ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------

NGUYỄN QUỐC HIỆP

TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN,

TỈNH CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Cà Mau – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------

NGUYỄN QUỐC HIỆP

TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO

TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN,

TỈNH CÀ MAU

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học

Mã số : 8320101.01(UD)

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học Chủ tịch hội đồng

PGS-TS Đặng Thị Thu Hƣơng PGS-TS Dƣơng Xuân Sơn

Cà Mau – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính cá nhân tôi, với sự

hƣớng dẫn tận tình, trách nhiệm của PGS-TS Đặng Thị Thu Hƣơng. Các số liệu,

thông tin sử dụng trong luận văn này là trung thực, là kết quả lao động nghiêm túc

và sự nỗ lực, quyết tâm của bản thân. Cá nhân tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về

nội dung, thông tin trong đề tài luận văn của mình.

Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Hiệp

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn các giảng viên của Trƣờng đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội); Viện Đào tạo Báo chí và Truyền

thông cùng các giảng viên thỉnh giảng lớp cao học báo chí Cà Mau khóa 2018-2020

đã tận tâm, nhiệt tình truyền đạt nhiều kiến thức; chia sẻ những kinh nghiệm quý

báo cho tôi và tập thể lớp trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn

sâu sắc đến PGS-TS Đặng Thị Thu Hƣơng đã định hƣớng và tranh thủ thời gian, tận

tình hƣớng dẫn, cung cấp những kiến thức khoa học cần thiết trong quá trình thực

hiện luận văn chuyên ngành báo chí học của cá nhân tôi, với đề tài “Truyền thông

chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện, tỉnh Cà Mau”.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo UBND; lãnh

đạo, phóng viên các đài truyền thanh huyện Thới Bình, Cái Nƣớc, Phú Tân đã tạo

mọi điều kiện thuận lợi cũng nhƣ cung cấp nhiều thông tin về hoạt động liên quan

đến truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện, giúp tôi

có cơ sở thực tiễn thực hiện đề tài của mình.

Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình học

tập cũng nhƣ thực hiện đề tài cuối khóa đảm bảo đúng tiến độ.

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, song, trong quá trình thực hiện đề tài, chắc chắn

sẽ không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế do năng lực cũng nhƣ thời gian nghiên cứu

của bản thân còn hạn chế. Chính vì vậy, sự đánh giá, góp ý công tâm, khách quan

của hội đồng khoa học về đề tài “Truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài

truyền thanh cấp huyện, tỉnh Cà Mau” là động lực để tôi phấn đấu hoàn thiện hơn

trong những nghiên cứu tiếp theo cũng nhƣ áp dụng vào thực tiễn.

Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Hiệp

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 7

1. Lý do lựa chọn đề tài ............................................................................................... 7

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 9

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 12

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 13

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................................... 13

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ................................................................................ 14

7. Bố cục luận văn ..................................................................................................... 15

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TRUYỀN

THÔNG CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO TRÊN SÓNG PHÁT THANH......... 16

1.1. Các khái niệm, thuật ngữ ................................................................................ 16

1.1.1. Truyền thông ................................................................................................... 16

1.1.2. Truyền thông đại chúng .................................................................................. 16

1.1.3. Phát thanh ....................................................................................................... 17

1.1.4. Nghèo .............................................................................................................. 20

1.1.5. Giảm nghèo bền vững ..................................................................................... 21

1.1.6. Chính sách ....................................................................................................... 21

1.1.7. Truyền thông chính sách giảm nghèo ............................................................. 22

1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về giảm nghèo và vai trò của báo chí trong

công tác truyền thông chính sách giảm nghèo ...................................................... 23

1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo ............................................ 23

1.2.2. Vai trò của báo chí trong công tác truyền thông chính sách giảm nghèo ...... 24

1.2.3. Vai trò của đài truyền thanh cấp huyện trong truyền thông chính sách giảm nghèo .. 26

1.3. Truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện

dƣới góc nhìn của lý thuyết truyền thông ............................................................. 27

1.3.1. Mô hình truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp

huyện (theo sơ đồ Lasswell) ...................................................................................... 27

1.3.2. Lý thuyết “Thiết lập chương trình nghị sự” ................................................... 28

1.3.3. Lý thuyết “ Sử dụng và hài lòng” ................................................................... 29

1

1.3.4. Lý thuyết “Thuyết phục” ................................................................................. 29

1.4. Đặc điểm của truyền thông chính sách và tiêu chí đánh giá chất lƣợng

truyền thông chính sách trên sóng phát thanh/truyền thanh ............................. 30

Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 32

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH

GIẢM NGHÈO TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN THANH HUYỆN TRONG

TỈNH CÀ MAU ....................................................................................................... 34

2.1. Tần suất xuất hiện những thông điệp liên quan công tác giảm nghèo trên

sóng Đài truyền thanh huyện ................................................................................. 34

2.2. Những nội dung chính đƣợc thể hiện ............................................................ 35

2.2.1. Nội dung thông tin về chính sách hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc làm,

tăng thu nhập cho người nghèo................................................................................. 36

2.2.2. Nội dung thông tin về chính sách hỗ trợ về nhà ở: ......................................... 41

2.2.3. Nội dung thông tin về chính sách hỗ trợ về y tế và dinh dưỡng ..................... 43

2.3. Những hình thức chuyển tải nội dung thông điệp ......................................... 46

2.3.1. Tin.................................................................................................................... 46

2.3.2. Bài ................................................................................................................... 48

2.3.3. Chuyên mục, chuyên đề: ................................................................................. 49

2.4. Quy trình sản xuất tác phẩm, chƣơng trình truyền thanh giảm nghèo trên

sóng đài truyền thanh cấp huyện ........................................................................... 51

2.4.1 Triển khai chủ đề .............................................................................................. 52

2.4.2 Phóng viên xác định đề tài, phương pháp tác nghiệp: .................................... 52

2.4.3 Phóng viên tác nghiệp ...................................................................................... 53

2.4.4. Biên tập chương trình và duyệt nội dung: ...................................................... 53

2.4.5 Thực hiện hậu kỳ .............................................................................................. 54

2.4.6 Lãnh đạo duyệt phát sóng ................................................................................ 54

2.4.7 Phát sóng và ghi nhận ý kiến phản hồi ............................................................ 54

Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 55

Chƣơng 3. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH

GIẢM NGHÈO TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN ............ 57

2

3.1. Thành công trong truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng truyền

thanh cấp huyện ...................................................................................................... 57

3.1.1. Sự quan tâm của công chúng về truyền thông chính sách giảm nghèo trên

sóng đài truyền thanh huyện ..................................................................................... 57

3.1.2. Mức độ tin tưởng, làm theo ............................................................................. 61

3.1.3: Chất lượng tin, bài .......................................................................................... 65

3.2. Hạn chế trong truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền

thanh cấp huyện ...................................................................................................... 68

3.2.1. Về chất lượng thông tin ................................................................................... 68

3.2.2. Lượng thính giả truyền thanh huyện vẫn rất ít so với dân số ......................... 72

3.2.3. Sức hấp dẫn của thông tin còn thấp ................................................................ 74

3.3. Nguyên nhân thành công và hạn chế .............................................................. 77

3.3.1. Nguyên nhân thành công ................................................................................. 77

3.3.2. Nguyên nhân hạn chế ...................................................................................... 78

Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................... 80

Chƣơng 4: GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG

TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO TRÊN SÓNG TRUYỀN

THANH CẤP HUYỆN ........................................................................................... 82

4.1. Những vấn đề đặt ra trong công tác truyền thông chính sách giảm nghèo

trên sóng đài truyền thanh cấp huyện ................................................................... 82

4.2. Đề xuất giải pháp nâng cao chất lƣợng truyền thông chính sách giảm

nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện ....................................................... 85

4.2.1. Đổi mới nội dung và hình thức thông tin ........................................................ 86

4.2.2. Thay đổi tư duy lãnh đạo, cách thức tổ chức thông tin .................................. 94

4.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng cho phóng viên, biên tập viên, phát

thanh viên .................................................................................................................. 95

4.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động truyền thanh .............. 96

4.2.5. Tận dụng truyền thông mạng xã hội ............................................................... 97

4.3. Khuyến nghị giải pháp đối với các cơ quan trong diện khảo sát ................. 98

4.3.1: Đối với Đài truyền thanh huyện Thới Bình .................................................... 98

3

4.3.2: Đối với Đài truyền thanh huyện Cái Nước ..................................................... 99

4.3.3: Đối với Đài truyền thanh huyện Phú Tân ..................................................... 100

Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................. 102

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 106

PHỤ LỤC .............................................................................................................. 111

4

DANH MỤC VIẾT TẮT

PGS-TS : Phó Giáo sƣ - Tiến sĩ

PTTTĐC : Phƣơng tiện truyền thông đại chúng

TƢ : Trung ƣơng

KHXH và NV : Khoa học xã hội và Nhân văn

5

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Bảng 2.1: Kết quả khảo sát nội dung thông điệp truyền thông về chính sách giảm

nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện trong năm 2019 ......................................... 34

Biểu đồ 2.2: Kết quả khảo sát nội dung thông điệp truyền thông về chính sách giảm

nghèo trên sóng các đài truyền thanh huyện trong năm 2019 ................................... 35

Biểu đồ 3.1: Tần suất nghe đài .................................................................................. 58

Biểu đồ 3.2: Khảo sát phƣơng tiện nghe đài ............................................................. 58

Biểu đồ 3.3: Mức độ tin tƣởng về tính xác thực của thông tin ................................. 62

Biểu đồ 3.4 Tính hấp dẫn của thông tin .................................................................... 66

Biểu đồ 3.5: Mức độ tiếp nhận thông tin .................................................................. 67

6

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Xóa đói, giảm nghèo là một chủ trƣơng, chính sách lớn của Đảng và Nhà

nƣớc, đƣợc thực hiện xuyên suốt trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay

sau khi giành đƣợc chính quyền, một trong những công việc quan trọng đầu tiên mà

Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm đó là công tác giảm nghèo. Trong lời kêu gọi thi đua

ái Quốc vào tháng 6 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào, chiến sĩ

cả nƣớc chung tay thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo. Ngƣời xem nghèo, đói

là một trong ba thứ giặc nguy hiểm, cùng với “giặc dốt” và “giặc ngoại xâm”.

Lời kêu gọi ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Cuộc đấu tranh chống đói

nghèo trong thời kỳ mới không kém phần cam go, phức tạp và đặt ra nhiều thách

thức mới. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi cả hệ thống chính trị và toàn xã hội phải vào

cuộc một cách tích cực. Trong đó, báo chí có vai trò hết sức quan trọng.

Các cơ quan báo chí, truyền thông đã bám sát các quan điểm, định hƣớng,

chính sách để tuyên truyền làm thay đổi nhận thức cho ngƣời dân, giúp họ thấy

đƣợc mục tiêu, ý nghĩa của chính sách; tránh thụ động, trông chờ hỗ trợ từ Nhà

nƣớc. Báo chí cũng góp phần cụ thể hóa chủ trƣơng, chính sách giảm nghèo vào

điều kiện thực tế của địa phƣơng một cách cụ thể, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện.

Báo chí cũng có thế mạnh, điều kiện để thúc đẩy huy động nguồn lực trong cộng

đồng, phổ biến các mô hình đã thành công để khuyến khích ngƣời dân có động lực,

khích lệ tinh thần vƣợt khó; tuyên truyền nêu gƣơng các hộ dân, cộng đồng có ý chí

vƣơn lên, trở thành phong trào thi đua rộng rãi cùng nhau vƣơn lên thoát nghèo.

Riêng đài truyền thanh cấp huyện là cầu nối giữa các cơ quan báo chí với

ngƣời dân, là cơ quan có hoạt động báo chí gần dân nhất. Đây là phƣơng tiện gần

gũi, tiếp xúc hàng ngày, đồng hành với ngƣời dân trong việc thực hiện các chủ

trƣơng, chính sách; trong phát triển kinh tế xã hội và các phong trào cách mạng. Đài

truyền thanh cấp huyện có hệ thống “vệ tinh” là truyền thanh cơ sở cùng hệ thống

loa công cộng phủ đều ở thôn xóm, khu dân cƣ; thực hiện chức năng, nhiệm vụ phổ

biến chủ trƣơng, chính sách, những điển hình tiêu biểu ở cơ sở; góp phần cổ vũ,

7

động viên, làm thay đổi nhận thức và hành động của ngƣời dân. Trong đó, công tác

giảm nghèo là một trong những chƣơng trình trọng tâm, xuyên suốt.

Hiện nay, công chúng có điều kiện chủ động tiếp cận những thông tin mình

thích, mà đôi khi lãng quên những thông tin cần thiết trong cuộc sống, nhất là về

chính sách. Vai trò rất quan trọng của truyền thanh cấp huyện là bổ sung những

thông tin đó, với phƣơng thức “ép buộc” công chúng nghe thụ động qua hệ thống

truyền thanh công cộng; nhằm đƣa chính sách đi vào cuộc sống. Truyền thanh

huyện không thể chạy theo xu thế thông tin nhanh hay giật gân mà là phƣơng tiện hữu

hiệu cung cấp những thông tin thiết yếu liên quan đến đời sống hàng ngày của ngƣời dân.

Đó là những chủ trƣơng, chính sách có thể làm thay đổi đến cuộc sống của họ; những

tiêu biểu trong cộng đồng, kỹ năng sản xuất, biện pháp làm ăn, kỹ năng ứng xử với thiên

nhiên, chống biến đổi khí hậu, thời tiết, nông vụ, sức khỏe .v.v.

Song, công tác truyền thông về chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền

thanh cấp huyện vẫn còn nhiều yếu kém, chất lƣợng thông tin chƣa cao. Thông tin

về chủ trƣơng còn khô cứng, nguyên văn bản mà chƣa cụ thể hóa thành những tình

huống sát hợp, khó nhớ và khó tiếp thu. Thông tin về giảm nghèo thƣờng nêu nhiều

những con số đạt đƣợc, những giải pháp của cấp ủy, của chính quyền, đoàn thể

chung chung; nêu việc “chúng ta” làm mà thiếu tiếng nói từ cơ sở. Thông tin thiếu

hơi thở cuộc sống, ít liên quan đến ngƣời dân, nhất là về kỹ năng, biện pháp… cho

ngƣời dân. Theo đó, những hạn chế, tiêu cực khi chính sách giảm nghèo đi vào cuộc

sống cũng ít đƣợc khai thác. Vì vậy, mức độ tin cậy của một bộ phận ngƣời dân đối

với đài truyền thanh cấp huyện chƣa cao. Tiếng nói của truyền thanh cấp huyện

chƣa có tầm ảnh hƣởng mạnh. Sự quan tâm của công chúng chƣa nhiều. Hiệu quả

truyền thông chính sách nói chung, chính sách giảm nghèo nói riêng chƣa đạt nhƣ

mong muốn.

Chính vì vậy, đề tài “Truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng Đài

truyền thanh cấp huyện, tỉnh Cà Mau”; mục đích chính là tìm ra những điểm

mạnh, yếu của truyền thanh cấp huyện trong công tác truyền thông chính sách giảm

nghèo đã qua. Từ đó, đề xuất những giải pháp, nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng

8

hoạt động này trong thời gian tới. Qua đó, phát huy sức mạnh của truyền thanh cấp

huyện trong việc đƣa chủ trƣơng, chính sách đi vào cuộc sống; góp phần nâng cao

nhận thức, thay đổi hành vi của ngƣời dân, nhất là hoạt động giảm nghèo; thể hiện

tốt vai trò là tiếng nói của đảng bộ, chính quyền và là bạn đồng hành của ngƣời dân.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Thứ nhất, các tài liệu về vai trò của báo chí, đặc biệt trong lĩnh vực giảm nghèo.

Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò, chức năng, nguyên tắc

hoạt động và hiệu quả của báo chí, ví dụ “Cơ sở lý luận báo chí” (Tạ Ngọc Tấn chủ

biên, 1999), “Truyền thông đại chúng” (Tạ Ngọc Tấn, 2001), “Cơ sở lý luận báo

chí truyền thông” (Dƣơng Xuân Sơn, Đinh Văn Hƣờng, Trần Quang, 2004),..

“Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội” (2008), “Báo chí truyền thông và

kinh tế văn hóa xã hội” (2005), “Tác động của những phƣơng tiện truyền thông mới

đối với đời sống văn hóa của cƣ dân đô thị ở Việt Nam” (2006), bộ sách 9 tập “Báo

chí – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do khoa Báo chí và Truyền thông (ĐH

KHXH và NV) xuất bản,…

Tác giả Lƣu Văn An (2008) đã đánh giá những giá trị, hạn chế của truyền

thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nƣớc tƣ bản phát

triển và ý nghĩa đối với phát triển truyền thông đại chúng Việt Nam. Tác giả

Nguyễn Văn Dững (2011) tìm hiểu mối quan hệ giữa báo chí và dƣ luận xã hội,

phân tích bản chất của dƣ luận xã hội, đặc điểm của báo chí hiện đại, mối quan hệ

tác động của báo chí và dƣ luận xã hội, cơ chế tác động của báo chí và dƣ luận xã

hội và vai trò của nhà báo trong quan hệ với dƣ luận xã hội.

Từ đó cho thấy truyền thông đại chúng, nhất là báo chí có vị trí, vai trò rất

quan trọng trong sự phát triển xã hội ngày nay. Truyền thông đại chúng tác động

vào ý thức xã hội để hình thành và củng cố một hệ thống tƣ tƣởng chính trị lãnh đạo

đối với xã hội, nó có nhiệm vụ liên kết các thành viên trong xã hội thành một khối

đoàn kết, một chỉnh thể trên cơ sở lập trƣờng, thái độ chính trị chung. Truyền thông

đại chúng còn thực hiện chức năng giám sát và quản lý xã hội, theo dõi, phát hiện,

9

phản ánh kịp thời những vấn đề, mâu thuẫn mới nảy sinh, góp phần ổn định chính

trị, xã hội.

Một trong những lĩnh vực đƣợc báo chí quan tâm phản ánh là xóa đói giảm

nghèo. Đã qua, báo chí luôn đồng hành với các chƣơng trình xóa đói, giảm nghèo

quốc gia. Việc tuyên truyền về giảm nghèo đã đƣợc thực hiện một cách đồng bộ, có

trọng tâm, đa dạng về phƣơng thức, phù hợp với từng nhóm đối tƣợng, vùng miền

nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về công tác giảm nghèo ở các vùng

khó khăn… Nhờ đó, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của nhân dân, các

cấp chính quyền, đoàn thể trong việc tổ chức thực hiện các chủ trƣơng, chính sách,

chƣơng trình giảm nghèo, khơi dậy ý thức tự lực vƣơn lên thoát nghèo…Chính vì

vậy, nhiều luận văn đã khai thác vai trò của báo chí liên quan đến công tác xóa đói

giảm nghèo, cụ thể nhƣ: Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên

truyền (2013) của Trần Thị Thùy Linh về “Tuyên truyền xây dựng nông thôn mới

trên sóng truyền hình, Đài phát thanh – truyền hình Nghệ An”. Luận văn Thạc sĩ

Báo chí học, Đại học KHXH và NV Hà Nội của Lƣu Thị Bích Ngọc về “Truyền

thông về vấn đề xóa đói giảm nghèo trên Báo Bắc Kạn và Yên Bái”, đã đi sâu khảo

sát, phân tích những mặt đạt đƣợc, chƣa đƣợc và đề xuất nhiều giải pháp thiết thực

trong công tác truyền thông chính sách xóa đói, giảm nghèo trên 2 tờ báo nói trên.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu về truyền thông chính sách

Đã có nhiều nghiên cứu, hội thảo, chƣơng trình, đề án … liên quan đến vai

trò của báo chí trong truyền thông về chính sách nói chung, và cụ thể riêng từng

lĩnh vực, nhƣ: đất đai, biến đổi khí hậu, môi trƣờng.... Từ năm 2016 đến nay, Học

viện Báo chí và Tuyên truyền, Báo Đại biểu Nhân Dân, Cơ quan hợp tác quốc tế

Hàn Quốc tổ chức 3 cuộc hội thảo về truyền thông Chính sách, cụ thể: Hội thảo “

Truyền thông chính sách kinh nghiệm Việt Nam - Hàn Quốc” năm 2016; Hội thảo “

Truyền thông chính sách và đồng thuận xã hội” năm 2017 và Hội thảo “ Truyền

thông chính sách và năng lực tiếp nhận của công chúng” năm 2018. Qua đó, nâng

cao hơn nữa vai trò của báo chí trong công tác truyền thông chính sách trong giai

đoạn hiện nay.

10

PGS-TS Nguyễn Văn Dững với đề tài “Tìm kiếm mô hình tổ chức hoạt động

truyền thông chính sách công ở Việt Nam” đã đi sâu phân tích vai trò của báo chí

Việt Nam trong truyền thông chính sách là phổ biến tạo sự đồng thuận xã hội; đánh

giá hiệu quả trong thực tiễn; phản biện, phản ánh những bất cập của chính sách…

Sách “Truyền thông chính sách và đồng thuận xã hội” do Học viện Báo chí

và tuyên truyền, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn

Quốc (đồng chủ biên - 2018). Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các chuyên gia,

nhà nghiên cứu Việt Nam và Hàn Quốc tại Hội thảo khoa học quốc tế cùng tên,

nhấn mạnh vai trò của truyền thông chính sách trong việc xây dựng đồng thuận xã

hội và nêu lên một số mô hình nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách.

Sách “Truyền thông chính sách - truyền tải thông tin và can thiệp hiệu quả

tới các nhà hoạch định chính sách trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản và HIV/AIDS

tại Việt Nam” do Trƣờng đại học Y tế cộng đồng, văn phòng tƣ liệu dân số Mỹ

(2009). Cuốn sách cung cấp lý luận về chính sách đồng thời xây dựng chiến lƣợc

truyền tải thông tin, truyền tải thông tin qua các phƣơng tiện truyền thông, bản

thông tin khuyến nghị chính sách, bài trình bày cá nhân.

Sách “Chính sách công Những vấn đề cơ bản” (2014) của tác giả Nguyễn

Hữu Hải đã cung cấp những kiến thức lý luận chung nhất về chính sách công, nhất

là chu trình chính sách công; nguyên tắc, căn cứ, các bƣớc và phƣơng pháp, công cụ

hoạch định chính sách công; công tác phân tích, đánh giá chính sách công.

Sách “Giám sát và đánh giá chính sách công” (2016) của tác giả Lê Văn Hòa

đã cung cấp cho độc giả những vấn đề cơ bản về chính sách công; về đánh giá tác

động; đo lƣờng kết quả thực hiện chính sách công; kết hợp các phƣơng pháp đánh

giá tác động và đánh giá tác động chƣơng trình có nhiều can thiệp; tổ chức đánh giá

tác động chính sách.

Ngoài ra, còn có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu có liên quan đến đề tài

với nội dung tuyên truyền, truyền thông chính sách nhƣ: Luận văn Thạc sĩ Quan hệ

công chúng, Học viện Báo chí và tuyên truyền (2014) của Nguyễn Thu Hƣơng về

“Bộ Y tế với hoạt động truyền thông phòng chống tác hại của thuốc lá”; Luận văn

11

thạc sĩ về: “Vai trò của đài phát thanh cơ sở trong truyền thông về chính sách đất

đai ở các huyện ngoại thành Hà Nội”, của Đặng Đình Sáng đã khảo sát, phân tích,

đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lƣợng truyền thông chính

sách đất đai trên hệ thống đài phát thanh cơ sở ở các huyện ngoại thành Hà Nội.

Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu tập trung khai thác vai trò của báo chí trong

việc truyền thông những chính sách, nhƣ: báo chí với vấn đề bảo hiểm xã hội, báo

chí với công tác bảo vệ trẻ em, báo chí với chính sách môi trƣờng, chống biến đổi

khí hậu.v.v. Riêng về vai trò của đài truyền thanh cấp huyện, đặc biệt là trong

truyền thông chính sách giảm nghèo ở Cà Mau thì đến nay chƣa có một nghiên cứu

cụ thể.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của báo chí

trong truyền thông về chính sách giảm nghèo; luận văn khảo sát, đánh giá thực

trạng truyền thông chính sách giảm nghèo ở 3 đài truyền thanh huyện trong tỉnh Cà

Mau (Phú Tân, Cái Nƣớc và Thới Bình). Qua đó, tổng hợp, phân tích, đánh giá

những thành công, hạn chế; xác định nguyên nhân thành công và hạn chế trong hoạt

động này. Từ đó, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng của hoạt động truyền

thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện trong tỉnh Cà Mau.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, tác giả tập trung tập hợp các nguồn tƣ liệu, tài liệu, các

công trình đã công bố liên quan đến vai trò của báo chí trong truyền thông về chính

sách, đặc biệt là các chủ trƣơng, chính sách giảm nghèo của Đảng, Nhà nƣớc các

cấp để xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu.

Đồng thời, tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng công tác truyền thông về

chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện trong tỉnh Cà Mau

thông qua các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: phân tích thông điệp truyền thông từ

hệ thống tin, bài; khảo sát, điều tra trong cán bộ, nhân dân đặc biệt là ngƣời nghèo;

phỏng vấn lãnh đạo UBND huyện; lãnh đạo, phóng viên các đài truyền thanh cấp

12

huyện…để có cách nhìn tổng quan, toàn diện về vấn đề nghiên cứu. Từ việc phân

tích, đánh giá chỉ ra thành công, hạn chế và nguyên nhân, sẽ đề xuất giải pháp,

khuyến nghị.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Vai trò của Đài truyền thanh cấp huyện trong hoạt động truyền thông về

chính sách giảm nghèo.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu trên hệ thống 3 đài truyền thanh huyện trong tỉnh Cà

Mau là: Phú Tân, Cái Nƣớc và Thới Bình. Bao gồm các tin, bài đã phát trong thời

gian từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2019.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã tiến hành các phƣơng pháp nghiên

cứu cơ bản nhƣ sau:

Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: tập hợp, hệ thống hóa các nguồn tƣ

liệu, sách giáo trình, sách chuyên khảo, các bài báo khoa học, các tài liệu của các cơ

quan chức năng,… về vai trò, nhiệm vụ của báo chí, nhất là trong thông tin, truyền

thông về chính sách giảm nghèo.

Phƣơng pháp phân tích thông điệp: nghiên cứu trực tiếp các thông điệp

truyền thông liên quan lĩnh vực giảm nghèo thông qua hệ thống tin, bài đã đƣợc

phát sóng trên 3 đài truyền thanh cấp huyện trong tỉnh. Tin, bài đƣợc chọn từ tháng

01/2019 đến tháng 12/2019, nhằm đánh giá chất lƣợng thông tin trên đài truyền thanh

huyện trong tỉnh Cà Mau cả về nội dung và hình thức thể hiện. Từ đó, có cách nhìn

tổng quan và toàn diện, đánh giá ƣu, nhƣợc điểm và đề xuất giải pháp phù hợp.

Phƣơng pháp điều tra xã hội học: thực hiện 150 phiếu để lấy ý kiến của công

chúng của các đài đƣợc khảo sát. Từ đó, tổng hợp, đánh giá để có cách nhìn toàn

diện hơn về hiệu quả truyền thông nói chung, chính sách giảm nghèo nói riêng của

truyền thanh cấp huyện đối với đời sống của ngƣời dân; sự quan tâm của công

13

chúng đối với truyền thanh cấp huyện, mức độ tin cậy, khả năng làm theo…từ đó,

đƣa ra hƣớng điều chỉnh, đổi mới nội dung, hình thức thông tin, nhất là về chính

sách giảm nghèo.

Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn lãnh đạo huyện; lãnh đạo, phóng

viên, đài truyền thanh cấp huyện … về truyền thông chính sách giảm nghèo trên

sóng đài truyền thanh cấp huyện. Chú trọng công tác định hƣớng, chỉ đạo nội dung,

khả năng tiếp nhận,…Từ đó, tổng hợp, đánh giá một cách toàn diện về nội dung

nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Nghiên cứu, khảo sát nhằm đúc kết lý luận, kinh nghiệm về công tác truyền

thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện. Từ đó, bổ sung

và phát triển lý luận, kinh nghiệm trong quản lý, tác nghiệp; nhất là đổi mới về kỹ

năng, phƣơng pháp tác nghiệp, cách thức thể hiện thông điệp truyền thông thiết

thực, phù hợp; nhằm áp dụng vào thực tiễn đơn vị và địa phƣơng đạt hiệu quả.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Với đề tài này, hy vọng sẽ cung cấp những giá trị tham khảo thực tiễn thông

qua những nghiên cứu về nội dung thông điệp truyền thông trên sóng đài truyền

thanh cấp huyện, dữ liệu khảo sát về hoạt động truyền thông chính sách giảm nghèo

của đài truyền thanh một số huyện trong tỉnh Cà Mau. Qua đó, giúp cho cán bộ lãnh

đạo, quản lý nói chung và cấp ủy, chính quyền, các phóng viên, biên tập viên, lãnh

đạo đài truyền thanh huyện và ngƣời dân hiểu sâu sắc hơn về chính sách, công tác

truyền thông chính sách giảm nghèo. Từ đó, có chủ trƣơng, chính sách, biện pháp

phù hợp trong việc thông tin, truyền thông; nhằm động viên, khuyến khích, làm thay

đổi nhận thức, hành động của ngƣời dân trong thực hiện chính sách giảm nghèo; phát

huy vai trò của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong công tác giảm nghèo.

Những kết quả nghiên cứu xuất phát từ lý luận và thực tiễn của luận văn hy

vọng sẽ có tác động tích cực đến các cơ quan báo chí và các đài truyền thanh cấp

huyện trong truyền thông về chính sách giảm nghèo. Từ đó, giúp điều chỉnh, lựa

14

chọn nội dung, hình thức truyền tải thông tin hợp lý để nâng cao hiệu quả truyền

thông về giảm nghèo… Luận văn cũng sẽ góp phần đề xuất giải pháp nâng cao kỹ

năng làm báo cho những ngƣời làm báo ở cấp huyện, nhất là về đổi mới tƣ duy,

cách thức thông tin theo hƣớng phục vụ công chúng, cụ thể là về giảm nghèo.

Khảo sát thực tiễn thông điệp truyền thông trên sóng đài truyền thanh huyện

nhằm rút ra những đánh giá khái quát về thực trạng truyền thông chính sách giảm

nghèo thời gian qua. Từ đó, nêu lên những vấn đề cần thực hiện cho công tác này đi

vào chiều sâu và hiệu quả, nhằm góp phần thu hút sự quan tâm của công chúng.

Qua đó, góp phần nâng cao chất lƣợng chƣơng trình phát thanh trên sóng đài truyền

thanh cấp huyện; nâng cao vai trò của đài truyền thanh cấp huyện trong việc thực

hiện nhiệm vụ chính trị, là bạn đồng hành của ngƣời dân.

