D Ạ I n ạ c Q i ì ó c CỈĨA Í I Ả N Ộ I T R Ư Ò N C Ì D Ạ Ỉ H Ộ C X Ã u ộ ỉ V Ả N H Â U V Ầ N

L U Ậ N V Ă N KHOA HỌC THẠC s ĩ ỉ-í J U V Ẩ N

TRUYỆN NGẮN

p

: t ó :

I ’

C h u y ê n n g à n h : V Ẫ N H Ọ C ; n m í iẠ ị V Ị Ạ'Ị

M ã s ố

: 5 . 0 4 .3 3

•ĐẠI HOCCvCC GỉA HÀ MỌ] V Ó TRUKG';-‘Ĩ 1

No V-

MỤC LỤC

I .

L ị c h s ử v ấ n đ ề

PHẨN MỞ ĐẨU

II. Lý do chọn dể tài - Phạm vi của dề lài

III. Bô"cục của luận văn

ỈV. Phương pháp nghiên cứu của luận ván

CHƯƠNG ĩ :

H à n h tr ìn h b ê n tro n g h ay

sự k h á m p h á n ộ i tâ m n h â n v ật

ĩ. Hành trình đi tìm cái tôi của nhả van

II. Hành trình đi tìm cái tỏi và ị/hố giói

bẽn trong của con người

III. Thế giới bên trong của những cuộc đòi

những con người với những biếu hiộn

phong' phú của nội tâm nhân vật

CHƯƠNG ỉi

H u y ền t h o ạ i và h iệ n th ự c

I. Giới thuyết về huyền thoại

II. Huyền thoại trong truyện ngan

Nguyễn Minh Châu

CHƯƠNG i n

Đ iệ n ả n h và c h ấ í thơ

]. Biến tượng mảnh trăng v;'ì yôu l ố

không thời gian trong M ản h trăng' c u ố i rừ ng

II. Giông' tiên - một ẩn dụ, mội ủ ấu nôi

giữa quá khứ và hiộn trại trong

I I I . C h iê c t h u y ề n n g o ả i x a hay s ứ c m ạ n h

B ên đư ờng c h iế n tra n h

biểu hiện của cái tôi trữ tình.

IV. Con người giữa bạt ngàn c ổ lau

và dáng núi cùng' cách hiếu vổ chiỏn tr;mh

PHẨN KẾT :

Trở về B ế n quê

TÀI LIỆU THAM KHẢO

P H Ẩ N M Ở Đ Ẩ U

Truvện ngắn Nguyễn Minh Chau - khoang mươi nám

trỏ iại đây hẳn đã có một định để như i.hẻ 1,1'onịT nglũôn cứu.

phê bình văn học cũng như đôi với sô đông độc gia yếu thícii

văn học. Sẽ là bình thường' nếu Nguyễn Minh Cháu cũng RÌÔIIÍÍ

như Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao những tác giá

truyện ngắn và chính truyện ngắn đã làm rạng danh tên tuối

họ, còn với ông, trước khi được bạn dọc biết đến như một lác

giả truyện ngắn thì đã có một Nguyễn Minh Châu •• Ị;ác gia cùa

những tiểu thuyêt như c ử a sô n g , D ấ u c h â n n g ư ờ i lín h ,

L ửa từ n h ữ n g n g ô i n h à , M iổn c h á y , Những' uy,ưò’i (li từ

t r o n g r ừ n g ra... và có thể coi như một chứng chí đổ Nguyễn

Minh Châu bắt đầu nghiệp văn, đế ông đang hoàng đứng vào

đội ngũ các nhà văn hiện đại Việt Nam.

I. LỊCH SỬ VẤN ĐẾ :

Ngay từ ngày ấy, các tác phám của óng' đã được đu' 1IV ạ it

chú ý tuy ở nlnlng mức độ khác nhau và cách nhìn nhạn khác

nhau. Nêu Nguyễn Đăng' Mạnh vò Tran Hữu Tá Lẩn trọníĩ vi'.

dè dặt lchi viêt : "Cho tới nay, anh chưa có mọt Uìàíìb I,ỉ/li ị-.ỊiẠI

tài hoa, xuất sắc. Nhưng bước đi của anh - dù sao cữiig đa 10

năm rồi - nói chung là chắc chắn. Từ những bút ký, rrnyôỉi

ngan đen Cửa sô n g , anil cứ tiên dan Í;ỪU£Í bước với ỳ thức ro

ràng về con đường mình đi, vói thái dò của mội ccm ỉi^ưòi can

qiiíìii, l.ự mán" cù, thận trọng' của một con 11/íười khỏn<í

'Tiếu tliuyêt Dấu chân người lính chuyển một bước vể lưỢì'4’

[13; 125], thì Phan Cự Đệ đã không ri”ẩn n^-ại kiũ nhíui xói: :

cũng như về chất so với Cửa sông. Tít c ử a sông' cu ì .11 Dấu

c h â n n g ư ờ i lín h , Nguyễn Minh Cháu đa tiÔ11 nhữiif>' bước

vững chắc và hứa hẹn" [13; 137J. ơ một klìía cạnh kliác, Ngô

Thảo khẳng định "...Với D â u c h â n n g ư ờ i lín h , Nguyen Minh

Châu đã đóng góp vào văn học chông Mỹ một tác phẩm xuất

sắc viết về người lính" [13; 135],

Đên những’ năm đầu của thập kỷ 80, đã xuát hiệu UH.

Nguyễn Minh Châu khác bên cạnh Nguyen Minh Cháu mọt túc

giả tiểu thuyết. Những bài tiểu luận, phê bình, chán đun# văn

học và những truyện ngắn của ông dã là một hiện tượng hay sự

kiện trong đời sông văn liọc thời gian này. Tác jpham của Nguyên

Minh Châu thực sự thu hút được sự chú ý (illa các nha nghiên

cứu, phê bình văn học cũng như đông đảo độc giả. Dâu dư luận có

nhiêu chiểu, nhiêu cách nhìn nliận nhưng (lù sao cũntí đá kháng

định có một điều gì đó "phát sáng" tạo sự lưu tám clto Lất cả

những ai đã và đang chú ý đên nhà văn Nguyên Minh Châu. Xin

dừng lời và nhường lại cho những đổng' nghiệp, các cây bút

nghiên cứu và phê bình văn học :

- "Nguyễn Minh Châu thuộc Bố nhừiiịí nhà vnn mở dining-

tinh anh và tài năng nhất của văn học tíi hiện UUV-" í 13; 2 5 0 1.

- Nhà ván Nguyễn Khải khẳng định : "Anh là ii^ươi kẽ ! c

xuất sắc nhất những bậc thầy của nên văn xuôi Vi'H Nam, V;J

cũng là ngưòi mỏ đường rực rỡ cho những cay bút u-ẻ tải nan;,ĩ

sau này" [13; 107].

- "Môi cây bút đểu muôn có tiêng n ó i riêng cua minh Í.rtíỏ'/

cuộc đời. Phong cácli nghệ tliuật có điểu kiệu hình í.hànL và ]jỉiá!.

triển mạnh mẽ. Đã có đáu hiệu xuất liiệu nỉiieu tài uắmí, dóc

đáo, đặc biệt qua những tác phá 111 gần đáy của N^uvên Miníi

Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh". [15; 531.

- "Là người nghệ sỹ trim# thực va rát nhạy cảm trước

những đổi thay cua cuộc sống, nliững đòi hỏi của thó Ỉ1Ọ bạn đục

mới, Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận thức được răng' khổng thè

tiêp tục nghĩ như cũ, viết như củ, tiêp tục cách nhìn gián đơn,

thực dụng về con ngiíồi và về văn học, liạri chê sức mạnh riêiiíí

của văn học, hạ thấp bản lĩnli, nhân cách của cum búi,

chân chính. Nguyễn Minh Châu chưa làm được nhiều điốu iiiur

mình muôn, nhưng anlì đã "nhận đường1" đúng, đã kịp thời thay

đôi khi cần phải đổi thay và đã thực hiện được những bước

- " S ự h â p d ẫ n t r ô n n h ữ n g t r a n g v i ỏ t ; í *; an đ á y í - .ũ a N f j , u y ồ J i

chuyển bước đẩu xuất sắc" [9; 2 3 1.

Minh Châu chính là chất thơ và chiều sảu triêt học ni;'i nhò' đo

nhà văn hiện lên với đầy đủ tầm cỏ' của nhà nghệ sỹ - lihh Ur

tưởng. Những bài học thấm tliía anh de lại l.rưởi iúc r:i (li còn

t r o n g c ô n g C1.1ỘC đôi mới h ô m n a y n h à v á n hắí. buộc ph;i i c h a p

sâu sắc hơn nhiều : để trỏ thà all li hà Ìì^hệ i:ỹ - nhà lư Ui'ỏìi;j;

nhận sự đớn đau đê cắt bỏ tren thịt da, ịíạii chắt tronm máu

tủy tất cả những- gì đang phương hại cho mọt cơ t i ‘ố cường

tráng"[13; 286],

- "Hành trình nghệ thuật của Nguyủn Minh C ỉ i á i ! l à l ù m h

trình của một nghệ sỹ cách mạng với ý u^ỉũa đích thực cua !)ỏ,

bơi cả cuộc đời, ông dã vượt lêii mọi lioàn cánh (lố k' 0 đọn^', tlíí

kiêm tìm. Và thành quả của ông l,áf' ịíhắni ván ('luí(jiifj;,

t r o n g t iế u lu ậ n p h ê b ì n h c ẩ n đ u ọ c g h i I i l ì ậ n 1111 LƯ một, đótỉíí

'ịịóụ

xuất sắc, đặc biệt, à thời kỳ đổi mới, vói tư cacti ỉa lìgưừi mơ

dường'1 [12; 25],

Nhìn lại tất cả những đánh giá, nhạn (tịnh trốn đny cua

các nhà ván, cũng như của các nhà nghíen cứu phò bi 111J ván học

một điều dê nhận thấy là đểu khang định "chỗ đứng" hay nói

cách khác : vị trí của nhà văn Nguyễn Minh Chau trong nển ván

học đương- đại ở thòi kỳ đổi mới. Sự thốn”' nhâí, trong đánh giá

không chỉ thể hiện ỏ từng câu chữ như : n h à v ă n m ở (lưừng;

ngư ờ i m ở đường; n h à n g h ệ sỹ; n h à tư tưởng . . . mà thực té,

kể từ khi những truyện ngắn cùng một sô bài tiểu luận phê bình

của Nguyên Minh Cliâu xuất hiện đã luôn là trung í,ám chu sự

chú ý của tất cả những ai liíu tâm đến nền văn học hiện dại nước

nhà. Có thể khẳng định thêm rằng : Nguyễn Minh Chau là ulià

văn có vị trí quan trọng trong' tiên trình văn học sử, các tác

phấrn của ông là gạcli nôi, là nét châm phá (lau tiên cho một thò'ì

kỳ mói của ván học, đó chính là nển văn học trou£ buổi đáu c ủ a

thời kỳ đổi mới để sau này cùng với Nguyễn Huy Thiệp; Phạm

Thị Hoài; Phan Thị Vang Anh... tạo thành một (tiện mạo mới cho

văn học.

Như vậy đặt vấn đề tìm hiểu tác phíuu của nhà văn

Nguyễn Minh Châu không phải là một CÒIIÍÍ việc hoàn l.oati mới

mẻ mà nhà ván và tác phẩm đã được nhi ể 11 tác gia phô bình

nghiên cứu văn học nói tới từ nhiều góc dộ với những cách tiếp

cận khác nhau tạo ra sự phong phú về cách đọc, cách hiếu í.nc

pliẩrn của Nguyễn Minh Chân. Chẩn" hạn, (ló có the là nhưng

"Ấn tượng, về nhân vật nữ" [8; 34], là "Yếu lố. tiểu tiuIyết: lroiụ>-

truyện ngắn" [7; 3] và có ldii từ một kliía cạnh của thi pháp the

loại đe nhận ra "Vấn để tình huống' trong truyện ngắti Nguyễn

MÌI1 Ỉ1 Châu" [19; 23], Tác phẩm của Nguyễn Minh Chau có th(‘

coi là mảnh đất hứa hẹn cho những- ai cẩn khám phá, bơi tư

tưởng và văn phong' của ông chứa đầy bí ẩn và bat ngò'. BÔ11 cạnh

những phát hiện trên của các nhà nghiên cứu phê bình van học

về nhà văn Nguyễn Minh Châu và các tác phAm c:ủa ông, chúnf>-

tôi đặc biệt muốn nhấn mạnh đến những đóng góp của nhà ván

vào THI PHÁP TRUYỆN NGAN v i ệ t n a m hiện nay thông qua

việc tìm hiểu những nét đổi mới vê truyện ngắn của 111ỘI, Nguyễn

Minh Châu đầy sáng tạo.

II. LÝ DO CHỌN ĐỂ TÀI - PHẠM VI CỦA ĐE TÀI :

Luận văn này là một mong mỏi. một cố gắng nhằm góp

thêm tiêng nói khiêm tốn và dìt sao cũng chi là ban dầu đẻ nhận

diện sự đ ố i m ới trong' p h o n g c á c h N g u y ễ n M inh Châu qua

những t r u y ê n n g ắ n (một sô" truyện ngắn tiêu biếu chứ không

phải ỉà tất cả).

Nói đến hai từ đ ố i m ớ i trong truyện ngẩn Nguyền. Minh

Châu, người viêt không nghĩ rằng, đổi mới là đồng Iifj’hia với nói

ngược, chẳng hạn trước đây vàn học phản ánh hiệu thực cuộc

sông đa phần là tốt đẹp nay ngược lại (tất nhiên khoiifi the phủ

nhận những đóng góp nhật định của việc phán ánh ngược : íí'iúp

cho người đọc hiểu sự thật một cáeli toàn vẹn, không còn phiên

diện một chiên). Hoác người viết chỉ dơn giản ln đổi đo tài như

trong nghiên cứu phê bình đã có : trưức viết về thư 11 lới ỉà nói

dên thoát ly, cliạy trôn thực tại nay tru về voi nhừng ỉ,him !.;m

ma dại, vói những người nghèo khổ ! Lại nữa, ehún# tôi CỈIO nín£'

không thể đổng nhất những tác phẩm được viết vả (tếu với hạn

đọc trong tliòi kỳ đổi mói vói những đối mới thực sự đựớc hình

Lhàiìli trong các tác phẩm văn học. Thật thê nen so sánh Thời

xa v ắ n g , M ả n h (tất lắ m n gư ờ i n h i ổ II ma; B ố n k h ô n g

chống'; Đ á m cư ớ i k h ô n g có g iấ y giá thú với những tác

phẩm của Nguyễn Huy Thiệp; Phạm Thị Hoài và Nguyến

Minh C h â u thì thật k h ó cỏ thể tìm thấy sự gióng nhau vể bút

pháp thể hiện. Ngưòi đọc sẽ bắt g'ặp những điêu mới lạ mà ban

đẩu đôi khi còn tạo cảm giác bỡ ngỡ khi tiếp cạn tác pham.

Những T ư ớ n g v ề hưu; Mê Lô; P liic n ch ơ G iát. . . có thể

chứng minh cho điêu ấy.

Trường hợp của Nguyễn Minh Châu cũng vậy: ne 11 nói tác

giả đã chuyển để tài từ chiến tranh còn in đấu trong các trang

tiểu thuyết sang để tài viết về cái thường nhật vê thán phận con

người là đúng nhưng có lẽ chưa đủ sức thuyết phục, bơi )ẽ chiên

tranh và hậu quả của nó vẫn là nỗi ám ảnh, lả yêu tô thường

trực trong các sáng tác của N g u y ễ n Minh Châu, C Ỉ 1Ỉ cỏ điểu nó

được tái tạo và thể hiện trong các hình tương bằng một cách viẽt

khác, cách biểu đạt khác : thì đây vẫn là Thai người đàn bà trong

Cỏ lau, là sư bà trong truyện Mùa trái cóc ở m iền N am những

ngìíơi pliụ nữ chịu nhiều nỗi đau du chiên í.ranh gáy ra, là ílnệ, là

Hạnh, là Quỳ những người đàn bà với bao lđiác khoái, đau thương

cùng- niềm tin và hy vọng trong cuộc sống, Lình 3fêu l.lirii clúỏn

tranh và hậu chiên tranh. Chiên tranh tự bán thán nó đã là ngọn

nguồn của thảm họa và bất hạnh, nó còn xót xa hòa khi nlìunK bá í.

hạnh ấy được thể hiện qua những hình t.ưựiiíí nhan vật nữ của

Nguyễn Minh Châu và nó gần vói lòi đủc kết của Pỉiítm tỉụ I ỉ oai

G

viết trong tiểu thuyết T hiên sứ "Chiến tranh t,hậl, ra mang bộ mật

đần bà xót xa, khắc khoái”.

Nlut vậy việc đổi mói cách viết, tái h i ệ n các hì till tượng

trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh Chau tà lý do đau tien

và cơ bản nhất khiên của chúng tôi chọn truyẹn. ngắn Nguyên

Minh Cháu vào những nám 80 là đề tài của luận văn này.

Hẳn mọi ngưồi còn nhớ, bên cạnh nha ván Nguyễn Minh

Châu là đại tá Nguyễn Minh Châu. Nhác đến quán [làm của nhà

ván chúng tôi không có ý định đùng để tăng thêm "sức nạng" linv

giá trị cho các tác phẩm của ông bơi đã qua lfn thòi kỳ dùng tiếu

sử - cuộc đòi nhà văn làm điểm qui chiêu, bình xél'. chủ đạo khi

đánh giá các tác phẩm nghệ thuật, mà mục đícli lại là ổ' chô :

những tường vối bề dày trong sáng tác với khống ít lời khen như

thê với địa vị, tư thê của một nhà văn đíí được định hình thì hoạc

giả nhà văn sẽ an vị mà tận hưởng clư vị ngợi utrậơ, niềm v.inh

quang trong quá khứ hoặc sẽ bảo vệ đên cùng' những' "đứa con

tinh thần" của mình dẫu biết cinnli nó không còn hụp thòi và

phát huy tác dụng nữa. ấy vậy mà người đọc bắt ịĩặp một

Nguyễn Minh Châu khác, kliác với Nguyễn Minh Châu của c ử a

sôn g, D ấ u c liâ n n g ư ờ i línli ngày nào, Nguyền Min.il Cháu

trung Luyện Iigắn là một Nguyễn Minh Chan khác : klìáe trong

cách cảm, trong nếp nghĩ, trong cách viết vù thế hiện. Từ những

truyện ngắn có thê nhận ra sự phong phú và sự biên chuyổii của

phong cách Nguyễn Minh Châu.

b ó h ẹ p t r o n g v i ệ c p l i ả n á n h " c á i p ũ ô n g n h ư h i ệ n ( . h ự c "

t u ì a m a

7

Thứ nhất, đấy có thể là truyện, iigắn cua ỏng khÒLig CÒII.

vươn tới như một thử nghiệm, một sô truyện lấp lánh những

huyền thoại, thấm dẫm phong vị lmyển thoại, <4 ic311 ”, điệu co lúc

phảng phất như truyện ngụ ngôn, co tích như các truyộn Một lân

đôi cliứng, Sông, m ã i với cây xanh và P h iêu chd Giát.

Thứ hai, nêu nhìn từ một pillion,';' (liọu khác lại cỏ 1,1 lể i.háv

những cung bộc khác nhau của giọng văn được thế liiộn trong

truyện ngắn, nhất là khi quá khứ vọng về và hiộn tại đối diện

với quá khứ, lời văn của người lcể chuyện đù ẩn diệu hay trực

diện đều b â t lê n n h ữ n g n ỗ i x ó t xa, trăn trở, dằn vát của

k h ô n g n ó i l à t ự t h ú h a y s á m h ô i . V ê p h a n n à y , c h ấ t , t h ú v à t h ú

n h â n vật. Sự dằn vặt hối hận được tác giá đấy đêu tận cìmg nẻII

pháp của điện ảnh lại trỏ nên đắc đụng, có thế tìm thấy qua

những truyện như B ên đường c h iế n tranh; C hiếc th u y ề n

n g o à i xa, B ê n quê; N gười cl;Vn b à trên c h u y ê n tà u tô c

h à n h hay K h á c h ở q u ê ra cùng M anh Irăng' c u ố i rửnụ.

Khát vọng của Nguyễn Minh Châu : "để Vi ộ í, Nam bay

lên hòa mình cùng nhân loại, nói tiẽng nói chung của 11 hán

loại” [1; 4J như đã in dấu qua những trail‘d ván bằng lòi nói và

suy nghĩ của các nhân vật. Những vấn (lề imion tlniờ cúa ahả 11

loại nhiĩ tìm đến cái thiện, vạch trần cái ác còn tồn tại và sáu xa

hơn là "nliắn nhả bạn đọc hãy nhận thức t.liẻ giới và iiha.il thức

bản than mình để th o á t k h ỏ i k iếp bò k h o a n g 11 hân n h ụ c và

tiếp cận con ngươi tự do" [11; 3] (chữ đùng cua Dỏ Đức líiôu,

chúng tôi nhấn mạnh). Theo hướng' này có the khẩy Nguyền

Minh Châu là người kê tạc xuất sắc Nam Cao qua việc xay đựng

hành trình bên trong, hành trình phát triển ỉ, rim lý 111 làn vạl, liay

8

sự phát triển nội tâm nhân vật. Dĩ nhiêu troiitf sự ké tục ay có

s á n g t ạ o v à p h á t t r i ể n , c h ẳ n g h ạ n , k h ô n g ’ c h i đ ơ n k h u ẩ n

i à m ộ l

h à n h t r ì n h m à l à n h i ê u t u y ế n đ a n x e n , k ế t n ô i v o i n h a u , m ỗ i m ộ t ;

hành trình lại đem đến. một lớp nghĩa mới; có nlúểa con ngưòi

trong một COĨ1 người; nhiêu tính cách trong một tính cách. Thẻ

giới bên trong được thể hiện bằng rát ít các sự kiện nhưng mang

đầy suy tư, do vậy truyện khó tóm tăt cốt truyộn. c ỏ thể dặt

Bức tranh; s ắ m vai; N gười đàu bà trẽn c h u y ẽ ii tàu tỏc

hành; M ùa tr á i cóc ở m iề n N a m vào ỉoại truyện này.

IIL BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Từ những lý do trên, luận văn Cao học mạn phép được đi

sâu một vài khía cạnh nổi bật trong truyện ngắn Nguyền Minh

Châu để thấy được sự đổi mới của phong cách nhà văn và từ đỏ

thấy được đóng góp quan trọng của nhà văn vào thi pháp truyện

ngắn hiện đại thông qua thực tiễn sán.£ tác như các ỉ;ác phain

dẫn ở trên.

b a c h ư ơ n g s a u :

Với ý tưởng đó, chúng tôi dự định bô" cục của luận vãn gổm

C ĨIƯ Ớ N G I : H àn h tr ìn h b êu trong' hay sự k h ám

T r o n g c h ư ơ n g đ ầ u b a o g ổ m c á c p h ầ n KíUi :

p h á n ộ i tâ m c ủ a n h â n vật.

I. Hành trình đi tìm cái tôi của nhà ván

v à c ủ a c o n n g ư ờ i .

II. Hành trình đi tìm cái tôi ” thê £Ĩó'i bên trong của nhà vãn

III. Thê giới bên trong của 11Ỉlừng cuộc đời, Ii]iữiì£ con

người với những biểu hiện phong phú của nội tam

C H V Ổ N G I I : H uyền th o ạ i và liiện th ự c

I. Giới thuyêt vể huyền thoại

II. Huyền thoại trong truyện ngắn Nguyễn Minh Cháu

C H Ư Ơ N G Ĩ Ĩ I : Đ iện ảnh và cliấ t th ơ

I. Biểu tượng mảnh trăng và yếi' tố không - thời gian

trong M ản h tr ă n g c u ố i rừng

II. Giêng Tiên - một ẩn dụ một dấu nốì giữa quá khứ và

hiện tại trong B ên đường c h iê n tranh .

III. C h iêc th u y ề n n g o à i xa hay sức mạnh biếu hiện của

cái tôi trữ tình

h i ế n v ề c h i ế n t r a n h .

IV. Con người giữa bạt ngàn c ỏ lau và đáng núi cìrng cách

Sau ba chương chính như trên, luận ván chọn tiỏu de Trỏ’

về B ên quê để thay cho phần kết luận. Với cácii hiếu của chúng

tôi từ truyện ngắn Bên quê, chúng tôi đánh giá và khái quái lốn

những đóng góp của Nguyền Minh Cháu vào thê loại truyện ngán

IV. PHƯƠNG PHÁP NGIIIÊN c ứ u CỦA LUẬN VĂN

trong thời kỳ đầu của đổi mới.

r ằ n g đ i ề u q u a n

t r ọ n g v à q u y ế t đ ị n h j ) h ầ n

l ớ n

t h à n h c ô n g h a y

Để’ đạt được những' mục đích để ra như trên, cliúriK tôi cho

t r u y ộ ỉ i 1 If.*;:Ill N p . í i y Ũ !

n h ữ n g t h a o tác m à n g ư ờ i v i ê t s ử đ ự n g . V ớ i

M i n h C h â u , c h ú n g t ô i d ự ( l ị n h t h e o c á c ] ) h ư ó í i ^ [ > í i: íp SỈII.I :

thất bại lại là hướng đi và cách triền khai, en ch tiỏ]j cận cùng

t á c p l i á i u

t r o n g d i ệ n

1 . D ự a v à o v ă n b ả n , k h ả o s á t c ứ c

nghiên cứu; phân tích tác phẩm theo hướng truyền thông.

b i ê u t ư ơ n g v à t ì m r a c h ủ ý c ủ a n h à v ă n .

3. So s á n h , n ê u có t h ể , vói c á c t á c p h ẩ m , t á c giá trong v à

2. Thông kê c á c sô' liệu cẩn tlìiêt; t ầ n sốxuál, liiện, ý nghĩa

ngoài nước (những tác gia và tác phẩm tiêu biểu) nhằm làm nột bạt

hơn những đóng góp, những cái mới của Nguyễn Minh Cháu trong

truyện ngắn.

t h ờ i g i a n c ủ a n g ư ờ i v i ế t l ạ i c ó h ạ n , v ì t h ế v ớ i t h á i đ ộ t l i ự c s ự c ầ u

t h ị , n g ư ờ i v i ê t m o n g n h ậ n đ ư ợ c s ự đ ó n g g ó p v ù c h i b á o c i i a c á c

Khát vọng’ là thế nhưng' đôi khi " l ự c bat tòng' tâm", vả lại

t r ư ớ c đ ể t r o n g m ộ t t ư ơ n g l a i g ầ n c h ú n g t a s ẽ c ó n h ữ n g c h u y ê n

l u ậ n s â u s ắ c , đ ầ y đ ủ v à c ô n g p h u h ơ n v ề m ộ t t á c g i a v á n h ọ c c ủ a

thầy cô, các chuyên gia về Nguyễn Minh Châu, cìmg các bậc đi

những truyện n g ắ n đ ặ c s ắ c đ ã g ó p p h ầ n , t ạ o đ ự n g d i ệ n m ạ o s i n h

động và đầy khởi sắc cho bức tranh ván học Việt Nam ở những

11

năm cuối của th ế kỷ XX.

CHƯƠNG I

HÀNH TRÌNH BÊN TRONG

HAY S ự KHÁM PHÁ NỘI TÂM NHÂN VẬT

Q ị( ju 'ò ì U l tỊO Ì l ô i lù it h ầ ịã iiL ỉt ), ĩ t i i í ĩ i f Ó

l í í i ô t i í Ị (t ú m Ị

ĩt â íi.

ĩ ô ỉ o ỉú lù

I i ỉ i ù

i t ỉ ĩ i i

l ỉiù o

e lú t t t / j í ũ í t t h e o

í i ụ h ĩ í i

t i ỉ i ấ í íííiíL t ừ it t í t / ,

t ú c

l ù

l ô i

l i l t ỉ u

t á

l ấ t Í U Í ờ ! L i ề u A i ĩ t t ử / t a

l ã m

h ồ n c o n n t Ị i t ò ỉ ... c7'vottỊỊ ( h ú / t y ỉ i ĩ n ỉiiêít lỉit/o

( t ầ ụ đ í t t i í i â t , t ỏ i ( t i t ì m 1‘O H n t j ù ờ i ở h ê n I r o i t t Ị

ủ ítit m j i t ' o ’t.

'DỐXTÒ1EPXK1

"Con ngưồi, hãy tự nhận thức vê minh". Du dã hởíi bôn

ngàn năm, lòi kêu gọi của Socrate vẫn tưưi nguyên giá tvị của. nó.

