ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
ĐỀ TÀI: “TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985”
Tác giả luận văn: Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHAN TRỌNG THƯỞNG Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn : - Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên. - Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội đã trực tiếp giảng dậy trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư - Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận văn có thể hoàn thành. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Trần Quốc Tuấn (Nam Định) đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Minh Nguyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mục lục Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề........................................................................................ 3 2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975................................................................................. 3 2.2. Những bài nghiên cứu về tác giả.................................................... 7 2.3. Những bài viết về tác phẩm............................................................ 8 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu........................................................ 9 3.1. nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 9 3.2. Đối tượng nghiên cứu.................................................................... 9 4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 10 5. Đóng góp của luận văn.......................................................................... 10 6. Cấu trúc của luận văn............................................................................ 10 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985 1. Bối cảnh lịch sử, xã hội........................................................................ 12 1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh...............................................12 1.2. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội....................................................................................... 13 1.3. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc............................................................. 14 2. Tình hình phát triển của văn xuôi......................................................... 15 3. Diện mạo của truyện ngắn.................................................................... 19 3.1. Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người......................................................................................................... 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3.2. Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng.............................35 3.3. Thành tựu của truyện ngắn.......................................................... 37 Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975..................... ........... 41 Sự tiếp tục đề tài chiến tranh.......................................................... 41 . Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư..................... 51 2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975- 1985..... 62 2.1. Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư...... 63 2.2. Cảm hứng đạo đức giữ vị trí quan trọng....................................... 65 2.3. Sự trở lại của cảm hứng bi kịch............................................... ... 69 2.4. cảm hứng phê phán........................................................................71
2.5. Cảm hứng nhân văn.......................................................................72 Chương III Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện.................................................................75 1.1. Khái niệm và vai trò của cốt truyện..............................................75 1.2. Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau 1975....................................................................................................76 1.3. Các đặc điểm kết cấu cốt truyện................................................. 80 2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn 1975-1985............ 87 Các kiểu nhân vật mới ............................................................. 89 1.5 . Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật................................................................................................. 96 3. Nghệ thuật trần thuật...........................................................................103 3.1. Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật............................................ 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3.2. Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật..................................... 107 Phần kết luận.............................................................................. ........ 110 Tài liệu tham khảo ............................................................................ .. 113
Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 5 khẳng định thì giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ đầu những năm 80 là thời kỳ chuẩn bị tích cực, là bước khởi động tạo đà cần thiết cho công cuộc đổi mới văn học. Có thể coi văn học giai đoạn 1975 -1985 là thời kỳ tiền trạm cho cái mới. Chính vì vậy, khi tìm hiểu tiến trình đổi mới của văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng không thể không tìm hiểu bước đầu xây nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới. Dẫu đó là sự chuẩn bị âm thầm nhưng rất tích cực và cần thiết, là bước tạo đà cho quá trình đổi mới văn học hôm nay.Truyện ngắn không phải là thể loại duy nhất nhưng lại tập trung nhiều nhất những yếu tố của một nền văn học đang đổi mới như văn học Việt Nam sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Chính những điều đó đã giúp tôi lựa chọn đề tài : Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975. Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975” (Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy, Nxb Giáo dục, 2006), tác giả Nguyễn Văn Long nhận xét : Từ 1975- 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. Có thể coi đó là một nhận xét khái quát về đặc điểm của văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, trong đó có truyện ngắn. Một thể loại luôn luôn có mặt nhiều, khi lại nhận lãnh trách nhiệm dò lối, mở đường (Vương Trí Nhàn) ở những giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Đi sâu vào những vấn đề của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, có nhiều ý kiến đánh giá trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Những năm liền ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời kỳ chiến tranh. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng tác.Tuy nhiên, trong truyện ngắn (và cả truyện vừa) thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh khắc thưòng nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của
nhân vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm: truyện ngắn cũng có ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh (Nguyễn Văn Long, “Văn xuôi những năm 1975-1985 viết về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ”- Văn nghệ quân đội, tháng 4-1985). Cùng quan điểm với nhận định trên, tác giả Phan Cự Đệ (trong văn học Việt nam 1975 -1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, 1997) cho rằng cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý, tiềm thức. Nhà văn Nguyên Ngọc còn khẳng định vai trò hàng đầu của truyện ngắn trong quá trình tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt của văn học giai đoạn này. Theo Nguyên Ngọc, truyện ngắn hiện nay đang vượt qua tiểu thuyết. Nó sớm đạt đến tính khách quan xã hội cao hơn, nó đi thẳng vào vấn đề than phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con người ở đời sâu và sắc hơn (“Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí văn học số 4 - 1991). Đó cũng là nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của truyện ngắn trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới văn học. Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến một độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến (“Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định”, Nxb Khoa học xã hội, 2001). Thật ra, nhận định của hai tác giả về vai trò hàng đầu của truyện ngắn chỉ đúng trong tình hình văn học ở giai đoạn đầu những năm 80 khi văn học thực sự bước vào giai đoạn đổi mới. Điều này cũng được tác giả Phạm Mạnh Hùng thừa nhận trong cuốn sách “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX” (Nxb Đại học quốc gia Hà nội, H, 1999): Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu của thời kỳ hoà bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề, phong cách, bút pháp và các giọng điệu như đã thấy trong văn học trước
đó. Nhưng từ những năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về nghệ thuật. Theo tác giả, cái mới trong những truyện ngắn này là việc đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cả cái bình thường. Xu thế mới này ở truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định và lý giải: truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh - đó là hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu quả chiến tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 viết về sự thật. Chuyện đời thường vì thế nổi trội trong đa số truyện ngắn trong giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm văn học đời thường (“Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 2000). Về hình thức truyện ngắn 1975 - 1985 cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy nhiên, mỗi ý kiến bước đầu đưa ra sự đánh giá về một hay một vài phương diện nghệ thuật. Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” (Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996) cho rằng: trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ
thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Theo tác giả, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt… Có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện. Lý giải về những thay đổi này, theo tác giả là do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kỳ đang chuyển biến. Chính những nhu cầu mới của con người khiến các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện ngắn có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh nhậy những chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến tranh đã hết hiệu lực. Tác giả Nguyễn Văn Long (“Văn học việt nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy”. Nxb Giáo dục. H. 2006) khi đi sâu vào nghệ thuật trần thuật khẳng định từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch điểm nhìn vào nhiều nhân vật để mỗi nhân vật có thể tự
nói lên quan điểm, thái độ của mình và để có các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Bên cạnh đó sự thay đổi vai kể, cách đưa truyện lồng trong truyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc không theo một thời gian duy nhất là những nét mới trong nghệ thuật biểu hiện. Tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra một hiệu quả nghệ thuật mới để đáp ứng xu thế của thời đại. Nhà văn Ma Văn Kháng lại rất chú ý đến ngôn ngữ của truyện ngắn. Theo ông, đó là thứ ngôn ngữ vừa dung dị, vừa ma quái thêm, nó sử dụng đến sức mạnh tổng hợp của câu chữ (“Truyện ngắn - nỗi run sợ”,Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tháng 7,1992). Nhìn một cách tổng thể, truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 có xu hướng vươn tới sự khái quát, triết luận về đời sống, kể ít tả nhiều và sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tái tạo đời sống.Vì thế, truyện ngắn ở giai đoạn tiền đổi mới này như một khúc chảy mạnh mẽ, tạo nên dòng chảy liên tục của truyện ngắn dân tộc suốt cả thế kỷ XX (Bùi Việt Thắng “Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H, 2000). 2. 2. Những bài nghiên cứu về tác giả Các tác giả được chọn nghiên cứu nhiều nhất giai đoạn này là: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Ma Văn Kháng. Bởi trong những điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của họ đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lý, báo trước khả năng tự đổi mới của nền văn học Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ bất chấp trở lực cản ngăn (Lã Nguyễn, “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật”, Tạp chí văn học số 2-1989). Tuy nhiên các tác giả Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng lại
chủ yếu thành công ở thể loại tiểu thuyết. Với truyện ngắn, bên cạnh Nguyễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 6 Minh Châu - người mở đường tinh anh và tài hoa - còn phải kể đến nhiều cây bút khác như: Thái Bá Lợi, Nhật Tuấn, Xuân Thiều, Trung Trung Đỉnh, Bùi Hiển, Dương Thu Hương, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long, Lê Minh Khuê... Những bài viết, những ý kiến đánh giá về các tác giả này rất nhiều. Đặc biệt đáng chú ý là các ý kiến đông đảo của các nhà phê bình, nhà nghiên cứu, các nhà văn như Phong Lê, Vân Thanh, Tôn Phương Lan, Huỳnh Như Phương, Tô Hoài, Hoàng Như Mai, Hà Minh Đức, Trần Đăng Xuyền, Lê Thành Nghị, Trần Đình Sử, Trần Cương, Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Thiếu Mai, Bích Thu, Vương Trí Nhàn... Hầu hết các ý kiến chỉ dừng lại ở mức độ phân tích đánh giá sự thành công của từng tác giả. ở giai đoạn đầu, có nhiều ý kiến đánh giá trái chiều nhau về cùng một tác giả, tiêu biểu là trường hợp của Nguyễn Minh Châu. Mặc dù hầu hết các ý kiến đều thừa nhận những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trên hành trình đổi mới xong trong số đó vẫn còn ý kiến tỏ ra nghi ngại. Nhận xét một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, nhà văn Bùi Hiển băn khoăn về việc tác giả đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm, tính cách về hình ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa chắc đã là sâu sắc hơn (Nhiều tác giả, “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu”, Văn nghệ 1985 số 27 và 28). Tác giả Hà Xuân Trường thì cho rằng ông chỉ thành công một nửa. Hay trường hợp của Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê trong những truyện ngắn viết về những khía cạnh xấu của người đời có ý kiến cho rằng đã
làm xô lệch đi vẻ tự nhiên bình thường của con người, dẫu đó là những mẫu hình tiêu cực trong đời sống chúng ta (Bích Thu, “Truyện ngắn Dương Thu Hương. Tạp chí Văn học . số 2. 1983) nhưng lại có ý kiến ủng hộ cách viết này dù cho ngòi bút của tác giả ở đây thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách miêu tả thậm chí là có phần ác quá. Song ta đã chấp nhận phong cách này, thì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 7 để cho nó đi hết sự phát triển vốn có, không dừng lại nửa vời (Vương Trí Nhàn trong “Văn học 1975-1985- Tác phẩm và dư luận”, Nxb hội nhà văn, 1997). Đúng là ở chặng đầu của hành trình đổi mới, các tác giả của văn xuôi nói chung và các cây bút viết truyện ngắn nói riêng mới chỉ khoan những mũi thăm dò đầu tiên trên những vùng đất mới. Có mũi thăm dò thành công nhưng cũng không ít thất bại. Song những nỗ lực của họ đã được ghi nhận. Vì chính họ đã góp phần chuẩn bị để tạo ra một vụ mùa lớn của thể loại ở giai đoạn sau. 2.3. Những bài viết về tác phẩm Trong khoảng 10 năm (từ 1975 đến 1985) số lượng truyện ngắn in trên các báo quả là không nhỏ. ở đây chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên cứu một số tác phẩm được giải trên các tạp chí, các tập truyện có tác động không nhỏ đến diện mạo văn học giai đoạn này hoặc đánh dấu sự đổi mới trong sự nghiệp của các cây bút viết truyện ngắn. Có thể kể đến các tập truyện của các tác giả: Nguyễn Minh Châu với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985); Xuân Thiều với Gió từ miền cát (1985); Dương Thu Hương với Những bông bần li (1981); Ma Văn Kháng với Ngày đẹp trời
(1986); Lê Minh Khuê với Đoạn kết (1983), Một chiều xa thành phố (1986)…và các tập truyện ngắn được giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội: Có một đêm như thế (1981), Thời gian (1985)… Số lượng các bài viết này rất nhiều, đăng tải cả trên báo trung ương và báo địa phương dưới dạng thức điểm sách hoặc phê bình. Loại bài viết này phần lớn đều nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận về nội dung hoặc nghệ thuật, về những phương diện đổi mới của từng truyện ngắn hay tập truyện ngắn cụ thể. Qua đó góp phần khẳng định xu thế đổi mới tất yếu của thể loại cũng như của nền văn học Việt Nam trong giai đoạn này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 8 Chung quy lại, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu bao gồm các cuốn sách, các bài báo, các ý kiến trong các cuộc trao đổi, thảo luận, các cuộc hội thảo và một số luận văn, luận án đã có, chúng tôi thấy: nhìn chung việc nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn sau 1975 đã lật xới lên được nhiều vấn đề. Đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc về một số vấn đề như tác giả, tác phẩm tiêu biểu cụ thể nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn. Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến đánh giá chủ yếu ở dạng phác thảo sơ bộ, hoặc là những nhận định khái quát hay đi vào từng khía cạnh cụ thể của thể loại. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể sâu sắc những đặc điểm của truyện ngắn ở giai đoạn phôi thai của tiến trình đổi mới. Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu vào việc khảo sát những dấu hiệu mới của truyện ngắn nói riêng đặt trong tiến trình phát triển của văn xuôi nói chung. 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đi sâu tìm hiểu diện mạo và những đổi mới bước đầu của
truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức biểu hiện. Từ đó thấy được sự vận động của truyện ngắn sau chiến tranh trong bức tranh chung của truyện ngắn hiện đại. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung khảo sát các truyện ngắn trong giai đoạn từ 1975- 1985. Tuy vậy, truyện ngắn thực sự thay đổi là từ những năm 1980 trở đi. Hơn nữa số lượng truyện ngắn trong khoảng 10 năm này rất nhiều, luận văn sẽ không thể bao quát được hết. Để khoanh vùng phạm vi khảo sát, luận văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 9 thống kê, nghiên cứu những truyện ngắn của một số tác giả đã định hình và có thể xem là tiêu biểu cho xu hướng đổi mới; những truyện ngắn được giải thưởng trong các cuộc thi ở các báo trung ương, những tập truyện ngắn có tiếng vang hoặc gây dư luận trong quần chúng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự khoanh vùng có tính chất tương đối để luận văn có thể tập trung hơn vào những vấn đề đổi mới của truyện ngắn trong một giai đoạn khá phong phú và phức tạp này. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tích, tổng hợp 5. Đóng góp của luận văn: Luận văn cố gắng đi sâu làm nổi bật những dấu hiệu đổi mới của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong cái nhìn tổng thể và toàn diện. Hy vọng luận văn sẽ góp phần vào việc nhìn nhận quá trình vận động của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học và là bước tạo đà, gợi mở cho việc nghiên cứu truyện ngắn ở những giai đoạn sau. 6. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương: Chương I: Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương II: Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985.
Chương III: Những đổi mới bước đầu về nghệ thuật truyện ngắn 1975 - 1985. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 10 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975 - 1985 1. Bối cảnh lịch sử xã hội: 1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh: Với thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, đất nước đã thu về một mối, Nam - Bắc một nhà. Khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc về một nền tự do, độc lập phải trải qua ngót nửa thế kỷ chiến đấu kiên cường đã trở thành hiện thực. Chiến tranh khốc liệt đã qua đi, đất nước hào hứng bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ngay sau niềm vui chiến thắng, cả dân tộc phải đối mặt với hàng loạt khó khăn chồng chất. Đó là thời kỳ chúng ta lâm vào khủng hoảng sâu sắc về kinh tế, xã hội. Cơ chế quản lý cũ bộc lộ nhiều bất cập đòi hỏi phải có sự đổi mới. Đất nước hoà bình nhưng cuộc sống lại vận hành một cách khó nhọc, nặng nề. ở miền Bắc, những cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài. Gần như toàn bộ các thành phố thị xã đều bị đánh phá. Thậm chí có thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn. Tất cả các khu công nghiệp đều bị đánh phá, nhiều khu bị đánh tới mức huỷ diệt. Với miền Bắc, dù chiến tranh đã chấm dứt sau hiệp đinh Pari năm 1973 nhưng do bị tàn phá nặng nề nên nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế đến giữa năm 1976 mới căn bản hoàn thành. ở miền Nam, việc tiếp quản các vùng mới giải phóng được tiến hành hết sức khẩn trương. Việc thành lập chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng các cấp nhanh chóng được thực hiện. Chính quyền cách mạng kêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn
11 gọi những người từng làm việc trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền ra trình diện đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ ngoan cố chống đối. Các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được sử dụng kịp thời vào công tác thông tin tuyên truyền cổ động. Những hoạt động trên ở hai miền Nam Bắc bước đầu đã ổn định tình hình khinh tế xã hội của đất nước ngay sau chiến tranh. 1.2. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhiệm vụ giành lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc đã hoàn thành. Nhưng về thể chế chính trị, chúng ta vẫn chưa có một nhà nước chung. Do đó yêu cầu hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước được đặt ra một cách bức thiết. Ngày 25- 4- 1976, cuộc tổng tuyển cử Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước. Ngay sau đó Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước trong thời kỳ mới. Từ đây, nhiệm vụ tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên các lĩnh vữc chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam lần thứ IV nêu rõ: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó đã được cụ thể hoá trong hai kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 - 1980 và 1981 - 1985. Việc thực hiện những kế hoạch này đạt được những kết quả nhất định tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Đời sống của đại bộ phận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 12
nhân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều lao động chưa có việc làm. Nhiều nhu cầu chính đáng, tối thiểu của nhân dân về vật chất và văn hoá chưa được đảm bảo. Mặt khác các hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một sổ cán bộ chưa bị trừng trị nghiêm khắc, kịp thời. Thực trạng kinh tế xã hội đó đã làm lay động dữ dội mọi suy nghĩ, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân. Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải: Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hoà bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành được tự do và độc lập [25]. 1.3. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Sau 30 năm chiến tranh liên miên, khi đất nước vừa được độc lập tự do, chúng ta lại tiếp tục đối mặt với những cuộc xâm lược mới. Từ tháng 5- 1975 đến 1977, tập đoàn Pôn Pốt- Iêng Xari đổ bộ xâm lược nhiều vùng lãnh thổ nước ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Chúng dần dần mở rộng thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Tuy nhiên, hành động của chúng đã bị quân dân ta ngăn chặn và làm thất bại (năm 1978). Không những thế, chiến thắng biên giới Tây Nam của ta đã tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng Campuchia giành thắng lợi. ở biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã có những hành động làm tổn hại đến tình cảm của hai nước như: cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới, rút chuyên gia… Nghiêm trọng hơn, tháng 2 năm 1975, Trung Quốc đã mở cuộc tấn công nước ta dọc theo biên giới từ Móng cái đến Lai Châu. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, quân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu buộc Trung Quốc phải rút quân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 13 Chấm dứt hai cuộc xung đột biên giới phía Bắc và Tây Nam, nước ta đã bảo vệ toàn vẹn lành thổ và khôi phục, giữ vững tình đoàn kết hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng.
Có thể nói, bối cảnh lịch sử xã hội đất nước 10 năm sau chiến tranh có nhiều chuyển biến phức tạp. Điều này có tác động không nhỏ đến đời sống của văn học nước nhà. 2. Tình hình phát triển của văn xuôi Sự phát triển của một nền văn học nói chung, văn xuôi nói riêng bao gồm nhiều vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. ở đây chúng tôi chỉ đi vào lĩnh vực sáng tác của văn xuôi trong giai đoạn 1975 - 1985 để từ đó có được cái nhìn khách quan, tổng thể về diện mạo của truyện ngắn trong giai đoạn này. Với dân tộc Việt Nam, dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước: chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cuộc sống với những quy luật không bình thường của chiến tranh sang cuộc sống bình thường, hàng ngày của nhân dân. Tuy nhiên, văn học lại không sang trang cùng lúc với lịch sử. Nền văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật, những cảm hứng chủ đạo trong chiến tranh cho đến khoảng đầu những năm 1980. Điều này đúng với lý luận của Mác: ý thức thường chậm hơn so với thực tại xã hội. Sự chạy theo quán tính này của văn học dẫn đến tình trạng mất độc giả. Sau chiến tranh, các nhà văn có điều kiện, có nhiều thời gian hơn để viết thì bỗng dưng cái mối quan hệ vốn rất thắm thiết máu thịt giữa văn học và công chúng, giữa sáng tác và người đọc lạnh nhạt hẳn đi, hụt hẫng hẳn đi. Người đọc quay lưng lại với những sáng tác hiện tại. Đó cũng chính là khoảng thời gian mà Nguyên Ngọc gọi là khoảng chân không trong văn học. ở đó, âm không truyền đi được. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 14 Nền văn học chững lại, không ít người viết lâm vào tình trạng hoang mang, bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Nhưng dần dần họ cũng tìm ra nguyên nhân: cuộc sống thay đổi rất nhiều mà văn học vẫn giữ nguyên bộ quần áo cũ. Đời sống hoà bình nhưng hoá ra lại phức tạp hơn trong chiến tranh rất nhiều. Bởi trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con người dồn lại trong một mối quan hệ duy nhất: sống - chết. Tất cả những quan hệ đời thường, riêng tư bị đẩy lại phía sau, thậm chí bị triệt tiêu để hướng đến mục tiêu duy nhất: chiến đấu để chiến thắng. Chính ngọn lửa chiến tranh đã
thiêu cháy những sự nhỏ nhen, tính toán, bon chen của cuộc sống thường nhật. Nếu trong chiến tranh trăm người như một, đồng tâm nhất trí cho sự nghiệp chung thì hoà bình lại khác. Con người trở về với cuộc sống đời thường, đối mặt với những lo toan cá nhân, những mất mát trong chiến tranh, những khó khăn của cuộc sống kinh tế, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa quyền lợi riêng và quyền lợi chung không hoàn toàn thống nhất như trước đây. Do đó tất cả đều cần một sự thay đổi mới để có một cách nhìn, một cách nghĩ mới với tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng được những điều kiện mà thực tế đặt ra. Trong những điều kiện lịch sử ấy, văn xuôi đầu năm 80 cũng đã trải qua những trăn trở cho một cuộc chuyển mình. Tuy nhiên sự vận động ấy còn do yêu cầu nội tại của chính nền văn học. Đó là sự phát triển của tư duy nghệ thuật ở một trình độ mới. Sự vận động của văn học giai đoạn này trước hết là ở khuynh hướng sáng tác, ở quan niệm về hiện thực và con người, ở phương thức tiếp cận và miêu tả thực tại. Đầu những năm 80 trong văn xuôi đã hình thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Khuynh hướng sử thi, tiếp tục mạch chảy của nó trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc biệt ở đội ngũ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến. Nhiều cây bút văn xuôi hướng tới việc tạo dựng bức tranh toàn cảnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 15 của cuộc kháng chiến ở tầm vóc và quy mô lớn như Ông cố vấn (Hữu Mai). Độ lùi của thời gian cũng đã cho phép các nhà văn đi vào những mặt trái, những góc khuất của chiến tranh. Đó là sự hy sinh mất mát, cả những lầm lạc, hèn nhát, phản bội của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ - những người trong văn học cách mạng thường chỉ được phản ánh ở sự dũng cảm, ở mặt tốt, mặt phi thường (Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh). Tuy nhiên do bối cảnh xã hội đã thay đổi, càng về sau, khuynh hướng sử thi càng có xu hướng co hẹp lại nhường chỗ cho sự phát triển của khuynh
hướng thế sự. Lúc này, văn xuôi thực sự bước sang địa hạt của những vấn đề trong đời sống thường nhật. Đứng trứơc hiện thực này đòi hỏi người nghệ sĩ phải thay đổi cách nhìn nhận, cách tiếp cận cuộc sống. Nếu trong chiến tranh mọi việc đều được nhận thức theo một chiều (trắng - đen, tốt – xấu), ngay cả việc đánh giá con người cũng thông qua những chuẩn mực toàn dân thì giờ đây trong hoà bình, khi quy luật của chiến tranh đã hết hiệu lực, những chuẩn mực cũ không đáp ứng được hiện tại mới. Con người cần xây dựng những chuẩn mực mới. Trên mảnh đất sôi động của cuộc sống hiện thực sau chiến tranh, văn xuôi có những điều kiện để phát triển. Nguyễn Khải viết: Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật làmột mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ[25/74-75]. Trong ngổn ngang hiện thực đó, nổi lên những vấn đề được nhiều cây bút quan tâm như: đạo đức xã hội, tiêu cực trong quản lí sản xuất, nhận thức lại một số vấn đề trong qúa khứ... Với Hai người trở lại trung đoàn (1976), Thái Bá Lợi là người mở đầu báo hiệu cuộc đấu tranh phức tạp chống lại sự sói mòn trong đạo đức của con người. Những bông bần li (1981) của Dương Thu Hương lại đặt ra vấn đề đạo đức và số phận con người trong một xã hội tiêu dùng. Sau những năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 16 chiến tranh liên miên, mỗi người dường như phải gồng mình lên đối diện với hàng loạt khó khăn chồng chất, hướng về những nhu cầu thiết yếu (ăn ở mặc...) con người phát triển chưa thể cân bằng. Những khó khăn về đời sống ấy dễ gợi mở về một nhu cầu phiến diện. Chủ nghĩa thực dụng và văn hoá tiêu dùng hiện đại đã trở thành đối tượng có sức hấp dẫn đặc biệt[39/88]. Mặt khác ở cây bút đầy nữ tính này nhu cầu hạnh phúc riêng tư của con người cũng được diễn tả, bộc lộ một cách khẩn thiết. Giữa ranh giới buồn - vui,
được - mất của cuộc sống thì khát vọng hạnh phúc của con người là khôn cùng. Bên canh đó, một số truyện của Nguyễn Minh Châu, Vũ Tú Nam, Ma Văn Kháng... lại tiếp cận vấn đề đạo đức từ góc độ gia đình. ở đó thường diễn ra hành trình tự ý thức, tự phán xét lương tâm của cá nhân xoay quanh trục thời gian hai chiều: quá khứ và hiện tại. Những năm sau chiến tranh, xã hội bắt đầu tỏ rõ sự trì trệ, yếu kém và có phần bế tắc. Những vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế xã hội thời kì khủng hoảng cũng là mảng hiện thực nóng bỏng trong đời sống văn học. Khi tiểu thuyết Đứng trước biển (1982), Cù lao chàm (1985) của Nguyễn Mạnh Tuấn xuất hiện đã gây phản ứng khác nhau trong dư luận bạn đọc, làm xôn xao văn đàn, kéo độc giả đến gần với văn học. Bởi đó là một minh chứng hùng hồn cho quan điểm của Đảng ta: văn học là cuộc sống, là sự đấu tranh của những nhà văn cho một cuộc sống tốt đẹp, cuộc đấu tranh bằng tác phẩm văn học [81/439]. Nổi lên sóng gió dư luận hơn cả là khuynh hướng nhận thức lại một số vấn đề của thời kì chiến tranh. Nhận thức lại không đồng nghĩa với việc xét lại hay bắn súng đại bác vào quá khứ mà là nhờ vào kinh nghiệm, người ta gạt bỏ cái sai lầm khỏi cái chủ quan nó bao để đi đến chân lí. Thời xa vắng của Lê Lựu, Những tháng ngày đã qua của Xuân Thiều, Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam, Nguời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 17 Nguyễn Minh Châu... là những tác phẩm viết theo hướng này. Các tác phẩm đó đã đặt ra vấn đề nhận thức lại quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa con người và hoàn cảnh nhưng quan trọng hơn là con người tự nhận thức lại chính mình. Viết theo xu hướng này nhà văn cần có cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt và một tấm lòng chân thành, như lời tâm sự của tác giả Võ Văn Trực viết lại chuyện cũ, tôi hoàn toàn không có ý đồ xấu xa moi móc những sai lầm chúng
ta đã vấp phải để rồi đổ lỗi cho người này hay người kia mà cốt để chúng ta đừng lặp lại những sai lầm ấy[74/5]. Do đó, trên lối đi mới này, các nhà văn đã đem lại cho bạn đọc những kiến giải thú vị, có khả năng thanh lọc tâm hồn con người. Như vậy, thâm nhập vào đời sống văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, đặc biệt từ nửa đầu những năm 80 trở đi có manh nha vật chất mới, còn rất loãng, tất nhiên, đang vận động, đang hình thành, đang tụ lại dần, khó nhọc, chậm chạp, nhưng về xu thế lâu dài là hứa hẹn[51/10]. Đó là sự đổi mới trong nhận thức về hiện thực theo hướng nhìn sâu hơn hiện thực ấy. Đó cũng là cảm hứng phân tích để chỉ ra nhiều mặt của hiện thực (bao gồm cả mặt sáng và mặt tối), là khát vọng dân chủ và nhân đạo, hướng sự quan tâm vào con người cá nhân. Những chuyển đổi trong nội dung phản ánh này cũng đòi hỏi sự đổi mới trong hình thức thể hiện. Sự khởi động của một thời kì văn học mới cũng ảnh hưởng bởi mảng văn học dịch. Trước năm 1975, văn học nước ngoài đương đại được dịch và giới thiệu ở Việt Nam chủ yếu là những sáng tác của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sau 1975, hoạt động dịch, giới thiệu nền văn học đương đại Âu- Mỹ diễn ra sôi nổi. Các tác phẩm đoạt giả Nôben, các tác phẩm thuộc nhiều trường phái nghệ thuật khác nhau như tượng trưng, siêu thực, hiện sinh, hiện đại, hậu hiện đại... được dịch rộng rãi. Ngay cả một số tác phẩm văn học các nước xã hội chủ nghĩa từng bị cấm như thơ Akhơmatôva, tiểu thuyết của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 18 Paxtécnác cũng được bày bán. Mảng văn học dịch này có tác động không nhỏ tới quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam. Nó làm thay đổi thị hiếu nghệ thuật
của thanh niên. Nhiều nhà văn từng sáng tác trong thời kì chiến tranh nhận ra rằng nếu tiếp tục sáng tác như cũ họ sẽ tự đánh mất độc giả. Nghĩa là văn học dịch đã làm cho các nhà văn Việt Nam thấy cần phải đổi mới cách viết[40/56]. Tuy nhiên, khoảng mười năm sau chiến tranh, trong lĩnh vực sáng tác việc đổi mới cách viết chưa trở thành một phong trào rầm rộ, chưa xuất hiện nhiều những cây bút trẻ có khuynh hướng đổi mới. Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn là những nhà văn đi tiên phong trong giai đoạn văn học tiền đổi mới này. Những sáng tác của họ góp phần mở đường cho văn học đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc từ sau 1986. 3. Diện mạo của truyện ngắn 3.1. Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người. 3.1.1. Quan niệm về hiện thực Theo Trần Đình Sử, thuật ngữ quan niệm trong nghệ thuật là một khái niệm về chủ thể, khái niệm về hệ quy chiếu, thể hiện tầm lí giải, tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm, nói tổng quát là tầm hoạt động của chủ thể. Quan niệm cung cấp một mặt bằng để trên đó diễn ra sự lựa chọn, khái quát, nhào nặn, tạo ra hình tượng nghệ thuật, thậm chí có thể biến đổi hình dạng sự vật hoặc miêu tả không chính xác về đời sống[77/8]. Do quan niệm thuộc về chủ thể sáng tạo nên mỗi nhà văn có quan niệm riêng về hiện thực. Đó là sự nhận thức, đánh giá về hiện thực cuộc sống của nhà văn theo một quan điểm thẩm mĩ nhất định. Như thế không có nghĩa là quan niệm nghệ thuật về hiện thực của nhà văn chỉ là nhận thức trừu tượng, lí thuyết, chung chung. Trái lại, đó là cách nhìn, là sự cảm nhận về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 19 đời sống xã hội được nâng lên tầm khái quát nhưng vẫn mang hơi thở của cuộc sống và vẫn gắn bó máu thịt với cuộc đời thực. Quan niệm về hiện thực thể hiện sự khám phá, sự lí giải, trình độ chiếm lĩnh hiện thực của nhà văn.
