ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN ĐẮC HẬU

TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

NHÌN TỪ LÍ LUẬN VỀ GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên, 2016

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN ĐẮC HẬU

TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

NHÌN TỪ LÍ LUẬN VỀ GIỚI

(So sánh với một số sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu)

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN

Thái Nguyên, 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn khoa học của PGS. TS Trần Nho Thìn. Các nội dung nghiên cứu,

kết quả nghiên cứu trong công trình này là trung thực và chưa công bố dưới

bất kì hình thức nào.

Tác giả luận văn

Nguyễn Đắc Hậu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo - PGS.TS

Trần Nho Thìn - người đã nhiệt tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn thạc

sĩ. Đồng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Văn – Xã hội, trường Đại

học Khoa học - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô giáo thuộc Viện Văn học

đã giảng dạy và tạo điều kiện giúp đỡ.

Xin chân thành cảm ơn những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã

khích lệ, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Đắc Hậu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

iii

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 4

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ........................................................................ 7

3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 7

3.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 7

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 8

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 8

4.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 8

5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 9

6. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9

7. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 9

NỘI DUNG ................................................................................................................. 10

Chƣơng 1: VẤN ĐỀ GIỚI VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH

CHÂU THỜI KỲ SAU NĂM 1975 ...................................................................... 10

1.1. Vấn đề Giới ........................................................................................... 10

1.1.1 Khái niệm giới (Gender) ...................................................................... 10

1.1.2. Văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam ........................................ 11

1.2. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kỳ sau năm 1975 ........................ 18

1.2.1. Khái lược về vai trò người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học

dân tộc ......................................................................................................... 18

1.2.2. Đổi mới về ý thức nghệ thuật .............................................................. 20

1.2.3. Đổi mới quan niệm về con người ........................................................ 22

1.2.4. Đổi mới trên phương diện nghệ thuật tự sự ....................................... 23

1.2.5. Hình tượng vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ... 25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

iv

Chƣơng 2: TINH THẦN PHÊ PHÁN ĐỐI VỚI VĂN HÓA NAM

QUYỀN VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN CỦA TÁC GIẢ ..................................... 27

2.1. Nhân vật người chồng – hiện thân của tư tưởng nam quyền .................. 29

2.1.1. Vấn đề đối xử với thân thể phụ nữ ...................................................... 29

2.1.2. Câu chuyện đẻ nhiều con .................................................................... 39

2.2. Người vợ như là sản phẩm của tư tưởng nam quyền .............................. 44

2.2.1.Tư tưởng chấp nhận đòn roi, không đấu tranh..................................... 46

2.2.2. Tư tưởng chấp nhận sinh đẻ nhiều, dẫn đến cuộc sống nheo nhóc ...... 56

2.2.3. Chấp nhận bất bình đẳng về phân công lao động gia đình ................. 59

2.3. Thái độ của các nhân vật : Phùng, Đẩu, Phác, cô con gái....................... 64

2.3.1. Thái độ của phóng viên Phùng và chánh án Đẩu ................................ 65

2.3.2. Thái độ của thằng Phác và đứa con gái ............................................. 66

Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN ........................................................ 71

3.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật .............................................. 71

3.1.2. Người kể chuyện ................................................................................ 71

3.1.3. Điểm nhìn trần thuật .......................................................................... 76

3.2. Xây dựng chân dung nhân vật .............................................................. 79

3.2.1. Chân dung người chồng………………………………………………..…..78

3.2.2. Chân dung người vợ…………………………………………………………80

3.3. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 83

3.3.1. Ngôn ngữ người chồng ....................................................................... 84

3.3.2. Ngôn ngữ người vợ ..................................................................... ……86

3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật……………………………………...88

3.4.1. Không gian nghệ thuật………………………………………………………88

3.4.2. Thời gian nghệ thuật………………………………………………………..92

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 95

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

v

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Bàn về văn học, đại văn hào Nga M.Goki đã khẳng định “Văn học là

nhân học” - tức văn học là con người. Con người luôn là đối tượng phản ánh trung

tâm của văn học, là mục đích hướng đến trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn.

Từ cuộc sống bước vào văn học, con người không chỉ mang đặc điểm giai cấp mà

còn có thuộc tính “giới”. Trong đó, giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối

quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới, do đó giới là một phương diện không thể

thiếu của con người và sự tồn tại xã hội của con người. Theo đó, bất cứ một sáng

tác văn chương nào cũng đều ẩn chứa vấn đề về giới. Bởi vậy, lí luận về giới cần

được vận dụng làm cơ sở cho nghiên cứu và phê bình văn học.

1.2. Trong thực tế sáng tác, không có một tác phẩm văn học nào ra đời từ

một mảnh đất trống. Một tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng được thai

nghén, được hạ sinh trong một môi trường, một đời sống văn hoá nhất định mà ở

đó nhà văn đã được đằm mình, được hấp thụ các giá trị văn hoá để hình thành nên

những tư tưởng thẩm mĩ tiến bộ cho thời đại mình. Do vậy, khi nghiên cứu, cần

đặt tác phẩm trong bối cảnh văn hoá, xã hội mà nó ra đời mới có thể lí giải thoả

mãn những thông điệp nghệ thuật được nhà văn kí thác.

1.3. Ở Việt Nam, truyền thống văn hóa ứng xử giới là nam quyền (trước đây

thường gọi là “phụ quyền”- nhưng khái niệm phụ quyền không bao quát hết) theo

đó, nam giới xác lập quyền lực đối với người phụ nữ trên tất cả mọi phương diện

chính trị, đạo đức, thẩm mỹ... Tư tưởng nam quyền tạo nên sự bất công trong cách

nhìn nhận và đánh giá, ứng xử của nam giới đối với nữ giới. Tư tưởng này không

những chi phối hành vi ứng xử của nam giới mà của cả nữ giới, kể cả cách nhìn và

ứng xử của chính người phụ nữ về bản thân mình. Điều này thể hiện rõ nét trong

các sáng tác văn học Việt Nam từ xưa đến nay, trong đó có những tác phẩm đang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

được tiếp nhận trong nhà trường phổ thông.

2

1.4. Lí luận phương Tây cho rằng: Sáng tác bao giờ cũng là sự hồi đáp, đối

thoại với những vấn đề cuộc sống của thời đại. Điều này không chỉ hiển nhiên đúng

với nền văn học phương Tây mà đúng cả với văn học tiến bộ nhân loại nói chung

cũng như văn học Việt Nam nói riêng. Tính chất hồi đáp, đối thoại giữa văn học và

thời đại đã phản ánh ở những vấn đề nhức nhối trong đời sống. Văn học Việt Nam

giai đoạn sau 1975 đứng trước cuộc đổi thay vĩ đại của lịch sử dân tộc cũng đã kịp

thời có bước chuyển mình nhanh chóng để cất lên tiếng nói của thời đại về những

vấn đề trong cuộc sống. Là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam, sự

nghiệp văn chương lớn lao của Nguyễn Minh Châu đã phản ánh một cách trung

thực quá trình vận động của văn xuôi Việt Nam nói riêng và cả nền văn học Việt

Nam nói chung trước và sau năm 1975. Nhà văn Nguyễn Khải cho rằng Nguyễn

Minh Châu xứng đáng là “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi

Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho cho những cây bút trẻ sau này”.

Nếu như trước năm 1975, ngòi bút của ông mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng

mạn thì giai đoạn sau năm 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu lại chuyển sang

cảm hứng thế sự, đời tư, hướng đến con người cá nhân trong cuộc sống mưu sinh

thường nhật, gắn với sự chuyển biến trong đổi mới ý thức nghệ thuật, đổi mới cách

nhìn, sự khám phá và thể hiện về con người với tinh thần nhân văn cao đẹp, nhất là

khi ta nhìn từ góc độ văn hóa giới.Với những đóng góp nói trên, nhiều truyện ngắn

của Nguyễn Minh Châu đã được tuyển chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường

như Bến quê, Bức tranh và đặc biệt là Chiếc thuyền ngoài xa.

1.5. Là tác phẩm có vị trí quan trọng trong văn nghiệp của Nguyễn Minh

Châu, kết tinh những thành tựu và tư tưởng nghệ thuật của ông trong chặng đường

đổi mới, cũng là tác phẩm xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam nhưng Chiếc

thuyền ngoài xa cho đến nay vẫn tồn tại nhiều bất cập trong vấn đề tiếp nhận. Bất

cập rõ nhất là việc lý giải hình tượng người đàn bà hàng chài bị chồng đánh đập mà

vẫn cắn răng chịu đựng như là biểu hiện của đức tính đẹp của người phụ nữ, người

vợ Việt Nam, là hiện thân của vẻ đẹp khuất lấp. Như luận văn chúng tôi sẽ chỉ rõ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

đây là cách phân tích cũ, thậm chí vô tình phục vụ cho quyền lợi của những người

3

đàn ông, những người chồng bạo hành và xem thường quyền sống của những người

phụ nữ, những người vợ, điều này dễ nhận thấy nếu chúng ta liên hệ đến Luật phòng, chống bạo lực gia đình” của Việt Nam 1. Bộ luật được thông qua muộn hơn

thời điểm ra đời Chiếc thuyền ngoài xa hai mươi mốt năm, đủ để thấy mẫn cảm

nhân đạo, nữ quyền của Nguyễn Minh Châu đi trước thời đại như thế nào.

Tất nhiên, có thể khi sáng tác Chiếc thuyền ngoài xa, bản thân Nguyễn Minh

Châu chưa nghĩ đến sự cần thiết của một bộ luật phòng chống bạo lực gia đình.

Nhưng nghiên cứu văn bản trong trường hợp này là phân tích cái vô thức đã hướng

dẫn nhà văn quan sát, miêu tả đối tượng, cái vô thức có nền tảng nhân bản, chống

nam quyền, ủng hộ nữ quyền. Một cách đọc cập nhật lý thuyết hiện đại theo chúng

tôi, phải tính đến điều này.

Nguyên nhân của tình trạng tiếp nhận và phê bình này là do lý luận về giới,

những tri thức về thân phận phụ nữ trong xã hội nam quyền chưa được vận dụng để

làm cơ sở nghiên cứu và phê bình tác phẩm. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn trong

bài viết Ứng dụng lý luận văn học hiện đại trong giảng dạy văn học đã chỉ ra sự bất

cập, hạn chế của thực tế tiếp nhận tác phẩm văn học trong nhà trường: “Con người

như một đối tượng phản ánh trung tâm của văn học không chỉ là con người giai cấp

mà còn là con người có thuộc tính “giới”. Nhưng sách giáo khoa của ta không thèm

đoái hoài đến phê bình nữ quyền - một lí luận văn học chú ý đến giới, đến nữ tính

trong văn học (…). Nếu người soạn sách giáo khoa biết đặt những tác phẩm có

nhân vật người phụ nữ vào trong trường văn hóa của xã hội nam quyền truyền

thống, hẳn sẽ chỉ ra được hướng tiếp cận thích đáng và nhân bản” [40]. Có vị trí

quan trọng trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông, truyện ngắn “Chiếc

1 “Luật phòng, chống bạo lực gia đình” được Quốc hội thông qua ngày 21-11-2007 , điều 2 “Các hành vi bạo lực gia đình” (trích)

lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

1) Các hành vi bạo lực gia đình gồm: a) hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng; b) đ) cưỡng ép quan hệ tình dục;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

thuyền ngoài xa” cần được soi chiếu, lí giải ở nhiều hướng tiếp cận, trong đó tiếp

4

nhận từ lí luận về giới sẽ mang đến những phát hiện mới mà các cách nghiên cứu

khác không có được.

Với những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Truyện ngắn Chiếc

thuyền ngoài xa nhìn từ lý luận về Giới” để triển khai thành một luận văn tốt

nghiệp. Lựa chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn đưa đến một cái nhìn đầy đặn,

một sự lí giải mới về giá trị của văn phẩm. Đồng thời muốn làm rõ những đóng góp,

những cống hiến quan trọng mang tính chất bước ngoặt của Nguyễn Minh Châu đối

với công cuộc hiện đại hoá nền văn học Việt Nam.

Đây là một nghiên cứu trường hợp (case study), hy vọng qua một giọt nước

để thấy cả biển cả. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cần thiết, chúng tôi sẽ liên hệ,

so sánh Chiếc thuyền ngoài xa với một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau

1975 có sự tương đồng để làm rõ vấn đề.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong quá trình khảo sát lịch sử tiếp nhận truyện ngăn Chiếc thuyền ngoài

xa, chúng tôi nhận thấy có nhiều bài viết, nghiên cứu về tác phẩm này như sau:

Năm 1987 trên Tạp chí Văn học số 3, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có bài

Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm 1980 đã nhận xét: “Chiếc thuyền

ngoài xa là truyện ngắn thể hiện khá nhiều nghịch lý. Vẻ đẹp toàn bích của cảnh

chiếc thuyền trong sương sớm trên bức ảnh nghệ thuật trái ngược với đời sống thực

trong chiếc thuyền ấy. Nỗi đau khổ bị đánh đập, hành hạ của người đàn bà chài

lưới trái ngược với việc chị ta không muốn ly dị anh chồng vũ phu. Ý đồ cứu giúp

tốt đẹp của người kể chuyện xưng “tôi” và người bạn chánh án phố huyện của anh

trái ngược với sự từ chối của nạn nhân v.v…”. [1]. Như vậy, Lại Nguyên Ân là một

trong những người đầu tiên phát hiện ra sự nghịch lý trong tác phẩm giữa một bên

là vẻ đẹp thơ mộng với một bên là hiện thực khổ đau mà người đàn bà hàng chài

phải chấp nhận.

Cũng theo hướng đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Bến quê - một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

phong cách trần thuật có chiều sâu (Báo văn nghệ, số 8, ngày 21/2/1987) đã có cho

5

rằng: “Chiếc thuyền ngoài xa là truyện về “nghịch lí của đời thường". [17, tr.385],

là “những suy nghĩ da diết về chân lý nghệ thuật và đời sống”. [17, tr.387].

Nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thạch trong bài Đổi mới quyết liệt Nguyễn Minh

Châu (Báo Văn nghệ số 49, 50 ngày 5/12/1987) đã nhận xét: “Trong cuộc sống của

những người dân chài lam lũ đó, luôn tiềm ẩn những bi kịch không thể lường hết.

Có thể nói, với Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại

như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự

hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp

cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu” [34]. Nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thạch

ngoài việc đề cập đến việc “nghịch lý tồn tại như một hiển nhiên trong đời sống”

còn chỉ ra được nhà văn đã cho ta “cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống”.

Năm 1989, N. Nikulin trong công trình Nguyễn Minh Châu và sáng tác của

anh do Lại Nguyên Ân dịch, đăng trên Báo Văn nghệ, số 50 ngày 16/12/1989 đã

lưu ý đến trách nhiệm của người nghệ sỹ trước cuộc sống, trước con người:

“Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa xua tan làn khói lãng mạng phủ lên hình ảnh

đã trở nên quen thuộc về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo trong không gian xa

rộng của biển cả. Người chủ thuyền trở nên hung bạo vì cuộc sống trống rỗng và tẻ

nhạt, luôn đánh đập người vợ. Nhưng truyện còn có ý nghĩa rộng lớn hơn: nó

dường như khơi gợi người ta nên nhìn kĩ vào những gì ẩn sau cái vẻ đẹp điền viên

bề ngoài để nhớ đến trách nhiệm của nghệ sĩ trước cuộc sống, trước con người”

[17, tr.476, 477].

Năm 1995, trong Hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh Châu, nhà nghiên

cứu Đinh Trí Dũng trong bài “Nguyễn Minh Châu và sự trăn trở của một ngòi bút

đầy trách nhiệm” có nhận xét: “Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, thông qua

câu chuyện đầy nghịch lí của cuộc đời, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một sự

thực trong nghệ thuật (...) đằng sau bức ảnh con thuyền mờ sương rất đẹp mà anh

tình cờ chụp được là số phận đớn đau của một người phụ nữ (...). Vì vậy người

nghệ sĩ không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn cuộc sống của con người”.[15,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

tr.311]

6

Nhà nghiên cứu Dương Thị Thanh Hiên trong bài “Truyện ngắn Nguyễn

Minh Châu’’ trên Tạp chí nhà văn, số 7 – 2001 cho rằng: “Ở Chiếc thuyền ngoài xa

thì nghịch lí đặt ra ở một vẻ đẹp điền viên tươi sáng lại chứa đựng bao cảnh đời

ngang trái, xót xa. Sự thật ẩn kỹ đằng sau màn sương lãng mạn khiến nhà nghệ sĩ

duy mĩ phải sững sờ trước tình cảnh bất ngờ và bất nhẫn hiện hình của cái đẹp là

sự xấu xa, độc ác, là sự cam chịu, nhẫn nhục, cảnh khốn cùng”. [15, tr.319]

Tác giả Trịnh Thu Tuyết trong bài:“Một số cốt truyện trong truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu” đã khẳng định :“Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa,

từ một xung đột đầy nghịch lí, Nguyễn Minh Châu đặt ra một vấn đề nhận thức

cần suy nghĩ (...). Hình ảnh người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, nhẫn nhục; người

chồng độc ác, vũ phu đau đớn và bi kịch của cuộc đời họ như là một thứ thuốc rửa

quái đản làm những thước phim huyền diệu bỗng hiện nên một màu sắc khủng

khiếp (...). Những con người u tối và đau khổ ấy vừa là nạn nhân của cuộc sống

đói nghèo, lam lũ, nhưng trong một lúc nào đó, họ cũng có thể trở thành quỷ dữ

đày đọa trước hết là những người thân khốn khổ của mình”. [ 15, tr.325-326]

Năm 2002, cùng cách nhìn như N. Nikulin, Nguyễn Trọng Hoàn trong công

trình Tiếp tục hành trình đọc Nguyễn Minh Châu: “Chiếc thuyền ngoài xa phê

phán cái nhìn lãng mạn một chiều về cuộc sống, đồng thời đặt ra trách nhiệm của

người nghệ sĩ phải đào sâu, khám phá để tìm ra bản chất của hiện thực”.

Năm 2008, nhóm tác giả Sách giáo viên Ngữ văn 12 Chương trình Chương

trình nâng cao đã có hướng dẫn chi tiết về việc đọc - hiểu văn bản truyện ngắn

Chiếc thuyền ngoài xa: “Chiếc thuyền ngoài xa rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời

sống từ góc độ thế sự của nhà văn giai đoạn sáng tác thứ hai.(...) Gánh nặng mưu

sinh đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong cảnh tăm tối,

đói khổ, bấp bênh. Người chồng tha hóa dần dần, trở thành kẻ vũ phu, thô bạo.

Người vợ vì thương con nên phải nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của người

chồng (…). Đó không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những hạt ngọc

khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp làm lũ của đời thường” [29, tr.63]. Nhóm tác giả đã

định hướng việc đọc hiểu hình tượng người đàn bà hàng chài, nhân vật chính của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

tác phẩm theo hướng ca ngợi vẻ đẹp khuất lấp “không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng,

7

hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp”. Theo cách này, việc một phụ nữ bị

chồng đánh đập nhưng không phản kháng, đấu tranh mà vẫn hy sinh vì đàn con

được xem là đẹp. Lối phẩm bình này theo lối cũ đưa đến việc hiểu tác phẩm chưa

thật sự khách quan.

Năm 2010, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn trong bài viết: Nguyễn Minh Châu

và thi pháp “gói rào”trong Chiếc thuyền ngoài xa (3/2010) cho rằng: “Thói tàn

nhẫn của người đàn ông cũng như sự chịu đựng vô lí của người đàn bà, thật oái

oăm đã trở thành một phong tục lâu đời” [12, tr.367]. Về hình tượng nhân vật

người đàn bà hàng chài, nhà nghiên cứu nhấn mạnh vào “đức hy sinh lớn lao của

tình mẫu tử” ở người đàn bà như một vẻ đẹp “phía sau” sự “nhẫn nhục”; “Thì ra,

phía sau cái dáng chịu đòn đến trơ lì vô cảm kia của người vợ, là sự kiên cường,

gan góc. Phía sau bộ dạng, chịu xúc phạm đến nhẫn nhục, lì lợm, là đức hy sinh

lớn lao của tình mẫu tử” [12, tr.367].

Như vậy, nhìn lại lịch sử tiếp nhận truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, chúng

tôi nhận hầu hết các nhà nghiên cứu đều tiếp cận truyện ngắn này từ cách tiếp nhận

cũ, chưa có ai tiếp cận văn phẩm này từ điểm nhìn văn hóa ứng xử giới là văn hóa

nam quyền. Tuy nhiên, trên cơ sở những bài viết đó, người viết sẽ học tập được

nhiều điều hữu ích trong quá trình triển khai đề tài.

3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đề tài là Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lý luận về Giới, vì vậy

chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đặt

trong bối cảnh văn hoá truyền thống. Như đã nói, khi triển khai đề tài, chúng tôi có

so sánh với một số truyện ngắn tiêu biểu khác có phản ánh văn hóa ứng xử giới của

Nguyễn Minh Châu sau 1975.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Thực hiện đề tài Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lý luận về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

Giới, chúng tôi nhằm thực hiện 3 mục tiêu sau:

8

- Làm rõ sự ảnh hưởng của xã hội nam quyền đã chi phối đến cách ứng xử,

nếp nghĩ, ngôn ngữ, hành động của các nhân vật trong truyện ngắn Chiếc thuyền

ngoài xa , không chỉ đối với nhân vật nam giới mà cả nhân vật nữ giới, để từ đó chỉ

ra sự cần thiết phải thay đổi tận gốc rễ văn hóa của xã hội nam quyền.

- Bổ sung cách đọc từ góc nhìn văn hóa ứng xử giới để đọc và giảng dạy

truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

- Từ góc nhìn đó, thấy được những đóng góp riêng, độc đáo của Nguyễn

Minh Châu trong sự nghiệp văn học tiến bộ, vì con người của mình.

4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Tìm hiểu một số tác giả viết về giới trong xã hội nam quyền trong dòng

chảy văn chương dân tộc làm tiền đề lý luận cho đề tài.

- Tìm hiểu về đặc điểm của xã hội nam quyền và việc vận dụng lý thuyết giới

vào nghiên cứu văn học hiện nay.

- Tìm hiểu một số các bài viết nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu và các

nghiên cứu về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa có so sánh với các sáng tác của

Nguyễn Minh Châu.

4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

Triển khai đề tài theo hướng một nghiên cứu trường hợp (case study),

chúng tôi đã sử dụng những phương pháp sau:

- Phương pháp tiếp cận từ góc nhìn văn hoá học

- Phương pháp phân tích.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

- Phương pháp so sánh.

9

5. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

của Nguyễn Minh Châu. Cụ thể là Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhìn từ lý

luận về Giới. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sẽ tiến hành

khảo cứu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 để đối chiếu.

Ngoài ra đề tài còn nghiên cứu các vấn đề về đặc điểm của xã hội nam

quyền, về ứng xử giới trong xã hội Việt Nam nhằm phục vụ cho công tác nghiên

cứu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.

6. Cấu trúc của luận văn

Luận văn của chúng tôi ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung

gồm có 3 chương:

- Chương 1: Vấn đề giới và sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.

- Chương 2: Tinh thần phê phán đối với văn hóa nam quyền và ý thức nữ

quyền của tác giả.

- Chương 3: Nghệ thuật kể chuyện.

7. Đóng góp của luận văn

- Về mặt lí luận: Luận văn khẳng định tính khả thi - hiệu quả của phương

pháp tiếp nhận tác phẩm văn chương từ góc nhìn văn hoá, lý luận về giới trong bối

cảnh xã hội nam quyền.

- Về thực tiễn: Đề tài đã góp phần giải quyết những tình huống trong tiếp

nhận khi bổ sung cách đọc từ góc nhìn văn hóa ứng xử giới để đọc và giảng dạy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

10

NỘI DUNG

Chƣơng 1

VẤN ĐỀ GIỚI VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU THỜI KỲ SAU NĂM 1975

Như trên đã nói, chúng tôi dành chương đầu tiên này để giới thuyết về về vấn

đề Giới và Sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 để làm cơ sở cho những

phân tích và kiến giải ở những chương sau.

1.1. Vấn đề Giới

Để tạo tiền đề nghiên cứu Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa từ lý luận về

giới, chúng tôi đi vào triển khai vấn đề về giới trong bối cảnh xã hội nam quyền ở

Việt Nam, đồng thời sơ lược diện mạo ứng xử giới trong văn học Việt Nam. Đây là

cơ sở lý luận và thực tiễn tạo điểm tựa khoa học cho chúng tôi nghiên cứu đề tài.

1.1.1 Khái niệm giới (Gender)

Trong nghiên cứu khoa học, giới là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ

biến ở nhiều lĩnh vực nghiên cứu. Tùy theo hướng tiếp cận và mục đích ở mỗi

ngành sẽ có cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ này. Ở đây, chúng tôi dùng

khái niệm giới tương đương với khái niệm gender trong tiếng Anh (Từ điển Bách

khoa toàn thư mở Wikipedia dịch: gender là giới tính xã hội). [32]. (Trung văn dịch

là: xã hội tính biệt - sự khác biệt của giới tính trên phương diện xã hội).

Trong thực tiễn, thuật ngữ giới (gender) thường bị sử dụng nhầm lẫn với giới

tính (sex). Giới tính (sex) chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học, gen và

các yếu tố di truyền khác (Trung văn dịch là tính) thì giới chỉ về sự kiến tạo xã hội

về văn hóa đối với sự khác biệt giữa nam và nữ, nói cách khác giới là khái niệm chỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

đặc trưng xã hội gán cho nam và nữ. Gender xem xét giới tính trên phương diện xã

11

hội, do đó giới là sản phẩm mang tính xã hội - văn hóa. Ở mỗi nền văn hóa, mỗi một

thời đại thì nam nữ lại có một cách ứng xử giới riêng, có một hệ giá trị riêng.

Ở phương Tây, vào năm 1949 nữ nhà văn Pháp Simone de Beauvoir cho rằng

người phụ nữ và nam giới không phải bẩm sinh mà có, họ là sản phẩm của văn hóa

xã hội. Trong cuốn Giới thứ hai (The second sex) bà đã đưa ra một luận điểm rất

nổi tiếng : “Người ta không sinh ra đã là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ”. Về

mặt bẩm sinh, con người chỉ là đàn ông hay đàn bà theo nghĩa giải phẫu sinh lý. Chỉ

trong quá trình sống, tương tác xã hội, tương tác đàn ông-đàn bà, do kết quả của văn

hóa giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội mà dần dần hình thành người phụ

nữ hay người nam giới với tâm lý, hành vi, ngôn ngữ, ứng xử riêng.

Văn hóa ứng xử giới thay đổi trong không gian và trong thời gian. Chúng ta

tưởng là về bản chất, người phụ nữ e lệ, rụt rè, nhưng hóa ra không phải thế. Nếu

sang các nước Tây Âu hay Mỹ, ta sẽ thấy ở đó, phụ nữ rất mạnh mẽ, tự tin, khác với

phụ nữ Việt Nam.

Ngày xưa, ca dao tục ngữ “kích động” tinh thần nam quyền ở người chồng

Làm trai rửa bát quét nhà, Đến khi vợ gọi bẩm bà con đây , phó mặc mọi việc nhà

cho vợ. Nhưng ngày nay, có rất nhiều người chồng sẵn sàng chia xẻ việc nhà với

vợ trên tinh thần bình đẳng

1.1.2. Văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam

Xã hội Việt Nam được các nhà nghiên cứu định danh là xã hội nam quyền, do

đó văn hóa ứng xử giới mang đặc điểm nam quyền (trước đây gọi là “phụ quyền” -

nhưng khái niệm phụ quyền thiên về quyền lực của người cha, sự chuyên quyền của

người nam giới lãnh đạo gia đình).

Thuật ngữ nam quyền được hiểu là sự xác lập quyền lực thống trị tuyệt đối

của nam giới với người phụ nữ trên tất cả mọi phương diện: chính trị, đạo đức, thẩm

mỹ, kể cả thống trị thân thể phụ nữ theo nghĩa đen. Quyền lực thống trị được thể

hiện ở cả trên phương diện thể xác và tinh thần. Về thân thể, nam quyền là sự thể

hiện sức mạnh nam giới bằng sự áp chế người phụ nữ bằng bạo lực, bằng sự đánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

đập,… Còn về tinh thần nam quyền thể thiện ở việc người đàn ông định ra những

12

chuẩn mực về văn hóa chính trị, đạo đức, thẩm mỹ… bắt buộc người phụ nữ phải

tuân theo.

Tư tưởng nam quyền tạo nên sự bất công trong cách nhìn nhận và đánh giá,

ứng xử của nam giới đối với nữ giới và chi phối cả cách nhìn và ứng xử của chính

người phụ nữ với bản thân mình. Về căn bản, có thể khẳng định: văn hóa ứng xử

giới ở Việt Nam là nam quyền.

Tình trạng ứng xử giới theo quan điểm nam quyền như trên không chỉ có ở

Việt Nam mà đó còn là tình trạng chung ở các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nghĩa

là thế giới nói chung cũng đều có xu hướng nam quyền hóa. Có điều là các dân tộc

giải quyết ra sao với tình trạng nam quyền, khi nào ở một dân tộc, nam quyền bị

chấm dứt hay bị lên án. Ở Ấn Độ, nhiều tài liệu cho thấy, đàn ông hay tấn công tình

dục đối với phụ nữ. Ở các nước Tây Âu, gần đây có hiện tượng tấn công tình dục

phụ nữ Đức, Pháp… bởi những đàn ông nhập cư đến từ Trung Đông, những quốc

gia có văn hóa nam quyền rất mạnh. Tập tính văn hóa ăn sâu vào tư duy, hành động

không dễ gì thay đổi.

Về bản chất nam quyền trong xã hội mẫu hệ như xã hội người Chăm, chúng

tôi khảo sát phóng sự ngắn Một ngày ở xứ Chàm của Tam Lang đăng trên Tri Tân

tạp chí, năm 1941 và nhận thấy dù xã hội Chăm theo mẫu hệ nhưng người đàn bà

Chăm vẫn phải đối mặt và chấp nhận cách ứng xử nam quyền từ phía những ông

chồng: “Người Chàm, nhất là đàn ông, không hay dậy sớm”, bởi “Tục Chàm trước

vẫn lấy nửa cuối ngày hôm trước làm ngày và nửa sáng ngày hôm sau làm đêm”;

“cứ đúng 12 giờ tí (12 giờ đêm), người trong xóm mới đi ngủ cho đến mãi giờ ngọ

(12 giờ trưa) hôm sau, họ mới dậy làm việc hoặc ngồi suông”. [19, tr.20]. Nhưng

với người đàn bà Chăm đã bỏ tục này, vì nó không phù hợp với giờ giấc của người

Việt quanh vùng họ chung sống. Thay vì được ngủ đến 12 giờ trưa như chồng mình,

những người đàn bà Chăm phải dậy từ sớm và làm tất cả công việc trong gia đình,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

tất bận từ sáng sớm đến sẩm tối:

13

“Trong gia - đình Chàm, chỉ có người đàn bà mới suốt ngày bận rộn. Từ

sáng đến tối họ làm hết công - việc khó nhọc như ra đồng cấy gặt, ra tỉnh mua bán,

và tiếp khách, dệt vải, se bông.

Sẩm tối, khi công việc đã ngớt, người đàn bà Chàm, đầu đội chiếc bình lớn,

lại ra song, lạch, vợi nước về dùng.

Quần quật suốt ngày thế mà không bao giờ họ có một tiếng phàn - nàn về

chồng con là những kẻ suốt ngày ăn xong lại nằm, nằm chán chạy nhông hoặc mơ

màng ngồi hút thuốc”. [19, tr.20]

Người đàn bà Chàm còn luôn nhường nhịn cho chồng, cho con mọi thứ: họ

ăn bốc, họ chỉ ăn cơm cháy hay cái đầu cá, đuôi cá ươn,...

“Lúc ngồi quanh một mâm cơm, người đàn ông Chàm dùng đũa gắp thức ăn.

Còn người đàn bà Chàm ? chỉ dùng năm ngón để bốc ! Cách ăn bốc ấy lâu ngày trở

thành bất di bất dịch cho đến bây giờ, dù trong nhà thừa đũa bát, người đàn - bà

cũng không muốn dùng đũa bát gắp đỡ thức ăn.

Sáng dậy, sau khi rửa mặt, việc làm thứ nhất của người đàn bà Chăm là săn

-sóc đến bữa ăn sớm cho chồng, con.

Họ nấu cơm ngô hay cơm gạo, đun nồi cá ươn mà họ gọi là “cá liệt”, đánh

những cơm sườn cơm cháy và bẻ những đầu cá, đuôi cá ăn trước để ra làm việc

ngoài đồng trong lúc chồng với con họ còn ngủ kỹ trên sàn đến lúc mặt trời đứng

bóng”. [19, tr.20]

Ngoài những tục ấy, người đàn ông chàm còn lười biếng tới mức “ngồi dơ

đầu ra cho vợ bắt chấy hoặc gỡ hộ tóc”; “quẳng quần áo ra cho vợ vắt dậu” hay

“nhờ vợ gắp mẩu than hồng ở bếp lên để hút thuốc chớ họ không chịu cất công cầm

thoi sắt đánh vào hòn đá lửa để ngay bên cạnh mình.”

Qua phóng sự, ta thấy ứng xử giới của đàn ông chăm với phụ nữ chăm thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

hiện sự bất bình đẳng giới. Những người đàn ông Chăm lười nhác đã dựa vào

14

những phong tục có lợi cho mình để được nhàn nhã bản thân, họ để mặc cho vợ

mình phải lao động cực nhọc và vất vả trên tinh thần “Đàn ông lo việc ngoài nhà,

đàn bà lo việc trong gia đình” mà xã hội Chăm vẫn duy trì. Chính những lệ - tục

này khiến người phụ nữ Chăm còn khổ cực gấp nhiều lần người phụ nữ Việt.

