miền nú i hoàn thiê ̣n hơn,

sâu sắc hơn, ấn tươ ̣ng hơn trong thời kỳ đổ i mớ i.

Bên cạnh đó, chúng ta không thể không nhắc đến cội nguồn văn hóa Tày

mà Cao Duy Sơn đã được thụ hưởng. Là nhà văn dân tộc Tày, Cao Duy Sơn rất

am hiểu văn hóa, con người, tập quán của dân tộc mình. Có thể nói, văn hóa

Tày, nếp sống và tập quán truyền thống của dân tộc Tày đã trở thành suối

nguồn tạo nên những trang viết phản ánh sâu sắc bản sắc văn hóa Tày trong các

truyện ngắn của ông. Người Tày sống gắn bó với tự nhiên, trân trọng tự nhiên,

coi tự nhiên là nguồn sống của con người. Trong sáng tác của Cao Duy Sơn,

điều này được thể hiện rất rõ.

24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Như vâ ̣y, ngay từ khi khở i nghiê ̣p cho đến nay, Cao Duy Sơn vẫn thuỷ chung “thâm canh” vớ i vù ng đất Cô Sầu -Trù ng Khánh. Mỗi tác phẩm củ a nhà văn chính là mô ̣t sự tìm tò i, khám phá, phát hiê ̣n mớ i, đô ̣c đáo về đờ i số ng và

con ngườ i nơi đây, giú p ngườ i đo ̣c tiếp câ ̣n mô ̣t cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn

về vù ng đất đâ ̣m đà bản sắc văn hoá truyền thố ng này. Cao Duy Sơn xứ ng đáng

đươ ̣c nhâ ̣n “thương hiê ̣u” là nhà văn chuyên viết về đề tài miền nú i mà ba ̣n đo ̣c

đã vinh danh.

Tiểu kết chương 1

Nghiên cứu văn học từ góc nhìn phê bình sinh thái là một hướng đi mới

có nhiều triển vọng trong nghiên cứu văn học. Trong văn học Việt Nam hiện

đại, hướng nghiên cứu này cũng đã và đang được triển khai, bước đầu có những

thành tựu nhất định. Từ việc áp dụng lý thuyết phê bình sinh thái, chúng ta có

thể ứng dụng vào nghiên cứu truyện ngắn Cao Duy Sơn một cách hiệu quả. Cao

Duy Sơn là nhà văn dân tộc Tày, ông thành công trong truyện ngắn và tiểu

thuyết viết về đề tài miền núi. Nghiên cứu truyện ngắn Cao Duy Sơn dưới góc

nhìn phê bình sinh thái sẽ có nhiều khám phá thú vị và khẳng định những đóng

25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

góp của nhà văn cho dòng chảy văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

Chương 2

QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VÀ TỰ NHIÊN

TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN

2.1. Con người và tự nhiên trong sự đối sánh

Văn học luôn sử dụng tự nhiên làm nền cảnh. Dưới góc nhìn của lý

thuyết phê bình sinh thái chúng tôi quan tâm đến mối quan hệ giữa con người

và tự nhiên trong sự so sánh, đối chiếu để thấy rõ ý đồ nghệ thuật của nhà văn.

Ở đây không thể hiểu đơn giản đối sánh giữa con người với tự nhiên là so sánh

về những tiêu chí, chuẩn mực như trong văn học truyền thống lấy tiêu chí thiên

nhiên để tả con người. Đó chỉ là những cảm nhận đầu tiên khi tìm hiểu mối

quan hệ giữa con người và tự nhiên. Điều cần chú ý hơn là đối chiếu, so sánh

để có những nhận thức cụ thể hơn về mối quan hệ giữa tự nhiên và con người

trong sự phản chiếu và ảnh hưởng.

Trước đây, trong văn học trung đại, thiên nhiên là chuẩn mực để con

người cảm nhận vẻ đẹp của mình. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng so

sánh vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân với thiên nhiên:

Vân xem trang trọng khác với

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Qua các hình ảnh thiên nhiên như: trăng, hoa, mây, tuyết, liễu, thu thủy,

xuân sơn… Nguyễn Du đã làm nổi bật vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” của hai

26

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nàng Kiều. Rõ ràng, thiên nhiên đã trở thành chuẩn mực để con người soi chiếu

và so sánh. Có thể coi việc so sánh con người với tự nhiên là yếu tố thi pháp

quen thuộc của văn học trung đại. Nó mang tính ước lệ, tượng trưng. Điều này

do quan niệm văn học thời trung đại chi phối.

Đầu thế kỷ XX, khi văn hóa phương Tây xâm nhập, Thơ mới xuất hiện

đã làm cuộc đại cách mạng, lấy con người làm tiêu chí, chuẩn mực cho cái đẹp.

Vẻ đẹp của con người lên ngôi trở thành khuôn mẫu, chuẩn mực cho đời sống

xã hội và thế giới tự nhiên. Xuân Diệu đã từng viết:

- Mây đa tình như thi sĩ đời xưa

- Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần

- Lá liễu dài như một nét mi

(Xuân Diệu).

Trong văn học dân tộc thiểu số, các tác giả vừa kế thừa văn học truyền

thống đồng thời cũng có những đổi mới nhất định khi đối sánh giữa con người

và thiên nhiên, rộng hơn là giới tự nhiên.

Trong văn học viết về dân tộc và miền núi, con người thường nằm giữa

lòng tự nhiên nên luôn được nhìn nhận trong sự đối sánh với tự nhiên. Trong sự

so sánh này, các nhà văn thường làm nổi rõ vẻ đẹp, sức mạnh, bản chất của con

người và tự nhiên, qua đó khẳng định mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.

Điều này đã được phản ánh rõ trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành,

Chuyến đi săn cuối cùng của Sương Nguyệt Minh…Truyện ngắn Cao Duy

Sơn cũng không nằm ngoài quy luật này. Con người thường được so sánh với

thiên nhiên trong những mối quan hệ đa dạng và sống động.

Trước hết Cao Duy Sơn so sánh vẻ đẹp của người phụ nữ với thiên nhiên

Vẻ đẹp của người phụ nữ thường được tôn vinh qua vẻ đẹp của tự nhiên: hoa,

cỏ, sông, suối, mây, trời…Đó là hình ảnh của Lò - vợ Dồ (Hòn bi đá màu

trắng) “Nàng xinh xắn, uyển chuyển như con suối thu chân núi” [37;tr.137]. Và

đây là Dình (Hoa bay cuối trời) - nàng tiên nữ của đất Pác Gà: “Mặt nàng đẹp

27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

như bông đào trong nắng. Nụ cười bẽn lẽn, mắt chớp như cánh vẫy của loài

bướm hoa”. Rõ ràng, qua đối sánh với tự nhiên, vẻ đẹp của con người được

khẳng định. Tự nhiên còn tôn lên vẻ đẹp mảnh mai, đáng yêu của người con

gái: “Trong bộ quần áo Nùng xanh cổ vịt, viền nách bằng vải láng cống màu

đen, toàn thân nàng khẽ run trong hoàng hôn se lạnh” [37; tr.97]. Trong chiều

hoàng hôn nơi núi rừng bạt ngàn, hình ảnh con người trở lên bé nhỏ và toát lên

một vẻ đẹp mong manh, cần được che chở.

Thiên nhiên trở thành biểu tượng thiêng liêng và cao đẹp cho con người

ngưỡng vọng và vươn tới. Hình ảnh hoa Mộc Vương (Hoa Mộc Vương) được

so sánh với tình phụ tử, huyết thống chị em gắn bó thiêng liêng. Đến cuối cuộc

đời, con người mới chiêm nghiệm ra một điều giản dị nhưng sâu sắc biết bao:

“Ta ngồi xuống, tựa lưng vào gốc cây, chợt nghe có tiếng ca vọng về từ dĩ

vãng, những âm thanh miên man hòa quyện dâng tít trời cao, rồi thì thào trở về

trong tiếng nói của chị, tiếng nói của mẹ cha, tiếng nói của Mộc Vương, một

loài hoa chậm nở, lâu tàn, ưa sống trên vùng đất lạnh” [37; tr.170]. Chính vì

vậy, khi tâm hồn lầm lạc, tự nhiên như chốn trở về đầy thanh cao của con

người, nơi gột rửa tâm hồn con người sau những toan tính của bụi trần “Chỉ

mình cha tha thẩn bên cây Mộc Vương. Dường như ông muốn tìm sự bình yên

trong hương thơm dịu êm” [37; tr.161]. Phải chăng người cha đang tự dằn vặt

mình về những lầm lỡ của một thời trai trẻ khi ông ta đã làm lỡ dở cuộc đời của

cả hai người phụ nữ mà mình yêu thương? Hay hoa Mộc Vương là biểu tượng

của tình cảm huyết thống của con người, dù ở đâu cũng tìm thấy nhau? Lời

khẳng định của người chị cùng cha khác mẹ đã cho thấy rõ điều đó: “Cha đã

cho và chị đã đem theo lên vùng đất này, giờ thì em thấy đấy, nó đã giúp chị

nuôi hy vọng sẽ có ngày chị em mình được đoàn tụ” [37;tr.169].

Tự nhiên còn là biểu tượng cho sự thanh cao, có thể thanh lọc tâm hồn,

tẩy rửa bụi trần. Tình yêu của Lơ (Những đám mây hình người) chỉ dành cho

một người nhưng cuộc đời xô đẩy, tấm thân chẳng còn nguyên vẹn, đã “nhuốm

28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

mồ hôi bao gã đàn ông”. Khi gặp lại Ký, nàng đã ngụp mình trong làn nước

được ướp từ hương hoa của tự nhiên để mong tẩy rửa tất cả những dơ bẩn đã

phải trải qua: “Nàng thả vào nồi nước đang sôi trên bếp một nắm hoa cúc khô

vàng, rồi lại một nắm hoa đào tháng ba đỏ bầm như những giọt máu cô đặc,

cuối cùng bàn tay thon hồng của nàng buông những bông bưởi trắng muốt như

những chú chim câu bé xíu lao mình xuống những bong bóng nước quyên sinh.

Cả ba màu vàng, trắng, đỏ phút chốc nở tung trên mặt nước tỏa hương quyến

rũ” [36; tr.63]. Tắm trong hương hoa của tự nhiên Lơ đã được thanh lọc “hóa

một màu trắng dịu dàng tinh khiết”, “thanh sạch như nước Bó Slao” như tâm

hồn nàng, tình yêu trong trắng nàng dành cho Ký bao lâu nay. Rõ ràng, thông

qua hình ảnh này nhà văn đã cho thấy sức mạnh của tự nhiên thật kì diệu. Tự

nhiên là biểu tượng cho sự thanh cao, trong sạch và có thể tẩy rửa thanh lọc tất

cả để con người được trở lại trong trắng, tinh khôi.

Trong thế giới tự nhiên phong phú và đa dạng, không phải ngẫu nhiên

Cao Duy Sơn lại lựa chọn hình ảnh của hoa như một biểu tượng cho sự thanh

sạch và có thể thanh lọc, tẩy rửa mọi bụi trần. Điều này có cội nguồn sâu xa từ

trong quan niệm truyền thống của văn hóa Tày. Trong dân gian Tày có tín

ngưỡng thờ hoa. Người Tày cổ coi hoa như là cội nguồn sinh thành vạn vật (họ

thường gọi là mẹ Hoa). Chính vì vậy, những gì đẹp đẽ thường được so sánh, ví

với hoa và hoa cũng là biểu tượng cho sự trong trắng thanh cao, có thể tẩy rửa

mọi tục lụy chốn trần ai. Điều này trong văn học truyền thống không đề cập

đến nhưng trong sáng tác của các tác giả dân tộc Tày lại được chú ý. Cũng

giống Cao Duy Sơn, ở tiểu thuyết của Vi Hồng hay Ma Trường Nguyên chúng

ta cũng bắt gặp biểu tượng hoa tượng trưng cho sự thanh cao, trong trắng, vẻ

đẹp tuyệt mĩ, (chẳng hạn như hoa Vặc viền thường được Vi Hồng ví như hoa

tiên, ai gặp được sẽ may mắn cả đời…).

Đặc biệt trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn, thế giới tự nhiên được đặt

trong sự đối sánh với tình cảm của con người. Qua sự đối sánh với tự nhiên ước

29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nguyện cuối cùng của một đời người được gửi gắm trong đó. Điều này được

thể hiện rõ trong truyện ngắn Tượng trắng: “Bỗng chốc chàng thấy mình được

nằm trong bức tượng trắng đang co giật dưới chớp trời lóe lên sáng lạnh. Trời

bỗng tối sầm, mây đen bịt kín các góc. Bất ngờ một trận mưa trút xuống như

thác. Rừng nghẹn lại trong tiếng cây đổ, đá lăn tiếng sấm sét rung chuyển trời

đất, như có ngàn vạn thú rừng đua nhau rú lên như lời vĩnh biệt đứa con cuối

cùng của làng hủi, kẻ duy nhất không để lại tượng mồ của chính mình trong

nghĩa địa” [35; tr.26]. Chàng trai của làng Hủi đã đem lòng yêu cô gái con

người đánh xe ngựa, nhưng cha nàng đã đưa nàng đến một nơi khác để tạo

dựng cho nàng một cuộc sống tốt đẹp. Họ đã chia tay trong niềm tin và một hi

vọng bất diệt của chàng trai: nàng sẽ trở về với tình yêu dành cho chàng. Người

con gái xinh đẹp ngày xưa đã trở lại như lời chàng tiên đoán ngày nào nhưng

tất cả đã muộn. Chàng đã ra đi trước khi nàng trở về trong một ngày mưa gió

với ước nguyện hạnh phúc bên bức tượng tạc hình nàng bằng đá trắng. Mưa,

gió, sấm sét, cây đổ, đá lăn, muôn thú rú lên… rung chuyển cả rừng xanh tựa

hồ như nỗi đau khôn nguôi về một mối tình vô vọng của một con người ân

nghĩa và thủy chung trọn một đời. Nhân vâ ̣t đã được đặt vào thế đố i diê ̣n vớ i

thiên nhiên bao la vĩnh hằng để nhâ ̣n ra thân phâ ̣n bé nhỏ , cô đơn, mong manh

và bất lực củ a mình trướ c dò ng chảy tự nhiên vĩnh cử u.

Tuy nhiên, điều đáng nói là tự nhiên đã cướp đi mạng sống của chàng

trai theo quy luật sinh tồn nhưng trái tim và tình yêu của chàng thì không thế

lực nào khuất phục nổi. Chết rồi vẫn hướng về người mình yêu và vẫn muốn ở

bên nhau. “Nàng vừa nhìn thấy dưới chân mình đứng, một bộ xương người đã

khô trắng, nằm rải rác trên thảm cỏ xanh mượt” [35; tr.127]. Chàng đã chết

bên bức tượng tạc người con gái mình yêu với hi vọng nàng sẽ trở về. Cuối

cùng nàng đã trở về “cởi chiếc khăn trên đầu, mái tóc bạc xổ tung như một lời

thú nhận cay đắng. Gom những mẩu xương xếp lại vào trong chiếc khăn, nàng

30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ôm vào lòng rồi lảo đảo bước ra khỏi nghĩa địa” [35; tr.127]. Tự nhiên có thể

cướp đi tuổi trẻ, sức cường tráng, sự thanh xuân của con người, đổi mái tóc từ

xanh sang bạc trắng nhưng tự nhiên đành bất lực trước tình yêu của con người.

Sự so sánh này cho thấy rõ thế giới tinh thần của con người - mà ở đây là tình

yêu có thể bất diệt trước tạo hóa và sự trôi chảy của thời gian.

Với Cao Duy Sơn, mối quan hệ đối sánh giữa con người và thiên nhiên

tiếp tục được kế thừa và mở rộng. Điều mà nhà văn muốn gửi gắm là tình cảm

thủy chung của con người là yếu tố quan trọng nhất mà tự nhiên không thể

khuất phục được.

2.2. Con người và tự nhiên trong mối quan hệ gắn bó, hòa hợp

2.2.1. Con người hòa hợp với tự nhiên

Trong văn xuôi viết về miền núi đương đại ta cũng thấy mố i quan hê ̣ gắn

bó giữa con ngườ i vớ i thiên nhiên. Con ngườ i miền nú i tựa vào thiên nhiên mà chiến đấu và lao động, nuôi dưỡng thể chất, bồi đắp tình cảm và thanh lo ̣c tâm hồn. Thiên nhiên vừa là môi trườ ng sinh thái là cơ sở thiết yếu nhất để con người tồn ta ̣i, vừ a là ngườ i ba ̣n tri âm, tri kỉ củ a con người. Hầu như tác phẩm nào cũng ít nhiều thể hiê ̣n mố i quan hê ̣ hữu cơ này, nó như là mô ̣t thuô ̣c tính củ a văn xuôi khi viết về miền nú i. Chúng ta bắt gặp điều này trong sáng tác của nhiều nhà văn như Bùi Nguyên Khiết, Ma Văn Kháng, Nguyễn Trung Thành…

31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Cùng mạch văn này, Cao Duy Sơn đã miêu tả vẻ đe ̣p củ a thiên nhiên chố n nú i rừ ng, Lũng Cô Sầu - Trù ng Khánh vừ a nguyên sơ, hù ng vĩ vừ a thơ mô ̣ng, huyền thoa ̣i nhưng cũng lắm khắc nghiê ̣t. Ở đấy có dãy nú i Keng Sly “nổi lên những mỏm đá nhấp nhô, mang những hình thù quá i di ̣, có nú i Phja Đá n dà y đặc sương mù , có suối Cun thơ mộng, hiền hoà chảy rì rà o quanh năm, nướ c trong vắ t nhìn rõ những viên đá cuội trắ ng, có câu chuyê ̣n lạ về nguồ n gố c của ngườ i dân Cô Sầu; có vù ng đất Mục Mã nơi có thầy giá o Hạc đang sinh sống, nơi có nghề duy nhất là m đậu” [37, tr.113]. Nơi có dò ng sông Gâm trong xanh thăm thẳm, mát ngo ̣t, có bản Háng Vài, có “con đườ ng rộng hai bướ c chân nằ m mé p bên sườ n nú i. Phía bên phải là vá ch nú i dựng đứ ng

nhìn xuố ng mặt sông Gâm. Chỗ ngoạt của con sông dướ i chân nú i, dò ng nướ c lao xuống dừ ng lại thăm thẳm gây cả m giá c rờ n rợn, lạnh lẽo”[35, tr.1]. Tất cả những hình ảnh đó củ a thiên nhiên đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống của con người miền núi.

Trong chiều sâu tâm thứ c của ngườ i miền núi, cuộc sống của họ luôn gắn bó với nú i và sông. Dường như núi và sông không còn là hiện tượng tự nhiên mà trở thành những mă ̣t tồ n ta ̣i củ a vũ tru ̣, biểu hiê ̣n mố i quan hê ̣ âm - dương trong trời đất, sự minh triết củ a trí tuê ̣ và nét thâm trầm cao khiết củ a tâm hồ n con người. Chính vì thế trong sáng tác của các tác giả viết về dân tộc và miền

núi nói chung, trong đó có Cao Duy Sơn những giá tri ̣ tâm linh dườ ng như bao giờ cũng đươ ̣c hun đú c từ tự nhiên nơi núi rừng hay sông suối. Chúng ta bắt gặp điều này trong rất nhiều truyện ngắn như: Hoa bay cuối trời, Ngôi nhà

xưa bên suối, Nơi đây không một bóng người, Tượng đá…

32

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nố i tiếp nguồ n cảm hứ ng muôn thủ a củ a văn ho ̣c từ xưa đến nay, nhà văn Cao Duy Sơn cũng đã dành những trang viết củ a mình phản ánh thế giới tự nhiên hòa hợp với con người trong cuộc sống. Đó là tình cảm thiết tha, tình yêu thiên nhiên tươi đe ̣p và những rung đô ̣ng trướ c vẻ đe ̣p củ a tự nhiên. Mỗi truyê ̣n ông viết là những câu chuyê ̣n khác nhau nhưng trong đó đều gửi gắm tình cảm đắm say củ a con người trướ c thiên nhiên. Bở i tình yêu cuô ̣c số ng không chỉ là tình yêu dành cho con ngườ i mà đó cò n là tình yêu dành cho va ̣n vâ ̣t trong thế giớ i tự nhiên. Ngôi nhà xưa bên suố i không chỉ là mô ̣t thiên truyê ̣n ngắn về cuộc đời của một người thầy giáo, mà ẩn sau đó cò n có rất nhiều ý nghĩa sâu sắc khác. Dướ i cái nhìn tinh tế củ a Cao Duy Sơn, ngôi nhà bên suố i đươ ̣c hiê ̣n lên trong mô ̣t không gian tươi sáng với một khung cảnh thiên nhiên bình dị mà yên lành. “Nhà tôi ở bên đườ ng quốc lộ ba, phía sau trông ra con suối. Bên kia bờ suối là xó m Đậu, có ngôi nhà thầy Hạc. Từ cuối mù a hạ sang mù a xuân, mỗi lần sang thăm thầy tôi không đi theo đườ ng cầu treo Nà Cạn mà lội ngang suối sau nhà . Những ngà y nà y suố i không ngập bờ , hiền hoà chả y, khi lội nướ c chỉ trên đầu gối” [37, tr.5].

Con suố i Cun ấy đã gắn bó vớ i những kỉ niê ̣m thuở ấu thơ, nơi chố n bình yên để con ngườ i nơi đây tìm về và nhung nhớ mỗi khi đi xa. Tự nhiên đã trở thành thân thuô ̣c như máu chảy trong huyết quản củ a con ngườ i được ẩn chứa nơi con suố i Cun đó . Mô ̣t không gian thanh bình, tĩnh mi ̣ch hiện diện trong tâm trí ngườ i đọc. “Nhà thầy duy nhất bên xó m Đậu không là m đậu. Cả xó m nhà nhà xây kiên cố , nhà thầy vẫn lợp ngó i, tườ ng trá t toó c si. Được cái có vườ n rau, có hà ng rào nan tre đan hình quả trá m, trước cử a trông ra con suối Cun quanh năm rì rà o chảy, khiến cho không gian nơi đây mang vẻ thanh bình. Còn một thứ nữa làm cho ngôi nhà thầy bớt đi đơn điê ̣u, vắ ng vẻ ấy là hai luố ng

hoa ngay trước ngõ. Mù a nà o hoa nấy. Giống hoa tự thầy trữ từ vườ n nhà .

Mù a đông buốt giá nhưng hồng vẫn nở thắ m như thườ ng”[37, tr.5]. Chúng ta

bắt gặp cảm giác thanh bình yên ả của một lối sống hòa hợp, gần gũi, gắn bó và

nương tựa cùng tự nhiên.

Ngôi nhà ba gian, hai trái đơn sơ xinh sắn đã gắn bó vớ i cuô ̣c số ng bình di ̣ củ a thầy Hạc và các con. Vẻ đe ̣p củ a ngôi nhà bên bờ suố i ấy mang nét bình di ̣ và yên ả thật dịu dàng, tha thiết tựa hồ như một bản nhạc du dương làm say

đắm lòng ngườ i. Đó là mô ̣t bứ c tranh thiên nhiên mô ̣c ma ̣c nhưng đe ̣p mê hồ n bở i chính sự tự nhiên thuần phác và hiền hâ ̣u hài hòa với lối sống của chủ nhân. “Tuy đang bận học năm cuối cấp nhưng hai em Lữ và em Thư luôn dà nh thờ i gian buổi chiều để chăm só c vườ n rau và hai luố ng hoa. Hình ả nh hai chi ̣ em chung một cá i thù ng ô doa, quần sắn cao qua đầu gố i, lội xuống suối Cun mú c

nướ c tướ i cho hoa hà ng ngày cứ in đậm và o trong ó c tôi”[37, tr.8].

Không chỉ ở lối sống hài hòa với tự nhiên, mà nhân vật chính trong

truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối còn hòa hợp với tự nhiên ngay từ cái tên:

Thầy Hạc - tên của một loài chim. Có thể chỉ cần nghe tên thầy, ngườ i ta cũng đã phần nào hình dung đươ ̣c thân phâ ̣n củ a thầy. Cái tên gơ ̣i tớ i mô ̣t dáng hình bé nhỏ , gầy gò , mô ̣t thân phâ ̣n nghèo nàn và xa xứ như câu ca dao xưa:

33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“Thương thay hạc lá nh đườ ng mây - Chim bay mỏi cá nh biết ngà y nà o thôi”.