Và mỗi người thường có môt vùng đối tượng thẩm mĩ riêng mà tự nó đã ghi đậm dấu ấn của chủ thể sáng tác. Trong văn xuôi thời kì trước năm 1975, do yêu cầu của cách mạng nên hiện thực được phản ánh trong tác phẩm chủ yếu là hiện thực chiến tranh. Đó là hiện thực của cuộc sống chiến đấu họăc vừa chiến đấu vừa sản xuất nhiều khi được tráng một lớp men trữ tình hơi dày. Nói như Nguyễn Minh Châu hiện thực của văn học có khi không phải là hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người đang hi vọng, đang mơ ước . Sau chiến tranh, khi hiện thực cuộc sống thay đổi, khi tư duy nghệ thuật cũng dân chủ hơn thì biên độ của hiện thực ngày càng được mở rộng. Đó không chỉ là hiện thực về đời sống chiến tranh được miêu tả dưới cái nhìn mới mà còn là hiện thực về số phận của một cá nhân, một gia đình, một dòng họ sau những tổn thất to lớn trong chiến tranh, hay là hiện thực cuộc sống trong thời kì khủng hoảng, bế tắc của xã hội. Cuộc sống được phản ánh vào trong tác phẩm không chỉ là cái phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn của con ngưòi phần hậu chiến, là cuộc sống với tất cả cái sôi động quyết liệt của cuộc đấu tranh cũng như cái đời thường vừa nhân hậu ấm áp, vừa nhếch nhác lấm lem[36/12]. Sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực như vậy giúp nhà văn phản ánh cuộc sống một cách toàn vẹn hơn, chân thực hơn. Văn xuôi vượt qua tình trạng bị lệ thuộc vào đề tài, vào một cái nhìn đã định trước để mở ra khả năng phong phú vô tận trong việc khám phá và thể hiện đời sống. Nhà văn cũng có thể đi đến những miền khuất, những mặt trái của đời sống, đến với chiều sâu tâm tưởng, tâm linh của con người. Những nơi mà trước đây trong chiến tranh họ ít có điều kiện để khai vỡ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 20 Nhìn lại những sáng tác trong chiến tranh, chúng ta nhận thấy văn học đã cố gắng bám sát cuộc sống chiến đấu oanh liệt của dân tộc. Điểm mạnh trong những sáng tác của họ là giàu tính thời sự, có sức động viên và cổ vũ lớn lao. Tuy nhiên sau chiến tranh xuất hiện những yêu cầu mới, yêu cầu tái
hiện lịch sử phải gắn liền với đòi hỏi đi sâu vào số phận và diễn biến của con người; viết về cuộc chiến tranh hôm qua phải đặt trong tương quan với những yêu cầu của cuộc sống hôm nay [39/209]. Với đặc thù của thể loại, truyện ngắn đã chưng cất những mảng hiện thực của cuộc sống chiến tranh. Mặc dù phần lớn truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 viết về chiến tranh vẫn bám vào các sự kiện, vẫn lấy sự kiện làm trục chính song cách triển khai vấn đề ở những truyện ngắn này cũng không hoàn toàn giống trước. Những hoàn cảnh ngặt nghèo, những khúc bi thương nhất của chiến trận vẫn được khắc hoạ đậm nét trong nhiều truyện ngắn: Hai người trở lại trung đoàn của Thái Bá Lợi, Chuyến xe đêm của Ma Văn Kháng, Ngày không bình thường của Phạm Hoa, Người trong cuộc của Trung Trung Đỉnh... ở đó, những phẩm chất anh hùng sáng ngời của người lính vẫn được khẳng định. Tuy nhiên chiến tranh cũng là một cuộc kiểm nghiệm nghiêm khắc đối với con người, sàng lọc mọi giá trị con người. Có anh hùng nhưng cũng có những kẻ hèn nhát, sợ chết, phản bội hay gắng gỏi leo lên những bậc thang địa vị. Nhân vật Trí (Hai người trở lại trung đoàn) vừa là một con người dũng cảm, thông minh trong chiến trận nhưng lại là kẻ thủ đoạn trong tình yêu. Song khi có được tình yêu thì sẵn sàng rũ bỏ nó, rũ bỏ cả đứa con mình để leo lên địa vị trung đoàn trưởng. Bối cảnh chiến tranh ở truyện ngắn này không còn chiếm địa vị độc tôn mà luôn song hành, đan xen với hành trình đi tìm hạnh phúc của các nhân vật. Chiến tranh nhiều lúc chỉ là cái nền để nhân vật bộc lộ tính cách của mình. Tuy nhiên, cách xử lí vấn đề ở truyện ngắn này vẫn thiên về ca ngợi con người anh hùng. Vì thế, cho đến cuối truyện tác giả vẫn để cho nhân vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 21 Trí sống yên ổn với cương vị trung đoàn trưởng của mình mà không hề phải nhận bất kì hình thức kỉ luật nào.
Đưa nhân vật vào trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh để từ đó trình bày những diễn biến và số phận không giản đơn của con người là cách các nhà văn lựa chọn khi viết về mảng hiện thực chiến tranh. Âm hưởng chung ở những truyện ngắn như thế dù vẫn thiên về ca ngợi cái cao cả, cái anh hùng của con người nhưng đằng sau đó là hình ảnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường. Truyện ngắn Chuyến xe đêm của Ma Văn Kháng kể về hai vợ chồng người phóng viên phương Tây được một người lính lái xe người Việt Nam đưa qua biên giới Campuchia. Hành trình tuy không dài nhưng họ luôn phải đối diện với những bất hạnh khôn lường bởi sự tấn công bất ngờ, hiểm ác của tàn quân Pôn pốt. Khi chiếc xe gần đến trạm gác cầu cuối cùng thì bị tấn công. Người lái xe bị trúng ba viên đạn ngay từ loạt tấn công đầu tiên. Trước khi bọn tàn quân sắp sửa phóng một quả B41 để huỷ diệt cả xe thì anh nghển lên giống như quằn quại...chân vẫn đặt hờ trên chân ga, tay vẫn nắm chặt vành tay lái[54/427] đưa chiếc xe vuợt qua cõi chết, cứu sống vợ chồng người phóng viên. Hành động của anh khiến họ hiểu ra rằng một dân tộc vị tha, sống chết vì người khác, điều đó đã trở thành một đạo lí, một nguồn năng lượng vô tận[54/428], một sức mạnh diệu kì để vượt qua mọi gian khổ. Điều mà nhà văn hướng đến không phải là sự mô tả chiến tranh thông thường mà là sự cắt nghĩa cội nguồn đã làm nên chiến thắng. Bảo Ninh lại xử lí hiện thực chiến tranh bằng cách đi vào những góc khuất của tâm trạng, những bi thương của chiến trận trong những hoàn cảnh đặc biệt. Tryện ngắn Trại bảy chú lùn viết về cuộc sống của những người lính hậu cần bị bỏ quên trong khi họ làm nhiệm vụ coi kho ở Trường Sơn. Môi trường chiến tranh ở đây không có tiếng súng, không có kẻ thù cụ thể nhưng giữa rừng già cô độc, họ đã phải chiến đấu với chính bản thân mình để Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 22 giữ vững tấm lòng nhân bản của người lính cũng như tâm hồn nhân văn của
họ. Tư tưởng đó sau này còn được nhà văn tiếp tục ở một khía cạnh khác sâu sắc hơn trong Nỗi buồn chiến tranh. Chính cách nhìn chiến tranh bằng nhãn quan văn học một cách nhân bản như thế đã đem lại sự mới mẻ so với những tác phẩm viết về chiến tranh trước đây. Bên cạnh đó, nhiều truyện ngắn chỉ lấy việc mô tả chiến tranh làm tấm gương lớn để con người tự soi ngắm lại chính mình và những người xung quanh.Trong truyện ngắn Cơn giông, lí giải sự chiêu hồi kẻ thù của Quang, Nguyễn Minh Châu cho rằng y là một con người luôn luôn tìm cách thoả mãn mọi thèm khát của bản thân mình nên khi cách mạng gặp khó khăn, y thành kẻ chiêu hồi. Điều này dược nhà văn triển khai nhất quán trong mọi việc làm, mọi hành động suốt cuộc đời y. Nhưng chiến tranh chính là lúc y bộc lộ rõ nét nhất mặt thật của mình. Còn nữ phóng viên Nguyên Bình (Năm tháng đi qua của Nguyễn Thị Như Trang) khi đến với mặt trận Tây Nam, đến với những người lính dũng cảm mà giản dị, khiêm nhường lại giúp chị nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Là một phóng viên sống ở Hà nội, chị luôn khao khát được nếm trải nỗi vất vả của những chuyến đi thực tế, hoà cái riêng của mình vào ngàn mảnh đời chung để tạo nên những trang viết. Nhưng Văn, người yêu của chị, một nhà thơ trầm ngâm đi trên hè phố Hà Nội với những câu thơ viết về nỗi đau khổ, lại không đồng tình với suy nghĩ đó. Khi chứng kiến sự hi sinh của những người lính trong lòng chị cứ day dứt một câu hỏi Sống như thế tôi sẽ có ích gì cho cuộc đời này? Và hình ảnh của Văn bỗng nhoà đi rất nhanh. Như vậy, chiến tranh không chỉ là thước đo giá trị con người mà đồng thời cũng giúp con người nhận thức về cuộc sống và sống có ý nghĩa hơn. Trong những truyện ngắn như thế, chiến tranh được nhìn từ tiêu điểm con người với số phận cá nhân chứ không phải là dòng sự kiện. ở đó, con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 23 người vừa chịu sự chi phối của hoàn cảnh, vừa tác động lên hoàn cảnh. Cái nhìn về hiện thực chiến tranh ở đây có nhiều thay đổi so với thời kì trong
chiến tranh. Nhà văn không chỉ giúp người đọc hiểu rõ về chiến tranh hơn mà còn nhận thức sâu sắc cái giá của chiến thắng. Tái hiện quá khứ để hướng vào cuộc sống hiện tại cũng là một cách tiếp cận với hiện thực chiến tranh sau chiến tranh mà các nhà văn thường lựa chọn. Bởi các thế hệ hôm nay và mai sau tìm đến những tác phẩm này không phải chỉ để chiêm ngưỡng những vinh quang của chiến thắng mà còn để soi tìm trong đó những tấm gương tinh thần, đạo đức, nghị lực, để tìm lời giải đáp cho những vấn đề của cuộc sống con người trong nhiều thời đại. Cái hôm qua được nhận thức và lí giải từ chỗ đứng hôm nay, cái ánh sáng rạng rỡ của hôm qua vẫn tiếp tục chiếu rọi vào cuộc sống hôm nay. Song song với hiện thực chiến tranh là hiện thực về cuộc sống thường nhật sau cuộc chiến. Từ những năm 80 trở đi vùng hiện thưc thế sự, đời tư này chiếm một vị trí ngày càng quan trọng hơn trong đời sống văn xuôi. Nguyễn Minh Châu là nhà văn sớm có những tác phẩm thành công ở mảng hiện thực này. Qua hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của ông người đọc có dịp nhân rõ hình ảnh của cuộc sống bình thường mà lấp lánh ánh sáng. Trong dòng sự kiện của cuộc sống, con người thường hướng tới những điểm nóng, những sự kiện lớn lại dễ bỏ sót những đốm sáng nhỏ nhoi nhưng chính nó lại là một phần của cuộc sống.Từ những truyện tưởng rất bình thường nhỏ nhặt không có gì đặc biệt như: Một lần đối chứng, Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Đứa ăn cắp, Một người đàn bà tốt bụng, Sống mãi với cây xanh... Nguyễn Minh Châu vẫn tìm ra được các khía cạnh sắc sảo của thế thái nhân tình, của những vấn đề vừa nhỏ bé, vùa rộng lớn trong số phận cá nhân. Đúng là ông có khả năng nhìn đâu cũng ra truyện ngắn (Lê Lựu).Từ đó, nhà văn đã góp phần làm phong phú Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 24 thêm đời sống tinh thần cho mỗi người, bồi đắp thêm ý thức trách nhiệm với đồng loại và nhân lên lòng yêu cuộc sống. Mặc dù Nguyễn Minh Châu mới
chỉ sống ở buổi đầu của thời kì đổi mới nhưng ông đã nhìn thấy những vấn đề của thời kinh tế thị trường: đó là sự phân hoá của các thế hệ trong mỗi gia đình (Giao thừa), là vấn đề môi trường sinh thái trong quá trình đô thị hoá (Sống mãi với cây xanh), là ý chí khát vọng làm giàu của người nông dân (Khách ở quê ra), là sự du nhập của lối sống phương Tây vào các gia đình truyền thống (Sắm vai)... Xã hội Việt Nam những năm 80 mới chỉ là thời điểm bắt đầu đổi mới, ở thời điểm này cái cũ chưa mất đi, cái mới cũng chỉ đang trong hành trình tìm tòi, thử nghiệm. Nguyễn Minh Châu như một người đi biển lành nghề đã nghe thấy trong hơi gió và tiếng sóng những điềm báo về một cơn lốc mới mà ảnh hưởng của nó đến các mặt sẽ trở thành phổ biển trong đời sống xã hội vào những năm chín mươi[35/67]. Cũng tiếp cận đời sống ở bình diện sinh hoạt thế sự, những sáng tác văn xuôi của Ma Văn Kháng ở buổi đầu những năm 80 lại thấy xuất hiện cái nhìn mới trong quan niệm về hiện thực. Với ông, hiện thực phức tạp, không thể biết trước, không thể biết hết, con người vẫn đang còn nhiều bí ẩn cần phải khám phá tìm tòi. Nhiều nhân vật của ông đã trực tiếp bày tỏ quan niệm này. Luận trong Mùa lá rụng trong vườn đã phát biểu Đời phức tạp là do nó vốn thế chứ ai bịa ra được[32/54] . Còn Cừ ở nơi đất khách quê người trong cuộc trả giá cuối cùng của cuộc đời đã nhận thức ra một điều Cuộc sống là một sự phát hiện liên tục[ (32/187]. Khi hướng sự quan tâm chú ý vào mảng hiện thực đời thường, Ma Văn Kháng cũng tìm thấy từ trong hiện thực muôn hình vạn trạng ấy những sắc thái trữ tình cùng những vẻ nhân sinh có sức toả sáng có khả năng thuyết phục con người. Trong tập truyện ngắn Ngày đẹp trời, nhà văn đã khắc hoạ nhiều vẻ đẹp khác nhau của con người trong cuộc sống. Đó là vẻ đẹp của chú bé Kiểm (Kiểm- chú bé- con người) dẫu bị thiếu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 25 thốn, dập vùi nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu thương người khác. Là giọt nước mắt muôn màng nhưng đáng quý đáng trân trọng của ông Luyến (Mất điện).
Giọt nước mắt ấy là sự chiến thắng cái trì trệ, thờ ơ, vô trách nhiệm của con người trước cuộc sống… Qua tập truyện ngắn này, tác giả cũng muốn nhắn nhủ với con người trong cuộc sống hiện tại: Hơn bao giờ hết cần phải giữ được cái mầm nhân bản, phải bảo tồn cho được cái khả năng yêu thương đồng loại ở mỗi con người. Yêu thương kẻ ngoài quan hệ huyết thống, yêu thương con người với tính cách đồng loại, một tình yêu ấy mới thật hiếm hoi và rất cần vun đắp[31/185]. Nhiều truyện ngắn của Lí Lan, Trần Thị Thuỳ Mai, Thuỳ Linh…cũng được triển khai theo hướng này. Sau đại thắng mùa xuân 1975 cả dân tộc vừa phải xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội, vừa đối diện với những cuộc chiến tranh biên giới. Cuộc sống khó khăn lại chồng chất thêm bởi những tiêu cực trong quản lý kinh tế và tổ chức xã hội. Đứng trước hiện thực đó, nhiều nhà văn đi vào những khía cạnh xấu của đời sống hiện tại. Nguyễn Mạnh Tuấn, Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê là những cây bút có nhiều truyện ngắn theo hướng phản ánh mặt trái của hiện thực. Trong tập truyện ngắn được giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam năm 1987 Một chiều xa thành phố, Lê Minh Khuê đã phản ánh khá tinh tế sự chuyển động lúc âm thầm, lúc mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của con người thời đại. Con người bị cuốn vào cơn lũ của đời sống tiện nghi, của tâm lí tiêu dùng, của thói lãnh cảm với quá khứ, với đồng loại. Sự phê phán của nhà văn với những thói hư tật xấu ấy của con người nhẹ nhàng mà thấm thía. Từ một cô gái nhiệt tình, hăm hở Tân (Một chiều xa thành phố) trở thành kẻ hưởng thụ và ích kỷ bởi sự nhập cuộc với hiện tại cuồng nhiệt nhưng sai đường. Cô sống thờ ơ với bạn cũ, cố chạy theo lối sống vật chất, khiến cho chồng cô phải thốt lên một cách khinh bỉ cái nông cạn của người đàn bà cũng như một thứ tội ác. Nếu lấy cách sống của Tân để minh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 26 chứng cho triết lý ấy thì chưa thực sự thoả đáng nhưng đó là một lời cảnh báo: con người tiếp cận với cuộc sống hiện đại, càng hiện đại mình thì càng trở nên vô cảm với xung quanh nếu anh ta không có được vốn văn hoá cần thiết. Và kết quả là những người như thế đã tự đẩy mình vào chỗ cô đơn. Hướng khai thác hiện thực này cũng được Dương Thu Hương triển
khai một cách sâu hơn trong truyện ngắn Ban mai yên ả. Nhân vật chính trong truyện từ chiến trường trở về hòa nhập vào đời sống bình thường ở hậu phương đã vấp phải bao khốn khó. Lối sống tỉnh lẻ tuỳ tiện, lười biếng, một số cán bộ dửng dưng, vô trách nhiệm. Tất cả như một thứ keo đặc vây bủa lấy anh, khiến những ý định tốt lành của anh khi trở về không sao thực hiện được, Chỉ muốn sống cho lương thiện thôi anh đã phải làm phiền đến bao nhiêu người và gây cho họ không ít sự bực bội. Cách khai thác của Dương Thu Hương là nhìn thẳng vào đời sống, xé tuột cái vẻ bề ngoài để khơi thẳng vào những gì thuộc về thực chất của các hiện tượng cũng như các mối quan hệ. Chủ yếu để cho người đọc thấy rõ mặt trái, phần khuất lấp của cuộc sống con người. Cách lật tẩy cuộc sống như thế còn bắt gặp trong nhiều truyện ngắn của chị như: Loài hoa biến sắc, Ngôi nhà trên cát, Chuyện nghe thấy mà không nhìn thấy, Một khúc ca buồn... Trở lại với hiện thực đời thường, chọn những con người, những sự việc bình thường làm tiêu điểm, đặt nó vào quỹ đạo quan sát của văn học các nhà văn đã khơi vào nguồn mạch mới để làm giàu thêm cho nhận thức và sinh hoạt tinh thần của con người. ở các truyện ngắn này, văn học bỗng trở thành những vui buồn của đời người, là sự chiêm nghiệm về những gì được mất, là hồi ức về quá khứ và dự cảm về tương lai, là trầm tư về lẽ tồn vong của con người, trong mối quan hệ với xã hội, tự nhiên và vũ trụ[72/61]. 3.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 27 ở bất kỳ nền văn học nào, con người cũng là đối tượng trung tâm của phản ánh hiện thực. Quan niệm về con người trong văn học là quan niệm nghệ thuật được nhà văn nhận thức và phản ánh trên cơ sở hiện thực. Theo thi pháp học Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hoá thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức để thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hiện tượng nhân vật trong đó[78/43].
Tìm hiểu nghệ thuật về con người tức là tìm hiểu cách nhìn, chiều sâu của sự khám phá, sự lý giải, trình độ chiếm lĩnh con người của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật về con người là cốt lõi tinh thần, là phương diện có tầm quan trọng hàng đầu để xác định những đặc trưng cơ bản, xác định trình độ, tài năng, sự đóng góp của nhà văn cho văn học và đời sống. Quan niệm về con người liên quan đến toàn bộ quá trình sáng tạo của nhà văn, đến tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó đánh dấu sự thay đổi đáng kể của hệ hình tư duy trong sáng tác của nhà văn. Tuy nhiên không thể quy nó vào tinh thần đạo đức, chính trị, nhận thức cảm tính hay tư duy lý luận của họ. Tiến trình lịch sử văn học cũng cho thấy, sự đổi mới văn học thường gắn liền với sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Theo Trần đình Sử chừng nào chưa có sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người, thì sự tái hiện các hiện tượng đời sống khác nhau chỉ có ý nghĩa mở rộng về lượng trên cùng một chiều sâu[79/98]. Văn học Việt Nam trong giai đoạn 1945- 1975, gia tăng yếu tố xã hội, nhấn mạnh tính tư tưởng của con người. Yêu cầu với mỗi tác phẩm là hiện thực đời sống, là nội dung chính trị - xã hội - lịch sử. Con người trong văn học giai đoạn này được nhận thức đánh giá, khám phá chủ yếu và trước hết ở góc độ chính trị, trong quan hệ ta - địch. Niềm vui, nỗi buồn ở suy nghĩ của con người hoà trong niềm vui, nỗi lo của dân tộc, giai cấp. Ngòi bút của nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 28 văn thường tập trung ca ngợi chiến công của cá nhân, tập thể trong chiến đấu và sản xuất qua đó khẳng định tầm vóc lịch sử của con người, của những chiến công. Hình tượng trung tâm trong văn học giai đoạn này là người chiến sĩ - những người xả thân vì lí tưởng, gắn bó hết mình với sự nghiệp cách mạng, với quê hương đất nước. Sau 1975 khi chiến tranh kết thúc, bao khó khăn, thử thách mới đặt ra
trong đời sống hoà bình. Sự phức tạp và bề bộn của cuộc sống thời hậu chiến đang diễn ra theo nhiều chiều, nhiều hướng, thực tế đòi hỏi phải có những tiếng nói thể hiện nhu cầu phong phú, đa dạng, phức tạp trong đời sống tinh thần của con người. Từ tâm lí tình cảm, đời sống riêng tư của từng cá nhân đến khát vọng vươn tới trong xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam thời hiện đại. Tất cả những biểu hiện của con người trong đời sống từ lĩnh vực kinh tế đến chính trị, từ đạo đức xã hội phong tục tập quán đến tình yêu, hạnh phúc, đời sống tâm linh đều được các nhà văn quan tâm thể hiện. Sự tìm hiểu khám phá về con người ở nhiều chiều, nhiều hướng ở thế giới nội cảm là xu thế nổi bật của văn xuôi sau 1975. ở đó truyện ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con người trong giai đoạn mới một cách nhanh nhậy, sắc bén hơn bất kỳ thể loại nào khác. Từ một nền văn học phản ánh con người trong mối quan hệ với cộng đồng, con người thường mang trong mình những phẩm chất cao đẹp, có ý chí và sức mạnh phi thường, kết tinh cho những vẻ đẹp tinh thần và lí tưởng cao cả của dân tộc, văn học sau 1975 chuyển sang phản ánh con người cá nhân. Con người được miêu tả trong văn học không còn đại diện cho cái chung nữa mà là con người cá nhân trong các mối quan hệ đa chiều của nó. Đó cũng chính là những cá nhân được khám phá và phát hiện trong quá trình hình thành nhân cách dưới sự tác động chi phối của các yếu tố xã hội của nó, thân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 29 phận và cuộc đời của nó được phản ánh một cách sinh động và phong phú như trong giai đoạn hiện nay. Trong truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 nhất là những năm 80 trở về sau, quan niệm về con người cá nhân đã được điều chỉnh hợp lý, có chiều sâu mới. Chưa bao giờ số phận cá nhân, bi kịch cá nhân được đặt ra một cách bức xúc và mạnh mẽ như thế. Điều đáng chú ý là con người cá nhân trong văn học giai đoạn này không phải là con người chủ nghĩa cá nhân, con người cá thể
phủ định mọi cơ sở đạo đức, không chịu tác động của xã hội như trong thơ mới. ở đây số phận cá nhân được giải quyết thoả đáng trong mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng. Quan niệm con người cá nhân không dẫn đến sự cô lập cá nhân trong cộng đồng xã hội, đằng sau mỗi số phận của từng cá nhân vẫn là những vấn đề có nghĩa nhân sinh của cuộc sống hôm nay. Đi qua chiến tranh, con người Việt Nam không chỉ mang trên mình những vết thương về thể xác mà lớn hơn là những vết thương về tinh thần.Truyện ngắn Gió từ miền cát của Xuân Thiều không hấp dẫn bạn đọc bởi mối tình tay ba giữa Nụ, Dương, Thắm. Dương là một cán bộ, một đảng viên đã có vợ (Nụ). Trong quá trình hoạt động cách mạng, Dương lại yêu Thắm, một cô gái mới lớn năng nổ, dũng cảm. Thắm và Dương có con với nhau nhưng Thắm chịu kỷ luật để bảo vệ Dương và giữ lại đứa con. Sau khi Dương hy sinh, Thắm đã tìm gặp lại Nụ nói rõ sự thật mà bấy lâu nay đã giữ trong lòng và để cho đứa con được trở về với gia đình thực sự của nó. Tưởng rằng mọi chuyện sẽ càng trở nên rắc rối hơn nhưng với cái nhìn độ lượng về con người trên cơ sở của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng đã giúp cho nhà văn xử lý vấn đề một cách thỏa đáng. Nụ đã vượt qua nỗi nghi ngờ từ lâu, vượt qua nỗi đau về mặt tinh thần để tha thứ cho Thắm và nhận đứa trẻ làm con. Hai người phụ nữ ấy đã nối lại được sợi dây tình cảm có lúc đã bị đứt. Thay đổi cách nhìn giáo điều, khắt khe, cởi mở những quan niệm cũ, phát hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 30 những cách ứng xử hợp lí với những tồn tại của quá khứ trong điều kiện mới của tác giả thể hiện tính nhân bản vốn có trong truyền thống của dân tộc. Cũng nhìn nhận bằng cảm hứng nhân đạo, truyện ngắn Thời gian của Cao Duy Thảo nhẹ nhàng mà sâu sắc. Một bà mẹ hơn 60 tuổi lặn lội khắp mọi nơi để tìm tin tức về đứa con bị nghi là đầu hàng kẻ thù. Đã gần chục năm trời bà vẫn chưa tìm ra sự thực nhưng bà luôn luôn tin rằng con mình không phản bội Tổ quốc. Lần cuối cùng khi đến trận địa nơi con bà mất tích bà đã tìm thấy kỷ vật của con. Bà đã yên lòng nhắm mắt sau đó không lâu. Nhưng bà đã
không biết một sự thật được dấu kín. Bởi người đồng đội của con trai bà không muốn làm tan biến niềm tin tưởng hy vọng bấy lâu của bà mẹ. Sự thật đau lòng không được nói ra đã xoa dịu phần nào nỗi đau mất đi người thân trong chiến tranh đồng thời để cho người mẹ ấy được ra đi trong thanh thản. Cách xử lý những bi kịch của con người sau chiến tranh như thế đã chứng tỏ cái nhìn mới mẻ đầy tinh thần nhân ái của nhà văn. Khám phá con người cá nhân, các nhà văn cũng hướng đến quá trình tự nhận thức ở con người. Bởi theo Bakhtine: Trong con người bao giờ cũng có một cái gì mà chỉ có bản thân người đó là có thể phát hiện được bằng tự nhận thức tự do, bằng hành vi ngôn ngữ, là cái mà người ta không thể xác định theo bề ngoài và sau lưng được[50/48]. Như vậy chỉ có tự nhận con người mới phát hiện ra chính mình. Con người tự nhận thức là con người được nhìn bên trong, con người trầm tư, nghiền ngẫm, nhận diện chính mình. Con người tự nhận thức cũng là con người có năng lực tự ý thức về mình. Quá trình tự nhận thức của con người cũng bộc lộ chiều sâu mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Nó phản ánh sự thức tỉnh ngày càng cao của nhà văn về giá trị con người cá nhân. Bởi sự vận động phát triển của văn học đi từ chỗ mô tả quá trình nhận thức của nhân vật cho đến quá trình tự nhận thức của con người, từ chỗ nhân vật nhận thức thế giới xung quanh, đánh giá phán xét người khác đến chỗ tự khám phá, phân tích nội tâm của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 31 chính mình. Quá trình tự nhận thức giúp nhà văn phát hiện ra con người trong con người (Đostôievski). Hầu hết những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu những năm 80 thể hiện khá rõ những bi kịch tự nhận thức của con người. Nhân vật tự ý thức xuất hiện đậm nét và tập trung ở cả hai tập truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của ông như : Bức tranh, Sắm vai, Dấu vết nghề nghiệp, Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành… và sau này là ở Cỏ lau, Phiên chợ Giát. ở truyện ngắn Bức tranh, nhà văn đã khai thác
cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật với khát vọng tìm tòi và phát hiện ánh sáng nhân tính trong khả năng tự thức tỉnh của con người. Một hoạ sỹ đã từ chối vẽ bức chân dung anh bộ đội để anh gửi cho mẹ chứng tỏ mình vẫn còn sống. Sau đó chính anh chiến sỹ này lại được giao nhiệm vụ mang tranh giúp hoạ sỹ và anh đã cứu ông khỏi dòng lũ cuốn. Hoạ sỹ đã vẽ chân dung của anh nhưng không đem đến cho bà mẹ anh như đã hứa. Bức tranh vẽ người chiến sỹ sau này được gửi đi dự triển lãm ở nước ngoài và giành giải thưởng cao. Rất tình cờ, người hoạ sỹ gặp lại anh chiến sỹ, bây giờ là thợ cắt tóc, và được biết bà mẹ anh đã bị loà vì không nhận được tin tức con. Miêu tả mâu thuẫn tâm lý thể hiện qua sự giằng co giai giẳng giữ dội trong nhân vật hoạ sỹ, nhà văn đã thực hiện nhiều phép thử đối với nhân vật. Các phép thử đó có giá trị như những giả định về khả năng lựa chọn và phân định rạch ròi giữa các thái cực: hèn nhát và dũng cảm, cao thượng và thấp hèn. Tất cả chỉ nhằm mục đích để cho đối tượng tự nhận thức tự làm sáng tỏ bản chất con người. Một lần đối chứng lại là sự khám phá thế giới hiện thực đầy bí ẩn giữa con người với tự nhiên. Đó cũng chính là khát vọng của nhà văn trong hành trình nhận thức và khám phá các quy luật tồn tại của con người. Ông viết như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ: Mọi người từng thử làm một sự đối chứng với loài vật- một cuộc đối chứng giữa thiện và ác, giữa lý trí, trí tuệ và bản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 32 năng mù quáng. Cũng là một cuộc đối chứng về mặt nhân cách và phi nhân cách giữa cái hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và khoảng bóng tối vẫn còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi người miếng đất nương náu và gieo mầm của lỗi lầm và tội ác[11/364]. Hướng tìm tòi mới của Nguyễn Minh Châu về con người trong thời kì sau chiến tranh là những con người trong cuộc sống thường nhật. Hầu hết các nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu giai đoạn này đều là những con người bình thường, nhỏ bé. Mối quan tâm của họ chỉ là những chuyện vụn vặt trong cuộc sống đời thường. Nhưng mỗi người lại là một nhân