Trong xã hội người Việt truyền thống, tính chất nam quyền cũng dễ dàng

nhận thấy cả về phương diện ứng xử thể chất và tinh thần của nam giới đối với nữ

giới.

Về thể chất, tình trạng “bạo lực gia đình” như cách nói ngày nay diễn ra phổ

biến nhưng ca dao đã khuyên những người vợ ứng xử thế nào với đòn đánh của

chồng : Chồng giận thì vợ làm lành, Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì. Rồi thì

Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê, bởi vì nếu người

phụ nữ lên tiếng bảo vệ lẽ phải của mình, cự cãi có thể dẫn đến hệ quả bạo lực

Chồng giận thì vợ bớt lời/Chồng giận vợ giận thì dùi nó quăng. Bởi vậy, ý nghĩ là

người vợ Việt Nam có vẻ đẹp khuất lấp vì giỏi chịu đòn roi của chồng là một ý nghĩ

ngây thơ: văn hóa nam quyền đã hun đúc ở họ một hành vi ứng xử thiên về chịu

đựng. Nếu không chịu đựng nổi thì lấy cái chết làm lối thoát như Vũ Thị Thiết trong

truyện Người con gái Nam Xương chứ không thể đòi hỏi hay phản kháng. Thiết chế

xã hội nam quyền ở Việt Nam truyền thống không cho phép họ phản kháng.

Về phương diện tinh thần, người đàn ông trong xã hội Nho giáo Việt Nam

đặt ra tiêu chí đạo đức “trinh tiết” cho phụ nữ. Phan Khôi lên án mạnh mẽ quan

điểm đề cao trinh tiết đầy bất công trên tinh thần nam quyền và cho rằng: “Cái luật

nghiêm khắc ấy do lòng tham và thói ích kỷ của bọn đàn ông bày ra, rất không công

bình (…). Ấy chuộng về trinh chuộng về tiết, thì chẳng những giam hãm đàn bà vào

cảnh điu (điêu) đứng đắng cay và thấp hèn, mà lại còn sanh ra cái tệ khinh rẻ mạng

người là như thế nữa”. [39, tr.616, 617]

Tôi trung không thờ hai chủ, liệt nữ không lấy hai chồng - Nhà nho lớn tiếng

dạy dỗ đàn bà con gái như vậy. Điều bất công, phi lý là trong khi xăm soi đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

nghiệt ngã trinh tiết của vợ, trong khi viết thơ cao giọng biểu dương các tấm gương

15

phụ nữ trinh liệt, những người phụ nữ lấy cái chết để bảo toàn danh tiết với người

chồng, thì các ông chồng tự cho phép mình “đa thê”. Điều phi lý là Nguyễn Công

Trứ có đến 13 vợ và thường xuyên đi hát ả đào, “mắt đi mày lại” với các cô đào non

tơ nhưng lại lớn tiếng lên án nàng Kiều là “tà dâm”. Đây là hiện tượng “tiêu chuẩn

kép” rất dễ nhận ra trong xã hội nam quyền.

Sống trong bầu không khí nam quyền đó nhiều thế kỷ, những người phụ nữ

Việt Nam dần chịu ảnh hưởng lúc nào không hay. Trong tư tưởng và tình cảm họ,

sự chấp nhận, nhẫn nhục, chịu đựng, câm lặng, cam chịu đã thành một khuôn hành

vi. Và giới đàn ông nhận thấy đó là vẻ đẹp, vì đối với những người đàn ông, còn gì

thú vị bằng những người vợ sống như nô lệ, như cái bóng, chấp nhận.

Trên báo Nhân dân điện tử gần đây, dưới tiêu đề Để bình đẳng giới ngày

càng thực chất và có tính bền vững, tác giả Thiên Phương đã viết về tính chất khó

khăn của việc loại bỏ tâm lý bất bình đẳng giới không chỉ ở nam giới mà ngay cả ở

những người phụ nữ, những người vợ : “Có thể nói, một trong các yếu tố chủ yếu

đẩy tới tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam là gắn việc lo toan, chăm sóc gia

đình cho phụ nữ. Điều này không chỉ là quan niệm của nam giới và xã hội, mà

trong nhiều trường hợp chính phụ nữ cũng coi đó là “thiên chức” của mình. Vì có

xu hướng phụ nữ đặt gia đình lên trên hết, nên để giữ cho gia đình ổn định, nhiều

phụ nữ ở Việt Nam sẵn sàng hy sinh sự bình đẳng của mình. Phải chăng suy nghĩ

này là điều tâm niệm chung của người phụ nữ cho nên không dễ loại bỏ?” [32].

Bài báo cũng nhận xét: “Và nhiều hệ quả khác của bất bình đẳng giới còn

thể hiện ở tình trạng phụ nữ thường là nạn nhân của bạo lực gia đình, bạo hành

tình dục. Họ cũng mất phần lớn hoặc thậm chí không có quyền chủ động với những

biện pháp kế hoạch hóa gia đình dù được khuyến cáo”.[32]

Những biểu hiện khác nhau rất tinh vi của bất bình đẳng giới này đã được

các nhà nghiên cứu xã hội học về giới quan tâm và tìm hướng giải quyết trong khi

đó, các nhà phê bình văn học, vốn lạc hậu hơn trong tiếp cận những thành tựu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

nghiên cứu xã hội học đó hoặc không thèm đếm xỉa đến những thành tựu đó, vẫn

16

giữ cái nhìn cũ, xem sự chịu đựng của người phụ nữ là biểu hiện của vẻ đẹp cần

biểu dương.

Người phụ nữ trong xã hội nam quyền khi xuất hiện trong văn chương dù là

với tư cách của người vợ, người mẹ hay người yêu đều bị mất tiếng nói. Chính xã

hội nam quyền đã thiết lập những rào cản về văn hóa, đạo đức, gây áp lực cho người

phụ nữ khiến họ dù có mong muốn nhưng cũng không thể cất lên tiếng nói của

mình được. Áp lực từ quy định đạo đức Nho giáo này ảnh hưởng vào trong nếp nghĩ

của nhiều thế hệ phụ nữ người Việt. Thậm chí, thực tế còn cho thấy, dù chính trị

thay đổi song văn hóa vẫn tồn tại với một sức sống dai dẳng trong xã hội. Ví dụ

quan điểm về vấn đề một người phụ nữ góa chồng có nên tái giá đi bước nữa được

đặt ra tranh luận rất gay gắt, đặc biệt là ở các Nho gia như Phan Khôi và Tản Đà.

Trong khi, thì Tản Đà cho rằng việc thủ tiết của người đàn bà là một phong tục cao

cả có từ đời Khổng Tử, các đời nối tiếp nhau tạo thành đạo trinh tiết của đàn bà Á

Đông. Theo đó, ông nói không với chuyện tái giá của đàn bà. Tuy nhiên, Tản Đà

thừa nhận chuyện thủ tiết/không tái giá ở người đàn bà không có luật nào cấm, song

vì áp lực từ xã hội là sự khinh bỉ và rẻ rúng với người tái giá từ xa xưa đã truyền lại

và trở thành một đạo luật tự nhiên. Do đó, vì bất kỳ lý do gì, người đàn bà bị chồng

bỏ hay chồng chết nếu cải giá thì tự đã vi phạm vào đạo tam tòng. Vấn đề giải

phóng những phụ nữ góa đã được đặt ra trong các tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất

Linh và Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương. Cả hai đều xoay quanh tinh thần

chống lại tinh thần thủ tiết, đòi hỏi những quyền lợi về hạnh phúc lứa đôi cho người

phụ nữ. Trong đó Lạnh lùng, Nhất Linh khắc họa nhân vật Nhung luôn ám ảnh bởi

bức hoành phi có bốn chữ “Tiết hạnh khả phong” do vua ban cho bà cô tổ nhà

chồng do chống mất sớm mà ở vậy nuôi con thờ chồng; còn ở Đi bước nữa Nguyễn

Thế Phương thông qua hình ảnh cô Hoan đã dũng cảm vượt lên những ngăn cản của

nhà chồng để đến với anh Cần. Qua đây, tác giả còn muốn đặt ra một vấn đề lớn với

thời đại: thời đại phải dũng cảm “đi bước nữa” để thay đổi, giải phóng số phận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

người phụ nữ khỏi những định kiến cổ hủ còn tồn tại trong xã hội.

17

Trong văn học thời kỳ trước năm 1975, vấn đề "nữ quyền" thực ra cũng đã

được đề cập, nhưng theo một nghĩa khác. Phụ nữ được ca ngợi bằng những hình

tượng sử thi, mang vẻ đẹp lý tưởng, dám đương đầu với những thử thách trong

chiến tranh, không thua nam giới. Đó là những hình tượng như Mẹ Suốt trong thơ

Tố Hữu, chị Chiến trong Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, các cô gái

thanh niên xung phong của Phạm Tiến Duật, chị em Mai và Dít trong Rừng xà nu

của Nguyễn Trung Thành, nhân vật Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi của

Lê Minh Khuê, v.v… Nhưng vấn đề bất bình đẳng giới, vấn đề số phận đời thường

của phụ nữ trong xã hội nam quyền chưa hề được văn học cách mạng đề cập đến.

Trở lại với sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước và sau năm 1975, chúng

tôi thấy hình tượng người phụ nữ hiện lên cũng có hiện tượng mất giọng (thực ra

cũng là câm lặng) như những người phụ nữ mà ta đã nhắc đến ở phần trên. Với

những sáng tác viết về chiến tranh, kỳ thực Nguyễn Minh Châu chưa có ý thức đi

vào vấn đề bình quyền, về nỗi khổ của người phụ nữ mà chủ yếu vận động theo

quỹ đạo chung của văn học đường thời: khuynh hướng lý tưởng hóa hình tượng

người phụ nữ. Nhân vật Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng tiểu biểu cho khuynh

hướng này. Đến văn học thời hậu chiến, hình tượng người đàn bà chài trong

truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa có hiện tượng mất tiếng nói như những người

phụ nữ trong xã hội nam quyền.

Trong thực tế, vấn đề về giới và ứng xử giới luôn được các nhà nghiên cứu tìm

hiểu trong nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa và văn học. Giới cũng có thể được

nghiên cứu theo quan điểm văn hoá để chỉ ra cái nhìn về giới của nam và nữ đối với

nhau, chỉ ra địa vị gia đình và xã hội của nam giới và nữ giới v.v… Trong nghiên

cứu văn học, có thể ứng dụng phương pháp nghiên cứu giới đối với nhân vật văn

học để tìm hiểu các kiểu hình tượng nam/nữ. Ví dụ áp dụng quan điểm giới vào

nghiên cứu hình tượng các nhân vật nữ - người chinh phụ, người cung nữ trong

Chinh Phụ Ngâm và Cung oán ngâm từ quan điểm giới, người ta có thể thấy những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

quan niệm hà khắc của Nho giáo phong kiến như “Tam tòng”, “Tứ đức”, quan điểm

18

đề cao trinh tiết, quan điểm kỳ thị nữ sắc hay quan điểm coi thường đời sống bản

năng… chính là nguồn gốc dẫn đến cảnh những người chinh phụ đã phải âm thầm

chịu đựng, bị thiêu đốt bởi những khao khát trong đời sống bản năng khi chồng đi

chinh chiến; những người cung nữ đã phải hy sinh cả thời thanh xuân của mình

trong những khuê phòng, trong cấm cung.

Cũng có thể thấy điều tương tự khi ta đưa lý thuyết giới vào soi chiếu cách

ứng xử của các nhân vật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh

Châu. Mỗi nhân vật có cách suy nghĩ và hành đông khác nhau nhưng điểm chung là

đều chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng văn hóa nam quyền, họ chỉ khác nhau ở chỗ hoặc

là thừa nhận hoặc là phản đối sự bình đẳng giới mà thôi. Theo đó, người chồng thì

mặc nhiên cho mình có quyền đánh vợ, còn người vợ thì cúi đầu, lặng lẽ đón nhận,

chịu đựng những trận bạo hành như là bổn phận, trách nhiệm của mình cần phải

thực hiện Các nhân vật khác như phóng viên Phùng, chánh án Đẩu, thằng Phác thì

phẫn nộ và phản kháng lại nếp nghĩ cổ hủ đó.

Trước đây, khi tiếp cận các nhân vật nam/nữ, chúng ta thường bị bó hẹp hoặc

nhìn theo quan điểm giai cấp, áp bức hay bị áp bức, hoặc theo quan điểm đạo đức,

đáng khen hay đáng chê thì với điểm nhìn giới, chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn

về nhân vật. Đây được xem là một phương pháp tiếp cận có nhiều ưu điểm trong lí

thuyết tiếp nhận, nó giúp ta hiểu tác phẩm văn học một cách khách quan và nhân

bản hơn.

1.2. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kỳ sau năm 1975

1.2.1. Khái lược về vai trò người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học dân tộc

Nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) xuất thân trong một gia đình

nông dân ở làng Thơi thuộc xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu,

tỉnh Nghệ An. Được gia đình tạo điều kiện, năm 1944 Nguyễn Minh Châu học tập ở

Huế. Đến năm 1950, ông tham gia quan đội, theo học Trường Sĩ quan Lục quân

Trần Quốc Tuấn và chủ yếu hoạt động tại các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ở Sư đoàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

320. Từ năm 1954 tham gia viết văn nhưng phải đến khi hai cuốn tiểu thuyết là Cửa

19

sông (1966), Dấu chân người lính (1972) và tập truyện ngắn Những vùng trời khác

nhau (1970) ra đời, Nguyễn Minh Châu mới khẳng định được dấu ấn phong cách và

chỗ đứng của mình trong lòng bạn đọc. Ông tỏ ra am hiểu đời sống và tâm hồn

người chiến sĩ, hiện thực khắc nghiệt và hào hùng của cuộc kháng chiến. Sau thống

nhất, đặc biệt từ những năm 1980 trở đi, nước ta bước vào tình trạng khủng hoảng

kinh tế trầm trọng, bầu không khí trở nên ngột ngạt với việc khắc phục hậu quả

chiến tranh cũng như những vấn đề mới nảy sinh: sự suy thoái của đạo đức, nhân

cách con người, các vấn đề của đời sống dân sinh, xã hội,... Nhiều nhà văn trước sự

thay đổi của hiện thực đã không thể tìm thấy cảm hứng sáng tác, bởi nguồn cảm

hứng chủ đạo là sử thi và lãng mạn đã lùi vào quá vãng mà hiện thực thì bi đát,

trong khi độc giả đang có xu hướng tìm đọc Nguyễn Du hay tìm đến với văn học

phương Tây qua các bản dịch. Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài Văn xuôi sau 1975,

thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển (Tạp chí văn học số 4, tháng 7&8-1991)

đã gọi đây là thời kỳ khủng khoảng “chân không văn học” - “chẳng có gì để nói”.

Hơn lúc nào hết, lúc này các văn nghệ sĩ cần xác định “đổi mới là lẽ sống còn của

văn nghệ” [2]. Đổi mới một cách toàn diện để theo kịp sự phát triển của thực tại xã

hội và đáp ứng được thị hiếu của người đọc. Trước tình hình đó, Nguyễn Minh

Châu đã đi đầu trong khuynh hướng đổi mới văn học sau chiến tranh: nghĩ và viết

về đời tư, thế sự, về những vấn đề bức xúc đằng sau những chiến công, những vấn

đề xã hội, về số phận và nhân cách của con người trong tình trạng trì trệ của đất

nước. Thành tựu nghệ thuật nhà văn đạt được thời kỳ này gồm có bốn cuốn tiểu

thuyết: Miền cháy và Lửa từ những ngôi nhà cùng in năm (1977), Những người đi

từ trong rừng ra (1982) và Mảnh đất tình yêu (1987) và hàng loạt các truyện ngắn,

truyện vừa lần lượt được ra mắt, sau đó được tập hợp in trong 3 tập: Người đàn bà

trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), và Cỏ lau (1989). Ngoài ra

Nguyễn Minh Châu còn có nhiều bài viết về văn học, hoặc ghi chép, tản mạn về

kinh nghiệm viết văn, chân dung văn học,… Về sau khi tác giả qua đời, phần nhiều

trong đó được in trong cuốn Trang giấy trước đèn (1994). Các sáng tác thời kỳ này

đã cho thấy sự chuyển biến trong tư tưởng và nghệ thuật của ông sau năm 1975

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

trong tiếp cận hiện thực mới. Nguyễn Minh Châu đã thật sự để lại dấu ấn trên hành

20

trình đổi mới của văn học dân tộc. Trong số các bài viết, có bài trở thành kim chỉ

nam định hướng sáng tác cho lớp nhà văn đi sau.

Với ý thức và trách nhiệm lao động nghệ thuật nghiêm túc của mình trong

buổi trở dạ của văn học, Nguyễn Minh Châu đã giành được vị trí xứng đáng trong

nền văn học dân tộc, trở thành người: “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của

nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho cho những cây bút

trẻ sau này” (Nguyễn Khải) và là người: “người mở đường tinh anh và tài năng

nhất” (Nguyên Ngọc) cho văn học Việt Nam thời kỳ sau năm 1975.

Vai trò người mở đường của Nguyễn Minh Châu thể hiện ở sự đổi mới trên

phương diện của sáng tác như đổi mới ý thức nghệ thuật, đổi mới quan niệm nghệ

thuật về con người - trong đó có quan niệm về người phụ nữ và đổi mới trong nghệ

thuật tự sự.

1.2.2. Đổi mới về ý thức nghệ thuật

Trong đổi mới văn học, đổi mới trong tư duy, ý thức nghệ thuật được xem là

quan trọng trước hết. Đó là sự đổi mới quan niệm về nhà văn, quan niệm về văn

chương, về mối quan hệ của nhà văn với hiện thực, với công chúng và với chính

mình.

Về quan niệm về nhà văn, có sự thay đổi từ mô hình nhà văn - chiến sĩ,

chiến đấu vì cộng đồng sang mô hình nhà văn - nghệ sĩ, gắn với cái tôi cá nhân. Đây

là bước chuyển quan trọng để xác định tâm thế của người nghệ sỹ trước và sau năm

1975.

Về đổi mới quan niệm về hiện thực: trước năm 1975 hiện thực theo kiểu chủ

nghĩa đề tài định trước, được nhìn nhận xuôi chiều. Trong bài - Hãy đọc lời ai điếu

cho một giai đoạn văn nghệ minh họa (1987), Nguyễn Minh Châu đã sử dụng hình

ảnh “cái hành lang hẹp và thấp” để chỉ ra quan niệm về hiện thực của văn học thời

kháng chiến: “Thói quen của một người vốn quen đi trong một hành lang hẹp, vừa

hẹp vừa thấp (…). Những nhà văn tuy đều cảm thấy thiếu thốn và bức bối nhưng lại

tự dụ dỗ mình và khuyên nhủ lẫn nhau tự bạt chiều cao cho thấp đi khỏi chạm trần, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

21

tự ép khuôn khổ chiều ngang lại để khỏi kềnh càng, để đi lại được thoải mái trong

cái hành lang kia”.[5]. Ở Nguyễn Minh Châu và các nhà văn cùng thời, hiện thực

đã được mở ra phong phú, đa chiều, mỗi người một quan niệm, một khuynh hướng

thẩm mỹ. Họ không còn bị động trong sự ràng buộc như trước mà đã chủ động lựa

chọn đề tài, tiếp cận hiện thực đời sống: Ma Văn Kháng lại tìm đến và đề cao giá trị

nguồn cội, Nguyễn Huy Thiệp thì nhấn mạnh vào bản thể tự nhiên của con người và

Nguyễn Minh Châu lại đi tìm những hạt ngọc đạo đức trong công cuộc mưu sinh

nhọc nhằn. Đổi mới quan hệ của nhà văn với công chúng là một nhu cầu tất yếu sau

1975. Đây được xem là mối quan hệ sống còn của văn học, trong đó nhà văn vừa

tạo ra công chúng vừa bị công chúng chi phối. Nếu trước năm 1975, sứ mệnh của

nhà văn chiến sỹ khiến họ thành người dẫn dắt, giảng giải, giáo dục công chúng đến

với lý tưởng thì sau 1975 mọi thứ đã thay đổi, trước cuộc sống bộn bề, công chúng

có nhiều mối quan tâm hơn, đòi hỏi văn học phải tự điều chỉnh mình để đáp ứng

được yêu cầu đa dạng của công chúng. Quan hệ cũng tất yếu thay đổi từ độc thoại

chuyển sang đối thoại giữa nhà văn và công chúng. Trước hiện thực, nhà văn chỉ

đưa ra những đề nghị, giải pháp của mình để độc giả đánh giá.

Trong quan hệ với chính mình: Nếu trong văn học thời chiến, nhà văn phải

chấp nhận hy sinh cái bản ngã cho cộng đồng, sống và viết thiếu bản lĩnh với một

nỗi sợ cố hữu dẫn đến tự đánh mất mình thì lúc này, ý thức về cá tính sáng tạo đã

trở thành một nhu cầu thường trực và nhà văn đã nhận thức về mình, về nghề

nghiệp của mình, về bản chất văn chương của mình trên tinh thần của chủ nghĩa cá

nhân văn hóa. Người nghệ sỹ cần có cá tính sáng tạo và hơn cả là sự tự do sáng tạo.

Nhà văn phải có trách nhiệm cao với xã hội, thức tỉnh, cảnh báo những nguy cơ có

thể con người phải đối mặt. Để đảm nhận được sứ mệnh đó, trước hết nhà văn cần

phải có một tình yêu lớn với con người. Ông từng thổ lộ: “Tôi không thể nào tưởng

tượng nổi nhà văn không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và tình yêu

thương con người. Tình yêu này của người nghệ sỹ vừa là một niềm hân hoan say

mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thương trực về số phận,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cần giữ cái tình yêu lớn ấy trong

22

mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của

người đời” [20, tr.111].

Như vậy, đổi mới về ý thức nghệ thuật là một bước chuyển mình quan trọng

của Nguyễn Minh Châu và những nhà văn lúc bấy giờ. Cùng đi trong cái hành lang

hẹp nhưng Nguyễn Minh Châu luôn day dứt một cách có ý thức để tìm ra cho mình

một lối đi riêng. Ý thức này được thể hiện rõ trong việc đổi mới quan niệm về con

người.

1.2.3. Đổi mới quan niệm về con người

Con người luôn là nhân vật trung tâm của đời sống văn học, mỗi thời đại sẽ

có cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau về con người, thậm chí ngay trong hành

trình sáng tác của một nhà văn, quan niệm về con người cũng có sự thay đổi. Nhìn

lại những sáng tác trước năm 1975 của Nguyễn Minh Châu ta thấy các nhân vật

được xây dựng dưới ánh sáng của cảm hứng lãng mạn và màu sắc sử thi. Yếu tố

riêng mờ nhạt trước sự lấn át của phẩm chất chung mang tầm thời đại: Yêu - Căm -

Chiến - Lạc. Đọc truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng, ta thấy Nguyệt và Lãm đều có

trong mình những phẩm chất trên. Họ yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, có

lý tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc và nhân dân. Tất cả đều

được thi vị hóa như nhà văn Nikulin nhận xét: “ Nhà văn thời ấy đã khá triệt để

trong việc thi vị hóa nhân vật. Đây vừa là chỗ mạnh của anh, lại vừa là chỗ yếu:

niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tình thần, của cái thiện đã được

khúc xạ ở chỗ anh đã “tắm rửa sạch sẽ” các nhân vật của mình. Họ giống như

được bao bọc trong bầu không khí vô trùng” [17, tr.470].

Từ năm 1980, quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu đã có sự thay

đổi theo chiều hướng tiến sâu hơn vào nắm bắt toàn diện bản chất con người - nhìn

nhận con người toàn vẹn, đa chiều, trong đó con người đời tư thế sự song hành với

con người xã hội - lịch sử, con người trong tính cá thể hóa và tính phổ quát nhân

loại, trong các mối quan hệ xã hội mới, phức tạp hơn đã hiện ra với đầy đủ sắc diện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

tốt có, xấu có, khi cao cả, khi lại đớn hèn,… và có cả “rồng phượng lẫn rắn rết”

23

(Bức tranh). Chỉ khi nhìn nhận đúng con người, xem xét con người là một thực thể

phức tạp - bí ẩn, là một tiểu vũ trụ, không thể biết trước và không thể biết hết so với

suy đoán thông lệ mới có thể khám phá hết về con người. Vì vậy, khám phá cái thế

giới bên trong đầy bí ẩn của con người luôn là phần khắc khoải nhất trong những

sáng tác của ông giai đoạn này, như ông từng quan niệm: “Văn học và đời sống là

hai vòng tròn đồng tâm - mà tâm điểm là con người” [18, tr.111]. Với quan niệm

tiến bộ và biện chứng về con người như vậy nên sáng tác của Nguyễn Minh Châu là

nơi để ông đặt tình yêu và niềm tin vào con người, để không chỉ “cảm thông sâu

sắc với nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời” mà còn “giúp họ có thể vượt qua

những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống” [18, tr.111].

Đặc biệt, vấn đề người phụ nữ trong sáng tác sau năm 1975 của ông cũng nằm trong

sự đổi mới đó khi những người phụ nữ đều được soi chiếu bởi nguồn cảm hứng đời

thường – vấn đề này sẽ được triển khai rõ hơn ở mục 1.2.5.

Như vậy, với sự đổi mới qua niệm về con người ở thời hậu chiến, Nguyễn

Minh Châu đã cho thấy một tình yêu thương, một nỗi quan hoài, khắc khoải thường

trực về thân phận của con người, trước hết là của những người phụ nữ trong sáng

tác của mình.

1.2.4. Đổi mới trên phương diện nghệ thuật tự sự

Về phương diện nghệ thuật tự sự, Nguyễn Minh Châu luôn có sự tìm tòi,

khám khá và thể nghiệm cách viết mới. Nếu hành trình đổi mới của nhà văn chỉ

diễn ra trên phương diện ý thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng mà thiếu phương

diện hình thức biểu đạt thì đồng nghĩa với việc khả năng biểu đạt của nhân vật bị

thu hẹp lại và sức hấp dẫn với độc giả sẽ kém đi. Đổi mới ở nghệ thuật tự sự có thể

thể hiện ở nhiều mặt nhưng Nguyễn Minh Châu đặc biệt chú ý tới nghệ thuật xây

dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật.

Về nghệ thuật xây dựng nhân vật truyền thống thường được thể hiện rất

phong phú đa dạng ở nhiều phương diện như: ngoại hình, ngôn ngữ, tính cách, hành

động, nội tâm, mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật khác và với môi trường xung

quanh,… Tùy theo sở trường của mỗi nhà văn mà họ chủ trương đi vào khai thác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

24

các phương diện khác nhau để tạo nên phong cách riêng. Có nhà văn thiên về hành

động, diễn biến tâm lý như Nam Cao, có tác giả lại thiên về cảm xúc với những diễn

biến tinh tế trong tâm hồn nhân vật và không chú trọng đến hành động như Thạch

Lam,… Còn với Nguyễn Minh Châu, ông sử dụng nhiều thủ pháp để khắc họa nhân

vật nhưng thành công hơn cả là miêu tả tâm lý - sử dụng độc thoại nội tâm. Trước

đây trong văn học cách mạng, các nhân vật được khắc họa thường có tâm lý nhân

vật đơn giản, thuận chiều bởi lý tưởng sống cao nhất của con người thời chiến tranh

là sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc, vì lý tưởng cao đẹp đó con người ta sẵn sàng hy

sinh những nhu cầu cá nhân. Đó là kiểu nhân vật được định hình theo công thức và

trở thành chuẩn thẩm mỹ để các nhà văn sáng tác, do đó những hình tượng người

lính, hay cô thanh nhiên xung phong trong sáng tác văn học giai đoạn chống Pháp,

chống Mỹ đều tuân theo chuẩn mực chung này. Đổi mới nghệ thuật xây dựng nhân

vật với Nguyễn Minh Châu là từ bỏ kiểu xây dựng nhân vật cũ đó để đi vào khám

phá “con người bên trong”, nhằm phát hiện ra “con người không trùng khít với bản

thân mình ” cũng như phần phức tạp và bí ẩn bên trong con người. Với cách xây

dựng này thì các yếu tố, sự kiện bên ngoài chỉ có vai trò làm nền, dẫn dắt gợi cho

người đọc có những đoán định, suy tư về nhân vật, còn thế giới bên trong nhân vật

diễn ra nhiều xung đột với diễn biến phức tạp mà nếu cứ đơn giản nhìn vào đều “bất

khả tri” khó đoán định hay nắm bắt được bản chất. Và để tái hiện đời sống vô cùng

phức tạp bên trong của nhân vật thì thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng giúp

nhà văn đi sâu vào thế giới bên trong nhân vật để tái hiện tâm tư của nhân vật.

Nguyễn Minh Châu luôn trăn trở, tìm tòi trong trần thuật. Lối trần thuật áp

đặt một chiều theo kiểu dẫn dắt người đọc đến với lý tưởng của văn học thời chiến

tranh đã trở nên lỗi thời, không theo kịp sự phát triển của hiện thực. Cốt truyện theo

lối định sẵn cũng bó buộc trước đây đã được nhà văn đặc biệt chú ý bằng cách tạo

ra biên độ rộng hơn cho cốt truyện, tạo các tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.

Điểm nhìn trần thuật được thay đổi luân phiên ở các nhân vật để tạo điểm nhìn đa

diện khi tiếp cận các vấn đề phức tạp trong hiện thực từ con người đến sự việc.

Giọng điệu cũng linh hoạt hơn để theo kịp diễn biến cốt truyện. Đặc biệt, các biểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

tượng được sử dụng nhiều hơn nhằm tăng chất triết lý cho tác phẩm. Những biểu

25

hiện này được thể hiện cụ thể trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và sẽ được

chúng tôi phân tích cụ thể trong chương 3.

1.2.5. Hình tượng vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975

Trong lịch sử văn học nhân loại, hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm

hứng chưa bao giờ vơi cạn của văn chương, do đó tên tuổi các nhà văn lớn cũng gắn

liền với các nhân vật nữ. Ở Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng ấy, người

phụ nữ đã bước vào văn học từ trong những sáng tác của văn học dân gian cũng như

văn học hiện đại sau này. Có thể kể đến một cô Tấm trong cổ tích thần kỳ giúp nhân

dân ta thỏa mãn ước mơ ngoài đời thực, là người cung nữ, người chinh phụ khổ đau

cả đời câm lặng trong những khúc ngâm, là nàng Kiều chịu kiếp “Thanh lâu hai

lượt/Thanh y hai lần” nhưng vẫn ý thức sâu sắc về phẩm giá, là cô Từ trong truyện

ngắn Đời thừa của Nam Cao - phải nhiều phen chịu những trận đòn vô cớ vì người

chồng nghệ sĩ ôm giấc mông Nô ben văn chương dang dở hay là cô Mị bị nhà

chồng cúng trình ma, bị chồng bạo hành mọi lúc cũng chỉ còn cam chịu và đợi ngày

chết rũ xương bên nhà chồng trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài, v.v...

Là một nhà văn có lòng trắc ẩn sâu xa, Nguyễn Minh Châu luôn quan tâm

đến số phận, nỗi đau khổ của con người, nhất là những người phụ nữ thời kì sáng

tác sau 1975.

Những truyện ngắn của ông, nếu những sáng tác viết trong thời gian chiến

tranh, người phụ nữ (như cô Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng) được khắc họa

thật đẹp, thật lãng mạn, trong không gian nghệ thuật như vô trùng thì hầu hết những

nhân vật nữ trong sáng tác trong giai đoạn sau 1975 lại hiện lên trong không gian

sống trần trụi, với thân phận đa đoan, lam lũ, nhiều thiệt thòi. Trong đó, bên cạnh

việc viết về những người phụ nữ chịu nhiều di họa sau chiến tranh như vật Quỳ

trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, nhân vật Thai trong Cỏ lau, thì nhà

văn đặc biệt còn dành nhiều trang viết về người đàn bà trong dòng truyện ngắn viết

về cảm hứng đời thường mang tinh thần đổi mới sau năm 1975. Với điểm nhìn từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

văn hóa giới với những sáng tác viết về người phụ nữ trong đời thường có thể kể

26

đến những nhân vật nữ tiêu biểu như Liên trong Bến quê, Huệ trong Khách ở quê ra

và Phiên chợ Giát, Tề trong Chợ Tết và đặc biệt là người đàn bà hàng chài trong

Chiếc thuyền ngoài xa. Tất cả những người phụ nữ này khi bước vào truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu đều chịu chung một cuộc sống nhọc nhằm, vất vả và khổ đau.

Việc hình tượng người phụ nữ cứ trở đi trở lại trong sáng tác của Nguyễn Minh

Châu cho thấy đó không chỉ là mối quan tâm đặc biệt của ông dành cho người phụ

nữ mà còn thể hiện tư tưởng nhân văn tiến bộ vì nữ quyền để đấu tranh trước sự áp

bức bất công xã hội áp đặt lên người phụ nữ.