7. Bố cục luận văn

Luận văn gồm có 4 chƣơng, 14 tiết, gồm:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề truyền thông chính sách

giảm nghèo trên sóng phát thanh

Chƣơng 2: Thực trạng công tác truyền thông chính sách giảm nghèo trên

sóng đài truyền thanh cấp huyện trong tỉnh Cà Mau

Chƣơng 3: Đánh giá chất lƣợng truyền thông chính sách giảm nghèo trên

sóng đài truyền thanh cấp huyện trong tỉnh Cà Mau

Chƣơng 4: Giải pháp, khuyến nghị nâng cao chất lƣợng truyền thông chính

sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện.

15

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TRUYỀN THÔNG

CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO TRÊN SÓNG PHÁT THANH

1.1. Các khái niệm, thuật ngữ

1.1.1. Truyền thông

Truyền thông: Trong tiếng Anh, "Communication" có nghĩa là truyền thông -

sự truyền đạt, thông tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc. Trong tiếng La tinh,

nó có nghĩa là cộng đồng. Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đƣờng,

phƣơng tiện để đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau giữa cá nhân và xã hội. Truyền thông

là một quá trình liên tục trao đổi, chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ năng nhằm tạo sự

liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức.

Theo PGS-TS Nguyễn Văn Dững (2011), truyền thông là quá trình liên tục

trao đổi thông tin, tƣ tƣởng, tình cảm…chia sẻ kỹ năng hoặc kinh nghiệm giữa hai

hoặc nhiều ngƣời, nhằm tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới

điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm,

cộng đồng xã hội. Nhƣ vậy, truyền thông không đơn thuần là một hành động mà là một

quá trình, có sự tƣơng tác qua lại lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể. Từ đó, từng bƣớc

hiểu nhau, làm thay đổi nhận thức và hành vi phù hợp nhu cầu phát triển chung.

Truyền thông đƣợc thể hiện dƣới ba hình thức: Truyền thông cá nhân là quá

trình trao đổi thông tin giữa ngƣời này với ngƣời khác trên cơ sở giao tiếp lẫn nhau,

cả hai đều có thể là nguồn phát và là ngƣời nhận thông tin. Truyền thông nhóm là

quá trình truyền đạt thông tin từ một hoặc một nhóm ngƣời đến một tập thể nhƣ: nội bộ

cơ quan, công ty, một cuộc hội thảo, hội nghị, lớp học …Truyền thông đại chúng là

quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi hƣớng đến mọi ngƣời trong xã hội

thông qua các PTTTĐC, nhƣ: sách, báo, phát thanh, truyền hình, mạng internet… Quá

trình truyền thông cũng diễn ra theo hai cách là trực tiếp và gián tiếp.

1.1.2. Truyền thông đại chúng

Truyền thông đại chúng là một dạng thức truyền thông đặc biệt trong lịch sử

loài ngƣời - khi mà ngƣời truyền thông tin có thể truyền tải thông điệp cho đông đảo

16

quần chúng về số lƣợng và rộng khắp về địa lý - điều mà các cách thức truyền thông

trƣớc đó không thể nào có đƣợc. Truyền thông đại chúng đƣợc thực hiện qua các

phƣơng tiện PTTTĐC.

Có nhiều PTTTĐC khác nhau, phổ biến nhất là báo in, phát thanh, truyền

hình và Internet. Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, các PTTTĐC có vai

trò rất quan trọng đối với đời sống xã hội. Các PTTTĐC nói chung, báo chí nói

riêng ra đời là để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu thông tin giao tiếp của con ngƣời và

xã hội. Chức năng cơ bản, khởi nguồn của báo chí là thông tin; nhƣng báo chí thông

tin để thực hiện chức năng tƣ tƣởng, chức năng giáo dục, thực hiện vai trò quản lý,

giám sát, phản biện xã hội, thông tin để thực hiện chức năng văn hóa, giải trí.

1.1.3. Phát thanh

Phát thanh ( còn gọi là báo nói) là một phƣơng tiện truyền thông đại chúng,

trong đó nội dung thông tin đƣợc chuyển tải qua âm thanh. Âm thanh trong phát

thanh bao gồm: lời nói, âm nhạc, các loại tiếng động làm nền hoặc minh họa cho lời nói

nhƣ tiếng mƣa, nƣớc chảy, vỗ tay, tiếng máy công trình, tiếng ồn trên đƣờng phố,…

Xét từ mục đích, ngƣời ta thƣờng chia phát thanh thành các loại: phát thanh

thƣơng mại, phát thanh giáo dục, phát thanh chính trị-xã hội, phát thanh công cộng.

Thông thƣờng, mỗi nƣớc đều có hệ thống phát thanh của nhà nƣớc để thực hiện

những nhiệm vụ công cộng, phục vụ cho các mục đích chính trị, xã hội của chính

phủ. Ngƣời ta gọi đó là các đài phát thanh quốc gia hay đài phát thanh công cộng. Ở

Việt Nam, toàn bộ hệ thống phát thanh đều thuộc sở hữu của Nhà nƣớc, do Chính

phủ và chính quyền các địa phƣơng quản lý. Đài Tiếng nói Việt Nam là đài trung

ƣơng, ngoài ra còn có các đài phát thanh khu vực, đài phát thanh cấp tỉnh, thành phố

và cấp huyện.

Về mặc kỹ thuật, phát thanh và truyền thanh là hai thuật ngữ dùng để phân

biệt hai hình thức truyền tải thông tin của một loại hình báo chí đó là báo nói. Trong

đó, phát thanh đƣợc hiểu là hình thức chuyển tải tín hiệu âm thanh qua sóng điện từ;

truyền thanh chuyển tải tín hiệu âm thanh bằng dây dẫn từ máy phát đến hệ thống

loa. Trƣớc đây, ngƣời ta còn dùng khái niệm phát thanh để chỉ các đài từ cấp tỉnh

17

trở lên; truyền thanh để chỉ các đài từ cấp huyện đến cơ sở. Đài cấp tỉnh thƣờng

phát bằng sóng AM hoặc FM, còn đài cấp huyện và cấp xã lúc ban đầu chỉ truyền

bằng hệ thống dây dẫn. Song, hiện nay, các đài truyền thanh cấp huyện và phần lớn

đài truyền thanh cấp xã đều phát sóng FM. Vì vậy, hai khái niệm này thực ra không

có sự khác biệt.

Nhƣ vậy, phát thanh/truyền thanh là những thuật ngữ chỉ phƣơng tiện truyền

tải thông tin bằng ký hiệu âm thanh qua các hạ tầng kỹ thuật khác nhau. Về bản

chất, đó là một trong bốn loại hình báo chí phổ biến hiện nay, đó là báo nói.

Theo Luật báo chí Việt Nam năm 2016: “Báo nói là loại hình báo chí sử

dụng tiếng nói, âm thanh, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng

dụng công nghệ khác nhau.”

Đặc trƣng của phát thanh chính là âm thanh. Âm thanh bao gồm: lời nói,

tiếng động, âm nhạc. Sản phẩm chủ yếu của phát thanh là dùng âm thanh để truyền

đạt thông tin đến ngƣời nghe. Âm thanh là cơ sở tái hiện hình ảnh, tạo nên sự sinh

động và kích thích trí tƣởng tƣợng của ngƣời nghe.

Đặc trưng, thế mạnh và hạn chế của phát thanh:

Phát thanh/ truyền thanh có nhiều thế mạnh trong công tác truyền thông chính

sách nói chung, giảm nghèo nói riêng. Song, thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:

Thứ nhất: tính tỏa khắp. Phát thanh có thể tỏa sóng cho nhiều ngƣời nghe

cùng lúc, cùng tác động đến nhiều ngƣời. Nhất là đối với phát thanh/truyền thanh

địa phƣơng có hệ thống loa công cộng rộng khắp. Phát thanh có thể coi là phƣơng

tiện tốt nhất trong tuyên truyền, cổ vũ, động viên quần chúng dân, huy động sức

mạnh tổng hợp của toàn xã hội thực hiện đồng loạt, đồng bộ các chủ trƣơng, chính

sách, chƣơng trình, kế hoạch, nhằm tạo nên các phong trào hiệu quả ở địa phƣơng.

Thứ hai: phát thanh có lợi thế là phƣơng tiện thông tin nhanh, tiếp cận đồng

thời với sự kiện diễn ra. Phát thanh có thể truyền tải nhanh chóng những chính sách

đến với ngƣời dân, dễ dàng tạo nên dƣ luận xã hội rộng rãi.

18

Thứ ba: phát thanh có tính sống động, thân mật, riêng tƣ. Thế mạnh của phát

thanh là sử dụng âm thanh, nhƣ: lời nói, tiếng động, âm nhạc để diễn tả, chuyển tải

thông tin một cách sinh động, thu hút và kích thích trí tƣởng tƣợng ngƣời nghe. Đây

là phƣơng tiện gần gũi, chia sẻ, là ngƣời bạn đồng hành của thính giả trong những

câu chuyện, những tình huống khó nói trực tiếp.

Thứ tư: phát thanh là kênh truyền thông ít tốn kém, thậm chí không tốn kém

đối với ngƣời dân nếu tiếp cận qua hệ thống loa công cộng; do đó, phù hợp đối với

ngƣời nghèo. Một chiếc radio, chiếc điện thoại rẻ tiền cũng đều tích hợp chức năng

nghe đài FM, hay nghe miễn phí qua hệ thống loa công cộng. Từ đó, ngƣời dân dễ

tiếp cận chƣơng trình phát thanh từ thông tin thời sự, giải trí, ca nhạc, kỹ năng sống,

biện pháp làm ăn, chuyển giao kỹ thuật…rất dễ dàng. Do đó, phát thanh rất thích

hợp với cộng đồng dân cƣ chủ yếu là nông dân ở nông thôn, mức sống chƣa cao.

Thứ năm: Phát thanh là phƣơng tiện có tính tiện ích mà không có loại hình

báo chí nào có đƣợc đó là vừa nghe vừa kết hợp với công việc khác mà không nhất

thiết phải tập trung mọi giác quan vào việc tiếp nhận thông tin nhƣ các loại hình

khác. Nhất là nghe qua hệ thống loa công cộng. Bác nông dân có thể vừa làm nông

vừa nghe đài, bà nội trợ vừa nấu nƣớng vừa nghe thông tin … Điều này rất thích

hợp cho những ngƣời nông dân khi đang lao động. Họ có thể cùng lúc vừa làm vừa

tiếp nhận thông tin mà không mất thời gian, không mất công làm việc. Trong khi

đó, ngƣời ta không thể vừa lái xe vừa xem báo, vừa đi tập thể dục vừa xem Tivi.

Thứ sáu: phát thanh là phƣơng tiện cung cấp thông tin rộng rãi, phổ quát, ai

cũng có thể nghe và hiểu đƣợc. Từ đó, có thể cụ thể hóa chủ trƣơng, chính sách

thành những câu chuyện, tình huống cụ thể dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ thực hiện.

Một thế mạnh quan trọng của phát thanh/truyền thanh trong công tác truyền

thông chính sách đó là tính địa phƣơng. Tin tức địa phƣơng ít nhiều có tầm ảnh

hƣởng lớn đến thính giả bởi nó chính là những gì gần gũi, phù hợp với đời sống của

họ. Từ đó, nâng cao tính thuyết phục để ngƣời dân tin tƣởng, làm theo hoặc có sự

phản biện, đóng góp khi chính sách không phù hợp với địa phƣơng.

19

Hoạt động báo chí phát thanh là tác động vào ý thức nhân dân, nhằm tập

hợp, thuyết phục, động viên và tổ chức đông đảo nhân dân tham gia giải quyết các

vấn đề kinh tế-xã hội, thông qua đó, góp phần thanh đổi nhận thức, thái độ, điều

chỉnh hành vi của ngƣời dân phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Đó là chuyển tải chủ

trƣơng, chính sách đến ngƣời dân và phản ánh thực tiễn để hoàn thiện chủ trƣơng, chính

sách. Đây là một lợi thế trong truyền thông về chính sách giảm nghèo ở địa phƣơng.

Tuy nhiên, phát thanh có những hạn chế nhất định, trƣớc hết là mức độ xác

định của thông tin tiếp nhận. Do phát thanh là hình thức truyền thông tuyến tính, và

cách tiếp nhận duy nhất là nghe, nên ngƣời nghe hoàn toàn phụ thuộc và bị động về

tốc độ, trình tự vận hành của dòng âm thanh. Chỉ cần một thời điểm không tập trung

chú ý đã không thể hiểu đúng hay không đầy đủ về nội dung thông điệp. Mặc khác,

những thông tin có logic thƣờng có nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp, nên khi

phát trên phát thanh sẽ có hiệu quả thấp, do thính giả rất khó theo dõi nội dung

thông tin nhiều tầng lớp, khi mà trí nhớ nhanh của con ngƣời có hạn. Bên cạnh đó,

việc diễn đạt dài dòng cũng khiến ngƣời ta không thể nhớ kịp để nắm đƣợc toàn bộ

nội dung.

1.1.4. Nghèo

Theo Ngân hàng thế giới nghèo là bần cùng hóa về phúc lợi.

Theo nghĩa hẹp, nghèo là sự thiếu thốn các điều kiện thiết yếu của cuộc sống.

Theo nghĩa rộng, nghèo cần đƣợc xác định ở góc độ đa chiều, đó là sự phát triển

toàn diện của con ngƣời. Bao gồm cả vật chất, con ngƣời và xã hội.

Về vật chất, đó chính là biểu hiện sự thiếu hụt các điều kiện cần thiết cho

nhu cầu cuộc sống. Về con ngƣời, đó là sức khỏe, tiếp cận dịch vụ y tế, dinh dƣỡng,

trình độ, kiến thức…Về xã hội, nghèo biểu hiện ở sự phân hóa đẳng cấp, hầu nhƣ

ngƣời nghèo ít có tiếng nói trong xã hội. Cách tiếp cận này giúp những nhà hoạch

định chính sách đƣa ra chính sách giảm nghèo theo hƣớng bền vững hơn, giúp

ngƣời nghèo không chỉ thoát nghèo về vật chất mà còn xóa nghèo về con ngƣời và

nghèo về xã hội. Đó là cách tiếp cận theo hƣớng đa chiều.

20

Theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tƣớng Chính

phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-

2020 thì việc xác định hộ nghèo đa chiều dựa trên 2 tiêu chí cơ bản đó là thu nhập

và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhƣ: y tế; bảo hiểm y tế;

trình độ giáo dục của ngƣời lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lƣợng nhà ở;

nƣớc sinh hoạt; nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tiếp cận thông

tin.v.v.

Nhƣ vậy, nghèo đƣợc hiểu là sự thiếu hụt cả về vật chất và tiếp cận các dịch

vụ xã hội cơ bản. Tiêu chí đánh giá sẽ tùy vào không gian và thời gian khác nhau, ở

đô thị khác ở nông thôn, 5 năm trƣớc khác 5 năm sau.

1.1.5. Giảm nghèo bền vững

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định một

trong những nhiệm vụ trọng tâm là “Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần…; đảm bảo an ninh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững”.

Giảm nghèo bền vững là tình trạng dân cƣ đạt đƣợc mức độ thỏa mãn nhu

cầu cơ bản hay mức thu nhập cao hơn chuẩn nghèo và duy trì đƣợc mức độ thỏa

mãn hay thu nhập đó khi gặp sự cố hay rủi ro.

1.1.6. Chính sách

Chính sách (hay còn gọi là chính sách công) là vấn đề quan trọng hàng đầu,

ảnh hƣởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia cũng nhƣ với từng địa

phƣơng cụ thể. Chính sách công đƣợc định nghĩa là một tập hợp các quyết định

chính trị có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ thực hiện giải

quyết các vấn đề kinh tế - xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định. Việc xây dựng,

hoạch định chính sách, công bố chính sách tới ngƣời dân, thực thi nhƣ thế nào liên

quan nhiều tới công tác truyền thông chính sách.

PGS-TS Nguyễn Văn Dững (2018) cho rằng: Chính sách công là quan điểm,

thái độ, cách tiếp cận, quyết sách và cách thức giải quyết hoặc không giải quyết vấn

đề liên quan đến lợi ích cộng đồng, liên quan đến lợi ích của các nhóm xã hội lớn,

trực tiếp hay gián tiếp ảnh hƣởng đến lợi ích nhân dân nói chung, của nhà nƣớc hay

21

chính phủ, chính quyền, của tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị của

một quốc gia. Chính sách công chính là công cụ của nhà nƣớc nói chung đƣợc dùng

để giải quyết các vấn đề thực tiễn, điều hòa lợi ích giữa các nhóm xã hội lớn, tạo sự

đồng thuận xã hội, bảo đảm phát triển bền vững.

Về chính sách giảm nghèo: Theo PGS-TS Nguyễn Ngọc Sơn (2012): chính

sách giảm nghèo là những quyết định, quy định của Nhà nƣớc nhằm cụ thể hóa các

chƣơng trình dự án cùng với nguồn lực, vật lực, các thể thức, quy trình hay cơ chế

thực hiện nhằm tác động đối tƣợng cụ thể nhƣ ngƣời nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo

với mục đích cuối cùng là xóa đói giảm nghèo.

Mục tiêu của chính sách giảm nghèo chính là giúp đỡ, hỗ trợ cho ngƣời

nghèo thoát nghèo cả về vật chất, con ngƣời và xã hội. Đó là tăng thu nhập, tăng

khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, tăng cƣờng tiếng nói cho ngƣời nghèo…

1.1.7. Truyền thông chính sách giảm nghèo

Truyền thông chính sách là quá trình chia sẻ, tƣơng tác xã hội để thông tin

chính sách từ chủ thể hoạch định, xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách đến

các chủ thể chính sách khác nhằm tăng cƣờng sự hiểu biết, nhận thức và thay đổi

hành vi của các chủ thể chính sách để đạt mục tiêu chính sách.

Truyền thông chính sách đóng vai trò quan trọng đối với mỗi khâu của chu

trình chính sách công. Khâu hoạch định chính sách, truyền thông chính sách giúp

xác định đƣợc đúng và trúng vấn đề chính sách, bảo đảm sự đồng thuận xã hội.

Trong khâu xây dựng chính sách, truyền thông chính sách giúp quá trình lựa chọn

giải pháp công cụ chính sách phù hợp. Trong khâu thực hiện chính sách, truyền

thông chính sách giúp việc giám sát chính sách công đƣợc thực hiện với sự tham gia

của cả xã hội. Khâu đánh giá truyền thông chính sách giúp làm rõ đƣợc kết quả

chính sách, đồng thời, giúp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách.

Nhƣ vậy; truyền thông chính sách giảm nghèo có thể hiểu là quá trình phổ

biến, chia sẻ, tương tác xã hội để thông tin các chính sách giảm nghèo, nhằm

nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi, góp phần thực hiện mục tiêu giảm

nghèo bền vững.

22

1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về giảm nghèo và vai trò của báo chí trong

công tác truyền thông chính sách giảm nghèo

1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo

Thực hiện mục tiêu giảm nghèo là một chủ trƣơng lớn của Đảng, Nhà nƣớc

ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời nghèo, góp phần thu hẹp

khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng,

các dân tộc và các nhóm dân cƣ. Quan điểm của Đảng về công tác giảm nghèo luôn

đƣợc hoàn thiện, rõ ràng hơn qua các kỳ đại hội.

Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nƣớc Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa ra đời (2/9/1945); một trong các nhiệm vụ hàng đầu đƣợc Chủ tịch Hồ

Chí Minh và Chính phủ Cách mạng lâm thời xác định, đó là phải “diệt giặc đói”…

Nhiệm vụ đó đƣợc Trung ƣơng Đảng, Quốc hội, Chính phủ và toàn dân liên tục thực

hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong công cuộc đổi mới.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996), công tác

XĐGN bắt đầu đƣợc nhìn nhận, tiếp cận một cách khá toàn diện và khoa học. Báo

cáo chính trị Đại hội VIII nhấn mạnh: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với

xoá đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ

phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cƣ”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) xác định: “Khuyến

khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện về cơ

sở hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển,

tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã xác định: “Thực

hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá

các nguồn lực và phƣơng thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các

huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016), tiếp tục nhấn

mạnh: “Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hƣớng tập trung, hiệu quả và tiếp cận

23

phƣơng pháp đo lƣờng nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp

cận các dịch vụ xã hội cơ bản”.

Nghị quyết số 15-NQ/TW Hội nghị TƢ lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung

ƣơng khoá XI về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 đã đề ra nhiệm vụ bảo đảm

an sinh xã hội, chú trọng đến việc làm, bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội cho những

đối tƣợng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc ít ngƣời, bảo đảm mức

tối thiểu về thu nhập và một số dịch vụ xã hội cơ bản nhƣ khám chữa bệnh, học

hành, nhà ở, nƣớc sạch, thông tin, truyền thông.

Rõ ràng chính sách giảm nghèo có nhiều chuyển biến: nhất là từ chính sách

cho không sang hỗ trợ có điều kiện; từ việc chỉ chú trọng về kinh tế, thu nhập thì nay

chú trọng toàn diện hơn về hạ tầng, điều kiện sản xuất, tiếp cận dịch vụ xã hội…Không

chỉ là hỗ trợ “cần câu” hay “con cá” mà là tạo sự chuyển biến về ý thức vƣơn lên của

ngƣời dân, không trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ nhà nƣớc và xã hội.

1.2.2. Vai trò của báo chí trong công tác truyền thông chính sách giảm nghèo

Báo chí Việt Nam là một phần trong hệ thống chính trị, là cơ quan ngôn luận

của Đảng, chính quyền, đoàn thể, là diễn đàn của Nhân dân; báo chí có trách nhiệm

truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; cỗ vũ, động viên quần

chúng nhân dân thực hiện các phong trào cách mạng, góp phần thực hiện nhiệm vụ

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng,

văn minh. Báo chí có nhiều ƣu thế và là phƣơng tiện quan trọng trong công tác

truyền thông chính sách đến với ngƣời dân, nhất là chính sách giảm nghèo.

Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 6/1/2017 về việc tăng cƣờng chỉ đạo thực hiện

Chƣơng trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020, Thủ

tƣớng Chính phủ đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính

trị tƣ tƣởng tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính

quyền và trong các tầng lớp Nhân dân về tiêu chí tiếp cận nghèo đa chiều, mục tiêu

giảm nghèo bền vững, góp phần tạo đƣợc sự đồng thuận và phát huy sức mạnh tổng

hợp của cả hệ thống chính trị, sự đồng tâm, hiệp lực của toàn xã hội trong triển khai

thực hiện Chƣơng trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 -

24

2020; khơi dậy ý chí chủ động, vƣơn lên của ngƣời nghèo, tiếp nhận và sử dụng có

hiệu quả chính sách và nguồn lực hỗ trợ của Nhà nƣớc, của cộng đồng

để thoát nghèo, vƣơn lên khá giả; phát động phong trào thi đua “Cả nƣớc chung tay

vì ngƣời nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”. Điều này cho thấy vai trò quan

trọng của báo chí trong công tác truyền thông về giảm nghèo. Báo chí, truyền thông

vừa là cơ sở giảm nghèo về thông tin, vừa góp phần tuyên truyền giảm nghèo theo

tiêu chí tiếp cận đa chiều.

Trong Quyết định phê duyệt Chƣơng trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền

vững giai đoạn 2016 - 2020, giải pháp đƣợc đặt lên hàng đầu là công tác tuyên

truyền. Thủ tƣớng Chính phủ đã nhấn mạnh: Đẩy mạnh tuyên truyền mục tiêu giảm

nghèo sâu rộng đến mọi cấp, mọi ngành, các tầng lớp dân cƣ và ngƣời nghèo nhằm

thay đổi và chuyển biến nhận thức trong giảm nghèo, khơi dậy ý chí chủ động,

vƣơn lên của ngƣời nghèo, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả chính sách và nguồn

lực hỗ trợ của nhà nƣớc, của cộng đồng để thoát nghèo, vƣơn lên khá giả; phát động

phong trào thi đua “cả nƣớc chung tay vì ngƣời nghèo”; tôn vinh doanh nghiệp, tập

thể cá nhân có nhiều đóng góp về nguồn lực, cách làm hiệu quả trong công tác giảm

nghèo bền vững. Nhƣ vậy, thông tin và truyền thông về giảm nghèo là một dự án

thành phần của Chƣơng trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn

2016 - 2020, thực sự là giải pháp không thể thiếu đƣợc, cùng với nguồn lực đầu tƣ

và hệ thống chính sách, sẽ là đòn bẩy hiệu quả để thực hiện mục tiêu giảm nghèo

bền vững.

Thời gian qua, báo chí đã khơi dậy sức mạnh của cả hệ thống chính trị cho

công tác giảm nghèo. Báo chí đã luôn đồng hành cùng Nhà nƣớc làm tròn vai trò cơ

quan định hƣớng, truyền tải cơ chế, chính sách luật pháp trong công tác giảm nghèo

tới ngƣời dân, góp phần làm tốt công tác an sinh xã hội. Báo chí đã nêu cao tinh

thần trách nhiệm trong việc cải tiến nội dung, hình thức truyền thông. Việc tuyên

truyền về giảm nghèo đã đƣợc thực hiện một cách đồng bộ, có trọng tâm, đa dạng

về phƣơng thức, phù hợp với từng nhóm đối tƣợng, vùng miền nhằm tạo sự chuyển

biến mạnh mẽ, toàn diện về công tác giảm nghèo ở các vùng khó khăn.

25

Báo chí thể hiện tốt vai trò của mình trong việc phổ biến chính sách nhằm

làm thay đổi nhận thức cho ngƣời dân; đồng thời, thúc đẩy huy động nguồn lực trong

cộng đồng; nhân rộng các mô hình đã thành công để khuyến khích ngƣời dân có động

lực vƣơn lên; góp phần tạo nên phong trào thi đua rộng rãi cùng nhau thoát nghèo.

1.2.3. Vai trò của đài truyền thanh cấp huyện trong truyền thông chính sách

giảm nghèo

Thông tƣ số 17/2010/TTLT-BTTTT-BNV liên Bộ Thông tin Truyền thông

và Bộ Nội vụ ngày 27 tháng 7 năm 2010 về hƣớng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của đài phát thanh và truyền hình thuộc ủy ban nhân

dân cấp tỉnh, đài truyền thanh - truyền hình thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện; quy

định: Đài Truyền thanh cấp huyện là đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện,

thực hiện chức năng là cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ, chính quyền huyện.

Nhiệm vụ chính của đài truyền thanh cấp huyện là sản xuất và phát sóng các

chương trình truyền thanh bằng tiếng Việt và bằng các tiếng dân tộc trên hệ thống

loa truyền thanh, thiết bị phát sóng phát thanh được trang bị nhằm tuyên truyền

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tập trung vào sự chỉ đạo,

điều hành của chính quyền địa phương, các hoạt động tại cơ sở, phổ biến kiến thức

khoa học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, xã hội, công tác an ninh trật tự, gương người

tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến tới nhân dân theo quy định của pháp luật. Hoạt động

này không ngoài mục đích góp phần giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần cho ngƣời dân.

Rõ ràng có thể thấy, hoạt động truyền thông chính sách, trong đó có chính

sách giảm nghèo là nhiệm vụ chính của đài truyền thanh cấp huyện hiện nay. Đài

truyền thanh cấp huyện không phải là cơ quan báo chí nhƣng có hoạt động báo chí

phát thanh, thông qua báo chí phát thanh để thực hiện nhiệm vụ truyền thông chính

sách giảm nghèo.

Như vậy, có thể hiểu truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền

thanh cấp huyện là quá trình chia sẻ, tương tác xã hội nhằm phổ biến chính sách giảm

nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện, bằng loại hình báo chí phát thanh.

26

Hoạt động truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh

cấp huyện thể hiện ở 3 mặt cơ bản: Thứ nhất, Phổ biến chính sách, quy định, biện

pháp, cách thức… về giảm nghèo rộng rãi đến ngƣời dân. Thứ hai, chuyển tải, phản

ánh những mặt đạt đƣợc, hạn chế của chính sách giảm nghèo thông qua thực tiễn từ

cơ sở, để góp phần điều chỉnh, hoàn thiện chính sách. Thứ ba, phổ biến kinh nghiệm,

giới thiệu mô hình hay, chia sẻ cách làm ăn, phát huy vai trò cộng đồng xã hội chung tay

giúp đỡ ngƣời nghèo, tấm gƣơng tự vƣơn lên, những mô hình chung tay giảm nghèo hiệu

quả… Thông qua hoạt động này, góp phần làm thay đổi tƣ duy, suy nghĩ, cách làm của

cán bộ, ngƣời dân trong thực hiện chính sách giảm nghèo.

Ngày nay, công nghệ phát triển, công chúng luôn có điều kiện tiếp cận thông

tin một cách chủ động. Họ luôn tìm đến những gì mình thích mà đôi khi bỏ qua

những thông tin cần thiết cho cuộc sống. Với đặc điểm của mình, truyền thanh cấp

huyện sẽ bổ sung thiếu sót đó với hình thức nghe bắt buộc. Lợi thế của truyền thanh

cấp huyện còn là sự tác động liên tục làm thay đổi hành vi của công chúng, rất hiệu

quả trong thực hiện chính sách giảm nghèo. Đài truyền thanh cấp huyện khá sâu sát

với cơ sở, khả năng tiếp cận hiện trƣờng và thông tin nhanh nên cũng rất lợi thế

trong tình huống khẩn cấp. Đồng thời, cũng có điều kiện tìm hiểu sâu về đặc điểm

sống, sinh hoạt của những của từng hộ dân để có cách thông tin phù hợp, thiết thực

và chính xác.

1.3. Truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện

dƣới góc nhìn của lý thuyết truyền thông

1.3.1. Mô hình truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh

cấp huyện (theo sơ đồ Lasswell)

27

Nguồn phát về chính sách giảm nghèo trong trƣờng hợp này chính là đài truyền

thanh cấp huyện; cơ quan tuyên truyền của đảng bộ, chính quyền, tiếng nói của

ngƣời dân trong huyện.

Thông điệp về giảm nghèo đƣợc chuyển tải qua hệ thống tin, bài có nội dung

liên quan chính sách giảm nghèo đƣợc phát sóng hằng ngày trên sóng đài truyền thanh

huyện. Trong đó, bao gồm việc phổ biến, cụ thể hóa chủ trƣơng chính sách; phản ánh

những mặt đƣợc và chƣa đƣợc khi chính sách đi vào cuộc sống và nêu gƣơng.

