ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN ĐẮC HẬU
TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NHÌN TỪ LÍ LUẬN VỀ GIỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên, 2016
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN ĐẮC HẬU
TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NHÌN TỪ LÍ LUẬN VỀ GIỚI
(So sánh với một số sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu)
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN
Thái Nguyên, 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS Trần Nho Thìn. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả nghiên cứu trong công trình này là trung thực và chưa công bố dưới
bất kì hình thức nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Đắc Hậu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo - PGS.TS
Trần Nho Thìn - người đã nhiệt tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn thạc
sĩ. Đồng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Văn – Xã hội, trường Đại
học Khoa học - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô giáo thuộc Viện Văn học
đã giảng dạy và tạo điều kiện giúp đỡ.
Xin chân thành cảm ơn những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã
khích lệ, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Đắc Hậu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
iii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ........................................................................ 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 7
3.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 8
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 8
4.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 9
6. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9
7. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 9
NỘI DUNG ................................................................................................................. 10
Chƣơng 1: VẤN ĐỀ GIỚI VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH
CHÂU THỜI KỲ SAU NĂM 1975 ...................................................................... 10
1.1. Vấn đề Giới ........................................................................................... 10
1.1.1 Khái niệm giới (Gender) ...................................................................... 10
1.1.2. Văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam ........................................ 11
1.2. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kỳ sau năm 1975 ........................ 18
1.2.1. Khái lược về vai trò người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học
dân tộc ......................................................................................................... 18
1.2.2. Đổi mới về ý thức nghệ thuật .............................................................. 20
1.2.3. Đổi mới quan niệm về con người ........................................................ 22
1.2.4. Đổi mới trên phương diện nghệ thuật tự sự ....................................... 23
1.2.5. Hình tượng vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ... 25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
iv
Chƣơng 2: TINH THẦN PHÊ PHÁN ĐỐI VỚI VĂN HÓA NAM
QUYỀN VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN CỦA TÁC GIẢ ..................................... 27
2.1. Nhân vật người chồng – hiện thân của tư tưởng nam quyền .................. 29
2.1.1. Vấn đề đối xử với thân thể phụ nữ ...................................................... 29
2.1.2. Câu chuyện đẻ nhiều con .................................................................... 39
2.2. Người vợ như là sản phẩm của tư tưởng nam quyền .............................. 44
2.2.1.Tư tưởng chấp nhận đòn roi, không đấu tranh..................................... 46
2.2.2. Tư tưởng chấp nhận sinh đẻ nhiều, dẫn đến cuộc sống nheo nhóc ...... 56
2.2.3. Chấp nhận bất bình đẳng về phân công lao động gia đình ................. 59
2.3. Thái độ của các nhân vật : Phùng, Đẩu, Phác, cô con gái....................... 64
2.3.1. Thái độ của phóng viên Phùng và chánh án Đẩu ................................ 65
2.3.2. Thái độ của thằng Phác và đứa con gái ............................................. 66
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN ........................................................ 71
3.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật .............................................. 71
3.1.2. Người kể chuyện ................................................................................ 71
3.1.3. Điểm nhìn trần thuật .......................................................................... 76
3.2. Xây dựng chân dung nhân vật .............................................................. 79
3.2.1. Chân dung người chồng………………………………………………..…..78
3.2.2. Chân dung người vợ…………………………………………………………80
3.3. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 83
3.3.1. Ngôn ngữ người chồng ....................................................................... 84
3.3.2. Ngôn ngữ người vợ ..................................................................... ……86
3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật……………………………………...88
3.4.1. Không gian nghệ thuật………………………………………………………88
3.4.2. Thời gian nghệ thuật………………………………………………………..92
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
v
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Bàn về văn học, đại văn hào Nga M.Goki đã khẳng định “Văn học là
nhân học” - tức văn học là con người. Con người luôn là đối tượng phản ánh trung
tâm của văn học, là mục đích hướng đến trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn.
Từ cuộc sống bước vào văn học, con người không chỉ mang đặc điểm giai cấp mà
còn có thuộc tính “giới”. Trong đó, giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối
quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới, do đó giới là một phương diện không thể
thiếu của con người và sự tồn tại xã hội của con người. Theo đó, bất cứ một sáng
tác văn chương nào cũng đều ẩn chứa vấn đề về giới. Bởi vậy, lí luận về giới cần
được vận dụng làm cơ sở cho nghiên cứu và phê bình văn học.
1.2. Trong thực tế sáng tác, không có một tác phẩm văn học nào ra đời từ
một mảnh đất trống. Một tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng được thai
nghén, được hạ sinh trong một môi trường, một đời sống văn hoá nhất định mà ở
đó nhà văn đã được đằm mình, được hấp thụ các giá trị văn hoá để hình thành nên
những tư tưởng thẩm mĩ tiến bộ cho thời đại mình. Do vậy, khi nghiên cứu, cần
đặt tác phẩm trong bối cảnh văn hoá, xã hội mà nó ra đời mới có thể lí giải thoả
mãn những thông điệp nghệ thuật được nhà văn kí thác.
1.3. Ở Việt Nam, truyền thống văn hóa ứng xử giới là nam quyền (trước đây
thường gọi là “phụ quyền”- nhưng khái niệm phụ quyền không bao quát hết) theo
đó, nam giới xác lập quyền lực đối với người phụ nữ trên tất cả mọi phương diện
chính trị, đạo đức, thẩm mỹ... Tư tưởng nam quyền tạo nên sự bất công trong cách
nhìn nhận và đánh giá, ứng xử của nam giới đối với nữ giới. Tư tưởng này không
những chi phối hành vi ứng xử của nam giới mà của cả nữ giới, kể cả cách nhìn và
ứng xử của chính người phụ nữ về bản thân mình. Điều này thể hiện rõ nét trong
các sáng tác văn học Việt Nam từ xưa đến nay, trong đó có những tác phẩm đang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
được tiếp nhận trong nhà trường phổ thông.
2
1.4. Lí luận phương Tây cho rằng: Sáng tác bao giờ cũng là sự hồi đáp, đối
thoại với những vấn đề cuộc sống của thời đại. Điều này không chỉ hiển nhiên đúng
với nền văn học phương Tây mà đúng cả với văn học tiến bộ nhân loại nói chung
cũng như văn học Việt Nam nói riêng. Tính chất hồi đáp, đối thoại giữa văn học và
thời đại đã phản ánh ở những vấn đề nhức nhối trong đời sống. Văn học Việt Nam
giai đoạn sau 1975 đứng trước cuộc đổi thay vĩ đại của lịch sử dân tộc cũng đã kịp
thời có bước chuyển mình nhanh chóng để cất lên tiếng nói của thời đại về những
vấn đề trong cuộc sống. Là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam, sự
nghiệp văn chương lớn lao của Nguyễn Minh Châu đã phản ánh một cách trung
thực quá trình vận động của văn xuôi Việt Nam nói riêng và cả nền văn học Việt
Nam nói chung trước và sau năm 1975. Nhà văn Nguyễn Khải cho rằng Nguyễn
Minh Châu xứng đáng là “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi
Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho cho những cây bút trẻ sau này”.
Nếu như trước năm 1975, ngòi bút của ông mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng
mạn thì giai đoạn sau năm 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu lại chuyển sang
cảm hứng thế sự, đời tư, hướng đến con người cá nhân trong cuộc sống mưu sinh
thường nhật, gắn với sự chuyển biến trong đổi mới ý thức nghệ thuật, đổi mới cách
nhìn, sự khám phá và thể hiện về con người với tinh thần nhân văn cao đẹp, nhất là
khi ta nhìn từ góc độ văn hóa giới.Với những đóng góp nói trên, nhiều truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu đã được tuyển chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường
như Bến quê, Bức tranh và đặc biệt là Chiếc thuyền ngoài xa.
1.5. Là tác phẩm có vị trí quan trọng trong văn nghiệp của Nguyễn Minh
Châu, kết tinh những thành tựu và tư tưởng nghệ thuật của ông trong chặng đường
đổi mới, cũng là tác phẩm xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam nhưng Chiếc
thuyền ngoài xa cho đến nay vẫn tồn tại nhiều bất cập trong vấn đề tiếp nhận. Bất
cập rõ nhất là việc lý giải hình tượng người đàn bà hàng chài bị chồng đánh đập mà
vẫn cắn răng chịu đựng như là biểu hiện của đức tính đẹp của người phụ nữ, người
vợ Việt Nam, là hiện thân của vẻ đẹp khuất lấp. Như luận văn chúng tôi sẽ chỉ rõ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
đây là cách phân tích cũ, thậm chí vô tình phục vụ cho quyền lợi của những người
3
đàn ông, những người chồng bạo hành và xem thường quyền sống của những người
phụ nữ, những người vợ, điều này dễ nhận thấy nếu chúng ta liên hệ đến Luật phòng, chống bạo lực gia đình” của Việt Nam 1. Bộ luật được thông qua muộn hơn
thời điểm ra đời Chiếc thuyền ngoài xa hai mươi mốt năm, đủ để thấy mẫn cảm
nhân đạo, nữ quyền của Nguyễn Minh Châu đi trước thời đại như thế nào.
Tất nhiên, có thể khi sáng tác Chiếc thuyền ngoài xa, bản thân Nguyễn Minh
Châu chưa nghĩ đến sự cần thiết của một bộ luật phòng chống bạo lực gia đình.
Nhưng nghiên cứu văn bản trong trường hợp này là phân tích cái vô thức đã hướng
dẫn nhà văn quan sát, miêu tả đối tượng, cái vô thức có nền tảng nhân bản, chống
nam quyền, ủng hộ nữ quyền. Một cách đọc cập nhật lý thuyết hiện đại theo chúng
tôi, phải tính đến điều này.
Nguyên nhân của tình trạng tiếp nhận và phê bình này là do lý luận về giới,
những tri thức về thân phận phụ nữ trong xã hội nam quyền chưa được vận dụng để
làm cơ sở nghiên cứu và phê bình tác phẩm. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn trong
bài viết Ứng dụng lý luận văn học hiện đại trong giảng dạy văn học đã chỉ ra sự bất
cập, hạn chế của thực tế tiếp nhận tác phẩm văn học trong nhà trường: “Con người
như một đối tượng phản ánh trung tâm của văn học không chỉ là con người giai cấp
mà còn là con người có thuộc tính “giới”. Nhưng sách giáo khoa của ta không thèm
đoái hoài đến phê bình nữ quyền - một lí luận văn học chú ý đến giới, đến nữ tính
trong văn học (…). Nếu người soạn sách giáo khoa biết đặt những tác phẩm có
nhân vật người phụ nữ vào trong trường văn hóa của xã hội nam quyền truyền
thống, hẳn sẽ chỉ ra được hướng tiếp cận thích đáng và nhân bản” [40]. Có vị trí
quan trọng trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông, truyện ngắn “Chiếc
1 “Luật phòng, chống bạo lực gia đình” được Quốc hội thông qua ngày 21-11-2007 , điều 2 “Các hành vi bạo lực gia đình” (trích)
lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
1) Các hành vi bạo lực gia đình gồm: a) hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng; b) đ) cưỡng ép quan hệ tình dục;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
thuyền ngoài xa” cần được soi chiếu, lí giải ở nhiều hướng tiếp cận, trong đó tiếp
4
nhận từ lí luận về giới sẽ mang đến những phát hiện mới mà các cách nghiên cứu
khác không có được.
Với những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa nhìn từ lý luận về Giới” để triển khai thành một luận văn tốt
nghiệp. Lựa chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn đưa đến một cái nhìn đầy đặn,
một sự lí giải mới về giá trị của văn phẩm. Đồng thời muốn làm rõ những đóng góp,
những cống hiến quan trọng mang tính chất bước ngoặt của Nguyễn Minh Châu đối
với công cuộc hiện đại hoá nền văn học Việt Nam.
Đây là một nghiên cứu trường hợp (case study), hy vọng qua một giọt nước
để thấy cả biển cả. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cần thiết, chúng tôi sẽ liên hệ,
so sánh Chiếc thuyền ngoài xa với một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau
1975 có sự tương đồng để làm rõ vấn đề.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình khảo sát lịch sử tiếp nhận truyện ngăn Chiếc thuyền ngoài
xa, chúng tôi nhận thấy có nhiều bài viết, nghiên cứu về tác phẩm này như sau:
Năm 1987 trên Tạp chí Văn học số 3, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có bài
Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm 1980 đã nhận xét: “Chiếc thuyền
ngoài xa là truyện ngắn thể hiện khá nhiều nghịch lý. Vẻ đẹp toàn bích của cảnh
chiếc thuyền trong sương sớm trên bức ảnh nghệ thuật trái ngược với đời sống thực
trong chiếc thuyền ấy. Nỗi đau khổ bị đánh đập, hành hạ của người đàn bà chài
lưới trái ngược với việc chị ta không muốn ly dị anh chồng vũ phu. Ý đồ cứu giúp
tốt đẹp của người kể chuyện xưng “tôi” và người bạn chánh án phố huyện của anh
trái ngược với sự từ chối của nạn nhân v.v…”. [1]. Như vậy, Lại Nguyên Ân là một
trong những người đầu tiên phát hiện ra sự nghịch lý trong tác phẩm giữa một bên
là vẻ đẹp thơ mộng với một bên là hiện thực khổ đau mà người đàn bà hàng chài
phải chấp nhận.
Cũng theo hướng đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Bến quê - một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
phong cách trần thuật có chiều sâu (Báo văn nghệ, số 8, ngày 21/2/1987) đã có cho
5
rằng: “Chiếc thuyền ngoài xa là truyện về “nghịch lí của đời thường". [17, tr.385],
là “những suy nghĩ da diết về chân lý nghệ thuật và đời sống”. [17, tr.387].
Nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thạch trong bài Đổi mới quyết liệt Nguyễn Minh
Châu (Báo Văn nghệ số 49, 50 ngày 5/12/1987) đã nhận xét: “Trong cuộc sống của
những người dân chài lam lũ đó, luôn tiềm ẩn những bi kịch không thể lường hết.
Có thể nói, với Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại
như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự
hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp
cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu” [34]. Nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thạch
ngoài việc đề cập đến việc “nghịch lý tồn tại như một hiển nhiên trong đời sống”
còn chỉ ra được nhà văn đã cho ta “cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống”.
Năm 1989, N. Nikulin trong công trình Nguyễn Minh Châu và sáng tác của
anh do Lại Nguyên Ân dịch, đăng trên Báo Văn nghệ, số 50 ngày 16/12/1989 đã
lưu ý đến trách nhiệm của người nghệ sỹ trước cuộc sống, trước con người:
“Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa xua tan làn khói lãng mạng phủ lên hình ảnh
đã trở nên quen thuộc về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo trong không gian xa
rộng của biển cả. Người chủ thuyền trở nên hung bạo vì cuộc sống trống rỗng và tẻ
nhạt, luôn đánh đập người vợ. Nhưng truyện còn có ý nghĩa rộng lớn hơn: nó
dường như khơi gợi người ta nên nhìn kĩ vào những gì ẩn sau cái vẻ đẹp điền viên
bề ngoài để nhớ đến trách nhiệm của nghệ sĩ trước cuộc sống, trước con người”
[17, tr.476, 477].
Năm 1995, trong Hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh Châu, nhà nghiên
cứu Đinh Trí Dũng trong bài “Nguyễn Minh Châu và sự trăn trở của một ngòi bút
đầy trách nhiệm” có nhận xét: “Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, thông qua
câu chuyện đầy nghịch lí của cuộc đời, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một sự
thực trong nghệ thuật (...) đằng sau bức ảnh con thuyền mờ sương rất đẹp mà anh
tình cờ chụp được là số phận đớn đau của một người phụ nữ (...). Vì vậy người
nghệ sĩ không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn cuộc sống của con người”.[15,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
tr.311]
6
Nhà nghiên cứu Dương Thị Thanh Hiên trong bài “Truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu’’ trên Tạp chí nhà văn, số 7 – 2001 cho rằng: “Ở Chiếc thuyền ngoài xa
thì nghịch lí đặt ra ở một vẻ đẹp điền viên tươi sáng lại chứa đựng bao cảnh đời
ngang trái, xót xa. Sự thật ẩn kỹ đằng sau màn sương lãng mạn khiến nhà nghệ sĩ
duy mĩ phải sững sờ trước tình cảnh bất ngờ và bất nhẫn hiện hình của cái đẹp là
sự xấu xa, độc ác, là sự cam chịu, nhẫn nhục, cảnh khốn cùng”. [15, tr.319]
Tác giả Trịnh Thu Tuyết trong bài:“Một số cốt truyện trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu” đã khẳng định :“Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa,
từ một xung đột đầy nghịch lí, Nguyễn Minh Châu đặt ra một vấn đề nhận thức
cần suy nghĩ (...). Hình ảnh người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, nhẫn nhục; người
chồng độc ác, vũ phu đau đớn và bi kịch của cuộc đời họ như là một thứ thuốc rửa
quái đản làm những thước phim huyền diệu bỗng hiện nên một màu sắc khủng
khiếp (...). Những con người u tối và đau khổ ấy vừa là nạn nhân của cuộc sống
đói nghèo, lam lũ, nhưng trong một lúc nào đó, họ cũng có thể trở thành quỷ dữ
đày đọa trước hết là những người thân khốn khổ của mình”. [ 15, tr.325-326]
Năm 2002, cùng cách nhìn như N. Nikulin, Nguyễn Trọng Hoàn trong công
trình Tiếp tục hành trình đọc Nguyễn Minh Châu: “Chiếc thuyền ngoài xa phê
phán cái nhìn lãng mạn một chiều về cuộc sống, đồng thời đặt ra trách nhiệm của
người nghệ sĩ phải đào sâu, khám phá để tìm ra bản chất của hiện thực”.
Năm 2008, nhóm tác giả Sách giáo viên Ngữ văn 12 Chương trình Chương
trình nâng cao đã có hướng dẫn chi tiết về việc đọc - hiểu văn bản truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa: “Chiếc thuyền ngoài xa rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời
sống từ góc độ thế sự của nhà văn giai đoạn sáng tác thứ hai.(...) Gánh nặng mưu
sinh đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong cảnh tăm tối,
đói khổ, bấp bênh. Người chồng tha hóa dần dần, trở thành kẻ vũ phu, thô bạo.
Người vợ vì thương con nên phải nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của người
chồng (…). Đó không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những hạt ngọc
khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp làm lũ của đời thường” [29, tr.63]. Nhóm tác giả đã
định hướng việc đọc hiểu hình tượng người đàn bà hàng chài, nhân vật chính của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
tác phẩm theo hướng ca ngợi vẻ đẹp khuất lấp “không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng,
7
hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp”. Theo cách này, việc một phụ nữ bị
chồng đánh đập nhưng không phản kháng, đấu tranh mà vẫn hy sinh vì đàn con
được xem là đẹp. Lối phẩm bình này theo lối cũ đưa đến việc hiểu tác phẩm chưa
thật sự khách quan.
Năm 2010, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn trong bài viết: Nguyễn Minh Châu
và thi pháp “gói rào”trong Chiếc thuyền ngoài xa (3/2010) cho rằng: “Thói tàn
nhẫn của người đàn ông cũng như sự chịu đựng vô lí của người đàn bà, thật oái
oăm đã trở thành một phong tục lâu đời” [12, tr.367]. Về hình tượng nhân vật
người đàn bà hàng chài, nhà nghiên cứu nhấn mạnh vào “đức hy sinh lớn lao của
tình mẫu tử” ở người đàn bà như một vẻ đẹp “phía sau” sự “nhẫn nhục”; “Thì ra,
phía sau cái dáng chịu đòn đến trơ lì vô cảm kia của người vợ, là sự kiên cường,
gan góc. Phía sau bộ dạng, chịu xúc phạm đến nhẫn nhục, lì lợm, là đức hy sinh
lớn lao của tình mẫu tử” [12, tr.367].
Như vậy, nhìn lại lịch sử tiếp nhận truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, chúng
tôi nhận hầu hết các nhà nghiên cứu đều tiếp cận truyện ngắn này từ cách tiếp nhận
cũ, chưa có ai tiếp cận văn phẩm này từ điểm nhìn văn hóa ứng xử giới là văn hóa
nam quyền. Tuy nhiên, trên cơ sở những bài viết đó, người viết sẽ học tập được
nhiều điều hữu ích trong quá trình triển khai đề tài.
3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài là Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lý luận về Giới, vì vậy
chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đặt
trong bối cảnh văn hoá truyền thống. Như đã nói, khi triển khai đề tài, chúng tôi có
so sánh với một số truyện ngắn tiêu biểu khác có phản ánh văn hóa ứng xử giới của
Nguyễn Minh Châu sau 1975.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lý luận về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
Giới, chúng tôi nhằm thực hiện 3 mục tiêu sau:
8
- Làm rõ sự ảnh hưởng của xã hội nam quyền đã chi phối đến cách ứng xử,
nếp nghĩ, ngôn ngữ, hành động của các nhân vật trong truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa , không chỉ đối với nhân vật nam giới mà cả nhân vật nữ giới, để từ đó chỉ
ra sự cần thiết phải thay đổi tận gốc rễ văn hóa của xã hội nam quyền.
- Bổ sung cách đọc từ góc nhìn văn hóa ứng xử giới để đọc và giảng dạy
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Từ góc nhìn đó, thấy được những đóng góp riêng, độc đáo của Nguyễn
Minh Châu trong sự nghiệp văn học tiến bộ, vì con người của mình.
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu một số tác giả viết về giới trong xã hội nam quyền trong dòng
chảy văn chương dân tộc làm tiền đề lý luận cho đề tài.
- Tìm hiểu về đặc điểm của xã hội nam quyền và việc vận dụng lý thuyết giới
vào nghiên cứu văn học hiện nay.
- Tìm hiểu một số các bài viết nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu và các
nghiên cứu về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa có so sánh với các sáng tác của
Nguyễn Minh Châu.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài theo hướng một nghiên cứu trường hợp (case study),
chúng tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp tiếp cận từ góc nhìn văn hoá học
- Phương pháp phân tích.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
- Phương pháp so sánh.
9
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu. Cụ thể là Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lý
luận về Giới. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành
khảo cứu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 để đối chiếu.
Ngoài ra đề tài còn nghiên cứu các vấn đề về đặc điểm của xã hội nam
quyền, về ứng xử giới trong xã hội Việt Nam nhằm phục vụ cho công tác nghiên
cứu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tôi ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung
gồm có 3 chương:
- Chương 1: Vấn đề giới và sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.
- Chương 2: Tinh thần phê phán đối với văn hóa nam quyền và ý thức nữ
quyền của tác giả.
- Chương 3: Nghệ thuật kể chuyện.
7. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lí luận: Luận văn khẳng định tính khả thi - hiệu quả của phương
pháp tiếp nhận tác phẩm văn chương từ góc nhìn văn hoá, lý luận về giới trong bối
cảnh xã hội nam quyền.
- Về thực tiễn: Đề tài đã góp phần giải quyết những tình huống trong tiếp
nhận khi bổ sung cách đọc từ góc nhìn văn hóa ứng xử giới để đọc và giảng dạy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
10
NỘI DUNG
Chƣơng 1
VẤN ĐỀ GIỚI VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU THỜI KỲ SAU NĂM 1975
Như trên đã nói, chúng tôi dành chương đầu tiên này để giới thuyết về về vấn
đề Giới và Sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 để làm cơ sở cho những
phân tích và kiến giải ở những chương sau.
1.1. Vấn đề Giới
Để tạo tiền đề nghiên cứu Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa từ lý luận về
giới, chúng tôi đi vào triển khai vấn đề về giới trong bối cảnh xã hội nam quyền ở
Việt Nam, đồng thời sơ lược diện mạo ứng xử giới trong văn học Việt Nam. Đây là
cơ sở lý luận và thực tiễn tạo điểm tựa khoa học cho chúng tôi nghiên cứu đề tài.
1.1.1 Khái niệm giới (Gender)
Trong nghiên cứu khoa học, giới là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ
biến ở nhiều lĩnh vực nghiên cứu. Tùy theo hướng tiếp cận và mục đích ở mỗi
ngành sẽ có cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này. Ở đây, chúng tôi dùng
khái niệm giới tương đương với khái niệm gender trong tiếng Anh (Từ điển Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia dịch: gender là giới tính xã hội). [32]. (Trung văn dịch
là: xã hội tính biệt - sự khác biệt của giới tính trên phương diện xã hội).
Trong thực tiễn, thuật ngữ giới (gender) thường bị sử dụng nhầm lẫn với giới
tính (sex). Giới tính (sex) chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học, gen và
các yếu tố di truyền khác (Trung văn dịch là tính) thì giới chỉ về sự kiến tạo xã hội
về văn hóa đối với sự khác biệt giữa nam và nữ, nói cách khác giới là khái niệm chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
đặc trưng xã hội gán cho nam và nữ. Gender xem xét giới tính trên phương diện xã
11
hội, do đó giới là sản phẩm mang tính xã hội - văn hóa. Ở mỗi nền văn hóa, mỗi một
thời đại thì nam nữ lại có một cách ứng xử giới riêng, có một hệ giá trị riêng.
Ở phương Tây, vào năm 1949 nữ nhà văn Pháp Simone de Beauvoir cho rằng
người phụ nữ và nam giới không phải bẩm sinh mà có, họ là sản phẩm của văn hóa
xã hội. Trong cuốn Giới thứ hai (The second sex) bà đã đưa ra một luận điểm rất
nổi tiếng : “Người ta không sinh ra đã là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ”. Về
mặt bẩm sinh, con người chỉ là đàn ông hay đàn bà theo nghĩa giải phẫu sinh lý. Chỉ
trong quá trình sống, tương tác xã hội, tương tác đàn ông-đàn bà, do kết quả của văn
hóa giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội mà dần dần hình thành người phụ
nữ hay người nam giới với tâm lý, hành vi, ngôn ngữ, ứng xử riêng.
Văn hóa ứng xử giới thay đổi trong không gian và trong thời gian. Chúng ta
tưởng là về bản chất, người phụ nữ e lệ, rụt rè, nhưng hóa ra không phải thế. Nếu
sang các nước Tây Âu hay Mỹ, ta sẽ thấy ở đó, phụ nữ rất mạnh mẽ, tự tin, khác với
phụ nữ Việt Nam.
Ngày xưa, ca dao tục ngữ “kích động” tinh thần nam quyền ở người chồng
Làm trai rửa bát quét nhà, Đến khi vợ gọi bẩm bà con đây , phó mặc mọi việc nhà
cho vợ. Nhưng ngày nay, có rất nhiều người chồng sẵn sàng chia xẻ việc nhà với
vợ trên tinh thần bình đẳng
1.1.2. Văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam
Xã hội Việt Nam được các nhà nghiên cứu định danh là xã hội nam quyền, do
đó văn hóa ứng xử giới mang đặc điểm nam quyền (trước đây gọi là “phụ quyền” -
nhưng khái niệm phụ quyền thiên về quyền lực của người cha, sự chuyên quyền của
người nam giới lãnh đạo gia đình).
Thuật ngữ nam quyền được hiểu là sự xác lập quyền lực thống trị tuyệt đối
của nam giới với người phụ nữ trên tất cả mọi phương diện: chính trị, đạo đức, thẩm
mỹ, kể cả thống trị thân thể phụ nữ theo nghĩa đen. Quyền lực thống trị được thể
hiện ở cả trên phương diện thể xác và tinh thần. Về thân thể, nam quyền là sự thể
hiện sức mạnh nam giới bằng sự áp chế người phụ nữ bằng bạo lực, bằng sự đánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
đập,… Còn về tinh thần nam quyền thể thiện ở việc người đàn ông định ra những
12
chuẩn mực về văn hóa chính trị, đạo đức, thẩm mỹ… bắt buộc người phụ nữ phải
tuân theo.
Tư tưởng nam quyền tạo nên sự bất công trong cách nhìn nhận và đánh giá,
ứng xử của nam giới đối với nữ giới và chi phối cả cách nhìn và ứng xử của chính
người phụ nữ với bản thân mình. Về căn bản, có thể khẳng định: văn hóa ứng xử
giới ở Việt Nam là nam quyền.
Tình trạng ứng xử giới theo quan điểm nam quyền như trên không chỉ có ở
Việt Nam mà đó còn là tình trạng chung ở các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nghĩa
là thế giới nói chung cũng đều có xu hướng nam quyền hóa. Có điều là các dân tộc
giải quyết ra sao với tình trạng nam quyền, khi nào ở một dân tộc, nam quyền bị
chấm dứt hay bị lên án. Ở Ấn Độ, nhiều tài liệu cho thấy, đàn ông hay tấn công tình
dục đối với phụ nữ. Ở các nước Tây Âu, gần đây có hiện tượng tấn công tình dục
phụ nữ Đức, Pháp… bởi những đàn ông nhập cư đến từ Trung Đông, những quốc
gia có văn hóa nam quyền rất mạnh. Tập tính văn hóa ăn sâu vào tư duy, hành động
không dễ gì thay đổi.
Về bản chất nam quyền trong xã hội mẫu hệ như xã hội người Chăm, chúng
tôi khảo sát phóng sự ngắn Một ngày ở xứ Chàm của Tam Lang đăng trên Tri Tân
tạp chí, năm 1941 và nhận thấy dù xã hội Chăm theo mẫu hệ nhưng người đàn bà
Chăm vẫn phải đối mặt và chấp nhận cách ứng xử nam quyền từ phía những ông
chồng: “Người Chàm, nhất là đàn ông, không hay dậy sớm”, bởi “Tục Chàm trước
vẫn lấy nửa cuối ngày hôm trước làm ngày và nửa sáng ngày hôm sau làm đêm”;
“cứ đúng 12 giờ tí (12 giờ đêm), người trong xóm mới đi ngủ cho đến mãi giờ ngọ
(12 giờ trưa) hôm sau, họ mới dậy làm việc hoặc ngồi suông”. [19, tr.20]. Nhưng
với người đàn bà Chăm đã bỏ tục này, vì nó không phù hợp với giờ giấc của người
Việt quanh vùng họ chung sống. Thay vì được ngủ đến 12 giờ trưa như chồng mình,
những người đàn bà Chăm phải dậy từ sớm và làm tất cả công việc trong gia đình,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
tất bận từ sáng sớm đến sẩm tối:
13
“Trong gia - đình Chàm, chỉ có người đàn bà mới suốt ngày bận rộn. Từ
sáng đến tối họ làm hết công - việc khó nhọc như ra đồng cấy gặt, ra tỉnh mua bán,
và tiếp khách, dệt vải, se bông.
Sẩm tối, khi công việc đã ngớt, người đàn bà Chàm, đầu đội chiếc bình lớn,
lại ra song, lạch, vợi nước về dùng.
Quần quật suốt ngày thế mà không bao giờ họ có một tiếng phàn - nàn về
chồng con là những kẻ suốt ngày ăn xong lại nằm, nằm chán chạy nhông hoặc mơ
màng ngồi hút thuốc”. [19, tr.20]
Người đàn bà Chàm còn luôn nhường nhịn cho chồng, cho con mọi thứ: họ
ăn bốc, họ chỉ ăn cơm cháy hay cái đầu cá, đuôi cá ươn,...
“Lúc ngồi quanh một mâm cơm, người đàn ông Chàm dùng đũa gắp thức ăn.
Còn người đàn bà Chàm ? chỉ dùng năm ngón để bốc ! Cách ăn bốc ấy lâu ngày trở
thành bất di bất dịch cho đến bây giờ, dù trong nhà thừa đũa bát, người đàn - bà
cũng không muốn dùng đũa bát gắp đỡ thức ăn.
Sáng dậy, sau khi rửa mặt, việc làm thứ nhất của người đàn bà Chăm là săn
-sóc đến bữa ăn sớm cho chồng, con.
Họ nấu cơm ngô hay cơm gạo, đun nồi cá ươn mà họ gọi là “cá liệt”, đánh
những cơm sườn cơm cháy và bẻ những đầu cá, đuôi cá ăn trước để ra làm việc
ngoài đồng trong lúc chồng với con họ còn ngủ kỹ trên sàn đến lúc mặt trời đứng
bóng”. [19, tr.20]
Ngoài những tục ấy, người đàn ông chàm còn lười biếng tới mức “ngồi dơ
đầu ra cho vợ bắt chấy hoặc gỡ hộ tóc”; “quẳng quần áo ra cho vợ vắt dậu” hay
“nhờ vợ gắp mẩu than hồng ở bếp lên để hút thuốc chớ họ không chịu cất công cầm
thoi sắt đánh vào hòn đá lửa để ngay bên cạnh mình.”
Qua phóng sự, ta thấy ứng xử giới của đàn ông chăm với phụ nữ chăm thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
hiện sự bất bình đẳng giới. Những người đàn ông Chăm lười nhác đã dựa vào
14
những phong tục có lợi cho mình để được nhàn nhã bản thân, họ để mặc cho vợ
mình phải lao động cực nhọc và vất vả trên tinh thần “Đàn ông lo việc ngoài nhà,
đàn bà lo việc trong gia đình” mà xã hội Chăm vẫn duy trì. Chính những lệ - tục
này khiến người phụ nữ Chăm còn khổ cực gấp nhiều lần người phụ nữ Việt.
Trong xã hội người Việt truyền thống, tính chất nam quyền cũng dễ dàng
nhận thấy cả về phương diện ứng xử thể chất và tinh thần của nam giới đối với nữ
giới.
