D Ạ I n ạ c Q i ì ó c CỈĨA Í I Ả N Ộ I
T R Ư Ò N C Ì D Ạ Ỉ H Ộ C X Ã u ộ ỉ V Ả N H Â U V Ầ N
L U Ậ N V Ă N KHOA HỌC THẠC s ĩ ỉ-í J U V Ẩ N
TRUYỆN NGẮN
p
: t ó :
I ’
C h u y ê n n g à n h : V Ẫ N H Ọ C ; n m í iẠ ị V Ị Ạ'Ị
M ã s ố
: 5 . 0 4 .3 3
•ĐẠI HOCCvCC GỉA HÀ MỌ]
V Ó
TRUKG';-‘Ĩ 1
No V-
MỤC LỤC
I .
L ị c h s ử v ấ n đ ề
PHẨN MỞ ĐẨU
II. Lý do chọn dể tài - Phạm vi của dề lài
III. Bô"cục của luận văn
ỈV. Phương pháp nghiên cứu của luận ván
CHƯƠNG ĩ :
H à n h tr ìn h b ê n tro n g h ay
sự k h á m p h á n ộ i tâ m n h â n v ật
ĩ. Hành trình đi tìm cái tôi của nhả van
II. Hành trình đi tìm cái tỏi và ị/hố giói
bẽn trong của con người
III. Thế giới bên trong của những cuộc đòi
những con người với những biếu hiộn
phong' phú của nội tâm nhân vật
CHƯƠNG ỉi
H u y ền t h o ạ i và h iệ n th ự c
I. Giới thuyết về huyền thoại
II. Huyền thoại trong truyện ngan
Nguyễn Minh Châu
CHƯƠNG i n
Đ iệ n ả n h và c h ấ í thơ
]. Biến tượng mảnh trăng v;'ì yôu l ố
không thời gian trong M ản h trăng' c u ố i rừ ng
II. Giông' tiên - một ẩn dụ, mội ủ ấu nôi
giữa quá khứ và hiộn trại trong
I I I . C h iê c t h u y ề n n g o ả i x a hay s ứ c m ạ n h
B ên đư ờng c h iế n tra n h
biểu hiện của cái tôi trữ tình.
IV. Con người giữa bạt ngàn c ổ lau
và dáng núi cùng' cách hiếu vổ chiỏn tr;mh
PHẨN KẾT :
Trở về B ế n quê
TÀI LIỆU THAM KHẢO
P H Ẩ N M Ở Đ Ẩ U
Truvện ngắn Nguyễn Minh Chau - khoang mươi nám
trỏ iại đây hẳn đã có một định để như i.hẻ 1,1'onịT nglũôn cứu.
phê bình văn học cũng như đôi với sô đông độc gia yếu thícii
văn học. Sẽ là bình thường' nếu Nguyễn Minh Cháu cũng RÌÔIIÍÍ
như Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao những tác giá
truyện ngắn và chính truyện ngắn đã làm rạng danh tên tuối
họ, còn với ông, trước khi được bạn dọc biết đến như một lác
giả truyện ngắn thì đã có một Nguyễn Minh Châu •• Ị;ác gia cùa
những tiểu thuyêt như c ử a sô n g , D ấ u c h â n n g ư ờ i lín h ,
L ửa từ n h ữ n g n g ô i n h à , M iổn c h á y , Những' uy,ưò’i (li từ
t r o n g r ừ n g ra... và có thể coi như một chứng chí đổ Nguyễn
Minh Châu bắt đầu nghiệp văn, đế ông đang hoàng đứng vào
đội ngũ các nhà văn hiện đại Việt Nam.
I. LỊCH SỬ VẤN ĐẾ :
Ngay từ ngày ấy, các tác phám của óng' đã được đu' 1IV ạ it
chú ý tuy ở nlnlng mức độ khác nhau và cách nhìn nhạn khác
nhau. Nêu Nguyễn Đăng' Mạnh vò Tran Hữu Tá Lẩn trọníĩ vi'.
dè dặt lchi viêt : "Cho tới nay, anh chưa có mọt Uìàíìb I,ỉ/li ị-.ỊiẠI
tài hoa, xuất sắc. Nhưng bước đi của anh - dù sao cữiig đa 10
năm rồi - nói chung là chắc chắn. Từ những bút ký, rrnyôỉi
ngan đen Cửa sô n g , anil cứ tiên dan Í;ỪU£Í bước với ỳ thức ro
ràng về con đường mình đi, vói thái dò của mội ccm ỉi^ưòi can
qiiíìii, l.ự mán" cù, thận trọng' của một con 11/íười khỏn<í
'Tiếu tliuyêt Dấu chân người lính chuyển một bước vể lưỢì'4’
[13; 125], thì Phan Cự Đệ đã không ri”ẩn n^-ại kiũ nhíui xói: :
cũng như về chất so với Cửa sông. Tít c ử a sông' cu ì .11 Dấu
c h â n n g ư ờ i lín h , Nguyễn Minh Cháu đa tiÔ11 nhữiif>' bước
vững chắc và hứa hẹn" [13; 137J. ơ một klìía cạnh kliác, Ngô
Thảo khẳng định "...Với D â u c h â n n g ư ờ i lín h , Nguyen Minh
Châu đã đóng góp vào văn học chông Mỹ một tác phẩm xuất
sắc viết về người lính" [13; 135],
Đên những’ năm đầu của thập kỷ 80, đã xuát hiệu UH.
Nguyễn Minh Châu khác bên cạnh Nguyen Minh Cháu mọt túc
giả tiểu thuyết. Những bài tiểu luận, phê bình, chán đun# văn
học và những truyện ngắn của ông dã là một hiện tượng hay sự
kiện trong đời sông văn liọc thời gian này. Tác jpham của Nguyên
Minh Châu thực sự thu hút được sự chú ý (illa các nha nghiên
cứu, phê bình văn học cũng như đông đảo độc giả. Dâu dư luận có
nhiêu chiểu, nhiêu cách nhìn nliận nhưng (lù sao cũntí đá kháng
định có một điều gì đó "phát sáng" tạo sự lưu tám clto Lất cả
những ai đã và đang chú ý đên nhà văn Nguyên Minh Châu. Xin
dừng lời và nhường lại cho những đổng' nghiệp, các cây bút
nghiên cứu và phê bình văn học :
- "Nguyễn Minh Châu thuộc Bố nhừiiịí nhà vnn mở dining-
tinh anh và tài năng nhất của văn học tíi hiện UUV-" í 13; 2 5 0 1.
- Nhà ván Nguyễn Khải khẳng định : "Anh là ii^ươi kẽ ! c
xuất sắc nhất những bậc thầy của nên văn xuôi Vi'H Nam, V;J
cũng là ngưòi mỏ đường rực rỡ cho những cay bút u-ẻ tải nan;,ĩ
sau này" [13; 107].
- "Môi cây bút đểu muôn có tiêng n ó i riêng cua minh Í.rtíỏ'/
cuộc đời. Phong cácli nghệ tliuật có điểu kiệu hình í.hànL và ]jỉiá!.
triển mạnh mẽ. Đã có đáu hiệu xuất liiệu nỉiieu tài uắmí, dóc
đáo, đặc biệt qua những tác phá 111 gần đáy của N^uvên Miníi
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh". [15; 531.
- "Là người nghệ sỹ trim# thực va rát nhạy cảm trước
những đổi thay cua cuộc sống, nliững đòi hỏi của thó Ỉ1Ọ bạn đục
mới, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận thức được răng' khổng thè
tiêp tục nghĩ như cũ, viết như củ, tiêp tục cách nhìn gián đơn,
thực dụng về con ngiíồi và về văn học, liạri chê sức mạnh riêiiíí
của văn học, hạ thấp bản lĩnli, nhân cách của cum búi,
chân chính. Nguyễn Minh Châu chưa làm được nhiều điốu iiiur
mình muôn, nhưng anlì đã "nhận đường1" đúng, đã kịp thời thay
đôi khi cần phải đổi thay và đã thực hiện được những bước
- " S ự h â p d ẫ n t r ô n n h ữ n g t r a n g v i ỏ t ; í *; an đ á y í - .ũ a N f j , u y ồ J i
chuyển bước đẩu xuất sắc" [9; 2 3 1.
Minh Châu chính là chất thơ và chiều sảu triêt học ni;'i nhò' đo
nhà văn hiện lên với đầy đủ tầm cỏ' của nhà nghệ sỹ - lihh Ur
tưởng. Những bài học thấm tliía anh de lại l.rưởi iúc r:i (li còn
t r o n g c ô n g C1.1ỘC đôi mới h ô m n a y n h à v á n hắí. buộc ph;i i c h a p
sâu sắc hơn nhiều : để trỏ thà all li hà Ìì^hệ i:ỹ - nhà lư Ui'ỏìi;j;
nhận sự đớn đau đê cắt bỏ tren thịt da, ịíạii chắt tronm máu
tủy tất cả những- gì đang phương hại cho mọt cơ t i ‘ố cường
tráng"[13; 286],
- "Hành trình nghệ thuật của Nguyủn Minh C ỉ i á i ! l à l ù m h
trình của một nghệ sỹ cách mạng với ý u^ỉũa đích thực cua !)ỏ,
bơi cả cuộc đời, ông dã vượt lêii mọi lioàn cánh (lố k' 0 đọn^', tlíí
kiêm tìm. Và thành quả của ông l,áf' ịíhắni ván ('luí(jiifj;,
t r o n g t iế u lu ậ n p h ê b ì n h c ẩ n đ u ọ c g h i I i l ì ậ n 1111 LƯ một, đótỉíí
'ịịóụ
xuất sắc, đặc biệt, à thời kỳ đổi mới, vói tư cacti ỉa lìgưừi mơ
dường'1 [12; 25],
Nhìn lại tất cả những đánh giá, nhạn (tịnh trốn đny cua
các nhà ván, cũng như của các nhà nghíen cứu phò bi 111J ván học
một điều dê nhận thấy là đểu khang định "chỗ đứng" hay nói
cách khác : vị trí của nhà văn Nguyễn Minh Chau trong nển ván
học đương- đại ở thòi kỳ đổi mới. Sự thốn”' nhâí, trong đánh giá
không chỉ thể hiện ỏ từng câu chữ như : n h à v ă n m ở (lưừng;
ngư ờ i m ở đường; n h à n g h ệ sỹ; n h à tư tưởng . . . mà thực té,
kể từ khi những truyện ngắn cùng một sô bài tiểu luận phê bình
của Nguyên Minh Cliâu xuất hiện đã luôn là trung í,ám chu sự
chú ý của tất cả những ai liíu tâm đến nền văn học hiện dại nước
nhà. Có thể khẳng định thêm rằng : Nguyễn Minh Chau là ulià
văn có vị trí quan trọng trong' tiên trình văn học sử, các tác
phấrn của ông là gạcli nôi, là nét châm phá (lau tiên cho một thò'ì
kỳ mói của ván học, đó chính là nển văn học trou£ buổi đáu c ủ a
thời kỳ đổi mới để sau này cùng với Nguyễn Huy Thiệp; Phạm
Thị Hoài; Phan Thị Vang Anh... tạo thành một (tiện mạo mới cho
văn học.
Như vậy đặt vấn đề tìm hiểu tác phíuu của nhà văn
Nguyễn Minh Châu không phải là một CÒIIÍÍ việc hoàn l.oati mới
mẻ mà nhà ván và tác phẩm đã được nhi ể 11 tác gia phô bình
nghiên cứu văn học nói tới từ nhiều góc dộ với những cách tiếp
cận khác nhau tạo ra sự phong phú về cách đọc, cách hiếu í.nc
pliẩrn của Nguyễn Minh Chân. Chẩn" hạn, (ló có the là nhưng
"Ấn tượng, về nhân vật nữ" [8; 34], là "Yếu lố. tiểu tiuIyết: lroiụ>-
truyện ngắn" [7; 3] và có ldii từ một kliía cạnh của thi pháp the
loại đe nhận ra "Vấn để tình huống' trong truyện ngắti Nguyễn
MÌI1 Ỉ1 Châu" [19; 23], Tác phẩm của Nguyễn Minh Chau có th(‘
coi là mảnh đất hứa hẹn cho những- ai cẩn khám phá, bơi tư
tưởng và văn phong' của ông chứa đầy bí ẩn và bat ngò'. BÔ11 cạnh
những phát hiện trên của các nhà nghiên cứu phê bình van học
về nhà văn Nguyễn Minh Châu và các tác phAm c:ủa ông, chúnf>-
tôi đặc biệt muốn nhấn mạnh đến những đóng góp của nhà ván
vào THI PHÁP TRUYỆN NGAN v i ệ t n a m hiện nay thông qua
việc tìm hiểu những nét đổi mới vê truyện ngắn của 111ỘI, Nguyễn
Minh Châu đầy sáng tạo.
II. LÝ DO CHỌN ĐỂ TÀI - PHẠM VI CỦA ĐE TÀI :
Luận văn này là một mong mỏi. một cố gắng nhằm góp
thêm tiêng nói khiêm tốn và dìt sao cũng chi là ban dầu đẻ nhận
diện sự đ ố i m ới trong' p h o n g c á c h N g u y ễ n M inh Châu qua
những t r u y ê n n g ắ n (một sô" truyện ngắn tiêu biếu chứ không
phải ỉà tất cả).
Nói đến hai từ đ ố i m ớ i trong truyện ngẩn Nguyền. Minh
Châu, người viêt không nghĩ rằng, đổi mới là đồng Iifj’hia với nói
ngược, chẳng hạn trước đây vàn học phản ánh hiệu thực cuộc
sông đa phần là tốt đẹp nay ngược lại (tất nhiên khoiifi the phủ
nhận những đóng góp nhật định của việc phán ánh ngược : íí'iúp
cho người đọc hiểu sự thật một cáeli toàn vẹn, không còn phiên
diện một chiên). Hoác người viết chỉ dơn giản ln đổi đo tài như
trong nghiên cứu phê bình đã có : trưức viết về thư 11 lới ỉà nói
dên thoát ly, cliạy trôn thực tại nay tru về voi nhừng ỉ,him !.;m
ma dại, vói những người nghèo khổ ! Lại nữa, ehún# tôi CỈIO nín£'
không thể đổng nhất những tác phẩm được viết vả (tếu với hạn
đọc trong tliòi kỳ đổi mói vói những đối mới thực sự đựớc hình
Lhàiìli trong các tác phẩm văn học. Thật thê nen so sánh Thời
xa v ắ n g , M ả n h (tất lắ m n gư ờ i n h i ổ II ma; B ố n k h ô n g
chống'; Đ á m cư ớ i k h ô n g có g iấ y giá thú với những tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp; Phạm Thị Hoài và Nguyến
Minh C h â u thì thật k h ó cỏ thể tìm thấy sự gióng nhau vể bút
pháp thể hiện. Ngưòi đọc sẽ bắt g'ặp những điêu mới lạ mà ban
đẩu đôi khi còn tạo cảm giác bỡ ngỡ khi tiếp cạn tác pham.
Những T ư ớ n g v ề hưu; Mê Lô; P liic n ch ơ G iát. . . có thể
chứng minh cho điêu ấy.
Trường hợp của Nguyễn Minh Châu cũng vậy: ne 11 nói tác
giả đã chuyển để tài từ chiến tranh còn in đấu trong các trang
tiểu thuyết sang để tài viết về cái thường nhật vê thán phận con
người là đúng nhưng có lẽ chưa đủ sức thuyết phục, bơi )ẽ chiên
tranh và hậu quả của nó vẫn là nỗi ám ảnh, lả yêu tô thường
trực trong các sáng tác của N g u y ễ n Minh Châu, C Ỉ 1Ỉ cỏ điểu nó
được tái tạo và thể hiện trong các hình tương bằng một cách viẽt
khác, cách biểu đạt khác : thì đây vẫn là Thai người đàn bà trong
Cỏ lau, là sư bà trong truyện Mùa trái cóc ở m iền N am những
ngìíơi pliụ nữ chịu nhiều nỗi đau du chiên í.ranh gáy ra, là ílnệ, là
Hạnh, là Quỳ những người đàn bà với bao lđiác khoái, đau thương
cùng- niềm tin và hy vọng trong cuộc sống, Lình 3fêu l.lirii clúỏn
tranh và hậu chiên tranh. Chiên tranh tự bán thán nó đã là ngọn
nguồn của thảm họa và bất hạnh, nó còn xót xa hòa khi nlìunK bá í.
hạnh ấy được thể hiện qua những hình t.ưựiiíí nhan vật nữ của
Nguyễn Minh Châu và nó gần vói lòi đủc kết của Pỉiítm tỉụ I ỉ oai
G
viết trong tiểu thuyết T hiên sứ "Chiến tranh t,hậl, ra mang bộ mật
đần bà xót xa, khắc khoái”.
Nlut vậy việc đổi mói cách viết, tái h i ệ n các hì till tượng
trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh Chau tà lý do đau tien
và cơ bản nhất khiên của chúng tôi chọn truyẹn. ngắn Nguyên
Minh Cháu vào những nám 80 là đề tài của luận văn này.
Hẳn mọi ngưồi còn nhớ, bên cạnh nha ván Nguyễn Minh
Châu là đại tá Nguyễn Minh Châu. Nhác đến quán [làm của nhà
ván chúng tôi không có ý định đùng để tăng thêm "sức nạng" linv
giá trị cho các tác phẩm của ông bơi đã qua lfn thòi kỳ dùng tiếu
sử - cuộc đòi nhà văn làm điểm qui chiêu, bình xél'. chủ đạo khi
đánh giá các tác phẩm nghệ thuật, mà mục đícli lại là ổ' chô :
những tường vối bề dày trong sáng tác với khống ít lời khen như
thê với địa vị, tư thê của một nhà văn đíí được định hình thì hoạc
giả nhà văn sẽ an vị mà tận hưởng clư vị ngợi utrậơ, niềm v.inh
quang trong quá khứ hoặc sẽ bảo vệ đên cùng' những' "đứa con
tinh thần" của mình dẫu biết cinnli nó không còn hụp thòi và
phát huy tác dụng nữa. ấy vậy mà người đọc bắt ịĩặp một
Nguyễn Minh Châu khác, kliác với Nguyễn Minh Châu của c ử a
sôn g, D ấ u c liâ n n g ư ờ i línli ngày nào, Nguyền Min.il Cháu
trung Luyện Iigắn là một Nguyễn Minh Chan khác : klìáe trong
cách cảm, trong nếp nghĩ, trong cách viết vù thế hiện. Từ những
truyện ngắn có thê nhận ra sự phong phú và sự biên chuyổii của
phong cách Nguyễn Minh Châu.
b ó h ẹ p t r o n g v i ệ c p l i ả n á n h " c á i p ũ ô n g n h ư h i ệ n ( . h ự c "
t u ì a m a
7
Thứ nhất, đấy có thể là truyện, iigắn cua ỏng khÒLig CÒII.
vươn tới như một thử nghiệm, một sô truyện lấp lánh những
huyền thoại, thấm dẫm phong vị lmyển thoại, <4 ic311 ”, điệu co lúc
phảng phất như truyện ngụ ngôn, co tích như các truyộn Một lân
đôi cliứng, Sông, m ã i với cây xanh và P h iêu chd Giát.
Thứ hai, nêu nhìn từ một pillion,';' (liọu khác lại cỏ 1,1 lể i.háv
những cung bộc khác nhau của giọng văn được thế liiộn trong
truyện ngắn, nhất là khi quá khứ vọng về và hiộn tại đối diện
với quá khứ, lời văn của người lcể chuyện đù ẩn diệu hay trực
diện đều b â t lê n n h ữ n g n ỗ i x ó t xa, trăn trở, dằn vát của
k h ô n g n ó i l à t ự t h ú h a y s á m h ô i . V ê p h a n n à y , c h ấ t , t h ú v à t h ú
n h â n vật. Sự dằn vặt hối hận được tác giá đấy đêu tận cìmg nẻII
pháp của điện ảnh lại trỏ nên đắc đụng, có thế tìm thấy qua
những truyện như B ên đường c h iế n tranh; C hiếc th u y ề n
n g o à i xa, B ê n quê; N gười cl;Vn b à trên c h u y ê n tà u tô c
h à n h hay K h á c h ở q u ê ra cùng M anh Irăng' c u ố i rửnụ.
Khát vọng của Nguyễn Minh Châu : "để Vi ộ í, Nam bay
lên hòa mình cùng nhân loại, nói tiẽng nói chung của 11 hán
loại” [1; 4J như đã in dấu qua những trail‘d ván bằng lòi nói và
suy nghĩ của các nhân vật. Những vấn (lề imion tlniờ cúa ahả 11
loại nhiĩ tìm đến cái thiện, vạch trần cái ác còn tồn tại và sáu xa
hơn là "nliắn nhả bạn đọc hãy nhận thức t.liẻ giới và iiha.il thức
bản than mình để th o á t k h ỏ i k iếp bò k h o a n g 11 hân n h ụ c và
tiếp cận con ngươi tự do" [11; 3] (chữ đùng cua Dỏ Đức líiôu,
chúng tôi nhấn mạnh). Theo hướng' này có the khẩy Nguyền
Minh Châu là người kê tạc xuất sắc Nam Cao qua việc xay đựng
hành trình bên trong, hành trình phát triển ỉ, rim lý 111 làn vạl, liay
8
sự phát triển nội tâm nhân vật. Dĩ nhiêu troiitf sự ké tục ay có
s á n g t ạ o v à p h á t t r i ể n , c h ẳ n g h ạ n , k h ô n g ’ c h i đ ơ n k h u ẩ n
i à m ộ l
h à n h t r ì n h m à l à n h i ê u t u y ế n đ a n x e n , k ế t n ô i v o i n h a u , m ỗ i m ộ t ;
hành trình lại đem đến. một lớp nghĩa mới; có nlúểa con ngưòi
trong một COĨ1 người; nhiêu tính cách trong một tính cách. Thẻ
giới bên trong được thể hiện bằng rát ít các sự kiện nhưng mang
đầy suy tư, do vậy truyện khó tóm tăt cốt truyộn. c ỏ thể dặt
Bức tranh; s ắ m vai; N gười đàu bà trẽn c h u y ẽ ii tàu tỏc
hành; M ùa tr á i cóc ở m iề n N a m vào ỉoại truyện này.
IIL BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Từ những lý do trên, luận văn Cao học mạn phép được đi
sâu một vài khía cạnh nổi bật trong truyện ngắn Nguyền Minh
Châu để thấy được sự đổi mới của phong cách nhà văn và từ đỏ
thấy được đóng góp quan trọng của nhà văn vào thi pháp truyện
ngắn hiện đại thông qua thực tiễn sán.£ tác như các ỉ;ác phain
dẫn ở trên.
b a c h ư ơ n g s a u :
Với ý tưởng đó, chúng tôi dự định bô" cục của luận vãn gổm
C ĨIƯ Ớ N G I : H àn h tr ìn h b êu trong' hay sự k h ám
T r o n g c h ư ơ n g đ ầ u b a o g ổ m c á c p h ầ n KíUi :
p h á n ộ i tâ m c ủ a n h â n vật.
I. Hành trình đi tìm cái tôi của nhà ván
v à c ủ a c o n n g ư ờ i .
II. Hành trình đi tìm cái tôi ” thê £Ĩó'i bên trong của nhà vãn
III. Thê giới bên trong của 11Ỉlừng cuộc đời, Ii]iữiì£ con
người với những biểu hiện phong phú của nội tam
C H V Ổ N G I I : H uyền th o ạ i và liiện th ự c
I. Giới thuyêt vể huyền thoại
II. Huyền thoại trong truyện ngắn Nguyễn Minh Cháu
C H Ư Ơ N G Ĩ Ĩ I : Đ iện ảnh và cliấ t th ơ
I. Biểu tượng mảnh trăng và yếi' tố không - thời gian
trong M ản h tr ă n g c u ố i rừng
II. Giêng Tiên - một ẩn dụ một dấu nốì giữa quá khứ và
hiện tại trong B ên đường c h iê n tranh .
III. C h iêc th u y ề n n g o à i xa hay sức mạnh biếu hiện của
cái tôi trữ tình
h i ế n v ề c h i ế n t r a n h .
IV. Con người giữa bạt ngàn c ỏ lau và đáng núi cìrng cách
Sau ba chương chính như trên, luận ván chọn tiỏu de Trỏ’
về B ên quê để thay cho phần kết luận. Với cácii hiếu của chúng
tôi từ truyện ngắn Bên quê, chúng tôi đánh giá và khái quái lốn
những đóng góp của Nguyền Minh Cháu vào thê loại truyện ngán
IV. PHƯƠNG PHÁP NGIIIÊN c ứ u CỦA LUẬN VĂN
trong thời kỳ đầu của đổi mới.
r ằ n g đ i ề u q u a n
t r ọ n g v à q u y ế t đ ị n h j ) h ầ n
l ớ n
t h à n h c ô n g h a y
Để’ đạt được những' mục đích để ra như trên, cliúriK tôi cho
t r u y ộ ỉ i 1 If.*;:Ill N p . í i y Ũ !
n h ữ n g t h a o tác m à n g ư ờ i v i ê t s ử đ ự n g . V ớ i
M i n h C h â u , c h ú n g t ô i d ự ( l ị n h t h e o c á c ] ) h ư ó í i ^ [ > í i: íp SỈII.I :
thất bại lại là hướng đi và cách triền khai, en ch tiỏ]j cận cùng
t á c p l i á i u
t r o n g d i ệ n
1 . D ự a v à o v ă n b ả n , k h ả o s á t c ứ c
nghiên cứu; phân tích tác phẩm theo hướng truyền thông.
b i ê u t ư ơ n g v à t ì m r a c h ủ ý c ủ a n h à v ă n .
3. So s á n h , n ê u có t h ể , vói c á c t á c p h ẩ m , t á c giá trong v à
2. Thông kê c á c sô' liệu cẩn tlìiêt; t ầ n sốxuál, liiện, ý nghĩa
ngoài nước (những tác gia và tác phẩm tiêu biểu) nhằm làm nột bạt
hơn những đóng góp, những cái mới của Nguyễn Minh Cháu trong
truyện ngắn.
t h ờ i g i a n c ủ a n g ư ờ i v i ế t l ạ i c ó h ạ n , v ì t h ế v ớ i t h á i đ ộ t l i ự c s ự c ầ u
t h ị , n g ư ờ i v i ê t m o n g n h ậ n đ ư ợ c s ự đ ó n g g ó p v ù c h i b á o c i i a c á c
Khát vọng’ là thế nhưng' đôi khi " l ự c bat tòng' tâm", vả lại
t r ư ớ c đ ể t r o n g m ộ t t ư ơ n g l a i g ầ n c h ú n g t a s ẽ c ó n h ữ n g c h u y ê n
l u ậ n s â u s ắ c , đ ầ y đ ủ v à c ô n g p h u h ơ n v ề m ộ t t á c g i a v á n h ọ c c ủ a
thầy cô, các chuyên gia về Nguyễn Minh Châu, cìmg các bậc đi
những truyện n g ắ n đ ặ c s ắ c đ ã g ó p p h ầ n , t ạ o đ ự n g d i ệ n m ạ o s i n h
động và đầy khởi sắc cho bức tranh ván học Việt Nam ở những
11
năm cuối của th ế kỷ XX.
CHƯƠNG I
HÀNH TRÌNH BÊN TRONG
HAY S ự KHÁM PHÁ NỘI TÂM NHÂN VẬT
Q ị( ju 'ò ì U l tỊO Ì l ô i lù it h ầ ịã iiL ỉt ), ĩ t i i í ĩ i f Ó
l í í i ô t i í Ị (t ú m Ị
ĩt â íi.
ĩ ô ỉ o ỉú lù
I i ỉ i ù
i t ỉ ĩ i i
l ỉiù o
e lú t t t / j í ũ í t t h e o
í i ụ h ĩ í i
t i ỉ i ấ í íííiíL t ừ it t í t / ,
t ú c
l ù
l ô i
l i l t ỉ u
t á
l ấ t Í U Í ờ ! L i ề u A i ĩ t t ử / t a
l ã m
h ồ n c o n n t Ị i t ò ỉ ... c7'vottỊỊ ( h ú / t y ỉ i ĩ n ỉiiêít lỉit/o
( t ầ ụ đ í t t i í i â t , t ỏ i ( t i t ì m 1‘O H n t j ù ờ i ở h ê n I r o i t t Ị
ủ ítit m j i t ' o ’t.
'DỐXTÒ1EPXK1
"Con ngưồi, hãy tự nhận thức vê minh". Du dã hởíi bôn
ngàn năm, lòi kêu gọi của Socrate vẫn tưưi nguyên giá tvị của. nó.