Kênh truyền của đài truyền thanh cấp huyện hiện nay chủ yếu qua sóng FM đến

hệ thống loa công cộng và radio, có qua trung gian là truyền thanh cấp xã tiếp sóng

để đến với ngƣời dân.

Người nhận là đông đảo công chúng của huyện nằm trong tầm phủ sóng của đài

truyền thanh huyện, bao gồm cả cán bộ, đảng viên, ngƣời dân, đặc biệt là ngƣời nghèo.

Hiệu quả đạt đƣợc là sự chuyển biến tích cực về nhận thức, nhằm thay đổi hành

vi của toàn xã hội trong hoạt động giảm nghèo bền vững.

Thông qua đó, đài truyền thanh cấp huyện cũng có kênh riêng của mình để ghi

nhận sự phản hồi của công chúng, nhất là tính thiết thực của nội dung thông tin,

mức độ tin tƣởng, làm theo…Đồng thời, trong quá trình truyền thông cũng khó

tránh khỏi hiện tƣợng nhiễu, làm méo mó thông tin xảy do sự cố về kỹ thuật kênh

truyền, diện phủ sóng chƣa mạnh, công suất máy phát yếu hay do lỗi của những

ngƣời làm báo ở huyện trong quá trình tác nghiệp, nắm bắt thông tin chƣa chính xác

hay do ngƣời nghe tiếp thu chƣa trọn vẹn.

Từ đó cho thấy, đài truyền thanh cấp huyện cũng là một phƣơng tiện truyền

thông đại chúng, góp phần truyền thông chính sách giảm nghèo đến với ngƣời dân.

1.3.2. Lý thuyết “Thiết lập chương trình nghị sự”

Truyền thông chính sách giảm nghèo phải đúng chủ trƣơng, đƣờng lối của

Đảng, chính sách của Nhà nƣớc nhằm tạo chuyển biến tích cực về cách nghĩ, cách

làm của ngƣời dân để họ tự lực vƣơn lên; đồng thời, kêu gọi cộng đồng xã hội

chung tay giảm nghèo bền vững. Chính vì vậy, luôn phải có kế hoạch, chƣơng trình

28

để đảm bảo thông tin một cách phù hợp. Khi ấy, truyền thanh nói riêng, truyền

thông đại chúng nói chung có chức năng sắp đặt một “chƣơng trình nghị sự” cho

công chúng. Các bản tin đƣa ra đƣợc tính toán, định hƣớng sẽ ảnh hƣởng nhất định

đến sự phán đoán, suy nghĩ của công chúng. Thực tế, một vấn đề xảy ra có nhiều

hƣớng thông tin khác nhau. Song, những thông tin luôn đƣợc nhắc đến thƣờng

xuyên và đi theo một hƣớng sẽ có tác động mạnh mẽ hơn vào suy nghĩ, nhận thức

của nhiều ngƣời.

Đó còn là sự sàng lọc, nhằm lựa chọn thông tin và cách thức thông tin phù

hợp để đƣa đến công chúng, đó là khâu kiểm duyệt, biên tập thông tin trên các loại

hình báo chí nói chung, truyền thanh ở cấp huyện nói riêng. Đó là lựa chọn những

mô hình hay, cách làm tốt để thông tin, biểu dƣơng, nhân rộng để ngƣời dân làm

theo. Đó còn là sự xác định “liều lƣợng” thông tin giữa nêu gƣơng và phản ánh tiêu

cực phù hợp.

1.3.3. Lý thuyết “ Sử dụng và hài lòng”

Truyền thông chính sách nói chung, trên sóng truyền thanh nói riêng muốn

đạt hiệu quả luôn phải lấy công chúng làm trung tâm. Thính giả đến với phát thanh/

truyền thanh chủ yếu là ở nhu cầu tìm hiểu, học hỏi kiến thức mới; qua đó, giúp họ

nâng cao hiểu biết và hành động. Thính giả có thể tìm đến phát thanh để học hỏi,

tiếp thu kỹ thuật mới, kinh nghiệm về nuôi tôm, trồng lúa để đạt năng suất cao. Nhà

chuyên môn thông qua truyền thanh khuyến cáo, hƣớng dẫn họ cách làm phù hợp

với kinh nghiệm, vốn liếng, điều kiện đất đai. Thông qua truyền thanh cũng tạo điều

kiện cho ngƣời dân chia sẻ kinh nghiệm của mình cho ngƣời khác. Có nghĩa là

ngƣời ta tìm đến phát thanh để thỏa mãn nhu cầu học hỏi kiến thức sản xuất, hay

đơn giản là để giải trí, giao lƣu thông qua chƣơng trình văn nghệ cuối tuần.v.v.

1.3.4. Lý thuyết “Thuyết phục”

Truyền thông chính sách nói chung, giảm nghèo nói riêng trên sóng đài

truyền thanh huyện thực sự là sự thuyết phục; nhằm giúp ngƣời dân thay đổi nhận

thức, thái độ và điều chỉnh hành vi theo chiều hƣớng tích cực. Dần dần, truyền

thanh trở thành ngƣời bạn tin cậy của công chúng thì tính thuyết phục sẽ cao hơn,

29

hiệu quả hơn. Tính thuyết phục thể hiện ở việc nêu gƣơng các mô hình làm ăn có

hiệu quả, ở những tấm gƣơng ngƣời tốt việc tốt là minh chứng cho ngƣời dân học

hỏi, làm theo. Tính thuyết phục thể hiện ở sự đúng đắn và hoàn thiện khi chủ

trƣơng, chính sách đi vào cuộc sống. Nó còn thể hiện ở việc sử dụng có hiệu quả

các thế mạnh của phát thanh để làm minh chứng sinh động cho việc tái hiện cuộc

sống hiện thực.

1.4. Đặc điểm của truyền thông chính sách và tiêu chí đánh giá chất lƣợng

truyền thông chính sách trên sóng phát thanh/truyền thanh

Quá trình truyền thông chính sách không phải và không thể là quá trình áp

đặt mong muốn của chủ thể chính sách hay chủ thể truyền thông chính sách đối với

công chúng. Truyền thông chính sách cần là quá trình đối thoại chính sách, kích

thích sự tham gia tích cực, chủ động của công chúng. Sự tham gia của công chúng

không chỉ dựa trên nền tảng lợi ích mà cả hiểu biết và trách nhiệm xã hội. Để đảm

bảo đƣợc điều đó, truyền thông chính sách phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Một là, thông điệp truyền thông chính sách phải phù hợp với công chúng -

nhóm đối tƣợng và thể hiện rõ mục tiêu của chiến dịch truyền thông chính sách.

Truyền thông chính sách của báo chí giúp truyên truyền, đƣa thông tin, để ngƣời

dân và dƣ luận xã hội biết và hiểu về chính sách mới. Từ đó, giúp tạo đồng thuận xã

hội, đạt hiệu quả cao trong thực hiện các chính sách đó. Vì thế, thông điệp truyền

thông chính sách phải rõ, ngắn gọn, dễ hiểu để công chúng dù là ai cũng có thể nắm

đƣợc một cách cơ bản.

Hai là, thông điệp phải phù hợp với chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà

nƣớc. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc. Vai trò của báo chí phát thanh là tiếng nói

của đảng bộ, chính quyền và nhân dân, do đó, đòi hỏi phải đảm bảo đúng với chủ

trƣơng, chính sách và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị.

Ba là, thông điệp phải phù hợp với các quy tắc và giá trị xã hội, với văn hóa -

lối sống và cách thức tiếp nhận thông tin của ngƣời dân. Ngoài ra, thông điệp còn

phải phù hợp với tâm lý, tâm trạng xã hội và thể hiện lợi ích của công chúng.

Truyền thông chính sách qua báo chí không chỉ giúp ngƣời dân biết và hiểu về

30

chính sách, mà báo chí là kênh thông tin hữu hiệu nhất để ngƣời dân phản hồi về

chính sách mới, phản hồi những bất cập của những chính sách đang thực hiện đến

cơ quan chức năng.

Bốn là, với đặc trƣng và lợi thế của phát thanh, thông điệp phải đơn giản

nhƣng có ấn tƣợng, dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo. Đặc trƣng của phát thanh là âm

thanh và tính thoáng qua. Chính vì vậy, âm thanh phải gợi đƣợc hình ảnh; sử dụng

đồng bộ lời nói, tiếng động, âm nhạc …để tái hiện cuộc sống. Hơn nữa, ngôn ngữ

phát thanh là ngôn ngữ phổ thông mà ngƣời có trình độ cao hay thấp vẫn có thể lĩnh

hội, hiểu và thực hiện. Thông điệp trên sóng phát thanh phải đƣợc thể hiện bằng văn

phong đơn giản, ngắn đầy đủ thông tin và ở thể chủ động, sử dụng động từ, hạn chế

tính từ, số liệu làm tròn…để công chúng dễ tiếp nhận.

Năm là, thông điệp truyền thông chính sách trên báo phát thanh cần lƣu ý về

thời điểm và tần suất xuất hiện thông điệp. Rõ ràng, nếu thời điểm nắng hạn gay gắt

ở vùng nƣớc mặn mà khuyến khích ngƣời dân trồng cây ăn trái thì không phù hợp.

Thời điểm dịch tả heo châu phi hoành hành mà khuyến khích nuôi heo để giảm

nghèo thì khó thực hiện.

Truyền thông chính sách vừa góp phần bảo đảm cho sự thành công của chính

sách, đồng thời giúp cho chính sách ngày một đƣợc hoàn thiện hơn. Nhất là việc

phản ánh những bất cập, bức xúc từ cơ sở, nơi thực thi chính sách. Để đánh giá chất

lƣợng thông điệp truyền thông chính sách, nhất là về giảm nghèo trên sóng phát

thanh cần có nhiều yếu tố, tuy nhiên, tập trung vào một số tiêu chí cơ bản sau:

Tính khách quan, chân thực: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu. Khách

quan, trung thực chính là mang hơi thở cuộc sống vào hoạt động thông tin, truyền

thông. Điều này thể hiện ở trách nhiệm xã hội của ngƣời làm báo đối với công

chúng. Chân thực, khách quan là bằng chứng quan trọng để ngƣời dân tin tƣởng,

làm theo.

Tính thời sự:Tính thời sự ở đây đƣợc hiểu theo nghĩa tƣơng đối. Đài truyền

thanh huyện không chạy theo xu hƣớng thông tin nhanh và cũng không thể cạnh

tranh với các loại hình khác, nhất là báo mạng điện tử và mạng xã hội mà cái chính

31

là chỉ dẫn, tƣ vấn, chia sẻ kinh nghiệm, phân tích…Do vậy, tính thời sự ở đây đƣợc

hiểu là sự phù hợp trong từng giai đoạn, phù hợp đối tƣợng, mang tính địa phƣơng…và

đáp ứng đúng nhu cầu công chúng, nhu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Tính độc đáo, mới lạ, hấp dẫn: Đây là một yếu tố quan trọng để thu hút công

chúng nghe và làm theo. Một trong những tiêu chí đánh giá sự quan tâm của công

chúng đối với đài truyền thanh cấp huyện đó là thông tin có hấp dẫn hay không. Nó

thể hiện ở góc nhìn, cách khai thác đề tài và cách thể hiện tác phẩm. Đó là sự đi sâu,

đi sát cơ sở, phát hiện và thông tin những mô hình hay, cách làm mới, lạ mà ngƣời

nghe chƣa gặp, chƣa nghĩ tới. Có những vấn đề cũ, nhƣng qua góc nhìn của ngƣời

làm báo nó trở nên lạ. Từ đó, thông tin sẽ có sức hấp dẫn lớn.

Nhƣ vậy, thông điệp phát thanh trƣớc hết là hình ảnh đƣợc thể hiện bằng âm

thanh, phù hợp với trình độ nhận thức, khả năng tiếp cận của công chúng cũng nhƣ

phong tục, tập quán, lối sống. Thông điệp trên phát thanh phải dễ hiểu, dễ nhớ,

trung thực, khách quan, mới lạ, hấp dẫn ngƣời nghe… từ đó, mới có thể góp phần

chuyển tải chủ trƣơng, chính sách một cách thành công.

Tiểu kết chƣơng 1

Truyền thông là một khái niệm tƣơng đối rộng, thể hiện ở sự tƣơng tác, trao

đổi, chia sẻ lẫn nhau nhằm đạt mục tiêu đề ra là thấu hiểu, thay đổi hành vi theo

hƣớng tích cực và cùng nhau hành động vì một mục đích chung. Truyền thông trên

phƣơng tiện truyền thông đại chúng là một hình thức truyền thông gián tiếp.

Với điều kiện của phát thanh/truyền thanh, nhất là truyền thanh cấp huyện;

thì khái niệm truyền thông chính sách giảm nghèo cần đƣợc hiểu một cách tƣơng

đối. Đó là sự phổ biến, nhân rộng thông tin về những quyết định, giải pháp, cách

thức thực hiện chính sách giảm nghèo của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể qua hệ

thống truyền thanh. Qua đó, cũng phản ánh những mặt đƣợc, chƣa đƣợc khi chính

sách đi vào cuộc sống nhằm góp phần bổ sung, hoàn thiện chủ trƣơng, chính sách

giảm nghèo phù hợp. Đồng thời, phổ biến những kinh nghiệm thiết thực, những

cách làm hay trong hoạt động giảm nghèo của cấp ủy, chính quyền và ngƣời dân,

32

gƣơng vƣợt khó trong cộng đồng. Mục tiêu chính là góp phần cùng với Đảng, Nhà

nƣớc thực hiện có hiệu quả chƣơng trình giảm nghèo bền vững. Thể hiện tốt vai trò

của truyền thanh cấp huyện là cơ quan tuyên truyền của đảng bộ, chính quyền, là

diễn đàn của nhân dân địa phƣơng, là ngƣời bạn đồng hành của thính giả.

Để làm đƣợc điều đó, thông điệp phát trên sóng phát thanh phải dễ hiểu, dễ

nghe phù hợp với khả năng tiếp nhận của ngƣời dân, nhất là về trình độ dân trí,

phong tục, tập quán, lối sống; đúng chủ trƣơng, chính sách và thể hiện sinh động

bằng thế mạnh âm thanh của thể loại báo nói, tái hiện hình ảnh chân thực của cuộc

sống, khai thác những yếu tố mới lạ, hấp dẫn. Mục đích chính là nâng cao hiểu biết,

thay đổi tƣ duy, cách nghĩ, cách làm của ngƣời dân, nhằm thực hiện có hiệu quả

chính sách giảm nghèo, góp phần giảm nghèo bền vững.

33

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH

GIẢM NGHÈO TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN THANH HUYỆN TRONG

TỈNH CÀ MAU

2.1. Tần suất xuất hiện những thông điệp liên quan công tác giảm nghèo trên

sóng Đài truyền thanh huyện

Vai trò của truyền thanh cấp huyện là cung cấp thông tin, hiểu biết; cổ vũ,

động viên cũng nhƣ tác động làm thay đổi nhận thức, thay đổi hành vi của ngƣời

dân địa phƣơng bằng những thông điệp gần gũi và thiết thực, góp phần đƣa chủ

trƣơng, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đi vào cuộc sống. Riêng công

tác giảm nghèo là một trong những chƣơng trình mục tiêu quốc gia quan trọng, liên

quan trực tiếp đến ngƣời dân nên đƣợc thông tin với tuần suất cao. Tin, bài liên quan

đến công tác giảm nghèo xuất hiện khá nhiều trên sóng Đài truyền thanh cấp huyện.

TT Nội dung thông tin về chính sách giảm Tin bài TS Tỷ lệ

nghèo

1 Chính sách hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc 347 43 390 64,6%

làm, tăng thu nhập cho ngƣời nghèo

2 Chính sách hỗ trợ về giáo dục và đào tạo cho 33 4 37 6,1%

ngƣời nghèo

3 Chính sách hỗ trợ về y tế và dinh dƣỡng 44 3 47 7,8%

4 Chính sách hỗ trợ về nhà ở 53 4 57 9,5%

5 Chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo tiếp cận các 21 1 22 3,6%

dịch vụ hỗ trợ pháp lý

6 Chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo hƣởng thụ văn 16 16 2,6%

hóa thông tin

7 Chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù 30 5 35 5,8%

544 60 604 Cộng

Bảng 2.1: Kết quả khảo sát nội dung thông điệp truyền thông về chính sách

giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện trong năm 2019

34

Qua khảo sát 2.301 tin, bài phát thanh hằng ngày trên sóng 3 đài truyền thanh

huyện trong tỉnh Cà Mau năm 2019; có 604 tin, bài liên quan đến giảm nghèo,

chiếm 26,24% so tổng số tin, bài đã phát. Trong đó: Đài truyền thanh huyện Thới

Bình 20,1%; Đài truyền thanh huyện Cái Nƣớc 32,9%; Đài truyền thanh huyện Phú

Tân 24,7%. Nhƣ vậy, trong 3 đơn vị khảo sát; Đài Truyền thanh huyện Cái Nƣớc có

250

200

150

100

50

0

Cái Nƣớc

Thới Bình

Phú Tân

Hỗ trợ giáo dục đào tạo

Hỗ trợ SX, dạy nghề

Hỗ trợ y tế

Hƣởng thụ văn hóa thông tin

Hỗ trợ nhà ở

Tiếp cận dịch vụ pháp lý

Hỗ trợ giảm nghèo đặc thù

tần suất xuất hiện tin, bài về giảm nghèo khá cao.

Biểu đồ 2.2: Kết quả khảo sát nội dung thông điệp truyền thông về chính sách giảm

nghèo trên sóng các đài truyền thanh huyện trong năm 2019

2.2. Những nội dung chính đƣợc thể hiện:

Thông tin về giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện đƣợc thể hiện khá

phong phú và đa dạng, phản ánh đƣợc bức tranh sinh động trong công tác giảm

nghèo ở cơ sở; bộ mặt kinh tế-xã hội và đời sống ngƣời dân ở địa phƣơng. Lồng

ghép phổ biến chủ trƣơng, chính sách giảm nghèo là những mô hình hay, cách làm mới

trong công tác thực thi chính sách giảm nghèo. Nội dung thông tin về giảm nghèo trên

đài truyền thanh huyện đƣợc khảo sát qua 7 nội dung thể hiện ở bảng 2.1 trên.

Tuy nhiên, trong đó, có 3 lĩnh vực có tần suất xuất hiện thƣờng xuyên, liên tục

trên sóng. Đó là thông tin về: chính sách hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc làm, tăng

thu nhập cho ngƣời nghèo; chính sách hỗ trợ nhà ở; chính sách hỗ trợ về y tế cho ngƣời

35

nghèo. Các nội dung còn lại xuất hiện ít hơn, nhƣ: hỗ trợ về giáo dục đào tạo, văn hóa

thông tin, tiếp cận các dịch vụ pháp lý, chính sách giảm nghèo đặc thù…

2.2.1. Nội dung thông tin về chính sách hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc làm,

tăng thu nhập cho người nghèo

Đây là nội dung xuyên suốt, chiếm đến 64,6% trong tổng số tin, bài liên quan

đến chính sách giảm nghèo trên sóng Đài truyền thanh cấp huyện trong tỉnh Cà

Mau. Trong đó, nội dung này chiếm 75% ở Đài Truyền thanh Cái Nƣớc ( 209 tin,

bài); 65% ở Đài Truyền thanh huyện Phú Tân ( 115 tin, bài) và 45% ở Đài Truyền

thanh huyện Thới Bình ( 66 tin, bài). (thể hiện trong Biểu đồ 2.1)

Trước hết là việc phổ biến và thực hiện các chủ trương, chính sách giảm

nghèo: nhất là các chƣơng trình lồng ghép giảm nghèo bền vững với xây dựng nông

thôn mới. Nổi bật là các giải pháp thực hiện Quyết định 1722/QĐ-TTg của Thủ

tƣớng Chính phủ phê duyệt chƣơng trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững

giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 53 của UBND tỉnh Cà Mau thực hiện Quyết định

1722/QĐ-TTg. Trong đó, thông tin chủ yếu là phổ biến, thực hiện các chính sách hỗ

trợ tín dụng ƣu đãi hộ nghèo, cận nghèo; chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp,

nông thôn, chuyển giao kỹ thuật sản xuất; công tác đào tạo nghề, giải quyết việc

làm; hỗ trợ các điều kiện sản xuất và đời sống .v.v.

Các thông tin phần lớn đƣợc lồng ghép thông qua các chƣơng trình hoạt

động cụ thể, nhƣ: triển khai các giải pháp từ các cuộc hội nghị, chƣơng trình hoạt

động của các ngành, các đơn vị, địa phƣơng…Ví dụ: tin “Hỗ trợ dạy nghề, giải

quyết việc làm cho thanh niên nông thôn theo đề án 1956 của Thủ tƣớng Chính phủ,

(Mỹ Hằng, Đài Truyền thanh huyện Thới Bình, ngày 24/10/2019): “Thực hiện đề án

đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956 của Chính phủ; mục

tiêu của Ban chấp hành Huyện Đoàn Thới Bình đưa ra là trong năm 2019 sẽ kết

hợp đào tạo nghề cho 500 thanh niên; tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho 2.500 thanh

thiếu niên; giới thiệu và giải quyết việc làm cho 450 thanh niên. Đồng thời, nhận

giúp đỡ 44 hộ nghèo và 24 hộ cận nghèo…”. Qua đó, vừa tuyên truyền Quyết định

1956 đi vào cuộc sống, vừa phối hợp các ngành, các cấp thực hiện chƣơng trình đào

36

tạo nghề cho lao động nông thôn có hiệu quả. Chƣơng trình này đã phổ biến rộng

rãi, giúp lao động nghèo ở nông thôn tìm đƣợc việc làm ổn định tại chỗ hoặc đi tìm

việc làm ở các khu công nghiệp ngoài tỉnh, góp phần giảm nghèo hiệu quả.

Bài viết “Hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn” (Anh Phan, Đài

Truyền thanh Phú Tân, ngày 16/10/2019) đã cho thấy sự nỗ lực tích cực của cấp ủy,

chính quyền, đoàn thể ở địa phƣơng trong thực hiện chính sách dạy nghề cho ngƣời

lao động nghèo ở nông thôn theo Quyết định 1956 của Thủ tƣớng Chính phủ. Trong

đó, một số ngành nghề phù hợp đƣợc triển khai cho ngƣời lao động nông thôn thực

hiện có thu nhập, nhƣ: sửa chữa xe mô tô, may mặc, kỹ thuật nuôi tôm, cá, heo, gà,

vịt, trồng hoa màu.v.v. Sau các khóa học, học viên đƣợc tiếp sức từ việc vay vốn

ngân hàng chính sách xã hội để làm ăn. Tiêu biểu nhƣ Anh Phan Minh Đƣơng, ấp

Chà Là, xã Phú Thuận, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau đƣợc hỗ trợ vay 40 triệu đồng

từ nguồn vốn giải quyết việc làm sau khóa học nuôi cua. Cuối vụ thu hoạch sau khi

trừ chi phí còn lãi 60 triệu đồng. Từ đó, anh thoát nghèo và giới thiệu bà con khác

làm theo.

Bài phỏng vấn ông Nguyễn Văn Kha, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Cái Đôi

Vàm, huyện Phú Tân (Hồng Tươi, Đài Truyền thanh huyện Phú Tân, ngày

08/01/2019) thông tin khá rõ chƣơng trình, kế hoạch của chính quyền địa phƣơng về

vấn đề tạo việc làm cho phụ nữ nghèo ven biển. Trong đó, chú trọng tạo việc làm tại

chỗ nhƣ: vá lƣới, lựa cá, chế biến cá khô,... để làm đƣợc điều này, lãnh đạo địa

phƣơng thông tin sẽ phối hợp tổ chức hƣớng dẫn, truyền đạt cách thức thực

hiện…liên kết các hộ sản xuất kinh doanh, các tổ hợp tác, hợp tác xã để giới thiệu

cho bà con vào làm việc có thu nhập. Đồng thời, tập huấn kỹ thuật trồng rau, nuôi

cá, nuôi tôm…tranh thủ với các ngành, đoàn thể hỗ trợ vay vốn để ngƣời nghèo làm

ăn, tạo nguồn thu nhập. Trên cơ sở đó, địa phƣơng cũng khảo sát, đánh giá thực

trạng nghèo và phân công cán bộ tiếp cận, tìm hiểu để có biện pháp giúp đỡ.

Theo đó là triển khai, thực hiện các chủ trƣơng, biện pháp giảm nghèo mang

tính đặc thù riêng của từng địa phƣơng, đơn vị. Nổi bật nhƣ mô hình phân công

đảng viên nhận giúp đỡ, hỗ trợ hộ nghèo; các cơ quan, đơn vị nhận giúp đỡ ấp có tỷ

37

lệ hộ nghèo cao. Có nhiều giải pháp tiếp sức khác nhau, nhƣ: tƣ vấn biện pháp làm

ăn, hỗ trợ vay vốn sản xuất, vận động các nhà tài trợ tiếp sức, giới thiệu việc làm

.v.v. Vấn đề này cũng đã đi vào nghị quyết, chỉ thị của các cấp ủy đảng, chính

quyền từ huyện đến cơ sở. Nhiều đảng viên, cán bộ, hội viên, doanh nghiệp, hộ sản

xuất kinh doanh có điều kiện kinh tế khá giả cũng tham gia giúp đỡ hộ nghèo. Qua

đó, lồng ghép phổ biến chủ trƣơng, chính sách về giảm nghèo; khuyến khích hộ

nghèo vƣơn lên …

Thông tin về giúp đỡ hộ nghèo ( Thanh Nhàn, Đài Truyền thanh huyện Cái

Nước, ngày 27/2/2019) nêu: … “Thực hiện Chương trình hành động của Huyện ủy

về đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 và định

hướng đến năm 2025; từ năm 2016 đến năm 2018, Ban thường vụ Huyện uỷ Cái

Nước ban hành ba quyết định phân công 23 đảng bộ, chi bộ trực thuộc Huyện uỷ

phụ trách giúp đỡ 17 ấp có tỷ lệ hộ nghèo trên 10% và 28 đảng bộ, chi bộ phụ trách

giúp đỡ 34 hộ nghèo, cận nghèo thuộc đối tượng chính sách và người có

công.”…Qua đó, vừa tiếp tục triển khai chủ trƣơng, chính sách của huyện Cái Nƣớc

về phân công hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo đi vào cuộc sống, vừa phát huy vai trò đảng

viên với nhân dân trong công tác giảm nghèo. Theo đó, là những giải pháp triển

khai đồng bộ; xác định rõ nhiệm vụ của đảng viên, của ngƣời nghèo phải thực hiện

trong chƣơng trình này.

Bài viết: “Tạo động lực cho hộ nghèo vƣơn lên” (Anh Phan, Đài truyền

thanh huyện Phú Tân, ngày 02/12/2019) chia sẻ kinh nghiệm thực hiện chủ trƣơng

của huyện về phân công đảng viên giúp đỡ hộ nghèo vƣơn lên ở xã Việt Thắng,

huyện Phú Tân. Cụ thể là anh Nguyễn Thanh Tâm, ở ấp Má Tám, xã Việt Thắng,

huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau, có đất sản xuất nhƣng chƣa chí thú làm ăn, ham ăn

chơi hơn ham làm nên nghèo vẫn hoàn nghèo và ỷ lại, trông chờ sự hỗ trợ. Xác định

điều đó; cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở địa phƣơng đã vào cuộc. Trƣớc mắt là

phân tích, động viên, nhắc nhở, kiểm tra, đôn đốc…đồng thời, huy động nguồn vốn

hỗ trợ anh Tâm hơn 60 triệu đồng, tiếp sức cất lại căn nhà, đầu tƣ mua con giống

tôm, gà, vịt để sản xuất, chăn nuôi; hỗ trợ mua phƣơng tiện làm ăn…và chỉ ra cho

38

anh cách làm, cử cán bộ hƣớng dẫn và kiểm tra, nhắc nhở hàng tháng. Với sự tác

động dần dần, anh tâm ít nhậu nhẹt và chăm làm hơn, tích cực chăm sóc mãnh

vƣờn, thửa ruộng, nuôi gà, nuôi vịt hiệu quả hơn. Năm 2019, anh Tâm thoát nghèo,

đƣợc cấp ủy, chính quyền nêu gƣơng tiêu biểu.

Cùng chủ đề này, bài viết “Vai trò của đảng viên trong công tác giảm

nghèo” ( Hồng Tươi, Đài truyền thanh Phú Tân, ngày 5/11/2019) đã phân tích khá

sâu vai trò của cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc vận động, hỗ trợ, đôn

đốc, nhắc nhở và tiếp sức cho hộ nghèo. Đó là tranh thủ các nguồn vốn vay ƣu đãi

cho hộ nghèo, vận động các nhà hảo tâm hỗ trợ về nhà ở cho hộ nghèo, tìm hiểu

nguyên nhân nghèo và tƣ vấn biện pháp làm ăn; đảng viên, hội viên các đoàn thể ở

địa phƣơng góp vốn giúp đỡ cho hộ nghèo mua cây, con giống để sản xuất, chăn

nuôi. Đồng thời, giao chi bộ, đảng viên ở ấp thƣờng xuyên kiểm tra, nhắc nhở và

động viên, hƣớng dẫn hộ nghèo thực hiện. Có đảng viên còn cho mƣợn đất để hộ

nghèo canh tác. Tiêu biểu nhƣ đảng viên: Nguyễn Thị Hạnh, ở xã Phú Thuận, huyện

Phú Tân qua 10 năm thực hiện, đã giúp cho 10 hộ thoát nghèo từ việc hỗ trợ đất

trồng hoa màu, giới thiệu làm nghề may tại chỗ, làm bánh kẹo để bán…cơ bản là

kích thích ý chí tự lực vƣơn lên của ngƣời nghèo. Từ đó, vừa tạo sự đoàn kết giữa

đảng với dân, vừa tạo động lực để hộ nghèo vƣơn lên. Tỷ lệ hộ nghèo huyện Phú

Tân đến cuối năm 2019 còn 1,98%. Nhiều xã đã giảm hộ nghèo khá thấp. Có xã chỉ

0,6%. 4 ấp không còn hộ nghèo.