cách đạo lí, một thế giới riêng biệt đầy bí ẩn mà ngòi bút tài hoa của ông đã tạo ra cho mỗi số phận ấy những suy nghĩ đạt tới chiều sâu của sự triết lý. Trong truyện ngắn Bến quê, qua nhân vật Nhĩ - một con người đã từng đi tới không xót một xó xỉnh nào trên trái đất lại chưa hề bao giờ đi đến cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước của sổ nhà mình (11/322)- Nguyễn Minh Châu muốn đối chứng lại quan niệm về con người luôn luôn vượt lên mọi hoàn cảnh, chiến thắng được mọi thử thách và trớ trêu của hoàn cảnh. Bến quê vì thế vẫn nhói lên một cách từng trải sự cảm nhận về cái vô hạn và cái hữu hạn của những khả năng, tình thế của con người. Với quan niệm mới mẻ về con người và cuộc đời trên nền tảng của những suy tư, nghiền ngẫm có chiều sâu, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đem đến cho người đọc cái nhìn sâu hơn về con người, làm xuất hiện kiểu người không bao giờ trùng khít với chính mình (Bakhtine). Đó là người đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa) thường xuyên bị chồng đánh đập tàn nhẫn nhưng vẫn dứt khoát lạy xin toà đừng bắt con bỏ nó. Đi tìm câu trả lời cho nghịch lý ấy, nhà văn hướng người đọc đến một sự thật: Đám đàn bà làng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng một sắp con nhà nào cũng trên dưới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 33 chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con đến khi khôn lớn cho lên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được[11/344]. Thực ra người đàn bà ấy đã không hề cam chịu một cách vô lý, nông nổi, ngờ nghệch mà ngược lại chị là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị không để lộ điều đó ra bên ngoài. Một người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ và vẫn mang bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân
hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha. ở những truyện ngắn như thế Nguyễn Minh Châu đã chạm vào chiều sâu của lòng nhân bản ở con người. Khám phá con người cá nhân, truyện ngắn sau 1975 hướng đến thế giới tinh thần, đời sống tâm hồn ở mỗi con người. Bằng nhiều cách khai thác và tiếp cận khác, các nhà văn đi vào thế giới nội cảm, khá phám chiều sâu của tâm trạng, thấy được ở mỗi số phận những cung bậc tình cảm phong phú đa dạng của con người: vui buồn, hạnh phúc, đau khổ, cả hy vọng, khát khao và đam mê. Con người xuất hiện trong các sáng tác ngắn là con người trần thế ở cõi nhân gian với tất cả chất người tự nhiên của nó: tốt đẹp - xấu xa, thiện - ác, yêu - ghét, ánh sáng - bóng tối, cao thượng - thấp hèn, hữu thức - vô thức… ở đó con người đứng trên đường phân giới mỏng manh giữa hai cực vừa chối bỏ lại vừa chung sống với nhau[ (63/35]. Tiêu biểu cho hướng khai thác này là truyện Sống với thời gian hai chiều (Vũ Tú Nam). Ông An là một cán bộ quân đội đã xa quê 35 năm bây giờ mới trở về. Trước khi đi bộ đội, bố mẹ ép ông lấy một người vợ hơn ông 4 tuổi và đã từng qua một đời chồng. Sau đêm tân hôn bất đắc dĩ, ông tìm cách trốn đi bộ đội và từ đó chưa một lần nào ông trở lại thăm quê. Trong thời gian đi bộ đội ông từng viết thư về nói rõ mọi điều để trả lại tự do cho cả đôi bên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 34 Nhưng người vợ hờ ấy vẫn ở vậy và xin một đứa con gái về nuôi và lấy tên ông làm giấy khai sinh cho đứa trẻ. Trở về quê lần này, ông không thể ngờ hơn 30 năm bà ấy vẫn tự nguyện lệ thuộc vào ông như một ảo ảnh. Lúc đầu, ông không muốn nhận con để gạt bỏ những phiền toái như ông đã từng né tránh việc gia đình trước đây. Nhưng chỉ mấy ngày sống ở quê, ông đã sống với hai chiều thời gian của mấy chục năm. Chính thời gian đã cật vấn ông, thời gian phán xét và thúc đẩy ông nhìn lại mình như qua một tấm gương soi công bằng và nghiêm khắc. Ông thấy biết bao người đã quan tâm săn sóc đến ông, mà sự đền đáp lại của ông thực là ít ỏi. Dù sao thì những sự kiện dồn dập trong mấy ngày qua đã xới lộn dữ dội tâm hồn ông, phá vỡ thế cân bằng tinh thần mà ông luôn giữ[67/867]. Nhưng thật kỳ diệu, sau khi những sự đảo lộn
quyết liệt ấy ông thấy bình tâm trở lại và hơn thế một cái gì mới mẻ, tươi xanh đang được nhen nhóm trong lòng ông[67/867]. Câu chuyện thiên về hướng nội với những lời tự vấn, những chiêm nghiệm của nhân vật về cuộc đời. Cuộc hành trình tinh thần bên trong ấy giúp cho nhân vật vươn cao hơn chính mình. Ta sẽ đền đáp lại tất cả như thế nào và sống cách nào cho xứng đáng?[67/86] Câu hỏi ấy có lẽ nhân vật đã tự tìm ra lời đáp sau cuộc hành trình này. Như vậy, truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 đã đi vào từng cá thể, từng mảnh đời lúc sôi động, khi thầm lặng, thậm chí rơi vào bi kịch vì thế tạo ra một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, phức tạp. Bằng nhiều cách tiếp cận và thể hiện độc đáo, truyện ngắn đã thể hiện những quan niệm mới mẻ về con người. Mỗi nhà văn đều tìm cách đi vào chiều sâu không cùng của tâm hồn con người để thấy được ở mỗi cá nhân những cung bậc cảm xúc với tất cả chất người của nó. Hướng tới hiện thực về con người thông qua những số phận cá nhân, các nhà văn đã lật xới lên những vấn đề nhức nhối, bức xúc của con người mang ý nghĩa nhân sinh của thời đại. Các chủ thể sáng tạo cũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 35 không còn ở vị trí lấn át, chi phối mà bình đẳng, khách quan trước sự vận động tự thân của nhân vật. Trên địa hạt của truyện ngắn, nhà văn đã khắc hoạ chân dung những con người vừa đẹp đẽ, cao thượng, vừa đời thường, trần thế, luôn khát khao cái đẹp và hướng tới cái thiện. Đó là con người cá nhân được quan niệm như một nhân cách, một nhân cách mới[63/35]. 3.2. Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng Trong 10 năm 1975 - 1985, truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Góp phần cho những thành công đó, trước hết phải đến đội ngũ tác giả dày dặn kinh nghiệm trong sáng tác, được coi là lớp cận vệ già như: Nguyễn Kiên, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Tô Hoài, Đỗ Chu… các cây bút này đã in dấu ấn đậm nét trong văn học kháng chiến, nhưng sau 1975 họ đã có sự đổi mới trong sáng tác. Đặc biệt khi
chuyển sang viết về những vấn đề của con người trong cuộc sống thường nhật sau chiến tranh, lớp nhà văn đứng tuổi này như đang hồi xuân, các giác quan như trẻ lại và lối cảm nhận đời sống ở họ trở nên uyển chuyển và tinh tế hơn (55/250). Ngòi bút của họ cũng có phần linh hoạt hơn trước, trong đó hiện tượng đáng chú ý nhất là Nguyễn Minh Châu. Ông được coi là người mở đường tinh anh và tài hoa với hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985). ở cuộc hội thảo do báo Văn nghệ tổ chức, ý kiến khen chê rất phong phú và trái chiều nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm: Đó là sự khẳng định những tìm tòi và những đóng góp của nhà văn cho sự đổi mới văn học, để tạo ra những truyện ngắn có chất lượng cao hơn đáp ứng nhu cầu của cuộc sống sau chiến tranh. Sau lớp cận vệ già phải kể đến sự xuất hiện và khẳng định của một loạt cây bút mới mà trong chiến tranh họ ở vị trí của người lính (hoặc ít ra cũng rất gần với công việc của người lính) như : Chu Lai, Thái Bá Lợi, Xuân Đức, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Thị Như Trang, Trung Trung Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 36 Đỉnh… Trong những năm chiến tranh, họ chưa xuất hiện với tư cách là nhà văn dù một vài người trong họ được đào tạo ít nhiều về nghề văn, nghề báo. Thế hệ này đã đem vào trong văn xuôi, đặc biệt ở những tác phẩm viết về chiến tranh, sự từng trải, những kinh nghiệm cá nhân của mình và của thế hệ mình đã tích luỹ trong những năm chiến đấu. Dù có những nét khác biệt, nhưng có thể thấy cái chung ở họ là hướng tới sự chân xác bằng những trải nghiệm của chính mình[39/214]. Các anh đã cầy cấy, gieo hạt trên mảnh đất đẫm mồ hôi, khét thuốc súng và đã gặt hái được những vụ mùa mới[55/85]. Nếu Chu Lai có khoảng 10 năm lăn lộn ở chiến trường Nam Bộ rồi theo một cánh quân chủ lực đánh vào Sài Gòn thì Thái Bá Lợi bám sát những đơn vị trinh sát ở chiến khu 5. Cả Nguyễn Trí Huân và Khuất Quang Thuỵ cũng đi theo những đơn vị chủ lực. Vì thế, điều dễ hiểu là những truyện của các anh thường viết về cuộc sống chiến đấu của người lính. Trong đó Thái Bá Lợi với
Vùng chân Hòn Tàu (1978), Chu Lai với Người im lặng (1978), Nguyễn Trí Huân với Mặt cát (1977)… là những tập truyện được người đọc chú ý hơn cả. Những cây bút này đã tiếp tục con đường của Đỗ Chu, Triệu Bôn, Lê Lựu, Cao Tiến Lê ở thể loại truyện ngắn viết về chiến tranh và quân đội, song ở một tầm cao hơn, có tác dụng thiết thực hơn. Từ những truyện ngắn đó thường có sự xâm nhập rất rõ của kí, được viết ngay sau vết nóng hổi của sự kiện, các cây bút này có ý thức đưa nhân vật vào những mối quan hệ đa chiều muốn gắn bó số phận của những con người cụ thể với số phận của đất nước nhân dân. Đặc biệt tâm lí nhân vật cũng được chú ý phát triển nhằm tạo ra tính đa nghĩa của hình tượng. Viết về chiến tranh sau chiến tranh họ muốn lí giải tầm vóc, sức mạnh, tâm hồn Việt Nam, về những yếu tố đã làm nên chiến thắng. Đồng thời cũng là lời kêu gọi tâm huyết: hãy xoá bỏ chiến tranh ra khỏi đời sống vì nó đã mang lại quá nhiều đau thương mất mát cho con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 37 Sau những cuộc thi viết truyện ngắn cho báo văn nghệ (1978-1979, 1983-1984) và tạp chí Văn nghệ quân đội (1982,1983,1984) tổ chức, xuất hiện một loạt cây bút mới : Nguyễn Mạnh Tuấn, Nhật Tuấn, Lê Minh Khuê, Dương Thu Hương, Trần Văn Tuấn, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Minh Thư, Trần Thuỳ Mai, Nguyễn Quang Lập, Dạ Ngân…Truyện ngắn của họ tươi trẻ, dồi dào chất sống và có nhiều tìm tòi mới về nghệ thuật. Nguyễn Mạnh Tuấn, Nhật Tuấn, Trần Văn Tuấn say sưa khám phá vẻ đẹp của con người trong quá trình lao động mà nhân cách của họ gắn với quá trình lao động cải tạo đời sống. Những tập truyện ngắn Tôi vẫn về nhà máy cũ (Nguyễn Mạnh Tuấn), Trang 17…viết về lớp trẻ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã gây được sự chú ý của bạn đọc. Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê hay viết về những người cùng thời trải qua chiến tranh nay trở về với cuộc sống hoà bình đang loay hoay tìm chỗ đứng của mình trong xã hội. Những tập truyện ngắn
Cao điểm mùa hạ (1975), Đoạn kết (1983), Một chiều xa thành phố (1986) của Lê Minh Khuê, Những bông bần li (1981), Một bờ cây đỏ thắm (1981), Chân dung người hàng xóm (1985) của Dương Thu Hương đã xác nhận bước tiến của hai cây bút nữ này trong làng truyện ngắn. Cùng với Nguyễn Mạnh Tuấn, đây là hai cây bút viết khỏe, đều đặn cho ra 5 tập truyện ngắn trong vòng mười năm này. Ma Văn Kháng cũng là một trong số những nhà văn không ngừng tìm tòi để tự đổi mới ngòi bút. Từ quan điểm trần thuật theo hướng sử thi trong các sáng tác viết về đề tài miền núi, Ma Văn Kháng nhanh chóng chuyển sang quan điểm trần thuật thế sự đời tư. Ngòi bút của nhà văn cố gắng len lỏi vào các ngóc ngách của đời sống để khám phá cái phong phú, phức tạp của lòng người và lẽ đời với tất cả các cung bậc buồn vui, lo âu, hi vọng của mỗi số phận. Để từ đó vang lên khát vọng phải bảo tồn cho được cái khả năng yêu thương đồng loại, cái mầm nhân bản trong mỗi con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 38 Những cây bút nữ khác như Thuỳ Linh, Lí Lan, Trần Thuỳ Mai, Phạm Thị Minh Thư cũng đã tạo được những dấu ấn riêng ở dòng truyện ngắn trữ tình. Hồ Anh Thái, Nguyễn Quang Lập, Dạ Ngân... tuy bản lĩnh chưa thật đầy đặn nhưng loé lên những dấu hiệu tài hoa[55/142]. Họ chính là những người sẽ góp phần làm nên diện mạo mới cho truyện ngắn ở giai đoạn sau. Sự đan cài của nhiều lớp nhà văn nhiều phong cách, nhiều cá tính nghệ thuật khác nhau đã tạo ra cho truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 một diện mạo mới. Mười năm truyện ngắn đã thể hiện tính liên tục mở ra một chân trời rộng lớn với thể loại này. 3.3 .Thành tựu của truyện ngắn Trong sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại từ sau cách mạng tháng Tám, nếu nhận xét về mặt thể loại thì cùng với thơ, tiểu thuyết phải nói đến những thành tựu đậm nét của truyện ngắn. Đặc biệt với dung lượng gọn, truyện ngắn là một thể tài gắn với báo chí, có mặt kịp thời trước
những chuyển biến của đời sống sau chiến tranh.Truyện ngắn thích hợp để nhà văn nhanh chóng tiếp cận đời sống đầy biến động và nêu ý kiến trước những vấn đề mới đang đặt ra cho xã hội. Nó ít khi quay về với những giai đoạn đã qua, mà dù có lấy đề tài ở quá khứ thì thường cũng là một cách để tiếp cận với những vấn đề của ngày hôm nay. Có thể nói truyện ngắn là một thể tài xung kích giàu tính năng động, một người lính trinh sát trên các bước chuyển của đời sống và văn học. Tiếp nối những thành công đã gặt hái được của truyện ngắn trong giai đoạn kháng chiến, sau năm 1975 thể tài này vẫn tiếp tục phát triển. Thật khó có thể thống kê một cách chính xác về số lượng truyện ngắn đã in trên các báo văn nghệ từ trung ương đến địa phương, các tuyển tập truyện ngắn của các nhà xuất bản. Chỉ xin nêu một con số thống kê để minh chứng cho sự tiếp tục phát triển mạnh mẽ của thể tài này. Trong mười năm qua (1975-1985) chỉ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 39 riêng nhà xuất bản Tác phẩm mới của Hội nhà văn đã cho in 57 tập truyện ngắn của nhiều tác giả (trong khi tiểu thuyết chỉ là 27 cuốn, kí và sách chuyên đề là 40 cuốn). Con số này cho thấy sự dồi dào về số lượng truyện ngắn. Đây cũng là khó khăn cho các nhà xuất bản khi làm các tuyển tập truyện ngắn. Bởi việc lựa chọn truyện ngắn nào của tác giả nào để vừa giúp người đọc nhận ra phong cách riêng của tác giả lại vừa thấy được sự phát triển của thể loại là điều không dễ dàng. Trong các tuyển tập văn xuôi trước đây những người làm sách thường xếp truyện ngắn cùng với kí, với những trích đoạn tiểu thuyết nên nhiều khi truyện ngắn chưa có gương mặt riêng. Nhưng năm sau 1975 đã có những tuyển tập riêng về truyện ngắn như Ba mươi ba truyện ngắn 1945- 1975 của Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Tuyển tập truyện ngắn 1945- 1985 của Nhà xuất bản Văn học (1985), Truyện ngắn Việt Nam 1945-1985 của
Nhà xuất bản Giáo dục (1985), Bốn mươi lăm truyện ngắn 1975-1985 của Nhà xuất bản Tác phẩm mới - Hội nhà văn Việt Nam (1985)... Có thể nói, các tuyển tập này đã cố gắng trong việc lựa chọn nhưng truyện ngắn tiêu biểu của từng tác giả, từng giai đoạn và gợi lên nhiều vấn đề của truyện ngắn trong nền văn học mới. Thành tựu của truyện ngắn Việt Nam 1975-1985 cũng được đánh dấu bởi sự hình thành và khẳng định của những phong cách cá nhân. Hơn bất cứ thể loại nào, trong truyện ngắn dấu ấn cá nhân của người viết để lại rất rõ nét. Mười năm này có thể thấy những phong cách cá nhân, những lối viết truyện ngắn khá đa dạng. Có lối viết chặt chẽ, khúc triết của Bùi Hiển, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long... ở truyện nào, các tác giả cũng rất chú ý đến việc tạo tình thế, tập trung vào những lát cắt để cho nhân vật bộc lộ phẩm chất và nêu lên những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh. Các cây bút này đã có những tìm tòi trăn trở trong phong cách, dường như có khuynh hướng nâng cao tầm suy nghĩ, triết lí của tác phẩm. Có lối viết giản dị, giàu chi tiết hiện thực nhưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 40 cũng chú ý tới việc khai thác tâm lí nhân vật như trong truyện của Vũ Tú Nam, Ma Văn Kháng, Vũ Thị Thường, Xuân Thiều, Triệu Bôn... Lại có lối viết chú trọng đến việc xây dựng những cốt truyện hấp dẫn với nhưng tình huống giàu kịch tính, bất ngờ như Nguyễn Quang Sáng, Lê Minh Khuê...Vẫn có khuynh hướng văn học tư liệu nhưng tác giả sử dụng tư liệu một cách chắt lọc để từ đó trình bày suy nghĩ và đối thoại, tâm tình với bạn đọc về cuộc sống hôm nay.Vì thế chất thời sự nóng hổi vẫn lấp lánh qua từng trang sách. Đó chính là trường hợp của Nguyễn Khải. Nhiều người thích cách viết thông minh trí tụê của nhà văn này bởi ông đã làm cái việc suy lí chiêm nghiệm về những vấn đề của cuộc sống dân tộc...về sự hình thành tính cách những người anh hùng đã đi suốt chặng đường 30 năm chiến tranh, về lẽ sống và cách ứng xử của cá nhân trước thời gian và lịch sử.
Nhiều tác giả trưởng thành từ trong chiến tranh tiếp tục khẳng định phong cách riêng nhưng có sự chuyển biến trong cách viết do quan niệm về hiện thực và con người đã thay đổi. Ma Văn kháng chuyển từ vùng hiện thực miền núi sang cuộc sống thị thành, Nguyễn Minh Châu chuyển hướng khai thác từ hiện thực chiến tranh sang cuộc sống đời thường. Truyện ngắn của hai tác giả này làm loé lên tính chất phong phú đa dạng, phức tạp của cuộc sống sau chiến tranh. Bên cạnh đó, nhiều gương mặt mới đã xuất hiện và đang từng bước khẳng định phong cách riêng như Hồ Anh Thái, Phạm Thị Minh Thư… Chuyển từ đời sống chiến tranh sang đời sống hoà bình, giai đoạn 1975-1985 là 10 năm thử thách với mô hình chủ nghĩa xã hội. Sự chuyển hướng cách mạng bao giờ cũng đưa đến những xáo động trong đời sống xã hội. Văn học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội tất nhiên cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của những xáo động đó. Tuy nhiên, xu thế chính vẫn là sự phát triển , có khi tưởng như có khủng hoảng nhưng thực chất đó là những trăn trở, những trăn trở ngược chiều nhưng vẫn là trăn trở[81/437]. Do Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 41 những biến đổi to lớn của đời sống xã hội đã dẫn đến sự thay đổi các thang giá trị trong cách nhìn nhận, cách đánh giá những giá trị của cuộc sống trong văn học. Từ sau năm 1975, nhất là từ giữa những năm 1980 trở đi trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng có sự thức tỉnh về ý thức cá nhân, sự quan tâm nhiều hơn đến con người trong tính cụ thể, cá biệt với những nhu cầu trong thời bình. Con người được mô tả trong tất cả tính cụ thể, cá biệt với những nhu cầu trong thời bình tạo thành nét chính trong sự định hướng về giá trị của tác phẩm văn học hôm nay[62/22]. Nói khác đi tinh thần dân chủ và cảm hứng nhân bản là những điểm nổi bật của văn học thời kỳ đổi mới. Sự thay đổi này dĩ nhiên sẽ dẫn đến những đổi thay về đề tài chủ đề, về nhân vật và thể loại, về phương thức trần thuật và cách biểu hiện... Những chuyển động này có thể coi là một quá trình tự nhận thức để đưa văn học phát triển lên một
tầm cao mới. ở đó truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 được coi như bước chuẩn bị tích cực. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 42 Chương II Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975. Cùng với các loại hình nghệ thuật khác, văn học có khả năng phản ánh cuộc sống một cách đa dạng và phong phú. Đối tượng của văn học là một chân trời vô tận bao gồm toàn bộ thế giới tự nhiên, đời sống xã hội và cuộc sống của con người. Tuy nhiên, hiện thực thì vô hạn mà khả năng của một nhà nhà văn chỉ là hữu hạn. Vì thế, trong hoàn cảnh sống của con người, với những yêu cầu của hiện tại, với vốn sống, vốn văn hoá, vốn chính trị, cùng tài năng nghệ thuật của mình, nhà văn chỉ có thể chú ý khai thác một phạm vi cụ thể, xác định trong hiện thực khách quan để sáng tác. Phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác phẩm đó được gọi là đề tài của tác phẩm. Như vậy, đề tài là một phương diện nội dung của tác phẩm, nó chỉ phạm vi hiện thực cụ thể đã đựơc nhà văn nhận thức, lựa chọn và phản ánh trong tác phẩm. Bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng có một đề tài nhất định, nó được xem như một nhân tố tương ứng với đối tượng phản ánh riêng của tác phẩm[20/116]. Cũng vì thế, xác định đề tài của tác phẩm chính là trả lời cho câu hỏi: tác phẩm viết về cái gì? Về phạm vi hiện thực nào trong cuộc sống? Tuy nhiên, không nên đồng nhất đề tài với đối tượng nhận thức, dấu hiệu đời sống hay nguyên mẫu thực tế của tác phẩm. Bởi vì, đối tượng là một cái gì nằm ngoài tác phẩm, đặt đối diện với tác phẩm. Các đối tượng ấy khi đi vào tác phẩm đã được khái quát hoá theo quan điểm nghệ thuật cuả nhà văn.
Do đó, đề tài vừa mang dấu ấn rõ rệt của đời sống khách quan vừa in đậm dấu ấn chủ quan của nhà văn. Bản thân đề tài không mang tính tư tưởng nhưng cách thức lựa chọn đề tài này chứ không phải đề tài khác chứng tỏ nhà văn coi đề tài ấy là đáng lưu tâm trong thời điểm sáng tác đó. Hơn thế, việc lựa chọn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 43 đề tài sáng tác có khi còn phụ thuộc vào đặc điểm lịch sử xã hội của từng giai đoạn nhất định. Văn học luôn luôn song hành cùng bước đi của lịch sử. ứng với mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc đều có những đề tài trung tâm. Chẳng hạn đề tài hiện thực xã hội đau khổ, đen tối, bất công trước cách mạng tháng Tám; đề tài chiến tranh cách mạng trong giai đoạn chiến tranh… Những đề tài đó xuất hiện do có sự đổi mới trong những quan hệ xã hội, nhất là trong những quan hệ giai cấp. Mặt khác, do yêu cầu văn học phải nhận thức và phản ánh kịp thời những chuyển biến lớn lao của đời sống nên có thể hiểu đề tài trung tâm là mảng hiện thực tập hợp những sự kiện những hiện tượng, những diễn biến quan trọng nhất của đời sống xã hội[20/117]. Đề tài trung tâm thể hiện những nét bản chất nhất của thời kỳ lịch sử đó. Nó bao quát hơn những đề tài cụ thể của từng tác phẩm trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong văn học nước ta từ sau 1954 đến nay, Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là đề tài cao đẹp nhất trong văn học nghệ thuật nước ta. Điều này được Đảng ta nhấn mạnh trong nhiều kỳ đại hội văn nghệ. Trước 1975, khi đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh thì đề tài về cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc, đề tài người lính được coi là những đề tài quan trọng nhất. Văn học không đứng ngoài hiện thực chiến tranh mà còn tham gia cổ vũ, động viên, truyền lửa cho cuộc kháng chiến của dân tộc ta để đi tới thắng lợi. Cho nên dễ hiểu là để tập trung cho mục tiêu chiến thắng văn học đã phải gạt đi nhiều đề tài khác không kém phần quan trọng để theo sát hoàn cảnh chiến tranh.
Sau 1975, khi hoà bình lập lại, khi quy luật của chiến tranh không còn tác động một cách sâu sắc tới việc lựa chọn phạm vi hiện thực của nhà văn thì hệ thống đề tài trong văn học đã được mở rộng. Trong khoảng 10 năm (1975 - 1985), khi đất nước còn tiếp tục cuộc đấu tranh ở biên giới phía Bắc và biên giới Tây nam thì đề tài chiến tranh vẫn có một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam. Hơn nữa, nhiều cây bút trưởng thành trong hai cuộc kháng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 44 chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng không phải ngay lập tức có thể từ bỏ vùng hiện thực quen thuộc của mình. Nhưng khi viết về mảng đề tài này đã xuất hiện những dấu hiệu mới, hiện thực chiến tranh được soi chiếu một cách toàn diện hơn, thấu đáo hơn cả phía ta và phía địch với cái nhìn khách quan, ngay cả những vùng cấm địa trong chiến tranh cũng được khai mở. Bên cạnh đề tài chiến tranh thì đề tài về cuộc sống bình thường sau chiến tranh ngày càng trở thành đề tài trọng tâm của văn học trong một giai đoạn mới. Mảng đề tài thế sự, đời tư này thực sự lên ngôi khi đất nước trở lại hoà bình, khi con người trở về đối diện với những lo âu của cuộc sống thường nhật cũng là điều dễ hiểu. Như vậy, trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học Việt Nam hiện đại 1975- 1985 có hai mảng đề tài xuyên suốt là đề tài chiến tranh và đề tài thế sự, đời tư. Tiếp nối mảng đề tài chiến tranh của giai đoạn trước, ở giai đoạn này đã có những hướng tiếp cận mới. Còn đề tài thế sự, đời tư ngày càng chiếm một vị trí quan trọng với truyện ngắn nói riêng và văn xuôi nói chung. 1.1. Sự tiếp tục đề tài chiến tranh Trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, mảng văn học về đề tài chiến tranh chiếm một vị trí quan trọng cả về số lượng và chất lượng. Những tác phẩm viết về đề tài này đã góp phần tạo nên những đường nét chủ yếu cho diện mạo của nền văn học sau chiến tranh. Trong chiến tranh, người cầm bút cũng đồng thời là người chiến sĩ,