Cũng như các ngành khoa học khác, nhu cẩu tìm hiến va khám
phá những bí ẩn và điều chưa thế biêt vể đồng loại luôn là khát
vọng, ước mơ của các nghệ sỹ. Trong văn h ọ c đả có những Lép -
Tônxtôi, Flobe, Đôxtôiépxki, Sê kliốp ... và ở Việt Nam, mạt
k h ó p h a i m ờ c h o m ộ t h ư ớ n g t ì m t ò i v à t h ể h i ệ n c o n l i g ư ừ i t r o n g
Nam Cao vào những năm giữa thế kỷ, đã đê lại những dấu an
văn học.
n g ắ n c ủ a ô n g k h ô n g p h ả i l à s ự k h ở i đ ầ u h a y m ộ t s ự p h á t h i ệ n
Nói như vậy có nghĩa Nguyền Minh Châu CÙ11& các truyện
v à đ ó n g g ó p c ủ a ô n g c ầ n p h ả i n h ì n
t ừ p h ư ơ n g d i ệ n k h á c
: ò(t«-
cho một hướng đi mới của văn học mà nói cỉcn 11 hửng iiiàuh c.ôdg
n h ì n c o n n g ư ờ i , t ì m c o n n g ư ờ i ở b ê n t r o n g C011 n g ư ờ i v ớ i n h ữ n g
m ô i l i ê n liệ, t ự r à n g b u ộ c c ủ a n ó , v à c o n n g ư ờ i vớ i t h ê Ỉ ị i ờ ỉ XUM”'
quanli. Tác giả đã có lần phát biểu " Tôi thích trình bày những
vấn đê đạo đức xã hội chủ nghĩa dưới đạng tám ]ý, tạp tnuiíí sự
chú ý vào những diên biến sâu kín mang tính chất qui inậí. bôn
c á c h v à s ự t ì m t ò i n g h ệ
t h u ậ t c ủ a
t ô i
... K h ô n g t h ể n à o k h á c
trong của tâm lý con người ta... điểu đó qui định pliổn ỈỎIÌ phong
được, công việc sáng tạo bao giờ cũng diễn ra trong cỏ đoìì, trong
sự lắng sâu những lãnh nghiệm sông, sau Iihửng chiêm nghiệm
m ộ t t ờ b i ê n b ả n c ủ a m ộ t c h ặ n g đ ờ i s ô n g c o n n g ư ờ i t a , I r ê n c o n
đ ư ờ n g d à i d ằ n g d ặ c đ i đ ế n c õ i h o à n t h i ệ n " [6 ; 9 6 ] .
S ự h ì n h t h à n h v à x u ấ t h i ệ n c u a c á i m ớ i , n h ấ t l à c á i m ớ i
vê lẽ đời và lòng người. Mỗi tác phẩm văn học, cliỉ là một lát cắt,
trong văn học nghệ thuật không phải ở đâu và lúc nào cữiig dễ
dàng được chấp nhận. Trường hợp Nguyễn Minh Châu cũn<í vậy,
hẳn còn nhớ, truyện B ứ c tr a n h (lần đầu công bố trên báo Văn
m ã i , B ứ c tr a n h m ố i đ ê n t a y b ạ n đ ọ c . .. V ớ i B ứ c t r a n h , t á c g i ả
n g h ệ 1982) được đưa in rồi tác giả lại đến lút vê và phải lẩn lừa
đã tự vượt lên và chiến thắng chínli bản thán, ngòi buL của mình,
ở đây không phải là "lìôn cong" ngòi bút mà những dòng chữ
được viết bơi một Nguyễn Minh Châu với bao nỗi dằn vặt và trăn
K ế t t h ú c m ư ờ i t r a n g t r a n ọ 0 t á c g i ả v i ế t n h ư m ộ t : l ò i " t u y ê n
n g ô n " v à c ó
t h ể
l à n h ư
t h ế v ì s a u B ứ c
t r a i l h
l à D i ộ l s ỏ c á -
t r u y ệ n n g ắ n k h á c đ ã t ạ o n ê n m ộ t d i ệ n m ạ o m ớ i c l i o
t á c c u a
trỏ về thê thái nhân tình, về COÍ1 người của hôm qua vò hôm i'K.rv.
đ ố i m ắ t m ỗ t o , k h ắ c
l d i o ả i , b ồ n c h ồ n , đ ầ y n g h i ê m KI l ấ c ,
ông. Nguyễn Minh Châu viết: "Và nổi bật trên cái khuôn mặt là
n h ì n v à o n ộ i t â m " . C h ữ ( l ù n g c ủ a t á c g i ả , c h ú n g t ỏ i n h ố n m a / n h .
[3;375].
I. H À N H T R Ì N H Đ I T Ì M C Á I T Ô I C Ử A N H A VẤ N :
C ó m ộ t h à n h t r ì n h c ủ a m ộ t c o n n g ư ờ i - n l i á ĩ i v ộ í T ỏ i đ ổ n g
thời là nhà họa sỹ đi tìm con người thật của chính nihìlì. Tỏi dĩ
tìm tôi, có phải vậy cliăng khi tác giả cho nhân v(ịt t ư tìm hỉéu
m ìn h / tự p h á n x é t m ìn h / tự họa/ tự đối d iện với m ình.
Hành trình đ i tìm l ạ i c o n n g ư ờ i thật c ủ a n h â n v ậ t đ ư ợ c b ổ H u n g ,
khắc họa rõ nét hơn bởi có những nét chấm phá vể cuộc dò'i và
m ẹ đ ã m ù l ò a v ì t ư ỏ n g r ằ n g đ ứ a C011 đ ã h y s i n h n g o à i m ặ t t r ậ n .
những suy nghĩ của ngưòi chiên sỹ và bà mọ ở hậu phương, người
Những dòng văn như lưỡi dao bóc tách dẩn sự thật, sự tlìật vê
cuộc đời, sự thật của những diễn tiến tâm lý con ii£’iíừi và tác £'iiỉ
để cho các nhân vật đi đến tận cùng sự thật đó. Dân phải la sám
n g ư ờ i t ố t v à k ẻ x ấ u , r ồ n g p h ư ợ n g l ẫ n r ắ n 1 ' ê t , t h i ê n
t h ầ n v à á c
hối thú tội mà đó chỉ là do "trong C011 người tõỉ đang sống' ỉáìi lộn
quỷ?" Tác giả đă đê cho các nhân vật tự nliận ra tíit cả và cho dù
h iê n d iện, lấ n á t tr o n g COỈ1 người - iìlià họa sỹ th i đỏ c ủ n g ià iời
c ả n h b á o c h o t ấ t c ả n h ữ n g ' a i đ a n g s ô n g t r ê n l i à n h ũ ỉ ì h : d ì ; d u
m ộ t t h o á n g ' q u ê n l ã n g , c h ợ t t h ờ ơ l ã n h c ả m v ớ i đ ổ n g l o ạ i , t h ì d l l
vô tình để phần k ẻ xấu, phần rắn rết, phần ác q u ỷ đã có liíc
một thoáng chôc đó thôi cũng đủ để xảy ra những tai hại, dỉiii
B ứ c t r a n h l à m ộ t t r u y ệ n n g ắ n t i ế p n ố i c á c h d i ễ n d ạ t c ủ a
t r u y ệ n n g ắ n t r u y ề n t h ô n g
d ó l à v a n d ồ
l l i i ộ t l - á c
t r o n g
khổ khó lường’.
cuộc sông con người (như thú tội Ki tô giáo) hay trong văn học
v ó i S ợ i t ó c c ủ a T h ạ c h L a m t r o n g đ ó n h â n v ậ t T h à n h t ự t h ủ v à
h ổ i t ư ơ n g l ạ i n h ữ n g g i ờ p h u t a n h đ ứ n g - ở r a n h g i ớ i m ỏ n g m a n h
đ ã m i ê u t ả h à n h v i v à t â m t r ạ n g c ủ a n h â n v ậ t t r o n g g i ờ p h ú t h ê t
như sợi tóc của ngươi lương thiện với kẻ ăn cắp. Thạch. Lum cũng
sức cam go đầy thủ thách ấy. Tự thú, tự phán xét theo kiểu Ki tô
giáo hay tự phán xét (confession) của Rousseau vốn (tã là truyền
thông, còn cái mới ở nhân vật cùa Nguyễn Minh Châu ỉ.à tiềm
t ạ i . T á c g i ả đ ể n h â n v ậ t c ủ a m ì n h v à o t h ò i đ i ể m v à r a n h g i ớ i c u a
thức, sự thức dậy của quá lcliứ, nó bất chợt và lay độiiK Cíi hiện
cả i tr o n g s u ố t và c á i m ờ đục, trên các trang văn cỉiễn tả sự
day dứt của nhân vật, Iiliất là những trường đoạn tưởng tượiiK ra
l ò a c á
- Đồ d ố i tr á , m à y h ã y n h ì n c o i , b à m ẹ t a o k h ó c đ à
cuộc đôi thoại giữa hai người.
hai mắt kia! Bây giò thì tấm hình tao đã được trưng trên các tạp
b ê n d ư ớ i , b ê n c ạ n h m ấ y c h ữ : " C h â n d u n g ' c h i ế n s ỹ g i ả i p h o i s t f " .
chí hội họa của khắp nước. Người ta đã trán trọng ghi tên mày
- T ô i ỉ à m ộ t n g h ệ s ỹ c h ứ c ó p h ả i đ â u ì à m ộ t a n h
t h ợ v ẽ
Thật ỉà clanh tiếng quá!
truyền thần, công việc người nghệ sỹ phục vụ tất cả một sô đông
người, cliứ không phải chỉ phục vụ một người! Anil chỉ là một cá
nhân, với một cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu đế CỈ10 tôi
quên đi, để phục vụ cho cái lớn lao hơn. Anh đã thấy đấy, bức
"Chân clung chiến sỹ giải phóng" đã đong gnp đôi chút vào côu<'
việc làm cho th ế giới hiếu cuộc kháng chiến của chúng ta thêm?
"À ha! Vì mục đích phục vụ sô" đôníỊ của người nghộ sỹ cho nên
anh quên tôi đi hả... có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi
15
mắt tôi đi. Anh cút đi!11 [3; 365; 36GJ
c ủ a t r u y ệ n đ ã t ạ o r a c h i ề u s â u c ố t t r u y ệ n , l ờ i v ă n c h á n t h ậ t v à
Tác giả đã chọn ngôi thứ nhất làm nhân vật trung tám
k h ắ c
đ ư ợ c t h ể h i ệ n b ằ n g n h ữ n g c â u v ă n n g ắ n , m ạ n h : " T ô i ỉ à
tự do hơn. Có những' lúc tiêng nói của lý trí hêt sức nghiêm
một họa sỹ. Tôi không phải là một người viết văn... Tôi phải tự
giới thiệu/ Tôi phải nói vậy để tự dặn mình, tự ra lệnh cho
mình... Tôi viết." [Xin xem 3; 353]
s ơ n c l ầ u c h ứ k h ô n g p h ả i c h ấ t l i ệ u n à o k h á c c h o b ứ c t r a n h c ủ a
Cũng không phải ngẫu nhiên khi tác gia chọn chat liệu
p h ả i d ụ n g ý c ủ a
t á c g i ả m u ố n n ó i đ ế n n h ữ n g n é t d ứ t k h o á t ,
mình. Khi dùng hình thức sơn dần lảm hình thức tiiế hiện có
những nét mạnh, sắc cạnh I1Ó khác hấn VỚI sự mềm mại, uốn
đ ã s o s á n h : " S ơ n c l ầ u v ố n l à m ộ t c l i ấ t l i ệ u k h ô n g ' p h ả i
í . h u ộ c sổ'
lượn của lụa với với sự trang trọng, quí phái của sởn mài. Tác gia
t h u ố c n ư ớ c h a y s ơ n m à i . T h u ố c n ư ớ c , c á i n g h ệ t h u ậ t c h ấ m p h á
c ủ a t h ầ n b ú t c ũ n g n h ư k h ô n g k h í l ấ p
l á n h h ư ả o c u a s ơ n m à i
k h ô n g t h ỏ a m ã n t ô i , t â m t r ạ n g m ộ t h ọ a s ỹ m u ô n d ủ n t Ị n g ọ n b ú t
triíờng của tôi, nhưng với cái nội dung' đó, tôi không muốn dùng'
vẽ để tự tìm hiểu mình." [3; 353]
Để có được một B ứ c tr a n h hay để sáng tạo được một bức
tranh có "bốn" con người trong một con người, ấy là một ngưòi
nghệ sỹ tài năng đã từng có tham gia triển lam quốc tê; đó là cái
g â y r a t ộ i á c , đ ấ y c ò n l à c á i t ô i t h ứ b a , c á . i t o i đ ẩ y t í n h l ; h i ê a k h i
n h ậ n v ẽ h ì n h ả n h a n h l í n h t h ổ v à c u ô i CLU1J4' l à c á i Lỏi k h ắ c k i t o à i ,
tôi sô"một (cá.i tôi gắn liền với tliờ tí, lãnh cảm với cuộc: đòi) cái í.ôi
1 rt
dằn vặt,tự tlní với chính mình.
N ê u t r o n g v ă n h ọ c t r u y ề n
t h o n g , r u ộ t , c o n n g ư ờ i
t h ư ờ n g
chí có hai con người: là thiện và ác thì ('[óng góp của N^iỉyỗn
Minh Châu ở chỗ, tác giả đã thể hiện ba hoặc "bôn con người"
trong một người hay một nhân vật. Những nhân vật đó đối
th o ạ i với nhau bằng tương' tượng: nhân vật hư ảo kia hiện
r a s ự t h ậ t . L ạ i n ữ a , t r o n g t r u y ệ n n g ắ n B ứ c t r a n h 0ÒÌ1 t h o á n g
h i ệ n c á i t i ề m t h ứ c k h i
t h ế g i ớ i b C n
t r o n t f c ủ a n h â n v á t đ ư ợ c
t h ể h i ệ n b ằ n g đ ộ c t h o ạ i v ớ i l ì h ữ n p c ử CỈ1I, đ ố i t h o ạ i t ự t h â n , đ ỏ i
thành người, ngiíòi ấy tranh luận, mắng mỏ đế cùn# nhau nhạn
t i ể m t h ứ c c ò n
t h ể h i ệ n b ằ n g c h í n h b ứ c v ẽ " l í n h g i ả i p h ó n g " ,
b ứ c t r a n h c ó g i á t r ị l ớ n , đ ư ợ c h o à n t h à n h c h ỉ t r o n g n ử a t i ê n g
đ ổ n g h ồ . Đ â y p h ả i c h ă n g l à m ộ t p h ú t t h ă n g h o a ,
c á i t h o á n g
c h ô c t r o n g s á n g t ạ o n g h ệ t h u ậ t . B e n c ạ n h đ ó l ả s ự n h ớ l ạ i m ộ t
b ấ t c h ợ t , c á i q u á k h ứ s ô n g đ ộ n g ’ l à m t h ứ c t ỉ n h , d a y đ ứ t c h o n h â n
thoại trong đầu óc (hai nhân vật trong- một nhán vật). Cái
T h ô n g q u a n h â n v ậ t h ọ a s ỹ , N g u y ễ n M i n h C h á n đ ã t ạ o
d ự n g m ộ t n h â n v ậ t t ư t ư ở n g . T ư t ư ơ n g t r o i i £ q u á t r ì n h t ự n h a n
t h ứ c , t ự n h ậ n t h ứ c q u a s ự p h ả n c h i ế n c ủ a " t ấ m g ư ơ n g s o i " - b a y
t ấ m g ư ơ n g s ư t h ậ t . Q u a đ â y n l ì â n v ậ t t ự t ì m r a COI1 n g i í ò i t h ự c
c ủ a m ì n h . Đ ể c ó đ ư ợ c m ộ t v ă n b ả n . p h ứ c h ợ p I i h ư t h ê , t á c í ĩ i ả đ ã
vật ở thời hiện tại.
k h ứ
: h i ệ n t ạ i l à b ứ c t r a n h đ ã h o à n
t h à n h ,
t ấ t c ả đ a n g ỏ' t h ò i
sử dụng cách kể chuyện trải dài qua hiện tại quay tvỏ về với quá
bình; quá khứ là người họa sĩ từ chối vẽ, là sự tận tụy của anh
t r ị c ủ a n ó . V à r ồ i t ừ q u á k h ứ l ạ i t r ơ v ề t h ờ i đ a n g s ô n g v ớ i s ự t h ậ t
v ề b à m ẹ v à n h ữ n g t â m l ý , c ử c h ỉ h à n h - ầ ệ f t g - e « f l r - c á c n h í m v ạ t :
■ĐẢ MỌ*:
THUtft 1'*M ' •'&¥* j r . ti
x:. •■?! -. Hi MỘI I
vÍẼN Ị
/ í ĩ ì
K.
v
J
l
ị / 4 Í Ợ r \
lính dẫn đường; là bức chân dung "người lính giải phón&" và giá
t h ê g i ớ i b ê n
t r o n g đ ư ợ c d i ê n đ ạ t b ằ n g l ò i n ó i - s u y
b í i n g
n h ữ n g đ ô i t h o ạ i ( d ù t r o n g t ư ơ n g t ư ợ n g ) v ớ i n g ư ờ i t h ợ c ắ t t ó c
" X i n m ọ i n g ư ờ i h ã y t ạ m n g ừ n g m ộ t p h ú t c á i n h ị p s ô n g
b ậ n b ị u , c h e n l ấ n , đ ể t ự s u y n g h ĩ v ể c h í n h m ì n h " . L Ò I d ể n g h ị
n h ỏ n h ẹ ỏ c u ố i t r u y ệ n h ẳ n s ẽ l à m I i ặ n p ; l ò n g n h ữ n g aj. đ ã va
đ a n g s ô n g h ô m n a y .
II.
H À N H T R Ì N H Đ i T IM C Ả I T Ô I V Ả TH Ê' U I Ở 1 B Ê N
T R O N G C Ủ A C O N N G Ư Ờ I
Nêu nét chủ đạo của Bức tr a n h là hành trình tỏi đi tìm
n h ì n n h ậ n c o n n g ư ờ i đ ã c ó v à đ ể m ấ t , r ồ i l ạ i t ì m k i ế m cúi t ô i , b ả n
n g ã c ủ a m ì n h . N g a y c á i t ê n c ủ a t r u y ệ n CŨI1Í.Ị b a o h à ỉ 11. n h i ề u ý
n g h ĩ a : c ó t h ể s ắ m v a i l à m ộ t m à n k ị c h t r o n g đ ó c ò n h ữ n g ' V í u
tôi, thì S ắ m v a i lại là cá i tô i q u an sái, cái tỏi đứỉi£ n^oài đế
diên thê hiện sô" phận cá nhân và cả một nhóm cộn^' đổng' ! Có
c ó t h ể n h â n v ậ t T ô i - n g ư ờ i đ ã từng s ắ m m ộ t VLỉi t r ê n s â n k h ấ u
thể kiểu S ắ m v a i và nhân vật T - nhản vạt chính là mội; và củng
và cũng hơn một lẩn sắm vai người quan sát, tham gia vào quá
trình pliát triển, diễn tiến của truyện. Nhung có lỗ tiên đề của
truyện phù hợp với nhân vật T liơn cả. Tìm hiếu truyện ngắn
này [5; 185 đến 203], chúng tôi thấy sự phát triển của cốt truyện
giống như ba cảnh trong một màn kịch, cả n h một £ồm bôn trang
đầu là iđìủc dạo giới thiệu nhân vật, bối cảnh sông của một nhân
vật và đặc biệt là sự hiện diện của cái tôi đầy cá tính của nhân
vật T. Cảnh hai, dài hơn cả, bao gồm mười trang tiẻp theo, miêu
k h ông còn cá tính, b ả n ngã. c ả n h ba CÙI)£' vui tì ự kùt time cun
tả quá trình cái tôi bị đánh mất, tự đánh mất : tỏi hòa vào ta, tôi
tr u y ệ n có sự trơ về với cái tôi đích thực tìm lại cái tôi đã mất,
hay nói cách khác ta lại là ta đầy bản ngã.
Khác hẳn với giọng văn nghi Am khắc mang nặỉ.ự{ Mỗi dan
vặt, tự thú của truyện Bức tran h , truyện s ắ m Viii lại m a n g
tính hài hước nhẹ nhàng cái hài hước đầy bao dung chắc sẽ tạo
những mỉm cười liên tiếp cho ngươi đọc, s ắ m vai giống như mọt
màn kịch vui nhưng bên trong lại hết sức âm tlnlm chua xót tuy
có một kêt thúc có hậu (Happy ~ end).
Sự đôi lập giữa cái xa hoa giả dôi, lại có uy quyền (người
vợ trẻ đẹp) với cái chân thực, tài năng đồng thòi là sự đối lập
giữa cái giả và cái thật, và tất cả đều được thể hiện bằng một bút
pháp hài hước. Nét hài hước từ cách miêu tá cách sông của khu
tập thê (đám đông) cuộc sông tlieo thời khóa biểu chung; tất cả
đều "hóa trang", và như diễn tập để bước ra sân lđiấu ! Cuộc
sõng xã hội hay ỉà sân khấu ? Rất có thể đây ỉà "Tấn trò dời" mà
Nguyễn Minh Châu có dụng ý đê mỉa mai, hài hước. Từ cách
nhìn hài hước qua một đám đông, tác giả lại đi sáu vào tùng
nhân vật : một ông đầu hói không còn một sợi tóc nào vẫn chải
đầu tương tượng. [3; 269] hay cliính nhân vạt T cĩm£ toát lên
chất hài hước : c h ẳ n g có đ ô n g đất cũng' c h ẳ n g có sé t đánh,
nhân vật T đã hòa theo "thời khóa biếu" giống nhu' người của
khu tập thể, anh n h ả y dấm , tliâ n h ìn h cao, gầy k h ô héo,
bước l ê n , l ù i x u ô n g , s a n g p h ải, sa n g tr á i ... x éo lên ch ân
vỢ anh lóng ngóng, vụng về khi anh phải "sắm vai", trơ thành
con người khác. Hình hài nhân vật T từ khuôn mặt như bị chia
đôi, chu đên tính cách cũng bị-thay đổi trong một môi trường
19
thay đổi : gian phòng Iiliiều khoảng trông nay giong như mọt
ch ợ p h iê n với nhiều đồ đạc.
Ý nghĩa sâu xa của sự biến đui trong con người có lẽ là bai
học cảnh tỉnh, lời khuyên của nhà van vói cơn n»'Ưò'i liay ỉằ mình
không nên sắm vai, biêt bao bi kịch khi phải sắm vai, khi trở
thành con rối, thằng hề mua vui cho thiên hạ. Bi kịch của nhân
vật trong Bức tranh và sắ m vai cimff là bi kịch phổ biên cho
nhiêu người, nhất là nhà văn đánh mất mình, và tính trung
thực. Hãy là mình, chịu trách nhiệm vơi bản than minh trước đã,
bìêt bao người đã phải 'tự cảnh tĩnh";" sám hối" khi vô tình. hay
liữu ý tự đánh mất mình, bản ngã và cái tôi đẩy cá tính.
Hình ảnh "một cái lưng cúi khom, được khoác một eái vỏ
áo bông màu xanh công nhân... và cái lon sữa bò đựng tàn thuổc
lá mà tàn thuốc đã có ngọn" được tái hiện lẩn thứ hai ở phần ket
của truyện ngắn có thế coi là tín hiệu báo hiệu sự trở vổ vói cái
tôi đích thực. Tác giả viết "trong những cái đanh mat, có thể
đánh mất v à n g bạc, châu báu, nhưng không được đánh mấl'.
mình". Phải chăng đó là lòi cảnli tính cho con người ciang; sông'
hôm nay. Đánh mất mình dù ý thức dược, hoặc không tư ý í',hức
được cũng sẽ tạo nên một cuộc sông; giả, giá từ hình thức bôn
ngoài đến nội tâm bên trong : một h à m r ă n g giả; m á i tóc de 11
giả; m ộ t trò c l i ơ i h ờ n d ôi giả với những lời âu y ê m g'iii... tất
cả tạo ra một con người hoàn toàn khác, sôiiịí và hành động như
một cái máy. "Như một cái máy" được tác giả day đôi) hai lần ở
gần cuối cảnh hai và như thế anh T không còn là phân thán "một
bên đầy suy nghĩ và lơ đễnh của 11^'iíời n^liệ sỹ sáng' tạo, một
phía bên kia lại liêt sức vui vẻ, tre tnmíí, 11ỈUÍ một 11 Í_J. I rò ì <ían”
20
còn hóa trang dở dang chưa xong" nữa mà anh dã trỏ thành một
con người hoàn toàn khác, một con người không còn chịn sụ chi
phôi, điểu khiển của chính minh, anh ta chỉ còn chức Iiăng sắm
vai, sắm một vai trong trò diễn đang diễn ra mà thôi !
Con người đích thực của anh dã trỏ về, và. như thế tôi đã
được n h ữ n g gì chân t h ậ t và bản n ă n g vôn có. "anh đá trỏ lại cái
tìm được cái tôi vừa đánh mất. Tìm lại được mình cũng là tìm lại
phong thái giản dị, thoải mái, tự nhiên mọi ngày". Giông như
một người diễn viên vừa bước I'a kliỏi sân khấu, anh trơ vể với
đời thường, đòi thường trong cử chỉ, giọng nói, ngôn ngữ và ngay
cả tiêng cười. Trong cuộc đời mình phải là mình, phải là chính
mình, dù rằng đôi lúc chua xót phải sắ m vai, củng phải tùm ìại
mình, tìm lại con ngươi trung thực và chân thành.
Dằng sau câu chuyện S a m vai vỏi hành trình đi tim con
người thật bên trong con người, chúng tôi thây một điếm cầiì lưu
ý khác, đó là lớp nghĩa ngầm ẩn thứ hai, tác giả hình như muôn
gửi tới bạn đọc qua việc đê cho nhân vật phát ngôn vể văn học
nghệ thuật, cụ thể là kịch và truyện ngắn. Ba nhân vặt tham dự
vào cốt truyện, thì cả ba đêu là những ngliệ sỹ : một nhà văn -
nhân vật T; một diễn viên đoàn kịch - nhân vật Tôi - người kể
chuyện; và vợ của anil T, một đạo diễn mứa vừa từ nước ngoài
trở về. Ba nhân vật phụ trợ cho nhau, tác động lẫn nhau. Nhà
văn giúp cliễn viên kịch viêt truyện ngắn, đạo diễn múa dạy nhà
văn học "nhảy", đạo diên trò chới và chị còn định chừ chung' dạy
v iế t v ă n ! Bao trùm lên hết thảy là chuyện nhà văn đó đã sắm
một vai trong màn kịch cuộc đời dù chỉ một lẩu, một thoáng
chốc. Lại nữa, nêu chúng' ta lưu ý bên cạnh một Nguyễn Minh
21
Châu nhà văn ông còn viêt khá nhiều bài tiểu luận, ])liê bình
văn học, nhất là vào những năm của thập kỷ 80 thì có lẽ sắm
v a i còn hàm chứa một lớp nghĩa sâu xa mà tê nhị hơn bcỉi vào
thòi điểm đó chỉ có thể biểu hiện quan điểm, cách nhìn nhậu
đánh giá của mình về văn học nói riêng bằng chính tác phấm,
qua nhân vật được tác giả hư cấu và để nhân vạt phát ngôn cho
tư tưởng ý nghĩ của minh. Theo chúng tôi, rat có thể khi nhận
vật phải "sắm vai" người giả cũng chính là nhà văn đã phai lừa
dối mình, đánh mất tính trưng thực trong’ mình, viết theo ý
muôn, yêu cầu của người khác, nghĩ khác mà viết lại càng khác
hơn. Phải chăng, tác giả muôn nhắc đên một thời văn nghệ minh
họa, văn nghệ tuyên truyền và một thời sô" đông các nghệ sỹ đã
phải dằn lòng, hoặc phải chiều lòng để trung thực đâu còn chỗ
đứng trong con người nhà văn, trang sácli của nhà văn. So sánh
với một sô" bài tiểu luận phê bình ta thấy có sự trìiiig hợp vể ý
nghĩa với trường hợp của nhân vật T trong' truyện sắ m vai.