Thứ hai là sự phổ biến những mô hình sản xuất phù hợp với địa phương,

giúp ngƣời nghèo có thể áp dụng để sản xuất, nhƣ: nuôi cá nƣớc ngọt, trồng hoa

màu, cây ăn trái, nuôi trăn, heo, gà, vịt …nhiều cựu chiến binh ở xã Thạnh Phú và

thị trấn Cái Nƣớc, huyện Cái Nƣớc đã thoát nghèo từ các mô hình này. Bài viết:

“Cựu chiến binh Cái Nƣớc tiên phong trong cuộc chiến giảm nghèo” ( Minh Kha,

Đài Truyền thanh Cái Nước, ngày 23/5/2019). Bài viết “Nông dân Cái Chim quyết

không để đất hoang, vƣờn tạp” (Kim Út, Đài Truyền thanh huyện Cái Nước, ngày

5/3/2019) một lần nữa khẳng định sự nỗ lực của ngƣời dân trong quá trình cải tạo

vƣờn tạp, đất hoang để trồng hoa màu, cây ăn trái góp phần giảm nghèo. Tin “Cái

39

Nƣớc có 164/230 hộ thoát nghèo sau 2 năm đƣợc hỗ trợ nguồn vốn thí điểm giảm

nghèo của huyện” ( Thanh Nhàn, Đài Truyền thanh Cái Nước, ngày 13/3/2019)

đánh giá ý thức tự lực vƣơn lên của ngƣời nghèo sau khi đƣợc hỗ trợ vốn thí điểm

sản xuất để giảm nghèo theo chƣơng trình của huyện. Hơn 70% hộ thoát nghèo qua

chƣơng trình này. Nhờ đồng vốn và sự tác động, ngƣời nghèo đã có ý chí vƣơn lên,

vƣợt khó.

Thứ ba, tích cực nhân rộng, phổ biến những tấm gương vượt khó thoát

nghèo. Bài viết: “Ấp Tabasa 3 xóa trắng hộ nghèo” ( Mỹ Hằng, Đài truyền thanh

huyện Thới Bình, ngày 18/11/2019). Ở đó, ngƣời dân đã biết chia sẻ nhau kinh

nghiệm làm ăn, hỗ trợ nhau các điều kiện sản xuất để giảm nghèo một cách thiết

thực và bền vững. Họ đã không còn tƣ tƣởng trông chờ, ỷ lại mà đã biết tự lực vƣơn

lên bằng chính sức lao động, chính mãnh vƣờn, thửa ruộng của mình. Đáng nói, đây

là hiệu quả từ việc triển khai các chƣơng trình hỗ trợ ƣu đãi cho hộ Khơ-me nghèo,

giúp họ an cƣ và chính quyền địa phƣơng còn huy động nguồn lực, hỗ trợ về giống,

vốn, cách thức làm ăn..để bà con lạc nghiệp. Một số bài viết nêu ở phần trên cũng

lồng ghép nêu gƣơng, phổ biến những điển hình tiêu biểu trong việc giảm nghèo,

nhƣ: Anh Phan Minh Đƣơng, ấp Chà Là, xã Phú Thuận, huyện Phú Tân; anh

Nguyễn Thanh Tâm, ở ấp Má Tám, xã Việt Thắng, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Thứ tư là thông tin về việc hỗ trợ, quà vật và các điều kiện cần thiết cho hộ

nghèo trong cuộc sống, sản xuất nhƣ: cây con giống, thực phẩm, phƣơng tiện làm

ăn. Theo đó là những hoạt động kích cầu cho kinh tế, xã hội vùng nghèo nhƣ: hỗ trợ

xây cầu giao thông, làm đƣờng, khoan giếng nƣớc, tặng bồn chứa nƣớc cho ngƣời

nghèo vùng biển…Bài viết “Cái Nƣớc chung tay thực hiện chính sách an sinh xã

hội” ( Thanh Nhàn, Đài Truyền thanh huyện Cái Nước, ngày 4/2/ 2019) cho biết:

trong năm 2019, tổng trị giá hỗ trợ cho hộ nghèo trên địa bàn huyện Cái Nƣớc từ

các nhà hảo tâm bằng vật chất, tiền mặt hơn 26 tỷ đồng. Đó là nguồn vận động từ

những tấm lòng nhân ái cả trong và ngoài nƣớc; tạo động lực cho hộ nghèo vƣơn

lên và góp phần cùng địa phƣơng thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội.

40

Theo đó, còn nhiều nội dung khác thể hiện khá phong phú trên các đài truyền

thanh huyện; thể hiện đƣợc vai trò của cấp ủy, chính quyền trong việc cụ thể hóa

chính sách giảm nghèo phù hợp với địa phƣơng; kích thích đƣợc ý thức vƣơn lên

của ngƣời nghèo, là động lực để giảm nghèo bền vững.

2.2.2. Nội dung thông tin về chính sách hỗ trợ về nhà ở:

Thông tin về chính sách hỗ trợ nhà ở cho ngƣời nghèo là một trong những đề

tài đƣợc khai thác, phổ biến hiệu quả trên sóng đài truyền thanh cấp huyện. Nội

dung thông này chiếm 9,5% trong tổng số tin bài về giảm nghèo và là nội dung có

số lƣợng tin, bài nhiều thứ hai trên sóng đài truyền thanh huyện ( thể hiện trong

biểu đồ 2.1). Trong đó, phổ biến là việc thực hiện các chính sách, chƣơng trình cất

nhà theo Quyết định 33/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về chính sách hỗ

trợ nhà ở đối với hộ nghèo; Quyết định 134/2004/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ

trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nƣớc sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số

nghèo, đời sống khó khăn. Đó là những chƣơng trình hỗ trợ nhà ở của các tổ chức

đoàn thể, nhƣ: Nhà đồng đội của Cựu chiến binh; Nhà khăn quàng đỏ của Đội thiếu

niên tiền phong Hồ Chí Minh; Mái ấm công đoàn của Liên đoàn lao động, Nhà tình

thƣơng của Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên .v.v.

Thực hiện chƣơng trình 134, 135 triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ

ngƣời nghèo từ những dự án, chƣơng trình mang tính đặc thù hỗ trợ về nhà ở tái

định cƣ kết hợp, nƣớc sạch, đƣờng nông thôn, học tập… mà đời sống cƣ dân ven

biển có chuyển biến tích cực. Bài viết: “Xuân ấm Gò Công” ( Anh Phan, Đài

Truyền thanh huyện Phú Tân, ngày 31/12/2019 ) đã ghi nhận sự đổi thay tích cực về

đời sống ngƣời Khơ-me ở ấp Gò Công, xã Nguyễn Việt Khái, huyện Phú Tân. Nhờ

dự án nhà tái định cƣ và hỗ trợ sinh kế vùng nghèo khó khăn đã đầu tƣ nhà ở kết

hợp điện, đƣờng khang trang, có trƣờng học, có nƣớc sạch, hỗ trợ vốn làm ăn…mà

từ cuộc sống mò cua, bắt ốc đến nay, nhiều bà con Khơ-me ở đây đã phát triển thấy

rõ, nhiều hộ mua sắm đƣợc phƣơng tiện đi biển, kinh tế phát triển, con em học hành

đàng hoàng. Từ một ấp có tỷ lệ hộ nghèo hơn 10% năm 2018 đến cuối 2019 đã

giảm nghèo chỉ còn hơn 6%.

41

Bài viết: “Đông Thới chăm lo đời sống đồng bào Khơ-me: ( Minh Kha, Đài

Truyền thanh Cái Nước, ngày 11/4/2019) cho hay: Thực hiện chƣơng trình 134 kết

hợp cất nhà theo Quyết định 33 của Thủ tƣớng Chính phủ; Anh Trần Minh Trung,

ấp Khánh Tƣ xã Đông Thới, huyện Cái Nƣớc đƣợc hỗ trợ 5.000 mét vuông đất sản

xuất, một căn nhà trị giá gần 60 triệu từ vốn nhà nƣớc hỗ trợ, vốn vay ƣu đãi, bà con

đóng góp, gia đình bổ sung. Anh Trung đã thoát nghèo trong vòng một năm. Đó là

thƣớc đo hiệu quả khi chủ trƣơng, chính sách đi vào cuộc sống. Ngƣời dân đã biết

tự lực vƣơn lên, không trông chờ, ỷ lại, góp phần cho đời sống ngày càng phát triển.

Đó còn là ý chí phấn đấu vƣơn lên của hộ nghèo với sự tiếp sức của cộng

đồng xã hội. Bài viết “Vƣơn lên từ mái ấm tình thƣơng” ( Thúy Nga, Đài truyền

thanh huyện Phú Tân, ngày 20/10/2019) cho thấy: vai trò của hội phụ nữ cơ sở

trong việc giúp nhau giảm nghèo. Bằng nguồn tiền tích lũy của hội viên góp lại, các

chị đã hỗ trợ, tiếp sức cho phụ nữ nghèo cất nhà và làm vốn sản xuất, buôn bán. Từ

đó, nhiều chị em thoát nghèo hiệu quả. Các cấp hội thể hiện tốt vai trò của mình

trong thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở cho ngƣời nghèo.

Bài viết “Xã Tân Hƣng đẩy mạnh giúp dân giảm nghèo” ( Minh Kha, Đài

Truyền thanh huyện Cái Nước, ngày 17/5/2019) cũng thể hiện vai trò tích cực của

cấp ủy, chính quyền trong việc chung tay hỗ trợ nhà ở, biện pháp làm ăn, giúp nhiều

hộ thoát nghèo. Ông Nguyễn Minh Tho và bà Phạm Trúc Ly, ấp Tân Hiệp, xã Tân

Hƣng, huyện Cái Nƣớc đƣợc tiếp sức cất nhà ở, đƣợc hỗ trợ làm ăn và thoát nghèo.

Những thông tin lồng ghép thông qua các sự kiện nhƣ: lãnh đạo các cấp dự lễ

bàn giao nhà cho ngƣời nghèo và có những chỉ đạo, thăm hỏi; đã có tác động tích

cực trong việc động viên ngƣời nghèo vƣợt khó và phát huy phong trào đi vào chiều

sâu. Tin “ Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Trần Hồng Quân, đến dự lễ bàn giao

nhà cho hộ nghèo ở xã Hƣng Mỹ” ( Việt Tiến, Đài truyền thanh Cái Nước, ngày

23/3/2019) có đoạn … “Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Trần Hồng Quân động

viên gia đình sớm ổn định nơi ở, tăng gia sản xuất. Đồng thời khẳng định: sẽ triển

khai tích cực chương trình cất nhà cho người nghèo theo Quyết định 33 của Thủ

tướng Chính phủ trên tinh thần Nhà nước hỗ trợ, cho vay lãi suất thấp và huy động

42

người thân, gia đình, xã hội góp sức thêm.”… cho thấy vai trò của cấp ủy, chính

quyền trong việc triển khai thực hiện chƣơng trình cất nhà theo Quyết định 33 của

Thủ tƣớng Chính phủ. Trong đó, phổ biến rõ trách nhiệm của Nhà nƣớc, gia đình,

cộng đồng xã hội trong việc cùng tiếp sức cho hộ nghèo. Một hình thức truyền

thông rõ nét trong việc lồng ghép kêu gọi xã hội cùng với Nhà nƣớc chung tay tiếp

sức cho ngƣời nghèo về nhà ở theo Quyết định 33 của Thủ tƣớng Chính phủ.

Đó còn là thông tin về những gia cảnh khó khăn để kêu gọi sự chung tay

giúp đỡ của xã hội. Bản thân họ đã rất phấn đấu nhƣng do nhiều lý do khác nhau

nhƣ: bệnh tật, không tƣ liệu sản xuất, thiên tai, thất mùa nên nghèo vẫn hoàn nghèo.

Qua đó, tác động và kêu gọi xã hội chung tay hỗ trợ để họ vƣơn lên. Bài viết: “Ƣớc

mơ một căn nhà” ( Thúy Nga, Đài Truyền thanh huyện Phú Tân, ngày 3/8/2019 ) đã

tìm hiểu và phân tích khá rõ nguyên nhân nghèo của một gia đình 3 thế hệ ngƣời

Khơ-me đó là bệnh tật, thiếu lao động chính, thiếu tƣ liệu sản xuất. Từ đó, kêu gọi

cộng đồng xã hội chung tay tiếp sức để bà con có căn nhà ở, an tâm sản xuất.

Thông tin về chính sách hỗ trợ nhà ở cho ngƣời nghèo thể hiện ở việc triển

khai, thực hiện các chƣơng trình kết hợp sự hỗ trợ của Nhà nƣớc và cộng đồng xã

hội, chung tay giúp đỡ hộ nghèo an cƣ. Thông tin phần lớn thiên về những tập thể,

cá nhân thực hiện tốt chính sách hỗ trợ nhà ở, và vƣơn lên từ chƣơng trình này.

2.2.3. Nội dung thông tin về chính sách hỗ trợ về y tế và dinh dưỡng

Nội dung thông tin chính sách hỗ trợ về y tế, dinh dƣỡng chiếm 7,8% so tổng

số tin, bài liên quan đến giảm nghèo và là nội dung có số lƣợng tin bài nhiều thứ ba

trên sóng đài truyền thanh huyện ( thể hiện trong biểu đồ 2.1). Tin, bài thể hiện nội

dung này thƣờng tập trung ở lĩnh vực: hỗ trợ ngƣời nghèo về việc khám chữa bệnh,

bảo hiểm y tế, các chƣơng trình nƣớc sạch, phòng chống dịch bệnh, hiến máu nhân

đạo …triển khai Luật bảo hiểm y tế và các văn bản khác liên quan thông qua

chuyên mục Sức khỏe và đời sống hoặc Pháp luật và đời sống của các đài truyền

thanh huyện. Cụ thể hóa những văn bản, chủ trƣơng, chỉ đạo của địa phƣơng về

công tác chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm y tế…Các chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế

miễn phí cho ngƣời thuộc hộ nghèo, hỗ trợ một phần hoặc vận động các nhà tài trợ

43

về bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo…mô hình góp tiền mua bảo hiểm y tế cho hộ

khó khăn của các tổ chức đoàn thể .v.v. Đồng thời, triển khai các chƣơng trình

phòng, chống dịch bệnh cho ngƣời dân nói chung, vùng nghèo, hộ nghèo nói riêng

bằng các biện pháp thiết thực, rẻ tiền nhƣ: vệ sinh nhà cửa, cá nhân; ăn chín uống

chín; nuôi cá bảy màu diệt lăng quăng phòng bệnh sốt xuất huyết; hoạt động khám

chữa bệnh cho ngƣời nghèo.v.v.

Nhờ đầu tƣ trang thiết bị y tế, đào tạo và tăng cƣờng đội ngũ y, bác sĩ về

tuyến y tế cơ sở; đến nay, 100% trạm y tế trong huyện Phú Tân đã đạt chuẩn quốc

gia. Từ đó, việc triển khai các chƣơng trình y tế quốc gia, phòng chống dịch bệnh

cũng nhƣ chất lƣợng khám, chữa bệnh tại tuyến y tế cơ sở đã đƣợc nâng lên. Tạo sự

hài lòng cho bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo, điều kiện đi lại khó khăn; giảm

đáng kể tình trạng bệnh phải chuyển tuyến trên không cần thiết. Từ đó, giúp ngƣời

dân vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, ven biển đƣợc tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm

sóc sức khỏe tốt hơn. Bài viết “Tạo sự hài lòng cho bệnh nhân từ tuyến y tế cơ sở”

( Anh Phan, Đài Truyền thanh Phú Tân, ngày 10/5/2019) thể hiện rõ điều này. Tinh

thần, thái độ phục vụ ngƣời dân có chuyển biến tích cực cũng tạo cơ sở cho ngƣời

dân an tâm, tin tƣởng trong điều trị; dần dần xóa bỏ quan niệm về sự phân biệt, đối

xử trong khám, điều trị dịch vụ và điều trị bảo hiểm. 100% hộ nghèo, cận nghèo

trong huyện đƣợc hỗ trợ 100%, hỗ trợ một phần để mua bảo hiểm y tế. Theo đó, hệ

thống y tế cơ sở từng bƣớc phát triển nên nhu cầu chăm sóc sức khỏe của ngƣời

nghèo cơ bản đáp ứng tốt.

Ngoài ra, đài truyền thanh cấp huyện cũng thƣờng xuyên thông tin các

chƣơng trình kết hợp khám, chữa bệnh miễn phí cho ngƣời nghèo đƣợc tổ chức

bằng nguồn quỹ hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nêu gƣơng nhằm thông

tin rộng rãi để tiếp tục kêu gọi các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện chƣơng trình

chăm sóc sức khỏe cho ngƣời nghèo. Qua đó, tạo điều kiện để hộ nghèo đƣợc tiếp

cận các dịch vụ khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe; tạo công bằng trong việc

hƣởng thụ dịch vụ y tế, góp phần thực hiện có hiệu quả việc triển khai chính sách

hỗ trợ về y tế cho hộ nghèo. Tin “Thới Bình khám bệnh, tặng quà và khánh thành

44

cầu giao thông” ( Minh Phong, Đài Truyền thanh Thới Bình, ngày 24/12/2019)

thông tin có hơn 500 ngƣời đƣợc khám, cấp thuốc miễn phí. Qua đó, còn kết hợp

tặng quà cho 200 ngƣời nghèo, khánh thành các cây cầu giao thông phục vụ đi lại.

Các chƣơng trình này diễn ra thƣờng xuyên kết hợp hoạt động chăm sóc sức khỏe

ngƣời dân lƣu động là hoạt động xây cầu, cất nhà cho ngƣời nghèo, tặng quà cho

ngƣời nghèo, học sinh vùng nghèo .v.v. là những chuỗi hoạt động thiết thực vì

ngƣời nghèo.

Bài viết: “Phụ nữ tiết kiệm mua bảo hiểm y tế” ( Thúy Kiều, Đài truyền

thanh Cái Nước, ngày 04/4/2019) thông tin: thực hiện các chƣơng trình hỗ trợ hội

viên, phụ nữ nghèo, cận nghèo, khó khăn, hộ mới thoát nghèo… do Hội liên hiệp

phụ nữ tỉnh chủ trƣơng; các cấp hội phụ nữ phát động, thực hiện phong trào góp

vốn mua bảo hiểm y tế. Hằng tháng, các tổ thực hiện góp vốn mỗi thành viên 50

ngàn đồng, đủ để một đến 2 ngƣời mua bảo hiểm y tế. Trong đó, ƣu tiên cho những

ngƣời đến hạn phải mua, hội viên là hộ cận nghèo, khó khăn. Cứ thế xoay vòng trong

hội viên. Đây là một chƣơng trình thiết thực đi vào cuộc sống, phát huy tinh thần đoàn

kết, chia sẻ nhau khi khó khăn; góp phần giảm tỷ lệ nghèo phát sinh, tái nghèo.

Theo đó, đài truyền thanh các huyện cũng thông tin rộng rãi các sự kiện

truyền thông về phòng chống bạo lực, chống xâm hại về sức khỏe, tinh thần của phụ

nữ và trẻ em do các hội đoàn thể tổ chức. Qua đó, nhằm kêu gọi sự quan tâm, vào

cuộc của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phƣơng và toàn xã hội. Đặc biệt là các

tổ chức Hội, hội viên phụ nữ hãy mạnh mẽ tố giác các hành vi xâm hại đến quyền

và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em, nhất là phụ nữ, trẻ em nghèo. Bài viết

“Hội phụ nữ tổ chức sự kiện truyền thông bảo vệ phụ nữ và trẻ em tại Thới Bình”

(Liêu Hỏn, Đài Truyền thanh Thới Bình, ngày 18/12/2019)

Có thể nói, với tính địa phƣơng gần gũi và tiện dụng của mình; tin, bài trên

đài truyền thanh cấp huyện đã phổ biến và lan tỏa đến tận hang cùng, ngõ hẻm,

vùng sâu, vùng xa; mang nhiều thông tin thiết thực đến với ngƣời dân, nhất là công

tác giảm nghèo. Tin, bài về giảm nghèo thể hiện đa dạng về nội dung trên sóng đài

truyền thanh huyện từ nhiều góc độ khác nhau, khai thác nhiều khía cạnh khác nhau

45

trong thực hiện chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo về việc làm, phát triển kinh tế nông

nghiệp nông thôn, về y tế, giáo dục, hỗ trợ nhà ở, tiếp cận pháp luật, văn hoá tinh

thần.v.v. Ở đó, vai trò của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở địa phƣơng thể hiện một

cách rõ nét trong việc triển khai và thực thi chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo. Tiêu

biểu nhƣ việc phân công các tổ chức, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên hỗ trợ giúp

đỡ ngƣời nghèo làm ăn để vƣơn lên của tỉnh Cà Mau. Các hình thức giúp hộ nghèo

rất đa dạng nhƣ: hỗ trợ vốn và các điều kiện sản xuất, cây, con giống, tiền bạc; tập

huấn kỹ thuật, hƣớng dẫn biện pháp làm ăn; giới thiệu việc làm tại các cơ sở sản

xuất, kinh doanh, doanh nghiệp; tạo việc làm thuộc lĩnh vực nông nghiệp .v.v. Đài

truyền thanh huyện khai thác khá sâu khía cạnh này, vừa góp phần thực hiện tốt

nhiệm vụ chính trị đƣợc giao, vừa đƣa công tác truyền thông về giảm nghèo đi vào

chiều sâu. Cùng với đó, là kịp thời phổ biến những tấm gƣơng vƣợt khó để động

viên, cỗ vũ phong trào; nêu gƣơng tập thể, cá nhân có thành tích trong việc hỗ trợ

ngƣời nghèo…nhằm kêu gọi cộng đồng xã hội chung tay, tiếp sức cho ngƣời nghèo.

Qua những nội dung thiết thực đó, giúp ngƣời dân từng bƣớc hiểu đƣợc chủ

trƣơng, chính sách; nâng cao ý thức tự lực vƣơn lên và học hỏi kinh nghiệm giảm

nghèo; phản ánh sinh động bức tranh giảm nghèo, kích thích xã hội chung tay tiếp

sức cho hộ nghèo, góp phần giảm nghèo bền vững, với nhiều nội dung thiết thực

không thể liệt kê hết đƣợc trong phạm vi đề tài.

2.3. Những hình thức chuyển tải nội dung thông điệp

Thông điệp truyền thông về giảm nghèo trên sóng truyền thanh các huyện

trong diện khảo sát đƣợc thể hiện dƣới nhiều thể loại nhƣ: tin, bài, phóng sự, gƣơng

ngƣời tốt việc tốt, chuyên đề giới thiệu chính sách pháp luật về giảm nghèo …

nhƣng chủ yếu ở hai dạng cơ bản là tin và bài viết.

2.3.1. Tin

Tin về giảm nghèo tái hiện lại và chia nhỏ những hoạt động giảm nghèo của

các địa phƣơng trong một thời gian nào đó; chủ yếu tƣờng thuật, phản ánh, thông

báo sự việc về hoạt động hỗ trợ ngƣời nghèo, tặng quà cho ngƣời nghèo, bàn giao

nhà, xây cầu, hỗ trợ dụng cụ sản xuất, hay đơn giản kết quả chỉ đạo công tác giảm

46

nghèo đã làm đƣợc từ báo cáo của các ngành. Thể hiện chủ yếu ở các thể loại tin cơ

bản sau:

Tin tường thuật sự kiện: Tin này phổ biến thông tin các cuộc hội họp; công

tác chỉ đạo của lãnh đạo; hoạt động bàn giao nhà, xây cầu giao thông, khoan giếng

nƣớc, tặng quà, khám bệnh cho ngƣời nghèo…Tin thƣờng bắt đầu bằng thời gian,

địa điểm, ai làm làm việc gì, nhƣ thế nào, kết quả, ý nghĩa của nó, ý kiến chỉ đạo, ý

kiến hứa hẹn .v.v. Theo mô típ, nhƣ: Ngày …, tại xã X, đồng chí chủ tịch A đến dự

lễ khánh thành, bàn giao nhà tại ấp Y. Nhà có giá trị đầu tư…triệu đồng, do đơn vị

Z tài tài trợ và huy động xã hội, gia đình bổ sung thêm. Phát biểu tại lễ bàn giao,

đồng chí A đánh giá cao sự đóng góp của nhà tài trợ, người dân. Đồng thời kêu gọi

tiếp tục hỗ trợ. Đại diện đơn vị Z, ông T hứa hẹn…Ông U, người dân hưởng lợi vui

mừng nói …và cho biết sẽ phấn đấu sản xuất để giảm nghèo. Phần lớn tin tƣờng

thuật trên sóng đài truyền thanh huyện đi theo mô típ này.

Tin phản ánh: ghi nhận những cố gắng, nỗ lực vƣơn lên của ngƣời nghèo từ

những mô hình làm ăn nào đó; thông tin về gia cảnh khó khăn của ngƣời nghèo để

kêu gọi hỗ trợ tiếp sức cho họ vƣơn lên trong cuộc sống. Số ít tin tức cũng phản ánh

những yếu kém trong hoạt động giảm nghèo nhƣng chỉ nói chung chung theo kiểu

“không gây ảnh hƣởng ai”; đại loại công tác này còn hạn chế, tiến độ kia còn chậm,

lĩnh vực nọ chƣa đồng bộ, hoạt động kia còn bất cập .v.v.

Tin báo cáo kết quả: dạng tin này xuất hiện phổ biến và chiếm đa số trong

các tin liên quan vấn đề giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện. Chủ yếu

phóng viên viết dựa vào báo cáo thành tích của các đơn vị, cơ quan hay qua thông

tin từ những ngƣời có chức trách. Tin thƣờng nêu những con số về kết quả làm

đƣợc, ví nhƣ: xã nọ, huyện kia giảm đƣợc bao nhiêu hộ nghèo, sau đó nêu giải

pháp, định hƣớng tới; hoặc tổng hợp những chƣơng trình đã hỗ trợ cho ngƣời nghèo

và nêu ý nghĩa, kêu gọi hỗ trợ thêm.

Hình thức thể hiện tin cũng khá đa dạng. Phần lớn tin thể hiện theo cấu trúc

hình tháp ngƣợc. Đảm bảo các yếu tố (5W+1H), nhƣ: cái gì, ai, ở đâu, khi nào, tại

sao và nhƣ thế nào,… Ngoài ra, một số đơn vị cũng thực hiện lồng tiếng nói của

47

nhân vật vào tin ngắn ( Tin thu thanh) nhằm tạo tính sinh động, chân thực của thông

tin; khẳng định vai trò chỉ đạo của lãnh đạo tại một cuộc hội họp, cuộc làm việc,

bàn giao nhà, khởi công công trình vì ngƣời nghèo…; ý kiến nhà tài trợ về mục đích

ý nghĩa của một chƣơng trình cho ngƣời nghèo; sự vui mừng, cảm ơn cũng nhƣ

hƣớng phấn đấu của ngƣời nghèo khi đƣợc hỗ trợ trong sản xuất và đời sống…

2.3.2. Bài

Bài về giảm nghèo ( bao gồm cả bài chính luận và phóng sự) thƣờng đánh

giá sâu kết quả thực hiện chủ trƣơng giảm nghèo trong một thời gian và vai trò của các

bên nhƣ: nhà nƣớc, nhà hảo tâm, doanh nghiệp và bản thân ngƣời nghèo; đồng thời,

thông tin về những mô hình làm ăn có hiệu quả để giảm nghèo; sự cố gắng vƣơn lên

của ngƣời nghèo với sự tiếp sức của xã hội. Bài thể hiện ở các dạng cơ bản:

Phóng sự ghi nhận, phản ánh: thể hiện rõ trên đài truyền thanh huyện

là dạng bài viết ghi nhận khi một chủ trƣơng, chính sách đi vào cuộc sống. Nổi bật

nhất là chính sách phân công đảng viên hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo mà huyện nào

cũng có. Đó là việc triển khai đồng bộ các giải pháp để hỗ trợ ngƣời nghèo trong

các lĩnh vực: sản xuất, hƣởng thụ tinh thần, tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, văn

hóa văn nghệ, kết cấu hạ tầng nông thôn giúp ngƣời nghèo kết nối xã hội…Qua đó,

khẳng định vai trò lãnh, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền và hiệu quả tích cực khi

chính sách đi vào cuộc sống, ý chí tự lực vƣơn lên của ngƣời nghèo qua công tác

tuyên truyền vận động, qua sự giúp đỡ, tiếp sức của cấp ủy, chính quyền, cộng đồng

xã hội. Hoặc bài viết nêu những hạn chế trong thực hiện chính sách giảm nghèo ở

các địa phƣơng, đơn vị. Nhƣ đã nói, bài viết nêu hạn chế cũng rất ít và đánh giá

chung chung theo kiểu không làm ảnh hƣởng tới ai. Bài viết ghi nhận, phản ánh

thƣờng có nhân vật cụ thể. Phóng viên thƣờng theo mô típ: nêu cụ thể ông A, bà B

nghèo do hoàn cảnh khó khăn, thiếu vốn, thiếu tƣ liệu sản xuất, thiếu lao động hoặc

nghèo do ốm đau, bệnh tật, làm ăn thất bại, thiên tai .v.v. Thấy đƣợc điều đó, cấp

ủy, chính quyền, đoàn thể ở địa phƣơng vào cuộc triển khai thực hiện đồng bộ các

giải pháp giúp đỡ, huy động nguồn vốn hỗ trợ nhà cửa, hỗ trợ sản xuất làm ăn, giới

thiệu việc làm, cho mƣợn đất sản xuất, hỗ trợ phƣơng tiện làm ăn, mua bán, …Từ

48

sự giúp đỡ, động viên, hỗ trợ vốn…bản thân hộ nghèo đã vƣợt khó, vƣơn lên. Sau đó,

thông tin về trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và cuối cùng là phổ biến, nhân rộng.

Nêu gương người tốt việc tốt: đó là ghi nhận về những tấm gƣơng tiêu

biểu trong thực hiện chính sách giảm nghèo. Bao gồm: cán bộ, đảng viên gƣơng

mẫu thoát nghèo có cuộc sống khá khả và tuyên truyền, tiếp sức, động viên, hỗ trợ

ngƣời nghèo; gƣơng ngƣời nghèo có ý chí vƣợt khó vƣơn lên thoát nghèo từ chủ

trƣơng, chính sách và sự tiếp sức của cộng đồng xã hội, những hộ nghèo biết cách

làm ăn để vƣơn lên. Đối với cán bộ, đảng viên chủ yếu là những ngƣời tích cực vì

ngƣời nghèo. Đa số là những cá nhân có giải pháp tốt giúp đỡ hộ nghèo hoặc những

tấm gƣơng tích cực trong việc vận động xã hội giúp đỡ ngƣời nghèo…

Bài phân tích: bài dạng này thƣờng là những bài viết đánh giá kết quả

làm đƣợc, kinh nhiệm rút ra cho thời gian tới. Thông thƣờng, phóng viên viết dựa

vào báo cáo hoạt động giảm nghèo của đơn vị, cơ quan trong một giai đoạn nào đó,

với những kết quả nổi bật. Trong đó, sử dụng lời nói của ngƣời trong cuộc. Lãnh

đạo địa phƣơng hoặc ngƣời có trách nhiệm thì đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm,

nguyên nhân đạt đƣợc, hạn chế tồn tại, định hƣớng chỉ đạo tới. Ngƣời dân thì nhận xét

hiệu quả khi thực hiện những giải pháp đó, thông thƣờng cũng chỉ nêu mặt đạt đƣợc, sự

phấn khởi, đồng tình ủng hộ. Bởi điều đó sẽ mang lại lợi ích cho họ về cuộc sống vật

chất nâng lên, đƣợc chăm sóc sức khỏe tốt hơn, đi lại thuận tiện hơn .v.v.