Cũng như các ngành khoa học khác, nhu cẩu tìm hiến va khám

phá những bí ẩn và điều chưa thế biêt vể đồng loại luôn là khát

vọng, ước mơ của các nghệ sỹ. Trong văn h ọ c đả có những Lép -

Tônxtôi, Flobe, Đôxtôiépxki, Sê kliốp ... và ở Việt Nam, mạt

k h ó p h a i m ờ c h o m ộ t h ư ớ n g t ì m t ò i v à t h ể h i ệ n c o n l i g ư ừ i t r o n g

Nam Cao vào những năm giữa thế kỷ, đã đê lại những dấu an

văn học.

n g ắ n c ủ a ô n g k h ô n g p h ả i l à s ự k h ở i đ ầ u h a y m ộ t s ự p h á t h i ệ n

Nói như vậy có nghĩa Nguyền Minh Châu CÙ11& các truyện

v à đ ó n g g ó p c ủ a ô n g c ầ n p h ả i n h ì n

t ừ p h ư ơ n g d i ệ n k h á c

: ò(t«-

cho một hướng đi mới của văn học mà nói cỉcn 11 hửng iiiàuh c.ôdg

n h ì n c o n n g ư ờ i , t ì m c o n n g ư ờ i ở b ê n t r o n g C011 n g ư ờ i v ớ i n h ữ n g

m ô i l i ê n liệ, t ự r à n g b u ộ c c ủ a n ó , v à c o n n g ư ờ i vớ i t h ê Ỉ ị i ờ ỉ XUM”'

quanli. Tác giả đã có lần phát biểu " Tôi thích trình bày những

vấn đê đạo đức xã hội chủ nghĩa dưới đạng tám ]ý, tạp tnuiíí sự

chú ý vào những diên biến sâu kín mang tính chất qui inậí. bôn

c á c h v à s ự t ì m t ò i n g h ệ

t h u ậ t c ủ a

t ô i

... K h ô n g t h ể n à o k h á c

trong của tâm lý con người ta... điểu đó qui định pliổn ỈỎIÌ phong

được, công việc sáng tạo bao giờ cũng diễn ra trong cỏ đoìì, trong

sự lắng sâu những lãnh nghiệm sông, sau Iihửng chiêm nghiệm

m ộ t t ờ b i ê n b ả n c ủ a m ộ t c h ặ n g đ ờ i s ô n g c o n n g ư ờ i t a , I r ê n c o n

đ ư ờ n g d à i d ằ n g d ặ c đ i đ ế n c õ i h o à n t h i ệ n " [6 ; 9 6 ] .

S ự h ì n h t h à n h v à x u ấ t h i ệ n c u a c á i m ớ i , n h ấ t l à c á i m ớ i

vê lẽ đời và lòng người. Mỗi tác phẩm văn học, cliỉ là một lát cắt,

trong văn học nghệ thuật không phải ở đâu và lúc nào cữiig dễ

dàng được chấp nhận. Trường hợp Nguyễn Minh Châu cũn<í vậy,

hẳn còn nhớ, truyện B ứ c tr a n h (lần đầu công bố trên báo Văn

m ã i , B ứ c tr a n h m ố i đ ê n t a y b ạ n đ ọ c . .. V ớ i B ứ c t r a n h , t á c g i ả

n g h ệ 1982) được đưa in rồi tác giả lại đến lút vê và phải lẩn lừa

đã tự vượt lên và chiến thắng chínli bản thán, ngòi buL của mình,

ở đây không phải là "lìôn cong" ngòi bút mà những dòng chữ

được viết bơi một Nguyễn Minh Châu với bao nỗi dằn vặt và trăn

K ế t t h ú c m ư ờ i t r a n g t r a n ọ 0 t á c g i ả v i ế t n h ư m ộ t : l ò i " t u y ê n

n g ô n " v à c ó

t h ể

l à n h ư

t h ế v ì s a u B ứ c

t r a i l h

l à D i ộ l s ỏ c á -

t r u y ệ n n g ắ n k h á c đ ã t ạ o n ê n m ộ t d i ệ n m ạ o m ớ i c l i o

t á c c u a

trỏ về thê thái nhân tình, về COÍ1 người của hôm qua vò hôm i'K.rv.

đ ố i m ắ t m ỗ t o , k h ắ c

l d i o ả i , b ồ n c h ồ n , đ ầ y n g h i ê m KI l ấ c ,

ông. Nguyễn Minh Châu viết: "Và nổi bật trên cái khuôn mặt là

n h ì n v à o n ộ i t â m " . C h ữ ( l ù n g c ủ a t á c g i ả , c h ú n g t ỏ i n h ố n m a / n h .

[3;375].

I. H À N H T R Ì N H Đ I T Ì M C Á I T Ô I C Ử A N H A VẤ N :

C ó m ộ t h à n h t r ì n h c ủ a m ộ t c o n n g ư ờ i - n l i á ĩ i v ộ í T ỏ i đ ổ n g

thời là nhà họa sỹ đi tìm con người thật của chính nihìlì. Tỏi dĩ

tìm tôi, có phải vậy cliăng khi tác giả cho nhân v(ịt t ư tìm hỉéu

m ìn h / tự p h á n x é t m ìn h / tự họa/ tự đối d iện với m ình.

Hành trình đ i tìm l ạ i c o n n g ư ờ i thật c ủ a n h â n v ậ t đ ư ợ c b ổ H u n g ,

khắc họa rõ nét hơn bởi có những nét chấm phá vể cuộc dò'i và

m ẹ đ ã m ù l ò a v ì t ư ỏ n g r ằ n g đ ứ a C011 đ ã h y s i n h n g o à i m ặ t t r ậ n .

những suy nghĩ của ngưòi chiên sỹ và bà mọ ở hậu phương, người

Những dòng văn như lưỡi dao bóc tách dẩn sự thật, sự tlìật vê

cuộc đời, sự thật của những diễn tiến tâm lý con ii£’iíừi và tác £'iiỉ

để cho các nhân vật đi đến tận cùng sự thật đó. Dân phải la sám

n g ư ờ i t ố t v à k ẻ x ấ u , r ồ n g p h ư ợ n g l ẫ n r ắ n 1 ' ê t , t h i ê n

t h ầ n v à á c

hối thú tội mà đó chỉ là do "trong C011 người tõỉ đang sống' ỉáìi lộn

quỷ?" Tác giả đă đê cho các nhân vật tự nliận ra tíit cả và cho dù

h iê n d iện, lấ n á t tr o n g COỈ1 người - iìlià họa sỹ th i đỏ c ủ n g ià iời

c ả n h b á o c h o t ấ t c ả n h ữ n g ' a i đ a n g s ô n g t r ê n l i à n h ũ ỉ ì h : d ì ; d u

m ộ t t h o á n g ' q u ê n l ã n g , c h ợ t t h ờ ơ l ã n h c ả m v ớ i đ ổ n g l o ạ i , t h ì d l l

vô tình để phần k ẻ xấu, phần rắn rết, phần ác q u ỷ đã có liíc

một thoáng chôc đó thôi cũng đủ để xảy ra những tai hại, dỉiii

B ứ c t r a n h l à m ộ t t r u y ệ n n g ắ n t i ế p n ố i c á c h d i ễ n d ạ t c ủ a

t r u y ệ n n g ắ n t r u y ề n t h ô n g

d ó l à v a n d ồ

l l i i ộ t l - á c

t r o n g

khổ khó lường’.

cuộc sông con người (như thú tội Ki tô giáo) hay trong văn học

v ó i S ợ i t ó c c ủ a T h ạ c h L a m t r o n g đ ó n h â n v ậ t T h à n h t ự t h ủ v à

h ổ i t ư ơ n g l ạ i n h ữ n g g i ờ p h u t a n h đ ứ n g - ở r a n h g i ớ i m ỏ n g m a n h

đ ã m i ê u t ả h à n h v i v à t â m t r ạ n g c ủ a n h â n v ậ t t r o n g g i ờ p h ú t h ê t

như sợi tóc của ngươi lương thiện với kẻ ăn cắp. Thạch. Lum cũng

sức cam go đầy thủ thách ấy. Tự thú, tự phán xét theo kiểu Ki tô

giáo hay tự phán xét (confession) của Rousseau vốn (tã là truyền

thông, còn cái mới ở nhân vật cùa Nguyễn Minh Châu ỉ.à tiềm

t ạ i . T á c g i ả đ ể n h â n v ậ t c ủ a m ì n h v à o t h ò i đ i ể m v à r a n h g i ớ i c u a

thức, sự thức dậy của quá lcliứ, nó bất chợt và lay độiiK Cíi hiện

cả i tr o n g s u ố t và c á i m ờ đục, trên các trang văn cỉiễn tả sự

day dứt của nhân vật, Iiliất là những trường đoạn tưởng tượiiK ra

l ò a c á

- Đồ d ố i tr á , m à y h ã y n h ì n c o i , b à m ẹ t a o k h ó c đ à

cuộc đôi thoại giữa hai người.

hai mắt kia! Bây giò thì tấm hình tao đã được trưng trên các tạp

b ê n d ư ớ i , b ê n c ạ n h m ấ y c h ữ : " C h â n d u n g ' c h i ế n s ỹ g i ả i p h o i s t f " .

chí hội họa của khắp nước. Người ta đã trán trọng ghi tên mày

- T ô i ỉ à m ộ t n g h ệ s ỹ c h ứ c ó p h ả i đ â u ì à m ộ t a n h

t h ợ v ẽ

Thật ỉà clanh tiếng quá!

truyền thần, công việc người nghệ sỹ phục vụ tất cả một sô đông

người, cliứ không phải chỉ phục vụ một người! Anil chỉ là một cá

nhân, với một cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu đế CỈ10 tôi

quên đi, để phục vụ cho cái lớn lao hơn. Anh đã thấy đấy, bức

"Chân clung chiến sỹ giải phóng" đã đong gnp đôi chút vào côu<'

việc làm cho th ế giới hiếu cuộc kháng chiến của chúng ta thêm?

"À ha! Vì mục đích phục vụ sô" đôníỊ của người nghộ sỹ cho nên

anh quên tôi đi hả... có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi

15

mắt tôi đi. Anh cút đi!11 [3; 365; 36GJ

c ủ a t r u y ệ n đ ã t ạ o r a c h i ề u s â u c ố t t r u y ệ n , l ờ i v ă n c h á n t h ậ t v à

Tác giả đã chọn ngôi thứ nhất làm nhân vật trung tám

k h ắ c

đ ư ợ c t h ể h i ệ n b ằ n g n h ữ n g c â u v ă n n g ắ n , m ạ n h : " T ô i ỉ à

tự do hơn. Có những' lúc tiêng nói của lý trí hêt sức nghiêm

một họa sỹ. Tôi không phải là một người viết văn... Tôi phải tự

giới thiệu/ Tôi phải nói vậy để tự dặn mình, tự ra lệnh cho

mình... Tôi viết." [Xin xem 3; 353]

s ơ n c l ầ u c h ứ k h ô n g p h ả i c h ấ t l i ệ u n à o k h á c c h o b ứ c t r a n h c ủ a

Cũng không phải ngẫu nhiên khi tác gia chọn chat liệu

p h ả i d ụ n g ý c ủ a

t á c g i ả m u ố n n ó i đ ế n n h ữ n g n é t d ứ t k h o á t ,

mình. Khi dùng hình thức sơn dần lảm hình thức tiiế hiện có

những nét mạnh, sắc cạnh I1Ó khác hấn VỚI sự mềm mại, uốn

đ ã s o s á n h : " S ơ n c l ầ u v ố n l à m ộ t c l i ấ t l i ệ u k h ô n g ' p h ả i

í . h u ộ c sổ'

lượn của lụa với với sự trang trọng, quí phái của sởn mài. Tác gia

t h u ố c n ư ớ c h a y s ơ n m à i . T h u ố c n ư ớ c , c á i n g h ệ t h u ậ t c h ấ m p h á

c ủ a t h ầ n b ú t c ũ n g n h ư k h ô n g k h í l ấ p

l á n h h ư ả o c u a s ơ n m à i

k h ô n g t h ỏ a m ã n t ô i , t â m t r ạ n g m ộ t h ọ a s ỹ m u ô n d ủ n t Ị n g ọ n b ú t

triíờng của tôi, nhưng với cái nội dung' đó, tôi không muốn dùng'

vẽ để tự tìm hiểu mình." [3; 353]

Để có được một B ứ c tr a n h hay để sáng tạo được một bức

tranh có "bốn" con người trong một con người, ấy là một ngưòi

nghệ sỹ tài năng đã từng có tham gia triển lam quốc tê; đó là cái

g â y r a t ộ i á c , đ ấ y c ò n l à c á i t ô i t h ứ b a , c á . i t o i đ ẩ y t í n h l ; h i ê a k h i

n h ậ n v ẽ h ì n h ả n h a n h l í n h t h ổ v à c u ô i CLU1J4' l à c á i Lỏi k h ắ c k i t o à i ,

tôi sô"một (cá.i tôi gắn liền với tliờ tí, lãnh cảm với cuộc: đòi) cái í.ôi

1 rt

dằn vặt,tự tlní với chính mình.

N ê u t r o n g v ă n h ọ c t r u y ề n

t h o n g , r u ộ t , c o n n g ư ờ i

t h ư ờ n g

chí có hai con người: là thiện và ác thì ('[óng góp của N^iỉyỗn

Minh Châu ở chỗ, tác giả đã thể hiện ba hoặc "bôn con người"

trong một người hay một nhân vật. Những nhân vật đó đối

th o ạ i với nhau bằng tương' tượng: nhân vật hư ảo kia hiện

r a s ự t h ậ t . L ạ i n ữ a , t r o n g t r u y ệ n n g ắ n B ứ c t r a n h 0ÒÌ1 t h o á n g

h i ệ n c á i t i ề m t h ứ c k h i

t h ế g i ớ i b C n

t r o n t f c ủ a n h â n v á t đ ư ợ c

t h ể h i ệ n b ằ n g đ ộ c t h o ạ i v ớ i l ì h ữ n p c ử CỈ1I, đ ố i t h o ạ i t ự t h â n , đ ỏ i

thành người, ngiíòi ấy tranh luận, mắng mỏ đế cùn# nhau nhạn

t i ể m t h ứ c c ò n

t h ể h i ệ n b ằ n g c h í n h b ứ c v ẽ " l í n h g i ả i p h ó n g " ,

b ứ c t r a n h c ó g i á t r ị l ớ n , đ ư ợ c h o à n t h à n h c h ỉ t r o n g n ử a t i ê n g

đ ổ n g h ồ . Đ â y p h ả i c h ă n g l à m ộ t p h ú t t h ă n g h o a ,

c á i t h o á n g

c h ô c t r o n g s á n g t ạ o n g h ệ t h u ậ t . B e n c ạ n h đ ó l ả s ự n h ớ l ạ i m ộ t

b ấ t c h ợ t , c á i q u á k h ứ s ô n g đ ộ n g ’ l à m t h ứ c t ỉ n h , d a y đ ứ t c h o n h â n

thoại trong đầu óc (hai nhân vật trong- một nhán vật). Cái

T h ô n g q u a n h â n v ậ t h ọ a s ỹ , N g u y ễ n M i n h C h á n đ ã t ạ o

d ự n g m ộ t n h â n v ậ t t ư t ư ở n g . T ư t ư ơ n g t r o i i £ q u á t r ì n h t ự n h a n

t h ứ c , t ự n h ậ n t h ứ c q u a s ự p h ả n c h i ế n c ủ a " t ấ m g ư ơ n g s o i " - b a y

t ấ m g ư ơ n g s ư t h ậ t . Q u a đ â y n l ì â n v ậ t t ự t ì m r a COI1 n g i í ò i t h ự c

c ủ a m ì n h . Đ ể c ó đ ư ợ c m ộ t v ă n b ả n . p h ứ c h ợ p I i h ư t h ê , t á c í ĩ i ả đ ã

vật ở thời hiện tại.

k h ứ

: h i ệ n t ạ i l à b ứ c t r a n h đ ã h o à n

t h à n h ,

t ấ t c ả đ a n g ỏ' t h ò i

sử dụng cách kể chuyện trải dài qua hiện tại quay tvỏ về với quá

bình; quá khứ là người họa sĩ từ chối vẽ, là sự tận tụy của anh

t r ị c ủ a n ó . V à r ồ i t ừ q u á k h ứ l ạ i t r ơ v ề t h ờ i đ a n g s ô n g v ớ i s ự t h ậ t

v ề b à m ẹ v à n h ữ n g t â m l ý , c ử c h ỉ h à n h - ầ ệ f t g - e « f l r - c á c n h í m v ạ t :

■ĐẢ MỌ*: THUtft 1'*M ' •'&¥* j r . ti

x:. •■?! -. Hi MỘI I vÍẼN Ị

/ í ĩ ì

K.

v

J

l

ị / 4 Í Ợ r \

lính dẫn đường; là bức chân dung "người lính giải phón&" và giá

t h ê g i ớ i b ê n

t r o n g đ ư ợ c d i ê n đ ạ t b ằ n g l ò i n ó i - s u y

b í i n g

n h ữ n g đ ô i t h o ạ i ( d ù t r o n g t ư ơ n g t ư ợ n g ) v ớ i n g ư ờ i t h ợ c ắ t t ó c

" X i n m ọ i n g ư ờ i h ã y t ạ m n g ừ n g m ộ t p h ú t c á i n h ị p s ô n g

b ậ n b ị u , c h e n l ấ n , đ ể t ự s u y n g h ĩ v ể c h í n h m ì n h " . L Ò I d ể n g h ị

n h ỏ n h ẹ ỏ c u ố i t r u y ệ n h ẳ n s ẽ l à m I i ặ n p ; l ò n g n h ữ n g aj. đ ã va

đ a n g s ô n g h ô m n a y .

II.

H À N H T R Ì N H Đ i T IM C Ả I T Ô I V Ả TH Ê' U I Ở 1 B Ê N

T R O N G C Ủ A C O N N G Ư Ờ I

Nêu nét chủ đạo của Bức tr a n h là hành trình tỏi đi tìm

n h ì n n h ậ n c o n n g ư ờ i đ ã c ó v à đ ể m ấ t , r ồ i l ạ i t ì m k i ế m cúi t ô i , b ả n

n g ã c ủ a m ì n h . N g a y c á i t ê n c ủ a t r u y ệ n CŨI1Í.Ị b a o h à ỉ 11. n h i ề u ý

n g h ĩ a : c ó t h ể s ắ m v a i l à m ộ t m à n k ị c h t r o n g đ ó c ò n h ữ n g ' V í u

tôi, thì S ắ m v a i lại là cá i tô i q u an sái, cái tỏi đứỉi£ n^oài đế

diên thê hiện sô" phận cá nhân và cả một nhóm cộn^' đổng' ! Có

c ó t h ể n h â n v ậ t T ô i - n g ư ờ i đ ã từng s ắ m m ộ t VLỉi t r ê n s â n k h ấ u

thể kiểu S ắ m v a i và nhân vật T - nhản vạt chính là mội; và củng

và cũng hơn một lẩn sắm vai người quan sát, tham gia vào quá

trình pliát triển, diễn tiến của truyện. Nhung có lỗ tiên đề của

truyện phù hợp với nhân vật T liơn cả. Tìm hiếu truyện ngắn

này [5; 185 đến 203], chúng tôi thấy sự phát triển của cốt truyện

giống như ba cảnh trong một màn kịch, cả n h một £ồm bôn trang

đầu là iđìủc dạo giới thiệu nhân vật, bối cảnh sông của một nhân

vật và đặc biệt là sự hiện diện của cái tôi đầy cá tính của nhân

vật T. Cảnh hai, dài hơn cả, bao gồm mười trang tiẻp theo, miêu

k h ông còn cá tính, b ả n ngã. c ả n h ba CÙI)£' vui tì ự kùt time cun

tả quá trình cái tôi bị đánh mất, tự đánh mất : tỏi hòa vào ta, tôi

tr u y ệ n có sự trơ về với cái tôi đích thực tìm lại cái tôi đã mất,

hay nói cách khác ta lại là ta đầy bản ngã.

Khác hẳn với giọng văn nghi Am khắc mang nặỉ.ự{ Mỗi dan

vặt, tự thú của truyện Bức tran h , truyện s ắ m Viii lại m a n g

tính hài hước nhẹ nhàng cái hài hước đầy bao dung chắc sẽ tạo

những mỉm cười liên tiếp cho ngươi đọc, s ắ m vai giống như mọt

màn kịch vui nhưng bên trong lại hết sức âm tlnlm chua xót tuy

có một kêt thúc có hậu (Happy ~ end).

Sự đôi lập giữa cái xa hoa giả dôi, lại có uy quyền (người

vợ trẻ đẹp) với cái chân thực, tài năng đồng thòi là sự đối lập

giữa cái giả và cái thật, và tất cả đều được thể hiện bằng một bút

pháp hài hước. Nét hài hước từ cách miêu tá cách sông của khu

tập thê (đám đông) cuộc sông tlieo thời khóa biểu chung; tất cả

đều "hóa trang", và như diễn tập để bước ra sân lđiấu ! Cuộc

sõng xã hội hay ỉà sân khấu ? Rất có thể đây ỉà "Tấn trò dời" mà

Nguyễn Minh Châu có dụng ý đê mỉa mai, hài hước. Từ cách

nhìn hài hước qua một đám đông, tác giả lại đi sáu vào tùng

nhân vật : một ông đầu hói không còn một sợi tóc nào vẫn chải

đầu tương tượng. [3; 269] hay cliính nhân vạt T cĩm£ toát lên

chất hài hước : c h ẳ n g có đ ô n g đất cũng' c h ẳ n g có sé t đánh,

nhân vật T đã hòa theo "thời khóa biếu" giống nhu' người của

khu tập thể, anh n h ả y dấm , tliâ n h ìn h cao, gầy k h ô héo,

bước l ê n , l ù i x u ô n g , s a n g p h ải, sa n g tr á i ... x éo lên ch ân

vỢ anh lóng ngóng, vụng về khi anh phải "sắm vai", trơ thành

con người khác. Hình hài nhân vật T từ khuôn mặt như bị chia

đôi, chu đên tính cách cũng bị-thay đổi trong một môi trường

19

thay đổi : gian phòng Iiliiều khoảng trông nay giong như mọt

ch ợ p h iê n với nhiều đồ đạc.

Ý nghĩa sâu xa của sự biến đui trong con người có lẽ là bai

học cảnh tỉnh, lời khuyên của nhà van vói cơn n»'Ưò'i liay ỉằ mình

không nên sắm vai, biêt bao bi kịch khi phải sắm vai, khi trở

thành con rối, thằng hề mua vui cho thiên hạ. Bi kịch của nhân

vật trong Bức tranh và sắ m vai cimff là bi kịch phổ biên cho

nhiêu người, nhất là nhà văn đánh mất mình, và tính trung

thực. Hãy là mình, chịu trách nhiệm vơi bản than minh trước đã,

bìêt bao người đã phải 'tự cảnh tĩnh";" sám hối" khi vô tình. hay

liữu ý tự đánh mất mình, bản ngã và cái tôi đẩy cá tính.

Hình ảnh "một cái lưng cúi khom, được khoác một eái vỏ

áo bông màu xanh công nhân... và cái lon sữa bò đựng tàn thuổc

lá mà tàn thuốc đã có ngọn" được tái hiện lẩn thứ hai ở phần ket

của truyện ngắn có thế coi là tín hiệu báo hiệu sự trở vổ vói cái

tôi đích thực. Tác giả viết "trong những cái đanh mat, có thể

đánh mất v à n g bạc, châu báu, nhưng không được đánh mấl'.

mình". Phải chăng đó là lòi cảnli tính cho con người ciang; sông'

hôm nay. Đánh mất mình dù ý thức dược, hoặc không tư ý í',hức

được cũng sẽ tạo nên một cuộc sông; giả, giá từ hình thức bôn

ngoài đến nội tâm bên trong : một h à m r ă n g giả; m á i tóc de 11

giả; m ộ t trò c l i ơ i h ờ n d ôi giả với những lời âu y ê m g'iii... tất

cả tạo ra một con người hoàn toàn khác, sôiiịí và hành động như

một cái máy. "Như một cái máy" được tác giả day đôi) hai lần ở

gần cuối cảnh hai và như thế anh T không còn là phân thán "một

bên đầy suy nghĩ và lơ đễnh của 11^'iíời n^liệ sỹ sáng' tạo, một

phía bên kia lại liêt sức vui vẻ, tre tnmíí, 11ỈUÍ một 11 Í_J. I rò ì <ían”

20

còn hóa trang dở dang chưa xong" nữa mà anh dã trỏ thành một

con người hoàn toàn khác, một con người không còn chịn sụ chi

phôi, điểu khiển của chính minh, anh ta chỉ còn chức Iiăng sắm

vai, sắm một vai trong trò diễn đang diễn ra mà thôi !

Con người đích thực của anh dã trỏ về, và. như thế tôi đã

được n h ữ n g gì chân t h ậ t và bản n ă n g vôn có. "anh đá trỏ lại cái

tìm được cái tôi vừa đánh mất. Tìm lại được mình cũng là tìm lại

phong thái giản dị, thoải mái, tự nhiên mọi ngày". Giông như

một người diễn viên vừa bước I'a kliỏi sân khấu, anh trơ vể với

đời thường, đòi thường trong cử chỉ, giọng nói, ngôn ngữ và ngay

cả tiêng cười. Trong cuộc đời mình phải là mình, phải là chính

mình, dù rằng đôi lúc chua xót phải sắ m vai, củng phải tùm ìại

mình, tìm lại con ngươi trung thực và chân thành.

Dằng sau câu chuyện S a m vai vỏi hành trình đi tim con

người thật bên trong con người, chúng tôi thây một điếm cầiì lưu

ý khác, đó là lớp nghĩa ngầm ẩn thứ hai, tác giả hình như muôn

gửi tới bạn đọc qua việc đê cho nhân vật phát ngôn vể văn học

nghệ thuật, cụ thể là kịch và truyện ngắn. Ba nhân vặt tham dự

vào cốt truyện, thì cả ba đêu là những ngliệ sỹ : một nhà văn -

nhân vật T; một diễn viên đoàn kịch - nhân vật Tôi - người kể

chuyện; và vợ của anil T, một đạo diễn mứa vừa từ nước ngoài

trở về. Ba nhân vật phụ trợ cho nhau, tác động lẫn nhau. Nhà

văn giúp cliễn viên kịch viêt truyện ngắn, đạo diễn múa dạy nhà

văn học "nhảy", đạo diên trò chới và chị còn định chừ chung' dạy

v iế t v ă n ! Bao trùm lên hết thảy là chuyện nhà văn đó đã sắm

một vai trong màn kịch cuộc đời dù chỉ một lẩu, một thoáng

chốc. Lại nữa, nêu chúng' ta lưu ý bên cạnh một Nguyễn Minh

21

Châu nhà văn ông còn viêt khá nhiều bài tiểu luận, ])liê bình

văn học, nhất là vào những năm của thập kỷ 80 thì có lẽ sắm

v a i còn hàm chứa một lớp nghĩa sâu xa mà tê nhị hơn bcỉi vào

thòi điểm đó chỉ có thể biểu hiện quan điểm, cách nhìn nhậu

đánh giá của mình về văn học nói riêng bằng chính tác phấm,

qua nhân vật được tác giả hư cấu và để nhân vạt phát ngôn cho

tư tưởng ý nghĩ của minh. Theo chúng tôi, rat có thể khi nhận

vật phải "sắm vai" người giả cũng chính là nhà văn đã phai lừa

dối mình, đánh mất tính trưng thực trong’ mình, viết theo ý

muôn, yêu cầu của người khác, nghĩ khác mà viết lại càng khác

hơn. Phải chăng, tác giả muôn nhắc đên một thời văn nghệ minh

họa, văn nghệ tuyên truyền và một thời sô" đông các nghệ sỹ đã

phải dằn lòng, hoặc phải chiều lòng để trung thực đâu còn chỗ

đứng trong con người nhà văn, trang sácli của nhà văn. So sánh

với một sô" bài tiểu luận phê bình ta thấy có sự trìiiig hợp vể ý

nghĩa với trường hợp của nhân vật T trong' truyện sắ m vai.