Dường như cái tên đã ám ảnh vào ngườ i, nó trở thành số phâ ̣n và đi ̣nh mê ̣nh. Thầy Ha ̣c là ngườ i Hà Nô ̣i. Cuố i năm mô ̣t ngàn chín trăm hai mươi chín, thầy tình nguyê ̣n lên Mu ̣c Mã da ̣y ho ̣c, Nhưng thầy và mô ̣t số đồ ng nghiê ̣p đươ ̣c phân công vào huyê ̣n xa nhất tỉnh: Bướ c bô ̣ gần ba ngày mớ i đến. Không ô tô, không điê ̣n, đài, thiếu cả dầu thắp, muố i ăn. Phải mua thó c trong kho nhà nướ c, vào nhà dân nhờ cố i tự giã, sàng sảy lấy ga ̣o thổ i nấu. Vậy là thầy vốn không sinh ra ở đây nhưng lại trở thành người gắn bó cả cuộc đời trai trẻ ở vùng đất

Mục Mã này.

Cùng với các nhà văn Viê ̣t Nam hiê ̣n đa ̣i nói chung, nhà văn các dân tô ̣c thiểu số nói riêng, Cao Duy Sơn đã vươ ̣t qua lố i tư duy truyền thống để cảm nhận thiên nhiên trong sự giao thoa văn hoá Đông - Tây. Ở tác phẩm của ông, có những lú c ta thấy thiên nhiên hoà điệu tuyê ̣t vời với con ngườ i, con người

với thiên nhiên tuy không hoà tan vào nhau nhưng giữa con người và thiên nhiên dườ ng như không cò n sự ngăn cách. Trong Hoa bay cuố i trờ i: “Không gian bỗng trở lên yên ắng, chỉ những bông mận nở muộn như tuyết trắ ng bên

những cà nh đà o rực đỏ dưới chân nú i khẽ đưa trong gió xuân. Nà ng khao khá t được vỗ về,... Nàng chợt thấy trong ngườ i như có một dòng sông ăm ắ p trôi, cùng tiếng lượn Hè o phượn vang lên trong vắt. Tiếng lượn ngân nga và đắm đuối quyến rũ nà ng và nàng cứ muốn chìm mãi, chìm mãi trong âm thanh di ̣u êm đó ”[37, tr.109-110]. Thiên nhiên xâm lấn vào tâm trạng và cảm xú c, ngấm vào cơ thể củ a Dình khiên cho Dình trở nên mong manh, cảm thấy trong ngườ i như đang có mô ̣t dò ng sông ăm ắp trôi. Điều này có thể thấy con ngườ i có thể chủ đô ̣ng trong việc giao hoà vớ i thiên nhiên. Thiên nhiên có sức quyến rũ và

khả năng kì diê ̣u đến vâ ̣y, tại sao ta la ̣i không biết trân trọng và bảo vê ̣ thiên nhiên để duy trì mối quan hê ̣ hoà hơ ̣p củ a nó vớ i con ngườ i ? Đó là một thông điệp mà nhà văn của núi rừng Việt Bắc muốn gửi gắm đến chúng ta.

Ấn tượng về tự nhiên gắn liền với kí ức đẹp về những rung động đầu đời

34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

của một người con gái đẹp cứ trở đi trở lại với hình ảnh: “Rừ ng đà o nở hoa đỏ

thắ m, con suối sâu trong vắ t và giá buố t,... Nó luôn trong tâm trí Dình và trở về trong tâm hồn nàng khi về nơi cuối trời: “Chiếc xe đi về phía chân nú i Phja Đá n, nơi có con suố i và những cây đà o cổ thụ đang trú t lá và ng” [37, tr.130-131].

Cái nhìn về cảm quan thiên nhiên phương Đông kết hơ ̣p vớ i tâm hồ n

nha ̣y cảm, lố i suy tư sâu sắc củ a Cao Duy Sơn đã tạo ra sắc màu riêng cho bức

tranh thiên nhiên và sự gắn bó giữa con ngườ i và thiên nhiên trong sáng tác củ a

ông. Thiên nhiên và con ngườ i trong mối quan hệ gắn bó không chi phố i toàn

bộ tác phẩm của ông mà chỉ xuất hiê ̣n điểm xuyết nhưng không vì thế mà mất

đi ý nghĩa tiềm ẩn trong nó . Khi đồng điệu với tự nhiên, tâm hồn con người

thanh cao hơn như thánh thót ngân nga một điệu nhạc lòng đầy hạnh phúc.

Cao Duy Sơn đã rất chú ý khai thác mối quan hệ giữa con người và tự

nhiên khi đặt con người vào lòng thiên nhiên. Để mă ̣c cho tự nhiên phô bày vẻ đe ̣p

và sứ c quyến rũ của nó. Và con ngườ i thì chìm đắ m trong bầu không khí tuyê ̣t

diệu của tự nhiên để rồi chợt nhâ ̣n ra tự nhiên đe ̣p biết nhường nào. Và lòng bỗng

ước ao được đặt chân trên lớp lá mục trong rừ ng, muố n được tìm về vớ i tự nhiên

hoang sơ, muố n cha ̣y trố n khỏ i thành phố vớ i ồ n ào xe cô ̣ và khói bu ̣i.

2.2.2. Tự nhiên phản chiếu tâm hồn con người

Trong các truyện ngắn của Cao Duy Sơn, thế giới tự nhiên không chỉ hòa

hợp với con người mà còn là nơi phản chiếu rõ nhất tâm hồn con người với

những cung bậc cảm xúc khác nhau.

Trong truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối, con suố i Cun giố ng như mô ̣t

ngườ i ba ̣n tâm giao, tri kỉ, gắn kết giữa anh chàng nhà báo và thầy Hạc. “Chiều

chiều tôi đến bên cử a sổ trông sang bên suối. Thấy được cá i vẻ sinh hoạt lặng

lẽ nhưng có trật tự của nhà thầy”. Rồ i “Tôi và thầy Hạc quen nhau trong

những ngà y đi tắ m suối từ sau ngà y tôi chuyển đến đây ở”. “Hồ i chưa quen,

mỗi buổi chiều cặp chậu quần á o xuố ng suối, tôi thườ ng tắ m bên dướ i, thầy

35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tắ m bên trên”…[37, tr.8-9]. Phải chăng họ đã đồng cảm, gắn bó bởi cùng có

chung một người bạn là dòng suối Cun hay bởi chính tâm hồn đồng cảm giàu

lòng trắc ẩn của họ đã tìm được điểm chung nơi thiên nhiên trong lành?

Có thể nó i Cao Duy Sơn đã đă ̣t nhân vâ ̣t củ a mình trướ c thiên nhiên,

trướ c vẻ đe ̣p bình yên củ a con suố i để ho ̣ nhâ ̣n ra chính mình, tìm la ̣i khoảng

lắng đo ̣ng nhe ̣ nhàng cho tâm hồ n mình. Và quan trọng hơn, họ tìm la ̣i chính

con ngườ i thật củ a mình và bảo tồ n phần nhân tính thuần phác củ a bản thân

trướ c những xô bồ ồn ã, trướ c những toan tính bon chen của dòng đời cuồ n

cuô ̣n chảy như con sông, con suố i đang xố i xả khi vào mùa nước lũ đu ̣c ngầu

và dữ dội. Có lẽ vì thế mà con suối Cun nó i riêng, vù ng đất Mu ̣c Mã hẻo lánh,

khó khăn vất vả nói chung đã ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm hồ n thầy Ha ̣c. Để

rồ i sau này khi về già, mỗi khi nhớ đến mảnh đất mô ̣t thời gắn bó , thầy Hạc mãi

mãi không thể nào quên: “Những đêm sương muối giữa rừ ng khuya buốt lạnh

thấu tim; những mái trường lợp cỏ gianh; những bục giả ng bằ ng đất nê ̣n;

những bảng đen được nhuộm từ bột man gan trong quả pin thố i giã với ngọn

lang; những cá i tết đậm đà hương vị miền nú i”. Tác phẩm khép la ̣i trong cảm

xúc nghe ̣n ngào. Nó hướ ng con ngườ i đến những điều giản dị nhưng đâ ̣m tính

nhân văn. Biết đâu trong cuộc sống hôm nay vẫn cò n đâu đó có những con

ngườ i có số phận như thầy Ha ̣c. Đằng sau câu chuyê ̣n buồn củ a thầy Ha ̣c vẫn

sáng lên ánh vàng củ a trái tim đáng quý: Biết yêu thương, hy sinh chia sẻ vớ i

mong muố n cuô ̣c số ng này sẽ tố t đẹp hơn. Tình yêu thương của thầy dành cho

học trò vùng cao nói chung và những hoàn cảnh trớ trêu cùng số phận đáng

thương của học trò tự nhiên như bản tính vốn có của con người vậy. Nó cũng

giống như dòng suối Cun, bình lặng, hiền hòa nhưng thật đáng trân trọng.

Nếu như con suối Cun phản chiếu tâm hồn và cả cuộc đời của thầy Hạc

thì con sông Quy lại trở thành điểm tựa tinh thần cứu giúp cuộc đời Súc Hỷ.

“Ngồ i trên chiếc ghế dà i trướ c cử a, Sú c Hỷ lặng lẽ ngắ m dò ng ngườ i và o chợ.

36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Khí lạnh phả xuố ng từ gó c nú i khiến lão co ro trong chiếc á o bông xanh như

con tê tê cuộn mình. Quá chín giờ mớ i nắ ng non chưa chi ̣u ló . Thờ i trẻ ré t hơn

thế lão vẫn cò n lặn sông Quy bắ t cá ” [37, tr.171].

Con sông quê dường như có linh hồ n, có tâm tra ̣ng cứ sống mãi trong

miền kí ức thiêng liêng củ a Sú c Hỷ. Chỉ sông Quy mới thấu hiểu nỗi đau đớn, hận thù và cả những đắng cay trong lòng Súc Hỷ trong cả một cuộc đời. Dường

như có sự giao cảm giữa lò ng ngườ i và dò ng sông để thấu hiểu và chia sẻ. Bởi

sông Quy là chứng nhân duy nhất cho nỗi đau đớn, nhục nhã ê chề của cái ngày

tận thế trong lòng lão: “Đêm cưới Dinh, Hỷ đến áp tai vào vách. Nghe Dinh

khóc gọi tên mình, Hỷ bắc thang leo lên mái, lật ngói nhảy vào buồng. Định

buộc Dinh vào lưng cướp đi, nhà gái phát hiện, tóm cổ đánh cho Hỷ một trận

nhừ tử. Họ còn cho người lấy nhọ chảo trộn mỡ lợn bôi vào mặt Hỷ, trông lem

luốc như mặt chó mực, rồi đá đít tống ra cửa” [37; tr.175]. Nhục nhã và uất

hận, lão muốn chết nên tìm đến đền Phja Phủ cho rắn cắn nhưng lại va vào

chiếc chuông, tức điên lão đánh chuông liên hồi khiến dân phố náo loạn tưởng

có máy bay, rồi “cho đến lúc nghe tiếng nước chảy, Hỷ mới biết mình đang

đứng bên bờ sông Quy”. Nếu không có Chương Chảo kéo hắn ra bờ sông Quy

có lẽ đầu hắn đã “thành quả bí nát rồi”. Bao hận thù của hai gã trai bản cùng

yêu một người con gái đẹp và những hờn ghen ân oán đã được kể hết, nói hết

bên sông Quy đêm đó. Bao oan ức của Súc Hỷ mà Chương Chảo bày đặt cùng

những ân, oán giữa hai người liên quan đến người con gái tên Dinh mà cả hai

cùng yêu đã được cởi bỏ. Lòng Súc Hỷ thật tĩnh lặng, được phản chiếu tinh tế

qua hình ảnh sông Quy: “Có tiếng chim ăn đêm đập cá nh đậu xuố ng rừ ng bên

sông. Só ng sông Quy nhè nhe ̣ vỗ và o bờ . Không gian trở nên yên lặng” [37,

tr.177]. Cuối cùng thì tất cả những mưu toan, thù hận giữa họ đều được khỏa

sạch dưới nước sông Quy.

Vẻ đe ̣p thiên nhiên thật bình di ̣ mô ̣c ma ̣c. Thiên nhiên gắn bó với con ngườ i giữa chố n đa ̣i ngàn như mô ̣t ngườ i ba ̣n tâm giao. Nơi ấy rừ ng như ngườ i

37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

me ̣ hiền, như Then luôn đe ̣p, vĩ đa ̣i và bao dung vớ i con ngườ i. Số ng giữa chố n

thiên nhiên hoang sơ củ a đa ̣i ngàn ấy dườ ng như con ngườ i cũng hiền hoà hơn,

bao dung hơn. Có lẽ vì thế mà Thùng trong truyê ̣n ngắn Mùa é n gọi bầy sau khi tâ ̣n mắt chứ ng kiến cảnh vơ ̣ mình ngoa ̣i tình ngay trên chiếc giườ ng trong chính ngôi nhà do bàn tay anh ta gây dựng lên, mô ̣t phú t nó ng giâ ̣n không kìm chế, ranh giớ i thiê ̣n ác chỉ rất mong manh, Thùng đã phó ng hoả đố t nhà hò ng giết chết những kẻ phu ̣ tình. Nhưng ngườ i vơ ̣ ấy đã không chết, vẫn tiếp tu ̣c số ng chung vớ i Thùng trong nỗi giày vò , cay đắng, ân hâ ̣n. Dườ ng như “thờ i

gian và sự yên lặng của rừ ng sẽ giú p cho con ngườ i khuây khoả”. Để rồ i “Giữa

mênh mông đại ngà n Thùng luôn tự giấu mình trong cá c cuộc đi săn tối ngà y”. Cho dù không bao giờ nhắc đến chuyê ̣n cũ nhưng không lú c nào ho ̣ quên, ngo ̣n

lử a bất ngờ như lưỡi quỷ đã thiêu cháy ngôi nhà đồ ng thờ i cũng đố t tru ̣i tình yêu củ a ho ̣. Mô ̣t ngày khi nhâ ̣n đươ ̣c lá thư vớ i vài dò ng chữ nghiêng ngả vô ̣i

vàng củ a vơ ̣ giữa ngôi nhà đo ̣ng đầy gió hoang khiến Thùng bừ ng tỉnh. Gã vẫn

cò n yêu vơ ̣, yêu con rất nhiều, đã tha thứ cho Đẹm từ rất lâu, song vì cố chấp mà lú c nào cũng mang bô ̣ mă ̣t la ̣nh lù ng đến như vâ ̣y. Giờ vơ ̣ đưa con bỏ đi đã làm

gã thứ c tỉnh, gã chờ đơ ̣i trong sự trở về củ a vơ ̣ con bằng mô ̣t sự tuyê ̣t vo ̣ng. Mô ̣t mình gã khi không cò n vơ ̣ con ở bên đã trở nên trơ tro ̣i giữa mênh mông rừ ng nú i: “Mù a đông đã đến rồi. Những con chim é n đang gọi bầy rủ nhau đi về

phương Nam đấy. Giá như lú c nà y tao hoá thà nh con chim, dù có phả i vượt

ngà n rừ ng ngà n nú i nếu nghe thấy tiếng của Đẹm gọi tao cũng sẽ bay đi, tìm đến. Nhưng giờ biết đi đâu mà tìm. Nghe đâu cô ấy đưa con đi Nam. Tao giờ như con chim lạc bầy”[36, tr34]. Ở đây tâm trạng của con người đã được soi

chiếu qua bứ c tranh thiên nhiên. Tâm tra ̣ng con ngườ i thay đổ i thì thiên nhiên cũng thay đổ i theo, chính vì lẽ đó mà Thùng đã ao ướ c đươ ̣c hoá thành con chim vươ ̣t ngàn rừ ng ngàn nú i để tìm vơ ̣ tìm con trở về. Chính sự cảm thu ̣ thiên nhiên đã trở thành thướ c đo phong phú tâm hồ n con ngườ i. Hay nó i cách khác,

thiên nhiên thay đổ i cũng tựa như con ngườ i luôn có thiên hướ ng vươn tớ i cái

38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đe ̣p, tiếp thu cái đe ̣p để hoàn thiê ̣n bản thân.

Trong truyê ̣n ngắn Mưa phố khung cảnh thiên nhiên tươi mát củ a mùa

ha ̣ đã phản chiếu tâm hồn nhân vật Thang: “Trời còn sớm. Bình minh vẫn chưa đủ sứ c xua tan màn sương bao quanh những lưng núi. Đâu đó vọng về tiếng

chim hoạ mi lảnh lót hót căng mảnh như tơ khiến cho không gian như được kéo

giãn trong suốt. Bước đi trong buổi sớ m mai thanh bình Thang thấy lò ng di ̣u lại, những lo toan cấn cá chợt như vợi đi. Lớp cỏ dày ướ t sương bên mé đồi tan

ra má t lạnh dướ i từ ng bướ c đi khiến lò ng thi ̣ cà ng trở nên phấn chấn”[36,

tr.175]. Có thể thấy cách Thang tâ ̣n hưở ng rừ ng, tâ ̣n hưở ng tự nhiên khiến cho

ngườ i ta ao ướ c muố n được như chị. Thang sống gắn bó với rừ ng, cảm nhâ ̣n sự

ôm ấp của rừ ng, nương tựa vào sự di ̣u dàng củ a rừ ng mù a ha ̣ mà quên đi sự mê ̣t

mỏ i trong con người mình. Tâm trạng của chị phơi phới trong buổi sớm mai khi có quyết định chính xác về kế hoạch thoát khỏi cuộc sống nghèo đói của mình.

Viết về thiên nhiên và những con ngườ i số ng giữa chố n đa ̣i ngàn nhưng vớ i

39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

con mắt củ a mô ̣t ngườ i con nú i rừ ng, Cao Duy Sơn đã cho ta thấy được mố i quan hê ̣ khăng khít giữa con ngườ i và tự nhiên trong truyê ̣n ngắn củ a ông. Khác với Cao Duy Sơn, trong bứ c tranh văn chương củ a Hoàng Phủ Ngo ̣c Tườ ng, thiên nhiên là mô ̣t mảng màu đầy ý nghĩa. Nó trầm lắng và toả sáng bằng sự hoà tan củ a những màu sắc văn hoá. Tất cả đất, trờ i, sông, nú i, bãi biển, con đèo, rừ ng cây, khí hâ ̣u,... đều hiê ̣n lên và toả sứ c số ng cù ng khả năng nuôi dưỡng, tái sinh văn hoá củ a chú ng. Thiên nhiên trong văn xuôi củ a Hoàng Phủ Ngo ̣c Tườ ng đã đươ ̣c xây dựng thành những thế giớ i tinh thần củ a con ngườ i. Ở đó , cái nhìn về thiên nhiên trong tư duy văn hoá phương Đông đã kết hơ ̣p vớ i ý niê ̣m bình đẳng, dân chủ củ a văn hoá phương Tây. Khố i tri thứ c uyên bác về khoa ho ̣c, nghê ̣ thuâ ̣t, triết ho ̣c, cái tôi nghê ̣ sĩ và tài năng nghê ̣ thuâ ̣t củ a Hoàng Phủ Ngo ̣c Tườ ng tạo ra mô ̣t sự hoà điê ̣u tuyê ̣t vờ i giữa thiên nhiên và con ngườ i trong tác phẩm củ a nhà văn. Đă ̣c điểm đó trong các sáng tác củ a Hoàng Phủ Ngo ̣c Tườ ng dù đươ ̣c thể hiê ̣n theo các cách khác nhau nhưng cũng tương đồ ng với quan điểm củ a Cao Duy Sơn khi ông viết về mố i quan hê ̣ gắn bó giữa con

ngườ i và thiên nhiên dướ i gó c nhìn củ a lý thuyết phê bình sinh thái. Hoàng Phủ Ngo ̣c Tườ ng đã quan sát, khám phá, thể hiê ̣n nó bằng sự quan tâm đă ̣c biê ̣t củ a mô ̣t con ngườ i khao khát hoà mình vào thiên nhiên không phải để trố n đờ i mà là để đươ ̣c số ng và hoà điê ̣u hồ n mình cù ng vớ i nó . Cò n Cao Duy Sơn la ̣i cảm nhâ ̣n thiên nhiên bằng những chiêm nghiê ̣m, bằng những rung đô ̣ng từ chiều

sâu tâm thứ c. Điều này có căn nguyên sâu xa củ a nó . Bở i trong tâm thứ c củ a

văn hoá phương Đông, thiên nhiên đã trở thành mô ̣t bô ̣ phâ ̣n hữu cơ gắn bó mâ ̣t thiết vớ i con ngườ i. Nó thể hiê ̣n tần số rung đô ̣ng củ a tâm hồ n con ngườ i trong sự hài hoà kì diê ̣u giữa con ngườ i, thiên nhiên, vũ tru ̣. Đó là thế giớ i siêu viê ̣t, vù ng tâm linh vĩnh hằng để tâm hồ n con ngườ i có thể nương náu mà vươ ̣t lên trên cõi tầm thườ ng. Vâ ̣n du ̣ng triết lý “Nhân dữ thiên đi ̣a tương tham” (Con ngườ i và trờ i đất chen dự vào nhau), trong suố t hành trình số ng củ a mình, ngườ i Viê ̣t Nam đã nỗ lực tìm cách tổ chứ c la ̣i thiên nhiên thành mô ̣t giá tri ̣ văn hoá để cù ng tham dự vào cuô ̣c số ng nhân văn thay vì thô ba ̣o chế ngự nó . Đây cũng là điều mà thông qua tác phẩm củ a mình Cao Duy Sơn muố n chuyển tớ i ba ̣n đo ̣c.

Có thể nói, dưới góc nhìn phê bình sinh thái, Cao Duy Sơn đã quan tâm

đến các vẻ đe ̣p và giá tri ̣ tinh thần củ a thiên nhiên đố i vớ i đờ i số ng con ngườ i, trong đó con người và thiên nhiên cù ng tồ n tại, gắn bó hoà hơ ̣p. Thiên nhiên mang la ̣i cho con ngườ i bầu không khí trong trẻo để con người ngu ̣p lặn trong đó , đươ ̣c gô ̣t rử a bu ̣i bă ̣m của cuô ̣c sống xô bồ, hỗn tạp. Những vẻ đe ̣p ban sơ,

tinh khiết củ a thiên nhiên trong truyê ̣n ngắn của Cao Duy Sơn đem đến cho

ngườ i đo ̣c những khoảnh khắc thư thái cho tâm hồ n, đồ ng thờ i cũng giúp ta

thêm yêu thiên nhiên, yêu cuô ̣c số ng hơn. Bằng cảm quan sinh thái nha ̣y cảm và tinh tế Cao Duy Sơn đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên trong mỗi câu chuyê ̣n củ a mình. Từ đó giúp người đọc thấy được giá tri ̣ đích thực mà thiên nhiên mang la ̣i cho cuộc sống con người giúp con người biết trân tro ̣ng và yêu

40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

quý thế giớ i tự nhiên hơn.

2.3. Con người và tự nhiên trong quy luật nhân quả

2.3.1. Con người tác động tiêu cực đến tự nhiên

Khảo sát dung lươ ̣ng trang viết về tự nhiên trong truyê ̣n ngắn củ a Cao

Duy Sơn, chúng tôi nhâ ̣n thấy phần viết về vẻ đe ̣p củ a tự nhiên, sự hoà hợp

giữa con ngườ i và tự nhiên chỉ bằng mô ̣t phần nhỏ so vớ i những trang viết về

sự xung đột giữa con ngườ i và thiên nhiên. Trong đó có cả những xung đô ̣t có ý

thức và xung đột vô ý thức. Điều này cho thấy vấn đề mà nhà văn muố n nó i trong tác tác phẩm củ a ông chủ yếu là những xung đô ̣t giữa con ngườ i và thiên nhiên. Nó i như vâ ̣y không phải chú ng tôi phủ nhận cách nhìn củ a Cao Duy Sơn về vẻ đe ̣p và sự gắn bó giữa con ngườ i và thiên nhiên. Số truyê ̣n ngắn tâ ̣p trung

thuần tuý mưu tả tự nhiên không có và không phải truyê ̣n ngắn nào ông cũng xuất hiê ̣n những bức tranh phong cảnh. Những đoa ̣n viết về thiên nhiên chỉ nằm rải rác trong các truyê ̣n ngắn. Tuy chỉ tâ ̣p trung ở mô ̣t vài truyê ̣n nhưng mối quan hê ̣ giữa con người và tự nhiên nhìn từ lý thuyết phê bình sinh thái đã được nhà văn thể hiê ̣n rất rõ, làm nên mô ̣t mảng nổ i bâ ̣t trong truyê ̣n ngắn củ a ông.