Về thể chất, tình trạng “bạo lực gia đình” như cách nói ngày nay diễn ra phổ
biến nhưng ca dao đã khuyên những người vợ ứng xử thế nào với đòn đánh của
chồng : Chồng giận thì vợ làm lành, Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì. Rồi thì
Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê, bởi vì nếu người
phụ nữ lên tiếng bảo vệ lẽ phải của mình, cự cãi có thể dẫn đến hệ quả bạo lực
Chồng giận thì vợ bớt lời/Chồng giận vợ giận thì dùi nó quăng. Bởi vậy, ý nghĩ là
người vợ Việt Nam có vẻ đẹp khuất lấp vì giỏi chịu đòn roi của chồng là một ý nghĩ
ngây thơ: văn hóa nam quyền đã hun đúc ở họ một hành vi ứng xử thiên về chịu
đựng. Nếu không chịu đựng nổi thì lấy cái chết làm lối thoát như Vũ Thị Thiết trong
truyện Người con gái Nam Xương chứ không thể đòi hỏi hay phản kháng. Thiết chế
xã hội nam quyền ở Việt Nam truyền thống không cho phép họ phản kháng.
Về phương diện tinh thần, người đàn ông trong xã hội Nho giáo Việt Nam
đặt ra tiêu chí đạo đức “trinh tiết” cho phụ nữ. Phan Khôi lên án mạnh mẽ quan
điểm đề cao trinh tiết đầy bất công trên tinh thần nam quyền và cho rằng: “Cái luật
nghiêm khắc ấy do lòng tham và thói ích kỷ của bọn đàn ông bày ra, rất không công
bình (…). Ấy chuộng về trinh chuộng về tiết, thì chẳng những giam hãm đàn bà vào
cảnh điu (điêu) đứng đắng cay và thấp hèn, mà lại còn sanh ra cái tệ khinh rẻ mạng
người là như thế nữa”. [39, tr.616, 617]
Tôi trung không thờ hai chủ, liệt nữ không lấy hai chồng - Nhà nho lớn tiếng
dạy dỗ đàn bà con gái như vậy. Điều bất công, phi lý là trong khi xăm soi đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
nghiệt ngã trinh tiết của vợ, trong khi viết thơ cao giọng biểu dương các tấm gương
15
phụ nữ trinh liệt, những người phụ nữ lấy cái chết để bảo toàn danh tiết với người
chồng, thì các ông chồng tự cho phép mình “đa thê”. Điều phi lý là Nguyễn Công
Trứ có đến 13 vợ và thường xuyên đi hát ả đào, “mắt đi mày lại” với các cô đào non
tơ nhưng lại lớn tiếng lên án nàng Kiều là “tà dâm”. Đây là hiện tượng “tiêu chuẩn
kép” rất dễ nhận ra trong xã hội nam quyền.
Sống trong bầu không khí nam quyền đó nhiều thế kỷ, những người phụ nữ
Việt Nam dần chịu ảnh hưởng lúc nào không hay. Trong tư tưởng và tình cảm họ,
sự chấp nhận, nhẫn nhục, chịu đựng, câm lặng, cam chịu đã thành một khuôn hành
vi. Và giới đàn ông nhận thấy đó là vẻ đẹp, vì đối với những người đàn ông, còn gì
thú vị bằng những người vợ sống như nô lệ, như cái bóng, chấp nhận.
Trên báo Nhân dân điện tử gần đây, dưới tiêu đề Để bình đẳng giới ngày
càng thực chất và có tính bền vững, tác giả Thiên Phương đã viết về tính chất khó
khăn của việc loại bỏ tâm lý bất bình đẳng giới không chỉ ở nam giới mà ngay cả ở
những người phụ nữ, những người vợ : “Có thể nói, một trong các yếu tố chủ yếu
đẩy tới tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam là gắn việc lo toan, chăm sóc gia
đình cho phụ nữ. Điều này không chỉ là quan niệm của nam giới và xã hội, mà
trong nhiều trường hợp chính phụ nữ cũng coi đó là “thiên chức” của mình. Vì có
xu hướng phụ nữ đặt gia đình lên trên hết, nên để giữ cho gia đình ổn định, nhiều
phụ nữ ở Việt Nam sẵn sàng hy sinh sự bình đẳng của mình. Phải chăng suy nghĩ
này là điều tâm niệm chung của người phụ nữ cho nên không dễ loại bỏ?” [32].
Bài báo cũng nhận xét: “Và nhiều hệ quả khác của bất bình đẳng giới còn
thể hiện ở tình trạng phụ nữ thường là nạn nhân của bạo lực gia đình, bạo hành
tình dục. Họ cũng mất phần lớn hoặc thậm chí không có quyền chủ động với những
biện pháp kế hoạch hóa gia đình dù được khuyến cáo”.[32]
Những biểu hiện khác nhau rất tinh vi của bất bình đẳng giới này đã được
các nhà nghiên cứu xã hội học về giới quan tâm và tìm hướng giải quyết trong khi
đó, các nhà phê bình văn học, vốn lạc hậu hơn trong tiếp cận những thành tựu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
nghiên cứu xã hội học đó hoặc không thèm đếm xỉa đến những thành tựu đó, vẫn
16
giữ cái nhìn cũ, xem sự chịu đựng của người phụ nữ là biểu hiện của vẻ đẹp cần
biểu dương.
Người phụ nữ trong xã hội nam quyền khi xuất hiện trong văn chương dù là
với tư cách của người vợ, người mẹ hay người yêu đều bị mất tiếng nói. Chính xã
hội nam quyền đã thiết lập những rào cản về văn hóa, đạo đức, gây áp lực cho người
phụ nữ khiến họ dù có mong muốn nhưng cũng không thể cất lên tiếng nói của
mình được. Áp lực từ quy định đạo đức Nho giáo này ảnh hưởng vào trong nếp nghĩ
của nhiều thế hệ phụ nữ người Việt. Thậm chí, thực tế còn cho thấy, dù chính trị
thay đổi song văn hóa vẫn tồn tại với một sức sống dai dẳng trong xã hội. Ví dụ
quan điểm về vấn đề một người phụ nữ góa chồng có nên tái giá đi bước nữa được
đặt ra tranh luận rất gay gắt, đặc biệt là ở các Nho gia như Phan Khôi và Tản Đà.
Trong khi, thì Tản Đà cho rằng việc thủ tiết của người đàn bà là một phong tục cao
cả có từ đời Khổng Tử, các đời nối tiếp nhau tạo thành đạo trinh tiết của đàn bà Á
Đông. Theo đó, ông nói không với chuyện tái giá của đàn bà. Tuy nhiên, Tản Đà
thừa nhận chuyện thủ tiết/không tái giá ở người đàn bà không có luật nào cấm, song
vì áp lực từ xã hội là sự khinh bỉ và rẻ rúng với người tái giá từ xa xưa đã truyền lại
và trở thành một đạo luật tự nhiên. Do đó, vì bất kỳ lý do gì, người đàn bà bị chồng
bỏ hay chồng chết nếu cải giá thì tự đã vi phạm vào đạo tam tòng. Vấn đề giải
phóng những phụ nữ góa đã được đặt ra trong các tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất
Linh và Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương. Cả hai đều xoay quanh tinh thần
chống lại tinh thần thủ tiết, đòi hỏi những quyền lợi về hạnh phúc lứa đôi cho người
phụ nữ. Trong đó Lạnh lùng, Nhất Linh khắc họa nhân vật Nhung luôn ám ảnh bởi
bức hoành phi có bốn chữ “Tiết hạnh khả phong” do vua ban cho bà cô tổ nhà
chồng do chống mất sớm mà ở vậy nuôi con thờ chồng; còn ở Đi bước nữa Nguyễn
Thế Phương thông qua hình ảnh cô Hoan đã dũng cảm vượt lên những ngăn cản của
nhà chồng để đến với anh Cần. Qua đây, tác giả còn muốn đặt ra một vấn đề lớn với
thời đại: thời đại phải dũng cảm “đi bước nữa” để thay đổi, giải phóng số phận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
người phụ nữ khỏi những định kiến cổ hủ còn tồn tại trong xã hội.
17
Trong văn học thời kỳ trước năm 1975, vấn đề "nữ quyền" thực ra cũng đã
được đề cập, nhưng theo một nghĩa khác. Phụ nữ được ca ngợi bằng những hình
tượng sử thi, mang vẻ đẹp lý tưởng, dám đương đầu với những thử thách trong
chiến tranh, không thua nam giới. Đó là những hình tượng như Mẹ Suốt trong thơ
Tố Hữu, chị Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, các cô gái
thanh niên xung phong của Phạm Tiến Duật, chị em Mai và Dít trong Rừng xà nu
của Nguyễn Trung Thành, nhân vật Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi của
Lê Minh Khuê, v.v… Nhưng vấn đề bất bình đẳng giới, vấn đề số phận đời thường
của phụ nữ trong xã hội nam quyền chưa hề được văn học cách mạng đề cập đến.
Trở lại với sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau năm 1975, chúng
tôi thấy hình tượng người phụ nữ hiện lên cũng có hiện tượng mất giọng (thực ra
cũng là câm lặng) như những người phụ nữ mà ta đã nhắc đến ở phần trên. Với
những sáng tác viết về chiến tranh, kỳ thực Nguyễn Minh Châu chưa có ý thức đi
vào vấn đề bình quyền, về nỗi khổ của người phụ nữ mà chủ yếu vận động theo
quỹ đạo chung của văn học đường thời: khuynh hướng lý tưởng hóa hình tượng
người phụ nữ. Nhân vật Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng tiểu biểu cho khuynh
hướng này. Đến văn học thời hậu chiến, hình tượng người đàn bà chài trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa có hiện tượng mất tiếng nói như những người
phụ nữ trong xã hội nam quyền.
Trong thực tế, vấn đề về giới và ứng xử giới luôn được các nhà nghiên cứu tìm
hiểu trong nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa và văn học. Giới cũng có thể được
nghiên cứu theo quan điểm văn hoá để chỉ ra cái nhìn về giới của nam và nữ đối với
nhau, chỉ ra địa vị gia đình và xã hội của nam giới và nữ giới v.v… Trong nghiên
cứu văn học, có thể ứng dụng phương pháp nghiên cứu giới đối với nhân vật văn
học để tìm hiểu các kiểu hình tượng nam/nữ. Ví dụ áp dụng quan điểm giới vào
nghiên cứu hình tượng các nhân vật nữ - người chinh phụ, người cung nữ trong
Chinh Phụ Ngâm và Cung oán ngâm từ quan điểm giới, người ta có thể thấy những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
quan niệm hà khắc của Nho giáo phong kiến như “Tam tòng”, “Tứ đức”, quan điểm
18
đề cao trinh tiết, quan điểm kỳ thị nữ sắc hay quan điểm coi thường đời sống bản
năng… chính là nguồn gốc dẫn đến cảnh những người chinh phụ đã phải âm thầm
chịu đựng, bị thiêu đốt bởi những khao khát trong đời sống bản năng khi chồng đi
chinh chiến; những người cung nữ đã phải hy sinh cả thời thanh xuân của mình
trong những khuê phòng, trong cấm cung.
Cũng có thể thấy điều tương tự khi ta đưa lý thuyết giới vào soi chiếu cách
ứng xử của các nhân vật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu. Mỗi nhân vật có cách suy nghĩ và hành đông khác nhau nhưng điểm chung là
đều chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng văn hóa nam quyền, họ chỉ khác nhau ở chỗ hoặc
là thừa nhận hoặc là phản đối sự bình đẳng giới mà thôi. Theo đó, người chồng thì
mặc nhiên cho mình có quyền đánh vợ, còn người vợ thì cúi đầu, lặng lẽ đón nhận,
chịu đựng những trận bạo hành như là bổn phận, trách nhiệm của mình cần phải
thực hiện Các nhân vật khác như phóng viên Phùng, chánh án Đẩu, thằng Phác thì
phẫn nộ và phản kháng lại nếp nghĩ cổ hủ đó.
Trước đây, khi tiếp cận các nhân vật nam/nữ, chúng ta thường bị bó hẹp hoặc
nhìn theo quan điểm giai cấp, áp bức hay bị áp bức, hoặc theo quan điểm đạo đức,
đáng khen hay đáng chê thì với điểm nhìn giới, chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn
về nhân vật. Đây được xem là một phương pháp tiếp cận có nhiều ưu điểm trong lí
thuyết tiếp nhận, nó giúp ta hiểu tác phẩm văn học một cách khách quan và nhân
bản hơn.
1.2. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kỳ sau năm 1975
1.2.1. Khái lược về vai trò người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học dân tộc
Nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) xuất thân trong một gia đình
nông dân ở làng Thơi thuộc xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An. Được gia đình tạo điều kiện, năm 1944 Nguyễn Minh Châu học tập ở
Huế. Đến năm 1950, ông tham gia quan đội, theo học Trường Sĩ quan Lục quân
Trần Quốc Tuấn và chủ yếu hoạt động tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ở Sư đoàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
320. Từ năm 1954 tham gia viết văn nhưng phải đến khi hai cuốn tiểu thuyết là Cửa
19
sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùng trời khác
nhau (1970) ra đời, Nguyễn Minh Châu mới khẳng định được dấu ấn phong cách và
chỗ đứng của mình trong lòng bạn đọc. Ông tỏ ra am hiểu đời sống và tâm hồn
người chiến sĩ, hiện thực khắc nghiệt và hào hùng của cuộc kháng chiến. Sau thống
nhất, đặc biệt từ những năm 1980 trở đi, nước ta bước vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế trầm trọng, bầu không khí trở nên ngột ngạt với việc khắc phục hậu quả
chiến tranh cũng như những vấn đề mới nảy sinh: sự suy thoái của đạo đức, nhân
cách con người, các vấn đề của đời sống dân sinh, xã hội,... Nhiều nhà văn trước sự
thay đổi của hiện thực đã không thể tìm thấy cảm hứng sáng tác, bởi nguồn cảm
hứng chủ đạo là sử thi và lãng mạn đã lùi vào quá vãng mà hiện thực thì bi đát,
trong khi độc giả đang có xu hướng tìm đọc Nguyễn Du hay tìm đến với văn học
phương Tây qua các bản dịch. Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài Văn xuôi sau 1975,
thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển (Tạp chí văn học số 4, tháng 7&8-1991)
đã gọi đây là thời kỳ khủng khoảng “chân không văn học” - “chẳng có gì để nói”.
Hơn lúc nào hết, lúc này các văn nghệ sĩ cần xác định “đổi mới là lẽ sống còn của
văn nghệ” [2]. Đổi mới một cách toàn diện để theo kịp sự phát triển của thực tại xã
hội và đáp ứng được thị hiếu của người đọc. Trước tình hình đó, Nguyễn Minh
Châu đã đi đầu trong khuynh hướng đổi mới văn học sau chiến tranh: nghĩ và viết
về đời tư, thế sự, về những vấn đề bức xúc đằng sau những chiến công, những vấn
đề xã hội, về số phận và nhân cách của con người trong tình trạng trì trệ của đất
nước. Thành tựu nghệ thuật nhà văn đạt được thời kỳ này gồm có bốn cuốn tiểu
thuyết: Miền cháy và Lửa từ những ngôi nhà cùng in năm (1977), Những người đi
từ trong rừng ra (1982) và Mảnh đất tình yêu (1987) và hàng loạt các truyện ngắn,
truyện vừa lần lượt được ra mắt, sau đó được tập hợp in trong 3 tập: Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), và Cỏ lau (1989). Ngoài ra
Nguyễn Minh Châu còn có nhiều bài viết về văn học, hoặc ghi chép, tản mạn về
kinh nghiệm viết văn, chân dung văn học,… Về sau khi tác giả qua đời, phần nhiều
trong đó được in trong cuốn Trang giấy trước đèn (1994). Các sáng tác thời kỳ này
đã cho thấy sự chuyển biến trong tư tưởng và nghệ thuật của ông sau năm 1975
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
trong tiếp cận hiện thực mới. Nguyễn Minh Châu đã thật sự để lại dấu ấn trên hành
20
trình đổi mới của văn học dân tộc. Trong số các bài viết, có bài trở thành kim chỉ
nam định hướng sáng tác cho lớp nhà văn đi sau.
Với ý thức và trách nhiệm lao động nghệ thuật nghiêm túc của mình trong
buổi trở dạ của văn học, Nguyễn Minh Châu đã giành được vị trí xứng đáng trong
nền văn học dân tộc, trở thành người: “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của
nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho cho những cây bút
trẻ sau này” (Nguyễn Khải) và là người: “người mở đường tinh anh và tài năng
nhất” (Nguyên Ngọc) cho văn học Việt Nam thời kỳ sau năm 1975.
Vai trò người mở đường của Nguyễn Minh Châu thể hiện ở sự đổi mới trên
phương diện của sáng tác như đổi mới ý thức nghệ thuật, đổi mới quan niệm nghệ
thuật về con người - trong đó có quan niệm về người phụ nữ và đổi mới trong nghệ
thuật tự sự.
1.2.2. Đổi mới về ý thức nghệ thuật
Trong đổi mới văn học, đổi mới trong tư duy, ý thức nghệ thuật được xem là
quan trọng trước hết. Đó là sự đổi mới quan niệm về nhà văn, quan niệm về văn
chương, về mối quan hệ của nhà văn với hiện thực, với công chúng và với chính
mình.
Về quan niệm về nhà văn, có sự thay đổi từ mô hình nhà văn - chiến sĩ,
chiến đấu vì cộng đồng sang mô hình nhà văn - nghệ sĩ, gắn với cái tôi cá nhân. Đây
là bước chuyển quan trọng để xác định tâm thế của người nghệ sỹ trước và sau năm
1975.
Về đổi mới quan niệm về hiện thực: trước năm 1975 hiện thực theo kiểu chủ
nghĩa đề tài định trước, được nhìn nhận xuôi chiều. Trong bài - Hãy đọc lời ai điếu
cho một giai đoạn văn nghệ minh họa (1987), Nguyễn Minh Châu đã sử dụng hình
ảnh “cái hành lang hẹp và thấp” để chỉ ra quan niệm về hiện thực của văn học thời
kháng chiến: “Thói quen của một người vốn quen đi trong một hành lang hẹp, vừa
hẹp vừa thấp (…). Những nhà văn tuy đều cảm thấy thiếu thốn và bức bối nhưng lại
tự dụ dỗ mình và khuyên nhủ lẫn nhau tự bạt chiều cao cho thấp đi khỏi chạm trần, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
21
tự ép khuôn khổ chiều ngang lại để khỏi kềnh càng, để đi lại được thoải mái trong
cái hành lang kia”.[5]. Ở Nguyễn Minh Châu và các nhà văn cùng thời, hiện thực
đã được mở ra phong phú, đa chiều, mỗi người một quan niệm, một khuynh hướng
thẩm mỹ. Họ không còn bị động trong sự ràng buộc như trước mà đã chủ động lựa
chọn đề tài, tiếp cận hiện thực đời sống: Ma Văn Kháng lại tìm đến và đề cao giá trị
nguồn cội, Nguyễn Huy Thiệp thì nhấn mạnh vào bản thể tự nhiên của con người và
Nguyễn Minh Châu lại đi tìm những hạt ngọc đạo đức trong công cuộc mưu sinh
nhọc nhằn. Đổi mới quan hệ của nhà văn với công chúng là một nhu cầu tất yếu sau
1975. Đây được xem là mối quan hệ sống còn của văn học, trong đó nhà văn vừa
tạo ra công chúng vừa bị công chúng chi phối. Nếu trước năm 1975, sứ mệnh của
nhà văn chiến sỹ khiến họ thành người dẫn dắt, giảng giải, giáo dục công chúng đến
với lý tưởng thì sau 1975 mọi thứ đã thay đổi, trước cuộc sống bộn bề, công chúng
có nhiều mối quan tâm hơn, đòi hỏi văn học phải tự điều chỉnh mình để đáp ứng
được yêu cầu đa dạng của công chúng. Quan hệ cũng tất yếu thay đổi từ độc thoại
chuyển sang đối thoại giữa nhà văn và công chúng. Trước hiện thực, nhà văn chỉ
đưa ra những đề nghị, giải pháp của mình để độc giả đánh giá.
Trong quan hệ với chính mình: Nếu trong văn học thời chiến, nhà văn phải
chấp nhận hy sinh cái bản ngã cho cộng đồng, sống và viết thiếu bản lĩnh với một
nỗi sợ cố hữu dẫn đến tự đánh mất mình thì lúc này, ý thức về cá tính sáng tạo đã
trở thành một nhu cầu thường trực và nhà văn đã nhận thức về mình, về nghề
nghiệp của mình, về bản chất văn chương của mình trên tinh thần của chủ nghĩa cá
nhân văn hóa. Người nghệ sỹ cần có cá tính sáng tạo và hơn cả là sự tự do sáng tạo.
Nhà văn phải có trách nhiệm cao với xã hội, thức tỉnh, cảnh báo những nguy cơ có
thể con người phải đối mặt. Để đảm nhận được sứ mệnh đó, trước hết nhà văn cần
phải có một tình yêu lớn với con người. Ông từng thổ lộ: “Tôi không thể nào tưởng
tượng nổi nhà văn không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và tình yêu
thương con người. Tình yêu này của người nghệ sỹ vừa là một niềm hân hoan say
mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thương trực về số phận,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cần giữ cái tình yêu lớn ấy trong
22
mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của
người đời” [20, tr.111].
Như vậy, đổi mới về ý thức nghệ thuật là một bước chuyển mình quan trọng
của Nguyễn Minh Châu và những nhà văn lúc bấy giờ. Cùng đi trong cái hành lang
hẹp nhưng Nguyễn Minh Châu luôn day dứt một cách có ý thức để tìm ra cho mình
một lối đi riêng. Ý thức này được thể hiện rõ trong việc đổi mới quan niệm về con
người.
1.2.3. Đổi mới quan niệm về con người
Con người luôn là nhân vật trung tâm của đời sống văn học, mỗi thời đại sẽ
có cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau về con người, thậm chí ngay trong hành
trình sáng tác của một nhà văn, quan niệm về con người cũng có sự thay đổi. Nhìn
lại những sáng tác trước năm 1975 của Nguyễn Minh Châu ta thấy các nhân vật
được xây dựng dưới ánh sáng của cảm hứng lãng mạn và màu sắc sử thi. Yếu tố
riêng mờ nhạt trước sự lấn át của phẩm chất chung mang tầm thời đại: Yêu - Căm -
Chiến - Lạc. Đọc truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng, ta thấy Nguyệt và Lãm đều có
trong mình những phẩm chất trên. Họ yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, có
lý tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc và nhân dân. Tất cả đều
được thi vị hóa như nhà văn Nikulin nhận xét: “ Nhà văn thời ấy đã khá triệt để
trong việc thi vị hóa nhân vật. Đây vừa là chỗ mạnh của anh, lại vừa là chỗ yếu:
niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tình thần, của cái thiện đã được
khúc xạ ở chỗ anh đã “tắm rửa sạch sẽ” các nhân vật của mình. Họ giống như
được bao bọc trong bầu không khí vô trùng” [17, tr.470].
Từ năm 1980, quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu đã có sự thay
đổi theo chiều hướng tiến sâu hơn vào nắm bắt toàn diện bản chất con người - nhìn
nhận con người toàn vẹn, đa chiều, trong đó con người đời tư thế sự song hành với
con người xã hội - lịch sử, con người trong tính cá thể hóa và tính phổ quát nhân
loại, trong các mối quan hệ xã hội mới, phức tạp hơn đã hiện ra với đầy đủ sắc diện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
tốt có, xấu có, khi cao cả, khi lại đớn hèn,… và có cả “rồng phượng lẫn rắn rết”
23
(Bức tranh). Chỉ khi nhìn nhận đúng con người, xem xét con người là một thực thể
phức tạp - bí ẩn, là một tiểu vũ trụ, không thể biết trước và không thể biết hết so với
suy đoán thông lệ mới có thể khám phá hết về con người. Vì vậy, khám phá cái thế
giới bên trong đầy bí ẩn của con người luôn là phần khắc khoải nhất trong những
sáng tác của ông giai đoạn này, như ông từng quan niệm: “Văn học và đời sống là
hai vòng tròn đồng tâm - mà tâm điểm là con người” [18, tr.111]. Với quan niệm
tiến bộ và biện chứng về con người như vậy nên sáng tác của Nguyễn Minh Châu là
nơi để ông đặt tình yêu và niềm tin vào con người, để không chỉ “cảm thông sâu
sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời” mà còn “giúp họ có thể vượt qua
những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống” [18, tr.111].
Đặc biệt, vấn đề người phụ nữ trong sáng tác sau năm 1975 của ông cũng nằm trong
sự đổi mới đó khi những người phụ nữ đều được soi chiếu bởi nguồn cảm hứng đời
thường – vấn đề này sẽ được triển khai rõ hơn ở mục 1.2.5.
Như vậy, với sự đổi mới qua niệm về con người ở thời hậu chiến, Nguyễn
Minh Châu đã cho thấy một tình yêu thương, một nỗi quan hoài, khắc khoải thường
trực về thân phận của con người, trước hết là của những người phụ nữ trong sáng
tác của mình.
1.2.4. Đổi mới trên phương diện nghệ thuật tự sự
Về phương diện nghệ thuật tự sự, Nguyễn Minh Châu luôn có sự tìm tòi,
khám khá và thể nghiệm cách viết mới. Nếu hành trình đổi mới của nhà văn chỉ
diễn ra trên phương diện ý thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng mà thiếu phương
diện hình thức biểu đạt thì đồng nghĩa với việc khả năng biểu đạt của nhân vật bị
thu hẹp lại và sức hấp dẫn với độc giả sẽ kém đi. Đổi mới ở nghệ thuật tự sự có thể
thể hiện ở nhiều mặt nhưng Nguyễn Minh Châu đặc biệt chú ý tới nghệ thuật xây
dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật.
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật truyền thống thường được thể hiện rất
phong phú đa dạng ở nhiều phương diện như: ngoại hình, ngôn ngữ, tính cách, hành
động, nội tâm, mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật khác và với môi trường xung
quanh,… Tùy theo sở trường của mỗi nhà văn mà họ chủ trương đi vào khai thác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
24
các phương diện khác nhau để tạo nên phong cách riêng. Có nhà văn thiên về hành
động, diễn biến tâm lý như Nam Cao, có tác giả lại thiên về cảm xúc với những diễn
biến tinh tế trong tâm hồn nhân vật và không chú trọng đến hành động như Thạch
Lam,… Còn với Nguyễn Minh Châu, ông sử dụng nhiều thủ pháp để khắc họa nhân
vật nhưng thành công hơn cả là miêu tả tâm lý - sử dụng độc thoại nội tâm. Trước
đây trong văn học cách mạng, các nhân vật được khắc họa thường có tâm lý nhân
vật đơn giản, thuận chiều bởi lý tưởng sống cao nhất của con người thời chiến tranh
là sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc, vì lý tưởng cao đẹp đó con người ta sẵn sàng hy
sinh những nhu cầu cá nhân. Đó là kiểu nhân vật được định hình theo công thức và
trở thành chuẩn thẩm mỹ để các nhà văn sáng tác, do đó những hình tượng người
lính, hay cô thanh nhiên xung phong trong sáng tác văn học giai đoạn chống Pháp,
chống Mỹ đều tuân theo chuẩn mực chung này. Đổi mới nghệ thuật xây dựng nhân
vật với Nguyễn Minh Châu là từ bỏ kiểu xây dựng nhân vật cũ đó để đi vào khám
phá “con người bên trong”, nhằm phát hiện ra “con người không trùng khít với bản
thân mình ” cũng như phần phức tạp và bí ẩn bên trong con người. Với cách xây
dựng này thì các yếu tố, sự kiện bên ngoài chỉ có vai trò làm nền, dẫn dắt gợi cho
người đọc có những đoán định, suy tư về nhân vật, còn thế giới bên trong nhân vật
diễn ra nhiều xung đột với diễn biến phức tạp mà nếu cứ đơn giản nhìn vào đều “bất
khả tri” khó đoán định hay nắm bắt được bản chất. Và để tái hiện đời sống vô cùng
phức tạp bên trong của nhân vật thì thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng giúp
nhà văn đi sâu vào thế giới bên trong nhân vật để tái hiện tâm tư của nhân vật.
Nguyễn Minh Châu luôn trăn trở, tìm tòi trong trần thuật. Lối trần thuật áp
đặt một chiều theo kiểu dẫn dắt người đọc đến với lý tưởng của văn học thời chiến
tranh đã trở nên lỗi thời, không theo kịp sự phát triển của hiện thực. Cốt truyện theo
lối định sẵn cũng bó buộc trước đây đã được nhà văn đặc biệt chú ý bằng cách tạo
ra biên độ rộng hơn cho cốt truyện, tạo các tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
Điểm nhìn trần thuật được thay đổi luân phiên ở các nhân vật để tạo điểm nhìn đa
diện khi tiếp cận các vấn đề phức tạp trong hiện thực từ con người đến sự việc.
Giọng điệu cũng linh hoạt hơn để theo kịp diễn biến cốt truyện. Đặc biệt, các biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
tượng được sử dụng nhiều hơn nhằm tăng chất triết lý cho tác phẩm. Những biểu
25
hiện này được thể hiện cụ thể trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và sẽ được
chúng tôi phân tích cụ thể trong chương 3.
1.2.5. Hình tượng vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
Trong lịch sử văn học nhân loại, hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm
hứng chưa bao giờ vơi cạn của văn chương, do đó tên tuổi các nhà văn lớn cũng gắn
liền với các nhân vật nữ. Ở Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng ấy, người
phụ nữ đã bước vào văn học từ trong những sáng tác của văn học dân gian cũng như
văn học hiện đại sau này. Có thể kể đến một cô Tấm trong cổ tích thần kỳ giúp nhân
dân ta thỏa mãn ước mơ ngoài đời thực, là người cung nữ, người chinh phụ khổ đau
cả đời câm lặng trong những khúc ngâm, là nàng Kiều chịu kiếp “Thanh lâu hai
lượt/Thanh y hai lần” nhưng vẫn ý thức sâu sắc về phẩm giá, là cô Từ trong truyện
ngắn Đời thừa của Nam Cao - phải nhiều phen chịu những trận đòn vô cớ vì người
chồng nghệ sĩ ôm giấc mông Nô ben văn chương dang dở hay là cô Mị bị nhà
chồng cúng trình ma, bị chồng bạo hành mọi lúc cũng chỉ còn cam chịu và đợi ngày
chết rũ xương bên nhà chồng trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài, v.v...
Là một nhà văn có lòng trắc ẩn sâu xa, Nguyễn Minh Châu luôn quan tâm
đến số phận, nỗi đau khổ của con người, nhất là những người phụ nữ thời kì sáng
tác sau 1975.
Những truyện ngắn của ông, nếu những sáng tác viết trong thời gian chiến
tranh, người phụ nữ (như cô Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng) được khắc họa
thật đẹp, thật lãng mạn, trong không gian nghệ thuật như vô trùng thì hầu hết những
nhân vật nữ trong sáng tác trong giai đoạn sau 1975 lại hiện lên trong không gian
sống trần trụi, với thân phận đa đoan, lam lũ, nhiều thiệt thòi. Trong đó, bên cạnh
việc viết về những người phụ nữ chịu nhiều di họa sau chiến tranh như vật Quỳ
trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, nhân vật Thai trong Cỏ lau, thì nhà
văn đặc biệt còn dành nhiều trang viết về người đàn bà trong dòng truyện ngắn viết
về cảm hứng đời thường mang tinh thần đổi mới sau năm 1975. Với điểm nhìn từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
văn hóa giới với những sáng tác viết về người phụ nữ trong đời thường có thể kể
26
đến những nhân vật nữ tiêu biểu như Liên trong Bến quê, Huệ trong Khách ở quê ra
và Phiên chợ Giát, Tề trong Chợ Tết và đặc biệt là người đàn bà hàng chài trong
Chiếc thuyền ngoài xa. Tất cả những người phụ nữ này khi bước vào truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu đều chịu chung một cuộc sống nhọc nhằm, vất vả và khổ đau.
Việc hình tượng người phụ nữ cứ trở đi trở lại trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu cho thấy đó không chỉ là mối quan tâm đặc biệt của ông dành cho người phụ
nữ mà còn thể hiện tư tưởng nhân văn tiến bộ vì nữ quyền để đấu tranh trước sự áp
bức bất công xã hội áp đặt lên người phụ nữ.
Như vậy, sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đi theo khuynh hướng văn xuôi
đời thường, những khắc khoải nhân sinh trong sáng tác của ông gắn với số phận
người phụ nữ. Mỗi nhân vật một cảnh ngộ khác nhau nhưng họ đều gặp nhau ở chỗ
có cuộc đời éo le, bất hạnh. Nguyễn Minh Châu bằng nỗi day dứt của mình về họ đã
luôn hào hứng và ưu ái khi viết về người phụ nữ với vai trò là người mẹ. Khi đó,
người đàn bà luôn được cảm nhận không chỉ bằng ý thức mà bằng cả bản năng,
thiên chức làm mẹ và chính thiên chức làm mẹ của người phụ nữ đã làm bệ đỡ đưa
họ ra khỏi cuộc sống éo le, nhọc nhằn, đôi khi chứa đựng cả những nghịch lí.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một ví dụ tiêu biểu cho khuynh hướng này.