Ngoài ra, một số đài còn sử dụng phỏng vấn cả lãnh đạo và ngƣời dân về lĩnh

vực giảm nghèo. Lãnh đạo chủ yếu là thông tin kết quả chỉ đạo giảm nghèo ở địa

phƣơng, đơn vị trong thời gian qua; giải pháp từ phía các ngành, các cấp và trách

nhiệm của các bên thực hiện. Phỏng vấn ngƣời dân chia sẻ kinh nghiệm, kết quả

thực hiện của chính bản thân mình để ngƣời khác có thể tham khảo, làm theo.

2.3.3. Chuyên mục, chuyên đề:

Một số đài truyền thanh huyện cũng thỉnh thoảng sản xuất chuyên đề về

giảm nghèo, thể hiện ở các dạng cơ bản sau:

Tiết mục phổ biến chính sách về giảm nghèo ( nằm trong bản tin thời sự tổng

hợp, có thời lƣợng trung bình khoảng 5 phút): chủ yếu trích đọc các chủ trƣơng,

49

chính sách, văn bản pháp luật, các chƣơng trình, quyết định…liên quan đến công

tác giảm nghèo và thực thi chính sách giảm nghèo, các chƣơng trình hỗ trợ ngƣời

nghèo sản xuất, phát triển kinh tế, đào tạo nghề, nâng cao thu nhập.

Chuyên mục về giảm nghèo ( thƣờng đƣợc phát trong bản tin thời sự tổng

hợp, sau phần tin ): phần lớn là một bài viết về phong trào giảm nghèo; một phỏng

vấn về kế hoạch giảm nghèo của ngành, đơn vị; phát biểu chỉ đạo của lãnh đạo liên

quan lĩnh vực giảm nghèo…thời lƣợng thông thƣờng bình quân khoảng 5 phút,

chiếm khoảng một phần tƣ tổng thời lƣợng của một bản tin tổng hợp của đài truyền

thanh huyện. Chuyên mục này cũng rất ít.

Chƣơng trình chuyên đề về giảm nghèo ( thông thƣờng là chƣơng trình để

cộng tác phát trên sóng đài phát thanh, truyền hình tỉnh Cà Mau): có thời lƣợng 10

phút. Mỗi huyện cộng tác một tuần một lần trên sóng đài tỉnh, tùy theo chủ đề,

không phải kỳ nào cũng về công tác giảm nghèo. Cơ cấu chƣơng trình thƣờng có 3

phần: phần đầu gồm một bài viết phản ánh thực trạng, phần tiếp theo là phỏng vấn

ngƣời có trách nhiệm về việc xử lý vấn đề hay chia sẻ kinh nghiệm, phần thứ 3 là

một gƣơng tiêu biểu trong thực hiện phong trào. Song, cũng có huyện chỉ cơ cấu 2

phần gồm một bài và một phỏng vấn nhƣ đã nói trên.

Một vài đơn vị đã có sự thay đổi nhỏ trong cách thức kết cấu chƣơng trình

bản tin. Trong đó, không cứng nhắc một loạt tin rồi mới đến bài, chuyên mục

chuyên đề nhƣ trƣớc đây mà đã có sự đan xen tin, bài, phỏng vấn, tƣờng

thuật…theo chủ đề. Lồng ghép trong đó là những phát biểu, tiếng nói từ những

ngƣời trong cuộc, âm nhạc làm cho chƣơng trình sinh động hơn.

Qua khảo sát cho thấy: hình thức thể hiện thông điệp truyền thông về giảm

nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện khá đa dạng và cơ bản thể hiện đƣợc

đặc điểm, thế mạnh của loại hình báo chí phát thanh, góp phần chuyển tải thông tin

rộng rãi đến ngƣời nghe. Tuy nhiên, hình thức tin, bài phát trên sóng đài truyền

thanh huyện qua khảo sát có một số điểm hạn chế cơ bản sau:

Tin, bài phần lớn ít sử dụng âm thanh, âm nhạc, tiếng động hiện trƣờng nên

tính thiết thực chƣa cao. (Trong kết quả khảo sát không có tin, bài nào sử dụng tiếng

50

động hiện trƣờng) Chủ yếu sử dụng tiếng nói nhân vật, lời dẫn phát thanh viên mà

chƣa khai thác triệt để thế mạnh về âm nhạc và tiếng động để tái hiện hiện trƣờng.

Thậm chí có những trƣờng hợp sử dụng tiếng nói nhân vật để cho …có, bởi vì lời dẫn

trƣớc đó đã thể hiện hết, nhân vật chỉ nói lại nhƣng thông tin mà ngƣời viết thể hiện.

Thời lƣợng tin, bài vẫn còn khá dài. Trong chƣơng trình của các đài truyền

thanh huyện, vẫn còn những tin dài gần 2 phút; nhiều bài viết có thời lƣợng đến 10

phút. Trong đó, có những bài lặp đi lặp lại lời nói của phóng viên và đánh giá của

ngƣời trong cuộc qua phát biểu của họ. Phóng viên cũng thƣờng tham lam, đƣa quá

nhiều sự kiện vào một tin, bài …làm cho ngƣời nghe khó tiếp thu, khó nhớ. Theo

đó, nhiều câu trong tin, bài khá nhiều chữ, có câu đến gần 60 chữ.

Một hạn chế nữa là cách thể hiện của phát thanh viên, ngƣời đọc bản tin.

Phát thanh viên phần lớn phát âm tiếng địa phƣơng, giọng nam bộ, phù hợp với đại

đa số thính giả tại chỗ. Nhiều phát thanh viên có chất giọng truyền cảm, có kinh

nghiệm thể hiện đƣợc ý định của tác giả. Một số đơn vị còn phân công phóng viên

thể hiện luôn tác phẩm của mình. Tuy nhiên, nhiều trƣờng hợp thể hiện chƣa tròn

vành, rõ chữ; ngắt âm chƣa đúng, chƣa đảm bảo nhịp điệu. Trong những bài viết đòi

hỏi có sự trầm lắng thì phát thanh viên thể hiện khá nhanh và năng động. Trong khi

những tin, bài cần tốc độ nhanh thì lại thể hiện trầm lắng, sâu kín. Điều đáng nói là

còn nhiều phát thanh viên phát âm sai chính tả cơ bản. Ví nhƣ: tr và ch; truyền

chuyền, chiền; vào, giàu và dào; cá gô và cá rô.v.v. Đồng thời, đôi lúc ngắt chƣa

hợp lý dẫn đến sai nghĩa của câu, gây khó hiểu cho ngƣời nghe.

Tóm lại, cách thể hiện còn theo lối tuyên truyền một phía, văn phong hành

chính nhiều hơn báo chí và chƣa khai thác hết thế mạnh của âm thanh trong thể loại

báo chí phát thanh. Trong hầu hết bài viết đều mang dáng dấp vai trò chỉ đạo mà ít

khai thác những yếu tố mang tính tự lực, tự phát của ngƣời dân.

2.4. Quy trình sản xuất tác phẩm, chƣơng trình truyền thanh giảm nghèo trên

sóng đài truyền thanh cấp huyện:

Quy trình sản xuất chƣơng trình phát thanh liên quan đến vấn đề giảm nghèo

ở đài truyền thanh cấp huyện tƣơng đối đơn giản. Sau khi nhận đƣợc kế hoạch phân

51

công đề tài của lãnh đạo, phóng viên tiến hành tác nghiệp, sáng tạo tác phẩm tin,

bài, nộp bài cho biên tập viên để cơ cấu thành chƣơng trình, lãnh đạo duyệt, sau đó thể

hiện, lồng âm thanh, lãnh đạo duyệt phát sóng. Thể hiện qua các bƣớc cơ bản sau:

2.4.1 Triển khai chủ đề

Bƣớc này phần lớn do lãnh đạo cơ quan, hay ngƣời quản lý nội dung, biên

tập viên, ngƣời có kinh nghiệm lâu năm… phụ trách. Đối với những đề tài mang

tính phát hiện của phóng viên thì không có bƣớc này.

Thông thƣờng sau khi tham dự hội nghị hoặc tiếp thu ý kiến chỉ đạo từ cấp

lãnh đạo, kết hợp với các sự kiện, dòng chủ lƣu thời sự, các ngày lễ diễn ra trong

thời điểm đó, hoặc để phục vụ nhiệm vụ chính trị; lãnh đạo cơ quan sẽ đƣa ra chủ

đề cần tập trung thông tin, tuyên truyền trong tháng, trong tuần. Từ đó, gợi mở

hƣớng khai thác đề tài phù hợp chủ trƣơng, chính sách. Tùy vào sự nhạy bén của

từng phóng viên, họ sẽ có những phƣơng pháp, cách nhìn, góc khai thác đề tài khác

nhau. Đối với đề tài về chính sách giảm nghèo phần lớn trở thành đề tài thƣờng

xuyên. Tuy nhiên, khi có một chủ trƣơng mới, một chính sách mới hay một chƣơng

trình liên quan đến ngƣời nghèo thì sẽ có những định hƣớng khác nhau cho phù hợp

và phụ thuộc vào định hƣớng chỉ đạo. Đồng thời, tùy vào giai đoạn cụ thể trong sản

xuất và đời sống cũng nhƣ tùy vào khu vực, trình độ dân trí…mà sẽ có cách định

hƣớng thông tin khác nhau. Có thể coi bƣớc này là bƣớc định hƣớng thông tin để

phóng viên bƣớc đầu xác định đƣợc việc phải làm.

2.4.2 Phóng viên xác định đề tài, phương pháp tác nghiệp:

Đây là một trong những bƣớc quan trọng, thể hiện khả năng sáng tạo, nhạy

bén cũng nhƣ trình độ, bãn lĩnh nghề nghiệp của phóng viên trong quá trình tác

nghiệp. Từ chủ đề đã đƣợc định hƣớng, từng phóng viên xem xét những khía cạnh

khác nhau để tìm ra vấn đề cần khai thác. Họ có thể tham khảo để tìm kiếm đề tài từ

nhiều nguồn nhƣ: bạn bè, sách báo, mạng internet, lời đồn, .v.v.Yếu tố quan trọng là

tìm ra đề tài mới, hấp dẫn hoặc vấn đề cũ nhƣng ở góc nhìn khác thì sẽ có đề tài

mới. Cùng nói về chủ trƣơng giúp dân giảm nghèo, phóng viên có thể khai thác vai

trò của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trong việc làm trung gian…vận động, hỗ trợ

52

giống, vốn, phục vụ ngƣời dân làm ăn; hay có thể khai thác từ nội bộ của ngƣời dân,

họ tự hỗ trợ lẫn nhau, sự giúp đỡ của doanh nghiệp hay chính ngƣời dân tự vƣơn lên

để thoát nghèo từ chƣơng trình hỗ trợ nhà ở, vốn sản xuất, phƣơng tiện làm ăn…Có

thể nói, xác định đề tài là bƣớc quan trọng, thành công hơn 50% của phóng viên,

còn lại là quá trình tác nghiệp và hậu kỳ, phát sóng.

2.4.3 Phóng viên tác nghiệp

Sau khi xác định đƣợc đề tài, phóng viên đăng ký với ban biên tập hoặc lãnh

đạo, ngƣời chịu trách nhiệm nội dung để đƣợc tiếp sức, tƣ vấn về biện pháp tác

nghiệp hay gợi ý vấn đề cần khai thác, khai thác khía cạnh nào, góc nhìn ra sao. Thông

thƣờng, ngƣời chịu trách nhiệm cũng chủ yếu gợi mở các hƣớng để khi đến hiện

trƣờng, phóng viên sẽ chủ động tiến hành tùy vào tình hình thực tế; hoặc cũng có thể

làm đầu mối trong việc liên hệ với cơ sở để phóng viên đƣợc hỗ trợ khi tác nghiệp.

Phóng viên sử dụng kỹ năng tác nghiệp và sự nhạy bén của mình để khai

thác đề tài. Nhất là việc tìm ra chi tiết “đắc giá” để làm nổi bật vấn đề cần thể hiện.

Sau đó, sử dụng các phƣơng pháp, phƣơng tiện nghiệp vụ nhƣ máy ghi âm, ghi

chép, quan sát …để nắm bắt thông tin, làm phong phú cho nguồn dữ liệu bài viết.

Sau khi đi tác nghiệp tại hiện trƣờng, phóng viên phải tranh thủ hoàn thành

sản phẩm của mình. Tùy vào khả năng cũng nhƣ cách nhìn của từng phóng viên mà

cùng một đề tài sẽ cho ra sản phẩm khác nhau, chất lƣợng bài viết khác nhau và

hiệu quả thông tin khác nhau. Khi hoàn thành bài viết, phóng viên nộp cho biên tập

viên thông qua mạng nội bộ hoặc email để cơ cấu thành chƣơng trình phát thanh.

2.4.4. Biên tập chương trình và duyệt nội dung:

Sau khi phóng viên nộp sản phẩm tin, bài; ngƣời biên tập có nhiệm vụ tổng

hợp, xây dựng chƣơng trình phát thanh. Chƣơng trình phát thanh ở đài huyện

thƣờng bao gồm một loạt tin tức khoảng 7 đến 10 tin ngắn. Sau đó, đến chuyên đề,

chuyên mục đƣợc thể hiện qua một phóng sự, phỏng vấn, thu thanh …

Nhiệm vụ chính của ngƣời biên tập là cơ cấu tin, bài hợp lý, phù hợp nhiệm

vụ thông tin, tuyên truyền trong từng giai đoạn. Thứ tự tin bài thƣờng ƣu tiên theo

lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh trật tự… Riêng những tin tức về

53

hoạt động của lãnh đạo, tin lễ tân, những đề nóng, bức xúc, vấn đề đƣợc nhiều

ngƣời quan tâm đƣợc ƣu tiên hàng đầu. Những vấn đề phân tích sâu thƣờng dành

cho chuyên đề, chuyên mục ở phần sau. Ngƣời biên tập vừa phải cơ cấu tin, bài hợp

lý vừa phải chỉnh sửa cho đúng văn phong báo chí, phù hợp địa phƣơng…sau đó,

trình lãnh đạo chịu trách nhiệm nội dung duyệt nội dung, chỉnh sửa cho đúng đƣờng

lối, chính sách và sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nƣớc. Ở một số đài huyện, phần lớn

ngƣời chịu trách nhiệm nội dung thực hiện cả 2 khâu là biên tập và duyệt nội dung.

Thông thƣờng là trƣởng đài hoặc phó trƣởng đài phụ trách nội dung.

2.4.5 Thực hiện hậu kỳ

Sau khi duyệt nội dung, chƣơng trình sẽ đƣợc đƣa qua bộ phận sản xuất

chƣơng trình để thực hiện hậu kỳ. Trong đó, kỹ thuật phòng thu chịu trách nhiệm

thu âm phát thanh viên hoặc dẫn chƣơng trình thể hiện, đồng thời, chọn nhạc phù

hợp để làm nhạc cắt. Phóng viên chịu trách nhiệm trích âm thanh vào tác phẩm của

mình để hoàn thiện và gợi ý nhạc phù hợp làm nền cho tác phẩm của mình. Sau khi

hoàn thiện, cả phóng viên, kỹ thuật, phát thanh viên phải ngồi nghe lại sản phẩm để

chỉnh sửa những sai sót trƣớc khi trình lãnh đạo hoặc ngƣời chịu trách nhiệm nội dung

duyệt phát sóng. Khâu sản xuất chƣơng trình hiện nay ở đài huyện đều đƣợc vi tính hóa

nên việc chỉnh sửa, ghép âm thanh, lồng nhạc…rất dễ dàng và nhanh chóng.

2.4.6 Lãnh đạo duyệt phát sóng

Sau khi tổ sản xuất chƣơng trình hoàn thiện sản phẩm trình lên, lãnh đạo

hoặc ngƣời đƣợc giao trách nhiệm duyệt lại lần cuối trƣớc khi phát sóng. Khâu này

chủ yếu là nghe lại để đảm bảo về nội dung, định hƣớng chủ trƣơng, chỉnh sửa sai

sót về mặt kỹ thuật, quy định thời lƣợng…để tiến hành phát sóng. Ngƣời duyệt cuối

cùng là ngƣời chịu trách nhiệm cao nhất.

2.4.7 Phát sóng và ghi nhận ý kiến phản hồi

Đây là bƣớc quan trọng cuối cùng, đầu ra của sản phẩm, thể hiện bộ mặt,

chất lƣợng nội dung. Sau khi chƣơng trình đã hoàn thiện, bộ phận sản xuất chƣơng

trình sẽ giao lại cho kỹ thuật phát sóng để phát đúng giờ quy định. Những sai sót về

lỗi phát sóng sẽ do kỹ thuật phát sóng chịu trách nhiệm. Sau khi tác phẩm phát

54

sóng, những ý kiến đóng góp, phản hồi sẽ đƣợc ghi nhận. Khi ấy, cả bộ phận sản

xuất chƣơng trình và ngƣời duyệt nội dung sẽ cùng nhau ngồi lại phân tích, rút kinh

nghiệm để thực hiện cho các chƣơng trình sau đƣợc tốt hơn. Thông thƣờng, đài

truyền thanh cấp huyện rất ít khi sản xuất chƣơng trình trực tiếp mang tính trao đổi

với thính giả, chỉ truyền trực tiếp các sự kiện, lễ hội quan trọng.

Tiểu kết chƣơng 2

Thông tin về giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện khá đa dạng,

phong phú về mặt nội dung và hình thức. Thể hiện đƣợc thế mạnh đặc trƣng và gắn

với nhiệm vụ chính trị của từng địa phƣơng. Ở đó, chiếm đa số vẫn là nêu gƣơng

ngƣời tốt việc tốt, các chƣơng trình hỗ trợ ngƣời nghèo .v.v. Nội dung tin, bài

chuyển tải, phổ biến rộng rãi nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội liên quan đến chính

sách giảm nghèo. Trong đó, nổi bật và chiếm đa số trong cơ cấu nội dung tin, bài đó

là những chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo về sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập;

chính sách hỗ trợ về nhà ở; chính sách hỗ trợ về y tế…góp phần truyền thông rộng

rãi chính sách giảm nghèo cả về vật chất, tinh thần và tiếp cận các dịch vụ xã hội

cho ngƣời nghèo. Qua nội dung tin, bài thể hiện đƣợc vai trò của cấp ủy, chính

quyền, đoàn thể đối với việc triển khai thực hiện chủ trƣơng, chính sách và chăm lo

đời sống vật chất, tinh thần cho ngƣời nghèo; với nhiều chủ trƣơng, chính sách

mang tính đặc thù của từng địa phƣơng, tạo động lực để hộ nghèo vƣợt khó vƣơn

lên…Tất cả nội dung này đƣợc đài truyền thanh các huyện chuyển tải, phổ biến

rộng rãi.

Khâu sản xuất chƣơng trình khá bài bản và thể hiện khá chặt chẽ về nội

dung, hình thức. Thể hiện ở trách nhiệm và lợi thế của những ngƣời làm truyền

thanh, sâu sát cơ sở, hiểu và sát với tình hình đời sống của ngƣời nghèo, với những nội

dung thiết thực. Các thể tài phát thanh đƣợc tận dụng, khai thác triệt để; đảm bảo chuyển

tải đƣợc nội dung thông tin dễ dàng đến với ngƣời dân hiểu và thực hiện.

Tuy nhiên, cách cơ cấu chƣơng trình theo format truyền thống tin, bài, ghi

nhanh, phỏng vấn một cách đều đều. Thông thƣờng, vì nhiều lý do khách nhau nhƣ:

55

vấn đề kinh phí, con ngƣời, trình độ chuyên môn… nên cơ cấu chƣơng trình truyền

thanh cấp huyện thƣờng mở đầu bằng một loạt tin, sau đó là một trong các thể loại

nhƣ: phóng sự, phỏng vấn, phát biểu, gƣơng ngƣời tốt việc tốt … ít có chƣơng trình

theo chuyên đề riêng về một lĩnh vực nào đó, mà chỉ có chƣơng trình tổng hợp. Một

vài đơn vị có sản xuất theo kiểu chuyên đề hoặc trộn lẫn nhiều thể tài báo chí nhƣng

đó chỉ là con số rất nhỏ, chủ yếu để cộng tác với đài cấp tỉnh hoặc để tham gia dự

thi. Tin, bài liên quan đến công tác giảm nghèo xuất hiện trong chƣơng trình đan

xen với những tin, bài khác. Phần lớn chƣa hoặc ít sản xuất chƣơng trình riêng theo

từng chuyên đề, chẳng hạn nhƣ chính sách giảm nghèo. Hình thức thể hiện còn đơn

điệu, thế mạnh âm thanh chƣa đƣợc khai thác tốt. Trong khi đó, âm thanh chính là

thế mạnh làm nên linh hồn của phát thanh, tạo sự hấp dẫn cho chƣơng trình phát

thanh. Chính vì vậy, cần phải có sự đổi mới về nội dung tin, bài cũng nhƣ cách thức

thể hiện nội dung tin, bài; kể cả cơ cấu, format chƣơng trình; nhằm thu hút sự quan

tâm của thính giả nhiều hơn, phát huy tốt vai trò của truyền thanh cấp huyện trong

công tác truyền thông chính sách nói chung, chính sách giảm nghèo nói riêng.

56

Chƣơng 3

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH GIẢM

NGHÈO TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN THANH CẤP HUYỆN

3.1. Thành công trong truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng truyền

thanh cấp huyện

3.1.1. Sự quan tâm của công chúng về truyền thông chính sách giảm nghèo trên

sóng đài truyền thanh huyện

Sự quan tâm của công chúng là một trong những thƣớc đo hiệu quả hoạt

động truyền thông trên phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Báo chí cách mạng

Việt Nam có tính giai cấp, phục vụ đông đảo nhân dân. Đài truyền thanh cấp huyện

là cơ quan tuyên truyền của đảng bộ, chính quyền, là tiếng nói của ngƣời dân; chính

vì vậy, mục tiêu chính là phục vụ nhân dân. Công chúng ngày càng quan tâm hơn

về nội dung thông tin của đài là một tiến bộ. Đặc biệt, trong điều kiện xã hội thông

tin nhƣ hiện nay, thính giả không quay lƣng với truyền thanh cấp huyện đã là một

thành công lớn.

Do đặc trƣng của truyền thanh cấp huyện phần lớn là phát qua hệ thống loa

công cộng nên quá trình khảo sát, tác giả tập trung nhiều vào những thính giả trong

phạm vi ảnh hƣởng của hệ thống loa công cộng. Qua đó, nhằm đảm bảo có sự đánh giá

hợp lý về mức độ theo dõi, khả năng tiếp nhận thông tin cũng nhƣ nhận xét về chất

lƣợng tin, bài đƣợc thể hiện trên sóng truyền thanh huyện; khả năng tin tƣởng làm theo.

Quá trình khảo sát, chọn mẫu đảm bảo đa dạng đối tƣợng, giới tính, độ tuổi, nghề

nghiệp…nhằm thu thập thông tin từ mẫu đảm bảo tính đa dạng, khách quan.

Qua khảo sát 150 phiếu đối với công chúng cho thấy: có 41% số ngƣời nghe

đài rất thƣờng xuyên, hầu nhƣ mỗi ngày đều có nghe; 31% nghe thƣờng xuyên với

mức độ khoảng 3 ngày trong tuần; 15% thỉnh thoảng nghe-khoảng 1 lần một tuần;

7% hiếm khi nghe- mỗi tháng chỉ khoảng 1 lần; đặc biệt có 6% không nghe bao giờ.

Đối với truyền thanh huyện, chủ yếu thính giả nghe qua hệ thống loa công cộng.

Tuy nhiên, hệ thống loa của cấp huyện và các xã hiện nay chƣa thật sự đầy đủ; lại

hƣ hỏng thƣờng xuyên nên thính giả nghe đài thƣờng xuyên và rất thƣờng xuyên

72% là con số khá cao.

57

TẦN SUẤT NGHE ĐÀI

Không bao giờ 6%

Hiếm khi 7%

Thỉnh thoảng 15%

Rất thường xuyên 41%

Thường xuyên 31%

Biểu đồ 3.1: Tần suất nghe đài

Số còn lại, do hệ thống loa công cộng chƣa phát triển đồng bộ nên ngƣời dân

thỉnh thoảng đƣợc nghe. Số ít thính giả trung thành nghe qua radio. Những ngƣời

nghe qua radio là những ngƣời cao tuổi, cán bộ hƣu nơi chƣa có hệ thống loa truyền

thanh muốn theo dõi thông tin về tình hình kinh tế-xã hội của huyện. Thính giả

nghe qua điện thoại có chức năng FM, chủ yếu là cán bộ, công chức, viên chức nơi

không có loa truyền thanh muốn nắm thông tin về tình hình của huyện, nhằm phục

PHƢƠNGTIỆN NGHE ĐÀI

11%

10%

79%

Loa truyền thanh

Radio

Điện thoại

vụ quá trình thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao.

Biểu đồ 3.2: Khảo sát phương tiện nghe đài

58

Kết quả khảo sát cho thấy có có đến 79% thính giả nghe đài huyện qua hệ

thống loa công cộng, 11% nghe qua điện thoại có chức năng phát FM và 10% nghe

qua Radio. Thể hiện ở biểu đồ 3.2

Nhìn tổng quan thì dù nghe một cách chủ động hay thụ động, đài truyền

thanh cấp huyện vẫn có một lƣợng thính giả nhất định quan tâm theo dõi hằng ngày.

Qua đó, cho thấy: nội dung thông điệp trên đài truyền thanh huyện cơ bản phù hợp

với công chúng nghe đài và ít nhiều mang lại những thông tin thiết thực, phục vụ

đời sống của họ. Ít nhiều khá phù hợp về trình độ dân trí, phong tục, tập quán; phù

hợp tình hình sản xuất và đời sống hằng ngày của ngƣời dân.

Từ đó, giúp đài truyền thanh cấp huyện thể hiện tốt hơn vai trò của mình là

cầu nối chuyển tải, phổ biến chủ trƣơng chính sách đến ngƣời dân cũng nhƣ là diễn

đàn, phản ánh hơi thở của cuộc sống. Trong đó, có chính sách giảm nghèo.

Ông Trƣơng Hoàng Khải, Phó Chủ tịch UBND huyện Phú Tân: “Là cơ

quan tuyên truyền của Đảng bộ, chính quyền, tiếng nói của nhân dân; Đài Truyền

thanh huyện thể hiện tốt vai trò của mình trong việc thông tin về chính sách giảm

nghèo, nhân rộng, phổ biến những mô hình hay, cách làm hiệu quả để mọi người có

thể tham khảo, áp dụng giảm nghèo …Góp phần kêu gọi xã hội, cộng đồng chung

tay giúp đỡ, hỗ trợ hộ nghèo. Qua đó, góp phần tích cực cùng với đảng bộ, chính

quyền, đoàn thể trong việc nâng cao ý thức người dân, động viên, cỗ vũ phong trào

giảm nghèo phát triển theo chiều hướng tích cực.”

Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Phó Chủ tịch UBND huyện Cái Nƣớc cũng đánh

giá: “Đài truyền thanh huyện là một trong những kênh tuyên truyền quan trọng

trong các kênh tuyên truyền của huyện. Thông qua Đài truyền thanh, giúp người

dân hiểu được chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách an sinh xã hội và

giảm nghèo. Kịp thời phổ biến mô hình hay, cách làm hiệu quả để hộ nghèo học hỏi

và làm theo. Đây là kênh truyền thông rất hữu ích đã phát huy tác dụng trong việc

tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương thời gian qua, trong đó có

nội dung truyền thông về công tác giảm nghèo.”

59

Ông Nguyễn Tráng Kiện, Phó Chủ tịch UBND huyện Thới Bình: “ Đài

Truyền thanh huyện Thới Bình thể hiện tốt vai trò cổ vũ, động viên, đẩy mạnh

phong trào giảm nghèo trong cán bộ, nhân dân. Đó là tăng cường phổ biến chủ

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là giải pháp từ cấp ủy, chính

quyền, sự đồng tình hưởng ứng của người dân, nhất là hộ nghèo, sự chung tay của

xã hội…góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp, thực hiện công tác giảm nghèo hiệu

quả theo hằng năm.”

Đài truyền thanh các huyện đã góp phần cụ thể hóa chủ trƣơng, chính sách

của Đảng và Nhà nƣớc đi vào cuộc sống bằng những tiêu chí, những công việc cụ

thể và phù hợp địa phƣơng, đơn vị, đặc điểm sống của cƣ dân từng khu vực. Cùng

với thực hiện chủ trƣơng, chính sách chung về giảm nghèo; nhất là kế hoạch giảm

nghèo bền vững của Trung ƣơng, tỉnh; mỗi huyện đều có những giải pháp cho công

tác giảm nghèo mang tính đặc thù riêng. Song, điểm chung là các đơn vị đều có

chính sách phân công đảng viên, cán bộ, cơ quan, đơn vị hỗ trợ, giúp đỡ ấp nghèo,

hộ nghèo. Những giải pháp giúp đỡ, tiếp sức đa dạng đó đều đƣợc thể hiện nhiều

mặt trên sóng truyền thanh huyện. Đây là một động lực tích cực cho hoạt động giảm

nghèo ở từng địa phƣơng, đơn vị.

Phóng viên Huỳnh Văn Tiến, Đài truyền thanh Cái Nƣớc: “. Thông qua công

tác tuyên truyền trên sóng phát thanh, các đối tượng hộ nghèo luôn được cộng đồng

xã hội quan tâm, giúp đỡ nhiều hơn và thụ hưởng đầy đủ các chính sách giảm

nghèo của Nhà nước. Nhiều đối tượng hộ nghèo đã thay đổi nhận thức, nỗ lực phấn

đấu vươn lên trong cuộc sống, nên tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua hằng năm. Điều

này cho thấy, Đài truyền thanh huyện đóng vai trò hết sức quan trọng trong công

tác tuyên truyền giảm nghèo bền vững ở địa phương.”

Phóng viên Phan Anh Phùi, Đài Truyền thanh huyện Phú Tân cũng đánh giá

: “Những năm qua, phóng viên Đài truyền thanh huyện thường xuyên khai thác các

đề tài liên quan đến giảm nghèo, nhất là cuộc vận động “ vì người nghèo” đã thu

hút sự hưởng ứng mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, đơn vị.