người trong cuộc, họ tự nguyện coi mình là người cổ vũ, truyền nhiệt cho cuộc chiến đấu. Bằng những tác phẩm của mình nhà văn muốn tham gia vào những sự kiện to lớn của dân tộc. Những tác phẩm ra đời trong chiến tranh vì thế giàu tính tự sự như muốn chạy đua với cuộc sống để kịp thời phản ánh và nêu ra những vấn đề cấp bách của đời sống chiến trận. Tuy nhiên nhiều khi nhà cổ động, nhà tuyên truyền đã lấn át cả con người nghệ sĩ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 45 Từ sau 1975, đặc biệt từ giữa những năm 1980 trở đi, khi tầm hiểu biết được mở mang, khi nền văn học được dân chủ hoá thì văn học viết về đề tài chiến tranh đã xuất hiện những dấu hiệu mới. Giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa, từ vai trò của người cổ vũ cho cuộc chiến đấu vì lý tưởng cao cả, khi thắng lợi đã thuộc về dân tộc ta, nhà văn trở thành người đào sâu trực tiếp vào thực tế của cuộc chiến đấu để trình bày, phát hiện mọi mặt của nó. Văn học viết về chiến tranh đi vào chiều sâu phức tạp và những điều chưa kịp khám phá trong hoàn cảnh chiến tranh. Mặt khác, từ nhiệm vụ chủ yếu là ca ngợi và khẳng định cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc, giờ đây nhà văn lại đặt mình trong vai trò người phân tích và đánh giá những vấn đề gay gắt nảy sinh trong hiện thực chiến tranh liên quan trực tiếp đến số phận từng cá nhân và toàn xã hội. Vì thế, các nhà văn đã đi theo hướng mổ xẻ thực tế chiến tranh, tìm đến các mặt khác của sự thật chiến tranh. ở đó có cả anh hùng - hèn nhát, niềm vui - nỗi buồn, cao cả - thấp hèn, chiến thắng - thất bại… Các truyện ngắn Trại bảy chú lùn, Tiếng vọng (Bảo Ninh), Năm tháng qua đi (Nguyễn Thị Như Trang)… đã phần nào đề cập đến những mặt khác nhau của chiến tranh. Bên cạnh hướng khai thác chính là hiện thực dữ dội trên những mặt trận âm vang tiếng súng còn có một hiện thực khác của bảy chiến sĩ ở vùng ven sông Sa Thầy trong một mặt trận không có tiếng súng (Trại bảy chú lùn). Trong số họ, có người đã ngã xuống, có người sống tới tận 40 tuổi mà vẫn không hề có tuổi trẻ. Đôi khi họ cảm thấy mình bị bỏ quên trong
khi sức lực ngày càng cạn kiệt. Gánh nặng nương rẫy bẻ quặt sống lưng từng người. thân thể bị xô lệch, bị bóp méo, bóp móp. Mặt mày dệch dạc, nhăn nheo, già rụm đi[47/14]. Trong cái nhìn của tác giả, chiến tranh không phải chỉ toàn những mặt phi thường, thắng lợi. Con người cũng không phải lúc nào cũng tỏa sáng những phẩm chất anh hùng cao cả. Người chiến sĩ khi lạc khỏi đồng đội, một mình đối diện với bom đạn, chết chóc, đói khát… cũng có lúc bộc lộ cái bản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 46 năng rất người: Nghẹn lời tôi không sao nói được và đột nhiên, bất ngờ với cả chính mình, tôi ngồi thụp xuống, hai tay bưng lấy mặt, bật lên tiếng khóc. Nào mưa gió, nào chết chóc, nào đói, nào khổ, nào con đường vô vọng phía trước mà lòng tôi âm thầm, dồn nén mãi, đến bây giờ tự nhiên òa ra, tan vỡ trong một niềm thương thân cay đắng, tủi hờn[47/95]. Dù khai thác những mặt khuất lấp của con người trong chiến tranh bằng cảm hứng sự thực thì cái đích đến cuối cùng của tác giả vẫn là khẳng định những phẩm chất cao đẹp của người lính. Bởi đó chỉ là những phút yếu lòng, những dao động trong sự nghiệt ngã của hoàn cảnh. Nó là lẽ tự nhiên trong cảm xúc của con người mà một thời văn học chiến tranh còn né tránh. Viết về chiến tranh ở những khía cạnh này, truyện ngắn sau chiến tranh đã phần nào xóa đi được lớp men trữ tình (Nguyễn Minh Châu) đã phủ lên các trang viết về chiến tranh trong giai đoạn kháng chiến. Nhiều truyện ngắn khác lại đề cập đến những cái giá phải trả cho chiến thắng. Những cái giá ấy không chỉ trả ngay trong chiến tranh mà phải tiếp tục trả nhiều năm dài sau cuộc chiến. Đó là những vết hằn, những nỗi đau, những âm vang của quá khứ chiến tranh trong hiện tại đối với mỗi người đã từng đi qua chiến tranh và những người thân của họ. Những truyện ngắn khai thác đề tài chiến tranh theo hướng này đã để lại niềm xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Mai (Thanh Quế) là một truyện ngắn như thế. Một cán bộ
đi tập kết nay được nghỉ hưu trở về thì vợ đã mất, cô con gái độc nhất cũng hy sinh. Còn lại một mình trên cõi đời ông lặn lội đi tìm hài cốt của con, mong đó sẽ là nguồn an ủi cho một người cha đã xa con từ lúc nhỏ. Kỉ vật duy nhất của cô con gái để lại cho người cha chỉ là một lá thư mà ông nhận được từ hồi ông còn ở miền Bắc. Lần theo lá thư ông về làng Thanh Quýt. ở đây, ông được nghe câu chuyện cảm động về sự hy sinh dũng cảm của Mai (tên con gái ông). Hỏi thăm mộ con, ông choáng váng khi biết rằng đã có người xin dời mộ đem về an táng. Mọi vật chung quanh ông bỗng trở lên nhập nhoà. Nhưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 47 đúng lúc ấy, một tia hy vọng lại le lói lên khi biết tin có một cô Mai, người Đà Nẵng hy sinh ở làng Cẩm Sa cách đó không xa. Mọi chuyện tưởng đã có hồi kết khi ông gặp người đồng đội cùng tổ giao liên với cô. Ông lại được nghe kể về sự hy sinh anh dũng của Mai. Nhưng sau khi bọn địch cột xác cô vào xe tăng để huỷ hoại thân thể, bà con đã đấu tranh mang về chôn. Năm sau, tụi nó cày ủi vùng này nên ngôi mộ cũng mất luôn[54/233]. Ngực ông như chạm phải một tảng đá to không có cách nào lật nổi. Ông lặng người đi trong nỗi cô đơn tột cùng. Suốt mấy tháng qua, ông đã đi hết cơ quan này đến cơ quan khác đọc những bản danh sách liệt sỹ dài dằng dặc mong tìm ra mộ con. Nhưng cứ mỗi lần hy vọng vừa loé lên thì ngay lập tức thực tế phũ phàng lại dập tắt nó. Nhiều đêm ông lặng lẽ ngồi cho đến sáng, đôi mắt thâm quầng và lúc nào cũng lẩm bẩm một câu Có thể.. không có thể.. có thể. Một buổi sáng, trong cơn mơ, ông thấy mình dắt tay con từ lúc 5 tuổi đi dạo mát. Đang đi, tự nhiên cô bé rụt khỏi tay ông biến mất. Cuộc đuổi bắt của hai cha con vòng quanh một rừng dương. Đúng lúc này, có người đến báo tin mộ con ông nằm ở nghĩa trang Rừng Dương. Ngay lập tức, ông tìm đến nghĩa trang dưới một rừng dương xanh ngát. Người gác nghĩa trang chỉ cho ông ngôi mộ nằm sát một gốc dương. Ông thấy tim mình như ngừng đập vì tưởng rằng đã đi đến
điểm kết thúc của cuộc hành trình. Trớ trêu thay, cô gái có tên trong bia mộ lại nhỏ hơn con gái ông đến năm tuổi và không hề ghi quê quán. Một trạng thái dao động cùng cực biến thành nỗi tuyệt vọng đè nặng nên trái tim ông. Ông cảm thấy đôi chân mình đang ngập dần dần vào lòng cát, không thể nào cất người đứng dậy được nữa[54/238]. Trong cuộc tìm kiếm hài cốt con mình, ông gặp biết bao người con đã hy sinh anh dũng. Hóa ra, tên, họ của người đã hi sinh không phải là điều tác giả cần nói tới. Điều chủ yếu ở đây là tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, sự hi sinh dũng cảm của những cô gái miền Nam, trong đó Mai chỉ là một đại diện tượng trưng cho hàng ngàn cô gái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 48 anh hùng đã ngã xuống cho đất nước này. Nỗi đau ấy sẽ mãi mãi không sao xoá được dù cho chiến tranh đã qua đi. Chiến tranh không chỉ làm cho cha mất con, vợ mất chồng, anh mất em.. mà cả những người đã sống đến ngày toàn thắng lại hy sinh ngay trong hoà bình bởi những tàn tích do nó để lại. Đó là trường hợp của Cần (Chú Viễn- Triệu Huấn). Trong chiến tranh, Cần là một chiến sĩ đặc công. So với những người cùng đơn vị anh may mắn đã vượt qua nhiều cuộc chiến đấu cam go cho đến ngày thắng lợi. Nhưng dù chiến tranh đã ở lại phía sau thì nhiệm vụ của người lính công binh vẫn còn ở phía trước. Bao nhiêu bom đạn đã dội xuống trong chiến tranh bây giờ để lại mầm mống tai hoạ trong lòng đất. Cần nhận nhiệm vụ đi gỡ mìn để giải phóng đất đai. Đây là một công việc hết sức phức tạp và nguy hiểm. Nó đòi hỏi người chiến sỹ không được có một sai sót nào. Bởi vì chỉ một sai sót nhỏ, họ phải trả giá bằng chính mạng sống cuả mình. Cần đã đi qua sáu trăm mười bốn trường hợp, đã giành được bằng ấy khoảng không gian mà thần chết chiếm giữ để trả lại cho thanh bình[58/144]. Nhưng anh đã không qua được trường hợp thứ sáu trăm mười lăm. Viết về đề tài chiến tranh theo hướng này, các nhà văn giúp người đọc nhận rõ sự khốc liệt của chiến tranh. Đằng sau những chiến công chói lọi là bao sự hy sinh thầm lặng, bao đau thương mất mát mà thời gian chỉ càng làm
lộ rõ. Tuy nhiên vượt lên đau thương, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện tấm lòng nhân ái, bao dung của mình, nhất là đối với những kẻ đã từng đứng ở bên kia chiến tuyến. Nhiều truyện ngắn viết về chiến tranh đã đi vào khía cạnh này, để qua đó vừa tiếp tục khẳng định lòng nhân đạo cao cả của người chiến sỹ cách mạng, đồng thời bộc lộ niềm tin ở sự cảm hoá đối với những người đã một thời lầm lạc. Trong truyện Cơn Giông của Nguyễn Minh Châu, Quang là một kẻt phản bội Tổ quốc ngay trong lúc cuộc kháng chiến của ta đang ở trong bước khó khăn nhất. Vốn là một người tài hoa nên hắn nghĩ hắn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 49 không thể sống thiếu thốn, không thể chịu những hoàn cảnh nghiệt ngã. Hắn có thể trở thành một người tốt, thậm chí là một nhà cách mạng kiên định nếu cách mạng thoả mãn những thèm khát của hắn, nếu cách mạng đang ở trong bước thuận lợi. Vì vậy khi cách mạng gặp khó khăn hắn đã không do dự đầu hàng kẻ thù. Hắn từng dốc sức giúp kẻ địch bắt tra tấn đồng đội mình một cách thâm độc. Hoà bình, hắn được đi học tập ở trại cải tạo sĩ quan. Bất ngờ hắn gặp lại Thăng, một thời là đồng chí nhưng cũng là người bên kia chiến tuyến với hắn. Chính hắn từng bắt Thăng và cũng là người mở đường để anh bò về căn cứ, trong lúc anh đang bị thương nặng với thâm ý để cho Thăng sẽ phải tự kiệt sức mà gục xuống mãi mãi. Nhưng hắn cũng thể ngờ rằng, Thăng đã kiên cường trở về được với hàng ngũ của mình. Hơn thế, bây giờ anh còn là một tiểu đoàn trưởng. Trong phút gặp gỡ bất ngờ, Thăng không hề muốn khơi lại chuyện cũ nhưng nói chuyện với nhau dù chỉ là những chuyện bình thường vẫn thấy khó. Tuy thế, anh vẫn không hề nói điều gì trong quá khứ vợ hắn và động viên chị giúp chồng cải tạo bởi lẽ mọi con người đều có thể thay đổi. Đó cũng chính là niềm tin vào con người mà Nguyễn Minh Châu đã gửi vào trong hầu như tất cả các tác phẩm của mình. Còn đối với những kẻ lầm đường lạc lối nhưng đã từng giúp đỡ cách mạng thì công lao ấy vẫn được ghi nhận. Không vì những con người này từng cầm súng chống lại cách mạng mà xoá sổ mọi đóng góp của họ.Tinh thần
nhân đạo ấy được Xuân Thiều phản ánh trong truyện ngắn Khoảng cách tình cảm. Hồi còn là học sinh trường Quốc học, Hải thầm yêu Vân, cô bạn gái cùng xã. Hải và Vân từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên Huế đấu tranh chống Mỹ- Thiệu. Khi phong trào bị đàn áp, trong lúc Vân bỏ về quê để tham gia du kích thì Hải bị động viên vào lính ngụy đóng ở đồn Mang Cá. Sau này, chính Vân là người móc nối để xây dựng Hải thành cơ sở nội tuyến. Hải đã cung cấp một số tin tức quan trọng và bản sơ đồ bố phòng của địch ở khu Mang Cá cho cách mạng. Việc làm của Hải chỉ có Vân và Thái Văn - tổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 50 trưởng tổ trinh sát biết. Nhưng Vân đã hy sinh ngay trong cuộc tổng công kích đó. Chỉ còn Thái Văn là người duy nhất biết được sự đóng góp của Hải với cuộc cách mạng của dân tộc. Sau giải phóng, Hải đã nhiều lần đi tìm Thái Văn nhưng trong lòng luôn mang theo nỗi nghi hoặc không biết anh ta có chứng nhận phần công lao của mình. Bất ngờ, Hải tìm được Thái Văn chính ở nơi xưa kia anh ta từng đóng quân. Hải đề nghị Thái Văn chứng nhận vào bản lý lịch của mình và cũng không quên kể cho Thái Văn tình cảm của Hải với Vân. Nhưng Hải đã không hề biết rằng Thái Văn chính là người yêu của Vân. Anh đã chứng nhận những gì thuộc về phần công lao mà Hải đã đóng góp cho cách mạng. Còn những gì thuộc về tình cảm giữa Hải và Vân anh giữ thái độ im lặng. Sẽ trở lên nhẫn tâm nếu nói toạc ra sự thật về mối liện hệ phức tạp ấy. Để cho Hải được sống với ảo giác của mình, được sung sướng mỗi lần nhớ lại kỉ niệm về mối tình đơn phương mà Hải không hề biết. Bởi kỷ niệm đẹp đẽ nào cũng góp sức mạnh cho mình trong cuộc sống hiện đang sống. Hẳn là chút kỷ niệm kia sẽ giúp ích cho Hải, nếu anh thực sự muốn rút ngắn dần quãng cách tình cảm giữa anh và cách mạng[67/167]. Viết về chiến tranh sau chiến tranh, các tác giả có thời gian, có điều kiện hơn để suy ngẫm và đào sâu thêm vào các tình huống chiến tranh, các tính cách nhân vật. Diện mạo chiến tranh được khai thác đầy đủ hơn cả phía ta và phía địch. Đổi mới trong số những truyện ngắn này là ở chỗ: sự nhận diện kẻ thù kĩ càng hơn, việc chỉ mặt đặt tên những kẻ phản bội đầu hàng
cũng thẳng tay hơn. Nhất là khi kẻ thù lúc này lúc này nhiều khi ẩn nấp trong cái vỏ bề ngoài tưởng như bình lặng. Chân dung một người hàng xóm của Dương Thu Hương ra mắt bạn đọc đúng vào lúc nước ta đang chống lại quân xâm lược Trung Quốc.Truyện ngắn đã đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 1978- 1979 không chỉ bởi tính tự sự nóng hổi của sự kiện mà chính bởi nó đã khắc hoạ được sinh động chân dung một con người với cả một quá trình biến đổi vừa âm u khủng khiếp ở nó: từ một con người hiền lành chất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 51 phác, trở thành một công cụ giết người[81/117]. ở đây, tác giả đặt ra vấn đề nhận diện kẻ thù trong đời sống hoà bình thật không đơn giản. Nhất là trong cuộc chiến đấu không tiếng súng sau này thì việc nhận diện kẻ thù càng trở nên phức tạp và khó khăn hơn bao giờ hết. Bên cạnh việc phản ánh trực tiếp cuộc chiến đấu chống bọn bành trướng xâm lược ở phía bắc, bọn Pôn Pốt ở biên giới Tây Nam thì hình ảnh và ấn tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ vẫn in đậm nét trong nhiều truyện ngắn từ sau 1975. Tuy nhiên, trên cái nền của chiến tranh các tác giả hướng nhiều vào vấn đề đạo đức xã hội, vấn đề xây dựng quan niệm đổi mới và nhân cách con người trong giai đoạn mới của cách mạng. Đó là góc độ tiếp cận với hiện thực chiến tranh của hàng loạt truyện ngắn: Hai người trở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi), Ngày đẹp trời (Ma Văn Kháng), Bức tranh (Nguyễn Minh Châu), Dì Út (Thanh Quế), Sống với thời gian hai chiều (Vũ Tú Nam), Những bông bần ly, Ngôi nhà trên cát, Ban mai yên ả (Dương Thu Hương)… Hai người trở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi) là tác phẩm có dự cảm rất sớm về vấn đề đạo đức của con người trong chiến tranh và từ hoàn cảnh chiến trường sang hoàn cảnh hậu phương, từ thời chiến sang thời bình. Qua nhân
vật Trí, tác giả đã từ bỏ lối nhìn giản đơn, một chiều về con người. ở đây, con người được phát hiện và thể hiện chủ yếu trên bình diện đạo đức, được tìm hiểu trong tiến trình hình thành nhân cách. Mà chiến tranh lại chính là môi trường bộc lộ tính chất phức tạp của tính cách con người. Vốn là một tổ trưởng trinh sát giỏi trong chiến đấu nhưng trong tình yêu Trí sẵn sàng dùng thủ đoạn để hạ đối phương của mình. Cho dù đó là người bạn đã từng vào sinh ra tử với anh nhưng trong lòng anh ta chỉ gợn lên một chút ân hận, nó chỉ thoáng qua như tiếng xẹt của một viên đạn cỡ nhỏ trong một trận đánh lớn[67/667]. Sau này trong những bậc thang danh vọng của cuộc đời mình anh ta còn tiếp tục dẫm đạp lên nhiều giá trị tinh thần khác. Tuy nhiên ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 52 truyện ngắn này, vấn đề đạo đức con người mới được đặt ra một cách khá dè dặt. Cách xử lí của tác giả cũng rất nhẹ tay.Vì thế, chúng ta thấy nhân vật vẫn chưa phải nhận bất kì sự trả giá nào cho những vi phạm đạo đức mà anh ta gây ra. ở truyện ngắn Dì Út (Thanh Quế) vấn đề bội bạc, tráo trở của con người có phần gay gắt hơn. Song tác giả cũng chưa thực sự giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng. Trước những lỗi lầm mà người chồng đã gây ra lại vẫn nhận được sự khoan dung, tha thứ của người vợ. Lương tâm anh ta cũng chưa một lần bị cắn rứt bởi những hành vi vô đạo đức của chính mình. Đi vào đề tài đạo đức của con người, các truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 không chỉ miêu tả các thói xấu cũng như những mặt tốt của con người trong diều kiện mới mà là tìm kiếm các chuẩn mực đạo đức, hành vi cho cuộc sống lao động hòa bình trong chế độ mới, là sự tự ý thức về trạng thái xã hội để đấu tranh vượt lên, là sự tự khẳng định bộ mặt đạo đức của mỗi con người hôm nay. Truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu là một trong số những tác phẩm thể hiện mong muốn của tác giả trong việc trở lại cách nhìn thông thường về chuẩn mực đạo đức đối với con người sau chiến tranh. Một
người họa sỹ đã thành danh với bức vẽ nổi tiếng Chân dung chiến sỹ giải phóng. Sau lần đến cái quán nhỏ để cắt tóc, anh ta đã bàng hoàng phát hiện ra tội lỗi khó bề tha thứ của mình. Do thất hứa với người lính từng cưu mang mình trong chiến tranh mà mẹ của người lính đó tưởng con mình hy sinh, khóc thương con mù cả mắt. Bắt đầu từ ngày đó anh ta luôn sống trong những dằn vặt, đối chất lương tâm. Người chiến sĩ năm xưa, giờ là ông thợ cắt tóc, đã không một lần tính sổ món nợ tám năm về trước với anh. Nhưng chính thái độ cao thượng và tấm lòng nhân hậu ấy khiến người hoạ sĩ càng thấy da mặt tự nhiên dầy cộm lên.Và dù người lính ấy đã tỏ ra như không hề quen biết thì anh có cảm giác đang ngồi cho người thợ giải phẫu não, mà không cần đánh thuốc mê[11/133]. ở đây, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề lương tâm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 53 trách nhiệm của cá nhân một cách rạch ròi. Dưới góc độ con người, nếu là một con người có đạo đức liệu anh có thể tự cho phép mình vô ơn đối với người đã từng cưu mang mình? Và nếu biết được hậu quả của thói vô ơn ấy, liệu anh có đủ sự dũng cảm thú tội và thậm chí là xin được chuộc lại lỗi lầm do sự vô ơn của mình gây ra? Còn ở góc độ người nghệ sĩ vì mục đích phục vụ số đông liệu anh có quyền thất hứa với một con người vô danh? Và trước nỗi bất hạnh cuả bà mẹ vô tội kia anh có được quyền dửng dưng như một kẻ vô can? Như vậy, vấn dề đạo đức của con người được đề cập đến một cách khá gay gắt trong những truyện ngắn sau chiến tranh. ở đó có sự phân cực giữa đạo đức và phi đạo đức, nhân cách và phi nhân cách, thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, trung thực thẳng ngay và uốn éo cơ hội, trí tuệ sáng suốt và bản năng mù quáng[16/377]. Dường như có một sự đối chứng, một sự lựa chọn để thể hiện bản lĩnh và nhân cách của mỗi cá nhân trong hoàn cảnh mới. 1.2. Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư Ngay khi đất nước trở lại hoà bình thì mảng đề tài thế sự, đời tư cũng nhanh chóng trở về đúng vị trí của nó và ngày càng chiếm vai trò chủ đạo trên văn đàn. Đọc những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Xuân Thiều, Ma Văn Kháng… Người ta đã nhận
thấy những chuyển biến mới mẻ. Hướng chuyển của những nhà văn này dường như lại cùng chiều với nhiều cây bút tiêu biểu ở lớp sau như: Dương Thu Hương, Thái Bá Lợi, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nhật Tuấn, Lê Minh Khuê… Mặc dù ý kiến đánh giá về những tác phẩm này trong công chúng và giới phê bình chưa hoàn toàn thống nhất nhưng tất cả đều thấy đó là hiện tượng đáng quan tâm. Phải chăng, bởi sự chuyển hướng này đã đáp ứng một phần nào đó của hiện thực cuộc sống sau chiến tranh. Mặc dù vẫn phải đối phó với những cuộc chiến tranh biên giới nhưng sau 1975, về cơ bản cuộc sống của nhân dân đã chuyển sang hoà bình, xây Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 54 dựng. Tâm trạng của đông đảo nhân dân có sự biến đổi. Cách nhìn của nhà văn về những mảng hiện thực cuộc sống cũng có nhiều đổi thay. Trong xu hướng chung của nền văn học, các truyện ngắn giai đoạn này đã thể hiện ý thức nhạy bén, gắn bó với cuộc sống đương đại của nhà văn. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải vốn gắn bó lâu năm với đề tài chiến tranh nay đi vào tâm lý xã hội, đã bộc lộ những trăn trở trước bao số phận con người trong đời thường sau chiến tranh. Ma Văn Kháng, Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê báo hiệu những bi kịch gia đình và xã hội trước nguy cơ sụp đổ của những giá trị đạo đức truyền thống trong sự tác động của mặt trái của nền kinh tế hàng hoá bắt đầu hình thành. Nguyễn Mạnh Tuấn - cây bút trẻ xuất thân từ công nhân- đi thẳng vào cuộc đấu tranh sôi động của những người lao động và quản lý xí nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long trong xu thế vươn tới cái mới. Có thể thấy, việc đi sâu phản ánh con người bình thường trong cuộc sống với những mối quan hệ phong phú, phức tạp là hướng khai thác, tìm tòi, thể nghiệm chính của truyện ngắn về đề tài thế sự, đời tư. Đó là con người cá nhân được nhìn nhận ở nhiều chiều, nhiều hướng khác nhau: vừa cao cả, phi thường lại vừa có những thói xấu, những khiếm khuyết. Dù là người nông dân hay trí thức, dù là trẻ con hay người lớn, dù là người vợ, người mẹ hay người
chồng, người cha… tất cả đều hiện lên trong sự phong phú, phức tạp trong đời sống tâm hồn, trong tư cách. Bởi viết về con người bình thường là chạm đến những nỗi niềm, những băn khoăn về hạnh phúc cá nhân, về nhân phẩm, về cuộc đời được phát đi từ những số phận riêng. Có ai không bất ngờ trước những suy nghĩ và việc làm của chú bé Kiểm (Kiểm- chú bé- Con người của Ma Văn Kháng). Bị mẹ kế hành hạ một cách cay nghiệt, độc ác nhưng chú không xa rời hai đứa em cùng cha khác mẹ. Dù đói khổ, nhiều khi bị cắt phần cơm ít ỏi nhưng hễ kiếm được tiền là chú san sẻ cho những người cùng cảnh ngộ. Khi không còn có thể sống chung với người mẹ kế thì lúc bà ta lâm bệnh chú lại trở về gánh vác toàn bộ công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 55 việc gia đình. Đằng sau cái vẻ còi cọc với khuôn mặt xạm nắng đượm vẻ lam lũ lại là đôi mắt to sáng ngời ngợi đậm đà nỗi đôn hậu, thơ ngây. Chú ta là sự hoà trộn cân bằng giữa hai tính cách đối lập, vừa già dặn khôn ngoan vì khốn khổ, tủi cực, vừa lấp lánh tình yêu thương và niềm vui bất ngờ[28/176)]. Chú bé Kiểm là một nạn nhân phản ánh tính phức tạp của đời sống con người. Chú là hệ quả của những số phận, những va đập trong cuộc sống. Đứa trẻ ấy rồi sẽ thành một người lớn, nó có thể sẽ là một người tàn ác vì tự cho mình cái quyền được đáp trả những gì mà nó đã phải hứng chịu. Nhưng người đọc lại thấy ở chú cái mầm non xanh mạnh mẽ, hiện tượng biểu trưng cho bản nhân hậu vốn có ở cuộc đời một cách gần như hồn nhiên không cần giải thích và đang dược bồi đắp ở cuộc đời này[31/193]. Đi sâu nắm bắt những mảnh đời, tâm trạng, những tình huống tiêu biểu truyện ngắn dễ tạo ra hiệu quả cao trong nhận thức. Những truyện ngắn hay trong giai đoạn 1975- 1985 đều khai thác được những cảnh ngộ, những tình huống giàu tình người, gợi nhiều suy nghĩ cảm thương hay căm giận, phẫn uất: Một bờ cây đỏ thắm (Dương Thu Hương), Mẹ và Con (Ma Văn Kháng) , Bến Quê, Đứa ăn cắp, Lũ trẻ ở dãy K, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh
Châu), Những trang bản thảo (Hồ Thuỷ Giang), Mặt trời bé con của tôi (Thuỳ Linh), Người về hưu (Anh Đức) , Đi đón cơn mưa (Vũ Tú Nam)… là những truỵên ngắn đem đến cho người đọc nhiều nhận thức về tình đời, tình người, về cách ứng xử trong cuộc sống. Trong Người về hưu, Mất điện là vấn đề ý thức, trách nhiệm của con người cá nhân với tập thể trong cuộc sống đời thường. Nếu không có những con người như cô Luyến, ông bà Sáu không toan tính thiệt hơn để gánh vác công việc chung thì cuộc sống chỉ là những mảnh vụn, ở đó cái xấu, cái ác tự do phát triển. Vấn đề đặt ra là nếu ai cũng chỉ chăm lo cho cuộc sống của riêng mình thì cuộc đời sẽ ra sao? Những số phận bất hạnh nếu không có những bàn tay nhân ái giúp đỡ thì ranh giới giữa thiện và ác rất mong manh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 56 Song dù nói đến cái xấu, cái ác, mặt trái, mặt tiêu cực thì cuối cùng các nhà văn vẫn khẳng định những mặt cao cả của phẩm chất con người. Đó cũng là hướng khai thác của Nguyễn Minh Châu về các số phận khác nhau trong đời thường, tiêu biểu trong số đó là Khúng trong Khách ở quê ra. Lão Khúng của Nguyễn Minh Châu in đậm chất nông dân từ cách sống cách nghĩ đến lối cư xử hành động, từ ngoại hình đến tâm hồn, cách tính toán và cả cái sở thích ngồi uống rượu nhâm nhi, khề khà của lão. Tất cả con người lão dường như đối chọi, dị ứng với cái văn minh của thành thị. Môi trường của lão là những miền đất cát, là núi rừng hồn nhiên hoang dã. Qua ngòi bút của Nguyễn Minh Châu, lão Khúng đã không chỉ hiện ra một chiều với bản chất nông dân như thế. Ngược lại lão là một tính cách đã dạng phức tạp, có chiều sâu với các nét tính cách vừa có mặt đáng phê phán, có mặt đáng ngợi ca, có mặt đáng cảm thương, đáng trân trọng. Bên cạnh lối suy nghĩ tính toán giản đơn, bảo thủ, lạc hậu còn loé lên sự táo gan muốn đổi mới. Bên cạnh những nông dân khác đang hồ hởi tham gia xây dựng hợp tác xã thì lão là dinh luỹ cuối cùng của lối làm ăn cá thể. Vượt qua mọi lời dị nghị của dân
làng, lão chấp nhận lấy một cô gái thị thành lỡ bước để rồi suốt 20 năm lặng lẽ đỡ đầu cho đứa con riêng của vợ. Bức chân dung người nông dân trong lão Khúng vừa mang những phẩm chất vốn có, vừa phản ánh những đặc điểm của thời đại in dấu vào. Chính vì thế người đọc có thể nhận ra những mặt đối lập của những tính cách người nông dân được khắc hoạ một cách tự nhiên trong mọi biểu hiện của lối ứng xử: Vừa nghiệt ngã vừa bao dung, vừa phóng khoáng vừa thiết thực, vừa nhỏ nhen vừa quảng đại. Tất cả làm nên một Lão Khúng không hề giản đơn (sau này trong Phiên chợ Giát, đời sống nội tâm tình cảm đa dạng của người nông dân ấy càng được bộc lộ rõ nét). Tình huống trong Đứa ăn cắp (Nguyễn Minh Châu) lại khiến người đọc phải giật mình suy nghĩ vì đôi lúc con người trở nên tàn ác một cách rất hồn nhiên. Cái chết bất ngờ của Thoan, khiến mọi người trong khu tập thể Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 57 bàng hoàng. Bởi chỉ vài tháng trước đây chính họ không ngớt lời chỉ trích mong cho Thoan ra khỏi cơ quan để khỏi phải sống với một đứa ăn cắp. Lại cũng chính họ người nào người ấy đều bịn rịn trong phút chia tay Thoan trở về quê. Và giờ đây là những tiếng thở dài, những lời thương xót, những giọt nước mắt. Để hiểu đúng về một con người quả là không đơn giản. Trước sau, người đọc vẫn thấy Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những tính cách cao cả, hay cái cao lớn tầm cỡ của những tình thế, những vấn đề con người . Với Thuỳ Linh, cái đôn hậu của cây bút nữ này lại xuất phát từ sự quan sát, những nét tinh tế và khả năng lắm bắt những chi tiết đời thường trong những truyện viết về hạnh phúc gia đình, về trẻ em. Mặt trời bé con của tôi là truyện ngắn chan chứa tình yêu thương con người. Qua truyện ngắn này người đọc nhận ra rằng: khoảng cách có thể xa nhưng ranh giới giữa tình yêu và sự căm thù quả là mong manh[8/299]. Điều đáng sợ là cuộc sống hiện đại dễ làm cho tình yêu ngày một cạn đi. Cần phải vun đắp những tình cảm nhân bản trong con người.