Trong H ãy đ ọc lờỉ aí điếu ch o m ộ t g ia i đ oạ n ván n g h ệ

m in h họa, Nguyễn Minh Châu viết : "Con đường của một cây

but trẻ hăm Ỉ1Ở phấn đấu hết mình để trở thành nhà ván oímg' ỉà

con đường phải tự giấu đi cái phần nhà văn trong CŨ11 Iigứời

mình, con đường tự mài mòn đi mọi cá tính và tính trung thực

trong ngòi bút" [6; 113]. Cũng với suy nghĩ ấy trong tiểu luận

T ín h tru n g’ th ự c n g h ệ sĩ, có đoạn "Để cần yên ổn, người sáng

tác cầm ngọn bút chỉ "plie phay” giả đối một chút trong một thòi

điếm, đên một lúc cầm lại những trang sách tiiấy nó cứ bạc

phêch trước sự thật đầy tàn nhẫn, như mặt, vai nịnh trên sân

khấu tu Ổng" [6; 119]. Từ những bài phê bình, biểu luận qui chiên,

vào những sáng tác của Nguyễn Minh Châu, cluing liạn như Bức

tranh và s ắ m vai, thấy không những tác giả đã đóii”’ góp vào sự

dổi mới Irong van lioc : Mó úi nhiồu con iu-11'ời Iroiìi’ con nguừi, nhiêu

lính cách ĩrong mỏ! tính cách , con người ch dạng có c;l ý ỈÍ1ÚV v;'i siou

h ổ i c h u ô n g b á o d ổ n g , c á n h l ỉ n h c h o

ai LỈĩi v à diiiij.’, iVI' l i á n ỉ i ỉ n a l

ý Ihức, Iránh dược sơ ỉirạc Iruyổn lliốnỵ mà cùn ,'ilnr 11101 iiị’U'oi ! 1 m!Ị,

vổ vớ i c h í n h m ì n h , l ì m lại m i n h I h o ál k h ó i vòm;; c ư ơ n g to;i c u a " M i n h

inìnlì. Tác giá còn là 111Ộ1 Imng những ngiro'i di dan cna sir ii\'i vỏ. ím'

III. THÍ; (ĨĨỚI BKN T t t O N G CỦA NĨĨỮNÍỈ c u ộ c DỜI,

NHỮNG CON NGƯỜI VỚĨ NHŨN (ỉ B l í ỉ u H I Ệ N ĩ'lĩ<)Níỉ n - ỉ ú

c ủ A N ộ I TÂ M NH Ả N VẬT

N h ữ n g n ă m drill c ủ a lliập kỷ HO, c ò n c ỏ mỏ i I r u y c n kỈKÌc CUÍI

lioạ niỌi i:hi6u" Irong văn học và lìm dổn những lò.ill c:i<) moi,

b à t r ê n c h u y ế n t à u í ố c h à n h . N h ữ n g c u ộ c hôi íliao, iihữiiy hùi hát ' ứíì

N^uyõn Minh Chím lạo (.lược sự cliíi ý cúa ctôc giá, dó [à Người (tìiiì

đăng dàn và e;i nhĩriìg lòi xì xào Iruyổn miênt>, láì c;í đủ J1 ói íén đã có

mói Nguyỗn Minli Cỉìáu làm khuấy đông cho lình hình sá nụ lfic v;in

í h ố p h ủ n h ậ n c ủ a ô n g là ngirời liôn p h o n g Ironu, v ă n h o c lliòi kỳ (loi

hoc lúc ấy và những sáng lác Ihời kỳ nay cltửng minh cho vai Ị rò kliÒL’,

mới. Đã quá quen với những niíĩu người, hình IƯC/IIL' văn hoe qiu.il

(ỉàn hà í rên ein iyê n là u lỏ c lììm h , khỏnỵ íl nuưừi Irong giói snii'i, h r

llmỏc nCn kiìi đánh giá, 1 ĩoTp cạn những Iriiyộii ngắn như kiêu N^uơi

v à " d ò i " n h à VÍU1 q u a y (rổ' v ổ vó'i d ồ tài c ũ d ố i l ư ợ n g m i ố u l;i cfi !

ị 13;

1 7 3 CỈỐ11

] 9 8 ]

và phô bình văn học (!ã bày lỏ Ihái độ "ghc .lạnh", klìỏng chap nhạn no

ở truyện này, tác giả như càng đi sâu khám phá bản chat

con ngưòi, con người đi tìm con người, tìm dể hiểu rõ nhau hờn

trong những hoàn cảnh sông bình thường cũng có mà cam go ác

liệt vào những thời khắc gay cấn nhất trong chiên tranh chông

Mỹ cũng có. Qua đây con người càng- bộc lộ bản chất của họ. Nhà

văn đã đặt mình, đặt nhân vật của mình vào những trạng thai

khác nhau : hổi tưởng nhớ về dĩ vãng, phản tỉnh, tự phán xét

phơi bày để rồi nhận ra tất cả những chân giá trị của cuộc sống

con người, nghĩa lý cuộc đời mỗi người, đê hiểu người hơn, yêu

người hơn.

Trên chuyến tàu cuộc đời của Quỷ, dù chỉ một quãng thòi

gian "mười hai năm", biết bao sự lciện, COI1 ngưùi đi qua cuộc đời

của chị mà lắng sâu nhất, ghi dâu ân nhất là năm mồi tình (lù

CỈ10 có những mỗi tình chỉ đơn phương hay thoáng qua trong cuộc

đời chị. Năm môi tình như năm sán ga giúp chị tìm ra cái tuyệt

đôi trong con người : " Chị đang đáp con tàu mộng đu kmg' thang

đi tìm kiếm cái chân trời của những giá trị tuyệt đôi lioàn mỹ,

những con ngiròi tuyệt đôi hoàn mỹ, cái điều chẳng bao giờ có ..."

và thực tế, trong tất cả những người chị đặt niềm tin và yêu

thương, họ chỉ có thể bổ sung CỈ1 0 nhau những gì thiếu mà thôi.

Trung đoàn trưởng trung' đoàn K, một người văn võ song toàn,

ấy v ậ y với chị cái "bàn tay mổ hôi dấp đính" của anh đá đốn ngã

làm nên nhiều chiến tích và sẽ còn thực hiện được n h iề u khát

ý nghĩ về một thần tương trong chị do dù chính bàn tay ây dã

vọng : một ch iếc cày máy trên cánh đổng làng cho bớt đi cliai sạn

nơi'bàn tay mẹ, ước mơ nhỏ bé ấy đá vinh viỏn không bao «iờ

thiíc hiên đươc.

Khát vọng' đi tìm cái tuyệt đối của Quỳ, cũng như sự th/it

như nó vốn có trước chị về Trung đoàn trưởng H òa nh u’ m ột lời

nhắn nhủ : trong cuộc đời này, trong thế giới con người đang, đã

và s ẽ s ô n g không' bao giờ có C011 người toàn mỹ, cỏ n h ữ n g thắn

tượng v ẹ n toàn , t ấ t cả chỉ là ảo ảnh, là cái đích, m ụ c tiên mà con

người sẽ phải kiếm tìm cho mìnli. Thẩn tượng hay tliíinh Lihán

nêu có đó chỉ là do cliủ quan của từng người. Chỉ một chi tie í; nhỏ

khi tác giả miêu tả về người trung đoàn trường' có "hai bàn tay

lức nào cũng dấp dính" được lặp lại nliiểu lẩn củng ỉam cho ý

nghĩa của hành trình đi tìm con người trong con ngưòi của người,

đàn bà kỳ lạ tăng thêm ý nghĩa. Phát hiện ra hai bản tay clap

d í n h m ồ h ô i , c ù n g với sự cả m n h ậ n vê n ụ c ư ờ i M ấ n từ pho

tượng nơi ngôi chùa cổ cíia nhân vật Quỳ, Nguyền Minh .Cháu

muốn, nói nhiều điều nhưng lớn nhất có ỉẽ con người trước hết

vẫn là con người với đầy đủ buổn vui lẫn 1ỘI1, tôt xấu đan xen,

thờ, tôn vinh như những thần tượng, như Iiliững thánh nhan thì

những đức tốt củng như tật xấu và như thê trước khi được phụng

họ đã là con người với đầy đủ bản chất và đức tính của 11Ó. Không

phải ngẫu nhiên mà tác giả dùng đên ba lần cụm từ "nụ cười bí

ẩn", năm lần cụm từ "đôi bàn tay dấp dinh mồ hôi" cho riêng

n h â n v ậ t này.

B ặ t n h â n v ậ t của m ìn h vào trong n h ữ n g tiu.il huôiig' khác

nhau Nguyễn Minh Châu như muôn khám phá tíìt củ những

t ầ n g s â u của t â m lý con người, n h ữ n g cu n g bậc tìn h cám , ý 11 giũ

trong con người. Nếu tình yêu với Hòa, Quỳ bộc lộ tat c;i thì vơi

H ậ u , h o à n to à n ngưòi lại, m ột con người "không' cỏ cá tiii.il nỏiiịí,

k h ô n g có n h u cẩu v à sô th íc h riêng" đã đ t m đến CỈ1U Quỷ niôỉ;

"thứ" tình cảm khác : yêu thương tron^ sự muộn màn<;, yc;u

thương như một lòng nhân ái, hôi hận, và sư che chơ, bao dung-

cua Hậu như đã đánh thức tronịí nhan vạt Quỳ một tmh cá 111

khác, giúp Quỳ nghĩ kliác và hành động khác trước:. Dán có pliái

còn t i ề m ấ n t r o n g t â m lý c ủ a n h a n v ậ t Q u ỳ . N h ư l;liế COỈ1 n ^ ư ờ i

đ â u CỈ1Ỉ l à " s ự t ồ n g h ò a c ủ a c á c m ô i q u a n h ệ x ã hội" m à COI1 n g ư ờ i

là sự sám hôi muộn mằn mà ở đây, tác gia đã khơi đậy những gì

trước hêt, tự nó vả chính 11Ó đã là môi quan hệ cua các tá 111

trạng khác nhau, bản năng khác nhau. Con người ngoài phán l',ự

ý thức còn là con ngưòi của tiềm thức, vô thức, tâm thức ... mà

để cao COI1 người xã hội.

nhiều ldii hoặc vô tình hay hữu ý đã lãng quên nó, bỏ rơi 11Ó, chỉ

Cũng từ truyện n gư ờ i dàn bà tr ê n c h u y ế n là u tôe

h à n h , do cách tìm tòi, khai thác nhân vật của tác Kia cỏ iihiéu

điếm mới, tiêp cận mới dẫn đên thời kỳ sau đó không ít nhà van

nhà phê bình lên tiêngklìông đồng tình những "cái mới" l,ron£

cách viêl; của Nguyên Minh Châu. Người ta CỈ10 ranfi tác giả

chưa làm chủ được ngòi bút của mình [13fl74|, "Luận (tỏ l;ronK

chuyện của anh hãy còn bị dàn trải. Anh ham nói nhiều điều II)à

chưa tạp trung vào điều chủ yếu [13;182|; Lại nữa, có nhà ván

còn nói" cái cảm giác lạ lẫm, miễn cưỡng' khi gặp một số’ nhan

vật truyện ngắn của anh Chân gần đây cìm& là cảm giác có tiiảt

ở trong' tôi ... Nếu gọi truyện luận đề là truyện có 111ỘỈ, cốt lỏi ỉ,ư

tưởng, có một để để luận bàn với bạn đọc bàng sự thuyêt phục

của liìuh tượng thì truyện nào lại chẳng nên là truyện luận đổ.

Chỉ sọ' rằng nếu như truyện của ta lại có 1,1'ƯÓ'C ruột để. đề a.y

ctiíỢc áp đặt lên người đọc không bằng nliữu^ 11 hân vật, ỉ,ình l.iòt.

chân tliật và lô gícli cần th iế t thì t r á n h Hao khỏi khiỏn C Ư Ỏ Ì 1 K ,

thậm chí là chủ nghĩa khái niệm". [13, 198]

Thực tê, chúng tôi không phủ nhận việc các nhà ván đáu lì

giá truyện của Nguyễn Minh Châu mang tính chất; liiẠn đề, hơn

thê chúng tôi cho rằng không chỉ có tính luận dề mà ỏ' truyộu cún

Nguyên Minh Châu, tính triêt lý còn thê hiện khá rõ, nhưng theo

chúng tôi các nhân vật dù là "clị biệt" khác người của tác giả

không hê có tính khiên cưỡng hoặc giả tạo, ngược lại X1Ó giíip cho

người đọc khám phá ra những lớp nghĩa mới. Chẩng' hạn, những

niổi tìnli đơn phương của các chàng trai Khôi, Hà, Lâm, Hùng,

Nhã, Văn... đôi vởi Quỳ và chỉ sau cái chết của họ, Quỳ mới nhận

ra, tác giả để CỈ1 0 nhân vật của mình nghĩ "Tôi chợt nghĩ đôn

quốc..." V â n g , có lẽ p h ỏ n g í c h gì với n h ữ n g c h ữ đó 110U k h ô n g

những' chữ vô cùng trừu tượng và thiêng' liêng như Đất nước, Tổ

nghĩ đến từng sô" pliận, từng sinh linh kia dầu xanh tuổi trẻ đà

bỏ mình nơi một cánh rừng, tất cả đều tạo nên đất nước và Tô

quốc. Đau đớn và xót xa từ những dòng chữ và càng- tháy sự khốc

liệt của chiên tranh, chiên tranh đã cướp di tất ca những’ £Ì

tinh túy và đẹp đẽ của Quỳ. Không nói nhiều, bàn nhiểư về

chiến tranh, nhưng qua Ng'u’ời đ à n b à tr ê n c h u y ế n tàu tôo

h à n h , người đọc vẫn có thể cảm nhận được những đau thương

mất mát mà cuộc chiến đã gây ra. Lại nhớ, cũng chính nhân

vật Quỳ đã từng tâm niệm" ...Nhữngkhi ngồi một mình và suy

nghĩ thật bình tĩnh, tôi mới thấy rằng trong những ngày tháng

ấy đã tập hợp lại trong các cánh rừng Trường Sơn những COI1

ngưòi thật là đáng- quý. Tất cả tinh hoa của nam giới đã dồn về

đấy". Xót xa thay những' tinh hoa Quỳ từng nghĩ như Trung

đoàn trương trung đoàn K, như Hậu, như vô sô" các chàiiíí trai

cuối cùng đã không trở về, chiến tranh là thế và đau thương, xót

xa cũng là thế.

"Cái đẹp đã cứu vãn thê giới", có ai đó đã nói như thê, còn

trong truyện của Nguyễn Minh Châu, điều đó quả đúng, tình yêu

cua Quỳ đã giúp Ph, một người đàn ông tương chừng không bao

giờ còn có cơ hội để trỏ về với cuộc sông bình thường, tìm lại được

mình, tìm lại bản thân mà anh đã tự đánh mất. Lòng nhân ái,

tình yêu và sự bao dung của Quỳ đã làm sông dộng trong Pii

c u ộ c đ ấ u " g i ữ a c á i t h i ệ n v à c á i ác, lý t r í v à d ụ c v ọ n g ’, c á i riê n g ' v à

phần"ngưòi" trong con người anh ta. Quỳ là tác nhân thúc đấy"

cái chung trong Ph. Chính Nguyễn Minh Châu đă có lần phát

biểu : "Văn học nghệ thuật sở dĩ có sức mạnh của nó vì nó có

khả năng diễn tả sự vật ỏ tronẹ các dạng quá trình sinh thành.

t h a m g i a v à o n h ữ n g v ụ v i ệ c ấ y vớ i t ấ t c ả c h i ề u s â n c ủ a t i ê n

Một vụ việc chỉ là một vụ việc. Nil ưng nêu ta 1T1Ô tả con người

trìnli diễn biến tâm lý và tính cách tliật là chân thực và khách

quan thì khiến người đọc không thế thò ơ được. Môi truyện

ngắn tôi nêu ra một trường hợp cụ thể và xen vào mạch kể

chuyện, tôi bàn bạc về quan niệm sông hoặc báo động một điều

gì" [13,178]. Từ đây, có thể có những diễn biến tâm trạng, tính

cách khác nhau đến thê.

Chọn ngôi thứ nhất và ngôi tlúí ba làm dối tượng thê hiện trong N g ư ờ i đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn

Minh Châu đã tạo ra sự gẩn gũi, thân tình với bạn đọc. Khi các

nhân vật trao đổi trò chuyện lời văn gần với ngôn ngữ đời

thường đan xen với những nhận định về triết lý cuộc sông giúp

cho người đọc cảm thông lđiông cảm t h â y nhím vật tronj-i

truyện cương cứng, cao đạo.

Hình thức tự thoại của Quỳ như một kiểu i;ự Imyộii, vừa

tạo được sự gần gũi, vừa mô tả được quá ỉrinb phát triển vá

những1 gì đã và đang xảy ra trong tâm lý vỏ cùn" phức tạp cua

nhân vật, giúp nhận ra những nét khác nhau diễn ra trong tâm

txạng của nhân vật Quỳ. Khi vui cũn <4 như lúc bnổn, khi hổ hỏi

lủc lại câm lặng trong tình yêu, khi dằn vặt, đẩy hối hận vì sai

lầm, tất cả nói lên sự phong phú trong; con người Quỳ và tư đây

tạo ra sự đa thanh, đa âm cho bản thân cốt truyện. Đóng góp và

sự thành công của Nguyễn Minh Châu nằm ở chỗ đó.

Những sáng tác ở giai đoạn đầu những năm 80, hình n h ư

đã tạo một gương mặt Nguyễn Minh Châu khác, ít nhiều gáy

được sự chú ý củacẺỔc giả và từ những thể nghiệm ban dầu đó cla

h ư ớ n g đi đó, N h ữ n g t r a n g v ă n v i ế t t v ê n g i ư ờ n g b ệ n h , g i ữ a cơn

tiêp sức cho ngòi bứt của ông tiếp tục đào sáu khai í;hác vào

đau, lạ thay chính là những trang văn hay nhát, sảu xa Jihi.il

trong cuộc đòi cầm bút của ông. Người xưa nói : "Điểu chi tương

tử kỳ minh dã ai, Nhân chi tương tử kỳ minh dã thiện". Tạm

dịch : Con chim sắp chết tiếng kêu thảm thiết. Con người sắp

chết n ó i n h ữ n g đ i ề u l à n h . Có lẽ l à v ậ y , bởi ở b a t r u y ệ n n g ắ n C11ÔÌ

cùng của Nguyễn Minh Châu đã thế hiện tài hoa của một nha

văn biết vượt lên chình mình, biết loại bỏ của một thói quen láu

nay rằnẹ buộc để thoải mái "tung hoành" troi'ig cách viêt, cách

tiếp cận để tài và để lại cho đời, cho mai sau những trang van

đầy ý nghĩa và tlmyết phục.

2 !)

Với Phiên chơ Giát và cỏ lau đã có nỉiiổii cầy bút

nghiên r.ứn phê bình văn học khám phá và Lĩêp cận. được những' giá trị của nó, riêng với Mùa trái cóc miền Nam, chứng- tôi đặt vào chương này không ngoài mục đích là tìm ra những' nét riêng

của tác giả trong quá trìnli th ể hiện h à n h tr ìn h bên tronf»' hay

khám phá nội tâm của nliân vật. Cũng ỏ đây, Nguyễíi Minh

Châu còn bày tỏ một thái độ, quan niệm về chiến tranlì vả con

người, cách nhìn về chiên tranh, về vail học nói chung và văn học

viêt vể đề tài chiên tranh nói riêng. Nhân vật tôi người dán chuyện trong tác phẩm nghĩ "Tôi biết cả trong và sau trận đánh

chuyện giả dôi đến mức đau lòng. Cái sự thật nghiệt njj'ã sẽ lắng

đọng lại mãi mãi trong trí nhớ những thằng línli đang ngồi với tôi đây nhưng nay mai mỗi đứa đi một, ngả, còn lịcli sử vict thành ván bao giờ cũng tran g trong và sạch sẽ". [4j7ichúng

tôi nhấn mạnh)

Tiếp cận và đánh giá những giá trị của một tác pham văn

học không thể gọi là đầy đủ nêu không nói đên hoặc vô tình bỏ

qua cái tên của tác phẩm đó. Trong lịcli sử văn học thê giới cũng

như văn học Việt Nam, những tác phẩm ỉ ớn đểu là những tác

phẩm mà bản thân cái tên cíia nó đã gợi 111Ở, bao hàm nhiều ý nghĩa. Chẳng hạn văn học Pháp vói Tấn trò đời, Miếng' đa lừa,

của Ban dắc, Đỏ và đen của Xtăng đan. Văn học, Ngn - Xô Viet;

lịch sử CUỐI cùng ấy đa chứa đựng biết bao chuyện thật và

đềm của Sôlôkhốp rồi văn học Mỹ với Ong íí,ià và biên cả cua

Ilêminhiiề, Tiếng gọi nơi hoang' thì của Jae Lơn (lơn ... ở Vi Ạt

nam, chỉ từ tên tác pliẩm Sô đỏ, dã có huỏn^, lý }.j,ia.i thú vị, Um

với C liiến tr a n h và h ò a b ìn h Lép Tôìixtôi; S ôn g’ Đ ô n g em

Ị10, 292], Đơn giản chỉ là một cái tên cho tác phẩm nhưng cũng

chính từ sự đơn giản đó đã gây ra những roc lôi, phiền toái CỈ10 nhà văn và cũng có khi tạo được ân tượng cho dộc giả, chang phái sao khi Chí phèo của Nam Cao là cái tên thứ hai sau Đôi lứa xứng đỏi, khi Nỗi buồn chiên tran h và Thân phân lỉnh yêu của Bảo Ninh tuy hai mà một. Chính Nguyễn Minh Chau

đã đánh giá rất cao vai trò của tên tác phẩm, ở truyện s ắ m vai

tác giả viêt " Ngay trước khi viết đã phải đặt cho nó một cái tên.

Truyện ngắn khác truyện dài ở cái chỗ đó. Truyện ngắn chỉ nói

một ý, một vấn đề, Đặt tên trước tức là cắm CỈ10 nó một khu đát nhất đinh, không được đi lang thang ra ngoài".ỊXi2813 •

Đôi với Mùa trá i cóc ở Miền Nam, những tương đau đê

chẳng ăn nhập gì với cốt truyện bởi cả truyện gồm 54 trang, duy

chỉ có hai lần cụm từ "vườn cây trái cóc" xuất hiện. Theo chilli g tôi nếu nhan đề Mùa trá i cóc ở Miền Nam mang theo một ý

nghĩa chỉ không - thời gian xảy ra câu truyện : miến Nam -

không gian; mùa trái cóc - vào đầu hè - thòi gian, thì hai lần xuất

hiện sau của biến thái cụm từ này lại mang một sắc thái biếu

cảm khác. "Vườn trồng cây trái cóc" hay "...trên chỏm vườn cáy

trái cóc" là hai cụm từ với chức năng trạng ngữ chỉ địa (liếm bô

nghĩa cho mệnh đề trước nó là "tiếng- quạ kêu đên điêc tai"

và"những cánh quạ bay nháo nhác". Trong tâm thức của ngitòi

Việt, tiếng quạ kêu báo hiệu điếm dữ và cũng xung quanh cụm

từ đó, hình như tác giả cô ý nhắc đôn "trưa 30 tháng 4" rồi " bu ôi

sáng lịch sử 30 tháng tư ấy", "Liệt sỹ 00 tháng 4 Híìm 1975”.

Phải chăng tác giả muôn nói tới đằng sau của niềm vui chiên

thắng là nỗi buôn, đằng sau cò' hoa là máu và míớc mắt, đằn^

ra ý nghĩa của hai từ này một cách khoa bọc, đầy tỉmyêt phục

31

sau nụ cười là nỗi đau thiĩơng mất mat... Và có phải Mùa trái

có c ở m iề n Nam là phiên bản của T iế n g q u ạ k êu trên vườn

trái cỏc hay Quạ bay trên vườn trái cóc. Nếu vậy, Nguyễn

Minh Châu đă nói được nhiều, gửi gắm được nhiều điều qua ván

bản đặc sắc này.

Có những hành trình đan xen, có nhiều lớp nghía lồng xếp

xoay q u an h câu chuyện người đàn bà - m ột bà SƯ già (ti tìm COI1

sail ngày giải phóng. Ngay bản thân nhân vật đó đã có trong

mình hai "cuộc hành trình", một h à n h tr in h c u ộ c đờí th ư c và

sau nữa là hành tr ìn h tâm lỉnh. Hai hành trình trong một con

người tuy song song với nhan, nhưng Ịại đem đến những lớp

nghĩa khác nhau, bổ sung cho nhau. Từ một cô con g á i n h à

n g h è o quê Hà Nội lớn lên lấy chổng đẻ COI1 rổi phải d e m ch o di

v ào n ă m đ ó i c h ế t h ạ i tr iệ u n gư ờ i clă c h é p v ào sách , đời bà

gắn liền với những biến cô" lớn trong lịch sử đất nước và cuộc đòi

bà cũng từng trải, lam lũ như bao người phụ nữ Việt Nam khác :

đói khổ, nhục nhã cũng lắm mà hạnh phúc và cay dắng cũnịị

nhiều. Đời con gái hai lẩn đò, tần tảo lam lũ làm ăn, thươug

chồng thương con hết mức, đã chứng kiên những mốc lớn trong

lịcli sử : 1945, 1955 và cuối cùng là ngày 30 tháng 4 năm 1975 dể

rồi cuối cuộc đời mới nhận ra rằng thân phận của mình và ý

nghĩa cuộc sông của mình : "... cái thế giới này là do cả một đám

những ngiíời đàn bà mắn đẻ như tôi sinh ra và chúng tôi không

có cách gì có thể sinh ra những đứa con đồng loạt giông nhau, vả

lại cả sô" phận cuộc đời của chúng tôi nữa, sô" phận cuộc đời của

những bà mẹ cũng chả ai giông ai. Đấy là tội lỗi muôn đời rnà

những người đàn bà đã gây ra, và phải tra giá trên cái mạt dái,

đấy những hằn thù này" [4; 98].

Bên cạnh hành trình cuộc đòi là hành trình của tám linh,

đi kiêm tìm đức tin trong cuộc đời đầy bi kịch :

Đạo thiên chúa - Đạo Pliật và trong cách ngliĩ của chính

bà Việt Cộng cũng là một thứ tôn giáo, "lên năm tuôi tôi đã biêt

chắp tay n g ư ờ i m ắ t n h ìn lên Đ ức C húa trời mà ngắm

nguyện, bây giờ về già thì ngày đêm tụng kinh gỏ mõ triíớc bùn

thờ Đ ứ c P h ậ t TỔ... Còn mấy ngày hôm nay, tô i ngư ớc n h ìn

lê n các ông"(chúng tôi nhấn mạnh), Đi tìm Đức till cho mình, đi

tìm nơi có thể gửi gắm niềm tin cho suốt cuộc đời, bà đã đốì mật

với sự thật vô cùng nghiệt ngã và thất vọng :"Chẳng có đức zê xu

hay đức Thích ca vào cứu vớt được con người khôn lcliổ, khỏi

nhục ở đời, cũng chẳng thể làm CỈIO con người ta khỏi mắc vào

vòng tội lôi". Với bà chỉ còn nơi duy nhất và cũng là cuối cùng bà

có thể đặt niềm tin "Chỉ có thứ tôn giáo của các ông là có thể cứu

vớt được cuộc đời này". Niềm tin và ước vọng' là thế nhưng sự

thật sẽ vẫn là sự thật, một sự thật trần trụi vê sau đã đẩy bà vào

một bi kịch khác, đau đớn và xót xa hơn trước. Thành cong’ của

Nguyễn Minh Châu trong khi khai thác, tạo dựng nhân vật biếu

hiện ở chỗ : miêu tả sự biến đổi tâm lý, trạng thái tình cảm, cách

suy nghĩ của người nữ tu si phù hợp với sự thay đổi hìnV dạng,

"lột xác" bên ngoài của chính nhân vật đó. Có thể ldiẳng' định,

tác giả đã tạo ra một mẫu hình nhân vật mới trong văn học việt

Nam thời kỳ hiện đại : nhân vật biến dạng, mà mẫu hình nhân

vật theo kiểu đó tiếp tục được tác giả tái tạo, đào sâu khai thác

trong truyện ngắn Phiên c h ợ Giát qua nhân vật lão Killing

(chúng tôi sẽ có dịp nói thêm ở chương sau). Nên ơ biên đổi bôn

trong, biến đổi tâm lý (chúng tôi tạm gọi là biến đôi thứ nhatj

của cuộc đời gần sáu mười tuổi của bà sự già đi từ một COM chiên

n g o a n đ ạo T h iê n c h ú a đên một phật tử n ư ơ n g cửa n h ả P h ậ t

rồi định hoàn tục quay về vối cuộc sông người dân thường gửi đức

tin vào một thứ tôn giáo, đạo Việt Cộng (theo ý nghĩ của bàj vào

cuối cùng phải trỏ thành một kẻ hành khất, một con người khôn

khó giữa cõi đời ngửa tay xin tình thương của thiên hạ thì ở biến

đổi thứ hai - biến đổi bên ngoài cũng có những chấm phá, mô tả

phù hợp với : tấm áo (lài nâu may bằng vái tliô bail đầu khi

lúc đi tìm đứa con - nơi trú ngụ cuối cùng của đức tin trong bà

nhân vật xuất hiện đến bộ q uần áo dân thường', l)ộ tó c giả

nơi mà bà hy vọng để cuối cùng trở thành m u h à n h k h ấ t

k h o á c c liiế c t ú i v ả i n â u c h ố n g gậy đi tìm tình thương.. Tất

cả những lần b iế n dạng’ đó đều đem đến cho người đọc những

sắc thái nghĩa mới. Theo hành trình cuộc đời, hay nói cách khác

khi dõi theo những "bước chân" của sự bà Thiện Linh, người đọc

dần dần tiếp cận với sự thật : sự thật vể cuộc sông, sự. thật về

con người và tất cả những gì lâu nay cliúng ta mới chỉ có thói

quen nhìn một mặt, một chiều hay một "nửa sự thật”.

Nguyễn Minh Chân đã để nhân vật của mình đến với đáy

cùng của sự thật, dù rằng sự thật đó đau lòng và nghiệt ngã vô

cùng. Sư bà Thiện Linh đã giáp mặt vói phần ác qủy t r o n g COM

người và đáng sợ hơn cái ác, phần qủy trong con người lại hiệu

cliện ở chính Toàn - đứa con lâu nay bà tìm kiếm, người thủ

trưởng của tiểu đoàn 7. "Nhân chi sơ, tính bán thiện", hình như

câu chữ của những trang đầu cuốn Tam Tự Kinh ldiông' còn

đúng nữa, ít ra là với những nhân vật như Toàn, như Đĩnh; Thái

và cậu cần vụ của Toàn. Cái ác từ phần quỷ trong C011 ngươi đã

đẩy người mẹ vào bước đường cùng, làm cho bà muôn hòan tục

cũng chẳng bao giờ được nữa, và cái ác đã dẫn đến cáỉ chết của

Phác, người đổng đội, đă vào sinh ra tử vói Toàn. Chứng ldên

trước sự hoành hành của cái ác, của phân quỷ trong' con người,

chính nhân vật tôi- nhà báo cũng phải thốt lên "hãy sông với

quỷ, liãy ngổi cùng mâm với quỷ, hãy chạm chén với qủy già đòi,

quỷ mới tập sự" lặp lại nhiều lần như thế hẳn tác giả như cảnh

báo với chung ta về một hạng quỷ đội lốt người đang sông trong

cộng đồng, cùng đối mặt với con ngươi hôm qua và hôm nay.