Viết về những xung đô ̣t giữa con ngườ i và thiên nhiên đâ ̣m đă ̣c nhất phải kể tới các truyện ngắn: Ngườ i săn gấ u, Cuộc bá o thù cuố i cùng,Hòn bi đá màu trắ ng, Nơi đây không một bóng ngườ i.... Mỗi truyện ngắn là mô ̣t cảnh sống, một số phâ ̣n vớ i những nỗi buồ n, vui, vất vả củ a đồ ng bào vù ng cao trong cuô ̣c mưu sinh. Đó là những trang viết miêu tả cuô ̣c số ng củ a những con ngườ i lao đô ̣ng lương thiê ̣n phải hứ ng chi ̣u bao cay đắng, khổ nhu ̣c do đó i nghèo chìm khuất trong u mê la ̣c hâ ̣u do điều kiê ̣n đi ̣a lý xa xôi cách trở với thành thi ̣. Vẻ

chân thực củ a cuô ̣c số ng cò n hiê ̣n lên hết sứ c sinh động trong thế giớ i đa ̣i ngàn

- nơi tồn tại những cuộc mưu sinh của con người.

Trong truyện ngắn Cuộc báo thù cuối cùng kể về cuộc đời sắn bắn thú

rừng để mưu sinh của lão Vược - một người đàn ông nơi miền núi xa xôi. Phải

chăng cái chết của vợ lão Vược là sự trả thù của rừng xanh đối với nghề săn

41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bắn của lão? Và để trả thù cho cái chết tức tưởi của người vợ hiền, lão đã rắp

tâm sắm một cây súng săn - dụng cụ hỗ trợ đắc lực cho sự trả thù của lão:

“Sau ngày có cây súng, lão Vược đã trở thành nỗi kinh hoàng của muôn loài

muông thú. Từ miền rừng Keng Pảng đến khe sâu Lũng Cái, không nơi nào

không có dấu chân lão đặt đến… Một phát đạn ghém bay khỏi lòng, một con

thú gục xuống. Với lão thú lành hay dữ đều có tên gọi chung là thú. Dưới tay

mình có bao nhiêu con bị hạ, có bao giờ lão đếm, nhưng cứ đến nhà lão thì

biết, bao nhiêu con là bấy nhiêu bộ chân, treo lủng lẳng từ nóc nhà đến quanh

tường” [35; tr.39]. Nhưng chính tình yêu thương loài vật ở bé Na - đứa con

côi cút đáng thương của lão Vược đã làm lão thức tỉnh, nhận ra, sự trả thù của

lão là vô ích. Lão thấm thía nỗi đau của tự nhiên sau khi hạ sát con hổ đã giết

chết vợ lão biến cuộc đời lão và con gái lão rơi vào cô đơn, côi cút. “Trong

đầu lão như bục ra một lỗ thủng, lão nghe trong đó có tiếng gió mài rít qua

đau đớn” [35;tr.97].

Và đối xử thô bạo với tự nhiên thì sẽ không thể có bạn, đó là chân lý lão

Vược đã ngộ ra trong cuộc đời của mình. Những dòng nước mắt của lão Vược

khi ôm con gái vào lòng và sự tỉnh ngộ sau nhiều năm thù hận đã cho thấy

người thợ săn đã bừng ngộ trước quy luật của tự nhiên: “Lần đầu tiên lão bỗng

nhận ra - gần một kiếp người sống nơi này, bạn với lão chỉ có tiếng kêu than

của hang núi Kiếm. Nó sẽ còn rên rỉ cho đến ngày vạn vật trên trái đất hóa

thành bùn. Trên cao ấy chẳng bao giờ ngừng gió” [35; tr.98]. Phải chăng đó là

sự trả thù của tự nhiên đối với sự thô bạo của con người khi tàn hại rừng xanh

và muông thú? Hành động quyết định vứt đi khẩu súng săn và không giết hại

con hổ con đã cho thấy sự thức tỉnh của con người trước quy luật nhân quả của

tự nhiên. Cao Duy Sơn đã để cho bé Na làm sứ giả cho sự hòa hoãn ấy. Âu

cũng là điều kì vọng vào tương lai đối xử với tự nhiên bao dung hơn để tránh

quy luật của nhân quả mà thế giới tự nhiên mang đến. Đó là thông điệp thật

nhân văn mà nhà văn Cao Duy Sơn đã gửi gắm trong tác phẩm này.

42

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong truyện ngắn Ngườ i săn gấ u, nhà văn Cao Duy Sơn không đặt ra vấn đề phê phán một cách trực tiếp lối sống truyền thống của những người

miền núi thông qua việc mưu sinh bằng săn bắn, nhưng gián tiếp gửi gắm một

thông điệp về sự nhân quả giữa những ứng xử của con người với tự nhiên.

Cách đề cập đến vấn đề này củ a Cao Duy Sơn cứ tự nhiên, điềm nhiên

đến la ̣. Ông viết theo lố i viết hiê ̣n đại về những điều ngườ i ta vẫn thấy trong đờ i

số ng. Tác giả nó i đến một thợ săn rất giỏ i ở vù ng Pác Miều có sứ c khoẻ kì la ̣ làm nghề săn gấu bằng giáo. Cây giáo bằng lõi nghiến bi ̣t sắt nho ̣n ở hai đầu

cách mũi giáo hai gang tay là mô ̣t thanh sắt xuyên ngang. Chỉ nhìn thấy vũ khí săn bắn này củ a Thim - chàng trai làm nghề săn gấu - trong đám thơ ̣ săn ai

cũng phải kính nể. Tác giả đã kể về thành tích, tài săn bắn củ a Thim củ a Sài Vẳn khiến cho ta có cảm giác sơ ̣ hãi, rùng mình:

“Sà i Vẵn cù ng lũ con bọn nhà già u hay đi săn bằ ng ngựa. Sà i Vẳn được

bọn đàn em kính nể lắm, nó có thể cườ i trên lưng ngựa vừ a bắ n vừ a đuổi theo

con thú mà viên đạn vẫn trú ng vào đầu hay và o mắ t con thú tuỳ ý . Nhưng Sà i vẳn chỉ bắ n được con hươu, con hoẵng thôi, chưa bao giờ nó bắn được con gấu, vì đi săn con hổ, con gấu không thể cưỡi lưng ngựa mà bắ n được mà phải

đi bộ, vạch cỏ tranh vào những khu rừ ng già núi đá mớ i có con thú to. Muốn

bắ n được con thú to thì gan phải to, cái mật phả i đầy, cá i tay không run thì mới bắn được,... Ngày trước ngườ i vù ng Pá c Miều nó i chuyê ̣n săn bắ n là ngườ i ta

nhắc đến Sài Vẳn, nhưng ngườ i ta lại quay sang nó i giọng kính phục về tà i săn bắ n của Thim” [35, tr.8-9].

Nếu Sài Vẳn là mô ̣t tay săn bắn cự phách có thể giết chết hết những con

hươu con hoẵng củ a đa ̣i ngàn bằng tài săn bắn chuyên nghiê ̣p thì Thim và bố Thim la ̣i đươ ̣c ngườ i vù ng Pắc Miều kính phu ̣c bở i tài săn gấu. Chính tài săn gấu củ a bố con Thim đã khiến cho Sài Vẳn phải ghen ti ̣ “Sà i Vẳn thấy những

lờ i thá n phục, khen ngợi không thuộc về nó nữa, nó bắ t đầu nghĩ đến điều xấu”. [35, tr.9]. Vớ i khẩu sú ng trong tay, loa ̣i vũ khí tố i tân và hiê ̣n đa ̣i hắn đã trở thành nỗi khiếp sơ ̣ không những vớ i muôn thú trong rừ ng, là hiê ̣n thân thần

43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

chết củ a rừ ng mà hắn ta cò n là nỗi sơ ̣ hãi đố i vớ i ngườ i già ngườ i trẻ trong bản

bở i thó i hung hăng và hố ng hách củ a lũ con nhà giàu. Ai trông thấy Sài Vẳn

phải ú p mă ̣t xuố ng đất, khi nó đi xa rồ i mớ i dám ngẩng lên. Ngươ ̣c la ̣i khi nhìn thấy Thim, Sài vẳn la ̣i có những ứ ng xử khác: “Mỗi lần thấy Thim mang cây

giá o trên vai, cú c á o mở tung để lộ ra bộ ngực vuông vứ c căng trò n, lưng đeo

tấm da bọc xương con gấu, cù ng vớ i cá i mật to bằ ng bá t con vẫn cò n đỏ má u

trên tay đến đổi muối vớ i nhà “Coằ ng”, trong bụng Sà i Vẳn như con suối lũ

nổi những bọt bẩn. Nó ứ c lắ m” [35, tr.8].

Cù ng là những gã thơ ̣ săn khắc tinh củ a muôn thú trong rừ ng song nhìn vào diê ̣n ma ̣o, hình dáng củ a Thim, Sài Vẳn vô cù ng ấm ứ c, ghen tứ c trong lò ng mà không dám thể hiê ̣n. Cao Duy Sơn đã miêu tả rất chi tiết đă ̣c trưng củ a

mô ̣t thơ ̣ săn chuyên đi săn gấu chỉ bằng vài nét phác hoa ̣ đơn sơ khiến cho ngườ i đo ̣c khi nhìn vào bỗng cảm thấy gai gai, rờ n rơ ̣n về sự đô ̣c ác tàn nhẫn củ a con ngườ i đố i vớ i thú rừ ng, mô ̣t loài vâ ̣t cần đươ ̣c bảo vê ̣ thì nay con ngườ i đã dù ng sứ c ma ̣nh cườ ng tráng củ a mình để tâ ̣n diê ̣t nó , “lưng đeo tấm da bọc xương con gấu, cù ng vớ i cá i mật to bằ ng bá t con vẫn cò n đỏ má u trên tay”. Để

có thể trở thành mô ̣t thơ ̣ săn giỏ i thành tha ̣o và cự phách, ngay từ nhỏ Thim đã

đươ ̣c ngườ i cha dẫn theo vào rừ ng, đi săn và chứ ng kiến toàn bô ̣ quá trình săn gấu củ a cha mình. “Buổi sớ m giá buốt của mù a đông năm ấy khi con gà rừ ng gá y lần cuối cù ng gọi ông mặt trờ i lên thì Thim theo gó t cha đến cá nh rừ ng xa nhất, dầy rậm nhất... Trướ c cử a hang, một triền đá thoai thoải rộng bằ ng

chướ c chiếu nan. Một mù i tanh nồng từ trong hang bay ra ngườ i cha bỗng hạ

giọng: - Cẩn thận con có gấu đẻ - Thim hiểu những điều nguy hiểm mà cha

vừ a nó i. Con gấu cá i khi đẻ bản năng tự vê ̣ và tấn công của nó quyết liê ̣t hơn

bình thườ ng. Không một tiếng gầm, chỉ nghe tiếng hồng hộc gấp gá p lao đến, một bó ng đen ập xuống như một cơn lố c - Ngườ i cha chỉ ki ̣p ké o Thim về phía sau mình thì con gấu đã đến ngay trướ c mặt... Thim chỉ thoá ng nhìn thấy ngườ i cha lao lên như một mũi tên, cú i ngườ i trá nh được hai cá i tá t của con thú ,

44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhanh như chớ p ông chộp được hai tay của nó ké o mạnh về phía mình, đầu hú c

ngược lên dướ i cổ, toà n thân ông căng lên, từ ng bướ c, từ ng bướ c ông đẩy lù i

con thú mỗi lú c một sá t mé p vực”[35, tr.10].

Có thể nó i những tháng ngày rong ruổ i theo “ho ̣c viê ̣c” đó Thim đã đú c rút ra cho mình biết bao kinh nghiệm xương máu để rồ i sau hơn mườ i năm chứ ng kiến cảnh cha mình và con gấu giao tranh và cù ng rơi xuố ng vực, Thim đã trở thành mô ̣t người săn gấu nối nghiê ̣p cha vớ i mô ̣t thành tích bất hủ “hơn mườ i đôi tay gấu được treo trên vá ch”. Cũng có nghĩa là hơn mườ i con gấu đã bi ̣ giết ha ̣i thâ ̣t rã man bằng sự đô ̣c ác tàn nhẫn củ a những gã thơ ̣ săn nó i chung và Thim nó i riêng.

Người đọc không khỏi bàng hoàng trước những ngón nghề rất chuyên

nghiệp của những tay thợ săn cự phách tàn hại tự nhiên: “Thợ săn xoạc hai

chân trong tư thế đi ̣nh tấn công giữ chắ c thân, trong hơn hai mươi phú t gấu yếu dần, hai tay cà o cấu đã đuố i, lú c ấy thợ săn dồ n hết sinh lực bất ngờ giật mạnh cây giáo sang một bên - đột ngột bị mất thăng bằ ng một chân con thú nhấc lên khỏi mặt đất và đổ ngay xuống. Cú thứ hai là cú đâm quyết đi ̣nh tuyê ̣t đối chính xá c - rút nhanh cây giá o phó ng thắ ng và o hố c mắ t xuyên qua ó c giữ chắ c cây giá o, trong ít phú t con thú giãy giụa và chết hẳn lú c đó mớ i chấm dứ t cuộc giao chiến” [35, tr.14].

Rõ ràng, việc Thim đi săn không còn là một công viê ̣c kiếm số ng bình thườ ng nữa. Quan niệm truyền thống về một nghề mưu sinh của người miền núi đã được đặt trong một góc nhìn khác. Thim đã trở thành kẻ huỷ hoa ̣i, tướ c đoa ̣t sự số ng củ a biết bao con thú trong rừ ng. Bằng chứ ng cho sự giết chó c ấy chính là thành quả “hơn mườ i đôi tay gấu đươ ̣c treo trên vách”. Tác giả đã không nó i bằng gio ̣ng văn ca ngơ ̣i tài săn bắn củ a Thim mà chỉ kể mô ̣t cách thản nhiên về bằng chứ ng củ a những lần đi săn mà Thim đã gom về ngôi nhà mình. Qua đó như muốn đặt ra những câu hỏi đầy nhức nhối. Phải chăng vì sự tồn sinh của con người mà tự nhiên bị hủy diệt? Săn bắn, tiêu diệt tự nhiên là

một điều hiển nhiên để con người tồn tại? Bạn đọc sẽ tự tìm câu trả lời và phán

45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

xét về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.

Cận cảnh hơn nữa, tác giả còn miêu tả những hành đô ̣ng của Thim: “Thim chằ m chằ m nhìn con vật đang lao về hướ ng mình. Đôi mắ t bình tĩnh đến lạnh lù ng, từ trong hai đốm lửa đỏ bật lên ý nghĩ dữ dội và quả quyết. Một khối đen khổng lồ đứ ng lên bằ ng hai chân sau bất ngờ lao và o Thim. Thim gồ ng người cúi xuống trong tư thế đi ̣nh tấn ! - Phập ! Mũi giá o đó n nhận chính xác và o giữa ứ c con thú , một tiếng rú lên rùng rợn man dại” [35, tr.20]. Hành đô ̣ng ấy của Thim mới bình thản la ̣nh lù ng và chuyên nghiê ̣p làm sao. Đơn giản vì đó là hành đô ̣ng thườ ng xuyên mà anh ta đã, đang và sẽ làm khi anh ta bướ c chân vào rừng. Hành động củ a Thim đã có tác du ̣ng khiến ý nghĩa vấn đề mà nhà văn đang bàn tới trở lên sâu sắc. Như ta đã biết ngo ̣n giáo chỉ là phương tiê ̣n trong bàn tay con ngườ i, là công cu ̣ hỗ trơ ̣ cho con người trong viê ̣c săn bắn. Nhưng mũi giáo lại nằm sâu trong ngực con thú và tiêu diê ̣t con thú là do sự

điều khiển của bàn tay con ngườ i. Nó hoàn toàn không có ý thứ c, ý thức củ a sự huỷ diê ̣t nằm nơi con ngườ i. Chính con người đã sáng tạo ra những phương tiê ̣n để phục vụ cho cuộc số ng củ a mình nhưng lại huỷ diê ̣t cuô ̣c số ng, phá huỷ vẻ đe ̣p củ a tự nhiên mô ̣t cách thô ba ̣o và tàn nhẫn.

Thông qua hình ảnh Thim, nhà văn như muốn nói lên một thông điệp:

Con ngườ i đang vô tư nghĩ và hành động theo ý mình khi tác đô ̣ng vào tự nhiên. Họ khai thác tự nhiên như mô ̣t điều hiển nhiên, ho ̣ cho rằng tự nhiên là

thứ thuộc về ho ̣, họ tuỳ ý sử du ̣ng và khai thác mà không cần phải đắn đo. Ho ̣ tâ ̣n diê ̣t các sinh vâ ̣t của tự nhiên như mô ̣t điều tất yếu và không quan tâm đến

thực trạng của tự nhiên ra sao. Họ cũng không biết tôn tro ̣ng vẻ đe ̣p của tự

nhiên, không gìn giữ, không bảo vệ. Sự thiếu tôn tro ̣ng và chưa quý tro ̣ng các

giá tri ̣ củ a tự nhiên đang ngay càng trở thành căn bê ̣nh trầm kha trong ý thứ c của con người trong xã hô ̣i ngày nay. Con ngườ i ngày càng tàn nhẫn, lạnh lù ng

46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

và vô cảm trướ c sự đau đớ n củ a tự nhiên khi sự số ng củ a chú ng đang bi ̣ đe doạ nghiêm tro ̣ng. Thái đô ̣ thờ ơ và vô cảm củ a con ngườ i trướ c sự mất ổ n đi ̣nh củ a thế giớ i tự nhiên khiến cho thiên nhiên đang bi ̣ tổn thương nă ̣ng nề.

Thông điệp trên của Cao Duy Sơn cũng rất gần gũi với Nguyễn Huy

Thiệp. Trong truyê ̣n ngắn Con thú lớ n nhấ t, tác giả cũng thể hiê ̣n rất rõ thái đô ̣

thờ ơ vô cảm này củ a con người. Nhà văn đã miêu tả rất chi tiết về đố ng lông

chim, xương thú đằng sau nhà lão thơ ̣ săn ngu ̣ cư ở Hua Tát “Ngườ i chồng là

tay thợ săn cự phá ch: Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắ t. Mỗi khi khẩu

sung giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừ ng nà o thoá t chết. Đằ ng sau nhà

lão, lông chim, xương thú chất đầy thà nh đống. Những đống lông chim xơ xá c

đen xỉn như mà u mực tà u, cò n những đống xương thú mà u đã vôi thì lố m đốm những vết nước tuỷ màu và ng khè, hôi há m. Những đống ấy to như những cá i

mả ” [46, tr.200].

Tác giả đã ví lão thợ săn như hiê ̣n thân của thần chết. Điều này hoàn toàn có du ̣ng ý, chính bở i lão là tay thơ ̣ săn cự phách, ít khi có chim chó c hoă ̣c thú rừ ng nào thoát chết. Sự tâ ̣n diê ̣t muông thú củ a lão đa ̣t đến trình đô ̣ cao khiến cho cánh thơ ̣ săn phải ghen ty ̣. Đáng sơ ̣ hơn, Nguyễn Huy Thiê ̣p cò n kể rằng: Lão không tha bất cứ con thú nào trong tầm sú ng củ a mình. Quả thâ ̣t tay thơ ̣ săn ấy hiê ̣n lên vớ i hình dáng, khuôn mă ̣t đú ng hê ̣t như thần chết: “Cao lớ n, gầy guộc, mặt sắ t lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắ t của lão đục và sâu hoắ m,

phản phất những tia lân tinh lạnh lẽo” [46, tr.200]. Nhìn vào đôi mắt củ a lão khiến cho ta có cảm giác rờ n rơ ̣n. Vớ i tài săn bắn củ a lão cô ̣ng vớ i đôi mắt “cú

vo ̣” ấy thì quả thâ ̣t lão đú ng là khắc tinh củ a muông thú trong rừ ng. Cái vẻ đáng sơ ̣, dữ tơ ̣n củ a lão thơ ̣ săn khiến cho cái nghề củ a lão càng trở lên tàn nhẫn hơn.

Ngườ i ta không cò n thấy ở đó là sự kiếm số ng mà hiển hiện một sự huỷ hoa ̣i,

tướ c đoa ̣t sự số ng củ a muôn loài. Bằng chứ ng cho sự giết chó c ấy chính là những đố ng lông chim, xương thú chất thành đố ng to như cái mả ở ngay sau

nhà lão. Cái đố ng ấy đã chôn vù i bao nhiêu sinh vâ ̣t nhỏ bé củ a tự nhiên.

Không có con số cu ̣ thể về số chim chó c và thú rừ ng đã chết dướ i tay lão, song

47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ta chỉ cần nhìn vào cái đố ng ấy đã đủ hiểu đươ ̣c sự tàn nhẫn đến la ̣nh lù ng củ a gã thơ ̣ săn. Thêm vào đó nhà văn cò n nhấn ma ̣nh đến hai lần hành đô ̣ng củ a gã

thơ ̣ săn: “Lão bắn chết mô ̣t con công đang mú a. Mô ̣t con công đang mú a nhé”.

Câu văn không có mô ̣t từ ngữ nào nó i đến sự thương xó t con công mà sao ngườ i

đo ̣c vẫn cảm thấy xó t xa. Bở i con công vố n đươ ̣c mê ̣nh danh là công chú a củ a

rừ ng, khi nó đang mú a là lú c vẻ đe ̣p củ a nó toả sáng nhất, quyến rũ và cuố n hú t

nhất. Vâ ̣y mà khẩu sú ng trong tay gã thơ ̣ săn đã la ̣nh lù ng chấm dứ t sự số ng củ a

con công, cũng có nghĩa là la ̣nh lù ng chấm dứ t sự số ng, vẻ đe ̣p củ a tự nhiên chố n nú i rừ ng.

Trong các sáng tác củ a những nhà văn miền nú i khác, mố i quan hê ̣ con

ngườ i - tự nhiên cũng đươ ̣c nhắc đến nhiều nhưng mố i quan hê ̣ ấy không phải

bao giờ cũng diễn ra theo hướ ng tố t đe ̣p, xuôi chiều. Mâu thuẫn khó giải quyết

giữa nhu cầu sinh tồ n củ a con ngườ i vớ i nhu cầu sinh tồ n củ a tự nhiên, hiểm

hoa ̣ củ a rừ ng già cù ng những hâ ̣n thù khủ ng khiếp giữa ngườ i và ác thú đã

đươ ̣c đề câ ̣p trong nhiều sáng tác củ a Vũ Ha ̣nh, Nguyễn Huy Thiê ̣p. Chính ở đây, tính văn hoá trong phương cách ứ ng xử vớ i tự nhiên củ a con ngườ i đươ ̣c bô ̣c lô ̣. Con ngườ i không chỉ là mô ̣t thực thể tự nhiên mà là mô ̣t “thực thể tự

nhiên có tính chất ngườ i” (Marx). Do vâ ̣y sự tác đô ̣ng củ a con ngườ i vào tự nhiên phải là sự tác đô ̣ng mang tính chất ngườ i, bản chất ngườ i. Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà như mô ̣t thứ kẻ thù “hung tợn độc á c khé t tiếng vớ i 73 cá i thá c hiểm nghè o” nhưng ông tin rằng viê ̣c tri ̣ thuỷ khiến “Sông Đà dì ghẻ rồ i sẽ hiền là nh, trở thà nh ngườ i me ̣ nhân từ của tất cả ngườ i Thá i, ngườ i Mườ ng, ngườ i

Kinh” (Ngườ i lá i đò Sông Đà). Cũng như vâ ̣y, những con ngườ i “khổ ng lồ ”

trong Sông gọi (Hoàng Ha ̣c) đã ra tay tri ̣ cái tính nết hung dữ củ a sông Chảy, làm cho sông và ngườ i trở thành mô ̣t đôi ba ̣n nuôi nhau, làm giàu cho nhau. Đó

là viê ̣c ta ̣o ra mô ̣t “giớ i tự nhiên thứ hai (Marx) - giớ i tự nhiên đươ ̣c nhân hoá

theo quy luâ ̣t củ a cái đe ̣p và sự hài hoà trong mố i quan hê ̣ con ngườ i - tự

nhiên”. Thiên nhiên đươ ̣c cải ta ̣o bở i con ngườ i, từ mô ̣t quan hê ̣ đố i nghi ̣ch đến

quan hê ̣ thân quen bè ba ̣n. Biểu hiê ̣n củ a văn hoá trong mố i quan hê ̣ con ngườ i

48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- tự nhiên là ở chỗ con ngườ i điều chỉnh tự nhiên, tái ta ̣o tự nhiên theo nhu cầu

và khả năng củ a mình. Đó là cách nó i củ a các nhà văn khác. Cò n Cao Duy Sơn nhìn nhâ ̣n vấn đề và thể hiê ̣n thái đô ̣, quan điểm củ a mình về điều này theo cái riêng củ a mình. Câu chuyê ̣n củ a ông không phải là viê ̣c con ngườ i đang cải ta ̣o tự nhiên biến sự hung dữ củ a tự nhiên trở nên hiền lành, di ̣u dàng vớ i con

ngườ i như các nhà văn khác đã nó i. Mà là ông nhìn thấu đươ ̣c bản chất củ a vấn đề khi đă ̣t tự nhiên và con ngườ i đố i diê ̣n nhau. Cái nhìn củ a con ngườ i và tự nhiên dành cho nhau hiê ̣n nay đã kèm theo thái đô ̣, sự mâu thuẫn, xung đô ̣t.