Tiểu kết
Tóm lại, trong chương 1 luận văn đã đi vào giới thuyết về vấn đề giới và
cách ứng xử giới từ xã hội phương Tây đến xã hội người Việt. Có thể nói, nếu như
xã hội phương Tây tiến nhanh về xu hướng nữ quyền thì xã hội người Việt vẫn chịu
sự chi phối sâu sắc của tinh thần nam quyền. Ngoài ra, chúng tôi cũng dành phần
còn lại trong chương này để đi vào khái quát về vai trò người mở đường của
Nguyễn Minh Châu thời kỳ sau năm 1975 với những đóng góp to lớn trên con
đường đổi mới văn học dân tộc và hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của ông
trong giai đoạn này. Theo đó, chúng tôi muốn làm rõ bối cảnh xã hội mà người phụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
nữ phải đối mặt trong cuộc sống sau chiến tranh để thấy được nỗi khổ của người
27
đàn bà hàng chài, sự giống và khác biệt so với những người phụ nữ cùng thời trong
sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Chƣơng 2
TINH THẦN PHÊ PHÁN ĐỐI VỚI VĂN HÓA NAM QUYỀN
VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN CỦA TÁC GIẢ
Như chúng tôi đã trình bày ở chương 1, xã hội Việt Nam thời phong kiến là
xã hội nam quyền - xã hội lấy các tiêu chí có lợi cho nam giới để áp đặt cho phụ nữ.
Trải qua sự biến thiên của lịch sử, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đưa
nền dân chủ thay thế cho nền quân chủ, vị thế của người dân cũng thay đổi căn bản.
Tiếp đến, chúng ta giành thắng lợi vẻ vang trước thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
nước nhà thống nhất, xã hội có nhiều đổi thay trên tất cả mọi phương diện của cuộc
sống như kinh tế, chính trị, văn hóa…Tuy nhiên, văn hóa nam quyền vốn đã ăn sâu
vào tiềm thức ngàn đời của dân tộc lại không dễ gì đổi thay, càng không dễ gì xóa
bỏ. Sự ảnh hưởng của nó còn khá sâu sắc đến đời sống xã hội nói chung và hoạt
động sáng tạo nghệ thuật nói riêng, trong đó có văn học.
Văn hóa nam quyền bao đời nay đã tạo ra sự bất công, bất bình đẳng trong
mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới. Trong đó, đàn ông giữ vai trò thống ngự, sai
khiến, áp đặt nữ giới ở tất cả mọi phương diện của đời sống. Họ đứng cao hơn và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
trở thành “chủ sử hữu” đối với người vợ của mình. Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức”
28
trở thành sức mạnh đầy công năng mà nam giới có được để trói buộc người phụ nữ
vào những thứ gọi là “bổn phận”, “trách nhiệm” của người vợ, người mẹ. Về phía
mình, những người phụ nữ cũng tự nguyện cam chịu thân phận “nô lệ”, họ lấy sự
cam chịu, nhẫn nhục, hi sinh làm thước đo cho phẩm giá của mình. Họ sẵn sàng hi
sinh quyền lợi, hạnh phúc, nhận về mình tất cả những đau đớn để làm bệ đỡ cho cái
được gọi là “hạnh phúc” của chồng con. Do vậy, nhìn từ lí luận giới, từ văn hóa ứng
xử giới trong xã hội nam quyền, mọi buồn vui, sướng khổ hay bất hạnh của người
phụ nữ không thể không soi xét từ phía người đàn ông. Bất cứ một tác phẩm văn
chương nào đi vào thân phận con người đều ẩn chứa những vấn đề về giới. Vấn đề
nhân sinh muôn thưở nhưng chưa bao giờ cũ ấy được Nguyễn Minh Châu đặt ra
trong một hoàn cảnh mới – đó là xã hội Việt Nam thời hậu chiến, một xã hội mà
nền chuyên chế phong kiến đã lùi xa trong quá khứ, nhưng vẫn còn đó câu hỏi lớn
về thân phận con người, về số phận của người phụ nữ. Sinh thời, Nguyễn Minh
châu từng tâm sự “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm
nay, bao giờ cũng đối thoại với những người đương thời về những câu hỏi cấp bách
của đời sống”. Câu trả lời ấy, sự lí giải những vấn đề nhức nhối của cuộc sống ấy đã
được nhà văn kí thác trọn vẹn vào các hình tượng nhân vật của mình.
Trong chặng đường sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, Chiếc
thuyền ngoài xa được đánh giá là truyện ngắn tiêu biểu, kết tinh tư tưởng và tài
năng của nhà văn, cũng là tác phẩm có vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn
lớp cuối bậc học phổ thông trung học, có ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và
phát triển nhân cách, tới đời sống tâm hồn của thế hệ trẻ. Do vậy, luận văn sẽ lấy
việc nghiên cứu tác phẩm này với hai nhân vật chính là cặp vợ chồng ngư dân ở ven
biển miền Trung như là một trục chính, từ đó nhìn sang các tác phẩm khác cùng
thời để soi chiếu, đối sánh nhằm làm nổi bật sự độc đáo của Nguyễn Minh Châu
trong cách nhìn nhận, lí giải cuộc sống cũng như ý nghĩa sâu sắc của những thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
điệp mà nhà văn muốn gửi tới người đọc.
29
2.1. Nhân vật ngƣời chồng – hiện thân của tƣ tƣởng nam quyền
2.1.1. Vấn đề đối xử với thân thể phụ nữ
Theo nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, khái niệm con người gồm hai phương
diện “Thân” và “Tâm”. Tâm là cảm xúc, tâm lý, tư tưởng, tình cảm…thuộc về đời
sống bên trong – đời sống tâm hồn của con người. Thân là thân thể, thân xác thuộc
về đời sống bên ngoài, gắn liền với những nhu cầu vật chất, với bản năng tính
dục…. là nền tảng vật chất cho sự tồn tại của con người. Như vậy, tôn trọng và bảo
vệ con người là phải tôn trọng và bảo vệ những cái thuộc về cả hai phương diện
Thân và Tâm ấy.
Con người là đối tượng phản ánh của văn học, do đó, một tác phẩm văn học
chân chính, mang chiều sâu nhân bản, nhân đạo bao giờ cũng là tác phẩm hoặc thể
hiện cái nhìn xót thương, trân trọng, ngợi ca con người ở phương diện Thân và Tâm
hoặc thể hiện thái độ bất bình, đấu tranh bảo vệ khi Thân và Tâm con người bị lăng
nhục, bị chà đạp. Nhân loại đã từng yêu và xúc động trước Những người khốn khổ
của V.Huy gô; kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du khi ngòi bút của những người
nghệ sĩ thật sự như đọng máu và nước mắt khi viết về nỗi đau thân xác và bi kịch
tâm hồn của con người. Và những tác phẩm như thế sẽ còn lay động trái tim độc
giả, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian.
Nếu nói Thân là nền tảng vật chất cho sự tồn tại của con người thì tôn trọng
con người trước hết phải tôn trọng thân thể của nó, bất luận là nam giới hay nữ giới.
Không thể nói đến một chủ nghĩa nhân đạo nhưng lại khinh miệt thân xác con
người, can thiệp vào quyền bất khả xâm phạm thân thể của con người. Trong nền
văn hóa chuyên chế phương Đông như Việt Nam trước đây, luật pháp thể hiện rõ
thái độ chuyên chế, khinh miệt con người qua “ngũ hình”, trừng phạt tội phạm bằng
cách chà đạp, lăng nhục thân xác: “Luật hình xưa quy định đến chi tiết các mức đòn
khác nhau tùy theo tội nặng nhẹ. Trong năm hình phạt (ngũ hình) thì hai hai hình
phạt đầu tiên quy định đánh đòn bằng roi (xuy) và gậy (trượng), (…). Chẳng hạn
Hoàng Việt luật lệ (còn được gọi là luật Gia Long) quy định mức phạt bằng roi có 5
bậc, từ 10 đến 50 roi, mức phạt bằng gậy cũng có 5 bậc, kẻ phạm tội nặng hơn 50 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
30
roi thì chuyển sang phạt bằng gậy, từ 60 đến 100 gậy,… ” [36, tr.408], “Xét cho
cùng, hiện tượng này phản ánh tâm thức phổ biến coi thường, miệt thị thân xác. Và
không ai thấy như vậy là điều bất bình thường” [36, tr.409]; “Đối với người phương
Đông xưa, chuyện đánh đòn tội nhân là “chuyện thường ngày ở huyện”, chẳng ai
xúc động” [36, tr.410]. Điều đáng nói, quan niệm coi thường thân xác con người
được xem là “chuyện thường ngày” trong xã hội chuyên chế không chỉ với tội
phạm nói riêng mà với cả con người nói chung – như một nét văn hóa phổ biến và
được chấp nhận. Điều này được Nguyễn Du phản ánh trong Truyện Kiều (Thể hiện
ở các cảnh có sự đánh đập, bạo hành như: Bọn sai nha đánh Vương Quan, Vương
ông; các cảnh Kiều bị Tú Bà, quan phủ, Hoạn Thư đánh đòn,…). Tuy nhiên,
Nguyễn Du viết trên tinh thần của một nhà nhân đạo, ông đã lên tiếng phản kháng,
tố cáo xã hội chuyên chế phong kiến khi lấy đòn roi giáng xuống thân thể của con
người, trong đó có cô Kiều. Như vậy, với Nguyễn Du trân trọng con người trước hết
cần phải trân trọng thể xác của con người chứ không phải trên tinh thần nhân đạo
chung chung.
Xã hội chuyên chế trên đã đưa đến một thực tế là từ gia đình đến ngoài xã
hội, thân thể con người đều không được coi trọng. Vua chúa, quan lại thì tự cho
mình cái quyền được chà đạp thân thể con người bằng các luật hình dã man; các
đức ông chồng mang tư tưởng nam quyền, theo đó cũng tự cho mình quyền được
đánh đập, bạo hành thân thể người vợ. Đó là đặc điểm của xã hội chuyên chế,
phong kiến mà nếp nghĩ, cách hành xử vẫn cứ dai dẳng tồn tại ngay cả khi chế độ
phong kiến bị đánh đổ. Những tưởng chỉ có cô Mị sống dưới chế độ phìa tạo ở
những vùng núi xa xôi trước khi làn sóng cách mạng tràn đến mới bị bạo hành,
đánh đập bởi A Sử, như là biểu hiện của áp bức giai cấp, của xung đột giửa kẻ giàu
người nghèo, thống trị và bị trị. Nhưng không, ngay trong thời hiện đại, ngay sau
khi đất nước được thống nhất, không còn chuyện áp bức giai cấp, thống trị và bị trị,
vậy mà chuyện người chồng bạo hành, đánh đập vợ vẫn cứ diễn ra.
Ở Chiếc thuyền ngoài xa, vấn đề “thân thể” bị đàn áp, bạo hành nổi bật nên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
chúng tôi sẽ đi sâu vào vấn đề này. Theo chúng tôi, có lẽ nên nhìn hiện tượng người
31
chồng vũ phu đánh đập người vợ trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa từ góc nhìn
về xã hội chuyên chế phong kiến đối xử với thân xác con người. Vì sự thống trị của
người chồng đối với người vợ cùng loại hình, đặc trưng của xã hội chuyên chế
thống trị, chà đạp con người. Đọc lại đoạn văn miêu tả cảnh người chồng bạo hành
vợ của Nguyễn Minh Châu, chúng ta không khỏi xót xa cho kiếp phận đàn bà: “Lão
đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt
lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,
chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt
lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm
răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên
rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ!” [9, tr.256,
257].
Bạo lực chưa bao giờ là giải pháp tích cực cho bất cứ một mâu thuẫn, một
sự đối kháng nào trong xã hội, càng không phải là cách hành xử có thể tồn tại trong
mối quan hệ gia đình. Rạn nứt, đổ vỡ hạnh phúc cũng từ đấy mà ra. Vậy mà trong
tác phẩm, người chồng ngang nhiên đánh vợ một cách đầy thô bạo và tàn ác. Chữ
“lính ngụy” nhà văn dùng phải chăng cũng góp phần tô đậm tính chất dã man của
hành động bạo hành, hơn nữa còn ám chỉ việc lão chồng đánh vợ như kẻ thù. Thật
xót xa thay khi mà những người thân yêu nhất trong một gia đình lại có thể đối xử
với nhau như những kẻ ở hai đầu chiến tuyến. Cũng thật đau đớn thay khi con người
lại bị hành hạ, bị đối xử tàn ác không phải trên chiến trường mà trong chính không
gian tổ ấm gia đình. Liệu trong làng chài này, trong vùng biển miền Trung này và
xa hơn nữa, còn có bao nhiêu cảnh bạo hành, bao nhiêu người phụ nữ phải oằn
mình gánh chịu những trận đòn roi vô lí và vô đạo từ chính người chồng của họ?
Nguyên nhân của trận đòn roi trút xuống như lửa cháy kia thuộc về ai? Thói vũ phu
độc ác, tàn nhẫn, ích kỉ như ăn sâu vào máu của người đàn ông hàng chài sinh ra từ
đâu? Câu hỏi nhức nhối này đã được tác giả mượn lời các nhân vật để lí giải, cắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
nghĩa và truy nguyên nguồn gốc của những tính cách thấp hèn kia.
32
Về phía người đàn bà hàng chài, chúng ta thấy chị xuất hiện trong tác phẩm
là một người phụ nữ chịu thương, chịu khó, tảo tần tần sớm hôm cùng chồng mưu
sinh trên biển. Là một người vợ nhu thuận với chồng, một người mẹ âm thầm, lặng
lẽ hi sinh tất cả để chăm lo cho con cái. Vậy chị không thể là người có lỗi, càng
không đáng bị hứng chịu những đòn rôi vô lí kia từ phía người chồng. (Ngay cả
những người vợ mắc lỗi cũng không đáng bị đối xử tàn nhẫn như vậy). Do đó
không thể có một lí do nào được coi là “chính đáng” cho những hành động thô bạo
của lão đàn ông hàng chài. Sự việc này bởi vậy đã gây ra nhiều phẫn nộ cho cả
người trong và ngoài cuộc như thằng bé Phác, nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu
(phản ứng của các nhân vật này sẽ được chúng tôi phân tích ở phần sau). Như vậy,
nguồn cơn của những trận bạo hành kia chỉ có thể soi xét từ phía người chồng.
Dưới cái nhìn và suy nghĩ đầy cảm thông, bao dung của người đàn bà hàng
chài, tính cách độc ác của lão chồng chị là do hoàn cảnh đói nghèo tạo nên. Chính
sự vất vả, cực nhọc cùng những áp lực của cuộc sống mưu sinh trên biển đã khiến
lão tha hóa. Chồng chị trước đây “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành
lắm” và không bao giờ đánh vợ. Thực tế tiếp nhận cho thấy, nhiều xu hướng tiếp
nhận đã dựa vào lời tâm sự trên của người đàn bà hàng chài mà đưa ra những luận
giải, cắt nghĩa về nguyên nhân của hành động bạo hành là do người chồng tự thấy
mình khổ quá, do cuộc sống đói nghèo. Sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao cho
rằng: “Nguyên nhân trực tiếp của tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài chính
là sự tăm tối và thói vũ phu của người đàn ông. Nhưng nguyên nhân sâu xa là tình
trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dài gây tâm lí bế tắc, u uất” [29, tr.66].
Cuốn Tư liệu ngữ văn phần văn học 12 cũng viết: “hành động vũ phu man rợ của
người đàn ông không phải xuất phát từ nguyên nhân là một tội lỗi nào đó của người
đàn bà mà nguyên nhân là gánh nặng cuộc sống, gánh nặng gia đình” [35, tr.233].
Dẫu vô cùng trân trọng tấm lòng vị tha, nhân hậu và bao dung của người đàn
bà dành cho chồng mình song từ hướng nghiên cứu văn hóa giới, chúng tôi muốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
bổ sung thêm một cách nhìn nhận về lí do đánh vợ của người đàn ông. Bởi có thể
33
thói vũ phu tàn nhẫn trên không phải là bản chất của nhân vật người chồng và ít
nhiều do hoàn cảnh tạo nên nhưng cũng không thể lấy sự cảm thông của người vợ
làm tấm chắn để cái xấu, cái ác ấy mặc nhiên tồn tại, mặc nhiên gây đau đớn, tổn
thương cho những người xung quanh. Nếu đổ lỗi cho công việc mưu sinh vất vả thì
cái phần khó khăn, cực nhọc ấy đâu chỉ riêng mình lão đưa vai gánh chịu. Trong tác
phẩm, nhà văn hơn một lần miêu tả dáng vẻ người đàn bà đầy mệt mỏi, thậm chí
như kiệt sức sau những đêm thức trắng kéo lưới. Ai dám bảo trong cuộc mưu sinh
chật vật kia, trong những áp lực và thúc bách của nhu cầu áo cơm, cả trong việc
sinh nở và chăm sóc gần chục đứa con, người đàn bà chưa từng rơi vào tình trạng
khổ đau, tuyệt vọng? Cực nhọc ngang nhau, khổ đau như nhau chỉ khác ở chỗ người
đàn bà thì lặng lẽ hi sinh, gồng mình cam chịu, coi đó là bổn phận và trách nhiệm
của bản thân chỉ mong cho gia đình yên ổn. Còn người đàn ông lại đổ lỗi cho vợ
con, coi gia đình là gánh nặng và là nguồn cơn tạo nên những khổ đau mà lão phải
hứng chịu. Nếu là người biết tôn trọng phụ nữ chân yếu tay mềm thì người chồng
phải xúc động trước sự hy sinh, đồng cam cộng khổ của người vợ. Đằng này lão lại
đánh vợ như để trả thù, đánh để giải tỏa nỗi uất ức “vô lí” trong lòng. Hơn nữa, trận
bạo hành không thể tha thứ kia đâu chỉ xảy ra một lần trong đời người đàn bà hàng
chài. Nó diễn ra như cơm bữa, có tính chất thường xuyên, liên tục, thậm chí như
được “lập trình” một cách vô cảm, thiếu tính người: “Ba ngày một trận nhẹ, năm
ngày một trận nặng”. Nghe thêm lời tâm sự của nhân vật người vợ: “Bất kể lúc nào
thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với
lão …đưa tôi lên bờ mà đánh…” chúng ta càng thấy ở người đàn ông toát lên sự vô
tâm, lạnh lùng, tàn bạo, một cách chuyên chế thâm căn cố đế. Rõ ràng người chồng
không những không trân trọng người vợ của mình mà sự tôn trọng tối thiểu cần có
giữa con người với con người dường như cũng không có nốt. Lấy việc hành hạ vợ
bằng đòn roi và những lời chửi rủa, lăng mạ vợ để tìm sự thanh thản trong lòng
nhưng kết cục thì sao, bi kịch chồng chất bi kịch. Không thể có một sự an nhiên,
thanh thản trong lòng người chồng được đánh đổi bằng những giông bão, cào cứa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
trong tâm hồn và những vết thương trên thân thể của người vợ.
34
Cái nhìn con người mang chiều sâu nhân bản phải là cái nhìn coi trọng con
người ở cả hai phương diện: Thân và Tâm. Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã
thể hiện sâu sắc cái nhìn ấy qua việc phê phán hành động bạo hành của người chồng
lên cả thân xác và tâm hồn của người vợ. Lão tự cho mình cái quyền làm chủ, quyền
sở hữu thân thể của người vợ. Lão đánh vợ bất kể lúc nào lão thấy khổ - đồng nghĩa
với bất cứ lúc nào lão muốn bởi kiếm sống bằng nghề chài lưới trên biển thì cực
khổ là một điều tất yếu như cái tất yếu của phong ba, bão tố ở biển khơi vậy. Sự bất
bình đẳng, sự bất công trong mối quan hệ vợ chồng của gia đình hàng chài – giữa
những năm 80 của thế kỉ XX này phải chăng đã tồn tại trong xã hội Việt Nam bao
đời – một xã hội từng vận hành theo tư tưởng, văn hóa nam quyền và vẫn còn hiện
diện nhức nhối trong các thời kì sau?
Ở đây, chữ dùng của Nguyễn Minh Châu thật sắc. Từ “xách” vợ ra đánh cho
thấy người đàn ông coi vợ chỉ như một món đồ, một vật sở hữu. Mỗi lần lão xách
vợ ra đánh để giải tỏa nỗi khổ đau được miêu tả nhẹ nhàng giống như người ta xách
một món đồ chơi ra tiêu khiển để giải tỏa những mỏi mệt. Lão tự cho mình cái
quyền được xâm hại, chà đạp lên thân thể và làm tổn thương cả tinh thần của người
vợ. Chi tiết này minh chứng rõ nét cho sự hiện diện của tư tưởng nam quyền như đã
ăn sâu vào máu thịt của nhân vật. Hơn nữa, đánh vợ, đánh con xong, “lão lẳng lặng
bỏ đi…không hề quay mặt nhìn lại”. Thản nhiên và vô cảm như chưa từng có
chuyện gì xảy ra. Không một biểu hiện ân hận, không mặc cảm có lỗi thường thấy
của những người bị hoàn cảnh xô đẩy (Trong sáng tác của Nam Cao, Chí phèo từng
khóc lên đau đớn khi nhận ra mình đã từng làm hại biết bao người dân lương thiện,
văn sĩ Hộ cũng tự sỉ vả mình là kẻ khốn nạn và xin vợ tha thứ trong nước mắt khi
đối xử thô bạo với vợ con trong cơn say.) là vì lão cho rằng lão có quyền làm thế.
Và khi tự cho mình cái quyền được hành hạ vợ, đương nhiên người chồng đó không
bao giờ ý thức được mình có lỗi. Vậy nên, cái giọng rên rỉ đau đớn nguyền rủa vợ
cùng mỗi nhát quất không thể hiện tâm trạng đau đớn vì xót xa cho bi kịch gia đình
như ai đó từng nói mà vì nỗi đau khổ của riêng hắn. Do đó, sự tàn bạo, tàn nhẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
trong cách đối xử với người vợ của lão chồng hàng chài khiến Phùng - một người
35
lính từng đối mặt với bọn lính ngụy tàn ác rất nhạy cảm với vấn đề bạo lực đặt ra
nghi vấn: “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không?”. Câu hỏi ngỡ như
“lạc đề”, sự liên tưởng ngỡ như vu vơ nhưng lại có lí (vì tính chất thô bạo, nhẫn
tâm của sự bạo hành trên dường như chỉ là bản chất của lính ngụy). Đồng thời, qua
câu trả lời phủ nhận việc chồng không đi lính ngụy của người đàn bà hàng chài,
Nguyễn Minh Châu chuyển sự lí giải, cắt nghĩa về phía người đọc. Sự tàn bạo, vũ
phu, ích kỉ của người đàn ông hài chài là do đâu? Làm thế nào để con người sống
thiện, sống tốt?
Nhà văn đương đại Italia – Claudio Marges từng nói: “Văn học không quan
tâm đến những câu trả lời nhà văn đem lại mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà
văn đặt ra, và những câu hỏi này luôn rộng hơn bất kì một câu trả lời cặn kẽ nào”
Phải chăng, câu hỏi mà nhà văn đặt ra có thể là vấn đề nhà văn bế tắc, bất lực, có
thể là bài toán cuộc sống muôn đời vẫn chưa có lời giải đáp… Nó có thể hướng tới
một giải pháp hay thôi thúc trách nhiệm, thức tỉnh lương tâm…Những câu hỏi ấy
luôn có một sức ám ảnh dai dẳng, mạnh mẽ và sâu sắc. Ở đây, song song với việc
đặt ra câu hỏi, Nguyễn Minh Châu đã gián tiếp định hướng, gợi mở cho người đọc
tìm kiếm câu trả lời bằng cách xây dựng hình tượng nhân vật người đàn ông hàng
chài với những đặc điểm riêng về hành động, thái độ, ngôn ngữ…trong mối quan hệ
với gia đình, với vợ con như đã phân tích ở trên. Và sự lí giải của chúng tôi dưới
ánh sáng của văn hóa nam quyền (như đã giới thuyết ở chương 1) cho thấy tính cách
độc ác, vũ phu, tàn nhẫn trong quan hệ với gia đình, đặc biệt với người vợ của nhân
vật người đàn ông hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là sản phẩm của tư
tưởng nam quyền, một cách vô thức đã ăn sâu vào tiềm thức của nhân vật nói riêng
và rất nhiều người đàn ông hàng chài khác như lời nhân vật cô y tá trong tác phẩm:
“Thói tàn nhẫn của dân đàn ông đánh cá trong vùng địa phương này – do phong
tục để lại”. Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn trong bài viết Nguyễn Minh Châu và thi
pháp “gói rào” trong Chiếc thuyền ngoài xa cũng nhận định: “Hành hạ đã trở
thành một thứ sinh hoạt trong thường nhật. Thói tàn nhẫn của đàn ông cũng như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
cũng như sự chịu đựng vô lí của đàn bà, thật oái oăm, đã trở thành một phong tục
36
lâu đời” [12, tr.367]. Chữ “phong tục” ấy chính là hủ tục - tư tưởng nam quyền, dù
văn hóa nam quyền dù đã lùi vào quá khứ xa xưa của dân tộc nhưng sức ảnh hưởng
của nó vẫn vươn dài đến cả thời kì hiện đại. Vì vậy, nhân vật lão đàn ông hàng chài
trong Chiếc thuyền ngoài xa không phải là cá biệt. Và cách không trao cho nhân vật
môt cái tên cụ thể, cách gọi phiếm chỉ: “lão” và “người đàn ông” phải chăng là một
dụng ý nghệ thuật, giúp nhà văn mở rộng đối tượng phản ánh. Chỉ qua một nhân
vật, qua bi kịch của một gia đình mà thấy được bức tranh cuộc sống của nhiều gia
đình khác.
Như vậy, từ góc nhìn văn hóa giới, chúng tôi cho rằng thói bạo hành vũ phu
của nhân vật người chồng bắt nguồn từ cội rễ sâu xa là cách ứng xử giới trong xã
hội nam quyền truyền thống. Tư tưởng nam quyền đã “đóng đinh” trong cách ứng
xử của người phụ nữ và đàn ông. Điều này đưa đến những nhận thức sai lầm ở cả
người chồng cũng như người vợ trong quan hệ gia đình: Người chồng như đã nói ở
trên, cho rằng mình có quyền năng tuyệt đối, tự cho mình là ông chủ, có quyền
thống trị, sai khiến và sở hữu người vợ theo cách của riêng mình. Đứng từ phương
diện nữ quyền thì đây là cách nhìn, là hành vi rất đáng bị lên án của lão chồng, cho
dù động cơ đánh vợ của nhân vật này có thể còn xuất phát từ những ẩn ức nào đó
của cuộc sống mưu sinh. Điều này cho thấy, mô hình xã hội nam quyền đã bị cuộc
Cách mạng tháng Tám xóa bỏ nhưng sự ảnh hưởng của văn hóa nam quyền vẫn ăn
sâu vào cách nghĩ, cách nói và hành động của con người cho tới những ngày đất
nước thống nhất, thậm chí cho đến cả ngày nay. Nhân vật người đàn ông hàng chài
là hiện thân của văn hóa ứng xử giới theo tư tưởng nam quyền, cũng là một minh
chứng rõ nét cho thấy sự tác động, ảnh hưởng nặng nề của những quan niệm giá trị
truyền thống tới sự hình thành nhân cách con người.
Như vậy, từ việc truy nguyên nguồn gốc văn hóa trong cách đối xử với thân
xác của người xưa từ quan điểm giới, chúng tôi tìm thấy mối liên hệ giữa “tâm thức
phổ biến - coi thường thân xác” của người xưa với câu chuyện đánh vợ như cơm
bữa bằng cách dùng “chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”của lão
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
đàn ông hàng chài trong truyện. Mối liên hệ đã được nhắc đến ở chương 1 khi
37
chúng tôi chỉ ra việc các yếu tố văn hóa luôn thay đổi chậm hơn với chính trị, nhất
là khi các yếu tố văn hóa có lợi cho người đàn ông trong xã hội nam quyền thì
dường như nó lại không chỉ được thiết chế xã hội ủng hộ tuyệt đối mà còn được
mặc định ngầm như một sự tất yếu của đời sống về vai trò thống trị của người đàn
ông với phụ nữ. Từ cách tiếp cận này, chúng tôi trở lại với thời điểm truyện ngắn ra
đời, khi đất nước đang đi lên chế độ mới, người phụ nữ được coi trọng hơn nhưng
về căn bản những tiền đề đó chưa thể giúp người đàn bà thoát khỏi sự áp chế của
đàn ông. Và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa vẫn chịu chung số
phận với biết bao người phụ nữ trong xã hội cũ, không thể tự quyết định số phận
cuộc đời mình và phụ thuộc vào người đàn ông cả trong đời sống vật chất và tinh
thần. Về phía người đàn ông, vẫn giữa vai trò sở hữu quyền lực tuyệt đối của mình
với người đàn bà, áp chế và đánh đập họ như một nhu cầu ích kỉ là sự không coi
trọng thân thể người phụ nữ, cho dù đó là người vợ của mình. Thứ quyền lực khủng
khiếp ấy được nhà nghiên cứu Trần Đăng Điệp trong bài viết Vấn đề phái tính và
âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại đã nhắc đến trong cách
đánh vợ đầy khôn khéo của cánh đàn ông miền Trung nước ta: “Trong chuyến đi
công tác tại Nghệ An, tôi được nghe trực tiếp một nhóm nông dân đọc cho nghe câu
ca dao (có lẽ là ca dao hiện đại): Đánh vợ thì đánh sáng mai- Đừng đánh buổi tối
chẳng ai cho nằm. Trong câu này, thế thượng phong vẫn thuộc về đàn ông qua biểu
hiện uy quyền: đánh vợ. Thực ra bà vợ cũng có quyền tương đối (không cho nằm).
Nhưng nếu các ông rút kinh nghiệm( không đánh vợ vào buổi tối mà chuyển sang
buổi sáng ) thì chắc chắn, mọi chuyện lại đâu sẽ vào đó” [11]. Như vậy, thực tế cho
thấy ngay cả văn học dân gian với những câu ca từ thuở ban đầu đến những câu ca
thời hiện đại vẫn luôn xác nhận vai trò kẻ mạnh của đàn ông so với đàn bà. Thực tế
này không thể thay đổi một sớm một chiều và nguyên nhân đánh vợ của lão đàn ông
hàng chài không nằm ngoài mối liên hệ văn hóa ấy.
Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kì sau năm 1975, khá nhiều
hình ảnh người chồng - người chủ trong gia đình được nhà văn khắc họa trong cái
nhìn văn hóa ứng xử giới, và chịu sự chi phối của tư tưởng nam quyền cố hữu. Sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
xuất hiện của những đức ông chồng này luôn có tầm ảnh hưởng cũng như chi phối
38
mọi quan hệ, hoạt động trong gia đình mình. Hình tượng nhân vật người đàn ông
hàng chài là hiện thân rõ nhất của ý thức nam quyền qua cách nghĩ, cách nói, cách
hành động... Tuy nhiên, còn có thể thấy đặc điểm này ở một số nhân vật người đàn
ông khác trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu với tư cách là người chồng như
nhân vật người chồng Tề trong trong truyện ngắn Chợ Tết, nhân vật Nhĩ người
chồng của chị Liên trong truyện ngắn Bến quê và đặc biệt là nhân vật chồng mụ
Huệ - Lão Khúng trong Khách ở quê ra và Phiên Chợ giát. Trong số các nhân vật
này, ta có thể thấy nhân vật chồng Tề trong Chợ Tết có cách ứng xử giới theo kiểu
nam quyền bạo hành phụ nữ như lão đàn ông hàng chài khi nhiều bận đuổi đánh vợ.
Trong truyện, nhân vật Định về thăm lại làng quê, gặp lão Đất quản chợ và tình cờ
gặp lại Tề trong một hoàn cảnh trớ trêu, rách rưới trong phiên chợ cá ngày tết.
Trong trí nhớ của nhân vật Định thì Tề từng có một thời áo trắng, cô là “một người
con gái có sắc ở trong làng”, và chắc chắn nếu “không có họ với nhau thì Định đã
lấy Tề”. Mười năm sau gặp lại người con gái hương sắc ngày nào, Định hỏi lão Đất
về gia cảnh của Tề vì nghĩ rằng cô ấy “hình như bây giờ vất vả ?”. Lão Đất trả lời:
“Lại còn vất vả à? Khổ nhục như con chó, tính nết cũng khác đi. Thằng chồng nó
đánh, mấy lần đã chạy đi trẫm mình”. Như vậy, nếu trong tương quan với người
đàn bà hàng chài, Tề là một người con gái có sắc, có điều kiện hơn và thực tế cô đã
có quyền lựa chọn cho mình một người chồng như ý nếu không có quan hệ họ hàng.
Sau cùng, người đàn ông mà cô lấy làm chồng và gắn bó suốt cuộc đời còn lại hóa
ra lại là một kẻ vũ phu đáng sợ. Tề tần tảo, chịu thương chịu khó với công việc vất
vả tại chợ cá của mình thế nhưng lão Đất lại cho rằng Tề “khổ nhục như con chó”.
Lời đánh giá này của lão Đất có lẽ không chỉ ở chỗ “Thằng chồng nó đánh” mà có
lẽ còn có một ẩn ức gì đau đớn lắm nên uất ức cô đã “mấy lần chạy đi trẫm mình”.