Như vậy, sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đi theo khuynh hướng văn xuôi

đời thường, những khắc khoải nhân sinh trong sáng tác của ông gắn với số phận

người phụ nữ. Mỗi nhân vật một cảnh ngộ khác nhau nhưng họ đều gặp nhau ở chỗ

có cuộc đời éo le, bất hạnh. Nguyễn Minh Châu bằng nỗi day dứt của mình về họ đã

luôn hào hứng và ưu ái khi viết về người phụ nữ với vai trò là người mẹ. Khi đó,

người đàn bà luôn được cảm nhận không chỉ bằng ý thức mà bằng cả bản năng,

thiên chức làm mẹ và chính thiên chức làm mẹ của người phụ nữ đã làm bệ đỡ đưa

họ ra khỏi cuộc sống éo le, nhọc nhằn, đôi khi chứa đựng cả những nghịch lí.

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một ví dụ tiêu biểu cho khuynh hướng này.

Tiểu kết

Tóm lại, trong chương 1 luận văn đã đi vào giới thuyết về vấn đề giới và

cách ứng xử giới từ xã hội phương Tây đến xã hội người Việt. Có thể nói, nếu như

xã hội phương Tây tiến nhanh về xu hướng nữ quyền thì xã hội người Việt vẫn chịu

sự chi phối sâu sắc của tinh thần nam quyền. Ngoài ra, chúng tôi cũng dành phần

còn lại trong chương này để đi vào khái quát về vai trò người mở đường của

Nguyễn Minh Châu thời kỳ sau năm 1975 với những đóng góp to lớn trên con

đường đổi mới văn học dân tộc và hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của ông

trong giai đoạn này. Theo đó, chúng tôi muốn làm rõ bối cảnh xã hội mà người phụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

nữ phải đối mặt trong cuộc sống sau chiến tranh để thấy được nỗi khổ của người

27

đàn bà hàng chài, sự giống và khác biệt so với những người phụ nữ cùng thời trong

sáng tác của Nguyễn Minh Châu.

Chƣơng 2

TINH THẦN PHÊ PHÁN ĐỐI VỚI VĂN HÓA NAM QUYỀN

VÀ Ý THỨC NỮ QUYỀN CỦA TÁC GIẢ

Như chúng tôi đã trình bày ở chương 1, xã hội Việt Nam thời phong kiến là

xã hội nam quyền - xã hội lấy các tiêu chí có lợi cho nam giới để áp đặt cho phụ nữ.

Trải qua sự biến thiên của lịch sử, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đưa

nền dân chủ thay thế cho nền quân chủ, vị thế của người dân cũng thay đổi căn bản.

Tiếp đến, chúng ta giành thắng lợi vẻ vang trước thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,

nước nhà thống nhất, xã hội có nhiều đổi thay trên tất cả mọi phương diện của cuộc

sống như kinh tế, chính trị, văn hóa…Tuy nhiên, văn hóa nam quyền vốn đã ăn sâu

vào tiềm thức ngàn đời của dân tộc lại không dễ gì đổi thay, càng không dễ gì xóa

bỏ. Sự ảnh hưởng của nó còn khá sâu sắc đến đời sống xã hội nói chung và hoạt

động sáng tạo nghệ thuật nói riêng, trong đó có văn học.

Văn hóa nam quyền bao đời nay đã tạo ra sự bất công, bất bình đẳng trong

mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới. Trong đó, đàn ông giữ vai trò thống ngự, sai

khiến, áp đặt nữ giới ở tất cả mọi phương diện của đời sống. Họ đứng cao hơn và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

trở thành “chủ sử hữu” đối với người vợ của mình. Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức”

28

trở thành sức mạnh đầy công năng mà nam giới có được để trói buộc người phụ nữ

vào những thứ gọi là “bổn phận”, “trách nhiệm” của người vợ, người mẹ. Về phía

mình, những người phụ nữ cũng tự nguyện cam chịu thân phận “nô lệ”, họ lấy sự

cam chịu, nhẫn nhục, hi sinh làm thước đo cho phẩm giá của mình. Họ sẵn sàng hi

sinh quyền lợi, hạnh phúc, nhận về mình tất cả những đau đớn để làm bệ đỡ cho cái

được gọi là “hạnh phúc” của chồng con. Do vậy, nhìn từ lí luận giới, từ văn hóa ứng

xử giới trong xã hội nam quyền, mọi buồn vui, sướng khổ hay bất hạnh của người

phụ nữ không thể không soi xét từ phía người đàn ông. Bất cứ một tác phẩm văn

chương nào đi vào thân phận con người đều ẩn chứa những vấn đề về giới. Vấn đề

nhân sinh muôn thưở nhưng chưa bao giờ cũ ấy được Nguyễn Minh Châu đặt ra

trong một hoàn cảnh mới – đó là xã hội Việt Nam thời hậu chiến, một xã hội mà

nền chuyên chế phong kiến đã lùi xa trong quá khứ, nhưng vẫn còn đó câu hỏi lớn

về thân phận con người, về số phận của người phụ nữ. Sinh thời, Nguyễn Minh

châu từng tâm sự “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm

nay, bao giờ cũng đối thoại với những người đương thời về những câu hỏi cấp bách

của đời sống”. Câu trả lời ấy, sự lí giải những vấn đề nhức nhối của cuộc sống ấy đã

được nhà văn kí thác trọn vẹn vào các hình tượng nhân vật của mình.

Trong chặng đường sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, Chiếc

thuyền ngoài xa được đánh giá là truyện ngắn tiêu biểu, kết tinh tư tưởng và tài

năng của nhà văn, cũng là tác phẩm có vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn

lớp cuối bậc học phổ thông trung học, có ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và

phát triển nhân cách, tới đời sống tâm hồn của thế hệ trẻ. Do vậy, luận văn sẽ lấy

việc nghiên cứu tác phẩm này với hai nhân vật chính là cặp vợ chồng ngư dân ở ven

biển miền Trung như là một trục chính, từ đó nhìn sang các tác phẩm khác cùng

thời để soi chiếu, đối sánh nhằm làm nổi bật sự độc đáo của Nguyễn Minh Châu

trong cách nhìn nhận, lí giải cuộc sống cũng như ý nghĩa sâu sắc của những thông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

điệp mà nhà văn muốn gửi tới người đọc.

29

2.1. Nhân vật ngƣời chồng – hiện thân của tƣ tƣởng nam quyền

2.1.1. Vấn đề đối xử với thân thể phụ nữ

Theo nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, khái niệm con người gồm hai phương

diện “Thân” và “Tâm”. Tâm là cảm xúc, tâm lý, tư tưởng, tình cảm…thuộc về đời

sống bên trong – đời sống tâm hồn của con người. Thân là thân thể, thân xác thuộc

về đời sống bên ngoài, gắn liền với những nhu cầu vật chất, với bản năng tính

dục…. là nền tảng vật chất cho sự tồn tại của con người. Như vậy, tôn trọng và bảo

vệ con người là phải tôn trọng và bảo vệ những cái thuộc về cả hai phương diện

Thân và Tâm ấy.

Con người là đối tượng phản ánh của văn học, do đó, một tác phẩm văn học

chân chính, mang chiều sâu nhân bản, nhân đạo bao giờ cũng là tác phẩm hoặc thể

hiện cái nhìn xót thương, trân trọng, ngợi ca con người ở phương diện Thân và Tâm

hoặc thể hiện thái độ bất bình, đấu tranh bảo vệ khi Thân và Tâm con người bị lăng

nhục, bị chà đạp. Nhân loại đã từng yêu và xúc động trước Những người khốn khổ

của V.Huy gô; kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du khi ngòi bút của những người

nghệ sĩ thật sự như đọng máu và nước mắt khi viết về nỗi đau thân xác và bi kịch

tâm hồn của con người. Và những tác phẩm như thế sẽ còn lay động trái tim độc

giả, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian.

Nếu nói Thân là nền tảng vật chất cho sự tồn tại của con người thì tôn trọng

con người trước hết phải tôn trọng thân thể của nó, bất luận là nam giới hay nữ giới.

Không thể nói đến một chủ nghĩa nhân đạo nhưng lại khinh miệt thân xác con

người, can thiệp vào quyền bất khả xâm phạm thân thể của con người. Trong nền

văn hóa chuyên chế phương Đông như Việt Nam trước đây, luật pháp thể hiện rõ

thái độ chuyên chế, khinh miệt con người qua “ngũ hình”, trừng phạt tội phạm bằng

cách chà đạp, lăng nhục thân xác: “Luật hình xưa quy định đến chi tiết các mức đòn

khác nhau tùy theo tội nặng nhẹ. Trong năm hình phạt (ngũ hình) thì hai hai hình

phạt đầu tiên quy định đánh đòn bằng roi (xuy) và gậy (trượng), (…). Chẳng hạn

Hoàng Việt luật lệ (còn được gọi là luật Gia Long) quy định mức phạt bằng roi có 5

bậc, từ 10 đến 50 roi, mức phạt bằng gậy cũng có 5 bậc, kẻ phạm tội nặng hơn 50 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

30

roi thì chuyển sang phạt bằng gậy, từ 60 đến 100 gậy,… ” [36, tr.408], “Xét cho

cùng, hiện tượng này phản ánh tâm thức phổ biến coi thường, miệt thị thân xác. Và

không ai thấy như vậy là điều bất bình thường” [36, tr.409]; “Đối với người phương

Đông xưa, chuyện đánh đòn tội nhân là “chuyện thường ngày ở huyện”, chẳng ai

xúc động” [36, tr.410]. Điều đáng nói, quan niệm coi thường thân xác con người

được xem là “chuyện thường ngày” trong xã hội chuyên chế không chỉ với tội

phạm nói riêng mà với cả con người nói chung – như một nét văn hóa phổ biến và

được chấp nhận. Điều này được Nguyễn Du phản ánh trong Truyện Kiều (Thể hiện

ở các cảnh có sự đánh đập, bạo hành như: Bọn sai nha đánh Vương Quan, Vương

ông; các cảnh Kiều bị Tú Bà, quan phủ, Hoạn Thư đánh đòn,…). Tuy nhiên,

Nguyễn Du viết trên tinh thần của một nhà nhân đạo, ông đã lên tiếng phản kháng,

tố cáo xã hội chuyên chế phong kiến khi lấy đòn roi giáng xuống thân thể của con

người, trong đó có cô Kiều. Như vậy, với Nguyễn Du trân trọng con người trước hết

cần phải trân trọng thể xác của con người chứ không phải trên tinh thần nhân đạo

chung chung.

Xã hội chuyên chế trên đã đưa đến một thực tế là từ gia đình đến ngoài xã

hội, thân thể con người đều không được coi trọng. Vua chúa, quan lại thì tự cho

mình cái quyền được chà đạp thân thể con người bằng các luật hình dã man; các

đức ông chồng mang tư tưởng nam quyền, theo đó cũng tự cho mình quyền được

đánh đập, bạo hành thân thể người vợ. Đó là đặc điểm của xã hội chuyên chế,

phong kiến mà nếp nghĩ, cách hành xử vẫn cứ dai dẳng tồn tại ngay cả khi chế độ

phong kiến bị đánh đổ. Những tưởng chỉ có cô Mị sống dưới chế độ phìa tạo ở

những vùng núi xa xôi trước khi làn sóng cách mạng tràn đến mới bị bạo hành,

đánh đập bởi A Sử, như là biểu hiện của áp bức giai cấp, của xung đột giửa kẻ giàu

người nghèo, thống trị và bị trị. Nhưng không, ngay trong thời hiện đại, ngay sau

khi đất nước được thống nhất, không còn chuyện áp bức giai cấp, thống trị và bị trị,

vậy mà chuyện người chồng bạo hành, đánh đập vợ vẫn cứ diễn ra.

Ở Chiếc thuyền ngoài xa, vấn đề “thân thể” bị đàn áp, bạo hành nổi bật nên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

chúng tôi sẽ đi sâu vào vấn đề này. Theo chúng tôi, có lẽ nên nhìn hiện tượng người

31

chồng vũ phu đánh đập người vợ trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa từ góc nhìn

về xã hội chuyên chế phong kiến đối xử với thân xác con người. Vì sự thống trị của

người chồng đối với người vợ cùng loại hình, đặc trưng của xã hội chuyên chế

thống trị, chà đạp con người. Đọc lại đoạn văn miêu tả cảnh người chồng bạo hành

vợ của Nguyễn Minh Châu, chúng ta không khỏi xót xa cho kiếp phận đàn bà: “Lão

đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt

lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,

chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt

lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm

răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên

rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ!” [9, tr.256,

257].

Bạo lực chưa bao giờ là giải pháp tích cực cho bất cứ một mâu thuẫn, một

sự đối kháng nào trong xã hội, càng không phải là cách hành xử có thể tồn tại trong

mối quan hệ gia đình. Rạn nứt, đổ vỡ hạnh phúc cũng từ đấy mà ra. Vậy mà trong

tác phẩm, người chồng ngang nhiên đánh vợ một cách đầy thô bạo và tàn ác. Chữ

“lính ngụy” nhà văn dùng phải chăng cũng góp phần tô đậm tính chất dã man của

hành động bạo hành, hơn nữa còn ám chỉ việc lão chồng đánh vợ như kẻ thù. Thật

xót xa thay khi mà những người thân yêu nhất trong một gia đình lại có thể đối xử

với nhau như những kẻ ở hai đầu chiến tuyến. Cũng thật đau đớn thay khi con người

lại bị hành hạ, bị đối xử tàn ác không phải trên chiến trường mà trong chính không

gian tổ ấm gia đình. Liệu trong làng chài này, trong vùng biển miền Trung này và

xa hơn nữa, còn có bao nhiêu cảnh bạo hành, bao nhiêu người phụ nữ phải oằn

mình gánh chịu những trận đòn roi vô lí và vô đạo từ chính người chồng của họ?

Nguyên nhân của trận đòn roi trút xuống như lửa cháy kia thuộc về ai? Thói vũ phu

độc ác, tàn nhẫn, ích kỉ như ăn sâu vào máu của người đàn ông hàng chài sinh ra từ

đâu? Câu hỏi nhức nhối này đã được tác giả mượn lời các nhân vật để lí giải, cắt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

nghĩa và truy nguyên nguồn gốc của những tính cách thấp hèn kia.

32

Về phía người đàn bà hàng chài, chúng ta thấy chị xuất hiện trong tác phẩm

là một người phụ nữ chịu thương, chịu khó, tảo tần tần sớm hôm cùng chồng mưu

sinh trên biển. Là một người vợ nhu thuận với chồng, một người mẹ âm thầm, lặng

lẽ hi sinh tất cả để chăm lo cho con cái. Vậy chị không thể là người có lỗi, càng

không đáng bị hứng chịu những đòn rôi vô lí kia từ phía người chồng. (Ngay cả

những người vợ mắc lỗi cũng không đáng bị đối xử tàn nhẫn như vậy). Do đó

không thể có một lí do nào được coi là “chính đáng” cho những hành động thô bạo

của lão đàn ông hàng chài. Sự việc này bởi vậy đã gây ra nhiều phẫn nộ cho cả

người trong và ngoài cuộc như thằng bé Phác, nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu

(phản ứng của các nhân vật này sẽ được chúng tôi phân tích ở phần sau). Như vậy,

nguồn cơn của những trận bạo hành kia chỉ có thể soi xét từ phía người chồng.

Dưới cái nhìn và suy nghĩ đầy cảm thông, bao dung của người đàn bà hàng

chài, tính cách độc ác của lão chồng chị là do hoàn cảnh đói nghèo tạo nên. Chính

sự vất vả, cực nhọc cùng những áp lực của cuộc sống mưu sinh trên biển đã khiến

lão tha hóa. Chồng chị trước đây “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành

lắm” và không bao giờ đánh vợ. Thực tế tiếp nhận cho thấy, nhiều xu hướng tiếp

nhận đã dựa vào lời tâm sự trên của người đàn bà hàng chài mà đưa ra những luận

giải, cắt nghĩa về nguyên nhân của hành động bạo hành là do người chồng tự thấy

mình khổ quá, do cuộc sống đói nghèo. Sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao cho

rằng: “Nguyên nhân trực tiếp của tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài chính

là sự tăm tối và thói vũ phu của người đàn ông. Nhưng nguyên nhân sâu xa là tình

trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dài gây tâm lí bế tắc, u uất” [29, tr.66].

Cuốn Tư liệu ngữ văn phần văn học 12 cũng viết: “hành động vũ phu man rợ của

người đàn ông không phải xuất phát từ nguyên nhân là một tội lỗi nào đó của người

đàn bà mà nguyên nhân là gánh nặng cuộc sống, gánh nặng gia đình” [35, tr.233].

Dẫu vô cùng trân trọng tấm lòng vị tha, nhân hậu và bao dung của người đàn

bà dành cho chồng mình song từ hướng nghiên cứu văn hóa giới, chúng tôi muốn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

bổ sung thêm một cách nhìn nhận về lí do đánh vợ của người đàn ông. Bởi có thể

33

thói vũ phu tàn nhẫn trên không phải là bản chất của nhân vật người chồng và ít

nhiều do hoàn cảnh tạo nên nhưng cũng không thể lấy sự cảm thông của người vợ

làm tấm chắn để cái xấu, cái ác ấy mặc nhiên tồn tại, mặc nhiên gây đau đớn, tổn

thương cho những người xung quanh. Nếu đổ lỗi cho công việc mưu sinh vất vả thì

cái phần khó khăn, cực nhọc ấy đâu chỉ riêng mình lão đưa vai gánh chịu. Trong tác

phẩm, nhà văn hơn một lần miêu tả dáng vẻ người đàn bà đầy mệt mỏi, thậm chí

như kiệt sức sau những đêm thức trắng kéo lưới. Ai dám bảo trong cuộc mưu sinh

chật vật kia, trong những áp lực và thúc bách của nhu cầu áo cơm, cả trong việc

sinh nở và chăm sóc gần chục đứa con, người đàn bà chưa từng rơi vào tình trạng

khổ đau, tuyệt vọng? Cực nhọc ngang nhau, khổ đau như nhau chỉ khác ở chỗ người

đàn bà thì lặng lẽ hi sinh, gồng mình cam chịu, coi đó là bổn phận và trách nhiệm

của bản thân chỉ mong cho gia đình yên ổn. Còn người đàn ông lại đổ lỗi cho vợ

con, coi gia đình là gánh nặng và là nguồn cơn tạo nên những khổ đau mà lão phải

hứng chịu. Nếu là người biết tôn trọng phụ nữ chân yếu tay mềm thì người chồng

phải xúc động trước sự hy sinh, đồng cam cộng khổ của người vợ. Đằng này lão lại

đánh vợ như để trả thù, đánh để giải tỏa nỗi uất ức “vô lí” trong lòng. Hơn nữa, trận

bạo hành không thể tha thứ kia đâu chỉ xảy ra một lần trong đời người đàn bà hàng

chài. Nó diễn ra như cơm bữa, có tính chất thường xuyên, liên tục, thậm chí như

được “lập trình” một cách vô cảm, thiếu tính người: “Ba ngày một trận nhẹ, năm

ngày một trận nặng”. Nghe thêm lời tâm sự của nhân vật người vợ: “Bất kể lúc nào

thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với

lão …đưa tôi lên bờ mà đánh…” chúng ta càng thấy ở người đàn ông toát lên sự vô

tâm, lạnh lùng, tàn bạo, một cách chuyên chế thâm căn cố đế. Rõ ràng người chồng

không những không trân trọng người vợ của mình mà sự tôn trọng tối thiểu cần có

giữa con người với con người dường như cũng không có nốt. Lấy việc hành hạ vợ

bằng đòn roi và những lời chửi rủa, lăng mạ vợ để tìm sự thanh thản trong lòng

nhưng kết cục thì sao, bi kịch chồng chất bi kịch. Không thể có một sự an nhiên,

thanh thản trong lòng người chồng được đánh đổi bằng những giông bão, cào cứa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

trong tâm hồn và những vết thương trên thân thể của người vợ.

34

Cái nhìn con người mang chiều sâu nhân bản phải là cái nhìn coi trọng con

người ở cả hai phương diện: Thân và Tâm. Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã

thể hiện sâu sắc cái nhìn ấy qua việc phê phán hành động bạo hành của người chồng

lên cả thân xác và tâm hồn của người vợ. Lão tự cho mình cái quyền làm chủ, quyền

sở hữu thân thể của người vợ. Lão đánh vợ bất kể lúc nào lão thấy khổ - đồng nghĩa

với bất cứ lúc nào lão muốn bởi kiếm sống bằng nghề chài lưới trên biển thì cực

khổ là một điều tất yếu như cái tất yếu của phong ba, bão tố ở biển khơi vậy. Sự bất

bình đẳng, sự bất công trong mối quan hệ vợ chồng của gia đình hàng chài – giữa

những năm 80 của thế kỉ XX này phải chăng đã tồn tại trong xã hội Việt Nam bao

đời – một xã hội từng vận hành theo tư tưởng, văn hóa nam quyền và vẫn còn hiện

diện nhức nhối trong các thời kì sau?

Ở đây, chữ dùng của Nguyễn Minh Châu thật sắc. Từ “xách” vợ ra đánh cho

thấy người đàn ông coi vợ chỉ như một món đồ, một vật sở hữu. Mỗi lần lão xách

vợ ra đánh để giải tỏa nỗi khổ đau được miêu tả nhẹ nhàng giống như người ta xách

một món đồ chơi ra tiêu khiển để giải tỏa những mỏi mệt. Lão tự cho mình cái

quyền được xâm hại, chà đạp lên thân thể và làm tổn thương cả tinh thần của người

vợ. Chi tiết này minh chứng rõ nét cho sự hiện diện của tư tưởng nam quyền như đã

ăn sâu vào máu thịt của nhân vật. Hơn nữa, đánh vợ, đánh con xong, “lão lẳng lặng

bỏ đi…không hề quay mặt nhìn lại”. Thản nhiên và vô cảm như chưa từng có

chuyện gì xảy ra. Không một biểu hiện ân hận, không mặc cảm có lỗi thường thấy

của những người bị hoàn cảnh xô đẩy (Trong sáng tác của Nam Cao, Chí phèo từng

khóc lên đau đớn khi nhận ra mình đã từng làm hại biết bao người dân lương thiện,

văn sĩ Hộ cũng tự sỉ vả mình là kẻ khốn nạn và xin vợ tha thứ trong nước mắt khi

đối xử thô bạo với vợ con trong cơn say.) là vì lão cho rằng lão có quyền làm thế.

Và khi tự cho mình cái quyền được hành hạ vợ, đương nhiên người chồng đó không

bao giờ ý thức được mình có lỗi. Vậy nên, cái giọng rên rỉ đau đớn nguyền rủa vợ

cùng mỗi nhát quất không thể hiện tâm trạng đau đớn vì xót xa cho bi kịch gia đình

như ai đó từng nói mà vì nỗi đau khổ của riêng hắn. Do đó, sự tàn bạo, tàn nhẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

trong cách đối xử với người vợ của lão chồng hàng chài khiến Phùng - một người

35

lính từng đối mặt với bọn lính ngụy tàn ác rất nhạy cảm với vấn đề bạo lực đặt ra

nghi vấn: “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không?”. Câu hỏi ngỡ như

“lạc đề”, sự liên tưởng ngỡ như vu vơ nhưng lại có lí (vì tính chất thô bạo, nhẫn

tâm của sự bạo hành trên dường như chỉ là bản chất của lính ngụy). Đồng thời, qua

câu trả lời phủ nhận việc chồng không đi lính ngụy của người đàn bà hàng chài,

Nguyễn Minh Châu chuyển sự lí giải, cắt nghĩa về phía người đọc. Sự tàn bạo, vũ

phu, ích kỉ của người đàn ông hài chài là do đâu? Làm thế nào để con người sống

thiện, sống tốt?

Nhà văn đương đại Italia – Claudio Marges từng nói: “Văn học không quan

tâm đến những câu trả lời nhà văn đem lại mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà

văn đặt ra, và những câu hỏi này luôn rộng hơn bất kì một câu trả lời cặn kẽ nào”

Phải chăng, câu hỏi mà nhà văn đặt ra có thể là vấn đề nhà văn bế tắc, bất lực, có

thể là bài toán cuộc sống muôn đời vẫn chưa có lời giải đáp… Nó có thể hướng tới

một giải pháp hay thôi thúc trách nhiệm, thức tỉnh lương tâm…Những câu hỏi ấy

luôn có một sức ám ảnh dai dẳng, mạnh mẽ và sâu sắc. Ở đây, song song với việc

đặt ra câu hỏi, Nguyễn Minh Châu đã gián tiếp định hướng, gợi mở cho người đọc

tìm kiếm câu trả lời bằng cách xây dựng hình tượng nhân vật người đàn ông hàng

chài với những đặc điểm riêng về hành động, thái độ, ngôn ngữ…trong mối quan hệ

với gia đình, với vợ con như đã phân tích ở trên. Và sự lí giải của chúng tôi dưới

ánh sáng của văn hóa nam quyền (như đã giới thuyết ở chương 1) cho thấy tính cách

độc ác, vũ phu, tàn nhẫn trong quan hệ với gia đình, đặc biệt với người vợ của nhân

vật người đàn ông hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là sản phẩm của tư

tưởng nam quyền, một cách vô thức đã ăn sâu vào tiềm thức của nhân vật nói riêng

và rất nhiều người đàn ông hàng chài khác như lời nhân vật cô y tá trong tác phẩm:

“Thói tàn nhẫn của dân đàn ông đánh cá trong vùng địa phương này – do phong

tục để lại”. Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn trong bài viết Nguyễn Minh Châu và thi

pháp “gói rào” trong Chiếc thuyền ngoài xa cũng nhận định: “Hành hạ đã trở

thành một thứ sinh hoạt trong thường nhật. Thói tàn nhẫn của đàn ông cũng như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

cũng như sự chịu đựng vô lí của đàn bà, thật oái oăm, đã trở thành một phong tục

36

lâu đời” [12, tr.367]. Chữ “phong tục” ấy chính là hủ tục - tư tưởng nam quyền, dù

văn hóa nam quyền dù đã lùi vào quá khứ xa xưa của dân tộc nhưng sức ảnh hưởng

của nó vẫn vươn dài đến cả thời kì hiện đại. Vì vậy, nhân vật lão đàn ông hàng chài

trong Chiếc thuyền ngoài xa không phải là cá biệt. Và cách không trao cho nhân vật

môt cái tên cụ thể, cách gọi phiếm chỉ: “lão” và “người đàn ông” phải chăng là một

dụng ý nghệ thuật, giúp nhà văn mở rộng đối tượng phản ánh. Chỉ qua một nhân

vật, qua bi kịch của một gia đình mà thấy được bức tranh cuộc sống của nhiều gia

đình khác.

Như vậy, từ góc nhìn văn hóa giới, chúng tôi cho rằng thói bạo hành vũ phu

của nhân vật người chồng bắt nguồn từ cội rễ sâu xa là cách ứng xử giới trong xã

hội nam quyền truyền thống. Tư tưởng nam quyền đã “đóng đinh” trong cách ứng

xử của người phụ nữ và đàn ông. Điều này đưa đến những nhận thức sai lầm ở cả

người chồng cũng như người vợ trong quan hệ gia đình: Người chồng như đã nói ở

trên, cho rằng mình có quyền năng tuyệt đối, tự cho mình là ông chủ, có quyền

thống trị, sai khiến và sở hữu người vợ theo cách của riêng mình. Đứng từ phương

diện nữ quyền thì đây là cách nhìn, là hành vi rất đáng bị lên án của lão chồng, cho

dù động cơ đánh vợ của nhân vật này có thể còn xuất phát từ những ẩn ức nào đó

của cuộc sống mưu sinh. Điều này cho thấy, mô hình xã hội nam quyền đã bị cuộc

Cách mạng tháng Tám xóa bỏ nhưng sự ảnh hưởng của văn hóa nam quyền vẫn ăn

sâu vào cách nghĩ, cách nói và hành động của con người cho tới những ngày đất

nước thống nhất, thậm chí cho đến cả ngày nay. Nhân vật người đàn ông hàng chài

là hiện thân của văn hóa ứng xử giới theo tư tưởng nam quyền, cũng là một minh

chứng rõ nét cho thấy sự tác động, ảnh hưởng nặng nề của những quan niệm giá trị

truyền thống tới sự hình thành nhân cách con người.

Như vậy, từ việc truy nguyên nguồn gốc văn hóa trong cách đối xử với thân

xác của người xưa từ quan điểm giới, chúng tôi tìm thấy mối liên hệ giữa “tâm thức

phổ biến - coi thường thân xác” của người xưa với câu chuyện đánh vợ như cơm

bữa bằng cách dùng “chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”của lão

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

đàn ông hàng chài trong truyện. Mối liên hệ đã được nhắc đến ở chương 1 khi

37

chúng tôi chỉ ra việc các yếu tố văn hóa luôn thay đổi chậm hơn với chính trị, nhất

là khi các yếu tố văn hóa có lợi cho người đàn ông trong xã hội nam quyền thì

dường như nó lại không chỉ được thiết chế xã hội ủng hộ tuyệt đối mà còn được

mặc định ngầm như một sự tất yếu của đời sống về vai trò thống trị của người đàn

ông với phụ nữ. Từ cách tiếp cận này, chúng tôi trở lại với thời điểm truyện ngắn ra

đời, khi đất nước đang đi lên chế độ mới, người phụ nữ được coi trọng hơn nhưng

về căn bản những tiền đề đó chưa thể giúp người đàn bà thoát khỏi sự áp chế của

đàn ông. Và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa vẫn chịu chung số

phận với biết bao người phụ nữ trong xã hội cũ, không thể tự quyết định số phận

cuộc đời mình và phụ thuộc vào người đàn ông cả trong đời sống vật chất và tinh

thần. Về phía người đàn ông, vẫn giữa vai trò sở hữu quyền lực tuyệt đối của mình

với người đàn bà, áp chế và đánh đập họ như một nhu cầu ích kỉ là sự không coi

trọng thân thể người phụ nữ, cho dù đó là người vợ của mình. Thứ quyền lực khủng

khiếp ấy được nhà nghiên cứu Trần Đăng Điệp trong bài viết Vấn đề phái tính và

âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại đã nhắc đến trong cách

đánh vợ đầy khôn khéo của cánh đàn ông miền Trung nước ta: “Trong chuyến đi

công tác tại Nghệ An, tôi được nghe trực tiếp một nhóm nông dân đọc cho nghe câu

ca dao (có lẽ là ca dao hiện đại): Đánh vợ thì đánh sáng mai- Đừng đánh buổi tối

chẳng ai cho nằm. Trong câu này, thế thượng phong vẫn thuộc về đàn ông qua biểu

hiện uy quyền: đánh vợ. Thực ra bà vợ cũng có quyền tương đối (không cho nằm).

Nhưng nếu các ông rút kinh nghiệm( không đánh vợ vào buổi tối mà chuyển sang

buổi sáng ) thì chắc chắn, mọi chuyện lại đâu sẽ vào đó” [11]. Như vậy, thực tế cho

thấy ngay cả văn học dân gian với những câu ca từ thuở ban đầu đến những câu ca

thời hiện đại vẫn luôn xác nhận vai trò kẻ mạnh của đàn ông so với đàn bà. Thực tế

này không thể thay đổi một sớm một chiều và nguyên nhân đánh vợ của lão đàn ông

hàng chài không nằm ngoài mối liên hệ văn hóa ấy.

Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời kì sau năm 1975, khá nhiều

hình ảnh người chồng - người chủ trong gia đình được nhà văn khắc họa trong cái

nhìn văn hóa ứng xử giới, và chịu sự chi phối của tư tưởng nam quyền cố hữu. Sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

xuất hiện của những đức ông chồng này luôn có tầm ảnh hưởng cũng như chi phối

38

mọi quan hệ, hoạt động trong gia đình mình. Hình tượng nhân vật người đàn ông

hàng chài là hiện thân rõ nhất của ý thức nam quyền qua cách nghĩ, cách nói, cách

hành động... Tuy nhiên, còn có thể thấy đặc điểm này ở một số nhân vật người đàn

ông khác trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu với tư cách là người chồng như

nhân vật người chồng Tề trong trong truyện ngắn Chợ Tết, nhân vật Nhĩ người

chồng của chị Liên trong truyện ngắn Bến quê và đặc biệt là nhân vật chồng mụ

Huệ - Lão Khúng trong Khách ở quê ra và Phiên Chợ giát. Trong số các nhân vật

này, ta có thể thấy nhân vật chồng Tề trong Chợ Tết có cách ứng xử giới theo kiểu

nam quyền bạo hành phụ nữ như lão đàn ông hàng chài khi nhiều bận đuổi đánh vợ.

Trong truyện, nhân vật Định về thăm lại làng quê, gặp lão Đất quản chợ và tình cờ

gặp lại Tề trong một hoàn cảnh trớ trêu, rách rưới trong phiên chợ cá ngày tết.

Trong trí nhớ của nhân vật Định thì Tề từng có một thời áo trắng, cô là “một người

con gái có sắc ở trong làng”, và chắc chắn nếu “không có họ với nhau thì Định đã

lấy Tề”. Mười năm sau gặp lại người con gái hương sắc ngày nào, Định hỏi lão Đất

về gia cảnh của Tề vì nghĩ rằng cô ấy “hình như bây giờ vất vả ?”. Lão Đất trả lời:

“Lại còn vất vả à? Khổ nhục như con chó, tính nết cũng khác đi. Thằng chồng nó

đánh, mấy lần đã chạy đi trẫm mình”. Như vậy, nếu trong tương quan với người

đàn bà hàng chài, Tề là một người con gái có sắc, có điều kiện hơn và thực tế cô đã

có quyền lựa chọn cho mình một người chồng như ý nếu không có quan hệ họ hàng.

Sau cùng, người đàn ông mà cô lấy làm chồng và gắn bó suốt cuộc đời còn lại hóa

ra lại là một kẻ vũ phu đáng sợ. Tề tần tảo, chịu thương chịu khó với công việc vất

vả tại chợ cá của mình thế nhưng lão Đất lại cho rằng Tề “khổ nhục như con chó”.