Trong H ãy đ ọc lờỉ aí điếu ch o m ộ t g ia i đ oạ n ván n g h ệ
m in h họa, Nguyễn Minh Châu viết : "Con đường của một cây
but trẻ hăm Ỉ1Ở phấn đấu hết mình để trở thành nhà ván oímg' ỉà
con đường phải tự giấu đi cái phần nhà văn trong CŨ11 Iigứời
mình, con đường tự mài mòn đi mọi cá tính và tính trung thực
trong ngòi bút" [6; 113]. Cũng với suy nghĩ ấy trong tiểu luận
T ín h tru n g’ th ự c n g h ệ sĩ, có đoạn "Để cần yên ổn, người sáng
tác cầm ngọn bút chỉ "plie phay” giả đối một chút trong một thòi
điếm, đên một lúc cầm lại những trang sách tiiấy nó cứ bạc
phêch trước sự thật đầy tàn nhẫn, như mặt, vai nịnh trên sân
khấu tu Ổng" [6; 119]. Từ những bài phê bình, biểu luận qui chiên,
vào những sáng tác của Nguyễn Minh Châu, cluing liạn như Bức
tranh và s ắ m vai, thấy không những tác giả đã đóii”’ góp vào sự
dổi mới Irong van lioc : Mó úi nhiồu con iu-11'ời Iroiìi’ con nguừi, nhiêu
lính cách ĩrong mỏ! tính cách , con người ch dạng có c;l ý ỈÍ1ÚV v;'i siou
h ổ i c h u ô n g b á o d ổ n g , c á n h l ỉ n h c h o
ai LỈĩi v à diiiij.’, iVI' l i á n ỉ i ỉ n a l
ý Ihức, Iránh dược sơ ỉirạc Iruyổn lliốnỵ mà cùn ,'ilnr 11101 iiị’U'oi ! 1 m!Ị,
vổ vớ i c h í n h m ì n h , l ì m lại m i n h I h o ál k h ó i vòm;; c ư ơ n g to;i c u a " M i n h
inìnlì. Tác giá còn là 111Ộ1 Imng những ngiro'i di dan cna sir ii\'i vỏ. ím'
III. THÍ; (ĨĨỚI BKN T t t O N G CỦA NĨĨỮNÍỈ c u ộ c DỜI,
NHỮNG CON NGƯỜI VỚĨ NHŨN (ỉ B l í ỉ u H I Ệ N ĩ'lĩ<)Níỉ n - ỉ ú
c ủ A N ộ I TÂ M NH Ả N VẬT
N h ữ n g n ă m drill c ủ a lliập kỷ HO, c ò n c ỏ mỏ i I r u y c n kỈKÌc CUÍI
lioạ niỌi i:hi6u" Irong văn học và lìm dổn những lò.ill c:i<) moi,
b à t r ê n c h u y ế n t à u í ố c h à n h . N h ữ n g c u ộ c hôi íliao, iihữiiy hùi hát ' ứíì
N^uyõn Minh Chím lạo (.lược sự cliíi ý cúa ctôc giá, dó [à Người (tìiiì
đăng dàn và e;i nhĩriìg lòi xì xào Iruyổn miênt>, láì c;í đủ J1 ói íén đã có
mói Nguyỗn Minli Cỉìáu làm khuấy đông cho lình hình sá nụ lfic v;in
í h ố p h ủ n h ậ n c ủ a ô n g là ngirời liôn p h o n g Ironu, v ă n h o c lliòi kỳ (loi
hoc lúc ấy và những sáng lác Ihời kỳ nay cltửng minh cho vai Ị rò kliÒL’,
mới. Đã quá quen với những niíĩu người, hình IƯC/IIL' văn hoe qiu.il
(ỉàn hà í rên ein iyê n là u lỏ c lììm h , khỏnỵ íl nuưừi Irong giói snii'i, h r
llmỏc nCn kiìi đánh giá, 1 ĩoTp cạn những Iriiyộii ngắn như kiêu N^uơi
v à " d ò i " n h à VÍU1 q u a y (rổ' v ổ vó'i d ồ tài c ũ d ố i l ư ợ n g m i ố u l;i cfi !
ị 13;
1 7 3 CỈỐ11
] 9 8 ]
và phô bình văn học (!ã bày lỏ Ihái độ "ghc .lạnh", klìỏng chap nhạn no
ở truyện này, tác giả như càng đi sâu khám phá bản chat
con ngưòi, con người đi tìm con người, tìm dể hiểu rõ nhau hờn
trong những hoàn cảnh sông bình thường cũng có mà cam go ác
liệt vào những thời khắc gay cấn nhất trong chiên tranh chông
Mỹ cũng có. Qua đây con người càng- bộc lộ bản chất của họ. Nhà
văn đã đặt mình, đặt nhân vật của mình vào những trạng thai
khác nhau : hổi tưởng nhớ về dĩ vãng, phản tỉnh, tự phán xét
phơi bày để rồi nhận ra tất cả những chân giá trị của cuộc sống
con người, nghĩa lý cuộc đời mỗi người, đê hiểu người hơn, yêu
người hơn.
Trên chuyến tàu cuộc đời của Quỷ, dù chỉ một quãng thòi
gian "mười hai năm", biết bao sự lciện, COI1 ngưùi đi qua cuộc đời
của chị mà lắng sâu nhất, ghi dâu ân nhất là năm mồi tình (lù
CỈ10 có những mỗi tình chỉ đơn phương hay thoáng qua trong cuộc
đời chị. Năm môi tình như năm sán ga giúp chị tìm ra cái tuyệt
đôi trong con người : " Chị đang đáp con tàu mộng đu kmg' thang
đi tìm kiếm cái chân trời của những giá trị tuyệt đôi lioàn mỹ,
những con ngiròi tuyệt đôi hoàn mỹ, cái điều chẳng bao giờ có ..."
và thực tế, trong tất cả những người chị đặt niềm tin và yêu
thương, họ chỉ có thể bổ sung CỈ1 0 nhau những gì thiếu mà thôi.
Trung đoàn trưởng trung' đoàn K, một người văn võ song toàn,
ấy v ậ y với chị cái "bàn tay mổ hôi dấp đính" của anh đá đốn ngã
làm nên nhiều chiến tích và sẽ còn thực hiện được n h iề u khát
ý nghĩ về một thần tương trong chị do dù chính bàn tay ây dã
vọng : một ch iếc cày máy trên cánh đổng làng cho bớt đi cliai sạn
nơi'bàn tay mẹ, ước mơ nhỏ bé ấy đá vinh viỏn không bao «iờ
thiíc hiên đươc.
Khát vọng' đi tìm cái tuyệt đối của Quỳ, cũng như sự th/it
như nó vốn có trước chị về Trung đoàn trưởng H òa nh u’ m ột lời
nhắn nhủ : trong cuộc đời này, trong thế giới con người đang, đã
và s ẽ s ô n g không' bao giờ có C011 người toàn mỹ, cỏ n h ữ n g thắn
tượng v ẹ n toàn , t ấ t cả chỉ là ảo ảnh, là cái đích, m ụ c tiên mà con
người sẽ phải kiếm tìm cho mìnli. Thẩn tượng hay tliíinh Lihán
nêu có đó chỉ là do cliủ quan của từng người. Chỉ một chi tie í; nhỏ
khi tác giả miêu tả về người trung đoàn trường' có "hai bàn tay
lức nào cũng dấp dính" được lặp lại nliiểu lẩn củng ỉam cho ý
nghĩa của hành trình đi tìm con người trong con ngưòi của người,
đàn bà kỳ lạ tăng thêm ý nghĩa. Phát hiện ra hai bản tay clap
d í n h m ồ h ô i , c ù n g với sự cả m n h ậ n vê n ụ c ư ờ i M ấ n từ pho
tượng nơi ngôi chùa cổ cíia nhân vật Quỳ, Nguyền Minh .Cháu
muốn, nói nhiều điều nhưng lớn nhất có ỉẽ con người trước hết
vẫn là con người với đầy đủ buổn vui lẫn 1ỘI1, tôt xấu đan xen,
thờ, tôn vinh như những thần tượng, như Iiliững thánh nhan thì
những đức tốt củng như tật xấu và như thê trước khi được phụng
họ đã là con người với đầy đủ bản chất và đức tính của 11Ó. Không
phải ngẫu nhiên mà tác giả dùng đên ba lần cụm từ "nụ cười bí
ẩn", năm lần cụm từ "đôi bàn tay dấp dinh mồ hôi" cho riêng
n h â n v ậ t này.
B ặ t n h â n v ậ t của m ìn h vào trong n h ữ n g tiu.il huôiig' khác
nhau Nguyễn Minh Châu như muôn khám phá tíìt củ những
t ầ n g s â u của t â m lý con người, n h ữ n g cu n g bậc tìn h cám , ý 11 giũ
trong con người. Nếu tình yêu với Hòa, Quỳ bộc lộ tat c;i thì vơi
H ậ u , h o à n to à n ngưòi lại, m ột con người "không' cỏ cá tiii.il nỏiiịí,
k h ô n g có n h u cẩu v à sô th íc h riêng" đã đ t m đến CỈ1U Quỷ niôỉ;
"thứ" tình cảm khác : yêu thương tron^ sự muộn màn<;, yc;u
thương như một lòng nhân ái, hôi hận, và sư che chơ, bao dung-
cua Hậu như đã đánh thức tronịí nhan vạt Quỳ một tmh cá 111
khác, giúp Quỳ nghĩ kliác và hành động khác trước:. Dán có pliái
còn t i ề m ấ n t r o n g t â m lý c ủ a n h a n v ậ t Q u ỳ . N h ư l;liế COỈ1 n ^ ư ờ i
đ â u CỈ1Ỉ l à " s ự t ồ n g h ò a c ủ a c á c m ô i q u a n h ệ x ã hội" m à COI1 n g ư ờ i
là sự sám hôi muộn mằn mà ở đây, tác gia đã khơi đậy những gì
trước hêt, tự nó vả chính 11Ó đã là môi quan hệ cua các tá 111
trạng khác nhau, bản năng khác nhau. Con người ngoài phán l',ự
ý thức còn là con ngưòi của tiềm thức, vô thức, tâm thức ... mà
để cao COI1 người xã hội.
nhiều ldii hoặc vô tình hay hữu ý đã lãng quên nó, bỏ rơi 11Ó, chỉ
Cũng từ truyện n gư ờ i dàn bà tr ê n c h u y ế n là u tôe
h à n h , do cách tìm tòi, khai thác nhân vật của tác Kia cỏ iihiéu
điếm mới, tiêp cận mới dẫn đên thời kỳ sau đó không ít nhà van
nhà phê bình lên tiêngklìông đồng tình những "cái mới" l,ron£
cách viêl; của Nguyên Minh Châu. Người ta CỈ10 ranfi tác giả
chưa làm chủ được ngòi bút của mình [13fl74|, "Luận (tỏ l;ronK
chuyện của anh hãy còn bị dàn trải. Anh ham nói nhiều điều II)à
chưa tạp trung vào điều chủ yếu [13;182|; Lại nữa, có nhà ván
còn nói" cái cảm giác lạ lẫm, miễn cưỡng' khi gặp một số’ nhan
vật truyện ngắn của anh Chân gần đây cìm& là cảm giác có tiiảt
ở trong' tôi ... Nếu gọi truyện luận đề là truyện có 111ỘỈ, cốt lỏi ỉ,ư
tưởng, có một để để luận bàn với bạn đọc bàng sự thuyêt phục
của liìuh tượng thì truyện nào lại chẳng nên là truyện luận đổ.
Chỉ sọ' rằng nếu như truyện của ta lại có 1,1'ƯÓ'C ruột để. đề a.y
ctiíỢc áp đặt lên người đọc không bằng nliữu^ 11 hân vật, ỉ,ình l.iòt.
chân tliật và lô gícli cần th iế t thì t r á n h Hao khỏi khiỏn C Ư Ỏ Ì 1 K ,
thậm chí là chủ nghĩa khái niệm". [13, 198]
Thực tê, chúng tôi không phủ nhận việc các nhà ván đáu lì
giá truyện của Nguyễn Minh Châu mang tính chất; liiẠn đề, hơn
thê chúng tôi cho rằng không chỉ có tính luận dề mà ỏ' truyộu cún
Nguyên Minh Châu, tính triêt lý còn thê hiện khá rõ, nhưng theo
chúng tôi các nhân vật dù là "clị biệt" khác người của tác giả
không hê có tính khiên cưỡng hoặc giả tạo, ngược lại X1Ó giíip cho
người đọc khám phá ra những lớp nghĩa mới. Chẩng' hạn, những
niổi tìnli đơn phương của các chàng trai Khôi, Hà, Lâm, Hùng,
Nhã, Văn... đôi vởi Quỳ và chỉ sau cái chết của họ, Quỳ mới nhận
ra, tác giả để CỈ1 0 nhân vật của mình nghĩ "Tôi chợt nghĩ đôn
quốc..." V â n g , có lẽ p h ỏ n g í c h gì với n h ữ n g c h ữ đó 110U k h ô n g
những' chữ vô cùng trừu tượng và thiêng' liêng như Đất nước, Tổ
nghĩ đến từng sô" pliận, từng sinh linh kia dầu xanh tuổi trẻ đà
bỏ mình nơi một cánh rừng, tất cả đều tạo nên đất nước và Tô
quốc. Đau đớn và xót xa từ những dòng chữ và càng- tháy sự khốc
liệt của chiên tranh, chiên tranh đã cướp di tất ca những’ £Ì
tinh túy và đẹp đẽ của Quỳ. Không nói nhiều, bàn nhiểư về
chiến tranh, nhưng qua Ng'u’ời đ à n b à tr ê n c h u y ế n tàu tôo
h à n h , người đọc vẫn có thể cảm nhận được những đau thương
mất mát mà cuộc chiến đã gây ra. Lại nhớ, cũng chính nhân
vật Quỳ đã từng tâm niệm" ...Nhữngkhi ngồi một mình và suy
nghĩ thật bình tĩnh, tôi mới thấy rằng trong những ngày tháng
ấy đã tập hợp lại trong các cánh rừng Trường Sơn những COI1
ngưòi thật là đáng- quý. Tất cả tinh hoa của nam giới đã dồn về
đấy". Xót xa thay những' tinh hoa Quỳ từng nghĩ như Trung
đoàn trương trung đoàn K, như Hậu, như vô sô" các chàiiíí trai
cuối cùng đã không trở về, chiến tranh là thế và đau thương, xót
xa cũng là thế.
"Cái đẹp đã cứu vãn thê giới", có ai đó đã nói như thê, còn
trong truyện của Nguyễn Minh Châu, điều đó quả đúng, tình yêu
cua Quỳ đã giúp Ph, một người đàn ông tương chừng không bao
giờ còn có cơ hội để trỏ về với cuộc sông bình thường, tìm lại được
mình, tìm lại bản thân mà anh đã tự đánh mất. Lòng nhân ái,
tình yêu và sự bao dung của Quỳ đã làm sông dộng trong Pii
c u ộ c đ ấ u " g i ữ a c á i t h i ệ n v à c á i ác, lý t r í v à d ụ c v ọ n g ’, c á i riê n g ' v à
phần"ngưòi" trong con người anh ta. Quỳ là tác nhân thúc đấy"
cái chung trong Ph. Chính Nguyễn Minh Châu đă có lần phát
biểu : "Văn học nghệ thuật sở dĩ có sức mạnh của nó vì nó có
khả năng diễn tả sự vật ỏ tronẹ các dạng quá trình sinh thành.
t h a m g i a v à o n h ữ n g v ụ v i ệ c ấ y vớ i t ấ t c ả c h i ề u s â n c ủ a t i ê n
Một vụ việc chỉ là một vụ việc. Nil ưng nêu ta 1T1Ô tả con người
trìnli diễn biến tâm lý và tính cách tliật là chân thực và khách
quan thì khiến người đọc không thế thò ơ được. Môi truyện
ngắn tôi nêu ra một trường hợp cụ thể và xen vào mạch kể
chuyện, tôi bàn bạc về quan niệm sông hoặc báo động một điều
gì" [13,178]. Từ đây, có thể có những diễn biến tâm trạng, tính
cách khác nhau đến thê.
Chọn ngôi thứ nhất và ngôi tlúí ba làm dối tượng thê hiện
trong N g ư ờ i đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn
Minh Châu đã tạo ra sự gẩn gũi, thân tình với bạn đọc. Khi các
nhân vật trao đổi trò chuyện lời văn gần với ngôn ngữ đời
thường đan xen với những nhận định về triết lý cuộc sông giúp
cho người đọc cảm thông lđiông cảm t h â y nhím vật tronj-i
truyện cương cứng, cao đạo.
Hình thức tự thoại của Quỳ như một kiểu i;ự Imyộii, vừa
tạo được sự gần gũi, vừa mô tả được quá ỉrinb phát triển vá
những1 gì đã và đang xảy ra trong tâm lý vỏ cùn" phức tạp cua
nhân vật, giúp nhận ra những nét khác nhau diễn ra trong tâm
txạng của nhân vật Quỳ. Khi vui cũn <4 như lúc bnổn, khi hổ hỏi
lủc lại câm lặng trong tình yêu, khi dằn vặt, đẩy hối hận vì sai
lầm, tất cả nói lên sự phong phú trong; con người Quỳ và tư đây
tạo ra sự đa thanh, đa âm cho bản thân cốt truyện. Đóng góp và
sự thành công của Nguyễn Minh Châu nằm ở chỗ đó.
Những sáng tác ở giai đoạn đầu những năm 80, hình n h ư
đã tạo một gương mặt Nguyễn Minh Châu khác, ít nhiều gáy
được sự chú ý củacẺỔc giả và từ những thể nghiệm ban dầu đó cla
h ư ớ n g đi đó, N h ữ n g t r a n g v ă n v i ế t t v ê n g i ư ờ n g b ệ n h , g i ữ a cơn
tiêp sức cho ngòi bứt của ông tiếp tục đào sáu khai í;hác vào
đau, lạ thay chính là những trang văn hay nhát, sảu xa Jihi.il
trong cuộc đòi cầm bút của ông. Người xưa nói : "Điểu chi tương
tử kỳ minh dã ai, Nhân chi tương tử kỳ minh dã thiện". Tạm
dịch : Con chim sắp chết tiếng kêu thảm thiết. Con người sắp
chết n ó i n h ữ n g đ i ề u l à n h . Có lẽ l à v ậ y , bởi ở b a t r u y ệ n n g ắ n C11ÔÌ
cùng của Nguyễn Minh Châu đã thế hiện tài hoa của một nha
văn biết vượt lên chình mình, biết loại bỏ của một thói quen láu
nay rằnẹ buộc để thoải mái "tung hoành" troi'ig cách viêt, cách
tiếp cận để tài và để lại cho đời, cho mai sau những trang van
đầy ý nghĩa và tlmyết phục.
2 !)
Với Phiên chơ Giát và cỏ lau đã có nỉiiổii cầy bút
nghiên r.ứn phê bình văn học khám phá và Lĩêp cận. được những'
giá trị của nó, riêng với Mùa trái cóc miền Nam, chứng- tôi đặt
vào chương này không ngoài mục đích là tìm ra những' nét riêng
của tác giả trong quá trìnli th ể hiện h à n h tr ìn h bên tronf»' hay
khám phá nội tâm của nliân vật. Cũng ỏ đây, Nguyễíi Minh
Châu còn bày tỏ một thái độ, quan niệm về chiến tranlì vả con
người, cách nhìn về chiên tranh, về vail học nói chung và văn học
viêt vể đề tài chiên tranh nói riêng. Nhân vật tôi người dán
chuyện trong tác phẩm nghĩ "Tôi biết cả trong và sau trận đánh
chuyện giả dôi đến mức đau lòng. Cái sự thật nghiệt njj'ã sẽ lắng
đọng lại mãi mãi trong trí nhớ những thằng línli đang ngồi với
tôi đây nhưng nay mai mỗi đứa đi một, ngả, còn lịcli sử vict
thành ván bao giờ cũng tran g trong và sạch sẽ". [4j7ichúng
tôi nhấn mạnh)
Tiếp cận và đánh giá những giá trị của một tác pham văn
học không thể gọi là đầy đủ nêu không nói đên hoặc vô tình bỏ
qua cái tên của tác phẩm đó. Trong lịcli sử văn học thê giới cũng
như văn học Việt Nam, những tác phẩm ỉ ớn đểu là những tác
phẩm mà bản thân cái tên cíia nó đã gợi 111Ở, bao hàm nhiều ý
nghĩa. Chẳng hạn văn học Pháp vói Tấn trò đời, Miếng' đa lừa,
của Ban dắc, Đỏ và đen của Xtăng đan. Văn học, Ngn - Xô Viet;
lịch sử CUỐI cùng ấy đa chứa đựng biết bao chuyện thật và
đềm của Sôlôkhốp rồi văn học Mỹ với Ong íí,ià và biên cả cua
Ilêminhiiề, Tiếng gọi nơi hoang' thì của Jae Lơn (lơn ... ở Vi Ạt
nam, chỉ từ tên tác pliẩm Sô đỏ, dã có huỏn^, lý }.j,ia.i thú vị, Um
với C liiến tr a n h và h ò a b ìn h Lép Tôìixtôi; S ôn g’ Đ ô n g em
Ị10, 292], Đơn giản chỉ là một cái tên cho tác phẩm nhưng cũng
chính từ sự đơn giản đó đã gây ra những roc lôi, phiền toái CỈ10
nhà văn và cũng có khi tạo được ân tượng cho dộc giả, chang phái
sao khi Chí phèo của Nam Cao là cái tên thứ hai sau Đôi lứa
xứng đỏi, khi Nỗi buồn chiên tran h và Thân phân lỉnh
yêu của Bảo Ninh tuy hai mà một. Chính Nguyễn Minh Chau
đã đánh giá rất cao vai trò của tên tác phẩm, ở truyện s ắ m vai
tác giả viêt " Ngay trước khi viết đã phải đặt cho nó một cái tên.
Truyện ngắn khác truyện dài ở cái chỗ đó. Truyện ngắn chỉ nói
một ý, một vấn đề, Đặt tên trước tức là cắm CỈ10 nó một khu đát
nhất đinh, không được đi lang thang ra ngoài".ỊXi2813 •
Đôi với Mùa trá i cóc ở Miền Nam, những tương đau đê
chẳng ăn nhập gì với cốt truyện bởi cả truyện gồm 54 trang, duy
chỉ có hai lần cụm từ "vườn cây trái cóc" xuất hiện. Theo chilli g
tôi nếu nhan đề Mùa trá i cóc ở Miền Nam mang theo một ý
nghĩa chỉ không - thời gian xảy ra câu truyện : miến Nam -
không gian; mùa trái cóc - vào đầu hè - thòi gian, thì hai lần xuất
hiện sau của biến thái cụm từ này lại mang một sắc thái biếu
cảm khác. "Vườn trồng cây trái cóc" hay "...trên chỏm vườn cáy
trái cóc" là hai cụm từ với chức năng trạng ngữ chỉ địa (liếm bô
nghĩa cho mệnh đề trước nó là "tiếng- quạ kêu đên điêc tai"
và"những cánh quạ bay nháo nhác". Trong tâm thức của ngitòi
Việt, tiếng quạ kêu báo hiệu điếm dữ và cũng xung quanh cụm
từ đó, hình như tác giả cô ý nhắc đôn "trưa 30 tháng 4" rồi " bu ôi
sáng lịch sử 30 tháng tư ấy", "Liệt sỹ 00 tháng 4 Híìm 1975”.
Phải chăng tác giả muôn nói tới đằng sau của niềm vui chiên
thắng là nỗi buôn, đằng sau cò' hoa là máu và míớc mắt, đằn^
ra ý nghĩa của hai từ này một cách khoa bọc, đầy tỉmyêt phục
31
sau nụ cười là nỗi đau thiĩơng mất mat... Và có phải Mùa trái
có c ở m iề n Nam là phiên bản của T iế n g q u ạ k êu trên vườn
trái cỏc hay Quạ bay trên vườn trái cóc. Nếu vậy, Nguyễn
Minh Châu đă nói được nhiều, gửi gắm được nhiều điều qua ván
bản đặc sắc này.
Có những hành trình đan xen, có nhiều lớp nghía lồng xếp
xoay q u an h câu chuyện người đàn bà - m ột bà SƯ già (ti tìm COI1
sail ngày giải phóng. Ngay bản thân nhân vật đó đã có trong
mình hai "cuộc hành trình", một h à n h tr in h c u ộ c đờí th ư c và
sau nữa là hành tr ìn h tâm lỉnh. Hai hành trình trong một con
người tuy song song với nhan, nhưng Ịại đem đến những lớp
nghĩa khác nhau, bổ sung cho nhau. Từ một cô con g á i n h à
n g h è o quê Hà Nội lớn lên lấy chổng đẻ COI1 rổi phải d e m ch o di
v ào n ă m đ ó i c h ế t h ạ i tr iệ u n gư ờ i clă c h é p v ào sách , đời bà
gắn liền với những biến cô" lớn trong lịch sử đất nước và cuộc đòi
bà cũng từng trải, lam lũ như bao người phụ nữ Việt Nam khác :
đói khổ, nhục nhã cũng lắm mà hạnh phúc và cay dắng cũnịị
nhiều. Đời con gái hai lẩn đò, tần tảo lam lũ làm ăn, thươug
chồng thương con hết mức, đã chứng kiên những mốc lớn trong
lịcli sử : 1945, 1955 và cuối cùng là ngày 30 tháng 4 năm 1975 dể
rồi cuối cuộc đời mới nhận ra rằng thân phận của mình và ý
nghĩa cuộc sông của mình : "... cái thế giới này là do cả một đám
những ngiíời đàn bà mắn đẻ như tôi sinh ra và chúng tôi không
có cách gì có thể sinh ra những đứa con đồng loạt giông nhau, vả
lại cả sô" phận cuộc đời của chúng tôi nữa, sô" phận cuộc đời của
những bà mẹ cũng chả ai giông ai. Đấy là tội lỗi muôn đời rnà
những người đàn bà đã gây ra, và phải tra giá trên cái mạt dái,
đấy những hằn thù này" [4; 98].
Bên cạnh hành trình cuộc đòi là hành trình của tám linh,
đi kiêm tìm đức tin trong cuộc đời đầy bi kịch :
Đạo thiên chúa - Đạo Pliật và trong cách ngliĩ của chính
bà Việt Cộng cũng là một thứ tôn giáo, "lên năm tuôi tôi đã biêt
chắp tay n g ư ờ i m ắ t n h ìn lên Đ ức C húa trời mà ngắm
nguyện, bây giờ về già thì ngày đêm tụng kinh gỏ mõ triíớc bùn
thờ Đ ứ c P h ậ t TỔ... Còn mấy ngày hôm nay, tô i ngư ớc n h ìn
lê n các ông"(chúng tôi nhấn mạnh), Đi tìm Đức till cho mình, đi
tìm nơi có thể gửi gắm niềm tin cho suốt cuộc đời, bà đã đốì mật
với sự thật vô cùng nghiệt ngã và thất vọng :"Chẳng có đức zê xu
hay đức Thích ca vào cứu vớt được con người khôn lcliổ, khỏi
nhục ở đời, cũng chẳng thể làm CỈIO con người ta khỏi mắc vào
vòng tội lôi". Với bà chỉ còn nơi duy nhất và cũng là cuối cùng bà
có thể đặt niềm tin "Chỉ có thứ tôn giáo của các ông là có thể cứu
vớt được cuộc đời này". Niềm tin và ước vọng' là thế nhưng sự
thật sẽ vẫn là sự thật, một sự thật trần trụi vê sau đã đẩy bà vào
một bi kịch khác, đau đớn và xót xa hơn trước. Thành cong’ của
Nguyễn Minh Châu trong khi khai thác, tạo dựng nhân vật biếu
hiện ở chỗ : miêu tả sự biến đổi tâm lý, trạng thái tình cảm, cách
suy nghĩ của người nữ tu si phù hợp với sự thay đổi hìnV dạng,
"lột xác" bên ngoài của chính nhân vật đó. Có thể ldiẳng' định,
tác giả đã tạo ra một mẫu hình nhân vật mới trong văn học việt
Nam thời kỳ hiện đại : nhân vật biến dạng, mà mẫu hình nhân
vật theo kiểu đó tiếp tục được tác giả tái tạo, đào sâu khai thác
trong truyện ngắn Phiên c h ợ Giát qua nhân vật lão Killing
(chúng tôi sẽ có dịp nói thêm ở chương sau). Nên ơ biên đổi bôn
trong, biến đổi tâm lý (chúng tôi tạm gọi là biến đôi thứ nhatj
của cuộc đời gần sáu mười tuổi của bà sự già đi từ một COM chiên
n g o a n đ ạo T h iê n c h ú a đên một phật tử n ư ơ n g cửa n h ả P h ậ t
rồi định hoàn tục quay về vối cuộc sông người dân thường gửi đức
tin vào một thứ tôn giáo, đạo Việt Cộng (theo ý nghĩ của bàj vào
cuối cùng phải trỏ thành một kẻ hành khất, một con người khôn
khó giữa cõi đời ngửa tay xin tình thương của thiên hạ thì ở biến
đổi thứ hai - biến đổi bên ngoài cũng có những chấm phá, mô tả
phù hợp với : tấm áo (lài nâu may bằng vái tliô bail đầu khi
lúc đi tìm đứa con - nơi trú ngụ cuối cùng của đức tin trong bà
nhân vật xuất hiện đến bộ q uần áo dân thường', l)ộ tó c giả
nơi mà bà hy vọng để cuối cùng trở thành m u h à n h k h ấ t
k h o á c c liiế c t ú i v ả i n â u c h ố n g gậy đi tìm tình thương.. Tất
cả những lần b iế n dạng’ đó đều đem đến cho người đọc những
sắc thái nghĩa mới. Theo hành trình cuộc đời, hay nói cách khác
khi dõi theo những "bước chân" của sự bà Thiện Linh, người đọc
dần dần tiếp cận với sự thật : sự thật vể cuộc sông, sự. thật về
con người và tất cả những gì lâu nay cliúng ta mới chỉ có thói
quen nhìn một mặt, một chiều hay một "nửa sự thật”.
Nguyễn Minh Chân đã để nhân vật của mình đến với đáy
cùng của sự thật, dù rằng sự thật đó đau lòng và nghiệt ngã vô
cùng. Sư bà Thiện Linh đã giáp mặt vói phần ác qủy t r o n g COM
người và đáng sợ hơn cái ác, phần qủy trong con người lại hiệu
cliện ở chính Toàn - đứa con lâu nay bà tìm kiếm, người thủ
trưởng của tiểu đoàn 7. "Nhân chi sơ, tính bán thiện", hình như
câu chữ của những trang đầu cuốn Tam Tự Kinh ldiông' còn
đúng nữa, ít ra là với những nhân vật như Toàn, như Đĩnh; Thái
và cậu cần vụ của Toàn. Cái ác từ phần quỷ trong C011 ngươi đã
đẩy người mẹ vào bước đường cùng, làm cho bà muôn hòan tục
cũng chẳng bao giờ được nữa, và cái ác đã dẫn đến cáỉ chết của
Phác, người đổng đội, đă vào sinh ra tử vói Toàn. Chứng ldên
trước sự hoành hành của cái ác, của phân quỷ trong' con người,
chính nhân vật tôi- nhà báo cũng phải thốt lên "hãy sông với
quỷ, liãy ngổi cùng mâm với quỷ, hãy chạm chén với qủy già đòi,
quỷ mới tập sự" lặp lại nhiều lần như thế hẳn tác giả như cảnh
báo với chung ta về một hạng quỷ đội lốt người đang sông trong
cộng đồng, cùng đối mặt với con ngươi hôm qua và hôm nay.