Con ngườ i đang ăn le ̣m vào tự nhiên chứ không cò n đơn thuần là chinh phu ̣c,

cải ta ̣o tự nhiên. Tự nhiên cũng đã có những phản ứ ng và biểu hiê ̣n nhất đi ̣nh để

đáp trả sự can thiê ̣p thô ba ̣o củ a con ngườ i đố i vớ i giớ i tự nhiên.

Vũ Ha ̣nh là nhà văn hay đặt thế giới tự nhiên trong sự so sánh vớ i xã hô ̣i

loài người. Với cái nhìn về cơ bản mang tính biê ̣n chứ ng, Vũ Ha ̣nh vẫn có thiên hướng đề cao thế giới tự nhiên thanh thản, trong sa ̣ch mà khinh thườ ng mă ̣t

thấp hèn củ a xã hô ̣i loài ngườ i. Điều này Cao Duy Sơn hoàn toàn không làm

mà cách làm của ông giống như mô ̣t ngườ i kể chuyê ̣n, cứ thản nhiên la ̣nh lù ng

kể la ̣i tất cả những gì ông nhìn thấy, nghe thấy. Không đề cao, không khinh thườ ng, không phán xét mà để cho ngườ i đo ̣c tự cảm nhận.

Giố ng như Thim, gã thơ ̣ săn trong truyê ̣n ngắn Ngườ i săn gấ u, lão Vươ ̣c

trong Cuộc bá o thù cuố i cùng cũng nổ i tiếng trong giớ i thơ ̣ săn. Dườ ng như

Cao Duy Sơn trong những truyê ̣n ngắn này đều chú tro ̣ng khai thác những biến

cố trong cuô ̣c đờ i củ a những tay thơ ̣ săn, song điều đă ̣c biê ̣t hơn ho ̣ đều là những

gã thơ ̣ săn tài giỏ i. Điều nãy cũng có nghĩa những kẻ đi săn có tài như Thim, lão Vươ ̣c,... thì chắc hẳn đã có rất nhiều con thú đã chết dướ i tay ho ̣. Ho ̣ đã giết biết bao con vâ ̣t trong rừ ng, ho ̣ trở thành những kẻ thù củ a chú ng, trở thành khắc tinh

củ a biết bao loài thú . Cuô ̣c đờ i củ a những kẻ mang cái chết đến vớ i muông thú ấy đươ ̣c tác giả kể la ̣i nếu không gă ̣p hoàn cảnh thảm ha ̣i thì cũng kết thú c cuô ̣c đờ i vớ i cái chết đau đớn hoă ̣c nỗi ân hâ ̣n giày vò triền miên không dứ t. Điều này

49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nó i lên hâ ̣u quả tất yếu, nếu con ngườ i quay lưng la ̣i vớ i tự nhiên, tàn phá, sát ha ̣i

tự nhiên sẽ nhâ ̣n lấy những kết cu ̣c tương tự những gì mà ho ̣ đã gấy ra cho tự nhiên. Cuộc bá o thù cuố i cùng là mô ̣t minh chứ ng tiêu biểu.

Nhưng không, từ ngày ngườ i vơ ̣ hiền chết thảm vì gă ̣p hổ trên đườ ng đi đó n chồ ng, chỉ cò n lại hai cha con lão Vược sống ở ngôi nhà sàn nằm lẻ loi

dưới chân núi. Lão Vươ ̣c vẫn đi săn bở i “thú ham săn bắn đã ngấm vào máu

của lão rồ i”. Lão đi săn không chỉ để mưu sinh mà cò n để báo thù . Lão muố n quên mà không sao quên nổ i “cái quá khứ nghiê ̣t ngã và tàn nhẫn”. Nỗi đơn

đau củ a lão Vươ ̣c dồn tu ̣, chất chồ ng bao “năm tháng nhọc nhằ n săn đuổi và

những ngà y âm thầm nuôi con trong cô đơn triền miên”. Sự khao khát muố n trả

thù củ a lão “hoá thà nh niềm say mê như cuồng nhập vào lão từ lú c nà o... lão

không còn nhớ . Lão thè m khá t được nhìn thấy má u con thú như một thứ bê ̣nh hoạn”[35, tr.89].

Sau bao nhiêu năm vất vả kiếm tìm, lão Vươ ̣c đã phát hiê ̣n ra chính con hổ đã giết chết người vợ yêu quí của mình đã trở thành ngườ i ba ̣n tố t vớ i con lão - bé Na. Lú c này, lòng thù hận và ham muố n báo thù củ a lão Vươ ̣c đỏ rực

như lửa đố t, muốn thiêu cháy cả nú i rừ ng Keng Pảng. Thế nhưng lò ng thù hâ ̣n

ấy bỗng được xoa dịu khi lão nhâ ̣n ra sự vô nghĩa củ a nó qua những gio ̣t nướ c

mắt trong trẻo từ bé Na. Chính sự thánh thiện, hồ n nhiên củ a bé Na đã đánh thứ c lò ng hướ ng thiê ̣n, thanh lo ̣c được tâm hồ n lão Vươ ̣c.

Trong truyê ̣n ngắn Nơi đây không một bóng ngườ i, la ̣i ngườ i me ̣ đã sinh

ra mô ̣t đứ a con ngườ i - khỉ “Cá i thân thể trần truồng đỏ hon hỏn đó , phủ một

lớ p lông mà u và ng ướ t nhớ p nhá p”[35, tr.71]. Bà đã phải vào rừ ng sâu trố n

cha ̣y sự đàm tiếu khinh miê ̣t củ a ngườ i đờ i cù ng sự tàn nhẫn củ a ngườ i chồ ng đô ̣c ác. Gã chồ ng đó đã cho tiền bà đỡ để giết chết chính đứ a con ruô ̣t củ a mình. Nghe tro ̣n ve ̣n cuô ̣c nó i chuyê ̣n giữa chồ ng và bà đỡ chi ̣ bỗng hoảng sơ ̣, ngườ i

chi ̣ run lên bần bâ ̣t “Sao con ngườ i lại có thể là m những chuyê ̣n độc á c đến như

vậy ? Trờ i ơi ! Cá i thằ ng chồ ng, hạng ngườ i khốn nạn ! Sao trướ c đây chi ̣ lại lấy

50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nó nhỉ ?” [36, tr.75].

Mô ̣t quyết đi ̣nh bỗng vu ̣t loé lên trong đầu, quên cả đau đơn mệt mỏi về thể xác của một người phu ̣ nữ vừ a trải qua một cơn “vươ ̣t ca ̣n”, chi ̣ vơ vô ̣i quần áo, tã ló t củ a mình và con nhét vào tú i vải rồ i bế con đi về phía rừ ng. Hai me ̣ con đã tồn ta ̣i giữa đa ̣i ngàn không một bóng người vớ i sự giú p sức củ a bà đỡ. Suốt mười bồn năm trờ i me ̣ con chi ̣ đã số ng ở khu rừ ng hủ i mà không ai dám đặt chân đến, mo ̣i bí mâ ̣t cũng vì thế mà đươ ̣c giữ kín. Có biết bao nhiều chuyê ̣n mà dân làng đã đồn đại về khu rừng hủ i này, những câu chuyê ̣n hoang đườ ng đươ ̣c thêu dê ̣t mỗi ngày một nhiều. “Chẳng hiểu những chuyê ̣n đó chuyện nào là hư là thật ? cũng chẳng biết khu rừ ng đó có hủi hay không ? Nhưng có một điều chắ c chắn - những con vật đáng thương khi bi ̣ con ngườ i săn đuổi cù ng đườ ng đều tìm cá ch thoá t thân duy nhất là lao đến rừ ng hủi, nương ná u dướ i cá i bó ng huyền bí lạnh lù ng của nó ”[36, tr.75].

Lần này con ngườ i xuất hiê ̣n không phải là những gã thơ ̣ săn chuyên

nghiê ̣p như trong truyê ̣n ngắn Người săn gấu và Cuộc bá o thù cuố i cùng mà là

tên xã đô ̣i trưở ng, các tay sú ng dân quân. Chú ng ho ̣p bàn vớ i nhau để tìm cách

tiêu diê ̣t bằng đươ ̣c “con quái vâ ̣t” trong rừ ng hủi bở i câu chuyê ̣n về “con quái

vật” này đang lan truyền như mô ̣t thứ di ̣ch bệnh. Mu ̣c tiêu, phương án giết chết

“con quái vật” củ a chú ng đã đươ ̣c vạch sẵn, tất cả các nò ng sú ng đã sẵn sàng

nhả đa ̣n, bỗng “Đoà ng....đoà ng ! Nhiều tiếng nổ cù ng vang lên, “con quá i vật”

sững lại rồi từ gục xuống... Những bướ c chân dè dặt tiến gần cá i xá c nằ m bất

động... Tất cả cùng à lên sử ng số t: - Ngườ i ! - Một con ngườ i hẳn hoi, chẳng

phải ma quỷ gì cả. Nhiều á nh mắ t cùng nhìn xuống cái xá c, rồi đồng thanh thốt

lên: - Bà đỡ” [36, tr.86].

Vâ ̣y là những gã “thơ ̣ săn” không chuyên ấy, vớ i vũ khí tố i tân hiê ̣n đa ̣i trong tay, quyết xua đuổ i tâ ̣n diê ̣t muông thú , truy sát chú ng đến cù ng, không

cho chú ng có chỗ trú ẩn, song quái vâ ̣t chú ng không giết đươ ̣c mà la ̣i giết ha ̣i

51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ngay chính đồ ng loa ̣i củ a mình. Thâ ̣t chua xó t và đau đớ n, bản án lương tâm chắc chẳng thể tha cho chú ng. Điều đó cũng có nghĩa khi con ngườ i tướ c đoa ̣t

đi sự số ng củ a loài vâ ̣t cũng đồ ng nghĩa vớ i viê ̣c con ngườ i đã tướ c đoa ̣t đi sự số ng củ a chính mình. Từ vấn đề trên, con ngườ i cũng nên nhìn thẳng vào vấn đề, cần nhâ ̣n thứ c la ̣i mình, cần thay đổ i thái đô ̣ và cách ứ ng xử vớ i tự nhiên. Cần tôn tro ̣ng tự nhiên, không nên can thiê ̣p quá nhiều vào tự nhiên để rồ i làm

mất đi sự hoang dã vố n có củ a nó . Sự tác đô ̣ng thái quá vào tự nhiên sẽ khiến

chú ng không cò n giữ đươ ̣c bản chất thâ ̣t củ a mình, bi ̣ biến da ̣ng, méo mó , xuố ng cấp và bi ̣ suy thoái ngày càng nghiêm tro ̣ng. Con ngườ i hoàn toàn có thể điều chỉnh đươ ̣c mố i quan hê ̣ giữa ho ̣ vớ i tự nhiên, trả la ̣i quyền bình đẳng cho tự nhiên, khôi phu ̣c đươ ̣c phần nào sự xuố ng cấp đã xảy ra, đền bù những tổ n

thất mà con ngườ i đã gây ra cho tự nhiên.

Nếu như trong văn học dân gian, những câu chuyện kể về những ngườ i

đi săn khiến ngườ i đo ̣c cảm thấy khâm phu ̣c các nhân vâ ̣t có tài săn bắn thì ngươ ̣c lại trong văn ho ̣c hiê ̣n đa ̣i nói chung, trong truyện ngắn củ a Cao Duy

Sơn nói riêng, những gã thợ săn đều bi ̣ lên án và phê phán bở i sự đô ̣c ác, tàn

nhẫn la ̣nh lù ng sẵn sàng tướ c đoạt đi quyền số ng củ a mo ̣i muông thú trong

rừng. Điều này khẳng đi ̣nh quan điểm thẩm mỹ của thờ i đa ̣i đã chi phố i đến

tình cảm thẩm mĩ củ a đô ̣c giả đối vớ i tác phẩm văn ho ̣c. Từ đó mà chú ng ta có

thể thấy rằng vấn đề đươ ̣c phản ánh trong tác phẩm văn học ảnh hưở ng đến thái

độ và gó p phần đi ̣nh hướ ng tư tưởng, văn hoá, lố i sống và cách ứ ng xử củ a xã

hội. Cách làm củ a Cao Duy Sơn không giố ng như các báo cáo viên củ a ban

tuyên giáo. Ông đã có cách nói củ a riêng mình về vấn đề sinh thái trong xã hội

hiện nay, về hiện tra ̣ng củ a cách con ngườ i đang ứ ng xử với tự nhiên, về tiếng

nói của tự nhiên khi bi ̣ con ngườ i can thiê ̣p mô ̣t cách thô ba ̣o, về hâ ̣u quả củ a sự

thiếu tôn tro ̣ng tự nhiên mà con người đã và đang thực hiê ̣n.

52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Marx đã từ ng khẳng đi ̣nh: Giớ i tự nhiên là “thân thể vô cơ” củ a con ngườ i. Đờ i số ng thể xác và tinh thần củ a con ngườ i gắn liền khăng khít vớ i tự nhiên bở i con ngườ i là bô ̣ phâ ̣n củ a tự nhiên, là giai đoa ̣n cao nhất trong quá trình phát triển củ a giớ i tự nhiên. Con ngườ i tuân theo các quy luâ ̣t củ a tự nhiên

và hoà vào tự nhiên. Từ đó có thể thấy giữa con ngườ i và tự nhiên cần có sự bình đẳng trong mố i quan hê ̣ hai chiều. Vấn đề này không phải bây giờ mớ i đươ ̣c các nhà văn nó i đến mà từ lâu đã xuất hiê ̣n trong văn ho ̣c dân gian cũng như văn ho ̣c trung đa ̣i. Tuy nhiên, ở mỗi thờ i đa ̣i cách phản ánh và nô ̣i dung phản ánh củ a vấn đề này có sự khác biê ̣t rõ rê ̣t.

Hiê ̣n nay vấn đề về tự nhiên hay vấn đề về sinh thái đang là mô ̣t vấn đề mang tính toàn cầu, đồ ng bô ̣ ở các nướ c, không phân chia biên giới, thể chế chính tri ̣, giai tầng xã hô ̣i. Văn học hiê ̣n nay cần phải có trách nhiê ̣m vớ i nguy cơ sinh thái, bởi bản thân văn ho ̣c cũng là mô ̣t trong những nguyên nhân văn hoá sâu xa tạo lên nguy cơ đó . Do vâ ̣y vấn đề môi trườ ng không chỉ cần phân tích từ gó c đô ̣ khoa ho ̣c, mà cò n cần phân tích từ gó c đô ̣ văn hoá, thông qua việc cải tạo văn hoá, cải ta ̣o quan niê ̣m văn ho ̣c để ha ̣n chế mắc lỗi vớ i tự nhiên và thâ ̣m chí chuô ̣c lỗi vớ i tự nhiên.

Truyê ̣n ngắn Cuộc bá o thù cuố i cùng là mô ̣t tác phẩm tiêu biểu cho điều

đó , câu chuyê ̣n kể về những cuô ̣c đi săn củ a lão Vươ ̣c - hung thần của muôn

loài thú. Dưới bàn tay củ a lão không biết đã có biết bao những con thú đã bi ̣

triê ̣t ha ̣ mô ̣t cách dã man. Khi thì con hươu, lú c thì con nai rồ i sau đó là con báo gấm. Phương tiện đi săn củ a lão là khẩu súng, đó cũng là bù a hô ̣ mê ̣nh củ a lão

khi lão gă ̣p thú dữ: ”Khẩu sú ng săn treo ngang ngực, nả y toò ng teng như một

thứ đồ chơi xinh xắ n trên cơ thể cao to của lão”[35, tr.80]. ”Hướng nhanh mũi

súng vào cái miệng đỏ lò m, lão nghiến răng siết mạnh tay cò . Đoà ng ! Nò ng sú ng

toé lử a, dội lên trong không gian một tiếng nổ lộng ó c. Dướ i mà n trờ i nhập

nhoạng, một cái bó ng vằ n vê ̣t bị hất ngược, bật tung lên không rồi rơi xuố ng đất,

giẫy giụa ngay dướ i chân cầu thang”. [35, tr.95]

Súng đã trở thành thứ vũ khí đe doa ̣ đến toàn bô ̣ sự số ng củ a muông thú trong rừ ng. Từ khi có cây sú ng trong tay lão Vươ ̣c đã trở thành nỗi kinh hoàng

củ a muôn loài muông thú . Thêm vào đó từ khi vơ ̣ lão chết do bi ̣ hổ vồ lão la ̣i

53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

càng ”thè m khá t nhìn thấy loà i thú như một thứ bê ̣nh hoạn. Một phá t đạn bay

khỏi nò ng, một con thú gục xuống”. Trong cuô ̣c đấu tranh sinh tồ n giữa chố n đa ̣i ngàn ấy dù cho những con thú có lấy hết sứ c lực củ a mình để đáp trả hành đô ̣ng dã man củ a con ngườ i thì nó vẫn bi ̣ con ngườ i tiêu diê ̣t: ”Con thú phó ng đến như một mũi tên. Cù ng đồng thờ i vớ i cá i bó ng vằ n vê ̣n vừ a bật lên khỏi mặt

đất, Vược nhú n chân bay ngườ i sang trá i, cắ t một gó c vương, hướ ng và o đầu

con hổ. Trong mà n trờ i nhấp nhoá ng, á nh kim loại loé lên” [35, tr.88]. Vâ ̣y là

tự nhiên đã lên tiếng, có ngăn chă ̣n con ngườ i nhưng con ngườ i vẫn tiếp tu ̣c

thực hiê ̣n ý muố n đến cù ng củ a mình. Sự giằng co ấy đã cho thấy tự nhiên không cò n đươ ̣c bình yên như nó vố n có mà luôn phải đấu tranh vớ i con ngườ i để tồ n ta ̣i. Trong mố i quan hê ̣ giữa tự nhiên và con ngườ i đang diễn ra hiê ̣n nay có sự bất bình đẳng bở i chỉ có con ngườ i khai thác đến kiê ̣t quê ̣ các nguồ n lơ ̣i tự nhiên mà bù đắp chẳng đáng là bao trong khi tự nhiên cứ gồ ng mình lên để đáp ứ ng các nhu cầu củ a con ngườ i. Tự nhiên đang phải giành giâ ̣t sự số ng vớ i

bàn tay tàn sát củ a con ngườ i.

Cây súng và lão Vược đã là nỗi kinh hoàng củ a muôn loài muông thú .

Súng là biểu tươ ̣ng cho sự huỷ diê ̣t. Lão Vươ ̣c đã mang sự huỷ diê ̣t này đến

huỷ diệt toàn bộ không gian số ng củ a nú i rừng Keng Pảng để giờ đây là mô ̣t

thực tra ̣ng: ”Rừ ng Keng Pả ng giờ là m gì còn thú , ngay như giống khỉ bạo nhất, cũng rủ nhau bỏ đi từ lâu. Thoảng hoặc một và i con nai, con hoẵng lạc từ rừ ng

khá c đến” [35, tr.83].

Bằng cảm quan nhạy bén, tinh tế và đầy xú c cảm Cao Duy Sơn đã nhìn nhâ ̣n mô ̣t cách mớ i mẻ và thẳng thắn về mố i quan hê ̣ giữa con ngườ i vớ i tự

nhiên. Đồ ng thờ i ông cũng đã dù ng ngò i bú t sắc sảo củ a mình thông qua những hình tươ ̣ng nghê ̣ thuâ ̣t đă ̣c sắc để chuyển tải những vấn đề ấy vào tác phẩm mô ̣t cách vô cù ng khéo léo và hiê ̣u quả. Con ngườ i xuất hiê ̣n và tồ n ta ̣i trên thế giớ i tự nhiên đã hình thành và phát triển từ rất lâu. Tự nhiên đã hào phó ng và ban tă ̣ng cho con ngườ i biết bao củ a cải mà nó đã ta ̣o ra từ thủ a ban đầu. Nguồ n tài

54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nguyên ấy vô cù ng giầu có nhưng không phải là vô tâ ̣n. Dựa vào trí tuê ̣ và sự

phát triển ngày càng tiến bô ̣ củ a các công cu ̣ lao đô ̣ng cũng như kỹ thuâ ̣t hiê ̣n

đa ̣i mà con ngườ i sở hữu để tác đô ̣ng vào tự nhiên nhằm khai thác các nguồ n lơ ̣i từ đó để phu ̣c vu ̣ cho cuô ̣c số ng củ a mình. Tuy nhiên, con ngườ i ngày càng la ̣m du ̣ng khoa ho ̣c hiê ̣n đa ̣i có đươ ̣c bó c lô ̣t tự nhiên vươ ̣t quá mứ c cho phép,

đi quá xa khả năng chi ̣u đựng củ a tự nhiên. Trong mô ̣t chừ ng mực nào đó , tự

nhiên đã có những phản ứ ng nhất đi ̣nh để đáp trả những hành đô ̣ng củ a con

ngườ i. Những phản ứ ng củ a tự nhiên đươ ̣c miêu tả trong tác phẩm củ a nhà văn

Cao Duy Sơn là tiếng nó i củ a tự nhiên trướ c sự ứ ng xử củ a con ngườ i. Đó là sự

thứ c tỉnh ý thứ c củ a con ngườ i và trả thù con ngườ i khi sự can thiê ̣p củ a ho ̣ trở

nên quá thô bạo vào giớ i tự nhiên. Sự kháng cự củ a tự nhiên hoàn toàn phù hơ ̣p vớ i quy luâ ̣t vĩnh hằng củ a thế giớ i. Tự nhiên cũng là mô ̣t thực thể tồ n ta ̣i song song vớ i sự phát triển củ a con ngườ i trong vũ tru ̣, nó hoàn toàn có quyền phát triển bình đẳng vớ i con ngườ i. Sự đáp trả củ a tự nhiên vớ i con ngườ i là phản ứ ng tự bảo vê ̣ mình trướ c sự chà đa ̣p củ a con ngườ i lên nó . Những bài ho ̣c tự nhiên da ̣y cho con ngườ i thâ ̣t đắt giá và vô cù ng thấm thía, khiến cho con ngườ i cần phải xem la ̣i hành vi củ a mình, nhâ ̣n thức đươ ̣c những hâ ̣u quả do mình gây ra cho tự nhiên để rồ i chính bản thân ho ̣ phải nhâ ̣n la ̣i những rủ i ro do tự nhiên mang la ̣i. Hâ ̣u quả ấy là cái tất yếu sẽ xảy ra khi con ngườ i tác đô ̣ng mô ̣t cách

tiêu cực vào giớ i tự nhiên.

2.3.2. Tự nhiên đáp trả lại con người

55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Tự nhiên luôn có quy luâ ̣t tồ n ta ̣i riêng củ a nó , vâ ̣y mà con ngườ i đã lơ ̣i du ̣ng sứ c ma ̣nh củ a khoa ho ̣c kỹ thuâ ̣t để làm tổ n thương tự nhiên, xáo trô ̣n sự bình yên và ổ n đi ̣nh củ a tự nhiên. Đò i quyền bình đẳng, đò i ăn va ̣ khi bi ̣ tổ n thương là điều chắc chắn tự nhiên sẽ làm. Vớ i kỹ năng cù ng sự sáng ta ̣o bâ ̣c thầy, qua truyê ̣n ngắn Cuộc bá o thù cuố i cùng. Nhà văn đã khơi dâ ̣y trong lò ng ngườ i đo ̣c lò ng trắc ẩn và tính nhân văn sâu sắc. Đo ̣c tác phẩm ta thấy đô ̣ng vâ ̣t cò n biết yêu thương nhau, huố ng chi con ngườ i. Nó cũng có cuô ̣c số ng gia đình vớ i vơ ̣, chồ ng, con cái. Ta ̣i sao con ngườ i la ̣i nhẫn tâm vì muố n

tìm nguồ n vui cho mình mà làm tổ n ha ̣i đến những con thú vô tô ̣i. Con ngườ i không bi ̣ tổ n thất gì nếu không giết ha ̣i chú ng, vâ ̣y ta ̣i sao con ngườ i vẫn hàng ngày, hàng giờ nhẫn tâm săn đuổ i, giết ha ̣i những đô ̣ng vâ ̣t như vâ ̣y ?