Nguyên nhân trong thực hiện công tác giảm nghèo là đã phát huy được tính cộng

60

đồng, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong các tầng lớp nhân dân, làm ấm

lòng những người nghèo trong huyện bằng trái tim nhân hậu, vòng tay nhân ái của

cộng đồng, giúp họ ổn định cuộc sống vươn lên thoát nghèo bền vững.”

Trong thực hiện chƣơng trình giảm nghèo bền vững kết hợp xây dựng nông

thôn mới; các địa phƣơng đều xác định giảm nghèo là bƣớc cơ bản đầu tiên, khi

kinh tế ổn định, ngƣời dân sẽ có điều kiện tham gia xây dựng nông thôn tƣơi đẹp

hơn. Chính vì vậy, tùy vào điều kiện thực tế và nhiệm vụ chính trị đặt ra; các địa

phƣơng cụ thể hóa chƣơng trình giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới thành 13 đến

14 việc làm cụ thể để phát động, hƣớng dẫn và nhắc nhở, kiểm tra ngƣời dân thực

hiện. Sự tiếp sức của truyền thông là liên tục phổ biến, nhắc nhở, nêu gƣơng, đánh

giá mặt đƣợc, chƣa đƣợc để rút kinh nghiệm phát huy. Trong đó, các công việc

thuộc về sản xuất đƣợc đƣa lên đầu tiên, nhƣ: trồng rau, cây ăn trái; nuôi tôm, nuôi

cá, nuôi heo;… rồi tham gia bảo vệ môi trƣờng sống xung quanh nơi ở, trồng cây

xanh, tham gia làm lộ nông thôn, chung tay giữ gìn an ninh trật tự, phát huy các

phong trào văn hóa, văn nghệ.v.v. Quá trình tác động hằng ngày trên phƣơng tiện

truyền thanh cùng với việc trực tiếp hƣớng dẫn của cán bộ cơ sở, ngƣời dân từng

bƣớc ý thức đƣợc vai trò của mình và phối hợp cùng cấp ủy, chính quyền để thực

hiện. Mục tiêu trƣớc mắt là chăm lo cho cuộc sống của chính mình, góp phần cho

giảm nghèo bền vững, kế đến là chung tay xây dựng nông thôn mới. Từ đó, góp

phần cỗ vũ, động viên phong trào giảm nghèo từ cơ sở, nhất là phổ biến những cách

làm hay, mang tính đặc thù của từng địa phƣơng, đơn vị trong việc chỉ đạo, hƣớng

dẫn, giúp dân giảm nghèo.

3.1.2. Mức độ tin tưởng, làm theo

Có thể đánh giá rằng, với một lƣợng thính giả nhất định, đài truyền thanh

huyện ít nhiều cũng chiếm một vị trí trong lòng công chúng. Ở đây, chỉ xét lƣợng

thính giả nằm trong tầm phủ sóng của hệ thống loa truyền thanh từ huyện đến cơ sở

thì mức độ tin tƣởng của thính giả về độ tin cậy, tính xác thực của thông tin khá cao.

Qua khảo sát đối với công chúng 3 đài truyền thanh huyện cho thấy: có 52%

ý kiến cho rằng: tin, bài phát trên đài truyền thanh huyện là rất tin tƣởng và 48 % tin

61

tƣởng. Không có nội dung thính giả không tin tƣởng hoặc chƣa tin tƣởng về tính

xác thực của nó. Cơ bản, thính giả đều có mức độ tin tƣởng về tính xác thực của

thông tin trên đài truyền thanh huyện, giúp họ có thể chia sẻ và thực hiện. Nhất là

độ chính xác của chủ trƣơng, chính sách; tính thực tế của những mô hình hay, cách

làm tốt trong hoạt động giảm nghèo. Từ đó, có thể giúp họ tham khảo, áp dụng thực

hiện trong điều kiện thực tế của mình.

Điều này, ít nhiều cũng khẳng định nội dung thông tin cơ bản có sự phù hợp

với khả năng tiếp nhận, phù hợp với tập quán sống, sản xuất và đời sống tinh thần

Mức độ tin tƣởng về tính xác thực của thông tin

0%

48%

52%

Rất tin tƣởng

Tin tƣởng

Không tin tƣởng

của ngƣời dân. Dù ít, nhƣng cũng có những thông tin mới lạ, có sự hấp dẫn.

Biểu đồ 3.3: Mức độ tin tưởng về tính xác thực của thông tin

Bài viết: “Nuôi tôm quảng canh cải tiến không thay nƣớc, mô hình phù hợp

để thoát nghèo” ( Anh Phan, Đài truyền thanh huyện Phú Tân, ngày 2/4/2019 cộng

tác trên Đài Phát thanh và Truyền hình Cà Mau) đã có một sự tác động tích cực

đến đông đảo hộ nghèo và cả những ngƣời dân. Đây là một việc làm lạ đối với

nhiều bà con, bởi trƣớc giờ, ngƣời nuôi tôm luôn quen với lối nuôi thƣờng xuyên

thay nƣớc, tôm sẽ lớn nhanh hơn. Song, nuôi ít thay nƣớc vừa ít tốn chi phí, rất phù

hợp với ngƣời nghèo, ít vốn; vừa có thể thực hiện trong điều kiện đất đai không

nhiều, chỉ vài ngàn mét vuông. Yếu tố chính làm nên thành công của nó là sử dụng

cây cỏ thiên nhiên, rẻ tiền để cải tạo ao nuôi, tạo môi trƣờng ổn định cũng nhƣ thức

ăn cho tôm nuôi phát triển. Mà muốn nuôi tôm hiệu quả phải đảm bảo yếu tố về môi

trƣờng và thức ăn tự nhiên cho con tôm. Đây còn là yếu tố cho sự bền vững, giảm

sử dụng hóa chất, phân bón, đảm bảo môi trƣờng. Nhờ vậy, năng suất đạt khá. Bản

62

thân anh Lê Ngọc Giao ( nhân vật trong bài) đã thực hiện có hiệu quả và hƣớng dẫn

nhiều ngƣời làm theo, giúp họ có cuộc sống khá giả, thoát nghèo. Thông tin này

xem ra hấp dẫn đối với nhiều ngƣời, không chỉ hộ nghèo. Từ đó, thu hút họ đến tìm

hiểu, học hỏi kỹ thuật, kinh nghiệm để làm theo. Qua đó, cho thấy, đài truyền thanh

huyện thể hiện đƣợc vai trò của mình trong việc chuyển tải thông tin thiết thực, bổ

ích đến ngƣời dân, nhất là hộ nghèo.

Truyền thanh cấp huyện còn là phƣơng tiện tác động hằng ngày, hằng giờ

theo phƣơng châm “Mƣa dầm thấm lâu”, đây là một hình thức tuyên truyền mang

tính kinh điển nhƣng phát huy tốt lợi thế trong điều kiện hiện nay. Nhất là trong sự

nhiễu loạn thông tin thì đây là một phƣơng tiện chính thống cung cấp cho ngƣời dân

những thông tin cần thiết liên quan tới cuộc sống của họ, gắn liền với những việc

làm hằng ngày, cụ thể hóa chủ trƣơng, nghị quyết đi vào cuộc sống một cách thiết

thực. Ví nhƣ để giảm nghèo ngƣời dân nên thực hiện mô hình sản xuất đa cây con

nhƣ thế nào, tham gia học nghề ở đâu, nghề gì phù hợp, tham gia việc làm gì để có

thu nhập, hay để phát huy tốt tiềm năng đất đai phù hợp từng khu vực, ngƣời dân

nên tham gia lớp khuyến nông, khuyến ngƣ thế nào. Trên sóng đài huyện cũng có một

số chƣơng trình hƣớng dẫn kỹ thuật, chuyển giao kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi, chia sẻ

kinh nghiệm sản xuất…giúp ích rất nhiều cho ngƣời dân, đặc biệt là hộ nghèo. Tạo

điều kiện cho họ xác định cách thức sản xuất phù hợp với điều kiện của mình để có thu

nhập ổn định, vƣơn lên trong cuộc sống. Ông Nguyễn Tráng Kiện, Phó Chủ tịch

UBND huyện Thới Bình: “Theo tôi, với sự tác động hằng ngày, ít nhiều, đài truyền

thanh huyện cũng đã tạo nên một sự cỗ vũ, khích lệ lớn; nhất là thông qua những tấm

gương vượt khó sẽ có tác dụng rất tích cực đối với người nghèo.”

Là ngƣời bạn đồng hành của ngƣời dân trong đa dạng hóa các hình thức phát

triển sản xuất, đời sống, phổ biến gƣơng những cá nhân, tập thể tiêu biểu trong giúp

nhau giảm nghèo; là diễn đàn để ngƣời dân chia sẻ kinh nghiệm hay, cách làm thiết

thực. Nhất là các phong trào giúp nhau giảm nghèo của cấp ủy, chính quyền và các

tổ chức hội đoàn thể ở cơ sở. Nổi bật là mỗi địa phƣơng đều có chƣơng trình phân

công đảng viên, tổ chức đảng, đoàn thể hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo. Mỗi hộ nghèo đều

63

đƣợc phân công đảng viên, hội viên trực tiếp hỗ trợ. Nhiệm vụ của đảng viên, hội

viên là tìm hiểu gia cảnh của từng hộ, xác định đúng nguyên nhân dẫn đến cái

nghèo. Sau đó, tìm biện pháp giúp đỡ phù hợp. Ví nhƣ hộ có đất sản xuất nhƣng

thiếu vốn thì làm trung gian cho họ vay từ các nguồn ƣu đãi hộ nghèo để làm ăn. Hộ

có lao động nhƣng thiếu tƣ liệu thì giới thiệu học các lớp dạy nghề theo đề án 1956

của Chính phủ để họ có tay nghề, tham gia làm việc tại chỗ hoặc các khu công

nghiệp ngoài tỉnh. Hộ không có tƣ liệu thì có thể giới thiệu cho mƣợn, hỗ trợ điều

kiện sản xuất nhƣ đất để trồng hoa màu, nuôi heo, nuôi gà .v.v. Tất cả đều đƣợc

thông tin rộng rãi trên sóng truyền thanh huyện một cách đa dạng và phong phú,

nhằm khích lệ cán bộ, đảng viên và ngƣời dân tiếp tục phát huy phong trào.

Đài truyền thanh huyện cũng góp phần phát huy tốt vai trò của ngƣời dân để

giúp nhau giảm nghèo. Trên cơ sở nêu gƣơng, gợi ý những hình thức cơ bản trong

việc giúp nhau giảm nghèo của ngƣời dân nhƣ: hùn vốn xoay vòng để sản xuất, hỗ

trợ nhau về kỹ thuật, chia sẻ kinh nghiệm thông qua các tổ hợp tác, hợp tác xã; các

hình thức mua chung, bán chung để giảm chi phí đầu vào, ổn định đầu ra. Một số

mô hình hợp tác làm ăn, góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Từ đó,

phát huy tinh thần nhƣờng cơm sẻ áo, chia sẻ khó khăn, giúp nhau cùng tiến bộ, gắn

kết tình làng, nghĩa xóm.

Đài huyện cũng đƣa ra nhiều mô hình hay, cách làm tốt phù hợp với điều

kiện thực tế của địa phƣơng để ngƣời dân có thể áp dụng, làm theo. Đó là hiệu quả

của quá trình nêu gƣơng trên sóng phát thanh của đài truyền thanh huyện. Thể tài về

gƣơng ngƣời tốt xuất hiện khá nhiều trên sóng mà thể hiện chủ yếu ở những mô

hình làm ăn cụ thể. Nổi bật là phổ biến cách thức làm ăn để giảm nghèo, phát huy

tinh thần tự lực vƣơn lên của từng hộ dân, mô hình sử dụng có hiệu quả các nguồn

vốn ƣu đãi của phụ nữ, thanh niên, nông dân, cựu chiến binh. Quan trọng trong

nhiều bài viết sử dụng tiếng nói của ngƣời trong cuộc. Chính họ chia sẻ cách thức

làm ăn, kinh nghiệm sản xuất, cách thức sử dụng vốn vay, lao động, tận dụng đất

đai, chọn cây trồng vật nuôi phù hợp… Đó là những bằng chứng thiết thực nhất cho

ngƣời khác rút kinh nghiệm và thực hiện phù hợp điều kiện của mình.

64

3.1.3: Chất lượng tin, bài

Chất lƣợng tin, bài trên sóng đài truyền thanh huyện cơ bản đƣợc nâng lên,

thu hút đƣợc sự quan tâm của ngƣời nghe. Các đài ít nhiều đã có sự đổi mới cách

đƣa tin, nhằm tạo ấn tƣợng đối với thính giả.

Ông Kiều Thanh Nhàn, Trƣởng Đài truyền thanh huyện Cái Nƣớc thông tin:

“Chúng tôi quan tâm truyền thông theo hướng tương tác, chú trọng nhiều vào

người thật, việc thật. Trong các bài viết, quan tâm chỉ đạo phóng viên khai thác tối

đa lời thoại của nhân vật với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Qua đó, thông điệp

trong mỗi bài viết, chương trình về công tác giảm nghèo có sự tác động mạnh đến ý

thức của người dân, nhất là hộ nghèo và hộ có hoàn cảnh khó khăn, giúp họ thay đổi

nhận thức và hành vi, quyết tâm lao động, cần kiệm để tích luỹ, ổn định cuộc sống.”

Ông Nguyễn Trần Huy, Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa, Truyền thông và

Thể thao huyện Phú Tân ( Đài Truyền thanh trƣớc đây): “ Đổi mới cơ bản về tin,

bài của Đài Truyền thanh huyện Phú Tân thời gian qua là đưa tin theo hướng chỉ

dẫn, phổ biến kinh nghiệm, cách làm …từng bước thay cho thông tin về thành tích,

số liệu. Theo đó, đổi mới đưa tin theo quyết định của lãnh đạo trên cơ sở chọn

những quyết sách quan trọng trong các cuộc hội họp, làm việc…có ảnh hưởng đến

người dân …không đưa tin theo kiểu chỉ đạo chung chung như thời gian qua.”.

Ông Phạm Trí Thuận, Trƣởng Đài Truyền thanh huyện Thới Bình:“ Đài

Truyền thanh Thới Bình thời gian gần đây đã có sự chuyển biến trong cách đưa tin.

Đưa tin ngắn gọn hơn, đi vào trọng tâm và không lòng vòng, hạn chế số liệu. Riêng

công tác giảm nghèo chú trọng nêu gương, chia sẻ kinh nghiệm để người nghèo học

hỏi, làm theo. Đồng thời, phổ biến chủ trương, chính sách đến tận người dân thông

qua những hoạt động cụ thể để người dân hiểu và thực hiện”.

Đây là một trong những yếu tố giúp thính giả nắm bắt đƣợc thông tin một

cách chủ động và nhiều chiều. Ngƣời dân sẽ quan tâm cao đến những gì gần họ,

xung quanh họ và có ảnh hƣởng đến họ. Đó là một quyết định, một chƣơng trình

nào đó có thể làm thay đổi cuộc sống của họ. Do vậy, thông tin theo hƣớng nêu

65

những quyết sách quan trọng hay chỉ dẫn và khai thác nhiều góc độ tiếp cận khác

nhau là một hƣớng đi mới, nhằm nâng cao tính hấp dẫn của thông tin.

TÍNH HẤP DẪN CỦA THÔNG TIN

Ít hấp dẫn 8%

Hấp dẫn 11%

Bình thường 26%

Tương đối hấp dẫn 55%

Biểu đồ 3.4 Tính hấp dẫn của thông tin

Qua khảo sát ý kiến công chúng cho thấy, có 66% thính giả cho rằng nội

dung thông tin trên đài truyền thanh huyện hấp dẫn và tƣơng đối hấp dẫn. Hấp dẫn

ở đây không chỉ ở cách thể hiện mà chủ yếu là nội dung thông tin đó có gì khiến họ

lƣu ý để có thể chia sẻ, làm theo hoặc đơn giản là để hiểu hơn về một vấn đề nào đó.

Vấn đề này cho thấy thông tin tƣơng đối gần gũi, chia sẻ những vấn đề có quen

thuộc đối với ngƣời dân nhƣ: chuyện nuôi tôm, trồng màu, nuôi heo, nuôi cá, hùn

vốn giảm nghèo, …Thông tin dễ nghe, có thể tiếp thu, hiểu.

Gần đây, với xu thế cạnh tranh thông tin gay gắt, với điều kiện đặc thù của

mình, tuy không thể chạy theo sự nhanh nhạy thông tin, song, truyền thanh cấp

huyện cũng bắt đầu có những sự đổi mới thông tin cho phù hợp thực tế, sát thực

tình hình địa phƣơng, giúp thính giả dễ hiểu, dễ tiếp cận hơn. Đó là giải thích những

vấn đề ngƣời dân quan tâm. Nhất là những chủ trƣơng, chính sách mà ngƣời dân

chƣa rõ, chƣa thông suốt khi áp dụng vào thực tế; những chƣơng trình liên quan đến

họ; những việc gì họ phải làm, việc gì của Nhà nƣớc, việc gì của ngƣời dân, việc gì

Nhà nƣớc và Nhân dân cùng làm. Một số đài truyền thanh huyện hiện nay bắt đầu

66

có xu hƣớng đổi mới trong cách đƣa tin. Thay vì đƣa tin hoạt động của lãnh đạo

một cách đơn thuần thì nay có sự chuyển biến theo cách đƣa tin về sự ảnh hƣởng từ

quyết định mà lãnh đạo đƣa ra đến ngƣời dân. Theo đó, một số địa phƣơng cũng có

xu hƣớng thông tin giải thích, lý giải thay cho cách thông tin số liệu đơn thuần. Cụ

thể nhƣ: để thoát nghèo, ngƣời dân phải đảm bảo về mức thu nhập ra sao, làm gì để

có thu nhập đó, điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội thế nào…, hay tiêu chí nhà ba

cứng ở nông thôn là ít nhất phải có 3 yếu tố cứng: nền cứng, khung sƣờn, mái và

đảm bảo có công trình sinh hoạt hợp vệ sinh. Tức là hƣớng dẫn để ngƣời dân biết

mà thực hiện. Tuy còn rất ít, nhƣng cách thông tin này có triển vọng mở ra hƣớng

đi mới cho đài truyền thanh cấp huyện.

Mức độ tiếp nhận thông tin

11%

49%

40%

Tƣơng đối dễ hiểu

Dễ hiểu

Khó hiểu

Biểu đồ 3.5: Mức độ tiếp nhận thông tin

89% thính giả qua khảo sát cho rằng thông tin trên đài truyền thanh huyện dễ

hiểu và tƣơng đối dễ hiểu. Trên thực tế, thính giả cũng đã quen với văn phong, trình

bày, lối thể hiện của đài nên khả năng tiếp nhận cũng nhanh chóng và dễ dàng hơn.

Từ việc tiếp cận một cách miễn cƣỡng, thì hiện nay, ngƣời dân dần dần tiếp

cận một cách tự nhiên hơn. Tiếng loa trở thành quen thuộc vào những buổi sáng, họ

vừa thức dậy tập thể dục hay làm việc nhà vừa nghe đài chia sẻ về gƣơng ngƣời tốt

việc tốt; thấy đúng họ biểu dƣơng, thấy thiếu sót họ đóng góp. Câu chuyện về Chị

Hạnh giúp 10 hộ thoát nghèo giờ đã đƣợc lan tỏa trong toàn huyện Phú Tân; câu

chuyện về anh nông dân trẻ chỉ 7 ngàn mét vuông đất nhƣng có thu nhập mỗi năm

67

hơn trăm triệu từ con tôm sú sinh thái đã đƣợc mọi ngƣời biết đến .v.v. Tuy còn

nhiều hạn chế, nhƣng đó cũng là thành công bƣớc đầu.

3.2. Hạn chế trong truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền

thanh cấp huyện

3.2.1. Về chất lượng thông tin

Qua phân tích nội dung thông điệp, phỏng vấn sâu, cũng nhƣ quá trình khảo

sát, điều tra sự phản hồi của thính giả cho thấy, bên cạnh những mặt đạt đƣợc thì

hoạt động truyền thông chính sách nói chung, chính sách giảm nghèo nói riêng ở

các đài truyền thanh huyện trong tỉnh Cà Mau còn có những hạn chế nhất định.

Trƣớc hết, thông tin chƣa đi sâu phân tích cụ thể tính ƣu việt của chủ trƣơng

chính sách, chƣa đƣa ra giải pháp để ngƣời dân hiểu muốn giảm nghèo phải làm gì.

Bài viết thƣờng sa đà vào việc kể lể thành tích, nêu con số đạt đƣợc mà ít hoặc

không đề cập giải pháp, cách thức thực hiện để đạt đƣợc điều đó. Tin, bài thƣờng

báo cáo lại thành tích, những con số đạt đƣợc, hạn chế chung chung do khách quan

trong chỉ đạo thực hiện, nêu quá nhiều về giải pháp chỉ đạo mang tính chung chung

cấp này làm gì, cấp kia làm gì…mà ít đi sâu phân tích tính hiện thực, sự phù hợp

của chủ trƣơng, chính sách; phân tích nguyên nhân nghèo; làm cách nào để thoát

nghèo phù hợp cho từng khu vực, đối tƣợng. Thực chất là nói nhiều về những việc

chúng ta đã làm đƣợc mà ít có những thông tin tƣ vấn, chia sẻ kinh nghiệm để

ngƣời nghèo có thể áp dụng. Ít có sự phản ánh, thông tin, phản hồi từ phía ngƣời

dân trong tác phẩm. Có chăng chỉ là sự ủng hộ, sự phấn khởi của ngƣời dân vì đã

thoát nghèo theo sự “Sắp đặt chƣơng trình nghị sự” của nhà đài, của phóng viên.

Những kiến nghị của ngƣời dân có chăng chủ yếu xoay quanh nhu cầu vay vốn, đòi

hỗ trợ, xin đƣợc ƣu tiên .v.v. mà chƣa có phản ánh những tồn tại, tiêu cực.

Về phƣơng diện truyền thông chính sách thì hoạt động thông tin của đài

huyện chỉ đạt một phần ở góc độ phổ biến chủ trƣơng, chính sách một cách gƣợng

ép; thiếu sự thông tin, trao đổi hai chiều. Phần lớn nêu thành tích, chuyện làm đƣợc

mà thiếu phản ánh những thiếu sót, tồn tại của chính sách cũng nhƣ đánh giá

nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến sai sót đó khi chính sách đi vào cuộc

68

sống. Thiếu ghi nhận ý kiến phản hồi về mặt chƣa đƣợc, chƣa phù hợp của chính

sách. Tin, bài trên đài truyền thanh huyện rất ít thậm chí không có bài viết nào phản

ánh những tiêu cực, hạn chế từ công tác giảm nghèo. Nhất là những chƣơng trình,

dự án không phát huy hiệu quả; những vƣớng mắc, phát sinh trong quá trình triển

khai thực hiện cùng những tiêu cực xảy ra trong thực hiện chính sách hỗ trợ ngƣời

nghèo; tƣ tƣởng trông chờ, ỷ lại từ sự hỗ trợ của Nhà nƣớc và xã hội trong một bộ phận

ngƣời nghèo, sự đòi hỏi, so bì và tâm lý không muốn thoát nghèo để đƣợc hỗ trợ.

Chính sách đƣa ra phần lớn thông qua truyền thông có vẻ nhƣ tuyệt đối hoàn

thiện, nhƣng trên thực tế có nhiều nơi, nhiều lúc cũng không phù hợp. Lối thông tin

thiên về thành tích, nêu gƣơng, biểu dƣơng…làm cho công chúng chỉ nghe toàn

màu “hồng”. Trong khi trên thực tế, vẫn còn những hạn chế nhất định. Thực tiễn

cuộc sống nhƣ vậy, song thông tin lúc nào cũng nêu thành tích thì ít nhiều khiến

thính giả cũng giảm lòng tin.

Hơn nữa, lĩnh vực giảm nghèo là phải toàn diện về điều kiện vật chất cũng

nhƣ tiếp cận các dịch vụ xã hội. Tuy nhiên, thông tin về giảm nghèo trên sóng đài

truyền thanh huyện phần lớn thiên về hoạt động hỗ trợ vật chất cho ngƣời nghèo.

Hơn 80% nội dung tin, bài thiên về chính sách hỗ trợ về sản xuất, dạy nghề, việc

làm, thu nhập, nhà ở, và vật chất khác. Khoảng 14% thông tin hỗ trợ về tiếp cận các

dịch vụ y tế, giáo dục. Các thông tin về pháp lý, văn hóa chỉ chiếm gần 6%. Trong

khi giảm nghèo thì phải tiếp cận trên tất cả các phƣơng diện nhƣ: đảm bảo về vật

chất và tiếp cận các dịch xã hội nhƣ: thông tin, sức khỏe, học hành, pháp lý .v.v.

Dựa trên biểu đồ 2.1 cho thấy, cột thông tin về hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo

việc làm, tăng thu nhập .v.v. cao gấp hàng chục lần so với các thông tin khác về tiếp

cận các dịch vụ xã hội. Từ đó, cho thấy hầu hết các đài đều chú trọng, quan tâm lĩnh

vực này nhiều hơn, nhất là các điều kiện vật chất, đời sống hơn là tiếp cận các dịch

vụ về sức khỏe, văn hóa, tinh thần, pháp lý … Đây là sự mất cân đối trong nội dung

thông tin.

Qua khảo sát cũng cho thấy, vẫn còn một số tin, bài phát trên đài truyền

thanh các huyện đôi khi văn phong chƣa thật sự phù hợp với phần đông ngƣời dân,

69

nhất là ngƣời nghèo. Đôi lúc, ngƣời dân khó tiếp thu, khó hiểu, khó nhớ đó là do

phần lớn sử dụng nguồn tin từ báo cáo của các cấp, các ngành. Từ ngữ đôi lúc còn

mang tính chính trị, chƣa phù hợp để ngƣời nghèo tiếp cận, tiếp thu. Có những tin,

bài nêu quá nhiều con số. Điều này cũng thể hiện qua khảo sát về mức độ tiếp nhận

của ngƣời dân thì có 10,6% cho rằng một số tin, bài vẫn còn khó hiểu. Mà chủ yếu

là nêu nhiều con số, kết cấu lòng vòng, thiếu lo-gic chặt chẽ.

Thực tế, đặc điểm của phát thanh là thoáng qua, chỉ nghe một lần, hoặc phát

lại thêm một lần và thông tin có tính tuyến tính, nên đòi hỏi ngôn ngữ phải thật sự

dễ nghe, dễ tiếp thu, văn phong đơn giản. Câu càng ngắn càng dễ tiếp thu và nên ở

thể chủ động. Tuy nhiên, tin, bài trên sóng đài truyền thanh huyện còn sử dụng

thông tin, số liệu dài dòng, số lẻ không đƣợc làm tròn khó nhớ. Câu trong tin, bài

còn rất dài, có câu đến hơn 60 chữ, kể lể quá nhiều. Ví dụ “… Bên cạnh còn phối

hợp với các tổ chức thành viên, MMTQ các cấp vận động các tôn giáo và các mạnh

thường quân trong và ngoài tỉnh vận động hỗ trợ xây dựng 36 cây cầu giao thông

nông thôn trị giá 4,7 tỷ đồng, xây dựng 71 căn nhà người nghèo trị giá 2,3 tỷ đồng,

28 căn nhà tình thương, 2 căn nhà mái ấm công đoàn, 10 căn nhà đồng đội, 5 căn

nhà tình nghĩa trị giá trên 1,6 tỷ đồng…” ( KU, Đài Truyền thanh Cái Nước, ngày

12/5/2019). Với hàng loạt con số báo cáo thế này thì ít ai có thể tiếp thu và nhớ

đƣợc điều gì, không mang lại lợi ích gì cho ngƣời nghe.

Thực tế cho thấy, phần nhiều thông tin còn thể hiện theo lối văn bản hành

chính, báo cáo số liệu. Sử dụng khá nhiều những từ ngữ hàn lâm, những từ ngữ

đánh giá chung chung không có ý nghĩa về mặt thông tin. Đại loại nhƣ: nhìn

chung…; đây là hoạt động mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc…; việc làm này mang ý

nghĩa thiết thực…, ngành đã tập trung tuyên truyền để ngƣời dân hiểu sâu sắc...; dự

và chỉ đạo hội nghị, đồng chí lãnh đạo A đã đánh giá cao đồng thời chỉ ra hạn chế

và chỉ đạo cho; kết quả này có đƣợc nhờ sự quan tâm chỉ đạo sâu sát…,.v.v. Trong

tin, bài ít sử dụng động từ chủ động mà sử dụng khá nhiều tính từ không phù hợp

với văn phong báo nói. Sử dụng nhiều câu bị động sáo rỗng, nhƣ : công tác giảm

70

nghèo đƣợc quan tâm chỉ đạo, việc hỗ trợ nhà ở cho ngƣời nghèo đƣợc toàn xã hội

tham gia tích cực…

Hoặc đơn thuần là tin viết theo dạng báo cáo kết quả làm đƣợc và đánh giá

chung chung, dạng này rất phổ biến trên đài truyền thanh huyện, phần lớn ít có giá

trị thông tin mà thiên về báo cáo thành tích làm đƣợc. Ví dụ … “Thực hiện Quyết

định số 33 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo

theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015, từ đầu năm 2019 đến nay, huyện đã hoàn

thành 25/35 căn nhà cho các hộ nghèo. Việc triển khai chính sách hỗ trợ nhà ở đối

với hộ nghèo đã khẳng định chủ trương, quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà

nước”…( AQ, Đài Truyền thanh huyện Thới Bình, ngày 23/11/2019). Những thông

tin này thƣờng ít có giá trị về mặt thực tiễn đối với ngƣời nghèo. Cái họ cần là đƣợc

hỗ trợ gì, quyền lợi của họ là gì, làm gì để giảm nghèo, .v.v.

Thông tin theo lối cũ, sáo mòn, nêu theo báo cáo của các cấp, các ngành mà

rất ít tin, bài mang tính phát hiện. Đây là một hạn chế trong nội dung tin, bài mà

thời gian qua, các đài truyền thanh huyện thƣờng mắc phải. Thể hiện bằng những

tin, bài có bắt đầu bằng những từ nhƣ: Từ đầu năm đến nay, Hiện nay, Hiện tại,

Toàn huyện hiện có, Năm qua, tháng qua, đến thời điểm hiện tại…huyện này làm

được, xã kia thực hiện…và sau đó là những con số về lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã

hội …đã thực hiện đƣợc theo các báo cáo. Trên thực tế, có những thông tin chủ yếu

nêu những con số về kết quả làm đƣợc, mà không có tác dụng tích cực nào cho

ngƣời nghèo, những vấn đề gì hay ho để họ làm theo hay một chính sách gì mới có

liên quan đến họ.