Đi vào cuộc sống đời thường, nhiều truyện ngắn sau 1975 còn khai thác nhu cầu hạnh phúc của con người cá nhân. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vấn đề vận mệnh của dân tộc, sự tồn vong của quốc gia chi phối đến từng cá nhân, từng giai đoạn. Bởi cá nhân sẽ không có hạnh phúc khi dân tộc bất hạnh. Những niềm vui, buồn của con người trong chiến tranh cũng hoà hoà chung vui buồn của cộng đồng. Nhưng khi cuộc chiến kết thúc, con người trở về trong hoàn cảnh bình thường thì đề tài về tình yêu hạnh phúc cá nhân lại trở thành vấn đề đáng quan tâm. Tình yêu và hạnh phúc ở đây không đơn thuần chỉ là vấn đề hưởng thụ hay giải phóng nhu cầu của tình cảm của con người sau một chặng đường dài vì chiến tranh phải chịu sự đè nén. Mà bởi cuộc sống sau chiến tranh bao biến động, tình cảm của con người cũng va đập trong thực tế đầy phức tạp. Nắm bắt nhu cầu hạnh phúc của con người trong cuộc sống đời thường đầy tinh tế nhưng không dễ dàng là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 58 lối đi của nhiều truyện ngắn: Mẹ và con (Ma Văn Kháng), Lựa chọn (Nguyễn Bao), Những bông bần li, Tháng ba chua chát (DươngThu Hương)… Trong những truyện ngắn của Dương Thu Hương người đọc nhận thấy tình yêu chỉ thật sự đẹp khi người ta sống trọn vẹn, trung thực với nó. Còn khi có một sự tính toán có tính chất vị kỷ len vào thì hạnh phúc sẽ tan vỡ. Chính vì thế sự lựa chọn của Toàn (Tháng ba chua chát) sẵn sàng đánh đổi tình yêu để lấy một cô vợ có thể đem đến cho mình một cuộc sống vật chất đầy đủ hay nhân vật Tôi (Một bờ cây đỏ thắm) luôn ghen tỵ nhỏ mọn… đều không có được hạnh phúc thực sự. Dương Thu Hương cũng tỏ ra sắc sảo khi nắm bắt những sự nhạy cảm của trái tim người phụ nữ trước những biến động về tình cảm trong đời sống thường nhật. Những bông bần li là một trong những truyện được viết sớm nhất và hay nhất của chị giai đoạn sau chiến tranh. Câu
chuyện men theo những vui buồn chợt đến trong lòng nhân vật Ngân qua chuyến đi vào Tây Nguyên bốc mộ cho em trai và cho người bạn trai trước đây. Chuyến đi đánh thức ở chị tình yêu nồng nàn với người chiến sỹ đã hy sinh và cũng đồng thời giúp chị nhận ra cuộc sống khó chịu bên người chồng hờ hững, lãnh đạm với đời sống xã hội, với những nỗi đau của người thân mà chỉ chúi đầu vào những ham thích riêng. Qua chuyến đi này, Ngân cũng chợt nhận ra rằng sau chiến tranh mỗi chúng ta giàu có lên nhưng cũng mất mát bao nhiêu trong tình cảm. Thái độ bàng quang của Khang (chồng chị) giống như một loài thủy mộc sống trong bùn, một thứ cây không gốc rễ, sống lợt lạt và lạnh lẽo. Chị thấy cuộc sống sung túc và bình ổn trước kia của mình vỡ toác ra như một hốc cây bị sét đánh. Hóa ra hạnh phúc không phải ở những tiện nghi người ta giành được mà ở sự đồng điệu trong tâm hồn giữa con người với con người, giữa con người với hoàn cảnh trong tầm sâu của nhận thức và nhân cách. Thật may mắn cho Ngân đã có một tình yêu như thế. Dù người chiến sỹ ấy đã hy sinh nhưng anh đã trở về đúng lúc để nâng đỡ cho chị trong lúc tâm hồn chị đang vang lên câu hỏi nhức nhối: hạnh phúc là gì? Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 59 Trong tình yêu những người phụ nữ luôn luôn mong muốn có được hạnh phúc thực sự. Trái tim họ dường như bao giờ cũng nhạy cảm hơn. Cũng giống như Ngân, Minh (Người không đi cùng chuyến tàu - Nguyễn Quang Thân) khi phát hiện ra những điều ẩn trong cách nói dở dang, ậm ờ của chồng khiến chị vô cùng thất vọng. Bởi chính cách nói lửng lơ ấy đã giúp anh giải quyết những vấn đề rất tế nhị. Thậm chí chị còn nhìn thấy tất cả những cái lố bịch thảm hại của chồng. Và chị biết trái tim rạn nứt của mình sẽ không bao giờ còn được lành lặn như xưa. Từ khi chiến tranh kết thúc, mọi người ngỡ rằng có thể yên tâm mưu cầu tình yêu và hạnh phúc. Nhưng thực tế lại chứng tỏ không hề có sự dễ dàng phẳng lặng trên lĩnh vực này. Nhất là khi có những toan tính về vật chất
về địa vị len lỏi vào. Nếu cái gì cũng muốn được nhưng không chịu thiệt thòi tí nào cả như Giang (Lựa chọn- Nguyễn Bao) thì cả đời sẽ chẳng bao giờ tìm được thứ hạnh phúc trọn vẹn. Bởi cuộc sống không phải lúc nào cũng dễ dàng thuận lợi. Mỗi khi gặp khó khăn con người phải đứng trước nhiều lựa chọn. Sự lựa chọn của Giang từ Thới sang Long rồi lại từ Long sang Thới và cuối cùng là Long liệu có đem lại cho cô hạnh phúc trong khi đến với người này lại tiếc người kia? Trong Mẹ và con của Ma Văn Kháng lại là khát vọng hạnh phúc của nữ bác sỹ 42 tuổi. Sau khi chồng chị hy sinh hơn 10 năm, đây là lần đầu tiên có một người ngỏ ý muốn sống với chị những ngày còn lại của cuộc đời. Trong lúc chị vẫn khao khát tình yêu lại vấp phải những sự cản trở của người thân. Cả người mẹ chồng và đứa con gái lớn của mình đều không muốn chia sẻ tình yêu của chị cho ai. Buồn thay tình yêu này lại cản trở tình yêu kia. Người thân này lại cản trở người thân yêu kia. Phải chăng hạnh phúc không thể tìm lại được một khi đã mất?[67/341] Câu hỏi ấy nhiều khi cứ day dứt trong chị. Biết rằng khát vọng hạnh phúc của chị là chính đáng song chị cứ phải tìm mọi cách để kìm nén tình cảm của mình. Thì ra để có được tình yêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 60 và hạnh phúc trong cuộc sống này không phải dễ. Con người không chỉ biết yêu mà còn phải biết ứng xử với chính người mình yêu, với gia đình, với những người xung quanh thì mới có được hạnh phúc thực sự. Viết về tình yêu và hạnh phúc cá nhân là một đòi hỏi chính đáng trong đời sống con người, cũng là một yêu cầu bức xúc từ thực tế đời sống xã hội của đất nước sau năm 1975. Từ góc độ tiếp cận con người cá nhân, các tác giả khi đi vào đề tài này đã góp tiếng nói chung hướng về tình yêu hạnh phúc của con người. Mặt khác, trước những biến đổi của cuộc sông hiện đại, những giá trị tinh thần đang có nguy cơ bị lung lay thì tiếng nói ca ngợi những tình cảm trong sáng lành mạnh, ấm áp tình đời lại như một sự thức tỉnh con người. Chiến tranh kết thúc cả nước bước vào chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ khai phá một hình thái xã hội trước đây chưa từng có trong hiện thực. Các cuộc đấu tranh trên mặt trận
chính trị, kinh tế, văn hóa tạo nên một sự phân cực sâu sắc trên bình diện đạo đức và nhân cách con người. Đúng như Nguyễn Minh Châu nói, đó là thời kỳ diễn ra một cuộc đối chứng giữa hai mặt nhân cách và phi nhân cách, giữa cái hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối vẫn còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi người miếng đất nương náu và gieo mầm nhiều lỗi lầm và tội ác[11/364]. Bằng sự nhạy cảm của ngòi bút nhiều nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nhật Tuấn, Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê … đã phanh phui mổ xẻ để nhận rõ mặt cái xấu, cái ác và sự tha hóa về đạo đức con người. Đồng thời đưa ra những lời cảnh báo cho những hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên trong cuộc sống hiện đại. Trong tập truyện Một chiều xa thành phố, Lê Minh Khuê đã tiếp cận đến một đời sống xã hội mới. Một xã hội nhan nhản lối sống vị kỷ, lối tính toán vụ lợi biến con người trở thành nô lệ của đồng tiền, của vật chất, của danh vọng mà trước đó chưa từng được nói đến trong văn học thời kỳ chiến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 61 tranh. Những đảo lộn từ cuộc sống chiến tranh sang hòa bình, từ hy sinh sang hưởng thụ, từ gắn kết cộng đồng sang đời sống cá nhân khiến nhiều người trở lên vô cảm, thờ ơ với con người, chạy theo những dục vọng. Cô Kim (Dòng sông), Cô Bích (Những người đàn bà), Cô Tân (Một chiều xa thành phố) đã thay đổi tâm tính một cách đáng ngạc nhiên. Nếu Kim lao theo đồng tiền với một đam mê kỳ lạ đến nỗi chính cô bị đồng tiền ấy quật ngã thì Bích khao khát được hưởng thụ tình yêu và vật chất nên đã trở thành nô lệ cho những tủ lạnh, búp bê, máy nghe nhạc, va li, son phấn…, còn Tân lại chạy theo những người có tiếng tăm, những chuyến đi nước ngoài mà quên đi những lời hứa, những kỷ niệm tốt đẹp đối với người bạn đã từng thân thiết. Lê Minh Khuê đã đặt nhân vật của mình trong nhiều mối quan hệ đời thường để thấy được thực
trạng luân lý đạo đức đang trên đà trượt dốc. ở ngòi bút này, vấn đề tiêu cực trong đạo đức, trong hành xử của con người được đưa ra khá mạnh mẽ như để rung hồi chuông cảnh tỉnh. Tuy nhiên, với cái nhìn tỉnh táo và trái tim nhân hậu, với niềm tin vào con người, nhà văn cho chúng ta thấy tình thương yêu đồng loại chưa hẳn đã mất đi. Tình thương yêu là dường cột để con người đối chọi với sự tha hóa về đạo đức. Nhà văn đặc biệt coi trọng đạo đức gia đình bởi gia đình là cơ sở cho việc hình thành các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh việc phơi bày những rạn nứt trong những gia đình khi đứng trước nền kinh tế thị trường, tác giả vẫn dành những tình cảm nồng ấm khi viết về hạnh phúc, về sự vững bền của gia đình. Đó là nơi lưu giữ nề nếp, phong tục tốt đẹp, cũng là nơi cứu rỗi mỗi thành viên khi sa chân lạc bước. Vì thế, cô Kim sau những sai lầm đã đứng dậy được nhờ tình yêu thương của cha mẹ, anh chị. Ngày đẹp trời của Ma Văn Kháng cũng hướng tới những mảng đời sống hiện tại với nhiều mâu thuẫn biến cố, cảnh ngộ của một thời kỳ chuyển động với nhiều diễn biến phức tạp trong đời sống xã hội và tinh thần con người thời đại. ở đó, vấn đề đạo đức nhân cách của con người cũng được nhận ra một cách sâu sắc nhưng nghiêng về hướng dự báo giúp mọi người cái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 62 khả năng tỉnh táo để nhận thức sâu sắc hơn về cuộc đời trong toàn bộ tính phong phú và phức tạp của nó. Trong Đợi chờ là người bố hết lòng thương yêu và sẵn sàng hy sinh cho đứa con gái độc nhất. Nhưng ông đã thiếu tỉnh táo để điều chỉnh con, làm cho con chỉ biết hưởng thụ, thỏa mãn mọi đòi hỏi mà không biết quan tâm và hy sinh cho người khác. Kết cục là sau 6 năm học tập ở nước ngoài trở về, cô con gái đã quên cả người cha đang lâm bệnh nặng. Trong phút lâm chung ông đã chua chát nghĩ rằng : tình yêu và nói chung mọi thứ tình cảm khác là vô bổ ở thời hiện đại ở lớp trẻ bây giờ chăng?[31/4] Đó còn là sự bội bạc trong tình cảm của Phú (Quê nội), là sự tha hóa của một nữ giáo viên do đuổi theo danh vọng và uy tín cá nhân như cô Thảnh (Cô giáo
chủ nhiệm), là lối sống thu mình, vô trách nhiệm với mọi người xung quanh như Luyến (Mất điện)… Tuy nhiên tất cả những trường hợp này không phải là phổ biến mà chỉ là những hiện tượng cá biệt. Trong xã hội còn không ít người sống thiếu trách nhiệm và lương tâm nhưng cũng không thiếu những tấm gương tốt để giúp con người tin tưởng vào những điều tốt đẹp. Nếu Luyến thờ ơ khi cả khu tập thể mất điện thì vợ anh lại sẵn sàng lo tìm cách sửa chữa dù cho cô chỉ là thợ điện nghiệp dư. Trong khi cả khu tập thể tránh động đến kẻ ngang ngược, phi lý, sẵn sàng chà đạp lên bất kỳ ai thì vợ Luyến đã không chấp nhận quyết đưa hắn về đúng chỗ của hắn là nhà thương điên. Chị không thể sống theo cái triết lý của chồng: Thời buổi này, tốt nhất là không đụng chạm vào ai cả[31/128]. Vì ở xó xỉnh nào cũng sẵn có một hai thằng điên điên dở dở, chuyên cản trở phá phách. Mọi người đều biết nó xấu mà vẫn phải ngậm tăm. Nếu ai cũng khôn ngoan một cách hèn nhát như Luyến thì cái ác, cái xấu sẽ mặc sức hoành hành. Chính trách nhiệm trong lối sống của vợ Luyến đã soi sáng tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm: Hoàn cảnh có thể làm cho con người hèn hạ đi và nỗi khổ đau lớn nhất của con người là để mất khả năng thẩm định và sự gắng gỏi trong hành động[31/130]. ở Đường ngoằn nghèo nguy hiểm cũng là một trường hợp sống đầy lương tâm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 63 và trách nhiệm. Là người lái xe lâu năm, Thiết chưa từng để xảy ra một tai nạn nào. Nhưng trong một chuyến công tác tai nạn bất ngờ đã xảy ra. Do tình thế của hiện trường, Thiết có thể đẩy trách nhiệm cho người khác nhưng anh đã tự giác nhận lỗi vì không muốn trở nên một tên lừa đảo sau khi đã gây ra tai họa. Dẫu là vô tình anh cũng trở thành kẻ phạm tội. Dù phải trả cái giá thật đắt anh đã sống đúng với lương tâm trong sạch. Đặt song song mặt tốt và mặt xấu bên cạnh nhau, truyện ngắn của Ma Văn Kháng tạo ra cho người đọc khả
năng tự đánh giá, tự nhận thức những vấn đề thiết thân trong đời sống xã hội và trong mỗi con người. Hướng tiếp cận đời thường từ ánh sáng của lý tưởng nhân đạo, với khát vọng cổ vũ cho con người sống tốt hơn và trở nên dũng cảm hơn là sức lôi cuốn của mỗi truyện ngắn trong tập Ngày đẹp trời. Trong những truyện ngắn khác của Nguyễn Quang Thân, Bùi Hiển, Nhật Tuấn, vấn đề đạo đức của con người cũng được hiện ra một cách khá găy gắt. Đó là sự tráo trở của Huấn với người thầy của mình (Chân dung - Nguyễn Quang Thân), là sự kỷ luật cán bộ một cách tùy tiện của ông trưởng phòng hành chính (Bọn họ - Nhật Tuấn), là việc tranh giành của cải của trong gia đình (Căn nhà ở phố - Nam Ninh)… Truyện ngắn giai đoạn1975- 1985 tiếp tục lật xới các mảng hiện thực của cuộc sống ở cả hai chiều quá khứ và hiện tại, để mong góp một tiếng nói định vị cho người đọc một thái độ nhìn nhận, đánh giá những hiện tượng của cuộc sống hiện đại cũng như có cái nhìn đầy đủ, khách quan và toàn vẹn hơn về quá khứ. Do đặc trưng của thể loại, truyện ngắn thường để lại dư âm buộc người đọc phải suy ngẫm những điều ẩn chứa sau những cảnh đời, những số phận về giá trị con người. Truyện ngắn cũng không né tránh mà dũng cảm, thẳng thắn nhìn vào hiện thực dưới góc độ chính trị. Vì thế, truyện ngắn sẽ còn nhiều cái sẽ được đọc, được lấy làm suy ngẫm cả khi cái thời này đã qua đi, lịch sử đã khép lại bình yên. Con người thì không thôi thao thức về số phận mình, truyện ngắn là những mảnh đời họ sẽ tìm lại [52/28]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 64 2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975 - 1985 Cảm hứng nghệ thuật là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động lớn đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Cảm hứng nghệ thuật chứa tình cảm mạnh mẽ, chân thành, một tình cảm xã hội đã được nhà văn ý thức. Đó có thể là những tình cảm khẳng định như ngợi ca, vui sướng, biết ơn, tin tưởng, yêu thương hay đau đớn, xót xa,
thương tiếc….Nhưng cũng có thể là những tình cảm phủ định các hiện tượng tiêu cực, xấu xa như tố cáo, căm thù, phẫn nộ, châm biếm, chế giễu, mỉa mai… Các tình cảm đó gợi ra từ các hiện tượng xã hội được phản ánh trong tác phẩm tạo thành nội dung cảm hứng nghệ thuật của tác phẩm. Người ta thường nhắc tới cảm hứng yêu nước, cảm hứng nhân đạo, cảm hứng anh hùng… chính là nói tới những tình cảm mang lí tưởng lớn chi phối sự đánh giá của nhà văn về hiện thực. Có thể nói cảm hứng nghệ thuật là trạng thái tâm lí then chốt, có ý nghĩ quyết định tới quá trình sáng tạo của nhà văn. Bởi chính trạng thái cảm xúc cao độ của người nghệ sĩ sẽ đem lại một chất lượng nghệ thuật cao cho tác phẩm của mình. 2.1. Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư Văn học Việt Nam giai đoạn 1945- 1975 là nền văn học mang đậm khuynh hướng sử thi. Điều này đã được khẳng định trong nhiều công trình nghiên cứu. Tính sử thi thể hiện trong văn học ở chỗ thiên về miêu tả và ngợi ca những sự kiện có ý nghĩa trọng đại với một cộng đồng, một dân tộc, ở một thời điểm lịch sử nhất định. Với dân tộc Việt Nam, từ mùa thu năm 1945 đến đại thắng mùa xuân năm 1975 là 30 năm chiến đấu anh dũng, ngoan cường. Đó là khoảng thời gian có những biến cố dữ dội với toàn dân tộc. Gắn với một nền văn học mang đậm tính sử thi là những nguồn cảm hứng sử thi. Cảm hứng sử thi gắn với âm điệu ngợi ca và thấm đẫm niềm lạc quan cách mạng. Ngợi ca những chiến công oanh liệt, những người anh hùng xả thân vì nền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 65 độc lập của Tổ quốc. Đó là những con người dường như kết tinh đầy đủ những phẩm chất cao quý nhất của cộng đồng. Dù trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt nhưng cảm hứng sử thi đã khiến cho văn học luôn mang âm điệu chính là lạc quan. Dù đi vào chốn lửa đạn, đi vào nơi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc nhưng tất cả đều náo nức trong niềm vui ra trận: Những buổi vui sao. Cả nước lên đường. Xao xuyến bờ tre. Từng hồi trống giục (Chính Hữu). Niềm vui,
niềm lạc quan tin tưởng đã trở thành cảm xúc tiêu biểu của thời đại. Niềm vui ấy đem lại sự thanh thản trong tâm hồn con người để hoà mình vào dòng thác cách mạng. Đây cũng là thời kỳ không có chỗ đứng cho cá nhân, cho những riêng tư đời thường. Bởi thế dáng đứng anh giải phóng quân trên đường bay Tân Sơn Nhất cũng trở thành dáng đứng Việt Nam, tạc vào thế kỷ (Lê Anh Xuân). Cảm hứng sử thi không chỉ bó hẹp trong một số tác phẩm mà gần như là hơi thở xuyên suốt hầu hết chặng đường của nền văn học trong chiến tranh. Trong đó nổi bật là cảm hứng yêu nước, cảm hứng anh hùng. Bằng nguồn cảm hứng này, văn học đã phản ánh và ca ngợi cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, góp phần đốt lên ngọn lửa nhiệt tình trong lòng bạn đọc. Nguồn cảm hứng này là dòng mạch chính xuyên suốt nửa thế kỷ văn học, tạo nên diện mạo của văn học ở thời điểm lịch sử đặc biệt này. Nhìn từ góc độ cảm hứng thể loại, Lã Nguyên cho rằng toàn bộ hệ thống thể loại của văn học Việt Nam 1945-1975 đều rất thống nhất với nhau trong khuynh hướng cảm hứng. Từ truyện cho tới thơ, từ kịch cho đến kí, tất cả đểu rưng rưng cảm hứng trước cái đẹp cao cả… Đó là thế giới của cái cao cả, cái đẹp vượt lên trên sự tàn phá, huỷ diệt của bom đạn chiến tranh. Cho nên, tiếp xúc với bất kỳ một thể loại nào của giai đoạn văn học này ta đều chứng kiến sự chiến thắng huy hoàng của chất thơ đối với chất văn xuôi, và ưu thế tuyệt đối của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 66 giọng trữ tình rưng rưng, hào sảng đối với tư duy phân tích và giải thích[46/213]. Từ cuối những năm 70 đầu những năm 80, khi cả nước đã bước ra khỏi chiến tranh để trở về với cuộc sống bình thường, văn xuôi cũng đang dần dần có một sự chuyển dịch cảm hứng ngày càng rõ: cảm hứng sử thi đang chuyển dần sang cảm hứng thế sự đời tư. Từ những truyện ngắn: Hai người trở lại trung đoàn (1979), Những bông bần li (1981), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Ngày đẹp trời (1986)…thì cảm hứng
thế sự, đời tư đã gây được những bất ngờ thú vị. Mặc dù nhiều truyện ngắn cũng như tập truyện ngắn chưa hoàn toàn tách rời khoảng cách sử thi nhưng có thể nhận thấy cảm hứng tự hào, ca ngợi, chiêm ngưỡng đã chuyển dần sang những cảm hứng lắng đọng suy tư. Các tác phẩm tuy bớt đi chất hào hứng, tráng lệ nhưng lại mang vẻ đẹp của sự trầm tĩnh và trải nghiệm. Cảm hứng đạo đức thế sự đã đem lại cho truyện ngắn nhiều chất tiểu thuyết hơn. Bởi yếu tố đời tư càng phát triển thì chất tiểu thuyết càng tăng, ngược lại yếu tố lịch sử dân tộc càng phát triển thì chất sử thi càng đậm đà[78/223]. Nếu cảm hứng sử thi, lý giải mọi vấn đề của đời sống trên hệ quy chiếu là lịch sử xã hội, là lợi ích của giai cấp, của cộng đồng thì cảm hứng thế sự lại hướng về con người cá nhân, cá thể trong tất cả những mối quan hệ phong phú, phức tạp tồn tại hàng ngày. Khi cảm hứng thế sự trở thành mạch cảm hứng chủ đạo thì đời sống riêng tư của mỗi cá nhân trở thành đối tượng để nghiên cứu chính của nhà văn. Cũng từ sự chuyển đổi cảm hứng này thấy rõ hơn sự thay đổi các khu vực đề tài ở nhiều tác giả. Do yêu cầu của cách mạng, văn xuôi trước 1975 ít giành chỗ cho những đề tài mang tính thế sự đời tư. Nhưng sau 1975, văn xuôi cũng vận động để phản ánh kịp thời những vấn đề nóng bỏng của đời sống, đáp ứng tâm lý và nhu cầu của công chúng thời bình, để bổ sung cân bằng trạng thái tâm lý bất thường của văn học thời chiến tranh. Cuộc sống đời thường muôn hình vạn trạng đã trở thành mảnh đất màu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 67 mỡ để các cây bút thả sức khai phá. ở đó, cuộc sống được cảm thụ một cách sống động trong tính phức tạp vô tận, tính mâu thuẫn nội tại và sự biến động liên tục. Con người được phát hiện ở nhiều chiều, nhiều mối quan hệ biện chứng chằng chịt giữa tính cách và hoàn cảnh mà nó tồn tại. 2.2. Cảm hứng đạo đức thế sự giữ vị trí quan trọng Có thể nhận thấy hầu hết các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Dương Thu Hương, Ma Văn Kháng đầu những năm 80 là những truyện ngắn in đậm cảm hứng thế sự đời tư. Trong đó cảm hứng đạo
đức thế sự là cảm hứng chủ đạo, dù vậy ở mỗi người cảm hứng này vẫn mang những sắc thái khác nhau. Nhà phê bình Lại Nguyên Ân cho rằng, với các nhà văn ngũ tuần thì đáng chú ý là bình diện triết lý đạo đức còn với các nhà văn tứ tuần là bình diện đạo đức sinh hoạt. Đọc những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 dễ nhận thấy hướng khai thác các hiện tượng đời sống trong chiều sâu triết học, trong nhu cầu chiêm nghiệm, tự đối thoại với mình. Bến quê và Dâú vết nghề nghiệp là những chiêm nghiệm có tính chất tổng kết đời người. Một con người từng đi tới không sót một só xỉnh nào trên trái đất như Nhĩ cho đến tận khi sắp gần đất xa trời mới nhận ra rằng: Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình[11/326].Và nhiều khi những cái gần gũi ngay cạnh ta mà ta chưa khám phá hết mọi vẻ đẹp của nó. Còn người thủ môn nổi danh một thời phải đến tận tuổi 80 mới nhận thấy: con người ta thường xuyên không hoàn hảo, ngay ở thời kỳ tài năng nở rộ nhất vẫn có phút vụng dại, yếu ớt ngu ngốc[11/320]. Chiếc thuyền ngoài xa và Một lần đối chứng lại là những suy nghĩ da diết về chân lý của đời sống cũng như nghệ thuật. Trong cuộc sống mỗi con người đều có những vẻ đẹp riêng nhưng không dễ nhận thấy nếu không đặt trong mối quan hệ nhiều chiều. Người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người chỉ ở bề ngoài mà phải thâm nhập vào những mạch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 68 ngầm của nó để thấy hết những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong. Thông qua mối quan hệ giữa con người với con vật nhà văn lại nhận thấy, do nhu cầu tồn tại tưởng chừng có thể quên đi những quy luật tồn tại của sinh vật hỗn mang đã sa vào cả quy luật giữa người với người[11/367]. Nguyễn Minh Châu thường triết luận thông qua những hình tượng nghệ thuật của mình, cho nên dễ nhận thấy trong truyện ngắn của ông những
con người giàu suy tư, thích triết lý. Không phải chỉ những nhân vật có đời sống bên trong sâu sắc như người nghệ sỹ trong Bức tranh hay như nữ y sĩ Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành mới hay suy nghĩ khái quát. Đến ngay như bà cụ già nhà quê trong Mẹ con chị Hằng cũng cất giọng triết lý Rứa đó… đời con người ta vay của cha mẹ rồi trả cho con cái. Mặt khác với khuôn khổ của truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu phải dùng đến những biểu tượng có tính ẩn dụ, tượng trưng, có sức khái quát cao. Những hình tượng nghệ thuật vừa là hình ảnh chân thực của đời sống vừa là ẩn dụ của cuộc sống. Đó là cơn giông trong truyện ngắn cùng tên, là những bức ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa, là cơn mộng du trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành … lối viết này có độ hàm súc cao hơn tạo được dư ba trong lòng người đọc. Ý nghĩa triết lý của hình tượng có khi rộng hơn trong triết lý tự giác của tác giả. Viết bằng mạch cảm hứng thế sự đời tư, ngòi bút của Nguyễn minh Châu đã len lỏi vào các ngõ ngách của cuộc sống đời thường. Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K, Đứa ăn cắp hay Chiếc thuyền ngoài xa chỉ là những hiện tượng bình thường, hàng ngày của cuộc sống. Khả năng nhìn đâu cũng ra truyện ngắn đã giúp ông phát hiện ra những vấn đề ẩn sâu trong những cái bình thường kia. Đó là sự sống hồn nhiên, có mặt khắp nơi quanh ta, là cái hàng ngày ta vẫn nhìn, vẫn sống mà nhiều khi lại không để ý. Qua những câu chuyện đời thường ấy bộc lộ những chiêm nghiệm, trải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 69 nghiệm về lối sống, về mối quan hệ giữa con người với con người của một người cầm bút đầy ý thức trách nhiệm với cuộc đời . Với cây bút nữ Dương Thu Hương, cảm hứng đạo đức sinh hoạt đã đem lại cho truyện ngắn của chị những sắc diện mới. Những giá trị tinh thần, đạo đức thường được chị thể hiện thông qua tình yêu hạnh phúc gia đình. ở Những bông bần li nhà văn dường như đã chạm đến cái miền nhạy cảm trong
đời sống tâm hồn của người phụ nữ. Đó là ước ao về một tình yêu nồng nàn, một hạnh phúc đắm say trong cuộc sống gia đình. Ngân đã thật thất vọng và đau đớn biết bao khi nhận ra việc phải sống với một người chồng vị kỷ mà trái tim nhỏ bé của anh ta chỉ đủ sức đập cho riêng anh ta. Khang (chồng Ngân) quả là một mẫu người hờ hững vô tâm với cuộc sống bên ngoài, chỉ chúi đầu vào những ham thích riêng và bị nó chi phối toàn bộ tâm tư. Mọi biến cố của thời cuộc, thậm chí cả mất mát của gia đình hầu như không có tiếng vang trong Khang. Nỗi đau khổ của Ngân sẽ còn đi đến đâu nếu không có những kỷ niệm đẹp đẽ về tình yêu ban đầu của chị, về tình đồng đội, về những chiến công và những mất mát trong chiến đấu đã thức tỉnh chị. Chính tình yêu khoẻ mạnh trong sáng và cái chết anh hùng của người yêu thủa ban đầu đã dìu Ngân vượt lên phía trước, đẩy cuộc sống tầm thường lại phía sau. Và những ý tưởng phải sống tốt đẹp hơn, có ích hơn ngày càng hình thành rõ nét hơn trong tâm trí Ngân bởi sự nâng đỡ của tình yêu đã cách xa. Suy cho cùng giữa những ranh giới của cuộc đời thì hạnh phúc của con người cũng thật khôn cùng. ở những truyện ngắn khác, nhà văn lại đề cập đến phương diện đạo đức, nhân cách của con người trong môi trường mới. Người thì dễ dàng dám đánh đổi tình yêu, lợi dụng những thời cơ may mắn để tiến bước trên con đường danh vọng như Quý (Ngôi nhà trên cát), người thì toan tính chọn cho mình một cuộc sống đầy đủ về vật chất Toàn (Tháng ba chua chát), người thì ghen tỵ, nhỏ mọn (nhân vật tôi - Một bờ cây đỏ thắm)… Thực ra, họ chỉ là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 70 những dị bản khác nhau của chủ nghĩa cá nhân thực dụng trong cuộc sống hiện đại. Đó là những mẫu người chỉ biết yêu mình, sống cho riêng mình và thản nhiên hưởng thụ những sự chăm sóc của người khác, mà chưa bao giờ dám hy sinh cho ai. Ngòi bút của Dương Thu Hương tỏ ra sắc sảo và rạch ròi khi đi vào khía cạnh đạo đức nhân sinh này. Đằng sau cái cảm giác thất vọng trước tình trạng đạo đức và nhân cách con người trong xã hội tiêu dùng thì sự phê phán của chị dường như để đưa tới những yêu cầu cao hơn về nhân cách,
về phẩm giá của mỗi con người trong công việc, trong cuộc sống sinh hoạt và trong mọi quan hệ đời thường. Cùng mạch cảm hứng với Những bông bần li là Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam, Ngày đẹp trời của Ma Văn Kháng. Vũ Tú Nam từ các trang văn xuôi nông thôn mang đậm màu sắc phong tục sinh hoạt những năm 60 đã bắt vào mạch cảm hứng thế sự đời tư, mang những suy nghĩ, đánh giá lại cách ứng xử đã qua trong cuộc sống nhất là trong những mối quan hệ tình yêu gia đình. Còn Ngày đẹp trời của Ma Văn Kháng là tiếng nói của tác giả trước hiện thực hôm nay, một hiện thực đang sinh thành với bao biến đổi bất ngờ và tất cả sự phong phú, phức tạp vốn có của nó. Đó là tiếng nói khẩn thiết có tính thời đại trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân gia đình và xã hội của mỗi người đối với cuộc sống. Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn đã sớm nhận thức được rằng khi hoàn cảnh thay đổi thì gia đình - đơn vị cơ bản của xã hội - cũng thay đổi theo. Viết về sự biến đổi của gia đình suy cho cùng cũng chính là viết về sự vận động của số phận riêng trong cuộc sống hôm nay. Gia đình phải được xây dựng trên nền tảng của những truyền thống tốt đẹp vừa phải đổi mới theo xu hướng tiến bộ của thời đại mà mục tiêu cuối cùng vẫn là hạnh phúc của mỗi con người. ở đó nhà văn quan tâm đến từng con người cá nhân theo tinh thần dân chủ: con người cần phải được thể tất, cần phải được đỡ nâng, dắt dìu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 71 Có thể nói cảm hứng đạo đức là nét chung trong nhiều truyện ngắn sau 1975. Nhưng đó không phải là phải là sự minh hoạ cho những nguyên tắc đạo đức có sẵn mà là những giá trị đạo đức gắn với thực tại mà cả nhân vật và tác giả đang kiến tạo nên. Cảm hứng đạo đức thường đi liền với cảm hứng nghiên cứu thực tại, nghiên cứu con người. ở đó có sự phơi bày những trạng thái ý thức trước những trạng thái đời sống.
2.3. Sự trở lại của cảm hứng bi kịch Sự vận động từ cảm hứng sử thi chuyển sang cảm hứng thế sự đời tư cũng từng bước xoá bỏ khoảng cách sử thi trang trọng, thành kính đem lại cảm giác chân thực hơn cho văn học. Trong truyện ngắn sau 1975 cũng thấy xuất hiện cảm hứng bi kịch, bởi cuộc đời đâu chỉ có những màu sắc tươi sáng, con người bên cạnh niềm vui còn có cả những bất hạnh. ở những truyện ngắn viết về chiến tranh sau chiến tranh là bi kịch về sự hy sinh mất mát. Cảm hứng bi kịch ấy có thể thấy trong nhiều truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn Minh Châu), Dì Út (Thanh Quế), Thời gian (Cao Duy Thảo), Im lặng (Nguyễn Ngọc Tấn), Tháng ngày đã qua (Xuân Thiều)… Với mong muốn tìm kiếm một thánh nhân giữa đời thường khiến Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) vĩnh viễn mất đi tình yêu đẹp đẽ đầu đời với người trung đoàn trưởng trẻ tuổi tài hoa. Nỗi đau đớn, sự cô độc của chị lộ rõ khi anh hy sinh. Quỳ đã như một con chim mất bạn, núp vào xó nhà.. chưa bao giờ cảm thấy lẻ loi và cô độc như vậy… . Sự trống rỗng vây ập tâm hồn khiến chị chỉ còn cái xác, hai mắt sâu hoẳm[11/160]. Nỗi đau ấy quá lớn đến mức nước mắt không rơi được thậm chí trở thành sự hoang tưởng đi theo Quỳ suốt cuộc đời. Dù người trung đoàn trưởng đã hy sinh nhưng tình yêu của chị thì chưa bao giờ lụi tắt. Tình yêu ấy ám ảnh chị, làm cho chị đau đớn, dằn vặt hơn nhưng cũng lớn hơn, người hơn bởi nó thúc đấy chị thực hiện được ước nguyện của người đã khuất là cứu vớt cuộc đời và tài năng của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 72 Ph. Đọc truyện ngắn này, ước muốn được làm người - một con người biết yêu thương, biết hy sinh cho tình yêu- như ngọn lửa thôi thúc ta. Bởi thế cảm hứng bi kịch không làm cho con người bi quan chán nản, suy sụp ngược lại nó đã nâng đỡ con người trong cuộc đời này.