Tề đã ý thức về nỗi khổ sở mà thân thể mình phải chịu đựng và hành động tìm đến
cái chết là một giải pháp tiêu cực để giải thoát cho thân thể. Ở Chợ Tết, nhân vật
chồng Tề chỉ xuất hiện gián tiếp qua lời kể của nhân vật khác nhưng đã để lại những
nhức nhối trong lòng người đọc về thân phận của người phụ nữ nông thôn miền
biển trước cách ứng xử giới là lối bạo hành nam quyền, coi thường thân xác cũng
như tinh thân của người vợ. Qua đây, Nguyễn Minh Châu đã lên tiếng phê phán thói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
bạo lực dã man - một hệ lụy của xã hội nam quyền từ xa xưa vẫn còn có những tác
39
động tiêu cực không nhỏ đến sự hình thành nhân cách cũng như những giá trị sống
của con người thời hiện đại. Văn hóa ứng xử giới mà xã hội nam quyền thiết lập
cũng chính là nguyên nhân tạo nên câu chuyện buồn trong gia đình hàng chài kia sẽ
còn gây bi kịch cho những gia đình nào khác nữa trong xã hội ngày hôm nay?
2.1.2. Câu chuyện đẻ nhiều con
Người phụ nữ đẻ nhiều con là câu chuyện không lạ đối với người Việt Nam.
Hiện tượng sinh nhiều con có những nguyên nhân sâu xa của nó, ví dụ như trong
các lĩnh vực kinh tế giản đơn như làm ruộng, đánh cá vốn đòi hỏi nhiều ở sức mạnh
cơ bắp, ở đám đông nên người xưa sinh con nhiều để có nhiều sức sản xuất. Tuy
nhiên, như chúng tôi đã dẫn ở phần trên ý kiến của tác giả Thiên Phương: “Và nhiều
hệ quả khác của bất bình đẳng giới còn thể hiện ở tình trạng phụ nữ thường là nạn
nhân của bạo lực gia đình, bạo hành tình dục. Họ cũng mất phần lớn hoặc thậm chí
không có quyền chủ động với những biện pháp kế hoạch hóa gia đình dù được
khuyến cáo”.[26].
Trở lại với truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, chúng ta thấy lão chồng
không trực tiếp lên tiếng về vấn đề sinh con của người đàn bà nhưng qua chi tiết
người đàn bà tâm sự tại tòa án huyện đã hé mở một lí do sâu xa dẫn tới nạn bạo
hành của người chồng: “Giá tôi đẻ ít đi…” và “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở
thuyền đẻ nhiều quá”. Ở đây, tác giả đã đề cập đến một vấn đề tế nhị và cũng rất
nhân bản của con người, đó là bản năng sinh học và cũng là thiên chức của người
phụ nữ mà tạo hóa đã ban cho. Nói như nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, phụ nữ là người
“…sinh ra những đứa con/ Để tiếp tục giống nòi và dạy chúng biết yêu, biết hát”.
Cao cả và thiêng liêng nhưng để thực hiện và làm tròn được thiên chức ấy, người
phụ nữ nào cũng phải đối mặt và nếm trải những khổ đau, thua thiệt trong suốt cuộc
đời. Với những người phụ nữ không nhận được sự trân trọng và cảm thông từ phía
người chồng, nỗi vất vả, thiệt thòi càng lớn.
Văn hóa nam quyền đã dẫn đến một thực tế còn tồn tại đến ngày nay là người
phụ nữ khi lấy chồng hoàn toàn phải chịu lệ thuộc vào chồng trên mọi phương diện.
Họ không được chủ động, không có được tiếng nói trong bất cứ lĩnh vực nào của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
40
đời sống kể cả vấn đề thuộc về dục tính hay vấn đề sinh con. Quyền chủ động hoàn
toàn thuộc về người đàn ông. Như vậy, lại một phương diện nữa thuộc vấn đề thân
thể, người phụ nữ cũng bị đối xử bất công bởi người chồng mang tư tưởng nam
quyền. Lời than muộn mằn “Giá tôi đẻ ít đi” của người đàn bà hàng chài cho thấy
chị hoàn toàn không có quyền quyết định đẻ bao nhiêu con, để rồi gánh nặng mưu
sinh cứ tăng dần sau sự ra đời của mỗi đứa con, kéo theo đó là bi kịch áo cơm và
những bi kịch đau đớn khác. Bi kịch chồng bi kịch mà con đường giải thoát thì bế
tắc ở những trận đòn roi mà người làm vợ, làm mẹ ấy phải hứng chịu. Như vậy
trong lời than trên và mặc cảm có lỗi “Cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ
nhiều quá ” ẩn chứa lời phê phán ý thức nam quyền của lão chồng nói riêng và đám
đàn ông làng chài nói chung – những người được coi là “phái mạnh” nhưng chưa
bao giờ thật sự tôn trọng và có ý thức bảo vệ, chở che người phụ nữ của mình.
Đàn bà làng chài tự thấy mình có lỗi vì đẻ nhiều vậy còn các ông chồng thì
sao? Họ nào có phải do ham đẻ hay ham muốn dục tính. Đẻ nhiều con dẫn đến cuộc
sống cơ cực mà người vất vả, thiệt thòi hơn lại chính là người vợ. Ngay cả khi
người vợ không muốn đẻ nhiều con thì họ cũng không có quyền tự quyết về điều
này. Chính lão chồng với uy quyền của mình cùng sự hạn chế về nhận thức sức
khỏe sinh sản đã đẩy người vợ đến chỗ phải sinh ra những đứa con như là nguồn
cơn đưa đến sự nghèo khó cho gia đình. Nhìn sang các sáng tác khác của Nguyễn
Minh Châu giai đoạn sau năm 1975, chúng ta thấy hiện thực người vợ phải phụ
thuộc chồng ngay cả ở việc sinh đẻ được miêu tả khá đậm nét. Tác phẩm Khách ở
quê ra và Phiên chợ Giát đã khắc họa sống động hình tượng nhân vật lão Khúng -
chồng mụ Huệ - một kiểu đàn ông cũng mang tư tưởng nam quyền cố hữu. Một
biểu hiện rõ nét cho tinh thần bảo thủ tư tưởng này ở nhân vật là thái độ sở hữu thân
thể người vợ - trong đó rất thiếu tôn trọng vấn đề sức khỏe sinh sản của vợ giống
như nhân vật người chồng trong Chiếc thuyền ngoài xa. Trong truyện ngắn này, có
một chi tiết xuất hiện ngỡ như thoáng qua nhưng lại mang chở thông điệp của người
cầm bút về tinh thần phê phán nam quyền rõ nét. Đó là chi tiết khi cô y tá của trạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
xá xã phát thuốc ngừa thai cho đám đàn bà đi khai hoang, đã khuyên vợ lão Khúng:
41
“Chị Huệ, chị đẻ ít thôi, ba cháu là đủ rồi!”. Biết chuyện, lão Khúng đã phản ứng
lại ý kiến của cô ý tá bằng cách vừa hỏi ngược lại vừa khẳng định vị thế của người
chủ trong gia đình của mình: “Đủ sao được? Dù vợ không muốn lão cũng bắt vợ
phải đẻ. Đẻ rồi nuôi, sợ gì? Cái kho người nằm trong bụng vợ chứ có ở đâu xa?”.
Cách nói của lão Khúng cho thấy một điều mặc nhiên được thừa nhận trong gia
đình lão, lão làm chủ thân thể vợ lão, mặc dù trong thực tế vợ lão mới là người
mang thân thể đó. Nghịch lí này cho thấy mụ Huệ dù mang thân thể của bản thân
mình nhưng lại không được làm chủ, và khi không được làm chủ thì cũng không có
quyền quyết định mình sẽ đẻ con vào lúc nào, đẻ mấy con… quyền quyết định ấy
thuộc về lão Khúng, thuộc về người chồng. Cũng cần thấy thêm ở Huệ ít nhiều có
một sự mặc cảm nhất định về vấn đề trinh tiết với lão Khúng (khi Huệ đã thất tiết
cùng với người tình thành thị của mình), do vậy mụ ở vào tình cảnh rất éo le –
không thể cất tiếng nói đòi hỏi của cá nhân mình, mụ chỉ còn biết nín lặng làm theo
lão. Đối với lão, mụ Huệ là “cái máy đẻ”, và đã là cái máy thì lão phải khai thác
cho hết công năng của nó và phục vụ cho mục đích của mình. Trong truyện, hoàn
cảnh của lão Khúng thật đặc biệt. Lão đã dám từ bỏ làng biển để lên khai hoang trên
cái vùng đất “chó ăn đá, gà ăn sỏi”, “rừng thiêng, hoang vắng đi hàng nửa ngày
không gặp một người” với đầy rẫy sự rình rập của nhiều loài thú dữ. Tại đây lão
cùng các con đổ bao công sức và cả máu để cải tạo vùng đất lổng chổng những đá
và cỏ thành một vùng đất trù phú, phì nhiêu, thành chốn neo đậu bình yên cho gia
đình: “Chung quanh cái “ổ gấu” dần dần mọc lên một vành đai sắn ở phía ngoài,
sắn lên xanh ngắt chen chúc cây dại. Đậu xanh, đậu tương ở sau nhà. Lúa trẻ, lúa
nếp trước nhà”. [9, tr.325]. Để làm được điều này, lão cần mụ Huệ đẻ cho lão thật
nhiều con để có người cải tạo đất đai, để đem lại cái uy thế cho gia đình lão nữa. và
thực tế, mụ Huệ đã đẻ ra cho lão gần chục đứa con có cả nếp cả tẻ. Chính Nguyễn
Minh Châu khi trao đổi với nhiều tác giả khác trong một cuộc đàm đạo về truyện
ngắn của mình đã có nói về những nét tiêu cực của lão Khúng : “nét tiêu cực đến độ
tàn bạo của lão là đã biến Huệ trở thành một cái máy đẻ”. Phê phán tư tưởng nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
quyền ở Nguyễn Minh Châu cũng là cách thể hiện ý thức bảo vệ nữ quyền của tác
42
giả. Trên ý nghĩa này, có thể nói sáng tác của Nguyễn Minh châu sau năm 1975
thấm đượm giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc.
Như vậy cả hai người chồng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” và “Phiên chợ
Giát” đều đã có cách ứng xử giới mang đậm tư tưởng nam quyền, giống như một sự
áp chế - cưỡng bức khiến cho người vợ phải sinh con một cách thụ động, ngoài ý
muốn và điều quan trọng là điều này không chỉ đem đến sự mệt mỏi của người phụ
nữ trong chín tháng mang nặng mà còn là những đau đớn mà cánh đàn ông không
thể hiểu được khi người vợ của mình phải vượt cạn. Thậm chí, mỗi một lần như
vậy, sinh mệnh của người phụ nữ lại phải đối mặt với rất nhiều sự rủi ro. Nói như
thế để thấy hết được sự tàn bạo không chỉ của lão Khúng, của người chồng hàng
chài mà của nhiều người chồng mang tư tưởng nam quyền khác đã gây ra nỗi khổ
cho người phụ nữ, người vợ của mình mà không thấy hết được hệ lụy của nó.
Về vấn đề này, nhìn rộng ra ở các nước phát triển, họ có cái nhìn hoàn toàn
khác, thậm chí được quy định thành các điều luật để bảo vệ quyền lợi cho người
phụ nữ. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát một đoạn văn tiếng Anh trên Wikipedia về
điều khoản mà luật pháp Mỹ gọi là “Hiếp dâm trong hôn nhân” (Marital rape). Lược
dịch mục từ Marital Rape: “Hiếp dâm trong hôn nhân" theo luật pháp Mỹ, còn được
gọi là spousal rape (hiếp dâm giữa vợ chồng) là quan hệ tính dục không có sự đồng
thuận trong đó thủ phạm chính là vợ hay chồng của nạn nhân. Nó chính là hình
thức hiếp dâm trong quan hệ vợ chồng, một hình thức của bạo lực gia đình và của
lạm dụng tình dục. Hiện nay, hiếp dâm trong hôn nhân là bất hợp pháp ở 50 bang
của Mỹ. ...Việc hình sự hóa hiếp dâm trong hôn nhân ở Mỹ bắt đầu từ giữa những
năm 1970 và đến năm 1993 thì chính thức bị coi là tội hình sự trên tất cả 50
bang...”.
Có thể nói đây là một điều khoản tiến bộ và nhân văn của luật Mỹ mà ở Việt
Nam người đàn ông và phụ nữ (vợ và chồng) có lẽ chưa thể hiểu nổi, để thấy không
chỉ là chuyện đánh đập, xúc phạm người vợ mà ngay cả việc người vợ phải đẻ nhiều
cũng nói lên tính chất nô lệ về thân thể của phụ nữ, cũng có gì đó gần với sự "hiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
dâm" vì người vợ dù muốn hay không cũng không có quyền lựa chọn riêng, phải đẻ
43
như một cái máy cho chồng. Ở Ấn Độ cũng có nhiều bài viết đề cập đến thân thể
người vợ, có người còn nói, hôn nhân ở đây chỉ là sự hợp pháp hóa cho sự lạm dụng
thân thể người vợ (về tình dục, về lao động, về sự chà đạp, bạo hành). Theo đó, ta
thấy, một vấn đề tế nhị như vậy song ở các quốc gia tôn trọng nữ quyền họ đều tính
đến chi tiết. Nhận thức về quyền con người, về quyền phụ nữ trước hết phải là nhận
thức đề cao, tôn trọng thân thể phụ nữ. Đối chiếu với cách ứng xử giới của nhân vật
người đàn ông hàng chài, của lão Khúng, của chồng mụ Tề và những người đàn ông
có biểu hiện nam quyền trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975
chúng ta mới thấy hết được tư tưởng đi trước thời đại của nhà văn – một người đã
dành những trang viết xúc động nhất của đời mình để viết về người phụ nữ, về vấn
đề nữ quyền.
Tóm lại, từ điểm nhìn văn hóa giới là tư tưởng nam quyền, chúng tôi tìm
hiểu nhân vật lão đàn ông hàng chài trên hai phương diện là vấn đề đối xử với thân
thể người vợ và câu chuyện đẻ nhiều con để từ đó đưa đến những lí giải mới về
hành động của nhân vật. Thông qua hình tượng nhân vật này, Nguyễn Minh Châu
muốn thể hiện tinh thần phê phán tư tưởng nam quyền cố hữu và cảnh báo xã hội về
sự tha hóa nhân cách con người trong cuộc sống thời hậu chiến, nhất là trong quan
hệ hôn nhân gia đình. Người chồng mang tư tưởng nam quyền đó chính là thủ phạm
tạo nên bi kịch gia đình và những đau đớn, những vết thương lòng không dễ gì băng
bó, rịt lành nơi những người mà lẽ ra hắn phải yêu thương nhất. Dẫu có bào chữa
bằng những áp lực của cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn, gian khó; bằng sự dốt nát,
thất học nhưng hành động bạo hành vợ bằng những trận đòn roi như cơm bữa, bằng
những lời nguyền rủa, bằng việc biến vợ mình thành cái máy đẻ cũng khó được cảm
thông. Đã đến lúc chúng ta phải đối thoại lại với những gì đã trở thành “phong tục”,
loại bỏ khỏi cuộc sống con người những “bóng ma” tư tưởng có nguy cơ cản trở và
đe dọa hạnh phúc của con người cũng như nhấn chìm con người trong hố sâu của
tội lỗi và sự tha hóa. Và bằng tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thực sự đã
lên tiếng “đấu tranh cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày
một tốt hơn”. Nhà văn và tác phẩm của ông đã làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
mình đối với thân phận con người. Trân trọng biết bao!
44
2.2. Ngƣời vợ nhƣ là sản phẩm của tƣ tƣởng nam quyền
M. Gorki nói: “Văn học là nhân học”, như vậy văn chương xét đến cùng là câu
chuyện về thân phận con người. Đó là lẽ sống còn, là vấn đề cốt tử của nghệ thuật
nói chung và văn học nói riêng. Do vậy, một tác phẩm văn học chân chính không
bao giờ đứng ngoài những vấn đề thuộc về quyền sống, những khát khao nhân bản,
những giá trị nhân văn trong cuộc sống của mỗi con người. Trong dòng cảm hứng
ấy, ngòi bút của các nhà văn đặc biệt ưu ái cho người phụ nữ. Và như một sự đền bù
xứng đáng, nhìn lại lịch sử văn học nhân loại nói chung và văn học nước nhà nói
riêng , những tác phẩm có sức sống vượt thời gian, để lại dấu ấn trong mọi thời đại
đều viết về phụ nữ. Đó là Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo, là Sở từ của Khuất
Nguyên, Truyện Kiều của Nguyễn Du, các khúc ngâm của Đặng Trần Côn và
Nguyễn Gia Thiều…
Cùng viết về đề tài người phụ nữ, nhưng ở mỗi thời kì lịch sử, mỗi nhà văn
lại có những khám phá riêng. Nền văn học cách mạng chủ yếu đi vào những đóng
góp của người phụ nữ trong chiến tranh chứ chưa đi vào khai thác vấn đề thân phận
con người cá nhân của họ. Nếu trước đây, vì lợi ích và sự sống còn của dân tộc, con
người cá nhân tạm thời phải gác lại, nhường chỗ cho con người tập thể, thì khi hòa
bình lập lại, Nguyễn Minh Châu tiếp tục quay trở lại vấn đề thân phận con người cá
nhân – trong đó, nhà văn đặc biệt quan tâm đến vấn đề văn hóa ứng xử giới trong
quan hệ hôn nhân gia đình mà người đàn ông luôn áp đặt tư tưởng nam quyền lên
người đàn bà bằng việc xác lập vị thế làm chủ thân thể của họ. Nguyễn Minh Châu
trong suốt cuộc đời cầm bút đã luôn ý thức về vai trò, trách nhiệm của mình với xã
hội, với những cảnh đời như thế để: “nâng giấc cho kẻ cùng đường, tuyệt lộ, bị cái
ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm
hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con
người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người
không còn ai để bênh vực”. [18, tr.165]. Và ông đã dùng văn chương để cất lên
tiếng nói bảo vệ và trân trọng những quyền cơ bản, đặc biệt là khát khao hạnh phúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
của con người, nhất là người phụ nữ. Nhà văn đã từng nói: “Ông trời sinh ra tôi để
45
kêu thét lên các nỗi thống khổ của con người và kêu gọi con người ta hãy lại với
nhau” Phải chăng lời tâm sự đó cũng chính là sứ mệnh của văn chương và cũng là
thiên chức của người nghệ sĩ. Vì thế mà sáng tác của ông luôn thấm đẫm giá trị
nhân bản, nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, nhiều sáng tác sau năm 1975 của nhà văn
như: “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Bến quê”, “Khách ở quê ra”, “Phiên chợ Giát”,
“Chợ Tết”… cứ ám ảnh trong lòng người đọc da diết một nỗi “quan hoài thường
trực về thân phận con người”. Trong đó, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã hướng tới
phản ánh, mô tả chân thực và đầy thương xót đối với những mảnh đời bất hạnh,
những bi kịch đau đớn của kiếp phận đàn bà. Đó là một cuộc đời dằng dặc cô đơn,
buồn tẻ, một mình vất vả nuôi con khôn lớn của Liên trong Bến quê; là những tủi
hờn, thua thiệt, lam lũ suốt mấy mươi năm cuộc đời của mụ Huệ trong Khách ở quê
ra và Phiên chợ Giát, đó là nỗi vất vả gian truân của mụ Tề trong Chợ Tết, đặc biệt
là những nỗi đau hơn xát muối, những vết thương lòng không bao giờ liền sẹo của
người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa… Bằng “tấm lòng thấu suốt
nhân tình” cùng cái nhìn tinh tế, thấu đáo của một người cầm bút, nhà văn đã chỉ ra
trong hành trình số phận của người phụ nữ, từ vai trò là người vợ đến vai trò người
mẹ, họ luôn phải chịu nhiều thiệt thòi, nếm trải nhiều những vất vả, đắng cay,
những đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần. Bao nhiêu mảnh đời là bấy nhiêu số
phận, có thể họ khác nhau về tuổi tác, hoàn cảnh nhưng cùng chung một bi kịch –
cái bi kịch “bạc mệnh” - điều mà Nguyễn Du từng đau đớn thốt lên cách đây mấy
trăm năm: “Đau đớn thay phận đàn bà./ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” giờ
vẫn còn là nỗi nhức nhối trên những trang văn, nỗi âu lo, trăn trở của người cầm
bút.
Trong các sáng tác viết về người phụ nữ của ông sau năm 1975, có lẽ nhân vật
người đàn bà hàng chài là nhân vật thành công nhất và cũng để lại ám ảnh nhiều
nhất trong lòng người đọc. Nếu như với hình tượng nhân vật người chồng, nhà văn
đã thể hiện tinh thần phê phán nam quyền cố hữu thì ở nhân vật người đàn bà hàng
chài, ông lại muốn thể hiện ý thức nữ quyền của mình. Trong đó, ý thức nữ quyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
của nhà văn được thể hiện qua những quan sát về ảnh hưởng của xã hội nam quyền
46
đến cách nghĩ, cách hành động, cách nói năng của người vợ - là sản phẩm của xã
hội nam quyền. Tuy nhiên, nhìn từ văn hóa giới một lần nữa chúng tôi khẳng định
không thể tiếp cận vấn đề nữ quyền chung chung mà phải gắn nó với cái nhìn về
thân thể con người. Với người đàn bà hàng chài, cả cuộc đời chung sống với một
người chồng luôn tự cho mình có quyền sở hữu thân thể vợ, có thể đánh đập, có thể
bắt vợ mình sinh con bất cứ lúc nào thì người đàn bà không còn sự lựa chọn nào
khác ngoài việc chỉ còn biết mặc nhiên thừa nhận sự nô lệ về thân phận, lệ thuộc
vào chồng của mình. Sự nô lệ về thân thể của người vợ còn thể hiện ở cả sự lam lũ,
cực nhọc của chị trong cuộc sống gia đình.
Về cách đọc nhân vật người đàn bà hàng chài cho đến nay mới chỉ có nhà
nghiên cứu Trần Nho Thìn bước đầu đặt ra việc xem xét nhân vật này từ góc độ
bình đẳng giới khi cho rằng: “bản thân người phụ nữ do nhận thức hạn chế, cũng tự
chấp nhận sự thiệt thòi, gánh chịu nỗi khổ, không biết đến quyền sống cho riêng
mình”. [38, tr.161]. Trên tinh thần tiếp cận, kế thừa quan điểm này, chúng tôi nhìn
từ văn hóa giới là tư tưởng nam quyền để tìm hiểu nhân vật người đàn bà hàng chài
và nhận ra Nguyễn Minh Châu khắc họa hình ảnh người đàn bà hàng chài không
phải chỉ để ca ngợi vẻ đẹp khuất lấp – cam chịu, nhẫn nhục cũng không phải chỉ để
tôn vinh những hi sinh cho chồng con của nhân vật mà tác giả thông qua nhân vật,
muốn đặt ra vấn đề bi kịch, thân phận của người phụ nữ trước cái đói nghèo, lạc
hậu, và sự bất bình đẳng giới. Từ đó đặt ra câu hỏi - phải làm thế nào để chấm dứt
tình trạng khổ đau và mang lại hạnh phúc cho người phụ nữ trong cuộc sống ngày
thường, nhất là khi đất nước đã hòa bình?
2.2.1.Tư tưởng chấp nhận đòn roi, không đấu tranh
Bước vào tác phẩm, người đàn bà hàng chài để lại trong lòng người đọc ấn
tượng về một khuôn mặt mệt mỏi, bơ phờ, tái ngắt sau một đêm thức trắng kéo lưới.
Công việc lao động kiếm sống ngoài biển khơi thật nhọc nhằn, cơ cực. Nhưng biết
làm thế nào, vì sự sinh tồn, vì cái ăn cái mặc cho một sắp con trên dưới chục đứa,
người phụ nữ ấy và có lẽ tất cả những người làm mẹ đều sẵn sàng đối mặt với khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
khăn, với cuộc mưu sinh đầy bất trắc, hiểm nguy ấy. Thật đáng trân trọng biết bao
47
tấm lòng người mẹ! Vậy mà, thay vì trân trọng vợ, gần gũi sẻ chia những vất vả của
vợ mình, lão đàn ông hàng chài lại tự cho mình cái quyền sở hữu thân thể của vợ,
để rồi khi bình minh vừa lóe rạng cũng là lúc kết thúc một buổi kéo lưới thâu đêm,
người đàn ông lại trút những trận đòn dã man lên thân thể người vợ của mình.
Trốn chạy hay phản kháng bằng nhiều hình thức khác nhau như chống trả, kêu
la…là phản ứng thông thường của bất cứ ai khi bị người khác xâm phạm. Vậy mà lạ
lùng thay khi bị chồng bạo hành: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn
nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn” [9,
tr.257]. Sự im lặng gồng mình, nén chịu những đau rát từ trận đòn trút xuống như
lửa cháy bằng cái dây lưng của lính ngụy từ sức vóc vạm vỡ của người chồng của
người đàn bà đã gieo vào lòng người đọc câu hỏi nhức nhối: tại sao người phụ nữ ấy
lại cắn răng nhẫn nhục đến thế? Do nhận thức hạn chế về quyền sống chính đáng
của mình hay do sự thống trị, áp đặt của tư tưởng nam quyền đã ăn sâu vào tiềm
thức của chị? Có lẽ cả hai lí do trên đã tạo nên một con người chỉ biết khuất phục,
biết chịu đựng, phục tùng trong chị. Đặc biệt, chúng tôi muốn lí giải câu hỏi trên từ
truyền thống văn hóa ứng xử giới của người phụ nữ trong quan hệ với chồng và gia
đình.
Trong xã hội nam quyền xưa, những tư tưởng cổ hủ như “Trọng nam khinh
nữ” “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã đẩy người phụ nữ xuống vị trí thấp
kém nhất trong gia đình cũng như ngoài xội. Đặc biệt tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ
đức” đã trở thành một sức mạnh đầy công năng mà nam giới có được để thống ngự,
sai khiến, áp đặt người phụ nữ trong mọi phương diện của cuộc sống. Những thứ đó
đã như một sợi dây vô hình trói buộc người phụ nữ vào cái được gọi là “bổn phận”,
“nghĩa vụ” đối với chồng và gia đình nhà chồng. Khi bước vào hôn nhân, người phụ
nữ hoàn toàn trở thành kẻ sống lệ thuộc vào chồng, cũng là người sẽ sở hữu cuộc
đời họ. Tư tưởng nam quyền đã tạo ra một sự bất bình đẳng trong văn hóa ứng xử
giới đã ăn sâu vào tiềm thức của cả nam giới và nữ giới. Người đàn ông tự cho mình
cái quyền được sở hữu, chủ động sai khiến, khống chế, áp đặt người vợ của mình ở
tất cả mọi khía cạnh, mọi phương diện của cuộc sống. Đáng buồn hơn, chính người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
phụ nữ lại cũng mặc nhiên thừa nhận vị trí thấp kém và thân phận “nô lệ” của mình
48
trong gia đình. Họ tự ép mình sống theo khuôn mẫu đạo đức: “Công, dung, ngôn,
hạnh” và bổn phận “Xuất giá tòng phu” do chính văn hóa nam quyền tạo ra nhằm
mang lại lợi ích cho người đàn ông. Họ bằng lòng “nhắm mắt đưa chân”, để “mặc
cho con tạo xoay vần”, cho số phận mình chảy trôi theo điều may rủi. Vậy nên dù
tốt, dù xấu, thậm chí độc ác, tàn nhẫn thì người chồng vẫn là tất cả đối với họ.
Người vợ chỉ biết và phải biết nghe theo, làm theo, phục tùng chồng triệt để dù điều
đó vô lí, là bất lợi và thiệt thòi cho mình. Người phụ nữ không có bất cứ tiếng nói
nào trong gia đình. Họ trở thành cái bóng của chồng. Bao thế hệ đàn bà Việt Nam
đã phải sống im lặng trong cay đắng, dẫu cuộc sống có là địa ngục thì họ cũng
không dám “nổi loạn”, “tung hê ” tất cả để tự giải phóng mình. Giới nghiên cứu gọi
đó là hiện tượng “mất ngôn”, “mất tiếng nói” của người phụ nữ trong đời sống cũng
như trong văn học. Và buồn thay khi mà hiện tượng này, văn hóa ứng xử giới này
vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm tới những người phụ nữ Việt Nam thời hiện đại.
Nhìn lại hành vi ứng xử của người đàn bà hàng chài trước những đòn roi thô
bạo của chồng, chúng ta dễ dàng thấy người phụ nữ ấy chính là sản phẩm của văn
hóa nam quyền. Chị dường như thuộc về xã hội nam quyền xa xưa – nơi người đàn
bà từ khi sinh ra đã phải chấp nhận những bất công, những thiệt thòi để rồi họ lấy sự
chấp nhận thiệt thòi trong đời như là một biểu hiện của đạo đức.
Dõi theo câu chuyện, người đọc hết đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác,
chưa hết bức xúc trước thái độ cam chịu hứng lấy những làn roi quất từ phía người
chồng của người đàn bà miền biển thì người đọc lại bất bình trước việc chị còn tự
nguyện giơ tấm lưng áo bạc phếch ra làm phương tiện cho chồng giải tỏa những bức
bối trong lòng. Chị tâm sự “Bất kể lúc nào thấy khổ qua là lão xách tôi ra
đánh,…sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà
đánh…” Không trốn chạy hay phản kháng, người vợ ấy còn tự nguyện hứng lấy đòn
roi. Cái nghịch lí trong cuộc sống người đàn bà hàng chài hôm nay phải chăng được
sinh ra từ cái “vô lí” trong ứng xử, trong quan hệ vợ - chồng nhưng đã được “hợp lí
hóa” bởi tư tưởng nam quyền truyền thống. Vậy nên, cứ “ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng”, chị sống trong cực hình, trở thành “tấm bia” đón lấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
những “viên đạn” được bắn ra từ nỗi uất ức, bực dọc, giận dữ quyện vào sức vóc
49
cường tráng, vạm vỡ của một người đàn ông miền biển. Những “viên đạn” ấy theo
năm tháng đều găm lại nơi trái tim người vợ, khoét sâu hơn mỗi ngày vào vết
thương trên da thịt cùng vết thương lòng chưa kịp liền sẹo và cũng chưa bao giờ
liền sẹo. Rõ ràng, sức mạnh của tư tưởng nam quyền đã tác động quá lớn vào nhận
thức và tâm hồn của chị, thậm chí nó thủ tiêu luôn cả ý thức làm người, nhận thức
cơ bản về quyền sống của một con người nơi chị. Để rồi, hậu quả không phải chỉ
một mình người phụ nữ ấy gánh chịu là những đớn đau về tinh thần và thể xác mà
bi kịch gia đình còn dồn chạy về những đứa con thơ. Bạo lực chỉ sinh ra bạo lực chứ
chưa bao giờ chấm dứt được bạo lực, vì vậy bi kịch trong gia đình hàng chìa kia cứ
bị nhân lên, khoét sâu hơn theo những trận bạo hành.
Như trên chúng tôi đã nói, người chồng mặc nhiên tự cho mình cái quyền
đánh đập, hành hạ vợ là điều không thể tha thứ nhưng việc người đàn bà nhẫn nhục,
âm thầm chịu đựng đòn roi, giơ tấm lưng cho chồng đánh như một bổn phận làm vợ
(phản ứng tâm lí, hành vi ứng xử phổ biến của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội
nam quyền như đã nói ở trên) cũng khiến chúng ta không thể đồng tình. Ngỡ tưởng
rằng đó là sự hi sinh cho hạnh phúc của những đứa con, cho sự bình yên và bền
vững của gia đình: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể
sống cho mình như ở trên đất được” thế nhưng đó chỉ là một sự hi sinh mù quáng.
Đành rằng chi tiết này cũng nói lên tấm lòng vị tha, đức hi sinh cao cả của một
người mẹ - vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam truyền thống rất đáng được
trân trọng tuy nhiên sao nó cứ khiến chúng ta cảm thấy đau và càng khó để ngợi ca,
cổ xúy. Liệu cách làm của người đàn bà có phải là duy nhất để mang lại sự bình yên
cho những đứa con thơ? Câu trả lới thiết nghĩ đã có trong văn bản: “Chiếc thắt lưng
đã nằm gọn trong tay thằng bé” và nó “dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật
vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng…” của người cha. Như vậy, bi kịch
chồng chất bi kịch, nỗi đau chồng chất nỗi đau, không một tổn thương nào dễ xoa
dịu cả, đặc biệt là tổn thương trong tâm hồn đứa trẻ. Hành động đánh lại bố mình
của thằng Phác xuất phát từ tình yêu thương mẹ vô bờ đáng để trân trọng biết bao
nhưng cũng lại đáng lên án biết bao bởi nó đi ngược với luân thường đạo lí. Tại sao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
một đứa bé lại bị đẩy vào hoàn cảnh trớ trêu đến thế? Có hiếu với mẹ lại trở thành
50
bất hiếu với cha, sống trọn đạo với mẹ nhưng lại phải lỗi đạo với cha. Có lẽ đây mới
là bi kịch, là nỗi đau khiến trái tim người cầm bút nhức buốt nhất. Phải chăng không
thể có một giá trị hạnh phúc nào được xây dựng trên sự hi sinh đau đớn của bất cứ
thành viên nào trong một gia đình. Không có một sự bình yên, bền vững nào của
một mái ấm lại được trả giá bằng những tổn thương của người mẹ. Vậy nên, cái
điều thiêng liêng mà người mẹ ấy gìn giữ - sự nguyên vẹn của tình phụ tử, sự bình
yên trong tâm hồn của những đứa con thơ bằng cách nhẫn nhục xin chồng xách
mình lên bờ để đánh đã bị xâm hại khi mà thằng bé Phác đã vô tình chứng kiến tận
mắt cảnh cha mình ngược đãi mẹ. Đứa trẻ đã bị tổn thương, tâm hồn non nớt kia đã
tấy sưng vì gai nhọn cuộc đời, vì bi kịch tàn khốc từ chính gia đình mình. Vết
thương lòng này của đứa con, trách nhiệm đâu chỉ thuộc về sự tàn nhẫn của người
cha, phải chăng còn bởi sự cam chịu vô lí, thậm chí mù quáng của người mẹ. Mỗi
con chữ của Nguyễn Minh Châu dường như cũng thấm lệ khi miêu tả cảnh thằng bé
Phác: “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi
những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Văn hay đời mà sao
người đọc cứ cảm thấy nhức buốt nơi trái tim mình?