Cái chết củ a vơ ̣ lão Vược chính là bằng chứ ng củ a viê ̣c con người đã tác động vào tự nhiên, đã gây lên những vết thương không thể xoá mờ . Gã - ngườ i thợ săn khắc tinh củ a muôn thú , kẻ đã xuố ng tay bất kể thú lành hay thú dữ, tước đoạt đi sự sống củ a những con vâ ̣t vô tô ̣i không mô ̣t chú t giày vò ân hâ ̣n. Khẩu súng săn hay lưỡi dao trong tay lão cũng tàn nhẫn lạnh lù ng như chính con người gã, để giờ đây khi mất đi ngườ i vơ ̣ thân yêu nhất củ a mình liê ̣u lão có thấm thía nỗi đau mất mát. Lão đã điên cuồng trả thù. Nhưng những giọt nước mắt, tiếng nức nở, gio ̣ng van vỉ củ a cô con gái đã làm cho lão thứ c tỉnh. Lão thương con lão, lão thương cả con hổ con lúc này. Con gái lão đã khó c thương cho tình cảnh côi cút của con thú . Cái tiếng ”mẹ” vừ a cất lên từ miê ̣ng nó , đươ ̣m mô ̣t nỗi cảm thông xót xa. Phải chăng khó c thương cho con vâ ̣t côi cút từ nay mất me ̣ nó cũng đang khó c thương cho chính số phâ ̣n côi cú t củ a mình. Lão không có quyền bắn con thú kia, không có quyền chia rẽ tình me ̣ con củ a nó . Vâ ̣y mà giờ đây vì mố i thù củ a mình lão đã tướ c đoa ̣t đi quyền số ng củ a chú ng, chia rẽ sự sum họp me ̣ con củ a chú ng. Nhìn tình cảnh con hổ con ”nhay nú m vú lép kẹp củ a con me ̣” khi con me ̣ đã chết mà lão đau đớ n xó t xa. Lão như choàng tỉnh ”phả i, phả i ! lão nghĩ ra rồi - khẩu sú ng nà y lão sẽ vứ t quách xuống dưới khe, cho nó hoen gỉ cù ng dĩ vãng, và con thú kia cứ viê ̣c ở lại đây. Còn lão, ngay ngày mai khi trờ i sá ng, lão sẽ đưa con lão đến một miền đất khá c sinh sống”[35, tr.87].

Đó là mô ̣t cái kết có hâ ̣u cho mô ̣t câu chuyê ̣n cổ tích hiê ̣n đa ̣i. Cuô ̣c đấu tranh giữa mô ̣t bên là con ngườ i và mô ̣t bên là tự nhiên. Kết quả củ a cuô ̣c đấu

56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tranh đó là sự can thiê ̣p thô ba ̣o củ a con ngườ i vào tự nhiên đã thua sứ c ma ̣nh của tự nhiên. Sứ c ma ̣nh củ a quy luâ ̣t tự nhiên biểu hiê ̣n dướ i sứ c ma ̣nh củ a rừ ng xanh, củ a những sinh vâ ̣t trong rừ ng đã chiến thắng sứ c ma ̣nh củ a con ngườ i. Cuố i cù ng, con ngườ i cũng nhâ ̣n ra cái ác củ a mình mà rờ i bỏ nó sau khi

nhâ ̣n đươ ̣c bài ho ̣c đích đáng củ a tự nhiên: Gây sự vớ i thiên nhiên thì cô đơn, làm ba ̣n vớ i thiên nhiên sẽ ta ̣o nên sự hoà hơ ̣p.

Người phương đông từ ngàn xưa đã quan niệm ”Thiên nhân hơ ̣p nhất”, ”Thiên nhân tương cảm”,... có nghĩa là khi chú ng ta quay lưng la ̣i với tự nhiên thì tự nhiên liền lên tiếng. Cuộc bá o thù cuố i cùng không chỉ có những loài thú lên tiếng ”Ngoài trờ i xa chơ ̣t có tiếng nai tác lên thảm thiết” mà các hiê ̣n tươ ̣ng tự nhiên khác cũng đồng thờ i phản ứ ng. Đó là ”tiếng gió mài rít qua đau đớ n”, đó là tiếng kêu củ a con hổ con mất me ̣ ”Tiếng kêu của nó như mũi dao chọc vào mà n đêm, rồi mất dần trong tiếng âm ư... ầm ừ từ hang nú i Kiếm vọng về. Âm thanh ấy như một lờ i than thở, gieo và o lò ng lão Vược nỗi cô đơn âm thầm. Lần đầu tiên lão bỗng nhận ra - gần một kiếp ngườ i sống nơi nà y, bạn vớ i lão chỉ có tiếng kêu than của hang núi Kiếm” [35, tr.98]. Chinh phu ̣c tự nhiên là thể hiện trình đô ̣ củ a con ngườ i. Nhưng tàn sát tự nhiên thì hâ ̣u quả sẽ khôn lường. Cuộc báo thù cuố i cù ng là lời cảnh báo ma ̣nh mẽ nhất thái đô ̣ củ a con ngườ i trướ c tự nhiên. Nếu con ngườ i gây sự vớ i thiên nhiên tất yếu sẽ dẫn đến sự cô đơn, đau đớn và suốt đời day dứ t. Hậu quả khi con ngườ i tác động vào tự nhiên một cách thái quá cũng đươ ̣c thể hiện rõ trong ”Cuô ̣c báo thù cuố i cù ng”: ”Lâu rồ i, hôm nay lão mớ i hạ được một con. Rừ ng Keng Pảng giờ đã vắ ng thú ” [35, tr.77]. ”Rừ ng Keng Pảng giờ là m gì cò n thú , ngay như giống khỉ bạo nhất, cũng rủ nhau bỏ đi từ lâu, thoảng hoặc một và i con nai, con hoẵng lạc từ rừ ng khá c đến”[35, tr.78].

57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Sự tâ ̣n diê ̣t tự nhiên mô ̣t cách thái quá này khiên cho tự nhiên không cò n môi trườ ng số ng. Loài vâ ̣t không có điều kiê ̣n sinh trưở ng và phát triển, tất yếu sẽ dẫn đến sự mất cân bằng sinh thái. Thú rừ ng ngày càng ca ̣n kiê ̣t do những phương tiê ̣n kĩ thuâ ̣t hiê ̣n đa ̣i ”sú ng săn” sẵn sàng bắn ha ̣ bất cứ lú c nào khi gã thơ ̣ săn nhìn ngắm thấy con mồ i. Chính vì lẽ đó mà dướ i bàn tay củ a lão Vươ ̣c không biết đã có bao nhiêu con thú bi ̣ ha ̣, có bao giờ lão đếm. Chỉ biết rằng cứ đến nhà lão bao nhiêu con thú là bấy nhiêu bô ̣ chân, treo lủ ng lẳng từ nó c nhà đến quanh tườ ng.

Từ thủ a xa xưa, con ngườ i đã có những ứ ng xử củ a mình vớ i thế giớ i tự nhiên bở i khi ấy khoa ho ̣c kĩ thuâ ̣t chưa phát triển, nhận thức củ a con ngườ i vớ i thế giới tự nhiên cò n mơ hồ nên các thế lực của tự nhiên cò n là mố i đe doa ̣ củ a

loài người. Viê ̣c ứ ng phó vớ i tự nhiên củ a con ngườ i thể hiê ̣n rõ rất ở viê ̣c mă ̣c và ở. Ngoài ý nghĩa thẩm mĩ, mặc cò n để chống la ̣i cái nắng rát hay cái giá rét của thời tiết. Việc làm nhà ở để che nắng và cách cho ̣n hướ ng nhà cũng là cách

tận dụng tối đa thế ma ̣nh củ a môi trườ ng tự nhiên để ứ ng phó vớ i nó . Có thể

nó i tự nhiên là tiền đề cho sự tồn ta ̣i và phát triển củ a con ngườ i ”chừ ng nào mà

loài người còn tồn ta ̣i thì li ̣ch sử củ a ho ̣ và li ̣ch sử tự nhiên quy đi ̣nh lẫn nhau” (Marx). Nhưng trong quá trình tác đô ̣ng vào hê ̣ sinh thái con người nhiều khi đã lạm dụng tự nhiên. Thực tiễn cho thấy nếu con ngườ i tác đô ̣ng đú ng quy luâ ̣t sẽ

làm cho tự nhiên ngày càng phong phú và thân thiê ̣n. Ngươ ̣c lại nếu tác đô ̣ng

quá quy luâ ̣t sẽ làm mất đi sự cân bằng sinh thái và tự nhiên sẽ trở thành thù

địch với con người. Do đó con ngườ i không chỉ biết chinh phục tự nhiên mà

phải biết số ng nương theo nó và xác lập mô ̣t thái đô ̣ có văn hoá đố i vớ i nó .

58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong sáng tác củ a mô ̣t số nhà văn viết về đề tài miền nú i cũng đã đề câ ̣p đến hê ̣ quả thực tế trướ c mắt mà con ngườ i đã và đang đố i xử vớ i thiên nhiên. La Quán Miên là ngườ i phát ngôn tiêu biểu cho hê ̣ quả này vớ i mô ̣t loa ̣t truyê ̣n ngắn: Hổ báo thù ; Vâ ̣n may củ a ngườ i thơ ̣ săn; Bản nhỏ tuổ i thơ;... Sự báo thù trong truyê ̣n củ a ông xuất hiê ̣n ở nhiều da ̣ng thứ c, có thể là sự trừ ng pha ̣t trực tiếp, tứ c thờ i, sò ng phẳng từ phía tự nhiên đố i vớ i con ngườ i: Lão Xía Ki bắt hổ con và rình bắt hổ me ̣, bi ̣ oai hổ na ̣t chết, chết rồ i hổ cò n bớ i mô ̣ moi xác (Hổ báo thù ), Ả i Nám bắn me ̣ con nhà gấu, bi ̣ gấu đánh rách mă ̣t (Vâ ̣n may củ a ngườ i thơ ̣ săn). Đă ̣c biê ̣t, sự quả báo thườ ng mang sắc thái huyền bí, linh thiêng như đến từ mô ̣t thế lực siêu nhiên vô hình nào đó mà con ngườ i không lườ ng trướ c đươ ̣c. Ngườ i miền nú i từ ng giải thích đó là oan hồ n củ a giớ i tự nhiên, như lờ i khuyên củ a bố anh À i Dôi trướ c khi mất: ”Săn bắn không phải là nghề để số ng. Con cần phải ”làm ăn, làm mă ̣c”. Săn bắn giết chó c nhiều thì oan hồ n

củ a chim, thú không để con yên đâu”. (Bản nhỏ tuổ i thơ). Ở đây mố i quan hê ̣ con ngườ i - tự nhiên đã đươ ̣c thần bí hoá trong ý thứ c tâm linh vớ i sự đề cao sứ c ma ̣nh củ a thiên nhiên, tôn tro ̣ng quyền số ng củ a tự nhiên và đă ̣t tự nhiên trong thế bình đẳng vớ i xã hô ̣i loài ngườ i. Là nhà văn ít nhiều có sự ảnh hưở ng củ a phâ ̣t giáo, Cao Duy Sơn cũng thể hiê ̣n đươ ̣c rất nhiều nét hê ̣ quả thực tế trướ c mắt trong mố i quan hê ̣ giữa con ngườ i và thiên nhiên trong mô ̣t số truyê ̣n ngắn viết về miền nú i củ a mình.

Mặt thứ nhất: Kẻ nào xâm ha ̣i vào thế giớ i tự nhiên sẽ bi ̣ quả báo. ”Cuô ̣c

báo thù cuối cùng” kể chuyê ̣n lão Vươ ̣c chuyên vào rừ ng săn bắn. Vớ i khẩu

súng săn lạnh lùng, cộng vớ i thái đô ̣ tàn nhẫn củ a lão, giờ đây khu rừ ng Keng

Pảng đã vắng thú và làm gì cò n thú . Dướ i bàn tay củ a lão đã có biết bao con thú bi ̣ bỏ ma ̣ng. Chính vì sự săn bắn, truy lù ng, tâ ̣n diê ̣t muông thú mà ông đã

phải trả giá bằng cái chết đầy tức tưở i oan ứ c củ a ngườ i vợ khi bi ̣ hổ vồ . Cái

chết củ a vơ ̣ lão chính là mô ̣t hình thứ c quả báo cho sự tâ ̣n diê ̣t củ a tự nhiên đầy ám ảnh: ”Hình ảnh một thi thể nát nhừ , vớ i lỗ thủ ng rỉ máu dướ i cổ , bỗng nhiên

lại hiện lên như mô ̣t bằng chứ ng nghiê ̣t ngã củ a sự bất lực. Lão thấy mắt mình tố i sầm. Cay đắng quá”. [35, tr.79]

Cái chết của ngườ i vơ ̣ không làm lão thứ c tỉnh mà trái la ̣i lão càng điên

cuồng hơn trong việc trả thù và tâ ̣n diê ̣t tự nhiên. Vớ i cây sú ng trong tay lão trở

thành khắc tinh củ a muôn loài muông thú . Mối thù vớ i con hổ đã vồ chết vơ ̣ lão ngày càng ăn sâu trong tâm trí lão để rồ i cả cuô ̣c đờ i lão chỉ tìm và săn đuổ i, giết chết con hổ đã làm cho con gái lão phải mất me ̣, lão phải mất vợ. Để rồ i

gần như suố t cuô ̣c đời lão phải số ng trong cảnh ”gây thù chuố c oán” vớ i tự

nhiên và lấy oán thù làm lẽ số ng ”Nơi đây không mô ̣t bó ng ngườ i”.

Các truyê ̣n Ngườ i săn gấ u, Hòn bi đá màu trắ ng... kể về những chuyê ̣n

dữ dô ̣i hơn: Những kẻ đi săn không biết điểm dừ ng đã phải trả giá bằng ma ̣ng

59

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

số ng củ a ngườ i thân và chính mình mô ̣t cách bi thảm. Đó là ngườ i cha củ a Thim trong tác phẩm Ngườ i săn gấ u. Có lẽ cảnh tươ ̣ng đau đớ n khủ ng khiếp

suố t đờ i Thim không thể nào quên đươ ̣c là cái chết củ a cha mình khi vâ ̣t lô ̣n vớ i con gấu để rồ i kết cu ̣c cuố i cù ng cả ngườ i và gấu đều phải bỏ ma ̣ng nơi vực

thẳm kinh hoàng: ”Hai tay con gấu có những vuốt nhọn cắ m sâu và o đôi vai

lực lưỡng của ông và nó cũng không chi ̣u buông đối thủ đang đẩy nó dần ra phía vực... Ngườ i cha ấy đã đẩy lù i con thú bằ ng sứ c mạnh kì diê ̣u nhưng ông đã không thoá t ra được trong những chiếc vuốt cong nhọn hoắ t của nó , ngườ i

và gấu đã cù ng lao xuống đá y vực hun hú t” [35, tr.11].

60

Mặt thứ hai: Quan hê ̣ giữa con ngườ i vớ i tự nhiên đươ ̣c cu ̣ thể hoá bằng sự hoà hợp, bằng sự thứ c tỉnh. Trong Cuộc báo thù cuố i cùng lão Vươ ̣c - hung thần củ a muôn loài muông thú - đã bừng ngô ̣, nhâ ̣n ra sự cô đơn dằng dă ̣c củ a mình khi lấy oán thù làm lẽ số ng. Gây sự vớ i thiên nhiên, lão chưa có mô ̣t ngày được thanh thản. Giọt nước mắt hiếm hoi trên khoé mắt nhăn nheo củ a lão Vươ ̣c có tác dụng thanh lọc tâm hồ n, giú p lão hoá giải những oán thù truyền kiếp, tìm về vớ i lòng nhân để di dưỡng tinh thần. Tất cả những hiê ̣n tươ ̣ng ân oán giữa con người với tự nhiên như ta đã đề câ ̣p ở trên đã chứ ng minh cho mô ̣t quan niê ̣m đã có từ thờ i Aristote: Trong tự nhiên sẵn có những quy luật, luâ ̣t lê ̣ và công lý củ a nó. Luật củ a tự nhiên là quy luâ ̣t tồ n ta ̣i đô ̣c lâ ̣p vớ i những luâ ̣t lệ được đă ̣t ra bở i xã hô ̣i con ngườ i. Lý thuyết về nó đươ ̣c Aristote đề câ ̣p lần đầu tiên, khi ông cho rằng pháp luật của con người phải tuân theo luân lý và sự hài hoà củ a trâ ̣t tự tự nhiên.

Trong văn xuôi viết về miền nú i cù ng vớ i nhà văn Cao Duy Sơn, Hà Thi ̣ Cẩm Anh là cây bú t có ý thứ c tuyên ngôn về mố i quan hê ̣ hoà hơ ̣p con ngườ i - tự nhiên và đă ̣t ra vấn đề bảo vê ̣ thiên nhiên mô ̣t cách rõ ràng, kiên quyết. Truyê ̣n củ a nhà văn dân tô ̣c Mườ ng này có mô típ: Con ngườ i đến vớ i thiên nhiên để tìm mô ̣t chỗ dựa tinh thần khi bản thân bi ̣ cô ̣ng đồ ng xa lánh, hắt hủ i và khi đó ho ̣ trở thành ngườ i tình nguyê ̣n bảo vê ̣ thiên nhiên. Hay Nguyễn Huy Thiê ̣p trong Muố i củ a rừ ng đề câ ̣p đến mố i quan hê ̣ giữa con ngườ i và thiên nhiên đươ ̣c cu ̣ thể hoá bằng sự xuất hiê ̣n củ a hoa tử huyền như điềm báo củ a thanh bình, may mắn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nhiều năm nay, thay vì sự bao dung của người me ̣ hiền, tự nhiên đã nổ i giận. Đòi hỏ i củ a con ngườ i đã vươ ̣t quá khả năng cho phép và sứ c chi ̣u đựng củ a sinh giớ i. Loài người cần phải thay đổi phương thứ c quan hê ̣ từ xin - cho (cao hơn là tước đoạt) sang vay - trả đố i vớ i giớ i tự nhiên, khi mà quan hê ̣ xin - cho dưới hình thức săn bắt, hái lượm đã tồ n ta ̣i trong suố t tuổ i ấu thơ dài dằng dă ̣c củ a loài ngườ i, đến nay vẫn chưa chấm dứt ở nhiều nơi thuô ̣c địa bàn miền núi. Đã quá đủ dữ kiê ̣n để cho con ngườ i nhâ ̣n thứ c rằng, dù nhân loa ̣i phát triển tới đâu, con ngườ i vẫn luôn chỉ là mô ̣t bô ̣ phâ ̣n củ a tự nhiên và sinh sống hài hoà giữa con người và tự nhiên là mô ̣t giá tri ̣ vĩnh hằng.

Chính tự nhiên đã da ̣y cho con ngườ i bài ho ̣c làm ngườ i. Hãy đến vớ i tự nhiên bằng tâm thế hoà hơ ̣p chứ không phải là chinh phu ̣c, là khai chiến, là tướ c đoa ̣t, là chà đa ̣p, là tâ ̣n diệt tự nhiên. Truyê ̣n ngắn củ a ông đã rung lên mô ̣t hồi chuông cảnh báo về văn hoá ứng xử với tự nhiên củ a con ngườ i. Hành vi của con người cần được điều chỉnh khi tác động vào tự nhiên sao cho hành vi ấy không vươ ̣t quá sứ c chịu đựng củ a tự nhiên. Đó là thông điê ̣p mà Cao Duy Sơn muốn gử i tớ i đô ̣c giả của hôm nay và mai sau qua các truyện ngắn củ a ông. Trong Cuộc bá o thù cuố i cùng là cảm giác day dứ t hố i hâ ̣n củ a mô ̣t kẻ thợ săn chuyên làm điều đô ̣c ác, là khắc tinh củ a muôn loài thú , giờ đây trướ c cái chết của con hổ me ̣, chứ ng kiến cảnh con hổ con nhay nú m vú củ a me ̣ nó khi me ̣ nó đã chết lão chợt thứ c tỉnh, cay cay nơi số ng mũi và hình như lão khó c.

”Trong khoé mắ t nhăn nheo, một vết ướ t loang nhạt như giọt sương hiếm hoi, đọng trên chiếc lá buổi chiều”. Lão quyết định dừ ng tay, không tiếp tu ̣c làm điều đô ̣c ác, gây thù chuốc oán vớ i muông thú nữa ”Khẩu sú ng nà y lão sẽ vứ t quá ch xuống dướ i khe, cho nó hoen gỉ cù ng dĩ vãng”. Từ đó nhà văn đã chỉ ra rằng: Nhận thức của con ngườ i cần đú ng đắn và tỉnh táo hơn nữa để biết dừ ng la ̣i khi tự nhiên không đủ sứ c chi ̣u đựng trước sự bó c lô ̣t và tàn phá nă ̣ng nề củ a con ngườ i.

61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mô ̣t điều đáng nó i mà các truyện ngắn của Cao Duy Sơn gửi gắm đến bạn đọc là: tô ̣i ác củ a con ngườ i gây ra đố i vớ i tự nhiên không chỉ chính bản

thân ngườ i đó phải hứ ng chi ̣u mà ngay cả những ngườ i thân củ a ho ̣, hay rộng hơn là đồng loại cũng phải gánh, vơ ̣ chi ̣u tô ̣i củ a chồ ng, con chi ̣u tô ̣i củ a cha. Ngườ i vô tô ̣i la ̣i bi ̣ chính viên đa ̣n từ khẩu sú ng củ a đồ ng loa ̣i mình sát ha ̣i (Bà đỡ - trong tác phẩm Nơi đây không một bóng ngườ i); Phó n - ngườ i con gái xinh đe ̣p củ a nú i rừ ng, em gái Sài Vẳn, bi ̣ gấu cắn xé có thể sẽ đến chết nếu như không đươ ̣c Thim cứ u (Ngườ i săn gấ u)... Tất cả những điều này đều mang mô ̣t du ̣ng ý củ a nhà văn. Đó là lờ i cảnh báo về tương lai củ a các thế hê ̣ mai sau, nếu cha ông vẫn tiếp tu ̣c bó c lô ̣t và tàn phá tự nhiên thì hâ ̣u quả đau đớn sẽ giáng xuố ng đầu con cháu củ a ho ̣. Xã hô ̣i loài ngườ i sẽ bi ̣ đe doa ̣ nghiêm tro ̣ng nếu bàn tay con ngườ i cò n tiếp tu ̣c bó c lô ̣t, tướ c đoa ̣t tự nhiên, tàn sát tự nhiên mô ̣t cách ồ a ̣t như hiê ̣n nay. Có thể nói, cuô ̣c số ng hoang dã rất đỗi bình yên, giản di ̣ củ a muông thú

đã và đang bị tước đoạt hàng ngày bở i chính bàn tay củ a con ngườ i cho những thú vui và cuộc sống của ho ̣. Tự nhiên đã bi ̣ tổ n thương, bị đố i xử thiếu công

bằng, nó đang đối diê ̣n với con ngườ i kèm theo thái độ và sự rình râ ̣p ”báo thù ”

con ngườ i, thâ ̣m chí trả thù con ngườ i. Điều này là một dự cảm hoàn toàn có cơ

sở củ a người nghệ sĩ. Vớ i sự nha ̣y cảm củ a mình, nhà văn đã chỉ ra tương lai

của con người nếu tiếp tu ̣c phá hoa ̣i chính môi trườ ng sống củ a mình. Phá vỡ

sự bình yên và tự nhiên củ a thiên nhiên hoang dã là con người đã tự huỷ hoa ̣i

môi trườ ng sinh thái của chính mình.

2.4. Con người và tự nhiên trong khát vọng đồng hóa

Con người và tự nhiên là hai thực thể có đời sống khác nhau, nhưng từ

thuở hồng hoang đều cùng một cội nguồn, ra đời từ thế giới hỗn mang. Dưới

góc nhìn phê bình sinh thái, Cao Duy Sơn đã đề cập đến sự trở về cội nguồn

của con người và tự nhiên thông qua khát vọng trở lại bản thể của mình. Ở đó

xuất hiện những con người mang hình hài dị dạng thậm chí giống với muông

thú nhưng có tâm hồn trong sáng, thánh thiện. Và ở cực kia là những kẻ mang

62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hình hài đẹp đẽ của con người nhưng lại có tâm hồn “lại giống” của thú vật.

Quan hệ giữa con người miền núi với môi trường sống không đơn giản là

sự gắn bó, giao cảm thông thường mà luôn thể hiện một sự hòa hợp tuyệt đối.

Con người luôn coi mình là một bộ phận của tự nhiên và tìm thấy trong tự

nhiên sự tồn tại đích thực của mình. Đó là kiểu loại con người bị thiên nhiên

hóa, thiên về bản năng, tồn tại một cách tự nhiên. Loại nhân vật này ít nhiều có

tính chất dị thường về mặt hình hài. Điều này được thể hiện đặc biệt rõ trong

hình ảnh của Ò Lình trong truyện ngắn Nơi đây không một bóng người. Sự ra

đời của Ò Lình với “hình hài một con khỉ”, “cái thân thể trần truồng đỏ hỏn

đó, phủ một lớp lông màu vàng, ướt nhớp nháp” [36; tr.71] đã bị chính cha đẻ

cậu bé từ chối, muốn làm Phly Piài chôn sống đứa bé vừa lọt lòng.