Mỗi con người là một mảnh đời trong cuộc sống nên những bi kịch cũng không ai giống ai .Có bi kịch của một người chồng vì sự cứng nhắc của mình khiến cho người vợ phải chịu bao ấm ức cho đến tận lúc hi sinh như Thể (Tháng ngày đã qua - Xuân Thiều), lại có bi kịch của một người vợ bị chồng phản bội nhưng vẫn bảo vệ thanh danh cho chồng như dì Út (Dì Út - Thanh Quế), cũng có nỗi éo le trong hạnh phúc gia đình đến nỗi phát điên như Hải (Im lặng - Nguyễn Ngọc Tấn)… Cảm hứng bi kịch trong những truyện ngắn này là sản phẩm của lịch sử. Khi cuộc đấu tranh đang diễn ra nó không có chỗ đứng. Đó là sự lựa chọn đúng đắn và cần thiết trước hiện thực khốc liệt. Nhưng sau khi chiến tranh qua đi, những mất mát, đau thương ngày càng lộ rõ. Vì vậy, nó trở thành một nguồn cảm hứng cần được khai thác. Tuy nhiên, đó không phải là chất bi ai thuần túy. Nó được chắt ra từ sự trải nghiệm, từ sự nhận thức sâu sắc, thấm thía của những nỗi đau đã trải qua chiến tranh tạo thành những chất giọng khác nhau.Từ cái bi để con người trong cuộc sống hiện tại nhận rõ hơn những cái giá phải trả cho chiến thắng. ở mảng đề tài thế sự đời tư, cảm hứng bi kịch gắn với nỗi buồn nhân sinh thế sự, đồng thời thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc về những nỗi đau thương, những điều mất mát, những rủi ro bất hạnh của con người trong đời thường. Trong Đợi chờ của Ma Văn Kháng là bi kịch về sự bất lực của lòng tốt, của những nghĩa tình ruột thịt thiêng liêng cao cả trước sự nguội lạnh về tâm hồn của con người trong xã hội hiện đại. Đáp lại tấm lòng của người cha chỉ là sự hờ hững của đứa con được nuôi dưỡng chính bởi những hi sinh ấy. Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là bi kịch của người đàn bà sông nước trong cuộc mưu sinh đầy nhọc nhằn, vất vả. Người đàn bà ấy đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 73 phải chấp nhận những đau đớn về thân thể để giành sự sống cho các con mình. Trong nỗi đau riêng cũng là niềm hạnh phúc của một người mẹ khi thấy con mình được ăn no, được sống yên ổn trước sóng to gió cả. Khi cuộc sống đã trở về với dòng chảy bình thường trong tất cả sự
phong phú, phức tạp vốn có của nó với niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ của những số phận éo le, những cuộc đời dang dở, những nỗi cô đơn, nỗi đau, sự nghèo khó, những cảnh ngộ thương tâm, bất hạnh, hay những oan khuất… thì việc xuất hiện cảm hứng bi kịch là lẽ tự nhiên, một đòi hỏi chính đáng của cuộc sống cũng là một nghĩa vụ, một món nợ mà văn chương phải trả. Viết về cái bi và nỗi buồn thực chất là một sự bổ sung cho đầy đủ hơn trong cái nhìn nghiên cứu, khám phá hiện thực sau chiến tranh. Cái bi trong những truyện ngắn sau 1975 sẽ làm cho con người trở nên từng trải hơn, hiểu biết hơn về sự phong phú, phức tạp của cuộc đời và sự đa đoan của mỗi con người. Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà thật có lí khi cho rằng Tác phẩm nghệ thuật chân chính mỗi lần làm rơi nước mắt con người lại làm cho con người trở lên trong sạch hơn, hoàn thiện hơn[73/46]. 2.4. Cảm hứng phê phán Cùng với cảm hứng bi kịch thì cảm hứng phê phán cũng bắt đầu trở lại trong những truyện ngắn sau chiến tranh. ở Bức tranh, Đứa ăn cắp, Sắm vai, Giao thừa, Mẹ con chị Hằng (Nguyễn Minh Châu) dù mỗi truyện một vẻ, nhấn về một phía nhưng đều có chung âm điệu phê phán khá gay gắt những thói đời. Bức tranh là sự phê phán lối sống vô trách nhiệm của người hoạ sỹ. Tuy nhiên truyện ngắn này còn vượt lên trên sự phê phán một lối sống tiêu cực để nói đến một điều phổ biến hơn, sâu xa hơn. Đó là sự thức tỉnh, đúng hơn là sự tự nhận thức ở con người. Truyện ngắn này như một lời nhắc nhở con người phải thường xuyên soi rọi lại chính mình, phải tạo dựng bộ mặt tinh thần của mình ngay cả trong điều kiện không có áp lực xã hội, tác động của dư luận. Mẹ con chị Hằng và Đứa ăn cắp lại phê phán về sự vô tâm của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 74 con người trong cuộc sống. Vì có khi con người tàn ác một cách vô tâm. Sắm vai phê phán một trường hợp tự đánh mất mình, sống gượng gạo và giả tạo nhưng đằng sau sự phê phán ấy là ý nghĩa triết học được rút ra. Đó cũng chính
là điều tác giả muốn đề nghị với bạn đọc.Hãy sống với bản ngã đích thực của mình mà không phải hoà tan. Viết bằng cảm hứng phê phán cũng là một cách thức tỉnh nhân tính trong mỗi con người bởi lẽ trong cuộc sống cũng như trong tác phẩm, nhà văn không tránh khỏi bóng đen, có thể viết rất đậm về bóng đen nhưng chính là để làm bật lên ánh sáng. Viết về cái hư hỏng, cái lạc hậu chính là để làm nổi bật cái đúng cái hay và cái đẹp[72/19]. Mục đích cuối cùng là hướng vào sự tự ý thức, tự phê phán để khẳng định cá nhân con người. Do đó dễ thấy trong truyện ngắn sau 1975, nhiều nhân vật tự ý thức tự phê phán đến thế: Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), Người hoạ sỹ (Bức tranh) của nguyễn Minh Châu; Thể (Tháng ngày đã qua) của Xuân Thiều, ông An (Sống với thời gian hai chiều) Vũ Tú Nam, ông Luyến (Mất điện) của Ma Văn Kháng… 2.5. Cảm hứng nhân văn Viết về cuộc đời, về con người, đi sâu vào các số phận khác nhau, các tính cách và cảnh ngộ khác nhau, các nhà văn đã sống với nhiều kiểu người, đã vui buồn cùng họ. Dù viết bằng cảm hứng đạo đức, cảm hứng phê phán hay cảm hứng bi kịch thì tất cả đều thống nhất trong cảm hứng nhân đạo, nhân văn. Bởi qua mỗi tác phẩm bộc lộ lương tâm và trách nhiệm của người cầm bút trước những đau khổ, vui buồn của con người và cuộc đời. Vì thế, dù tác phẩm viết về một hiện thực nghiệt ngã, phũ phàng hay một số phận bất hạnh cũng phải truyền đến cho con người niềm tin vào cuộc sống. Đọc Kiểm - Chú bé - Con người của Ma Văn Kháng, Mặt trời bé con của tôi của Thùy Linh, Người về hưu (Anh đức)… người đọc vẫn nhận thấy dù cuộc đời còn nhiều éo le, con người còn bị đối xử tàn tệ về cả vật chất lẫn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 75 tinh thần nhưng không bao giờ thiếu đi những tấm lòng nhân hậu, những phẩm chất nhân văn vốn có của con người. Sống trong sự cay nghiệt của người mẹ kế thì Kiểm (Kiểm - Chú bé - Con người) vẫn giữ được sự trung
thực và giàu tình cảm. Chú không chút hả hê, hay ngấm ngầm thích thú trước rủi ro của người mẹ kế đã gây bao đau khổ cho cuộc đời mình. Còn Nguyên (Mặt trời bé con của tôi) dù bị cha mẹ bỏ rơi, dù không chịu nhận bất cứ thứ gì từ họ thì trong một góc sâu kín của tâm hồn em vẫn giữ những tình cảm gia đình. Bức ảnh của bố mẹ vẫn luôn ở trong hành trang Nguyên mang theo. Điều ấy chứng tỏ khao khát hạnh phúc gia đình trong Nguyên luôn lớn hơn sự căm ghét họ. ở Ngày đẹp trời dường như trong khi bám vào những gì xảy ra hôm nay, Ma Văn Kháng vẫn muốn tìm vào những điều nằm tận sâu trong cội nguồn của nhân dân, của đất nước như có lần ông tâm sự. Ông Thiềng là một người lính đã chuyển ngành giờ công tác ở một trạm khí tượng. Những năm tháng chiến tranh đã lấy đi của ông cả thể xác và đời sống tình cảm. Thường xuyên phải chống trả với bệnh tật luôn rình rập để quật ngã nhưng khó khăn hơn đối với ông là phải chốn chạy một tình yêu đã chìm trong dĩ vãng gần 15 năm. Rồi một sự tình cờ, ông gặp lại người con gái ngày xưa đã yêu ông. Sau bao năm tháng đợi chờ và tìm kiếm ông ở khắp nơi bây giờ cô đã có gia đình nhưng vẫn luôn nhớ thương và kính trọng ông. Cả người chồng hiện tại của cô cũng trân trọng quý mến ông. Đến lúc này ông Thiềng chợt nhận ra một điều hết sức giản dị: Lòng yêu thương cao thượng là phẩm chất chung, vốn có của con người. Nếu anh là một người tốt biết tự trọng thì xung quanh anh không thiếu những người như thế[31/111]. Chính cảm hứng nhân đạo đã mang đến cho truyện ngắn của Ma Văn Kháng chút gì đó ấm lòng và thực sự có ích với người đọc. Trong những truyện ngắn của Dương Thu Hương dù người đọc đã nhiều lần bắt gặp những khuôn mặt khác nhau của nỗi bất hạnh, của những thất bại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 76
trong tình yêu song ý muốn vươn tới hạnh phúc thì không hề nguôi giảm. Dẫu qua nhiều truyện của nhà văn này luôn cho người đọc cái cảm tưởng chỉ có hạnh phúc thực sự ở một thời thơ ấu thần tiên, một kỷ niệm đã qua hay khi nhớ về mối tình đầu đẹp đẽ thì vẫn ngầm chứa trong đó mong muốn hạnh phúc trong hiện tại. Nhìn vào hiện tại không thấy cái vui, lấy cái buồn để nói tới cái vui nhưng quan trọng hơn là đòi hỏi sự trong sáng thanh cao, chính trực trong nhân cách của mỗi con người. Như vậy, nhìn ở khía cạnh khác, cảm hứng bi kịch với niềm xót xa nhức nhối về thân phận con người cũng góp phần mang lại ý nghĩa nhân văn sâu sắc hơn cho mỗi tác phẩm. Cùng với sự thay đổi về đề tài thì sự phong phú trong cảm hứng đã đem lại cho truyện ngắn sau 75 những sắc diện mới. Tuy nhiên người đọc cũng có thể nhận thấy sự vắng bóng của cảm hứng hài hước trong giai đoạn này. Thảng trong một số truyện (Sắm vai - Nguyễn Minh Châu) bóng dáng của cảm hứng này chưa đem lại những giá trị nhận thức mới. Song chính sự đan cài của nhiều mạch cảm xúc khác nhau đã làm nên sức hấp dẫn cho truyện ngắn trong giai đoạn giao thời. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 77 Chương III Những đổi mới bước đầu Trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985. 1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện trong truyện ngắn 1975 - 1985 1.1 .Khái niệm và vai trò của cốt truyện Trong hoạt động sáng tác, mỗi nhà văn có những cách thức khác để tiếp cận hiện thực. Nếu nhà thơ trữ tình bộc lộ những xúc động và tâm trạng qua việc xác lập và triển khai tứ thơ thì thì tác giả tự sự và kịch thể hiện tư tưởng tình cảm của mình thông qua các hệ thống biến cố tạo thành cốt truyện trong
tác phẩm[13]. Có thể nói, cốt truyện đóng vai trò quan trọng trong thể tự sự. Khái niệm cốt truyện là một phạm trù đa dạng và đầy biến động. Khái niệm này đã được đề cập trong các chương trình lý luận trong và ngoài nước. ở đây, chúng tôi xem cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm[20/137]. Hệ thống sự kiện này được xây dựng trước hết theo yêu cầu của việc khẳng định rõ nét các tính cách qua một diễn biến của cuộc sống. Đó là những cốt truyện sự kiện. Bên cạnh đó có những cốt truyện chỉ vận động theo tư tưởng, theo suy nghĩ tình cảm của nhân vật trong quá trình tự nhận thức. Người ta gọi đó là cốt truyện tâm lý. Đánh giá về vai trò của cốt truyện, nhiều nhà văn lớn đã từng khẳng định tầm quan trọng của nó trong hoạt động sáng tạo tác phẩm. Goeth (văn hào Đức) từng coi cốt truyện là thành phần không thể thiếu được của văn học: còn gì quan trọng hơn cốt truyện và nếu thiếu nó thì cả một nền nghệ thuật sẽ còn ra gì nữa? Nếu cốt truyện không dùng được thì tài năng sẽ bị lãng phí vô ích[18/26]. Ngay cả Gorki cũng đã coi cốt truyện là yếu tố thứ ba của văn học sau ngôn ngữ và chủ đề.Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng: Muốn cho nghệ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 78 thuật hiện đại ra đời thì cốt truyện cần phải mất đi bởi vì sẽ xuất hiện một cốt truyện mới. Sự hiện diện cuả người nghệ sỹ trong tác phẩm. ở Việt Nam có ý kiến nhận xét vai trò của cốt truyện ngày càng trở nên mờ nhạt, có ý kiến xem đây chỉ là giao hoán giữa cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lý. Suy cho cùng dù là cốt truyện sự kiện hay cốt truyện tâm lý thì tính chất có cốt truyện là một trong những đặc điểm của tác phẩm tự sự. Nhưng không phải cốt truyện nào cũng chứa đựng những tình huống li kì, gay
cấn, đầy xung đột. Vẫn có những tác phẩm chỉ kể về những điều bình thường, nhỏ nhặt trong cuộc sống, gây cảm giác không có cốt truyện. 1.2. Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau 1975 Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975, cốt truyện đóng vai trò chủ yếu trong truyện ngắn nói riêng và loại hình tự sự nói chung. Đặc thù hoàn cảnh chiến tranh đã quy định phần nào phương thức tiếp cận hiện thực của nhà văn. ở giai đoạn này, cốt truyện rất được xem trọng. Nó là phương diện chính để thể hiện cuộc sống và nghiên cứu tính cách nghệ thuật. Truyện ngắn trong chiến tranh thường chú ý tạo dựng những cốt truyện chặt chẽ với những tình huống gay cấn, căng thẳng. Kết cấu cốt truyện thường dựa trên hai tuyến mâu thuẫn địch - ta, tốt - xấu, tích cực - tiêu cực với âm hưởng chủ đạo là ngợi ca và khẳng định. Cốt truyện tâm lý ít thấy xuất hiện. Nhưng từ khi cuộc chiến tranh kết thúc, nhất là từ giữa những năm 1980 trở đi, khi văn học trở lại với hiện thực cuộc sống thường nhật thì cái tạo nên sự hấp dẫn cho truyện ngắn không chỉ là những cốt truyện rạch ròi với những tình huống ly kỳ, với độ căng của những cảnh ngộ éo le hay khốc liệt mà ở chỗ truyện ngắn đi vào những tình huống đời thường, đi vào chiều sâu tâm hồn con người. ở đó, những bước ngoặt trong trạng thái cảm xúc, những xung đột mang tính nội tâm đã trở thành yếu tố thúc đẩy cốt truyện. Như vậy, truyện ngắn sau 1975 có khuynh hướng tự nới rộng, tự vượt thoát khung thể loại. Nó phong phú hơn trong hình thức diễn đạt, đa dạng hơn ở nội dung phản ánh, tự do hơn trong cách thức dựng truyện. Người đọc có thể bắt gặp những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 79 cốt truyện giàu kịch tính nhưng cũng có những cốt truyện giàu tâm trạng. Có truyện kết cấu cốt truyện rõ ràng cũng có truyện có cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép với kết thúc mở. Trong cốt truyện cũng có sự tham gia của những yếu tố
huyền ảo, tâm linh… (ở giai đoạn sau sẽ phát triển thành cốt truyện huyền ảo, cổ tích hay giả tưởng). Sự đa dạng về kết cấu cốt truyện trong truyện ngắn sau 1975 như vậy nhằm lý giải, phân tích những vấn đề phong phú, phức tạp của con người trong cuộc sống hiện tại. Cùng với các yếu tố nghệ thuật khác, cốt truyện đã giữ vai trò không nhỏ trong việc tiếp cận hiện thực của nhà văn. Cốt truyện có sự vận động thay đổi trong sự phát triển chung của thể loại. ở giai đoạn ngay sau chiến tranh thường gặp hơn những cốt truyện chặt chẽ, có đầu cuối rõ ràng với một hệ thống sự kiện, với độ căng của những biến cố như: Hai người trở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi), Chiếc thuyền ngoài xa, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn Minh châu), Chuyến xe đêm (Ma Văn Kháng), Ngày không bình thường (Phạm Hoa), Câu chuyện tình màu trắng (Tô Nhuận Vĩ), Người đi xa để lại (Đào Vũ)… Với loaị truyện này, các tiêu chí trường độ, lát cắt, moment… của thể loại là quan trọng trong diễn biến cốt truyện. ở Hai người trở lại trung đoàn là tình huống Thanh bị hiểu lầm nên đánh mất tình yêu với Mây. Đó cũng là tình huống Trí phụ bạc mẹ con Mây để leo lên bậc thang danh vọng cao hơn. Do đặc trưng của thể loại, tác giả đã chỉ cưa lấy một khúc đời sống, nghĩa là chỉ chọn cái tình huống có khả năng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Tình huống thứ nhất đẩy Thanh và Mây xa nhau, còn tình huống thứ hai lại kéo họ đến với nhau và xóa tan mọi hiểu lầm. Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu lại có cốt truyện khá li kì với hàng loạt sự kiện nối tiếp. Xét về mặt cốt truyện, truyện này có dung lượng của một truyện vừa, ở đó cũng có sự thâm nhập chất tiểu thuyết vào một truyện ngắn. Cốt truyện dàn trải theo những cuộc phiêu lưu trong tình yêu của Quỳ, mà mối tình của Quỳ với người trung đoàn trưởng là điểm tựa xuyên suốt truyện. Xoay quanh nó là rất nhiều mối tình với Hậu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 80 với bác sỹ Thương, với Ph. Nguyễn Minh Châu vẫn chú ý xây dựng những tình huống rắc rối, căng thẳng nhưng là để đi đến phản ánh chiều sâu tâm lý nhân vật. Ông từng nói rõ quan điểm của mình: Tôi muốn nhấn mạnh vai trò cốt truyện truyện ngắn không phải để tạo ra cốt truyện li kì, rắc rối một cách hình thức vô ích, nhưng là để tạo ra một sức chứa cho tính tư tưởng chủ đề. Dù coi trọng cốt truyện nhưng cách viết của Ngưyễn Minh Châu đã ít nhiều thay đổi, mang lại sự mới mẻ cho truyện ngắn trong cách dựng truyện. Vì thế truyện ngắn của ông thường có sức chứa lớn hơn dung lượng của thể loại. Tuy nhiên, cuộc sống không chỉ có lúc cao trào mà cũng có lúc bình yên. Xu hướng đi vào khám phá những con người trong cuộc sống đời thường đã tạo nên những cốt truyện lỏng, chất chuyện mờ nhạt với những trạng thái, tâm trạng không dễ cho việc kể lại. Cốt truyện ít có những tình huống căng thẳng, những xung đột phức tạp mà thường chỉ xoay quanh những sự việc bình thường (đôi khi rất vun vặt) hàng ngày. ở những truyện này, các yếu tố sự kiện, tình tiết, được triển khai theo mạch vận động của cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật là chủ yếu. Có thể kể đến những cốt truyện loại này như: Khách ở quê ra (Nguyễn Minh Châu), Những bông bần li (Dương Thu Hương)… Khách ở quê ra là truyện ngắn có kết cấu truyện rời rạc, thiếu tập trung, gây cho người đọc cảm giác có sự phân tán về chủ đề. Truyện chia ra nhiều đoạn nhỏ men theo những lời kể và hồi ức của nhân vật Khúng. Bắt đầu là truyện thằng Dũng, rồi chuyện về chú Định, chuyện về mụ Huệ - vợ Khúng, chuyện đầu tư kỹ thuật vào sản xuất của Khúng… Các vấn đề mà truyện tải ra thoạt trông có vẻ rời rạc, không ăn nhịp với nhau. Chính vì thế khi tác phẩm ra đời đã tiếp nhận nhiều ý kiến băn khoăn. Tác giả Lê Thành Nghị cho rằng có cảm giác đôi lúc tác giả sao nhãng trong việc đảm bảo tính chặt chẽ của kết cấu cốt truyện. Trùng Dương lại cho rằng Nguyễn Minh Châu bộc lộ lối viết rối rắm, lan man. Còn Phong Lê nhận xét Khách ở quê ra đề cập đến nhiều vấn đề… nhưng rốt cuộc vẫn không biết đâu là vấn đề của truyện [81/325].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 81 Thực ra cách viết khá tự do của Nguyễn Minh Châu với nhiều tình huống vụn vặt, lộn xộn đầy ngẫu nhiên nhưng vẫn kết dính trong mạch truyện về tính cách người nông dân của nhân vật Khúng trong tác động của quá trình đô thị hoá. Giải thích cách viết này của Nguyễn Minh Châu, Trần Đình Sử nêu ra quy luật hội tụ ánh sáng: Anh tập trung những luồng sáng hàng nghìn nến vào một khuôn mặt… để soi rọi một chi tiết làm cho hình tượng của anh tuy bề ngoài rất cá biệt nhưng lại có tầm khái quát đáng kể. Bằng cách tiếp cận đó nhà văn có thể kể những chuyện chẳng có gì to tát cả nhưng người ta thích đọc[81/349]. Chính luật hội tụ ánh sáng mà Trần Đình Sử đưa ra khiến cho Khách ở quê ra có vẻ ngoài rối rắm nhưng lại chứa ở bên trong nhiều vấn đề của con người trong cuộc sống đời thường. Điều này cũng tạo nên tính chất đa thanh cho truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Người không đi cùng chuyến tàu (Nguyễn Quang Thân) và Những bông bần li (Dương Thu Hương) giống nhau ở chỗ: cốt truyện được triển khai theo mạch cảm xúc của nhân vật chính. ở Người không đi cùng chuyến tàu là câu chuyện về Thảo và Đính trong một chuyến tầu trở về nơi họ đã từng công tác. Các nhân vật hiện dần lên qua hồi ức của người phụ nữ duy nhất là Minh. Đó là một cuộc đối sánh về tính cách giữa Thảo và Đính. Thảo là người năng động, tháo vát biết tranh thủ mọi điều kiện để thực hiện những mục tiêu quan trọng trong cuộc đời. Còn Đính thâm trầm, nghiêm túc thích mò mẫm trong những khoảng rừng gai để tìm ra con đường ngắn nhất chưa ai biết[57/114]. Nếu Thảo ngày càng tiến xa hơn trên con đường danh vọng thì Đính lặng lẽ sửa chữa, hoàn thiện những công việc dang dở. Cốt truyện dường
như chẳng có gì to tát nhưng vẫn bộ lộ rõ chủ đề tư tưởng: cuộc sống rất cần những người không bao hững hờ với vẻ đẹp cũng như cái xấu nó[57/124]. Người ta thường chỉ muốn làm những cái tốt mà ít ai dũng cảm sửa chữa những cái xấu để nó ngày một hoàn thiện hơn. Cốt truyện Những bông bần li lại chỉ men theo những vui buồn trong tâm hồn của một người phụ nữ đầy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 82 nhậy cảm trong tình yêu, hạnh phúc. Qua đó bộc lộ khao khát một hạnh phúc trọn vẹn, một cuộc sống có ích. Nếu chiến tranh là môi trường thử thách phẩm giá con người trong những tình huống phức tạp gay cấn thì cuộc sống hòa bình cũng có những phức tạp riêng của nó. Đó cũng là môi trường rèn luyện phẩm chất con người thầm lặng mà dai dẳng, không kém phần gay gắt dữ dội. Việc đối diện với lương tâm mình để từ đó để khẳng định một cách sống xứng đáng với con người mới xã hội chủ nghĩa trong cuộc sống đời thường. ở đó cốt truyện tâm lý, cốt truyện lỏng, ít chất truyện dễ đi vào những vấn đề tưởng như nhỏ bé nhưng lại có ý nghiã xã hội sâu sắc. Nói như nhà nghiên cứu VươngTrí Nhàn: sự vận động của truyện ngắn từ chỗ có một cốt truyện kỳ lạ căng thẳng bất ngờ đến sự xuất hiện của những truyện ngắn trữ tình[48/148]. 1.3 Các đặc điểm kết cấu cốt truyện 1.3.1 Xây dựng cốt truyện chủ yếu theo dòng tâm trạng của nhân vật Có thể thấy xu hướng trong kết cấu cốt truyện trong truyện ngắn sau 1975 là tăng cường cốt truyện ở bên trong để bộc lộ trạng thái tâm tưởng của nhân vật đồng giảm bớt cốt truyện miêu tả hành động bên ngoài. Điều này khác với dạng cốt truyện truyền thống, cốt truyện sự kiện. Giờ đây cốt truyện với một hệ thống sự kiện chặt chẽ không còn chiếm giữ vai trò căn bản, mà lùi sâu xuống hàng thứ yếu sau tính cách nhân vật. Cốt truyện cũng ngày càng bớt đi những yếu tố gay cấn, li kì để tư tưởng của truyện chủ yếu được bật ra từ suy nghĩ, từ tâm trạng nhân vật. Nhà văn coi việc phân tích nội tâm nhân
vật trở thành phương tịên nghệ thuật chủ yếu trong cách dựng truyện hiện đại. Thực ra trong văn học Việt Nam, cốt truyện tâm lý đã được Nam Cao, Thạch Lam sử dụng ngay từ giai đoạn hình thành và phát triển truyện ngắn hiện đại (1932-1945). Tuy nhiên trong 30 năm chiến tranh, do yêu cầu của hoàn cảnh, do áp lực sử thi dạng cốt truyện này ít được coi trọng. Từ sau hoà bình, nhất là từ sau những năm 80 trở đi cốt truyện tâm lí lại được khôi phục. Nguyễn Minh Châu được xem là những nhà văn khơi nguồn cho một thời kỳ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 83 văn học mới. Đi vào cuộc sống đời thường ông thường sử dụng cốt truyện này và đã tạo được những hiệu quả cao trong nhận thức. Bức tranh, Sắm vai, Khách ở quê ra, Dấu vết nghề nghiệp… đều là những truyện xây dựng theo tâm trạng nhân vật. Trong Bức tranh là sự đối diện và thức tỉnh lương tâm, sự khám phá khuôn mặt bên trong của người hoạ sỹ. ở đó Nguyễn Minh Châu đã sử dụng luồng ánh sáng của hàng nghìn ngọn nến như được phát ra từ lòng trắc ẩn, từ cõi tâm linh để phân tích, nhận thức, thanh lọc và khẳng định niềm tin mãnh liệt vào khả năng hướng thiện của con người. Còn người thủ thành tài ba trong Dấu vết nghề nghiệp lại day dứt về cái sự nghiệt ngã và tình người trong bóng đá. Đến lúc sắp gần đất xa trời ông mới nhận ra rằng: trong đời người ta thỉnh thoảng có những phút vụng dại yếu ớt và ngu ngốc đến không thể tưởng tượng được[11/320]. Khắc khoải, băn khoăn, giằng xé, thậm chí vật vã, trăn trở để nhận chân lại con người mình là những chân dung thường gặp trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Người họa sỹ trong Bức tranh, Người thủ thành trong Dấu vết nghề nghiệp, nhà văn T trong Sắm vai… có thể xem là những phiên bản tinh thần của Nguyễn Minh Châu trong hành trình tìm tòi đổi mới. Việc khai thác những tình huống tâm lí con người đã trở thành một nét của thi pháp cốt truyện trong truyện ngắn hiện đại. Hướng khai thác này
còn được tạo ra bởi sự đóng góp của nhiều nhà văn sau Nguyễn Minh Châu như Ma Văn Kháng, Xuân Thiều, Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê, Vũ Tú Nam… 1.3.2 Xu hướng lắp ghép liên văn bản Đây là nghệ thuật kể chuyện trượt ra ngoài mọi quy ước của thể loại. Viết theo xu hướng này, truyện được hình thành bởi cách lắp ghép các mảng cốt truyện. Diễn biến của câu truyện cũng không theo trình tự tuyến tính của thời gian, không gian mà đảo ngược theo ý đồ của nhà văn. Các tình huống rời rạc, tưởng như không ăn nhập với nhau lại đựơc sâu chuỗi trong mạch ngầm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 84 của văn bản. Trong những cốt truyện này thường có sự di chuyển của các điểm nhìn. Có thể xem Có một đêm như thế của Phạm Thị Minh Thư là một thành công nghệ thuật độc đáo với cốt truyện lắp ghép. Câu truyện được triển khai trên hai cốt truyện song hành. Một cốt truyện với mảng hiện thực đời thường trong nhiều mối quan tâm về cuộc sống với một mảng hiện thực của những năm tháng chiến tranh khắc nghiệt, hy sinh nhưng cũng có những phút bình yên và vẻ đẹp cao cả. Hai mảng hiện thực này như hai bức tranh độc lập cả về màu sắc và chất liệu. ở đây, cách kết hợp hai mạch truyện của tác giả không hề khiên cưỡng mà như một dòng chảy nối liền quá khứ và hiện tại, hiện tại và tương lai. Từng mảng không gian, thời gian cũng đan quyện vào nhau, khiến cho câu chuyện sinh động hơn, thể hiện được nhiều khoảnh khắc của cuộc sống. Cách lắp ghép này còn tạo ra sự đa thanh cho tác phẩm: vừa trí tuệ vừa cảm xúc, vừa cao cả lại vừa rất đời, vừa hiện thực lại vô cùng lãng mạn, vừa mang cảm hứng ngợi ca lại vùa phê phán một cách nhẹ nhàng và tinh tế. Từ đó bật lên tư tưởng của tác phẩm trong chiều sâu của nhận thức: đó là sự khác nhau về lối sống và cách suy nghĩ của con người trong chiến tranh và con người trong thời bình. Truyện Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam cũng tiêu biểu cho xu hướng cốt truyện lắp ghép này. Đó sự đan xen giữa hai mạch truyện về
quá khứ và hiện tại của ông An. Hành trình thứ nhất của ông là hành trình trở về với quê hương, gia đình, dòng họ. Hành trình ấy đã xáo trộn dữ dội tâm hồn ông, phá vỡ thế cân bằng tinh thần mà ông luôn muốn có. Nhưng sau khi chiêm nghiệm lại chặng đường 30 năm ấy, ông thấy bình tâm trở lại để đi tiếp hành trình thứ hai: hành trình từ hiện tại đến tương lai. Chỉ mấy ngày về quê ông đã sống với hai chiều thời gian của mấy chục năm suy nghĩ về các thế hệ trong dòng chảy của thời cuộc Chúng nó đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng. Còn mình thì đứng giữa ư? Hay theo hướng nào? [11]Cách dựng truyện như thế khiến người đọc luôn cảm thấy có sự tiếp nối giữa các thế hệ, giữa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 85 quá khứ và hiện tại. Vì thế câu truyện thường đem lại những nhận thúc mới cho con người trong cuộc sống hiện tại. 1.3.3. Vai trò của biến cố trong diễn biến cốt truyện Nếu hiểu cốt truyện là hệ thống sự kiện, biến cố được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức hoạt động của tác phẩm thì biến cố giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong việc thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Nếu câu truyện không có biến cố sẽ trở nên trừu tượng, khó hiểu. So với tiểu thuyết, biến cố trong truyện ngắn thường ít hơn về mặt số lượng nhưng lại chứa một sức nổ lớn. Bởi lẽ truyện ngắn thường có tính đột phá, đi thẳng vào thẳng vào biến cố trung tâm mà không được báo trước. Nhất là ở những truyện có cốt truyện tâm lí, biến cố thường xảy ra một cách tự nhiên trong cuộc sống của nhân vật. Nhà văn vẫn xây dựng biến cố nhưng xem đó chỉ là cái nền để nhân vật tự bộc, tự ý thức mà không có vẻ gì là chuẩn bị trước. ở truyện ngắn Bức tranh, tình huống đầu tiên là sự gặp gỡ tình cờ của người hoạ sỹ và một người lính trong chiến tranh. Giữa hai người có xảy ra
một số biến cố, sau đó mỗi người đi một ngả và câu chuyện tưởng như có thể kết thúc ở đây. Nhưng khi tình huống thứ hai xuất hiện: cuộc gặp gỡ tình cờ giữa anh hoạ sỹ, giờ đã nổi tiếng, và người lính năm xưa, giờ là anh thợ cắt tóc, thì mạch truyện lại được đẩy lên theo chiều hướng khác. Cuộc gặp gỡ trong hoà bình này đã làm đảo lộn cuộc sống bình yên của người hoạ sỹ, tính cách của nhân vật cũng thay đổi rõ theo mạch truyện. Để cho người lính im lặng với quá khứ, Nguyễn Minh Châu đã làm một phép thử đối với nhân vật. Do vậy xung đột bên ngoài giữa người hoạ sỹ và người thợ cắt tóc đã chuyển thành xung đột trong nội tâm người hoạ sỹ. Đó là cuộc truy đuổi róng riết và đơn phương, thực tế là người hoạ sỹ tự truy đuổi chính mình, truy đuổi đến tận cùng nguồn lạch và góc khuất của lối mòn công thức, sự cao ngạo, vô tâm, thói xấu và sự nguỵ biện[64/196]. Cuộc gặp gỡ lần thứ hai này có thể coi là biến cố thúc đẩy câu truyện. Nhưng ở đây việc gặp gỡ giữa anh hoạ sỹ lại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 86 dường như không mấy quan trọng bằng việc anh hoạ sỹ tự đối diện với mình. Bởi người lính ấy hoàn toàn im lặng, anh ta không tỏ vẻ gì là quen biết với người hoạ sỹ, cũng không tính sổ món nợ năm xưa. Cách dựng truyện như thế thường đem đến cho nhân vật của Nguyễn Minh châu khả năng tự nhận thức. Ý nghĩa triết lý cũng cũng vì thế trở nên sâu sắc hơn. Trong những truyện khác như: Bến quê, Mẹ con chị Hằng, Sắm vai…người đọc cũng gặp cách tạo dựng biến cố một cách tự nhiên như hơi thở cuộc sống mà ở đó tác giả đã cố ý bớt đi tính đột biến của nó trong độ căng của cốt truyện. Một người sắp giã từ cõi đời thì việc nhìn sang cái bờ bên kia của sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình để cảm nhận hết vẻ quen thuộc của nó tưởng như chẳng có gì gọi là biến cố cả. Nhưng với Nhĩ (Bến quê) đó thực sự là một biến động trong tâm hồn. Bởi anh là người từng đi không sót
một xó xỉnh nào trên trái đất cho đến tận bây giờ mới phát hiện ra mình chưa bao giờ đặt chân đến cái bãi bờ bên kia sông Hồng. Phải đến bây giờ anh mới thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi cả trong những nét tiêu sơ của nó. Chính cái điều anh vừa khám phá ra lại là niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận mà lời lẽ không bao giờ giải thích hết. Trong cốt truyện ngắn sau 1975 đã ít đi những tình huống xung đột bên ngoài mà chủ yếu là xung đột nội tâm. Cái được coi là biến cố trong cốt truyện thực ra chỉ là những tình huống tự nhiên trong cuộc sống nhưng được nhà văn sử dụng như những cái cớ cho nhân vật tự đối thoại, tự thú với chính mình. Vì thế, dù cốt truyện ít những biến cố nhưng vẫn tạo ra những đột biến trong nhận thức. 1.4 Đặc điểm của đoạn kết trong cấu trúc truyện Trong thành phần của cốt truyện, nhất là với tiểu thuyết đoạn kết giữ một vai trò quan trọng. Nó xoá bỏ các xung đột, nhưng không phải bao giờ cũng xoá bỏ mâu thuẫn. Nó là phương tiện khái quát cảm xúc, tư tưởng của nhà văn, là nơi tập trung sức biểu hiện cao cho chủ đề tác phẩm. Tuy nhiên, với truyện ngắn vấn đề không phải hoàn toàn như vậy. Sêkhôp từng nói: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 87 truyện ngắn chẳng cần khai từ chẳng cần kết thúc gì hết[48/74]. Như vậy không có nghĩa là người viết truyện ngắn không phải tìm một điểm dừng. Chọn đúng điểm dừng sẽ làm cho sức chứa, sức đọng của truyện ngắn tốt hơn. Truyện ngắn truyền thống theo mô hình kết thúc đóng, kết thúc có hậu. Tức là mọi xung đột trong truyện được giải quyết, người đọc không phải băn khoăn về số phận nhân vật. Dù cho câu truyện phức tạp đến đâu, mâu thuẫn căng thẳng đến đâu thì cuối cùng cũng kết thúc ở chỗ trọn vẹn nhất. Người đọc cũng không thể tham gia giải quyết những vấn đề của tác phẩm mà chỉ có thể chấp nhận một cốt truyện đã được giải quyết xong xuôi. Mô hình kết thúc này đã chi phối hầu hết truyện giai đoạn trước 1975 và một phần sau 1975. Từ sau năm 1975, xuất hiện nhiều truyện ngắn có cấu trúc tự do hơn,