Lời đánh giá này của lão Đất có lẽ không chỉ ở chỗ “Thằng chồng nó đánh” mà có

lẽ còn có một ẩn ức gì đau đớn lắm nên uất ức cô đã “mấy lần chạy đi trẫm mình”.

Tề đã ý thức về nỗi khổ sở mà thân thể mình phải chịu đựng và hành động tìm đến

cái chết là một giải pháp tiêu cực để giải thoát cho thân thể. Ở Chợ Tết, nhân vật

chồng Tề chỉ xuất hiện gián tiếp qua lời kể của nhân vật khác nhưng đã để lại những

nhức nhối trong lòng người đọc về thân phận của người phụ nữ nông thôn miền

biển trước cách ứng xử giới là lối bạo hành nam quyền, coi thường thân xác cũng

như tinh thân của người vợ. Qua đây, Nguyễn Minh Châu đã lên tiếng phê phán thói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

bạo lực dã man - một hệ lụy của xã hội nam quyền từ xa xưa vẫn còn có những tác

39

động tiêu cực không nhỏ đến sự hình thành nhân cách cũng như những giá trị sống

của con người thời hiện đại. Văn hóa ứng xử giới mà xã hội nam quyền thiết lập

cũng chính là nguyên nhân tạo nên câu chuyện buồn trong gia đình hàng chài kia sẽ

còn gây bi kịch cho những gia đình nào khác nữa trong xã hội ngày hôm nay?

2.1.2. Câu chuyện đẻ nhiều con

Người phụ nữ đẻ nhiều con là câu chuyện không lạ đối với người Việt Nam.

Hiện tượng sinh nhiều con có những nguyên nhân sâu xa của nó, ví dụ như trong

các lĩnh vực kinh tế giản đơn như làm ruộng, đánh cá vốn đòi hỏi nhiều ở sức mạnh

cơ bắp, ở đám đông nên người xưa sinh con nhiều để có nhiều sức sản xuất. Tuy

nhiên, như chúng tôi đã dẫn ở phần trên ý kiến của tác giả Thiên Phương: “Và nhiều

hệ quả khác của bất bình đẳng giới còn thể hiện ở tình trạng phụ nữ thường là nạn

nhân của bạo lực gia đình, bạo hành tình dục. Họ cũng mất phần lớn hoặc thậm chí

không có quyền chủ động với những biện pháp kế hoạch hóa gia đình dù được

khuyến cáo”.[26].

Trở lại với truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, chúng ta thấy lão chồng

không trực tiếp lên tiếng về vấn đề sinh con của người đàn bà nhưng qua chi tiết

người đàn bà tâm sự tại tòa án huyện đã hé mở một lí do sâu xa dẫn tới nạn bạo

hành của người chồng: “Giá tôi đẻ ít đi…” và “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở

thuyền đẻ nhiều quá”. Ở đây, tác giả đã đề cập đến một vấn đề tế nhị và cũng rất

nhân bản của con người, đó là bản năng sinh học và cũng là thiên chức của người

phụ nữ mà tạo hóa đã ban cho. Nói như nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, phụ nữ là người

“…sinh ra những đứa con/ Để tiếp tục giống nòi và dạy chúng biết yêu, biết hát”.

Cao cả và thiêng liêng nhưng để thực hiện và làm tròn được thiên chức ấy, người

phụ nữ nào cũng phải đối mặt và nếm trải những khổ đau, thua thiệt trong suốt cuộc

đời. Với những người phụ nữ không nhận được sự trân trọng và cảm thông từ phía

người chồng, nỗi vất vả, thiệt thòi càng lớn.

Văn hóa nam quyền đã dẫn đến một thực tế còn tồn tại đến ngày nay là người

phụ nữ khi lấy chồng hoàn toàn phải chịu lệ thuộc vào chồng trên mọi phương diện.

Họ không được chủ động, không có được tiếng nói trong bất cứ lĩnh vực nào của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

40

đời sống kể cả vấn đề thuộc về dục tính hay vấn đề sinh con. Quyền chủ động hoàn

toàn thuộc về người đàn ông. Như vậy, lại một phương diện nữa thuộc vấn đề thân

thể, người phụ nữ cũng bị đối xử bất công bởi người chồng mang tư tưởng nam

quyền. Lời than muộn mằn “Giá tôi đẻ ít đi” của người đàn bà hàng chài cho thấy

chị hoàn toàn không có quyền quyết định đẻ bao nhiêu con, để rồi gánh nặng mưu

sinh cứ tăng dần sau sự ra đời của mỗi đứa con, kéo theo đó là bi kịch áo cơm và

những bi kịch đau đớn khác. Bi kịch chồng bi kịch mà con đường giải thoát thì bế

tắc ở những trận đòn roi mà người làm vợ, làm mẹ ấy phải hứng chịu. Như vậy

trong lời than trên và mặc cảm có lỗi “Cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ

nhiều quá ” ẩn chứa lời phê phán ý thức nam quyền của lão chồng nói riêng và đám

đàn ông làng chài nói chung – những người được coi là “phái mạnh” nhưng chưa

bao giờ thật sự tôn trọng và có ý thức bảo vệ, chở che người phụ nữ của mình.

Đàn bà làng chài tự thấy mình có lỗi vì đẻ nhiều vậy còn các ông chồng thì

sao? Họ nào có phải do ham đẻ hay ham muốn dục tính. Đẻ nhiều con dẫn đến cuộc

sống cơ cực mà người vất vả, thiệt thòi hơn lại chính là người vợ. Ngay cả khi

người vợ không muốn đẻ nhiều con thì họ cũng không có quyền tự quyết về điều

này. Chính lão chồng với uy quyền của mình cùng sự hạn chế về nhận thức sức

khỏe sinh sản đã đẩy người vợ đến chỗ phải sinh ra những đứa con như là nguồn

cơn đưa đến sự nghèo khó cho gia đình. Nhìn sang các sáng tác khác của Nguyễn

Minh Châu giai đoạn sau năm 1975, chúng ta thấy hiện thực người vợ phải phụ

thuộc chồng ngay cả ở việc sinh đẻ được miêu tả khá đậm nét. Tác phẩm Khách ở

quê ra và Phiên chợ Giát đã khắc họa sống động hình tượng nhân vật lão Khúng -

chồng mụ Huệ - một kiểu đàn ông cũng mang tư tưởng nam quyền cố hữu. Một

biểu hiện rõ nét cho tinh thần bảo thủ tư tưởng này ở nhân vật là thái độ sở hữu thân

thể người vợ - trong đó rất thiếu tôn trọng vấn đề sức khỏe sinh sản của vợ giống

như nhân vật người chồng trong Chiếc thuyền ngoài xa. Trong truyện ngắn này, có

một chi tiết xuất hiện ngỡ như thoáng qua nhưng lại mang chở thông điệp của người

cầm bút về tinh thần phê phán nam quyền rõ nét. Đó là chi tiết khi cô y tá của trạm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

xá xã phát thuốc ngừa thai cho đám đàn bà đi khai hoang, đã khuyên vợ lão Khúng:

41

“Chị Huệ, chị đẻ ít thôi, ba cháu là đủ rồi!”. Biết chuyện, lão Khúng đã phản ứng

lại ý kiến của cô ý tá bằng cách vừa hỏi ngược lại vừa khẳng định vị thế của người

chủ trong gia đình của mình: “Đủ sao được? Dù vợ không muốn lão cũng bắt vợ

phải đẻ. Đẻ rồi nuôi, sợ gì? Cái kho người nằm trong bụng vợ chứ có ở đâu xa?”.

Cách nói của lão Khúng cho thấy một điều mặc nhiên được thừa nhận trong gia

đình lão, lão làm chủ thân thể vợ lão, mặc dù trong thực tế vợ lão mới là người

mang thân thể đó. Nghịch lí này cho thấy mụ Huệ dù mang thân thể của bản thân

mình nhưng lại không được làm chủ, và khi không được làm chủ thì cũng không có

quyền quyết định mình sẽ đẻ con vào lúc nào, đẻ mấy con… quyền quyết định ấy

thuộc về lão Khúng, thuộc về người chồng. Cũng cần thấy thêm ở Huệ ít nhiều có

một sự mặc cảm nhất định về vấn đề trinh tiết với lão Khúng (khi Huệ đã thất tiết

cùng với người tình thành thị của mình), do vậy mụ ở vào tình cảnh rất éo le –

không thể cất tiếng nói đòi hỏi của cá nhân mình, mụ chỉ còn biết nín lặng làm theo

lão. Đối với lão, mụ Huệ là “cái máy đẻ”, và đã là cái máy thì lão phải khai thác

cho hết công năng của nó và phục vụ cho mục đích của mình. Trong truyện, hoàn

cảnh của lão Khúng thật đặc biệt. Lão đã dám từ bỏ làng biển để lên khai hoang trên

cái vùng đất “chó ăn đá, gà ăn sỏi”, “rừng thiêng, hoang vắng đi hàng nửa ngày

không gặp một người” với đầy rẫy sự rình rập của nhiều loài thú dữ. Tại đây lão

cùng các con đổ bao công sức và cả máu để cải tạo vùng đất lổng chổng những đá

và cỏ thành một vùng đất trù phú, phì nhiêu, thành chốn neo đậu bình yên cho gia

đình: “Chung quanh cái “ổ gấu” dần dần mọc lên một vành đai sắn ở phía ngoài,

sắn lên xanh ngắt chen chúc cây dại. Đậu xanh, đậu tương ở sau nhà. Lúa trẻ, lúa

nếp trước nhà”. [9, tr.325]. Để làm được điều này, lão cần mụ Huệ đẻ cho lão thật

nhiều con để có người cải tạo đất đai, để đem lại cái uy thế cho gia đình lão nữa. và

thực tế, mụ Huệ đã đẻ ra cho lão gần chục đứa con có cả nếp cả tẻ. Chính Nguyễn

Minh Châu khi trao đổi với nhiều tác giả khác trong một cuộc đàm đạo về truyện

ngắn của mình đã có nói về những nét tiêu cực của lão Khúng : “nét tiêu cực đến độ

tàn bạo của lão là đã biến Huệ trở thành một cái máy đẻ”. Phê phán tư tưởng nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

quyền ở Nguyễn Minh Châu cũng là cách thể hiện ý thức bảo vệ nữ quyền của tác

42

giả. Trên ý nghĩa này, có thể nói sáng tác của Nguyễn Minh châu sau năm 1975

thấm đượm giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc.

Như vậy cả hai người chồng trong “Chiếc thuyền ngoài xa” và “Phiên chợ

Giát” đều đã có cách ứng xử giới mang đậm tư tưởng nam quyền, giống như một sự

áp chế - cưỡng bức khiến cho người vợ phải sinh con một cách thụ động, ngoài ý

muốn và điều quan trọng là điều này không chỉ đem đến sự mệt mỏi của người phụ

nữ trong chín tháng mang nặng mà còn là những đau đớn mà cánh đàn ông không

thể hiểu được khi người vợ của mình phải vượt cạn. Thậm chí, mỗi một lần như

vậy, sinh mệnh của người phụ nữ lại phải đối mặt với rất nhiều sự rủi ro. Nói như

thế để thấy hết được sự tàn bạo không chỉ của lão Khúng, của người chồng hàng

chài mà của nhiều người chồng mang tư tưởng nam quyền khác đã gây ra nỗi khổ

cho người phụ nữ, người vợ của mình mà không thấy hết được hệ lụy của nó.

Về vấn đề này, nhìn rộng ra ở các nước phát triển, họ có cái nhìn hoàn toàn

khác, thậm chí được quy định thành các điều luật để bảo vệ quyền lợi cho người

phụ nữ. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát một đoạn văn tiếng Anh trên Wikipedia về

điều khoản mà luật pháp Mỹ gọi là “Hiếp dâm trong hôn nhân” (Marital rape). Lược

dịch mục từ Marital Rape: “Hiếp dâm trong hôn nhân" theo luật pháp Mỹ, còn được

gọi là spousal rape (hiếp dâm giữa vợ chồng) là quan hệ tính dục không có sự đồng

thuận trong đó thủ phạm chính là vợ hay chồng của nạn nhân. Nó chính là hình

thức hiếp dâm trong quan hệ vợ chồng, một hình thức của bạo lực gia đình và của

lạm dụng tình dục. Hiện nay, hiếp dâm trong hôn nhân là bất hợp pháp ở 50 bang

của Mỹ. ...Việc hình sự hóa hiếp dâm trong hôn nhân ở Mỹ bắt đầu từ giữa những

năm 1970 và đến năm 1993 thì chính thức bị coi là tội hình sự trên tất cả 50

bang...”.

Có thể nói đây là một điều khoản tiến bộ và nhân văn của luật Mỹ mà ở Việt

Nam người đàn ông và phụ nữ (vợ và chồng) có lẽ chưa thể hiểu nổi, để thấy không

chỉ là chuyện đánh đập, xúc phạm người vợ mà ngay cả việc người vợ phải đẻ nhiều

cũng nói lên tính chất nô lệ về thân thể của phụ nữ, cũng có gì đó gần với sự "hiếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

dâm" vì người vợ dù muốn hay không cũng không có quyền lựa chọn riêng, phải đẻ

43

như một cái máy cho chồng. Ở Ấn Độ cũng có nhiều bài viết đề cập đến thân thể

người vợ, có người còn nói, hôn nhân ở đây chỉ là sự hợp pháp hóa cho sự lạm dụng

thân thể người vợ (về tình dục, về lao động, về sự chà đạp, bạo hành). Theo đó, ta

thấy, một vấn đề tế nhị như vậy song ở các quốc gia tôn trọng nữ quyền họ đều tính

đến chi tiết. Nhận thức về quyền con người, về quyền phụ nữ trước hết phải là nhận

thức đề cao, tôn trọng thân thể phụ nữ. Đối chiếu với cách ứng xử giới của nhân vật

người đàn ông hàng chài, của lão Khúng, của chồng mụ Tề và những người đàn ông

có biểu hiện nam quyền trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

chúng ta mới thấy hết được tư tưởng đi trước thời đại của nhà văn – một người đã

dành những trang viết xúc động nhất của đời mình để viết về người phụ nữ, về vấn

đề nữ quyền.

Tóm lại, từ điểm nhìn văn hóa giới là tư tưởng nam quyền, chúng tôi tìm

hiểu nhân vật lão đàn ông hàng chài trên hai phương diện là vấn đề đối xử với thân

thể người vợ và câu chuyện đẻ nhiều con để từ đó đưa đến những lí giải mới về

hành động của nhân vật. Thông qua hình tượng nhân vật này, Nguyễn Minh Châu

muốn thể hiện tinh thần phê phán tư tưởng nam quyền cố hữu và cảnh báo xã hội về

sự tha hóa nhân cách con người trong cuộc sống thời hậu chiến, nhất là trong quan

hệ hôn nhân gia đình. Người chồng mang tư tưởng nam quyền đó chính là thủ phạm

tạo nên bi kịch gia đình và những đau đớn, những vết thương lòng không dễ gì băng

bó, rịt lành nơi những người mà lẽ ra hắn phải yêu thương nhất. Dẫu có bào chữa

bằng những áp lực của cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn, gian khó; bằng sự dốt nát,

thất học nhưng hành động bạo hành vợ bằng những trận đòn roi như cơm bữa, bằng

những lời nguyền rủa, bằng việc biến vợ mình thành cái máy đẻ cũng khó được cảm

thông. Đã đến lúc chúng ta phải đối thoại lại với những gì đã trở thành “phong tục”,

loại bỏ khỏi cuộc sống con người những “bóng ma” tư tưởng có nguy cơ cản trở và

đe dọa hạnh phúc của con người cũng như nhấn chìm con người trong hố sâu của

tội lỗi và sự tha hóa. Và bằng tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thực sự đã

lên tiếng “đấu tranh cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày

một tốt hơn”. Nhà văn và tác phẩm của ông đã làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

mình đối với thân phận con người. Trân trọng biết bao!

44

2.2. Ngƣời vợ nhƣ là sản phẩm của tƣ tƣởng nam quyền

M. Gorki nói: “Văn học là nhân học”, như vậy văn chương xét đến cùng là câu

chuyện về thân phận con người. Đó là lẽ sống còn, là vấn đề cốt tử của nghệ thuật

nói chung và văn học nói riêng. Do vậy, một tác phẩm văn học chân chính không

bao giờ đứng ngoài những vấn đề thuộc về quyền sống, những khát khao nhân bản,

những giá trị nhân văn trong cuộc sống của mỗi con người. Trong dòng cảm hứng

ấy, ngòi bút của các nhà văn đặc biệt ưu ái cho người phụ nữ. Và như một sự đền bù

xứng đáng, nhìn lại lịch sử văn học nhân loại nói chung và văn học nước nhà nói

riêng , những tác phẩm có sức sống vượt thời gian, để lại dấu ấn trong mọi thời đại

đều viết về phụ nữ. Đó là Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo, là Sở từ của Khuất

Nguyên, Truyện Kiều của Nguyễn Du, các khúc ngâm của Đặng Trần Côn và

Nguyễn Gia Thiều…

Cùng viết về đề tài người phụ nữ, nhưng ở mỗi thời kì lịch sử, mỗi nhà văn

lại có những khám phá riêng. Nền văn học cách mạng chủ yếu đi vào những đóng

góp của người phụ nữ trong chiến tranh chứ chưa đi vào khai thác vấn đề thân phận

con người cá nhân của họ. Nếu trước đây, vì lợi ích và sự sống còn của dân tộc, con

người cá nhân tạm thời phải gác lại, nhường chỗ cho con người tập thể, thì khi hòa

bình lập lại, Nguyễn Minh Châu tiếp tục quay trở lại vấn đề thân phận con người cá

nhân – trong đó, nhà văn đặc biệt quan tâm đến vấn đề văn hóa ứng xử giới trong

quan hệ hôn nhân gia đình mà người đàn ông luôn áp đặt tư tưởng nam quyền lên

người đàn bà bằng việc xác lập vị thế làm chủ thân thể của họ. Nguyễn Minh Châu

trong suốt cuộc đời cầm bút đã luôn ý thức về vai trò, trách nhiệm của mình với xã

hội, với những cảnh đời như thế để: “nâng giấc cho kẻ cùng đường, tuyệt lộ, bị cái

ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm

hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con

người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người

không còn ai để bênh vực”. [18, tr.165]. Và ông đã dùng văn chương để cất lên

tiếng nói bảo vệ và trân trọng những quyền cơ bản, đặc biệt là khát khao hạnh phúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

của con người, nhất là người phụ nữ. Nhà văn đã từng nói: “Ông trời sinh ra tôi để

45

kêu thét lên các nỗi thống khổ của con người và kêu gọi con người ta hãy lại với

nhau” Phải chăng lời tâm sự đó cũng chính là sứ mệnh của văn chương và cũng là

thiên chức của người nghệ sĩ. Vì thế mà sáng tác của ông luôn thấm đẫm giá trị

nhân bản, nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, nhiều sáng tác sau năm 1975 của nhà văn

như: “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Bến quê”, “Khách ở quê ra”, “Phiên chợ Giát”,

“Chợ Tết”… cứ ám ảnh trong lòng người đọc da diết một nỗi “quan hoài thường

trực về thân phận con người”. Trong đó, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã hướng tới

phản ánh, mô tả chân thực và đầy thương xót đối với những mảnh đời bất hạnh,

những bi kịch đau đớn của kiếp phận đàn bà. Đó là một cuộc đời dằng dặc cô đơn,

buồn tẻ, một mình vất vả nuôi con khôn lớn của Liên trong Bến quê; là những tủi

hờn, thua thiệt, lam lũ suốt mấy mươi năm cuộc đời của mụ Huệ trong Khách ở quê

ra và Phiên chợ Giát, đó là nỗi vất vả gian truân của mụ Tề trong Chợ Tết, đặc biệt

là những nỗi đau hơn xát muối, những vết thương lòng không bao giờ liền sẹo của

người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa… Bằng “tấm lòng thấu suốt

nhân tình” cùng cái nhìn tinh tế, thấu đáo của một người cầm bút, nhà văn đã chỉ ra

trong hành trình số phận của người phụ nữ, từ vai trò là người vợ đến vai trò người

mẹ, họ luôn phải chịu nhiều thiệt thòi, nếm trải nhiều những vất vả, đắng cay,

những đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần. Bao nhiêu mảnh đời là bấy nhiêu số

phận, có thể họ khác nhau về tuổi tác, hoàn cảnh nhưng cùng chung một bi kịch –

cái bi kịch “bạc mệnh” - điều mà Nguyễn Du từng đau đớn thốt lên cách đây mấy

trăm năm: “Đau đớn thay phận đàn bà./ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” giờ

vẫn còn là nỗi nhức nhối trên những trang văn, nỗi âu lo, trăn trở của người cầm

bút.

Trong các sáng tác viết về người phụ nữ của ông sau năm 1975, có lẽ nhân vật

người đàn bà hàng chài là nhân vật thành công nhất và cũng để lại ám ảnh nhiều

nhất trong lòng người đọc. Nếu như với hình tượng nhân vật người chồng, nhà văn

đã thể hiện tinh thần phê phán nam quyền cố hữu thì ở nhân vật người đàn bà hàng

chài, ông lại muốn thể hiện ý thức nữ quyền của mình. Trong đó, ý thức nữ quyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

của nhà văn được thể hiện qua những quan sát về ảnh hưởng của xã hội nam quyền

46

đến cách nghĩ, cách hành động, cách nói năng của người vợ - là sản phẩm của xã

hội nam quyền. Tuy nhiên, nhìn từ văn hóa giới một lần nữa chúng tôi khẳng định

không thể tiếp cận vấn đề nữ quyền chung chung mà phải gắn nó với cái nhìn về

thân thể con người. Với người đàn bà hàng chài, cả cuộc đời chung sống với một

người chồng luôn tự cho mình có quyền sở hữu thân thể vợ, có thể đánh đập, có thể

bắt vợ mình sinh con bất cứ lúc nào thì người đàn bà không còn sự lựa chọn nào

khác ngoài việc chỉ còn biết mặc nhiên thừa nhận sự nô lệ về thân phận, lệ thuộc

vào chồng của mình. Sự nô lệ về thân thể của người vợ còn thể hiện ở cả sự lam lũ,

cực nhọc của chị trong cuộc sống gia đình.

Về cách đọc nhân vật người đàn bà hàng chài cho đến nay mới chỉ có nhà

nghiên cứu Trần Nho Thìn bước đầu đặt ra việc xem xét nhân vật này từ góc độ

bình đẳng giới khi cho rằng: “bản thân người phụ nữ do nhận thức hạn chế, cũng tự

chấp nhận sự thiệt thòi, gánh chịu nỗi khổ, không biết đến quyền sống cho riêng

mình”. [38, tr.161]. Trên tinh thần tiếp cận, kế thừa quan điểm này, chúng tôi nhìn

từ văn hóa giới là tư tưởng nam quyền để tìm hiểu nhân vật người đàn bà hàng chài

và nhận ra Nguyễn Minh Châu khắc họa hình ảnh người đàn bà hàng chài không

phải chỉ để ca ngợi vẻ đẹp khuất lấp – cam chịu, nhẫn nhục cũng không phải chỉ để

tôn vinh những hi sinh cho chồng con của nhân vật mà tác giả thông qua nhân vật,

muốn đặt ra vấn đề bi kịch, thân phận của người phụ nữ trước cái đói nghèo, lạc

hậu, và sự bất bình đẳng giới. Từ đó đặt ra câu hỏi - phải làm thế nào để chấm dứt

tình trạng khổ đau và mang lại hạnh phúc cho người phụ nữ trong cuộc sống ngày

thường, nhất là khi đất nước đã hòa bình?

2.2.1.Tư tưởng chấp nhận đòn roi, không đấu tranh

Bước vào tác phẩm, người đàn bà hàng chài để lại trong lòng người đọc ấn

tượng về một khuôn mặt mệt mỏi, bơ phờ, tái ngắt sau một đêm thức trắng kéo lưới.

Công việc lao động kiếm sống ngoài biển khơi thật nhọc nhằn, cơ cực. Nhưng biết

làm thế nào, vì sự sinh tồn, vì cái ăn cái mặc cho một sắp con trên dưới chục đứa,

người phụ nữ ấy và có lẽ tất cả những người làm mẹ đều sẵn sàng đối mặt với khó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

khăn, với cuộc mưu sinh đầy bất trắc, hiểm nguy ấy. Thật đáng trân trọng biết bao

47

tấm lòng người mẹ! Vậy mà, thay vì trân trọng vợ, gần gũi sẻ chia những vất vả của

vợ mình, lão đàn ông hàng chài lại tự cho mình cái quyền sở hữu thân thể của vợ,

để rồi khi bình minh vừa lóe rạng cũng là lúc kết thúc một buổi kéo lưới thâu đêm,

người đàn ông lại trút những trận đòn dã man lên thân thể người vợ của mình.

Trốn chạy hay phản kháng bằng nhiều hình thức khác nhau như chống trả, kêu

la…là phản ứng thông thường của bất cứ ai khi bị người khác xâm phạm. Vậy mà lạ

lùng thay khi bị chồng bạo hành: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn

nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn” [9,

tr.257]. Sự im lặng gồng mình, nén chịu những đau rát từ trận đòn trút xuống như

lửa cháy bằng cái dây lưng của lính ngụy từ sức vóc vạm vỡ của người chồng của

người đàn bà đã gieo vào lòng người đọc câu hỏi nhức nhối: tại sao người phụ nữ ấy

lại cắn răng nhẫn nhục đến thế? Do nhận thức hạn chế về quyền sống chính đáng

của mình hay do sự thống trị, áp đặt của tư tưởng nam quyền đã ăn sâu vào tiềm

thức của chị? Có lẽ cả hai lí do trên đã tạo nên một con người chỉ biết khuất phục,

biết chịu đựng, phục tùng trong chị. Đặc biệt, chúng tôi muốn lí giải câu hỏi trên từ

truyền thống văn hóa ứng xử giới của người phụ nữ trong quan hệ với chồng và gia

đình.

Trong xã hội nam quyền xưa, những tư tưởng cổ hủ như “Trọng nam khinh

nữ” “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã đẩy người phụ nữ xuống vị trí thấp

kém nhất trong gia đình cũng như ngoài xội. Đặc biệt tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ

đức” đã trở thành một sức mạnh đầy công năng mà nam giới có được để thống ngự,

sai khiến, áp đặt người phụ nữ trong mọi phương diện của cuộc sống. Những thứ đó

đã như một sợi dây vô hình trói buộc người phụ nữ vào cái được gọi là “bổn phận”,

“nghĩa vụ” đối với chồng và gia đình nhà chồng. Khi bước vào hôn nhân, người phụ

nữ hoàn toàn trở thành kẻ sống lệ thuộc vào chồng, cũng là người sẽ sở hữu cuộc

đời họ. Tư tưởng nam quyền đã tạo ra một sự bất bình đẳng trong văn hóa ứng xử

giới đã ăn sâu vào tiềm thức của cả nam giới và nữ giới. Người đàn ông tự cho mình

cái quyền được sở hữu, chủ động sai khiến, khống chế, áp đặt người vợ của mình ở

tất cả mọi khía cạnh, mọi phương diện của cuộc sống. Đáng buồn hơn, chính người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

phụ nữ lại cũng mặc nhiên thừa nhận vị trí thấp kém và thân phận “nô lệ” của mình

48

trong gia đình. Họ tự ép mình sống theo khuôn mẫu đạo đức: “Công, dung, ngôn,

hạnh” và bổn phận “Xuất giá tòng phu” do chính văn hóa nam quyền tạo ra nhằm

mang lại lợi ích cho người đàn ông. Họ bằng lòng “nhắm mắt đưa chân”, để “mặc

cho con tạo xoay vần”, cho số phận mình chảy trôi theo điều may rủi. Vậy nên dù

tốt, dù xấu, thậm chí độc ác, tàn nhẫn thì người chồng vẫn là tất cả đối với họ.

Người vợ chỉ biết và phải biết nghe theo, làm theo, phục tùng chồng triệt để dù điều

đó vô lí, là bất lợi và thiệt thòi cho mình. Người phụ nữ không có bất cứ tiếng nói

nào trong gia đình. Họ trở thành cái bóng của chồng. Bao thế hệ đàn bà Việt Nam

đã phải sống im lặng trong cay đắng, dẫu cuộc sống có là địa ngục thì họ cũng

không dám “nổi loạn”, “tung hê ” tất cả để tự giải phóng mình. Giới nghiên cứu gọi

đó là hiện tượng “mất ngôn”, “mất tiếng nói” của người phụ nữ trong đời sống cũng

như trong văn học. Và buồn thay khi mà hiện tượng này, văn hóa ứng xử giới này

vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm tới những người phụ nữ Việt Nam thời hiện đại.

Nhìn lại hành vi ứng xử của người đàn bà hàng chài trước những đòn roi thô

bạo của chồng, chúng ta dễ dàng thấy người phụ nữ ấy chính là sản phẩm của văn

hóa nam quyền. Chị dường như thuộc về xã hội nam quyền xa xưa – nơi người đàn

bà từ khi sinh ra đã phải chấp nhận những bất công, những thiệt thòi để rồi họ lấy sự

chấp nhận thiệt thòi trong đời như là một biểu hiện của đạo đức.

Dõi theo câu chuyện, người đọc hết đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác,

chưa hết bức xúc trước thái độ cam chịu hứng lấy những làn roi quất từ phía người

chồng của người đàn bà miền biển thì người đọc lại bất bình trước việc chị còn tự

nguyện giơ tấm lưng áo bạc phếch ra làm phương tiện cho chồng giải tỏa những bức

bối trong lòng. Chị tâm sự “Bất kể lúc nào thấy khổ qua là lão xách tôi ra

đánh,…sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà

đánh…” Không trốn chạy hay phản kháng, người vợ ấy còn tự nguyện hứng lấy đòn

roi. Cái nghịch lí trong cuộc sống người đàn bà hàng chài hôm nay phải chăng được

sinh ra từ cái “vô lí” trong ứng xử, trong quan hệ vợ - chồng nhưng đã được “hợp lí

hóa” bởi tư tưởng nam quyền truyền thống. Vậy nên, cứ “ba ngày một trận nhẹ,

năm ngày một trận nặng”, chị sống trong cực hình, trở thành “tấm bia” đón lấy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

những “viên đạn” được bắn ra từ nỗi uất ức, bực dọc, giận dữ quyện vào sức vóc

49

cường tráng, vạm vỡ của một người đàn ông miền biển. Những “viên đạn” ấy theo

năm tháng đều găm lại nơi trái tim người vợ, khoét sâu hơn mỗi ngày vào vết

thương trên da thịt cùng vết thương lòng chưa kịp liền sẹo và cũng chưa bao giờ

liền sẹo. Rõ ràng, sức mạnh của tư tưởng nam quyền đã tác động quá lớn vào nhận

thức và tâm hồn của chị, thậm chí nó thủ tiêu luôn cả ý thức làm người, nhận thức

cơ bản về quyền sống của một con người nơi chị. Để rồi, hậu quả không phải chỉ

một mình người phụ nữ ấy gánh chịu là những đớn đau về tinh thần và thể xác mà

bi kịch gia đình còn dồn chạy về những đứa con thơ. Bạo lực chỉ sinh ra bạo lực chứ

chưa bao giờ chấm dứt được bạo lực, vì vậy bi kịch trong gia đình hàng chìa kia cứ

bị nhân lên, khoét sâu hơn theo những trận bạo hành.

Như trên chúng tôi đã nói, người chồng mặc nhiên tự cho mình cái quyền

đánh đập, hành hạ vợ là điều không thể tha thứ nhưng việc người đàn bà nhẫn nhục,

âm thầm chịu đựng đòn roi, giơ tấm lưng cho chồng đánh như một bổn phận làm vợ

(phản ứng tâm lí, hành vi ứng xử phổ biến của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội

nam quyền như đã nói ở trên) cũng khiến chúng ta không thể đồng tình. Ngỡ tưởng

rằng đó là sự hi sinh cho hạnh phúc của những đứa con, cho sự bình yên và bền

vững của gia đình: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể

sống cho mình như ở trên đất được” thế nhưng đó chỉ là một sự hi sinh mù quáng.

Đành rằng chi tiết này cũng nói lên tấm lòng vị tha, đức hi sinh cao cả của một

người mẹ - vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam truyền thống rất đáng được

trân trọng tuy nhiên sao nó cứ khiến chúng ta cảm thấy đau và càng khó để ngợi ca,

cổ xúy. Liệu cách làm của người đàn bà có phải là duy nhất để mang lại sự bình yên

cho những đứa con thơ? Câu trả lới thiết nghĩ đã có trong văn bản: “Chiếc thắt lưng

đã nằm gọn trong tay thằng bé” và nó “dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật

vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng…” của người cha. Như vậy, bi kịch

chồng chất bi kịch, nỗi đau chồng chất nỗi đau, không một tổn thương nào dễ xoa

dịu cả, đặc biệt là tổn thương trong tâm hồn đứa trẻ. Hành động đánh lại bố mình

của thằng Phác xuất phát từ tình yêu thương mẹ vô bờ đáng để trân trọng biết bao

nhưng cũng lại đáng lên án biết bao bởi nó đi ngược với luân thường đạo lí. Tại sao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

một đứa bé lại bị đẩy vào hoàn cảnh trớ trêu đến thế? Có hiếu với mẹ lại trở thành

50

bất hiếu với cha, sống trọn đạo với mẹ nhưng lại phải lỗi đạo với cha. Có lẽ đây mới

là bi kịch, là nỗi đau khiến trái tim người cầm bút nhức buốt nhất. Phải chăng không

thể có một giá trị hạnh phúc nào được xây dựng trên sự hi sinh đau đớn của bất cứ

thành viên nào trong một gia đình. Không có một sự bình yên, bền vững nào của

một mái ấm lại được trả giá bằng những tổn thương của người mẹ. Vậy nên, cái

điều thiêng liêng mà người mẹ ấy gìn giữ - sự nguyên vẹn của tình phụ tử, sự bình

yên trong tâm hồn của những đứa con thơ bằng cách nhẫn nhục xin chồng xách

mình lên bờ để đánh đã bị xâm hại khi mà thằng bé Phác đã vô tình chứng kiến tận

mắt cảnh cha mình ngược đãi mẹ. Đứa trẻ đã bị tổn thương, tâm hồn non nớt kia đã

tấy sưng vì gai nhọn cuộc đời, vì bi kịch tàn khốc từ chính gia đình mình. Vết

thương lòng này của đứa con, trách nhiệm đâu chỉ thuộc về sự tàn nhẫn của người

cha, phải chăng còn bởi sự cam chịu vô lí, thậm chí mù quáng của người mẹ. Mỗi

con chữ của Nguyễn Minh Châu dường như cũng thấm lệ khi miêu tả cảnh thằng bé

Phác: “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi

những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Văn hay đời mà sao

người đọc cứ cảm thấy nhức buốt nơi trái tim mình?