Cuộc sông vốin phong phú và đa dạng' và dĩ nhiên cũng-

như một tò giấy, nó có mặt phải và mặt trái của nó. Không' né

tránh sự thật, Nguyễn Minh Châu trong Mìui tr á i cóc ở m iên

N a m như muôn nhìn cuộc sông trong sự đa clạng, bề bộn của

nó, để từ đó nhận diện ra con người đích thực: con người của lý

trí và bản năng, của cao cả và thấp hèn, con người vói cái bi và

cái hài, con người trong sự chi phối của chính bản thân củng như

với th ế giối xung quanh. Hình như tác giả trong truyện ngan

này miln'n tìm ra một lịch sử khác hay một phẩn lịch Su chửa

đằng sau cái "lịch sử viết thành văn bao giờ cũng trang trọng

và sạch sẽ"! [4; 76]. Đối nghịch vói thành tích chiên đấu ngày

30 tháng 4 là" thằng băng tay, thằng buộc trán, có thằng chân

đang bó bột cũng chông nạng nhảy lò cò trêu nên gạch hoa,

nhưng đa sô" vẫn lành lặn” [4; 76], Bên cạnh sự thăng quan

tiến chức, "thành đạt" của Toàn là cái chẽl đầy bi thương, cái

chết mà Toàn đã gây ra cho Phác, bôn cạnh tình thương của bà

tôn giáo là cái ác, cái ác đến dữ dằn của chính đứa C011 bà, cni ác

sư già, một tìnli thưởng đầy tình người và pha chút màu sắc ciia

của quỷ đội lốt người.

Âm thanh và mầu sắc từ những động từ và tính từ mạnh

gây được ấn tượng người đọc. báo hiệu cho người đọc sự lchôc liệt

và nhận diện được mặt trái của lịch. sử. Mưa đổng nghĩa với sự

thanh lọc và tẩy rửa, nhưng' cũng thật kinh hoàng với những cơn

mưa trong trang văn của Nguyễn Minh Cliâu: "trời đổ mưa đột

ngột ... nhuôm màu vàng khé rồi tối lờ mò', nước đái qu.ỷ, tiêng kêu Ổ Ồ gợi lên bước đi thần tốc đẩy bạo liệt của đạo quân, clòng nước đục ngầu; tiếng mưa gõ ầm ầm; mưa iớn và sấm chớp sáng lòe trên những cánli đổng miền Nam; mưa đổ ào ào...". Bên cạnh

đó là những tiêng hô khô lạnh, sắc gọn "một, hai" đi đều của

đoàn quân hòa cùng tiếng hát đầy buồn bã, tất cả tạo nên một

bản hợp xướng khác lạ đằng sail niềm hân hoan chiên tliắng.

Chọn một thòi khắc mang tính

lịch sử nhất đế nói tới

những gì phản lịcli sử, nliững gì không ghi chép, không' lưu danh

trong sử sách, phải chăng S1Ỉ thành cons, đóng góp của tác giả nằm ở chỗ đó. Lại nữa, đan xen trong dòng trôi của lịch sử đó, ấy

lại là sô" phận và những cuộc đời của C011 người, COI1 người với sự

đa dạng, con người với tất cả những’ góc cạnh cua 11 ó chứ đáu

phải phiến diện, một chiểu. Tất cả đã tạo ra một Nguyền Minh

Châu khác, khác với chính ông của một thời Dấu chân người

lính, khác với đông nghiệp của ông' khi cùng- viêt về đê tài cliíốn

tranh cho dù đã bao năm ông cùng đứng trong đội ngũ với họ,

Nói đến những thành công của Nguyễn Minh Cháu trong

việc miêu tả và ldiám phá nội tâm nhân vật hay những hành

trinh bên trong không có nghĩa chỉ với bôn truyện được đưa ra

lý giải ở trên là phản ánh đẩy đủ những điều đó mà á một số” các

truyện khác như Mảnh trăng euôi rừng; Bên đường chiên

tranh; cỏ lau hay Phiên cliỢ Giát cũng chíta đựng những

thành công của tác giả khi đi tìm nhũng hành trình trong những cuộc đời con người, khi đi tìm C011 người trong bản thân con người. Nói như vậy, để có thể ldiẳng- định sự thống nhất

trong cách viết, khai thác đề tài của Nguyễn Minh Châu. Chỉ có điều với s ắ m vai; Bức tranh; Người đản bà trên cliuyến tàu

tốc h à n h hay Mùa trái cóc ở miền Nam chiền sâu và kịch

tính trong tâm lý nhân vật được thể hiện sắc nét hơn, tập trung

hơn và như tác giả từng quan niệm:"Niềm hạnh phúc lớn nhất và

cũng đồng thời là cái điều khổ ải nhất trên đời của một anil cầm

bút xưa nay vẫn là công việc khám phá ra tất cả những cái gì

khó nắm bắt nhất, xảy ra nơi cái thế giới bên trong con người”

[6; 93]. Với những truyện vừa phân tích ỏ trên, Nguyễn Minh

Châu đã vượt qua được điều khổ ải và ông là người đã tìm thấy

niềm hạnh phúc cho riêng mình.

CHƯƠNG II

HUYỀN THOẠI VÀ IIIỆN '['H ực

Đặt Vấn đề tìm hiểu mối quan hệ giữa huyền thoại và hiện

thực cùng những biểu hiện của Ĩ1 Ó trong Lruyẹn ngắn Nguyễn

Minh Châu, cluing tôi tự ý thức được rằng đây lẩ một công việc

khá khó khăn và phức tạp. Nói thể bơi ngay từ xuất phát điếm là

thuật ngữ cũng đâu phải đã thông nhất trong cách nhìn nhận va

dê dàng chấp thuận. Mới đây thôi trên tuần báo Văn nghệ đa có

cưộc trao đổi khá thú vị và dai dẳng về vấn đề này : Từ tháng 10

năm 1994 đến tháng 8 năm 1995 có 16 bài viết [20] và cho đù có

bài viết đi xa với chủ để chính là lniyền thoại thì tự bán thân con

sô đó cũng đủ nói lên rằng huyền thoại luôn là huyền thoại và có

sức hấp dẫn lôi cuốn nhiêu người.

L GIỚI THUYẾT VỂ HUYEN t h o ạ i .

Trước hết xin được nêu một vài cách hiếu về huyên thoại.

Víẹc này, không những giúp chúng tôi trong việc lý giải chất

định hướng h a y nói cách khác là cốt lõi cho n h ữ n g th a o tác sau

huyền thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Minh- Châu mà còn

này khi qui chiếu vào Iihững truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.

Theo RENE WELLEK và AUSTIN WAREN, hai Iilià

nghiên cứu văn học Mỹ thì : " Iiuyền thoại - đó là sự trần thuật,

là truyện kể khác mang tính phi lý, tính trực giác - dó lại thêm

điểm khác biệt của nó với triết học có hệ thông" ỉ 17; 45], Cũng'

theo hai ông, vai trò của huyềti Lhoại, tác dim# của 11Ó Lrontf

tác, và với chả tliể sáng tạo không phải là nliỏ, chang hạn : "khi

ngitòi ta bắt đầu nói về huyền thoại gắn vói sáng tác của một

nhà văn nào đó, thì vấn đề trở nên rõ ràng : ông ta hướng toàn

thân về xã hội, ông ta mong muốn giành được một chỗ đứng

trong đó, muôn hội nhập vào đó [ 17; 46] lại nữa, các tác giả trên

còn cho rằng : " Huyền tlioại - đó là sự hiện thực hóa trên qui mô

lởn của ẩn dụ thi ca". Từ những nhận định đó, vai trò của huyền

thoại được đánh giá kliá cao trong văn học : " Mục đích và chức

năng của văn học được bộc lộ chính là - và trước hết là - ỏ' trong

ẩn dụ và huyền thoại " [17; 46].

Nhắc đến huyền thoại, thiết nghĩ không thể không nhắc

ctên những khám phá về nó của nhà nhân loại học người Pháp

Claude Lévi - Strauss, theo ông " Huyền thoại (Mythos^là một

hiện tượng vừa có tính chất bên trong ngôn ngữ vừa có tính chất

bên ngoài ngôn ngữ... v ấ n đề bản chất của huyền thoại là lịch sử

được kế lại trong đó chứ không phải là phong cách, hay hình thức

tường thuật. Huyền thoại giải thích ỏ mức độ như nhau, cả quá

khứ, hiện tại, tương lai. Để hiểu tính nhiều mặt này, ta hãy so

sánh. Không có cái gì gợi giông huyền thoại như hệ tư tương

chính trị. Có thê trong xã hội hiện đại hệ tư tương chính trị đã

thay th ế huyền thoại rồi" [21; 74j 75].

Cũng theo Lévi - Strauss, huyền thoại là một khái niệm

triết học của COĨ1 người nhằm giải thích vũ trụ. Từ hạt nhân cơ

bản này ông nhận thức huyền thoại qua hai lĩnh vực. Thứ

nhất : " Ý nghĩa của huyền thoại không nằm trong từng đơn tô",

mà tùy thuộc vào toàn thế cấu trúc của nó, thông qua phong

cách biểu hiện". Thứ hai : " Ngôn ngữ huyền thoại là một cấu

trúc đặc biệt và phức tạp hơn câu trúc ngôn ngủ trong đời sông

hiện thực" [22; 89]

Bên trên là một vài khái niệm về huyên thoại và vai trồ

của nó trong sáng tác văn học, còn những biểu hiện của huyền

thoại và dấu ấn trong từng tác pliấm lại là một chuyện khác hay

nói đúng hơn phụ thuộc vào trình độ, cách nhìn nliận của mối

quan hệ đa chiều giữa Nhà văn-Tác phẩm - Bạn đọc. Chẳng vậy

sao khi gần đây vấn đề c á c h đọc tán phẩm được các nhà phê

bình nghiên cứu văn học lưu tâm đến. Bakhtin viết : " Tác phẩm

nghệ thuật là một ký hiệu (một tập hợp ký hiệu ) mở, bởi nó mo

ra một khả năng không bao giờ cạn vê cách đọc, do mỗi một chi

tiêt ở đó đều quan trọng và đêu góp phần vào hình thức củng như

ý nghĩ của nó" [8; 112]. Chia sẻ với quan niệm này, hai nhà

nghiên cứu phê bình văn học : Đỗ Đức Hiểu, Đặng: Anh Đào củng

có những nhìn nhận vê c á c h d ọ c văn ch ư ơ n g vê bí quyêt phê

b ìn h v ă n h o c hay những khám phá mói vê tiểu thuyết với

những đặc điểm của nó. Theo Đỗ Đức Hiểu " Đọc văn chương có

nghĩa là tháo gõ mã của các ký hiệu văn chương trong văn bán,

là tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thông qua các cấu trúc của văn

bản (cốt truyện, kết cấu, nhân vật, đổi thoại, không' gian, thời

gian...). Đọc là mã hoá cách đọc, là tổng hợp các kháu của việc

đọc, cảm tưởng, phân tích, đôi cliiêu, tổng liỢp, đánh giá v.v..., ia

phát hiện và sáng tạo. Đọc, trước hệt, là phát hiện, trong- văn

bản và từ văn bản, một th ế giới khác, những C011 người khác.

Ngưồi đọc sống trong thế giới tưởng tượng- của mình, xây dựng

cho mình, thông qua qua tác phẩm nghệ thuật thành một vũ trụ

tình cảm, cảm xúc, tư duy, hình tượng riêng của người đọc."

L10;76j 77]. Từ cách hiểu trên chúng tôi muốn lưu ý đến những

4 0 .

cấu trúc của văn bản - truyện ngắn Nguyễn Minh Châu để từ đó

có thê khăng định rằng : có yêu tố huyền thoại hay chất huyến

thoại trong hiện thực của truyện ngxm Nguyền Minh Châu. Lại

nữa có bao nhiêu người đọc là có bấy nhiêu cách hiểu, cách cảm

nhận chỉ có điều cái đích cuôl cùng mà ngươi đọc nhận ra mới là

côt lõi của quá trình tiêp nhận mà thôi, nhưng nêu nhìn từ một

khía cạnh khác khi chấp nhận vai trò của văn học và đặc điểm cơ bản của nó ỉà p h ả n ánh c ư ộ c số n g và chỉ chấp n h ậ n tliuyết

phản ánh trong văn học : văn học là để phản ánli, sao chép cuộc

sông hiện thực thì khó có thể giải mã hoặc hiểu một cách thấu

đáo những ý tưỏxig của Nguyễn Huy Tliiệp trong' Những' ngọn

gió H ưa tát, C hảy đi sô n g ơi; M uôi c ủ a rừng, Con gái th ủ y

th ầ n và bao nhiêu truyện khác nữa. Cũng như vậy, khi Dạng

Anh Đào khẳng định có " Tính chất tự do, động, đế ngỏ của

tiểu thuyêt” [8; 9] và nhắc đến sự đa dạng trong định nghĩa về

tiểu thuyết như nó là cái g iố n g n h ư th ậ t, là " Hình thức nghệ

thuật duy nhất tìm cách cho chúng ta tưởng rằng nó cung cấp

một báo cáo hoàn chỉnh và xác thực về cuộc sông' của một con

người thật"... đã giúp chúng tôi vững tâm hơn khi cho rằng

truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (tất nhiên không phải là tất

cả) đã hàm chứa yếu tô" huyền thoại trong hiện thực, đã có sự

pha trộn, ảnh hưởng giữa hai bút pháp này.

Sẽ là áp đặt và khiêm cưỡng khi lây những định đê vê tiểu

thuyết để qui chiếu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.

Không hẩn th ế khi chung tồi tự xác định rằng quan niệm và sự

chia của những người làm công việc nghiên cứu văn học sử hay

khu biệt giữa tiểu thuyết và truyện ngắn an chỉ là cách phân

nhìn nhận chúng theo góc độ thể loại trong thế loại còn nêu đã

41

xác định cho mình một hướng đi là tìm tòi phong’ cách, bút phấp

thê hiện của một nhà văn thì bất luận đó là truyền ngắn, truyện

vừa hay tiêu thuyêt, vẫn có thể tìm thấy sự thông nhất trong đa

dạng, tìm thấy cái được biểu đạt thông qua cái biểu đat hay nói

cách khác ; tìm thấy nội dung, ý nghĩa tác phẩm văn học thông

qua văn bản, mà ở đây là chất huyền thoại trong hiện thực, ià sự

pha trộn giữa ảo và thực trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.

II. HƯYỂN THOẠI TRONG TRUYỆN NGAN NaUYIỈN

MINH CHÂU

Theo lý luận hiện đại, tiểu thuyết hay truyện là ” lời nói

dôi thật"; " lòi nói dối tôn nghiêm"; là một hư cấu bằng văn xuôi,

khá dài, trình bày và làm sông động những nhân vật giả thuyết

như có thật tại môi trường, cho chúng ta biết tâm lý, số phận,

những biên cô" của họ " [8; 89) 95) 96], Có thể tìm thây sự hư câu

hay những n h â n v ậ t giả th u y ế t này qua một sô truyện của

Nguyễn Minh Châu. Tất nhiên trong truyện, Nguyễn Minh Cliâu

có nhiều phong cách thể hiện một kỷ niệm thức dạy, sông độníí,

với những màư sắc, âm vang như M ảnh tră n g c u ố i rừng, Bức

tranli, một cuộc ldếm tìm người thân yêu, khoảng đất tròi

thương nhớ, đôi lúc chỉ một việc nhỏ lỡ làng khiến lòng người day

dứt... Nhưng với hai truyện M ột lần (lối ch ứ n g’ và s ố n g m à i

với c â y xa n li, tác giả đã gây được xúc động mạnh cho người dọc

bơi " tính chất hổng hoang" của nó, người dọc sẽ tiêp xúc với một

thế giói thăm thẳm vể thời gian ; con người - cỏ cây - súc vụt

chưa phân biệt rạch ròi : đất, gió, cây xanh nói chuyện với người;

con người; con mèo và cô bé Lan sonjr như hai c.hị em yen Jihau

tliắm thiết, giận hờn nliau... Tất cả những yêu tô đó tạo thành

42

một sắc thái, một không klú liuyển thoại clio truyện, 11 hững

huyền thoại nliư hiện về từ thuở hoang sơ, mèo hoan# vò. mòo

dã và đ â y n ữ a n h ữ n g cỏ cây biết nói, nói với n h a u n h ữ n g điểu

nhà quấn quít bên nhau, múa chung củng; một điệu mua hoang

tha thiết, yêu thương.

Nêu nhìn từ một phương diện khác : thòi điểm ra đời, thì

M ột lần đ ố i c h ứ n g nằm trong một mạch truyện dược tác giả

viêt vào những năm đầu của thập kỷ 80 cùng- với những sắ m vai;

Bức tranh; Người dàn bà tr ê n c lm v ê n tàu t ố c h à n h V.V..

nhưng hình như nó không có " sô phận" may mắn khi ít nhà phê

bình văn liọc lưu tâm đến. Đối với chúng tôi, truyện này lạ ỉ có ý

nghĩa quan trọng khi 11Ó đánh dấu sự khỏi đầu cho một; cách viêt

mới, chỉ vói 26 trang thôi nhưng ỏ đấy là cái ao và thực, là

huyền thoại và hiện thực và thiết nghĩ đây còn là một "thử

nghiệm" để Sông' m ã i v ớ i câ y xanh; K h á cli ở q u ê ra và

nhất là P h i ê n c h ợ G iát bước vào độ chín, chững chạc hưn,

sâu sắc và lắng đọng hơn. Chính Nguyễn Minh Châu củng

thừa nhận vai trò của truyện, nêu không- ông đã mắc phải sai

lầm khi " Với những mẩu chuyện loài vạt cỏn con vui vui này...

ông định viết thành sácli Kim đổng cho trẻ em đọc" !

Truyện gọn gàng với bôn nhân vật chính và cốt truyện

cũng chỉ xoay quanh bôn nhân vật ây : một bé Lan ; mèo nhà; Tác

giả - bản thảo và cu01 cùng là mèo hoang - tên thích khách. Phác

họa rõ nét chân dung các Iihân vật của mình đó Jà thành công

đầu tiên của Nguyễn Minh Châu, với bé Lan người đọc, tìm thấy

tất cả lòng- thương yêu, đằm thắm mãnh liệt : tiến# gọi tlia th iế t

như đang g ọ i m ộ t đứ a e m ; tình cam của bá Lan cho mèo nhà

như vậy một người chị đối với em, khi thì đi tìm, lúc giận (lỗi,

khóc và làm lành. Tất cả những điều đó gợi lên bản năng gôc của

C0I1 ngươi, gợi về th u ở ấu thơ củ a lo à i người.

Nhân chi sơ tínli bản thiện". Con người ta sinh ra vôn

tính tlũện. Vậy nên, từ tiêng gọi của bé Lan, tác giả cũng nhặn

ra, tình thương yêu, tính nhân bản : " Tôi cũng không đo lường

được ở trong tôi tình yêu loài vật đến mức ngần nào, nhúng rõ

ràng cái tiêng gọi của đứa con gái nhỏ đã đánh thức dậy nơi tôi

một cái gì đó giông như niềm rung động thật xa xăm có lẽ từ

thuỏ ấu thơ của loài người."

Những tiếng gọi, những giọt nước mắt của bé Lam khi. mèo

trắng bỏ bé chạy theo tiếng gọi của đông loại, khi mèo con bị mèo

đen cắn chết, tất cả đủ nói lên tấm lòng thương' yêu, bán năng

gốc của con người, đủ nói lên điểu thiện trong con người mà ở

đây bé Lan là đại diện.

Cùng với tiếng " meo meo” và " ngheo ngheo" văng vẳng

suốt truyện, mèo trắng cũng biểu hiện cho cái thiện tuy từ một

phương diện khác, trong con mắt của tác giả, mèo trắng với

khuôn mặt ngây thơ và nghiêm trang như một cô gái nhà lành

vừa nhớn. lên". Trong cách nhìn của cô hàng xóm - cô Kì lánh thì

mèo trắng là đ ứ a c o n gái, là th â n con gái m ớ i n h ớ n lên . Mèo

trắng - con vật nuôi trong nhà tác giả còn là " nàng" là "cô tiếu

thư"; là Juliette với đầy đam mê (bỏ nhà ra đi... lên mái nhà dể

cùng chàng hiệp sĩ áo đen - mèo đen - Roméo với những VII

khúc của riêng chúng rôi trở về và iại ra di sau khi C011 bị cán

chết). Dường như ngòi bút của tác giá không’ còn phán biệt

giữa người và vật khi dành những từ ngữ của con người miêu tá

cho một con vật, và những từ ngữ ấy lại mang một sắc thái nghĩa

cho tình thương yêu, cho điểu thiện. Người đọc có thể tìm thấy ở

Mèo trắng một cái gì đó ngây thơ, lại cả tin và không thể không còn

chất hoang dã.

Nêu bé Lan và Mèo trắng là đại diện cho cái thiện thì mèo

đen lại là một thái cực khác, hoàn toàn đôi lập. Mèo đen - cái ác

chỉ là một. Từ những hình ảnh bên ngoài đặc tả về một chân

dung bê ngoài : môt gã mèo ôm không nơi cư ngụ; bẩn

th ỉu ; g h ẻ lở; dơ cláy; ta n h tưởi; t r ụ i t h ù i lủ i ; m ộ t co n

mèo vô thừa nhận, con vật dơ (láy nhất của khu tập thế,

đên bên trong, Mèo đen là tê n sá t n h â n , đ ộ c ảc, tê n t h íc h

k h á c h và cũng là một h iệ p sĩ, m ộ t R o m éo trong điệu vũ

khúc tình yêu dưới trăng dẫu tiếng " ngheo" của nó đ ầ y m ail rỢ và kích động.

Sự đối lập giữa cái ác và thiện đã ỉ'õ những mèo trắng và

mèo đen còn biểu hiện cho độ thành và hoang dã, hay nói cách

khác là văn minh đô thị và văn minh thời hoang dã: những phô"

phường, khu tập thể và con người mà nhất là bé Lan với bọn trẻ

con trong khu tập thể là cái nôi cho mèo trắng trú ngụ và đó

cũng là đô thị, còn một dải gò đất hoang vu, một khu rừng nlìỏ,

một cánh đồng đẩy vẻ hoang dã nơi đầy những ngôi mộ thì đong

thời là nơi chôn của mèo đen - đại diện cho hoang dã.

Chứng kiến cho sự đối lập giữa thiện và ác ấy ]à tác giả, là

cái Tôi đầy biểu cảm của nhà văn. Nhà văn suy tư về thiện/ ác,

vể cuộc sông con người. Ngay bản thân đầu để của truyện cũng

nói rõ cho sự đối lập, sự so sánh của tác giả vồ những vấn đề

muôn thuở của con ngưồi. Đôi chứng ở đây xáy ra giữa lo à i

người với lo à i vật; giữa t h iệ n và ác, giữa tr í tu ệ , lý trí và

b ả n n ă n g m ù quáng (Cũng là một cuộc đôi chứng: giữa hai

hoàn t h iệ n , giữa á n h s á n g và n h ữ n g khoáng' bóng tôi vần CÒI1

mặt nhân cách và phi nhân cách, giữa, cái hoàn thiện và chưa

rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi người - miếng đất nương náu

và gieo m ầm của lỗi lầm và tội ác) [3. 259]..

Cái ác hoành hành và ngự trị một cách nhỡn tiền trong

cuộc sông con người. Mèo đen - tên sát nhân, tên thích khách đá

cắn chêt hêt cả bôn con mèo con, "con nào cũng bị cắn nát cổ" bên

cạnh đó với "cặp mắt màu đổng thau", căm thù, ngạo mạn và sau

này cặp mắt ấy còn mang vẻ đầy tự đắc man rỢ của một tên sát

nhân còn có mốì quan hệ khá đặc biệt với những trang bán thao

của nhà vãn. Bản thảo bị lấm láp bấn thỉu, bị cháy xém, bị đè

bẹp: "Nó đứng ngay trên bàn viết của tôi, ngay írên những trang

bản thảo mới của tôi". Tất của đều do mèo đen tên đại bợm, tên

thícli khách, sát nhân, đại diện cho cái ác, nhìn rộng' ra có lẽ vó'1

mèo đen và những trang bản thảo, nhà văn muốn nói đến những

lực ép, nói đến những lực cản, nói đến lòng căm thù của những

thế lực quanh mình. Mèo đen, kẻ " đã dám hỗn xược chế nhạo

tôi, có ý làm vấy bẩn y như cố tình muốn xóa bỏ dấu vết những

suy n g h ĩ vừa trịnh trọng vừa dầy công phu của tôi" về mặt ý

nghĩa xã hội còn biểu hiện cho những lực lượng, bạo lưc tàn

khốc, cho những kẻ giết người nhưng lại mang một thân hình

đầy sức quyến rũ. Vì thê mèo trắng' ngây thơ, cả tin và còn đôi

chút hoang dã đã từng dứt bỏ đời sống' đô thànli, dứt bỏ ván

minh đô thành để trớ về với tiếng gọi nơi hoang dã.

Trong văn học viêt đã và đang tồn tại thể loại truyện ngụ

ngôn và loại truyện này ngư ngưòi xưa cho rằng" "Ngụ ngôn

thập cửu" (Mười truyện ngụ ngôn thì có tới chín truyện để răn

dạy đạo đức) và truyện ngụ ngôn thường dùng đôi tượng chính là

loài vật để nói tới con người, có thể thấy qua những trang truyện

ngụ ngôn dân gian Việt Nam, ngụ ngôn La Fontaine, Esope ...ớ

Một lan đ ô i c h ứ n g các nhân vật chính như mèo trắng, mèo

đen là loài vật nhưng rõ ràng không phải thể loại truyện ngụ

ngôn liay cổ tích, bởi như tác giả đã Lừng viết: "Tôi không muôn

một câu chuyện mà loài vật được nhân cách hóa, gán ghép cho

loài vật những biếu hiện của lòng nhân ái và trí khôn mà nỏ

không có, xóa bỏ ranh giới giíĩa loài vật và người." mà ỏ đây tác

giả chấp nhận sự hiện diện của loài vật trong cuộc sống con

người như một sự hiến nhiên để được đối chứng, quan sát và rút

ra những điều cần thiết cho cuộc sông. Với những nhân vật như

Mèo trắng, Mèo đen cái mà tác giả đạt được ỉà những cái ảo

trong cái thực hay nói cách khác nliững huyền thoại trong cuộc

sông hiện thực hôm nay.

Nhìn lại những nhân vật trong Một lim dối chứng,

người đọc thấy những "nhân vật" ấy dù vô tri vô giác như tập

b ả n thảo hay những con vật: Mèo đen,mèo trắng đến quan quít

với nhau bện chặt cùng nhau. Và trên hết là con ngươi với tất cả

suy tư và hành động trong cuộc sông, trong mối quan liệ đa chiểu

với cuộc sông. Tất cả tạo một bứ c tr a n h ỉniyền ảo, dữ dội, căm

giận, xót thương. Dữ dội và căm giận bơi cái ác hoành hành, cái

hoang dã lấn lướt văn minh. Xót thương bởi cái thiện, tình

thương bị chà đạp và xót xa còn ở chỗ niềm tin dù nhò nhoi của

con người (nhất là của trẻ thơ) bị "đánli cắp".

Dù tác giả đặt câu chuyện vào một thời gian hết sức mơ hổ

n ă m đó; m ù a t h u n ă m sau; khoảng thời gian đó, buổi sá n£ hôm

:"Mùa xuân; mấy ngày sau; mùa đông năm ấy; tuần tháng chạp

đó..." thì thời gian đó vẫn là thời gian của hiện tại với nhà xuất

bản, ngày cưới pháo nổ và không gian cũng vậy, vẫn lả hiện tại

bởi đây là p liố phường, là khư tập th ể (nhưng cần pỉiải thấy

sự đóng góp và tài năng của Nguyễn Minh Châu thể hiện ở chỗ,

hiện tại ấy mang tính phi thời gian, mang tính siêu mẫu, vĩnh

viên bởi nó để cập đên những vấn để muôn tlmở của con người

(thiện/ác, nhân cách/phi nhân cách, hoàn thiện/ chưa hoàn tliiện,

ánh sáng/bóng tôi) mà với văn học trên thế giới chúng ta đã có

một cặp siêu mẫu trong Những' ngư ời k h ô n k h ổ của Victor

Hugo qua Jean VaXjean và J a vei?t như một minh chứng mẩu

mực.

Một tác phẩm văn học dù ở thể loại nào khi xét dưới góc

độ văn bản cũng không nên bỏ qua yếu tô thời điểm ra đòi. Với

truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, nhất là ở giai đoạn nửa đầu

thập kỷ 80, người ta có thể tliấy sức sáng tạo không ngừng của

nhà ván, nếu 1982 là M ột lần đôi cliử n g thì chỉ một năm sau

C hiếc t liu y ể n n g o ả i xa; Sông' m ã i vớ i câ y x a n h đã ra mắt

bạn đọc. Khẳng định những n é t m ớ i trong cách viết của tác giả

qua "Sống mãi với cây xanh đấy là điểm gặp gỗ và thống nhất

qua những bài phê bình nghiên cứu (tuy không nhiều). Xin dừng

lại và nhtfohg lòi cho một số cách nhìn của các nhà nghiên cứu

phê bình văn học. Lại Nguyên Ân viết:" S ốn g’ m ã i với eả y xanh

mang những nét viễn tưởng ... Và viễn tương rõ nhất lả ỏ chỗ nhà

vàn mô tả con người trong sự giao hòa với thiên nhiên ... tuy

vậy, cũng có thể hiểu rằng các kích thước "viễn tưâng'"' ấy CỈ1Ỉ là

cách nới rộng thật rộng cái chiều đo để nêu ra vần đê cần nêu...