hình thức kết thúc cũng trở lên đa dạng hơn. Vẫn có những kết thúc theo kiểu truyền thống nhưng xuất hiện nhiều kết thúc để ngỏ, kết thúc mở. Đây là lối kết thúc mở ra người đọc khả năng tự suy ngẫm, tự đánh giá. Vì vậy, nó gợi ra nhiều vấn đề, đưa ra nhiều khả năng, nó rút ngắn khoảng cách giữa nhà văn và bạn đọc. Cách kết thúc như thế cũng giúp người đọc có thể tham gia lựa chọn các khả năng mà nhà văn còn để ngỏ. Những bông bần li (Dương Thu Hương), Người không đi cùng chuyến tàu (Nguyễn Quang Thân) là những truyện ngắn có kết thúc mở. Trong phần kết của hai truyện ngắn này, nhân vật chính đã vỡ ra trong nhận thức về tình yêu và hạnh phúc.Với Ngân (Những bông bần li) cái thành trì của cuộc sống vật chất đã vỡ vụn như tổ dã tràng trước cơn sóng. Còn Minh (Người không đi cùng chuyến tàu) biết chắc chắn trái tim rạn nứt của mình sẽ không còn lành lặn như xưa. Tuy nhiên người đọc không biết họ sẽ hành động tiếp theo như thế nào sau sự thức nhận ấy. Bởi vì thực chất mâu thuẫn của truyện chưa được giải quyết. Cả Ngân và Minh sẽ đối diện như thế nào khi phát hiện ra những thói tật chồng mình? Liệu họ có thể duy trì hạnh phúc thực sự hay phải kiếm tìm một con đường khác? Cách kết thúc như vậy gieo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 88 vào lòng người đọc những suy nghĩ, trăn trở. Và mỗi người có thể tự đưa ra những cách lý giải của riêng mình. Một số truyện của Nguyễn Minh Châu lại khiến người đọc có cảm giác không có chất truyện, cũng chẳng có mở đầu, chẳng có kết thúc. Với khả năng nhìn đâu cũng ra truyện ngắn (Lê Lựu), nhiều khi truyện ngắn của ông chỉ như một mảnh ghép trong vô số những mảnh ghép của cuộc sống. ở Mẹ con chị Hằng là chuyện thường ngày của một bà mẹ lạc hậu nhưng hết lòng yêu thương con. Bà đến để chăm con gái mới sinh nhưng chưa được đầy tháng thì
bà lại tiếp tục làm đại sứ lưu động cho đứa con khác. Truyện kết thúc như những cuộc đến và cuộc đi hàng ngày của con người. Nó khiến cho người đọc có cảm giác hành trình của nhân vật chưa dừng ở đó. Lại có những kết thúc bằng huyền thoại làm tăng tính tính biểu trưng, tính đa thanh cho truyện. Trong phần kết truyện ngắn Huyền thoại về chim phượng của Trần Thị Thùy Mai, tác giả đã sử dụng một truyền thuyết ấn Độ. Truyền thuyết về chim phượng khi về già sẽ bay đến những vách đá cao, lót cho mình một cái tổ bằng nhựa hồi và cánh quế. Chim nằm ở đó, tắc thở cùng với mặt trời lặn. Khi mùa xuân đến, quả trứng nở thành chim phượng non, lộng lẫy, dũng mãnh, gấp bao lần tiền thân của nó[8/325]. Với kết thúc bằng huyền thoại như thế tác phẩm thường mang một ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa mà tác giả không muốn nói ra một cách trực tiếp. ở truyện ngắn này, hình ảnh con chim tắc thở phải chăng là hình ảnh của Bội Hoàn? Còn con chim phượng non lộng lẫy và dũng mãnh là hình ảnh của Phượng? Và Phượng cũng chính là người sẽ đi tiếp quãng đường của Bội Hoàn? Với những kết thúc mở, để tăng độ mở của đoạn kết, tạo nên độ tin cậy và quyền chủ động của người đọc với tư cách đồng sáng tạo, nhiều truyện ngắn thường có một khoảng trống tự do ở cuối truyện. ở đó, xuất hiện liên tiếp những câu hỏi gieo vào lòng người đọc bao nỗi suy tư, liên tưởng về nhân tình thế thái: Anh là ai thế nhỉ? Vì lẽ gì anh lại quyến rũ tôi đến thế?... Chỉ như thế mà không đủ để vui vẻ? để tin tưởng và hy vọng ư?[8/242]; Con người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 89 đi qua, ánh sáng còn để lại mãi, phải vậy không? Và em là mặt trời bé con của chị, phải vậy không, Nguyên?[ 8/301]; Đâu là ranh giới của sự bao dung mênh mông sự không thể chấp nhận những tội lỗi được che giấu?[8/380]... Lối kết thúc bằng những câu hỏi như thế bao giờ cũng có sức ám ảnh, tạo dư ba trong lòng người đọc. Như vậy, dù ở dạng này hay dạng khác, kết thúc truyện ngắn sau 1975
thường có xu hướng không trọn vẹn, không giải quyết triệt để mọi vấn đề đặt ra trong truyện. Cách kết thúc này đem lại những ý nghĩa nhất định. Bởi truỵện ngắn sau 1975 thường là sự lựa trọn và trình bày các khả năng có thể có của con người và cuộc đời trong diễn biến xã hội. Hiện thực cuộc sống không chỉ đa dạng, bề bộn mà còn dang dở. Một hiện thực luôn ở trong dòng sinh hoá (Ma Văn Kháng) tuôn dào dạt. Vì thế kết thúc để ngỏ sẽ mở ra những khoảng trống cho người đọc tự suy nghĩ, phán đoán, tưởng tượng và sáng tạo. Đó cũng là tính chất dân chủ của nền văn học mới sau chiến tranh. 2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truỵện ngắn 1975-1985 Đối với phương thức tự sự, vai trò của nhân vật được xác định là thành phần then chốt, là yếu tố trung tâm để nhà văn thể hiện đề tài, chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật trong văn học là một hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, không sao chụp mọi chi tiết biểu hiện của con người trong cuộc đời thực, cho dù nó được xây dựng từ một nguyên mẫu ở ngoài đời. Mỗi nhân vật trong tác phẩm tự sự được nhà văn sáng tạo ra để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân, một loại người nào đó, hay một vấn đề của hiện thực. Do đó nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Cũng như các loại hình tự sự khác, nhân vật trong truyện ngắn là những con người bước ra từ cuộc sống hiện thực được nhận thức và phản ánh theo quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Theo Từ điển thuật ngữ văn học nhân vật được khắc hoạ nhờ một hệ thống phong phú đa dạng, gồm nhiều sự kiện xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình nhân vật, chi tiết, tính cách… còn cả những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 90 chi tiết liên tưởng, tưởng tượng… mà không nghệ thuật nào tái hiện được. ở mỗi giai đoạn văn học đều có những loại nhân vật đặc trưng. Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975, chủ yếu là các nhân vật loại hình, nhân vật được phân tuyến địch - ta rạch ròi. Do xuất phát từ phương châm phục vụ kháng chiến, văn học giai đoạn này lấy công - nông - binh làm nhân vật trung tâm. Đó là những con người mang trong mình những yếu tố của một thời đại
đầy đau thương nhưng quyết liệt lạ thường. Họ thường là những biểu tượng của lòng dũng cảm, ý chí kiên cường, bất khuất và lòng vị tha cao thượng. Nhân vật văn học do vậy nhiều khi trở thành một hình thức để nhà văn công bố chân lý mà không có tính chất đối thoại. Từ sau 1975, khi văn học trở về với con người cá nhân trong cuộc sống đời thường. Mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, giữa nhà văn và bạn đọc trở nên dân chủ hơn. Nhân vật trong tác phẩm dần dần trút bỏ bộ cánh xã hội trở về với những mối quan hệ nhiều chiều như nó vốn tồn tại trong cuộc sống. Sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người đã làm cho cấu trúc nhân vật ở giai thời này sinh động hơn, khá đa dạng về kiểu loại. ở luận văn này, chúng tôi không đi sâu thống kê hệ thống nhân vật trong truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 mà chỉ góp phần nhận diện một số kiểu nhân vật mới xuất hiện và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống nhân vật của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Đó là: nhân vật tự nhận thức, nhân vật tính cách số phận… 2.1.Các kiểu nhân vật mới trong truyện ngắn 1975 - 1985 2.1.1. Nhân vật tự nhận thức Nếu nhân vật trong truyện ngắn giai đoạn 1945-1975 thường được miêu tả trong quá trình hoạt động, thì nhân vật trong truyện ngắn sau 1975 lại chủ yếu được miêu tả trong quá trình tự nhận thức. Từ nhận thức thế giới bên ngoài đến nhận thức thế giới tâm hồn của chính mình là một bước phát triển mới của tư duy nghệ thuật về con người, đồng thời gắn với sự thức tỉnh ngày càng cao của nhà văn về giá trị con người cá nhân. Nhân vật tự nhận thức đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 91 trở thành dạng nhân vật chủ đạo trong truyện ngắn sau 1975. Đó là nơi thể hiện những nhận thức của nhà văn về con người, về cuộc đời trong chiều sâu triết lý nhân sinh. Dạng nhân vật này thường gắn với những chủ đề tự thú hay xám hối. Có thể gặp dạng nhân vật này trong những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Dương Thu Hương…
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 đặc biệt xuất hiện nhiều nhân vật tự nhân thức. Đó là người hoạ sỹ trong Bức tranh, Nhĩ trong Bến Quê, Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, nhà văn T trong Sắm vai…Quá trình tự nhận thức của người hoạ sỹ diễn ra khá phức tạp và gay gắt trong hoàn cảnh hết sức khó xử, thậm chí là trớ trêu. Lần thứ nhất (trong chiến tranh), sau khi vừa từ chối vẽ chân dung cho người lính trưa hôm trước thì ngay sáng hôm sau chính người chiến sỹ đó nhận nhiệm vụ giúp hoạ sỹ qua chặng đường nguy hiểm. Lần thứ hai (trong hoà bình) khi hoạ sỹ đã quên lời hứa đem bức tranh đến cho bà mẹ của người chiến sỹ kia khiến bà trở lên mù loà thì bỗng dưng gặp lại người chiến sỹ, giờ là thợ cắt tóc cho mình. Từ đây, quá trình đấu tranh nội tâm của người hoạ sỹ bắt đầu diễn ra gay gắt. Lúc đầu ông ta tìm cách tự biện minh cho mình: tôi là một nghệ sỹ chứ đâu phải là một anh thợ vẽ truyền thần. Công việc cuả người hoạ sỹ là phục vụ cả số đông, chứ không phải chỉ phục vụ một người[11/127]. Nhưng chính ông ta cũng không thể chấp nhận được lí do này và quyết định chạy trốn khỏi người thợ cắt tóc dù cho anh không một lần tính sổ chuyện 8 năm trước. Rồi ông lại nghĩ đến việc bí mật gửi tiền cho anh, cái số tiền đã thu được nhờ bức ký hoạ đó. Nhưng lại một lần nữa lương tâm ông cất lời phản đối không cho phép mình lấy đồng tiền để thay cho cái mặt mình[11/130]. Cuối cùng ông quyết định phải chường cái mặt ra, chứ không được lẩn tránh[11/131]. Cuộc tự vấn lương tâm bị đẩy lên đến đỉnh điểm trong đoạn đối thoại mà người hoạ sỹ tưởng tượng ra. ở đó những thái cực đối lập nhau có điều kiện tranh biện. Vì vậy nó giúp người hoạ sỹ nhận ra trong con người tôi đang sống, lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 92 rết, thiên thần và ác quỷ[11/133]. Có thể thấy, đó là một cuộc vật lộn ở bên trong để ánh sáng con người được thắp lên từ sự xám hối chân thành, để cái xấu, cái thấp hèn được bộc lộ phơi bày trước lương tâm nghiêm minh phán xét[64/ 198].
Nhà văn T (Sắm vai) cũng là một phiên bản khác của nhân vật tự nhận thức. Anh là một nhà văn có bề dày kinh nghiệm trong cuộc đời trong nghề nghiệp. Có thời điểm anh từng tự tước bỏ đi hết mọi cái phù phiếm, những lớp vỏ bề ngoài vô bổ, tất cả những cái gì lấp lánh có thể lừa dối mình và người khác. Vậy mà cũng có lúc anh chấp nhận đóng vai một người chồng hoàn hảo có gương mặt như còn hoá trang dở để vừa lòng cô vợ trẻ. Nhưng rồi cuối cùng anh thấy mình là một diễn viên tồi, không thể cả cuộc đời đóng trọn vai đó được. Anh tự nhìn thấy cái lố bịch của mình già rồi vẫn còn chơi trống bỏi để rồi quyết tâm trở lại chính mình. Còn Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) cả cuộc đời lang thang đi tìm chân trời của những giá trị tuyệt đối mới đau đớn nhận ra rằng tôi đã không coi họ là nhưng con người đang sống giữa cuộc đời mà lại đòi hỏi nơi họ một thánh nhân. Tôi đã đi tìm cái tuyệt đối không bao giờ có[11/148]. Mặt khác, Quỳ đinh ninh rằng tình yêu của tôi có thể cứu được hết tất cả mọi người nhưng thực tế tình yêu mà tôi tưởng hết sức màu nhiệm, chẳng cứu sống được một ai cả[11/179]. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng triết lý tự nhận thức trong một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đôi lúc còn lộ liễu. Điều đó cũng phần nào làm hạn chế giá trị của truyện. Với các nhân vật của Vũ Tú Nam, Ma Văn Kháng, Dương Thu Hương, Xuân Thiều…quá trình tự nhận thức cũng là sự nghiền ngẫm, rút ra những kinh nghiệm sống. Nó gắn liền với sự tự nhận thức của mỗi người về nhân cách trong chiều sâu triết lý nhân sinh. Thể (Tháng ngày đã qua- Xuân Thiều) đi gần hết cuộc đời mới nhận ra rằng được sống như chính mình cũng chẳng dễ dàng gì[60/143]. Còn nhân vật Từ (Kiểm- Chú bé - Con người- Ma Văn Kháng) qua cuộc đời của chú bé Kiểm lại hiểu được Đau khổ cũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 93 có thể làm nảy sinh những nhân cách có tâm hồn phi thường[31/194]. Giọt nước mắt muộn màng của Luyến (Mất điện- Ma Văn Kháng) cũng là sự thức tỉnh chính mình về lối sống ích kỷ, thu mình, để cho những kẻ xấu ngang nhiên chà đạp mà không một chút kháng cự. Sống với thời gian hai chiều (Vũ Tú Nam) lại là bản kiểm chân thành và xúc động về cuộc đời của ông An trước dòng chảy thời cuộc.
Có thể nói nhân vật tự nhận thức đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Nó đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ trong quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn, đồng thời góp phần phát hiện một bình diện chỉnh thể mới của con người- nhân cách hay con người trong con người [50/47]. 2.1.2 Nhân vật tính cách, số phận Văn xuôi giai đoạn chiến tranh xem xét con người chủ yếu ở phương diện đời sống chính trị, xã hội vì vậy việc phân loại nhân vật cũng theo quan điểm giai cấp và dân tộc nên nhân vật mà nó tạo ra thường là những con người trùng khít với bộ áo khoác xã hội của nó. Sau chiến tranh, với những biểu hiện tư tưởng nghệ thuật mới về con người, con người phong phú phức tạp, do đó cũng xuất hiện những nhân vật có cấu trúc nhân cách phức tạp, không thể phân tuyến rạch ròi. Nhân vật không còn đại diện cho một kiểu, một lớp người nào trong xã hội. Mỗi nhân vật trong truyện ngắn sau 1975 thường mang một số phận khác nhau. Kiểu nhân vật số phận này không mới lạ trong văn xuôi Việt Nam, nhưng suốt thời kỳ 1945-1975 chúng hầu như không có mặt. Bởi nguyên tắc xây dựng nhân vật ở giai đoạn này chủ yếu tuân thủ phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa: xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Khi trở về với hiện thực đời thường đa dạng, muôn màu muôn vẻ thì những nhân vật mang số phận riêng lại trở thành đối tượng nhận thức chính. Con người được miêu tả trong truyện ngắn sau 1975 tuy chưa được miêu tả với đầy đủ những thăng trầm trong số phận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 94 như ở tiểu thuyết nhưng những cảnh ngộ, những bi kịch riêng thì đã hình thành rõ nét. Đó là số phận của người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà ấy đã từng là con một nhà khá giả, nhưng vì xấu nên không có ai lấy. Sau đó chị có mang với một anh con trai nhà hàng chài giữa phá và bắt đầu cuộc đời lênh đênh trên sông nước. Cuộc sống dưới thuyền không xuôn xẻ gì lại thêm một lũ con nheo nhóc khiến anh chồng từ một anh con trai cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập vợ con trở thành một kẻ vũ phu. Bi kịch của đàn bà ở chỗ cứ ba ngày bị chồng đánh một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng vậy mà chị ta một mực khăng khăng xin quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó[11/342]. Tại sao một người bị chồng đánh một cách tàn nhẫn lại không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy?
Vì sao chị ta thà hàng ngày chịu đòn của chồng chứ nhất định không li dị hắn? Thì ra, ngã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của người đàn bà làng chài, nhất là những khi biển động. Hơn thế chị còn phải nuôi những đứa con, chị đâu chỉ sống cho riêng mình, chị còn phải sống vì chúng nữa. Mặt khác cuộc sống trên thuyền cũng có lúc bình yên, vợ chồng con cái sống vui vẻ, thuận hoà. Dường như trong hoàn cảnh này, cách hành xử của người đàn bà này là không thể khác. Giải pháp bỏ chồng mà ông chánh án đưa ra cho trường hợp của chị là không khả thi. Bởi hơn ai hết người đàn bà ấy hiểu rằng chị đau đớn về thân thể nhưng không thể oán giận chồng. Số phận của anh ta cũng nghiệt ngã chẳng kém gì chị. Anh ta đáng bị lên án bởi sự vũ phu và bởi tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn những bực bội trong lòng. Nhưng anh ta cũng đáng nhận được sự cảm thông bởi gánh nặng gia đình. Xét đến cùng anh ta chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. ở đây Nguyễn Minh Châu nhìn nhận số phận của con người trong cuộc sống không đơn giản mà đa diện, nhiều chiều. Bởi thế người nghệ sĩ bao giờ cũng nhìn thấy đằng sau cái màu hồng của ánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 95 sương mai trong bức ảnh còn là hình ảnh người đàn bà làng chài bước ra khỏi tranh. Chị là hiện thân của những lam lũ khốn khó đời thường nhưng cũng tiềm ẩn trong đó những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống. Số phận của chú bé Kiểm (Kiểm - chú bé- con người) của Ma Văn Kháng lại khiến người đọc không khỏi day dứt. Bố mẹ bỏ nhau, Kiểm ở với bố, mẹ kế và hai đứa em cùng cha khác mẹ. Trên thân thể em thường hằn lên những dấu vết của những trận đòn và sự hành hạ từ bà mẹ kế. Bà dì vốn cưng chiều con mình, để thoả mãn tình thương ấy bà phải hành hạ, trút cái vất vả khổ cực lên đầu em. Thậm chí cả hai đứa trẻ cũng sớm bị ảnh hưởng cái thói cay nghiệt, cái đặc quyền được đày đoạ con chồng nên đành hanh, nhiều khi quái ác đổ tội lên thằng anh để nó lại phải hứng chịu đòn oan. Một đứa trẻ không may rơi vào cảnh ngộ éo le này, rất dễ trở nên cằn cỗi, thui chột hết cái mầm nhân bản, hết khả năng yêu thương, thậm chí là lạnh lùng, nhẫn tâm với đồng loại. Nhưng Kiểm không chai lì, không tàn nhẫn. Bị vùi dập và dồn vào cảnh thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm thì em vãn còn giữ được một khoảng cách, chưa đồng hoá với cái xấu. Em yêu thương và chăm sóc chu đáo cho hai đứa em cùng cha khác mẹ với tư cách là một người anh.
Em sẵn sàng giúp đỡ và chia sẻ với những người nghèo khó. Khi người mẹ kế lâm bệnh, em đã tự nguyện trở về với một tình yêu vừa non tơ vừa quảng đại và quả cảm. Bởi em nghĩ suốt đời làm người khác khổ thì mình có sung sướng gì đâu. Kiểm là hệ quả của số phận rắc rối giao tiếp qua nhau, là hệ quả những va đập dưới áp lực của những quan niệm đạo đức và dục vọng khác nhau. Sự mưu cầu lợi ích vị kỷ, sức thôi thúc của dạ dầy và trái tim, lầm lỡ cả những tái tạo hồi sinh đã đảo lộn cơ tầng đời sống… làm nảy sinh những đứa trẻ bơ vơ, mất nơi nương tựa và bẽ bàng[31/84]. Nhân vật Dì Út trong truyện ngắn cùng tên của Thanh Quế cũng là một số phận mang đầy tính bi kịch. Đó là người phụ nữ phải chịu cả nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần. Sau khi tiễn chồng đi tập kết ở Miền Bắc, người phụ nữ này thường xuyên bị bọn Mỹ nguỵ bắt đi tù, đánh đạp tra khảo luôn. Đau đớn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 96 hơn cả là đứa con gái duy nhất cũng chết vì bệnh trong lúc chị đang ở tù. Sau ngày miền Nam giải phóng, chị vẫn nuôi mẹ chồng và chờ chồng nhưng chồng chị thì không một lần trở lại. Hoá ra anh ta giờ đã là một quan chức, lại sắp đi làm tuỳ viên kinh tế ở nước ngoài. Để leo lên được địa vị đó, anh ta sẵn sàng bịa ra một cái thư giả của một người đã chết vu oan, bêu xấu vợ để lừa tổ chức. Khi vợ biết chuyện, anh ta một mặt đổ thừa cho hoàn cảnh, mặt khác quỳ xuống van vỉ chị bỏ qua. Những người thân muốn chị vạch mặt kẻ bội bạc dối trá kia nhưng chị giữ im lặng. Nếu làm như thế liệu vết thương lòng của chị có thể nguôi ngoai hay chị sẽ chỉ nhận được nhiều ánh mắt cảm thương hơn của người khác? Sự im lặng ấy là biểu hiện cuả lòng bao dung hay sự chấp nhận thực tại phũ phàng? Số phận của con người đã đi qua chiến tranh không chỉ có vầng hào quang mà còn có cả những đau thương mất mát. Khi viết về cái đa đoan của con người trong cuộc sống, truyện ngắn sau 1975 cũng xuất hiện kiểu nhân vật cô đơn. Trong những năm chiến tranh không có con người cô đơn mà chỉ có con người tập thể, con người quần chúng. Xung quanh họ là bạn bè, đồng chí, dân tộc… con người không có điều kiện để soi ngắm tâm hồn mình. Sau 1975, với quan niệm con người cá
thể, với sự thức tỉnh ý thức cá nhân thì kiểu nhân vật cô đơn không phải là hiếm. Hơn nữa ở giai đoạn giao thời trong bề bộn cuộc sống thì thật - giả, trắng - đen, tốt -xấu không phải lúc nào cũng minh bạch như hồi chiến tranh. Con người có lúc hoang mang trước nhiều lựa chọn. Vì thế con người cô đơn trở thành một điểm xoáy thu hút nhiều tác giả truyện ngắn. Bằng nhiều cách, mỗi nhà văn đã đi vào khám phá các phương diện khác của sự cô đơn. Nguyễn Minh Châu đi vào nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh với một khoảng trống trong tâm hồn không gì bù đắp nổi (Quỳ- Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành). Dương Thu Hương lại xây dựng một kiểu nhân vật cô đơn đi tìm kiếm hạnh phúc, thứ hạnh phúc không thể với được trong tầm tay (Ngân- Những bông bần li). Nhân vật cô đơn trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng thì tìm cách thì chạy trốn quá khứ (ông Thiềng- Ngày đẹp Số ____hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 97 trời). Còn Nghĩa (Căn nhà ở phố- Nam Ninh) lại cô đơn lạc lõng ngay chính gia đình của mình. Đến nỗi anh phải tạo ra một kịch bản giả viết thư cho chính mình để tìm một cái cớ hợp lý cho việc rời khỏi gia đình. Nhiều nhân vật cô đơn trong truyện ngắn sau 1975 là những con người vừa bước ra khỏi chiến tranh. Họ không dễ dàng hoà nhập với những thay đổi trong cuộc sống hoà bình. Tuy nhiên ngày càng xuất hiện những nhân vật cô đơn về trạng thái tâm hồn. Đó là sản phẩm của những va đập trong cuộc sống đời thường, trong những quan niệm đạo đức nhân sinh trong cách ứng xử như nhân vật Đính trong Người không đi cùng chuyến tàu của Nguyễn Quang Thân. Anh là một con người có tài năng và trách nhiệm cao trong công việc. Anh luôn tìm ra một phương án tối ưu để sửa chữa cho những dự án sai lầm. Đó là một công việc rất hữu ích nhưng không phải lúc nào cũng được mọi người ủng hộ. Người cho rằng anh đang chống lại tập thể, người lại tưởng anh đang tranh chấp quyền lực, đến người anh yêu cũng không dám ra mặt ủng hộ anh. Vì thế, cuộc sống của anh luôn vấp phải rất nhiều những hiểu lầm, những lời chỉ trích gay gắt và suốt cuộc đời anh đã
luôn phải đấu tranh cho chân lý trong cô đơn. Như vậy, cô đơn thực chất là chuyện của những số phận, những con người cá nhân nhưng nó không phải là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Đi vào từng mảnh đời cô độc là những vấn đề mang tính xã hội lớn lao. Thể hiện con người cô đơn chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong truyện ngắn sau 1975 để góp phần giúp cho người đọc hiểu rõ hơn những tình cảm sâu kín thuộc về vấn đề con người. ở mỗi truyện ngắn sau chiến tranh là từng cá thể, từng mảnh đời thầm lặng hay sôi động. Chân dung và số phận con người đã được thể hiện khá sinh động sâu sắc, đa chiều. Đi sâu vào tâm hồn con người, nhà văn thấy được ở mỗi số phận ấy từng niềm vui, nỗi buồn hay sự đau khổ, khao khát, đam mê. 2.2. Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 98 Có ý kiến cho rằng truyện ngắn sống bằng nhân vật và nó bộc lộ đầy đủ những đặc tính của thể loại, mở ra cho văn học những đề tài, những vấn đề mới của đời sống bằng những hình tượng văn học. Nếu truyện ngắn 1945- 1975 thể hiện quan niệm con người tập thể, con người quần chúng nên nhân vật thường được thể hiện trong các sự kiện, biến cố lịch sử thì truyện ngắn sau 1975, trở về con người cá nhân. Nhân vật thường được thể hiện qua các mối quan hệ đời thường, qua thế giới nội tâm, qua miền ý thức, vô thức đầy bí ẩn, phức tạp. Với xu hướng khám phá, thể hiện con người mới mẻ như vậy, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 đã hình thành một số kiểu nhân vật mới. Cách biểu hiện nhân vật cũng đang có những chuyển biến mới. 2.2.1. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Văn học Việt Nam 30 năm chiến tranh xây dựng con người quần chúng, con người hiện thân cho ý chí cách mạng. Đó là những con người cầm súng và quyết thắng lấn át con người bình thường, con người tinh thần, ý chí nổi lên trên con người vật chất, con người vì nghĩa lớn lấn át con người riêng tư[81/428].Việc đi sâu khai thác tâm lí con người chưa được coi là một thao tác bình thường trong văn học giai đoạn này. Tuy nhiên, khi văn học trở về với con người cá nhân, con người trong cuộc sống đời thường thì việc miêu tả tâm lí con người lại như một lợi thế của văn xuôi nói chung. Bởi lẽ
khi các tác giả tập trung sự chú ý vào quá trình hình thành cá tính, tính cách của con người tất yếu sẽ dẫn đến sự tăng cường yếu tố phân tích tâm lí và khắc họa cá tính nhân vật. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 có thể nhận thấy, các nhà văn đã khá nhạy bén trong việc miêu tả tâm lí, cá tính, tư tưởng của con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự miêu tả những xung đột nội tâm, những rung động trong cảm xúc, những biến đổi trong tâm lí nhân vật chứ chưa hoàn toàn nắm bắt trọn vẹn một quá trình tâm lí, tư tưởng để xây dựng những hình tượng nghệ thuật có sức sống lâu bền. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 99 Trong khi miêu tả tâm lí nhân vật, các tác giả thường để cho nhân vật tự ý thức về bản thân mình trong những mối quan hệ với xung quanh, tự mình bộc lộ với chính mình những suy nghĩ và cảm xúc chân thực nhất. ở đó thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng một cách hữu hiệu để nhân vật tự bộc lộ những suy tư, trăn trở của bản thân. Những tiếng nói từ bên trong, những lời tự vấn của người họa sĩ trong Bức tranh (Nguyễn Minh Châu) chính là động lực thúc đẩy sự phát triển tính cách của anh ta. Lúc đầu, khi phát hiện ra lỗi lầm do sự thất hứa của mình, anh ta đã day dứt: Tại sao ngày ấy tôi đã không dưa tấm ảnh đén cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Tôi đã hứa với anh và cả tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ?[11/126]. Rồi chính anh lại tự biện minh cho việc làm của mình: Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là anh thợ vẽ truyền thần, công việc của người nghệ sĩ là phải phục vụ cả số đông, chứ không phải chỉ phục vụ một người[11/127]. Những lời tư biện này chứng tỏ anh ta chưa thấy được hết cái nguy hiểm của thói quen lấy lợi ích cộng đồng làm bình phong che chắn cho hành vi thất hứa của mình. Vì thế, xung đột nội tâm của nhân vật chưa dừng lại ở đó mà được đẩy cao hơn trong cuộc đối thoại tưởng tượng với người thợ cắt tóc. Đó là một thứ trảm hình trong lòng nhân vật để anh ta nhận ra cái bộ mặt thật của mình vừa được lột ra khỏi cái mặt nạ hàng ngày. Truyện ngắn này lôi cuốn người đọc bởi cách xoáy sâu vào tâm lí nhân vật và nghệ thuật tạo căng thẳng dần, siết chặt dần từ cảm giác ân hận bị dìm xuống
đến lòng hối hận bùng lên, rồi một niềm ăn năn không dứt mãi không thôi trong lòng nhân vật. ở đây, tác giả đã cố gắng đưa nhân vật đi đến tận cùng sự phân tích bên trong để nhìn rõ chính nó. ở Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu tỏ ra là cây bút có khả năng phân tích và thể hiện được những biến động tâm lí khá phức tạp của một tâm hồn không đơn giản như Quỳ. Nhà văn chọn cho câu chuyện của mình bằng dạng thức tự kể của nhân vật chính. Đó là những lời kể chân thành như lời tự thú của Quỳ. Rồi cứ thế cả thiên truyện dần dần hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 100 ra cùng vói việc khám phá phần cốt lõi khó khăn phức tạp đầy biến động nhất của nội tâm, đó là các cuộc tình của Quỳ. Đúng là để xây dựng nhân vật này, Nguyễn Minh Châu đẫ phải huy động một khối lượng đậm đặc những chi tiết, những chi tiết buộc phải có nhiều kinh lịch trên đường viết văn, một quan sát tinh tế lắm, một vốn hiểu biết về nhân vật sâu sắc mói có thể có được[81/311]. Mỗi nhà văn trong từng truyện ngắn của mình có những khám phá riêng về đời sống tâm hồn của nhân vật. Nếu Vũ Tú Nam trong Đi đón cơn mưa miêu tả thành công những xao động trong tâm hồn của một người thầy giáo khi biết được tình cảm của một người phụ nữ có số phận bất hạnh dành cho mình thì Thùy Linh lại đọc ra được một nghị lực ghê gớm, một sự thèm khát tình yêu của bố mẹ trong đôi mắt vốn lạnh lùng của cậu bé Nguyên (Mặt trời bé con của tôi). Phạm Thị Minh Thư miêu tả những trạng thái tâm hồn đầy tinh tế, thơ mộng và tràn đầy niềm tin của nhân vật trong một đêm tản cư mà có lẽ chẳng sự tàn bạo, khốc liệt nào đè bẹp nổi (Có một đêm như thế). Dù rằng mỗi tác giả truyện ngắn mới chỉ đi vào miêu tả tâm lí nhân vật trong từng thời khắc nhất định chứ chưa phải là toàn bộ quá trình tâm lí thì điều này cũng đã góp phần làm cho nhân vật được soi chiếu ở nhiều bình diện. Mặt khác khi đi vào miêu tả tâm lí nhân vật, các cây bút truyện ngắn
còn sử dụng yếu tố tâm linh như một biện pháp để khám phá sâu hơn nội tâm nhân vật. Với các hình thức giấc mơ, điềm báo, đối thoại giữa những mảng tâm linh… nhờ đó chất người được bộ lộ đa chiều, đa diện hơn. Dưới hình thức những cơn mộng du (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) Nguyễn Minh Châu đã khắc họa sâu sắc những tình cảm của một người đàn bà suốt đời lang thang đi tìm chân trời của những giá trị tuyệt đối. Cả thiên truyện dường như được bao bọc trong một bầu không khí phảng phất màu sắc mộng mị, huyền thoại. Nhiều lần trên con tàu mộng du của Quỳ yếu tố tâm linh đã xuất hiện góp phần soi tỏ nội tâm nhân vật. Chẳng hạn khi gặp pho tượng Phật ngàn tay ngàn mắt ở một ngôi chùa trong một lần đi công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 101 tác, Quỳ nghĩ ngay đến đôi bàn tay của người trung đoàn trưởng đã hi sinh. Quỳ nâng vạt áo quân phục dính đầy dầu mỡ lên lau sạch những lớp bụi bám trên một bàn tay. Nhưng khi vừa chạm tới, vạt áo của chị đã ướt đẫm mồ hôi, y như mồ hôi người cứ dấp dính toát ra từ chất gỗ. Và cảm giác của nhân vật lúc này hoàn toàn được soi chiếu từ ánh sáng của tâm linh: Tôi sợ hãi lùi ra xa, ngước nhìn khuôn mặt ấy: tự nhiên tôi bỗng hoảng hốt khi nhận ra đang phảng phất trên cặp môi bằng gỗ, vẫn cái nụ cười ấy, cái nụ cười bí ẩn mà tôi đã trông thấy rất nhiều lần hiện lên trên cặp môi anh ấy trước khi chết[11/164]. Dưới hình thức của một giấc mơ, truyện ngắn Mai (Thanh Quế) lại bộc lộ được những diễn biến tâm trạng nhân vật người cha sau nhiều ngày đi tìm mộ con không đem lại kết quả gì. Một buổi sáng khi ông vừa định trở dậy thì chẳng hiểu vì lí do bí ẩn nào một cơn buồn ngủ đến nhức cả mắt kéo ông nằm xuống. Ngay lập tức một cơn mơ lạ đến với ông. Trong giấc mơ, ông đã gặp con gái mình trong một rừng dương. Kì lạ thay giấc mơ ấy lại trùng với manh mối để tìm ra mộ con ông. Ông thấy cái việc tìm mộ con có điều gì thật bí
ẩn, nó giông giống như trong giấc mơ. Phải chăng vong hồn cô con gái đã mách bảo cho người cha? Hay đó chính là cái ánh sáng được phát ra từ thế giới bên trong như một sự mác bảo của tâm linh? Bởi lẽ vốn từ xưa ông không hề mê tín. Nhưng hôm nay, tự nhiên ông thấy trong lòng ông rao rực, tai ông nóng bừng và chung quanh nhà ông lâu nay im ắng bỗng có một bầy chim lạ về chao hót[67/273]. Diễn tả cái khoảnh khắc biến động trong tâm hồn người cha từ đời sống tâm linh như thế cũng là một cách đi vào chiều sâu tâm hồn nhân vật. ở Những bông bần li (Dương Thu Hương) thì sự kết hợp của hai yếu tố thực và ảo cũng góp phần soi sáng chiều sâu tâm thức nhân vật. Nếu cuộc sống hiện tại với người chồng hờ hững vô tâm chỉ đem lại cho Ngân những bực bội, đau khổ thì hình ảnh và sự hi sinh của Nghiêm (người yêu trong quá khứ của Ngân) lại đem đến cho chị những sự nâng đỡ. Dù rằng những tình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 102 cảm ấy chỉ như một tiếng sấm vọng về từ cuối trời xa khi cơn giông đã qua đi lâu lắm thì nó vẫn làm cho người đàn bà ba mươi lăm tuổi ấy lần đầu tiên biết nghĩ đến đời mình một cách thấu đáo. Cũng là lần đầu tiên chị tìm thấy nguồn sáng riêng biệt cho đường đi của mình[67/157]. Sự soi rọi từ bóng hình của người chiến sĩ đã hi sinh có tác động thăng bằng và thanh lọc tâm hồn Ngân. Nó như một luồng ánh sáng thoạt đầu còn mỏng manh như sợi khói trong cõi vô thức xa xôi nhưng dần dần nó rõ nét hơn, lớn hơn choán hết tâm trí chị. Như vậy, trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phương diện đời sống tâm linh con người được khám phá ở một chiều sâu mà giai đoạn trước đó chưa đạt đến. Nó góp phần làm phong phú trong quan niệm nghệ thuật về con người và tạo ra những biến đổi quan trọng trong phương thức biểu hiện nhân vật. Nhìn chung, việc khám phá sâu vào lĩnh vực tâm linh, mở ra những miền phong phú, bí ẩn không cùng của con người chính là xuất phát từ một quan niệm không đơn giản, xuôi chiều về con người, từ ý muốn khám phá con người ở nhiều thang bậc giá trị, ở những tọa độ ứng xử khác nhau, ở nhiều chiều kích[21/288].