Đòn roi của chồng lên thân thể không khiến người đàn bà rơi lệ nhưng sự

xuất hiện của đứa con trai khi tận mắt chứng kiến cảnh cha mình đánh mẹ thì trái

tim người phụ nữ như bị chà xát trong muối mặn. Bà bật khóc - giọt nước mắt của

sự “đớn đau”, “xấu hổ” và “nhục nhã”. Người mẹ ấy đã đau đớn tuột cùng trước

một sự thật: để bảo vệ mẹ, Phác đã bước qua ranh giới của đạo đức thông thường,

và có lẽ bà cũng phần nào nhận ra chính bà đã gây nên tội lỗi cho đứa con của mình.

Người đàn bà gọi con, mếu máo, rồi bà “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay

vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. [9, tr.258]. Giọt nước mắt bị chồng bạo hành,

người đàn bà ấy gồng mình kìm nén, rót ngược vào lòng, một mình lặng lẽ âm thầm

chịu đựng những mong các con không bị tổn thương, để chiếc thuyền tổ ấm kia dẫu

chật chội nhưng vẫn không bị đắm chìm. Thế nhưng sự hi sinh của chị đã trở thành

vô nghĩa khi sự bình yên trong tâm hồn đứa con thơ đã bị phá vỡ. Đau đớn và xót

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

xa thay cho thân phận người làm vợ, làm mẹ.

51

Trong vòng tay của người mẹ, thằng Phác không hề hé răng, nó “như một viên

đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà”.

Chính sự thơ dại của Phác khiến em không thể hiểu được cái mạch ngầm đầy uẩn

khúc của câu chuyện mà cha mẹ đang ứng xử với nhau. Phác không hiểu được rằng

dù mẹ mình khổ cực như vậy song ngay chính bản thân bà cũng không muốn đứa

con trai giải thoát cho mình, tức là chính bà cũng không mong muốn thoát ra khỏi

hoàn cảnh sống ấy. Trong bi kịch, người đàn bà nhận ra mình đã không bảo vệ được

con, mình đã làm tổn thương tâm hồn thơ dại của con. Những giọt nước mắt nghẹn

ngào, ai oán lăn xuống như đang muốn lấp đầy đi những nốt rỗ chằng chịt trên mặt

người đàn bà trở thành một sự đớn ngộ muộn màng. Nỗi đau thể xác mà người

chồng gây ra chưa nguôi ngoai thì nỗi đau về tinh thần mà người đàn bà đang phải

chịu đựng lại lớn dần lên. Như vậy, sự hi sinh, nhẫn nhục cam chịu đâu có giúp bà

giữ gìn, bảo vệ được cái điều thiêng liêng ấy. Vậy nên, cách ứng xử truyền thống

mà nhân vật lựa chọn cần phải được nhìn nhận lại. Ý thức về quyền sống, quyền

được hạnh phúc, về bình đẳng giới của người phụ nữ thời hậu chiến phải chăng là

vấn đề mà nhà văn trăn trở?

Bằng tấm lòng trắc ẩn sâu xa của mình, Nguyễn Minh Châu đã mô tả một cách

chân thực nỗi bất hạnh của người mẹ nghèo trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn thời

hậu chiến. Trong cuộc mưu sinh này, con người đã phải đối mặt với những nghịch lí

đến từ đời sống, họ không có cách nào để có thể thoát ra hay chống lại mà phải chấp

nhận sống chung với nó, bởi nghịch lí đó còn có sự tiếp tay và hậu thuẫn của tư

tưởng nam quyền phi nhân tính. Hoàn cảnh sống của người đàn bà là một minh

chứng chân thực cho điều đó. Vì vậy, dù đang ôm đứa con nhưng người đàn bà đã

“bất ngờ” buông con ra, “đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn

ông” để lại phía sau ánh mắt “ngơ ngác” cho cả thằng nhỏ lẫn người kể chuyện.

Hành động này của người đàn bà nhìn từ góc độ giới, từ tư tưởng nam quyền mới

thấy nhân vật có ý thức rất mạnh mẽ về sự mặc nhận thân phận nô lệ, về bổn phận

với chồng, về đạo “Tòng phu” ngàn đời mà xã hội nam quyền đã định ra và người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

phụ nữ đã được giáo dục để tuân theo nó. Phải chăng đây là lí do khiến nhiều người

52

không bao giờ lí giải nổi nếu soi xét từ những tri thức văn hóa hiện đại cho hành

động dứt khoát không bỏ chồng của người đàn bà ngay cả khi có pháp luật bảo vệ.

Mặc dù chủ trương nguyên tắc của pháp luật bao giờ cũng là kêu gọi hòa thuận

nhưng với tư cách là người đại diện cho luật pháp, bảo vệ lẽ phải và sự công bằng,

lại chứng kiến sự tàn bạo, tàn nhẫn của lão chồng nên nhân vật Đẩu đã thẳng thắn

bày tỏ quan điểm của anh với người đàn bà: “Chị không sống nổi với cái lão đàn

ông ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?”. Lẽ thường, bất cứ người vợ nào bị bạo hành như

vậy đều mong muốn có cơ hội được giải thoát, điều này cũng trùng với suy nghĩ của

Đẩu và Phùng. Tuy nhiên, một lần nữa, người đàn bà lại gây bất ngờ, khó hiểu trong

lòng người đọc. Chị nói: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,

đừng bắt con bỏ nó…”. Thái độ khẩn thiết cùng cái giọng van vỉ của người đàn bà

xin không phải bỏ chồng (dù đó là người đàn ông đã và đang hành hạ chị) đã khiến

cả Phùng và Đẩu phải thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu

được!”

Vâng, lại một nghịch lí của cuộc sống nữa được phơi bày chân thực dưới ngòi

bút tinh tế và đầy trách nhiệm của nhà văn. Một người phụ nữ bị chồng đánh đập,

hành hạ như cơm bữa lại không muốn bỏ chồng, tha thiết được tiếp tục sống, gắn bó

với lão ta. Thậm chí chị chấp nhận bị phạt tù còn hơn bắt chị phải bỏ chồng. Hãy

nghe chị trần tình về lí do khiến chị lựa chọn giải pháp mà ai cũng cho là nghịch lí

ấy: “Là vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là

nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”, và “Đám

đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi

phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục

đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn

cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ

không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Trong lời giã bày lí do không thể bỏ

chồng của người đàn bà, có hai điều quan trọng và đều xuất phát từ tâm lí phổ biến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

của người phụ nữ mang nặng tư tưởng chấp nhận nam quyền. Thứ nhất, người đàn

53

bà không thể bỏ chồng vì tư tưởng “xuất giá tòng phu” cho dù đó là người đàn ông

man rợ hay tàn bạo đến thế nào. Do vậy, dẫu bị chồng bạo hành thường xuyên, liên

tục nhưng người đàn bà hàng chài chưa bao giờ có ý định bỏ chồng dù là trong suy

nghĩ. Ngược lại chị tự nguyện “gánh lấy cái khổ” như là bổn phận của đời mình.

Hơn nữa, tâm lí sống bị động, phụ thuộc vào người chồng mà văn hóa nam quyền

mang lại càng khiến chị không dám li hôn. Chính cuộc mưu sinh trên biển lắm

phong ba lại khiến người đàn bà cần có người đàn ông chèo chống con thuyền của

gia đình vượt qua sóng gió biển khơi. Thứ hai, người phụ nữ ấy không thể bỏ chồng

vì chị ý thức sâu sắc thiên chức, trách nhiệm của người đàn bà là đẻ con và nuôi con

khôn lớn, mà muốn nuôi được một đàn con gần mười đứa thì không thể thiếu người

chồng. Không có lí do nào xuất phát từ hạnh phúc cá nhân người vợ, người mẹ ấy..

Vừa đáng trách mà cũng vừa đáng thương và đáng trọng biết bao cho suy nghĩ và

tấm lòng người làm mẹ! Viết tác phẩm này, phải chăng Nguyễn Minh Châu đã đặt

trái tim mình nơi trái tim người mẹ, để thấu hiểu, cảm thông; để ngợi ca, trân trọng

nhưng dường như chưa đủ. Điều ông muốn nói lên qua hình tượng nhân vật này còn

lớn lao hơn thế, đó là làm thế nào để mang lại cuộc sống bình yên và thật sự hạnh

phúc cho những người phụ nữ - những người vợ - người mẹ đáng thương và đáng

trọng như người đàn bà hàng chài kia? Và làm thế nào để hạnh phúc của họ không

phải bị đánh đổi hay trả giá bởi bất cứ một tổn thương, mất mát nào trong cuộc

sống?

Bi kịch của người đàn bà hàng chài không phải là cá biệt, cũng giống như cách

xây dựng người đàn ông, nhà văn không định danh cho chị mà gọi bằng cách gọi

phiếm chỉ: Người đàn bà hàng chài, chị, mụ để mở rộng đối tượng phản ánh. Hơn

nữa, trong lời giãi bày của nhân vật ở tòa án huyện về lí do không li hôn, chị có đưa

tất cả người đàn bà ở cái làng chài ven biển miền Trung này vào cuộc: “đám đàn bà

hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông…”, “Ông trời sinh ra

người đàn bà là để đẻ con…”, “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con…”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

Cách nói mang màu sắc cộng đồng này cho thấy tâm lí và cách ứng xử của người

54

đàn bà hàng chài trong mối quan hệ với chồng con, gia đình trở thành tâm lí phổ

biến đang tồn tại trong xã hội đương thời. Như vậy, với cảm quan hiện thực nhạy

bén và sắc sảo của nhà văn, ông đã chỉ ra văn hóa ứng xử giới trong xã hội nam

quyền đã và đang có những tác động ảnh hưởng trên cả chiều rộng và bề sâu của

cuộc sống.

Ngoài truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, chúng ta có thể tìm thấy những

người phụ nữ mang số phận giống như người đàn bà hàng chài ở nhiều sáng tác

khác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Đó là nhân vật chị Liên trong Bến quê,

là mụ Tề trong Chợ Tết,… tất cả đều chịu sự chi phối của hệ tư tưởng nam quyền

độc đoán. Việc nhà văn đi vào khắc họa cảnh đời của những nhân vật nữ này đã

không chỉ cho thầy chiều sâu nhân văn, nhân bản mà còn thấy ở đó ý thức bảo vệ nữ

quyền của ông. Dường như ở mỗi trang viết, nhà văn đều trải lòng cùng cuộc đời

của họ, đồng cảm và khắc khoải cùng họ. Không có một nền tảng nhân đạo, không

có một tình yêu thương con người mãnh liệt nhà văn sẽ không làm được điều đó.

Trong Bến quê là nhân vật chị Liên – vợ Nhĩ, một người chồng dành gần như suốt

cả cuộc đời để “đi không sót một cái xó xỉnh nào trên trái đất”, cuối đời bệnh tật

mới đưa anh trở về bên Liên. Oái oăm, nghịch cảnh là vậy nhưng Liên vẫn làm tròn

bổn phận của một người vợ, người mẹ khi chồng xa nhà. Chị chăm sóc và nuôi

dưỡng những đứa con rất mực hiếu thảo, chăm học, biết nghe lời cha mẹ, không

những thế, trong tình cảm vợ chồng, chị vẫn tận tụy không một lời kêu ca về sự vất

vả, thiệt thòi mà mình phải chịu đựng. Khi Liên được ở bên chồng sau bao năm xa

cách để chăm sóc thì lại chính là lúc Nhĩ “sắp từ giã cõi đời”, anh chẳng đem lại

được gì cho chị. Chi tiết “những tay gầy guộc” và “tấm áo vá” Liên đang mặc đã

nói lên tất cả sự hi sinh mà chị không đáng phải chịu đựng. Thậm chí, cách Liên

bước chân mỗi khi xuống cầu thang đã được Nhĩ cảm nhận một cách thành thực khi

anh nằm bệnh: “vẫn cái tiếng bước chân rón rén quen thuộc suốt cả một đời người

đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm” đã nói lên cái vị thế mà một người vợ như chị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

phải chấp nhận. Hình ảnh Liên với “tấm áo vá” cùng “bước chân rón rén” khiến

55

người đọc nhận ra sự gần gũi với hình ảnh “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá”

của người đàn bà hàng chài. Nếu Liên dường như nín thở “rón rén” trong mỗi bước

chân trước người chồng thì người vợ hàng chài lại “bước chân thoăn thoắt” đi trên

bãi cát về phía bãi xe tăng để phó mặc thân thể cho lão chồng đánh đập. Tất cả đều

thể hiện một ý thức phục tùng, nhu thuận với chồng. Người đàn bà hàng chài dứt

khoát không bỏ chồng dù bị đánh đập. Nhân vật Liên vẫn luôn nhu thuận với chồng

mình ngay cả khi anh đã sức cùng lực kiệt. Những hình ảnh về tấm áo, những bước

chân của hai người vợ tuy có khác nhau về sắc thái, tính chất cũng như cách thức

nhưng gợi về thân phận lệ thuộc của người phụ nữ, cho dù chị Liên không bị Nhĩ

đánh đập như cách người đàn ông hàng chài đối xử với vợ mình nhưng Liên cũng

không dám và cũng không muốn đấu tranh cho một sự bình quyền mà thay vào đó,

chị dồn cả tình cảm chăm lo cho chồng. Chị động viên chồng “Anh cứ yên tâm. Vất

cả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo được anh (…) Miễn là anh

sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này…”. Và, chính sự

dịu dàng, phục tùng của Liên khiến Nhĩ cũng cảm thấy nể phục “tâm hồn Liên vẫn

giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa”. Như vậy, ở

Liên cũng giống như người đàn bà hàng chài đã mặc nhiên thừa nhận cái trách

nhiệm của mình với gia đình, chồng con mà không bao giờ biết đòi hỏi cho bản

thân. Nhưng cái trớ trêu ở chỗ, hai người đàn bà này có cái gì đó luôn đối nghịch

nhau: Khi Liên có được sự trân trọng từ Nhĩ thì chị lại không có được những giây

phút mà cả gia đình – vợ chồng, con cái quây quần vui cười bên nhau như người

đàn bà hàng chài, ngược lại khi người vợ hàng chài đã phải đánh đổi sự đau đớn về

thân thể cũng như sự không có được sự trân trọng từ chồng để đổi lấy những

khoảnh khắc vui vẻ bên chồng con. Điều đó có nghĩa là hạnh phúc với người phụ

nữ bao giờ cũng là “cái chăn quá hẹp”, nếu có được một chút ít ỏi cái được gọi là

hạnh phúc của kẻ bất hạnh thì cũng phải đánh đổi bằng những mất mát lớn hơn gấp

nhiều lần. Nhân vật người vợ - mụ Tề trong Chợ Tết cũng là một số phận như thế.

Thời thanh nữ, mụ Tề là một “người con gái có sắc” rồi lập gia đình ở xã bên, cuộc

sống rất cơ cực, vất vả. Mụ đi chợ cá, còn cô con gái thì coi cái sạp hàng quốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

56

doanh giữa chợ. Sự lam lũ của mụ giống như đám đàn bà chợ cá, một cái nón mê

bật vành, một mớ váy, yếm rách phấp phới, mụ cùng hòa lẫn giữa hai hàng nón

đang cúi gập xuống lúi húi cắm mặt xuống mẹt cá, những thúng cá. Khi bị lão Đất –

quản chợ quất một nhát băng cái roi đuôi cá vào cái nón mê, mụ Tề đã “bật vùng

dậy giật phắt lấy thanh roi trên tay lão già mặt đỏ gay mắt trắng giã”.[29]. Mụ rượt

đuổi lão chạy một vòng, chỉ khi gặp và nhận ra Định, nhận ra người quen cũ mụ

mới vứt chiếc roi đuôi cá rồi cắm đầu chạy như người đang đi trốn. Như vậy, mụ Tề

ở chợ thì bị cai chợ đối xử tàn bạo. Về nhà mụ cũng chẳng yên, thằng chồng khốn

nạn vẫn thường xuyên đuổi đánh Tề, khiến mụ phải chạy. Nhiều phen bị o ép quá

mức, uất quá mụ đâm ra nghĩ quẩn “mấy lần đã chạy đi trẫm mình”. Điều đáng nói

ở chỗ mụ Tề khi ở nhà bị chồng đánh, mụ vẫn cam chịu, quá lắm phản ứng theo

chiều hướng thiệt thân trước lối đối xử thô bạo của lão chồng. Thế nhưng khi ra chợ

cá - nơi đầu sóng, ngọn gió kiếm tiền vì chồng vì con, trước thứ bạo lực vô lối của

lão quản chợ thì mụ đã chống lại bằng mọi giá. Lão Đất thì cho rằng cuộc sống quá

khổ nhục đâm ra mụ thay đổi tính nết, nhưng lão không hiểu được chính bản năng

làm mẹ, và tâm thế của một người vợ khiến cho mụ Tề sẵn sàng mọi việc vì con, vì

chồng, trong đó có cả việc cướp cái roi đuôi cá để rượt đuổi lão. Nếu đem soi chiếu

những nhân vật như cô bé Kim và mụ Tề với người đàn bà hàng chài và đứa con gái

những tưởng là khác nhau bao nhiêu, nhưng hóa ra vẫn chung những nét quen thuộc

làm nên thân phận người phụ nữ trong một xã hội lạc hậu. Sự lạc hậu – trì trệ của xã

hội và đi liền với nó là tình trạng bạo lực đang ngày một gia tăng từ trong gia đình

cho đến ngoài xã hội. Hiện thực nhức nhối này của đất nước sau ngày giải phóng

được Nguyễn Minh Châu, bằng nhãn quan sắc bén của mình đã nhìn ra và cảnh báo

qua số phận, cuộc đời của những nhân vật nữ trong sáng tác của mình.

2.2.2. Tư tưởng chấp nhận sinh đẻ nhiều, dẫn đến cuộc sống nheo nhóc

Như vậy nhìn từ văn hóa ứng xử giới trong xã hội nam quyền, những người

phụ nữ trên mỗi người một hoàn cảnh, một số phận khác nhau nhưng họ đều mặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

nhận về vai trò làm chủ của chồng mình trong gia đình cũng như thân phận “nô lệ”

57

phụ thuộc vào chồng. Vì gia đình, họ sẵn sàng chấp nhận một cuộc sống lam lũ, bạo

lực, một đời sống mà ngay cả bản thân họ cũng không biết mình sẽ là mẹ của bao

nhiêu đứa con. Chính nhận thức hạn hẹp, ấu trĩ này khiến cho họ trở thành nạn nhân

của tư tưởng nam quyền cố hữu. Trở lại với người đàn bà hàng chài trong Chiếc

thuyền ngoài xa, tìm hiểu những suy nghĩ, phát ngôn và hành động của người đàn

bà trên tòa án huyện, ta sẽ thấy rõ hơn sự chi phối của tư tưởng nam quyền với

người phụ nữ này.

Người đàn bà đã chấp nhận đòn roi không chỉ vì cần một người đàn ông trên

thuyền để nuôi con mà còn vì mặc cảm có lỗi với chồng: “Cái lỗi chính là người

đàn bà đẻ nhiều quá” - Cái lỗi của sự đẻ nhiều khiến nhà đồng con, thuyền thêm

chật. Thêm người là thêm nỗi lo về cơm áo. Đó là lí do khiến hai vợ chồng phải lao

động vất vả, cực nhọc mà không đủ ăn. Cuộc sống đã khổ lại càng thêm khổ; bữa

đói, bữa no; thậm chí có khi phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối – thứ thức ăn

ngay cả đến gia súc cũng không thể ăn được suốt hàng tháng trời. Và khi khổ quá,

lão chồng lại đánh vợ. Cả gia đình cứ luẩn quẩn trong cái vòng mưu sinh nhọc nhằn

nhuốm màu bạo lực ấy. Tâm sự “Giá tôi đẻ ít đi” cho thấy người đàn bà đã tự

nguyện chấp nhận sinh đẻ nhiều theo chủ ý của chồng mà không hề có một chút

quyền tự quyết, tự chủ nào. Quan điểm “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ

con” cho thấy chị đã tự trói buộc mình trong tư tưởng phải làm tròn thiên chức của

một người vợ, người mẹ bằng việc phải sinh nhiều con mà không hề tính đến những

hệ lụy của một gia đình đông con. Càng không nghĩ đến sức khỏe của bản thân và

những rủi ro khác có thể đến từ việc sinh nở liên tục như vậy. Khó khăn này quàng

buộc vào khó khăn kia, khó khăn kia lại là hệ lụy của khó khăn khác, cứ thế cuộc

đời và gia đình của người đàn bà hàng chài quẩn quanh trong cái vòng quay khắc

nghiệt của cuộc sống. Để rồi, mọi bế tắc, mọi khổ đau lại trút xuống cái thân hình

lúc nào cũng mỏi mệt gần như kiệt sức của chị. Mặc cảm có lỗi vì đẻ nhiều con nên

việc tự nguyện cho chồng đánh để giải tỏa những đau đớn trong lòng nhìn ở một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

góc độ nào đó cũng là cách chị nhận lỗi, chuộc lỗi với chồng.

58

Như vậy, nữ quyền luận nhìn nhận vấn đề người phụ nữ không trên tinh thân

nhân văn chủ nghĩa chung chung mà gắn với vấn đề thân thể người phụ nữ và với cả

cái nhìn của chính người phụ nữ về thân thể của mình. Ở người đàn bà hàng chài,

trước sự áp chế của người chồng về vấn đề thân thể trên phương diện sinh đẻ đã

hoàn toàn mất tiếng nói, chị đã phải đẻ hàng tá con cho lão chồng nhưng không dám

hé răng kêu ca với lão, chỉ khi rơi vào hoàn cảnh cực chẳng đã mụ mới dám than

với Phùng và Đẩu “giá tôi đẻ ít đi…Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi

nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Tình trạng này cũng

xảy ra với mụ Huệ trong Phiên chợ Giát. Đến với lão Khúng trong một hoàn cảnh

trớ trêu – khi phải bỏ chốn thị thành cùng đứa con sắp sinh trong bụng, mụ được lão

cứu giúp... Mụ Huệ lấy lão – một lão nông dân đích thực và buộc phải cùng chồng

tìm kiếm tương lai trong công cuộc khai hoang vất vả. Từ chỗ là một cô gái thành

phố, mụ lấy lão Khúng không phải do tình yêu đích thực, lại càng không phải do

mong muốn một cuộc sống điền viên thôn quê. Huệ đến với lão để che đậy một

cuộc tình phụ bạc, không tình yêu, không mong muốn mà chỉ như một sự lựa chọn

không thể khác trong hoàn cảnh bế tắc, cùng đường. Vì vậy, trong suốt quãng đời

gần hai mươi năm chung sống với lão Khúng, mụ bị lão biến thành một “cái máy

đẻ”, làm ra cho lão cả một “kho người” gần chục đứa mà mụ cũng không một lần

dám kêu than. Lão Khúng đã khai thác một cách triệt để nguồn nhân lực từ mụ để

phục vụ cho công cuộc khai hoang của mình mà chẳng cần biết mụ suy nghĩ gì? có

muốn đẻ hay không? Với lão điều ấy không quan trọng bởi dù có không muốn lão

vẫn bắt phải đẻ và với thân phận của mụ cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác là

việc phải thuận theo chồng. Nhân vật mụ Huệ cùng nhân vật người đàn bà hàng

chài có sự đồng cảnh trong cái nhìn không được tôn trọng sức khỏe sinh sản của

người chồng cũng như nỗi khổ trở thành “nô lệ thân thể” của chính chồng mình. Ở

họ, cả những người đàn ông cũng như đàn bà nói trên đều có sự tụt hậu trong nhận

thức trước sự phát triển của nữ quyền thời bấy giờ. Một đằng chọn vị thế làm chủ,

kẻ mạnh áp chế bằng quyền sở hữu vợ, một đằng lại mặc nhận sự sở hữu đó. Tuy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

nhiên, trong thực tế, không có một hạnh phúc nào lại được tạo dựng trên nỗi đau

59

của người khác, dù là tự nguyện. Người đàn ông vì sự kém hiểu biết đã có những

hành động bị xã hội lên án, còn người đàn bà từ bao giờ đã tự thừa nhận cái quyền

hành tối cao của lão chồng, chấp nhận sự tàn bạo của chồng cũng như không có ý

định thoát ra. Cũng với ý này, nhà nghiên cứu Lê Quang Hưng đã nhận xét về người

đàn bà hàng chài như sau: “Tưởng chị ta căm thù chồng và sẵn sàng đoạn tuyệt.

Vậy mà không. Người đàn bà can tâm, tự nguyện chịu đựng đòn roi, không thể bỏ

chồng là vì những đứa con, vì chuyện cơm áo của gia đình. Chị chỉ mong những

đứa con của mình được ăn no. Nghịch lý đấy mà rất có lý. Chân lý cuộc đời lại hiển

hiện ngay ở chỗ tưởng chừng vô lí”, [16, tr.217].

Thì ra nghịch lí người phụ nữ kia phải chịu đựng bắt nguồn từ cái có lí của

tình mẫu tử, của bổn phận và trách nhiệm của một người vợ, người mẹ. Nhưng cái lí

ấy lại đến từ cái vô lí mà người phụ nữ cả đời phải chấp nhận trong mối quan hệ với

gia đình, đặc biệt với người chồng của mình. Và oái ăm thay, cái vô lí đó lại được

tư tưởng nam quyền, văn hóa nam quyền dung túng và hợp lí hóa trong thực tiễn

lịch sử qua nhiều thế hệ. Phải chăng đây chính là cái “đa sự, đa đoan” của cuộc đời

vẫn đi vào chân thực và nhức nhối trong những trang viết của Nguyễn Minh Châu

sau năm 1975? Và bài toán cuộc đời cho những người phụ nữ bất hạnh trong sáng

tác của nhà văn vẫn đang chờ lời giải.

2.2.3. Chấp nhận bất bình đẳng về phân công lao động gia đình

Theo bài báo Nhân dân điện tử “Kết quả phỏng vấn trong một nghiên cứu

năm 2015 của Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS) cho biết: Trong 14 công

việc gia đình chủ yếu, phụ nữ đảm nhiệm 12 đầu việc, đặc biệt là công việc liên

quan đến chăm sóc con cái; hơn 60% số phụ nữ được hỏi đã trả lời rằng họ đã làm

những việc nhà từ trước 18 tuổi, trong khi con số này ở nam giới chỉ là 25%”. Kết

quả nghiên cứu về tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam đã khiến nhiều người

ngỡ ngàng vì những người phụ nữ chân yếu tay mềm lại có sức lực như một “siêu

nhân” khi gánh phần lớn công việc trong gia đình, còn đàn ông thì chỉ làm từ 0 đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

2 việc trong gia đình. Vô số những đầu việc đã làm nên nền tảng hạnh phúc cho mái

60

ấm gia đình nhưng oái oăm thay chỉ có người phụ nữ là nai lưng ra làm, còn người

đàn ông thì dường như chỉ giữa vai trò trụ cột, không chia sẻ công việc gia đình với

người phụ nữ. Thực tế này đã diễn ra từ lâu đời trong xã hội Việt Nam, thậm chí

ngay trong chính những người phụ nữ cũng coi đó như một trong những thiên chức

của mình. Nhận thức có phần ấu trĩ nãy khiến cho sự bất bình đẳng trong phân công

việc gia đình đã được duy trì trong thực tế lịch sử cho đến tận ngày nay (Sự bất bình

đẳng này đã được chúng tôi nhắc đến trong bài phóng sự Một ngày ở xứ Chàm ở

mục 1.1.2 Văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam). Người đàn bà hàng chài

trong Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho lối suy nghĩ này với công việc gia đình.

Thực ra, trong tác phẩm nhà văn không miêu tả người đàn bà trong những công việc

gia đình cụ thể như thường thấy mà chỉ tái hiện qua ngoại hình, diện mạo của bà sau

một đêm thức cùng chồng đánh lưới, thế nhưng thực tế cuộc sống gia đình bà vẫn

phải làm những công việc trong nhà như bao người vợ, người mẹ khác. Nhưng điều

đáng nói là người đàn bà đã làm những phần việc gia đình nhưng vẫn phải trực tiếp

tham gia vào lao động sản xuất – kéo lưới cùng chồng để nuôi con. Đây là một sự

bất bình đẳng không chỉ trong phân công việc gia đình mà cả trong phân công loại

hình nghể nghiệp – nghề chài lưới (bởi trong văn hóa làng biển chỉ có đàn ông ra

khơi đánh bắt còn phụ nữ ở bến đợi tàu mang thủy hải sản về - điều này được

Nguyễn Minh Châu tái hiện trong cảnh đám đàn bà kẻ biển chuyên chạy cá từ dưới

bến lên trên chợ). Sinh kế bằng nghề vó bè không cho người đàn bà có cơ hội được

ngồi bến đợi thuyền cá về, mụ phải cùng chồng thức đêm kéo lưới nuôi con chứ

không được nghỉ ngơi khi màn đêm phủ xuống như những người đàn bà khác.

Trước sự bất công này người đàn bà đã chấp nhận không bàn luận như một hiển

nhiên trong đời sống gia đình mình.

Vậy, khi mà người đàn bà vẫn cùng chồng thức đêm kéo lưới, cùng chia sẻ

cảnh nghèo túng của gia đình, tức là chị phải gánh một gánh nặng gấp đôi người

chồng. Không phải vô tình Nguyễn Minh Châu miêu tả cái khuôn mặt mệt mỏi và

thân hình ướt sũng cùng tấm áo bạc phếch, rách rưới của người đàn bà hai lần trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

tác phẩm. Lần miêu tả thứ nhất gắn liền với sự xuất hiện của nhân vật trong tác

61

phẩm khi bị chồng bạo hành. Qua đây, tác giả cho thấy mặc dù là phụ nữ yếu mềm

nhưng chị vẫn phải cùng chồng đối mặt với biết bao cơ cực và hiểm nguy ngoài

sóng gió biển khơi để kiếm sống. Sự lao động đó với một người đàn ông đầy sức

vóc như lão chồng cũng thường xuyên cảm thấy mệt mỏi, thậm chí không thể vượt

qua được những áp lực của công việc mưu sinh quá đỗi nhọc nhằn đến nỗi phải tìm

cách giải tỏa bằng hành vi đánh vợ. Vậy thì với một người phụ nữ, sự mệt mỏi và áp

lực sẽ lớn đến đâu? Thế những chị chưa bao giờ được chồng thấu hiểu, thậm chí lão

ta còn coi chị cùng các con như là nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn đến những

vất vả, khổ đau trong cuộc đời của lão. Về phía người đàn bà, chị lại tự nguyện chấp

nhận sự bất bình đẳng trong phân công lao động ấy, hơn nữa còn tự cho mình là

người có lỗi và tự nguyện đem thân mình ra làm phương tiện cho chồng giải tỏa cơn

u uất trong lòng sau mỗi đêm kéo lưới ngoài biển khơi. Lần miêu tả thứ hai, nhà văn

đặt ở vị trí kết thúc tác phẩm như để găm vào lòng người đọc sâu hơn ấn tượng về

một số phận, một cuộc đời chồng chất bi kịch chưa tìm ra lối thoát của người phụ

nữ hàng chài nói riêng và tất cả những người đàn bà khác ở ven biển miền Trung ấy

nói chung và còn ở đâu đó nữa trong cuộc đời rộng lớn này.

Trong những sáng tác thời hậu chiến của Nguyễn Minh Châu, vẫn còn có

đâu đó những số phận giống như số phận của người đàn bà hàng chài – nạn nhân

của sự bất công trong phân công lao động xét trong mối quan hệ gia đình. Ở một

góc độ khác, những người đàn bà kẻ biển lão Khúng gặp kéo xe bò xuống chợ cầu

Giát cũng chịu nhiều bất công trong phân công lao động gia đình, kể cả việc chạy cá

đầy vất ả và nặng nhọc nhưng dù sao nó cũng là văn hóa làng nghề, bởi đám các lão

chồng đã vươn khơi, nhưng sẽ thật công bằng, thật tốt hơn cho nhũng người phụ nữ

nếu như họ không phải làm phần việc như vậy, bởi cứ nhìn cái cách họ lao động đã

thấy họ phải chịu thua thiệt đến nhường nào: “Những người đàn bà chạy cá tươi từ

dưới biển lên. Họ chạy thành từng đám dăm bảy mụ, mươi mụ ... váy mụ nào mụ

nấy bị xé gần như tới đầu gối, yếm áo tả tơi, mà phần lớn ở trần, mồ hôi nhẫy ra”;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

có thể đó còn là mụ Tề trong Chợ Tết, cả đời cứ lúi húi, cắm mặt vào cái mẹt cá

62

ngoài chợ, đôi khi lại phải nhận những ngon roi hách dịch của lão quản chợ mà khi

về nhà mụ vẫn bị chồng đánh đạp đến độ uất ức mà nhiều phen tìm đến cái chết,...