Cuộc sông vốin phong phú và đa dạng' và dĩ nhiên cũng-
như một tò giấy, nó có mặt phải và mặt trái của nó. Không' né
tránh sự thật, Nguyễn Minh Châu trong Mìui tr á i cóc ở m iên
N a m như muôn nhìn cuộc sông trong sự đa clạng, bề bộn của
nó, để từ đó nhận diện ra con người đích thực: con người của lý
trí và bản năng, của cao cả và thấp hèn, con người vói cái bi và
cái hài, con người trong sự chi phối của chính bản thân củng như
với th ế giối xung quanh. Hình như tác giả trong truyện ngan
này miln'n tìm ra một lịch sử khác hay một phẩn lịch Su chửa
đằng sau cái "lịch sử viết thành văn bao giờ cũng trang trọng
và sạch sẽ"! [4; 76]. Đối nghịch vói thành tích chiên đấu ngày
30 tháng 4 là" thằng băng tay, thằng buộc trán, có thằng chân
đang bó bột cũng chông nạng nhảy lò cò trêu nên gạch hoa,
nhưng đa sô" vẫn lành lặn” [4; 76], Bên cạnh sự thăng quan
tiến chức, "thành đạt" của Toàn là cái chẽl đầy bi thương, cái
chết mà Toàn đã gây ra cho Phác, bôn cạnh tình thương của bà
tôn giáo là cái ác, cái ác đến dữ dằn của chính đứa C011 bà, cni ác
sư già, một tìnli thưởng đầy tình người và pha chút màu sắc ciia
của quỷ đội lốt người.
Âm thanh và mầu sắc từ những động từ và tính từ mạnh
gây được ấn tượng người đọc. báo hiệu cho người đọc sự lchôc liệt
và nhận diện được mặt trái của lịch. sử. Mưa đổng nghĩa với sự
thanh lọc và tẩy rửa, nhưng' cũng thật kinh hoàng với những cơn
mưa trong trang văn của Nguyễn Minh Cliâu: "trời đổ mưa đột
ngột ... nhuôm màu vàng khé rồi tối lờ mò', nước đái qu.ỷ, tiêng
kêu Ổ Ồ gợi lên bước đi thần tốc đẩy bạo liệt của đạo quân, clòng
nước đục ngầu; tiếng mưa gõ ầm ầm; mưa iớn và sấm chớp sáng
lòe trên những cánli đổng miền Nam; mưa đổ ào ào...". Bên cạnh
đó là những tiêng hô khô lạnh, sắc gọn "một, hai" đi đều của
đoàn quân hòa cùng tiếng hát đầy buồn bã, tất cả tạo nên một
bản hợp xướng khác lạ đằng sail niềm hân hoan chiên tliắng.
Chọn một thòi khắc mang tính
lịch sử nhất đế nói tới
những gì phản lịcli sử, nliững gì không ghi chép, không' lưu danh
trong sử sách, phải chăng S1Ỉ thành cons, đóng góp của tác giả
nằm ở chỗ đó. Lại nữa, đan xen trong dòng trôi của lịch sử đó, ấy
lại là sô" phận và những cuộc đời của C011 người, COI1 người với sự
đa dạng, con người với tất cả những’ góc cạnh cua 11 ó chứ đáu
phải phiến diện, một chiểu. Tất cả đã tạo ra một Nguyền Minh
Châu khác, khác với chính ông của một thời Dấu chân người
lính, khác với đông nghiệp của ông' khi cùng- viêt về đê tài cliíốn
tranh cho dù đã bao năm ông cùng đứng trong đội ngũ với họ,
Nói đến những thành công của Nguyễn Minh Cháu trong
việc miêu tả và ldiám phá nội tâm nhân vật hay những hành
trinh bên trong không có nghĩa chỉ với bôn truyện được đưa ra
lý giải ở trên là phản ánh đẩy đủ những điều đó mà á một số” các
truyện khác như Mảnh trăng euôi rừng; Bên đường chiên
tranh; cỏ lau hay Phiên cliỢ Giát cũng chíta đựng những
thành công của tác giả khi đi tìm nhũng hành
trình trong
những cuộc đời con người, khi đi tìm C011 người trong bản thân
con người. Nói như vậy, để có thể ldiẳng- định sự thống nhất
trong cách viết, khai thác đề tài của Nguyễn Minh Châu. Chỉ có
điều với s ắ m vai; Bức tranh; Người đản bà trên cliuyến tàu
tốc h à n h hay Mùa trái cóc ở miền Nam chiền sâu và kịch
tính trong tâm lý nhân vật được thể hiện sắc nét hơn, tập trung
hơn và như tác giả từng quan niệm:"Niềm hạnh phúc lớn nhất và
cũng đồng thời là cái điều khổ ải nhất trên đời của một anil cầm
bút xưa nay vẫn là công việc khám phá ra tất cả những cái gì
khó nắm bắt nhất, xảy ra nơi cái thế giới bên trong con người”
[6; 93]. Với những truyện vừa phân tích ỏ trên, Nguyễn Minh
Châu đã vượt qua được điều khổ ải và ông là người đã tìm thấy
niềm hạnh phúc cho riêng mình.
CHƯƠNG II
HUYỀN THOẠI VÀ IIIỆN '['H ực
Đặt Vấn đề tìm hiểu mối quan hệ giữa huyền thoại và hiện
thực cùng những biểu hiện của Ĩ1 Ó trong Lruyẹn ngắn Nguyễn
Minh Châu, cluing tôi tự ý thức được rằng đây lẩ một công việc
khá khó khăn và phức tạp. Nói thể bơi ngay từ xuất phát điếm là
thuật ngữ cũng đâu phải đã thông nhất trong cách nhìn nhận va
dê dàng chấp thuận. Mới đây thôi trên tuần báo Văn nghệ đa có
cưộc trao đổi khá thú vị và dai dẳng về vấn đề này : Từ tháng 10
năm 1994 đến tháng 8 năm 1995 có 16 bài viết [20] và cho đù có
bài viết đi xa với chủ để chính là lniyền thoại thì tự bán thân con
sô đó cũng đủ nói lên rằng huyền thoại luôn là huyền thoại và có
sức hấp dẫn lôi cuốn nhiêu người.
L GIỚI THUYẾT VỂ HUYEN t h o ạ i .
Trước hết xin được nêu một vài cách hiếu về huyên thoại.
Víẹc này, không những giúp chúng tôi trong việc lý giải chất
định hướng h a y nói cách khác là cốt lõi cho n h ữ n g th a o tác sau
huyền thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Minh- Châu mà còn
này khi qui chiếu vào Iihững truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Theo RENE WELLEK và AUSTIN WAREN, hai Iilià
nghiên cứu văn học Mỹ thì : " Iiuyền thoại - đó là sự trần thuật,
là truyện kể khác mang tính phi lý, tính trực giác - dó lại thêm
điểm khác biệt của nó với triết học có hệ thông" ỉ 17; 45], Cũng'
theo hai ông, vai trò của huyềti Lhoại, tác dim# của 11Ó Lrontf
tác, và với chả tliể sáng tạo không phải là nliỏ, chang hạn : "khi
ngitòi ta bắt đầu nói về huyền thoại gắn vói sáng tác của một
nhà văn nào đó, thì vấn đề trở nên rõ ràng : ông ta hướng toàn
thân về xã hội, ông ta mong muốn giành được một chỗ đứng
trong đó, muôn hội nhập vào đó [ 17; 46] lại nữa, các tác giả trên
còn cho rằng : " Huyền tlioại - đó là sự hiện thực hóa trên qui mô
lởn của ẩn dụ thi ca". Từ những nhận định đó, vai trò của huyền
thoại được đánh giá kliá cao trong văn học : " Mục đích và chức
năng của văn học được bộc lộ chính là - và trước hết là - ỏ' trong
ẩn dụ và huyền thoại " [17; 46].
Nhắc đến huyền thoại, thiết nghĩ không thể không nhắc
ctên những khám phá về nó của nhà nhân loại học người Pháp
Claude Lévi - Strauss, theo ông " Huyền thoại (Mythos^là một
hiện tượng vừa có tính chất bên trong ngôn ngữ vừa có tính chất
bên ngoài ngôn ngữ... v ấ n đề bản chất của huyền thoại là lịch sử
được kế lại trong đó chứ không phải là phong cách, hay hình thức
tường thuật. Huyền thoại giải thích ỏ mức độ như nhau, cả quá
khứ, hiện tại, tương lai. Để hiểu tính nhiều mặt này, ta hãy so
sánh. Không có cái gì gợi giông huyền thoại như hệ tư tương
chính trị. Có thê trong xã hội hiện đại hệ tư tương chính trị đã
thay th ế huyền thoại rồi" [21; 74j 75].
Cũng theo Lévi - Strauss, huyền thoại là một khái niệm
triết học của COĨ1 người nhằm giải thích vũ trụ. Từ hạt nhân cơ
bản này ông nhận thức huyền thoại qua hai lĩnh vực. Thứ
nhất : " Ý nghĩa của huyền thoại không nằm trong từng đơn tô",
mà tùy thuộc vào toàn thế cấu trúc của nó, thông qua phong
cách biểu hiện". Thứ hai : " Ngôn ngữ huyền thoại là một cấu
trúc đặc biệt và phức tạp hơn câu trúc ngôn ngủ trong đời sông
hiện thực" [22; 89]
Bên trên là một vài khái niệm về huyên thoại và vai trồ
của nó trong sáng tác văn học, còn những biểu hiện của huyền
thoại và dấu ấn trong từng tác pliấm lại là một chuyện khác hay
nói đúng hơn phụ thuộc vào trình độ, cách nhìn nliận của mối
quan hệ đa chiều giữa Nhà văn-Tác phẩm - Bạn đọc. Chẳng vậy
sao khi gần đây vấn đề c á c h đọc tán phẩm được các nhà phê
bình nghiên cứu văn học lưu tâm đến. Bakhtin viết : " Tác phẩm
nghệ thuật là một ký hiệu (một tập hợp ký hiệu ) mở, bởi nó mo
ra một khả năng không bao giờ cạn vê cách đọc, do mỗi một chi
tiêt ở đó đều quan trọng và đêu góp phần vào hình thức củng như
ý nghĩ của nó" [8; 112]. Chia sẻ với quan niệm này, hai nhà
nghiên cứu phê bình văn học : Đỗ Đức Hiểu, Đặng: Anh Đào củng
có những nhìn nhận vê c á c h d ọ c văn ch ư ơ n g vê bí quyêt phê
b ìn h v ă n h o c hay những khám phá mói vê tiểu thuyết với
những đặc điểm của nó. Theo Đỗ Đức Hiểu " Đọc văn chương có
nghĩa là tháo gõ mã của các ký hiệu văn chương trong văn bán,
là tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thông qua các cấu trúc của văn
bản (cốt truyện, kết cấu, nhân vật, đổi thoại, không' gian, thời
gian...). Đọc là mã hoá cách đọc, là tổng hợp các kháu của việc
đọc, cảm tưởng, phân tích, đôi cliiêu, tổng liỢp, đánh giá v.v..., ia
phát hiện và sáng tạo. Đọc, trước hệt, là phát hiện, trong- văn
bản và từ văn bản, một th ế giới khác, những C011 người khác.
Ngưồi đọc sống trong thế giới tưởng tượng- của mình, xây dựng
cho mình, thông qua qua tác phẩm nghệ thuật thành một vũ trụ
tình cảm, cảm xúc, tư duy, hình tượng riêng của người đọc."
L10;76j 77]. Từ cách hiểu trên chúng tôi muốn lưu ý đến những
4 0 .
cấu trúc của văn bản - truyện ngắn Nguyễn Minh Châu để từ đó
có thê khăng định rằng : có yêu tố huyền thoại hay chất huyến
thoại trong hiện thực của truyện ngxm Nguyền Minh Châu. Lại
nữa có bao nhiêu người đọc là có bấy nhiêu cách hiểu, cách cảm
nhận chỉ có điều cái đích cuôl cùng mà ngươi đọc nhận ra mới là
côt lõi của quá trình tiêp nhận mà thôi, nhưng nêu nhìn từ một
khía cạnh khác khi chấp nhận vai trò của văn học và đặc điểm cơ
bản của nó ỉà p h ả n ánh c ư ộ c số n g và chỉ chấp n h ậ n tliuyết
phản ánh trong văn học : văn học là để phản ánli, sao chép cuộc
sông hiện thực thì khó có thể giải mã hoặc hiểu một cách thấu
đáo những ý tưỏxig của Nguyễn Huy Tliiệp trong' Những' ngọn
gió H ưa tát, C hảy đi sô n g ơi; M uôi c ủ a rừng, Con gái th ủ y
th ầ n và bao nhiêu truyện khác nữa. Cũng như vậy, khi Dạng
Anh Đào khẳng định có " Tính chất tự do, động, đế ngỏ của
tiểu thuyêt” [8; 9] và nhắc đến sự đa dạng trong định nghĩa về
tiểu thuyết như nó là cái g iố n g n h ư th ậ t, là " Hình thức nghệ
thuật duy nhất tìm cách cho chúng ta tưởng rằng nó cung cấp
một báo cáo hoàn chỉnh và xác thực về cuộc sông' của một con
người thật"... đã giúp chúng tôi vững tâm hơn khi cho rằng
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (tất nhiên không phải là tất
cả) đã hàm chứa yếu tô" huyền thoại trong hiện thực, đã có sự
pha trộn, ảnh hưởng giữa hai bút pháp này.
Sẽ là áp đặt và khiêm cưỡng khi lây những định đê vê tiểu
thuyết để qui chiếu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Không hẩn th ế khi chung tồi tự xác định rằng quan niệm và sự
chia của những người làm công việc nghiên cứu văn học sử hay
khu biệt giữa tiểu thuyết và truyện ngắn an chỉ là cách phân
nhìn nhận chúng theo góc độ thể loại trong thế loại còn nêu đã
41
xác định cho mình một hướng đi là tìm tòi phong’ cách, bút phấp
thê hiện của một nhà văn thì bất luận đó là truyền ngắn, truyện
vừa hay tiêu thuyêt, vẫn có thể tìm thấy sự thông nhất trong đa
dạng, tìm thấy cái được biểu đạt thông qua cái biểu đat hay nói
cách khác ; tìm thấy nội dung, ý nghĩa tác phẩm văn học thông
qua văn bản, mà ở đây là chất huyền thoại trong hiện thực, ià sự
pha trộn giữa ảo và thực trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
II. HƯYỂN THOẠI TRONG TRUYỆN NGAN NaUYIỈN
MINH CHÂU
Theo lý luận hiện đại, tiểu thuyết hay truyện là ” lời nói
dôi thật"; " lòi nói dối tôn nghiêm"; là một hư cấu bằng văn xuôi,
khá dài, trình bày và làm sông động những nhân vật giả thuyết
như có thật tại môi trường, cho chúng ta biết tâm lý, số phận,
những biên cô" của họ " [8; 89) 95) 96], Có thể tìm thây sự hư câu
hay những n h â n v ậ t giả th u y ế t này qua một sô truyện của
Nguyễn Minh Châu. Tất nhiên trong truyện, Nguyễn Minh Cliâu
có nhiều phong cách thể hiện một kỷ niệm thức dạy, sông độníí,
với những màư sắc, âm vang như M ảnh tră n g c u ố i rừng, Bức
tranli, một cuộc ldếm tìm người thân yêu, khoảng đất tròi
thương nhớ, đôi lúc chỉ một việc nhỏ lỡ làng khiến lòng người day
dứt... Nhưng với hai truyện M ột lần (lối ch ứ n g’ và s ố n g m à i
với c â y xa n li, tác giả đã gây được xúc động mạnh cho người dọc
bơi " tính chất hổng hoang" của nó, người dọc sẽ tiêp xúc với một
thế giói thăm thẳm vể thời gian ; con người - cỏ cây - súc vụt
chưa phân biệt rạch ròi : đất, gió, cây xanh nói chuyện với người;
con người; con mèo và cô bé Lan sonjr như hai c.hị em yen Jihau
tliắm thiết, giận hờn nliau... Tất cả những yêu tô đó tạo thành
42
một sắc thái, một không klú liuyển thoại clio truyện, 11 hững
huyền thoại nliư hiện về từ thuở hoang sơ, mèo hoan# vò. mòo
dã và đ â y n ữ a n h ữ n g cỏ cây biết nói, nói với n h a u n h ữ n g điểu
nhà quấn quít bên nhau, múa chung củng; một điệu mua hoang
tha thiết, yêu thương.
Nêu nhìn từ một phương diện khác : thòi điểm ra đời, thì
M ột lần đ ố i c h ứ n g nằm trong một mạch truyện dược tác giả
viêt vào những năm đầu của thập kỷ 80 cùng- với những sắ m vai;
Bức tranh; Người dàn bà tr ê n c lm v ê n tàu t ố c h à n h V.V..
nhưng hình như nó không có " sô phận" may mắn khi ít nhà phê
bình văn liọc lưu tâm đến. Đối với chúng tôi, truyện này lạ ỉ có ý
nghĩa quan trọng khi 11Ó đánh dấu sự khỏi đầu cho một; cách viêt
mới, chỉ vói 26 trang thôi nhưng ỏ đấy là cái ao và thực, là
huyền thoại và hiện thực và thiết nghĩ đây còn là một "thử
nghiệm" để Sông' m ã i v ớ i câ y xanh; K h á cli ở q u ê ra và
nhất là P h i ê n c h ợ G iát bước vào độ chín, chững chạc hưn,
sâu sắc và lắng đọng hơn. Chính Nguyễn Minh Châu củng
thừa nhận vai trò của truyện, nêu không- ông đã mắc phải sai
lầm khi " Với những mẩu chuyện loài vạt cỏn con vui vui này...
ông định viết thành sácli Kim đổng cho trẻ em đọc" !
Truyện gọn gàng với bôn nhân vật chính và cốt truyện
cũng chỉ xoay quanh bôn nhân vật ây : một bé Lan ; mèo nhà; Tác
giả - bản thảo và cu01 cùng là mèo hoang - tên thích khách. Phác
họa rõ nét chân dung các Iihân vật của mình đó Jà thành công
đầu tiên của Nguyễn Minh Châu, với bé Lan người đọc, tìm thấy
tất cả lòng- thương yêu, đằm thắm mãnh liệt : tiến# gọi tlia th iế t
như đang g ọ i m ộ t đứ a e m ; tình cam của bá Lan cho mèo nhà
như vậy một người chị đối với em, khi thì đi tìm, lúc giận (lỗi,
khóc và làm lành. Tất cả những điều đó gợi lên bản năng gôc của
C0I1 ngươi, gợi về th u ở ấu thơ củ a lo à i người.
Nhân chi sơ tínli bản thiện". Con người ta sinh ra vôn
tính tlũện. Vậy nên, từ tiêng gọi của bé Lan, tác giả cũng nhặn
ra, tình thương yêu, tính nhân bản : " Tôi cũng không đo lường
được ở trong tôi tình yêu loài vật đến mức ngần nào, nhúng rõ
ràng cái tiêng gọi của đứa con gái nhỏ đã đánh thức dậy nơi tôi
một cái gì đó giông như niềm rung động thật xa xăm có lẽ từ
thuỏ ấu thơ của loài người."
Những tiếng gọi, những giọt nước mắt của bé Lam khi. mèo
trắng bỏ bé chạy theo tiếng gọi của đông loại, khi mèo con bị mèo
đen cắn chết, tất cả đủ nói lên tấm lòng thương' yêu, bán năng
gốc của con người, đủ nói lên điểu thiện trong con người mà ở
đây bé Lan là đại diện.
Cùng với tiếng " meo meo” và " ngheo ngheo" văng vẳng
suốt truyện, mèo trắng cũng biểu hiện cho cái thiện tuy từ một
phương diện khác, trong con mắt của tác giả, mèo trắng với
khuôn mặt ngây thơ và nghiêm trang như một cô gái nhà lành
vừa nhớn. lên". Trong cách nhìn của cô hàng xóm - cô Kì lánh thì
mèo trắng là đ ứ a c o n gái, là th â n con gái m ớ i n h ớ n lên . Mèo
trắng - con vật nuôi trong nhà tác giả còn là " nàng" là "cô tiếu
thư"; là Juliette với đầy đam mê (bỏ nhà ra đi... lên mái nhà dể
cùng chàng hiệp sĩ áo đen - mèo đen - Roméo với những VII
khúc của riêng chúng rôi trở về và iại ra di sau khi C011 bị cán
chết). Dường như ngòi bút của tác giá không’ còn phán biệt
giữa người và vật khi dành những từ ngữ của con người miêu tá
cho một con vật, và những từ ngữ ấy lại mang một sắc thái nghĩa
cho tình thương yêu, cho điểu thiện. Người đọc có thể tìm thấy ở
Mèo trắng một cái gì đó ngây thơ, lại cả tin và không thể không còn
chất hoang dã.
Nêu bé Lan và Mèo trắng là đại diện cho cái thiện thì mèo
đen lại là một thái cực khác, hoàn toàn đôi lập. Mèo đen - cái ác
chỉ là một. Từ những hình ảnh bên ngoài đặc tả về một chân
dung bê ngoài : môt gã mèo ôm không nơi cư ngụ; bẩn
th ỉu ; g h ẻ lở; dơ cláy; ta n h tưởi; t r ụ i t h ù i lủ i ; m ộ t co n
mèo vô thừa nhận, con vật dơ (láy nhất của khu tập thế,
đên bên trong, Mèo đen là tê n sá t n h â n , đ ộ c ảc, tê n t h íc h
k h á c h và cũng là một h iệ p sĩ, m ộ t R o m éo trong điệu vũ
khúc tình yêu dưới trăng dẫu tiếng " ngheo" của nó đ ầ y m ail
rỢ và kích động.
Sự đối lập giữa cái ác và thiện đã ỉ'õ những mèo trắng và
mèo đen còn biểu hiện cho độ thành và hoang dã, hay nói cách
khác là văn minh đô thị và văn minh thời hoang dã: những phô"
phường, khu tập thể và con người mà nhất là bé Lan với bọn trẻ
con trong khu tập thể là cái nôi cho mèo trắng trú ngụ và đó
cũng là đô thị, còn một dải gò đất hoang vu, một khu rừng nlìỏ,
một cánh đồng đẩy vẻ hoang dã nơi đầy những ngôi mộ thì đong
thời là nơi chôn của mèo đen - đại diện cho hoang dã.
Chứng kiến cho sự đối lập giữa thiện và ác ấy ]à tác giả, là
cái Tôi đầy biểu cảm của nhà văn. Nhà văn suy tư về thiện/ ác,
vể cuộc sông con người. Ngay bản thân đầu để của truyện cũng
nói rõ cho sự đối lập, sự so sánh của tác giả vồ những vấn đề
muôn thuở của con ngưồi. Đôi chứng ở đây xáy ra giữa lo à i
người với lo à i vật; giữa t h iệ n và ác, giữa tr í tu ệ , lý trí và
b ả n n ă n g m ù quáng (Cũng là một cuộc đôi chứng: giữa hai
hoàn t h iệ n , giữa á n h s á n g và n h ữ n g khoáng' bóng tôi vần CÒI1
mặt nhân cách và phi nhân cách, giữa, cái hoàn thiện và chưa
rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi người - miếng đất nương náu
và gieo m ầm của lỗi lầm và tội ác) [3. 259]..
Cái ác hoành hành và ngự trị một cách nhỡn tiền trong
cuộc sông con người. Mèo đen - tên sát nhân, tên thích khách đá
cắn chêt hêt cả bôn con mèo con, "con nào cũng bị cắn nát cổ" bên
cạnh đó với "cặp mắt màu đổng thau", căm thù, ngạo mạn và sau
này cặp mắt ấy còn mang vẻ đầy tự đắc man rỢ của một tên sát
nhân còn có mốì quan hệ khá đặc biệt với những trang bán thao
của nhà vãn. Bản thảo bị lấm láp bấn thỉu, bị cháy xém, bị đè
bẹp: "Nó đứng ngay trên bàn viết của tôi, ngay írên những trang
bản thảo mới của tôi". Tất của đều do mèo đen tên đại bợm, tên
thícli khách, sát nhân, đại diện cho cái ác, nhìn rộng' ra có lẽ vó'1
mèo đen và những trang bản thảo, nhà văn muốn nói đến những
lực ép, nói đến những lực cản, nói đến lòng căm thù của những
thế lực quanh mình. Mèo đen, kẻ " đã dám hỗn xược chế nhạo
tôi, có ý làm vấy bẩn y như cố tình muốn xóa bỏ dấu vết những
suy n g h ĩ vừa trịnh trọng vừa dầy công phu của tôi" về mặt ý
nghĩa xã hội còn biểu hiện cho những lực lượng, bạo lưc tàn
khốc, cho những kẻ giết người nhưng lại mang một thân hình
đầy sức quyến rũ. Vì thê mèo trắng' ngây thơ, cả tin và còn đôi
chút hoang dã đã từng dứt bỏ đời sống' đô thànli, dứt bỏ ván
minh đô thành để trớ về với tiếng gọi nơi hoang dã.
Trong văn học viêt đã và đang tồn tại thể loại truyện ngụ
ngôn và loại truyện này ngư ngưòi xưa cho rằng" "Ngụ ngôn
thập cửu" (Mười truyện ngụ ngôn thì có tới chín truyện để răn
dạy đạo đức) và truyện ngụ ngôn thường dùng đôi tượng chính là
loài vật để nói tới con người, có thể thấy qua những trang truyện
ngụ ngôn dân gian Việt Nam, ngụ ngôn La Fontaine, Esope ...ớ
Một lan đ ô i c h ứ n g các nhân vật chính như mèo trắng, mèo
đen là loài vật nhưng rõ ràng không phải thể loại truyện ngụ
ngôn liay cổ tích, bởi như tác giả đã Lừng viết: "Tôi không muôn
một câu chuyện mà loài vật được nhân cách hóa, gán ghép cho
loài vật những biếu hiện của lòng nhân ái và trí khôn mà nỏ
không có, xóa bỏ ranh giới giíĩa loài vật và người." mà ỏ đây tác
giả chấp nhận sự hiện diện của loài vật trong cuộc sống con
người như một sự hiến nhiên để được đối chứng, quan sát và rút
ra những điều cần thiết cho cuộc sông. Với những nhân vật như
Mèo trắng, Mèo đen cái mà tác giả đạt được ỉà những cái ảo
trong cái thực hay nói cách khác nliững huyền thoại trong cuộc
sông hiện thực hôm nay.
Nhìn lại những nhân vật trong Một lim dối chứng,
người đọc thấy những "nhân vật" ấy dù vô tri vô giác như tập
b ả n thảo hay những con vật: Mèo đen,mèo trắng đến quan quít
với nhau bện chặt cùng nhau. Và trên hết là con ngươi với tất cả
suy tư và hành động trong cuộc sông, trong mối quan liệ đa chiểu
với cuộc sông. Tất cả tạo một bứ c tr a n h ỉniyền ảo, dữ dội, căm
giận, xót thương. Dữ dội và căm giận bơi cái ác hoành hành, cái
hoang dã lấn lướt văn minh. Xót thương bởi cái thiện, tình
thương bị chà đạp và xót xa còn ở chỗ niềm tin dù nhò nhoi của
con người (nhất là của trẻ thơ) bị "đánli cắp".
Dù tác giả đặt câu chuyện vào một thời gian hết sức mơ hổ
n ă m đó; m ù a t h u n ă m sau; khoảng thời gian đó, buổi sá n£ hôm
:"Mùa xuân; mấy ngày sau; mùa đông năm ấy; tuần tháng chạp
đó..." thì thời gian đó vẫn là thời gian của hiện tại với nhà xuất
bản, ngày cưới pháo nổ và không gian cũng vậy, vẫn lả hiện tại
bởi đây là p liố phường, là khư tập th ể (nhưng cần pỉiải thấy
sự đóng góp và tài năng của Nguyễn Minh Châu thể hiện ở chỗ,
hiện tại ấy mang tính phi thời gian, mang tính siêu mẫu, vĩnh
viên bởi nó để cập đên những vấn để muôn tlmở của con người
(thiện/ác, nhân cách/phi nhân cách, hoàn thiện/ chưa hoàn tliiện,
ánh sáng/bóng tôi) mà với văn học trên thế giới chúng ta đã có
một cặp siêu mẫu trong Những' ngư ời k h ô n k h ổ của Victor
Hugo qua Jean VaXjean và J a vei?t như một minh chứng mẩu
mực.