Rất nhiều nhân vật có biểu hiện thiên nhiên hóa khi có tình yêu với tự

nhiên, với rừng, với cuộc sống hoang dã. Họ muốn hóa thân để hòa vào sự sống

với thiên nhiên. Phần lớn những con người này sống trong sạch, không vụ lợi,

ít nhiều thoát tục và lấy thiên nhiên làm ý nghĩa cuộc sống của mình. Ò Lình và

mẹ đã lánh xa hoàn toàn cuộc sống của con người. Hàng ngày hai mẹ con tự

sống bằng những sản vật của rừng và sự giúp đỡ của bà đỡ. Họ không thể hoà

nhập vào cuộc sống của con người - nơi không có sự cảm thông, chỉ có sự kì thị

và ác độc. Hai mẹ con đã không chấp nhận số phận bị định đoạt của xã hội đó

và người cha độc ác, họ đã tìm đến thiên nhiên như một cuộc chạy trốn khỏi

những dã man, tàn khốc của con người. “Chị bỗng hoảng sợ khi tưởng tượng

đứa con sẽ bị quyệt chàm lên mặt, đặt trong một cái rọ tre cùng với một ít tã lót

và một quả trứng luộc, tất cả những thứ đó được rắc lên một nắm gạo trộn

muối, tồi bị treo tít lên một ngọn cây, phơi nắng, phơi sương cho chết thối, chết

mục. Gió sẽ đưa mùi hôi thối của xương thịt đến mời lũ quạ về rỉa róc”

[36;tr.74].

Để cứu được con, người phụ nữ vừa trải qua “cuộc vượt cạn” ấy đã quyết

định vượt qua định mệnh của người đời đối với con trai chị, vượt qua những

63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trói buộc đầy định kiến của xã hội để trả con người về với tự nhiên, với bản

năng sinh ra là được sống của con trai mình. “Mím chặt môi, chị dồn hết sinh

lực lên cánh tay bầm tím rớm máu, lết đi chậm chạp. Vạt cỏ rạp xuống nơi chị

vừa lết qua, đọng những vệt máu loang mờ, trong làn sương lơ lửng, ướt át,

buốt lạnh” [36; tr.76].

Những kẻ mang hình hài con người nhưng lại mang tâm hồn thú vật, đối

xử thô bạo với đồng loại, mất hết nhân tính con người. Đó là những con thú đội

lốt người. Những kẻ này tai hại thay ngày càng nhiều trong xã hội và dễ dàng bị

che khuất bởi hình hài giống con người, thậm chí là đẹp đẽ, bóng bẩy. Đó là hình

ảnh người cha sinh học của Ò Lình (Nơi đây không một bóng người). Hắn đã

không những chối bỏ giọt máu của mình mà còn muốn thuê người ta đem thằng

bé bỏ vào rừng sâu, làm ma sống cho nó. Đó là kẻ mang hình hài con người

nhưng lại có tâm địa của loài vật. Hắn đã thú nhận bản chất của mình: “Chúng

mày cần gì tìm con khỉ? Chính chúng mày, cả tao nữa… Cứ chụp đi, nghiên cứu

xem, có đúng là những con khỉ không?.. Dưới gầm trời này con người ít đi rồi…

Còn lại chỉ là lũ khỉ thôi… Chúng nhiều lắm…” [36; tr.83].

Hành động của hắn khi đoàn nhà báo trung ương và địa phương đến để

phỏng vấn đã cho thấy rõ điều đó: “Bất ngờ hắn kéo tụt quần, đưa một ngón tay

chỉ vào chỗ kín trên người một cách tục tĩu, rồi ngửa mặt cười khả ố” [36;

tr.83]. Rồi “Hắn vung tay, vung chân, miệng không ngớt gào thét, chửi rủa như

một kẻ điên để mặc cái của quý phơi ra dưới nắng chiều gay gắt” [36; tr.84].

Đó là hành động của kẻ không mang ý thức của con người nữa. Hắn trở thành

hiện thân của cầm thú.

Nhà văn cảnh báo hiện tượng lại giống ở hình hài không đáng sợ bằng sự

lại giống ở tính cách. Sự thú tính ở kẻ mang hình hài con người mới là mối đe

dọa khủng khiếp đối với con người. Con người miền núi, nhất là những người

gắn bó với rừng đã coi rừng, núi là bản nguyên, tâm linh, cội nguồn văn hóa,

nơi trú ngụ của tâm hồn con người. Khi con người thú tính là đang trở lại cái

bản nguyên của tự nhiên hoang dã. Và phải chăng con người có thể bị tự nhiên

64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hoang dã đồng hóa khi trở về bản năng của mình?

Ngoài ra, trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, chúng ta cũng bắt gặp những

con người dị dạng mang bóng dáng của kiểu loại nhân vật dị nhân, chẳng hạn

như thằng Hoán (Thằng Hoán), lão Sấm (Người ở muôn nơi) nhưng lại mang

một tâm hồn thật thánh thiện, trong sáng. “Nhìn dáng còng còng của lão Sấm

đang hướng theo vầng mặt trời đỏ như lòng trứng gà, rớt xuống bên kia núi, tôi

lại chợt nghĩ đến câu chuyện cổ tích chàng Hậu Nghệ và những mặt trời bị bắn

rớt” [35; tr.102]. Lão Sấm đã trở thành vị thánh cứu sinh cho những đứa trẻ bơ

vơ, đói rét khi bố chúng bán tất cả những thứ đáng giá trong nhà bỏ đi theo một

người đàn bà trẻ đẹp, mẹ đi tìm cha. Mặc dù hình dáng dị dạng, lại đi ăn mày

rách rưới, đen đúa nhưng lão đã dành những phần cơm nhỏ bé xin được về cho

lũ trẻ đáng thương giống như chúa Giê su hi sinh thân mình cứu chuộc thế giới.

Thằng Hoán cũng có một vẻ ngoài thật dị dạng “cái đầu to quá khổ như

bị cái u trên lưng đè nặng, luôn trĩu về phía trước. Hai bàn chân to bè những

ngón tõe ra vững chãi đỡ cái thân hình thấp lùn không cao quá một mét tư”

[35; tr.59]. Nhưng đằng sau cái vẻ ngoài tạo sự khiếp đảm cho người đối diện,

Hoán lại có tâm hồn thật đáng trọng. Chính anh ta đã chăm sóc nuôi dậy và yêu

thương thằng Mìn dù không phải là con đẻ của mình. Khi biết Mìn không phải

con đẻ, vợ cũ về đón đi, anh ta cũng sẵn sàng để thằng bé đi với hi vọng nó có

cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự hi sinh, yêu thương con của Hoán hơn hẳn Làn Dì -

vợ hắn - dù thị được miêu tả rất đẹp.

Tiểu kết chương 2

65

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Có thể nó i Cao Duy Sơn không phải là ngườ i đầu tiên và duy nhất nó i về mố i quan hê ̣ giữa con ngườ i và tự nhiên, song điều đáng nghi nhâ ̣n ở đây là cách nó i củ a ông thể hiê ̣n sự mớ i mẻ, nhe ̣ nhàng, sâu sắc và cũng rất quyết liê ̣t. Truyê ̣n ngắn củ a ông dung lươ ̣ng không dài nhưng la ̣i có sứ c hú t kì la ̣, có khả năng tác đô ̣ng ma ̣nh mẽ đến ý thứ c con ngườ i trướ c vấn đề sinh thái đang là mô ̣t trong những điểm nó ng củ a toàn cầu. Con ngườ i đã can thiê ̣p thô ba ̣o vào giớ i tự nhiên, làm biến đổ i những thuô ̣c tính vố n có củ a giớ i tự nhiên, chà đa ̣p

lên những vẻ đe ̣p củ a tự nhiên, tâ ̣n diê ̣t tự nhiên, tướ c đoa ̣t cả quyền đươ ̣c số ng

66

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trong môi trườ ng hoang dã củ a những con thú rừ ng... Những viê ̣c làm ấy củ a con ngườ i ở từ ng chừ ng mực nhất đi ̣nh đều đã nhâ ̣n đươ ̣c sự đáp trả thích đáng củ a tự nhiên. Nếu biết dừ ng la ̣i và nhâ ̣n ra mình có lỗi vớ i tự nhiên thì con ngườ i sẽ đươ ̣c tự nhiên tha thứ , bao dung và che chở . Ngươ ̣c la ̣i nếu con ngườ i làm tổ n thương tự nhiên quá sứ c chi ̣u đựng củ a nó sẽ bi ̣ quả báo mô ̣t cách đau đớ n. Luâ ̣t nhân quả không chỉ tồ n ta ̣i trong mố i quan hê ̣ giữa con ngườ i vớ i con ngườ i mà nó cò n tồ n ta ̣i trong cả mố i quan hê ̣ giữa con ngườ i vớ i tự nhiên. Đó là quy luâ ̣t vĩnh hằng củ a vũ tru ̣, củ a nhiều mố i quan hê ̣ tự nhiên và xã hô ̣i.

Chương 3

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI

VÀ TỰ NHIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN

3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện

Cốt truyện (fabula) là “tổng thể các sự kiện trong mối quan hệ qua lại

nội tại của chúng”. “Cốt truyện thể hiện một quan niệm về chủ đề tư tưởng của

tác phẩm, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn thể hiện trong tiến trình các sự

kiện” [14, tr.36]. Mỗi một nhà văn khi xây dựng cốt truyện đều thể hiện một

quan niệm nhất định về thế giới tự nhiên và con người. Hay nói một cách khác,

các tác giả đều thể hiện một tư tưởng nghệ thuật về hiện thực đời sống và tự

nhiên theo quan niệm của mình.

Tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng: “có loại cốt truyện trong đó các sự

kiện là kết quả hư cấu thuần túy của các nhà văn. Có loại cốt truyện sử dụng

nhiều nguyên mẫu của đời sống thực, đó là loại cốt truyện dựa trên các sự thực

lịch sử có thực; hoặc loại cốt truyện dựa trên tiểu sử bản thân nhà văn (tác

phẩm thuộc loại tự truyện); hoặc cốt truyện dựa trên dấu tích các câu chuyện

hình sự. Ngoài ra còn có loại cốt truyện được xây dựng dựa vào một trong

những cốt truyện văn học đã được biết đến, có nhào nặn lại, có bổ sung, hiệu

chỉnh theo cách của mình, đó là cốt truyện văn mượn” [1, tr.117].

Trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn chủ yếu là cốt truyện hư cấu do nhà

văn sáng tạo nên. Tuy nhiên cốt truyện trong truyện ngắn Cao Duy Sơn mang

đậm màu sắc miền núi. Các tình tiết, sự kiện, biến cố hư cấu trong truyện đều

có liên quan đến con người và văn hóa miền núi. Trong đó nhiều cốt truyện

được xây dựng dựa trên những hư cấu phản ánh mối quan hệ giữa con người

miền núi và tự nhiên.

Qua khảo sát 35 truyện ngắn trong tổng số 4 tập truyện ngắn đã xuất bản

của Cao Duy Sơn (Những chuyện ở lũng Cô Sầu - 1997, Những đám mây

67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hình người - 2002, Ngôi nhà xưa bên suối - 2008, Người chợ - 2010), chúng

tôi nhận thấy hầu hết các cốt truyện đều mang yếu tố hư cấu. Tuy nhiên, cốt

truyện được hư cấu không dựa trên yếu tố kì ảo, hoang đường mà luôn gợi cho

người đọc cảm nhận về một hiện thực đời sống của con người nơi miền núi xa

xôi. Đặc biệt là cuộc sống của con người trong môi trường đấu tranh sinh tồn

với thế giới tự nhiên.

Trong truyện ngắn Cuộc báo thù cuối cùng, cốt truyện được xây dựng

xoay quanh mối quan hệ cạnh tranh sinh tồn giữa con người và tự nhiên. Thông

qua mối quan hệ đó, luật nhân quả, sự báo oán được đề cập tới như một thông

điệp về sự sinh tồn giữa con người và tự nhiên như thế nào cho hài hòa. Cốt

truyện xoay quanh cuộc đời lão Vược - một người thợ săn của vùng rừng Keng

Pảng. Lão săn thú rừng không chỉ để mưu sinh, mà ”thú ham săn bắn đã ngấm

vào máu của lão rồi”, đặc biệt, ”lão còn một món nợ chưa trả được, lão sẽ ở lại

cho đến khi thanh toán xong” [35; tr.79]. Vợ lão đã bị hổ vồ trong một lần đi

đón chồng ở rừng. Một mình lão bươn chải kiếm sống nuôi con gái côi cút mới

có hơn một tuổi. Lão đã thề sẽ trả món nợ cho vợ, phải giết bằng được con hổ

để trả thù cho vợ lão.

Cao Duy Sơn đã khéo léo xây dựng cốt truyện phản ánh mối quan hệ

giữa con người và tự nhiên thông qua các tình tiết được triển khai đầy căng

thẳng, cam go. Có lúc tự nhiên đã thắng khi ta bắt gặp chi tiết vợ lão Vược bị

hổ vồ. Phải chăng đó là cách đáp trả của tự nhiên đối với sự hủy diệt của con

người mà lão Vược là kẻ đại diện cho sự hủy diệt đó? Nếu lão không là thợ săn

thì đâu dẫn đến cảnh vợ đi tìm chồng để rồi bị hổ vồ. Lão đã săn đuổi muông

thú để mưu sự sống cho mình để rồi chính người thân yêu nhất của lão bị thú

dữ sát hại. Điều này phản ánh luật nhân quả của tự nhiên. Con người tàn hại tự

nhiên, tự nhiên đã đáp trả con người. Mối tương tác này sẽ tiếp tục diễn ra như

một vòng quay của cuộc sống, sự sinh tồn của con người miền núi? Cao Duy

Sơn đã đặt gián tiếp giải quyết câu hỏi này bằng hành động của bé Na. Bé Na

68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đã hóa giải cho sự thù hận giữa con người và giới tự nhiên. Việc người cha

không bắn chết con hổ con cho thấy sự thức tỉnh về mối quan hệ nhân quả giữa

con người và tự nhiên. Nếu tiếp tục như thế, đến bao giờ mới hết được thù hận?

Rõ ràng, nhà văn đã nhìn thấy và thấu hiểu mối quan hệ của con người

miền núi với thế giới tự nhiên là mối quan hệ phụ thuộc. Chỉ có điều phụ thuộc

để cộng sinh hay phụ thuộc để tận diệt cạnh tranh sinh tồn là hoàn toàn quyết

định bởi thái độ ứng xử của con người với tự nhiên.

Trong Người săn gấu, cốt truyện không đặt ra vấn đề cụ thể về sự cạnh

tranh sinh tồn giữa con người và tự nhiên nhưng cũng gián tiếp phản ánh mối

quan hệ giữa con người và tự nhiên.

Trước hết đó là một loạt sự kiện xoay quanh cuộc đời của Thim và cha

Thim - những người sống bằng nghề săn gấu. Tuy không có những tình tiết cho

thấy sự ân oán, thù hận giữa con người và tự nhiên, những quy luật cạnh tranh

sinh tồn vẫn được đề cập đến thông qua cuộc đối đầu không cân sức giữa cha

Thim và con gấu mẹ. Đó là một cuộc đối đầu không cân sức, một sống một

chết giữa con người và tự nhiên. Để bảo toàn được tính mạng của con mình,

cha Thim đã dùng mọi sức lực có thể để đẩy lùi con gấu và để giữ được mạng

sống cho lũ gấu con, gấu mẹ cũng dồn hết sức để chống trả kẻ thù. ”Người cha

đã đẩy lùi con thú bằng sức mạnh kì diệu nhưng ông đã không thoát ra được

những chiếc vuốt cong nhọn hoắt của nó, người và gấu đã cùng lao xuống đáy

vực hun hút” [35; tr.11].

Có thể nói, những truyện ngắn đề cập đến mối quan hệ tác động giữa

con người và tự nhiên trong sáng tác của Cao Duy Sơn là không nhiều, nhưng

thông qua đó tác giả đã bước đầu cảnh báo về sự không hòa hợp được giữa con

người và tự nhiên trong mối quan hệ cạnh tranh khốc liệt để mưu tồn sự sống.

Cốt truyện trong truyện ngắn Tượng trắng lại đưa người đọc đến với

không khí huyền thoại mang dáng dấp sử thi. Cốt truyện được triển khai trong

không gian giữa đất trời tự nhiên, trong lễ tiết thanh minh và thông qua lời kể

69

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

của một người già - bà nội. Kiểu cốt truyện này ta đã từng bắt gặp trong Rừng

xà nu của Nguyễn Trung Thành. Toàn bộ cốt truyện được triển khai trong một

không gian huyền ảo của sử thi với lời kể của già làng bập bùng bên ánh lửa

như giao hòa cùng trời đất, thiên nhiên.

Trước hết, trong tác phẩm Tượng trắng tác giả đặt cốt truyện trong một

bối cảnh tự nhiên để tôn thêm không khí linh thiêng cho câu chuyện kể về

những người đã khuất: ”Tháng ba, rét nàng Bân về cùng mưa phùn, thấm khí

lạnh vào những sườn núi cao ngất. Đá giá buốt và đục nhờ trong mây mù bao

phủ. Cái thứ mù lẫn nước là là bay thấp khiến mặt đất không sao hửng lên

được. Lối mòn dưới những chân núi kia, nếu không có từng tốp người chuyển

động trong sương mờ, sẽ khiến trí tưởng tượng con người thức dậy những câu

chuyện cổ, về một vùng sơn cước chỉ có loài yêu quái và ma quỷ náu mình”

[35; tr.112]. Trong không khí linh thiêng của ngày mở cửa mả mùng 3 tháng 3,

bên mâm cỗ cúng cạnh nấm mộ, bà nội đã kể lại cho con cháu mình nghe về

một nghĩa địa của làng Hủi - nơi không có ai thắp hương trong ngày thanh

minh này.

Nơi đó giờ chỉ còn lại ”những mỏm đá bị thời gian phủ lên lớp rêu mốc

thếch, giống như mặt người mang những bộ râu kì quái. Cái hình một ông già

rụng tai, cái thì một bà lão ngoẹo cổ lộ một bên mặt vẹt hoác. Có cái mang trên

bộ mặt tróc lở, hai lỗ mũi mòn mủn sát mắt. Mỗi mỏm một hình thù khác biệt,

lô nhô khắp vùng đồi hoang vắng” [35; tr.114]. Đó là dấu tích thời gian còn lại

của những thân phận bị xã hội loài người xa lánh vì mang trong mình căn bệnh

hủi. Họ đã trở về với rừng để tìm nơi ẩn náu cho cuộc đời mình.

Đây có thể coi là những yếu tố ngoài cốt truyện nhưng có giá trị quan

trọng làm sáng tỏ cốt truyện, phản ánh rõ hơn mối quan hệ khăng khít giữa con

người và tự nhiên. Điều này đã tạo nên một dấu ấn riêng trong việc xây dựng

cốt truyện của nhà văn Cao Duy Sơn.

70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Truyê ̣n ngắn Nơi đây không một bóng ngườ i la ̣i cuố n hú t chú ng ta bở i mô ̣t cố t chuyê ̣n ly kì: Mô ̣t ngườ i me ̣ đã sinh ra mô ̣t đứ a con ngườ i - khỉ “Cá i thân thể trần truồ ng đỏ hon hỏn đó , phủ một lớ p lông mà u và ng ướ t nhớ p

nhá p” [35, tr.71]. Truyện xoay quanh số phận của cậu bé mang hình hài khỉ nhưng tâm hồn người. Mặc dù bị người đời lãng quên, xua đuổi, cậu phải sống

cùng mẹ trong rừng sâu, nơi không một bóng người xuất hiện, chỉ có thế giới tự

nhiên bao la, nhưng trái tim nhân ái của Ò Lình là trái tim của một con người.

Ò Lình đã sẵn sàng lăn xả thân mình (dù toàn thân bị bỏng rát) vào đám cháy

để cứu những đứa trẻ thoát chết. Cuộc sống của Ò Lình và người mẹ bất hạnh

bình yên trong rừng sâu hơn 14 năm đã cho thấy sự che chở của tự nhiên đối

với con người. Rừng sâu không phải là chốn nguy hiểm mà chính nơi cuộc

sống của con người mới thực sự hiểm nguy. Qua đó, nhà văn muốn cảnh báo về

lối sống ích kỷ, tàn ác của con người đối với đồng loại mình.

Nhìn chung, kiểu cốt truyện phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự

nhiên trong truyện ngắn Cao Duy Sơn không phổ biến nhưng mang một dấu ấn

riêng. Yếu tố ngoài cốt truyện cũng góp phần quan trọng tạo nên một màu sắc

đặc biệt khi phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.

3.2. Nghệ thuật tạo dựng bối cảnh không gian

Có thể thấy, việc tồn tại của mỗi bản thể, ngay từ đầu đã gắn với cảm

thức về không gian. Khung cảnh môi trường không còn chỉ được coi là khung

nền để trên đó, nhân vật trung tâm là con người xuất hiện. Thực chất, con người

liên tục sống và tư duy về mình trong không gian, làm biến đổi và đồng thời,

phụ thuộc vào môi trường sống. Sự diễn giải về không gian sinh thái quy định

cách ứng xử của con người với thế giới tự nhiên. Tìm hiểu cách kiến tạo không

gian trong tác phẩm cũng có nghĩa là hướng đến tìm hiểu những quy ước văn

học, và cùng với nó, những giả định văn hóa về sự tồn tại của con người giữa

giới tự nhiên phi nhân được chú ý, xem xét.

Nếu truyện của Nguyễn Huy Thiệp hay Nguyễn Minh Châu có đề cập

đến không gian thôn dã như là môi trường sống của con người chan hòa với

thiên nhiên thì trong truyện ngắn Cao Duy Sơn tác giả lại đi sâu khai thác môi

trường không gian tự nhiên gắn với sinh hoạt và không gian hoang dã nguyên

71

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sơ mang đặc trưng miền núi.

3.2.1. Không gian hoang dã, nguyên sơ

Ý niệm về không gian hoang dã là lí tưởng về một tự nhiên thuần khiết

và nguyên sơ nhất, chưa bị làm cho ô uế bởi nền văn minh vật chất hay những

tác động đáng sợ từ xã hội loài người. Khác với khung cảnh đồng quê, cảnh

quan hoang dã không thống nhất mà có phần đối lập với văn minh đô thị.

3.2.1.1. Không gian hoang dã nguy hiểm đe dọa con người

Khác với thôn dã, không gian hoang dã không phải là thứ không gian đã

gánh chịu một quá trình biến đổi và thuần hóa bởi bàn tay con người. Nó

thường mang lại cho con người nỗi hoang mang hơn là trao cho chúng ta cảm

giác thư thái, vững chắc, yên bình. Con người càng tin rằng mình hiểu về

không gian thôn dã bao nhiêu, thì lại càng rợn ngợp trước cảnh quan hoang sơ

bấy nhiêu. Chính vì vậy, không gian hoang dã thường đem lại cảm giác nguy

hiểm, đe dọa cuộc sống con người.

Đó là không gian nơi Thim cùng cha vào rừng săn gấu. Ở đó con người

đối diện với nguy hiểm, một sống một chết với tự nhiên: ”Buổi sớm giá buốt

của mùa đông năm ấy khi con gà rừng gáy lần cuối cùng ông mặt trời lên thì

Thim theo gót cha đến cánh rừng xa nhất, dày rậm nhất. Hai người bám vào

vách đá lưng chừng núi gần như dựng đứng nhìn xuống bên dưới là vực sâu

hút đến chóng mặt. Phía trên đầu bỗng hiện ra một cửa hang cao bằng tầm

người đứng... Trước cửa hang một triền đá thoai thoải rộng bằng chiếc chiếu

nan. Một mùi tanh nồng từ trong hang bay ra...” [35; tr9-10]. Không gian đó

như báo hiệu trước một cuộc chiến không cân sức sẽ diễn ra giữa con người và

tự nhiên. Để bảo tồn cho những con gấu con mới đẻ, con gấu cái đã tấn công

quyết liệt cha con Thim. Và để mưu sinh, tồn tại được và bảo vệ đứa con trai

mới mười hai tuổi của mình cha Thim đã phải đẩy lùi con thú bằng một sức

mạnh kì diệu. Người đọc thấy rõ sự hiểm nguy ẩn chứa trong không gian hoang

72

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

dã của tự nhiên nơi miền sơn cước.