Đƣa quá nhiều thông tin về hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo; dẫn đến tâm

lý ỷ lại của một số ngƣời nghèo. Nhất là hoạt động hỗ trợ quà vật cho ngƣời nghèo,

làm cho một bộ phận có tâm lý so bì lẫn nhau. Ngƣời này đƣợc hƣởng ngƣời kia

chƣa đƣợc hay trông chờ, ỷ lại sự giúp đỡ, thiếu ý chí vƣơn lên. Đƣa tin về hoạt

động từ thiện, hỗ trợ ngƣời nghèo là mong muốn của những nhà tài trợ và cấp ủy,

chính quyền địa phƣơng. Đối với phần lớn nhà tài trợ, thực ra hoạt động tài trợ

chính là một hình thức “Phô trƣơng” thanh thế của mình, một cách để tiếp cận công

71

chúng, quảng bá thƣơng hiệu đối với doanh nghiệp, cá nhân. Đối với cấp ủy, chính

quyền địa phƣơng; thông tin càng nhiều hoạt động tài trợ cũng là cách biểu dƣơng,

nhằm kêu gọi sự hỗ trợ nhiều hơn nữa cho ngƣời nghèo ở địa phƣơng. Song, đôi lúc

thông tin quá nhiều vấn đề này vô tình đài truyền thanh huyện trở thành công cụ

quảng bá không công cho doanh nghiệp, nhà tài trợ và tạo cho ngƣời nghèo tƣ

tƣởng ỷ lại, so bì, đòi hỏi, thiếu ý chí phấn đấu.

Gƣơng ngƣời nghèo vƣợt khó thƣờng sa đà vào việc kể lể tiểu sử, đời tƣ, quá

trình hoạt động, sự giúp đỡ… mà thiếu điểm nhấn, điểm chi tiết nào để ngƣời nghèo

vƣơn lên. Gƣơng ngƣời nghèo vƣợt khó thƣờng đi theo mô-típ: xuất thân từ gia đình

nghèo, đến khi lập gia đình ra ở riêng không có hoặc thiếu tƣ liệu sản xuất phải làm

thuê làm mƣớn, khi có con ăn học cuộc sống khó khăn hơn. Nhờ một bƣớc ngoặt

nào đó, nhƣ: đƣợc nhà nƣớc hỗ trợ vốn, hƣớng dẫn làm ăn; đƣợc chuyển đổi chủ

trƣơng sản xuất rồi mạnh dạn đầu tƣ vào phát triển kinh tế; đƣợc hỗ trợ nhà ở, cây

con giống sản xuất, đƣợc giới thiệu việc làm …sau đó có thu nhập, thoát nghèo.

Trong khi đó, yếu tố quan trọng là họ đã làm gì, làm ra sao để thoát nghèo hay điểm

khác biệt nào khẳng định sự vƣơn lên của họ thì ít đƣợc khai thác.

Có thể nói, nội dung thông điệp về truyền thông chính sách giảm nghèo khá

đa dạng, phong phú. Thể hiện đƣợc vai trò là tiếng nói của đảng bộ, chính quyền,

diễn đàn của ngƣời dân trong hoạt động giảm nghèo. Song, thông tin vẫn còn thể

hiện sự mất cân đối và thiếu đổi mới, phần lớn thông tin kết quả làm đƣợc, hoạt

động diễn ra mà thiếu điểm nhấn, thiếu chia sẻ, chỉ dẫn kinh nghiệm, cách thức thực

hiện. Tin, bài phần lớn đều đều, nội dung dàn trãi theo báo cáo. Lối văn còn mang

tính chính trị và báo cáo của các cấp, các ngành và thiếu rất nhiều hơi thở của cuộc

sống, của báo chí.

3.2.2. Lượng thính giả truyền thanh huyện vẫn rất ít so với dân số

Lƣợng thính giả của các đài truyền thanh huyện hiện nay còn quá ít so với

dân số. Phần lớn thính giả nghe đài là những ngƣời sinh sống ở các khu tập trung

dân cƣ, nơi có đặt hệ thống loa công cộng, chủ yếu nghe theo thụ động. Ngƣời dân

ngoài vùng ảnh hƣởng của hệ thống loa thì ít khi nghe một cách chủ động.

72

Thính giả nghe thụ động qua loa truyền thanh chiếm đến 80% trong trƣờng

hợp khảo sát chỉ xung quanh khu vực ảnh hƣởng của loa truyền thanh. Tuy nhiên,

hệ thống loa truyền thanh ở các huyện trên thực tế rất ít. Mỗi huyện bình quân

khoảng 200 đến 250 bộ loa không dây thì không thể nào có tầm ảnh hƣởng hết diện

tích cũng nhƣ hết các khu dân cƣ. Bởi các huyện đều có diện tích khá lớn, bình

quân mỗi huyện từ 45 ngàn đến 50 ngàn ha. Theo khảo sát của Sở Thông tin và

Truyền thông tỉnh Cà Mau: năm 2019, toàn tỉnh có 1.413 bộ loa không dây hoạt

động trên địa bàn 773 ấp, khóm. Bình quân mỗi ấp, khóm chỉ có 1,8 bộ loa phát

sóng không dây phục vụ ngƣời dân. Tuy nhiên, địa bàn các ấp đều lớn nên không

thể phủ sóng hết đƣợc. Các bộ loa cũng hƣ hỏng thƣờng xuyên. Đồng thời, lƣợng

loa phân bổ không đều. Có đến 176 ấp không có bộ loa nào để phục vụ đƣa thông

tin đến với ngƣời dân. Đây cũng là một hạn chế trong việc phát triển lƣợng thính giả

thụ động của truyền thanh.

Qua khảo sát, chỉ 20% nghe chủ động qua điện thoại radio nhƣng phần lớn

cũng chỉ nghe thỉnh thoảng một tuần một lần, thậm chí cả tháng một lần. Nhƣng các

trƣờng hợp này phần lớn là cán bộ hƣu trí muốn nắm thông tin về tình hình địa

phƣơng, cán bộ nắm thông tin để phục vụ công tác, những thính giả muốn biết

“thành tích” của mình đã đƣợc lên sóng chƣa…

Vẫn còn nhiều tin, bài mang nội dung truyền thông về chính sách giảm

nghèo chƣa thật sự gắn với thực tiễn cuộc sống, thiếu sinh động, không có chiều

sâu, thông tin một chiều, tính phát hiện chƣa cao. Đôi khi thông tin đƣa ra thiếu

chính xác, chủ yếu nằm ở nhận xét chủ quan của phóng viên, ý kiến đánh giá của

lãnh đạo địa phƣơng mà thiếu phản hồi của ngƣời dân nên đôi khi chƣa tạo đƣợc

lòng tin trong công chúng.

Điều này chứng tỏ chƣơng trình đài huyện vẫn thiếu hấp dẫn, còn nhàm

chán, chƣa thu hút đƣợc ngƣời dân; chƣa là địa chỉ thật sự tin cậy để họ nắm bắt

thông tin, chia sẻ tâm tƣ, tình cảm. Nếu chƣơng trình thật sự tin hấp dẫn, ít nhất vẫn

còn một lƣợng thính giả riêng sẽ tìm đến và nghe thông qua các thiết bị nhƣ điện

thoại, radio bởi hiện nay, các đài truyền thanh huyện đều đã phát sóng FM và diện

73

phủ sóng không những toàn địa bàn huyện đó mà còn phủ sang các huyện lân cận.

Đây là một thực trạng chung của phát thanh trong điều kiện hiện nay.

Qua khảo sát, chủ yếu là trong phạm vi phủ sóng của loa công cộng nhƣng

có đến 7% ngƣời dân hiếm khi nghe chƣơng trình ( cả tháng một lần), đặc biệt là có

6% cho rằng chƣa hề nghe đài truyền thanh huyện, có nghĩa là họ chƣa quan tâm

nghe. Chủ yếu là giới trẻ mới ra trƣờng, ngƣời từ nơi khác mới đến, thanh niên đi

làm ăn xa mới về … Đây là một tỷ lệ không nhỏ.

3.2.3. Sức hấp dẫn của thông tin còn thấp

Cần nhìn nhận khách quan rằng tin, bài trên đài truyền thanh huyện hiện nay

vẫn chƣa thật sự hấp dẫn ngƣời nghe do chất lƣợng thấp. Thậm chí qua khảo sát ý

kiến thính giả nghe đài, phần lớn là những ngƣời sống trong vùng ảnh hƣởng của

loa công cộng, có đến 35% ý kiến cho rằng thông tin là bình thƣờng, kém hấp dẫn.

Chƣa có sự tác động mạnh vào ý thức, tình cảm của ngƣời dân. Nội dung, hình thức

không có gì mới mẻ qua cả chục năm. Thính giả không bao giờ có thời gian hoặc

dành thời gian để ngồi nghe nhà đài kể lể lòng vòng về những chuyện không liên

quan đến họ; không tài nào nhớ thậm chí quan tâm đến những con số chi chít, dài

dòng đơn vị này làm đƣợc bao nhiêu, đơn vị kia đầu tƣ bao nhiêu…với cách hành

văn lê thê dài dòng, câu từ xa lạ, cách thể hiện phát âm chƣa tròn vành, rõ chữ .v.v.

Điều đáng nói là có đến 10% ý kiến cho rằng một số thông tin còn gây khó

hiểu. Nguyên nhân là câu cú dài dòng, quá nhiều con số, cách thể hiện của phát

thanh viên chƣa đạt. Điều này nguyên do rất nhiều ở cách làm báo của đội ngũ

phóng viên, biên tập. Một lối làm việc không thoát ly khỏi các báo cáo; ngôn ngữ

chính trị mang tính thƣợng tầng, chƣa gắn với thực tiễn cuộc sống. Từ đó, thông

điệp truyền thông trên đài truyền thanh huyện vẫn còn số ít chƣa phù hợp với đông

đảo ngƣời dân.

Nội dung thông tin, tuyên truyền về chủ trƣơng, chính sách còn khô cứng,

chủ yếu nêu nguyên văn, chƣa có sự cụ thể hóa phù hợp điều kiện thực tế. Thậm chí

ít thông tin về chính sách liên quan đến ngƣời nghèo, vùng nghèo để họ hiểu và

thực hiện. Ông Nguyễn Trần Huy, Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa, Truyền thông

74

và Thể thao huyện Phú Tân: “Hạn chế cơ bản trong truyền thông giảm nghèo ở địa

phương hiện nay là việc chuyển tải chủ trương chính sách vẫn còn nguyên bản, hơn

nữa chỉ nghe một vài lần qua phát thanh nên người dân có đôi khi khó hiểu, khó

nhớ để thực hiện. Do đó, cần có sự cụ thể hóa thành những tình huống, trường hợp

cụ thể, giải thích rõ để thực hiện nó thì phải làm gì.”

Ông Phạm Trí Thuận, Trƣởng Đài Truyền thanh huyện Thới Bình nhìn nhận:

“Một số phóng viên đôi lúc còn chạy theo số lượng, đôi khi viết để cho có và thậm

chí chưa xác định được thông tin đó để làm gì, viết cho ai, nhằm mục đích gì”

Thông tin còn trùng lắp. Tin, bài đƣợc thể hiện theo một mô típ chung.

Phóng viên chƣa khai thác đƣợc yếu tố riêng biệt của từng địa phƣơng, đơn vị.

Chính vì vậy, theo sự chỉ đạo hay theo thói quen, phóng viên thƣờng đƣa tin sự kiện

một cách chung chung theo một khuôn mẫu. Ở đâu cũng đồng chí này đánh giá cao

việc làm đƣợc, chỉ ra hạn chế, chỉ đạo các biện pháp. Nơi nào cũng triển khai thực

hiện trong điều kiện hết sức khó khăn nhƣng nhờ sự chung sức, chung lòng; toàn

thể đảng bộ, nhân dân đã đoàn kết vƣợt qua khó khăn hoàn thành xuất sắc nhiệm

vụ. Còn hạn chế yếu kém thì phần nhiều do khách quan nhƣ: thiên tai, dịch

bệnh.v.v. Phóng viên cũng chƣa thể thoát ly cách thức đƣa tin theo truyền thống là

nêu những con số đạt đƣợc rồi đánh giá ý nghĩa, ghi nhận sự cố gắng với những từ

rất kêu nhƣ: có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo động

lực thúc đẩy,.v.v. Những câu từ này thực sự không mang thông tin gì bổ ích cho

thính giả nghe đài. Nhiều thông tin cứ quanh đi quẫn lại thì Hội phụ nữ xóa nghèo,

Hội nông dân hỗ trợ vốn, Đoàn thanh niên lập nghiệp…Những tin bài liên quan đến

hoạt động của đoàn thể thƣờng chiếm hơn 40% trong tổng số thông tin phát hằng

ngày của các đài huyện. Trong khi hiện nay, hoạt động của một số hội đoàn thể cơ

sở chƣa đạt hiệu quả, vẫn còn mang tính hình thức, thậm chí gắn với những mô hình

đã có để báo cáo. Do đó, tính xác thực trong nội dung những tin, bài này cần phải

đƣợc phóng viên điều tra kỹ.

Cách thể hiện tƣơng tự nhau về nêu gƣơng, khai thác yếu tố đời tƣ, nêu thành

tích quá nhiều trong nêu gƣơng, kể lể tiểu sử nhân vật …theo một mô típ giống

75

nhau ( từ lúc sinh ra, lớn lên, đi làm, lập gia đình …) mà thiếu những chi tiết cụ thể,

cách làm thế nào để họ nổi bật, do vậy thiếu sức thu hút ngƣời nghe. Bởi tất cả điều

đó, thính giả không nhất thiết phải nghe mà cái họ cần là điểm riêng biệt từ những

tấm gƣơng đó. Biện pháp gì cho ngƣời nghèo có thu nhập khá để thoát nghèo là

điều mấu chốt cần khai thác.

Theo sự chỉ đạo hoặc yêu cầu của các cấp, các ngành, cơ sở; các đài cũng

đƣa tin khá nhiều về hoạt động từ thiện, giúp đỡ hộ nghèo, hay nêu gƣơng những

tập thể, cá nhân có thành tích giúp đỡ, hỗ trợ hộ nghèo…Việc làm này mặc tích cực

là cỗ vũ, động viên, phát huy vai trò của cộng đồng xã hội, chung tay giúp nhau

vƣợt khó; song nếu quá lạm dụng sẽ tạo cho hộ nghèo ỷ lại, trông chờ sự giúp đỡ

mà thiếu ý chí phấn đấu vƣơn lên. Vô hình chung là đài huyện trở thành công cụ

quảng cáo không công cho doanh nghiệp, cá nhân.

Rõ ràng, chỉ thông tin một cách chung chung số liệu, thành tích làm đƣợc

của đơn vị, địa phƣơng thì rất dễ nhàm chán. Chủ yếu nêu việc làm của cấp ủy,

chính quyền mà thiếu phản ánh những hạn chế, khuyết điểm, tiêu cực trong hoạt

động giảm nghèo thì chỉ thấy toàn màu hồng. Trong khi thực tế vẫn ở cơ sở còn

nhiều khó khăn và không phải chủ trƣơng nào khi đi vào cuộc sống cũng đạt hiệu

quả. Điều này, phần nhiều phụ thuộc vào sự chỉ đạo.

Phóng viên Huỳnh Văn Tiến-Đài Truyền thanh Cái Nƣớc: “… nội dung tin,

bài tuyên truyền về công tác giảm nghèo ở địa phương, chủ yếu tập trung biểu

dương, khen ngợi những người cần cù, siêng năng, vượt khó vươn lên thoát nghèo.

Còn các trường hợp chưa thật sự chí thú làm ăn, trông chờ ỷ lại sự hỗ trợ của Nhà

nước và cố tình không thoát nghèo thì chưa được phản ánh, làm cho nội dung tuyên

tuyền giảm nghèo chưa được phong phú.”

Tin, bài mang tính lễ tân thƣờng theo mô típ chung, giới thiệu quá nhiều

chức danh lãnh đạo tại một cuộc hội họp, một hoạt động. Cách thông tin đều đều,

chƣa nhấn mạnh vai trò chỉ đạo; chƣa nêu đƣợc điểm nhấn trong chỉ đạo của lãnh

đạo mà điều đó có ảnh hƣởng đến ngƣời dân. Ví dụ đồng chí A đánh giá cao kết quả

làm đƣợc, đồng thời chỉ ra một số hạn chế cũng nhƣ gợi ý một số giải pháp tới.

76

Trong khi những chỉ đạo này thƣờng mang tính chung chung và chỉ dành cho cấp

ủy, chính quyền, đoàn thể cụ thể hoá để thực hiện. Ngƣời dân ít quan tâm. Bởi họ

chỉ quan tâm đến những quyết định, giải pháp có ảnh hƣởng trực tiếp đến đời sống

của họ. Ví nhƣ một quyết sách nào đó để hỗ trợ bà con làm ăn có thu nhập, giảm

nghèo nhƣ: chuyển đổi mô hình sản xuất, hỗ trợ vốn vay, bao tiêu sản phẩm…

Tin, bài rất ít sử dụng âm thanh, tiếng động hiện trƣờng. Đây là một hạn chế

lớn về nghiệp vụ của phóng viên ở đài truyền thanh cấp huyện. Thể hiện ở khả năng

tác nghiệp, sự nhạy bén trong khai thác đề tài, tái hiện hiện trƣờng và cả trách

nhiệm với tác phẩm của mình. Tin, bài thƣờng gặp ở dạng viết rồi trích phát biểu

cho có tiếng nói nhân vật, thậm chí cho nhân vật nói lại những nội dung ngƣời viết

đã thể hiện, làm cho nội dung bài viết trở nên dƣ thừa. Thậm chí có bài viết không

có một âm thanh hay tiếng nói ngƣời trong cuộc nào để làm rõ vấn đề. Tiếng động

hiện trƣờng rất hiếm khi đƣợc sử dụng trong khi đây là minh chứng sinh động, tái

hiện cuộc sống và thu hút ngƣời nghe bởi tính hiện thực của nó.

Xét ở góc độ tiêu chí đánh giá hiệu quả truyền thông trên hệ thống phát thanh

thì thông điệp vẫn chƣa phát huy đƣợc thế mạnh âm thanh, nhằm tạo sự hấp dẫn,

sinh động và tái hiện tính chân thực cho ngƣời nghe.

3.3. Nguyên nhân thành công và hạn chế

3.3.1. Nguyên nhân thành công

Đài truyền thanh các huyện đã bám sát nhiệm vụ chính trị, có kế hoạch thông

tin phù hợp phục vụ chỉ đạo phát triển kinh tế, xã hội. Đài truyền thanh các huyện

đã cơ bản thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đƣợc giao, là cơ quan tuyên truyền của

đảng bộ, chính quyền huyện; thông tin, phổ biến chủ trƣơng, chính sách đến ngƣời

dân. Có kế hoạch thông tin phục vụ nhiệm vụ lãnh, chỉ đạo phù hợp trong từng thời

điểm. Thể hiện rõ nhất là các địa phƣơng đều thực hiện kết hợp chƣơng trình giảm

nghèo bền vững với xây dựng nông thôn mới. Cụ thể hóa việc thực hiện chƣơng

trình này thành những việc làm cụ thể, giao trách nhiệm từng công việc. Việc nào

của Nhà nƣớc, việc nào của Nhân dân, việc nào Nhà nƣớc và Nhân dân cùng làm.

Các công việc này đƣợc thông tin rộng rãi trên hệ thống truyền thanh để ngƣời dân

77

hiểu và thực hiện. Cụ thể nhƣ để giảm nghèo, ngƣời dân phải biết giúp đỡ lẫn nhau

về vốn, giống, kinh nghiệm thông qua các tổ hợp tác sản xuất, phải trao đổi và thực

hiện mô hình làm ăn, kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi cũng đƣợc chuyển giao cụ

thể…giúp ngƣời dân thực hiện.

Ông Phạm Trí Thuận, Trƣởng Đài Truyền thanh huyện Thới Bình đánh giá:

“Các cơ quan, ban ngành đã có sự phối hợp tốt trong việc hỗ trợ tác nghiệp và các

điều kiện cần thiết khác để đài truyền thanh huyện thực hiện nhiệm vụ của mình.

Trong đó, phổ biến là thông tin về những phong trào ở cơ sở thường được cung cấp

một cách đầy đủ, kịp thời…đồng thời, tạo điều kiện cho phóng viên trong hoạt động

bám sát cơ sở, khai thác thông tin một cách thiết thực hơn.”

Một vài địa phƣơng có sự sáng tạo trong chỉ đạo, thực hiện công tác giảm

nghèo ở từng địa phƣơng, đơn vị là những mãng sẽ đề tài phong phú, hấp dẫn để

phóng viên khai thác. Trong đó, phổ biến là các chủ trƣơng về giúp dân giảm

nghèo; tăng gia sản xuất trong hoa màu, cây ăn trái, phát triển nuôi cá kết hợp nuôi

tôm; chính sách chuyển giao kỹ thuật; chính sách đào tạo nghề .v.v..

Các đài đã có thay đổi nội dung và hình thức thông tin bám vào cuộc sống,

xác định nhóm đối tƣợng công chúng phục vụ. Cách đƣa tin mặc dù còn ít nhƣng đã

có thể hiện ở một vài cá nhân, đơn vị. Đó là sự đổi mới về nội dung, thông tin theo

hƣớng chắt lọc sự kiện liên quan đến ngƣời dân, có tầm ảnh hƣởng, thay đổi cơ cấu

chƣơng trình để giảm sự nhàm chán…Mặc dù ít nhƣng một vài phóng viên cũng bắt đầu

biết khai thác những thông tin mang tính chỉ dẫn, chia sẻ,…hƣớng vào từng đối tƣợng cụ

thể, nhóm thính giả hẹp hơn. Đó cũng là cơ sở để góp phần thu hút ngƣời nghe.

3.3.2. Nguyên nhân hạn chế

Tƣ duy lãnh đạo chƣa đổi mới, chƣa thấy hết vai trò của truyền thanh địa

phƣơng trong thực hiện chính sách giảm nghèo. Nhiều ngƣời còn xem truyền thanh

là công cụ để thông báo, phô trƣơng thành tích, kết quả làm đƣợc của ngành mình,

đơn vị mình. Trong công tác phối hợp, nhiều đơn vị luôn có sự “đặt hàng” để tuyên

truyền theo ý mình và đã có sự sắp đặt cho ngƣời dân. Chính vì thế mà nội dung

thông tin đôi lúc chƣa thể chính xác, sự việc vẫn bị tô hồng. Bởi tâm lý lãnh đạo địa

78

phƣơng phần nhiều ít chịu nói về hạn chế tồn tại. Báo cáo thành tích thì nêu giảm

nghèo rất hiệu quả, nhiều hộ thoát nghèo vƣơn lên…Nhƣng khi báo cáo để đƣợc hỗ

trợ thì hộ nghèo bỗng dƣng phát sinh. Đó là một thực trạng.

Dễ thấy nhất là sự can thiệp vào nội dung thông tin khi có liên quan vấn đề

hạn chế, tiêu cực. Thậm chí nhiều vấn đề nóng bỏng bị bỏ sót lọt do phải xin ý kiến

nhiều ngành, nhiều cá nhân lãnh đạo. Những thông tin về hạn chế trong thực thi

chính sách giảm nghèo, những gia cảnh khó khăn...thƣờng xuyên bị hạn chế. Chính

vì thế, bản thân phóng viên đôi khi rất khó khăn khi tác nghiệp và phải chịu ảnh

hƣởng bởi tính cục bộ địa phƣơng. Phóng viên Huỳnh Việt Tiến, Đài Truyền thanh

huyện Cái Nƣớc: “Điểm mạnh của phóng viên đài huyện là khi trên địa bàn xảy ra

sự kiện có tính thời sự cao, phóng viên đài huyện tiếp cận hiện trường và đưa tin

sớm hơn so với các cơ quan báo chí của tỉnh và Trung ương. Hạn chế, khi thông tin

các vấn đề nhạy cảm ở địa phương luôn phải cân nhắc, nhất là những phản ánh

tiêu cực.”

Các đài còn ảnh hƣởng bởi lối thông tin một chiều, nhiều thông tin bị hạn

chế nội dung bởi “sự chỉ đạo”. Ông Nguyễn Trần Huy, Phó giám đốc Trung tâm

Văn hóa, Truyền thông và Thể thao huyện Phú Tân: “Do nhiều yếu tố chủ quan và

khách quan chi phối mà thông tin trên Đài truyền thanh huyện vẫn còn mang tính

thông tin một chiều, phần lớn thông tin chuyện “chúng ta” làm mà ít phản ánh

những khó khăn, bức xúc từ cơ sở. Việc thông tin hội nghị, lễ tân theo sự chỉ đạo

một cách nhàm chán cũng là lý do khiến thính giả không mặn mà.”

Phần lớn phóng viên đài truyền thanh huyện kiêm nhiệm nhiều việc, đồng

thời, chƣa đƣợc rèn luyện trong môi trƣờng làm báo chuyên nghiệp nên chất lƣợng

tin, bài chƣa cao. Ông Kiều Thanh Nhàn, Trƣởng Đài Truyền thanh huyện Cái

Nƣớc: “ … do phóng viên “đa năng”, không phải là phóng viên chuyên đề, nên việc

tuyên truyền đôi lúc gặp khó khăn, thiếu tính chuyên sâu.”

Về mặt chủ quan thì đội ngũ quản lý truyền thanh, phóng viên, biên tập còn

ít thời gian nghiên cứu chủ trƣơng, chính sách, nhất là chính sách giảm nghèo, các

chƣơng trình phục vụ ngƣời nghèo cũng nhƣ sâu sát cơ sở để am hiểu thực tiễn. Từ

79

đó, có những thông tin chƣa thật sự phù hợp, ngƣời nghe không hiểu, không quan

tâm. Trình độ, năng lực của một số phóng viên, biên tập viên còn hạn chế, thiếu

chuyên nghiệp, thậm chí lƣời đi cơ sở. Đội ngũ những ngƣời làm báo ở đài truyền

thanh cấp huyện chƣa có sự đổi mới thật sự trong khai thác đề tài, chƣa có điều kiện

thay đổi nội dung và hình thức chuyển tải thông điệp, điều kiện tác nghiệp khó khăn.

Hệ thống thiết bị truyền thanh chƣa đƣợc đầu tƣ đồng bộ, loa phóng thanh

chƣa phủ đều hết các ấp khóm, khu dân cƣ. Song, có lúc ngƣng hoạt động do hƣ

hỏng, thiếu sửa chữa, đầu tƣ thƣờng xuyên. Trong khi đó, là khu vực đồng bằng,

diện tích các xã rất lớn, có xã diện tích tự nhiên gần 10 ngàn ha, dân cƣ phân tán

theo từng cụm nên hệ thống loa phân bổ thiếu trầm trọng. Chính vì vậy, diện tỏa

sóng của truyền thanh huyện chƣa rộng rãi đến các khu dân cƣ, nhất là những vùng

xa xôi, hẻo lánh.

Khả năng thể hiện của phát thanh viên, ngƣời dẫn còn những hạn chế nhất

định. Đó là khả năng nói, khả năng trao đổi, cách phát âm, thể hiện vấn đề đôi lúc

chƣa thật sự gần gũi. Phần lớn là phát thanh viên nghiệp dƣ, chất giọng chƣa tốt, phát

âm chƣa chuẩn giọng địa phƣơng. Các ngắt câu đôi khi gây hiểu sai ý cần thể hiện.

Kinh phí ngân sách nhà nƣớc cấp cho đơn vị sự nghiệp công lập cấp huyện

còn rất hạn chế. Song, lại không có nguồn thu từ các dịch vụ nên phần lớn những

ngƣời làm chuyên môn có mức lƣơng thấp, nhuận bút nhỏ giọt theo kinh phí khoán

cũng là nguyên nhân khiến cho việc khai thác đề tài hạn chế. Mỗi một bản tin thời

sự tổng hợp 20 phút hay một chƣơng trình chuyên đề nhuận bút chỉ tầm 200 đến

300 ngàn. Mỗi tin ngắn chỉ từ 10 đến 20 ngàn đồng, một bài viết bình quân từ 60

đến 150 ngàn đồng. Đối với cán bộ phóng viên cấp huyện, mức lƣơng hiện nay bình

quân khoảng 4 triệu đồng. Nguồn thù lao thấp, lƣơng ít là rào cản của sự sáng tạo,

sự đổi mới nội dung chƣơng trình.

Tiểu kết chƣơng 3

Thính giả bắt đầu có sự quan tâm đến chƣơng trình truyền thanh địa phƣơng.

Bây giờ, nghe đài huyện không còn là một sự “cƣỡng bức” đối với thính giả, nhất là

những ngƣời ở chung quanh hệ thống loa công cộng. Đây là một thành công.

80

Song, nhiều tin, bài trên sóng đài huyện nói chung, nội dung truyền thông về

chính sách giảm nghèo nói riêng chƣa thật sự gắn với thực tiễn cuộc sống, bài viết

thiếu sinh động, không có chiều sâu, thông tin một chiều, tính phát hiện chƣa cao.

Đôi khi thông tin đƣa ra thiếu chính xác, chủ yếu nằm ở nhận xét chủ quan của

phóng viên, ý kiến đánh giá của lãnh đạo địa phƣơng mà thiếu phản hồi của ngƣời

dân nên đôi khi chƣa tạo đƣợc lòng tin trong công chúng.

Có nhiều nguyên nhân cho vấn đề này, song, lớn nhất vẫn là tƣ duy thiếu đổi

mới của một số ngành, địa phƣơng; vẫn còn xem truyền thanh là công cụ phô

trƣơng thành tích; can thiệp vào nội dung chƣơng trình của đài; đội ngũ phóng viên

yếu, thiếu chuyên môn; thiếu kinh phí, cơ sở vật chất …

Từ đó, đòi hỏi phải có cách nhìn nhận xác đúng về vai trò, chức năng của đài

truyền thanh huyện, là một cơ quan làm báo; thông qua hoạt động chuyên môn để

thông tin, tuyên truyền, truyền thông chủ trƣơng, chính sách; trong đó có chính sách

giảm nghèo.

81

Chƣơng 4: GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG

TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO TRÊN SÓNG TRUYỀN

THANH CẤP HUYỆN

4.1. Những vấn đề đặt ra trong công tác truyền thông chính sách giảm nghèo

trên sóng đài truyền thanh cấp huyện:

Quyết định 308/QĐ-Ttg ngày 13/3/2018 của Thủ tƣớng Chính phủ về phê

duyệt đề án quản lý hoạt động truyền thanh-truyền hình cấp huyện đến năm 2020 là

cơ hội tốt cho đài truyền thanh cấp huyện phát huy, nhất là về đào tạo nguồn nhân

lực, đầu tƣ thiết bị để hoạt động. Theo đó, một số đơn vị còn đƣa vào thử nghiệm hệ

thống phát thanh theo công nghệ số qua mạng viễn thông. Các đơn vị còn lại cơ bản

đã hoàn thiện hệ thống phát thanh không dây, số hóa khâu sản xuất chƣơng trình.