Một tác phẩm văn học dù ở thể loại nào khi xét dưới góc
độ văn bản cũng không nên bỏ qua yếu tô thời điểm ra đòi. Với
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, nhất là ở giai đoạn nửa đầu
thập kỷ 80, người ta có thể tliấy sức sáng tạo không ngừng của
nhà ván, nếu 1982 là M ột lần đôi cliử n g thì chỉ một năm sau
C hiếc t liu y ể n n g o ả i xa; Sông' m ã i vớ i câ y x a n h đã ra mắt
bạn đọc. Khẳng định những n é t m ớ i trong cách viết của tác giả
qua "Sống mãi với cây xanh đấy là điểm gặp gỗ và thống nhất
qua những bài phê bình nghiên cứu (tuy không nhiều). Xin dừng
lại và nhtfohg lòi cho một số cách nhìn của các nhà nghiên cứu
phê bình văn học. Lại Nguyên Ân viết:" S ốn g’ m ã i với eả y xanh
mang những nét viễn tưởng ... Và viễn tương rõ nhất lả ỏ chỗ nhà
vàn mô tả con người trong sự giao hòa với thiên nhiên ... tuy
vậy, cũng có thể hiểu rằng các kích thước "viễn tưâng'"' ấy CỈ1Ỉ là
cách nới rộng thật rộng cái chiều đo để nêu ra vần đê cần nêu...
Dường như ở truyện này, toàn bộ cuộc sốiiíí của cây côi và C011
người phô" xá Hà Nội được soi dưới một ánh sáng khác, dịu nhẹ
hơn, thấm một thi vị trong trẻo, thơ trẻ. Chỉ nhận ra thứ "ánh
sách dịu" đó mới có thể đọc được thiên truyện, và mới nhận ra
nhiều nét khác lạ bắt đầu xuất hiện dưới ngoi bút Nguyễn Minh
Châu - khác lạ so với chính ngay các truyện của anh trước S ô n g
m ãi với câ y x a n h , khác lạ sơ với những trang tuyệt bút vê phô
xá và cây cối Hà Nội của Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng"
[13, 208] cùng chủ đích khám phá những đóng góp mới của
Nguyễn Minh Châu, Trần Đình sử có cách tiếp cận sát thực, rỏ
ràng hơn, ông cho rằng: "Sông m ã i với cây x a n h lại nói vê môi
quan hệ con ngươi và môi trường cây xanh trong quá trình đô thị
hóa đang diễn ra. Đó là câu chuyện biên niên cảm động- về tình
yêu đôì với cây cối và đất cát. Xu hương' trần tlmật chiều sâu,
phát hiện những liên hệ sâu kín của tốn tại con người đã đua
dắt tác giả tìm đến h ìn h th ứ c ước lệ h u y ề n thoai". [ 13; 212]
(Chúng tôi nhấn mạnh). Những n é t v iể n tư ở n g hay h ìn h th ứ c
ước lệ huyển thoại như các tác giả trên khắng định trong
truyện n g ắ n S ố n g ' mãi với cây xanh rất gần với ý tương của
chúng tôi khi cho rằng có chất huyền thoại trong hiện thực của
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
S ô n g m ã i vớ i cây xanh là một câu chuyện ảo, như
huyền thoại như ngụ ngôn. Ngay pliần thứ nhất của tmyện:
Một ô n g lã o b iế t n ó i c h u y ê n với c â y c ô i đã thum đậm cliấi.
kỳ ảo hay nói cách khác cái fantastique. Vừa 1UỞ truyện đã nửa
hư, nửa thật: một ông già h a y đi lan g th a n g đ ể trò c h u y ệ n
vớỉ c â y c ô i [3; 283] m ộ t n gư ờ i s ô n g v iển vôn g, bi người ta
k êu là dở người. Không biết có đúng hay không, người đôn rằng
bác lạ i cò n có t h ể trò c h u y ệ n với đất cát nữa. Tất cả những
câu chữ ấy cùng YỚi hai "tác giả" đổng thời là hai nhân vật trong
truyện là c â y sấ u và câ y côt đ iện xuất liiện ngay ỏ phần mở
đầu tạo ra sức hấp dẫn lớn cho cốt truyện. Hấp dẫn ở chỗ tính
nửa hư nửa thực được thể hiện rõ nét ngay từ đầu, thứ nữa MÓ
kích thích trí tò mò, muôn khám phá những cái ảo bên cái thực.
Theo
lý lu ậ n cổ địn h, m ộ t
tá c p h ẩ m h a y và th ú VỊ là m ộ t tác
phẩm phải có được cái chất "khai môn kiên sờn" - có nghĩa mở
cửa ra thấy núi ngay!, ở đây, hình ảnh một ông già của thời hiện
tại lại biết nói cliuyện với cây cối, đát cát, và câu chuyện ấy lại
được "hai tác giả" có một không hai trong văn học hiện đại là cây
sấu và c â y c ộ t đ iên ghi chép lại càng tăng thêm chất hư ảo cho
chính bản thân truyện. Nói cách khác, tác giả - nhà văn Nguyễn
Minh Châu đã tạo riêng cho mình một cách nhìn thực tại, ông
muôn nhìn nhận và đánh giá hiện thực thông qua lă n g k ín h
h u y ền th ọ a ỉ. Vì lẽ đó cảnh vật trong S ố n g m ã i với câ y x a n h
nhuốm một sắc màu huyền thoại. Đậm nét nhất là cỏ cáy muôn
loài: n h iề u t iế n g n ó i rì rầm / h ộ i n g h i c ủ a t h ê giới các loài
cây/ c á c io à i c â y đ a n g c h ă m cliú ỉắng’ n g h e / cây sầu đông
cất t iế n g n ó i/ b á c sấ u Bờ Hồ đ iể u k h iế n / cây sỉ tiếp tụ c
th a m lu ậ n / c â y cơ m n g u ộ i và câ y b ằ n g lăng' k h ô n g tá n
th à n h n h â n đ ịn h c ủ a câ y si/ c â y đề ra lời k ê u gọi/ cây (lề
cười ẩ m ỹ cắ h ộ i trư ờ n g / câ y dề cti đôn m ộ t kêI luận. Và
Cổ trong suốt 63 trang truyện. Cây là người hay là cây ? Tất cá
nhiều, nhiều nữa những "tiếng nói"; những- "hành độn#" của cay
hòa hợp vối nhau như thuở hoang sơ chưa hề tách bạch. Chúng
tôi muốn lưu ý tới nlũíng động từ chỉ hành động đưực sử đụng
trong những ví dụ vừa liêu, nó không những làm s ô n g động thế
giới cỏ cây vốn tĩnh lặng mà mặt khác những động từ ây còn làm
tăng thêm chất hư ảo của truyện: cây lắng nghe, cây cất tiêng
nói, cây biêt điều khiển; cây đọc tham luận ... Thiết nghĩ n g ư ờ i
đọc sẽ cảm nhận được một ý tương khác của tác giả đằng sau
những cây cỏ tưởng chừng như vô tình ấy. Theo chúng tôi, có lẽ
tác giả muôn gửi gắm bức thông điệp đến đồng loại ràng hãy hòa
hợp cùng với thiên nhiên, bảo vệ và giữ gìn nó, 11Ó nuôi sống' con
người, âu yêm con người và nêu vậy, trước hết cần phải hiểu và
yêu thương, chăm sóc chúng. Nhìn lại thời điểm Sông' m ãi với
cây x a n h ra đời: năm 1983, càng thấy tài năng và đóng góp của
tác giả khi ông dự báo những điêu mà bây giờ người ta đang làm,
ông báo động về một nguy cơ hủy hoại môi trường do chính bàn
tay con ngưòi gây ra. Ông đặt vấn đề về mối quan hệ giữa cuộc
sông của con người với môi trường sinh thái, mà cụ tliể ở đây là
con Iigưồi với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá.
Cùng với những loài cây, nàng Gió và mẹ Đất củng được
tác giả tạo dựng như những nhân vật tham gia vào sự phát,
một n h â n vật, m ộ t thực t h ể s ô n g động của cuộc sống CQJ1 người
triển của cốt truyện. Nàng Gió dưới cách nhìn của nlià- văn như
với đẩy đủ tính cách : nàng là m ộ t n g ư ờ i th íc h đ ù a , nàng cười
nói, nàng lúc dữ dội với những' CƠ11 đ iê n k h ủ n g khi lại dịu
d à n g n h ư n h ữ n g giờ p h ú t c ù n g th a m gia đại hội của loài cây. Với
nàng Gío là vậy còn bà mẹ Đất lời văn của tác giả dường như âu
yếm, trân trọng hơn bởi có lẽ đất là nơi chơ che, nuôi dưỡng con
người: M ột người đ ả n bà p h ú c h ậ u , n g ư ờ i th ấ p , tó c bạc
tr ă n g m à kliưôxì m ặ t v á n cồn trẻ/ Me m ặc to à n đồ nâu,
tr ê n m ặ t p h ả n g p h ấ t m ộ t n ô i b u ồ n đế lai từ h à n g trăm
th ê k y n h ọ c n hăn... Đấy là những từ dành cho bà mẹ Đất, lời
văn trỏ nên đằm thắm, hết sức trân trọng yêu thương và hình
như ỏ đây người đọc còn bắt gặp một chất thơ lan tỏa, lan tỏa từ
chính bản thân hình tượng, từ khuôn mặt phảng phất một nỗi
buồn khiên người đọc nghĩ suy, tham gia đổng sáng tạo những
nét nghĩa đằng sail hình ảnh ấy.
Cảnh vật thiên nhiên là thế, còn thế giới những đổ vật
xung quanh nhân vật chính - bác Thông: chiếc xe bò, cái áo ba đờ
- xuy, cây cột điện cùng với.-bức tranh của một thòi trai trẻ, tất
cả vân quấn quít, hòa quyện với nhau, cùng với ông tồn tại , tổn
tại một cách sống động trong hiện thực cuộc đời. Nếu chiếc Xfì bò
là vật gia truyền từ ba đời gia đình nhà bác/ được để lại từ đời
ông nội của bac, thì chiếc áo ba - đờ - xuy lại là vật chứng thiêng
liêng cho tình yêu - thương giữa con người với con người giữa
tình cảm của người hàng xóm nhân hậu, đẩy thương yêu bà
Ngan đôi với ông. Điều đáng nói ở đây là những kỷ vật gần gũi
với ông ấy đã vượt lên một đồ vật bình thường trở thành những
kỷ vật mang sắc màu huyên thoại, Ĩ1 Ó như luôn dõi theo và ảnh
hưởng đến tính cách và sô' phận của bác Thông. Chẳng hạn, nêu
chiếc xe bò không gắn bó như hình vói bóng với cuộc đòi bác
Thông thì hẳn chắc bác đã có lòng yêu thương cỏ cây như thế. Với
chiếc áo ba - đờ - xuy bên mình, chẳng những đã giúp bác trở về
với quá khứ, về với một thời oanh liệt của mình mà còn fíây rn
một sự ngộ nhận đáng tiếc. Chiếc áo - vị đọ ị tướng - bác: Thông
hay ở đây là mối quan hệ giữa truyền thông và hiộn tại, mối lien
hệ giữa quá khứ và hiện tại. Nói cách khác, trên COỈ1 đường' liiộn
đại hóa văn học nghệ thuật, tác giả - nhà ván Nguyễn Minh
Clìâu vân không quên truyền thông tôt đẹp, không quên chu
thể con người.
Giữa mênh mông của thê giới cỏ cây, cảnh vật ấy, COI1
người vân được trân trọng, vẫn chiêm nhiều tâm lực, trang viêt
của nhà văn. Tác giả đã nhường lời của mình cho bà mẹ Đất khi
nói về con người: "Mặt đất tự trang điểm bằng biết bao cảnh sắc
thiên nhiên tươi đẹp nhưng trước hết, bao giờ mặt đất củng tự
trang điểm cho mình bằng những COI1 Người
Con Người được tác giả trang trọng viết hoa như càng tỏ
rõ hơn ch lĩ ý của tác giả về một cuộc sông, một thế giới nià ỏ đó
con người là chủ thể. Thật thế khi nhìn lại 6G trang với ba phẩn
rõ rệt của truyện ngắn vẫn thấy con người nhất là những cư clan
ỏ ngõ 27 với ông Thông và bà Ngan; rồi cô Loan cùng cậu Huân
là những con ngitòi đầy nhân ái và nhân nghĩa và được tác giả
dày công chăm chút.
Trước hết là nhân vật ông Thông - nhân vật chính của
truyện dưới ngòi bút của nhà văn, nhân vật được tác giả miêu ta
từ nhiều góc độ: cái bi, cái hài hước, tính chân thực đường như tụ
hội vào nhân vật này và để rồi làm nổi bạt lên tích cách, tư tương
của nhân vật cũng như ý đồ của tác giả. Nêu một người sông
v iển v ô n g , bị người ta kêu là clở n g ừ ơ i là m n g h ề trồng' cây
trong thành phô" luôn yêu thương chăm sóc cho cay côi, hiếu
được tính nết của cây côi là chân dung gương mặt thạt của bấc
Thông thì m ộ t b ậ c nguyên soái/ m ộ t vị d ạ i tư ớ n g trong lúc
bận chiếc áo ba - đò - xuy chăm sóc cây lion lại là một chút bài
hước ma tác gia đã cô ý miêu tả. Biêt được tiếng nói, hiểu và
nghe rôi cùng đôi thoại với cây côi, tham dự "đại hội" của các loài
cay đay lại la chât hư ảo, huyền thoại về một con người. Cả ưiột
đời người quân quýt cùng cáy cỏ, sông giữa cây cỏ, yêu thương
chăm sóc chúng, ây vậy bi kịch đâ xảy ra với ông, ông' chết, ông
ngã xuống cùng với cây sấu bị hạ xuống, ở đáy không
chỉ là bi kịch của riêng ông mà còn là bi kịch của thòi gian, của
cái hiện đại và lioang srỉ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa với
môi sinh, môi trường hay thiên nhiên nơi con người đáng' tổn tại
về phương diện này có thể thấy tính dự báo, khả năng tiên đoán
của nhà văn trước sự phát triển của hiện thực cuộc sông. Người
đọc còn có thể nhận ra một tiếng chuông báo động hay một lời
cảnh tỉnh với con người, hãy giữ gìn cáy xanh, "sông mãi với cây
xanh", nó nuôi sông con người, che chở cho con người.
Nên chất hư ảo, pha chút hài hước là nét chính trong
nhân vật bác Thông, thì chất thơ lại thấm đượm từ nhân vạt
Loan tạo ra sự c â n đối, hài hòa giữa hai nhân vật chính. Một cô
bé Loan khoảng bốn, năm tuổi đã gửi những bức thư bằng lá/ nói
thầm với lá/ bỏ hòm thư vào những phút giao thừa chỉ cliừng đó
thôi cũng đủ nói lên chất thơ trong tâm hổn của "mội nhà thơ
lớn”. Bức thư bằng lá hay lòng yêu thương cỏ cây thiên nhiên Hà
Nội? và chính nó là chứng nhân, là gôc nền tạo ra tính cách yêu
thiên nhiên, con người Hà Nội của một bé Loan lúc bôn, năm tuổi
cho đến bà Loan - nhà văn của mấy chục năm sau.
Chất thơ không chỉ thấm đượm và toát lên tù nhân vật
Loan mà chất thơ còn lan tỏa vào không gian bao la, thời gian
đằng đẵng từ mấy triệu năm, các tầng đất, các lớp cất biêt thẩm
thi vê qúa khứ. ơ đây, câu văn của tác giả trìu nặng suy tư, tâm
trạng riêng mang đậm nét trữ tình vốn là yếu tô" không thê thiêu
cua thđ, tác giả viêt: "Hỡi những em bé giàu tương tượng, hãy áp
tai vào tâng nhựa đường, sẽ được nghe tiếng vỗ lào rạt của sóng
Iiước của một dòng sông đã chêt, giấu trong lòng những cán. giáo
ííăy, những mũi tên đồxig, những cối chà}- bàng (tứ, những hoa
văn trên men, những giọt mổ hôi trên áo vải và giọt máu trên
chiên bào; và bên dưới cùng của tát cả là hàng vạn canh rừng
lim sên, táu và tre vầu đã cliết, nhường mặt đất cho con ngiròi 0 .
Bạt ngàn cây côi đă mọc trên toàn cảnh một thế giới toàn (tám
lầy và sông ngòi chính là những kẻ tiền trạm, tạo điểu kiện sinh
thái cho con ngừơi, khi biển Ỉ1ƯỚC mặn vừa rút" 13; 293]. Có thế
khẳng định rằng đây là cách khai thác độc đáo của nhà ván về
lịch sử Hà nội, chìm sâu dưới những tổng đát là thiên nhiên và
văn hóa của quá khứ. Viết để thêm hiểu, thêm yêu Hà nội, góp
một cách nhìn về Hà nội.
Cũng với một mạch cảm xúc ấy, ở một trường đoạn khác,
nhà văn đặt nhiều dấu hỏi cho những câu hỏi, những câu hỏi
chưa có trả lời mà tùy thuộc vào từng người, tùy thuộc vào mức
độ cảm nhận của mỗi người nhưng chính từ những cáu hỏi ấy, ý
thơ như ldiông thể kìm giữ cùng lời văn: "Chinh phục thiên
nliiên? Đúng, đời sông loài người là một chuỗi dài quá trình
chinh phục tliiên nhiên, nhưng cũng là thiếu thỏa đáng và thậm
chí nguy hiểm, nếu không nghĩ đến công việc hòa hợp với thiÔ1Ì
nhiên: từ giữa phô" p hường chật hẹp, đông đúc có bao giờ các bọn
đi ra sông Hồng nghe tiếng hát của phủ sa và bò bãi? Dá bao <2,iò’
các bạn dừng' bước trên hè phố nâng một cành cây gay? Có phai
tình yêu của các ban chíỢc e ấp nói lên tron# mau xanh của hàng
cây ? Và nhất là tuổi thơ, hãy trả lại cho tuổi thơ nhưng nối cỏ
và bóng râm mát của cổ thụ, qua sấu giằrn và cảm giác đi
trong rừng..." [3, 293]
Cùng với những nhân vật đã phân tích ở trên, bà Ngan va
cậu Huân, bức tranh cùng cây cột điện đã làm tăng- thêm chất
thơ và chất hu ảo cho truyện: một người đàn bà với tất cả tình
yêu thương đên mòm mỏi, một chàng trai với ưỏc mơ "cách
m ột t ì n h yêu với phô" phường, cây côi nơi đáy VỚI n h ữ n g C011
mạng xanh", hiện đại hóa, đô thị hóa Hà Nội ... vói họ chi vì
người như bác Thông, cô bé Loan trước đây cũng như nữ văn
sĩ của hai mươi năm san. Từ Sông' m ã i với câ y x a n h , tác giả
đã góp một cách nhìn, cách cảm nhận vê hiện đại hóa Hà Nội
với nhà cao tầng (công nghiệp) với cây xanh (môi sinh, môi
trường) nhưng trong quá trình hiện đại hóa đó qua cách kẻ,
cách thể hiện các hình tượng nhân vật, tác giả hình như kiiím
thiết báo động đến một nguy cơ phá hủy môi sinh môi trường’
nơi con người đang tồn tại mà cái chêt của ông Thông cùn#
cây sấu Bò hồ bị hạ là một ví dụ, một lời cánh tỉnh.
Hư pha lẫn thực, một chút cổ tích, một. chút, ngụ ngôn,
chất thơ càng hiện thực, có thể nói tải năng và đóng góp của
Nguyễn Minh Châu vào văn học thời kỳ đầu của đôi mới. hiệu
quả và khả năng, tác dụng của nó ở mức độ nào đôi voi. công
chúng có thể còn chưa xác định rõ nhưng cần Iđian£ định ntffiy
rằng nhà văn đã nói được những điểu cần nói thông qua thiên
truyện s ố n g m ã i vớ i câ y xanh.
"... Tôi chỉ nghĩ viết văn là viết văn. Nhà ván m oi những
cái gì tận trong gan ruột tim óc ra mà viết lên trang giây".
[6; 142] Tâm sự trên của Nguyễn Minh Châu vào nliĩíng ngày
cuôi của cuộc đời, tâm sự được viêt trôn giường bệnh đã phần
nhiêu thể hiện qua những tác phẩm củng được viết vào thời gian
này, đấy là Cờ lau; M ùa trá i cóc ở m iền N am củng P h iê n
ch ợ Giát, nhưng vói mục đích là tìm hiểu sự pha trộn giữa hai
yêu tố huyền thoại và hiện thực, phần dưới đây chúng tôi chỉ để
cập thiên truyện Phiên chợ Giát YỚi một truyện khác được sáng
tác trước đó nhưng cũng có môi liên hệ khá chặt chẽ với nó đấy
là truyện khách ở q u ê ra.
Nếu làm một con sô" thông kê có lẽ cá liai truyện trên đểu
đạt tới kỷ lục có nhiều bài viết về nó nliất so với tất cả các truyện
ngắn khác của Nguyễn Minh Châu. Dù hai truyện được sáng tác
vào hai thời điểm khác nhau nhưng ở mỗi một thời điểm, từng
truyện lại đem đến sự "xôn xao" bàn luận trong giới văn học
nghệ thuật. Chẳng hạn với K hách ở q uê ra, tác giả viết vào
năm 1984 thì đến 1985 đã có cuộc hội thảo mà ở đó nhiểu bài
phát biểu đề cập tới truyện ngắn, đó có thể là: "anil Cliâu chưa
làm chủ được ngòi bút và cá đên sự chiêm nghiệm suy tương của
mình." [13;179] là "câu chuyện K hácli ở q uê ra, tôi cám thấy
cảm hứng của tác giả hơi gán ghép" [13; 175] "Tr uyện Khách ở
quê ra chẳng hạn., những nhân vật anh đưa ra có vẻ không
thật, nó là sản phẩm của một ý định truyển đạt cái vừa khám
phá" [13' 181] và còn nhiều, nhiều nữa (xin xem 13 tít trang 173
đén 290). Khác hẳn với Khách ở q u ê ra, khi Phiên ch ợ íVìíứ
đến tay bạn đọc thì không- còn nghi ngờ gì nữa tài năng và thành
57
cỏng của Nguyễn Minh Chậu đã hoàn toàn được lcliẳng định.
Nhà văn Nguyễn Ngọc viết: "Pliiên chợ Giát, kỳ diệu thay, ia
một trong những truyện ngắn hay nhất của anh, một tuyệt tác
của văn học hiện đại chúng' ta. Lời tuyệt mệnh gửi ỉại CỈ10 đòi ay
cua Nguyên Minh Châu mang nặng đầy ý nghĩa xã hội nóng
cháy hôm nay và cũng gợi vê những gì đó mang tính vinh cửu,
của con người trong cõi nhân quần quằn quại này, ”'iữa cái vô tan
từ m ột phương diện khác, dưới C011 rnắt của mội; n h à nghiên cứu
của không gian thời gian, của vũ trụ vỉnlì hằng" [13; 2511. Nhìn
phê bình văn học, với Đỗ Đức Hiểu, P h iê n ch(í Giát là "một l,ími
đa thanh m ộ t tác p h â m văn chương mỏ, một bức trailb iạ lủng...
trạng lớn, là những cảm xúc và suy tư sâu thẳm, một văn ban
Nó là một chấn thương nhức nhôi, mội; bức tranh với bao cánh
hoang vu, với nhiều mảng tối và những chấm đỏ màu ituíu. niỏt
bức tranh nhiều nét nhòe, nét này thâm nhập nét kia, gây nhieu
ảo ảnh, một sự thẩm thấu giữa hiện tại và quá khứ, giữa giac mơ
và sự thật..." [13; 253; 254]. Trong khi đó Hoàng Ngọc Hiên lại
vê t h â n p h ậ n COỈ1 người (nói chung), C011 người "sông' giữa hoang
cho rằng:"Phiên ch ợ G iát được viết không phải đế triết luạn
vu và bóng tối".. Truyện này là một giả thuyết văn học vê bản
chất và thân phận người nông dân (chắc là tác gia củng" không
phản đối nếu chúng- ta xác định rằng- đây ìà n^u'dJ nông dán Việt
Nam) [13; 265J. ở một trường đoạn khác, Hoàng Ngọc Hiên viết;,
"Trong truyện P liiê n ch ợ Giát, có những chi tiêt, những hình
ảnh khiến người đọc nghĩ ngợi ve thân phận con người (nói
chung). Nhưng toàn bộ truyện là một giả thuyêt về ban chất vn
sô" phận của người Iiông dân" [13; 267], Theo chúng' tôi nên chí
hiểu nhân vật Killing ở trong K liácli ở q u ê ra và P h iên OỈ1Ọ’
58
G iát như một hiện thân của người nông dân thì đúng nhiửychưa
đủ và CÓ lẽ chưa đủ sức mạnh để tạo ra sức sáng tạo và dóng góp
của Nguyên Minh Châu, mà ở đáy cần phủi thấy nhân vật
Killing là đại diện clio tliân phận con người nói chung, con người
với cuộc đời với biêt bao nỗi trầm, luân khó Iiliọc, con người với
những môi liên hệ đa chiểu với cuộc đòi này, có thế P h iên Chợ
Giát cùng nhân vật Khủng mòi có được tẩm vóc lớn.
Cũng nhằm đánh giá những thành công của tác giả nhưng'
từ một góc độ khác, nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư viết:" đến
Khách ở q u ê ra và P h iê n chợ Giát thì xuất hiện nhan vật tiếu
thuyêt đích thực một con người nliiểu chiểu, một tính cách vừa
mâu thuẫn vừa thuần toàn, vừa cá biệt vừa tiêu biểu, vừa là sán
phẩm của quá khứ lịch sử tôi tăm vừa tỏa ánh sáng của Iihán
tính vĩnh hằng của những giá trị đạo đức muôn dời, một người
nông- dân chân lâm tay bùn nhưng đồng thời lại là một"nhà tư
tưởng" có th ế giới riêng, có tiếng nói riêng, tiêng nói ấy lan xa
khắp nơi trong tác phẩm, hòa điệu và nghịch điệu phức tạp vói
tiêng nói tác giả" [13; 273].
Bên trên là những ý kiến vê truyện ngắn K hách ở quê ra
c ù n g P h iê n chd Giát, dẫn lại những ý kiên này chúng tôi
muôn khẳng định thành công và đóng góp của tác giả cho ván
học thời kỳ đổi mới. Với mục đích của chương này chúng tu.i chỉ
xin đê cập đến một khía cạnh nhỏ trong bút pháp cua Nguyên
Minh Châu đó là cách xây dựng nhân vật mà cụ thể ỏ đây là nhân
vật Killing với những biêu hiện cho cái ngoài "hiện thực" hay cái hư
ảo trong nhân vật mang tínli huyền í,hoại áy.
Chân dung của nhân vật Khủng cùng vợ lão - mụ Huệ có
phân nào đó giông với cuộc tình duyên của thằng gù Caclimôđô
với vũ nữ E xmeranda trong Nhà thờ Đức bà Pa l i của Hugo. Từ
bàn tay: Chẳng còn là hình thù một bàn tay con ngưòi nữa. Hai
bàn tay lão đầy những chỗ nổi u nổi rnc, các n
bọc một lớp da giông như một thứ vỏ cây, và cả bàn tay lão giống
y như một tòa rẽ cây vừa mới đào dưới đất lên..." [3; 512; .513]
cho đên cách so sánh giữa lão Killing và mụ Huệ:" Giữa hai con
người có một cái gì quá đỗi khập khiễng, ai mà tin được có thể là
cạnh Killing. Chả khác gì một cái cốc pha lê bày bốn một chiếc
hai vớ chống, khi người vợ như một nữ sinli thành phó" đứng bên
cối giã cua" [3; 520],
Theo lý luân hiện đại, có the nói với nhan vật Khúng, nhà
văn đã sử dụng cái thô kệch cho nhân vật của mình. Cái thô kệch
(grotesque) ở lão Khúng không chỉ hiện ra ỏ chân đung mà cả ồ
trong tính cách, hành động: cuộc sông của gia đình Khủng giữa
một rừng cỏ gianh cao ngập đầu;túp lều bằng lá cỏ gianh bện lại,
bôn xung quanh xếp bằng đá, đó là một "ô gấu" hay một fíia
đình". Rỗi căn nhà dựng trên nền ngôi đển chung của cả làng
cùng những lời đồn đại, Tất cả càng- làm tăng thêm chất hư ảo,
sức hút gây ấn tượng của nhân vật Khíing. Sự chối bỏ cuộc sông
hiện đại, quay trỏ vế với thiên nhiên hoang dà, với cuộc sổng
còn hoang dã cũng phẩn nào nói lên cái bất bình thường của
nhân vật Killing. Chính cái bất bình thường này (từ hình dạng
đến tính cách), cái bất bình thường mang nhiều bản năng hoang
dã của con người Khung là một yếu tố gây được ấn tượng và có
sức thuyết phục. Xin lưu ý, ngay cả đến cuộc tình của Killing và
Huẹ củng chứa đựng nhiều yêu tô tự nhiên, hoang dá: chiếc xe
cút kít/quãng đường đèo không một bóng người/ người đàn ông
và người đàn bà đang chuyển dạ. Yếu tố np-ẫu nhiên đã trỏ thành
chất kết dính cho hai sô phận, hai cuộc đời đầy những h ư ảo.
Sang' đên Phiên Chợ Giát, nhân vật lão Killing không còn
chỉ là Khúng mà đã hóa thân, ô n g Killing và C011 bò khoang đen,
người đọc đôi khi không còn tách bạch được nữa giữa thân pliạn
con người với thân phận loài vật. ô n g hóa thân vào con Khoang
đen, ông là nửa người nửa bò. Cuộc đời dằng dặc đan khổ, nhục
nhằn, tủi nhục của ông củng là cuộc đời của con Khoang đen mà
trong cái đêm cuối cùng của nó đã sông dậy trong tiềm thức
ông Killing. Nhiều hồi ức về hiện thực cuộc đời và thân phận của
nhân vật đã sống lại trong cái đêm âm 11 đầy nước mắt ây, nhưng
chất ảo, huyên thoại trong hiện thực ỏ đáy là nhiều hiện thưc
mà có lẽ nó phải là huyền thoại: cái chết của Dũng đứa con yêu
quí của gia đình ông' Killing trên chiến trường Căm pu chia;
phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đã kéo theo bao đối thay cho
cuộc đời ống' Khung và gia đình.