Dường như ở truyện này, toàn bộ cuộc sốiiíí của cây côi và C011

người phô" xá Hà Nội được soi dưới một ánh sáng khác, dịu nhẹ

hơn, thấm một thi vị trong trẻo, thơ trẻ. Chỉ nhận ra thứ "ánh

sách dịu" đó mới có thể đọc được thiên truyện, và mới nhận ra

nhiều nét khác lạ bắt đầu xuất hiện dưới ngoi bút Nguyễn Minh

Châu - khác lạ so với chính ngay các truyện của anh trước S ô n g

m ãi với câ y x a n h , khác lạ sơ với những trang tuyệt bút vê phô

xá và cây cối Hà Nội của Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng"

[13, 208] cùng chủ đích khám phá những đóng góp mới của

Nguyễn Minh Châu, Trần Đình sử có cách tiếp cận sát thực, rỏ

ràng hơn, ông cho rằng: "Sông m ã i với cây x a n h lại nói vê môi

quan hệ con ngươi và môi trường cây xanh trong quá trình đô thị

hóa đang diễn ra. Đó là câu chuyện biên niên cảm động- về tình

yêu đôì với cây cối và đất cát. Xu hương' trần tlmật chiều sâu,

phát hiện những liên hệ sâu kín của tốn tại con người đã đua

dắt tác giả tìm đến h ìn h th ứ c ước lệ h u y ề n thoai". [ 13; 212]

(Chúng tôi nhấn mạnh). Những n é t v iể n tư ở n g hay h ìn h th ứ c

ước lệ huyển thoại như các tác giả trên khắng định trong

truyện n g ắ n S ố n g ' mãi với cây xanh rất gần với ý tương của

chúng tôi khi cho rằng có chất huyền thoại trong hiện thực của

truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.

S ô n g m ã i vớ i cây xanh là một câu chuyện ảo, như

huyền thoại như ngụ ngôn. Ngay pliần thứ nhất của tmyện:

Một ô n g lã o b iế t n ó i c h u y ê n với c â y c ô i đã thum đậm cliấi.

kỳ ảo hay nói cách khác cái fantastique. Vừa 1UỞ truyện đã nửa

hư, nửa thật: một ông già h a y đi lan g th a n g đ ể trò c h u y ệ n

vớỉ c â y c ô i [3; 283] m ộ t n gư ờ i s ô n g v iển vôn g, bi người ta

k êu là dở người. Không biết có đúng hay không, người đôn rằng

bác lạ i cò n có t h ể trò c h u y ệ n với đất cát nữa. Tất cả những

câu chữ ấy cùng YỚi hai "tác giả" đổng thời là hai nhân vật trong

truyện là c â y sấ u và câ y côt đ iện xuất liiện ngay ỏ phần mở

đầu tạo ra sức hấp dẫn lớn cho cốt truyện. Hấp dẫn ở chỗ tính

nửa hư nửa thực được thể hiện rõ nét ngay từ đầu, thứ nữa MÓ

kích thích trí tò mò, muôn khám phá những cái ảo bên cái thực.

Theo

lý lu ậ n cổ địn h, m ộ t

tá c p h ẩ m h a y và th ú VỊ là m ộ t tác

phẩm phải có được cái chất "khai môn kiên sờn" - có nghĩa mở

cửa ra thấy núi ngay!, ở đây, hình ảnh một ông già của thời hiện

tại lại biết nói cliuyện với cây cối, đát cát, và câu chuyện ấy lại

được "hai tác giả" có một không hai trong văn học hiện đại là cây

sấu và c â y c ộ t đ iên ghi chép lại càng tăng thêm chất hư ảo cho

chính bản thân truyện. Nói cách khác, tác giả - nhà văn Nguyễn

Minh Châu đã tạo riêng cho mình một cách nhìn thực tại, ông

muôn nhìn nhận và đánh giá hiện thực thông qua lă n g k ín h

h u y ền th ọ a ỉ. Vì lẽ đó cảnh vật trong S ố n g m ã i với câ y x a n h

nhuốm một sắc màu huyền thoại. Đậm nét nhất là cỏ cáy muôn

loài: n h iề u t iế n g n ó i rì rầm / h ộ i n g h i c ủ a t h ê giới các loài

cây/ c á c io à i c â y đ a n g c h ă m cliú ỉắng’ n g h e / cây sầu đông

cất t iế n g n ó i/ b á c sấ u Bờ Hồ đ iể u k h iế n / cây sỉ tiếp tụ c

th a m lu ậ n / c â y cơ m n g u ộ i và câ y b ằ n g lăng' k h ô n g tá n

th à n h n h â n đ ịn h c ủ a câ y si/ c â y đề ra lời k ê u gọi/ cây (lề

cười ẩ m ỹ cắ h ộ i trư ờ n g / câ y dề cti đôn m ộ t kêI luận. Và

Cổ trong suốt 63 trang truyện. Cây là người hay là cây ? Tất cá

nhiều, nhiều nữa những "tiếng nói"; những- "hành độn#" của cay

hòa hợp vối nhau như thuở hoang sơ chưa hề tách bạch. Chúng

tôi muốn lưu ý tới nlũíng động từ chỉ hành động đưực sử đụng

trong những ví dụ vừa liêu, nó không những làm s ô n g động thế

giới cỏ cây vốn tĩnh lặng mà mặt khác những động từ ây còn làm

tăng thêm chất hư ảo của truyện: cây lắng nghe, cây cất tiêng

nói, cây biêt điều khiển; cây đọc tham luận ... Thiết nghĩ n g ư ờ i

đọc sẽ cảm nhận được một ý tương khác của tác giả đằng sau

những cây cỏ tưởng chừng như vô tình ấy. Theo chúng tôi, có lẽ

tác giả muôn gửi gắm bức thông điệp đến đồng loại ràng hãy hòa

hợp cùng với thiên nhiên, bảo vệ và giữ gìn nó, 11Ó nuôi sống' con

người, âu yêm con người và nêu vậy, trước hết cần phải hiểu và

yêu thương, chăm sóc chúng. Nhìn lại thời điểm Sông' m ãi với

cây x a n h ra đời: năm 1983, càng thấy tài năng và đóng góp của

tác giả khi ông dự báo những điêu mà bây giờ người ta đang làm,

ông báo động về một nguy cơ hủy hoại môi trường do chính bàn

tay con ngưòi gây ra. Ông đặt vấn đề về mối quan hệ giữa cuộc

sông của con người với môi trường sinh thái, mà cụ tliể ở đây là

con Iigưồi với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá.

Cùng với những loài cây, nàng Gió và mẹ Đất củng được

tác giả tạo dựng như những nhân vật tham gia vào sự phát,

một n h â n vật, m ộ t thực t h ể s ô n g động của cuộc sống CQJ1 người

triển của cốt truyện. Nàng Gió dưới cách nhìn của nlià- văn như

với đẩy đủ tính cách : nàng là m ộ t n g ư ờ i th íc h đ ù a , nàng cười

nói, nàng lúc dữ dội với những' CƠ11 đ iê n k h ủ n g khi lại dịu

d à n g n h ư n h ữ n g giờ p h ú t c ù n g th a m gia đại hội của loài cây. Với

nàng Gío là vậy còn bà mẹ Đất lời văn của tác giả dường như âu

yếm, trân trọng hơn bởi có lẽ đất là nơi chơ che, nuôi dưỡng con

người: M ột người đ ả n bà p h ú c h ậ u , n g ư ờ i th ấ p , tó c bạc

tr ă n g m à kliưôxì m ặ t v á n cồn trẻ/ Me m ặc to à n đồ nâu,

tr ê n m ặ t p h ả n g p h ấ t m ộ t n ô i b u ồ n đế lai từ h à n g trăm

th ê k y n h ọ c n hăn... Đấy là những từ dành cho bà mẹ Đất, lời

văn trỏ nên đằm thắm, hết sức trân trọng yêu thương và hình

như ỏ đây người đọc còn bắt gặp một chất thơ lan tỏa, lan tỏa từ

chính bản thân hình tượng, từ khuôn mặt phảng phất một nỗi

buồn khiên người đọc nghĩ suy, tham gia đổng sáng tạo những

nét nghĩa đằng sail hình ảnh ấy.

Cảnh vật thiên nhiên là thế, còn thế giới những đổ vật

xung quanh nhân vật chính - bác Thông: chiếc xe bò, cái áo ba đờ

- xuy, cây cột điện cùng với.-bức tranh của một thòi trai trẻ, tất

cả vân quấn quít, hòa quyện với nhau, cùng với ông tồn tại , tổn

tại một cách sống động trong hiện thực cuộc đời. Nếu chiếc Xfì bò

là vật gia truyền từ ba đời gia đình nhà bác/ được để lại từ đời

ông nội của bac, thì chiếc áo ba - đờ - xuy lại là vật chứng thiêng

liêng cho tình yêu - thương giữa con người với con người giữa

tình cảm của người hàng xóm nhân hậu, đẩy thương yêu bà

Ngan đôi với ông. Điều đáng nói ở đây là những kỷ vật gần gũi

với ông ấy đã vượt lên một đồ vật bình thường trở thành những

kỷ vật mang sắc màu huyên thoại, Ĩ1 Ó như luôn dõi theo và ảnh

hưởng đến tính cách và sô' phận của bác Thông. Chẳng hạn, nêu

chiếc xe bò không gắn bó như hình vói bóng với cuộc đòi bác

Thông thì hẳn chắc bác đã có lòng yêu thương cỏ cây như thế. Với

chiếc áo ba - đờ - xuy bên mình, chẳng những đã giúp bác trở về

với quá khứ, về với một thời oanh liệt của mình mà còn fíây rn

một sự ngộ nhận đáng tiếc. Chiếc áo - vị đọ ị tướng - bác: Thông

hay ở đây là mối quan hệ giữa truyền thông và hiộn tại, mối lien

hệ giữa quá khứ và hiện tại. Nói cách khác, trên COỈ1 đường' liiộn

đại hóa văn học nghệ thuật, tác giả - nhà ván Nguyễn Minh

Clìâu vân không quên truyền thông tôt đẹp, không quên chu

thể con người.

Giữa mênh mông của thê giới cỏ cây, cảnh vật ấy, COI1

người vân được trân trọng, vẫn chiêm nhiều tâm lực, trang viêt

của nhà văn. Tác giả đã nhường lời của mình cho bà mẹ Đất khi

nói về con người: "Mặt đất tự trang điểm bằng biết bao cảnh sắc

thiên nhiên tươi đẹp nhưng trước hết, bao giờ mặt đất củng tự

trang điểm cho mình bằng những COI1 Người

Con Người được tác giả trang trọng viết hoa như càng tỏ

rõ hơn ch lĩ ý của tác giả về một cuộc sông, một thế giới nià ỏ đó

con người là chủ thể. Thật thế khi nhìn lại 6G trang với ba phẩn

rõ rệt của truyện ngắn vẫn thấy con người nhất là những cư clan

ỏ ngõ 27 với ông Thông và bà Ngan; rồi cô Loan cùng cậu Huân

là những con ngitòi đầy nhân ái và nhân nghĩa và được tác giả

dày công chăm chút.

Trước hết là nhân vật ông Thông - nhân vật chính của

truyện dưới ngòi bút của nhà văn, nhân vật được tác giả miêu ta

từ nhiều góc độ: cái bi, cái hài hước, tính chân thực đường như tụ

hội vào nhân vật này và để rồi làm nổi bạt lên tích cách, tư tương

của nhân vật cũng như ý đồ của tác giả. Nêu một người sông

v iển v ô n g , bị người ta kêu là clở n g ừ ơ i là m n g h ề trồng' cây

trong thành phô" luôn yêu thương chăm sóc cho cay côi, hiếu

được tính nết của cây côi là chân dung gương mặt thạt của bấc

Thông thì m ộ t b ậ c nguyên soái/ m ộ t vị d ạ i tư ớ n g trong lúc

bận chiếc áo ba - đò - xuy chăm sóc cây lion lại là một chút bài

hước ma tác gia đã cô ý miêu tả. Biêt được tiếng nói, hiểu và

nghe rôi cùng đôi thoại với cây côi, tham dự "đại hội" của các loài

cay đay lại la chât hư ảo, huyền thoại về một con người. Cả ưiột

đời người quân quýt cùng cáy cỏ, sông giữa cây cỏ, yêu thương

chăm sóc chúng, ây vậy bi kịch đâ xảy ra với ông, ông' chết, ông

ngã xuống cùng với cây sấu bị hạ xuống, ở đáy không

chỉ là bi kịch của riêng ông mà còn là bi kịch của thòi gian, của

cái hiện đại và lioang srỉ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa với

môi sinh, môi trường hay thiên nhiên nơi con người đáng' tổn tại

về phương diện này có thể thấy tính dự báo, khả năng tiên đoán

của nhà văn trước sự phát triển của hiện thực cuộc sông. Người

đọc còn có thể nhận ra một tiếng chuông báo động hay một lời

cảnh tỉnh với con người, hãy giữ gìn cáy xanh, "sông mãi với cây

xanh", nó nuôi sông con người, che chở cho con người.

Nên chất hư ảo, pha chút hài hước là nét chính trong

nhân vật bác Thông, thì chất thơ lại thấm đượm từ nhân vạt

Loan tạo ra sự c â n đối, hài hòa giữa hai nhân vật chính. Một cô

bé Loan khoảng bốn, năm tuổi đã gửi những bức thư bằng lá/ nói

thầm với lá/ bỏ hòm thư vào những phút giao thừa chỉ cliừng đó

thôi cũng đủ nói lên chất thơ trong tâm hổn của "mội nhà thơ

lớn”. Bức thư bằng lá hay lòng yêu thương cỏ cây thiên nhiên Hà

Nội? và chính nó là chứng nhân, là gôc nền tạo ra tính cách yêu

thiên nhiên, con người Hà Nội của một bé Loan lúc bôn, năm tuổi

cho đến bà Loan - nhà văn của mấy chục năm sau.

Chất thơ không chỉ thấm đượm và toát lên tù nhân vật

Loan mà chất thơ còn lan tỏa vào không gian bao la, thời gian

đằng đẵng từ mấy triệu năm, các tầng đất, các lớp cất biêt thẩm

thi vê qúa khứ. ơ đây, câu văn của tác giả trìu nặng suy tư, tâm

trạng riêng mang đậm nét trữ tình vốn là yếu tô" không thê thiêu

cua thđ, tác giả viêt: "Hỡi những em bé giàu tương tượng, hãy áp

tai vào tâng nhựa đường, sẽ được nghe tiếng vỗ lào rạt của sóng

Iiước của một dòng sông đã chêt, giấu trong lòng những cán. giáo

ííăy, những mũi tên đồxig, những cối chà}- bàng (tứ, những hoa

văn trên men, những giọt mổ hôi trên áo vải và giọt máu trên

chiên bào; và bên dưới cùng của tát cả là hàng vạn canh rừng

lim sên, táu và tre vầu đã cliết, nhường mặt đất cho con ngiròi 0 .

Bạt ngàn cây côi đă mọc trên toàn cảnh một thế giới toàn (tám

lầy và sông ngòi chính là những kẻ tiền trạm, tạo điểu kiện sinh

thái cho con ngừơi, khi biển Ỉ1ƯỚC mặn vừa rút" 13; 293]. Có thế

khẳng định rằng đây là cách khai thác độc đáo của nhà ván về

lịch sử Hà nội, chìm sâu dưới những tổng đát là thiên nhiên và

văn hóa của quá khứ. Viết để thêm hiểu, thêm yêu Hà nội, góp

một cách nhìn về Hà nội.

Cũng với một mạch cảm xúc ấy, ở một trường đoạn khác,

nhà văn đặt nhiều dấu hỏi cho những câu hỏi, những câu hỏi

chưa có trả lời mà tùy thuộc vào từng người, tùy thuộc vào mức

độ cảm nhận của mỗi người nhưng chính từ những cáu hỏi ấy, ý

thơ như ldiông thể kìm giữ cùng lời văn: "Chinh phục thiên

nliiên? Đúng, đời sông loài người là một chuỗi dài quá trình

chinh phục tliiên nhiên, nhưng cũng là thiếu thỏa đáng và thậm

chí nguy hiểm, nếu không nghĩ đến công việc hòa hợp với thiÔ1Ì

nhiên: từ giữa phô" p hường chật hẹp, đông đúc có bao giờ các bọn

đi ra sông Hồng nghe tiếng hát của phủ sa và bò bãi? Dá bao <2,iò’

các bạn dừng' bước trên hè phố nâng một cành cây gay? Có phai

tình yêu của các ban chíỢc e ấp nói lên tron# mau xanh của hàng

cây ? Và nhất là tuổi thơ, hãy trả lại cho tuổi thơ nhưng nối cỏ

và bóng râm mát của cổ thụ, qua sấu giằrn và cảm giác đi

trong rừng..." [3, 293]

Cùng với những nhân vật đã phân tích ở trên, bà Ngan va

cậu Huân, bức tranh cùng cây cột điện đã làm tăng- thêm chất

thơ và chất hu ảo cho truyện: một người đàn bà với tất cả tình

yêu thương đên mòm mỏi, một chàng trai với ưỏc mơ "cách

m ột t ì n h yêu với phô" phường, cây côi nơi đáy VỚI n h ữ n g C011

mạng xanh", hiện đại hóa, đô thị hóa Hà Nội ... vói họ chi vì

người như bác Thông, cô bé Loan trước đây cũng như nữ văn

sĩ của hai mươi năm san. Từ Sông' m ã i với câ y x a n h , tác giả

đã góp một cách nhìn, cách cảm nhận vê hiện đại hóa Hà Nội

với nhà cao tầng (công nghiệp) với cây xanh (môi sinh, môi

trường) nhưng trong quá trình hiện đại hóa đó qua cách kẻ,

cách thể hiện các hình tượng nhân vật, tác giả hình như kiiím

thiết báo động đến một nguy cơ phá hủy môi sinh môi trường’

nơi con người đang tồn tại mà cái chêt của ông Thông cùn#

cây sấu Bò hồ bị hạ là một ví dụ, một lời cánh tỉnh.

Hư pha lẫn thực, một chút cổ tích, một. chút, ngụ ngôn,

chất thơ càng hiện thực, có thể nói tải năng và đóng góp của

Nguyễn Minh Châu vào văn học thời kỳ đầu của đôi mới. hiệu

quả và khả năng, tác dụng của nó ở mức độ nào đôi voi. công

chúng có thể còn chưa xác định rõ nhưng cần Iđian£ định ntffiy

rằng nhà văn đã nói được những điểu cần nói thông qua thiên

truyện s ố n g m ã i vớ i câ y xanh.

"... Tôi chỉ nghĩ viết văn là viết văn. Nhà ván m oi những

cái gì tận trong gan ruột tim óc ra mà viết lên trang giây".

[6; 142] Tâm sự trên của Nguyễn Minh Châu vào nliĩíng ngày

cuôi của cuộc đời, tâm sự được viêt trôn giường bệnh đã phần

nhiêu thể hiện qua những tác phẩm củng được viết vào thời gian

này, đấy là Cờ lau; M ùa trá i cóc ở m iền N am củng P h iê n

ch ợ Giát, nhưng vói mục đích là tìm hiểu sự pha trộn giữa hai

yêu tố huyền thoại và hiện thực, phần dưới đây chúng tôi chỉ để

cập thiên truyện Phiên chợ Giát YỚi một truyện khác được sáng

tác trước đó nhưng cũng có môi liên hệ khá chặt chẽ với nó đấy là truyện khách ở q u ê ra.

Nếu làm một con sô" thông kê có lẽ cá liai truyện trên đểu

đạt tới kỷ lục có nhiều bài viết về nó nliất so với tất cả các truyện

ngắn khác của Nguyễn Minh Châu. Dù hai truyện được sáng tác

vào hai thời điểm khác nhau nhưng ở mỗi một thời điểm, từng

truyện lại đem đến sự "xôn xao" bàn luận trong giới văn học

nghệ thuật. Chẳng hạn với K hách ở q uê ra, tác giả viết vào

năm 1984 thì đến 1985 đã có cuộc hội thảo mà ở đó nhiểu bài

phát biểu đề cập tới truyện ngắn, đó có thể là: "anil Cliâu chưa

làm chủ được ngòi bút và cá đên sự chiêm nghiệm suy tương của

mình." [13;179] là "câu chuyện K hácli ở q uê ra, tôi cám thấy

cảm hứng của tác giả hơi gán ghép" [13; 175] "Tr uyện Khách ở

quê ra chẳng hạn., những nhân vật anh đưa ra có vẻ không

thật, nó là sản phẩm của một ý định truyển đạt cái vừa khám

phá" [13' 181] và còn nhiều, nhiều nữa (xin xem 13 tít trang 173

đén 290). Khác hẳn với Khách ở q u ê ra, khi Phiên ch ợ íVìíứ

đến tay bạn đọc thì không- còn nghi ngờ gì nữa tài năng và thành

57

cỏng của Nguyễn Minh Chậu đã hoàn toàn được lcliẳng định.

Nhà văn Nguyễn Ngọc viết: "Pliiên chợ Giát, kỳ diệu thay, ia

một trong những truyện ngắn hay nhất của anh, một tuyệt tác

của văn học hiện đại chúng' ta. Lời tuyệt mệnh gửi ỉại CỈ10 đòi ay

cua Nguyên Minh Châu mang nặng đầy ý nghĩa xã hội nóng

cháy hôm nay và cũng gợi vê những gì đó mang tính vinh cửu,

của con người trong cõi nhân quần quằn quại này, ”'iữa cái vô tan

từ m ột phương diện khác, dưới C011 rnắt của mội; n h à nghiên cứu

của không gian thời gian, của vũ trụ vỉnlì hằng" [13; 2511. Nhìn

phê bình văn học, với Đỗ Đức Hiểu, P h iê n ch(í Giát là "một l,ími

đa thanh m ộ t tác p h â m văn chương mỏ, một bức trailb iạ lủng...

trạng lớn, là những cảm xúc và suy tư sâu thẳm, một văn ban

Nó là một chấn thương nhức nhôi, mội; bức tranh với bao cánh

hoang vu, với nhiều mảng tối và những chấm đỏ màu ituíu. niỏt

bức tranh nhiều nét nhòe, nét này thâm nhập nét kia, gây nhieu

ảo ảnh, một sự thẩm thấu giữa hiện tại và quá khứ, giữa giac mơ

và sự thật..." [13; 253; 254]. Trong khi đó Hoàng Ngọc Hiên lại

vê t h â n p h ậ n COỈ1 người (nói chung), C011 người "sông' giữa hoang

cho rằng:"Phiên ch ợ G iát được viết không phải đế triết luạn

vu và bóng tối".. Truyện này là một giả thuyết văn học vê bản

chất và thân phận người nông dân (chắc là tác gia củng" không

phản đối nếu chúng- ta xác định rằng- đây ìà n^u'dJ nông dán Việt

Nam) [13; 265J. ở một trường đoạn khác, Hoàng Ngọc Hiên viết;,

"Trong truyện P liiê n ch ợ Giát, có những chi tiêt, những hình

ảnh khiến người đọc nghĩ ngợi ve thân phận con người (nói

chung). Nhưng toàn bộ truyện là một giả thuyêt về ban chất vn

sô" phận của người Iiông dân" [13; 267], Theo chúng' tôi nên chí

hiểu nhân vật Killing ở trong K liácli ở q u ê ra và P h iên OỈ1Ọ’

58

G iát như một hiện thân của người nông dân thì đúng nhiửychưa

đủ và CÓ lẽ chưa đủ sức mạnh để tạo ra sức sáng tạo và dóng góp

của Nguyên Minh Châu, mà ở đáy cần phủi thấy nhân vật

Killing là đại diện clio tliân phận con người nói chung, con người

với cuộc đời với biêt bao nỗi trầm, luân khó Iiliọc, con người với

những môi liên hệ đa chiểu với cuộc đòi này, có thế P h iên Chợ

Giát cùng nhân vật Khủng mòi có được tẩm vóc lớn.

Cũng nhằm đánh giá những thành công của tác giả nhưng'

từ một góc độ khác, nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư viết:" đến

Khách ở q u ê ra và P h iê n chợ Giát thì xuất hiện nhan vật tiếu

thuyêt đích thực một con người nliiểu chiểu, một tính cách vừa

mâu thuẫn vừa thuần toàn, vừa cá biệt vừa tiêu biểu, vừa là sán

phẩm của quá khứ lịch sử tôi tăm vừa tỏa ánh sáng của Iihán

tính vĩnh hằng của những giá trị đạo đức muôn dời, một người

nông- dân chân lâm tay bùn nhưng đồng thời lại là một"nhà tư

tưởng" có th ế giới riêng, có tiếng nói riêng, tiêng nói ấy lan xa

khắp nơi trong tác phẩm, hòa điệu và nghịch điệu phức tạp vói

tiêng nói tác giả" [13; 273].

Bên trên là những ý kiến vê truyện ngắn K hách ở quê ra

c ù n g P h iê n chd Giát, dẫn lại những ý kiên này chúng tôi

muôn khẳng định thành công và đóng góp của tác giả cho ván

học thời kỳ đổi mới. Với mục đích của chương này chúng tu.i chỉ

xin đê cập đến một khía cạnh nhỏ trong bút pháp cua Nguyên

Minh Châu đó là cách xây dựng nhân vật mà cụ thể ỏ đây là nhân

vật Killing với những biêu hiện cho cái ngoài "hiện thực" hay cái hư

ảo trong nhân vật mang tínli huyền í,hoại áy.

Chân dung của nhân vật Khủng cùng vợ lão - mụ Huệ có

phân nào đó giông với cuộc tình duyên của thằng gù Caclimôđô

với vũ nữ E xmeranda trong Nhà thờ Đức bà Pa l i của Hugo. Từ

bàn tay: Chẳng còn là hình thù một bàn tay con ngưòi nữa. Hai

bàn tay lão đầy những chỗ nổi u nổi rnc, các n

bọc một lớp da giông như một thứ vỏ cây, và cả bàn tay lão giống

y như một tòa rẽ cây vừa mới đào dưới đất lên..." [3; 512; .513]

cho đên cách so sánh giữa lão Killing và mụ Huệ:" Giữa hai con

người có một cái gì quá đỗi khập khiễng, ai mà tin được có thể là

cạnh Killing. Chả khác gì một cái cốc pha lê bày bốn một chiếc

hai vớ chống, khi người vợ như một nữ sinli thành phó" đứng bên

cối giã cua" [3; 520],

Theo lý luân hiện đại, có the nói với nhan vật Khúng, nhà

văn đã sử dụng cái thô kệch cho nhân vật của mình. Cái thô kệch

(grotesque) ở lão Khúng không chỉ hiện ra ỏ chân đung mà cả ồ

trong tính cách, hành động: cuộc sông của gia đình Khủng giữa

một rừng cỏ gianh cao ngập đầu;túp lều bằng lá cỏ gianh bện lại,

bôn xung quanh xếp bằng đá, đó là một "ô gấu" hay một fíia

đình". Rỗi căn nhà dựng trên nền ngôi đển chung của cả làng

cùng những lời đồn đại, Tất cả càng- làm tăng thêm chất hư ảo,

sức hút gây ấn tượng của nhân vật Khíing. Sự chối bỏ cuộc sông

hiện đại, quay trỏ vế với thiên nhiên hoang dà, với cuộc sổng

còn hoang dã cũng phẩn nào nói lên cái bất bình thường của

nhân vật Killing. Chính cái bất bình thường này (từ hình dạng

đến tính cách), cái bất bình thường mang nhiều bản năng hoang

dã của con người Khung là một yếu tố gây được ấn tượng và có

sức thuyết phục. Xin lưu ý, ngay cả đến cuộc tình của Killing và

Huẹ củng chứa đựng nhiều yêu tô tự nhiên, hoang dá: chiếc xe

cút kít/quãng đường đèo không một bóng người/ người đàn ông

và người đàn bà đang chuyển dạ. Yếu tố np-ẫu nhiên đã trỏ thành

chất kết dính cho hai sô phận, hai cuộc đời đầy những h ư ảo.

Sang' đên Phiên Chợ Giát, nhân vật lão Killing không còn

chỉ là Khúng mà đã hóa thân, ô n g Killing và C011 bò khoang đen,

người đọc đôi khi không còn tách bạch được nữa giữa thân pliạn

con người với thân phận loài vật. ô n g hóa thân vào con Khoang

đen, ông là nửa người nửa bò. Cuộc đời dằng dặc đan khổ, nhục

nhằn, tủi nhục của ông củng là cuộc đời của con Khoang đen mà

trong cái đêm cuối cùng của nó đã sông dậy trong tiềm thức

ông Killing. Nhiều hồi ức về hiện thực cuộc đời và thân phận của

nhân vật đã sống lại trong cái đêm âm 11 đầy nước mắt ây, nhưng

chất ảo, huyên thoại trong hiện thực ỏ đáy là nhiều hiện thưc

mà có lẽ nó phải là huyền thoại: cái chết của Dũng đứa con yêu

quí của gia đình ông' Killing trên chiến trường Căm pu chia;

phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đã kéo theo bao đối thay cho

cuộc đời ống' Khung và gia đình.