Đòn roi của chồng lên thân thể không khiến người đàn bà rơi lệ nhưng sự
xuất hiện của đứa con trai khi tận mắt chứng kiến cảnh cha mình đánh mẹ thì trái
tim người phụ nữ như bị chà xát trong muối mặn. Bà bật khóc - giọt nước mắt của
sự “đớn đau”, “xấu hổ” và “nhục nhã”. Người mẹ ấy đã đau đớn tuột cùng trước
một sự thật: để bảo vệ mẹ, Phác đã bước qua ranh giới của đạo đức thông thường,
và có lẽ bà cũng phần nào nhận ra chính bà đã gây nên tội lỗi cho đứa con của mình.
Người đàn bà gọi con, mếu máo, rồi bà “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay
vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. [9, tr.258]. Giọt nước mắt bị chồng bạo hành,
người đàn bà ấy gồng mình kìm nén, rót ngược vào lòng, một mình lặng lẽ âm thầm
chịu đựng những mong các con không bị tổn thương, để chiếc thuyền tổ ấm kia dẫu
chật chội nhưng vẫn không bị đắm chìm. Thế nhưng sự hi sinh của chị đã trở thành
vô nghĩa khi sự bình yên trong tâm hồn đứa con thơ đã bị phá vỡ. Đau đớn và xót
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
xa thay cho thân phận người làm vợ, làm mẹ.
51
Trong vòng tay của người mẹ, thằng Phác không hề hé răng, nó “như một viên
đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà”.
Chính sự thơ dại của Phác khiến em không thể hiểu được cái mạch ngầm đầy uẩn
khúc của câu chuyện mà cha mẹ đang ứng xử với nhau. Phác không hiểu được rằng
dù mẹ mình khổ cực như vậy song ngay chính bản thân bà cũng không muốn đứa
con trai giải thoát cho mình, tức là chính bà cũng không mong muốn thoát ra khỏi
hoàn cảnh sống ấy. Trong bi kịch, người đàn bà nhận ra mình đã không bảo vệ được
con, mình đã làm tổn thương tâm hồn thơ dại của con. Những giọt nước mắt nghẹn
ngào, ai oán lăn xuống như đang muốn lấp đầy đi những nốt rỗ chằng chịt trên mặt
người đàn bà trở thành một sự đớn ngộ muộn màng. Nỗi đau thể xác mà người
chồng gây ra chưa nguôi ngoai thì nỗi đau về tinh thần mà người đàn bà đang phải
chịu đựng lại lớn dần lên. Như vậy, sự hi sinh, nhẫn nhục cam chịu đâu có giúp bà
giữ gìn, bảo vệ được cái điều thiêng liêng ấy. Vậy nên, cách ứng xử truyền thống
mà nhân vật lựa chọn cần phải được nhìn nhận lại. Ý thức về quyền sống, quyền
được hạnh phúc, về bình đẳng giới của người phụ nữ thời hậu chiến phải chăng là
vấn đề mà nhà văn trăn trở?
Bằng tấm lòng trắc ẩn sâu xa của mình, Nguyễn Minh Châu đã mô tả một cách
chân thực nỗi bất hạnh của người mẹ nghèo trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn thời
hậu chiến. Trong cuộc mưu sinh này, con người đã phải đối mặt với những nghịch lí
đến từ đời sống, họ không có cách nào để có thể thoát ra hay chống lại mà phải chấp
nhận sống chung với nó, bởi nghịch lí đó còn có sự tiếp tay và hậu thuẫn của tư
tưởng nam quyền phi nhân tính. Hoàn cảnh sống của người đàn bà là một minh
chứng chân thực cho điều đó. Vì vậy, dù đang ôm đứa con nhưng người đàn bà đã
“bất ngờ” buông con ra, “đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn
ông” để lại phía sau ánh mắt “ngơ ngác” cho cả thằng nhỏ lẫn người kể chuyện.
Hành động này của người đàn bà nhìn từ góc độ giới, từ tư tưởng nam quyền mới
thấy nhân vật có ý thức rất mạnh mẽ về sự mặc nhận thân phận nô lệ, về bổn phận
với chồng, về đạo “Tòng phu” ngàn đời mà xã hội nam quyền đã định ra và người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
phụ nữ đã được giáo dục để tuân theo nó. Phải chăng đây là lí do khiến nhiều người
52
không bao giờ lí giải nổi nếu soi xét từ những tri thức văn hóa hiện đại cho hành
động dứt khoát không bỏ chồng của người đàn bà ngay cả khi có pháp luật bảo vệ.
Mặc dù chủ trương nguyên tắc của pháp luật bao giờ cũng là kêu gọi hòa thuận
nhưng với tư cách là người đại diện cho luật pháp, bảo vệ lẽ phải và sự công bằng,
lại chứng kiến sự tàn bạo, tàn nhẫn của lão chồng nên nhân vật Đẩu đã thẳng thắn
bày tỏ quan điểm của anh với người đàn bà: “Chị không sống nổi với cái lão đàn
ông ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?”. Lẽ thường, bất cứ người vợ nào bị bạo hành như
vậy đều mong muốn có cơ hội được giải thoát, điều này cũng trùng với suy nghĩ của
Đẩu và Phùng. Tuy nhiên, một lần nữa, người đàn bà lại gây bất ngờ, khó hiểu trong
lòng người đọc. Chị nói: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,
đừng bắt con bỏ nó…”. Thái độ khẩn thiết cùng cái giọng van vỉ của người đàn bà
xin không phải bỏ chồng (dù đó là người đàn ông đã và đang hành hạ chị) đã khiến
cả Phùng và Đẩu phải thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu
được!”
Vâng, lại một nghịch lí của cuộc sống nữa được phơi bày chân thực dưới ngòi
bút tinh tế và đầy trách nhiệm của nhà văn. Một người phụ nữ bị chồng đánh đập,
hành hạ như cơm bữa lại không muốn bỏ chồng, tha thiết được tiếp tục sống, gắn bó
với lão ta. Thậm chí chị chấp nhận bị phạt tù còn hơn bắt chị phải bỏ chồng. Hãy
nghe chị trần tình về lí do khiến chị lựa chọn giải pháp mà ai cũng cho là nghịch lí
ấy: “Là vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là
nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”, và “Đám
đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi
phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục
đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn
cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ
không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Trong lời giã bày lí do không thể bỏ
chồng của người đàn bà, có hai điều quan trọng và đều xuất phát từ tâm lí phổ biến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
của người phụ nữ mang nặng tư tưởng chấp nhận nam quyền. Thứ nhất, người đàn
53
bà không thể bỏ chồng vì tư tưởng “xuất giá tòng phu” cho dù đó là người đàn ông
man rợ hay tàn bạo đến thế nào. Do vậy, dẫu bị chồng bạo hành thường xuyên, liên
tục nhưng người đàn bà hàng chài chưa bao giờ có ý định bỏ chồng dù là trong suy
nghĩ. Ngược lại chị tự nguyện “gánh lấy cái khổ” như là bổn phận của đời mình.
Hơn nữa, tâm lí sống bị động, phụ thuộc vào người chồng mà văn hóa nam quyền
mang lại càng khiến chị không dám li hôn. Chính cuộc mưu sinh trên biển lắm
phong ba lại khiến người đàn bà cần có người đàn ông chèo chống con thuyền của
gia đình vượt qua sóng gió biển khơi. Thứ hai, người phụ nữ ấy không thể bỏ chồng
vì chị ý thức sâu sắc thiên chức, trách nhiệm của người đàn bà là đẻ con và nuôi con
khôn lớn, mà muốn nuôi được một đàn con gần mười đứa thì không thể thiếu người
chồng. Không có lí do nào xuất phát từ hạnh phúc cá nhân người vợ, người mẹ ấy..
Vừa đáng trách mà cũng vừa đáng thương và đáng trọng biết bao cho suy nghĩ và
tấm lòng người làm mẹ! Viết tác phẩm này, phải chăng Nguyễn Minh Châu đã đặt
trái tim mình nơi trái tim người mẹ, để thấu hiểu, cảm thông; để ngợi ca, trân trọng
nhưng dường như chưa đủ. Điều ông muốn nói lên qua hình tượng nhân vật này còn
lớn lao hơn thế, đó là làm thế nào để mang lại cuộc sống bình yên và thật sự hạnh
phúc cho những người phụ nữ - những người vợ - người mẹ đáng thương và đáng
trọng như người đàn bà hàng chài kia? Và làm thế nào để hạnh phúc của họ không
phải bị đánh đổi hay trả giá bởi bất cứ một tổn thương, mất mát nào trong cuộc
sống?
Bi kịch của người đàn bà hàng chài không phải là cá biệt, cũng giống như cách
xây dựng người đàn ông, nhà văn không định danh cho chị mà gọi bằng cách gọi
phiếm chỉ: Người đàn bà hàng chài, chị, mụ để mở rộng đối tượng phản ánh. Hơn
nữa, trong lời giãi bày của nhân vật ở tòa án huyện về lí do không li hôn, chị có đưa
tất cả người đàn bà ở cái làng chài ven biển miền Trung này vào cuộc: “đám đàn bà
hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông…”, “Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con…”, “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con…”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
Cách nói mang màu sắc cộng đồng này cho thấy tâm lí và cách ứng xử của người
54
đàn bà hàng chài trong mối quan hệ với chồng con, gia đình trở thành tâm lí phổ
biến đang tồn tại trong xã hội đương thời. Như vậy, với cảm quan hiện thực nhạy
bén và sắc sảo của nhà văn, ông đã chỉ ra văn hóa ứng xử giới trong xã hội nam
quyền đã và đang có những tác động ảnh hưởng trên cả chiều rộng và bề sâu của
cuộc sống.
Ngoài truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, chúng ta có thể tìm thấy những
người phụ nữ mang số phận giống như người đàn bà hàng chài ở nhiều sáng tác
khác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Đó là nhân vật chị Liên trong Bến quê,
là mụ Tề trong Chợ Tết,… tất cả đều chịu sự chi phối của hệ tư tưởng nam quyền
độc đoán. Việc nhà văn đi vào khắc họa cảnh đời của những nhân vật nữ này đã
không chỉ cho thầy chiều sâu nhân văn, nhân bản mà còn thấy ở đó ý thức bảo vệ nữ
quyền của ông. Dường như ở mỗi trang viết, nhà văn đều trải lòng cùng cuộc đời
của họ, đồng cảm và khắc khoải cùng họ. Không có một nền tảng nhân đạo, không
có một tình yêu thương con người mãnh liệt nhà văn sẽ không làm được điều đó.
Trong Bến quê là nhân vật chị Liên – vợ Nhĩ, một người chồng dành gần như suốt
cả cuộc đời để “đi không sót một cái xó xỉnh nào trên trái đất”, cuối đời bệnh tật
mới đưa anh trở về bên Liên. Oái oăm, nghịch cảnh là vậy nhưng Liên vẫn làm tròn
bổn phận của một người vợ, người mẹ khi chồng xa nhà. Chị chăm sóc và nuôi
dưỡng những đứa con rất mực hiếu thảo, chăm học, biết nghe lời cha mẹ, không
những thế, trong tình cảm vợ chồng, chị vẫn tận tụy không một lời kêu ca về sự vất
vả, thiệt thòi mà mình phải chịu đựng. Khi Liên được ở bên chồng sau bao năm xa
cách để chăm sóc thì lại chính là lúc Nhĩ “sắp từ giã cõi đời”, anh chẳng đem lại
được gì cho chị. Chi tiết “những tay gầy guộc” và “tấm áo vá” Liên đang mặc đã
nói lên tất cả sự hi sinh mà chị không đáng phải chịu đựng. Thậm chí, cách Liên
bước chân mỗi khi xuống cầu thang đã được Nhĩ cảm nhận một cách thành thực khi
anh nằm bệnh: “vẫn cái tiếng bước chân rón rén quen thuộc suốt cả một đời người
đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm” đã nói lên cái vị thế mà một người vợ như chị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
phải chấp nhận. Hình ảnh Liên với “tấm áo vá” cùng “bước chân rón rén” khiến
55
người đọc nhận ra sự gần gũi với hình ảnh “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá”
của người đàn bà hàng chài. Nếu Liên dường như nín thở “rón rén” trong mỗi bước
chân trước người chồng thì người vợ hàng chài lại “bước chân thoăn thoắt” đi trên
bãi cát về phía bãi xe tăng để phó mặc thân thể cho lão chồng đánh đập. Tất cả đều
thể hiện một ý thức phục tùng, nhu thuận với chồng. Người đàn bà hàng chài dứt
khoát không bỏ chồng dù bị đánh đập. Nhân vật Liên vẫn luôn nhu thuận với chồng
mình ngay cả khi anh đã sức cùng lực kiệt. Những hình ảnh về tấm áo, những bước
chân của hai người vợ tuy có khác nhau về sắc thái, tính chất cũng như cách thức
nhưng gợi về thân phận lệ thuộc của người phụ nữ, cho dù chị Liên không bị Nhĩ
đánh đập như cách người đàn ông hàng chài đối xử với vợ mình nhưng Liên cũng
không dám và cũng không muốn đấu tranh cho một sự bình quyền mà thay vào đó,
chị dồn cả tình cảm chăm lo cho chồng. Chị động viên chồng “Anh cứ yên tâm. Vất
cả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo được anh (…) Miễn là anh
sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này…”. Và, chính sự
dịu dàng, phục tùng của Liên khiến Nhĩ cũng cảm thấy nể phục “tâm hồn Liên vẫn
giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa”. Như vậy, ở
Liên cũng giống như người đàn bà hàng chài đã mặc nhiên thừa nhận cái trách
nhiệm của mình với gia đình, chồng con mà không bao giờ biết đòi hỏi cho bản
thân. Nhưng cái trớ trêu ở chỗ, hai người đàn bà này có cái gì đó luôn đối nghịch
nhau: Khi Liên có được sự trân trọng từ Nhĩ thì chị lại không có được những giây
phút mà cả gia đình – vợ chồng, con cái quây quần vui cười bên nhau như người
đàn bà hàng chài, ngược lại khi người vợ hàng chài đã phải đánh đổi sự đau đớn về
thân thể cũng như sự không có được sự trân trọng từ chồng để đổi lấy những
khoảnh khắc vui vẻ bên chồng con. Điều đó có nghĩa là hạnh phúc với người phụ
nữ bao giờ cũng là “cái chăn quá hẹp”, nếu có được một chút ít ỏi cái được gọi là
hạnh phúc của kẻ bất hạnh thì cũng phải đánh đổi bằng những mất mát lớn hơn gấp
nhiều lần. Nhân vật người vợ - mụ Tề trong Chợ Tết cũng là một số phận như thế.
Thời thanh nữ, mụ Tề là một “người con gái có sắc” rồi lập gia đình ở xã bên, cuộc
sống rất cơ cực, vất vả. Mụ đi chợ cá, còn cô con gái thì coi cái sạp hàng quốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
56
doanh giữa chợ. Sự lam lũ của mụ giống như đám đàn bà chợ cá, một cái nón mê
bật vành, một mớ váy, yếm rách phấp phới, mụ cùng hòa lẫn giữa hai hàng nón
đang cúi gập xuống lúi húi cắm mặt xuống mẹt cá, những thúng cá. Khi bị lão Đất –
quản chợ quất một nhát băng cái roi đuôi cá vào cái nón mê, mụ Tề đã “bật vùng
dậy giật phắt lấy thanh roi trên tay lão già mặt đỏ gay mắt trắng giã”.[29]. Mụ rượt
đuổi lão chạy một vòng, chỉ khi gặp và nhận ra Định, nhận ra người quen cũ mụ
mới vứt chiếc roi đuôi cá rồi cắm đầu chạy như người đang đi trốn. Như vậy, mụ Tề
ở chợ thì bị cai chợ đối xử tàn bạo. Về nhà mụ cũng chẳng yên, thằng chồng khốn
nạn vẫn thường xuyên đuổi đánh Tề, khiến mụ phải chạy. Nhiều phen bị o ép quá
mức, uất quá mụ đâm ra nghĩ quẩn “mấy lần đã chạy đi trẫm mình”. Điều đáng nói
ở chỗ mụ Tề khi ở nhà bị chồng đánh, mụ vẫn cam chịu, quá lắm phản ứng theo
chiều hướng thiệt thân trước lối đối xử thô bạo của lão chồng. Thế nhưng khi ra chợ
cá - nơi đầu sóng, ngọn gió kiếm tiền vì chồng vì con, trước thứ bạo lực vô lối của
lão quản chợ thì mụ đã chống lại bằng mọi giá. Lão Đất thì cho rằng cuộc sống quá
khổ nhục đâm ra mụ thay đổi tính nết, nhưng lão không hiểu được chính bản năng
làm mẹ, và tâm thế của một người vợ khiến cho mụ Tề sẵn sàng mọi việc vì con, vì
chồng, trong đó có cả việc cướp cái roi đuôi cá để rượt đuổi lão. Nếu đem soi chiếu
những nhân vật như cô bé Kim và mụ Tề với người đàn bà hàng chài và đứa con gái
những tưởng là khác nhau bao nhiêu, nhưng hóa ra vẫn chung những nét quen thuộc
làm nên thân phận người phụ nữ trong một xã hội lạc hậu. Sự lạc hậu – trì trệ của xã
hội và đi liền với nó là tình trạng bạo lực đang ngày một gia tăng từ trong gia đình
cho đến ngoài xã hội. Hiện thực nhức nhối này của đất nước sau ngày giải phóng
được Nguyễn Minh Châu, bằng nhãn quan sắc bén của mình đã nhìn ra và cảnh báo
qua số phận, cuộc đời của những nhân vật nữ trong sáng tác của mình.
2.2.2. Tư tưởng chấp nhận sinh đẻ nhiều, dẫn đến cuộc sống nheo nhóc
Như vậy nhìn từ văn hóa ứng xử giới trong xã hội nam quyền, những người
phụ nữ trên mỗi người một hoàn cảnh, một số phận khác nhau nhưng họ đều mặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
nhận về vai trò làm chủ của chồng mình trong gia đình cũng như thân phận “nô lệ”
57
phụ thuộc vào chồng. Vì gia đình, họ sẵn sàng chấp nhận một cuộc sống lam lũ, bạo
lực, một đời sống mà ngay cả bản thân họ cũng không biết mình sẽ là mẹ của bao
nhiêu đứa con. Chính nhận thức hạn hẹp, ấu trĩ này khiến cho họ trở thành nạn nhân
của tư tưởng nam quyền cố hữu. Trở lại với người đàn bà hàng chài trong Chiếc
thuyền ngoài xa, tìm hiểu những suy nghĩ, phát ngôn và hành động của người đàn
bà trên tòa án huyện, ta sẽ thấy rõ hơn sự chi phối của tư tưởng nam quyền với
người phụ nữ này.
Người đàn bà đã chấp nhận đòn roi không chỉ vì cần một người đàn ông trên
thuyền để nuôi con mà còn vì mặc cảm có lỗi với chồng: “Cái lỗi chính là người
đàn bà đẻ nhiều quá” - Cái lỗi của sự đẻ nhiều khiến nhà đồng con, thuyền thêm
chật. Thêm người là thêm nỗi lo về cơm áo. Đó là lí do khiến hai vợ chồng phải lao
động vất vả, cực nhọc mà không đủ ăn. Cuộc sống đã khổ lại càng thêm khổ; bữa
đói, bữa no; thậm chí có khi phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối – thứ thức ăn
ngay cả đến gia súc cũng không thể ăn được suốt hàng tháng trời. Và khi khổ quá,
lão chồng lại đánh vợ. Cả gia đình cứ luẩn quẩn trong cái vòng mưu sinh nhọc nhằn
nhuốm màu bạo lực ấy. Tâm sự “Giá tôi đẻ ít đi” cho thấy người đàn bà đã tự
nguyện chấp nhận sinh đẻ nhiều theo chủ ý của chồng mà không hề có một chút
quyền tự quyết, tự chủ nào. Quan điểm “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ
con” cho thấy chị đã tự trói buộc mình trong tư tưởng phải làm tròn thiên chức của
một người vợ, người mẹ bằng việc phải sinh nhiều con mà không hề tính đến những
hệ lụy của một gia đình đông con. Càng không nghĩ đến sức khỏe của bản thân và
những rủi ro khác có thể đến từ việc sinh nở liên tục như vậy. Khó khăn này quàng
buộc vào khó khăn kia, khó khăn kia lại là hệ lụy của khó khăn khác, cứ thế cuộc
đời và gia đình của người đàn bà hàng chài quẩn quanh trong cái vòng quay khắc
nghiệt của cuộc sống. Để rồi, mọi bế tắc, mọi khổ đau lại trút xuống cái thân hình
lúc nào cũng mỏi mệt gần như kiệt sức của chị. Mặc cảm có lỗi vì đẻ nhiều con nên
việc tự nguyện cho chồng đánh để giải tỏa những đau đớn trong lòng nhìn ở một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
góc độ nào đó cũng là cách chị nhận lỗi, chuộc lỗi với chồng.
58
Như vậy, nữ quyền luận nhìn nhận vấn đề người phụ nữ không trên tinh thân
nhân văn chủ nghĩa chung chung mà gắn với vấn đề thân thể người phụ nữ và với cả
cái nhìn của chính người phụ nữ về thân thể của mình. Ở người đàn bà hàng chài,
trước sự áp chế của người chồng về vấn đề thân thể trên phương diện sinh đẻ đã
hoàn toàn mất tiếng nói, chị đã phải đẻ hàng tá con cho lão chồng nhưng không dám
hé răng kêu ca với lão, chỉ khi rơi vào hoàn cảnh cực chẳng đã mụ mới dám than
với Phùng và Đẩu “giá tôi đẻ ít đi…Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi
nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Tình trạng này cũng
xảy ra với mụ Huệ trong Phiên chợ Giát. Đến với lão Khúng trong một hoàn cảnh
trớ trêu – khi phải bỏ chốn thị thành cùng đứa con sắp sinh trong bụng, mụ được lão
cứu giúp... Mụ Huệ lấy lão – một lão nông dân đích thực và buộc phải cùng chồng
tìm kiếm tương lai trong công cuộc khai hoang vất vả. Từ chỗ là một cô gái thành
phố, mụ lấy lão Khúng không phải do tình yêu đích thực, lại càng không phải do
mong muốn một cuộc sống điền viên thôn quê. Huệ đến với lão để che đậy một
cuộc tình phụ bạc, không tình yêu, không mong muốn mà chỉ như một sự lựa chọn
không thể khác trong hoàn cảnh bế tắc, cùng đường. Vì vậy, trong suốt quãng đời
gần hai mươi năm chung sống với lão Khúng, mụ bị lão biến thành một “cái máy
đẻ”, làm ra cho lão cả một “kho người” gần chục đứa mà mụ cũng không một lần
dám kêu than. Lão Khúng đã khai thác một cách triệt để nguồn nhân lực từ mụ để
phục vụ cho công cuộc khai hoang của mình mà chẳng cần biết mụ suy nghĩ gì? có
muốn đẻ hay không? Với lão điều ấy không quan trọng bởi dù có không muốn lão
vẫn bắt phải đẻ và với thân phận của mụ cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác là
việc phải thuận theo chồng. Nhân vật mụ Huệ cùng nhân vật người đàn bà hàng
chài có sự đồng cảnh trong cái nhìn không được tôn trọng sức khỏe sinh sản của
người chồng cũng như nỗi khổ trở thành “nô lệ thân thể” của chính chồng mình. Ở
họ, cả những người đàn ông cũng như đàn bà nói trên đều có sự tụt hậu trong nhận
thức trước sự phát triển của nữ quyền thời bấy giờ. Một đằng chọn vị thế làm chủ,
kẻ mạnh áp chế bằng quyền sở hữu vợ, một đằng lại mặc nhận sự sở hữu đó. Tuy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
nhiên, trong thực tế, không có một hạnh phúc nào lại được tạo dựng trên nỗi đau
59
của người khác, dù là tự nguyện. Người đàn ông vì sự kém hiểu biết đã có những
hành động bị xã hội lên án, còn người đàn bà từ bao giờ đã tự thừa nhận cái quyền
hành tối cao của lão chồng, chấp nhận sự tàn bạo của chồng cũng như không có ý
định thoát ra. Cũng với ý này, nhà nghiên cứu Lê Quang Hưng đã nhận xét về người
đàn bà hàng chài như sau: “Tưởng chị ta căm thù chồng và sẵn sàng đoạn tuyệt.
Vậy mà không. Người đàn bà can tâm, tự nguyện chịu đựng đòn roi, không thể bỏ
chồng là vì những đứa con, vì chuyện cơm áo của gia đình. Chị chỉ mong những
đứa con của mình được ăn no. Nghịch lý đấy mà rất có lý. Chân lý cuộc đời lại hiển
hiện ngay ở chỗ tưởng chừng vô lí”, [16, tr.217].
Thì ra nghịch lí người phụ nữ kia phải chịu đựng bắt nguồn từ cái có lí của
tình mẫu tử, của bổn phận và trách nhiệm của một người vợ, người mẹ. Nhưng cái lí
ấy lại đến từ cái vô lí mà người phụ nữ cả đời phải chấp nhận trong mối quan hệ với
gia đình, đặc biệt với người chồng của mình. Và oái ăm thay, cái vô lí đó lại được
tư tưởng nam quyền, văn hóa nam quyền dung túng và hợp lí hóa trong thực tiễn
lịch sử qua nhiều thế hệ. Phải chăng đây chính là cái “đa sự, đa đoan” của cuộc đời
vẫn đi vào chân thực và nhức nhối trong những trang viết của Nguyễn Minh Châu
sau năm 1975? Và bài toán cuộc đời cho những người phụ nữ bất hạnh trong sáng
tác của nhà văn vẫn đang chờ lời giải.
2.2.3. Chấp nhận bất bình đẳng về phân công lao động gia đình
Theo bài báo Nhân dân điện tử “Kết quả phỏng vấn trong một nghiên cứu
năm 2015 của Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS) cho biết: Trong 14 công
việc gia đình chủ yếu, phụ nữ đảm nhiệm 12 đầu việc, đặc biệt là công việc liên
quan đến chăm sóc con cái; hơn 60% số phụ nữ được hỏi đã trả lời rằng họ đã làm
những việc nhà từ trước 18 tuổi, trong khi con số này ở nam giới chỉ là 25%”. Kết
quả nghiên cứu về tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam đã khiến nhiều người
ngỡ ngàng vì những người phụ nữ chân yếu tay mềm lại có sức lực như một “siêu
nhân” khi gánh phần lớn công việc trong gia đình, còn đàn ông thì chỉ làm từ 0 đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
2 việc trong gia đình. Vô số những đầu việc đã làm nên nền tảng hạnh phúc cho mái
60
ấm gia đình nhưng oái oăm thay chỉ có người phụ nữ là nai lưng ra làm, còn người
đàn ông thì dường như chỉ giữa vai trò trụ cột, không chia sẻ công việc gia đình với
người phụ nữ. Thực tế này đã diễn ra từ lâu đời trong xã hội Việt Nam, thậm chí
ngay trong chính những người phụ nữ cũng coi đó như một trong những thiên chức
của mình. Nhận thức có phần ấu trĩ nãy khiến cho sự bất bình đẳng trong phân công
việc gia đình đã được duy trì trong thực tế lịch sử cho đến tận ngày nay (Sự bất bình
đẳng này đã được chúng tôi nhắc đến trong bài phóng sự Một ngày ở xứ Chàm ở
mục 1.1.2 Văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam). Người đàn bà hàng chài
trong Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho lối suy nghĩ này với công việc gia đình.
Thực ra, trong tác phẩm nhà văn không miêu tả người đàn bà trong những công việc
gia đình cụ thể như thường thấy mà chỉ tái hiện qua ngoại hình, diện mạo của bà sau
một đêm thức cùng chồng đánh lưới, thế nhưng thực tế cuộc sống gia đình bà vẫn
phải làm những công việc trong nhà như bao người vợ, người mẹ khác. Nhưng điều
đáng nói là người đàn bà đã làm những phần việc gia đình nhưng vẫn phải trực tiếp
tham gia vào lao động sản xuất – kéo lưới cùng chồng để nuôi con. Đây là một sự
bất bình đẳng không chỉ trong phân công việc gia đình mà cả trong phân công loại
hình nghể nghiệp – nghề chài lưới (bởi trong văn hóa làng biển chỉ có đàn ông ra
khơi đánh bắt còn phụ nữ ở bến đợi tàu mang thủy hải sản về - điều này được
Nguyễn Minh Châu tái hiện trong cảnh đám đàn bà kẻ biển chuyên chạy cá từ dưới
bến lên trên chợ). Sinh kế bằng nghề vó bè không cho người đàn bà có cơ hội được
ngồi bến đợi thuyền cá về, mụ phải cùng chồng thức đêm kéo lưới nuôi con chứ
không được nghỉ ngơi khi màn đêm phủ xuống như những người đàn bà khác.
Trước sự bất công này người đàn bà đã chấp nhận không bàn luận như một hiển
nhiên trong đời sống gia đình mình.
Vậy, khi mà người đàn bà vẫn cùng chồng thức đêm kéo lưới, cùng chia sẻ
cảnh nghèo túng của gia đình, tức là chị phải gánh một gánh nặng gấp đôi người
chồng. Không phải vô tình Nguyễn Minh Châu miêu tả cái khuôn mặt mệt mỏi và
thân hình ướt sũng cùng tấm áo bạc phếch, rách rưới của người đàn bà hai lần trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
tác phẩm. Lần miêu tả thứ nhất gắn liền với sự xuất hiện của nhân vật trong tác
61
phẩm khi bị chồng bạo hành. Qua đây, tác giả cho thấy mặc dù là phụ nữ yếu mềm
nhưng chị vẫn phải cùng chồng đối mặt với biết bao cơ cực và hiểm nguy ngoài
sóng gió biển khơi để kiếm sống. Sự lao động đó với một người đàn ông đầy sức
vóc như lão chồng cũng thường xuyên cảm thấy mệt mỏi, thậm chí không thể vượt
qua được những áp lực của công việc mưu sinh quá đỗi nhọc nhằn đến nỗi phải tìm
cách giải tỏa bằng hành vi đánh vợ. Vậy thì với một người phụ nữ, sự mệt mỏi và áp
lực sẽ lớn đến đâu? Thế những chị chưa bao giờ được chồng thấu hiểu, thậm chí lão
ta còn coi chị cùng các con như là nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn đến những
vất vả, khổ đau trong cuộc đời của lão. Về phía người đàn bà, chị lại tự nguyện chấp
nhận sự bất bình đẳng trong phân công lao động ấy, hơn nữa còn tự cho mình là
người có lỗi và tự nguyện đem thân mình ra làm phương tiện cho chồng giải tỏa cơn
u uất trong lòng sau mỗi đêm kéo lưới ngoài biển khơi. Lần miêu tả thứ hai, nhà văn
đặt ở vị trí kết thúc tác phẩm như để găm vào lòng người đọc sâu hơn ấn tượng về
một số phận, một cuộc đời chồng chất bi kịch chưa tìm ra lối thoát của người phụ
nữ hàng chài nói riêng và tất cả những người đàn bà khác ở ven biển miền Trung ấy
nói chung và còn ở đâu đó nữa trong cuộc đời rộng lớn này.
Trong những sáng tác thời hậu chiến của Nguyễn Minh Châu, vẫn còn có
đâu đó những số phận giống như số phận của người đàn bà hàng chài – nạn nhân
của sự bất công trong phân công lao động xét trong mối quan hệ gia đình. Ở một
góc độ khác, những người đàn bà kẻ biển lão Khúng gặp kéo xe bò xuống chợ cầu
Giát cũng chịu nhiều bất công trong phân công lao động gia đình, kể cả việc chạy cá
đầy vất ả và nặng nhọc nhưng dù sao nó cũng là văn hóa làng nghề, bởi đám các lão
chồng đã vươn khơi, nhưng sẽ thật công bằng, thật tốt hơn cho nhũng người phụ nữ
nếu như họ không phải làm phần việc như vậy, bởi cứ nhìn cái cách họ lao động đã
thấy họ phải chịu thua thiệt đến nhường nào: “Những người đàn bà chạy cá tươi từ
dưới biển lên. Họ chạy thành từng đám dăm bảy mụ, mươi mụ ... váy mụ nào mụ
nấy bị xé gần như tới đầu gối, yếm áo tả tơi, mà phần lớn ở trần, mồ hôi nhẫy ra”;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
có thể đó còn là mụ Tề trong Chợ Tết, cả đời cứ lúi húi, cắm mặt vào cái mẹt cá
62
ngoài chợ, đôi khi lại phải nhận những ngon roi hách dịch của lão quản chợ mà khi
về nhà mụ vẫn bị chồng đánh đạp đến độ uất ức mà nhiều phen tìm đến cái chết,...