Giải phóng, xua đuổi sô" phận một con vật để I1Ó thoát
khỏi kiếp íihẫn nhục, đau khổ vươn tới kiếp sông tự do nhưng
hình như cuộc sông tự do còn xa vời vợi, cái nhẫn nhục, tự trói
buộc vào những đau khổ có lẽ là định mệnh của bò khoang và
củng là của cnộc đời lão Killing.
Phiên chợ Giát kết thúc bằng- một cái kết đẩy nước mắt:
"con vật ngước cặp mắt đầy nhẫn nhục và sầu não lên nhìn lao
Không'! Đó là cái nhìn của một sinh vật tự nguyện clifip nhận sô
61
phận. Đứng lặng thinh bên cliiêc xe chốt đầy củi mil lãơ (lã Ihíiy
nó toát mồ hôi một minh kéo vê được đến đây, lão Killing cũng'
chả biêt nói gì với con vật, lại càng' không thể trách móc, lão chỉ
đưa mắt nhìn người bạn đời làm án thân thiết bằng' cái nhìn
cũng đầy sầu não và phiền muộn."[3; 605]. Vì lẽ đó, đây là một
cái kêt mở, không dừng lại ở một mức độ nghĩa nào, mà tạo cho
người đọc tham gia đồng sáng tạo.
"Lô gíc của huyền thoại là lô gic của tưởng tượng"
(Philippe Selleir) [8; 114]. Thật thế nếu quy chiếu điểu này vào
các truyện đưa ra lý giải ở trên, chỉ có một sức tưởng tượng
phong phú mới C.Ó thể viết lên những trang' đượm màu sắc cố
tích, ngụ ngôn đến thế, con người, loài vật, cỏ cây quấn quít cùng
nhau, hiểu nhau, thương yêu clnía hê tách bạch. Vói Một lần
đối c h ứ n g và S ố n g m ã i với cây x a n h người đọc có th thấy
bút pháp hư ảo, giọng điệu và cách kể đậm sắc màu huyền thoai
còn ngược trở lại với Phiên chợ Giát người ta thấy chính hiện
thực cuộc sống đã tạo ra huyền thoại, nhiêu nét hư ảo và cũng có
khi đó lại là một huyên thoại buổn.
CIIƯƠNG III
ĐIỆN ẢNH VÀ CHẤT TIÍƠ
Nói đên chất điện ảnh và chất thơ trong truyện nfran ciiíi
Nguyên Minh Châu, chúng tôi muốn để cấp tiến mội, yêu Lô làm
nên sự thành công cho truyện ngắn của ông và đồng' tlicíi c ũ n g là
n g ẫ u n h iê n khi gẩn đây m ột trong n h ữ n g tru y ện n g ắ n ấy : c ỏ
một đóng góp cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Không phai
lau được chuyển thể thành một bộ phim cùng tên và th iê t nghĩ
đó không phải là kịch bản cuối cùng.
Những câu hỏi hẳn sẽ được đặt ra xoay quanh vấn để trên
như những yêu tố^ nào và biểu hiện của nó trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu khi khẳng định có chất điện ảnh và chất thơ
trong đó ! Trước hết có lẽ phải kể đên không thời gian, một thủ
pháp nghệ thuật mà tác giả đã để lại nhiều clấu ấn (nếu không
nói là riêng biệt). Quá khứ, hiện tại và tương lai hiện lên qua
những trang vãn của ông nhịp nhàng hòa quyện vào nhau tạo
thành sự đồng hiện của không gian. Nhìn sang lĩnh vực điện
ảnh, điểu này rất gần và cần thiết cho công việc đựng phim
(montage). Thít nữa, nhân vật của Nguyễn Minh Châu có chiểu
sâu nội tâm, đa dạng trong tính cách, có n h ữ n g suy tư, dằn vặt,
có độc thoại, đối thoại. . . tất cả tạo cho người diễn viên có "đát
diễn" nếu như đước chuyển thể thành kịch bản phim. Với tính ẩn
dụ và đa nghĩa trong liình tượng, những hình tượng đầy sáng tạo
chúng tôi muốn để cấp đến chất thơ trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu. Sự lu n g lin h giữa k h ả g iả i và b ất k h ả gi ái là một
đặc trưng của thơ, vậy nên đi tìm chất thơ trong văn xuôi lại là
63
một công việc khó khăn hơn, vấn đề chỉ còn phụ thuộc vào khả
nang cua người viêt mà vê phần này chúng' tôi vững tâm hơn khi
đại văn hào Lép Tônxtôi từng nói : "Tôi không bao giờ biêt đâu là
ranh giới văn xuôi và thơ" !.
I.
B I Ể U T Ư Ợ N G M Ả N H T R Ă N G V Ả Y Ế U T ố K H Ô N G -
THỜI GIAN TRONG MẢNH TRĂNG c u ố i RỪNG :
Chọn M ảnli tr ă n g cuôi rừ n g trong sô bôn truyện đế lý
giải chất điện ảnh và chất thơ hẳn chúng tôi có những lý do
riêng. Trước hêt, nêu tính về thời điểm ra đời thì so với B ên
đường' c h iê n tranh; Con th u y ề n n g o à i xa và c ỏ lau, truyện
M ảnh tr ă n g c u ố i rừng’ được sáng tác sớm nhất, thứ hai, theo ý
kiên chúng tôi truyện ngắn lại đậm đặc chất thơ, gọn gàng như
một bài tho’ (chỉ có 23trang) và mang đầy đủ những yêu tố mà
cliúng tôi định lciếm tìm. Cũng xin lưu ý ơ đáy cho dù tuyên tập
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu in lại thiên truyện này với các
tên lchỏi thủy của nó là M ảnh tr ă n g thì chúng tôi vẫn chọn cái
tên đầy gợi cảm và chất thơ hơn bởi thêm hai tiếng bồ sung cho
địa điểm và thời gian của nó M ảnh tr á n g c u ố i rừng.
Mảnh trăng cuối rừng gợi về một cái đẹp mỏng mảnh -
m ả n h t r ă n g chứ không phải là vầng trăng và c u ố i rừ n g cho
người đọc một cảm giác thoát ẩn thoắt hiện, gần đấy, mới thấy
đấy mà đã xa, vòi vợi xa. Ngay cái tên của truyện đã hàm chừa
tính chất không - thời gian của câu chuyện, một không - thời
gian đầy chất thơ. Giữa đạn bom vả khói lửa của cuộc chiến
tranh mà nói về trăng đã là thi vị, lãng- mạn hóa hiện thực tỏi,
nhưng ò đây trăng quấn quít với Cun người Nguyệt - têii cô gái
cũng có nghĩa là trăng và t r ă n g là Nguyệt. Á n h tráng hòa quyện
vào môi tình cua Lãm - người lái xe và Nguyệt, cô công- nhân cẩu
đường. Không phải đên truyện ngắn này ánh trăng' mới bước vào
những trang viêt của thời kỳ kháng chiên, trước đó đã có ánh
trăng treo đầu ngọn súng : "Đầu súng trảng treo” “ Đồng chí của
Chính Hữu,hình ảnh trăng ỏ đây vẫn gắn với điều gì đó mạnh
mẽ, bạo lực quá, còn ở M ảnh tr ă n g cư ô i rử ng CŨÍ1£ là chiên
tranh đấy mà vẫn nên thơ, lãng mạn đến vô cùng.
Xét về phương diện không - thời gian, có thể tạm chia
thành hai tuyên không - thời gian song song và đổng hiện, điểu
này tạo ra nhiều trường đoạn và nhiều lớp nghĩa khác nhau.
Tuyên thứ nhất là tuyến không - thời gian của người kể chuyện -
thời gian của ngòơi kê chuyện - nhân vật tôi trong truyện, theo
tuyên này, quá khứ hiện tại đan xen vào nliau mơ rộng biôn (tộ
của cốt truyện, Từ "một đêm mưa dầm" quay trở vê với "một đêm
đẩu tháng ba năm nay" là một bước chuyên từ hiện tại vể quá
khứ nhưng vẫn mơ hồ bồi thời gian vẫn chưa xác định. Tiếp nữa
trong qua khứ ỉại được đẩy lùi xa hơn : câu chuyện quay trỏ về
VỚI bôn năm năm trước cùng với bôì cảnh của công trương xay
dựng cẩu Đá xanh. Nếu sắp xếp theo một trặt tự thì chỉ trong
một đêm người kể chuyện đã dẫn dắt câu chuyện qua nhiểu điếm
mốc thời gian : thời hiện tại - khi bát đầu kê chuyện; thời quá
khứ khi câu chuyện trở về buổi đẩu gặp gở giữa anil lái xe và
Nguyệt; rồi lại hiện tại tiếp hồi tưởng quá khứ. . . cứ như thế
truyện kết thúc cũng là lúc một ngày mới sắp bắt đẩu. Sự dan
xen này gần với sự phân cảnh, sự tiếp nối giữa các cảnh trong
phim nó giúp cho người tiếp nhận đến với những tình huông
khác nhau, sô" phận khác nhau trong cùng một nhân vật, một' sỏ
phận. Chăng hạn, với nhân vật tôi - n g ư ờ i kể chuyện, người đọc
có thê ninh dung cho mình một tínli cách đa clạng, một tâm
trạng nhiều suy tư: rắn rỏi trong công việc, mạnh mẽ trong chiên
đâu nhưng vân bôi rối, rụt rè trong khi yêu cho dù a nil có một
tình cám chứa chan nồng tliắm. Tất cá tạo ra chiều sâu nội tâm
của nhân vật này.
Tuyên không thời gian thứ hai là tuyến khống thời gian
đậm đặc chất hư ảo pha chút huyền thoại đó là không - thời gian
được tạo nên bơi á n h tr ă n g và những' con đ ư ờ ng chính ánli
trăng - thứ không gian huyền ảo và đẹp đẽ, đậm chất thơ ấy đã
tôn vinh, làm đẹp cho cuộc gặp gò giữa Lãm và Nguyệt. Trăng
clưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu không phải là vầng trăng
viên mãn tròn đầy mà là mảnh trăng non đẩu tháng thoat an
thoắt hiện trong cánh rừng Trưòng Sơn. Nêu ban đầu mánh
trăng còn "tái ngắt; ánh sáng lòe nhòe; chập chờn lay động, có lúc
thầy rơi tom xuống khoảng tồi mịt mủ của cánh rừng già như
một trò chơi ú tim" thì sau này ánh trăng đã như bừng sáng' hơn
cùng với Nguyệt trong cách nhìn của người lái xe. Nguỵet ỉà
trăng và trăng cũng là Nguyệt một cái tên dầy chất thơ mà tác
giả gửi gắm, Nguyệt làm bừng sáng con đường trong đêm tôi,
cánh rừng nơi người lái xe phải vượt qua : "Từng khúc đường
trước mặt cũng thếp từng mảnh ánh trảng". Cả một không gian
ngập chìm dưới trăng, trăng trùm lên tất cả, thấm đượm môi
tình lãng mạn pha cliút huyền thoại giữa Lãm - Nguyệt "Mảnh
trăng khuyết. . . sáng trong như một mảnh bạc. K illin g cửa xe
phía cô gái ngôi lồng đầy bóng trăng'" cảnh, tình hòa hợp với
nhau, bổ sung cho nhau. Nêu chú ý chúng ta thấy nửa đầu của
câu chuyện là ánh trăng thật, không gian đầy trăng th ậ t, còn
nửa sau khi thời gian quá nửa đêm trở đi, khi " trăng lặn, mảnh
trăng đã khuất hăn xuông khu rừng ở phía sail lưng" thì vói anil
- người lái xe, cô gái đi nhờ - Nguyệt chính lại là ánh trăng soi
sáng chia đường chỉ lôi cho anh vượt qua đêm tôi, đạn bom. Khi
trăng đã lặn mà người lái xe vấn cảm thấy "khuôn mặt lộng lẫy
đầy ánh trăng" thì chính là lúc cảnh, tình đa hòa quyện không'
còn pliân biệt được nữa. Có thể gọi ldiung cảnh ấy là một bản xô
nát ánh trăng, bản xô nát ca ngợi một môi tình thời cliiến, mối
tình đầy thơ mộng và thi vị bởi có ánh tráng pha lẫn. Mảnh
trăng trong đêm rừng hôm ấy như một nhân vật nữa tham gia
vào sự phát triển của cốt truyện. Thiếu ánh trăng thì sức hút và
hấp dẫn của truyện ngắn sẽ giảm đi lất nhiều.
Là một truyện được viết trong nhùng ngày của chiên
tranh và bối canh được lấy từ khói lửa của chính cuộc chiên
trranh ấy hẳn sẽ mang đậm tính chất khốc liệt của cuộc chiên có
bom rơi và máu đã chảy, thế nhưng người đọc vừa cảm thây bao
trùm lên hết thảy là tình yêu thương' và niềm tin giữa con người
với con người, nó là sức mạnh, là ánh sáng đầy lìii bóng đen của
chiến tranh.
Cốt truyện mạnh lạc, kết cấn rõ ràng : có mở mít, tháo
nút, và những nhân vật với những tính cá khác nhau . . . đấy là
dặc trưng của truyện ngắn này cũng’ như của truyện ngắn Việt
Nam thời kỳ trước thập kỷ 80 nhưng có lẽ không' quá khi đánh
giá đây là truyện ngắn đặc sắc nhất trong thời kỳ 1945 đên 1975.
Đăc sắc bởi v ă n và t ìn h ngang nhau, đặc sắc bởi bút pháp thắm
đượm chất thơ, có những đoạn tác giả miêu tả cảnh như đang ỏ'
thời bình : "khoảng trời đêm trên cao trỏ nên trong vắt, cao lồng
lộng . . .sương trăng/sương phủ kín/ sương bềnh bồìiịr" Sương -
Anh trăng - Con người hòa lẫn vào nhau và lân át tat cả. Cảu
văn ta canh răt ngắn, nhiều thanh bằng làm cho lòi văn nhẹ
nhàng gẩn gũi với thơ hơn.
Bên trên, nhít chúng tôi đã nói, mánli trăng là một "nhân
vật' một ẩn dụ đầy ý nghĩa tham gia vào quá trình phát triển
của côt truyện, cùng với nó còn có "sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng
ánli" được tác giả nhắc đên hai lần. Theo chúng tôi đây lại là một
ân dụ nữa của tác giả, ân dụ của niềm tin con người, niềm tin
của Nguyệt nói riêng và những tlianh niên thời ấy nói chang. Họ
tin ỏ nhau, tin ỏ họ, tin vào tình cảm trong sáng như vầng trăng
đầu tháng kia, sáng thanh khiết, soi đường cho họ và tương lai
ngày mai tiíơi sáng. Sự trùng hợp của thời điểm, của kêt thúc ỏ
cả hai cốt truyện không - thời gian đều vào lúc "trời gần sáng"
như báo hiệu một ngày mai tốt đẹp và CỈ1 0 dù Làm - người lái xe
không kịp gặp lại Nguyệt để nói những điều can nói thì hình ánh
về một "đôi chim gọi nhau suốt đêm đã im tiêng, có lẽ chúng ta
đã tìm thấy nhau” vẫn là cái đích cho một cái lcêt mở của truyện.
Tất nhiên cái đích mà cả hai người đã thây nhưng đê đi
đến đó là cả một hành trình và họ đã phải trả giá bằng máu và
bao sức lực. Chính trong liành trình ấy, hành trình di tỉm tình
yêu và hạnh phúc, họ đã bộc lộ tat cả những tính cách của mình.
Nhân vật Nguyệt là một ví dụ, có một cô Nguyệt mảnh mai xinh
đẹp như một ảo ảnh dưới ánh tráng rừng và cũng có một cô
nguyệt quyết liệt, tự tin và xốc vác trong công việc, trong bom
đạn chiến tranh. "Gót chân bóng hồng/ áo xanh/ nón U‘ắutf lóa/
gương mặt tươi mát/ mái tóc thơm ngất" là nhữug RÌ gựi về hình
ánh bê ngoài của Nguyệt, nhưng còn một cô Nguyệt khác, cỏ
Nguyệt bình tình, nhanh nhẹn và quả cảm trong những giò phút
cam go, khôc liệt, một cô gái sẵn sàng' hy sinh tính mạng của
minh vì sự sông còn của đổng đội. Hai tính cách tương chừng đối
lập n h ư n g lại là một, một sự hài hòa trong một con người. Chính
sự đa clạng, sự chuyển hóa tính cách trong một COI1 người khiên
người đoo cảm thấy rung động và thêm yêu mến nhân vật. Sư
chuyến hóa và đa dạng ấy cũng xảy ra đối với Lãm như đã Lừng
xảy ra đôi với Nguyệt.
Có lẽ sự hiện diện của Nguyệt đủ là một tác nhân làm
tâm tư tình cam và tính cách của Lãm tliag đổi. Nguyệt - mảnh
trăng nơi cánh rừng Trưòng Sơn đã làm cả không gian bừng
sáng. Vẻ đẹp cùng tính cách của cô không những làm cho anh
ldiông thể dửng clitng, không thể không xao xuyên mà còn khiên
cho Lãm từ "ngạc nhiên hỏi vặn, giọng hỏi han chẳng- lấy gì làm
ôn tổn lắm; hỏi gặng" đến "vổn vã" và cuối cùng là "hỏi dò" vội và
đến mức "nghe tiếng nói của minh mà như của người khác". Tự
trọng tâm cảm của anil đã dần hiện ra một thử tình Ciím khác lạ
nào đó : đó là tình yêu đôi lứa, tình yêu với người con gái cho dù
lần đẩu gặp mặt. Anh rụt rè thú nhận "trái tim tôi cũng muôn
nảy lên trong lổng ngực" và cuối cùng là tiêng lòng, tiêng nói cua
trái tim "trong lòng tôi dấy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê
muội". Hẳn đã có biết bao mối tình như thê, và đã có bao trang
sách miêu tả những cuộc gặp gỡ, những- đôi lứa gặp nhau, yêu
nhau trên đường ra trận, nhưng M ản h tr ă n g c u ô i rừng, với
cuộc gặp gỡ bất ngờ của Lãm và Nguyệt vẫn là câu chuyện tình
đẹp đẽ và nên thơ nhất. Đẹp ở chỗ nó đắm chìm trong ruột không
gian đầy ánh trăng huyện thoại - một khontf khí hiếm hoi troi)”-
nhưng ngày khói lứa của cuộc chiên tranh, đẹp ở mỗi con người
và tình cam, tâm tư của họ : rụt rè đấy mà táo bạo, kín đáo dấy
hìc n g a y cả n h ữ n g lòi đôi thoại cũng liêt sííc b ấ t ngờ, có vẻ như
không ăn n h ậ p với câu chuyện n h ư n g lại có n h ữ n g ý nghĩa lớn
mà lại cỏi mở, mong muôn đây mà vẫn hồi hộp âu lo. Có những
khi đáy có thế là dấu hiệu rụt rè khỏi- .đầu của tâm tình sâu kín
riêng tư :
- Cô làm ở ngầm Đá xanh hay chỉ về đấy tliáin ai ?
- Em làm ở ngầm , . ,
- A quên, tôi chưa kịp hỏi tên cô đấy nhé
- Em ỉà . . . Nguyệt !
- . . . À th ế ! . . . [3; 24; 25]
Những dấu chấm lửng nhií báo hiệu một thái độ rụt rè,
tâm trạng bối rối nếu không nói là lúng túng giữa hai người. Lại
nữa, có những lời đôi thoại liết sức bâng quơ, nhưng vẫn biểu lô
cho tâm trạng của những người đang' liíng tiíng hay vụng vể
trong lần gặp ban đầu :
- Anh nhỉ ? Có phải không nhỉ
- Cô hỏi gì ?
- Em hỏi, có phải các anh lái xe đi nhiểiL nơi, chắc hản
quen biết nhiều ngừơi lắm ? [3; 28]
Đành rằng những câu hổi phải có những đấu chấm hỏi
nhưng xét trong ngữ cảnh của câu lìói đó, xét trong dung lượng
đoạn văn thì tần suất của những dấu chấm hồi đó ván in dậm
dấu ấn chủ quan của nhà văn - chủ thể sáng tạo, n^ười đã đạt
những ngôn từ trêri'vào một "tình thái" nhất địnlì.
70
Đã có một đêm trăng như thể nơi cánli rừng' rniển Táy, clả
n ă m 1945 - 1975 t h ậ t h iê m có n h ữ n g trang' văn thơ mộng và lãng
có một môi tình đẹp như thê trong đêm trăng1 đầy thi vị. Những
mạn đên vậy. Vượt lên trên cả bom rơi, lửa cháy, cái còn lại là
lắng đọng trong tâm trí bao người vẩn là mảnh trăng cuối rừng
đã che chỏ và chứng kiên cuộc gặp gõ bất ngờ không kém phần
liôi h(3p giữa hai người. Chất thd lan tỏa từ ánh trăng rừng đêm
ấy, từ những người con trai, con gái biết yêu thương, trân trọng
và giữ gìn niêm tin - tình yêu và hy vọng ỏ nhau. Lại nhớ đên
Pautôpki - người được mệnh danh là có chốt thơ trong văn xuôi,
khi văn xuôi của ông đậm chất thơ, lclii những truyện ngắn của
ông thường chỉ là một thoáng gặp gỡ mà ghi dấu suốt cả một dời,
ta lại thấy M ản h tr ă n g c u ố i rừng' của Nguvễn Minh Châu ít
nhiều có đước điều đó khi kết thúc 23 trang truyện, ánh trăng và
cuộc gặp gỡ phần nào mang tính chất như một định mệnh cứ ám
ảnh trong tám trí, cứ lan tỏa như những vòng sóng (tên vô cìing.
I I .
G I Ế N G T I Ê N - M Ộ T Ẩ n D Ụ , M Ộ T D Ấ U N ố i G IỮ A Q Ú A
K H Ứ V À H I Ệ N T Ạ I T R O N G B Ê N Đ Ư Ờ N G C H I Ế N T R A N H
Trong rất nhiều truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu kể vê
những mối tình, có những mối tình chỉ thoáng qua mà sâu nặng
nhưng cũng có những môi tình bất hạnli, đằng đẵng đợi chờ,
ngóng đợi vẫn biển biệt xa vời vợi. B ê n đường c h iê n tr a n h là
một truyện như vậy : như tiểu, đề của nó, bên cạnh cuộc chiến
tranh hơn 30 năm của dân tộc là một môi tình thủy chung son
sắt tlieo suốt cùng chiểu dài nlũĩng C011 đưừiifí ra t.iển tuyốu, khi
vào Nam, khi ngược lên phía Bắc. X é t tù góc độ văn bản học, một
tác phâm văn học được bắt đầu từ trang bia, từ cái tên của nó,
vậy nên nêu chú ý , dê nhận thấy sự nhất quán, ngụ ý của tác giả
khi đặt tên cho những đứa ccn tinh thần của mình. Nhìn từ góc
độ không gian - thòi gian thấy Nguyễn Minh Châu luôn nhấn
mạnh đên yêu tô này trong các tác phẩm của mình, từ M ảnh
trăng cuôi rừng; Bên dường' chiến tranh; Chiếc thuyền
n g o à i xa; N gư ờ i d à n b à trên c h u y ế n ta u tố c hiùili; Bến
quê; M ùa tr á i c ó c ở m iề n Nam; P h iê n chợ Giát. . . Những
tên tác phẩm đó dù ngắn hay dài đều pliẩn nào biểu hiện không' -
thòi gian xảy ra câu chuyện.
Hai mươi sáu trang truyện dẫn dắt chúng ta đến với một
mối tình chờ đợi nhau, im lặng, lặng lẽ, một mối tình của thời
chiến tranh và cho dù sau hơn 30 năm bặt vô âm tín, họ đã gặp
nhau nhưng vẫn lặng lẽ, xót xa. Nhìn vào tác phẩm có thể thấy
Hạnh - An nói với nhau rất ít : "Chào bà !.... Dạ, không dám, tôi
vẫn nhớ và đã có lời chào . . ./Vâng. Cám ơn bà ạ !" và rồi nhận ra
nhau đấy vẫn kiêm lòi bởi trong tâm trạng của họ đã nhận và
hiểu nhau từng bấy năm trời.
- Hạnh ! Tôi là An đây !
- Anh ! Em đi tìm anh suôt bao nhiêu năm trời, anh có
biết không' ?
- Anh cũng' đã từng đi tìm Hạnh [3; 56]
Những dấu cliấm than, hay những kêu thảng tliôt thoát
ra từ những trái tim ngóng trông, mòn mỏi kiêm tìm nhau suỏt
những năm tháng của cuộc chiến tranh. Cìm£ với môi lành lặnfí
lẽ ấy là một mối tình của Hường Hưng, mối tinh của tuôi trẻ, của
72
t r ì n h t ì m k iê m n h a u của hai mối tìn h tương p h a n n h au , bổ sung
cho n h a u và t ấ t nhiên sẽ tạo nên sự phong p h ú cho cốt truyện,
thời bình và vì thê nó báo hiệu tràn đầy hạnh phức. Những hành
cho độ sâu về phương diện ý ngliĩa.
B ê n đ ư ờ n g c h iê n tr a n h có những cuộc đời, sô phạn
khác nhau đặt vào những "khoảng trông" vê không gian, trong
nhiều "lỗ thủng về thòi gian, khiến người đọc phải tưởỉiịĩ tưdng,
suy tư và bổ Sling thêm ý nghĩa từ những nhân vật và cuộc đời
của họ. Chẳng hạn, từ điểm khỏi đầu là Bắc Cạn, câu chuyện
quay ngược về những địa danh: một vùng khu Ba đồng bàng Bắc
bộ/ thị xã Phủ Lý/ miền rừng biên giới Tây Bắc củng với những
địa danh ấy là cuộc đi tìm nhau, chờ đợi, ngóng trông của All và
Hạnh. Bảy năm trời An đi học ở nước ngoài lại là một dấu chấm
hỏi, một thử thách nữa cho môi tình của họ. Có thể khẳng định
dù cho trong một dung lượng hạn chê của thê loại truyện ngắn,
tác giả đã thành công khi đặt nhân vật của mình vào một không
gian rộng lớn, thời gian đa chiêu, qua đó nhân vật không những
bộc lộ rõ tính cách mà còn tăng thêm ý nghĩa của côt truyện :
thơi gian hơn ba mươi năm của một cuộc tìm kiêm tiên suốt dặm
clài đất nước trong binh đao khói lửa, tình cảm của Hạnh - An
vẫn trung chinh, nguyên vẹn như buổi ban đâu phải chăng ò họ
niêm tin và lòng chung thủy là những điểu bất biên, không gì lay
chuyển nổi. Có một hình tượng mang tính ẩn dụ và đậm chất thơ
cùng bô7 sung cho ý nghĩa trên, đó là hình ảnh giêng' tiê n cái
giêng nằm ồ trong khu vườn sau ngôi nhà mà Hạnh náu ná
không muôn rời xa để ngóng trông đợi chò điều mình tin, cái
g iế n g t iê n như mọi người nói với dòng nước t r o n g v ắ t và m á t
lạ n h . Trong tâm thức người Vi.êt, phần nào thể hiện qua ca dao
dân ca, cái giêng biêu liiện cho lòng thủv chung , mức độ sâu
đậm cua tình yêu lứa đôi, ví dụ như : "Anh tương nước giêng sâu/
Anh nôi sợi gầu dài/ Ai ngờ giếng cạn/ Anh tiếc hoài sợi dây"
G iên g t iê n trong B ê n đ ư ờng cliiên tra n h rất có thể là một ẩn
dụ của tác giả về lòng thủy chung sắt son, lòng tin vào tình yêu,
tình cảm của Hạnh sẽ được đền đáp. Ba mươi năm có lẽ chờ đợi
và ngóng trông cùng với dòng chảy thời gian là những con đường
Hạnh phải trải qua không kém phần gian nan, đau xót nhitng
tình yêu từ buổi ban đầu của Hạnh đôi với All vẫn nguyên, vẹn
như ngày nào Hạnh đã từng bảo vệ tình yêu cho mình bên giêng
nước vùng tản cư. Giếng - một ẩn dụ - hay một chứng nhân cho
lòng tin yêu chờ đợi, thủy chung của người con gái. Sự quay trở
lại của hình ảnh c á i giếng sẽ là một ám ảnh cho người đọc, là
một hình tượng ẩn dụ đầy ấn tượng và chất tho'. Cũng cần nhấn
mạnh rằng không chỉ ở B ê n đường c liiến tr a n h mới xuất hiện
ẩn dụ kiểu này mà với c á i gương và b ứ c tr a n h trong truyện
B ức tra n h ; c h iế c xe c ú t k ít trong Khách ờ q u ê ra; CƠ11
g iô n g trong truyện cùng tên; "cơn mộng chi” trong N gười đàn
bà tr ê n c h u y ê n tà u tố c h à n h đã tạo ra một Nguyễn Minh
Châu khác : khác với chính ông khi so sánh với những trang tiểu
thuyết, khác với những nhà văn cùng thời với ông khi viêt truyện
ngắn. Và có thể gọi có một phong cách Nguyễn Minh Châu trong
truyện ngắn sau 1975 và nhất là từ nửa cuối của thập kỷ 80.