2.2.2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong những chiều thời gian khác nhau Bên cạnh việc phân tích tâm lí, nhân vật còn được đặt trong dòng thời gian và lịch sử, trong các khả năng lựa chọn và thích ứng, trong những nghịch lí của tồn tại, trong sự khác biệt của những người hôm qua và những người hôm nay. Nguyễn Văn Long cho rằng giải pháp nghệ thuật mà một số truyện ngắn đã tìm đến là đặt nhân vật vào trong những chiều thời gian khác nhau, đan cài giữa hiện tại và quá khứ để làm nổi bật nghệ thuật này trong đời sống tinh thần và số phận mỗi con người khác nhau[39/218]. Việc sử dụng thời gian đồng hiện thường đi liền với những đối thoại bên trong của nhân vật như là những thủ pháp giúp nhà văn đi sâu hơn vào thế giới bên trong, vào những diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp của con người. Có thể kể đến những truyện ngắn đã thành công trong việc sử dụng giải pháp nghệ thuật này như : Sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 103 trong thời gian hai chiều (Vũ Tú Nam), Có một đêm như thế (Phạm Thị Minh Thư), Gió từ miền cát (Xuân Thiều), Người không đi cùng chuyến tàu (Nguyễn Quang Thân)… ở những truyện ngắn này việc đan xen giữa hiện tại và quá khứ thể hiện sự phân thân trong đời sống tinh thần của con người. Giữa những lo toan đời thường sau chiến tranh, con người vẫn dành một phần tâm tưởng cho quá khứ. Nhiều lần hiện tại mờ đi hoặc đi soi sáng nhờ quá khứ. ở Những bông bần li, quá khứ đã trở thành nỗi ám ảnh trong nhân vật Ngân. Quá khứ với một người yêu đã hi sinh nhưng đôi mắt nâu dài, khi cười như có nắng của anh vẫn luôn theo chị. Đặc biệt là những lời nói cuối cùng của anh trước khi ra đi trong cuộc chiến đấu lâu dài này, tụi mình hi sinh phải lí hơn, tụi mình già rồi. Các cậu còn trẻ các cậu phải ở lại để đánh giặc cho tới lúc
chiến thắng [67/153]như một sự thức tỉnh tâm hồn chị, giúp chị một lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống hiện tại: Những bài học lịch sử…đó chính là luồng sáng lung linh nâng đỡ cuộc đời chị. Chị sẽ giáo dục các con chị, những học sinh nhỏ bé của chị, những thế hệ sau này biết rung động sâu xa trong đời sống chung, với những cội nguồn đem đến cuộc sống cho chúng[67/157]. Đúng như tên gọi của nó Sống trong thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam lại như một bản kiểm điểm chân thành của nhân vật trước dòng chảy của thời cuộc. Tác giả đặt nhân vật ở thời điểm ngoái nhìn lại quá khứ sau khi đã từng kinh qua hai cuộc kháng chiến. Chỉ mấy ngày trở lại quê hương nhưng ông An đã sống trong hai chiều thời gian của mấy chục năm. Thời gian đã cật vấn ông, nhào nặn ông, phán xét và thúc đẩy ông[67/866]. Nếu thời trẻ khi đi vào cách mạng lòng ông luôn phơi phới, tưởng như cái gì cũng đơn giản, dễ dàng thì khi cuộc sống trở về hoàn cảnh bình thường lại đặt ông trước bao mối quan hệ mới mẻ buộc phải lựa chọn.Trước dòng đời, trước dòng thời gian, ông đã phải dừng lại để suy ngẫm: chúng nó (con cháu mình) đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng, còn mình thì đứng giữa ư? Hay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 104 theo hướng nào ?[67/850] Sự đồng hiện về thời gian ở truyện ngắn này gúp nhà văn đi sâu hơn vào những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Cái quá khứ trong veo, thoảng hương hoa loa kèn và âm hưởng của giọng nói vừa giễu cợt vừa trìu mến lại như một luồng gió tươi mát ùa vào tâm hồn mệt mỏi Miên (Có một đêm như thế- Phạm Thị Minh Thư). ở truyện ngắn này, cái ánh sáng rạng rỡ của ngày hôm qua vẫn tiếp tục chiếu rọi vào cuộc sống hàng ngày hôm nay như nâng bước cho con người trong cuộc sống hiện tại. Trong Khách ở quê ra (Nguyễn Minh Châu) thời gian hiện tại và quá khứ đan cài vào nhau theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật Khúng. Nhiều truyện ngắn khác lại có cuộc hành trình ngược về quá khứ như tìm đến một nguồn sức mạnh tinh thần để đi tiếp hành trình đến tương lai (Tuổi thơ im
lặng, Gió từ miền cát) . Có thể nói, trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975, vấn đề thời gian chưa có nhiều ý nghĩa trong đời sống nội tâm con người như giai đoạn sau 1975. Đây không phải là thời gian của những sự kiện lớn lao hay thời gian vĩnh hằng trong dòng chảy của nó mà là thời gian trong ý thức của cá nhân, ý thức về từng khoảnh khắc đang sống. Đó là thời gian của những tâm trạng, gắn với những biến động trong đời sống mỗi con người cá nhân.Vì thế việc đặt nhân vật vào những chiều thời gian khác cũng là một cách để miêu tả sâu sắc hơn đời sống nội tâm của con người . 3.Nghệ thuật trần thuật Theo từ điển thuật ngữ văn học trần thuật là phương diện cơ bản của thể loại tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của chủ thể trần thuật. Nghệ thuật trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc lĩnh hội theo ý định tác giả. Trong trần thuật có nhiều phương diện: điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật…ở luận văn này chúng tôi chỉ khái quát những dấu hiệu đổi mới của nghệ thuật trần thuật trên các phương diện chính. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 105 3.1. Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp trong cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của các tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là vị trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lý, tâm lý văn hoá[78]. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 cho thấy, điểm nhìn trần thuật được tổ chức chủ yếu từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Trần thuật ở ngôi thứ nhất, là hình thức mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Đây cũng là hình thức nghệ thuật được truyện ngắn nói riêng và văn xuôi
nói chung sử dụng chủ yếu ở hai dạng cụ thể: Trần thuật từ ngôi thứ nhất với vai trò người dẫn truyện hoặc trao cho nhân vật chức năng trần thuật từ ngôi thứ nhất (về hình thức nhân vật có thể xưng tôi nhưng không phải là tác giả). Trần thuật ở ngôi thứ nhất trong vai trò người dẫn truyện thực chất chủ thể trần thuật được nhân vật hoá để thực hiện vai trò dẫn truyện. Trước năm 1975, tuy chủ thể trần thuật cũng được nhân vật hoá nhưng thực chất vẫn là cái tôi hướng ngoại đại diện cho cộng đồng. Còn sau 1975, đó là cái tôi hướng nội, là sự trần thuật theo quan điểm cá nhân. Đó là nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật tôi (Mặt trời bé con của tôi- Thùy Linh), nhân vật tôi (Hạnh Nhơn - Nguyễn Thành Long)...Với kiểu trần thuật này, người kể truyện thường xưng tôi đóng vai trò trung tâm, giữ quyền kể truyện từ đầu đến cuối chuyện. ở một số truyện hầu như tôi là nhân vật duy nhất, còn những nhân vật khác chỉ được miêu tả từ điểm nhìn của người kể truyện (Hạnh Nhơn). Qua hình thức kể truyện này, người kể truyện - tác giả - đã thể hiện tư tưởng tình cảm của mình một cách tự nhiên. ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trong khi kể lại cảnh người chồng đánh vợ một cách tàn bạo, người kể truyện đã bộc lộ ngay thái độ của mình: Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 106 đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi, chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới[11/336]. Còn ở truyện Hạnh Nhơn, trong tình huống nhận lầm cha của cô bé Hạnh Nhơn người kể chuỵện đã rất dễ dàng bộc lộ những băn khoăn suy nghĩ của mình: Cuộc đời của em như thế nào mà em phó thác giọt máu đó của em cho anh? Tôi rất bối rối trong tình huống khó xử đó…Vậy thì tôi giải quyết như thế nào ý muốn của người đã khuất[8/309]. Như vậy, qua hình thức trần thuật này, thường là những nhân vật hướng nội, có đời sống nội tâm phong phú, có quá trình diễn
biến tâm lí phức tạp. Người trần thuật cũng là người tham gia vào câu chuyện và nhiều khi in đậm dấu ấn của chính tác giả với những trạng thái tâm hồn, cảm xúc hoặc cuộc đời, số phận riêng không phẳng lặng. ở dạng thứ hai trong cách trần thuật từ ngôi thứ nhất thường là các nhân vật được tác giả trao cho chức năng trần thuật. Đó là Quỳ (Người đà bà trên chuyến tàu tốc hành), là Miên (Có một đêm như thế) là Ngân (Những bông bần li)…Trao cho nhân vật nhiệm vụ trần thuật hoặc người kể truyện đứng đằng sau nhân vật, nhà văn không tham gia vào quá trình diễn biến câu chuyện mà để cho các nhân vật tự kể lại cuộc đời, số phận của mình. Cách trần thuật này giúp cho nhà văn có thể soi vào phần khuất lấp trong ý nghĩ của nhân vật vì người trần thuật vừa là nhân chứng vừa là nhân vật chính của câu chuyện. Với cách trần thuật từ ngôi thứ ba, chủ thể trần thuật là người biết hết mọi người, mọi việc và giữ vai trò duy nhất trong miêu tả, kể chuyện, dẫn chuyện. Trong truyện ngắn giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ ba thường tạo ra khoảng cách giữa người kể chuyện và đối tượng kể. Thời kỳ sau 1975, các nhà văn thường trần thuật từ ngôi thứ ba nhưng có sự hoà nhập song trùng chủ thể khiến cho khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật được thu hẹp dần. Từ điểm nhìn bên ngoài để khẳng định cho một tư tưởng có sẵn, điểm nhìn trần thuật dịch chuyển vào bên trong ở lối trần thuật này, tác giả không chỉ kể mà còn đi sâu miêu tả tâm trạng bên trong nhân vật trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 107 những lời độc thoại, những hồi tưởng, nhận thức, suy tư, chiêm nghiệm. Những truyện ngắn về đề tài thế sự của Nguyễn Minh Châu thường được trần thuật từ điểm nhìn này (Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ
trẻ ở dãy K…) Trần thuật theo cách này, lúc đầu nhà văn trọn một điểm nhìn tương đối khách quan bên ngoài sau đó di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật. ở đó cái nhìn như xuyên qua nội tâm nhân vật trong một tính chất hoà nhập đậm nét đến mức tạo cho người đọc có cảm giác tác giả đã hoá thân vào nhân vật của mình, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của nhân vật. Truyện Sống mãi trong cây xanh của ông tiêu biểu cho cách trần thuật này. Lúc đầu, khi miêu tả công việc của bác Thông tác giả tỏ ra khách quan như người đứng ngoài chứng kiến vừa miêu tả, vừa kể lại. Nhưng khi kể đến việc chặt cây sấu, người kể chuyện như nhập hẳn vào nội tâm nhân vật, sống trong những tâm trạng đau đớn xót xa như sắp phải đứng để cho người ta cưa tay cưa chân mình. Sự hoà nhập, thậm chí hoá thân đó đã giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, những diễn biến tâm lí tinh vi của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới đa dạng, đa chiều . Truyện ngắn giai đoạn chiến tranh thường có một giọng, một điểm nhìn trần thuật. Nhưng trong các truyện ngắn sau 1975, xu hướng chung là có sự phối hợp các điểm nhìn trần thuật. Có điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn bên trong, bên ngoài, điểm nhìn không gian thời gian, điểm nhìn đánh giá tư tưởng cảm xúc ...Tác giả để cho các điểm nhìn này đan cài vào nhau vì thế nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ, được khắc hoạ toàn vẹn hơn về chân dung, tính cách, số phận để từ đó khái quát lên những vấn đề có tính triết lí. Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho việc phối hợp các điểm nhìn. Số phận đầy bi kịch của người đàn bà làng chài được Nguyễn Minh Châu soi chiếu từ nhiều điểm nhìn khác nhau của các nhân vật. Mỗi nhân vật một cách nhìn. Với cái nhìn của trẻ con vô tư, yêu ghét rạch ròi thì thái độ của thằng Phác là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 108 giận giữ nhảy xổ vào người bố để chống trả lại những trận đòn bảo vệ mẹ nó. Còn chị nó đã đủ lớn khôn hơn để ngăn giữ nó lại. Vị chánh án thì một mực đưa ra giải pháp li hôn và cho đó là cách giải quyết duy nhất để giải thoát cho người đàn bà kia khỏi sự vũ phu của người chồng. Nhà nhiếp ảnh thì vô cùng phẫn nộ trước cảnh tượng hết sức vô lí. Nhưng người đàn bà, nạn nhân của tấn bi kịch, lại khiến người khác giật mình: lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải người là làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc[11/343]. Một người đàn bà với lũ trẻ đâu có sống dễ dàng gì giữa mênh mông sông nước nếu thiếu đi bàn tay chèo chống của người đàn ông. Người đàn bà ấy không sống cho mình mà sống vì những đứa con kia. Với sự đa dạng về điểm nhìn như thế, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là sự phát hiện ra những vấn đề nhức nhối của đời sống con người, buộc người đọc phải trăn trở trong những câu hỏi không dễ tìm lời giải đáp . Như vậy sự đa dạng và sự chuyển dịch liên tục các điểm nhìn trần thuật đã tạo ra cho các tác giả nhiều cách thức khác nhau khi tiếp cận hiện thực và thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình. Đồng thời sự phong phú về điểm nhìn cũng là điều kiện quan trọng để hình thành giọng điệu . 3.2. Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật Từ giọng điệu chủ âm là ngợi ca trong văn xuôi giai đoạn chiến tranh, văn xuôi sau năm 1975 có sự đa dạng, phong phú hơn trong giọng điệu trần thuật. Mỗi nhà văn bộc lộ cá tính sáng tạo của mình ở một giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Họ đã chú ý hơn trong việc miêu tả tâm lí con người, vì thế nhân vật thường bộc lộ những nét tính cách, phẩm chất qua sự chiêm ngưỡng, suy nghĩ đấu tranh trong chính bản thân mình. Điều này được thể hiện qua nhiều truỵên ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Vũ Tú Nam, Xuân Thiều, Dương Thu Hương…
Trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng từ sau năm 1975, người đọc nhận thấy sự đan xen của nhiều giọng điệu. Ngay ở một tác giả một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 109 tác phẩm tính chất đa dạng cũng ngày càng bộc lộ rõ. Nguyễn Minh Châu là trường hợp tiêu biểu về sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật. Có thể coi Bức tranh là truyện ngắn thể hiện những thay đổi sớm nhất và rõ nhất về giọng điệu trong các sáng tác sau chiến tranh của ông. ở truyện ngắn này, giọng điệu tác giả và giọng điệu của nhân vật nhiều lúc khó mà phân biệt. Sự hoà quyện giọng điệu ấy vang lên trong cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật qua đó ghi lại những diễn biến tâm trạng một cách chân thực. Cuộc đối thoại khi thì mang giọng điệu mỉa mai giễu cợt thói đạo đức giả của chính nhân vật: A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả…Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi[11/127]; khi thì mang giọng tư biện: Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần…Anh chỉ là một cá nhân, với cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu khó để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn[11/127]; khi lại đanh thép kết tội mình là đồ dối trá. Những giọng này vừa đan xen, vừa luân chuyển theo những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Nhưng nổi bật và xuyên suốt trong tác phẩm vẫn là một giọng điệu thâm trầm của một tâm hồn đang diễn ra những biến cố dữ dội. Tính chất đa giọng điệu ấy tiếp tục được sử dụng triệt để hơn trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. ở thiên truyện này luôn vang lên nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều cuộc đối thoại đan cài, xen kẽ vào nhau. Tiêu biểu là những đối thoại nội tâm của Quỳ trong những giằng xé trăn trở trong cơn mộng du để tìm đến trong chân lí của cuộc sống. Đó còn là cuộc đối thoại giữa nhân vật người dẫn chuyện với Quỳ, giữa Quỳ và anh ấy, rồi giữa Quỳ với vong linh những người lính đã từng yêu thương cô. Chính tính chất
đa giọng điệu đã tạo ra sức gợi mở và tính tranh luận để kiếm tìm chân lí. Đó cũng chính là một trong những biểu hiện của xu hướng dân chủ hoá trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu đầu những năm 80. Khi đi vào cuộc sống của những con người đời thường, tuỳ theo từng kiểu người mà giọng điệu của nhà văn biến đổi linh hoạt cho phù hợp. ở Sắm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 110 vai, miêu tả sự lố bịch kệch cỡm trong hành động của nhà văn T, Nguyễn Minh Châu chủ yếu sử dụng giọng điệu hài hước. ở Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp là giọng nghiêm nghị, xót xa khi nói đến những sự vô tâm của con người trong cuộc sống. Còn ở Bức tranh và Dấu vết nghề nghiệp lại là giọng điệu trầm tĩnh, day dứt đầy triết lí. Với nhân vật Khúng trong Khách ở quê ra, nhà văn sử dụng giọng điệu suồng sã, đời thường . Sự thay đổi từ một giọng sang đa giọng trong truyện ngắn sau 75 có căn nguyên từ những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Cuộc sống trong chiến tranh ồn ào náo động nhưng có cái đơn giản của nó còn cuộc sống trong hoà bình lại chất chứa nhiều sóng ngầm gió xoáy (Nguyễn Khải) bên trong. Đứng trước những vấn đề xã hội nhân sinh mới mẻ đòi hỏi nhà văn phải có những cách tiếp cận mới, những cách giải quyết mới khác với thời chiến. Trở về với đời thường để dẫn người đọc thâm nhập vào cái bên trong đầy bí ẩn, chứa đựng cái bản ngã của mỗi người trong những mặt đối lập, phức hợp trong tính cách của nó, các tác giả hầu hết đã thay đổi giọng điệu trần thuật và có bước tiến mới trong tổ chức giọng điệu trần thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 111 PHẦN KẾT LUẬN 1. Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng
nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 (nhất là từ giữa những năm 80 trở đi) với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng, sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. Sự cách tân thể loại này bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người đến phương thức thể hiện, từ chức năng của văn học đến tư cách người nghệ sĩ, từ phương diện tư tưởng đến phương diện thi pháp. Tuy nhiên, những sự thay đổi đó mới chỉ là những dấu hiệu tiềm ẩn, chưa định hình rõ ràng, với những thể nghiệm, những bước dò tìm để chuẩn bị cho quá trình đổi mới sẽ diễn ra mạnh mẽ ở giai đoạn sau. Trong hướng đi mới này, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn… như là khúc dạo đầu cho truyện ngắn nói riêng và cũng là cho cả một giai đoạn văn học mới. Tiếp sau họ xuất hiện một lớp nhà văn trẻ như Lê Minh Khuê, Phạm Thị Minh Thư, Hồ Anh Thái… Họ sẽ là lực lượng chính đưa văn xuôi Việt Nam đổi mới sau 1986 chính thức lên đường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 112 Tất cả những dấu hiệu đổi mới trong các truyện ngắn mà luận văn khảo sát có thể xem như là những mũi khoan thử nghiệm của một hướng tìm tòi, đổi mới ban đầu của thể loại nằm trong quy luật vận động, phát triển không ngừng của nền văn học Việt Nam hiện đại trong sự giao lưu và tiếp xúc với văn học thế giới. Các sáng tác ấy chưa hẳn đã đạt đến chiều sâu của nhận
thức cũng như sự kết tinh về nghệ thuật nhưng bước đầu có tác động khá mạnh mẽ đến tư duy sáng tạo của các nhà văn cũng như tâm lí tiếp nhận của bạn đọc. 2. Một trong những phương diện có nhiều dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng ở giai đoạn sau chiến tranh là phương diện đề tài. Đề tài chiến tranh tiếp tục là mảnh đất giàu tiềm năng cho các cây bút khai vỡ. Tuy nhiên khi đi vào đề tài này thấy sự trăn trở, tìm tòi những cách tiếp cận mới. Phần lớn các sáng tác về đề tài này chỉ lấy bối cảnh chiến tranh làm cái nền để bộc lộ những phẩm chất anh dũng, nhân văn của con người. Các tác giả đã cố gắng tạo ra sự hài hòa khi thể hiện sự khốc liệt của cuộc chiến tranh với tinh thần nhân bản của con người và tinh thần chiến đấu của dân tộc. Mặt khác, sự chú ý của các cây bút nghiêng về khai thác những hậu quả của chiến tranh, những sự lầm lạc phản bội, những cái giá phải trả cho chiến thắng. ở đó, con người cá nhân được thể hiện một cách sinh động, toàn vẹn, sâu sắc. Nhờ vậy, nhiều truyện ngắn giai đoạn này đã bộc lộ những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, góp phần làm cân bằng trở lại cách nhìn nhận con người trong văn xuôi thời kì chiến tranh. Cùng với đề tài chiến tranh là sự xuất hiện của đề tài thế sự, đời tư. Từ sau năm 1980 trở đi đây là đề tài giữ vai trò trung tâm của nền văn học. Truyện ngắn sau chiến tranh đã tạo được những hiệu quả cao khi đi vào một cảnh đời, một tâm trạng trong những tình huống tiêu biểu của cuộc sống thường nhật. Với ý thức nhạy bén và sự gắn bó với cuộc sống, các nhà văn đã xới lên những vấn đề của cuộc sống đương đại để vừa rung một hồi chuông cảnh tỉnh vừa khẳng định niềm tin vào con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 113 Trong giai đoạn chiến tranh, nền văn học gắn với cảm húng sử thi, với âm điệu ngợi ca và niềm lạc quan cách mạng. Sau khi chiến tranh kết thúc thấy rõ sự chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư. Trong những truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 không chỉ có một giọng là ngợi ca mà là sự đan cài của nhiều nguồn cảm hứng: cảm hứng đạo đức, cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán… Nhưng tất cả đều mang cảm hứng nhân
văn về số phận con người cá nhân. 3. Nhìn chung, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 ngày càng xa đần lối kể lể dài dòng với những biến cố dữ dội mà ngắn gọn hơn, cô đúc hơn trong phương thức biểu hiện. Vai trò của cốt truyện chặt chẽ gay cấn có xu hướng nhường chỗ cho những cốt truyện tâm lí. Truyện ngắn có sức khái quát cao hơn vì đi vào chiều sâu thế giới bên trong tâm hồn con người để bộc lộ quá trình tự nhận thức. Đó là biểu hiện cho sự nhận thức về con người đã đạt đến một tư duy mới, gần với bản chất con người hơn. Đó cũng là kết quả của sự phối hợp của nhiều điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn của các nhân vật thường đan cài vào nhau làm nổi bật những chân dung, tính cách, số phận nhân vật trong chiều sâu triết lí. Cũng chính vì thế kiểu nhân vật tự nhận thức, nhân vật tính cách, số phận được nhiều nhà văn chú ý lựa chọn. Truyện ngắn cũng đang mở ra những con đường giao tiếp cởi mở hơn với độc giả. Nhà văn không phải là người độc tôn chân lí phán truyền mà tăng cường yếu tố đối thoại với người đọc. Điều đó có thể nhận thấy qua những cách kết thúc mở, những sự phức hợp của giọng điệu. Mười năm truyện ngắn 1975- 1985 là thời gian chuẩn bị tích cực cho sự định hình những nét mới, góp phần quan trọng làm nên một dòng chảy liền mạch cho văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 114 Tài liệu tham khảo 1. Tạ Duy Anh (2002), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Vân Anh (1985), Hoa xương rồng (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 3. Vũ Tuấn Anh (1995), “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí Văn học, (4), trang 14-19. 4. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại- Nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới. Hà Nội. 6. Lại Nguyên Ân (1986), “Thử nhìn lại văn xuôi 10 năm qua”, Tạp chí Văn
học, (1). 7. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Khảo sát trên nét lớn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Đại học Sư phạm I, Hà Nội. 8. Bốn mươi lăm truyện ngắn 1975-1985 (1985), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 9. Nguyễn Minh Châu (1983), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Tập tuyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 10. Nguyễn Minh Châu (1985), Bến quê (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 11. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 12. Có một đêm như thế (1981) (Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1981), Nxb Văn nghệ quân đội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 115 13. Cơ sở lí luận văn học (1985), Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, (2). 14. Trần Cương (1986), “Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh”, Tạp chí Văn học, (3). 15. Phan Cự Đệ (1986), “Mấy vấn đề lí luận của văn học hiện nay”, Tạp chí văn học, (5). 16. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2005), Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử - Thi pháp - Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 18. Trần Thanh Địch (1985), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Trung Trung Đỉnh (1986), Đêm nguyệt thực (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 20. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2000), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. (Tái bản lần thứ 6) 21. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau cách mạng tháng tám đến nay, Hà Nội. 22. Bùi Hiển (1981), Nằm vạ (Tập truyện ngắn), Nxb văn học, Hà Nội. 23. Bùi Hiển (1985), Tâm tưởng (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 24. Dương Thu Hương (1981), Những bông bần li (Tập truyện ngắn), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
25. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt nam giai đoạn 1975 -1995, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 116 26. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt nam 1975- 2000, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 27. Nguyễn Khải(1982), Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 28. Phùng Ngọc Kiếm (2002), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945- 1975, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 29. Nguyễn Kiên (1986), Đáy nước (Tập truyện), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 30. Duy Khán (1985), Tuổi thơ im lặng (Tập truyện), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 31. Ma Văn kháng (1986), Ngày đẹp trời (Tập truyện),Nxb Lao động, Hà Nội. 32. Ma Văn Kháng(1985), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 33. Lê Minh Khuê (1981), Đoạn kết (Tập truyện), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 34. Lê Minh Khuê (1986), Một chiều xa thành phố (Tập truyện), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 35. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. (Tái bản lần thứ nhất) 36. Tôn Phương Lan (2005), Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa h?c xã h?i, Hà Nội. 37. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới (Tiểu luận và phê bình), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 38. Phong Lê (1983), “Văn học những năm 80”, Tạp chí Văn học, (3). 39. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (Đồng chủ biên) (2006). Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 117 41. Thái Bá Lợi (1982), Vùng chân hòn tàu (Tập truyện), Nxb văn học, Hà Nội. 42. Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt nam hiện nay, Bộ Văn hoá thông tin- Thể thao, Hà Nội.
43. Một thời đại văn học mới (Tiểu luận) (1987), Nxb Văn học, Hà Nội. 44. Mười bốn truyện ngắn (Nguyễn Khải, Phạm Hoa, Nhật Tuấn) (1982), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 45. Mười bảy truyện ngắn thành phố Hồ Chí Minh (1982), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 46. Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám (1996), Nxb Đại học quốc gia ,Hà Nội. 47. Bảo Ninh (1987), Trại bảy chú lùn (Tập truyện), Nxb Hà Nội. 48. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 49. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam - giao lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội.(Tái bản lần 1) 51. Nguyên Ngọc, “Văn xuôi sau năm 1975. Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí Văn học, (4). 52. Phạm Xuân Nguyên (1994), “Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay”, Tạp chí Văn học, (2), trang 26-31. 53. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học”, Tạp chí Văn học, (4), trang 14-17. 54. Nguyễn Phương Tân, Nguyễn Thị Hạnh (tuyển chọn) (2002), Truyện ngắn xuất sắc về chiến tranh, Nxb hội nhà văn, Hà Nội. 55. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 118 56. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn - Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 57. Nguyễn Quang Thân (1994), 15 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội . 58. Thời gian (Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1983 - 1984) (1985), Nxb Tổng cục chính trị, Hà Nội. 59. Thời gian và trang sách (Phê bình tiểu luận) (1987), Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Xuân Thiều (1985), Gió từ miền cát (tập truyện), Nxb tác phẩm mới, Hà Nội. 61. Tinh tuyển Văn học Việt Nam (Giai đoạn 1945-2000) (2004), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, (8). 62. Bích Thu (1995), “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ thống môtip chủ đề”, Tạp chí Văn học, (4). 63. Bích Thu (1996), “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí
Văn học, (9), trang 32-36. 64. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu - Tác phẩm và lời bình (2007), Nxb Văn học, Hà Nội. 65. Truyện ngắn Việt nam 1945-1985 (1985), Nxb Văn học, Hà Nội. 66. Truyện ngắn hay Việt Nam thời kì đổi mới (2000), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 67. Truyện ngắn Việt nam thế kỷ XX (2002), Nxb Kim đồng, Hà Nội, (3). 68. Trang giấy trước đèn (Phê bình - tiểu luận của Nguyễn Minh Châu) (1994), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 69. Nguyễn Mạnh Tuấn (1985), Hành khúc ngày và đêm (Tập truyện ngắn), Nxb Lao động, Hà Nội. 70. Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải thưởng Hội nhà văn 1951- 1997. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc- tnu.edu.vn 119 71. Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam chọn lọc (Thế kỷ 19-20) (1996), Nxb Văn học, Hà nội. 72. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề con người trong văn học” in trong Lí luận văn học, (1990), Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 73. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề văn học phản ánh hiện thực” in trong Lí luận văn học, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 74. Võ Văn Trực (1993), Chuyện làng ngày ấy, Nxb Lao động, Hà Nội. 75. Từ điển thuật ngữ văn học (1992), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 76. Trần Đình Sử (1986), “Mấy ghi nhận về sự đổi mới tư duy và hình tượng con người trong văn học ta thập kỷ qua”, Tạp chí Văn học, (6). 77. Trần Đình Sử (1991), “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong nghiên cứu văn học Xô Viết”, Tạp chí Văn học, (1). 78. Trần Đình Sử (1999), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Trần Đình Sử. “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong văn học Xô Viết” (1991), Tạp chí Văn học , (1). 80. Văn học Việt Nam 1975-1985-Tác phẩm và dư luận (1997), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 81. Việt Nam nửa thế kỷ văn học (Kỷ yếu hội thảo 26/9/1995) (1997), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 82. Văn học trong giai đoạn cách mạng mới (1984), Nxb Tác phẩm mới - Hội nhà văn, Hà Nội.__