Tóm lại, Nguyễn Minh Châu bằng nỗi khắc khoải đau đáu của mình trước vấn
đề số phận con người cá nhân - nhất là người phụ nữ sau chiến tranh, ông đã nhìn
thẳng vào hiện thực xù xì, góc cạnh để không chỉ phơi bày tình trạng bạo lực, mà
còn trăn trở, suy tư về nó. Khắc họa những nhân vật như người đàn bà hàng chài,
mụ Tề, mụ Huệ trong những cảnh huống trớ trêu ở đời sống, Nguyễn Minh Châu
không nhằm ca ngợi đức hy sinh, hay coi sự chịu đựng, khổ đau của chị là vẻ đẹp
cần tôn vinh mà thông qua những hình tượng này, nhà văn muốn đặt ra vấn đề làm
thế nào để chấm dứt được cuộc chiến chống lại bạo hành, tình trạng bất bình đẳng,
chấm dứt tình trạng khổ đau của người phụ nữ trước những định kiến, những nghịch
lý, những tư tưởng đã lỗi thời như sự áp chế của lối ứng xử giới mang tư tưởng nam
quyền hay sự chấp nhận tư tưởng nam quyền đã ăn vào ngay trong nếp nghĩ của biết
bao người phụ nữ, trong đó có người đàn bà hàng chài. Câu hỏi tại sao cũng sinh ra
bình đẳng như nhau nhưng trong thực tiễn người phụ nữ luôn phải chịu thua thiệt,
đau hớn hơn so với người đàn ông. Cuộc chiến chống lại cái ác, cái tàn bạo mới qua
đi thì một cuộc chiến khác lại hiện hình ngay trên mảnh đất ấy. Đó là cuộc chiến
chống lại tình trạng bạo hành đang ngày một gia tăng, nó thể sự tha hóa biến chất về
đạo đức và nhân cách con người, nó phản ánh thân phận thua thiệt của người phụ
nữ. Nguyễn Minh Châu đã đi vào những mặt trái của đời sống xã hội đất nước sau
ngày thống nhất nhằm gióng lên những hồi chông để cảnh báo/báo động một điều gì
đó và thức tỉnh lương tâm con người trong xã hội, vì một sự tiến bộ chung cho cộng
đồng.
Giải pháp nào có thể giúp người đàn bà hàng chài thoát khỏi cuộc sống khổ
đau hiện tại. Thông thường khi nhận diện và phản ánh hiện thực đời sống qua
những hiện tượng nhức nhối, nhà văn đã có những giải pháp đi kèm với mong muốn
thay đổi hiện thực theo chiều hướng tốt đẹp hơn theo chiều hướng nguyên nhân nào
giải pháp ấy. Trong truyện, trước bi kịch của người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
Châu đã gửi gửi gắm hay phải chăng ông muốn thử nghiệm các giải pháp bằng cách
63
trao quyền cho các nhân vật của mình. Gần như bất cứ nhân vật nào ở phía đối lập
với người đàn ông hàng chài đều ứng với một giải pháp. Ở chánh án Đẩu - đại diện
cho chính quyền về mặt chủ trương, nguyên tắc thì ưu tiên cho hòa thuận, hòa giải
nhưng với hiện trạng của người đàn bà và với khát vọng về sự công bình xã hội của
mình, Đẩu khuyên bà nên li hôn - sẽ giúp bà thoát ra được khỏi kiếp sống khổ cực
về cả thân xác lẫn tinh thần như hiện tại. Phùng, một người chiến sĩ – nghệ sĩ khi
chứng kiến cảnh người đàn bà bị bạo hành, anh đã chọn cuộc đời thay vì nghệ thuật
bằng cách can thiệp bằng cả hành động và nhờ Đẩu giúp. Thằng bé Phác, con người
đàn bà chủ trương bảo vệ mẹ bằng mọi giá. Và ở chính người trong cuộc, nạn nhân
của sự bạo hành - người đàn bà hàng chài bà đã chọn một giải pháp mà người ngoài
nhìn vào “không thể hiểu nổi” - sống chung với bạo hành để gìn giữ được gia đình.
Ở nhân vật đứa con gái chỉ thấp thoáng xuất hiện đôi ba lần song ta thấy cô cũng
phảng phất cái tinh thần cam chịu giống như mẹ mình. Cô có phản kháng nhưng
không đáng kể và theo chiều hướng chấp nhận thực tế cuộc sống của gia đình mình.
Trong truyện, ở nhân vật nữ y tá có lẽ Nguyễn Minh Châu cũng đã bóng gió xa xôi
một điều gì, chúng tôi nghĩ nhiều hơn đến cái cách cô vừa nói vừa “chĩa cái mũi
kéo đang kẹp một dúm bông đã tẩm cồn vào giữa mặt anh Đẩu”. Theo lời cô thì cô
sẵn sàng “làm gái già”, “chết già” chứ nhất quyết không lấy loại đàn ông vũ phu ấy.
Như vậy, có lẽ cũng không sao, vì “chết già” thì chưa biết chứ còn thực tế thì cô
cũng đã luống tuổi mà chưa chồng. Cái đáng nói là ở cái hành động “chĩa cái mũi
kéo” – nó như một lời thách thức, một lời tuyên chiến với nạn bạo hành mà Nguyễn
Minh Châu muốn gửi đến xã hội, đến những người phụ nữ, họ cần phải lên tiếng,
phải đòi lại và khẳng định được tiếng nói của mình trong gia đình. Không thể đánh
đổi đòn roi cho thể xác mà lấy cái thứ hạnh phúc “hiếm hoi” theo kiểu có lúc, có khi
mới có ấy được (Vui nhất là khi được nhìn đàn con ăn no...). Cách mạng về! Cách
mạng đem đến cho gia đình hàng chài đất đai, cơm áo,… nhưng trong gia đình
người phụ nữ vẫn không được trân trọn, hàng ngày người phụ nữ vẫn phải đối mặt,
chấp nhận sống chung với bạo hành. Nguyễn Minh Châu mong muốn có giải pháp
toàn diện: Không chỉ là tuyên chiến với bạo hành giới, mà quan trọng là cần phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
cải thiện đời sống dân sinh của người dân hàng chài. Có sinh kế bền vững, cái đói
64
sẽ bị đẩy lùi, cái nghèo sẽ không còn nữa, sự u mê tăm tối cũng mất đi, theo đó thì
tình trạng bạo lực sẽ không còn, sự suy đồi đạo đức sẽ tự khắc mất đi hay nói tiếp ý
kiến của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn “Muốn giải phóng người phụ nữ, muốn
đem lại bình đẳng nam nữ thì không chỉ có tuyên truyền mà cần phải có những biện
pháp thực tế về kinh tế, luật pháp thì người phụ nữ mới thật sự được tôn trọng trong
gia đình. Nếu không thì bản thân người phụ nữ cũng không muốn được giải phóng”
[38]; đồng thời cần phải làm một cuộc “cách mạng” trong ý thức của con người để
thực sự giải phóng thật sự cho thân phận người phụ nữ. Chỗ này, chúng tôi mượn ý
của nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn khi nói về hai chữ “cách mạng” để chỉ một cuộc
cách mạng khác: “Chữ “cách mạng” trong câu: “Cái lão đàn ông đã từng hành hạ
mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu cách mạng không về”
đã không còn chỉ cuộc cách mạng đã qua, mà ám chỉ một cuộc cách mạng khác,
cuộc cách mạng sẽ giải cứu người đàn bà ấy khỏi tình trạng hành hạ hiện thời.
Đúng vậy, chỉ có thể giải quyết được tình trạng này bằng một cuộc thay đổi lớn
(...)”. [12, tr.375]. Và trong cuộc thay đổi đó, nhà văn mong muốn loại bỏ được
bóng ma tư tưởng của văn hóa nam quyền để đem lại những giá trị người nhân văn
đẹp đẽ nhất. Có lẽ cuộc cách mạng mà từ những năm 1960 trong Đi bước nữa,
Nguyễn Thế Phương đã đề cập đến và một lần nữa lại được Nguyễn Minh Châu đặt
ra - trong thời bình cần phải dũng cảm đối diện với định kiến để “đi bước nữa” đem
lại sự bình quyền của người phụ nữ cũng như sự tiến bộ chung cho xã hội.
2.3. Thái độ của các nhân vật: Phùng, Đẩu, Phác, đứa con gái
Trong Chiếc thuyền ngoài xa xoay quanh cặp nhân vật vợ chồng hàng chài
gắn câu chuyện ứng xử giới bất bình đẳng, ở đó người đàn ông đã áp chế người đàn
bà bằng việc cho mình có quyền sở hữu thân thể người đàn bà, còn người đàn bà thì
cũng nhìn thân thể mình như một sự mặc nhận quyền lực của người đàn ông. Lối
ứng xử giới mang tinh thần nam quyền này đưa đến những khổ đau cho thân phận
của những người phụ nữ, trong đó có người đàn bà hàng chài. Trước bi kịch gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
đình hàng chài các nhân vật phụ trong truyện đã thể hiện thái độ của mình trước sự
65
độc đoán và nỗi khổ đau mà các nhân vật thể hiện trong truyện. Phần còn lại của
chương 2 sẽ đi vào tìm hiểu thái độ của các nhân vật này.
2.3.1. Thái độ của phóng viên Phùng và chánh án Đẩu
Phùng và Đẩu vốn dĩ là những người lính từng cầm súng chiến đấu chống
lại cái ác, cái xấu đem lại tự do, công bằng cho nhân dân, hòa bình cho đất nước.
Sau ngày thống nhất, nói như Phùng “Đời chúng tôi cái đám lính của thời chống
mỹ, từ sau bảy nhăm thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ngờ”- anh làm phóng
viên ảnh, còn Đẩu làm chánh án tại một phố huyện vùng biển miền Trung. Trước
câu chuyện về cuộc đời khổ đau của người đàn bà hàng chài và sự tàn nhẫn của
lão chồng, Nguyễn Minh Châu đã để cho các nhân vật thay cho mình phát ngôn,
thể hiện quan điểm của mình trước tư tưởng nam quyền. Vì vậy, Phùng và Đẩu là
kiểu nhân vật mang tư tưởng của nhà văn - mỗi người có cách thể hiện thái độ,
tình cảm riêng của mình nhưng họ đều gặp gỡ ở chỗ muốn đòi lại sự công bằng
cho người vợ và lên án lối ứng xử giới là tư tưởng nam quyền của người chồng
trong cách cách đối xử với vợ con, nhất là chuyện bạo hành của lão với vợ.
Về thái độ của nhân vật Phùng trước lối ứng xử nam quyền của lão đàn ông
với người vợ hàng chài, nhằm tránh sự trùng lặp, chúng tôi sẽ phân tích ở mục 3.1
Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật. Ở đây chỉ đi vào thái độ của nhân vật
chánh án Đẩu.
Bên cạnh nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu là nhân vật đại diện cho pháp luật của
phố huyện vùng biển. Giữ vị trí chánh án một tòa án huyện ở vùng biển nhưng Đẩu
vẫn giữ trong mình bản chất của một anh bộ đội cụ Hồ. Khi được Phùng cho biết về
câu chuyện bạo hành của người đàn bà hàng chài thì Đẩu rất nhiệt tình can thiệp,
giúp đỡ nhằm giải cứu người đàn bà thoát khỏi lão chồng vũ phu. Giống như Phùng,
Đẩu rất bức xúc và phẫn nộ trước sự ngược đãi của người chồng với người vợ theo
kiểu: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Với tư cách là một người
thực thi pháp luật, anh kiên quyết không để điều đó tiếp tục xảy ra. Anh đã mời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
người đàn bà lên để có những sự giúp đỡ thiết thực nhất cho tình cảnh của chị.
66
Thông thường, khi giải quyết những vụ việc về hôn nhân , chủ trương và
nguyên tắc của tòa bao giờ cũng là “kêu gọi hòa thuận”. Thế nhưng, do quá bức xúc
và phẫn nộ trước hành động của lão chồng như là hiện thân của cái ác, Đẩu đã bỏ
qua cái lẽ thường, vượt qua nguyên tắc làm việc để quyết định một cách nhanh
chóng - chủ động khuyên người đàn bà bỏ chồng. Trước cái ác, Đẩu không thỏa
hiệp, lời khẳng định của anh với người đàn bà về lão đàn ông “Cả nước không có
một người đàn ông nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo
ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?” đã
thể hiện rõ quan điểm của anh.
Như vậy thông qua nhân vật Đẩu, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện thái độ
bênh vực, đấu tranh cho nữ quyền và phê phán tư tưởng nam quyền mà hiện thân
đầy đủ của nó trong tác phẩm là người đàn ông hàng chài. Đây là tinh thần dám
đứng về công lí, về lẽ phải để chống lại sự lộng hành của cái ác, chống lại những
quan niệm, những lệ tục lạc hậu mà người đàn ông áp đặt lên người đàn bà, cũng
như mong muốn đả phá thành trì tư tưởng là sự mặc nhận quyền lực của người đàn
ông lên thân thể người đàn bà.
2.3.2. Thái độ của thằng Phác và đứa con gái
Trong gia đình hàng chài đông con, chỉ có đứa con gái lớn và thằng Phác là
đủ lớn hơn so với những đứa con còn lại để ít nhiều hiểu và bày tỏ thái độ về bi kịch
trong gia đình của chúng. Thông qua các nhân vật này Nguyễn Minh Châu đặt ra
nhiều vấn đề có tính chất hệ lụy mà tư tưởng nam quyền đã gây ra trong gia đình.
Trong truyện, thằng Phác đã đủ khôn lớn để hiểu biết về việc bố nó đánh mẹ
nó nên đã bị mẹ gửi rừng sống cùng ông ngoại, nhưng thắng bé hay trốn về và chỉ
quẩn quanh bên xưởng đóng tàu để bảo vệ mẹ nó. Nó từng tuyên bố với mấy bác ở
xưởng đóng tàu rằng: “Nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”.
Thế nên, khi chứng kiến cảnh tượng cha bạo hành mẹ, Phác vô cùng giận dữ và
phản ứng quyết liệt theo mức độ tăng dần, từ việc lao vào giật chiếc thắt lưng quật
lại bố cho đến hành động thủ con dao găm để bảo vệ mẹ. Phác đã hành động như
một người câm khi nhảy xổ vào cái lão đàn ông để giằng chiếc thắt lưng rồi “dướn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
67
thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ” của bố nó,
sau đó Phác bị lão đàn tát cho hai cái ngã dúi xuống cát nhưng nó vẫn “chẳng hề hé
răng”. Thằng Phác “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ, như
muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Thậm
chí khi mẹ nó đuổi theo lão đàn ông về thuyền Phác vẫn đưa ánh mắt ngơ ngác nhìn
ra một quãng bờ phá ban nãy chiếc thuyền đậu. Rõ ràng, hành động của Phác xuất
phát từ một tình cảm bồng bột, thánh thiện và nguyên sơ mà trong hoàn cảnh hiện
tại Phác có thể làm cho mẹ. Ánh mắt ngơ ngác đã diễn tả sự hẫng hụt, mất mát
không gì bù đắp nổi cho tâm hồn trẻ thơ của em. Phác còn nhỏ, em chưa thể hiểu
hết được những uẩn khúc phức tạp trong đời sống nên phản ứng như vậy cũng là
điều dễ hiểu. Hành động ngây thơ, bồng bột của em được đẩy lên đến quyết liệt và
tiêu cực khi Phác giấu con dao găm sáng loáng vào cạp quần nhằm bảo vệ mẹ, may
thay đứa chị gái đã kịp thời ngăn cản.
Với Phác, đơn giản chỉ là một sự công bằng, dù em có giằng cái dây thắt
lưng để quật lại bố nó hay có giấu con dao trong cạp quần đùi cũng chỉ là những
hành động biểu hiện cho thái độ phản kháng của Phác trước hành động bạo hành
của lão đàn ông với mẹ nó. Lẽ thường, gia đình là một tổ ấm, nhưng với Phác lại là
một cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa em và lão đàn ông. Theo đó, để bảo
vệ mẹ mình nhưng chính lúc Phác đã phải bước qua ranh giới của các chuẩn mực
đạo đức, luân lí thông thường. Dường như thằng Phác đã ý thức được rằng cần phải
dùng bạo lực để ngăn cản, thậm chí là chống lại bạo lực trong gia đình. Nguyễn
Minh Châu tái hiện hình ảnh của Phác như một điểm nhấn quan trọng trong bi kịch
lớn mà người phụ nữ thời hậu chiến phải đối mặt. Trong đó, sự xuống cấp về đạo
đức gia đình, về nguy cơ tiềm ẩn không còn câu chuyện của tương lại xa xôi mà nó
đang diễn ra một cách quyết liệt trong mỗi mái nhà, mỗi gia đình thời hậu chiến.
Tuy nhiên tình thương vẫn là hạt nhân ấm áp, cho ta sự lạc quan ở Phác như lời
nhận xét của của nhà nghiên cứu Lê Bảo khi viết về nhân vật này: “Cuộc đời nó sau
này không biết có đỡ khổ hơn gia đình nó lúc này hay không thì còn chưa biết,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
nhưng với tình thương - phẩm chất mà mẹ nó truyền cho chắc chắn sẽ là chỗ dựa
68
tin cậy của một gia đình. Ý nghĩa lạc quan duy nhất có lẽ toát ra từ thằng bé ấy”.[3,
tr.183].
Qua nhân vật này, nhà văn thể hiện tinh thần bảo vệ nữ quyền và phê phán
bạo lực gia đình xuất phát từ tư tưởng nam quyền cổ hủ. Đồng thời tác giả cũng
cảnh báo về một hệ lụy đau đớn khác ngoài bi kịch cuộc đời người đàn bà hàng chài
do tư tưởng nam quyền mang lại là sự tổn thương tâm hồn và sự lệch lạc trong phát
triển nhân cách của những đứa con.
Nhân vật cô con gái có lẽ là nhân vật duy nhất trong tác phẩm không có một
phản ứng trực tiếp nào trước việc cha mình bạo hành mẹ ngoài hành động giằng con
dao găm từ tay đứa em đang có ý định dùng nó để bảo vệ mẹ mình. So với bé Phác,
cô chị có phần chín chắn hơn trong suy nghĩ, cô đã kịp thời ngăn cản được hành
động tội lỗi có thể xảy ra ở đứa em mình nhưng lại không có một giải pháp nào để
bảo vệ mẹ. Nỗi đau dồn nén trong lòng hay cô cũng giống mẹ, nhắm mắt cam tâm
chấp nhận bi kịch gi đình? Là gì chăng nữa người đọc cũng không khỏi xót xa trước
sự tác động tiêu cực đến tâm hồn con trẻ của tư tưởng nam quyền. Đó cũng là nỗi âu
lo, trăn trở của nhà văn.
Đứa con gái đã bất chấp hiểm nguy để lao vào, vật lộn và giành được con
dao găm khỏi tay thằng Phác tránh khỏi cho thằng Phác, tránh cho cả gia đình nó
phải tiếp tục rơi vào một bi kịch khác: Bi kịch con giết cha. Con bé đã hành động
đúng khi không cho thằng Phác làm một việc trái với luân thường đạo lý nhưng
chắc chắn trong lòng nó cũng tan nát, đau đớn khôn cùng khi chứng kiến những
cảnh đó trong gia đình mình. Cô con gái cho thấy một suy nghĩ tỉnh táo, khéo léo
mà quyết đoán như một người phụ nữ thực thụ trong môi trường sống đầy nghịch
cảnh của gia đình. Cô gái khiến ta nhớ tới nhân vật Kim - con gái mụ Tề trong
truyện ngắn Chợ Tết. Đó là khi Định đến sạp hàng mà Kim đang bán để hỏi thăm
về mẹ Tề - Kim vui vẻ trả lời và còn mời bác Định sang nhà chơi. Nhưng khi Định
hỏi Kim: “Bố Kim làm nghề gì?” thì trong câu trả lời của Kim đã nói lên tất cả thái
độ của cô về người bố “- Bố cháu thì cháu... chẳng biết nói ra sao”. Không thể
chấp nhận được hành động bạo hành của bố với mẹ nhưng Kim cũng chẳng thể Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
69
chống lại, cô cũng chỉ biết chấp nhận. Ở nhân vật người con gái hàng chài cũng có
sự đồng điệu trong suy nghĩ với nhân vật Kim. Thái độ “không nói” một lời nào
của cô chính là cái “chẳng biết nó ra sao” của Kim – cả hai đều hàm chứa một sự
chán chường, ngán ngẩm về bố mình khi họ thường xuyên đánh đập mẹ của hai
cô. Liệu rồi tương lai của đứa con gái có là sự bước tiếp vào con đường đau khổ
như cuộc đời của người mẹ? Nỗi đau dồn nén trong lòng hay cô cũng giống mẹ,
nhắm mắt cam tâm chấp nhận bi kịch gi đình? Là gì chăng nữa người đọc cũng
không khỏi xót xa trước sự tác động tiêu cực đến tâm hồn con trẻ của tư tưởng nam
quyền. Đó cũng là nỗi âu lo, trăn trở của nhà văn.
Như vậy, qua hai nhân vật thằng Phác và đứa chị nó cũng như Phùng và Đẩu,
nhà văn đã cho thấy được những thái độ khác nhau của các nhân vật này quanh câu
chuyện bạo hành gia đình gắn với sự áp chế của người đàn ông với người đàn bà.
Bằng cách này, nhà văn đã đưa ra những góc nhìn khác, những phán xét và đánh giá
khác trước hiện thực đa chiều cũng như con người đầy bí ẩn. Các giá trị đạo đức
còn vẹn nguyên khi nền tảng gia đình được bồi đắp để gia đình thật sự là tổ ấm cho
mọi thành viên. Khi người chồng đánh đập, chửi rủa vợ con, nền tảng bị lung lay,
còn khi người con đánh lại bố thì các giá trị đã bị băng hoại và vượt qua tầm kiểm
soát của lẽ thường. Mưu sinh đã khốn khó, bạo hành lại gia tăng là thực tế mà con
người phải đối mặt khi đất nước có hòa bình.
Tiểu kết
Trong chương 2, chúng tôi đã đi vào làm rõ tinh thần phê phán nam quyền và
ý thức nữ quyền của tác giả. Đây được xác định là nội dung chính của đề tài với
hình tượng người đàn ông hàng chài là hiện thân của tư tưởng nam quyền cố hữu:
mặc nhiên cho mình có cái quyền sở hữu thân thể người vợ, có thể đánh đập vợ con
theo ý muốn; với người đàn bà hàng chài là sự mặc nhận thân phận nô lệ trước
người đàn ông. Với các nhân vật này, nhà văn muốn phản ánh tình trạng bất bình
đẳng giới, một vấn đề mới mà văn học trước 1975 chưa được các nhà văn tiếp cận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
đến. Ngoài ra, chúng tôi còn đi vào tìm hiểu thái độ của các nhân vật như Phùng,
70
Đẩu cùng hai người con là thằng Phác và đứa con gái để thấy được, qua những nhân
vật này nhà văn đã gửi gắm tư tưởng phê phán, lên án văn hóa nam quyền.
Kết thúc tác phẩm, bi kịch người đàn bà hàng chài vẫn còn đó trước sự bất
lực của pháp luật, nhưng mỗi người đọc có thể đã có cho riêng mình giải pháp. Từ
góc nhìn văn hóa giới, khi người đàn ông và người đàn bà đều là hiện thân, là sản
phẩm của văn hóa nam quyền thì giải pháp để loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của
văn hóa nam quyền lên con người ngoài việc cải thiện đời sống vật chất, đưa họ
thoát khỏi đói nghèo thì từ hướng tiếp cận văn hóa giới luận văn đưa ra một giải
pháp: Đó là cần phải đấu tranh loại bỏ những “bóng ma” tư tưởng – tư tưởng nam
quyền cố hữu, cổ hủ độc đoán để giải thoát người phụ nữ khỏi những trận bạo hành,
khỏi những bi kịch gia đình – chừng nào còn chưa giải quyết được sự ảnh hưởng
của tư tưởng nam quyền thì chừng ấy vẫn còn có nạn nhân của tư tưởng này; đồng
thời chấm dứt những bi kịch gia đình mang lại một môi trường sống lành mạnh,
nhân văn để con người được sống tốt, sống thiện, sống hạnh phúc theo đúng nghĩa –
như tinh thần nhân văn của đề tài chúng tôi triển khai và hướng đến. Vấn đề này còn
có ý nghĩa với những truyện ngắn tiêu biểu về chủ đề văn hóa giới của Nguyễn
Minh Châu thời hậu chiến đã được đưa vào so sánh trong đề tài.
Để chuyển tả được nội dung nam quyền trong truyện ngắn, Nguyễn Minh
Châu đã có nhiều sáng tạo, đổi mới trong nghệ thuật kể chuyện. Nội dung này được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
chúng tôi triển khai cụ thể ở chương 3 của đề tài.
71
Chƣơng 3
NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN
Như đã trình bày ở phần cuối chương trên, chương 3 này chúng tôi sẽ đi vào
phân tích nghệ thuật kể chuyện và xây dựng nhân vật để phục vụ cho cái nhìn phê
bình nam quyền và tinh thần đề cao nữ quyền của tác giả Nguyễn Minh Châu ở
Chiếc thuyền ngoài xa. Trong đó, chúng tôi tập trung đi vào các yếu tố nghệ thuật
được sử dụng trong việc khắc họa nhân vật nhằm tố cáo thái độ “chuyên chế” của
người chồng và tô đậm “sự cam chịu nhẫn nhục mọi mặt” của người vợ, cũng như
sự phẫn nộ của các nhân chứng. Ngoài ra, các yếu tố như nghệ thuật tổ chức không
gian và thời gian trần thuật cũng được xét đến với vai trò là các yếu tố làm nên cấu
trúc nội tại của tác phẩm. Những đặc sắc trong nghệ thuật kể truyện này được đặt
trong mối liên hệ với các truyện ngắn tiêu biểu khác của nhà văn sau năm 1975 có
chung chủ đề phản ánh ứng xử giới là văn hóa nam quyền. Mục đích cuối cùng là để
thấy được tư tưởng nam quyền độc đoán đã được nhà văn thể hiện sinh động ở sự
vũ phu của người đàn ông cũng như sự chấp nhận đầy chịu đựng ở người đàn bà và
thái độ, sự phản ứng của người kể chuyện cùng các nhân vật phụ trước nạn bạo
hành trong tác phẩm.
3.1. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
3.1.1. Người kể chuyện
Viết văn là cách để người cầm bút đối thoại với bạn đọc những vấn đề nhức
nhối của cuộc sống. Tuy nhiên, sự đối thoại đó không diễn ra trực tiếp mà thông qua
các phương thức, phương tiện nghệ thuật. Nhà văn cũng không “đóng gói” tư
tưởng, tình cảm của mình để gửi tới bạn đọc mà kí thác vào các nhân vật của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
72
Trong Chiếc thuyền ngoài xa, thái độ phê phán tư tưởng nam quyền của Nguyễn
Minh Châu không chỉ được thể hiện qua cặp nhân vật vợ chồng hàng chài mà còn
được nhà văn kín đáo gửi gắm qua nhân vật người kể chuyện.
Theo Từ điển Thuật ngữ văn học : “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về
người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể
bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm”[14, tr.22] và “Người kể chuyện, dù có mặt
bất cứ dưới hình thức nào, đều là thành tố quan trọng tạo nên giá trị nghệ thuật của
tác phẩm tự sự”. [13, tr.109]. Như vậy, xây dựng nhân vật người kể chuyện cũng là
một công phu của người cầm bút nhằm mang lại thành công cho tác phẩm.
Ở Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã trao ngòi bút cho nhân vật
Phùng – một phóng viên đồng thời cũng từng là một người lính hơn mười năm cầm
súng chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Chọn vai người kể
chuyện sống qua hai giai đoạn lịch sử của đất nước (thời chiến và thời bình), lại
đứng trên tư cách kép (chiến sĩ và nghệ sĩ) không phải là một lựa chọn ngẫu nhiên
mà nó hàm chứa dự đồ nghệ thuật của tác giả. Nhìn lại toàn bộ tác phẩm, chúng ta
thấy nhân vật Phùng xưng Tôi - kể lại câu chuyện mà anh trực tiếp chứng kiến,
thậm chí cũng là người tham gia tích cực vào diễn biến của sự việc. Anh quan sát
hiện thực cuộc sống, con người và tự phân tích tâm lý chính mình. Trong quá trình
đó, hai tư cách trên có dịp bộc lộ và thể hiện một cách đắc lực thái độ phê phán nam
quyền cũng như tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
Bước ra từ khói lửa, đạn bom của cuộc chiến tranh, trút bỏ bộ quân phục của
một người lính từng đối diện với họng súng kẻ thù, Phùng trở về cuộc sống đời
thường với một trách nhiệm mới, một thiên chức mới. Thời chiến, anh cầm súng
chống lại thế lực độc ác, bạo tàn để bảo vệ cái Thiện, mang lại cuộc sống yên bình
cho đất nước. Thời bình, anh cầm máy ảnh, không ngần ngại xông pha, lăn lộn khắp
nơi để tìm kiếm, nâng niu và mang đến cái Đẹp cho cuộc đời. Ở tư cách nào, anh
cũng cống hiến hết mình để mang lại những giá trị nhân văn, nhân bản cho cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
sống của con người.
73
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao là chụp một tấm ảnh nghệ thuật về cảnh
biển trong một buổi sáng có sương, Phùng đã công phu tìm đến vùng biển cách Hà
Nội hơn sáu trăm cây số - nơi từng là chiến trường năm xưa anh chiến đấu. Trong
chuyến đi này, Phùng đã lăn lộn tìm kiếm, “vác máy ảnh tha thẩn suốt một tuần lễ”,
có những đêm anh ngủ ngay trên bãi biển để “phục” lấy cảnh biển ưng ý vào buổi
sáng có sương mờ. Và như một sự bù đắp cho công phu lao động ấy, Phùng đã chụp
được một “cảnh đắt trời cho” ”, “Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng
đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, khiến đứng trước nó,
người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim như có gì bóp thắt vào”, anh còn
“tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện” để rồi ngay
trong khoảnh khắc ấy, Phùng cảm thấy tâm hồn mình được gột rửa “trong ngần”.” .
Thế nhưng thật trớ trêu thay, ngay khi tâm hồn đang thăng hoa với những cảm xúc
thẩm mỹ trước một tuyệt tác nghệ thuật của hóa công, Phùng kinh ngạc đến bàng
hoàng khi phải chứng kiến một cảnh tưởng khủng khiếp: Từ trong chiếc thuyền ngư
phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra là một người đàn bà xấu xí đến thô kệch, khuôn
mặt mệt mỏi, tái ngắt sau một đêm thức trắng kéo lưới cùng người đàn ông đầy vẻ
độc dữ. Lão dùng chiếc thắt lưng của lính ngụy, lấy hết sức lực vốn có của một
người đàn ông vạm vỡ miền biển để trút cơn giận như lửa cháy vào thân hình mỏi
mệt của người vợ sau một đêm lao động cực nhọc trên biển khơi. Và sự tàn nhẫn
trên dường như chưa đủ để hắn giải tỏa những bực bội, khó chịu trong lòng, cùng
mỗi nhát quất là một lời nguyền rủa cay độc lão chồng cất lên bằng cái giọng rên rỉ:
“Mày chết đi cho ông nhờ”. Cảnh tượng phi đạo đức đó dưới cái nhìn của người kể
chuyện là một phóng viên ảnh sẽ được miêu tả chân thực và chi tiết hơn bất cứ một
sự tái hiện nào khác. Quả thật, cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài hiện lên như
một thước phim quay chậm, từ thái độ “hùng hổ”, sắc mặt “đỏ gay” đến hành động
quất vợ bằng chiếc thắt lưng của lính ngụy cùng tiếng thở “hồng hộc”, giọng rên rỉ
nguyền rủa vợ của lão đàn ông đều không qua được con mắt “nhà nghề” của người
nghệ sĩ nhiếp ảnh. Và có lẽ chưa cần một lời bàn luận nào khác, sự chân thực của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
bức tranh bạo hành dưới sự miêu tả Phùng đã là một lời tố cáo, lên án sâu sắc thói
74
vũ phu, độc đoán, tàn bạo mà tư tưởng nam quyền đã tạo nên ở người đàn ông hàng
chài. Trao ngòi bút cho nhân vật là phóng viên ảnh, Nguyễn Minh Châu đã khiến
những trang văn của ông trở nên chân thực hơn bao giờ hết, nó không còn là nghệ
thuật nữa. Nó là cuộc đời, một cuộc đời hiện ra trần trụi, thô nhám. Chao ôi, chân lí
của sự toàn Thiện, toàn Mỹ đâu? Giờ chỉ còn cái Chân trần trụi và gai góc của cuộc
sống.
Một khung cảnh nghệ thuật đẹp như trong mơ bỗng phút chốc biến thành
cảnh tượng “đầy quái đản”. Dẫu theo đuổi thứ nghệ thuật thuần túy vì đặc trưng
công việc nhưng với bản chất nghệ sĩ (coi trọng và tôn thờ cái Đẹp – những giá trị
nhân văn của cuộc sống) Phùng không thể nào chấp nhận sự tồn tại của cảnh tượng
“phi nghệ thuật” ấy, để rồi trong khoảnh khắc, anh đã kinh ngạc đến bất động.