Như bên trên chúng tôi đã nói, không thời gian được trải
qua trong cốt truyện và cùng với nó là những con đường đi của
nhân vật. Mỗi bước đường, mỗi khoảng khắc thòi gian, đểu gắn
chặt với sô" phận của nhân vật, nhưng mỗi khoảng khắc của
không gian và thòi gian đó không chỉ biểu đạt cho những bước di
im Inn và quyêt liệt của thời gian mà còn là một "lát cắt" cho
từng nhân vật, sô phận của họ hiện ra từng thời điểm, Hạnh là
một ví dụ : Hạnh cùng căn nhà ở Bắc Cạn là Hạnh của hiện tại,
Hạnh của một gia đình đã yên bể, đầm ám.Hạnh của hơn ba
mươi năm về trước : một cô gái mười bôn, mười lăm, tóc đuôi gà,
trên vai nặng trĩu đôi quang gánh chất dầy quần áo, xanh nổi,
chăn chiếu.../Hạnh cùng với mẹ và một lũ em lếch tliêch tản cư
từ trong Phủ Lý ra vùng tự do bên kia sông Đáy. Đây lại là hình
ảnh của một cô gái sớm phải vất vả, gian nan trong đường' đời.
Còn nhân vật An hay ông Thụy sau này, mỗi một thời
điểm của cuộc đời gắn với từng địa danh trên đất nước. Đường
111Ù, vườn cây, giếng tiên rồi Tây Bắc; Diện Biên; Biên giới Tây
Trường Sơn/ đường sô" Một/ dưỡng số Ba/ đường biên giới - siíơníí
Nam. Tất cả ông đã đi qua và những gì còn mất, C11ỐÌ cùng gặp
lại người xưa cảnh cũ với môi tình nông thắm thủy chung.
Lấy quá khứ làm điểm tựa clio liiện tại, luôn hướng về quá
khứ với những kỷ niệm đep, điều ấy là cốt lõi trong những truyện
ngắn của Nguyễn Minh Châu, ở B ê n đ ư ờ ng c h iế n tr a n h cũng:
vậy, tiếng vọng của quá khứ luôn dội về trong tâm tưởng nhân
vật Hạnh những kỷ niệm vui buồn ngày xưa vê cuộc đời Vcà môi
tinh đầu có những khi tác giả không miêu tả trực cliện quá khứ
mà bằng một hình ảnh khác đầy ý nghĩa : "Thụy chợt trông thấy
. một sợi tóc bạc trên mái tóc ấy, sợi tóc bạc cứ sáng lên trước mắt
Thụy như một nét vẽ của thời gian".
Giếng tiên “ Sợi tóc bạc và bừa tiệc cưới Hạnh mặc áo
thanh tliiên bữa tiệc cưới mà Hạnh tưởng tượng ra trong một
đêm đây hạnh phúc ấy tấ t cả làm nên cái kêt của truyện thật
nhân hậu một điêu thường tliấy trong truyện ngắn Nguyễn Miíili
Châu. Đê có được những cái kêt đầy nhân bản hẳn nhân vát của
Nguyên Minh Châu đều là những nhân vật hướng tliiện, có niểm
tin vào con người, tin vào chính bản thân mình, ở truyện ngắn
này sẽ không có niềm hân hoan, vui vẻ đầm ấm khi kết thúc câu
chuyện nêu không có một ông Phái tốt bụng và rộng lượng, ông
Phái chồng của Hạnh bây giờ, thật nhân ái, bao dung, hiểu biết,
chính ông là tác nhân để cuộc hội ngộ qua bao năm tháng gian
nan, đắng cay của Hạnh - An trỏ nên trọn vẹn.
Một đất nước của bao năm giặc giã, chia cắt triền miên,
những tưỏng những số phận con người trong cộng đổng của đất
nước ấy sẽ ngập chìm trong kliói bom và lửa đạn nhưng một
mảnh trăng cùng với môi tình trong đêm rừng; Trường Sơn, một
cuộc tái ngộ của hơn ba mươi năm chờ đợi, khắc khoải trông
ngóng tin nhau đó vẫn là ánh trăng bao trùm lên trên hêt bồi có
một cách nhìn ầm áp, tin yêu vào con người trong con người ỏ
nhà văn chiến sỹ Ngiiyễn Minh Châu. Có được điểu đó, tác giả
không phải thi vị hóa cuộc sông mà Nguyễn Minh Châu có cách
viết, khai thác đượm chất thơ toát lên từ hình tượng, từ câu chữ
hay bản thân cốt truyện.
Giả sử sô" phận nghiệt ngã không sơm xảy ra với Nguyền
Minh Châu thì hẳn chúng ta sẽ có những trang tự truyện hay hổi
ký văn học như thường thấy ! Lịch sử hẳn không' có giả sử nhưng-
vẫn thây thấp thoáng bóng dáng, tâm trạng ciia nhà vãn qua
những trang truyện ngắn. Không phải vậy sao 11011 nhà ván
không một lần tự đánh mất bản thân thì làm sao có thể viêt được
những trang đây bi kịch như trong s ắ m vai. Cùng với s ắ m vai
là B ư c tranh ; B ên quê; Môt lẩn đối chứng; Dấu v ế t n g h ề
n g h iệ p nliững truyện, ngắn in đậm đấu ấn của nhà văn : .đằrt/Vặt,
trăn trỏ và giăng xé trong tâm trạng hiểu hiện qua nhân vật Tôi
- ngôi thứ nhất tham gia vào sự phát triển của cốt truyện.
Nguyễn Minh Châu đã có lần nói : "Để làm một cuộc trỏ mình
đầy khó khăn sucít hơn 10 năm nay, đó là những năm các nhà
văn nghĩ rất nhiều và băn khoăn, day clứt rất nhiều vế mối quan
hệ giữa văn học và đời sông thực tại đang ngày một xa nhau.
Nhà văn lớn tuổi và có lương tâm cầm bút rất khó khăn. Tôi là
người viêt trong bộ đội, những năm chông Mỷ ác liệt có lúc ỏ
chiên trường sông bên cạnh cái chết nhưng khi ngồi viết thì
thanh thản, còn vê sau này, nhất là vào nliững năm 1983, 1984
có đôi khi mình cầm bút mà cảm giác y như đứng giữa trận tiên,
viết ra một cái gì đưa đi in, trở về nhà ĩìgổi nghĩ lại, lại đâm sợ
III.
C H IẾC THUYỂN NGOÀI XA HAY s ứ c MẠNH B i Ể u
cái vừa được làm ra" [6; 130].
HIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH
Giá trị của một tác phẩm văn học đôi khi cũng cần phải
tính đến môi trường và thời điểm ra đòi của 11Ó. Vậy nên, càng
quí và trân trọng hơn ldii vào thời điểm đó, đả có một Nguyễn
Minh Châu muôn đi tìm đáy cùng của sự thật, những sự thật cho
dù vô cùng nghiệt ngã mà lâu nay người ta né tránh hoặc bao
trùm lên nó những không khí "huyền thoại” và lãng mạn. Chiếc
tliu y ể n n g o à i xa là một trong những truyện như thê. Là một
trong không nhiều các nhà văn vừa sáng tác lại vừa viêt phê
bình văn học như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân . . . Nguyền Minh
Châu đã có nhiều dịp thổ lộ những nhận xét, cam nhận của mình
vê nhà văn và tác phâm văn học, nhưng đặc biệt hơn khi ông sử
dụng chính thê loại truyện ngắn để trình bày quan điểm, tư
tưởng của mình. B ức tr a n h với ngừơi họa sỹ; người diễn viên,
nhà văn trong S ă m vai; trang bản tliảũ - nhà văn trong Một lẩn
đ ôi c h ứ n g và đây nữa ngiíời nghệ sỹ nhiếp ảnh với bức ảnh
trong C h iêc th u y ề n n g o à i xa. Thông quá các nhân vật đê phát
ngôn cho tư tưởng, quan niệm của mình vê văn học hiện thực
cuộc sông; văn học và chính trị, những chức năng của văn học và
cả vai trò của chủ thể - người sáng tạo, Nguyễn Minh Cliâu như
vừa tự đôi chất với mình lại như để đối chứng, kiểm nghiệm về
nliững sáng tác của mình và bạn bè trong mấy chục năm qua.
Kiểm nghiệm để rồi đổi mới và tự đổi mới bát chấp những lực
cản của chủ quan và khách quan đã bấy nhiêu năm ngăn cản sự
phát triển và đi lên của nền văn học nghệ thuật nước nhà. Nhạn
diện Nguyễn Minh Châu từ góc độ phê bình văn học, có nhà
nghiên cứu viết : "Ông là nhà văn đã có hàng trăm trang tiếu
luận phê bình và chắc không ai ngạc nhiên khi nhà văn này,
phải, chính ông là người đã từng được giải vể phê bình tiêu luận
của Tạp chí V ăn n g h ê q u â n đội với bài viêt vể Thanh Tịnh, và
của báo V ă n nghệ với bài viêt về Nam Cao. . . và cũng không
nên quên rằng ở lĩnh vực lý luận phê bình văn học chứng ta bắt
gặp vẫn Nguyễn Minh Châu ấy : trăn trỏ, dằn vặt, hao tâm tôn
trí để khám phá tìm tòi . . . cho ra cái lẽ đời của nghề, cũa
nghiệp, của thiên chức người nghệ sỹ và văn chương” [13; 90J.
Quay trồ lại với truyên ngắn Chằêc th u y ề n n g o à i xa,
người đọc bắt gặp ở đây một cốt truyện dơn giản, gọn gàng, rlễ
tóm tắt câu truyện : một nghệ sỹ nhiếp ảnh (lược giao nhiệm vụ
đi chụp những bức ảnh vối chủ đề thuyên và biển, sẻ chẳng có gì
xay ra nêu người trưởng phòng không yêu cẩu anh có thêm một
anh vê một buôi sáng có sương ở biển. Sẽ là bình thường và nhà
nhiêp ánh có thê hài lòng về công việc được giao khi những ở biển
anli đã chụp những khuôn hình ưng ý chí ít thì cũng không phải
là những bức ảnh "vô hồn" : "hình một ngư phủ và một đứa trẻ
đứng thăng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn
bây nâng bổng hai chiêc gọng lưới chĩa thẳng lên tròi" trong một
buổi sáng đầy sương như thê. Nhưng chính trong; những giờ phút
ây, người nghệ sỹ chợt nhận ra những điều mới lạ của cuộc sông
người dân trên biển. Sau những làn sương, ánh bình minh nơi
biển cả là sự thật trần trụi về cuộc sông những ngư dân. Sự thật
của cuộc đời không phải ồ đâu và bất cứ lúc nào cũng xuất hiện
trong nghệ thuật. Cốt truyện dừng ỏ đó nhưng điều mà nhà văn
muốn gửi tới bạn đọc có lẽ ở chỗ muốn nhắn gửi các nhà nghệ aỹ -
người sáng tạo VỚI thiên chức của mình hãy nhìn cuộc sông một
cách đa diện. Cuộc sông vốn đã đa clạng, bể bộn đến phức tạp và
vì the hãy phản ánh nó như nó vốn có và từ đấy đê rổi khái quát
những gì cần cho cuộc sống, hiểu thêm cuộc sống. Bên cạnh đấy,
người nghệ sỹ càng cảm thấy trách nhiệm của mình trước cuộc
sống, con người.
Khác với B ê n đ ư ờ n g c liiế n tr a n h và M ản h tr ă n g c u ố i
rừng', C h iế c t h u y ề n n g o ả i xa được kể ở ngôi thứ nhất. Tôi ở
đây mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà văn. Cái tôi vừa ìà
nhân vật chính - tạo cái khang của truy ện lại vừa tạo được sự
gần gũi bổi tính chất tự sự như bày tỏ lòng mình. Củng có khi
cảm xúc của cái tôi không lđm giữ nổi, vượt khỏi mức bình
thường, rất gần với cái tôi trữ tình trong thư, vì lẽ đó tạo chiỢc
c h â t th ơ trong truyện. Điều này có thể thấy qua những đoạn
văn tác giả biêu hiện cảm quan của mình trước cảnh vật, con
người trong truyện. Tác giả viêt : "Tôi trở nên ngay ngất vào mỗi
buôi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm ma được
một sắc giữa xanh và xám, bầu tròi như hạ tliấp xuống và như
ngưng đọng lại : giữa tròi và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của
một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá - chiêc
thuyên đứng im như làm bằng các tông dán vào cảnh vật êm ả".
Hình như mạch cảm hứng chủ quan của tác giả trước cảnh đẹp
quyên rũ của trời biển đã không thề kìm giữ nổi và vượt khỏi
biên độ của nội dung cốt truyện, do vậy nhiều đoạn văn thiên vể
I
tả cảnh, đặc tả về cảnh, mang giọng điệu của một đoạn tliơ hơn
là văn xuôi : "Vào một buổi sáng tôi thức dậy. Đàng đông đã sáng
trắng. Trên một nửa vòm trời sao đã lặn hết.../ đám mây hình vỏ
sò cứ hổng lên dần, trong khi đó, mặt biển tuy đã sáng rõ, (lên
cái mức đứng trong bờ cũng nhìn thấy từng đường gấp nếp lăn
tăn trên mặt tấm'thép dát màu xám đục, nhưng sao mà tẻ nhạt,
tiếng sóng Ổ Ổ dội vào giấc Iigủ suốt đêm chạy trôn đi đáu hất,
biển im thin thít và khống màu sắc, như một con sứa khổng ỉổ
giạt vào bãi". [3; 107].
Đôi nghịch với những câu văn rất ngắn (chỉ có năm hoặc
sáu, bảy chữ) như trên, có nhiều trường đoạn câu dài, rất đài
gôm 154 chữ dùng để đặc tả những bức ảnh trong tương tượng
của nhà nhiếp ảnh đồng thời cũng khiên người đọc dựng lên cho
mỗi người bức ảnh của mình, tức là gợi lên trí tưởng tượng ở độc
giả. Theo lý luận hiện đại, nếu người ta so sánh văn xuôi như
một trục ngang (Syntagmatique) - trục của diễn biến, của sự kế
tiếp các biên cô' thị thơ như một l.rục dọc (parađygmatique) - trục
cua những ân dụ ầm vang, những phạm trù tương đương, đổng
nghĩa, và vì thê sự liên tưởng, trí tưởng tượng luôn là yêu tô
hàng đâu cho nhà tho' và tác phẩm. Chính vì lẽ đó, chúng tôi hiểu
phân nào và th iêt nghĩ tác giả hoàn toàn có lv khi viết : "Qua
khuôn hình ánh sáng, bôi đã hình dung thấy trước những tấm
ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyển và một
cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước,
môi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và
bóng tôi, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng
sáng rực rỡ đên chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong
tầm nhìn thật xa những đưòng nét của thán hình một người đàn
bà đang cúi iom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo
tấm lưới lên khỏi m ặt nước, và phía sau lưng ngừơi đàn bà hình
một ngrí phủ và một đứa trẻ đứng thẩng trên đầu mũi thuyền,
dùng lực toàn thân làm đòn bẩv nâng- bổng hai chiêc gọng lưới
chĩa thảng ỉên trời'1. [3; 108],
Nhưng đáu phải tác íĩiả chỉ dừng ỏ đó, dừng 0 cái vẻ đẹp
thuần túv của tròi biển lúc rạng đông, mà theo chúạg tôi tác giả
muôn đi tìm sự thật trong; sự thật, sự thật dẫu có xót xa và khắc
nghiệt, đi tìm cái xấu trong- cái đep bên ngoài, đi tìm cái ác lẩn
khuất đáu đây trong cái thiện... Cũng như đôi vói thó : "ý tại
ngôn ngoại" - lời tho’ ỏ’ ngoài ý thơ hay thơ là những khoảng
trắng, tho' nằm ỗ những khoảng cách im lặng giữa các từ, ở đây
cái mà tác giả thu nhận được đằng sau "bức tranh mực tàu của
một danh họa"; đằng sau những "bầu sương mù trắng/ toàn bộ
khung cảnh từ đường- nét đến ánh sáng đểu hài hòa và đẹp/ một
vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích" là những tiếng quát dữ dằn;
những hình ảnh cay nghiệt của một đời sông thực, những bộ inặt
đau khô, đầy bi kịch. Tất cả như những gam màu nặng của một
bức họa sâm tôi đặt bên cạnh bức tranh bừng sáng của biển -
Ng^iời đàn. bà với những đường nét thô kệch (rõ mặt/ khuôn mặt
mệt mỏi/ tái ngắt). Người chồng vói mái tóc tổ quạ/ hai con mắt
đẩy vẻ độc dữ/ mặt đỏ gay/ hai hàm răng nghiên ken két . . . Sự
hành hạ, đánh đập của n^ười đàn ông đối với người vợ của hắn
xảy ra trước mắt ngiíời nghệ sỹ nhiếp ảnh là một thực tế khắc
nghiệt và tác giả như muốn thầm nhắc đến trách nhiệm và thái
độ của những nghệ sỹ, những ngưòi cầm bút trước cuộc sông.
Đi tìm cái đẹp, cái chân và những gì có giá trị tuyệt đôi
vĩnh hằng, đó là sợi chỉ xuyên suốt trong nhiều truyện của
Nguyễn Minh Châu. Cuộc hành trình của Quỳ trong N gười đàn
bà tr ê n c h u y ế n tà u tố c h àn h , và đây cuộc săn lùns; của nhà
nhiếp ảnh về một phong cảnh ở biển vào một ban mai có sương.
Tất cả có chủ đích rõ ràng nhưng trên con đường kiêm tìm đó. sự
thật cứ là sự thật, không có những gì hoàn hảo, tuyệt đối, tất ca
đểu đa dậng, bề bộn như thực tế cuộc sông, tất cả cũng đang trên
con đường hoàn thiện và tự khám phá, con đường mà rất cần
những ngừơi như nhân vật Tôi; thằng bé Phác, đứa con gái-chị
Phác rồi Đẩu - viên chánh án huyên, những người sẽ là ánh sáng
lấn át bông tối, là điều thiện đầy lùi và loại trừ cái ác, tạo nên sự
trong lành và đẹp đẽ như buổi sáng ở biển.
Một không gian hư ảo, mo' hổ không xác định, cùng với
82
một thời gian đa tuyến : quá khứ, hiện tại, tương lai đan xen
nhau trong Chiêc. th u y ên n g o à i xa đã tạo thêm phần đậm đà
cua chât thơ cùng sự phân cảnh rõ ràng nêu cho một kịch bản
điện ảnh. Ngay tiêu đề cũng đã nói lên sự mo' hổ về khôn? gian
của côt truyện (một vùng biển cách Hà Nội sáu trăm cây sô7 một
vùng chiến trường cũ/ vùng phá ăn sâu vào đất liền/ và 0 đó một
chiêc thuyền bồng bềnh trên sóng nước. . .) và thời gian khi thì
trước đ â y c h ừ n g năm th á n g , là th á n g b ảy, th á n g ba lúc lại
mo' hổ, không phân định rõ ràng : n ă m n g à y sau; v à i n gày
sau: c h iể u h ô m ây; rồ i đêm , gần sáng; n ă m ấy... Tác giả đã
đặt nhân vật vào nhiều thời điểm khác nhau từ đó để nhận diện
bản thân và cuộc sông con ngrròi. Cuộc sông từ nhiều chiền,
nhiều phía nhìn lại. Cuộc sông của hôm qua hôm nay và ngày
mai mà ỏ đó dẫu còn nhiều nghịch lý, những nghịch lý hiển
nhiên như ngiíòí đàn bà chấp nhận cuộc sông chung với người
đàn óng trên chiếc thuyên để cùng nhau chóng chọi voi sóng gió
nòi biên khói đầy phong ba bão táp.
Đừng nhìn cuộc sông hời hợt, phiến diện một chiều, hãy
nhìn nó trong mối quan hệ phức tạp và bể bộn như nó vôn có,
Nguyễn Minh Châu gửi gắm những- ý nghĩa đó qua bức ảnh
cùng vói ơuá trình sinh thành, tái tạo ra nó qua truyện Chiêc.
th u y ền n g o à i xa, nhưng lon hòn là từ những truyện ngắn
của thời kỳ này với những cách viêt. cách khai thác vấn đê
khác giai đoạn trước đã mở ra một thời kỳ mới, một Nguyễn
Minh Châu trung tâm cho sự chú ý của dư luận vào những
năm nửa đầu của thập kỳ 80 và cũng từ đây bắt đầu tạo dựng
cho một tài năng đựơc thể hiện qua c ỏ lau; M ùa tr á i cóc ở
S3
m iền N a m cùng P h iê n ch ợ Giát.
IV. CON NGƯỜI GIỬA BẠT NGÀN c ỏ LAU VÀ DÁNG
NÚI CÙNG CÁCH HXẺU VẾ CHIẾN TRANH,
Càng có độ gián cách về thời gian thì càng có cách nhìn
sâu sắc và đầy đủ hơn về chiên tranh - sự thật của cuộc chiến
tranh và những cuộc đời, số phận con người trải qua khói lửa của
cuộc chiên tranh đó. c ỏ lau của Nguyễn Minh Châu là một
truyện như thê, 0 đây chúng tôi bắt gặp một thái độ bình tĩnh,
bình tĩnh trong cách kể, bình tĩnh ngay cả trong trạng thái hổi
hận, tự thú lòng minh. Nhân vật tôi trong truvện có lần nghĩ :
"Người đã chêt, chẳng thể ngổi dậy dưới huyệt để nói lên sự thật,
vậy anh hãy nói điều gi cho người sống nghe thấy yên tâm, mãi
mãi ghi nhó' người thân của minh đã ngã xu ông vì Tổ quôc, vì
nhiệm vụ, vì cuộc sống tốt đẹp ngàv mai của người đang sông,
hãy đừng làm người sông đan khổ hơn" [4; 65]
Có thể khẳng đinh c ỏ lau là một hành trình đi tìm. cả cái
tói vật chất lẫn cái tôi tinh thần. Lực - nhán vật tôi đi tìm lại
minh qua một trục khống gian : v ù n g n ú i Đ ợi - rừ n g cồ lau -
vùng n ú i Tử sĩ củng vói trục không gian đó là thòi gian : hiện
tại - quá khứ - tương ỉai và xung quanh trục không - thòi gian đó
là những' số" phận, những cuộc đời trước và sau chiến tranh.
Chiến tranh trong cách nhìn của nhà văn đâ khác trước, khác vói
Dấu ch â n n g ư ờ i lin h . M iền ch áy.... và cũng khác với những
nhà văn cùng thoi : "Chiến tranh, kháng chiên, không phải là
một sô" ngưòí khác, đến bâv giò tôi không hề mảy may hôi tiêc đâ
đốc tất cả tuổi trẻ vào đấy cống hiến cho nó, nhưng nó như một
4
nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đòi tôi bị chặt lìa thật khó
gán liên lại như cũ . Có những khi tác giả lại mượn lời các nhân
vật nói hộ lòng minh, cách nhìn của mình vê chiến tranh khiên
ngươi đọc phai suy ngẫm những gi ngoài câu chữ đó. 'Chiên
tranh làm người ta hư đi hơn là làm người ta tốt hơn !" - Phi Phi
một nhân vật trong truyện đã nói như vậy. Đã có nhiều nhận xét
của các nhà nghiên cứu phê bình văn học, các bạn đống nghiệp
của nhà văn vể tính luân đề trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, chúng tôi cho rằng trong rất nhiều truyện ngắn, tác giả đâ
đặt những vấn đề mang màu sắc triết lý sâu sắc, đằng sau
những câu chữ tưởng chừng hết sức bình thường ỉà cả một chuỗi
suy tư vê' cuộc sống, chiến tranh, con ngitơi và số phận của nó.
Những triêt đoạn c ỏ lau cũng vậy, nhiều khi nó giông như
những nôt lặng, trĩu đầy suy tư cho mỗi ngiĩời. Xin đưọc dừng lại
và lắng nghe lời của một ông già : "...Tôi coi các anh cả một lũ
đấy, cầm súng bao nhiêu năm giò’ lại quay về với hòn đất. Phía
bên các anh cũng vậy má phía bên bộ đội giải phóng cũng vậy".
Phải chăng cái đích của cuộc chiến tranh, cái giá phải ihẩ cho
cuộc chiến tranh đã phần nào được tác giả suy ngẫm lại và đặt ra
để mọi người cùng bình tâm suy ngẫm.
Trong suốt 63 trang truvện, hình ảnh gây ân tượng nhất
có lẽ là cáu lau, lau quay trở đi trở lại trong những trang viêt của
nhà văn (một rừng lau lách) một cái thung lũng mọc độc một thứ
cỏ lau đang trổ một trời hoa tím nhạt/ hoa lau phơ phất/ rừng
lau/ thân eâv lauJ rừng lau dầ}7 và cao/ cỏ lau/ lá lau) cứ thê rừng
ìau, lá lau, cỏ lau như một ám ảnh khiến không thể lưu tâm.
Trước ngiit ngàn cỏ lau ấv, chính tác giả cũng: không kìm giữ nổi
lòng mình và để tâm trạng mình trôi theo dòng tâm sự cỏ lau.
85
Nhìn thấy cỏ lau trên đường đi, có lúc văn phong của tác giả vượt
khoi mưc bình, thường, tạo ra độ lệch vê ngôn ngữ : câu ván dài,
rât dài (15 dòng với 159 từ), bên cạnh những câu hỏi ngắn đầy ấn
tượng và những; câu chữ cuôi câu nhiều thanh bằng tạo lời văn
nhẹ bông, vang xa. Tác giả viêt : "Chúng tôí phóng đi trên con
đường quân sự chiên lược vắng heo hút, những cao điểm ngày
xưa lính Mỹ đóng vẫn phủ đầy mây trắng, vài vệt đất đỏ 0 1 , vài
chiêc lô côt xi m ăng giữa lưng chừng trời, giải đường tăng như
một vệt tông đơ dụi một, nhát thẳng lên đỉnh, núi đứng núi ngồi
tràn ra tận hai bên mép cỏ cái giải nhựa, tất cả phủ trùm kín
trong một m àu c.ỏ lau mới mọc xanh mơn mởn, nơi nào ngày xưa
người lính vô danh đã từng nín thở bấm chặt mười ngón tay vào
vách đá leo lên, ở hẻm núi nào, ở chân điểm cao nào, như một con
cầy con cáo, ngríời lính náu kín minh rình giặc , chịu đói chịu rét,
vào quãng những năm nào đến với họ được một phong thư nhầu
nát của một người vợ, của một đứa con nhỏ gửi đi từ Hà Nam
Ninh, từ Thái Bình, từ Nghệ Tĩnh, từ Cao Bằng, Lạng Son. . và
đây, những câu hỏi : "Ai suốt đòi đâ nằm lại ? Ai chiên thắng còn
sống trở về quê hương ngoài Bắc ngõ ngàng như một người khác
lạ, sau mười năm cầm súng ỏ chiến trường; ?" [4; 35]
Cùng vối hình ảnh cỏ lau là hình ảnh núi Vọng Phu. núi
Đôi - hình người đàn bà bế đứa con trước ngực đợi chồng đi đánh
giặc bao nhiêu năm , ỉâu lắm mà không về, ngày nào cũng bê con
lên núi đứng ngóng, ỉâu ngày hóa thành đá- v ẫ n biết hình tượng
núi Vọnec Phu là hình tượng đã trở thành quen thuộc trong văn
học kể từ văn học dân gian đến văn học cổ và chính nó cũng là
nguồn thi hứng cho nhiều bài tho’, văn trong ván học hiện đại, ấy
vậy sự xuất hiện của núi Vọng Phu, núi Đợi trong c ỏ lau lại
86
mang một nét riêng, rất đậc trưng. Thứ nhất nó như một chứng
nhan cho những năm tháng ngắn ngủi mà hạnh phúc của cặp vọ
chống trẻ Thai - Lực để sail này nó trở lại thành một đôi trọng
nhăm so sánh ngầm với tên gợi vùng núi Tử sĩ khi chiến tranh
đã xảy ra nơi đây. Hai tên gọi 0 vào hai thời điểm khác nhau
nhưng môi tên gọi là mang một V nghĩa riêng : nếu Vọng Phu là
biêu trưng cho tâm trạng khắc khoải đợi chờ mòn mỏi của người
phụ nữ trong thời chinh chiến thì vùng núi Tử sĩ lại minh chứng
cho sự khôc liệt đến không cùng của chiến tranh, những chiên sỹ
ngã xuông nơi đây cùng công cuộc kiếm tìm những hình hài của
họ của gia đình, người thân đã nói lên tát cả. Thứ hai, vùng núi
Vọng Phu trong c ỏ lau inang đậm dấu ấn chủ quan của nhà
văn, có lẽ tác giả đã cảm nhận được nỗi đớn đau trong khắc khoải
đợi chò' của người ohụ nữ trong một đất nước dằng dặc nỗi
thương đau chính chiến, ỏ đây không còn là một hòn núi Vọng:
Phu nữa mà cả một vùng đày đặc hình đáng núi người đàn bà bê
con chờ chổng : "... cả một th ế gioi đàn bà đã sống trải bao thoi
gian qua, chiến chinh dường như đang tụ hội vê' đây, mỗi người
một ngọn núi, đang đứng một minh vò võ, chon von trên các chóp
núi đá cao ngất, người ôm con bên nách người bê con trước ngực,
người cõng C011 sau lưng,người hai tay buông- thõng xuồng. mặt.
quay về đủ các hương', các ngả chân tròi có súng nổ. có lửa cháy".