Giải phóng, xua đuổi sô" phận một con vật để I1Ó thoát

khỏi kiếp íihẫn nhục, đau khổ vươn tới kiếp sông tự do nhưng

hình như cuộc sông tự do còn xa vời vợi, cái nhẫn nhục, tự trói

buộc vào những đau khổ có lẽ là định mệnh của bò khoang và

củng là của cnộc đời lão Killing.

Phiên chợ Giát kết thúc bằng- một cái kết đẩy nước mắt:

"con vật ngước cặp mắt đầy nhẫn nhục và sầu não lên nhìn lao

Không'! Đó là cái nhìn của một sinh vật tự nguyện clifip nhận sô

61

phận. Đứng lặng thinh bên cliiêc xe chốt đầy củi mil lãơ (lã Ihíiy

nó toát mồ hôi một minh kéo vê được đến đây, lão Killing cũng'

chả biêt nói gì với con vật, lại càng' không thể trách móc, lão chỉ

đưa mắt nhìn người bạn đời làm án thân thiết bằng' cái nhìn

cũng đầy sầu não và phiền muộn."[3; 605]. Vì lẽ đó, đây là một

cái kêt mở, không dừng lại ở một mức độ nghĩa nào, mà tạo cho

người đọc tham gia đồng sáng tạo.

"Lô gíc của huyền thoại là lô gic của tưởng tượng"

(Philippe Selleir) [8; 114]. Thật thế nếu quy chiếu điểu này vào

các truyện đưa ra lý giải ở trên, chỉ có một sức tưởng tượng

phong phú mới C.Ó thể viết lên những trang' đượm màu sắc cố

tích, ngụ ngôn đến thế, con người, loài vật, cỏ cây quấn quít cùng

nhau, hiểu nhau, thương yêu clnía hê tách bạch. Vói Một lần

đối c h ứ n g và S ố n g m ã i với cây x a n h người đọc có th thấy

bút pháp hư ảo, giọng điệu và cách kể đậm sắc màu huyền thoai còn ngược trở lại với Phiên chợ Giát người ta thấy chính hiện

thực cuộc sống đã tạo ra huyền thoại, nhiêu nét hư ảo và cũng có

khi đó lại là một huyên thoại buổn.

CIIƯƠNG III

ĐIỆN ẢNH VÀ CHẤT TIÍƠ

Nói đên chất điện ảnh và chất thơ trong truyện nfran ciiíi

Nguyên Minh Châu, chúng tôi muốn để cấp tiến mội, yêu Lô làm

nên sự thành công cho truyện ngắn của ông và đồng' tlicíi c ũ n g là

n g ẫ u n h iê n khi gẩn đây m ột trong n h ữ n g tru y ện n g ắ n ấy : c ỏ

một đóng góp cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Không phai

lau được chuyển thể thành một bộ phim cùng tên và th iê t nghĩ

đó không phải là kịch bản cuối cùng.

Những câu hỏi hẳn sẽ được đặt ra xoay quanh vấn để trên

như những yêu tố^ nào và biểu hiện của nó trong truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu khi khẳng định có chất điện ảnh và chất thơ

trong đó ! Trước hết có lẽ phải kể đên không thời gian, một thủ

pháp nghệ thuật mà tác giả đã để lại nhiều clấu ấn (nếu không

nói là riêng biệt). Quá khứ, hiện tại và tương lai hiện lên qua

những trang vãn của ông nhịp nhàng hòa quyện vào nhau tạo

thành sự đồng hiện của không gian. Nhìn sang lĩnh vực điện

ảnh, điểu này rất gần và cần thiết cho công việc đựng phim

(montage). Thít nữa, nhân vật của Nguyễn Minh Châu có chiểu

sâu nội tâm, đa dạng trong tính cách, có n h ữ n g suy tư, dằn vặt,

có độc thoại, đối thoại. . . tất cả tạo cho người diễn viên có "đát

diễn" nếu như đước chuyển thể thành kịch bản phim. Với tính ẩn

dụ và đa nghĩa trong liình tượng, những hình tượng đầy sáng tạo

chúng tôi muốn để cấp đến chất thơ trong truyện ngắn Nguyễn

Minh Châu. Sự lu n g lin h giữa k h ả g iả i và b ất k h ả gi ái là một

đặc trưng của thơ, vậy nên đi tìm chất thơ trong văn xuôi lại là

63

một công việc khó khăn hơn, vấn đề chỉ còn phụ thuộc vào khả

nang cua người viêt mà vê phần này chúng' tôi vững tâm hơn khi

đại văn hào Lép Tônxtôi từng nói : "Tôi không bao giờ biêt đâu là

ranh giới văn xuôi và thơ" !.

I.

B I Ể U T Ư Ợ N G M Ả N H T R Ă N G V Ả Y Ế U T ố K H Ô N G -

THỜI GIAN TRONG MẢNH TRĂNG c u ố i RỪNG :

Chọn M ảnli tr ă n g cuôi rừ n g trong sô bôn truyện đế lý

giải chất điện ảnh và chất thơ hẳn chúng tôi có những lý do

riêng. Trước hêt, nêu tính về thời điểm ra đời thì so với B ên

đường' c h iê n tranh; Con th u y ề n n g o à i xa và c ỏ lau, truyện

M ảnh tr ă n g c u ố i rừng’ được sáng tác sớm nhất, thứ hai, theo ý

kiên chúng tôi truyện ngắn lại đậm đặc chất thơ, gọn gàng như

một bài tho’ (chỉ có 23trang) và mang đầy đủ những yêu tố mà

cliúng tôi định lciếm tìm. Cũng xin lưu ý ơ đáy cho dù tuyên tập

truyện ngắn Nguyễn Minh Châu in lại thiên truyện này với các

tên lchỏi thủy của nó là M ảnh tr ă n g thì chúng tôi vẫn chọn cái

tên đầy gợi cảm và chất thơ hơn bởi thêm hai tiếng bồ sung cho

địa điểm và thời gian của nó M ảnh tr á n g c u ố i rừng.

Mảnh trăng cuối rừng gợi về một cái đẹp mỏng mảnh -

m ả n h t r ă n g chứ không phải là vầng trăng và c u ố i rừ n g cho

người đọc một cảm giác thoát ẩn thoắt hiện, gần đấy, mới thấy

đấy mà đã xa, vòi vợi xa. Ngay cái tên của truyện đã hàm chừa

tính chất không - thời gian của câu chuyện, một không - thời

gian đầy chất thơ. Giữa đạn bom vả khói lửa của cuộc chiến

tranh mà nói về trăng đã là thi vị, lãng- mạn hóa hiện thực tỏi,

nhưng ò đây trăng quấn quít với Cun người Nguyệt - têii cô gái

cũng có nghĩa là trăng và t r ă n g là Nguyệt. Á n h tráng hòa quyện

vào môi tình cua Lãm - người lái xe và Nguyệt, cô công- nhân cẩu

đường. Không phải đên truyện ngắn này ánh trăng' mới bước vào

những trang viêt của thời kỳ kháng chiên, trước đó đã có ánh

trăng treo đầu ngọn súng : "Đầu súng trảng treo” “ Đồng chí của

Chính Hữu,hình ảnh trăng ỏ đây vẫn gắn với điều gì đó mạnh

mẽ, bạo lực quá, còn ở M ảnh tr ă n g cư ô i rử ng CŨÍ1£ là chiên

tranh đấy mà vẫn nên thơ, lãng mạn đến vô cùng.

Xét về phương diện không - thời gian, có thể tạm chia

thành hai tuyên không - thời gian song song và đổng hiện, điểu

này tạo ra nhiều trường đoạn và nhiều lớp nghĩa khác nhau.

Tuyên thứ nhất là tuyến không - thời gian của người kể chuyện -

thời gian của ngòơi kê chuyện - nhân vật tôi trong truyện, theo

tuyên này, quá khứ hiện tại đan xen vào nliau mơ rộng biôn (tộ

của cốt truyện, Từ "một đêm mưa dầm" quay trở vê với "một đêm

đẩu tháng ba năm nay" là một bước chuyên từ hiện tại vể quá

khứ nhưng vẫn mơ hồ bồi thời gian vẫn chưa xác định. Tiếp nữa

trong qua khứ ỉại được đẩy lùi xa hơn : câu chuyện quay trỏ về

VỚI bôn năm năm trước cùng với bôì cảnh của công trương xay

dựng cẩu Đá xanh. Nếu sắp xếp theo một trặt tự thì chỉ trong

một đêm người kể chuyện đã dẫn dắt câu chuyện qua nhiểu điếm

mốc thời gian : thời hiện tại - khi bát đầu kê chuyện; thời quá

khứ khi câu chuyện trở về buổi đẩu gặp gở giữa anil lái xe và

Nguyệt; rồi lại hiện tại tiếp hồi tưởng quá khứ. . . cứ như thế

truyện kết thúc cũng là lúc một ngày mới sắp bắt đẩu. Sự dan

xen này gần với sự phân cảnh, sự tiếp nối giữa các cảnh trong

phim nó giúp cho người tiếp nhận đến với những tình huông

khác nhau, sô" phận khác nhau trong cùng một nhân vật, một' sỏ

phận. Chăng hạn, với nhân vật tôi - n g ư ờ i kể chuyện, người đọc

có thê ninh dung cho mình một tínli cách đa clạng, một tâm

trạng nhiều suy tư: rắn rỏi trong công việc, mạnh mẽ trong chiên

đâu nhưng vân bôi rối, rụt rè trong khi yêu cho dù a nil có một

tình cám chứa chan nồng tliắm. Tất cá tạo ra chiều sâu nội tâm

của nhân vật này.

Tuyên không thời gian thứ hai là tuyến khống thời gian

đậm đặc chất hư ảo pha chút huyền thoại đó là không - thời gian

được tạo nên bơi á n h tr ă n g và những' con đ ư ờ ng chính ánli

trăng - thứ không gian huyền ảo và đẹp đẽ, đậm chất thơ ấy đã

tôn vinh, làm đẹp cho cuộc gặp gò giữa Lãm và Nguyệt. Trăng

clưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu không phải là vầng trăng

viên mãn tròn đầy mà là mảnh trăng non đẩu tháng thoat an

thoắt hiện trong cánh rừng Trưòng Sơn. Nêu ban đầu mánh

trăng còn "tái ngắt; ánh sáng lòe nhòe; chập chờn lay động, có lúc

thầy rơi tom xuống khoảng tồi mịt mủ của cánh rừng già như

một trò chơi ú tim" thì sau này ánh trăng đã như bừng sáng' hơn

cùng với Nguyệt trong cách nhìn của người lái xe. Nguỵet ỉà

trăng và trăng cũng là Nguyệt một cái tên dầy chất thơ mà tác

giả gửi gắm, Nguyệt làm bừng sáng con đường trong đêm tôi,

cánh rừng nơi người lái xe phải vượt qua : "Từng khúc đường

trước mặt cũng thếp từng mảnh ánh trảng". Cả một không gian

ngập chìm dưới trăng, trăng trùm lên tất cả, thấm đượm môi

tình lãng mạn pha cliút huyền thoại giữa Lãm - Nguyệt "Mảnh

trăng khuyết. . . sáng trong như một mảnh bạc. K illin g cửa xe

phía cô gái ngôi lồng đầy bóng trăng'" cảnh, tình hòa hợp với

nhau, bổ sung cho nhau. Nêu chú ý chúng ta thấy nửa đầu của

câu chuyện là ánh trăng thật, không gian đầy trăng th ậ t, còn

nửa sau khi thời gian quá nửa đêm trở đi, khi " trăng lặn, mảnh

trăng đã khuất hăn xuông khu rừng ở phía sail lưng" thì vói anil

- người lái xe, cô gái đi nhờ - Nguyệt chính lại là ánh trăng soi

sáng chia đường chỉ lôi cho anh vượt qua đêm tôi, đạn bom. Khi

trăng đã lặn mà người lái xe vấn cảm thấy "khuôn mặt lộng lẫy

đầy ánh trăng" thì chính là lúc cảnh, tình đa hòa quyện không'

còn pliân biệt được nữa. Có thể gọi ldiung cảnh ấy là một bản xô

nát ánh trăng, bản xô nát ca ngợi một môi tình thời cliiến, mối

tình đầy thơ mộng và thi vị bởi có ánh tráng pha lẫn. Mảnh

trăng trong đêm rừng hôm ấy như một nhân vật nữa tham gia

vào sự phát triển của cốt truyện. Thiếu ánh trăng thì sức hút và

hấp dẫn của truyện ngắn sẽ giảm đi lất nhiều.

Là một truyện được viết trong nhùng ngày của chiên

tranh và bối canh được lấy từ khói lửa của chính cuộc chiên

trranh ấy hẳn sẽ mang đậm tính chất khốc liệt của cuộc chiên có

bom rơi và máu đã chảy, thế nhưng người đọc vừa cảm thây bao

trùm lên hết thảy là tình yêu thương' và niềm tin giữa con người

với con người, nó là sức mạnh, là ánh sáng đầy lìii bóng đen của

chiến tranh.

Cốt truyện mạnh lạc, kết cấn rõ ràng : có mở mít, tháo

nút, và những nhân vật với những tính cá khác nhau . . . đấy là

dặc trưng của truyện ngắn này cũng’ như của truyện ngắn Việt

Nam thời kỳ trước thập kỷ 80 nhưng có lẽ không' quá khi đánh

giá đây là truyện ngắn đặc sắc nhất trong thời kỳ 1945 đên 1975.

Đăc sắc bởi v ă n và t ìn h ngang nhau, đặc sắc bởi bút pháp thắm

đượm chất thơ, có những đoạn tác giả miêu tả cảnh như đang ỏ'

thời bình : "khoảng trời đêm trên cao trỏ nên trong vắt, cao lồng

lộng . . .sương trăng/sương phủ kín/ sương bềnh bồìiịr" Sương -

Anh trăng - Con người hòa lẫn vào nhau và lân át tat cả. Cảu

văn ta canh răt ngắn, nhiều thanh bằng làm cho lòi văn nhẹ

nhàng gẩn gũi với thơ hơn.

Bên trên, nhít chúng tôi đã nói, mánli trăng là một "nhân

vật' một ẩn dụ đầy ý nghĩa tham gia vào quá trình phát triển

của côt truyện, cùng với nó còn có "sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng

ánli" được tác giả nhắc đên hai lần. Theo chúng tôi đây lại là một

ân dụ nữa của tác giả, ân dụ của niềm tin con người, niềm tin

của Nguyệt nói riêng và những tlianh niên thời ấy nói chang. Họ

tin ỏ nhau, tin ỏ họ, tin vào tình cảm trong sáng như vầng trăng

đầu tháng kia, sáng thanh khiết, soi đường cho họ và tương lai

ngày mai tiíơi sáng. Sự trùng hợp của thời điểm, của kêt thúc ỏ

cả hai cốt truyện không - thời gian đều vào lúc "trời gần sáng"

như báo hiệu một ngày mai tốt đẹp và CỈ1 0 dù Làm - người lái xe

không kịp gặp lại Nguyệt để nói những điều can nói thì hình ánh

về một "đôi chim gọi nhau suốt đêm đã im tiêng, có lẽ chúng ta

đã tìm thấy nhau” vẫn là cái đích cho một cái lcêt mở của truyện.

Tất nhiên cái đích mà cả hai người đã thây nhưng đê đi

đến đó là cả một hành trình và họ đã phải trả giá bằng máu và

bao sức lực. Chính trong liành trình ấy, hành trình di tỉm tình

yêu và hạnh phúc, họ đã bộc lộ tat cả những tính cách của mình.

Nhân vật Nguyệt là một ví dụ, có một cô Nguyệt mảnh mai xinh

đẹp như một ảo ảnh dưới ánh tráng rừng và cũng có một cô

nguyệt quyết liệt, tự tin và xốc vác trong công việc, trong bom

đạn chiến tranh. "Gót chân bóng hồng/ áo xanh/ nón U‘ắutf lóa/

gương mặt tươi mát/ mái tóc thơm ngất" là nhữug RÌ gựi về hình

ánh bê ngoài của Nguyệt, nhưng còn một cô Nguyệt khác, cỏ

Nguyệt bình tình, nhanh nhẹn và quả cảm trong những giò phút

cam go, khôc liệt, một cô gái sẵn sàng' hy sinh tính mạng của

minh vì sự sông còn của đổng đội. Hai tính cách tương chừng đối

lập n h ư n g lại là một, một sự hài hòa trong một con người. Chính

sự đa clạng, sự chuyển hóa tính cách trong một COI1 người khiên

người đoo cảm thấy rung động và thêm yêu mến nhân vật. Sư

chuyến hóa và đa dạng ấy cũng xảy ra đối với Lãm như đã Lừng

xảy ra đôi với Nguyệt.

Có lẽ sự hiện diện của Nguyệt đủ là một tác nhân làm

tâm tư tình cam và tính cách của Lãm tliag đổi. Nguyệt - mảnh

trăng nơi cánh rừng Trưòng Sơn đã làm cả không gian bừng

sáng. Vẻ đẹp cùng tính cách của cô không những làm cho anh

ldiông thể dửng clitng, không thể không xao xuyên mà còn khiên

cho Lãm từ "ngạc nhiên hỏi vặn, giọng hỏi han chẳng- lấy gì làm

ôn tổn lắm; hỏi gặng" đến "vổn vã" và cuối cùng là "hỏi dò" vội và

đến mức "nghe tiếng nói của minh mà như của người khác". Tự

trọng tâm cảm của anil đã dần hiện ra một thử tình Ciím khác lạ

nào đó : đó là tình yêu đôi lứa, tình yêu với người con gái cho dù

lần đẩu gặp mặt. Anh rụt rè thú nhận "trái tim tôi cũng muôn

nảy lên trong lổng ngực" và cuối cùng là tiêng lòng, tiêng nói cua

trái tim "trong lòng tôi dấy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê

muội". Hẳn đã có biết bao mối tình như thê, và đã có bao trang

sách miêu tả những cuộc gặp gỡ, những- đôi lứa gặp nhau, yêu

nhau trên đường ra trận, nhưng M ản h tr ă n g c u ô i rừng, với

cuộc gặp gỡ bất ngờ của Lãm và Nguyệt vẫn là câu chuyện tình

đẹp đẽ và nên thơ nhất. Đẹp ở chỗ nó đắm chìm trong ruột không

gian đầy ánh trăng huyện thoại - một khontf khí hiếm hoi troi)”-

nhưng ngày khói lứa của cuộc chiên tranh, đẹp ở mỗi con người

và tình cam, tâm tư của họ : rụt rè đấy mà táo bạo, kín đáo dấy

hìc n g a y cả n h ữ n g lòi đôi thoại cũng liêt sííc b ấ t ngờ, có vẻ như

không ăn n h ậ p với câu chuyện n h ư n g lại có n h ữ n g ý nghĩa lớn

mà lại cỏi mở, mong muôn đây mà vẫn hồi hộp âu lo. Có những

khi đáy có thế là dấu hiệu rụt rè khỏi- .đầu của tâm tình sâu kín

riêng tư :

- Cô làm ở ngầm Đá xanh hay chỉ về đấy tliáin ai ?

- Em làm ở ngầm , . ,

- A quên, tôi chưa kịp hỏi tên cô đấy nhé

- Em ỉà . . . Nguyệt !

- . . . À th ế ! . . . [3; 24; 25]

Những dấu chấm lửng nhií báo hiệu một thái độ rụt rè,

tâm trạng bối rối nếu không nói là lúng túng giữa hai người. Lại

nữa, có những lời đôi thoại liết sức bâng quơ, nhưng vẫn biểu lô

cho tâm trạng của những người đang' liíng tiíng hay vụng vể

trong lần gặp ban đầu :

- Anh nhỉ ? Có phải không nhỉ

- Cô hỏi gì ?

- Em hỏi, có phải các anh lái xe đi nhiểiL nơi, chắc hản

quen biết nhiều ngừơi lắm ? [3; 28]

Đành rằng những câu hổi phải có những đấu chấm hỏi

nhưng xét trong ngữ cảnh của câu lìói đó, xét trong dung lượng

đoạn văn thì tần suất của những dấu chấm hồi đó ván in dậm

dấu ấn chủ quan của nhà văn - chủ thể sáng tạo, n^ười đã đạt

những ngôn từ trêri'vào một "tình thái" nhất địnlì.

70

Đã có một đêm trăng như thể nơi cánli rừng' rniển Táy, clả

n ă m 1945 - 1975 t h ậ t h iê m có n h ữ n g trang' văn thơ mộng và lãng

có một môi tình đẹp như thê trong đêm trăng1 đầy thi vị. Những

mạn đên vậy. Vượt lên trên cả bom rơi, lửa cháy, cái còn lại là

lắng đọng trong tâm trí bao người vẩn là mảnh trăng cuối rừng

đã che chỏ và chứng kiên cuộc gặp gõ bất ngờ không kém phần

liôi h(3p giữa hai người. Chất thd lan tỏa từ ánh trăng rừng đêm

ấy, từ những người con trai, con gái biết yêu thương, trân trọng

và giữ gìn niêm tin - tình yêu và hy vọng ỏ nhau. Lại nhớ đên

Pautôpki - người được mệnh danh là có chốt thơ trong văn xuôi,

khi văn xuôi của ông đậm chất thơ, lclii những truyện ngắn của

ông thường chỉ là một thoáng gặp gỡ mà ghi dấu suốt cả một dời,

ta lại thấy M ản h tr ă n g c u ố i rừng' của Nguvễn Minh Châu ít

nhiều có đước điều đó khi kết thúc 23 trang truyện, ánh trăng và

cuộc gặp gỡ phần nào mang tính chất như một định mệnh cứ ám

ảnh trong tám trí, cứ lan tỏa như những vòng sóng (tên vô cìing.

I I .

G I Ế N G T I Ê N - M Ộ T Ẩ n D Ụ , M Ộ T D Ấ U N ố i G IỮ A Q Ú A

K H Ứ V À H I Ệ N T Ạ I T R O N G B Ê N Đ Ư Ờ N G C H I Ế N T R A N H

Trong rất nhiều truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu kể vê

những mối tình, có những mối tình chỉ thoáng qua mà sâu nặng

nhưng cũng có những môi tình bất hạnli, đằng đẵng đợi chờ,

ngóng đợi vẫn biển biệt xa vời vợi. B ê n đường c h iê n tr a n h là

một truyện như vậy : như tiểu, đề của nó, bên cạnh cuộc chiến

tranh hơn 30 năm của dân tộc là một môi tình thủy chung son

sắt tlieo suốt cùng chiểu dài nlũĩng C011 đưừiifí ra t.iển tuyốu, khi

vào Nam, khi ngược lên phía Bắc. X é t tù góc độ văn bản học, một

tác phâm văn học được bắt đầu từ trang bia, từ cái tên của nó,

vậy nên nêu chú ý , dê nhận thấy sự nhất quán, ngụ ý của tác giả

khi đặt tên cho những đứa ccn tinh thần của mình. Nhìn từ góc

độ không gian - thòi gian thấy Nguyễn Minh Châu luôn nhấn

mạnh đên yêu tô này trong các tác phẩm của mình, từ M ảnh

trăng cuôi rừng; Bên dường' chiến tranh; Chiếc thuyền

n g o à i xa; N gư ờ i d à n b à trên c h u y ế n ta u tố c hiùili; Bến

quê; M ùa tr á i c ó c ở m iề n Nam; P h iê n chợ Giát. . . Những

tên tác phẩm đó dù ngắn hay dài đều pliẩn nào biểu hiện không' -

thòi gian xảy ra câu chuyện.

Hai mươi sáu trang truyện dẫn dắt chúng ta đến với một

mối tình chờ đợi nhau, im lặng, lặng lẽ, một mối tình của thời

chiến tranh và cho dù sau hơn 30 năm bặt vô âm tín, họ đã gặp

nhau nhưng vẫn lặng lẽ, xót xa. Nhìn vào tác phẩm có thể thấy

Hạnh - An nói với nhau rất ít : "Chào bà !.... Dạ, không dám, tôi

vẫn nhớ và đã có lời chào . . ./Vâng. Cám ơn bà ạ !" và rồi nhận ra

nhau đấy vẫn kiêm lòi bởi trong tâm trạng của họ đã nhận và

hiểu nhau từng bấy năm trời.

- Hạnh ! Tôi là An đây !

- Anh ! Em đi tìm anh suôt bao nhiêu năm trời, anh có

biết không' ?

- Anh cũng' đã từng đi tìm Hạnh [3; 56]

Những dấu cliấm than, hay những kêu thảng tliôt thoát

ra từ những trái tim ngóng trông, mòn mỏi kiêm tìm nhau suỏt

những năm tháng của cuộc chiến tranh. Cìm£ với môi lành lặnfí

lẽ ấy là một mối tình của Hường Hưng, mối tinh của tuôi trẻ, của

72

t r ì n h t ì m k iê m n h a u của hai mối tìn h tương p h a n n h au , bổ sung

cho n h a u và t ấ t nhiên sẽ tạo nên sự phong p h ú cho cốt truyện,

thời bình và vì thê nó báo hiệu tràn đầy hạnh phức. Những hành

cho độ sâu về phương diện ý ngliĩa.

B ê n đ ư ờ n g c h iê n tr a n h có những cuộc đời, sô phạn

khác nhau đặt vào những "khoảng trông" vê không gian, trong

nhiều "lỗ thủng về thòi gian, khiến người đọc phải tưởỉiịĩ tưdng,

suy tư và bổ Sling thêm ý nghĩa từ những nhân vật và cuộc đời

của họ. Chẳng hạn, từ điểm khỏi đầu là Bắc Cạn, câu chuyện

quay ngược về những địa danh: một vùng khu Ba đồng bàng Bắc

bộ/ thị xã Phủ Lý/ miền rừng biên giới Tây Bắc củng với những

địa danh ấy là cuộc đi tìm nhau, chờ đợi, ngóng trông của All và

Hạnh. Bảy năm trời An đi học ở nước ngoài lại là một dấu chấm

hỏi, một thử thách nữa cho môi tình của họ. Có thể khẳng định

dù cho trong một dung lượng hạn chê của thê loại truyện ngắn,

tác giả đã thành công khi đặt nhân vật của mình vào một không

gian rộng lớn, thời gian đa chiêu, qua đó nhân vật không những

bộc lộ rõ tính cách mà còn tăng thêm ý nghĩa của côt truyện :

thơi gian hơn ba mươi năm của một cuộc tìm kiêm tiên suốt dặm

clài đất nước trong binh đao khói lửa, tình cảm của Hạnh - An

vẫn trung chinh, nguyên vẹn như buổi ban đâu phải chăng ò họ

niêm tin và lòng chung thủy là những điểu bất biên, không gì lay

chuyển nổi. Có một hình tượng mang tính ẩn dụ và đậm chất thơ

cùng bô7 sung cho ý nghĩa trên, đó là hình ảnh giêng' tiê n cái

giêng nằm ồ trong khu vườn sau ngôi nhà mà Hạnh náu ná

không muôn rời xa để ngóng trông đợi chò điều mình tin, cái

g iế n g t iê n như mọi người nói với dòng nước t r o n g v ắ t và m á t

lạ n h . Trong tâm thức người Vi.êt, phần nào thể hiện qua ca dao

dân ca, cái giêng biêu liiện cho lòng thủv chung , mức độ sâu

đậm cua tình yêu lứa đôi, ví dụ như : "Anh tương nước giêng sâu/

Anh nôi sợi gầu dài/ Ai ngờ giếng cạn/ Anh tiếc hoài sợi dây"

G iên g t iê n trong B ê n đ ư ờng cliiên tra n h rất có thể là một ẩn

dụ của tác giả về lòng thủy chung sắt son, lòng tin vào tình yêu,

tình cảm của Hạnh sẽ được đền đáp. Ba mươi năm có lẽ chờ đợi

và ngóng trông cùng với dòng chảy thời gian là những con đường

Hạnh phải trải qua không kém phần gian nan, đau xót nhitng

tình yêu từ buổi ban đầu của Hạnh đôi với All vẫn nguyên, vẹn

như ngày nào Hạnh đã từng bảo vệ tình yêu cho mình bên giêng

nước vùng tản cư. Giếng - một ẩn dụ - hay một chứng nhân cho

lòng tin yêu chờ đợi, thủy chung của người con gái. Sự quay trở

lại của hình ảnh c á i giếng sẽ là một ám ảnh cho người đọc, là

một hình tượng ẩn dụ đầy ấn tượng và chất tho'. Cũng cần nhấn

mạnh rằng không chỉ ở B ê n đường c liiến tr a n h mới xuất hiện

ẩn dụ kiểu này mà với c á i gương và b ứ c tr a n h trong truyện

B ức tra n h ; c h iế c xe c ú t k ít trong Khách ờ q u ê ra; CƠ11

g iô n g trong truyện cùng tên; "cơn mộng chi” trong N gười đàn

bà tr ê n c h u y ê n tà u tố c h à n h đã tạo ra một Nguyễn Minh

Châu khác : khác với chính ông khi so sánh với những trang tiểu

thuyết, khác với những nhà văn cùng thời với ông khi viêt truyện

ngắn. Và có thể gọi có một phong cách Nguyễn Minh Châu trong

truyện ngắn sau 1975 và nhất là từ nửa cuối của thập kỷ 80.