Người nghệ sĩ ấy như chết lặng, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt
mình,“cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn”. Thêm nữa, bản năng và cũng là phẩm chất
của một người lính từng vào sinh ra tử để đổi lấy sự bình yên cho cuộc sống càng
khiến anh không thể làm ngơ. Trong vô thức, anh đã ném chiếc máy ảnh (vật bất li
thân của người phóng viên ảnh) từ lúc nào không biết để lao vào ngăn chặn hành
động của người chồng vũ phu. Và rồi sự phản kháng lại hành động vô lí ấy ở Phùng
đã trở nên quyết liệt hơn khi anh lại phải chứng kiến cảnh bạo hành này thêm một
lần nữa, anh đã “nện hắn” – “cái lão đàn ông độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”
“bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng”
chiến đấu chống lại bạo tàn. Với tư cách là một người lính, Phùng đã bày tỏ quan
điểm của mình: “Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh
một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín đáo cho
hắn đánh”. Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã mượn lời nhân vật người kể chuyện để
bộc lộ quan điểm phê phán thói bạo hành tàn ác của người đàn ông – một sản phẩm
trực tiếp và cụ thể của văn hóa nam quyền. Trong câu nói trên, tác giả đã nêu ra
đồng thời phủ nhận hai giả thiết về lí do người chồng đánh vợ. Thứ nhất: “cho dù
đó là vợ”, giả thiết mang hàm ý: “người vợ đồng nghĩa với thân phận bị chồng coi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
thường, ức hiếp chà đạp ”. Thứ hai: “cho dù…tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín
75
đáo cho hắn đánh”, giả thiết này nói lên thái độ cam chịu thiệt thòi, chấp nhận bị
chồng ngược đãi của người làm vợ. Cả hai giả thiết trên đều phản ánh tư tưởng mặc
nhiên, tự nguyện chấp nhận nam quyền ở người đàn bà hàng chài nói riêng và phần
lớn người phụ nữ Việt Nam truyền thống nói chung. Thái độ ứng xử này, Nguyễn
Minh Châu cũng kín đáo phê phán qua trạng thái tâm lí của Phùng: “tôi thấy gian
phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột
ngạt quá” sau khi nghe người đàn bà một mực xin không phải bỏ chồng: “Quý tòa
bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” Anh bức xúc
thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!”
Như vậy, thông qua nhân vật người kể chuyện là một nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng
từng là một chiến sĩ giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh
Châu đã thể hiện sâu sắc thái độ phê phán tư tưởng nam quyền cũng như nỗi âu lo,
trăn trở của nhà văn trước số phận và hạnh phúc của người phụ nữ, của mỗi gia đình
trước sự tác động tiêu cực của “bóng ma” tư tưởng đó. Là người trải qua hai giai
đoạn lịch sử của đất nước, Phùng thấm thía và đau đớn trước bi kịch của con người
trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn và kiếm tìm hạnh phúc. Người lính từng cầm súng
đấu tranh cho sự bình yên của dân tộc như anh ngỡ tưởng chiến tranh qua đi, bình
yên và hạnh phúc sẽ trở về trong mỗi cuộc đời, mỗi mái nhà vậy mà vẫn còn đó
những bi kịch, những số phận, những nghịch cảnh trớ trêu. Vậy làm thế nào để
chấm dứt những bi kịch như bi kịch mà gia đình hàng chài đang phải đối mặt? Làm
thế nào để giải phóng con người, đặc biệt là người phụ nữ thoát khỏi sự cầm tù của
tăm tối, đói nghèo và bạo lực? Câu hỏi này nhà văn không trực tiếp đặt ra trong tác
phẩm mà chuyển thành nỗi ám ảnh trong tâm trí người kể chuyện: “Tuy là ảnh đen
trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao
giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn
bà vùng biển cao lớn với đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá,
nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám
76
đông”. Qua tâm sự trên của nghệ sĩ Phùng, chúng ta thấy bề ngoài anh vẫn theo
đuổi thứ nghệ thuần thuần túy, “nghệ thuật vị nghệ thuật” nhưng bên trong tâm hồn,
người nghệ sĩ ấy đã có sự “bừng ngộ”. Anh nhận ra nghệ thuật chân chính phải vì
cuộc đời, vì con người, phải ánh chân thực cuộc sống dù hiện thực ấy có gai góc
đến mức nào. Nghệ sĩ phải đưa được cuộc đời vào nghệ thuật và bằng nghệ thuật,
nâng đỡ, bênh vực, bảo vệ con người, mang đến một môi trường sống thật sự nhân
văn để con người được sống một cuộc sống hạnh phúc theo đúng nghĩa. Từ nỗi
niềm đau đáu ấy, Nguyễn Minh Châu thông qua người kể chuyện đã gợi mở một
giải pháp, thông điệp này nhà văn kín đáo gửi vào hai chữ: “cách mạng” gần cuối
tác phẩm: “…cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ
mụ cho đến khi chết – nếu không có cách mạng về”. Như vậy, bằng trách nhiệm và
tấm lòng của một nghệ sĩ thiết tha với số phận con người, Nguyễn Minh Châu đã
đặt kì vọng vào một cuộc cách mạng trong tương lai – một cuộc cách mạng không
chỉ giúp con người thoát khỏi sự cầm tù của đói nghèo, của tăm tối, dốt nát mà còn
thoát khỏi sự cầm tù của những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu.- tư tưởng nam quyền.
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật.
Một trong những thành công của Nguyễn Minh Châu trong Chiếc thuyền
ngoài xa là cách lựa chọn điểm nhìn trần thuật sắc sảo. Điều này đã giúp nhà văn
thể hiện rõ thái độ, quan niệm của mình về con người và cuộc đời, trong đó có tư
tưởng phê phán nam quyền – một trong những nguyên nhân đẩy cuộc sống của con
người vào tình trạng khổ đau, bế tắc.
Về điểm nhìn trần thuật, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Điểm nhìn
trần thuật mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, quan sát, cảm thụ
của chủ thể đối với thế giới. Nó là các vị trí dùng để quan sát, cảm nhận đánh giá
bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lí, tâm lí,
văn hóa” [30, tr 149].
Trong tác phẩm tự sự, mọi sự thay đổi luôn bắt đầu từ sự thay đổi điểm nhìn
trần thuật, sáng tác của Nguyễn Minh Châu cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Nếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
như giai đoạn trước 1975, người kể chuyện thường là người biết hết, biết trước và
77
có điểm nhìn áp đặt một chiều trước hiện thực và con người thì các sáng tác sau
1975, trong đó có Chiếc thuyền ngoài xa đã được Nguyễn Minh Châu chuyển sang
cách tổ chức phối hợp và linh hoạt di chuyền điểm nhìn, tạo ra điểm nhìn trần thuật
đa chiều trong tác phẩm. Cách tổ chức điểm nhìn như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tinh thần đối thoại và tự đối thoại cởi mở, dân chủ trong văn học. Theo hướng
này, các điểm nhìn có thể đối thoại với nhau về các vấn đề của nhân vật chính trong
truyện ngắn, từ đó nhân vật chính được khắc họa trọn vẹn hơn, hiện thực được nhìn
thấu đáo hơn.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho cách tổ chức điểm nhìn
nàỳ. Phùng xuất hiện dưới hình thức nhân vật tôi kể lại sự việc với tư cách là người
chứng kiến và với vai trò người dẫn dắt câu chuyện. Trong lúc kể, Phùng đã linh
hoạt luân chuyển lời kể cho người đàn bà hàng chài (tại tòa án huyện). Để người
đàn bà tự kể về câu chuyện cuộc đời mình là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn
nhằm mang đến tính chân thực, sinh động, hấp dẫn của câu chuyện. Bằng điểm nhìn
của người trong cuộc, nhà văn đã dựng lại toàn bộ hành trình số phận của người phụ
nữ miền biển này từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành, làm vợ rồi làm mẹ của đàn con
trên dưới chục đứa, cả gia đình chị sống trên một chiếc thuyền vó bè chật hẹp, mưu
sinh bằng nghề đánh cá. Câu chuyện chị kể lại được lồng trong cuộc đối thoại với
nhân vật Phùng và Đẩu nên người đàn bà có cơ hội được giãy bày tỏ tường ngọn
ngành của nỗi đau cũng như lí do khiến chị thầm lặng chịu đòn chồng. Nhìn lại
cuộc đời mình, chị vừa kể, vừa lí giải, bình luận vừa trực tiếp thể hiện cảm xúc, tâm
trạng: “Giá tôi đẻ ít đi”, “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều
quá”, “giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ”… Qua đó, nhà văn đã mượn lời
nhân vật gửi gắm thái độ phê phán nam quyền ở người đàn ông và ý thức chấp nhận
nam quyền ăn sâu trong nếp nghĩ, nếp cảm cũng như hành vi ứng xử của người đàn
bà. Nội dung này chúng tôi đã phân tích và làm sáng tỏ qua mục 2.2 (Ngƣời vợ
nhƣ là sản phảm của tƣ tƣởng nam quyền).
Việc di chuyển điểm nhìn về phía các nhân vật giúp cho nhà văn được tự do
trong quan sát, bình luận theo chủ kiến của mình về đối tượng phản ánh: Người đàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
ông và hành vi ngược đãi vợ, sự cam chịu của người vợ cũng như bi kịch của gia
78
đình. Tất cả đều được soi chiếu bởi nhiều điểm nhìn khác nhau vừa tạo nên sự
khách quan, đa dạng trong đánh giá vừa khiến quan điểm nhà văn bộc lộ trong tác
phẩm sẽ không những không mang tính áp đặt mà còn trở nên vô cùng thuyết phục.
Chẳng hạn: Ở điểm nhìn của người kể chuyện –một nghệ sĩ luôn yêu cái đẹp, cái
thiện- một chiến sĩ từng đấu tranh chống lại bạo tàn thì hành động bạo hành vợ của
người đàn ông hàng chài là hành động của một người “độc ác và tàn nhẫn nhất thế
gian” không thể tha thứ. Ở điểm nhìn của chánh án Đẩu – người đại diện cho luật
pháp, công lí –người từng cầm súng vào sinh ra tử trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ thì hành vi đánh vợ của người đàn ông cũng là biểu hiện của cái xấu, cái ác rất
đáng lên án và chỉ có một giải pháp cho người đàn bà là li hôn bởi “Cả nước không
có một người chồng nào như hắn”. Rõ ràng, sự đánh giá lão chồng là người độc ác,
tàn nhẫn nhất cả nước, nhất thế gian của đôi bạn đồng ngũ kia đã nói hộ nhà văn
tiếng nói phê phán tư tưởng nam quyền mà nhân vật người đàn ông là hiện thân sắc
nét. Ở điểm nhìn của Phác, nhà văn miêu tả những phản ứng của nó với cha mình có
sự tăng dần mức độ nghiêm trọng mà căn nguyên là xuất phát từ tình yêu ngây thơ,
bồng bột, muốn đòi công bằng cho mẹ. Với người con gái dù mới bước vào tuổi
thiếu nữ phần nào đã hiểu những vất vả của mẹ và nỗi bức bối của người cha trong
cuộc sống nên cô chọn sự cam chịu, nhẫn nhịn, có lúc có cách ứng xử phù hợp với
hoàn cảnh, khi cần đã có những can thiệp kịp thời. Dưới cái nhìn của người trong
cuộc cũng là nạn nhân trực tiếp của bạo hành – người đàn bà hàng chài thì lão đàn
ông vũ phu lấy việc đánh vợ làm phương thức giải tỏa tâm trạng khổ đau của riêng
mình cũng chỉ là một nạn nhân. Và những hành động tàn nhẫn của lão chồng lại cần
và đáng được cảm thông. Ở điểm nhìn này, người vợ có ý muốn bênh vực, “bào
chữa” cho người chồng nhưng sự tinh tế và sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Minh
Châu đã cho chúng ta thấy thái độ ứng xử ấy của người phụ nữ cũng là sản phẩm
của văn hóa nam quyền. Trong truyện Khách ở quê ra cũng có sự di chuyển linh
hoạt điểm nhìn như vậy. Từ người kể chuyện sang nhân vật Định rồi chuyển qua lão
Khúng, rồi Định lại trao cho lão Khúng điểm nhìn để Khúng tự mình cảm nhận về
vùng đất khai phá, về mụ Huệ cùng những đứa con và những người lang biển. Định
còn trao điểm nhìn cho chính nhân vật mụ Huệ để Huệ có được những giây phút
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
vượt thoát khỏi lão Khúng mà tương tư với thằng Mới hay để Huệ suy tư về cuộc
79
sống về viễn cảnh vùng đất đang sống sẽ là một thành phố tương lai. Qua sự di
chuyển linh hoạt điểm nhìn giữa các nhân vật, cuộc đời, tính cách độc đoán của lão
Khúng được hiện lên đầy đủ trong vai trò một người chủ gia đình – trong đó có sự
áp chế đầy độc đoán trong việc tự mình quyết định sức khỏe sinh sản của mụ Huệ.
Như vậy, sự khéo léo di chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện sang các nhân
vật khác giúp nhà văn phơi bày một cách chân thực toàn bộ bức tranh xám xịt về
cuộc đời cũng như gia đình của người đàn bà hàng chài. Đồng thời thể hiện một cái
nhìn đa chiều về hành động tàn bạo của người đàn ông mang tư tưởng nam quyền
và một cái nhìn toàn diện hơn về nỗi khổ cực của người đàn bà dưới sự áp chế của
văn hóa nam quyền. Việc linh hoạt điểm nhìn trần thuật là một bước tiến trong cách
tiếp cận hiện thực đời sống của Nguyễn Minh Châu, góp phần thể hiện đắc lực tinh
thần phê phán nam quyền và ý thức bảo vệ nữ quyền của tác giả - một trong những
biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của nhà văn sau năm 1975.
3.2. Xây dựng chân dung nhân vật
Trong tác phẩm tự sự, nhân vật là yếu tố quan trọng không chỉ giúp nhà văn
khái quát, phản ánh hiện thực mà còn thể hiện tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của
nhà văn về con người và cuộc đời. Nhân vật cũng là nơi kí thác những nỗi niềm trăn
trở, những ước mơ, khát vọng của người cầm bút trước hiện thực cuộc sống. Sức
hấp dẫn của một tác phẩm văn học vì thế trước hết thể hiện ở sức hấp dẫn của hình
tượng nhân vật, đó cũng là linh hồn của mỗi sáng tác văn chương. Do vậy, công phu
của người viết truyện bao giờ cũng thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Lý luận văn học đã chỉ ra các phương diện cần thiết để nhà văn xây dựng
thành công một hình tượng nhân vật văn học như ngoại hình, ngôn ngữ, tính cách,
hành động, nội tâm, mối quan hệ với các nhân vật khác,… Tuy nhiên, tùy theo ý đồ
nghệ thuật của mình mà mỗi nhà văn sẽ có những lựa chọn khác nhau trong cách
xây dựng nhân vật. Người thì tập trung khác họa ngoại hình, tính cách; người thì
nghiêng nhiều về những xúc cảm nội tâm; người lại xoáy vào những mâu thuẫn,
giằng xé bên trong. Nguyễn Minh Châu trong Chiếc thuyền ngoài xa khi khắc họa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
chân dung nhân vật cặp vợ chồng hàng chài như là hiện thân và sản phẩm của tư
80
tưởng, văn hóa nam quyền đã có lựa chọn riêng về những phương miêu tả như
ngọai hình, cử chỉ, hành động…trong đó mỗi sự miêu tả đều là sự gửi gắm một
quan niệm nhất định của nhà văn về con người cần được người đọc giải mã.
3.2.1. Chân dung người chồng.
Như trên chúng tôi đã nói, lựa chọn nhân vật người kể chuyện là một nghệ sĩ
đồng thời cũng từng là một người lính, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự sắc sảo,
già dặn trong nghệ thuật viết truyện của mình. Trong tác phẩm, toàn bộ chân dung
nhân vật người đàn ông hàng chài đều hiện lên qua cái nhìn của Phùng. Khả năng
bao quát hiện thực, óc quan sát, đôi mắt tinh tường “nhà nghề”…tất cả sở trường
của một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài năng được phát huy cao độ để đặc tả chân dung của
nhân vật. Vì thế, tính chân thực của đối tượng miêu tả sẽ bộc lộ rõ nét tư tưởng
nghệ thuật của nhà văn, trong đó có tinh thần phê phán nam quyền.
Trong một số lượng nhân vật không nhiều nhưng tác giả chỉ dừng lại miêu tả
ngoại hình của hai nhân vật chính – cặp vợ chồng hàng chài là bởi chân dung ngoại
hình của họ có lẽ cũng chuyển tải một cách tinh vi những thông điệp của người cầm
bút. Bước vào tác phẩm, người đàn ông để lại ấn tượng ban đầu nơi bạn đọc là một
ngoại hình thô kệch nhưng lại toát lên sự khỏe khoắn, vạm vỡ, chắc chắn của một
người đàn ông miền biển với“Tấm lựng rộng và cong như một chiếc thuyền”,
“Tảng lưng khum khum và vạm vỡ”, “ Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc
chắn”. Ngoại hình đó còn in đậm dấu ấn của cuộc mưu sinh bằng nghề chài lưới.
Sự vất vả, nhọc nhằn của công việc được phản ánh qua “mái tóc tổ quạ” ,“hàng
lông mày cháy nắng” và “khuôn ngực trần cháy nắng”. Đặc biệt, đôi mắt nhân vật
được nhà văn đặc tả với vẻ hung dữ: “hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn
dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới…của người đàn bà”. Sự “độc dữ”
trong đôi mắt là một chi tiết “biết nói”, nó cho thấy bên trong cái cơ thể vạm vỡ, to
lớn, cường tráng kia là cả một thế giới nội tâm đầy dữ dội, dữ dằn, hung bạo đến
quyết liệt. Trong tác phẩm, chúng tôi nhận thấy sự lựa chọn những chi tiết miêu tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
ngoại hình nhân vật của nhà văn đều hướng tới làm nổi bật sức mạnh, không chỉ vì
81
đó là yếu tố cần có của một người đàn ông làm nghề vó bè mà còn vì đó là biểu hiện
cho quyền năng, cho vị trí làm chủ của người đàn ông trong gia đình theo tư tưởng
nam quyền. Văn hóa nam quyền quan niệm người đàn ông luôn đồng nghĩa với sức
mạnh. Vai trò thống ngự, tính cách độc đoán, gia trưởng mà xã hội cấp cho họ vừa
là một biểu hiện, vừa củng cố, nâng cao uy quyền của họ đối với gia đình. Và tất
nhiên, họ sẽ dùng cái quyền uy “tối thượng” ấy của mình để đối xử với vợ con.
Cùng với ngoại hình, những chi tiết miêu tả khác cũng toát lên sự tàn nhẫn, vũ phu
của người chồng. Thái độ “hùng hổ”, nét mặt “đỏ gay” kia như thể lão đã “chuẩn
bị” để trút lên “đối phương” tất cả những bực dọc, giận dữ, những uất ức nào đó
trong lòng. Và ai ngờ đâu, “đối phương” phải hứng chịu cơn bạo hành tàn ác ấy lại
chính là người bạn đời – người vợ - người mẹ của những đứa con lão. Tiếng thở
“hồng hộc” cùng “hai hàm răng nghiến ken két” đủ thấy được lão đang trút lên tấm
thân mỏi mệt của vợ tất cả sức mạnh của đòn roi và sự uất ức, bực dọc trong lòng.
Dáng đi hình “chữ bát” của lão được nhà văn miêu tả hai lần cũng hàm chứa một
quan niệm của ông về con người: “ Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc
chắn” và “hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang
vắng”. Chữ “bát” - “八” trong tiếng Hán dùng để tả kiểu đi hai bàn chân xoạc ra hai
bên, ở đây dáng chân đi hình chữ “bát” của lão đàn ông là kiểu đi hướng hai bàn
chân ra hai bên vừa khệnh khạng, vừa oai vệ như là hiện thân cho sức mạnh quyền
lực chúa tể của lão trong gia đình. Theo một số tài liệu không chính thức còn cho
rằng, người có dáng đi này thường có nét tâm lý và tính cách bảo thủ. Tìm hiểu ý
nghĩa của chữ “bát” như trên, chúng tôi cho rằng: cái dáng đi chữ “bát” đầy uy
quyền đó được nhà văn so sánh như “một con gấu đang đi tìm nguồn nước”, để lại
những “vết chân to và sâu” trên bãi cát như một lời khẳng định thứ quyền lực tuyệt
đối - bất khả xâm phạm của lão đàn ông – vừa đầy bản năng vừa dữ tợn, khiến
những người xung quanh phải khiếp sợ và phục tùng theo. Hành động dang thẳng
cánh tay cho thằng Phác hai cái tát như minh chứng cho sự trả giá của sự đi ngược
lại với quyền lực đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
3.2.2. Chân dung người vợ
82
Bên cạnh lão đàn ông hàng chài, nhà văn cũng rất chú trọng khắc họa chân
dung người vợ – nhất là yếu tố ngoại hình. Dưới cái nhìn của nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng, người đàn bà hiện lên với một ngoại hình thô kệch như những nét vẽ vội của
tạo hóa: “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà
vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt” Sự thua thiệt về nhan
sắc phần nào đã dự báo một số phận kém máy mắn của người phụ nữ này. Trong
khi khắc họa chân dung người đàn bà, nhà văn đã tăng cường các chi tiết về cuộc
đời của chị để mang đến cho người đọc một hình dung đầy đủ về cuộc đời của nhân
vật. Từ nhỏ, chị đã “là một đứa con gái xấu xí”, lại thêm bệnh đậu mùa để lại di
chứng trên gương mặt chị bằng những nốt rỗ chằng chịt. Vậy là xấu càng thêm xấu,
“trong phố không ai lấy” nghĩa là chị không có cơ hội được chủ động lựa chọn hạnh
phúc cho riêng mình như bao người con gái khác. Chị “có mang với một anh con
trai hàng chài giữa phá” và đó cũng là lí do chị bắt đầu cuộc đời làm vợ, làm mẹ
bên người chồng vũ phu và một đàn con đông đúc trên một chiếc thuyền vó bè chật
chội. Trong những chi tiết miêu tả ngoại hình nhân vật, Nguyễn Minh Châu hơn
một lần miêu tả khuôn mặt, tấm áo và thân hình của chị sau một đêm kéo lưới:
“Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang
buồn ngủ (...) tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. [9,
tr.256]. Hình ảnh khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, đang buồn ngủ đã nói lên tính chất
công việc của người đàn bà: phải thức đêm nhiều, lao động vất vả, không còn thời
gian để chăm sóc bản thân. Ngoại hình ấy đã hé lộ một số phận, một cuộc đời đầy
truân chuyên, chìm nổi với những khổ đau và nghịch cảnh. Phải chăng chị là hiện
thân của sự nghèo khổ, vất vả và cam chịu. Những chi tiết: tấm lưng áo bạc phếch,
rách rưới có miếng vá và nửa thân dưới ướt sũng xuất hiện trở đi trở lại, đã phần
nào gợi lên sự chua xót ở người đọc về hoàn cảnh khốn khó, khổ sở của người đàn
bà. Một đời làm vợ, chị không bao giờ nghĩ tới bản thân, chấp nhận mọi thua thiệt
để một lòng chăm lo vun vén cho gia đình. Nếp sống này bắt nguồn từ nếp nghĩ an
phận, cam chịu, phó mặc cuộc đời mình cho chồng của người phụ nữ sống theo tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
tưởng nam quyền. Để rồi, đã có lúc người phụ nữ ấy “đưa một cánh tay lên có lẽ
83
định gãi hay sửa lại mái tóc” như một biểu hiện của bản năng của tính nữ, đó là nhu
cầu làm đẹp.“ nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
Phải chăng đó là biểu hiện của mặc cảm thân phận, của sự cam chịu, thậm
chí là sự nô lệ, phục tùng mà người vợ bất hạnh ấy đã tự nguyện coi đó như bổn
phận của mình. Bởi vậy mà dù vừa bị chồng bạo hành một cách tàn nhẫn, lại đau
đớn đến quặn thắt con tim trước sự kiện đứa con trai vì bảo vệ mẹ mà lao vào đánh
bố nhưng người vợ, người mẹ ấy ngay lập tức phải gạt nước mắt, ghồng mình chôn
vùi nỗi đau tận sâu đáy lòng như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra để “đi thật
nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về
chiếc thuyền”. Chi tiết này cùng hình ảnh “đưa cặp mắt nhìn xuống chân”, “Mụ
đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia”và “khuôn mặt cúi gằm
xuống” đã thay nhà văn nói lên nỗi buồn thân phận và ý thức cam chịu, mặc nhận
bổn phận phục tùng chồng của người đàn bà hàng chài. Nhìn từ văn hóa ứng xử
giới, chúng tôi nhận thấy tư tưởng nam quyền đã tác động sâu sắc đến ý thức của
nhân vật khiến mọi hành động, cử chỉ, ngoại hình của chị đều toát lên tinh thần chấp
nhận, khuất phục số phận. Ngay cả cái dáng vẻ “ sợ sệt, lúng túng” và hành động
“tìm đến một góc tường để ngồi…ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”
của người đàn bà khi chị đến tòa án huyện theo lời mời của Đẩu để giải quyết việc
gia đình cũng nói lên rất rõ sự tội nghiệp của người phụ nữ. Trong quan niệm xưa,
người phụ nữ luôn bị coi thường, họ không có tiếng nói trong bất cứ phương diện
nào của cuộc sống kể cả trong gia đình đến ngoài xã hội. Cuộc đời họ bị trói buộc
trong những công việc gia đình với những bếp núc, cửi canh để làm tròn bổn phận
người vợ, người mẹ. Không gian sống chỉ chật hẹp trong bốn bức tường. Với người
đàn bà hàng chài, ngoài chiếc thuyền vó bè chật chội được coi là không gian sống
của gia đình, chị cũng chỉ biết đến biển khơi đầy sóng gió. Đó là tất cả những gì chị
biết về về thế giới này. Vậy nên, khi được mời đến tòa án huyện – một không gian
khác với không gian hàng ngày chị đối mặt, mặc dù đã là lần thứ hai, chị vẫn không
giấu nổi sự lúng túng, ngại ngùng và cảm giác tự ti đến tội nghiệp.
Như vậy, với những chi tiết đặc tả về chân dung người đàn bà hàng chài như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
ngoại hình, cử chỉ, thái độ… Nguyễn Minh Châu đã mang đến cho người đọc một
84
hình dung trọn vẹn về người phụ nữ miền biển vất vả, cơ cực trong cuộc mưu sinh
với nếp cảm, nếp nghĩ và cách hành xử (với bản thân và gia đình, đặc biệt với người
chồng) còn in đậm dấu ấn của tư tưởng nam quyền. Khám phá và miêu tả con người
ở phương diện này là một biểu hiện của giá trị nhân bản, nhân đạo sâu sắc của ngòi
bút Nguyễn Minh Châu không chỉ trong Chiếc thuyền ngoài xa mà người đọc còn
Trong Chợ Tết, nhân vật mụ Tề cũng hiện lên đầy cảm thương qua những
tìm thấy trong những sáng tác sau năm 1975 của nhà văn.
nét vẽ ngoại hình chân thực của người cầm bút. Nhân vật hiện lên với “một mớ váy,
yếm cũ rách phấp phới” và “mớ áo yếm tanh rềnh”. Nét đặc sắc của cách tả nằm ở
chỗ áo yếm được ví như mớ tôm, mớ cá ngoài chợ mà mụ đang cắm mặt xuống để
chọn. Ở đây, trang phục không chỉ nói lên cái vất vả đặc trưng của nghề nghiệp
mưu sinh mà còn cho thấy thân phận hèn mọn cùng những thua thiệt, tủi hờn của
cuộc đời người phụ nữ. Đọc Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, ta cũng bắt
gặp những trang văn tả đám đàn bà “kẻ biển” đang say sưa “chạy cá” khi lão Khúng
gặp ở chợ Cầu Giát: “Họ chạy thành từng đám dăm bảy mụ, mươi mụ, mụ nào cũng
cao lớn như hộ pháp, váy mụ nào mụ nấy bị xé gần tới đầu gối, yếm áo tả tơi, mà
phần lớn ở trần, mồ hôi nhẫy ra, họ chạy vừa la hét dẹp đường, vũ khí tấn công
cũng như tự vệ là cặp khuỷu tay lúc nào cũng chĩa ra hai bên…”.[9, tr.598]. Văn
hay đời mà xót xa đến thế? Vì miếng ăn sinh tồn, vì bổn phận và trách nhiệm của
người làm vợ, làm mẹ hay vì mặc nhận thân phận “nô lệ” trong gia đình mà người
phụ nữ phải bươn trải mưu sinh đến quên cả bản thân mình? Thiết nghĩ không cần
có thêm bất cứ một lời bình luận nào về số phận của những người phụ nữ trên khi
mà dưới ngòi của Nguyễn Minh Châu, văn chương đã thật hơn cả cuộc đời!
3.3. Ngôn ngữ nhân vật
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Nhà văn lấy ngôn ngữ làm chất liệu để
sáng tạo nên những tác phẩm văn chương, ở đó ngôn ngữ được sử dụng với tất cả
khả năng và hiệu quả nghệ thuật để phục vụ cho việc xây dựng hình tượng, biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
hiện tình cảm, thái độ, tư tưởng của nhà văn. Do đó, công phu lao động nghệ thuật
85
của người nghệ sĩ thể hiện ở công phu lựa chọn ngôn ngữ sao cho phù hợp, chở tải
được thông điệp mà nhà văn muốn gửi tới bạn đọc.
Trong cuộc đời viết văn của mình, Nguyễn Minh Châu rất coi trọng ngôn
ngữ. Ông cho rằng nhà văn như một người thợ thủ công mà bằng “ một cách thức
tài nghệ riêng biệt của mình, đập từng chữ ra tìm cho được cái nghĩa nguyên thủy
của nó, rồi lại bằng một cách thức riêng biệt không có ai giống ai và không thể bắt
chước được, đem ghép những con chữ ấy lại với nhau thành câu, thành đoạn, cuối
cùng trở thành một thứ có cả thể xác và tâm hồn trong một tác phẩm văn học”. [18].
Trên tinh thần đó, đến với sáng tác của Nguyễn Minh Châu, người đọc cần giải mã
các tín hiệu ngôn ngữ để nhận biết tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, cần tìm cho ra
linh hồn của mỗi con chữ để cảm được linh hồn của tác phẩm. Trong Chiếc thuyền
ngoài xa, sự lựa chọn ngôn ngữ của tác giả xuất phát từ một quan niệm, một nhận
thức, một lí giải nào đó về con người và cuộc sống, trong đó có sự lên án, phê phán
tư tưởng nam quyền trong việc tạo nên những bi kịch, những câu chuyện buồn trong
cuộc đời của người phụ nữ. Dưới đây, chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu ngôn ngữ của
nhân vật chính – cặp vợ chồng hàng chài
3.3.1 Ngôn ngữ người chồng
Dù là nhân vật chính nhưng người chồng xuất hiện trong tác phẩm không nhiều, tuy
nhiên cũng đủ để tạo nên ấn tượng sâu đậm nơi người đọc về một người đàn ông vũ
phu, tàn ác, độc đoán, chuyên quyền – một sản phẩm tính cách của văn hóa nam
quyền. Điều này không chỉ toát lên qua những nét vẽ ngoại hình, điệu bộ, hành
động… của nhân vật như chúng tôi đã phân tích ở trên mà còn được biểu hiện sinh
động qua sự lựa chọn ngôn ngữ của nhà văn khi viết về nhân vật.
Bước vào tác phẩm, nhân vật thể hiện sự hiện diện của mình đầu tiên bằng
câu nói : “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đối tượng hướng
tới của câu nói này dựa vào ngữ cảnh có lẽ là đứa con gái lớn. Như vậy câu nói là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
lời thoại của một người cha đối với con và dựa vào sự giao tiếp này, người đọc có
86
thể nhận biết nhiều điều về bản chất của nhân vật cũng như đặc điểm của mối quan
hệ trên.
Câu nói “ Cứ ngồi yên đấy” có sự tỉnh lược cả chủ ngữ và vị ngữ, lại là câu
cầu khiến cho thấy vị trí làm chủ và uy quyền tuyệt đối của người đàn ông trong gia
đình. Lão tự cho mình cái quyền áp đặt, sai khiến vợ con theo chủ ý của riêng lão.