[4; 30, 31]. Những hình hài dáng núi đâ hiện hữu trong các nhán
vật nữ tham gia vào cốt truyện như Thai chò Lực; cô gái Phi Phi
đi tìm chút còn lại của người yêu - người chiên sỹ liên lạc của ônẹ
Lực n£ầy nào.
Sô' phận của người phụ nữ trong chiên tranh là thê. còn
ngừoi đàn óng ? Khúc Lương Châu trong thó Đường có câu : "Cổ
87
lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?" - xưa nay chinh chiên mây ai trỏ
ve ?. Nho' vao Iihững nhân vật như Lực, Hệ. chiên sỹ liên lạc trẻ
cang thây sự mât mát của chiên tranh là không gì bù đắu nối
may măn như Lực còn sông sót sau cuộc chiến tranh những cũng
không tránh khỏi bi kịch cuọc đời : mọi ngiĩòi tưỏng rằng anh đã
mất, nhưng chính sự sống sót của anh sau chiến tranh đã giúp
người đọc nhận ra giíơng mặt thật của cuộc chiến tranh, của
những hy sinh mất mát. Nhân vật Lực trong trnyện là gạch nối
cho các tình tiêt, nhân vật - sự kiện xảy ra trong cốt truyện. Có
anh ngxtòi ta hiểu thêm giá trị của những ngày hòa bình (tình vợ
chổng Thai - Lực trước cuộc chiến). Có anh ngưòi ta hiểu thêm
tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh (những đêm ngày giành
giật từng thước đất trong thành cổ Quảng Trị) và có anh người ta
nhận diện sâu xa hòn cái thiện cái ác trong một con người. : nhân
vật Lực tự thú, sám hối, dằn vặt vì đã giết người một con ngưòi
chĩ vì một còn giận với ngiíời khác chỉ vì một chút tư thù đầy nhỏ
nhen với người lính. "Cái ác nó mọc ra từ trong máu, trong" thịt
mình" đúng như lời ông già - môt nhân vật trong truyện nói. cái
ác luón rình rập, thường trực trong mỗi con người, chỉ có điều có
đủ V chí để cái thiện đẩv lùi cái ác, không cho cái ác hoành hành.
Nliân hậu trong cách viết, giàu lòng vị tha đối vói con
nạưòi lầm lỗi đó vòn là đặc trưng của ngòi bút Nguyễn Minh
Cháu, vậy nên phần kết của truyện, khi vùng núi Tử sĩ quay trở
vể vói tên gọi của nó "những hỉnh người đàn bà bằng đá đầy cô
đơn giữa trời xanh" hình ảnh ngưồi lính già với ông bô sông trong
thưng lũng hiện lên trong trí óc của nhân vật tôi vẫn là một cái
kết hết sức nhân hậu cho một câu chuyện đầv bi thương, kịch
tính. Bi thươnẹ trong auá khứ, kịch tính trong hiện tại và để rổì
8 8
đến một ngày mai yên bình, tốt đẹp hơn.
Cuộc sông như một tờ giấy, nó có hai mặt : mặt phải và
mạt trai, một cuộc chiên tranh cũng vậy bên cạnh cò' hoa của
chiên thăng là máu và nước mắt, là những mất mát, đau thương,
bản thân nhân vật Lực là một minh chứng nhưng sáu xa hòn, tác
giả còn vạch ra những mầm mồng của tội ác, những điều cần né
tránh bởi nó đã và sẽ hoành hành trong cuộc sông hòa bình : một
ông chủ tịch xã k h ô n g còn b iết thương n gư ờ i bởi còn m ê
qu yển lự c, m ê làm lên chứ c tước cao hơn, rổi những vị tư
lệnh, Ông cục trưởng, anh trưởng phòng còn bận x â y nhà, còn
bận lo cho con trai, con gái họ vào đại học. đ i h ọc nước
n g o à i mà quên mất những việc làm ân nghĩa chí ít đối với
những đổng đội của họ đã xả thân vì nước.
B iêt bao vấn đề về cuộc sống - thân phận con người trong
chiên tranh và sau chiến tranh được đặt ra trong thiên truyện
Co lau, với một lôi viết gâv ấn tượng bằng hình ảnh : cỏ lau.
hình đáng núi, ngiiời đọc chỉ có thể thấu hiểu hết ý nghĩa của nó
và dung ý của tác giả khi tìm ra được ý nghĩa đích thực sau
những hình tượng ấy. Bên cạnh đó vẫn một giọng văn đầy cảm
xúc chủ quan của tác giả bởi nhân vật Tôi giữ vai trò chủ đao của
cốt truyện chính vì lẽ đó tạo được chất thơ cho truyện. Cũng
chính cái tôi ạvj đã liên k ế t các trường đoạn (truyện có sáu khó
hav sáu đoạn chính, mỗi đoạn có một ý nghĩa riêng biệt). Đoạn
một : hiệu ảnh và những hồi ức của cái tôi về gia đình và bản
thân mình. Đoạn hai : vẫn hiệu ảnh ấy nhưng hổi ức đã được đẩy
xa hơn, tác giả để nhân vật đối diện với hiện tại. Đoạn ba : những
kỷ niệm đẹp của Thai và Lực sau ngày cưới trên vùng núi Đợi,
89
hai người giữa bạt ngàn lau lách, không một tiêng súng, chỉ tràn
n bập m e m VUI và h ạ n h phúc (nhưng hoàn toàn là của quá khứ).
Đoạn bon : hiện tại lại trỏ vể với cuộc kiêm tìm những chiên sỹ
đa nga nơi vùng núi Đợi nay ỉà vùng núi Tủ sĩ, và xen vào đó là
tâm lòng chung thủy, đợi chờ của Thai qua lời kể của ngư'ò'1
chông hiện thòi - ông Quảng. Đoạn năm : vẫn tiếp tục cuộc tìm
kiêm những tử sĩ nhưng ở đây người đọc nhận diện được thêm
tính khôc liệt của chiên tranh, mặt trái của chiên tranh qua đôi
thoại giữa Phi Phi và Lực cũng như qua lòi tự truyện, hổi tưởng
lại của nhân vật tôi - ồ n g Lực. Quá khứ hiện về đan xen vào hiện
tại. Đoan sáu - phần kêt : hoàn toàn của hiện tại : người đang
sông tìm nhau sau hơn hai chục năm xa cách, ngừol sông tìm
được ngiíời đã chêt. Câu chuyện kết thúc trong một tương lai đầy
nhân bản bởi từ đây các nhân vật không còn phải suy tư, đằn vặt
những' gì minh đã làm trong chiến tranh. Vói những tuvến nhân
vật. kêt cấu truyện như thế Nguyễn Minh Châu đã tạo ra được
những- nhân vật tiểu thuyêt đích thực, nhân vật của ông trong
Cỏ lau có bể sâu nội tâm, đa dạng trong tính cách, có khi cùng
trong một con người lại có những tính cách mâu thuẫn khác
nhan. Vì -tkê" đã có nhà nghiên cứu khẳns; định v ề n h ữ n g yêu
tô tiể u th u y ế t tr o n g tru y ện ngắn củ a N gu yen M inh Châu
[7; 3] mà ở đó "những mầm mông tiểu thuyết thực thụ lại nảy nỏ
trong một sô' truvện ngắn Nguyễn Minh Châu - Bức tra n h .
Sắm v ai. Đ ứ a ăn cắp , c ỏ lau, M ùa tr á i cóc ở m iền Nam".
M ảnh tr á n g trong M ảnh tră n g c u ố i rừng; Cải g iê n g
tiê n trong lành, mát lạnh trong: B ên đư ờng c h iê n tranh; Coil
th u y ề n cùng những ngư dân trong C hiếc th u y ề n n g o à i xa và
đâv hình ảnh của c ỏ lau bạt ngàn cùng vói nhấp nhô trừng
90
điệp những h ìn h n ú i V ọn g P hu, tất cả những hình ảnh ân du
đó đã tạo ra chất tho' cho truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Nói
như thê bơi lẽ môi hình tượng mà nhà văn đặt trong tác phẩm
đêu hàm chứa những lóp nghĩa sau đó, người đọc phải tương
tượng, đổng sáng tạo cùng tác giả, nghĩa của hình tượng nằm
ngoài câu chữ của văn bản, có vậy mối hiểu tại sao ngòi bút cùng
tám trạng của nhà văn lại chú ý khai thác đến những hình tượng
tưởng chừng đơn giản ấy.
Cùng với tính chất đa nghía, gỢi nhiều chất thơ của hình
tượng, các truyện ngắn trên của Nguyễn Minh Châu còn thể hiện
sức mạnh của tính đổng hiên vể Vhương diện không - thòi gian.
Quá khứ, hiện tại cùng tương lai đan xen. hòa quyện vào nhau
làm nền tảng, ỉà nơi để các nhân vật bộc lộ tính cách càng giúp
cho người đọc cảm nhận hết chiều sâu của tính cách nhân vật.
Đôl thoại, độc thoại nội tâm được khai thác một cách tối ưu;
nhân vật tôi - ngríời kể chuvện tham gia vào quá trình phát tri en
của cốt truyện càng làm ch 0 truyện trỏ nên gần gũi, thuyêt
phục bạn đọc. Những m ẫu nhân vật như N guyệt - Lãm của
M ảnh trăng' c u ô i rừng; Thụy - An trong B ên đ ư ờ n g c h iê n
tranh; Thai và Lực ỏ c ỏ la u là những nhân vật tác giả dày
công trong sáng tạo, vừa có chiểu sản nội tâm , lại vừa là
những nhân vật chính liên kết những môi quan hệ và phát
triển khác trong truyện. Chính những nhân vật như thê có thê
là nhũng gợi ý cho những vai diễn trong kịch bản phim đây là
lv do tại sao chúng, tôi khẳng định có c h ấ t d iện ản h trong
91
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
PHẨN KẾT
TRỞ VỀ BẾN QUÊ
Chọn tiêu đề Trở về B ên quê để thav cho lòi kêt vể
những điều thu nhận được aua một sô" truyện ngắn tiêu biểu cho
một Nguyên Minh Châu đổi mới, đổi mới từ cách viết cho đên
cách nhìn nhận sự vật hiệp, tượng của hiện thực cuộc sống, chúng
tôi muôn ỉ ưu ý đên một truyện ngắn, rất ngắn của nhà văn, vẻn
vẹn chưa đầy chín trang in, đó là truvện B ến quê.
Truyện kể về một con ngưòí đang ở vào những: thời khẩc
cuôi cùng của sự sông và chính lúc ấy, nhân vật Nhĩ - người đã
từ n g đ i tớ i k h ô n g sót m ột xó xỉn h nào trên tr á i đ ất. đã
từng' in g ó t c h â n k h ắ p m ọ i ch ân trời xa lạ, chợt nhận ra vào
đúng lúc sức tàn ỉực kiệt sự giàu có lẫn m ọi vẻ đẹp củ a m ột
cá i b ả i b ồ i s ô n g H ồn g n g a y bờ b ên kia, cái bãi bồi bên sóng
mà dù rất gầh với Nhĩ, ông vẫn chưa hể đặt chân đên! Cũng vào
thoi điểm, ranh giới của sự sông và cái chêt, nhân vật ấy đã nliận
ra rằng : Con n g ư ờ i ta tr ê n đường đời th â t khó tr á n h được
n h ữ n g c á i d iề u v ò n g v èo h o ặ c ch ù n g ch ìn h , con người có
nhiểu nỗi đam mê, thú vui như Nhĩ c ũ n g đã từ n g ch ơ i phá cò’
th ê tr ê n n h iề u h è p h ố ’!
Có phải B ế n q u ê là một lòi trăng trối của nhà văn? Hây
trở vể vói "Bến quê", hãv trỏ' về với chính mình! Nhân vật Nhĩ
chết trong cố đơn, trong tư th ế chới với vẫy gọi cuộc sông thật
của mình. Bên sông, con đò, mảnh buổrrụ thuở ấu thơ... là những
gì gần gũi, gắn bó vói chính cuộc đòi của Nhĩ mà anh đã tự ròi ra,
92
lãng quên.
Có phai những cô gắng để sông những giây phút cuôi
cùng cua N hĩ đã thê hiện sự khát khao, thèm muôn cuộc sông
thật cua mình? B iêt bao hình dáng của cuộc sống quanh anh
như Liên người vọ' tần tảo và chịu đựng hy sinh, thằng Tuân -
đứa C011 trai của anh ; những xứ sỏ trên toàn thê giới, tất cả
qua đi, thoáng chôc chỉ để lại mình anh với "Bến quê", để cho
anh tro thành con người cô đơn, chết trong sự cô đơn mà chính
như đã tạo ra sự cô đơn đó.
Và như thê, có phải Bến quê là một lòi khẩn cầu hay kêu
gọi con ngrrời nói chung và các nghệ sĩ nói riêng hãy trở vê với
dân tộc, trở về với tư tưởng, phong cách Việt Nam trước hết. đế
rổi hội nhập, tiếp thu những tinh hoa của th ế giới, hòa đổng cùng
thê giới. Cũng có thể Bên quê còn là lòi nhắn nhủ hãy trở vể với
chính minh trước đã. mình phải là mình: là cái tôi đầy bản ngã,
trở lại là mình, chính mình, trung thực và chân thành.
Từ B ến q u ê nhìn vể cuộc đòi và sáng tác của Nguyên
Minh ChâLi, nhất là những sáng tác ỏ' giai đoạn cuối thấy
Nguvễn Minh Châu đã làm được điều đó, hòn thê ông không chỉ
tìm ỉại được m ình mà còn dấu thán vào con đường đầy chông gai
và hiểm ngnv : "Con đường tự đổi thay, tự đổi mới. "tự thay máu"
của chính minh", nhà văn Ngnvễn Ngọc đã nói. Cũng một cách
nhìn trấn trọng, đầy ưu áỉ đôi với Nguyễn Minh Châu, nhà
nghiên cứu phê bình văn học Phong Lê viêt : "Nhà văn không
ham nói, hoặc sọ nói to, y như Nam Cao, thê mà suôt mười năm
cuối đời đã nói tiếng chính luận kể từ bài đầu tiên : V iêt về
93
c h iế n tr a iih (1978)... ở đậy, không chỉ là can đảm; là dũng: cảm,
ma con là qiryêt liệt, trong một tầm đón xa về phía trước, và
trong một nhận thức và đòi hỏi rất cao vê mình và về nghề
nghiệp cua minh. Con người lúc nào cũng đau đáu một niểm ham
mê ây, một khao khát ấy - viêt sao cho chạm được vào các tầng
sâu, vào tận đáy sâu nhũng sự thật, vê quê hương, đất nước, dân
tộc mình... Không một niềm khắc khoải lớn, không một băn
khoăn lật trỏ' lớn không thể nào chạm được vào các tầng sâu ấy
cùa sự thật, ơ phần cuôi thê kỷ này theo tôi nghĩ, Nguyễn Minh
Châu là một sô những người hiếm hoi chạm được vào những vỉa
quặng lớn của đời sông..." [14; 67].
Nguyễn Minh Châu quả đã làm được nhiều điều, cái lớn
nhất có lẽ ông đã vượt qua "một th ờ i lã n g mạn" (tên một
truyện ngắn của Ngnyễn Khải, chúng tôi nhấn mạnh), một thòi
ấu trĩ, minh không phải là minh, mơ mộng viển vông để tự vượt
lên chính mình, biết tự dứt bỏ hoặc quên đi những gì của một
thời để từ đó góp vào sự biến động bắt đẩu cho một sự biên đổi
của vàn học ỏ những năm đầu của thập kv 80.
Như ở phần mở đầu chúng tôi đã để cập, Nguyễn Minh
Châu là ngưòi có mặt trong hai cuộc chiến tranh lớn, ỉà tác giả
của nhiểu tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh và ít nhiều ông
đã có chỗ đứng trong văn đàn thời kỳ trước 1975 những: truyện
ngắn mói tạo ra được nét riêng, nét độc đáo và đem lại nhiều
đónẹ góp hơn cả bởi truvện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh
Châu đem đến cho người đọc một văn phong mói, những SUV tư
mới. Có thể khẳng định có một phong cách Nguyễn Minh Châu
qua những trang truyện ngắn. Phong cách Nguyễn Minh Châu
94
phong phú đa dạng, nhiều biến đổi : khi là những trang văn
mang hoi thỏ của huyền thoại, lúc lại là những câu chuyện mang
dang dâp, phong vị của một truyện cổ tích Uay ngụ ngôn. Có
những khi cả một truyện đều chứa đựng những hổi tưởng của
quá khứ vọng về (thương nhớ, xót xa, dằn vặt, hối hận) và gây ra
đau khô cho người khác. Đặc biệt những vấn đề lớn mang tính
nhán loại, muôn thuở của con người như cuộc đáu tranh giữa cái
thiện và cái ác, hành trình đi tìm cái đẹp, cái thiện, cái cao cả đế
:hoát khỏi thân phận "bò khoang"... được tác giả đặt ra dưới một
tầm suy nghĩ mới bằng một lối viết hiện đại.
Khí nói đên phong cách một nhà văn là nói tới nét khu
biệt, nét riêng của nhà văn đó với các nhà văn khác. Phong cách
đó chính là người (Le style, C'est Lhomme !). Nhìn lại tất cả
những truyện ngắn đưa ra phân tích ở trên, chúng tôi nhận ra
mấy nét khu biệt sau và đây cũng là đóng góp, thành công của
tác giả vào nên văn học hiện đại Việt Nam vào những năm của
thập kỷ 80.
Thứ nhất, tuy nhà văn vẫn tiếp tục hướng khai thác
truvển thông là đi tìm hành trình bên trong hay khám phá nói
tâm của nhân vật nhưng cái mới, cái khác biệt ò đây thê hiện C
chỗ, Nguyễn Minh Cháu tin thấy nhiều con người trong một con
người, nhiều tính cách trong một tính cách, nhiều sô phận trong
một thân nhận; m à rõ nét nhất được thể hiện qua người hoa sĩ
trong truvện ngắn B ứ c tranh; nhân vật T trong s ắ m vai, Quỳ
trong N g ư ờ i đ ản b à tr ê n c h u y ế n tàu tô c h à n h . Để chuyển
tải được những ý định ấv bút pháp của nhà văn đa dạng trong
giọng điệu. : cái bi, cái hài, tự thú. dằn vặt. hối hận, lúc lại thủ thỉ
95
như tám sự, bộc bạch-lòng mình đan xen hòa cùng nhau tạo ra
mọt văn ban đa thanh. Cách kể chuyện thường không dừng ỏ
mọt thơi điêm nào đó mà quá khứ - hiện tại xen lẫn nhau, những
hôĩ tưởng, giấc mơ, quá khứ dôi về tạo ra một không thòi ẹian đa
chiêu càng giúp cho ngiíời đọc cảm nhận hết chiểu sáu tính cách,
số phận nhân vật.
Thứ hai, nhà văn không chỉ nhìn hiện thực bằng con mắt
hiện thực mà tác giả đặt các nhân vật của mình vào một hoàn
cảnh, môi trưòng khác xa hiện thực. Đó là chất ngụ ngôn, chẩz cổ
tích, chất hư ảo thấm thấm đượm các trang văn của ông. Nhìn
hiện thực qua lăng kính huyền thoai, không khí, hoi thỏ của
huyền thoại bao trùm không ít các truyện ngắn : M ột lần đối
chứng; S ô n g m ã i với cây xanh, K hách ở quê ra cùng P h iên
ch ợ G iát. Cái ảo, cái thực ở đây lẫn lộn, có truyện đẫn dắt ngn-ròi
đọc cùng trở vê' với thuở hổng hoang con ngrưòi - cỏ cây - đất tròi,
nắng gió, loài vật chưa hề tách bạch, "họ" vêu thương quấn quít
cùng nhau, hiểu tâm trạng của nhau, sống nương tựa vào nhau.
Qua huyền thoại để hiểu thêm hiện thực, đế nhận ra những đôi
nghịch trong cuộc sổng C011 người và đâu chỉ là vấn để thiện/ác
mà ỏ truyện của Nguyễn Minh Châu mơ rộng biên độ vươn toi
những vấn đề mới : thật và giả, nhẫn nhục, tù túng/ tự do, giải
phóng ; nhán cách và phi nhân cách v.v.
Chiến tranh và sổ phận con người trong cuộc chiên luôn là
để tài, là vếu tô" thường trực trong sáng tác cửa Nguyễn Minh
Châu, nhưng tác giả không nhìn nó ở trạng thái tĩnh, bất biên
mà nhìn nó trong sự khám phá, tìm tòi. Nếu trước đây ông chỉ
moi khai thác một mặt của cuộc chiên tranh, mới chỉ tìm tháy
96
những nét đẹp của con người, tình yêu và niêm tin của họ trong
những năm khói lửa như Nguyện và Lãm trong M ảnh tră n g
CUOI rư ng, Thụy và An ỏ Bên dường ch iến tran h , thì về sau
nay ben cạnh niềm vui còn có nỗi buồn, bên cạnh cà hoa còn là
máu và nước mắt. Tác giả không ngần ngại khi bóc tách dần sự
thật hay đằng sau cuộc chiên là những day dứt, dằn vật vì tội ác
do chính con ngoĩời gây ra cho con người, ở một sô" truyện, tác giả
đã đạt tới tính nhân loại trong hình tượng nhân vật cùng cốt
truyện. Sự thật tìm thấy trong c ỏ lau cũng như trong Mùa
tr á i cóc ở m iề n N am khiến người ta cảm thấv xót xa và đắng
cay nhưng muộn còn hơn không, đấy có lẽ là bài học cảnh tỉnh,
báo động vê cái ác luôn lấp ló, rình dập quanh cuộc sông, luôn
thưòng trực trong con người cả hôm qua và hôm nav.
Còn có một "gam màu1’ khác, nhẹ đôi nghịch với những
"gam nặng" như trên trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu, nó tạo ra sự cân bằng, hài hòa trong cách viết của Nguyên
Minh Cháu đó là chất thơ và điện ảnh trong sáng tác của ông và
củng là vấn để cuối cùng mà chúng tôi muốn để cập khi muốn nói
tới những đóng góp và thành công của nhà văn. Chất tho' toát lên
từ những trang văn mang nặng dấu ấu cảm xúc của tác giả, đó la
cảm xúc chủ quan gần với cảm xúc trong thó, đó là chát thó được
tạo bởi những hình tượng ẩn dụ, đa nghĩa : c h iế c g iế n g tiê n
b ên đ ư ờ n g c h iế n tr a n h , m ảnh tră n g trong M ảnh tră n g
c u ố i rừ n g và chiếc thuvền thấp thoáng trong làn sương của
một buổi bình m inh ven bỏ một vùng ngư phủ. Tất cả làm dịu đi
nhữnạ nặng nhọc, chất chứa của nhân vật, của mỗi người đọc.
Nhà ván rất thành công trong việc dựnẹ cảnh, hầu hêt các côt
truyện đểu được tái tạo và đật vào một không - thòi gian mênh
97
mông, cũng có thể thòi gian xảy ra câu chuyện chỉ là một đêm
(như Phiên chợ Giát) nhưng bằng những thủ pháp hôi tưởng,
giac mo’, nhó lại, biên độ của truyện được trải ra một không thòi
gian đa chiêu tạo cơ sỏ' và môi trường để các nhân vật thể hiện
tính cách và người đọc nhận thấy đầy đủ hơn tính cách và sô
phận nhân vật. Như thê nhân vật có chiều sâu và tạo được khả
năng- tái sinh nêu chuyển sang một lĩnh vực nghệ thuật khác
như điện ảnh là một ví dụ.
"Cái quan luận định" - khi một người nằm xuống mọi việc
mới được luận bàn ! Với Ngnyễn Minh Châu tuy sô" phận nghiệt
ngã có cướp đi một tài năng văn học thì ông vẫn có được cái "may
mắn" khi còn sông, ông và những đứa con tinh thần của ông đã
được đem ra bàn luận và gây xôn xao dư luận một thòi. Khen
cũng nhiều mà lòi chê đâu phải là ít nhưng bằng những tác
phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu đã là một trong những
người đi đầu trong văn học thời kỳ đổi mới. Thời gian đã và sẽ
chứng minh điểu ấy cho ông. Thử nhìn lại những năm đầu của
thập kỷ 80, những truyện ngắn cùng vói những nhản vật của ông-
như đem lại một ỉuổng hướng mới cho vàn học nói chung và thè
loại truyện ngắn nói riêng.
Khẳng định những thành công và đóng góp của ông vào
nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. luận án của chúng tôi
cũng chỉ khiêm tốn và dè dặt đặt ra một vài khía cạnh như trên
vừa phán tích, thiết nghĩ với khoa học mọi công việc luôn là sự
tiếp nối cũng giỏng như dòng chảy của cuộc sông luôn vận động
và biên chuyên.
I "
Thác là thê phách lììầỊi còn tinh anh -('Kiều) 'Hẳn Nguyên
Mmh Châu ỏ nơi xa xôi kia có biêt S£U sự mỏ’ đầu của ông là
những tài năng tiêp nôi, đi theo con đường ông đã mở ? Hẳn ông
có biêt văn chương những trang viết của ông đang được người đời
trân trọng và tìm đên để hiểu suy tư cùng với những tâm. trạng
của ông ! Riêng người viết luôn tâm niệm rằng Nguyễn Minh
99
Châu - một con người, một sự nghiệp vã.n chương chưa kêt thúc./.
TH Ư MỤC SÁCH THAM KHẢO
I. SÁCH. BÁO'. TẠP CHÍ TIẾNG VIỆT
1. Nguyền Minh Châu - Hòa đ ồn g cu n g n h ân loại
Tạp chí Văn, thành phố Hồ Chí Minh, s ố 2/1988
2- Nguyễn Minh Châu - H ãy đọc lời ai điếu cho m ột giai
đ oạn v ă n n g h ệ m in h họa
Báo ván nghệ số 49.50 (05/12/1987).
3. Nguyễn Minh Châu - T uyển tập
NXB Văn học - Hà Nội; 1994
4. Nguyên Minh Châu - c ỏ lau - Tập truyện ngắn
NXB Văn học - Hà Nội. 1989
5. Nguyễn M inh Châu - C hiếc th u y ền n g o à i xa
Tập truyện ngắn - NXB rác phẩm mới,1987.
6. Nguyễn Minh Cháu - T rang giấy trước đèn.
2:101 'chiệu. NXB khoa học xã hội, 19S4.
Phê bình tiểu luận. Tốn Phưỡn? Lan sưu tầm, tuyển chon,
7. Phạm Vĩnh Cư - v ề n h ữ n g yếu tố tiểu th u y ế t tro n g
tr u y ệ n n g ắ n N g u y en M inh Châu.
Báo Văn nghệ sô 7/ 1980.
s. Đặng Anh Đào - T ài n ă n g và ngư ời th ư ở n g thứ c.
100
NXB Hội nhà ván, 1994.
9- Nguyên Văn H ạ n h - N g u y ế n M in h C h â u n h ữ n g n ă m 80
va sự đ ô i m ớ i cách n h ìn về con người.
Tạp chí Văn học số 3. 1993.
10. Đo Đức Hiểu - Đ ổ i m ới phê b ìn h văn học.
NXB Khoa học xã hội - NXB Mũi Cà mau, 1993.
11. Đô Đức Hiểu - Đ ọc P h iên chợ Giát.
Báo Văn nghệ số 7 (17.02.1990).
12.Tôn Phương Lan - N g u y ể n M inh C h âu q u a p h ê b ìn h
t iể u l u ậ n .
Tạp chí Văn học số 6/ 1993.
13. Tôn Phương Lan - Lại Nguyên Ân - N g u y ễn M inh Châu
con n g ư ờ i v à tá c phấm .
NXB Hội nhà văn, 1991.
14. Phong Lê - V ăn h ọc và cô n g cu ộc đ ố i m ới.
NXB Hội nhà văn, 1994.
15. N.ẹuyễn Đăng Mạnh - Dẩn luận nghiên cứu tác gia văn học
Trường Đại học Sư phạm I, 12.1993
16. Nguyễn Tri Nguyên - N h ữ n g đ ổi m ớ i v ề t h i p liáp tron g
sá n g c ủ a N g u y ễ n M inh C hâu sa u n ă m 1975.
Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/ 1995.
17. Rene W ellek - Austin Waren - H u yền th o ạ i là gì.
101
Tạp chí Vãn học số '7/1995.
18. Nguyễn Thị Minh Thái - Â n tư ợ n g về n h â n v ậ t n ữ c ủ a
N g u yễn M inh Châu.
Tạp chí Văn học số 3/1985
19. Bùi Việt Thắng - v ấ n đề tìn h h u ố n g tro n g tru yện n gắn
N g u y ễn M inh Châu.
Tạp chí Văn học sô" 2/1994.
20. B áo V ăn n g h ệ - Sô"43; 48; 50; 53 năm 1994. Sô 2; 9; 10; 15;
16; 18; 21; 22; 25; 32; 34 năm 1995.
II. SÁCH TIẾNG PHÁP
21. Jean - Baptiste Fages - C om prendre L év i - S trau ss
Edouard Privat, Editeur . 1972.
29 Claude Lévi - Strauss - Le Cru e t le Cuit.
Librairie Plon, 1964