Tóm lại, Nguyễn Minh Châu bằng nỗi khắc khoải đau đáu của mình trước vấn

đề số phận con người cá nhân - nhất là người phụ nữ sau chiến tranh, ông đã nhìn

thẳng vào hiện thực xù xì, góc cạnh để không chỉ phơi bày tình trạng bạo lực, mà

còn trăn trở, suy tư về nó. Khắc họa những nhân vật như người đàn bà hàng chài,

mụ Tề, mụ Huệ trong những cảnh huống trớ trêu ở đời sống, Nguyễn Minh Châu

không nhằm ca ngợi đức hy sinh, hay coi sự chịu đựng, khổ đau của chị là vẻ đẹp

cần tôn vinh mà thông qua những hình tượng này, nhà văn muốn đặt ra vấn đề làm

thế nào để chấm dứt được cuộc chiến chống lại bạo hành, tình trạng bất bình đẳng,

chấm dứt tình trạng khổ đau của người phụ nữ trước những định kiến, những nghịch

lý, những tư tưởng đã lỗi thời như sự áp chế của lối ứng xử giới mang tư tưởng nam

quyền hay sự chấp nhận tư tưởng nam quyền đã ăn vào ngay trong nếp nghĩ của biết

bao người phụ nữ, trong đó có người đàn bà hàng chài. Câu hỏi tại sao cũng sinh ra

bình đẳng như nhau nhưng trong thực tiễn người phụ nữ luôn phải chịu thua thiệt,

đau hớn hơn so với người đàn ông. Cuộc chiến chống lại cái ác, cái tàn bạo mới qua

đi thì một cuộc chiến khác lại hiện hình ngay trên mảnh đất ấy. Đó là cuộc chiến

chống lại tình trạng bạo hành đang ngày một gia tăng, nó thể sự tha hóa biến chất về

đạo đức và nhân cách con người, nó phản ánh thân phận thua thiệt của người phụ

nữ. Nguyễn Minh Châu đã đi vào những mặt trái của đời sống xã hội đất nước sau

ngày thống nhất nhằm gióng lên những hồi chông để cảnh báo/báo động một điều gì

đó và thức tỉnh lương tâm con người trong xã hội, vì một sự tiến bộ chung cho cộng

đồng.

Giải pháp nào có thể giúp người đàn bà hàng chài thoát khỏi cuộc sống khổ

đau hiện tại. Thông thường khi nhận diện và phản ánh hiện thực đời sống qua

những hiện tượng nhức nhối, nhà văn đã có những giải pháp đi kèm với mong muốn

thay đổi hiện thực theo chiều hướng tốt đẹp hơn theo chiều hướng nguyên nhân nào

giải pháp ấy. Trong truyện, trước bi kịch của người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

Châu đã gửi gửi gắm hay phải chăng ông muốn thử nghiệm các giải pháp bằng cách

63

trao quyền cho các nhân vật của mình. Gần như bất cứ nhân vật nào ở phía đối lập

với người đàn ông hàng chài đều ứng với một giải pháp. Ở chánh án Đẩu - đại diện

cho chính quyền về mặt chủ trương, nguyên tắc thì ưu tiên cho hòa thuận, hòa giải

nhưng với hiện trạng của người đàn bà và với khát vọng về sự công bình xã hội của

mình, Đẩu khuyên bà nên li hôn - sẽ giúp bà thoát ra được khỏi kiếp sống khổ cực

về cả thân xác lẫn tinh thần như hiện tại. Phùng, một người chiến sĩ – nghệ sĩ khi

chứng kiến cảnh người đàn bà bị bạo hành, anh đã chọn cuộc đời thay vì nghệ thuật

bằng cách can thiệp bằng cả hành động và nhờ Đẩu giúp. Thằng bé Phác, con người

đàn bà chủ trương bảo vệ mẹ bằng mọi giá. Và ở chính người trong cuộc, nạn nhân

của sự bạo hành - người đàn bà hàng chài bà đã chọn một giải pháp mà người ngoài

nhìn vào “không thể hiểu nổi” - sống chung với bạo hành để gìn giữ được gia đình.

Ở nhân vật đứa con gái chỉ thấp thoáng xuất hiện đôi ba lần song ta thấy cô cũng

phảng phất cái tinh thần cam chịu giống như mẹ mình. Cô có phản kháng nhưng

không đáng kể và theo chiều hướng chấp nhận thực tế cuộc sống của gia đình mình.

Trong truyện, ở nhân vật nữ y tá có lẽ Nguyễn Minh Châu cũng đã bóng gió xa xôi

một điều gì, chúng tôi nghĩ nhiều hơn đến cái cách cô vừa nói vừa “chĩa cái mũi

kéo đang kẹp một dúm bông đã tẩm cồn vào giữa mặt anh Đẩu”. Theo lời cô thì cô

sẵn sàng “làm gái già”, “chết già” chứ nhất quyết không lấy loại đàn ông vũ phu ấy.

Như vậy, có lẽ cũng không sao, vì “chết già” thì chưa biết chứ còn thực tế thì cô

cũng đã luống tuổi mà chưa chồng. Cái đáng nói là ở cái hành động “chĩa cái mũi

kéo” – nó như một lời thách thức, một lời tuyên chiến với nạn bạo hành mà Nguyễn

Minh Châu muốn gửi đến xã hội, đến những người phụ nữ, họ cần phải lên tiếng,

phải đòi lại và khẳng định được tiếng nói của mình trong gia đình. Không thể đánh

đổi đòn roi cho thể xác mà lấy cái thứ hạnh phúc “hiếm hoi” theo kiểu có lúc, có khi

mới có ấy được (Vui nhất là khi được nhìn đàn con ăn no...). Cách mạng về! Cách

mạng đem đến cho gia đình hàng chài đất đai, cơm áo,… nhưng trong gia đình

người phụ nữ vẫn không được trân trọn, hàng ngày người phụ nữ vẫn phải đối mặt,

chấp nhận sống chung với bạo hành. Nguyễn Minh Châu mong muốn có giải pháp

toàn diện: Không chỉ là tuyên chiến với bạo hành giới, mà quan trọng là cần phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

cải thiện đời sống dân sinh của người dân hàng chài. Có sinh kế bền vững, cái đói

64

sẽ bị đẩy lùi, cái nghèo sẽ không còn nữa, sự u mê tăm tối cũng mất đi, theo đó thì

tình trạng bạo lực sẽ không còn, sự suy đồi đạo đức sẽ tự khắc mất đi hay nói tiếp ý

kiến của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn “Muốn giải phóng người phụ nữ, muốn

đem lại bình đẳng nam nữ thì không chỉ có tuyên truyền mà cần phải có những biện

pháp thực tế về kinh tế, luật pháp thì người phụ nữ mới thật sự được tôn trọng trong

gia đình. Nếu không thì bản thân người phụ nữ cũng không muốn được giải phóng”

[38]; đồng thời cần phải làm một cuộc “cách mạng” trong ý thức của con người để

thực sự giải phóng thật sự cho thân phận người phụ nữ. Chỗ này, chúng tôi mượn ý

của nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn khi nói về hai chữ “cách mạng” để chỉ một cuộc

cách mạng khác: “Chữ “cách mạng” trong câu: “Cái lão đàn ông đã từng hành hạ

mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu cách mạng không về”

đã không còn chỉ cuộc cách mạng đã qua, mà ám chỉ một cuộc cách mạng khác,

cuộc cách mạng sẽ giải cứu người đàn bà ấy khỏi tình trạng hành hạ hiện thời.

Đúng vậy, chỉ có thể giải quyết được tình trạng này bằng một cuộc thay đổi lớn

(...)”. [12, tr.375]. Và trong cuộc thay đổi đó, nhà văn mong muốn loại bỏ được

bóng ma tư tưởng của văn hóa nam quyền để đem lại những giá trị người nhân văn

đẹp đẽ nhất. Có lẽ cuộc cách mạng mà từ những năm 1960 trong Đi bước nữa,

Nguyễn Thế Phương đã đề cập đến và một lần nữa lại được Nguyễn Minh Châu đặt

ra - trong thời bình cần phải dũng cảm đối diện với định kiến để “đi bước nữa” đem

lại sự bình quyền của người phụ nữ cũng như sự tiến bộ chung cho xã hội.

2.3. Thái độ của các nhân vật: Phùng, Đẩu, Phác, đứa con gái

Trong Chiếc thuyền ngoài xa xoay quanh cặp nhân vật vợ chồng hàng chài

gắn câu chuyện ứng xử giới bất bình đẳng, ở đó người đàn ông đã áp chế người đàn

bà bằng việc cho mình có quyền sở hữu thân thể người đàn bà, còn người đàn bà thì

cũng nhìn thân thể mình như một sự mặc nhận quyền lực của người đàn ông. Lối

ứng xử giới mang tinh thần nam quyền này đưa đến những khổ đau cho thân phận

của những người phụ nữ, trong đó có người đàn bà hàng chài. Trước bi kịch gia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

đình hàng chài các nhân vật phụ trong truyện đã thể hiện thái độ của mình trước sự

65

độc đoán và nỗi khổ đau mà các nhân vật thể hiện trong truyện. Phần còn lại của

chương 2 sẽ đi vào tìm hiểu thái độ của các nhân vật này.

2.3.1. Thái độ của phóng viên Phùng và chánh án Đẩu

Phùng và Đẩu vốn dĩ là những người lính từng cầm súng chiến đấu chống

lại cái ác, cái xấu đem lại tự do, công bằng cho nhân dân, hòa bình cho đất nước.

Sau ngày thống nhất, nói như Phùng “Đời chúng tôi cái đám lính của thời chống

mỹ, từ sau bảy nhăm thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ngờ”- anh làm phóng

viên ảnh, còn Đẩu làm chánh án tại một phố huyện vùng biển miền Trung. Trước

câu chuyện về cuộc đời khổ đau của người đàn bà hàng chài và sự tàn nhẫn của

lão chồng, Nguyễn Minh Châu đã để cho các nhân vật thay cho mình phát ngôn,

thể hiện quan điểm của mình trước tư tưởng nam quyền. Vì vậy, Phùng và Đẩu là

kiểu nhân vật mang tư tưởng của nhà văn - mỗi người có cách thể hiện thái độ,

tình cảm riêng của mình nhưng họ đều gặp gỡ ở chỗ muốn đòi lại sự công bằng

cho người vợ và lên án lối ứng xử giới là tư tưởng nam quyền của người chồng

trong cách cách đối xử với vợ con, nhất là chuyện bạo hành của lão với vợ.

Về thái độ của nhân vật Phùng trước lối ứng xử nam quyền của lão đàn ông

với người vợ hàng chài, nhằm tránh sự trùng lặp, chúng tôi sẽ phân tích ở mục 3.1

Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật. Ở đây chỉ đi vào thái độ của nhân vật

chánh án Đẩu.

Bên cạnh nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu là nhân vật đại diện cho pháp luật của

phố huyện vùng biển. Giữ vị trí chánh án một tòa án huyện ở vùng biển nhưng Đẩu

vẫn giữ trong mình bản chất của một anh bộ đội cụ Hồ. Khi được Phùng cho biết về

câu chuyện bạo hành của người đàn bà hàng chài thì Đẩu rất nhiệt tình can thiệp,

giúp đỡ nhằm giải cứu người đàn bà thoát khỏi lão chồng vũ phu. Giống như Phùng,

Đẩu rất bức xúc và phẫn nộ trước sự ngược đãi của người chồng với người vợ theo

kiểu: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Với tư cách là một người

thực thi pháp luật, anh kiên quyết không để điều đó tiếp tục xảy ra. Anh đã mời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

người đàn bà lên để có những sự giúp đỡ thiết thực nhất cho tình cảnh của chị.

66

Thông thường, khi giải quyết những vụ việc về hôn nhân , chủ trương và

nguyên tắc của tòa bao giờ cũng là “kêu gọi hòa thuận”. Thế nhưng, do quá bức xúc

và phẫn nộ trước hành động của lão chồng như là hiện thân của cái ác, Đẩu đã bỏ

qua cái lẽ thường, vượt qua nguyên tắc làm việc để quyết định một cách nhanh

chóng - chủ động khuyên người đàn bà bỏ chồng. Trước cái ác, Đẩu không thỏa

hiệp, lời khẳng định của anh với người đàn bà về lão đàn ông “Cả nước không có

một người đàn ông nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo

ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?” đã

thể hiện rõ quan điểm của anh.

Như vậy thông qua nhân vật Đẩu, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện thái độ

bênh vực, đấu tranh cho nữ quyền và phê phán tư tưởng nam quyền mà hiện thân

đầy đủ của nó trong tác phẩm là người đàn ông hàng chài. Đây là tinh thần dám

đứng về công lí, về lẽ phải để chống lại sự lộng hành của cái ác, chống lại những

quan niệm, những lệ tục lạc hậu mà người đàn ông áp đặt lên người đàn bà, cũng

như mong muốn đả phá thành trì tư tưởng là sự mặc nhận quyền lực của người đàn

ông lên thân thể người đàn bà.

2.3.2. Thái độ của thằng Phác và đứa con gái

Trong gia đình hàng chài đông con, chỉ có đứa con gái lớn và thằng Phác là

đủ lớn hơn so với những đứa con còn lại để ít nhiều hiểu và bày tỏ thái độ về bi kịch

trong gia đình của chúng. Thông qua các nhân vật này Nguyễn Minh Châu đặt ra

nhiều vấn đề có tính chất hệ lụy mà tư tưởng nam quyền đã gây ra trong gia đình.

Trong truyện, thằng Phác đã đủ khôn lớn để hiểu biết về việc bố nó đánh mẹ

nó nên đã bị mẹ gửi rừng sống cùng ông ngoại, nhưng thắng bé hay trốn về và chỉ

quẩn quanh bên xưởng đóng tàu để bảo vệ mẹ nó. Nó từng tuyên bố với mấy bác ở

xưởng đóng tàu rằng: “Nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”.

Thế nên, khi chứng kiến cảnh tượng cha bạo hành mẹ, Phác vô cùng giận dữ và

phản ứng quyết liệt theo mức độ tăng dần, từ việc lao vào giật chiếc thắt lưng quật

lại bố cho đến hành động thủ con dao găm để bảo vệ mẹ. Phác đã hành động như

một người câm khi nhảy xổ vào cái lão đàn ông để giằng chiếc thắt lưng rồi “dướn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

67

thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ” của bố nó,

sau đó Phác bị lão đàn tát cho hai cái ngã dúi xuống cát nhưng nó vẫn “chẳng hề hé

răng”. Thằng Phác “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ, như

muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Thậm

chí khi mẹ nó đuổi theo lão đàn ông về thuyền Phác vẫn đưa ánh mắt ngơ ngác nhìn

ra một quãng bờ phá ban nãy chiếc thuyền đậu. Rõ ràng, hành động của Phác xuất

phát từ một tình cảm bồng bột, thánh thiện và nguyên sơ mà trong hoàn cảnh hiện

tại Phác có thể làm cho mẹ. Ánh mắt ngơ ngác đã diễn tả sự hẫng hụt, mất mát

không gì bù đắp nổi cho tâm hồn trẻ thơ của em. Phác còn nhỏ, em chưa thể hiểu

hết được những uẩn khúc phức tạp trong đời sống nên phản ứng như vậy cũng là

điều dễ hiểu. Hành động ngây thơ, bồng bột của em được đẩy lên đến quyết liệt và

tiêu cực khi Phác giấu con dao găm sáng loáng vào cạp quần nhằm bảo vệ mẹ, may

thay đứa chị gái đã kịp thời ngăn cản.

Với Phác, đơn giản chỉ là một sự công bằng, dù em có giằng cái dây thắt

lưng để quật lại bố nó hay có giấu con dao trong cạp quần đùi cũng chỉ là những

hành động biểu hiện cho thái độ phản kháng của Phác trước hành động bạo hành

của lão đàn ông với mẹ nó. Lẽ thường, gia đình là một tổ ấm, nhưng với Phác lại là

một cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa em và lão đàn ông. Theo đó, để bảo

vệ mẹ mình nhưng chính lúc Phác đã phải bước qua ranh giới của các chuẩn mực

đạo đức, luân lí thông thường. Dường như thằng Phác đã ý thức được rằng cần phải

dùng bạo lực để ngăn cản, thậm chí là chống lại bạo lực trong gia đình. Nguyễn

Minh Châu tái hiện hình ảnh của Phác như một điểm nhấn quan trọng trong bi kịch

lớn mà người phụ nữ thời hậu chiến phải đối mặt. Trong đó, sự xuống cấp về đạo

đức gia đình, về nguy cơ tiềm ẩn không còn câu chuyện của tương lại xa xôi mà nó

đang diễn ra một cách quyết liệt trong mỗi mái nhà, mỗi gia đình thời hậu chiến.

Tuy nhiên tình thương vẫn là hạt nhân ấm áp, cho ta sự lạc quan ở Phác như lời

nhận xét của của nhà nghiên cứu Lê Bảo khi viết về nhân vật này: “Cuộc đời nó sau

này không biết có đỡ khổ hơn gia đình nó lúc này hay không thì còn chưa biết,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

nhưng với tình thương - phẩm chất mà mẹ nó truyền cho chắc chắn sẽ là chỗ dựa

68

tin cậy của một gia đình. Ý nghĩa lạc quan duy nhất có lẽ toát ra từ thằng bé ấy”.[3,

tr.183].

Qua nhân vật này, nhà văn thể hiện tinh thần bảo vệ nữ quyền và phê phán

bạo lực gia đình xuất phát từ tư tưởng nam quyền cổ hủ. Đồng thời tác giả cũng

cảnh báo về một hệ lụy đau đớn khác ngoài bi kịch cuộc đời người đàn bà hàng chài

do tư tưởng nam quyền mang lại là sự tổn thương tâm hồn và sự lệch lạc trong phát

triển nhân cách của những đứa con.

Nhân vật cô con gái có lẽ là nhân vật duy nhất trong tác phẩm không có một

phản ứng trực tiếp nào trước việc cha mình bạo hành mẹ ngoài hành động giằng con

dao găm từ tay đứa em đang có ý định dùng nó để bảo vệ mẹ mình. So với bé Phác,

cô chị có phần chín chắn hơn trong suy nghĩ, cô đã kịp thời ngăn cản được hành

động tội lỗi có thể xảy ra ở đứa em mình nhưng lại không có một giải pháp nào để

bảo vệ mẹ. Nỗi đau dồn nén trong lòng hay cô cũng giống mẹ, nhắm mắt cam tâm

chấp nhận bi kịch gi đình? Là gì chăng nữa người đọc cũng không khỏi xót xa trước

sự tác động tiêu cực đến tâm hồn con trẻ của tư tưởng nam quyền. Đó cũng là nỗi âu

lo, trăn trở của nhà văn.

Đứa con gái đã bất chấp hiểm nguy để lao vào, vật lộn và giành được con

dao găm khỏi tay thằng Phác tránh khỏi cho thằng Phác, tránh cho cả gia đình nó

phải tiếp tục rơi vào một bi kịch khác: Bi kịch con giết cha. Con bé đã hành động

đúng khi không cho thằng Phác làm một việc trái với luân thường đạo lý nhưng

chắc chắn trong lòng nó cũng tan nát, đau đớn khôn cùng khi chứng kiến những

cảnh đó trong gia đình mình. Cô con gái cho thấy một suy nghĩ tỉnh táo, khéo léo

mà quyết đoán như một người phụ nữ thực thụ trong môi trường sống đầy nghịch

cảnh của gia đình. Cô gái khiến ta nhớ tới nhân vật Kim - con gái mụ Tề trong

truyện ngắn Chợ Tết. Đó là khi Định đến sạp hàng mà Kim đang bán để hỏi thăm

về mẹ Tề - Kim vui vẻ trả lời và còn mời bác Định sang nhà chơi. Nhưng khi Định

hỏi Kim: “Bố Kim làm nghề gì?” thì trong câu trả lời của Kim đã nói lên tất cả thái

độ của cô về người bố “- Bố cháu thì cháu... chẳng biết nói ra sao”. Không thể

chấp nhận được hành động bạo hành của bố với mẹ nhưng Kim cũng chẳng thể Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

69

chống lại, cô cũng chỉ biết chấp nhận. Ở nhân vật người con gái hàng chài cũng có

sự đồng điệu trong suy nghĩ với nhân vật Kim. Thái độ “không nói” một lời nào

của cô chính là cái “chẳng biết nó ra sao” của Kim – cả hai đều hàm chứa một sự

chán chường, ngán ngẩm về bố mình khi họ thường xuyên đánh đập mẹ của hai

cô. Liệu rồi tương lai của đứa con gái có là sự bước tiếp vào con đường đau khổ

như cuộc đời của người mẹ? Nỗi đau dồn nén trong lòng hay cô cũng giống mẹ,

nhắm mắt cam tâm chấp nhận bi kịch gi đình? Là gì chăng nữa người đọc cũng

không khỏi xót xa trước sự tác động tiêu cực đến tâm hồn con trẻ của tư tưởng nam

quyền. Đó cũng là nỗi âu lo, trăn trở của nhà văn.

Như vậy, qua hai nhân vật thằng Phác và đứa chị nó cũng như Phùng và Đẩu,

nhà văn đã cho thấy được những thái độ khác nhau của các nhân vật này quanh câu

chuyện bạo hành gia đình gắn với sự áp chế của người đàn ông với người đàn bà.

Bằng cách này, nhà văn đã đưa ra những góc nhìn khác, những phán xét và đánh giá

khác trước hiện thực đa chiều cũng như con người đầy bí ẩn. Các giá trị đạo đức

còn vẹn nguyên khi nền tảng gia đình được bồi đắp để gia đình thật sự là tổ ấm cho

mọi thành viên. Khi người chồng đánh đập, chửi rủa vợ con, nền tảng bị lung lay,

còn khi người con đánh lại bố thì các giá trị đã bị băng hoại và vượt qua tầm kiểm

soát của lẽ thường. Mưu sinh đã khốn khó, bạo hành lại gia tăng là thực tế mà con

người phải đối mặt khi đất nước có hòa bình.

Tiểu kết

Trong chương 2, chúng tôi đã đi vào làm rõ tinh thần phê phán nam quyền và

ý thức nữ quyền của tác giả. Đây được xác định là nội dung chính của đề tài với

hình tượng người đàn ông hàng chài là hiện thân của tư tưởng nam quyền cố hữu:

mặc nhiên cho mình có cái quyền sở hữu thân thể người vợ, có thể đánh đập vợ con

theo ý muốn; với người đàn bà hàng chài là sự mặc nhận thân phận nô lệ trước

người đàn ông. Với các nhân vật này, nhà văn muốn phản ánh tình trạng bất bình

đẳng giới, một vấn đề mới mà văn học trước 1975 chưa được các nhà văn tiếp cận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

đến. Ngoài ra, chúng tôi còn đi vào tìm hiểu thái độ của các nhân vật như Phùng,

70

Đẩu cùng hai người con là thằng Phác và đứa con gái để thấy được, qua những nhân

vật này nhà văn đã gửi gắm tư tưởng phê phán, lên án văn hóa nam quyền.

Kết thúc tác phẩm, bi kịch người đàn bà hàng chài vẫn còn đó trước sự bất

lực của pháp luật, nhưng mỗi người đọc có thể đã có cho riêng mình giải pháp. Từ

góc nhìn văn hóa giới, khi người đàn ông và người đàn bà đều là hiện thân, là sản

phẩm của văn hóa nam quyền thì giải pháp để loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của

văn hóa nam quyền lên con người ngoài việc cải thiện đời sống vật chất, đưa họ

thoát khỏi đói nghèo thì từ hướng tiếp cận văn hóa giới luận văn đưa ra một giải

pháp: Đó là cần phải đấu tranh loại bỏ những “bóng ma” tư tưởng – tư tưởng nam

quyền cố hữu, cổ hủ độc đoán để giải thoát người phụ nữ khỏi những trận bạo hành,

khỏi những bi kịch gia đình – chừng nào còn chưa giải quyết được sự ảnh hưởng

của tư tưởng nam quyền thì chừng ấy vẫn còn có nạn nhân của tư tưởng này; đồng

thời chấm dứt những bi kịch gia đình mang lại một môi trường sống lành mạnh,

nhân văn để con người được sống tốt, sống thiện, sống hạnh phúc theo đúng nghĩa –

như tinh thần nhân văn của đề tài chúng tôi triển khai và hướng đến. Vấn đề này còn

có ý nghĩa với những truyện ngắn tiêu biểu về chủ đề văn hóa giới của Nguyễn

Minh Châu thời hậu chiến đã được đưa vào so sánh trong đề tài.

Để chuyển tả được nội dung nam quyền trong truyện ngắn, Nguyễn Minh

Châu đã có nhiều sáng tạo, đổi mới trong nghệ thuật kể chuyện. Nội dung này được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

chúng tôi triển khai cụ thể ở chương 3 của đề tài.

71

Chƣơng 3

NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN

Như đã trình bày ở phần cuối chương trên, chương 3 này chúng tôi sẽ đi vào

phân tích nghệ thuật kể chuyện và xây dựng nhân vật để phục vụ cho cái nhìn phê

bình nam quyền và tinh thần đề cao nữ quyền của tác giả Nguyễn Minh Châu ở

Chiếc thuyền ngoài xa. Trong đó, chúng tôi tập trung đi vào các yếu tố nghệ thuật

được sử dụng trong việc khắc họa nhân vật nhằm tố cáo thái độ “chuyên chế” của

người chồng và tô đậm “sự cam chịu nhẫn nhục mọi mặt” của người vợ, cũng như

sự phẫn nộ của các nhân chứng. Ngoài ra, các yếu tố như nghệ thuật tổ chức không

gian và thời gian trần thuật cũng được xét đến với vai trò là các yếu tố làm nên cấu

trúc nội tại của tác phẩm. Những đặc sắc trong nghệ thuật kể truyện này được đặt

trong mối liên hệ với các truyện ngắn tiêu biểu khác của nhà văn sau năm 1975 có

chung chủ đề phản ánh ứng xử giới là văn hóa nam quyền. Mục đích cuối cùng là để

thấy được tư tưởng nam quyền độc đoán đã được nhà văn thể hiện sinh động ở sự

vũ phu của người đàn ông cũng như sự chấp nhận đầy chịu đựng ở người đàn bà và

thái độ, sự phản ứng của người kể chuyện cùng các nhân vật phụ trước nạn bạo

hành trong tác phẩm.

3.1. Ngƣời kể chuyện và điểm nhìn trần thuật

3.1.1. Người kể chuyện

Viết văn là cách để người cầm bút đối thoại với bạn đọc những vấn đề nhức

nhối của cuộc sống. Tuy nhiên, sự đối thoại đó không diễn ra trực tiếp mà thông qua

các phương thức, phương tiện nghệ thuật. Nhà văn cũng không “đóng gói” tư

tưởng, tình cảm của mình để gửi tới bạn đọc mà kí thác vào các nhân vật của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

72

Trong Chiếc thuyền ngoài xa, thái độ phê phán tư tưởng nam quyền của Nguyễn

Minh Châu không chỉ được thể hiện qua cặp nhân vật vợ chồng hàng chài mà còn

được nhà văn kín đáo gửi gắm qua nhân vật người kể chuyện.

Theo Từ điển Thuật ngữ văn học : “Người kể chuyện là hình tượng ước lệ về

người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể

bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm”[14, tr.22] và “Người kể chuyện, dù có mặt

bất cứ dưới hình thức nào, đều là thành tố quan trọng tạo nên giá trị nghệ thuật của

tác phẩm tự sự”. [13, tr.109]. Như vậy, xây dựng nhân vật người kể chuyện cũng là

một công phu của người cầm bút nhằm mang lại thành công cho tác phẩm.

Ở Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã trao ngòi bút cho nhân vật

Phùng – một phóng viên đồng thời cũng từng là một người lính hơn mười năm cầm

súng chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Chọn vai người kể

chuyện sống qua hai giai đoạn lịch sử của đất nước (thời chiến và thời bình), lại

đứng trên tư cách kép (chiến sĩ và nghệ sĩ) không phải là một lựa chọn ngẫu nhiên

mà nó hàm chứa dự đồ nghệ thuật của tác giả. Nhìn lại toàn bộ tác phẩm, chúng ta

thấy nhân vật Phùng xưng Tôi - kể lại câu chuyện mà anh trực tiếp chứng kiến,

thậm chí cũng là người tham gia tích cực vào diễn biến của sự việc. Anh quan sát

hiện thực cuộc sống, con người và tự phân tích tâm lý chính mình. Trong quá trình

đó, hai tư cách trên có dịp bộc lộ và thể hiện một cách đắc lực thái độ phê phán nam

quyền cũng như tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

Bước ra từ khói lửa, đạn bom của cuộc chiến tranh, trút bỏ bộ quân phục của

một người lính từng đối diện với họng súng kẻ thù, Phùng trở về cuộc sống đời

thường với một trách nhiệm mới, một thiên chức mới. Thời chiến, anh cầm súng

chống lại thế lực độc ác, bạo tàn để bảo vệ cái Thiện, mang lại cuộc sống yên bình

cho đất nước. Thời bình, anh cầm máy ảnh, không ngần ngại xông pha, lăn lộn khắp

nơi để tìm kiếm, nâng niu và mang đến cái Đẹp cho cuộc đời. Ở tư cách nào, anh

cũng cống hiến hết mình để mang lại những giá trị nhân văn, nhân bản cho cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

sống của con người.

73

Để hoàn thành nhiệm vụ được giao là chụp một tấm ảnh nghệ thuật về cảnh

biển trong một buổi sáng có sương, Phùng đã công phu tìm đến vùng biển cách Hà

Nội hơn sáu trăm cây số - nơi từng là chiến trường năm xưa anh chiến đấu. Trong

chuyến đi này, Phùng đã lăn lộn tìm kiếm, “vác máy ảnh tha thẩn suốt một tuần lễ”,

có những đêm anh ngủ ngay trên bãi biển để “phục” lấy cảnh biển ưng ý vào buổi

sáng có sương mờ. Và như một sự bù đắp cho công phu lao động ấy, Phùng đã chụp

được một “cảnh đắt trời cho” ”, “Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng

đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, khiến đứng trước nó,

người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim như có gì bóp thắt vào”, anh còn

“tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện” để rồi ngay

trong khoảnh khắc ấy, Phùng cảm thấy tâm hồn mình được gột rửa “trong ngần”.” .

Thế nhưng thật trớ trêu thay, ngay khi tâm hồn đang thăng hoa với những cảm xúc

thẩm mỹ trước một tuyệt tác nghệ thuật của hóa công, Phùng kinh ngạc đến bàng

hoàng khi phải chứng kiến một cảnh tưởng khủng khiếp: Từ trong chiếc thuyền ngư

phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra là một người đàn bà xấu xí đến thô kệch, khuôn

mặt mệt mỏi, tái ngắt sau một đêm thức trắng kéo lưới cùng người đàn ông đầy vẻ

độc dữ. Lão dùng chiếc thắt lưng của lính ngụy, lấy hết sức lực vốn có của một

người đàn ông vạm vỡ miền biển để trút cơn giận như lửa cháy vào thân hình mỏi

mệt của người vợ sau một đêm lao động cực nhọc trên biển khơi. Và sự tàn nhẫn

trên dường như chưa đủ để hắn giải tỏa những bực bội, khó chịu trong lòng, cùng

mỗi nhát quất là một lời nguyền rủa cay độc lão chồng cất lên bằng cái giọng rên rỉ:

“Mày chết đi cho ông nhờ”. Cảnh tượng phi đạo đức đó dưới cái nhìn của người kể

chuyện là một phóng viên ảnh sẽ được miêu tả chân thực và chi tiết hơn bất cứ một

sự tái hiện nào khác. Quả thật, cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài hiện lên như

một thước phim quay chậm, từ thái độ “hùng hổ”, sắc mặt “đỏ gay” đến hành động

quất vợ bằng chiếc thắt lưng của lính ngụy cùng tiếng thở “hồng hộc”, giọng rên rỉ

nguyền rủa vợ của lão đàn ông đều không qua được con mắt “nhà nghề” của người

nghệ sĩ nhiếp ảnh. Và có lẽ chưa cần một lời bàn luận nào khác, sự chân thực của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

bức tranh bạo hành dưới sự miêu tả Phùng đã là một lời tố cáo, lên án sâu sắc thói

74

vũ phu, độc đoán, tàn bạo mà tư tưởng nam quyền đã tạo nên ở người đàn ông hàng

chài. Trao ngòi bút cho nhân vật là phóng viên ảnh, Nguyễn Minh Châu đã khiến

những trang văn của ông trở nên chân thực hơn bao giờ hết, nó không còn là nghệ

thuật nữa. Nó là cuộc đời, một cuộc đời hiện ra trần trụi, thô nhám. Chao ôi, chân lí

của sự toàn Thiện, toàn Mỹ đâu? Giờ chỉ còn cái Chân trần trụi và gai góc của cuộc

sống.

Một khung cảnh nghệ thuật đẹp như trong mơ bỗng phút chốc biến thành

cảnh tượng “đầy quái đản”. Dẫu theo đuổi thứ nghệ thuật thuần túy vì đặc trưng

công việc nhưng với bản chất nghệ sĩ (coi trọng và tôn thờ cái Đẹp – những giá trị

nhân văn của cuộc sống) Phùng không thể nào chấp nhận sự tồn tại của cảnh tượng

“phi nghệ thuật” ấy, để rồi trong khoảnh khắc, anh đã kinh ngạc đến bất động.