Hầu hết kiểu không gian này thường xuất hiện báo hiệu cho những hiểm

nguy đe dọa đến con người. Và trực tiếp là những người thợ săn, đối diện trực

tiếp với tự nhiên, tận diệt và hủy hoại tự nhiên. Chúng ta cũng bắt gặp kiểu

không gian này trong tác phẩm Cuộc báo thù cuối cùng: Một cảnh chiều

xuống đầy hoang sơ nhưng nhuốm màu chết chóc: ”Chiều tàn dần trong màu

núi tím sẫm. Tiếng ve rừng cất lên rền rĩ...” [35; tr.86]. Hoặc một không gian

hiện hữu sự hoang vắng, âm u đến rợn người báo trước một cái chết tang

thương đến đau đớn: ”Đỉnh đèo vắng ngắt, chỉ còn gió chiều đìu hiu thổi đến,

và tiếng âm ư... ầm ừ... từ hang núi Kiếm vọng về... Mặt đường chỉ còn những

vết máu loang lổ” [35; tr.87]. Không gian này dự báo cho Vược biết trước một

cái kết cục thảm khốc đối với người vợ ”không xinh nhưng tính tình hiền lành

lắm” vừa sinh cho lão được một đứa con mới hơn một tuổi. Và đây, đập vào

mắt lão Vược - một thợ săn kì cựu của vùng núi Kiếm một cảnh tượng rùng rợn

thê lương: ”Giữa bãi cỏ nhàu nát, xác Noọng nằm bất động, quần áo tơi tả,

dưới cổ một vết thủng sâu, máu đang rỉ. Khuôn mặt hầu như còn nguyên vẹn,

nhưng vẻ khiếp đảm vẫn còn đọng lại trong cặp mắt chưa khép” [35; tr.88].

Cái không gian đó mãi là nỗi đau đớn ám ảnh thôi thúc lão phải trả thù

bằng được cho vợ lão, cho con gái côi cút của lão và cho cả cuộc đời u uất đau

đớn của lão với ”những năm tháng nhọc nhằn săn đuổi, và những ngày âm

thầm nuôi con trong nỗi cô đơn triền miên” [35; tr.97].

Không chỉ đề cập đến không gian hoang dã nguy hiểm đe dọa với chính

những con người trực tiếp tác động đến tự nhiên. Kiểu không gian này còn

được Cao Duy Sơn khắc họa trong mối quan hệ với con người một cách gián

tiếp. Đó là không gian lúc rừng động ”Đã hơn năm ngày đêm những ngọn lửa

bắt đầu từ đâu đó đang liếm vào những khu rừng, thỉnh thoảng một cơn gió

thổi đến làm cái lưỡi đỏ máu cong tớn bốc cao lên những ngọn cây cao vút

những con thú to nhỏ từng bầy, từng bầy kéo nhau về những cánh rừng gần

bản. Những đám ngô, đám lúa nương như bị một trận mưa đá làm xơ xác gãy

73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nát. Trong bản có người đã gặp hổ, có người bị gấu tát lật cả da mặt. Không

khí căng thẳng trùm lên khắp nơi. Không ai dám ra cửa lúc trời nhá nhem”

[35; tr.12-13]. Giống như sự nổi giận của thiên nhiên, rừng động cho ta thấy

một không gian đầy đe dọa, ám ảnh và tác động đến cuộc sống bình yên của

con người. Phải chăng đó là những dự báo cho sự đối xử bất bình đẳng của con

người với tự nhiên mà Cao Duy Sơn muốn gửi gắm đến bạn đọc?

Hành trình của lão Vược (Cuộc báo thù cuối cùng) có thể coi là một

biểu tượng chuẩn mực cho cách kiến tạo mối quan hệ giữa con người với vùng

hoang dã. Từ một con người mang sẵn trong mình bản năng săn thú để mưu

sinh kiếm sống, cộng với sự hận thù thôi thúc nên ngay ở đầu tác phẩm lão đã

không thể thấu hiểu được âm thanh của giới tự nhiên hoang dã, chỉ thấy ”Tiếng

âm ư... ầm... ừ... từ hang núi Kiếm vọng về nghe như tiếng thổn thức kêu than”,

”âm thanh ấy nghe buồn lắm”[35; tr.77]. Cho đến cuối cùng khi mọi hận thù

được vứt bỏ, ”lần đầu tiên lão bỗng nhận ra - gần một kiếp người sống nơi này,

bạn với lão chỉ có tiếng kêu than của hang núi Kiếm. Nó sẽ còn rên rỉ cho đến

ngày vạn vật trên trái đất hóa thành bùn. Trên cao ấy chẳng bao giờ ngừng

gió” [35; tr.98]”. Ở đây chúng ta đã bắt gặp điểm tương đồng giữa Cao Duy

Sơn và Nguyễn Huy Thiệp. Hành trình của lão Vượt giống với con đường của

ông Diểu trong Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp) khi nhân vật chính có một

cuộc gặp gỡ với thế giới tự nhiên, để rồi cuối cùng trở về sau khi đã có những

trải nghiệm linh thiêng và hoàn toàn thay đổi. Lão Vược đã có những thay đổi

lớn lao trong cách nhìn thế giới hoang dã. Phải chăng bối cảnh không gian tự

nhiên hoang dã, nguy hiểm chỉ là một cách quan niệm khi con người đối đầu

với tự nhiên? Đó cũng là thông điệp mà Cao Duy Sơn muốn gửi gắm qua

những trang truyện thấm đẫm chất nhân văn của mình về môi trường tự nhiên

nơi miền núi.

3.2.1.2. Không gian hoang dã che chở con người

Trong cái nhìn của con người, thế giới thiên nhiên cũng được nhìn nhận

như một mái ấm chở che con người. Dường như sự đốn ngộ của con người về

74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sự nhỏ bé vô nghĩa của mình bao giờ cũng đi kèm với một cái nhìn “cao cả

hóa” (sublime) nhưng đậm tính hoang dã. Và cùng với nó là sự chiêm nghiệm

về những lầm lạc của văn hóa. Trong cách quan niệm như vậy, rõ ràng không

gian hoang dã “là một phản đề của tự nhiên, đối lập lại với nền văn minh phi tự

nhiên đã đánh mất linh hồn. Đó là nơi chốn của tự do mà trong đó chúng ta có

thể phục hồi cái phần bản thể thực sự của mình - những gì chúng ta đã đánh

mất và bị làm cho hư hỏng bởi chính đời sống nhân tạo của chúng ta”

(Cronon) [48, tr.7]. Trong các truyện ngắn của Cao Suy Sơn, kiểu không gian

này cũng được đề cập đến dù không phải là phổ biến.

Trong truyện ngắn Nơi đây không một bóng người, không gian của rừng

hủi hoang dã, đáng sợ nơi ngăn cách tự nhiên với thế giới con người - nơi

không một con người bình thường nào dám đặt chân đến. Nhưng đó lại là

không gian che chở cho mẹ con Ò Lình thoát khỏi những nghiệt ngã tàn độc mà

thế giới của con người mang đến. Chính vì vậy, để bảo toàn được mạng sống

cho đứa con trai bé bỏng nhưng dị dạng và đáng thương vừa mới lọt lòng của

mình, người đàn bà ấy đã phải chạy đến chốn hoang dã để trú ẩn: ”Tiếng ve

rừng ran lên thê thảm gọi màn đêm xuống thật nhanh. Giữa đại ngàn không

một lối đi, thấp thoáng một bóng phụ nữ, kín mít trong bộ quần áo chàm, tay

ôm chặt cái bọc trước ngực, đôi chân rã rời lê từng bước, đến gần một cửa

hang đang hiện ra trước mắt” [36; tr.75]. Chỉ vì mang một hình hài khác lạ

(khi sinh ra toàn thân cậu bé đã phủ một lớp lông vàng mượt như lông khỉ) mà

Ò Lình đã bị chính người cha đẻ chối bỏ và muốn hại chết. Rồi cả những dị

nghị, định kiến của xã hội con người khiến hai mẹ con chỉ có thể tìm về với tự

nhiên khi trốn vào rừng sâu nơi ”không một bóng người” để sống. ”Rừng hủi!

Khu rừng không một ai dám đặt chân đến. Những bí mật của nó từ thuở hồng

hoang vẫn được giữ kín bưng... Cũng chẳng biết khu rừng đó có hủi hay

không? Nhưng có một điều chắc chắn - những con vật đáng thương khi bị con

người săn đuổi cùng đường đều tìm cách thoát thân duy nhất là lao đến rừng

75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hủi, nương náu dưới cái bóng huyền bí, lạnh lùng của nó” [36; tr.80].

Có thể nói, chính khu rừng hoang dã, huyền bí, lạnh lùng, thậm chí là nỗi

kinh sợ đối với xã hội loài người thì lại trở thành nơi nương náu an toàn nhất

cho những số phận đáng thương và bi kịch. Hai mẹ con Ò Lình như những kẻ

bị săn đuổi đến cùng đường đã tìm được chỗ náu thân an toàn nhất nơi hoang

dã này. ”Ò Lình đã đẹp lên một cách rực rỡ, giữa đại ngàn không một bóng

người qua lại” [36; tr77].

Không gian rừng hủi đã trở thành không gian an toàn che chở mẹ con Ò

Lình. Nơi đó hoang dã nhưng yên bình và chỉ ở trong không gian đó con người

mới được an toàn. Ò Lình đã ra khỏi rừng hủi để đến với thế giới con người,

cứu những đứa trẻ khỏi đám cháy nhưng cũng vẫn bị con người xua đuổi. Chỉ

trở về với không gian của rừng hủi, Ò Lình mới tìm thấy sự bình yên và tình

yêu thương, hạnh phúc ấm áp - nơi đó ”nó là người bạn, là ông chủ của cỏ cây

và muông thú”. Đặc biệt đó là nơi có người mẹ yêu quý đã hi sinh cả tuổi xuân

và cuộc sống của một con người cho Ò Lình và lúc nào cũng vỗ về, đón đợi nó

trở về.

Ò Lình cùng mẹ đã bi ̣ xua đuổ i ra khỏ i xã hô ̣i loài ngườ i, số ng vất vả cô

đơn nơi rừ ng thiêng nướ c đô ̣c. Rõ ràng rừ ng đã trở thành nơi chố n bình yên cho mẹ con Ò Lình tìm đến để đươ ̣c nương náu để đươ ̣c che chở , để quên đi những

toan tính, những xô bồ giả dố i củ a cuô ̣c số ng thườ ng nhâ ̣t. “Nhưng mườ i bốn

năm qua chi ̣ đã tách biệt khỏi con ngườ i, liê ̣u cuộc sống bên ngoài kia có thay

đổi chú t nà o không ? Hay vẫn thế ? Chi ̣ vẫn là con thú lạ mắ t giữa đá m ngườ i

đó ”[36, tr.91]. Cái hoang sơ, cái tự nhiên, cái trong lo ̣c của rừ ng khiến cho lò ng

ngườ i ta tĩnh la ̣i, đươ ̣c gột rử a. Rừ ng đã mang đến cho con người những điều con người không thể tìm thấy trong xã hội mình. Để rồ i khi đươ ̣c hoà mình vào thiên nhiên hoang dã con ngườ i như tìm la ̣i được chính mình.

Trong truyện ngắn Người săn gấu, nhân vật chính - chàng trai săn gấu -

tên Thim tưởng như đã chết dưới tay lũ sai nhân nhà Sài Vẳn bởi những đòn roi

76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

man dợ cùng những túi muối chà xát và da thịt khiến ”cảm giác bỏng rát như

nằm trên ngọn lửa cháy đến tận gan ruột, Thim quằn quại ngất lịm”. Nhưng

nhờ có trận mưa như trút của tự nhiên đã ”rửa sạch những hạt muối mặn chát

trên mình chàng trai săn gấu như muốn rửa hết nỗi oan trái trong lòng” [35;

tr.24], cứu Thim thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Trong không gian tự nhiên

hoang dã giữa đại ngàn mênh mông, chính tự nhiên đã che chở cứu giúp Thim

khi bị con người săn đuổi và hãm hại.

Ngoài ra, chúng ta còn có thể thấy những tâm trạng con người khi đau

khổ hay gặp bất hạnh luôn muốn trở về với bà mẹ tự nhiên (Ngôi nhà xưa bên

suối, Thằng Hoán, Mùa én gọi bầy...). Họ muốn thả hồn mình vào tự nhiên để

về với bản thể của mình sau những lầm lạc của cuộc đời. Khi đó không gian

hoang dã cũng thể hiện rõ ý nghĩa che chở, vỗ về.

3.2.2. Không gian tự nhiên gắn liền với sinh hoạt của người miền núi

Trong truyện ngắn Người săn gấu, không gian sinh hoạt của người miền

núi gắn liền với tự nhiên. Đó là hình ảnh con đường mòn - nơi người miền núi

thường đi qua - được bao bọc bởi vực sông, vách núi: ”Con đường đá rộng hai

bước chân nằm nép bên sườn núi. Phía bên phải là vách núi dựng đứng nhìn

xuống mặt sông Gâm. Chỗ ngoặt của con sông dưới chân núi, dòng nước lao

xuống dừng lại thăm thẳm xanh ngắt gây cảm giác rờn rợn lạnh lẽo. Mặt trời

như bị những chàng núi khổng lồ vít xuống sau lưng, nhưng vẫn cố nhô lên rọi

xuống mặt sông và con đường những luồng sáng vàng nhạt, thẳng tắp hình rẻ

quạt” [35; tr7]. Chúng ta thấy có hình ảnh của con đường thể hiện không gian

sinh hoạt của con người, nhưng đan xen với không gian đó còn là không gian tự

nhiên. Điều này được thể hiện rõ qua sự xuất hiện của các hình ảnh: sông Gâm,

sườn núi, vách núi, chân núi, dòng nước, mặt trời, chàng núi, mặt sông, luồng

sáng... Qua việc miêu tả không gian như vậy, nhà văn đã cho thấy cuộc sống

vất vả truân chuyên của con người nơi miền sơn cước này. Với họ sống và tồn

tại buộc phải gắn liền với không gian tự nhiên.

Không gian sống của người miền núi luôn được bao quanh bởi môi

77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trường tự nhiên. Đó là ngôi nhà của thầy Hạc (Ngôi nhà xưa bên suối) nằm

bên con suối Cun ”hiền hòa chảy” ”có vườn rau, có hàng rào nan tre đan hình

quả trám, trước cửa trông ra con suối Cun quanh năm rì rào chảy, khiến cho

không gian nơi đây mang vẻ thanh bình” [37; tr.8]. Không gian này cũng phần

nào hé lộ lối sống thanh bạch và giản dị của con người. Thầy Hạc đã hi sinh cả

một đời cho vùng đất nơi đây. Từ Hà Nội thầy đã trở thành người của đất Mục

Mã khi gắn bó với nghề dạy học suốt cả cuộc đời trên mảnh đất chỉ có rừng và

núi này. Không gian hài hòa giữa môi trường tự nhiên phản chiếu tâm hồn

thánh thiện của một người thầy hết lòng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục nơi

miền núi xa xôi.

Phần lớn trong truyện ngắn của mình, Cao Duy Sơn luôn có ý thức xây

dựng một không gian hòa hợp giữa sinh hoạt của con người và tự nhiên. Không

gian ấy gắn với tự nhiên một cách hài hòa. Dường như con người nương tựa

vào thiên nhiên để sống. Tuy nhiên cũng có những tác phẩm không gian sinh

hoạt của con người bị tự nhiên đe dọa. Đó là không gian có ngôi nhà nằm tận

trong rừng của lão Vược (Cuộc báo thù cuối cùng). Đây là ngôi nhà duy nhất

nằm nơi hoang vu trong chốn rừng sâu. Vì muốn trả thù cho vợ nên lão đã ở lại

ngôi nhà này cùng với bé Na - con gái lão để tìm cơ hội thanh toán món nợ với

con hổ bị mất một tai. ”Ngôi nhà sàn bốn mặt thưng gỗ nghiến, cứng cáp như

một chiếc hộp bằng sắt, nằm lẻ loi dưới chân núi” [35; tr.77]. Và cứ mỗi lần

vào rừng săn bắn lão Vược lại phải khóa chặt cửa để tránh những bất trắc, nguy

hiếm mà thú rừng có thể gây ra cho con gái mình.

3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ

3.3.1. Sử dụng hình ảnh tự nhiên trong ngôn ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật

Trong một số truyện ngắn, Cao Duy Sơn đã sử dụng những yếu tố của tự

nhiên như: cây cối, sông, suối, mưa, gió, các loài động vật, thực vật... để miêu

tả hình dáng và hành động của nhân vật.

Chẳng hạn miêu tả ngoại hình của lão lý trưởng - bố của Khàng (Dưới

78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

chân núi Nục Vèn), nhà văn viết: ”Pá nó đang nằm co quắp như con tôm trên

cái giường nghiến đen bóng, miệng ngậm tẩu, má tóp lại. Bỗng nó để ý đến cái

má tóp lại của pá nó có những vết sước vẫn còn đọng những vệt máu li ti như

những con bọ gà, bọ chó bám vào. Trên cổ áo lão, những chiếc khuy ngang đứt

cuống vương trong lỗ khuyết như mỏ những con chim sẻ cặp con sâu móc”

[36; tr.196]. Với việc sử dụng các từ ngữ so sánh trên chất liệu hình ảnh của tự

nhiên như: con tôm, con bọ chó, bọ gà, chim sẻ cặp sâu móc... vừa cho thấy

thật cụ thể những dấu tích tội lỗi mà lão đã gây ra cho cô gái câm, đồng thời

cũng gián tiếp biểu hiện sự đê tiện, nhỏ nhen của lão lý trưởng khi đang tâm

hãm hiếp một cô gái vừa là người ở lại vừa là con dâu của lão.

Và đây là hình dáng của Khàng khi lão mưu mô toan tính chống phá

cách mạng: ”Chiều nay sau vài tuần thuốc phiện, Khàng ngồi dậy, hai tay bó

gối. Cái thân thể to như con gấu trên rừng trước đây nay chỉ là bộ xương có

lớp da xanh bủng, cáu bẩn dính vào. Lão nghiện nặng quá rồi, cổ đã rụt lại

như cổ con ba ba dưới sông Quy. Đôi mắt của lão lim dim nhìn cái lỗ thủng

trên vách” [36; tr.200]. Cách so sánh sức vóc của lão Khàng thời còn trẻ như

con gấu cho thấy lão rất khỏe và đầy uy lực, đáng sợ. Nhưng khi nhà văn so

sánh với con ba ba người đọc lại thấy một chân dung khác. Đó là kẻ mất hết

uy quyền, bệ rạc, sợ sệt và sống khép nép, thu mình lại. Như vậy, qua cách sử

dụng các hình ảnh của tự nhiên, nhà văn đã làm nổi bật chân dung của lão

Khàng - một kẻ cơ hội, đang chờ đợi thời cơ để chống phá cuộc sống mới của

dân bản.

Rõ ràng, khi miêu tả hình dáng hay điệu bộ của con người, Cao Duy Sơn

đã sử dụng những hình ảnh rất sinh động gắn liền với thế giới tự nhiên, có thể

là cây cỏ, cũng có khi là các loài vật trong rừng. Qua đó nhằm làm nổi bật tính

cách hoặc bản chất của nhân vật. Chúng ta còn bắt gặp cách miêu tả này trong

việc khắc họa chân dung nhiều nhân vật khác:

- Nó ngang như cành mác púp, nghịch như con khỉ độc trên rừng, dữ

79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

như con hổ đói [36; tr.195].

- Cổ họng gã như bị tọng gỗ cứng nhắc, tai ù ù như có gió thổi [36.

tr.192].

- Cô gái có đôi mắt đẹp như con chim lửa, cổ trắng như ruột cây chuối

rừng, môi đỏ như cánh hoa gạo [36; tr.196].

Khi thấy Khin phản đối kế hoạch của mình dụ dỗ dân làng rời bản đi xa,

lão Khàng đã phản ứng lại thằng con. Lão không tin vào điều con nói nên đã

cho rằng Khin hiểu nhầm. Thông qua việc so sánh với các hình ảnh của tự

nhiên, lão Khàng ám chỉ con mình ngu muội không hiểu biết về thời cuộc: ”Cái

tai mày không bị con ruồi độc chui vào, cái mắt mày không bị nhện đái chứ?”

[36; tr.207].

Khi miêu tả sự bất lực của một cô gái hiền lành, lại bị câm bẩm sinh bị

cướp mất đời thiếu nữ, hình ảnh của hoa, bão, cây thuốc phiện... như tô đậm

thêm thân phận đáng thương của nhân vật: ”Như cánh hoa trước bão, cô gái

quằn quại chống cự một cách yếu ớt trong cánh tay cứng như cây gỗ nghiến

của Khàng. Một loạt cây thuốc phiện gãy gục, những cánh hoa nhiều màu sắc

rụng xuống giập nát” [36; tr.196].

Không chỉ đơn giản là các hình ảnh so sánh gần gũi, quen thuộc với

sinh hoạt của người dân miền núi, mà nó chủ yếu là các hình ảnh của tự nhiên.

Chẳng hạn như: “Tuổi con gái đi nhanh như trăng qua núi chẳng mấy mà

héo” (Song sinh); “đầu óc trở nên trơ đặc như lõi nghiến”; “em thanh sạch

như nước Bó Slao”; “Con dúi làm hang trong đất còn bị moi lên làm chả

nướng, huống chi con người kềnh càng đi lại ở cái phố huyện nhỏ như cái nón

mo” (Những đám mây hình người)….Điều này góp phần làm nổi bật mối

quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sáng tác của Cao Duy Sơn.

Nhìn chung, Cao Duy Sơn đã sử dụng khá đắc địa thủ pháp so sánh

trong miêu tả chân dung, ngoại hình nhân vật. Tuy nhiên, điểm đặc biệt trong

phương thức so sánh của nhà văn này là ông đã sử dụng nhiều yếu tố tự nhiên

80

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

để so sánh. Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết

giữa con người và tự nhiên dưới góc nhìn phê bình sinh thái trong truyện ngắn

của Cao Duy Sơn.

3.3.2. Sử dụng hình ảnh tự nhiên trong ngôn ngữ khắc họa tâm lý nhân vật

Khi xây dựng nhân vật, việc miêu tả tâm lý luôn là một phương diện

được các nhà văn quan tâm. Trong các truyện ngắn của Cao Duy Sơn, nhà văn

đã sử dụng khá nhiều yếu tố tự nhiên khi khắc họa tâm lý nhân vật.

Để miêu tả tâm trạng bất ngờ của nhân vật, Cao Duy Sơn đã sử dụng các

yếu tố như: sấm, sét, núi lở, đá lăn... nhằm tạo ra ấn tượng về tâm lý bất an của

nhân vật: ”Khàng giật mình, đầu nó bỗng có nhiều tiếng ông sấm, bà sét đuổi

đánh nhau” [36; tr.197]. Khi trở về nhà sau một buổi ”mải mê đi cướp gái

trong các đám sli lượn ở bản khác”, Khàng bỗng bắt gặp cảnh tượng đứa con

khóc khản đặc tiếng mà không có ai chăm sóc. Nhìn sang thấy những vết tích

của một cuộc vật lộn còn lại trên khuôn mặt và quần áo cha nó, nó giật mình

hiểu ra nguyên nhân sự việc.

Hoặc, khi miêu tả tâm trạng Khin nhìn thấy Cạ - người con gái mà nó

thầm yêu đi vào rừng cùng Thào, tác giả viết: ”Nó thấy như có con rết bò trên

sống lưng. Tai ù ù những tiếng núi đá lở...” [36; tr204]. Đó là tâm trạng bực

bội, bất ngờ, không tin vào những điều đang nhìn thấy của nhân vật.

Đôi khi, sự bất ngờ của nhân vật cũng được khắc họa một cách sâu sắc

thông qua miêu tả tâm trạng bằng việc so sánh với các yếu tố tự nhiên. Điều

này ta có thể nhận thấy trong tâm trạng của chàng trai ở làng Hủi (Tượng

trắng): ”Mắt chàng trai như có đám mây che khuất. Giọng chàng bỗng nhiên

nghe như con nước gặp bờ chắn. Nghe đứt nối thì thầm như dòng nước lượn

dưới chân mình” [35; tr.123]. Chàng tha thiết yêu cô gái con của người đánh xe

ngựa, nhưng cha cô đã quyết định đưa cô rời khỏi làng đến một nơi ”có cuộc

sống tốt đẹp hơn”, bởi ”người mà con đem lòng yêu thương không nằm trong

sự chờ đợi của ta” [35; tr.122]. Cô gái đến để gặp chàng trai lần cuối cùng

trước khi ra đi. Với các hình ảnh thiên nhiên được đem ra so sánh, tâm trạng

81

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bối rối, buồn đau, u sầu và đầy nuối tiếc xót xa của nhân vật đã được bộc lộ rõ.