Như bên trên chúng tôi đã nói, không thời gian được trải

qua trong cốt truyện và cùng với nó là những con đường đi của

nhân vật. Mỗi bước đường, mỗi khoảng khắc thòi gian, đểu gắn

chặt với sô" phận của nhân vật, nhưng mỗi khoảng khắc của

không gian và thòi gian đó không chỉ biểu đạt cho những bước di

im Inn và quyêt liệt của thời gian mà còn là một "lát cắt" cho

từng nhân vật, sô phận của họ hiện ra từng thời điểm, Hạnh là

một ví dụ : Hạnh cùng căn nhà ở Bắc Cạn là Hạnh của hiện tại,

Hạnh của một gia đình đã yên bể, đầm ám.Hạnh của hơn ba

mươi năm về trước : một cô gái mười bôn, mười lăm, tóc đuôi gà,

trên vai nặng trĩu đôi quang gánh chất dầy quần áo, xanh nổi,

chăn chiếu.../Hạnh cùng với mẹ và một lũ em lếch tliêch tản cư

từ trong Phủ Lý ra vùng tự do bên kia sông Đáy. Đây lại là hình

ảnh của một cô gái sớm phải vất vả, gian nan trong đường' đời.

Còn nhân vật An hay ông Thụy sau này, mỗi một thời

điểm của cuộc đời gắn với từng địa danh trên đất nước. Đường

111Ù, vườn cây, giếng tiên rồi Tây Bắc; Diện Biên; Biên giới Tây

Trường Sơn/ đường sô" Một/ dưỡng số Ba/ đường biên giới - siíơníí

Nam. Tất cả ông đã đi qua và những gì còn mất, C11ỐÌ cùng gặp

lại người xưa cảnh cũ với môi tình nông thắm thủy chung.

Lấy quá khứ làm điểm tựa clio liiện tại, luôn hướng về quá

khứ với những kỷ niệm đep, điều ấy là cốt lõi trong những truyện

ngắn của Nguyễn Minh Châu, ở B ê n đ ư ờ ng c h iế n tr a n h cũng:

vậy, tiếng vọng của quá khứ luôn dội về trong tâm tưởng nhân

vật Hạnh những kỷ niệm vui buồn ngày xưa vê cuộc đời Vcà môi

tinh đầu có những khi tác giả không miêu tả trực cliện quá khứ

mà bằng một hình ảnh khác đầy ý nghĩa : "Thụy chợt trông thấy

. một sợi tóc bạc trên mái tóc ấy, sợi tóc bạc cứ sáng lên trước mắt

Thụy như một nét vẽ của thời gian".

Giếng tiên “ Sợi tóc bạc và bừa tiệc cưới Hạnh mặc áo

thanh tliiên bữa tiệc cưới mà Hạnh tưởng tượng ra trong một

đêm đây hạnh phúc ấy tấ t cả làm nên cái kêt của truyện thật

nhân hậu một điêu thường tliấy trong truyện ngắn Nguyễn Miíili

Châu. Đê có được những cái kêt đầy nhân bản hẳn nhân vát của

Nguyên Minh Châu đều là những nhân vật hướng tliiện, có niểm

tin vào con người, tin vào chính bản thân mình, ở truyện ngắn

này sẽ không có niềm hân hoan, vui vẻ đầm ấm khi kết thúc câu

chuyện nêu không có một ông Phái tốt bụng và rộng lượng, ông

Phái chồng của Hạnh bây giờ, thật nhân ái, bao dung, hiểu biết,

chính ông là tác nhân để cuộc hội ngộ qua bao năm tháng gian

nan, đắng cay của Hạnh - An trỏ nên trọn vẹn.

Một đất nước của bao năm giặc giã, chia cắt triền miên,

những tưỏng những số phận con người trong cộng đổng của đất

nước ấy sẽ ngập chìm trong kliói bom và lửa đạn nhưng một

mảnh trăng cùng với môi tình trong đêm rừng; Trường Sơn, một

cuộc tái ngộ của hơn ba mươi năm chờ đợi, khắc khoải trông

ngóng tin nhau đó vẫn là ánh trăng bao trùm lên trên hêt bồi có

một cách nhìn ầm áp, tin yêu vào con người trong con người ỏ

nhà văn chiến sỹ Ngiiyễn Minh Châu. Có được điểu đó, tác giả

không phải thi vị hóa cuộc sông mà Nguyễn Minh Châu có cách

viết, khai thác đượm chất thơ toát lên từ hình tượng, từ câu chữ

hay bản thân cốt truyện.

Giả sử sô" phận nghiệt ngã không sơm xảy ra với Nguyền

Minh Châu thì hẳn chúng ta sẽ có những trang tự truyện hay hổi

ký văn học như thường thấy ! Lịch sử hẳn không' có giả sử nhưng-

vẫn thây thấp thoáng bóng dáng, tâm trạng ciia nhà vãn qua

những trang truyện ngắn. Không phải vậy sao 11011 nhà ván

không một lần tự đánh mất bản thân thì làm sao có thể viêt được

những trang đây bi kịch như trong s ắ m vai. Cùng với s ắ m vai

là B ư c tranh ; B ên quê; Môt lẩn đối chứng; Dấu v ế t n g h ề

n g h iệ p nliững truyện, ngắn in đậm đấu ấn của nhà văn : .đằrt/Vặt,

trăn trỏ và giăng xé trong tâm trạng hiểu hiện qua nhân vật Tôi

- ngôi thứ nhất tham gia vào sự phát triển của cốt truyện.

Nguyễn Minh Châu đã có lần nói : "Để làm một cuộc trỏ mình

đầy khó khăn sucít hơn 10 năm nay, đó là những năm các nhà

văn nghĩ rất nhiều và băn khoăn, day clứt rất nhiều vế mối quan

hệ giữa văn học và đời sông thực tại đang ngày một xa nhau.

Nhà văn lớn tuổi và có lương tâm cầm bút rất khó khăn. Tôi là

người viêt trong bộ đội, những năm chông Mỷ ác liệt có lúc ỏ

chiên trường sông bên cạnh cái chết nhưng khi ngồi viết thì

thanh thản, còn vê sau này, nhất là vào nliững năm 1983, 1984

có đôi khi mình cầm bút mà cảm giác y như đứng giữa trận tiên,

viết ra một cái gì đưa đi in, trở về nhà ĩìgổi nghĩ lại, lại đâm sợ

III.

C H IẾC THUYỂN NGOÀI XA HAY s ứ c MẠNH B i Ể u

cái vừa được làm ra" [6; 130].

HIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH

Giá trị của một tác phẩm văn học đôi khi cũng cần phải

tính đến môi trường và thời điểm ra đòi của 11Ó. Vậy nên, càng

quí và trân trọng hơn ldii vào thời điểm đó, đả có một Nguyễn

Minh Châu muôn đi tìm đáy cùng của sự thật, những sự thật cho

dù vô cùng nghiệt ngã mà lâu nay người ta né tránh hoặc bao

trùm lên nó những không khí "huyền thoại” và lãng mạn. Chiếc

tliu y ể n n g o à i xa là một trong những truyện như thê. Là một

trong không nhiều các nhà văn vừa sáng tác lại vừa viêt phê

bình văn học như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân . . . Nguyền Minh

Châu đã có nhiều dịp thổ lộ những nhận xét, cam nhận của mình

vê nhà văn và tác phâm văn học, nhưng đặc biệt hơn khi ông sử

dụng chính thê loại truyện ngắn để trình bày quan điểm, tư

tưởng của mình. B ức tr a n h với ngừơi họa sỹ; người diễn viên,

nhà văn trong S ă m vai; trang bản tliảũ - nhà văn trong Một lẩn

đ ôi c h ứ n g và đây nữa ngiíời nghệ sỹ nhiếp ảnh với bức ảnh

trong C h iêc th u y ề n n g o à i xa. Thông quá các nhân vật đê phát

ngôn cho tư tưởng, quan niệm của mình vê văn học hiện thực

cuộc sông; văn học và chính trị, những chức năng của văn học và

cả vai trò của chủ thể - người sáng tạo, Nguyễn Minh Cliâu như

vừa tự đôi chất với mình lại như để đối chứng, kiểm nghiệm về

nliững sáng tác của mình và bạn bè trong mấy chục năm qua.

Kiểm nghiệm để rồi đổi mới và tự đổi mới bát chấp những lực

cản của chủ quan và khách quan đã bấy nhiêu năm ngăn cản sự

phát triển và đi lên của nền văn học nghệ thuật nước nhà. Nhạn

diện Nguyễn Minh Châu từ góc độ phê bình văn học, có nhà

nghiên cứu viết : "Ông là nhà văn đã có hàng trăm trang tiếu

luận phê bình và chắc không ai ngạc nhiên khi nhà văn này,

phải, chính ông là người đã từng được giải vể phê bình tiêu luận

của Tạp chí V ăn n g h ê q u â n đội với bài viêt vể Thanh Tịnh, và

của báo V ă n nghệ với bài viêt về Nam Cao. . . và cũng không

nên quên rằng ở lĩnh vực lý luận phê bình văn học chứng ta bắt

gặp vẫn Nguyễn Minh Châu ấy : trăn trỏ, dằn vặt, hao tâm tôn

trí để khám phá tìm tòi . . . cho ra cái lẽ đời của nghề, cũa

nghiệp, của thiên chức người nghệ sỹ và văn chương” [13; 90J.

Quay trồ lại với truyên ngắn Chằêc th u y ề n n g o à i xa,

người đọc bắt gặp ở đây một cốt truyện dơn giản, gọn gàng, rlễ

tóm tắt câu truyện : một nghệ sỹ nhiếp ảnh (lược giao nhiệm vụ

đi chụp những bức ảnh vối chủ đề thuyên và biển, sẻ chẳng có gì

xay ra nêu người trưởng phòng không yêu cẩu anh có thêm một

anh vê một buôi sáng có sương ở biển. Sẽ là bình thường và nhà

nhiêp ánh có thê hài lòng về công việc được giao khi những ở biển

anli đã chụp những khuôn hình ưng ý chí ít thì cũng không phải

là những bức ảnh "vô hồn" : "hình một ngư phủ và một đứa trẻ

đứng thăng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn

bây nâng bổng hai chiêc gọng lưới chĩa thẳng lên tròi" trong một

buổi sáng đầy sương như thê. Nhưng chính trong; những giờ phút

ây, người nghệ sỹ chợt nhận ra những điều mới lạ của cuộc sông

người dân trên biển. Sau những làn sương, ánh bình minh nơi

biển cả là sự thật trần trụi về cuộc sông những ngư dân. Sự thật

của cuộc đời không phải ồ đâu và bất cứ lúc nào cũng xuất hiện

trong nghệ thuật. Cốt truyện dừng ỏ đó nhưng điều mà nhà văn

muốn gửi tới bạn đọc có lẽ ở chỗ muốn nhắn gửi các nhà nghệ aỹ -

người sáng tạo VỚI thiên chức của mình hãy nhìn cuộc sông một

cách đa diện. Cuộc sông vốn đã đa clạng, bể bộn đến phức tạp và

vì the hãy phản ánh nó như nó vốn có và từ đấy đê rổi khái quát

những gì cần cho cuộc sống, hiểu thêm cuộc sống. Bên cạnh đấy,

người nghệ sỹ càng cảm thấy trách nhiệm của mình trước cuộc

sống, con người.

Khác với B ê n đ ư ờ n g c liiế n tr a n h và M ản h tr ă n g c u ố i

rừng', C h iế c t h u y ề n n g o ả i xa được kể ở ngôi thứ nhất. Tôi ở

đây mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà văn. Cái tôi vừa ìà

nhân vật chính - tạo cái khang của truy ện lại vừa tạo được sự

gần gũi bổi tính chất tự sự như bày tỏ lòng mình. Củng có khi

cảm xúc của cái tôi không lđm giữ nổi, vượt khỏi mức bình

thường, rất gần với cái tôi trữ tình trong thư, vì lẽ đó tạo chiỢc

c h â t th ơ trong truyện. Điều này có thể thấy qua những đoạn

văn tác giả biêu hiện cảm quan của mình trước cảnh vật, con

người trong truyện. Tác giả viêt : "Tôi trở nên ngay ngất vào mỗi

buôi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm ma được

một sắc giữa xanh và xám, bầu tròi như hạ tliấp xuống và như

ngưng đọng lại : giữa tròi và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của

một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá - chiêc

thuyên đứng im như làm bằng các tông dán vào cảnh vật êm ả".

Hình như mạch cảm hứng chủ quan của tác giả trước cảnh đẹp

quyên rũ của trời biển đã không thề kìm giữ nổi và vượt khỏi

biên độ của nội dung cốt truyện, do vậy nhiều đoạn văn thiên vể

I

tả cảnh, đặc tả về cảnh, mang giọng điệu của một đoạn tliơ hơn

là văn xuôi : "Vào một buổi sáng tôi thức dậy. Đàng đông đã sáng

trắng. Trên một nửa vòm trời sao đã lặn hết.../ đám mây hình vỏ

sò cứ hổng lên dần, trong khi đó, mặt biển tuy đã sáng rõ, (lên

cái mức đứng trong bờ cũng nhìn thấy từng đường gấp nếp lăn

tăn trên mặt tấm'thép dát màu xám đục, nhưng sao mà tẻ nhạt,

tiếng sóng Ổ Ổ dội vào giấc Iigủ suốt đêm chạy trôn đi đáu hất,

biển im thin thít và khống màu sắc, như một con sứa khổng ỉổ

giạt vào bãi". [3; 107].

Đôi nghịch với những câu văn rất ngắn (chỉ có năm hoặc

sáu, bảy chữ) như trên, có nhiều trường đoạn câu dài, rất đài

gôm 154 chữ dùng để đặc tả những bức ảnh trong tương tượng

của nhà nhiếp ảnh đồng thời cũng khiên người đọc dựng lên cho

mỗi người bức ảnh của mình, tức là gợi lên trí tưởng tượng ở độc

giả. Theo lý luận hiện đại, nếu người ta so sánh văn xuôi như

một trục ngang (Syntagmatique) - trục của diễn biến, của sự kế

tiếp các biên cô' thị thơ như một l.rục dọc (parađygmatique) - trục

cua những ân dụ ầm vang, những phạm trù tương đương, đổng

nghĩa, và vì thê sự liên tưởng, trí tưởng tượng luôn là yêu tô

hàng đâu cho nhà tho' và tác phẩm. Chính vì lẽ đó, chúng tôi hiểu

phân nào và th iêt nghĩ tác giả hoàn toàn có lv khi viết : "Qua

khuôn hình ánh sáng, bôi đã hình dung thấy trước những tấm

ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyển và một

cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước,

môi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và

bóng tôi, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng

sáng rực rỡ đên chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong

tầm nhìn thật xa những đưòng nét của thán hình một người đàn

bà đang cúi iom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo

tấm lưới lên khỏi m ặt nước, và phía sau lưng ngừơi đàn bà hình

một ngrí phủ và một đứa trẻ đứng thẩng trên đầu mũi thuyền,

dùng lực toàn thân làm đòn bẩv nâng- bổng hai chiêc gọng lưới

chĩa thảng ỉên trời'1. [3; 108],

Nhưng đáu phải tác íĩiả chỉ dừng ỏ đó, dừng 0 cái vẻ đẹp

thuần túv của tròi biển lúc rạng đông, mà theo chúạg tôi tác giả

muôn đi tìm sự thật trong; sự thật, sự thật dẫu có xót xa và khắc

nghiệt, đi tìm cái xấu trong- cái đep bên ngoài, đi tìm cái ác lẩn

khuất đáu đây trong cái thiện... Cũng như đôi vói thó : "ý tại

ngôn ngoại" - lời tho’ ỏ’ ngoài ý thơ hay thơ là những khoảng

trắng, tho' nằm ỗ những khoảng cách im lặng giữa các từ, ở đây

cái mà tác giả thu nhận được đằng sau "bức tranh mực tàu của

một danh họa"; đằng sau những "bầu sương mù trắng/ toàn bộ

khung cảnh từ đường- nét đến ánh sáng đểu hài hòa và đẹp/ một

vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích" là những tiếng quát dữ dằn;

những hình ảnh cay nghiệt của một đời sông thực, những bộ inặt

đau khô, đầy bi kịch. Tất cả như những gam màu nặng của một

bức họa sâm tôi đặt bên cạnh bức tranh bừng sáng của biển -

Ng^iời đàn. bà với những đường nét thô kệch (rõ mặt/ khuôn mặt

mệt mỏi/ tái ngắt). Người chồng vói mái tóc tổ quạ/ hai con mắt

đẩy vẻ độc dữ/ mặt đỏ gay/ hai hàm răng nghiên ken két . . . Sự

hành hạ, đánh đập của n^ười đàn ông đối với người vợ của hắn

xảy ra trước mắt ngiíời nghệ sỹ nhiếp ảnh là một thực tế khắc

nghiệt và tác giả như muốn thầm nhắc đến trách nhiệm và thái

độ của những nghệ sỹ, những ngưòi cầm bút trước cuộc sông.

Đi tìm cái đẹp, cái chân và những gì có giá trị tuyệt đôi

vĩnh hằng, đó là sợi chỉ xuyên suốt trong nhiều truyện của

Nguyễn Minh Châu. Cuộc hành trình của Quỳ trong N gười đàn

bà tr ê n c h u y ế n tà u tố c h àn h , và đây cuộc săn lùns; của nhà

nhiếp ảnh về một phong cảnh ở biển vào một ban mai có sương.

Tất cả có chủ đích rõ ràng nhưng trên con đường kiêm tìm đó. sự

thật cứ là sự thật, không có những gì hoàn hảo, tuyệt đối, tất ca

đểu đa dậng, bề bộn như thực tế cuộc sông, tất cả cũng đang trên

con đường hoàn thiện và tự khám phá, con đường mà rất cần

những ngừơi như nhân vật Tôi; thằng bé Phác, đứa con gái-chị

Phác rồi Đẩu - viên chánh án huyên, những người sẽ là ánh sáng

lấn át bông tối, là điều thiện đầy lùi và loại trừ cái ác, tạo nên sự

trong lành và đẹp đẽ như buổi sáng ở biển.

Một không gian hư ảo, mo' hổ không xác định, cùng với

82

một thời gian đa tuyến : quá khứ, hiện tại, tương lai đan xen

nhau trong Chiêc. th u y ên n g o à i xa đã tạo thêm phần đậm đà

cua chât thơ cùng sự phân cảnh rõ ràng nêu cho một kịch bản

điện ảnh. Ngay tiêu đề cũng đã nói lên sự mo' hổ về khôn? gian

của côt truyện (một vùng biển cách Hà Nội sáu trăm cây sô7 một

vùng chiến trường cũ/ vùng phá ăn sâu vào đất liền/ và 0 đó một

chiêc thuyền bồng bềnh trên sóng nước. . .) và thời gian khi thì

trước đ â y c h ừ n g năm th á n g , là th á n g b ảy, th á n g ba lúc lại

mo' hổ, không phân định rõ ràng : n ă m n g à y sau; v à i n gày

sau: c h iể u h ô m ây; rồ i đêm , gần sáng; n ă m ấy... Tác giả đã

đặt nhân vật vào nhiều thời điểm khác nhau từ đó để nhận diện

bản thân và cuộc sông con ngrròi. Cuộc sông từ nhiều chiền,

nhiều phía nhìn lại. Cuộc sông của hôm qua hôm nay và ngày

mai mà ỏ đó dẫu còn nhiều nghịch lý, những nghịch lý hiển

nhiên như ngiíòí đàn bà chấp nhận cuộc sông chung với người

đàn óng trên chiếc thuyên để cùng nhau chóng chọi voi sóng gió

nòi biên khói đầy phong ba bão táp.

Đừng nhìn cuộc sông hời hợt, phiến diện một chiều, hãy

nhìn nó trong mối quan hệ phức tạp và bể bộn như nó vôn có,

Nguyễn Minh Châu gửi gắm những- ý nghĩa đó qua bức ảnh

cùng vói ơuá trình sinh thành, tái tạo ra nó qua truyện Chiêc.

th u y ền n g o à i xa, nhưng lon hòn là từ những truyện ngắn

của thời kỳ này với những cách viêt. cách khai thác vấn đê

khác giai đoạn trước đã mở ra một thời kỳ mới, một Nguyễn

Minh Châu trung tâm cho sự chú ý của dư luận vào những

năm nửa đầu của thập kỳ 80 và cũng từ đây bắt đầu tạo dựng

cho một tài năng đựơc thể hiện qua c ỏ lau; M ùa tr á i cóc ở

S3

m iền N a m cùng P h iê n ch ợ Giát.

IV. CON NGƯỜI GIỬA BẠT NGÀN c ỏ LAU VÀ DÁNG

NÚI CÙNG CÁCH HXẺU VẾ CHIẾN TRANH,

Càng có độ gián cách về thời gian thì càng có cách nhìn

sâu sắc và đầy đủ hơn về chiên tranh - sự thật của cuộc chiến

tranh và những cuộc đời, số phận con người trải qua khói lửa của

cuộc chiên tranh đó. c ỏ lau của Nguyễn Minh Châu là một

truyện như thê, 0 đây chúng tôi bắt gặp một thái độ bình tĩnh,

bình tĩnh trong cách kể, bình tĩnh ngay cả trong trạng thái hổi

hận, tự thú lòng minh. Nhân vật tôi trong truvện có lần nghĩ :

"Người đã chêt, chẳng thể ngổi dậy dưới huyệt để nói lên sự thật,

vậy anh hãy nói điều gi cho người sống nghe thấy yên tâm, mãi

mãi ghi nhó' người thân của minh đã ngã xu ông vì Tổ quôc, vì

nhiệm vụ, vì cuộc sống tốt đẹp ngàv mai của người đang sông,

hãy đừng làm người sông đan khổ hơn" [4; 65]

Có thể khẳng đinh c ỏ lau là một hành trình đi tìm. cả cái

tói vật chất lẫn cái tôi tinh thần. Lực - nhán vật tôi đi tìm lại

minh qua một trục khống gian : v ù n g n ú i Đ ợi - rừ n g cồ lau -

vùng n ú i Tử sĩ củng vói trục không gian đó là thòi gian : hiện

tại - quá khứ - tương ỉai và xung quanh trục không - thòi gian đó

là những' số" phận, những cuộc đời trước và sau chiến tranh.

Chiến tranh trong cách nhìn của nhà văn đâ khác trước, khác vói

Dấu ch â n n g ư ờ i lin h . M iền ch áy.... và cũng khác với những

nhà văn cùng thoi : "Chiến tranh, kháng chiên, không phải là

một sô" ngưòí khác, đến bâv giò tôi không hề mảy may hôi tiêc đâ

đốc tất cả tuổi trẻ vào đấy cống hiến cho nó, nhưng nó như một

4

nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đòi tôi bị chặt lìa thật khó

gán liên lại như cũ . Có những khi tác giả lại mượn lời các nhân

vật nói hộ lòng minh, cách nhìn của mình vê chiến tranh khiên

ngươi đọc phai suy ngẫm những gi ngoài câu chữ đó. 'Chiên

tranh làm người ta hư đi hơn là làm người ta tốt hơn !" - Phi Phi

một nhân vật trong truyện đã nói như vậy. Đã có nhiều nhận xét

của các nhà nghiên cứu phê bình văn học, các bạn đống nghiệp

của nhà văn vể tính luân đề trong truyện ngắn Nguyễn Minh

Châu, chúng tôi cho rằng trong rất nhiều truyện ngắn, tác giả đâ

đặt những vấn đề mang màu sắc triết lý sâu sắc, đằng sau

những câu chữ tưởng chừng hết sức bình thường ỉà cả một chuỗi

suy tư vê' cuộc sống, chiến tranh, con ngitơi và số phận của nó.

Những triêt đoạn c ỏ lau cũng vậy, nhiều khi nó giông như

những nôt lặng, trĩu đầy suy tư cho mỗi ngiĩời. Xin đưọc dừng lại

và lắng nghe lời của một ông già : "...Tôi coi các anh cả một lũ

đấy, cầm súng bao nhiêu năm giò’ lại quay về với hòn đất. Phía

bên các anh cũng vậy má phía bên bộ đội giải phóng cũng vậy".

Phải chăng cái đích của cuộc chiến tranh, cái giá phải ihẩ cho

cuộc chiến tranh đã phần nào được tác giả suy ngẫm lại và đặt ra

để mọi người cùng bình tâm suy ngẫm.

Trong suốt 63 trang truvện, hình ảnh gây ân tượng nhất

có lẽ là cáu lau, lau quay trở đi trở lại trong những trang viêt của

nhà văn (một rừng lau lách) một cái thung lũng mọc độc một thứ

cỏ lau đang trổ một trời hoa tím nhạt/ hoa lau phơ phất/ rừng

lau/ thân eâv lauJ rừng lau dầ}7 và cao/ cỏ lau/ lá lau) cứ thê rừng

ìau, lá lau, cỏ lau như một ám ảnh khiến không thể lưu tâm.

Trước ngiit ngàn cỏ lau ấv, chính tác giả cũng: không kìm giữ nổi

lòng mình và để tâm trạng mình trôi theo dòng tâm sự cỏ lau.

85

Nhìn thấy cỏ lau trên đường đi, có lúc văn phong của tác giả vượt

khoi mưc bình, thường, tạo ra độ lệch vê ngôn ngữ : câu ván dài,

rât dài (15 dòng với 159 từ), bên cạnh những câu hỏi ngắn đầy ấn

tượng và những; câu chữ cuôi câu nhiều thanh bằng tạo lời văn

nhẹ bông, vang xa. Tác giả viêt : "Chúng tôí phóng đi trên con

đường quân sự chiên lược vắng heo hút, những cao điểm ngày

xưa lính Mỹ đóng vẫn phủ đầy mây trắng, vài vệt đất đỏ 0 1 , vài

chiêc lô côt xi m ăng giữa lưng chừng trời, giải đường tăng như

một vệt tông đơ dụi một, nhát thẳng lên đỉnh, núi đứng núi ngồi

tràn ra tận hai bên mép cỏ cái giải nhựa, tất cả phủ trùm kín

trong một m àu c.ỏ lau mới mọc xanh mơn mởn, nơi nào ngày xưa

người lính vô danh đã từng nín thở bấm chặt mười ngón tay vào

vách đá leo lên, ở hẻm núi nào, ở chân điểm cao nào, như một con

cầy con cáo, ngríời lính náu kín minh rình giặc , chịu đói chịu rét,

vào quãng những năm nào đến với họ được một phong thư nhầu

nát của một người vợ, của một đứa con nhỏ gửi đi từ Hà Nam

Ninh, từ Thái Bình, từ Nghệ Tĩnh, từ Cao Bằng, Lạng Son. . và

đây, những câu hỏi : "Ai suốt đòi đâ nằm lại ? Ai chiên thắng còn

sống trở về quê hương ngoài Bắc ngõ ngàng như một người khác

lạ, sau mười năm cầm súng ỏ chiến trường; ?" [4; 35]

Cùng vối hình ảnh cỏ lau là hình ảnh núi Vọng Phu. núi

Đôi - hình người đàn bà bế đứa con trước ngực đợi chồng đi đánh

giặc bao nhiêu năm , ỉâu lắm mà không về, ngày nào cũng bê con

lên núi đứng ngóng, ỉâu ngày hóa thành đá- v ẫ n biết hình tượng

núi Vọnec Phu là hình tượng đã trở thành quen thuộc trong văn

học kể từ văn học dân gian đến văn học cổ và chính nó cũng là

nguồn thi hứng cho nhiều bài tho’, văn trong ván học hiện đại, ấy

vậy sự xuất hiện của núi Vọng Phu, núi Đợi trong c ỏ lau lại

86

mang một nét riêng, rất đậc trưng. Thứ nhất nó như một chứng

nhan cho những năm tháng ngắn ngủi mà hạnh phúc của cặp vọ

chống trẻ Thai - Lực để sail này nó trở lại thành một đôi trọng

nhăm so sánh ngầm với tên gợi vùng núi Tử sĩ khi chiến tranh

đã xảy ra nơi đây. Hai tên gọi 0 vào hai thời điểm khác nhau

nhưng môi tên gọi là mang một V nghĩa riêng : nếu Vọng Phu là

biêu trưng cho tâm trạng khắc khoải đợi chờ mòn mỏi của người

phụ nữ trong thời chinh chiến thì vùng núi Tử sĩ lại minh chứng

cho sự khôc liệt đến không cùng của chiến tranh, những chiên sỹ

ngã xuông nơi đây cùng công cuộc kiếm tìm những hình hài của

họ của gia đình, người thân đã nói lên tát cả. Thứ hai, vùng núi

Vọng Phu trong c ỏ lau inang đậm dấu ấn chủ quan của nhà

văn, có lẽ tác giả đã cảm nhận được nỗi đớn đau trong khắc khoải

đợi chò' của người ohụ nữ trong một đất nước dằng dặc nỗi

thương đau chính chiến, ỏ đây không còn là một hòn núi Vọng:

Phu nữa mà cả một vùng đày đặc hình đáng núi người đàn bà bê

con chờ chổng : "... cả một th ế gioi đàn bà đã sống trải bao thoi

gian qua, chiến chinh dường như đang tụ hội vê' đây, mỗi người

một ngọn núi, đang đứng một minh vò võ, chon von trên các chóp

núi đá cao ngất, người ôm con bên nách người bê con trước ngực,

người cõng C011 sau lưng,người hai tay buông- thõng xuồng. mặt.

quay về đủ các hương', các ngả chân tròi có súng nổ. có lửa cháy".