Cách xưng hô “tao/ mày” lạnh lùng, lời đe dọa đầy bạo lực vốn không phải để dùng
trong mối quan hệ cha con, thứ nữa có thể lại là với đứa con gái đã ở tuổi được gọi
là “thiếu nữ”. Sự cục cằn, thô bạo trong ngôn ngữ cùng giọng điệu quát nạt đã thể
hiện rõ nét sự thất học cùng bản chất thô lỗ, dữ dằn, độc ác của người đàn ông. Và
sự độc ác, hung bạo đó được đẩy lên mức tàn nhẫn trong cảnh lão đánh vợ. Cùng
với mỗi nhát roi bằng chiếc thắt lưng của lính ngụy quất xuống người đàn bà, lão
lại cất lên lời nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Vẫn là ngôn ngữ cục cằn, cả vợ, cả con cũng
trở thành “mày” và“chúng mày” còn lão thành “ông” (ngôn ngữ của kẻ bề trên và
xác lập địa vị bề trên của lão trong gia đình). Vợ và con, tất cả đều đáng chết vì đã
khiến lão khổ. Trên kia là dọa “giết” và dưới này là rủa cho “chết” và “chết hết” là
cách của một người chồng đang giao tiếp với những người thân trong gia đình của
lão. Bằng cái nhìn hiện thực sắc sảo, Nguyễn Minh Châu đã đưa vào sáng tác của
mình bức tranh cuộc sống của gia đình hàng chài bằng những nét vẽ chân thực nhất
Ngòi bút của ông “không né tránh hiện thực phũ phàng. Ông đưa lên trang sách
dáng hình, ngôn ngữ thô lỗ, cục cằn và hành động phi nhân tính của lão đàn ông”
[25, tr.240]. Đánh vợ, dọa con, thậm chí nguyền rủa họ bằng những lời lẽ cay độc là
cách để người đàn ông – người chồng – người cha này giải tỏa mọi bức bối, khó
chịu trong lòng. Cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn đã làm tha hóa nhân cách con
người, gánh nặng cơm áo đã biến con người ta thành cầm thú hay đó là cách hành
xử của những người đàn ông mang tư tưởng nam quyền? Cái gì đã khiến lão đàn
ông “chìm lú” (Chu Văn Sơn) không đủ bình tĩnh để nhận ra đâu là nguồn gốc của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
nỗi khổ cuộc đời mình, để rồi trút tất cả căm giận vào trong lời nói, trong những
87
trận đòn roi lên thân thể người vợ? Thiết nghĩ, gánh nặng áo cơm và nỗi cơ cực của
cuộc mưu sinh là nguyên nhân thuộc về hoàn cảnh – tác nhân bề nổi. Còn nguyên
nhân sâu xa – tác nhân bề chìm thuộc về ý thức, tư tưởng của người đàn ông, đó là
sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng nam quyền - thứ tư tưởng đề cao và bảo vệ đặc
quyền, đặc lợi của người đàn ông và coi thường, rẻ rúng người phụ nữ. Tư tưởng
này đã ăn sâu vào tiềm thức, chi phối nếp nghĩ, nếp cảm và mọi hành vi ứng xử
cũng như ngôn ngữ giao tiếp của người chồng mà nạn nhân trực tiếp chính là vợ và
các con lão.
Trong Phiên chợ Giát – một sáng tác khác của Nguyễn Minh Châu, người
đọc nhận thấy ở nhân vật lão Khúng cũng có kiểu giao tiếp bằng ngôn ngữ giống
như ở người đàn ông hàng chài. Hãy nghe lão đối thoại với nhân vật cô y tá: “Đủ
sao được ? Dù vợ không muốn lão cũng bắt đẻ…Cái kho người nằm trong bụng vợ
chứ có ở đâu xa? ”. Dùng câu nghi vấn, cách nói phủ định: “Đủ sao được?”vừa
nhằm phủ nhận quan điểm của cô ý tá trong lời khuyên mụ Huệ - vợ lão: “Chị Huệ,
chị đẻ ít thôi, ba con là đủ rồi” vừa thể hiện quyền uy của người chồng này đối với
vợ kể cả trong việc sinh con. Đó là một thứ uy quyền tuyệt đối mà người vợ chỉ
được phép tuân theo dù không muốn. Ngôn ngữ của nhân vật thể hiện rõ sự áp đặt,
sai khiến: “dù không muốn lão cũng bắt”. Cách xưng hô: “lão” cũng toát lên vị trí
bề trên, vai trò làm chủ trong gia đình và đối với cả cuộc đời người vợ. Chính tư
tưởng nam quyền đã cấp cho họ cái quyền năng ấy, biến người đàn ông trở thành
“ông chủ” được phép sở hữu và đối xử với vợ mình như một “nô lệ”, thiếu sự tôn
trọng tối thiểu đối với vợ cả về thể xác lẫn tinh thần.
3.3.2 Ngôn ngữ người vợ
Khác với ngôn ngữ của người đàn ông hàng chài, ngôn ngữ người vợ trong
tác phẩm có phần đa dạng hơn. Sự miêu tả ngôn ngữ của nhân vật này được tập
trung chủ yếu ở không gian của tòa án huyện, trong cuộc giao tiếp với Phùng và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
Đẩu về câu chuyện cuộc đời cũng như bi kịch gia đình mà chị đang phải đối mặt.
88
Tại tòa án huyện, cùng với thái độ sợ sệt, lúng túng, ngôn ngữ của người đàn
bà đã thể hiện rõ mặc cảm thân phận thấp hèn. Đây là nét tâm lí phổ biến của người
phụ nữ xưa mà xã hội nam quyền đã tạo nên. Sau khi nghe Đẩu – một vị chánh án,
người đại diện cho pháp luật bày tỏ quan điểm trước sự kiện bạo hành trong gia
đình mình: “Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không
sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?”, người đàn bà lập
tức chắp tay vái lạy và cất tiếng: “Con lạy quý tòa…Quý tòa bắt tội con cũng được,
phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” Cách xưng hô tự hạ thấp mình như
một kẻ bề dưới “con”cùng lối nói cầu xin van vỉ của người đàn bà trong lượt thoại
này nhằm khơi gợi lòng thương, sự đồng cảm ở Đẩu để anh không bắt chị bỏ chồng.
Ý thức cam chịu, tư tưởng chấp nhận thân phận “nô lệ”, phục tùng chồng khiến chị
không nhận ra bản thân cuộc sống hiện tại của mình đang là một “ngục tù”, để rồi
khi có cơ hội được giải thoát, chị lại từ chối bằng mọi cách, thậm chí sẵn sàng bước
vào ngục tù để bảo vệ một thứ “ngục tù” khác còn khủng khiếp hơn gấp nhiều lần.
Ở lượt thoại khác, khi chánh án Đẩu tỏ thái độ thỏa hiệp, người đàn bà có sự
thay đổi ngôn ngữ. Từ cách xưng hô “con/ quý tòa” chuyển thành “chị/ các chú”
nhằm xác lập quan hệ bình đẳng, thậm chí còn đứng cao hơn Đẩu và Phùng, tạo một
hoàn cảnh và tâm thế giao tiếp gần gũi, cởi mở, từ đó người đàn bà dốc bầu tâm sự,
kể lại câu chuyện cuộc đời mình. Đó là một cuộc đời đầy giông bão. Thứ giông bão
ngoài biển khơi khiến cuộc mưu sinh của gia đình chị chưa bao giờ hết cơ cực:
“suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm
muối” nó quăng quật, bào mòn thân xác, sức khỏe chị và gieo vào lòng người đàn
ông – chồng chị bao nỗi u uất, khổ đau Cuộc đời chị còn phải thường xuyên đối mặt
với một cơn giông bão, tố lốc khác. Đó là cơn bão đòn roi, cơn bão bạo hành đến từ
người chồng mang tư tưởng nam quyền cổ hủ: “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão
lại xách tôi ra đánh”. Lời tâm sự trên của người đàn bà thể hiện rõ thái độ phê phán
của tác giả về thói tàn nhẫn trắng trợn – sản phẩm tính cách của tư tưởng nam quyền
ở lão đàn ông. Tinh thần phê phán đó còn hướng về thái độ cam chịu của người đàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
bà. Nếu nghĩ sâu hơn chúng ta thấy lời tâm sự trên không hề hàm chứa một thái độ
89
oán thán, căm hận nào của người vợ trước sự ích kỉ, độc ác của người chồng. Thậm
chí chị còn tự nguyện đưa tấm thân ra cho chồng trút giận. Chị kể: “Sau này con cái
lớn lên, tôi mới xin được mới lão… đưa tôi lên bờ mà đánh” Đáng thương, đáng
trọng mà cũng đáng trách thay khi chị lại cam chịu cầm tù mình trong cuộc sống
không khác gì địa ngục. Phải chăng, từ sâu trong tư tưởng chị đã bằng lòng chấp
nhận bạo lực như một phần tất yếu của đời sống gia đình. Và chị thấy rằng mình cần
phải hoàn thành nghĩa vụ của người vợ khi chồng gặp những vấn đề nảy sinh từ đời
sống. Nếu có thở than, chị cũng chỉ đổ lỗi và tự trách mình; “Giá tôi đẻ ít đi”, “cái
lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”. Chị giãi bày lí do chị không thể bỏ
chồng với Phùng và Đẩu: “là bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các
chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có
đàn ông”, “đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo
chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con” Trong tâm sự
trên, ngoài lí do cần có người đàn ông cùng chị trong cuộc mưu sinh nhiều khó
khăn, hiểm nguy trên biển để nuôi đàn con đông đúc, có lẽ còn do tâm lí sống phụ
thuộc, chấp nhận một lòng theo chồng dù người chồng đó có xấu xa, tàn nhẫn đến
thế nào do tư tưởng nam quyền tạo nên.
Qua sự phân tích trên có thể thấy bên cạnh những phương thức, phương tiện
nghệ thuật khác, ngôn ngữ cũng là một yếu tố nghệ thuật có vai trò quan trọng trong
việc soi sáng chủ đề cũng như tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong
Chiếc thuyền ngoài xa nói riêng và nhiều tác phẩm khác cùng chung tinh thần phê
phán nam quyền của ông nói chung. Bởi vậy, dường như không có một yếu tố ngôn
ngữ nào hiện diện trong sáng tác của nhà văn mà không ít nhiều chứa đựng một
thông điệp, một thái độ, một nhắn nhủ nào đó trước cuộc đời.
3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật
Theo Từ điển điển thuật ngữ văn học, không – thời gian nghệ thuật là hình
thức bên trong thuật thể hiện tính chính thể của nó. Đây là hai phạm trù có mối quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
hệ mật thiết trong chỉnh thể nghệ thuật. Tổ chức không gian và thời gian nghệ thuật
90
là một trong những phương diện kết cấu của tác phẩm được các nhà văn sử dụng để
làm nổi bật tính cách nhân vật, chuyển tải chủ đề tư tưởng.
3.4.1. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là“hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chính thể của nó” [14, tr.160], do đó “Không gian nghệ thuật chẳng
những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng,
mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một
giai đoạn văn học”. [2, tr.161].
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Không
có một hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, khôn có nhân vật nào không
có một nền cảnh nào đó. Như vậy, không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và
triển khai của thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm
lĩnh đời sống, “mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”. Và sự miêu tả, trần thuật bên
trong tác phẩm văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, ta xác định được vị
trí của chủ thể trong không - thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, diễn ra trong
một trường nhìn nhất định. Căn cứ vào điểm nhìn mà xác định được vị trí của chủ thể
trong không - thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, khoảng cách nhìn, ở đặc điểm
của khách thể được nhìn. Điểm nhìn không gian được thể hiện qua các từ chỉ phương
vị (phương hướng, vị trí), để tạo thành “viễn cảnh nghệ thuật”.
Bước vào truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, người đọc được sống trong
không gian rộng lớn mênh mông của một vùng biển miền Trung cách Hà Nội trên
sáu trăm cây số. Đây là một vùng nước “thật là thơ mộng, và dường như là trong
suốt dải bờ biển của khắp cả nước, chỉ ở đây vào tháng bảy là còn sương mù”, nó
“có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu” Theo
yêu cầu của trưởng phòng, Phùng phải chụp được một bức ảnh nghệ thuật về thuyền
và biển trong một buổi sáng có sương. Như vậy, đây là không gian, địa điểm lí
tưởng để nghệ sĩ Phùng tác nghiệp và có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
mình, mang về cho trưởng phòng một tấm ảnh ưng ý.
91
Phóng viên Phùng sau nhiều ngày lăn lộn với vùng biển này, cuối cùng anh
cũng đã bắt gặp được một cảnh đẹp trời cho, anh bấm liên thanh để thu vào khuôn
hình những cảnh đẹp đó. Nhưng ngay sau đó, anh lại đối diện với một cảnh về cuộc
bạo hành ở gia đình hàng chài. Liên tiếp chứng kiến hai sự việc trái ngược nhau diễn
ra ngay trước mắt khiến cho nhận thức về nghệ thuật của người nghệ sỹ phải thay đổi:
“Anh bỗng “trật khớp” giữa cái đẹp ngoại cảnh và số phận cực nhọc của con người
sống giữa cái ngoại cảnh thơ mộng ấy”, [33, tr.239]. Ở điểm nhìn từ xa, qua một làn
sương, cuộc sống hiện lên vô cùng thơ mộng. Nhưng ở cự li gần, bằng cái nhìn trực
diện, cuộc sống mới hiện ra với tất cả những gì thật nhất. Đó là sự thật về cuộc mưu
sinh trên biển của những người dân chài, sự thật về cuộc đời của người đàn bà miền
biển với những trận đòn roi, những giọt nước mắt.
Để làm nổi bật sức ảnh hưởng của tư tưởng nam quyền và hậu quả nặng nề mà
nó mang đến cho cuộc sống của con người, Nguyễn Minh Châu đã thật tinh tế khi lựa
chọn không gian vùng biển miền trung này. Nằm cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số,
nghĩa là vùng đất này hoàn toàn rời xa cuộc sống văn minh, hiện đại không tiếp cận
được những đổi thay mọi mặt của cuộc sống con người. Do vậy, Nơi đây còn “hoang
vắng”, “hoang sơ” như thời hồng hoang nguyên thủy. Người dân vốn đã thưa thớt lại
không có điều kiện để giao lưu văn hóa, trao đổi thông tin, họ chỉ “liên kết với nhau
trong một đêm hoặc một ngày” vì công việc, “thường thường mỗi thuyền là một gia
đình”, “cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh đẻ
con cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có.
Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất
nào”. Như vậy, cả một vùng đất là một thế giới gần như tách biệt khỏi cuộc sống văn
minh, hiện đại của con người đang đổi thay từng ngày. Mỗi gia đình trong vùng trời
nước mênh mông ấy lại là một thế giới nhỏ riêng biệt. Mỗi con người trong mỗi gia
đình biệt lập ấy lại cũng là một tiểu vũ trụ khép kín. Vậy nên, những ngư dân nơi đây
vô tình bị đẩy vào cuộc sống tăm tối, mông muội, lạc hậu. Tư tưởng nam quyền cổ hủ
cũng vì thế mà có “đất” để tồn tại, thậm chí còn cắm rễ sâu vào đời sống của con
người, mang lại bao nhiêu những đau đớn, những nghịch cảnh mà con người không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
thể vượt qua. Môi trường sống lạc hậu, con người lại không có điều kiện xích lại gần
92
nhau để chia sẻ, thấu hiểu, bênh vực…điều này cũng góp phần giải thích vì sao người
chồng cứ mặc nhiên hành hạ, đánh đập vợ ngày này qua ngày khác và người vợ cứ
âm thầm, lặng lẽ hứng chịu đòn roi. Và chắc chắn, nỗi đau đớn, tủi hờn của người đàn
bà hàng chài, bi kịch gia đình của người phụ nữ ấy không phải là cá biệt. Trong cái
vùng biển ấy, còn biết bao nhiêu số phận bất hạnh như số phận người đàn bà? Phải là
người có cảm quan hiện thực nhạy bén, có tấm lòng thiết tha với cuộc đời, với số
phận con người, Nguyễn Minh Châu mới có thể đưa vào trang viết của mình những
mảnh đời bé nhỏ, thầm lặng sống giữa một vùng trời nước xa xôi như thế!.
Sự sắc sảo của nhà văn trong việc lựa chọn không gian nghệ thuật còn thể hiện
ở chỗ vùng biển này trước đây là chiến trường, ở đó vẫn còn lưu lại những chứng tích
của chiến tranh. Đó là bánh xích của chiếc xe tăng hỏng, là chiếc xe rà phá
mìn…Chính ở những vị trí đó, nghệ sĩ Phùng phát hiện và thu về được một tấm ảnh
tuyệt đẹp về ngoại cảnh, đồng thời cũng phát hiện được sự thật còn lắm nghịch cảnh
trớ trêu của cuộc đời. Điều đặc biệt, tác giả miêu tả cảnh người chồng bạo hành vợ
đều ở chỗ bãi xe tăng hỏng, ngay cạnh chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ. Qua
chi tiết này, phải chăng nhà văn muốn nói bạo lực thời chiến dù khó khăn vô cùng
song cũng bị đẩy lùi, còn bạo lực thời bình – cái đang âm thầm diễn ra trong mỗi số
phận, mỗi mái nhà liệu có khi nào chấm dứt? Giải pháp có thể đã được đưa ra ở mỗi
người tiếp nhận như cải thiện cuộc sống, giúp họ thoát khỏi đói nghèo, nâng cao nhận
thức… từ góc nhìn của luận văn, chúng tôi xin góp thêm giải pháp loại bỏ tư tưởng
nam quyền trong cuộc sống của con người.
Ngoài không gian rộng lớn của vùng biển miền Trung, tác giả còn đưa vào
truyện ngắn không gian tòa án huyện, nó được thu lại nơi căn phòng làm việc của
chánh án Đẩu. Tại đây, Đẩu mời người đàn bà đến để động viên chị bỏ chồng, giúp
đỡ chị thoát khỏi người chồng vũ phu, tàn ác cũng như chấm dứt những bi kịch đau
đớn mà chị đang phải đối mặt. Đó vừa là trách nhiệm, vừa là mục đích của công lí,
của luật pháp. Thế nhưng mục đích tốt đẹp của Đẩu bất thành, diễn biến của cuộc
làm việc cũng diễn ra đầy bất ngờ. Người đàn bà dứt khoát không bỏ chồng. Chánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
án Đẩu với tư cách là nhà giáo dục, có quyền hành, luật pháp trong tay cũng trở nên
93
bất lực trước lí lẽ đời sống của người đàn bà. Sự lựa chọn không gian này đã giúp
nhà văn thể hiện được tư tưởng phê phán nam quyền của mình một cách sâu sắc.
Khi được mời đến tòa án, người đàn bà hàng chài biết chắc chắn người đại
diện pháp luật – chánh án Đẩu sẽ đề nghị và giúp đỡ chị li hôn với chồng. Là một
phụ nữ quê mùa, thất học, quanh năm chỉ đối mặt với sóng gió biển khơi nên ngồi
trong một căn phòng đầy những giấy má, hồ sơ, lại là nơi luật pháp được thực thi,
người đàn bà không khỏi lo sợ. Chị càng lo sợ hơn khi người chồng bị kết tội và chị
phải bỏ lão ta. Do vậy, bằng mọi cách, chị xin không phải bỏ chồng. Từ vái lạy, van
xin bằng những lời lẽ thống thiết đến việc chấp nhận ở tù, và rồi trong tình thế bắt
buộc, chị kể lại cuộc đời mình. Vừa thuật kể, chị vừa lí giải ngọn nguồn những khổ
đau của chị , của lão chồng, của gia đình cũng như cắt nghĩa vì sao chị lại không thể
bỏ được người đàn ông vũ phu đang hàng ngày hạnh hạ chị. Cứ thế, hành trình số
phận của người đàn bà dần được tái hiện với biết bao tủi hờn, đau khổ. Cảnh tượng
mà Phùng chứng kiến mới chỉ là một lát cắt trong một chuỗi những khổ đau chị
phải nếm trải. Chồng bạo hành như thế nào, chị âm thầm chịu đựng ra sao, tất cả
được kể lại chân thực bởi người trong cuộc tự nó đã phơi bày ý thức phê phán nam
quyền ở người đàn ông và thái độ chấp nhận tư tưởng nam quyền ở người đàn bà
của tác giả. Nếu không đặt nhân vật vào không gian này, với một người phụ nữ cả
đời thầm lặng hi sinh cho chồng con như người đàn bà hàng chài, chắc chắn chị sẽ
không bao giờ giãi bày câu chuyện cuộc đời mình như thế. Và như thế, tư tưởng phê
phán nam quyền của nhà văn cũng không được soi sáng.
3.4.2. Thời gian nghệ thuật
Trong tác phẩm tự sự, thời gian nghệ thuật là một phạm trù tương ứng với
không gian nghệ thuật, hai phạm trù này có mối quan hệ thống nhất trong một chỉnh
thể nghệ thuật. Theo đó: “Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng
nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [16, tr.322].
Trong Chiếc thuyền ngoài xa có hai mạch truyện được lồng vào nhau. Câu
chuyện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và câu chuyện của người đàn bà hàng chài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
Theo đó, thời gian nghệ thuật trong tác phẩm cũng không có sự đồng nhất. Thời
94
gian trong câu chuyện của Phùng là thời gian anh đi thực tế theo yêu cầu của trưởng
phòng (Tháng bảy). Vì có yêu cầu này anh mới đến vùng biển miền Trung cách Hà
Nội hơn sáu trăm cây số vì “trong suốt dải bờ biển của khắp cả nước, chỉ ở đây vào
tháng bảy là còn sương mù”. Như vậy thời gian trên đã quy định việc chọn không
gian nghệ thuật của tác phẩm và chỉ có ở không gian này, nhà văn mới gửi gắm
được những trăn trở của mình về sự tác động tiêu cực của tư tưởng nam quyền tới
cuộc sống của con người. Nội dung này chúng tôi đã phân tích ở trên – mục 3.4.1
(Không gian nghệ thuật).
Trong câu chuyện của Phùng, gắn với sự việc Phùng chứng kiến cảnh người
đàn ông đánh vợ hai lần là khoảng thời gian rạng sáng. Bình minh là khoảng thời
gian bắt đầu cho một ngày mới nhưng lại là thời điểm kết thúc một đêm lao động
vất vả, nhọc nhằn, thậm chí đánh cược cuộc đời mình trên biển của các ngư dân. Cứ
nhìn cái khuôn mặt “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường
như đang buồn ngủ” của người đàn bà hàng chài đủ biết chị đã phải lao động vất vả
đến kiệt sức thế nào. Vậy mà chồng chị - người đàn ông vũ phu đã không những
không đồng cảm, xót thương lại còn trút những trận đòn roi như lửa cháy lên tấm
thân mỏi mệt ấy của vợ mình để giải tỏa bức bối, mỏi mệt trong lòng. Đưa khoảng
thời gian này vào tác phẩm, gắn với sự việc người chồng bạo hành vợ, Nguyễn
Minh Châu đã nói lên được tất cả sự lạnh lùng, vô cảm; tính chất tàn bạo, độc ác;
thói ích kỉ, chuyên quyền - một sản phẩm tính cách của tư tưởng nam quyền mà
người đàn ông hành chài là hiện thân đầy đủ.
Thời gian trong câu chuyện của người đàn bà hàng chài không phải là
khoảnh khắc hay một khoảng, một quãng thời gian nhất định. Nó kéo dài suốt cả
cuộc đời người phụ nữ. Từ khi chị còn nhỏ tuổi, là “một đứa con gái xấu xí” đến
khi trưởng thành, “vì xấu” nên “trong phố không ai lấy”, rồi chị “có mang với một
anh con trai một hàng chài giữa phá”, từ đó chị bắt đầu cuộc đời làm vợ, làm mẹ
của một đàn con trên dưới chục đứa, mưu sinh bằng nghề chài lưới trên một chiếc
thuyền chật. Những tháng ngày biển động, “cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây
xương rồng luộc chấm muối…”. Trong cuộc đời dài dặc ấy, cứ “ba ngày một trận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
nhẹ, năm ngày một trận nặng” chị âm thầm ghồng mình chịu đựng những trận bạo
95
hành của chồng, cả những vết thương lòng không bao giờ liền sẹo khi chứng kiến
cảnh đứa con trai vì bảo vệ mẹ mà lỗi đạo với cha. Động lực sống, cái chị có thể
bám vịn vào chính là chút ít ỏi niềm vui chị chắt chiu được từ những bữa cơm đàn
con được ăn no. Như vậy cuộc đời chị theo thời gian là một chuỗi những khổ đau,
bất hạnh và sẽ còn bất hạnh, khổ đau nếu cuộc sống của chị không có gì thay đổi.
Trong đó, không ít những đớn đau của đời chị là do tư tưởng nam quyền ăn sâu vào
tiềm thức người chồng mang lại.
Tiểu kết
Tóm lại, trong chương 3, chúng tôi đã đi vào làm rõ được tác dụng của Nghệ
thuật kể chuyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh
Châu. Các yếu tố như người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, chân dung và ngôn
ngữ không gian và thời gian đã được phân tích cụ thể. Các yếu tố nghệ thuật này đã
được nhà văn sử dụng theo chủ đích nhằm phê phán tư tưởng nam quyền và bảo vệ
nữ quyền; đồng thời nó không chỉ cho thấy tài năng kể chuyện hấp dẫn sinh động
mà còn thể hiện rõ sự đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau
1975.
KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi vận dụng những tri thức văn hóa giới
trong xã hội nam quyền Việt Nam để tiếp cận truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa từ
góc nhìn về giới. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận như
sau:
1. Xã hội truyền thống Việt Nam là xã hội nam quyền, hình thái xã hội này
đã tan rã từ năm 1945 nhưng tầm ảnh hưởng của văn hóa nam quyền còn tác động
dai dẳng đến đời sống văn hóa xã hội. Các nhà văn văn tiến bộ ở bất kì thời đại nào
cũng đều hướng đến đối tượng người phụ nữ và tái hiện chân thực bi kịch mà họ
phải gánh chịu dưới sự áp đặt của xã hội nam quyền. Nguyễn Minh Châu là một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
96
trong số các nhà văn như thế khi ông luôn hướng ngoài bút của mình về phía những
người phụ nữ để tái hiện chân thực những con người trong nguồn cảm hứng đời
thường. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nói riêng và các truyện ngắn cùng chủ
đề văn hóa giới như Bến quê, Khách ở quê ra, Chợ Tết, Phiên chợ Giát là những nỗi
ưu tư, lo lắng cho số phận con người, nhất là người phụ nữ thời hậu chiến của nhà
văn.
2. Nghiên cứu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trên quan điểm văn hóa
giới, chúng tôi đã có được một góc nhìn mới trên hai phương diện nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Trong đó, phần nội dung, đề tài tập
trung đi vào phân tích hệ thống các nhân vật trên tinh thần góc nhìn ứng xử giới. Về
phương diện hình thức, đề tài đi làm phân tích và chỉ ra các yếu tố nghệ thuật đặc
sắc góp phần làm nổi bật tư tưởng phê phán nam quyền được nhà văn gửi gắm trong
tác phẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn ít nhiều sẽ có những đóng góp ý nghĩa
cho thực tế tiếp nhận tác phẩm này của ban đọc. Theo khảo sát của chúng tôi, đề thi
đại học khối C năm 2009, câu IIIa yêu cầu thí sinh trình bày cảm nhận về “vẻ đẹp
khuất lấp” của nhân vật người vợ nhặt và nhân vật người đàn bà hàng chài: “Cảm
nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt (Vợ nhặt – Kim
Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh
Châu) ” nhưng đến đề thi khối C năm 2013, câu III b đã nói về sự đáng trách của
người vợ hàng chài: “Có ý kiến cho rằng: sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa
– Nam Cao ) không đáng trách, chỉ đáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn
bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) thì vừa đáng thương
vừa đáng trách. Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận
ý kiến trên”. Như vậy có một sự thay đổi đáng lưu ý của đề thi (tức là quan điểm
chung của Bộ giáo dục) bởi trong đề thi của hai năm đã hàm chứa cách tiếp cận
khác nhau về văn hóa giới như đề tài luận văn đã triển khai.
3. So với các cách tiếp nhận trước, tiếp cận từ góc nhìn văn hóa giới giúp cho
giá trị của tác phẩm được tiếp cận một cách khách quan hơn, tránh bỏ sót những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
thông điệp của tác giả. Đây là hướng tiếp cận này hướng đến khai thác, nhìn nhận,
97
đánh giá các giá trị người trên tinh thần nhân văn, nhân bản. Và cũng là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn luận văn như một cách tri ân của thế hệ đi sau dành cho Nguyễn
Minh Châu - một nhà văn đã dành cả đời văn của mình để trăn trở với những khắc
khoải, quan hoài về thân phận người phụ nữ . Với cách này, chúng tôi mong muốn
những giá trị sống đích thực mà nhà văn gửi gắm sẽ được lĩnh hội và chuyển hóa
thành những hành động tốt đẹp trong cách ứng xử giới của những thế hệ người Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
hôm nay và mai sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1987), “Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm 1980”,
Tạp chí Văn học, số 3.
2. Lại Nguyên Ân (1989), Mấy nhận thức về đổi mới trong văn nghệ, Văn nghệ,
Hà Nội, số 42, 43.
3. Lê Bảo (2009), Cảm nhận vẻ đẹp tác phẩm văn chương lớp 12, Nxb Giáo dục,
tr.183.
4. Nguyễn Thị Bích (2014), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau
1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn
Kháng), Luận án TS, Đại học Thái Nguyên.
5. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh họa, Báo Văn nghệ, ngày 2/12,
http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:http://www.viet-
studies.info/NhaVanDoiMoi/NguyenMinhChau_DocLoiAiDieu.htm
6. Nguyễn Minh Châu toàn tập, (tập 1), (2001) Nxb Văn học
7. Nguyễn Minh Châu toàn tập, (tập 2), (2001), Nxb Văn học
8. Nguyễn Minh Châu toàn tập, (tập 3), (2001), Nxb Văn học
9. Nguyễn Minh Châu truyện ngắn (2003), Nxb Văn học, tr.256.
10. Phạm Văn Dũng (2010), Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
từ góc độ thi pháp - Luận văn Ths.Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
11. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn
học Việt Nam đương đại, http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/van-de-phai-
tinh-va-am-huong-nu-quyen-trong-van-hoc-viet-nam-duong-dai
12. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (tuyển chọn và biên soạn), (2010), Thi
pháp học ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, tr.367.
13. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L. Tônxtôi, Nxb. Giáo dục, tr.109.
14. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2011), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, tr23,24.
15. Nguyễn Trọng Hoàn (giới thiệu và tuyển chọn), (2004), Nguyễn Minh Châu
về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
16. Lê Quang Hưng (2007), Đến với tác phẩm văn chương, Nxb Đại học Quốc gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
Hà Nội
17. Mai Hương (2001), Nguyễn Minh Châu tài năng và sáng tạo nghệ thuật,
tr.385,387.
18. Tôn Phương Lan (2002), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội, tr.165.
19. Tam Lang (1941), Một ngày ở xứ Chàm, Tri Tân tạp chí, tr.20
20. Hoàng Thị Hồng Minh (2008), Hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận
các tầng ý nghĩa nhân sinh trong quá trình dạy học truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, Luận văn Ths, Đại học Sư phạm
Thái Nguyên.
21. Thao Nguyễn (2013), Nguyễn Minh Châu Một giọng văn nhiều trắc ẩn, Nxb
Văn hóa - Thông tin.
22. Vương Trí Nhàn (2008), Nguyễn Minh Châu, người viết văn và thời đại,
http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:http://vuongdangbi.bl
ogspot.com/2008/09/nguyn-minh-chu-ngi-vit-vn-v-thi-i.html.
23. Vương Trí Nhàn (2015), Truyện ngắn Chợ Tết của Nguyễn Minh Châu,
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2015/02/truyen-ngan-cho-tet-cua-nguyen-
minh-chau.html
24. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt - NXb Đà Nẵng.
25. Đỗ Kim Phong (2008), Kĩ năng đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 12, Nxb Giáo
dục, tr.240.
26. Thiên Phương (2016), Để bình đẳng giới ngày càng thức chất và có tính bền
vững, http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/30117402-de-binh-dang-gioi-
ngay-cang-thuc-chat-va-co-tinh-ben-vung.html
27. Vũ Vương Quỹ, Lê Bảo (2008), Gợi ý đọc - hiểu và lời bình, Nxb Giáo dục,
tr.239.
28. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2007), Tự sự học - một số vấn đề lý luận và lịch sử,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 118
29. Trần Đình Sử (2008), Sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao tập 2, NXB Giáo
dục, tr.66.
30. Trần Đình Sử (2010), Dẫn luận thi pháp học, Nxb giáo dục, Hà Nội, tr 149
31. Nguyễn Thanh Tú (2008), Để góp phần dạy tốt hơn truyện ngắn Chiếc thuyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, Tạp chí giáo dục, số 196.
32. Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, https://vi.wikipedia.org/
wiki/Gi%E1%BB%9Bi_t%C3%ADnh_x%C3%A3_h%E1%BB%99i.
33. Thái Thị Phương Thảo (2010), Văn hóa và con người miền Trung trong truyện
Nguyễn Minh Châu những năm 80, Luận văn Ths, Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh.
34. Đỗ Ngọc Thạch (1987), Đổi mới quyết liệt Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ, số
49, 50,
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=14361
35. Nguyễn Thành Thi (Chủ biên), (2008), Tư liệu Ngữ văn phần văn học, Nxb
Giáo dục, tr.233.
36. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
Nxb Giáo dục, tr388.
37. Trần Nho Thìn (2009), Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói
phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ
quyền, Tham luận Hội thảo khoa học quốc tế Nho giáo Việt Nam và văn hóa
Đông Á, tổ chức tại Viện Triết học, ngày 23-24/6.
38. Trần Nho Thìn (2010), Phân tích tác phẩm Ngữ văn 12, NXB Giáo dục.
39. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Nxb
Giáo dục, tr.486.
40. Trần Nho Thìn (2016), Ứng dụng lý luận văn học hiện đại trong giảng dạy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn
văn học, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 257.