Tình yêu chàng dành cho cô gái thật nhiều nhưng lại không thể thổ lộ và

giữ nàng ở bên mình. Bởi chàng chỉ là kẻ hành khất lại đang cưu mang cả một

làng hủi - những người bị thế giới loài người xua đuổi không biết đi đâu, dắt

díu nhau vào rừng để sống. Tình yêu thầm kín ấy dồn đọng trong trái tim chàng

mà không thể chia sẻ cùng ai. Nhà văn đã sử dụng rất tinh tế hình ảnh của đám

mây che khuất, con nước gặp bờ chắn hay sự thì thầm của dòng nước để diễn

tả trạng thái cảm xúc và tình yêu chàng dành cho cô gái nay đã bị ngăn trở.

Khi miêu tả tâm trạng không thể chia sẻ của nhân vật, nhà văn đã khắc

họa: ”Nó như ngậm phải cái lá đắng” [36; tr.200]. Hoặc tâm trạng khát khao

được gặp người yêu của Dình (Hoa bay cuối trời) được nhà văn diễn tả qua

hình ảnh thật lãng mạn: ”Khơ ơi, kể từ nay một ngày không nhìn thấy anh là

một ngày thế gian này không có nắng, không có gió, rừng không có hoa nở và

không có cả tiếng chim hót... anh hãy sớm trở về đây để em được nhìn thấy

mặt. Trên đời này em chỉ biết nhớ thương có một Khơ thôi...” [37; tr.112]. So

sánh nỗi nhớ với những hình ảnh của tự nhiên để từ đó tô đậm thêm sự yêu

thương gắn bó, coi trọng người yêu của cô gái. Chàng trai quan trọng với cô

cũng giống như các yếu tố tự nhiên cần thiết để duy trì sự sống của con người.

Nếu thiếu vắng nó, sự sống không còn nữa. Điều này đã tô đậm tình yêu mãnh

liệt Dình đã dành cho Khơ.

Trong truyện ngắn Âm vang vong hồn, nhà văn sử dụng tinh tế các hình

ảnh của tự nhiên trong miêu tả ngoại hình của nhân vật để thông qua đó nói lên

suy nghĩ, tâm trạng của bà Ban đối với lão Khuề: ”Giờ tôi như cái cây cho quả,

già quá rồi, quả cũng đã khô héo, như cái trăng trên trời muộn quá rồi không

còn tròn nữa. Ngày ông không dám cướp lấy tôi, như trái cây chín mọng mà

không ăn, như cái trăng lúc còn tròn mà không ngắm, giờ quả chỉ còn xơ, trăng

giờ đã héo, ăn không được nhìn chỉ buồn” [35; tr.56].

Cả một thời trai trẻ lão Khuề có tình cảm với bà Ban nhưng không dám

82

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thổ lộ bởi sự hèn nhát. Lão sợ lão Lử và lão Ky đánh, hăm dọa nên đành chôn

chặt mối tình với người con gái mình thầm yêu. Đến lúc về già, khi hai kẻ tình

địch đã chết, lão mới tỏ tấm lòng với bà Ban. Những hình ảnh so sánh giản dị

nhưng đầy ấn tượng (cây cho quả, trăng trên trời, quả giờ đã khô, trăng giờ đã

héo) đã bộc lộ rõ tâm trạng bà Ban. Bà đã dâng trọn tình yêu cho chàng trai trẻ

của ba mươi năm về trước, nhưng anh ta hèn nhát không dám khẳng định tình

yêu của mình. Giờ đã lỡ dở cả một đời, tuổi xuân đã qua, tình yêu không còn

trọn vẹn, đủ đầy nữa. Lời từ chối của bà Ban cũng là lời giãi bày, ngậm ngùi

đầy đau đớn, luyến tiếc xót xa về một tình yêu không trọn vẹn chỉ vì sự hèn

nhát của con người.

Trong các truyện ngắn của Cao Duy Sơn chúng ta cũng bắt gặp khá

nhiều yếu tố tự nhiên như lời dự báo trước cho những số phận của nhân vật. Đó

là số phận của Líu (Góc trời Tây có cơn mưa đá) trong bầu trời đầy giông gió

và mưa đá: ”Gió bất ngờ ào đến, rừng cây vặn mình như vũ điệu của loài quỷ.

Lá vàng bứt khỏi ngọn hệt như những con thuyền bay loạn trên bầu trời tím

bầm” [38; tr.5]. Và điều gì sẽ chờ đợi nàng ở phía trước khi nàng muốn đến với

người mình yêu mà không thể bởi những ngăn trở nghiệt ngã của mẹ chồng và

đôi mắt ám ảnh của cậu con trai? Là hạnh phúc lứa đôi viên mãn hay ”Dông

nổi thành cuộn đè những rặng tre rạp đất. Những hạt mưa đầu tiên bắt đầu trút

ào ào. Không gian bị nhấn chìm trong mưa gió”? Các yếu tố tự nhiên như dự

báo trước số phận không bình yên của nhân vật trước những trói buộc của lệ

tục truyền thống.

Dưới góc nhìn phê bình sinh thái, các hoạt động, ngoại hình hay tâm

trạng của con người đều hiện lên gắn bó với các yếu tố tự nhiên và chủ yếu là

được so sánh trong mối quan hệ tương đồng với tự nhiên. Thông qua các hình

ảnh của tự nhiên, nhà văn làm nổi rõ chân dung và tâm trạng của nhân vật.

Với cách miêu tả này, sáng tác của Cao Duy Sơn đã mang một màu sắc mới,

83

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đậm chất miền núi.

Cũng giống như nhiều nhà văn dân tộc thiểu số khác, Cao Duy Sơn

không chỉ thông qua con đường được đào tạo chính thức, mà còn tự học thêm

rất nhiều. Đặc biệt vốn tri thức của nhà văn ngày càng dầy dặn chính là do tác

giả biết khai thác vốn văn hoá dân tộc được cộng đồng, họ tộc và môi trường

sống lưu giữ và truyền nhập. Vốn hiểu biết văn hoá, văn học dân gian phong

phú đã chắp cánh cho sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số thêm bay bổng,

lãng mạn. Chính vì vậy, ngôn ngữ trong truyện ngắn của nhà văn Tày Cao Duy

Sơn nằm trong một hệ thống văn hoá, ngôn ngữ thấm đẫm kiểu tư duy miền núi

mang đậm hơi thở truyền thống dân tộc Tày - một dân tộc có lối sống hài hòa,

gắn bó cùng tự nhiên.

Tiểu kết chương 3

Dưới góc nhìn phê bình sinh thái, truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã có

nhiều yếu tố mới mẻ trong việc xây dựng cốt truyện, phản ánh bối cảnh không

gian và sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật. Với việc xây dựng một cốt truyện mang

nhiều yếu tố ngoài cốt truyện phản ánh mối quan hệ tác động giữa con người và

tự nhiên, nhà văn Cao Duy Sơn đã thể hiện thành công những tác động nhiều

chiều của con người với tự nhiên. Bối cảnh không gian góp phần đắc lực cho

việc thể hiện quan hệ giữa con người và tự nhiên thông qua các kiểu không

gian hoang dã, không gian hòa hợp với cuộc sống con người. Ngôn ngữ nghệ

thuật sử dụng nhiều yếu tố, hình ảnh thế giới tự nhiên trong việc miêu tả so

84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sánh để làm nổi bật chân dung và tâm hồn, tính cách nhân vật.

KẾT LUẬN

1. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn phê bình sinh thái đã được đề cập đến

trên thế giới những năm 70 của thế kỷ XX. Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu

theo xu hướng này đối với sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh

Châu… Xu hướng nghiên cứu này đã khẳng định những ưu điểm nhất định khi

tìm hiểu văn học trong mối quan hệ với môi trường sinh thái và đặc biệt chú ý tới

mối quan hệ tác động hai chiều giữa con người và giới tự nhiên. Truyện ngắn của

Cao Duy Sơn đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ, với nghiên cứu từ góc nhìn phê

bình sinh thái, nhiều giá trị mới mẻ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn sẽ được

khẳng định. Từ đó cho thấy những đóng góp của nhà văn cho dòng chảy văn học

dân tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung.

2. Đúng như nhà thơ Hữu Thỉnh đã nhâ ̣n xét về truyê ̣n ngắn củ a Cao

Duy Sơn: ”Cao Duy Sơn đem đến cho ngườ i đọc mảng sống đậm đặc, tươi

sáng về những con người miền nú i, vừ a cổ kính vừ a hiê ̣n đại mộc mạc, chân

chất. Không để đá nh mất mình trong những hoàn cảnh é o le đau đớ n. Vớ i bú t

pháp không khoa trương, không màu mè Cao Duy Sơn đã dựng lên một loạt

chân dung với những đườ ng né t, góc cạnh riêng biê ̣t nhưng rất đỗi hồ n nhiên,

dung di ̣, tạo nên sứ c hú t vớ i ngườ i đọc”. Có thể nói rằng Cao Duy Sơn đã

truyền tải được những ý tưở ng sâu sắc và nhân văn về mố i quan hê ̣ giữa con

ngườ i và tự nhiên qua những truyê ̣n ngắn củ a mình.

Ở các tác phẩm củ a nhà văn Tày này, chất văn hoá truyền thố ng đậm như

mô ̣t dò ng chảy ẩn ngầm, trở thành ha ̣t nhân chi phố i, quyết đi ̣nh cái nhìn củ a

ông về thiên nhiên. Điều này thể hiê ̣n quá trình nhâ ̣n thứ c về tự nhiên. Nhà văn

đã miêu tả nó như mô ̣t cách để con ngườ i chìm đắ m vào trong đó mà hưở ng thu ̣

cái hương say củ a tự nhiên và dành thờ i gian chiêm ngưỡng về cuô ̣c số ng, để

85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

xua đi cái oi bứ c củ a sự náo nhiê ̣t, ngô ̣t nga ̣t mà cuô ̣c số ng đô thị, đời thường

bon chen mang la ̣i. Chú ng thể hiê ̣n mố i quan hê ̣ thố ng nhất giữa con ngườ i vớ i

thiên nhiên trong truyền thố ng văn hoá, triết lý sâu xa củ a ngườ i phương Đông

và sự xú c đô ̣ng trướ c tình cảm gắn bó thân thiết giữa con ngườ i vớ i thiên nhiên

của một tâm hồn gắn bó với núi rừng.

3. Thông qua việc phản ánh mối quan hệ tác động qua lại giữa con người

và thiên nhiên trong cái nhìn hài hòa gắn bó, tương đồng, so sánh hay nhân quả

các truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã thể hiện rất rõ một quan niệm: Con ngườ i

cần có thái độ và hành vi đúng mực trong mối quan hê ̣ vớ i tự nhiên. Cần nhâ ̣n

thức đúng đắn về vai trò củ a con người trong mố i quan hê ̣ ấy. Con ngườ i chinh

phục tự nhiên không có có nghĩa là đươ ̣c phép can thiê ̣p thô ba ̣o vào bản chất

tự nhiên củ a nó. Không được làm mất đi sự cân bằng và ổ n đi ̣nh củ a tự nhiên,

chỉ có như vậy con người và tự nhiên mớ i có thể chung số ng hoà hơ ̣p. Con

người tiến bộ đáng lẽ phải tôn tro ̣ng tự nhiên nhưng ho ̣ la ̣i đang can thiê ̣p quá

thô ba ̣o vào tự nhiên. Cao Duy Sơn đã nhìn thấu những mặt trái củ a hiê ̣n thực

trong đời sống đô thị hôm nay. Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần nhâ ̣n thứ c sâu sắc

mối quan hê ̣ giữa con ngườ i vớ i môi trườ ng tự nhiên. Không chỉ xem tự nhiên

biểu hiện như thế nào, chú ng ta cò n phải phân tích tất cả các nhân tố văn hoá xã

hô ̣i quyết đi ̣nh thái đô ̣ đối đãi của con ngườ i đố i vớ i tự nhiên và những hành vi

của con người đối với sự tồ n ta ̣i trong môi trườ ng tự nhiên. Qua đó hình thành

những thái độ ứ ng xử đú ng đắn, có văn hoá vớ i môi trường tự nhiên. Đó chính là

những thông điệp mà nhà văn Cao Duy Sơn đã gửi gắm đến chúng ta thông qua

các truyện ngắn của mình.

Bên cạnh đó, Cao Duy Sơn muố n bày tỏ và đồ ng thờ i dự báo trướ c thực

tra ̣ng hiê ̣n nay khi tự nhiên đang dần ca ̣n kiê ̣t tài nguyên bở i bàn tay khai thác

bừ a bãi củ a con ngườ i. Cái nhìn và tư tưở ng củ a tác giả về mô ̣t vấn đề mang

86

tính thờ i sự củ a toàn cầu hết sứ c tinh tế: Sự trừ ng pha ̣t củ a tự nhiên đố i vớ i con

ngườ i vô cù ng nghiêm khắc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Lê Nin đã khẳng đi ̣nh: Con người hoà hơ ̣p với tự nhiên thì sẽ là đô ̣ng lực

to lớn thú c đẩy kinh tế xã hô ̣i phát triển. Nếu con ngườ i hủ i hoa ̣i làm tổn ha ̣i tớ i

khả năng tự điều chỉnh củ a các hê ̣ thố ng tự nhiên thì cũng là làm ha ̣i đến chính

cuô ̣c số ng của mình. Triết ho ̣c Mác - Lê Nin không những khẳng đi ̣nh tính tất

yếu phải đảm bảo sự thống nhất hài hoà giữa con ngườ i và tự nhiên trong quá

trình phát triển mà cò n chỉ ra vai trò củ a con người trong viê ̣c đảm bảo, duy trì

sự thống nhất hài hoà ấy. Quan điểm này hoàn toàn tương đồ ng vớ i những điều

mà nhà văn Cao Duy Sơn muố n bày tỏ trong tác phẩm củ a mình.

4. Mỗi tác giả mang những phong cách riêng lại có những cách sáng tạo

riêng khi cầm bút tuỳ thuộc vào vốn văn hoá mà họ thụ hưởng. Nếu như truyện

ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu cũng đề cập đến mối quan hệ

giữa tự nhiên và con người nhưng mang màu sắc của con người đô thị hay thế

giới tự nhiên vùng thôn dã thì truyện ngắn của Cao Duy Sơn lại có cách phản

ánh tự nhiên và con người đậm màu sắc miền núi và ảnh hưởng văn hóa Tày.

Điều này được thể hiện trong cách xây dựng cốt truyện phản ánh sinh động

cuộc sống con người miền núi phụ thuộc tự nhiên, sử dụng nhiều yếu tố ngoài

cốt truyện mang không khí linh thiêng huyền bí, đậm chất văn hóa Tày. Cách

tạo dựng bối cảnh không gian mang đặc trưng văn hóa miền núi với không gian

hoang dã nguyên sơ đầy bí ẩn, hùng vĩ, không gian tự nhiên gắn bó che chở

cuộc sống con người. Đặc biệt ngôn ngữ sử dụng phổ biến lối so sánh trong đó

mã ngôn ngữ tự nhiên với các hình ảnh về cỏ cây, muôn thú, các hiện tượng tự

nhiên được sử dụng hiệu quả để khắc họa nhân vật trong mối tương quan với

thế giới tự nhiên. Tất cả những phản ánh trên cho thấy, trong truyện ngắn Cao

Duy Sơn con người có mối quan hệ chặt chẽ với tự nhiên. Tự nhiên là một phần

sống không thể tách biệt đối với con người miền núi.

5. Nghiên cứu khoa học không chỉ là sự tiếp nối và kế thừa mà còn là

nhưng khám phá về những điều mới mẻ. Với hướng nghiên cứu văn học tự góc

87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhìn phê bình sinh thái, mặc dù được kế thừa lý luận từ những người đi trước

nhưng đây là công trình đầu tiên chúng tôi áp dụng vào nghiên cứu sáng tác của

một nhà văn dân tộc thiểu số. Đây là một thử thách bởi chưa có nhiều nghiên

cứu theo xu hướng này đối với văn học dân tộc thiểu số nói chung và sáng tác

của Cao Duy Sơn nói riêng. Chính vì vậy, luận văn cũng không tránh khỏi

những thiếu sót nhất định. Hi vọng chúng tôi sẽ bổ khuyết những vấn đề này

trong những công trình tiếp theo khi tìm hiểu sâu rộng hơn về tiểu thuyết của

88

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Cao Duy Sơn hoặc sáng tác của các nhà văn Tày từ góc nhìn phê bình sinh thái.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân, (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB đại học quốc gia,

Hà Nội 1999.

2. Nông Quố c Chấn (chủ biên), (2007), Tuyển tập văn học dân tộc và miền

nú i (2 tâ ̣p) NXB Giáo dục, Hà Nô ̣i.

3. Nguyễn Minh Châu (1998), Chiếc thuyền ngoà i xa, Tập truyê ̣n ngắn,

NXB tác phẩm mớ i.

4. Nguyễn Đăng Điệp, (2014), Thơ mới từ gó c nhìn sinh thá i học văn hoá , in trong cuốn: Thơ Viê ̣t Nam hiê ̣n đại tiến trình và hiê ̣n tượng, NXB Văn học, 2014.

5. Đỗ Đứ c (1998), "Ban mai có mô ̣t gio ̣t sương", Báo văn nghê ̣, số 5. 6. Erwin Panefsky, The History of Art as a Humaristic Discipline (1940), in

Meaning in the Visual Arts, Garden City, N.Y 1995, p. 1-25.

7. Evelyne Grorsman, Tính phi nhân hiện đa ̣i (Nỗi sơ ̣ tư duy củ a thờ i đương đa ̣i: Viết và tính phi nhân), Nguyễn Thị Từ Huy (chuyển ngữ), {phebinhvanhoc.com.vn}

8. Cao Thị Hảo (2011), "Phác thảo diê ̣n mạo văn xuôi dân tô ̣c thiểu số Viê ̣t Nam hiê ̣n đa ̣i", Tạp chí nghiên cứ u Văn học, số 10 (476) (tháng 10/2011) Tr 33, 43.

9. Cao Thi ̣ Hảo (2014), "Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyê ̣n ngắn Cao Duy

Sơn", Tạp chí Văn hoá Nghê ̣ thuật, số 6/2014.

10. Chu Thị Hằng (2008), "Cả đời tôi chỉ theo đuổi đề tài về người miền núi",

Báo văn nghệ số 20/2008.

11. Vi Hồng, (1993), Tháng năm biết nói, NXB văn hóa dân tộc Hà Nội 12. Đỗ Văn Hiểu, Phê bình sinh thái, Khuynh hướ ng nghiên cứ u văn ho ̣c

mang tính cách tân, www.Tapchisonghuong.com.vn

13. Đỗ Văn Hiếu, Phê bình sinh thái, Cô ̣i nguồ n và sự phát triển,

www.dovanhieu.wordprece.com.

89

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

14. G.N.Pospelov, (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 2. NXB giáo dục.

15. Karen Thornber, Những tương lai của phê bình sinh thái và văn ho ̣c, Hải

Ngo ̣c (di ̣ch), huutn1979.wordpress.com

16. Sông Lam, (2008), Cao Duy Sơn giọng văn nhẹ nhàng mà sắc bén, báo

dân tộc và phát triển số 15/2008.

17. Phong Lê (1985), 40 năm văn học nghê ̣ thuật cá c dân tộc thiểu số Viê ̣t

Nam, NXB Văn hoá dân tô ̣c.

18. Hứa Hiếu Lễ, "Bông hoa sen đang ngát", Bá o Viê ̣t Nam.net 19. Hứa Hiếu Lễ, "Nhà văn ngườ i Cô Sầu đoa ̣t giải văn chương", Bá o văn

hoá văn nghê ̣ Cao Bằ ng.

20. Hà Linh, "Văn xuôi độc chiểm giải thưởng Hô ̣i nhà văn Viê ̣t Nam 2008",

Bá o Văn nghê ̣ Quân đội.

21. Lã Văn Lô - Hà Văn Thư, (1984), Văn hoá Tày Nùng, NXB Văn hoá Hà Nô ̣i. 22. Vũ Quang Ma ̣nh (2011) Chủ biên, Môi trường và con người sinh thá i học

nhân văn, NXB ĐHSP Hà Nô ̣i.

23. Phạm Duy Nghĩa (2012), Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền

nùi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

24. Đào Thuỷ Nguyên, (2010), Cô ̣i nguồ n văn hoá dân tô ̣c trong truyê ̣n ngắn

củ a Cao Duy Sơn, Tạp chí Nghiên cứu văn ho ̣c, số tháng 6/2010.

25. Đào Thuỷ Nguyên, (2013), Bản sắc văn hoá dân tô ̣c qua hình ảnh thiên nhiên trong văn xuôi dân tộc thiểu số, Tạp chí diễn đàn Văn nghê ̣ Viê ̣t Nam, số tháng 5/2013.

26. Đào Thuỷ Nguyên, (2014), (chủ biên), Bản sắc văn hoá dân tô ̣c trong các sáng tác của các nhà văn dân tô ̣c thiểu số Viê ̣t Nam hiê ̣n đa ̣i, NXB Đa ̣i ho ̣c Thái Nguyên.

27. Nhiều tác giả, (2008), Nông dân, Nông thôn và Nông nghiê ̣p, Những vấn

đề đang đă ̣t ra, NXB Tri thứ c.

28. Nhiều tác giả, (1984), Ngôn ngữ các dân tô ̣c thiểu số Viê ̣t Nam, NXB

Khoa ho ̣c xã hô ̣i.

29. Nhiều tác giả, (1988), Nhà văn các dân tô ̣c thiểu số Viê ̣t Nam hiê ̣n đa ̣i,

90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

NXB Văn hoá dân tô ̣c.

30. Nhiều tác giả, (2002), Tuyển tâ ̣p văn xuôi dân tộc và miền nú i thế kỷ XX,

NXB Văn hoá dân tô ̣c.

31. H’Linh Niê, (2009), Pơ thi mênh mang mùa gió, tập truyện ngắn. NXB

văn hóa dân tộc

32. Lý Thị Thu Phương, (2011), Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của

Cao Duy Sơn.

33. Bùi Văn Nam Sơn, (2012), Trò chuyê ̣n triết ho ̣c, NXB Tri thức. 34. Huy Sơn, (2008), Viết văn phải có sự ám ảnh, Trang văn hoá giải trí. 35. Cao Duy Sơn, (1997), Những chuyê ̣n ở Lũng Cô Sầu, NXB Quân đội nhân dân. 36. Cao Duy Sơn, (2002), Những đám mây hình người, NXB Văn hoá dân tộc. 37. Cao Duy Sơn, (2008), Ngôi nhà xưa bên suố i, NXB Văn hoá dân tô ̣c. 38. Cao Duy Sơn, (2010), Ngườ i chơ ̣, NXB Văn hoá dân tộc. 39. Lò Ngân Sủn, (2003), Nhà văn dân tộc thiểu số , Đời và văn, NXB Văn

hoá dân tô ̣c.

40. Trần Đình Sử , (1994), Bản sắc dân tộc trong văn học Viê ̣t Nam và con

đườ ng củ a thơ, Ta ̣p chí văn ho ̣c số 1.

41. Lâm Tiến, (1995), Văn học dân tộc các dân tô ̣c thiểu số Viê ̣t Nam, NXB

Văn hoá dân tô ̣c.

42. Lâm Tiến, (2002), Văn ho ̣c và miền núi, NXB Văn hoá dân tô ̣c. 43. Lâm Tiến, (2011), Tiếp câ ̣n văn ho ̣c dân tô ̣c thiểu số , NXB Văn hoá thông tin. 44. Lâm Tiến, (1999), Về mô ̣t mảng văn ho ̣c dân tô ̣c, NXB Văn hoá dân tộc. 45. Mai Thi, (2008), Giải thưởng Hội nhà văn Viê ̣t Nam 2008 vớ i tác giả

Ngôi nhà xưa bên suối, Báo Hà Nô ̣i mớ i.

46. Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọt gió , (1999), Anh Trú c (tuyển cho ̣n),

NXB Văn ho ̣c.

47. Võ Thị Thuý, (2008), Nhà văn Cao Duy Sơn, Viết văn là mô ̣t cuộc viễn

du về nguồ n, Báo Kinh tế đô thị.

48. Teihar de Chardin, (2014), Hiê ̣n tươ ̣ng con ngườ i, NXB Tri thứ c Hà

91

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nô ̣i, 2014.

49. Trần Thị Viê ̣t Trung - Cao Thị Hảo, (2011), (Đồng chủ biên), Văn ho ̣c dân tộc thiểu số Việt Nam thờ i kì hiê ̣n đại, mô ̣t số đă ̣c điểm, NXB Đa ̣i ho ̣c Thái Nguyên.

50. La Thúy Vân (2012), Con người trong văn xuôi miền núi đương đại (Cao

92

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Phạm Duy Nghĩa).