[4; 30, 31]. Những hình hài dáng núi đâ hiện hữu trong các nhán

vật nữ tham gia vào cốt truyện như Thai chò Lực; cô gái Phi Phi

đi tìm chút còn lại của người yêu - người chiên sỹ liên lạc của ônẹ

Lực n£ầy nào.

Sô' phận của người phụ nữ trong chiên tranh là thê. còn

ngừoi đàn óng ? Khúc Lương Châu trong thó Đường có câu : "Cổ

87

lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?" - xưa nay chinh chiên mây ai trỏ

ve ?. Nho' vao Iihững nhân vật như Lực, Hệ. chiên sỹ liên lạc trẻ

cang thây sự mât mát của chiên tranh là không gì bù đắu nối

may măn như Lực còn sông sót sau cuộc chiến tranh những cũng

không tránh khỏi bi kịch cuọc đời : mọi ngiĩòi tưỏng rằng anh đã

mất, nhưng chính sự sống sót của anh sau chiến tranh đã giúp

người đọc nhận ra giíơng mặt thật của cuộc chiến tranh, của

những hy sinh mất mát. Nhân vật Lực trong trnyện là gạch nối

cho các tình tiêt, nhân vật - sự kiện xảy ra trong cốt truyện. Có

anh ngxtòi ta hiểu thêm giá trị của những ngày hòa bình (tình vợ

chổng Thai - Lực trước cuộc chiến). Có anh ngưòi ta hiểu thêm

tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh (những đêm ngày giành

giật từng thước đất trong thành cổ Quảng Trị) và có anh người ta

nhận diện sâu xa hòn cái thiện cái ác trong một con người. : nhân

vật Lực tự thú, sám hối, dằn vặt vì đã giết người một con ngưòi

chĩ vì một còn giận với ngiíời khác chỉ vì một chút tư thù đầy nhỏ

nhen với người lính. "Cái ác nó mọc ra từ trong máu, trong" thịt

mình" đúng như lời ông già - môt nhân vật trong truyện nói. cái

ác luón rình rập, thường trực trong mỗi con người, chỉ có điều có

đủ V chí để cái thiện đẩv lùi cái ác, không cho cái ác hoành hành.

Nliân hậu trong cách viết, giàu lòng vị tha đối vói con

nạưòi lầm lỗi đó vòn là đặc trưng của ngòi bút Nguyễn Minh

Cháu, vậy nên phần kết của truyện, khi vùng núi Tử sĩ quay trở

vể vói tên gọi của nó "những hỉnh người đàn bà bằng đá đầy cô

đơn giữa trời xanh" hình ảnh ngưồi lính già với ông bô sông trong

thưng lũng hiện lên trong trí óc của nhân vật tôi vẫn là một cái

kết hết sức nhân hậu cho một câu chuyện đầv bi thương, kịch

tính. Bi thươnẹ trong auá khứ, kịch tính trong hiện tại và để rổì

8 8

đến một ngày mai yên bình, tốt đẹp hơn.

Cuộc sông như một tờ giấy, nó có hai mặt : mặt phải và

mạt trai, một cuộc chiên tranh cũng vậy bên cạnh cò' hoa của

chiên thăng là máu và nước mắt, là những mất mát, đau thương,

bản thân nhân vật Lực là một minh chứng nhưng sáu xa hòn, tác

giả còn vạch ra những mầm mồng của tội ác, những điều cần né

tránh bởi nó đã và sẽ hoành hành trong cuộc sông hòa bình : một

ông chủ tịch xã k h ô n g còn b iết thương n gư ờ i bởi còn m ê

qu yển lự c, m ê làm lên chứ c tước cao hơn, rổi những vị tư

lệnh, Ông cục trưởng, anh trưởng phòng còn bận x â y nhà, còn

bận lo cho con trai, con gái họ vào đại học. đ i h ọc nước

n g o à i mà quên mất những việc làm ân nghĩa chí ít đối với

những đổng đội của họ đã xả thân vì nước.

B iêt bao vấn đề về cuộc sống - thân phận con người trong

chiên tranh và sau chiến tranh được đặt ra trong thiên truyện

Co lau, với một lôi viết gâv ấn tượng bằng hình ảnh : cỏ lau.

hình đáng núi, ngiiời đọc chỉ có thể thấu hiểu hết ý nghĩa của nó

và dung ý của tác giả khi tìm ra được ý nghĩa đích thực sau

những hình tượng ấy. Bên cạnh đó vẫn một giọng văn đầy cảm

xúc chủ quan của tác giả bởi nhân vật Tôi giữ vai trò chủ đao của

cốt truyện chính vì lẽ đó tạo được chất thơ cho truyện. Cũng

chính cái tôi ạvj đã liên k ế t các trường đoạn (truyện có sáu khó

hav sáu đoạn chính, mỗi đoạn có một ý nghĩa riêng biệt). Đoạn

một : hiệu ảnh và những hồi ức của cái tôi về gia đình và bản

thân mình. Đoạn hai : vẫn hiệu ảnh ấy nhưng hổi ức đã được đẩy

xa hơn, tác giả để nhân vật đối diện với hiện tại. Đoạn ba : những

kỷ niệm đẹp của Thai và Lực sau ngày cưới trên vùng núi Đợi,

89

hai người giữa bạt ngàn lau lách, không một tiêng súng, chỉ tràn

n bập m e m VUI và h ạ n h phúc (nhưng hoàn toàn là của quá khứ).

Đoạn bon : hiện tại lại trỏ vể với cuộc kiêm tìm những chiên sỹ

đa nga nơi vùng núi Đợi nay ỉà vùng núi Tủ sĩ, và xen vào đó là

tâm lòng chung thủy, đợi chờ của Thai qua lời kể của ngư'ò'1

chông hiện thòi - ông Quảng. Đoạn năm : vẫn tiếp tục cuộc tìm

kiêm những tử sĩ nhưng ở đây người đọc nhận diện được thêm

tính khôc liệt của chiên tranh, mặt trái của chiên tranh qua đôi

thoại giữa Phi Phi và Lực cũng như qua lòi tự truyện, hổi tưởng

lại của nhân vật tôi - ồ n g Lực. Quá khứ hiện về đan xen vào hiện

tại. Đoan sáu - phần kêt : hoàn toàn của hiện tại : người đang

sông tìm nhau sau hơn hai chục năm xa cách, ngừol sông tìm

được ngiíời đã chêt. Câu chuyện kết thúc trong một tương lai đầy

nhân bản bởi từ đây các nhân vật không còn phải suy tư, đằn vặt

những' gì minh đã làm trong chiến tranh. Vói những tuvến nhân

vật. kêt cấu truyện như thế Nguyễn Minh Châu đã tạo ra được

những- nhân vật tiểu thuyêt đích thực, nhân vật của ông trong

Cỏ lau có bể sâu nội tâm, đa dạng trong tính cách, có khi cùng

trong một con người lại có những tính cách mâu thuẫn khác

nhan. Vì -tkê" đã có nhà nghiên cứu khẳns; định v ề n h ữ n g yêu

tô tiể u th u y ế t tr o n g tru y ện ngắn củ a N gu yen M inh Châu

[7; 3] mà ở đó "những mầm mông tiểu thuyết thực thụ lại nảy nỏ

trong một sô' truvện ngắn Nguyễn Minh Châu - Bức tra n h .

Sắm v ai. Đ ứ a ăn cắp , c ỏ lau, M ùa tr á i cóc ở m iền Nam".

M ảnh tr á n g trong M ảnh tră n g c u ố i rừng; Cải g iê n g

tiê n trong lành, mát lạnh trong: B ên đư ờng c h iê n tranh; Coil

th u y ề n cùng những ngư dân trong C hiếc th u y ề n n g o à i xa và

đâv hình ảnh của c ỏ lau bạt ngàn cùng vói nhấp nhô trừng

90

điệp những h ìn h n ú i V ọn g P hu, tất cả những hình ảnh ân du

đó đã tạo ra chất tho' cho truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Nói

như thê bơi lẽ môi hình tượng mà nhà văn đặt trong tác phẩm

đêu hàm chứa những lóp nghĩa sau đó, người đọc phải tương

tượng, đổng sáng tạo cùng tác giả, nghĩa của hình tượng nằm

ngoài câu chữ của văn bản, có vậy mối hiểu tại sao ngòi bút cùng

tám trạng của nhà văn lại chú ý khai thác đến những hình tượng

tưởng chừng đơn giản ấy.

Cùng với tính chất đa nghía, gỢi nhiều chất thơ của hình

tượng, các truyện ngắn trên của Nguyễn Minh Châu còn thể hiện

sức mạnh của tính đổng hiên vể Vhương diện không - thòi gian.

Quá khứ, hiện tại cùng tương lai đan xen. hòa quyện vào nhau

làm nền tảng, ỉà nơi để các nhân vật bộc lộ tính cách càng giúp

cho người đọc cảm nhận hết chiều sâu của tính cách nhân vật.

Đôl thoại, độc thoại nội tâm được khai thác một cách tối ưu;

nhân vật tôi - ngríời kể chuvện tham gia vào quá trình phát tri en

của cốt truyện càng làm ch 0 truyện trỏ nên gần gũi, thuyêt

phục bạn đọc. Những m ẫu nhân vật như N guyệt - Lãm của

M ảnh trăng' c u ô i rừng; Thụy - An trong B ên đ ư ờ n g c h iê n

tranh; Thai và Lực ỏ c ỏ la u là những nhân vật tác giả dày

công trong sáng tạo, vừa có chiểu sản nội tâm , lại vừa là

những nhân vật chính liên kết những môi quan hệ và phát

triển khác trong truyện. Chính những nhân vật như thê có thê

là nhũng gợi ý cho những vai diễn trong kịch bản phim đây là

lv do tại sao chúng, tôi khẳng định có c h ấ t d iện ản h trong

91

truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.

PHẨN KẾT

TRỞ VỀ BẾN QUÊ

Chọn tiêu đề Trở về B ên quê để thav cho lòi kêt vể

những điều thu nhận được aua một sô" truyện ngắn tiêu biểu cho

một Nguyên Minh Châu đổi mới, đổi mới từ cách viết cho đên

cách nhìn nhận sự vật hiệp, tượng của hiện thực cuộc sống, chúng

tôi muôn ỉ ưu ý đên một truyện ngắn, rất ngắn của nhà văn, vẻn

vẹn chưa đầy chín trang in, đó là truvện B ến quê.

Truyện kể về một con ngưòí đang ở vào những: thời khẩc

cuôi cùng của sự sông và chính lúc ấy, nhân vật Nhĩ - người đã

từ n g đ i tớ i k h ô n g sót m ột xó xỉn h nào trên tr á i đ ất. đã

từng' in g ó t c h â n k h ắ p m ọ i ch ân trời xa lạ, chợt nhận ra vào

đúng lúc sức tàn ỉực kiệt sự giàu có lẫn m ọi vẻ đẹp củ a m ột

cá i b ả i b ồ i s ô n g H ồn g n g a y bờ b ên kia, cái bãi bồi bên sóng

mà dù rất gầh với Nhĩ, ông vẫn chưa hể đặt chân đên! Cũng vào

thoi điểm, ranh giới của sự sông và cái chêt, nhân vật ấy đã nliận

ra rằng : Con n g ư ờ i ta tr ê n đường đời th â t khó tr á n h được

n h ữ n g c á i d iề u v ò n g v èo h o ặ c ch ù n g ch ìn h , con người có

nhiểu nỗi đam mê, thú vui như Nhĩ c ũ n g đã từ n g ch ơ i phá cò’

th ê tr ê n n h iề u h è p h ố ’!

Có phải B ế n q u ê là một lòi trăng trối của nhà văn? Hây

trở vể vói "Bến quê", hãv trỏ' về với chính mình! Nhân vật Nhĩ

chết trong cố đơn, trong tư th ế chới với vẫy gọi cuộc sông thật

của mình. Bên sông, con đò, mảnh buổrrụ thuở ấu thơ... là những

gì gần gũi, gắn bó vói chính cuộc đòi của Nhĩ mà anh đã tự ròi ra,

92

lãng quên.

Có phai những cô gắng để sông những giây phút cuôi

cùng cua N hĩ đã thê hiện sự khát khao, thèm muôn cuộc sông

thật cua mình? B iêt bao hình dáng của cuộc sống quanh anh

như Liên người vọ' tần tảo và chịu đựng hy sinh, thằng Tuân -

đứa C011 trai của anh ; những xứ sỏ trên toàn thê giới, tất cả

qua đi, thoáng chôc chỉ để lại mình anh với "Bến quê", để cho

anh tro thành con người cô đơn, chết trong sự cô đơn mà chính

như đã tạo ra sự cô đơn đó.

Và như thê, có phải Bến quê là một lòi khẩn cầu hay kêu

gọi con ngrrời nói chung và các nghệ sĩ nói riêng hãy trở vê với

dân tộc, trở về với tư tưởng, phong cách Việt Nam trước hết. đế

rổi hội nhập, tiếp thu những tinh hoa của th ế giới, hòa đổng cùng

thê giới. Cũng có thể Bên quê còn là lòi nhắn nhủ hãy trở vể với

chính minh trước đã. mình phải là mình: là cái tôi đầy bản ngã,

trở lại là mình, chính mình, trung thực và chân thành.

Từ B ến q u ê nhìn vể cuộc đòi và sáng tác của Nguyên

Minh ChâLi, nhất là những sáng tác ỏ' giai đoạn cuối thấy

Nguvễn Minh Châu đã làm được điều đó, hòn thê ông không chỉ

tìm ỉại được m ình mà còn dấu thán vào con đường đầy chông gai

và hiểm ngnv : "Con đường tự đổi thay, tự đổi mới. "tự thay máu"

của chính minh", nhà văn Ngnvễn Ngọc đã nói. Cũng một cách

nhìn trấn trọng, đầy ưu áỉ đôi với Nguyễn Minh Châu, nhà

nghiên cứu phê bình văn học Phong Lê viêt : "Nhà văn không

ham nói, hoặc sọ nói to, y như Nam Cao, thê mà suôt mười năm

cuối đời đã nói tiếng chính luận kể từ bài đầu tiên : V iêt về

93

c h iế n tr a iih (1978)... ở đậy, không chỉ là can đảm; là dũng: cảm,

ma con là qiryêt liệt, trong một tầm đón xa về phía trước, và

trong một nhận thức và đòi hỏi rất cao vê mình và về nghề

nghiệp cua minh. Con người lúc nào cũng đau đáu một niểm ham

mê ây, một khao khát ấy - viêt sao cho chạm được vào các tầng

sâu, vào tận đáy sâu nhũng sự thật, vê quê hương, đất nước, dân

tộc mình... Không một niềm khắc khoải lớn, không một băn

khoăn lật trỏ' lớn không thể nào chạm được vào các tầng sâu ấy

cùa sự thật, ơ phần cuôi thê kỷ này theo tôi nghĩ, Nguyễn Minh

Châu là một sô những người hiếm hoi chạm được vào những vỉa

quặng lớn của đời sông..." [14; 67].

Nguyễn Minh Châu quả đã làm được nhiều điều, cái lớn

nhất có lẽ ông đã vượt qua "một th ờ i lã n g mạn" (tên một

truyện ngắn của Ngnyễn Khải, chúng tôi nhấn mạnh), một thòi

ấu trĩ, minh không phải là minh, mơ mộng viển vông để tự vượt

lên chính mình, biết tự dứt bỏ hoặc quên đi những gì của một

thời để từ đó góp vào sự biến động bắt đẩu cho một sự biên đổi

của vàn học ỏ những năm đầu của thập kv 80.

Như ở phần mở đầu chúng tôi đã để cập, Nguyễn Minh

Châu là ngưòi có mặt trong hai cuộc chiến tranh lớn, ỉà tác giả

của nhiểu tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh và ít nhiều ông

đã có chỗ đứng trong văn đàn thời kỳ trước 1975 những: truyện

ngắn mói tạo ra được nét riêng, nét độc đáo và đem lại nhiều

đónẹ góp hơn cả bởi truvện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh

Châu đem đến cho người đọc một văn phong mói, những SUV tư

mới. Có thể khẳng định có một phong cách Nguyễn Minh Châu

qua những trang truyện ngắn. Phong cách Nguyễn Minh Châu

94

phong phú đa dạng, nhiều biến đổi : khi là những trang văn

mang hoi thỏ của huyền thoại, lúc lại là những câu chuyện mang

dang dâp, phong vị của một truyện cổ tích Uay ngụ ngôn. Có

những khi cả một truyện đều chứa đựng những hổi tưởng của

quá khứ vọng về (thương nhớ, xót xa, dằn vặt, hối hận) và gây ra

đau khô cho người khác. Đặc biệt những vấn đề lớn mang tính

nhán loại, muôn thuở của con người như cuộc đáu tranh giữa cái

thiện và cái ác, hành trình đi tìm cái đẹp, cái thiện, cái cao cả đế

:hoát khỏi thân phận "bò khoang"... được tác giả đặt ra dưới một

tầm suy nghĩ mới bằng một lối viết hiện đại.

Khí nói đên phong cách một nhà văn là nói tới nét khu

biệt, nét riêng của nhà văn đó với các nhà văn khác. Phong cách

đó chính là người (Le style, C'est Lhomme !). Nhìn lại tất cả

những truyện ngắn đưa ra phân tích ở trên, chúng tôi nhận ra

mấy nét khu biệt sau và đây cũng là đóng góp, thành công của

tác giả vào nên văn học hiện đại Việt Nam vào những năm của

thập kỷ 80.

Thứ nhất, tuy nhà văn vẫn tiếp tục hướng khai thác

truvển thông là đi tìm hành trình bên trong hay khám phá nói

tâm của nhân vật nhưng cái mới, cái khác biệt ò đây thê hiện C

chỗ, Nguyễn Minh Cháu tin thấy nhiều con người trong một con

người, nhiều tính cách trong một tính cách, nhiều sô phận trong

một thân nhận; m à rõ nét nhất được thể hiện qua người hoa sĩ

trong truvện ngắn B ứ c tranh; nhân vật T trong s ắ m vai, Quỳ

trong N g ư ờ i đ ản b à tr ê n c h u y ế n tàu tô c h à n h . Để chuyển

tải được những ý định ấv bút pháp của nhà văn đa dạng trong

giọng điệu. : cái bi, cái hài, tự thú. dằn vặt. hối hận, lúc lại thủ thỉ

95

như tám sự, bộc bạch-lòng mình đan xen hòa cùng nhau tạo ra

mọt văn ban đa thanh. Cách kể chuyện thường không dừng ỏ

mọt thơi điêm nào đó mà quá khứ - hiện tại xen lẫn nhau, những

hôĩ tưởng, giấc mơ, quá khứ dôi về tạo ra một không thòi ẹian đa

chiêu càng giúp cho ngiíời đọc cảm nhận hết chiểu sáu tính cách,

số phận nhân vật.

Thứ hai, nhà văn không chỉ nhìn hiện thực bằng con mắt

hiện thực mà tác giả đặt các nhân vật của mình vào một hoàn

cảnh, môi trưòng khác xa hiện thực. Đó là chất ngụ ngôn, chẩz cổ

tích, chất hư ảo thấm thấm đượm các trang văn của ông. Nhìn

hiện thực qua lăng kính huyền thoai, không khí, hoi thỏ của

huyền thoại bao trùm không ít các truyện ngắn : M ột lần đối

chứng; S ô n g m ã i với cây xanh, K hách ở quê ra cùng P h iên

ch ợ G iát. Cái ảo, cái thực ở đây lẫn lộn, có truyện đẫn dắt ngn-ròi

đọc cùng trở vê' với thuở hổng hoang con ngrưòi - cỏ cây - đất tròi,

nắng gió, loài vật chưa hề tách bạch, "họ" vêu thương quấn quít

cùng nhau, hiểu tâm trạng của nhau, sống nương tựa vào nhau.

Qua huyền thoại để hiểu thêm hiện thực, đế nhận ra những đôi

nghịch trong cuộc sổng C011 người và đâu chỉ là vấn để thiện/ác

mà ỏ truyện của Nguyễn Minh Châu mơ rộng biên độ vươn toi

những vấn đề mới : thật và giả, nhẫn nhục, tù túng/ tự do, giải

phóng ; nhán cách và phi nhân cách v.v.

Chiến tranh và sổ phận con người trong cuộc chiên luôn là

để tài, là vếu tô" thường trực trong sáng tác cửa Nguyễn Minh

Châu, nhưng tác giả không nhìn nó ở trạng thái tĩnh, bất biên

mà nhìn nó trong sự khám phá, tìm tòi. Nếu trước đây ông chỉ

moi khai thác một mặt của cuộc chiên tranh, mới chỉ tìm tháy

96

những nét đẹp của con người, tình yêu và niêm tin của họ trong

những năm khói lửa như Nguyện và Lãm trong M ảnh tră n g

CUOI rư ng, Thụy và An ỏ Bên dường ch iến tran h , thì về sau

nay ben cạnh niềm vui còn có nỗi buồn, bên cạnh cà hoa còn là

máu và nước mắt. Tác giả không ngần ngại khi bóc tách dần sự

thật hay đằng sau cuộc chiên là những day dứt, dằn vật vì tội ác

do chính con ngoĩời gây ra cho con người, ở một sô" truyện, tác giả

đã đạt tới tính nhân loại trong hình tượng nhân vật cùng cốt

truyện. Sự thật tìm thấy trong c ỏ lau cũng như trong Mùa

tr á i cóc ở m iề n N am khiến người ta cảm thấv xót xa và đắng

cay nhưng muộn còn hơn không, đấy có lẽ là bài học cảnh tỉnh,

báo động vê cái ác luôn lấp ló, rình dập quanh cuộc sông, luôn

thưòng trực trong con người cả hôm qua và hôm nav.

Còn có một "gam màu1’ khác, nhẹ đôi nghịch với những

"gam nặng" như trên trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh

Châu, nó tạo ra sự cân bằng, hài hòa trong cách viết của Nguyên

Minh Cháu đó là chất thơ và điện ảnh trong sáng tác của ông và

củng là vấn để cuối cùng mà chúng tôi muốn để cập khi muốn nói

tới những đóng góp và thành công của nhà văn. Chất tho' toát lên

từ những trang văn mang nặng dấu ấu cảm xúc của tác giả, đó la

cảm xúc chủ quan gần với cảm xúc trong thó, đó là chát thó được

tạo bởi những hình tượng ẩn dụ, đa nghĩa : c h iế c g iế n g tiê n

b ên đ ư ờ n g c h iế n tr a n h , m ảnh tră n g trong M ảnh tră n g

c u ố i rừ n g và chiếc thuvền thấp thoáng trong làn sương của

một buổi bình m inh ven bỏ một vùng ngư phủ. Tất cả làm dịu đi

nhữnạ nặng nhọc, chất chứa của nhân vật, của mỗi người đọc.

Nhà ván rất thành công trong việc dựnẹ cảnh, hầu hêt các côt

truyện đểu được tái tạo và đật vào một không - thòi gian mênh

97

mông, cũng có thể thòi gian xảy ra câu chuyện chỉ là một đêm

(như Phiên chợ Giát) nhưng bằng những thủ pháp hôi tưởng,

giac mo’, nhó lại, biên độ của truyện được trải ra một không thòi

gian đa chiêu tạo cơ sỏ' và môi trường để các nhân vật thể hiện

tính cách và người đọc nhận thấy đầy đủ hơn tính cách và sô

phận nhân vật. Như thê nhân vật có chiều sâu và tạo được khả

năng- tái sinh nêu chuyển sang một lĩnh vực nghệ thuật khác

như điện ảnh là một ví dụ.

"Cái quan luận định" - khi một người nằm xuống mọi việc

mới được luận bàn ! Với Ngnyễn Minh Châu tuy sô" phận nghiệt

ngã có cướp đi một tài năng văn học thì ông vẫn có được cái "may

mắn" khi còn sông, ông và những đứa con tinh thần của ông đã

được đem ra bàn luận và gây xôn xao dư luận một thòi. Khen

cũng nhiều mà lòi chê đâu phải là ít nhưng bằng những tác

phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu đã là một trong những

người đi đầu trong văn học thời kỳ đổi mới. Thời gian đã và sẽ

chứng minh điểu ấy cho ông. Thử nhìn lại những năm đầu của

thập kỷ 80, những truyện ngắn cùng vói những nhản vật của ông-

như đem lại một ỉuổng hướng mới cho vàn học nói chung và thè

loại truyện ngắn nói riêng.

Khẳng định những thành công và đóng góp của ông vào

nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. luận án của chúng tôi

cũng chỉ khiêm tốn và dè dặt đặt ra một vài khía cạnh như trên

vừa phán tích, thiết nghĩ với khoa học mọi công việc luôn là sự

tiếp nối cũng giỏng như dòng chảy của cuộc sông luôn vận động

và biên chuyên.

I " Thác là thê phách lììầỊi còn tinh anh -('Kiều) 'Hẳn Nguyên

Mmh Châu ỏ nơi xa xôi kia có biêt S£U sự mỏ’ đầu của ông là

những tài năng tiêp nôi, đi theo con đường ông đã mở ? Hẳn ông

có biêt văn chương những trang viết của ông đang được người đời

trân trọng và tìm đên để hiểu suy tư cùng với những tâm. trạng

của ông ! Riêng người viết luôn tâm niệm rằng Nguyễn Minh

99

Châu - một con người, một sự nghiệp vã.n chương chưa kêt thúc./.

TH Ư MỤC SÁCH THAM KHẢO

I. SÁCH. BÁO'. TẠP CHÍ TIẾNG VIỆT

1. Nguyền Minh Châu - Hòa đ ồn g cu n g n h ân loại

Tạp chí Văn, thành phố Hồ Chí Minh, s ố 2/1988

2- Nguyễn Minh Châu - H ãy đọc lời ai điếu cho m ột giai

đ oạn v ă n n g h ệ m in h họa

Báo ván nghệ số 49.50 (05/12/1987).

3. Nguyễn Minh Châu - T uyển tập

NXB Văn học - Hà Nội; 1994

4. Nguyên Minh Châu - c ỏ lau - Tập truyện ngắn

NXB Văn học - Hà Nội. 1989

5. Nguyễn M inh Châu - C hiếc th u y ền n g o à i xa

Tập truyện ngắn - NXB rác phẩm mới,1987.

6. Nguyễn Minh Cháu - T rang giấy trước đèn.

2:101 'chiệu. NXB khoa học xã hội, 19S4.

Phê bình tiểu luận. Tốn Phưỡn? Lan sưu tầm, tuyển chon,

7. Phạm Vĩnh Cư - v ề n h ữ n g yếu tố tiểu th u y ế t tro n g

tr u y ệ n n g ắ n N g u y en M inh Châu.

Báo Văn nghệ sô 7/ 1980.

s. Đặng Anh Đào - T ài n ă n g và ngư ời th ư ở n g thứ c.

100

NXB Hội nhà ván, 1994.

9- Nguyên Văn H ạ n h - N g u y ế n M in h C h â u n h ữ n g n ă m 80

va sự đ ô i m ớ i cách n h ìn về con người.

Tạp chí Văn học số 3. 1993.

10. Đo Đức Hiểu - Đ ổ i m ới phê b ìn h văn học.

NXB Khoa học xã hội - NXB Mũi Cà mau, 1993.

11. Đô Đức Hiểu - Đ ọc P h iên chợ Giát.

Báo Văn nghệ số 7 (17.02.1990).

12.Tôn Phương Lan - N g u y ể n M inh C h âu q u a p h ê b ìn h

t iể u l u ậ n .

Tạp chí Văn học số 6/ 1993.

13. Tôn Phương Lan - Lại Nguyên Ân - N g u y ễn M inh Châu

con n g ư ờ i v à tá c phấm .

NXB Hội nhà văn, 1991.

14. Phong Lê - V ăn h ọc và cô n g cu ộc đ ố i m ới.

NXB Hội nhà văn, 1994.

15. N.ẹuyễn Đăng Mạnh - Dẩn luận nghiên cứu tác gia văn học

Trường Đại học Sư phạm I, 12.1993

16. Nguyễn Tri Nguyên - N h ữ n g đ ổi m ớ i v ề t h i p liáp tron g

sá n g c ủ a N g u y ễ n M inh C hâu sa u n ă m 1975.

Tạp chí Văn nghệ quân đội số 10/ 1995.

17. Rene W ellek - Austin Waren - H u yền th o ạ i là gì.

101

Tạp chí Vãn học số '7/1995.

18. Nguyễn Thị Minh Thái - Â n tư ợ n g về n h â n v ậ t n ữ c ủ a

N g u yễn M inh Châu.

Tạp chí Văn học số 3/1985

19. Bùi Việt Thắng - v ấ n đề tìn h h u ố n g tro n g tru yện n gắn

N g u y ễn M inh Châu.

Tạp chí Văn học sô" 2/1994.

20. B áo V ăn n g h ệ - Sô"43; 48; 50; 53 năm 1994. Sô 2; 9; 10; 15;

16; 18; 21; 22; 25; 32; 34 năm 1995.

II. SÁCH TIẾNG PHÁP

21. Jean - Baptiste Fages - C om prendre L év i - S trau ss

Edouard Privat, Editeur . 1972.

29 Claude Lévi - Strauss - Le Cru e t le Cuit.

Librairie Plon, 1964