Người nghệ sĩ ấy như chết lặng, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt

mình,“cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn”. Thêm nữa, bản năng và cũng là phẩm chất

của một người lính từng vào sinh ra tử để đổi lấy sự bình yên cho cuộc sống càng

khiến anh không thể làm ngơ. Trong vô thức, anh đã ném chiếc máy ảnh (vật bất li

thân của người phóng viên ảnh) từ lúc nào không biết để lao vào ngăn chặn hành

động của người chồng vũ phu. Và rồi sự phản kháng lại hành động vô lí ấy ở Phùng

đã trở nên quyết liệt hơn khi anh lại phải chứng kiến cảnh bạo hành này thêm một

lần nữa, anh đã “nện hắn” – “cái lão đàn ông độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”

“bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng”

chiến đấu chống lại bạo tàn. Với tư cách là một người lính, Phùng đã bày tỏ quan

điểm của mình: “Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh

một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín đáo cho

hắn đánh”. Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã mượn lời nhân vật người kể chuyện để

bộc lộ quan điểm phê phán thói bạo hành tàn ác của người đàn ông – một sản phẩm

trực tiếp và cụ thể của văn hóa nam quyền. Trong câu nói trên, tác giả đã nêu ra

đồng thời phủ nhận hai giả thiết về lí do người chồng đánh vợ. Thứ nhất: “cho dù

đó là vợ”, giả thiết mang hàm ý: “người vợ đồng nghĩa với thân phận bị chồng coi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

thường, ức hiếp chà đạp ”. Thứ hai: “cho dù…tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín

75

đáo cho hắn đánh”, giả thiết này nói lên thái độ cam chịu thiệt thòi, chấp nhận bị

chồng ngược đãi của người làm vợ. Cả hai giả thiết trên đều phản ánh tư tưởng mặc

nhiên, tự nguyện chấp nhận nam quyền ở người đàn bà hàng chài nói riêng và phần

lớn người phụ nữ Việt Nam truyền thống nói chung. Thái độ ứng xử này, Nguyễn

Minh Châu cũng kín đáo phê phán qua trạng thái tâm lí của Phùng: “tôi thấy gian

phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột

ngạt quá” sau khi nghe người đàn bà một mực xin không phải bỏ chồng: “Quý tòa

bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” Anh bức xúc

thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!”

Như vậy, thông qua nhân vật người kể chuyện là một nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng

từng là một chiến sĩ giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh

Châu đã thể hiện sâu sắc thái độ phê phán tư tưởng nam quyền cũng như nỗi âu lo,

trăn trở của nhà văn trước số phận và hạnh phúc của người phụ nữ, của mỗi gia đình

trước sự tác động tiêu cực của “bóng ma” tư tưởng đó. Là người trải qua hai giai

đoạn lịch sử của đất nước, Phùng thấm thía và đau đớn trước bi kịch của con người

trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn và kiếm tìm hạnh phúc. Người lính từng cầm súng

đấu tranh cho sự bình yên của dân tộc như anh ngỡ tưởng chiến tranh qua đi, bình

yên và hạnh phúc sẽ trở về trong mỗi cuộc đời, mỗi mái nhà vậy mà vẫn còn đó

những bi kịch, những số phận, những nghịch cảnh trớ trêu. Vậy làm thế nào để

chấm dứt những bi kịch như bi kịch mà gia đình hàng chài đang phải đối mặt? Làm

thế nào để giải phóng con người, đặc biệt là người phụ nữ thoát khỏi sự cầm tù của

tăm tối, đói nghèo và bạo lực? Câu hỏi này nhà văn không trực tiếp đặt ra trong tác

phẩm mà chuyển thành nỗi ám ảnh trong tâm trí người kể chuyện: “Tuy là ảnh đen

trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh

sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao

giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn

bà vùng biển cao lớn với đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá,

nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám

76

đông”. Qua tâm sự trên của nghệ sĩ Phùng, chúng ta thấy bề ngoài anh vẫn theo

đuổi thứ nghệ thuần thuần túy, “nghệ thuật vị nghệ thuật” nhưng bên trong tâm hồn,

người nghệ sĩ ấy đã có sự “bừng ngộ”. Anh nhận ra nghệ thuật chân chính phải vì

cuộc đời, vì con người, phải ánh chân thực cuộc sống dù hiện thực ấy có gai góc

đến mức nào. Nghệ sĩ phải đưa được cuộc đời vào nghệ thuật và bằng nghệ thuật,

nâng đỡ, bênh vực, bảo vệ con người, mang đến một môi trường sống thật sự nhân

văn để con người được sống một cuộc sống hạnh phúc theo đúng nghĩa. Từ nỗi

niềm đau đáu ấy, Nguyễn Minh Châu thông qua người kể chuyện đã gợi mở một

giải pháp, thông điệp này nhà văn kín đáo gửi vào hai chữ: “cách mạng” gần cuối

tác phẩm: “…cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ

mụ cho đến khi chết – nếu không có cách mạng về”. Như vậy, bằng trách nhiệm và

tấm lòng của một nghệ sĩ thiết tha với số phận con người, Nguyễn Minh Châu đã

đặt kì vọng vào một cuộc cách mạng trong tương lai – một cuộc cách mạng không

chỉ giúp con người thoát khỏi sự cầm tù của đói nghèo, của tăm tối, dốt nát mà còn

thoát khỏi sự cầm tù của những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu.- tư tưởng nam quyền.

3.1.2. Điểm nhìn trần thuật.

Một trong những thành công của Nguyễn Minh Châu trong Chiếc thuyền

ngoài xa là cách lựa chọn điểm nhìn trần thuật sắc sảo. Điều này đã giúp nhà văn

thể hiện rõ thái độ, quan niệm của mình về con người và cuộc đời, trong đó có tư

tưởng phê phán nam quyền – một trong những nguyên nhân đẩy cuộc sống của con

người vào tình trạng khổ đau, bế tắc.

Về điểm nhìn trần thuật, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Điểm nhìn

trần thuật mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, quan sát, cảm thụ

của chủ thể đối với thế giới. Nó là các vị trí dùng để quan sát, cảm nhận đánh giá

bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lí, tâm lí,

văn hóa” [30, tr 149].

Trong tác phẩm tự sự, mọi sự thay đổi luôn bắt đầu từ sự thay đổi điểm nhìn

trần thuật, sáng tác của Nguyễn Minh Châu cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Nếu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

như giai đoạn trước 1975, người kể chuyện thường là người biết hết, biết trước và

77

có điểm nhìn áp đặt một chiều trước hiện thực và con người thì các sáng tác sau

1975, trong đó có Chiếc thuyền ngoài xa đã được Nguyễn Minh Châu chuyển sang

cách tổ chức phối hợp và linh hoạt di chuyền điểm nhìn, tạo ra điểm nhìn trần thuật

đa chiều trong tác phẩm. Cách tổ chức điểm nhìn như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi

cho tinh thần đối thoại và tự đối thoại cởi mở, dân chủ trong văn học. Theo hướng

này, các điểm nhìn có thể đối thoại với nhau về các vấn đề của nhân vật chính trong

truyện ngắn, từ đó nhân vật chính được khắc họa trọn vẹn hơn, hiện thực được nhìn

thấu đáo hơn.

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho cách tổ chức điểm nhìn

nàỳ. Phùng xuất hiện dưới hình thức nhân vật tôi kể lại sự việc với tư cách là người

chứng kiến và với vai trò người dẫn dắt câu chuyện. Trong lúc kể, Phùng đã linh

hoạt luân chuyển lời kể cho người đàn bà hàng chài (tại tòa án huyện). Để người

đàn bà tự kể về câu chuyện cuộc đời mình là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn

nhằm mang đến tính chân thực, sinh động, hấp dẫn của câu chuyện. Bằng điểm nhìn

của người trong cuộc, nhà văn đã dựng lại toàn bộ hành trình số phận của người phụ

nữ miền biển này từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành, làm vợ rồi làm mẹ của đàn con

trên dưới chục đứa, cả gia đình chị sống trên một chiếc thuyền vó bè chật hẹp, mưu

sinh bằng nghề đánh cá. Câu chuyện chị kể lại được lồng trong cuộc đối thoại với

nhân vật Phùng và Đẩu nên người đàn bà có cơ hội được giãy bày tỏ tường ngọn

ngành của nỗi đau cũng như lí do khiến chị thầm lặng chịu đòn chồng. Nhìn lại

cuộc đời mình, chị vừa kể, vừa lí giải, bình luận vừa trực tiếp thể hiện cảm xúc, tâm

trạng: “Giá tôi đẻ ít đi”, “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều

quá”, “giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ”… Qua đó, nhà văn đã mượn lời

nhân vật gửi gắm thái độ phê phán nam quyền ở người đàn ông và ý thức chấp nhận

nam quyền ăn sâu trong nếp nghĩ, nếp cảm cũng như hành vi ứng xử của người đàn

bà. Nội dung này chúng tôi đã phân tích và làm sáng tỏ qua mục 2.2 (Ngƣời vợ

nhƣ là sản phảm của tƣ tƣởng nam quyền).

Việc di chuyển điểm nhìn về phía các nhân vật giúp cho nhà văn được tự do

trong quan sát, bình luận theo chủ kiến của mình về đối tượng phản ánh: Người đàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

ông và hành vi ngược đãi vợ, sự cam chịu của người vợ cũng như bi kịch của gia

78

đình. Tất cả đều được soi chiếu bởi nhiều điểm nhìn khác nhau vừa tạo nên sự

khách quan, đa dạng trong đánh giá vừa khiến quan điểm nhà văn bộc lộ trong tác

phẩm sẽ không những không mang tính áp đặt mà còn trở nên vô cùng thuyết phục.

Chẳng hạn: Ở điểm nhìn của người kể chuyện –một nghệ sĩ luôn yêu cái đẹp, cái

thiện- một chiến sĩ từng đấu tranh chống lại bạo tàn thì hành động bạo hành vợ của

người đàn ông hàng chài là hành động của một người “độc ác và tàn nhẫn nhất thế

gian” không thể tha thứ. Ở điểm nhìn của chánh án Đẩu – người đại diện cho luật

pháp, công lí –người từng cầm súng vào sinh ra tử trong cuộc kháng chiến chống

Mỹ thì hành vi đánh vợ của người đàn ông cũng là biểu hiện của cái xấu, cái ác rất

đáng lên án và chỉ có một giải pháp cho người đàn bà là li hôn bởi “Cả nước không

có một người chồng nào như hắn”. Rõ ràng, sự đánh giá lão chồng là người độc ác,

tàn nhẫn nhất cả nước, nhất thế gian của đôi bạn đồng ngũ kia đã nói hộ nhà văn

tiếng nói phê phán tư tưởng nam quyền mà nhân vật người đàn ông là hiện thân sắc

nét. Ở điểm nhìn của Phác, nhà văn miêu tả những phản ứng của nó với cha mình có

sự tăng dần mức độ nghiêm trọng mà căn nguyên là xuất phát từ tình yêu ngây thơ,

bồng bột, muốn đòi công bằng cho mẹ. Với người con gái dù mới bước vào tuổi

thiếu nữ phần nào đã hiểu những vất vả của mẹ và nỗi bức bối của người cha trong

cuộc sống nên cô chọn sự cam chịu, nhẫn nhịn, có lúc có cách ứng xử phù hợp với

hoàn cảnh, khi cần đã có những can thiệp kịp thời. Dưới cái nhìn của người trong

cuộc cũng là nạn nhân trực tiếp của bạo hành – người đàn bà hàng chài thì lão đàn

ông vũ phu lấy việc đánh vợ làm phương thức giải tỏa tâm trạng khổ đau của riêng

mình cũng chỉ là một nạn nhân. Và những hành động tàn nhẫn của lão chồng lại cần

và đáng được cảm thông. Ở điểm nhìn này, người vợ có ý muốn bênh vực, “bào

chữa” cho người chồng nhưng sự tinh tế và sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Minh

Châu đã cho chúng ta thấy thái độ ứng xử ấy của người phụ nữ cũng là sản phẩm

của văn hóa nam quyền. Trong truyện Khách ở quê ra cũng có sự di chuyển linh

hoạt điểm nhìn như vậy. Từ người kể chuyện sang nhân vật Định rồi chuyển qua lão

Khúng, rồi Định lại trao cho lão Khúng điểm nhìn để Khúng tự mình cảm nhận về

vùng đất khai phá, về mụ Huệ cùng những đứa con và những người lang biển. Định

còn trao điểm nhìn cho chính nhân vật mụ Huệ để Huệ có được những giây phút

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

vượt thoát khỏi lão Khúng mà tương tư với thằng Mới hay để Huệ suy tư về cuộc

79

sống về viễn cảnh vùng đất đang sống sẽ là một thành phố tương lai. Qua sự di

chuyển linh hoạt điểm nhìn giữa các nhân vật, cuộc đời, tính cách độc đoán của lão

Khúng được hiện lên đầy đủ trong vai trò một người chủ gia đình – trong đó có sự

áp chế đầy độc đoán trong việc tự mình quyết định sức khỏe sinh sản của mụ Huệ.

Như vậy, sự khéo léo di chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện sang các nhân

vật khác giúp nhà văn phơi bày một cách chân thực toàn bộ bức tranh xám xịt về

cuộc đời cũng như gia đình của người đàn bà hàng chài. Đồng thời thể hiện một cái

nhìn đa chiều về hành động tàn bạo của người đàn ông mang tư tưởng nam quyền

và một cái nhìn toàn diện hơn về nỗi khổ cực của người đàn bà dưới sự áp chế của

văn hóa nam quyền. Việc linh hoạt điểm nhìn trần thuật là một bước tiến trong cách

tiếp cận hiện thực đời sống của Nguyễn Minh Châu, góp phần thể hiện đắc lực tinh

thần phê phán nam quyền và ý thức bảo vệ nữ quyền của tác giả - một trong những

biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của nhà văn sau năm 1975.

3.2. Xây dựng chân dung nhân vật

Trong tác phẩm tự sự, nhân vật là yếu tố quan trọng không chỉ giúp nhà văn

khái quát, phản ánh hiện thực mà còn thể hiện tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của

nhà văn về con người và cuộc đời. Nhân vật cũng là nơi kí thác những nỗi niềm trăn

trở, những ước mơ, khát vọng của người cầm bút trước hiện thực cuộc sống. Sức

hấp dẫn của một tác phẩm văn học vì thế trước hết thể hiện ở sức hấp dẫn của hình

tượng nhân vật, đó cũng là linh hồn của mỗi sáng tác văn chương. Do vậy, công phu

của người viết truyện bao giờ cũng thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Lý luận văn học đã chỉ ra các phương diện cần thiết để nhà văn xây dựng

thành công một hình tượng nhân vật văn học như ngoại hình, ngôn ngữ, tính cách,

hành động, nội tâm, mối quan hệ với các nhân vật khác,… Tuy nhiên, tùy theo ý đồ

nghệ thuật của mình mà mỗi nhà văn sẽ có những lựa chọn khác nhau trong cách

xây dựng nhân vật. Người thì tập trung khác họa ngoại hình, tính cách; người thì

nghiêng nhiều về những xúc cảm nội tâm; người lại xoáy vào những mâu thuẫn,

giằng xé bên trong. Nguyễn Minh Châu trong Chiếc thuyền ngoài xa khi khắc họa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

chân dung nhân vật cặp vợ chồng hàng chài như là hiện thân và sản phẩm của tư

80

tưởng, văn hóa nam quyền đã có lựa chọn riêng về những phương miêu tả như

ngọai hình, cử chỉ, hành động…trong đó mỗi sự miêu tả đều là sự gửi gắm một

quan niệm nhất định của nhà văn về con người cần được người đọc giải mã.

3.2.1. Chân dung người chồng.

Như trên chúng tôi đã nói, lựa chọn nhân vật người kể chuyện là một nghệ sĩ

đồng thời cũng từng là một người lính, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự sắc sảo,

già dặn trong nghệ thuật viết truyện của mình. Trong tác phẩm, toàn bộ chân dung

nhân vật người đàn ông hàng chài đều hiện lên qua cái nhìn của Phùng. Khả năng

bao quát hiện thực, óc quan sát, đôi mắt tinh tường “nhà nghề”…tất cả sở trường

của một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài năng được phát huy cao độ để đặc tả chân dung của

nhân vật. Vì thế, tính chân thực của đối tượng miêu tả sẽ bộc lộ rõ nét tư tưởng

nghệ thuật của nhà văn, trong đó có tinh thần phê phán nam quyền.

Trong một số lượng nhân vật không nhiều nhưng tác giả chỉ dừng lại miêu tả

ngoại hình của hai nhân vật chính – cặp vợ chồng hàng chài là bởi chân dung ngoại

hình của họ có lẽ cũng chuyển tải một cách tinh vi những thông điệp của người cầm

bút. Bước vào tác phẩm, người đàn ông để lại ấn tượng ban đầu nơi bạn đọc là một

ngoại hình thô kệch nhưng lại toát lên sự khỏe khoắn, vạm vỡ, chắc chắn của một

người đàn ông miền biển với“Tấm lựng rộng và cong như một chiếc thuyền”,

“Tảng lưng khum khum và vạm vỡ”, “ Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc

chắn”. Ngoại hình đó còn in đậm dấu ấn của cuộc mưu sinh bằng nghề chài lưới.

Sự vất vả, nhọc nhằn của công việc được phản ánh qua “mái tóc tổ quạ” ,“hàng

lông mày cháy nắng” và “khuôn ngực trần cháy nắng”. Đặc biệt, đôi mắt nhân vật

được nhà văn đặc tả với vẻ hung dữ: “hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn

dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới…của người đàn bà”. Sự “độc dữ”

trong đôi mắt là một chi tiết “biết nói”, nó cho thấy bên trong cái cơ thể vạm vỡ, to

lớn, cường tráng kia là cả một thế giới nội tâm đầy dữ dội, dữ dằn, hung bạo đến

quyết liệt. Trong tác phẩm, chúng tôi nhận thấy sự lựa chọn những chi tiết miêu tả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

ngoại hình nhân vật của nhà văn đều hướng tới làm nổi bật sức mạnh, không chỉ vì

81

đó là yếu tố cần có của một người đàn ông làm nghề vó bè mà còn vì đó là biểu hiện

cho quyền năng, cho vị trí làm chủ của người đàn ông trong gia đình theo tư tưởng

nam quyền. Văn hóa nam quyền quan niệm người đàn ông luôn đồng nghĩa với sức

mạnh. Vai trò thống ngự, tính cách độc đoán, gia trưởng mà xã hội cấp cho họ vừa

là một biểu hiện, vừa củng cố, nâng cao uy quyền của họ đối với gia đình. Và tất

nhiên, họ sẽ dùng cái quyền uy “tối thượng” ấy của mình để đối xử với vợ con.

Cùng với ngoại hình, những chi tiết miêu tả khác cũng toát lên sự tàn nhẫn, vũ phu

của người chồng. Thái độ “hùng hổ”, nét mặt “đỏ gay” kia như thể lão đã “chuẩn

bị” để trút lên “đối phương” tất cả những bực dọc, giận dữ, những uất ức nào đó

trong lòng. Và ai ngờ đâu, “đối phương” phải hứng chịu cơn bạo hành tàn ác ấy lại

chính là người bạn đời – người vợ - người mẹ của những đứa con lão. Tiếng thở

“hồng hộc” cùng “hai hàm răng nghiến ken két” đủ thấy được lão đang trút lên tấm

thân mỏi mệt của vợ tất cả sức mạnh của đòn roi và sự uất ức, bực dọc trong lòng.

Dáng đi hình “chữ bát” của lão được nhà văn miêu tả hai lần cũng hàm chứa một

quan niệm của ông về con người: “ Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc

chắn” và “hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang

vắng”. Chữ “bát” - “八” trong tiếng Hán dùng để tả kiểu đi hai bàn chân xoạc ra hai

bên, ở đây dáng chân đi hình chữ “bát” của lão đàn ông là kiểu đi hướng hai bàn

chân ra hai bên vừa khệnh khạng, vừa oai vệ như là hiện thân cho sức mạnh quyền

lực chúa tể của lão trong gia đình. Theo một số tài liệu không chính thức còn cho

rằng, người có dáng đi này thường có nét tâm lý và tính cách bảo thủ. Tìm hiểu ý

nghĩa của chữ “bát” như trên, chúng tôi cho rằng: cái dáng đi chữ “bát” đầy uy

quyền đó được nhà văn so sánh như “một con gấu đang đi tìm nguồn nước”, để lại

những “vết chân to và sâu” trên bãi cát như một lời khẳng định thứ quyền lực tuyệt

đối - bất khả xâm phạm của lão đàn ông – vừa đầy bản năng vừa dữ tợn, khiến

những người xung quanh phải khiếp sợ và phục tùng theo. Hành động dang thẳng

cánh tay cho thằng Phác hai cái tát như minh chứng cho sự trả giá của sự đi ngược

lại với quyền lực đó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

3.2.2. Chân dung người vợ

82

Bên cạnh lão đàn ông hàng chài, nhà văn cũng rất chú trọng khắc họa chân

dung người vợ – nhất là yếu tố ngoại hình. Dưới cái nhìn của nghệ sĩ nhiếp ảnh

Phùng, người đàn bà hiện lên với một ngoại hình thô kệch như những nét vẽ vội của

tạo hóa: “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà

vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt” Sự thua thiệt về nhan

sắc phần nào đã dự báo một số phận kém máy mắn của người phụ nữ này. Trong

khi khắc họa chân dung người đàn bà, nhà văn đã tăng cường các chi tiết về cuộc

đời của chị để mang đến cho người đọc một hình dung đầy đủ về cuộc đời của nhân

vật. Từ nhỏ, chị đã “là một đứa con gái xấu xí”, lại thêm bệnh đậu mùa để lại di

chứng trên gương mặt chị bằng những nốt rỗ chằng chịt. Vậy là xấu càng thêm xấu,

“trong phố không ai lấy” nghĩa là chị không có cơ hội được chủ động lựa chọn hạnh

phúc cho riêng mình như bao người con gái khác. Chị “có mang với một anh con

trai hàng chài giữa phá” và đó cũng là lí do chị bắt đầu cuộc đời làm vợ, làm mẹ

bên người chồng vũ phu và một đàn con đông đúc trên một chiếc thuyền vó bè chật

chội. Trong những chi tiết miêu tả ngoại hình nhân vật, Nguyễn Minh Châu hơn

một lần miêu tả khuôn mặt, tấm áo và thân hình của chị sau một đêm kéo lưới:

“Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang

buồn ngủ (...) tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. [9,

tr.256]. Hình ảnh khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt, đang buồn ngủ đã nói lên tính chất

công việc của người đàn bà: phải thức đêm nhiều, lao động vất vả, không còn thời

gian để chăm sóc bản thân. Ngoại hình ấy đã hé lộ một số phận, một cuộc đời đầy

truân chuyên, chìm nổi với những khổ đau và nghịch cảnh. Phải chăng chị là hiện

thân của sự nghèo khổ, vất vả và cam chịu. Những chi tiết: tấm lưng áo bạc phếch,

rách rưới có miếng vá và nửa thân dưới ướt sũng xuất hiện trở đi trở lại, đã phần

nào gợi lên sự chua xót ở người đọc về hoàn cảnh khốn khó, khổ sở của người đàn

bà. Một đời làm vợ, chị không bao giờ nghĩ tới bản thân, chấp nhận mọi thua thiệt

để một lòng chăm lo vun vén cho gia đình. Nếp sống này bắt nguồn từ nếp nghĩ an

phận, cam chịu, phó mặc cuộc đời mình cho chồng của người phụ nữ sống theo tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

tưởng nam quyền. Để rồi, đã có lúc người phụ nữ ấy “đưa một cánh tay lên có lẽ

83

định gãi hay sửa lại mái tóc” như một biểu hiện của bản năng của tính nữ, đó là nhu

cầu làm đẹp.“ nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.

Phải chăng đó là biểu hiện của mặc cảm thân phận, của sự cam chịu, thậm

chí là sự nô lệ, phục tùng mà người vợ bất hạnh ấy đã tự nguyện coi đó như bổn

phận của mình. Bởi vậy mà dù vừa bị chồng bạo hành một cách tàn nhẫn, lại đau

đớn đến quặn thắt con tim trước sự kiện đứa con trai vì bảo vệ mẹ mà lao vào đánh

bố nhưng người vợ, người mẹ ấy ngay lập tức phải gạt nước mắt, ghồng mình chôn

vùi nỗi đau tận sâu đáy lòng như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra để “đi thật

nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về

chiếc thuyền”. Chi tiết này cùng hình ảnh “đưa cặp mắt nhìn xuống chân”, “Mụ

đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia”và “khuôn mặt cúi gằm

xuống” đã thay nhà văn nói lên nỗi buồn thân phận và ý thức cam chịu, mặc nhận

bổn phận phục tùng chồng của người đàn bà hàng chài. Nhìn từ văn hóa ứng xử

giới, chúng tôi nhận thấy tư tưởng nam quyền đã tác động sâu sắc đến ý thức của

nhân vật khiến mọi hành động, cử chỉ, ngoại hình của chị đều toát lên tinh thần chấp

nhận, khuất phục số phận. Ngay cả cái dáng vẻ “ sợ sệt, lúng túng” và hành động

“tìm đến một góc tường để ngồi…ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”

của người đàn bà khi chị đến tòa án huyện theo lời mời của Đẩu để giải quyết việc

gia đình cũng nói lên rất rõ sự tội nghiệp của người phụ nữ. Trong quan niệm xưa,

người phụ nữ luôn bị coi thường, họ không có tiếng nói trong bất cứ phương diện

nào của cuộc sống kể cả trong gia đình đến ngoài xã hội. Cuộc đời họ bị trói buộc

trong những công việc gia đình với những bếp núc, cửi canh để làm tròn bổn phận

người vợ, người mẹ. Không gian sống chỉ chật hẹp trong bốn bức tường. Với người

đàn bà hàng chài, ngoài chiếc thuyền vó bè chật chội được coi là không gian sống

của gia đình, chị cũng chỉ biết đến biển khơi đầy sóng gió. Đó là tất cả những gì chị

biết về về thế giới này. Vậy nên, khi được mời đến tòa án huyện – một không gian

khác với không gian hàng ngày chị đối mặt, mặc dù đã là lần thứ hai, chị vẫn không

giấu nổi sự lúng túng, ngại ngùng và cảm giác tự ti đến tội nghiệp.

Như vậy, với những chi tiết đặc tả về chân dung người đàn bà hàng chài như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

ngoại hình, cử chỉ, thái độ… Nguyễn Minh Châu đã mang đến cho người đọc một

84

hình dung trọn vẹn về người phụ nữ miền biển vất vả, cơ cực trong cuộc mưu sinh

với nếp cảm, nếp nghĩ và cách hành xử (với bản thân và gia đình, đặc biệt với người

chồng) còn in đậm dấu ấn của tư tưởng nam quyền. Khám phá và miêu tả con người

ở phương diện này là một biểu hiện của giá trị nhân bản, nhân đạo sâu sắc của ngòi

bút Nguyễn Minh Châu không chỉ trong Chiếc thuyền ngoài xa mà người đọc còn

Trong Chợ Tết, nhân vật mụ Tề cũng hiện lên đầy cảm thương qua những

tìm thấy trong những sáng tác sau năm 1975 của nhà văn.

nét vẽ ngoại hình chân thực của người cầm bút. Nhân vật hiện lên với “một mớ váy,

yếm cũ rách phấp phới” và “mớ áo yếm tanh rềnh”. Nét đặc sắc của cách tả nằm ở

chỗ áo yếm được ví như mớ tôm, mớ cá ngoài chợ mà mụ đang cắm mặt xuống để

chọn. Ở đây, trang phục không chỉ nói lên cái vất vả đặc trưng của nghề nghiệp

mưu sinh mà còn cho thấy thân phận hèn mọn cùng những thua thiệt, tủi hờn của

cuộc đời người phụ nữ. Đọc Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, ta cũng bắt

gặp những trang văn tả đám đàn bà “kẻ biển” đang say sưa “chạy cá” khi lão Khúng

gặp ở chợ Cầu Giát: “Họ chạy thành từng đám dăm bảy mụ, mươi mụ, mụ nào cũng

cao lớn như hộ pháp, váy mụ nào mụ nấy bị xé gần tới đầu gối, yếm áo tả tơi, mà

phần lớn ở trần, mồ hôi nhẫy ra, họ chạy vừa la hét dẹp đường, vũ khí tấn công

cũng như tự vệ là cặp khuỷu tay lúc nào cũng chĩa ra hai bên…”.[9, tr.598]. Văn

hay đời mà xót xa đến thế? Vì miếng ăn sinh tồn, vì bổn phận và trách nhiệm của

người làm vợ, làm mẹ hay vì mặc nhận thân phận “nô lệ” trong gia đình mà người

phụ nữ phải bươn trải mưu sinh đến quên cả bản thân mình? Thiết nghĩ không cần

có thêm bất cứ một lời bình luận nào về số phận của những người phụ nữ trên khi

mà dưới ngòi của Nguyễn Minh Châu, văn chương đã thật hơn cả cuộc đời!

3.3. Ngôn ngữ nhân vật

Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Nhà văn lấy ngôn ngữ làm chất liệu để

sáng tạo nên những tác phẩm văn chương, ở đó ngôn ngữ được sử dụng với tất cả

khả năng và hiệu quả nghệ thuật để phục vụ cho việc xây dựng hình tượng, biểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

hiện tình cảm, thái độ, tư tưởng của nhà văn. Do đó, công phu lao động nghệ thuật

85

của người nghệ sĩ thể hiện ở công phu lựa chọn ngôn ngữ sao cho phù hợp, chở tải

được thông điệp mà nhà văn muốn gửi tới bạn đọc.

Trong cuộc đời viết văn của mình, Nguyễn Minh Châu rất coi trọng ngôn

ngữ. Ông cho rằng nhà văn như một người thợ thủ công mà bằng “ một cách thức

tài nghệ riêng biệt của mình, đập từng chữ ra tìm cho được cái nghĩa nguyên thủy

của nó, rồi lại bằng một cách thức riêng biệt không có ai giống ai và không thể bắt

chước được, đem ghép những con chữ ấy lại với nhau thành câu, thành đoạn, cuối

cùng trở thành một thứ có cả thể xác và tâm hồn trong một tác phẩm văn học”. [18].

Trên tinh thần đó, đến với sáng tác của Nguyễn Minh Châu, người đọc cần giải mã

các tín hiệu ngôn ngữ để nhận biết tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, cần tìm cho ra

linh hồn của mỗi con chữ để cảm được linh hồn của tác phẩm. Trong Chiếc thuyền

ngoài xa, sự lựa chọn ngôn ngữ của tác giả xuất phát từ một quan niệm, một nhận

thức, một lí giải nào đó về con người và cuộc sống, trong đó có sự lên án, phê phán

tư tưởng nam quyền trong việc tạo nên những bi kịch, những câu chuyện buồn trong

cuộc đời của người phụ nữ. Dưới đây, chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu ngôn ngữ của

nhân vật chính – cặp vợ chồng hàng chài

3.3.1 Ngôn ngữ người chồng

Dù là nhân vật chính nhưng người chồng xuất hiện trong tác phẩm không nhiều, tuy

nhiên cũng đủ để tạo nên ấn tượng sâu đậm nơi người đọc về một người đàn ông vũ

phu, tàn ác, độc đoán, chuyên quyền – một sản phẩm tính cách của văn hóa nam

quyền. Điều này không chỉ toát lên qua những nét vẽ ngoại hình, điệu bộ, hành

động… của nhân vật như chúng tôi đã phân tích ở trên mà còn được biểu hiện sinh

động qua sự lựa chọn ngôn ngữ của nhà văn khi viết về nhân vật.

Bước vào tác phẩm, nhân vật thể hiện sự hiện diện của mình đầu tiên bằng

câu nói : “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đối tượng hướng

tới của câu nói này dựa vào ngữ cảnh có lẽ là đứa con gái lớn. Như vậy câu nói là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

lời thoại của một người cha đối với con và dựa vào sự giao tiếp này, người đọc có

86

thể nhận biết nhiều điều về bản chất của nhân vật cũng như đặc điểm của mối quan

hệ trên.

Câu nói “ Cứ ngồi yên đấy” có sự tỉnh lược cả chủ ngữ và vị ngữ, lại là câu

cầu khiến cho thấy vị trí làm chủ và uy quyền tuyệt đối của người đàn ông trong gia

đình. Lão tự cho mình cái quyền áp đặt, sai khiến vợ con theo chủ ý của riêng lão.

Cách xưng hô “tao/ mày” lạnh lùng, lời đe dọa đầy bạo lực vốn không phải để dùng

trong mối quan hệ cha con, thứ nữa có thể lại là với đứa con gái đã ở tuổi được gọi

là “thiếu nữ”. Sự cục cằn, thô bạo trong ngôn ngữ cùng giọng điệu quát nạt đã thể

hiện rõ nét sự thất học cùng bản chất thô lỗ, dữ dằn, độc ác của người đàn ông. Và

sự độc ác, hung bạo đó được đẩy lên mức tàn nhẫn trong cảnh lão đánh vợ. Cùng

với mỗi nhát roi bằng chiếc thắt lưng của lính ngụy quất xuống người đàn bà, lão

lại cất lên lời nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ.

Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Vẫn là ngôn ngữ cục cằn, cả vợ, cả con cũng

trở thành “mày” và“chúng mày” còn lão thành “ông” (ngôn ngữ của kẻ bề trên và

xác lập địa vị bề trên của lão trong gia đình). Vợ và con, tất cả đều đáng chết vì đã

khiến lão khổ. Trên kia là dọa “giết” và dưới này là rủa cho “chết” và “chết hết” là

cách của một người chồng đang giao tiếp với những người thân trong gia đình của

lão. Bằng cái nhìn hiện thực sắc sảo, Nguyễn Minh Châu đã đưa vào sáng tác của

mình bức tranh cuộc sống của gia đình hàng chài bằng những nét vẽ chân thực nhất

Ngòi bút của ông “không né tránh hiện thực phũ phàng. Ông đưa lên trang sách

dáng hình, ngôn ngữ thô lỗ, cục cằn và hành động phi nhân tính của lão đàn ông”

[25, tr.240]. Đánh vợ, dọa con, thậm chí nguyền rủa họ bằng những lời lẽ cay độc là

cách để người đàn ông – người chồng – người cha này giải tỏa mọi bức bối, khó

chịu trong lòng. Cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn đã làm tha hóa nhân cách con

người, gánh nặng cơm áo đã biến con người ta thành cầm thú hay đó là cách hành

xử của những người đàn ông mang tư tưởng nam quyền? Cái gì đã khiến lão đàn

ông “chìm lú” (Chu Văn Sơn) không đủ bình tĩnh để nhận ra đâu là nguồn gốc của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

nỗi khổ cuộc đời mình, để rồi trút tất cả căm giận vào trong lời nói, trong những

87

trận đòn roi lên thân thể người vợ? Thiết nghĩ, gánh nặng áo cơm và nỗi cơ cực của

cuộc mưu sinh là nguyên nhân thuộc về hoàn cảnh – tác nhân bề nổi. Còn nguyên

nhân sâu xa – tác nhân bề chìm thuộc về ý thức, tư tưởng của người đàn ông, đó là

sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng nam quyền - thứ tư tưởng đề cao và bảo vệ đặc

quyền, đặc lợi của người đàn ông và coi thường, rẻ rúng người phụ nữ. Tư tưởng

này đã ăn sâu vào tiềm thức, chi phối nếp nghĩ, nếp cảm và mọi hành vi ứng xử

cũng như ngôn ngữ giao tiếp của người chồng mà nạn nhân trực tiếp chính là vợ và

các con lão.

Trong Phiên chợ Giát – một sáng tác khác của Nguyễn Minh Châu, người

đọc nhận thấy ở nhân vật lão Khúng cũng có kiểu giao tiếp bằng ngôn ngữ giống

như ở người đàn ông hàng chài. Hãy nghe lão đối thoại với nhân vật cô y tá: “Đủ

sao được ? Dù vợ không muốn lão cũng bắt đẻ…Cái kho người nằm trong bụng vợ

chứ có ở đâu xa? ”. Dùng câu nghi vấn, cách nói phủ định: “Đủ sao được?”vừa

nhằm phủ nhận quan điểm của cô ý tá trong lời khuyên mụ Huệ - vợ lão: “Chị Huệ,

chị đẻ ít thôi, ba con là đủ rồi” vừa thể hiện quyền uy của người chồng này đối với

vợ kể cả trong việc sinh con. Đó là một thứ uy quyền tuyệt đối mà người vợ chỉ

được phép tuân theo dù không muốn. Ngôn ngữ của nhân vật thể hiện rõ sự áp đặt,

sai khiến: “dù không muốn lão cũng bắt”. Cách xưng hô: “lão” cũng toát lên vị trí

bề trên, vai trò làm chủ trong gia đình và đối với cả cuộc đời người vợ. Chính tư

tưởng nam quyền đã cấp cho họ cái quyền năng ấy, biến người đàn ông trở thành

“ông chủ” được phép sở hữu và đối xử với vợ mình như một “nô lệ”, thiếu sự tôn

trọng tối thiểu đối với vợ cả về thể xác lẫn tinh thần.

3.3.2 Ngôn ngữ người vợ

Khác với ngôn ngữ của người đàn ông hàng chài, ngôn ngữ người vợ trong

tác phẩm có phần đa dạng hơn. Sự miêu tả ngôn ngữ của nhân vật này được tập

trung chủ yếu ở không gian của tòa án huyện, trong cuộc giao tiếp với Phùng và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

Đẩu về câu chuyện cuộc đời cũng như bi kịch gia đình mà chị đang phải đối mặt.

88

Tại tòa án huyện, cùng với thái độ sợ sệt, lúng túng, ngôn ngữ của người đàn

bà đã thể hiện rõ mặc cảm thân phận thấp hèn. Đây là nét tâm lí phổ biến của người

phụ nữ xưa mà xã hội nam quyền đã tạo nên. Sau khi nghe Đẩu – một vị chánh án,

người đại diện cho pháp luật bày tỏ quan điểm trước sự kiện bạo hành trong gia

đình mình: “Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không

sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?”, người đàn bà lập

tức chắp tay vái lạy và cất tiếng: “Con lạy quý tòa…Quý tòa bắt tội con cũng được,

phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…” Cách xưng hô tự hạ thấp mình như

một kẻ bề dưới “con”cùng lối nói cầu xin van vỉ của người đàn bà trong lượt thoại

này nhằm khơi gợi lòng thương, sự đồng cảm ở Đẩu để anh không bắt chị bỏ chồng.

Ý thức cam chịu, tư tưởng chấp nhận thân phận “nô lệ”, phục tùng chồng khiến chị

không nhận ra bản thân cuộc sống hiện tại của mình đang là một “ngục tù”, để rồi

khi có cơ hội được giải thoát, chị lại từ chối bằng mọi cách, thậm chí sẵn sàng bước

vào ngục tù để bảo vệ một thứ “ngục tù” khác còn khủng khiếp hơn gấp nhiều lần.

Ở lượt thoại khác, khi chánh án Đẩu tỏ thái độ thỏa hiệp, người đàn bà có sự

thay đổi ngôn ngữ. Từ cách xưng hô “con/ quý tòa” chuyển thành “chị/ các chú”

nhằm xác lập quan hệ bình đẳng, thậm chí còn đứng cao hơn Đẩu và Phùng, tạo một

hoàn cảnh và tâm thế giao tiếp gần gũi, cởi mở, từ đó người đàn bà dốc bầu tâm sự,

kể lại câu chuyện cuộc đời mình. Đó là một cuộc đời đầy giông bão. Thứ giông bão

ngoài biển khơi khiến cuộc mưu sinh của gia đình chị chưa bao giờ hết cơ cực:

“suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm

muối” nó quăng quật, bào mòn thân xác, sức khỏe chị và gieo vào lòng người đàn

ông – chồng chị bao nỗi u uất, khổ đau Cuộc đời chị còn phải thường xuyên đối mặt

với một cơn giông bão, tố lốc khác. Đó là cơn bão đòn roi, cơn bão bạo hành đến từ

người chồng mang tư tưởng nam quyền cổ hủ: “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão

lại xách tôi ra đánh”. Lời tâm sự trên của người đàn bà thể hiện rõ thái độ phê phán

của tác giả về thói tàn nhẫn trắng trợn – sản phẩm tính cách của tư tưởng nam quyền

ở lão đàn ông. Tinh thần phê phán đó còn hướng về thái độ cam chịu của người đàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

bà. Nếu nghĩ sâu hơn chúng ta thấy lời tâm sự trên không hề hàm chứa một thái độ

89

oán thán, căm hận nào của người vợ trước sự ích kỉ, độc ác của người chồng. Thậm

chí chị còn tự nguyện đưa tấm thân ra cho chồng trút giận. Chị kể: “Sau này con cái

lớn lên, tôi mới xin được mới lão… đưa tôi lên bờ mà đánh” Đáng thương, đáng

trọng mà cũng đáng trách thay khi chị lại cam chịu cầm tù mình trong cuộc sống

không khác gì địa ngục. Phải chăng, từ sâu trong tư tưởng chị đã bằng lòng chấp

nhận bạo lực như một phần tất yếu của đời sống gia đình. Và chị thấy rằng mình cần

phải hoàn thành nghĩa vụ của người vợ khi chồng gặp những vấn đề nảy sinh từ đời

sống. Nếu có thở than, chị cũng chỉ đổ lỗi và tự trách mình; “Giá tôi đẻ ít đi”, “cái

lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”. Chị giãi bày lí do chị không thể bỏ

chồng với Phùng và Đẩu: “là bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các

chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có

đàn ông”, “đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo

chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con” Trong tâm sự

trên, ngoài lí do cần có người đàn ông cùng chị trong cuộc mưu sinh nhiều khó

khăn, hiểm nguy trên biển để nuôi đàn con đông đúc, có lẽ còn do tâm lí sống phụ

thuộc, chấp nhận một lòng theo chồng dù người chồng đó có xấu xa, tàn nhẫn đến

thế nào do tư tưởng nam quyền tạo nên.

Qua sự phân tích trên có thể thấy bên cạnh những phương thức, phương tiện

nghệ thuật khác, ngôn ngữ cũng là một yếu tố nghệ thuật có vai trò quan trọng trong

việc soi sáng chủ đề cũng như tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong

Chiếc thuyền ngoài xa nói riêng và nhiều tác phẩm khác cùng chung tinh thần phê

phán nam quyền của ông nói chung. Bởi vậy, dường như không có một yếu tố ngôn

ngữ nào hiện diện trong sáng tác của nhà văn mà không ít nhiều chứa đựng một

thông điệp, một thái độ, một nhắn nhủ nào đó trước cuộc đời.

3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật

Theo Từ điển điển thuật ngữ văn học, không – thời gian nghệ thuật là hình

thức bên trong thuật thể hiện tính chính thể của nó. Đây là hai phạm trù có mối quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

hệ mật thiết trong chỉnh thể nghệ thuật. Tổ chức không gian và thời gian nghệ thuật

90

là một trong những phương diện kết cấu của tác phẩm được các nhà văn sử dụng để

làm nổi bật tính cách nhân vật, chuyển tải chủ đề tư tưởng.

3.4.1. Không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật là“hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể

hiện tính chính thể của nó” [14, tr.160], do đó “Không gian nghệ thuật chẳng

những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng,

mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một

giai đoạn văn học”. [2, tr.161].

Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Không

có một hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, khôn có nhân vật nào không

có một nền cảnh nào đó. Như vậy, không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và

triển khai của thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm

lĩnh đời sống, “mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”. Và sự miêu tả, trần thuật bên

trong tác phẩm văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, ta xác định được vị

trí của chủ thể trong không - thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, diễn ra trong

một trường nhìn nhất định. Căn cứ vào điểm nhìn mà xác định được vị trí của chủ thể

trong không - thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn, khoảng cách nhìn, ở đặc điểm

của khách thể được nhìn. Điểm nhìn không gian được thể hiện qua các từ chỉ phương

vị (phương hướng, vị trí), để tạo thành “viễn cảnh nghệ thuật”.

Bước vào truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, người đọc được sống trong

không gian rộng lớn mênh mông của một vùng biển miền Trung cách Hà Nội trên

sáu trăm cây số. Đây là một vùng nước “thật là thơ mộng, và dường như là trong

suốt dải bờ biển của khắp cả nước, chỉ ở đây vào tháng bảy là còn sương mù”, nó

“có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu” Theo

yêu cầu của trưởng phòng, Phùng phải chụp được một bức ảnh nghệ thuật về thuyền

và biển trong một buổi sáng có sương. Như vậy, đây là không gian, địa điểm lí

tưởng để nghệ sĩ Phùng tác nghiệp và có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

mình, mang về cho trưởng phòng một tấm ảnh ưng ý.

91

Phóng viên Phùng sau nhiều ngày lăn lộn với vùng biển này, cuối cùng anh

cũng đã bắt gặp được một cảnh đẹp trời cho, anh bấm liên thanh để thu vào khuôn

hình những cảnh đẹp đó. Nhưng ngay sau đó, anh lại đối diện với một cảnh về cuộc

bạo hành ở gia đình hàng chài. Liên tiếp chứng kiến hai sự việc trái ngược nhau diễn

ra ngay trước mắt khiến cho nhận thức về nghệ thuật của người nghệ sỹ phải thay đổi:

“Anh bỗng “trật khớp” giữa cái đẹp ngoại cảnh và số phận cực nhọc của con người

sống giữa cái ngoại cảnh thơ mộng ấy”, [33, tr.239]. Ở điểm nhìn từ xa, qua một làn

sương, cuộc sống hiện lên vô cùng thơ mộng. Nhưng ở cự li gần, bằng cái nhìn trực

diện, cuộc sống mới hiện ra với tất cả những gì thật nhất. Đó là sự thật về cuộc mưu

sinh trên biển của những người dân chài, sự thật về cuộc đời của người đàn bà miền

biển với những trận đòn roi, những giọt nước mắt.

Để làm nổi bật sức ảnh hưởng của tư tưởng nam quyền và hậu quả nặng nề mà

nó mang đến cho cuộc sống của con người, Nguyễn Minh Châu đã thật tinh tế khi lựa

chọn không gian vùng biển miền trung này. Nằm cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số,

nghĩa là vùng đất này hoàn toàn rời xa cuộc sống văn minh, hiện đại không tiếp cận

được những đổi thay mọi mặt của cuộc sống con người. Do vậy, Nơi đây còn “hoang

vắng”, “hoang sơ” như thời hồng hoang nguyên thủy. Người dân vốn đã thưa thớt lại

không có điều kiện để giao lưu văn hóa, trao đổi thông tin, họ chỉ “liên kết với nhau

trong một đêm hoặc một ngày” vì công việc, “thường thường mỗi thuyền là một gia

đình”, “cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh đẻ

con cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có.

Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất

nào”. Như vậy, cả một vùng đất là một thế giới gần như tách biệt khỏi cuộc sống văn

minh, hiện đại của con người đang đổi thay từng ngày. Mỗi gia đình trong vùng trời

nước mênh mông ấy lại là một thế giới nhỏ riêng biệt. Mỗi con người trong mỗi gia

đình biệt lập ấy lại cũng là một tiểu vũ trụ khép kín. Vậy nên, những ngư dân nơi đây

vô tình bị đẩy vào cuộc sống tăm tối, mông muội, lạc hậu. Tư tưởng nam quyền cổ hủ

cũng vì thế mà có “đất” để tồn tại, thậm chí còn cắm rễ sâu vào đời sống của con

người, mang lại bao nhiêu những đau đớn, những nghịch cảnh mà con người không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

thể vượt qua. Môi trường sống lạc hậu, con người lại không có điều kiện xích lại gần

92

nhau để chia sẻ, thấu hiểu, bênh vực…điều này cũng góp phần giải thích vì sao người

chồng cứ mặc nhiên hành hạ, đánh đập vợ ngày này qua ngày khác và người vợ cứ

âm thầm, lặng lẽ hứng chịu đòn roi. Và chắc chắn, nỗi đau đớn, tủi hờn của người đàn

bà hàng chài, bi kịch gia đình của người phụ nữ ấy không phải là cá biệt. Trong cái

vùng biển ấy, còn biết bao nhiêu số phận bất hạnh như số phận người đàn bà? Phải là

người có cảm quan hiện thực nhạy bén, có tấm lòng thiết tha với cuộc đời, với số

phận con người, Nguyễn Minh Châu mới có thể đưa vào trang viết của mình những

mảnh đời bé nhỏ, thầm lặng sống giữa một vùng trời nước xa xôi như thế!.

Sự sắc sảo của nhà văn trong việc lựa chọn không gian nghệ thuật còn thể hiện

ở chỗ vùng biển này trước đây là chiến trường, ở đó vẫn còn lưu lại những chứng tích

của chiến tranh. Đó là bánh xích của chiếc xe tăng hỏng, là chiếc xe rà phá

mìn…Chính ở những vị trí đó, nghệ sĩ Phùng phát hiện và thu về được một tấm ảnh

tuyệt đẹp về ngoại cảnh, đồng thời cũng phát hiện được sự thật còn lắm nghịch cảnh

trớ trêu của cuộc đời. Điều đặc biệt, tác giả miêu tả cảnh người chồng bạo hành vợ

đều ở chỗ bãi xe tăng hỏng, ngay cạnh chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ. Qua

chi tiết này, phải chăng nhà văn muốn nói bạo lực thời chiến dù khó khăn vô cùng

song cũng bị đẩy lùi, còn bạo lực thời bình – cái đang âm thầm diễn ra trong mỗi số

phận, mỗi mái nhà liệu có khi nào chấm dứt? Giải pháp có thể đã được đưa ra ở mỗi

người tiếp nhận như cải thiện cuộc sống, giúp họ thoát khỏi đói nghèo, nâng cao nhận

thức… từ góc nhìn của luận văn, chúng tôi xin góp thêm giải pháp loại bỏ tư tưởng

nam quyền trong cuộc sống của con người.

Ngoài không gian rộng lớn của vùng biển miền Trung, tác giả còn đưa vào

truyện ngắn không gian tòa án huyện, nó được thu lại nơi căn phòng làm việc của

chánh án Đẩu. Tại đây, Đẩu mời người đàn bà đến để động viên chị bỏ chồng, giúp

đỡ chị thoát khỏi người chồng vũ phu, tàn ác cũng như chấm dứt những bi kịch đau

đớn mà chị đang phải đối mặt. Đó vừa là trách nhiệm, vừa là mục đích của công lí,

của luật pháp. Thế nhưng mục đích tốt đẹp của Đẩu bất thành, diễn biến của cuộc

làm việc cũng diễn ra đầy bất ngờ. Người đàn bà dứt khoát không bỏ chồng. Chánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

án Đẩu với tư cách là nhà giáo dục, có quyền hành, luật pháp trong tay cũng trở nên

93

bất lực trước lí lẽ đời sống của người đàn bà. Sự lựa chọn không gian này đã giúp

nhà văn thể hiện được tư tưởng phê phán nam quyền của mình một cách sâu sắc.

Khi được mời đến tòa án, người đàn bà hàng chài biết chắc chắn người đại

diện pháp luật – chánh án Đẩu sẽ đề nghị và giúp đỡ chị li hôn với chồng. Là một

phụ nữ quê mùa, thất học, quanh năm chỉ đối mặt với sóng gió biển khơi nên ngồi

trong một căn phòng đầy những giấy má, hồ sơ, lại là nơi luật pháp được thực thi,

người đàn bà không khỏi lo sợ. Chị càng lo sợ hơn khi người chồng bị kết tội và chị

phải bỏ lão ta. Do vậy, bằng mọi cách, chị xin không phải bỏ chồng. Từ vái lạy, van

xin bằng những lời lẽ thống thiết đến việc chấp nhận ở tù, và rồi trong tình thế bắt

buộc, chị kể lại cuộc đời mình. Vừa thuật kể, chị vừa lí giải ngọn nguồn những khổ

đau của chị , của lão chồng, của gia đình cũng như cắt nghĩa vì sao chị lại không thể

bỏ được người đàn ông vũ phu đang hàng ngày hạnh hạ chị. Cứ thế, hành trình số

phận của người đàn bà dần được tái hiện với biết bao tủi hờn, đau khổ. Cảnh tượng

mà Phùng chứng kiến mới chỉ là một lát cắt trong một chuỗi những khổ đau chị

phải nếm trải. Chồng bạo hành như thế nào, chị âm thầm chịu đựng ra sao, tất cả

được kể lại chân thực bởi người trong cuộc tự nó đã phơi bày ý thức phê phán nam

quyền ở người đàn ông và thái độ chấp nhận tư tưởng nam quyền ở người đàn bà

của tác giả. Nếu không đặt nhân vật vào không gian này, với một người phụ nữ cả

đời thầm lặng hi sinh cho chồng con như người đàn bà hàng chài, chắc chắn chị sẽ

không bao giờ giãi bày câu chuyện cuộc đời mình như thế. Và như thế, tư tưởng phê

phán nam quyền của nhà văn cũng không được soi sáng.

3.4.2. Thời gian nghệ thuật

Trong tác phẩm tự sự, thời gian nghệ thuật là một phạm trù tương ứng với

không gian nghệ thuật, hai phạm trù này có mối quan hệ thống nhất trong một chỉnh

thể nghệ thuật. Theo đó: “Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng

nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [16, tr.322].

Trong Chiếc thuyền ngoài xa có hai mạch truyện được lồng vào nhau. Câu

chuyện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và câu chuyện của người đàn bà hàng chài.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

Theo đó, thời gian nghệ thuật trong tác phẩm cũng không có sự đồng nhất. Thời

94

gian trong câu chuyện của Phùng là thời gian anh đi thực tế theo yêu cầu của trưởng

phòng (Tháng bảy). Vì có yêu cầu này anh mới đến vùng biển miền Trung cách Hà

Nội hơn sáu trăm cây số vì “trong suốt dải bờ biển của khắp cả nước, chỉ ở đây vào

tháng bảy là còn sương mù”. Như vậy thời gian trên đã quy định việc chọn không

gian nghệ thuật của tác phẩm và chỉ có ở không gian này, nhà văn mới gửi gắm

được những trăn trở của mình về sự tác động tiêu cực của tư tưởng nam quyền tới

cuộc sống của con người. Nội dung này chúng tôi đã phân tích ở trên – mục 3.4.1

(Không gian nghệ thuật).

Trong câu chuyện của Phùng, gắn với sự việc Phùng chứng kiến cảnh người

đàn ông đánh vợ hai lần là khoảng thời gian rạng sáng. Bình minh là khoảng thời

gian bắt đầu cho một ngày mới nhưng lại là thời điểm kết thúc một đêm lao động

vất vả, nhọc nhằn, thậm chí đánh cược cuộc đời mình trên biển của các ngư dân. Cứ

nhìn cái khuôn mặt “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường

như đang buồn ngủ” của người đàn bà hàng chài đủ biết chị đã phải lao động vất vả

đến kiệt sức thế nào. Vậy mà chồng chị - người đàn ông vũ phu đã không những

không đồng cảm, xót thương lại còn trút những trận đòn roi như lửa cháy lên tấm

thân mỏi mệt ấy của vợ mình để giải tỏa bức bối, mỏi mệt trong lòng. Đưa khoảng

thời gian này vào tác phẩm, gắn với sự việc người chồng bạo hành vợ, Nguyễn

Minh Châu đã nói lên được tất cả sự lạnh lùng, vô cảm; tính chất tàn bạo, độc ác;

thói ích kỉ, chuyên quyền - một sản phẩm tính cách của tư tưởng nam quyền mà

người đàn ông hành chài là hiện thân đầy đủ.

Thời gian trong câu chuyện của người đàn bà hàng chài không phải là

khoảnh khắc hay một khoảng, một quãng thời gian nhất định. Nó kéo dài suốt cả

cuộc đời người phụ nữ. Từ khi chị còn nhỏ tuổi, là “một đứa con gái xấu xí” đến

khi trưởng thành, “vì xấu” nên “trong phố không ai lấy”, rồi chị “có mang với một

anh con trai một hàng chài giữa phá”, từ đó chị bắt đầu cuộc đời làm vợ, làm mẹ

của một đàn con trên dưới chục đứa, mưu sinh bằng nghề chài lưới trên một chiếc

thuyền chật. Những tháng ngày biển động, “cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây

xương rồng luộc chấm muối…”. Trong cuộc đời dài dặc ấy, cứ “ba ngày một trận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

nhẹ, năm ngày một trận nặng” chị âm thầm ghồng mình chịu đựng những trận bạo

95

hành của chồng, cả những vết thương lòng không bao giờ liền sẹo khi chứng kiến

cảnh đứa con trai vì bảo vệ mẹ mà lỗi đạo với cha. Động lực sống, cái chị có thể

bám vịn vào chính là chút ít ỏi niềm vui chị chắt chiu được từ những bữa cơm đàn

con được ăn no. Như vậy cuộc đời chị theo thời gian là một chuỗi những khổ đau,

bất hạnh và sẽ còn bất hạnh, khổ đau nếu cuộc sống của chị không có gì thay đổi.

Trong đó, không ít những đớn đau của đời chị là do tư tưởng nam quyền ăn sâu vào

tiềm thức người chồng mang lại.

Tiểu kết

Tóm lại, trong chương 3, chúng tôi đã đi vào làm rõ được tác dụng của Nghệ

thuật kể chuyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh

Châu. Các yếu tố như người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, chân dung và ngôn

ngữ không gian và thời gian đã được phân tích cụ thể. Các yếu tố nghệ thuật này đã

được nhà văn sử dụng theo chủ đích nhằm phê phán tư tưởng nam quyền và bảo vệ

nữ quyền; đồng thời nó không chỉ cho thấy tài năng kể chuyện hấp dẫn sinh động

mà còn thể hiện rõ sự đổi mới của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau

1975.

KẾT LUẬN

Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi vận dụng những tri thức văn hóa giới

trong xã hội nam quyền Việt Nam để tiếp cận truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa từ

góc nhìn về giới. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận như

sau:

1. Xã hội truyền thống Việt Nam là xã hội nam quyền, hình thái xã hội này

đã tan rã từ năm 1945 nhưng tầm ảnh hưởng của văn hóa nam quyền còn tác động

dai dẳng đến đời sống văn hóa xã hội. Các nhà văn văn tiến bộ ở bất kì thời đại nào

cũng đều hướng đến đối tượng người phụ nữ và tái hiện chân thực bi kịch mà họ

phải gánh chịu dưới sự áp đặt của xã hội nam quyền. Nguyễn Minh Châu là một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

96

trong số các nhà văn như thế khi ông luôn hướng ngoài bút của mình về phía những

người phụ nữ để tái hiện chân thực những con người trong nguồn cảm hứng đời

thường. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nói riêng và các truyện ngắn cùng chủ

đề văn hóa giới như Bến quê, Khách ở quê ra, Chợ Tết, Phiên chợ Giát là những nỗi

ưu tư, lo lắng cho số phận con người, nhất là người phụ nữ thời hậu chiến của nhà

văn.

2. Nghiên cứu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trên quan điểm văn hóa

giới, chúng tôi đã có được một góc nhìn mới trên hai phương diện nội dung tư

tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Trong đó, phần nội dung, đề tài tập

trung đi vào phân tích hệ thống các nhân vật trên tinh thần góc nhìn ứng xử giới. Về

phương diện hình thức, đề tài đi làm phân tích và chỉ ra các yếu tố nghệ thuật đặc

sắc góp phần làm nổi bật tư tưởng phê phán nam quyền được nhà văn gửi gắm trong

tác phẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn ít nhiều sẽ có những đóng góp ý nghĩa

cho thực tế tiếp nhận tác phẩm này của ban đọc. Theo khảo sát của chúng tôi, đề thi

đại học khối C năm 2009, câu IIIa yêu cầu thí sinh trình bày cảm nhận về “vẻ đẹp

khuất lấp” của nhân vật người vợ nhặt và nhân vật người đàn bà hàng chài: “Cảm

nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt (Vợ nhặt – Kim

Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh

Châu) ” nhưng đến đề thi khối C năm 2013, câu III b đã nói về sự đáng trách của

người vợ hàng chài: “Có ý kiến cho rằng: sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa

– Nam Cao ) không đáng trách, chỉ đáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn

bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) thì vừa đáng thương

vừa đáng trách. Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận

ý kiến trên”. Như vậy có một sự thay đổi đáng lưu ý của đề thi (tức là quan điểm

chung của Bộ giáo dục) bởi trong đề thi của hai năm đã hàm chứa cách tiếp cận

khác nhau về văn hóa giới như đề tài luận văn đã triển khai.

3. So với các cách tiếp nhận trước, tiếp cận từ góc nhìn văn hóa giới giúp cho

giá trị của tác phẩm được tiếp cận một cách khách quan hơn, tránh bỏ sót những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

thông điệp của tác giả. Đây là hướng tiếp cận này hướng đến khai thác, nhìn nhận,

97

đánh giá các giá trị người trên tinh thần nhân văn, nhân bản. Và cũng là sợi chỉ đỏ

xuyên suốt toàn luận văn như một cách tri ân của thế hệ đi sau dành cho Nguyễn

Minh Châu - một nhà văn đã dành cả đời văn của mình để trăn trở với những khắc

khoải, quan hoài về thân phận người phụ nữ . Với cách này, chúng tôi mong muốn

những giá trị sống đích thực mà nhà văn gửi gắm sẽ được lĩnh hội và chuyển hóa

thành những hành động tốt đẹp trong cách ứng xử giới của những thế hệ người Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

hôm nay và mai sau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1987), “Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những năm 1980”,

Tạp chí Văn học, số 3.

2. Lại Nguyên Ân (1989), Mấy nhận thức về đổi mới trong văn nghệ, Văn nghệ,

Hà Nội, số 42, 43.

3. Lê Bảo (2009), Cảm nhận vẻ đẹp tác phẩm văn chương lớp 12, Nxb Giáo dục,

tr.183.

4. Nguyễn Thị Bích (2014), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau

1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn

Kháng), Luận án TS, Đại học Thái Nguyên.

5. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ

minh họa, Báo Văn nghệ, ngày 2/12,

http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:http://www.viet-

studies.info/NhaVanDoiMoi/NguyenMinhChau_DocLoiAiDieu.htm

6. Nguyễn Minh Châu toàn tập, (tập 1), (2001) Nxb Văn học

7. Nguyễn Minh Châu toàn tập, (tập 2), (2001), Nxb Văn học

8. Nguyễn Minh Châu toàn tập, (tập 3), (2001), Nxb Văn học

9. Nguyễn Minh Châu truyện ngắn (2003), Nxb Văn học, tr.256.

10. Phạm Văn Dũng (2010), Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975

từ góc độ thi pháp - Luận văn Ths.Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

11. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn

học Việt Nam đương đại, http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/van-de-phai-

tinh-va-am-huong-nu-quyen-trong-van-hoc-viet-nam-duong-dai

12. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (tuyển chọn và biên soạn), (2010), Thi

pháp học ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, tr.367.

13. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L. Tônxtôi, Nxb. Giáo dục, tr.109.

14. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2011), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, tr23,24.

15. Nguyễn Trọng Hoàn (giới thiệu và tuyển chọn), (2004), Nguyễn Minh Châu

về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

16. Lê Quang Hưng (2007), Đến với tác phẩm văn chương, Nxb Đại học Quốc gia

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

Hà Nội

17. Mai Hương (2001), Nguyễn Minh Châu tài năng và sáng tạo nghệ thuật,

tr.385,387.

18. Tôn Phương Lan (2002), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội, tr.165.

19. Tam Lang (1941), Một ngày ở xứ Chàm, Tri Tân tạp chí, tr.20

20. Hoàng Thị Hồng Minh (2008), Hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận

các tầng ý nghĩa nhân sinh trong quá trình dạy học truyện ngắn “Chiếc

thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, Luận văn Ths, Đại học Sư phạm

Thái Nguyên.

21. Thao Nguyễn (2013), Nguyễn Minh Châu Một giọng văn nhiều trắc ẩn, Nxb

Văn hóa - Thông tin.

22. Vương Trí Nhàn (2008), Nguyễn Minh Châu, người viết văn và thời đại,

http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:http://vuongdangbi.bl

ogspot.com/2008/09/nguyn-minh-chu-ngi-vit-vn-v-thi-i.html.

23. Vương Trí Nhàn (2015), Truyện ngắn Chợ Tết của Nguyễn Minh Châu,

http://vuongtrinhan.blogspot.com/2015/02/truyen-ngan-cho-tet-cua-nguyen-

minh-chau.html

24. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt - NXb Đà Nẵng.

25. Đỗ Kim Phong (2008), Kĩ năng đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 12, Nxb Giáo

dục, tr.240.

26. Thiên Phương (2016), Để bình đẳng giới ngày càng thức chất và có tính bền

vững, http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/30117402-de-binh-dang-gioi-

ngay-cang-thuc-chat-va-co-tinh-ben-vung.html

27. Vũ Vương Quỹ, Lê Bảo (2008), Gợi ý đọc - hiểu và lời bình, Nxb Giáo dục,

tr.239.

28. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2007), Tự sự học - một số vấn đề lý luận và lịch sử,

Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 118

29. Trần Đình Sử (2008), Sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao tập 2, NXB Giáo

dục, tr.66.

30. Trần Đình Sử (2010), Dẫn luận thi pháp học, Nxb giáo dục, Hà Nội, tr 149

31. Nguyễn Thanh Tú (2008), Để góp phần dạy tốt hơn truyện ngắn Chiếc thuyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, Tạp chí giáo dục, số 196.

32. Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, https://vi.wikipedia.org/

wiki/Gi%E1%BB%9Bi_t%C3%ADnh_x%C3%A3_h%E1%BB%99i.

33. Thái Thị Phương Thảo (2010), Văn hóa và con người miền Trung trong truyện

Nguyễn Minh Châu những năm 80, Luận văn Ths, Đại học Sư phạm TP. Hồ

Chí Minh.

34. Đỗ Ngọc Thạch (1987), Đổi mới quyết liệt Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ, số

49, 50,

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=14361

35. Nguyễn Thành Thi (Chủ biên), (2008), Tư liệu Ngữ văn phần văn học, Nxb

Giáo dục, tr.233.

36. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,

Nxb Giáo dục, tr388.

37. Trần Nho Thìn (2009), Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói

phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ

quyền, Tham luận Hội thảo khoa học quốc tế Nho giáo Việt Nam và văn hóa

Đông Á, tổ chức tại Viện Triết học, ngày 23-24/6.

38. Trần Nho Thìn (2010), Phân tích tác phẩm Ngữ văn 12, NXB Giáo dục.

39. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Nxb

Giáo dục, tr.486.

40. Trần Nho Thìn (2016), Ứng dụng lý luận văn học hiện đại trong giảng dạy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.ltc.tnu.edu.vn

văn học, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 257.