Đây là một thuận lợi lớn cho cả truyền thanh cấp huyện và cấp xã hoạt động.

Tỉnh Cà Mau cũng thực hiện hoàn thành dự án phát triển sự nghiệp truyền

thanh ven biển giai đoạn 2017-2019, đầu tƣ, bổ sung 34 đài truyền thanh xã, nhằm

mở rộng phạm vi phủ sóng đài huyện. Hiện tại, toàn tỉnh có 9 đài truyền thanh

huyện, thành phố (đạt 100%) và 90/101 ( 90%) đài truyền thanh xã đã đƣợc đầu tƣ

thiết bị, phát sóng không dây. Tỉnh Cà Mau đang chuẩn bị cho kế hoạch đầu tƣ thay

thế thiết bị truyền thanh giai đoạn 2021-2023 để mở rộng phạm vi phủ sóng. Gồm

29 đài và 176 cụm loa không dây. Cùng với sửa chữa, bảo dƣỡng và nâng cấp các

thiết bị hiện có thì đây sẽ là điều kiện từng bƣớc phủ sóng truyền thanh trên phạm vi

toàn tỉnh, điều kiện để cánh sóng vƣơn xa hơn. Đặc trƣng của truyền thanh là nghe

thụ động; nên phát triển hệ thống loa công cộng là điều kiện để nâng cao tỷ lệ ngƣời

nghe đài.

Những chiếc loa công cộng xem ra ít phù hợp ở các khu đô thị ồn ào, sầm uất

nhƣng lại có tác dụng tích cực ở những vùng nông thôn, có không gian thoáng đãng.

Tiếng nói loa cộng cộng trƣớc nhất sẽ là chiếc đài báo thức, vừa là ngƣời bạn đồng

hành, nhắc nhở ngƣời dân trong việc nộp thuế, làm lộ, theo dõi giá cả thị trƣờng

nông sản, cách phòng chống dịch bệnh…Trong xu hƣớng cạnh tranh tiến đến bão

hòa thông tin, các loại hình báo chí truyền thông cũng có xu hƣớng tiến gần nhau

82

hơn, tích hợp lẫn nhau; truyền thanh, phát thanh đang có điều kiện phát triển trở lại.

Nhất là truyền thanh cấp huyện, với đặc trƣng của nó là truyền thông công cộng

miễn phí sẽ có ƣu thế hơn trong cung cấp thông tin liên quan đến ngƣời dân cơ sở,

sát với cuộc sống họ hơn; nhất là những kỹ năng xử lý những công việc hằng ngày

nhƣ cách nhận biết, phòng chống dịch bệnh, biện pháp sản xuất, chia sẻ kinh

nghiệm sống…Ở lĩnh vực này, truyền thanh công cộng chiếm ƣu thế.

Hơn nữa, công nghệ ngày càng phát triển, tiện ích ngày càng nhiều; công

chúng ngày càng thụ động; ngƣời ta chỉ tìm kiếm những thông tin mình thích theo

hƣớng “gây sốc” mà ít có thời gian tìm hiểu những vấn đề cần thiết liên quan đến

cuộc sống hằng ngày, nhất là lĩnh vực giảm nghèo. Truyền thanh địa phƣơng nếu

đổi mới cách thể hiện theo hƣớng trang bị kỹ năng sẽ thật sự cần thiết cho cuộc

sống ngƣời dân thì sẽ có tác dụng thu hút thính giả một cách tích cực.

Công nghệ phát triển, trong đó có công nghệ phát thanh sẽ là đòn bẩy tích

cực về cơ sở vật chất. Phát thanh, truyền thanh sẽ từng bƣớc phát triển theo những

hình thức hợp lý hơn, nhƣ mô hình phát sóng qua mạng viễn thông công nghệ nhƣ hiện

nay. Ngƣời nghe cũng có thể chủ động lựa chọn hình thức nghe qua hệ thống loa đƣợc

điều chỉnh theo ý thích cá nhân. Từ đó, rất tiện dụng trong tiếp nhận thông tin.

Tuy nhiên, bên cạnh thời cơ thì thách thức đặt ra cũng không nhỏ, đó là sự

cạnh tranh của các phƣơng tiện truyền thông, mạng xã hội là khá gay gắt. Truyền

thanh địa phƣơng tuy không bị lôi cuốn vào vòng xoáy cạnh tranh đó và có đặc

trƣng riêng của mình. Song, thiết bị truyền thanh còn cũ kỹ, việc trang bị công nghệ

mới chỉ là những kế hoạch thì việc đƣa thông tin đến ngƣời dân cũng hết sức khó

khăn. Xu thế phát triển của xã hội, cái gì ra đời sau luôn có xu hƣớng phủ định

những gì trƣớc nó. Các loại hình báo chí cũng không ngoại lệ. Phát thanh/ truyền

thanh là một trong những loại hình báo chí mà hiện nay vẫn còn đi theo công nghệ

truyền thống. Bản thân hoạt động báo chí phát thanh, truyền thanh cũng mang tính

truyền thống rõ nét đó là nghe một cách thụ động. Hiện nay, khái niệm tuyên truyền

không chỉ hiểu ở việc phổ biến một cách áp đặt mà có sự linh hoạt, mềm dẻo, ghi

nhận nhiều hơn ý kiến phản hồi. Tuy nhiên, lối thông tin một chiều đã ăn sâu vào tƣ

83

duy phóng viên đài truyền thanh huyện. Vì vậy, nếu bản thân ngƣời làm báo phát thanh,

truyền thanh không có sự đổi mới thì sẽ tự làm mình ngày càng xa rời thính giả.

Ngoài ra, đối với ngƣời làm nghiệp vụ phát thanh/truyền thanh từ huyện đến

cơ sở; áp lực từ sự chỉ đạo, những “đơn đặt hàng” hay “chƣơng trình nghị sự” do

các cấp, các ngành sắp đặt sẵn là một khó khăn cho sự thay đổi cách thức, nội dung,

định hƣớng thông tin. Dù am hiểu chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn nhƣng

môi trƣờng hoạt động chƣa chuyên nghiệp đã phần nào hạn chế khả năng của những

ngƣời làm báo ở cấp huyện. Tƣ duy quản lý bảo thủ ở địa phƣơng là rào cản lớn,

nhất là khâu đinh hƣớng, chỉ đạo, can thiệp vào nội dung thông tin, công việc

chuyên môn.

Lối sống vội, giới trẻ ít quan tâm những thông tin về đời sống dân sinh, kinh

tế xã hội mà chủ yếu thích thông tin sốc, sến, cƣớp-hiếp-giết, giật gân, tin giả tràn

lan…làm giảm sút đến lòng tin của công chúng vào truyền thông. Giới trẻ hiện nay

có thể bỏ phí hàng giờ cho những chiếc smartphone. Ở đó, họ có thể làm mọi việc

trên thế giới ảo. Họ cũng có thể tìm xem những thông tin để thỏa mãn sự tò mò,

hiếu kỳ hoặc chứng tỏ mình hiểu biết. Tuy nhiên, ít khi họ dành thời gian theo dõi

tin tức về kinh tế, chính trị, xã hội trên Tivi, trên đài phát thanh. Đó là một tồn tại

mà phát thanh, truyền thanh đang phải đối mặt. Bởi những ngƣời làm phát thanh,

truyền thanh chƣa tạo ra yếu tố để hấp dẫn họ, thu hút đƣợc họ.

Đối với cấp ủy, chính quyền; phải thừa nhận rằng vẫn còn những yếu kém

nhất định trong chỉ đạo, điều hành về công tác giảm nghèo chƣa đƣợc nhìn nhận

một cách đúng đắn. Khi báo chí nêu một vài gia cảnh khó khăn trên địa bàn nào đó

thì lập tức lãnh đạo địa phƣơng đó có ý kiến vì sĩ diện, bƣng bít thông tin. Hay chỉ

vì thành tích mà đôi khi những đơn vị báo cáo tỷ lệ hộ nghèo giảm đến mức lý

tƣởng, dƣới 1%; nhƣng trên thực tế, đời sống ngƣời dân vẫn còn không ít khó khăn,

có lúc túng thiếu. Ngƣợc lại, một bộ phận ngƣời dân, kể cả cán bộ còn tƣ tƣởng

trông chờ, ỷ lại không muốn thoát nghèo. Bởi thoát nghèo thì không đƣợc hỗ trợ,

không đƣợc hƣởng lợi. Thậm chí có những ngƣời còn chạy chọt để đƣợc vào danh

sách hộ nghèo. Nhiều ngƣời còn có tƣ tƣởng không làm thì cũng có Nhà nƣớc và

84

cộng đồng xã hội lo. Mặc dù chính sách giảm nghèo đang từng bƣớc chuyển dần từ

cho không sang hỗ trợ có điều kiện, nhƣng nhiều ngƣời vẫn còn ỷ lại vào chủ

trƣơng, chính sách ƣu đãi.

Về tổ chức hoạt động của hệ thống truyền thanh huyện, đề án sắp xếp bộ

máy cơ quan sự nghiệp cấp huyện ít nhiều cũng ảnh hƣởng đến công tác thông tin,

truyền thông ở địa phƣơng. Hiện nay, nhiều đơn vị hợp nhất đài truyền thanh với

trung tâm văn hóa, thể thao; theo đề án tinh giản biên chế, giảm đầu mối; biên chế

phóng viên, biên tập đã không đủ cho hoạt động lại càng giảm thêm. Nguồn kinh

phí Nhà nƣớc cấp cũng giảm. Nguồn thu thì đối với đài huyện gần nhƣ bằng không

do hiện nay, sự cạnh tranh khốc liệt của mạng xã hội và báo mạng; miếng bánh

quảng cáo bị cắt xén. Các loại hình báo chí truyền thống không còn là sân chơi mặn

mà của các doanh nghiệp trong quảng cáo, nói chi đến đơn vị nhỏ nhƣ đài truyền

thanh cấp huyện. Họ dần chuyển sang loại hình nào có nhiều ngƣời tƣơng tác hơn.

Chính vì vậy, đảm bảo cho hoạt động tác nghiệp phục vụ nhiệm vụ chính trị đã là

khó, nói chi đến chuyện đổi mới, nâng cao chất lƣợng cần nhiều tiền hơn, nhân sự

cũng nhiều hơn, sử dụng vật chất, thiết bị hiên đại hơn.

Tuy nhiên, nhƣ đã đề cập; truyền thanh huyện dù là một hình thức hoạt động

báo chí mang tính truyền thống nhƣng có sứ mệnh riêng của nó, có một đặc thù

riêng, có lƣợng thính giả riêng. Chính vì vậy, trong điều kiện của mình, đài truyền

thanh cấp huyện cần có sự điều chỉnh nội dung, hình thức thông tin phù hợp. Đặc

biệt là sự hỗ trợ, phối hợp và đồng thuận từ phía cấp ủy, chính quyền và các ngành

liên quan.

4.2. Đề xuất giải pháp nâng cao chất lƣợng truyền thông chính sách giảm

nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện

Toàn cầu hóa, hội nhập đang tạo nên nhiều cơ hội phát triển, song cũng đặt

ra không ít khó khăn và phức tạp. Mặt trái của cơ chế thị trƣờng đó chính là sự phân

hóa giàu nghèo ngày càng diễn ra. Chính vì vậy, công tác giảm nghèo luôn là một

trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta,

mục tiêu là chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần, giúp ngƣời nghèo có điều

85

kiện hƣởng thụ và tiếp cận các dịch vụ xã hội. Việc xây dựng, ban hành và thực thi

chính sách đang từng bƣớc hoàn thiện qua từng giai đoạn. Công tác giảm nghèo

đang chuyển từ cho không sang hỗ trợ có điều kiện với phƣơng châm: nhà nƣớc hỗ

trợ, cộng đồng tiếp sức, ngƣời nghèo phấn đấu vƣơn lên.

Cùng với các cơ quan trong hệ thống chính trị, báo chí có vai trò quan trọng

là kênh truyền thông tích cực; nhằm góp phần đƣa chủ trƣơng, chính sách đi vào

cuộc sống; đồng thời, định hƣớng tạo động lực cũng nhƣ góp phần nâng cao ý thức

và hành động xã hội, nhất là ý chí vƣơn lên của ngƣời nghèo, góp phần thực hiện tốt

mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Đài truyền thanh cấp huyện là cơ quan có hoạt động báo chí sâu sát cơ sở

nhất, gần dân nhất, có nhiệm vụ quan trọng trong công tác tuyên truyền, cổ vũ, động

viên, phản ánh, phổ biến…nhằm làm thay đổi nhận thức của ngƣời nghèo và cộng

đồng xã hội; góp phần giảm nghèo bền vững. Trong giai đoạn mới, thời cơ, lợi thế

có nhiều nhƣng thách thức đặt ra cũng không nhỏ; đòi hỏi công tác truyền thông

chính sách nói chung, chính sách giảm nghèo nói riêng ở đài truyền thanh cấp

huyện phải đổi mới thực sự. Qua khảo sát, đánh giá; cá nhân xin đƣa ra một số giải

pháp cơ bản, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách giảm

nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện sau đây.

4.2.1. Đổi mới nội dung và hình thức thông tin

Đây là một yêu cầu quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với đài truyền thanh

cấp huyện, không chỉ riêng về công tác giảm nghèo mà trên nhiều lĩnh vực khác.

Đổi mới nội dung, hình thức thông tin là vấn đề cần phải thực hiện thƣờng xuyên và

liên tục, góp phần tạo nên “món ăn tinh thần” bổ ích cho ngƣời dân, nhất là ngƣời

nghèo. Tin, bài có phong phú, hấp dẫn, lôi cuốn, sinh động và liên quan trực tiếp

đến những việc thƣờng ngày của thính giả thì mới có thể thu hút họ đƣợc. Thông tin

thiết thực là cách tốt nhất để duy trì, bổ sung lƣợng thính giả đến với chƣơng trình

của đài. Một khi công chúng tự nguyện đến với chƣơng trình thì mới có thể đánh

giá là ít nhiều có sự thành công. Nếu cứ giữ theo cách thông tin một chiều, chung

chung nhƣ hiện nay thì chƣơng trình chắc chắn sẽ nhàm chán, sẽ mất dần thính giả.

86

Do đó, yếu tố quan trọng trƣớc tiên là phải đổi mới và nâng cao chất lƣợng thông

tin qua nội dung và hình thức thể hiện thông điệp trên sóng.

Về nội dung

Thứ nhất là thông tin cần phải mang nhiều hơn hơi thở cuộc sống. Để làm

đƣợc điều này, trƣớc hết chất liệu để thông tin cần có sự kết hợp giữa báo cáo của

các ngành, đơn vị với thực tiễn cuộc sống qua cách nhìn, quan sát, thu thập, điều tra

của phóng viên, biên tập viên. Thay vì đƣa tin chỉ dựa vào báo cáo thì phóng viên

cần phải có sự kết hợp những con số, những thông tin từ báo cáo với quan sát, điều

tra, tìm hiểu về đời sống, tâm tƣ nguyện vọng của ngƣời dân từ cơ sở, khảo sát ý

kiến đánh giá của các cấp, các ngành có thẩm quyền, ý kiến của chuyên gia …để

tìm hiểu, đánh giá dựa vào nhiều khía cạnh khác nhau. Trên thực tế, những con số

từ báo cáo ít nhiều cũng đã qua “xử lý” của các cấp, các ngành. Nên đôi khi đó chỉ

là môt sự tham khảo mà không thể hoàn toàn là tuyệt đối. Còn hiện tại khách quan ở

cơ sở mới là thực tế cuộc sống. Đƣơng nhiên, phóng viên không phủ nhận những

báo cáo kết quả của các cấp, các ngành, song đó coi nhƣ là sự đánh giá tổng thể mà

phần nhiều thuộc về vai trò của cấp ủy, chính quyền. Cho nên cần phải khai thác và

thông tin theo hƣớng ghi nhận nhiều hơn tiếng nói từ cơ sở, không chỉ nêu giải

pháp, cách làm từ phía cấp ủy, chính quyền, ngành chức năng mà trong đó có cả

tiếng nói của ngƣời dân, cần tạo điều kiện cho ngƣời dân tin tƣởng bày tỏ tâm tƣ,

tình cảm của họ. Đó chính là thƣớc đo sự đồng thuận khi nghị quyết đi vào cuộc

sống. Điều này, góp phần giúp cho các cấp, các ngành có một cách nhìn sát đúng

hơn về bức tranh toàn cảnh cuộc sống của ngƣời dân, hơi thở cuộc sống ở cơ sở;

hiểu đƣợc tâm tƣ, nguyện vọng của ngƣời dân; từ đó, có sự điều chỉnh chủ trƣơng,

chính sách cho hợp lý.

Thứ hai là nên cung cấp những thông tin người dân cần hơn là báo cáo

những việc “chúng ta” làm. Đối với ngƣời dân: tìm việc làm ở đâu, làm gì chính

đáng để có tiền, việc gì phù hợp, nuôi con gì, trồng cây gì để giảm nghèo…sẽ quan

trọng hơn là nghe báo cáo thành tích xã kia, huyện nọ làm đƣợc với những con số

đã qua xử lý. Cái họ cần cũng không phải thành tích, kết quả làm đƣợc của ngƣời

87

khác mà để làm đƣợc điều đó phải thực hiện thế nào, bản thân họ có áp dụng đƣợc

không; để chăn nuôi có hiệu quả họ cần phải tiến hành các bƣớc thế nào, hay kỹ

thuật trồng rau trên đất mặn ra sao. Những đánh giá chung chung nhƣ: “Đạt đƣợc

kết quả đó là do sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của cấp trên; cộng với vai trò tích cực

của cấp ủy, chính quyền, nhân dân đã đoàn kết chung sức, chung lòng vƣợt qua khó

khăn, thử thách, có nhiều sáng tạo để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đƣợc giao…Tuy

nhiên, hạn chế đặt ra do thiếu cán bộ, thiếu vốn, thời tiết bất lợi ảnh hƣởng tới kết quả

đạt đƣợc …” Những thông tin trích trong báo cáo thế này ngƣời dân thật sự không cần

lắm. Quan trọng là họ đƣợc gì từ chƣơng trình nọ, chính sách kia.

Thứ ba là tăng cường thông tin theo hướng chia sẻ, trao đổi, trang bị kỹ

năng trong cuộc sống cho ngƣời dân để họ có thể thực hiện thay cho việc chỉ nêu

những kết quả của chƣơng trình hay định hƣớng mang tầm “kiến trúc thƣợng tầng”.

Chẳng hạn, khi nêu chƣơng trình hỗ trợ ngƣời dân cất nhà theo quyết định 33 của

Thủ tƣớng Chính phủ về hỗ trợ nhà ở cho ngƣời nghèo thì phải làm rõ vấn đề kinh

phí. Ví nhƣ: nhà nƣớc hỗ trợ bao nhiêu; hộ nghèo phải vay bao nhiêu; hình thức

vay, thời gian, lãi suất; huy động cộng đồng hỗ trợ; vốn ngƣời dân tự bỏ ra … để

hoàn thiện căn nhà. Vấn đề cốt lõi là để ngƣời dân hiểu chƣơng trình này không

phải cho không mà là hỗ trợ có điều kiện, bởi một phần kinh phí cất nhà ngƣời

nghèo phải vay ngân hàng chính sách xã hội. Dù lãi suất rất thấp nhƣng có vay thì

có trả, từ đó, họ mới có sự quyết tâm làm ăn để trả nợ vay. Căn nhà cất phải đảm

bảo 3 cứng, vậy ba cứng đó là những yếu tố nào cần phải nêu rõ. Trƣớc nay, hầu hết

phóng viên đài truyền thanh huyện đƣa tin chủ yếu nói những cái đã làm hay mục

đích, ý nghĩa của chƣơng trình một cách chung chung mà chƣa khai thác yếu tố này.

Thay vì cứ nói chung chung là huyện này chỉ đạo quyết liệt; xã kia, ngành nọ đã tập

trung tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức …một cách sáo rỗng thì nên hƣớng

dẫn ngƣời dân biện pháp nuôi heo, xử lý ao đầm nuôi tôm ra sao, cách cải tạo đất,

bón phân trồng màu thế nào .v.v. sẽ thiết thực hơn. Khi nói về gƣơng vƣợt khó

thoát nghèo không nên chỉ chú trọng vai trò giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền mà

phải làm rõ yếu tố quyết định là ý chí vƣơn lên của hộ nghèo. Hơn nữa, thay vì để

hộ dân nói về kết quả làm đƣợc thì nên cho họ chia sẻ cách họ làm gì để vƣơn lên

88

thoát nghèo. Thay vì chỉ kể lể tiểu sử, đời tƣ thì nên đi thẳng vào vấn đề, khai thác

khía cạnh, việc làm nào đã làm thay đổi cuộc sống của họ. Từ đó, làm cầu nối để họ

chia sẻ, thông tin cho những ngƣời khác tham khảo, áp dụng. Các đài truyền thanh

huyện còn bỏ ngỏ chƣa khai thác hiệu quả khía cạnh này.

Thứ tư là thông tin trên đài truyền thanh huyện nên đổi mới theo cách đưa

tin nêu những quyết sách, vấn đề trọng tâm có ảnh hưởng đến nhiều người. Thay vì

chỉ xoay quanh giới thiệu lãnh đạo dự hội nghị hay kiểm tra, thăm hộ nghèo rồi ghi

nhận, đánh giá, chỉ đạo…,mà nên thể hiện kết quả gì, quyết sách gì ảnh hƣởng đến

ngƣời dân qua chuyến làm việc đó, hội nghị đó hay trong chỉ đạo đó của lãnh đạo

thì sẽ có tác dụng tích cực hơn. Qua đó, còn góp phần nâng tầm của ngƣời lãnh đạo

bởi những quyết sách của họ thật sự có tác động tích cực đến đời sống ngƣời dân.

Nên thay cách nói đại loại nhƣ: … “dự và chỉ đạo hội nghị, đồng chí A đánh giá cao

kết quả đơn vị làm đƣợc, chỉ ra một số mặt hạn chế và chỉ đạo nhiều giải pháp quan

trọng thời gian tới…” bằng cách nhấn mạnh quyết sách nào trong chỉ đạo của đồng

chí đó là quan trọng. Có thể theo hình thức: “dự và chỉ đạo hội nghị tổng kết hoạt

động giảm nghèo ở xã B, đồng chí A, chủ tịch huyện nhấn mạnh…Xã B năm nay sẽ

có 200 hộ đƣợc hỗ trợ vốn sản xuất, thực hiện mô hình thí điểm giảm nghèo bằng

cách nuôi cua biển, đối tƣợng đƣợc hỗ trợ là…”. Thông tin dạng này sẽ có tác dụng

tích cực hơn đối với ngƣời dân.

Thứ năm là thông tin về phổ biến chủ trương, chính sách nên cụ thể hóa

bằng những tình huống, câu chuyện cụ thể trong cuộc sống, giúp ngƣời dân dễ hiểu

và thực hiện. Không nên nêu toàn văn các chủ trƣơng, chính sách một cách liên tục

từ mục này qua mục khác nhƣ thời gian qua. Cách thông tin kiểu này thính khó tiếp

nhận và không kịp hiểu qua sóng phát thanh. Qua câu chuyện anh A thực hiện có

hiệu quả mô hình sản xuất VAC có thu nhập để giảm nghèo, có thể lồng ghép, đánh

giá và phổ biến những vấn đề cốt lõi trong chính sách khuyến khích ngƣời dân phát

triển kinh tế tổng hợp cây trái, hoa màu, ao cá, chăn nuôi heo gà vịt, nuôi tôm, nuôi

cua…để phát triển kinh tế. Qua đó, có thể khẳng định vai trò tiếp sức, giúp đỡ của

cấp ủy, chính quyền, đoàn thể…bằng giải pháp thiết thực nào giúp anh A thoát

89

nghèo theo chủ trƣơng, chính sách của đảng bộ huyện, xã. Cái cốt yếu là để ngƣời

dân biết đƣợc tinh thần của chính sách đó là họ phải làm gì bởi rõ ràng không ai có

thể nghe một vài lần là có thể hiểu đƣợc những chính sách vài trang, thậm chí vài

chục trang.

Thứ sáu là thông tin cần có điểm nhấn trên cơ sở khai thác được chi tiết đắc

giá trong tác phẩm, không nên dàn trải và chung chung. “Chi tiết” đắc giá là linh

hồn của tác phẩm, giúp làm nổi bật vấn đề. Khai thác chi tiết trong phát thanh

không phải dễ. Để tìm đƣợc chi tiết và khai thác có hiệu quả chi tiết đó, đòi hỏi

ngƣời phóng viên phải có sự quan sát. Tuy nhiên cũng không phải đòi hỏi cao siêu

mà có thể nó là một điểm nhấn nào đó làm thay đổi cuộc sống của họ. Thông

thƣờng, chi tiết đƣợc thể hiện qua tiêu đề của tác phẩm phát thanh hoặc trong lời

dẫn và đƣợc làm rõ, thể hiện xuyên suốt trong bài viết. Ví dụ: “Ông A thoát nghèo

từ nuôi sò huyết.” Thì sò huyết có thể xem nhƣ là chi tiết cần tập trung khai thác

làm sao để ông A thoát nghèo.

Đổi mới nội dung theo hƣớng thông tin những gì liên quan đến đối tƣợng

thính giả mình tác động sẽ có hiệu quả cao hơn nói những vấn đề chung chung một

cách dàn trải, sẽ hay hơn chỉ nói những việc chúng ta làm đƣợc.

Về hình thức

Cùng với đổi mới về nội dung, các đài nên đổi mới và đa dạng hóa hình thức

thể hiện nhằm tạo nên sức hút, hấp dẫn thính giả. Hình thức kết cấu chƣơng trình

phát thanh trên sóng đài truyền thanh huyện cơ bản chƣa có sự đổi mới nào nổi bật

trong nhiều năm qua. Một khuôn mẫu thƣờng lặp đi, lặp lại và trở thành công thức

trong cách thể hiện tin, bài cũng nhƣ format chƣơng trình.

Yếu tố quan trọng trước tiên là tăng cường sản xuất chương trình chuyên đề

về giảm nghèo. Phần lớn các đài truyền thanh huyện trong diện khảo sát chƣa sản

xuất chƣơng trình theo chuyên đề. Một số đài có sản xuất theo chuyên đề nhƣng chủ

yếu là cộng tác trên sóng đài tỉnh. Cho nên cần có chƣơng trình chuyên đề và phát

sóng cố định trong thời gian phù hợp để ngƣời dân dễ tiếp nhận. Bản thân chƣơng

trình theo chuyên đề sẽ đi theo một mạch vấn đề, ngƣời dân sẽ dễ tiếp nhận hơn.

90

Một chuyên đề về cất nhà cho ngƣời nghèo có thể bắt đầu bằng một phóng sự nói về

kết quả triển khai thực hiện chính sách, quyết định 33 của Thủ tƣớng Chính phủ về

hỗ trợ nhà ở cho ngƣời nghèo. Tiếp đó là một bài viết, ghi nhận, phỏng vấn cấp ủy,

chính quyền về cách thức thực hiện chƣơng trình, hay phỏng vấn nhà tài trợ về hình

thức hỗ trợ ngƣời nghèo, phỏng vấn ngân hàng về cách hỗ trợ vốn vay, lãi suất ƣu

đãi, hay phỏng vấn chính hộ nghèo về nỗ lực của họ..vv. Sau đó có thể là một bài

viết ghi nhận tinh thần vƣợt khó của hộ nghèo từ động lực của chƣơng trình… Sản

xuất chƣơng trình theo hƣớng này sẽ có tác động tích cực hơn, ngƣời nghe dễ tiếp

nhận và dễ thực hiện hơn dạng tin, bài đơn lẽ phát trong chƣơng trình tổng hợp.

Thứ hai là đổi mới hình thức thể hiện, thay đổi format chương trình. Chƣơng

trình phát thanh của các đài truyền thanh huyện thời gian qua thƣờng cố định. Bắt

đầu bằng phần tin tức và sau đó là một bài viết theo chuyên đề ấn định sẵn, thậm chí

có đài không có chuyên mục, chuyên đề gì mà chỉ là một bản tin tổng hợp theo công

thức: nhiều tin và một bài làm nên một chƣơng trình. Tin bao giờ cũng đi trƣớc, bài

bao giờ cũng đi sau và kết thúc chƣơng trình. Đó là một công thức. Và vì nhiều lý

do khác nhau, có thể là kinh phí, năng lực phóng viên hay những yếu tố khác mà

trong chƣơng trình thời lƣợng khoảng 15 đến 20 phút thì luôn có từ 9 đến 10 tin và

một bài ở những vị trí cố định nhƣ vậy. Chính vì vậy, thay đổi ở đây trƣớc mắt là

nên sử dụng tổng hợp nhiều loại thể tài báo chí trong một bản tin, một chƣơng trình,

nhƣ: tin, phóng sự, phỏng vấn, ghi nhanh, hoặc tọa đàm …và cơ cấu theo chuỗi sự

kiện, theo chủ đề, không nên cố định cứng nhắc tin trƣớc, bài sau rồi kết thúc

chƣơng trình. Cách làm này sẽ đa dạng hóa cách thức thể hiện, khai thác đƣợc nhiều

khía cạnh khác nhau của vấn đề và hạn chế sự nhàm chán cho thính giả khi tiếp

nhận thông tin.

Thứ ba là tăng cường sản xuất các chương trình theo hướng ghi nhận nhiều

hơn ý kiến từ các nhà lãnh đạo, doanh nghiệp, nhất là người dân… để thu thập ý

kiến nhiều chiều một cách khách quan hơn thay cho chƣơng trình chỉ có cách nhìn

qua lăng kính của phóng viên, sự sắp đặt của ban biên tập hay sự chỉ đạo một phía

từ các cấp, các ngành. Đài truyền thanh huyện thì khó thực hiện các chƣơng trình

91

trực tiếp cho thính giả gọi vào phòng thu, trao đổi chia sẻ. Nhƣng hoàn toàn có thể

sản xuất chƣơng trình gián tiếp, trao đổi gián tiếp. Đó là đƣa ra vấn đề, ghi nhận ý

kiến nhiều chiều từ phía ngƣời dân, chắt lọc ý kiến và tổng hợp thành một chƣơng

trình để phát sóng, sau đó, ghi nhận ý kiến phản hồi. Ví nhƣ khi nói về một giải

pháp giảm nghèo hiệu quả có thể đƣa ra một mô hình làm ăn cụ thể, sau đó ghi nhận

ý kiến nhiều ngƣời đánh giá, nhận định để phát sóng. Sau phát sóng ghi nhận ý kiến

phản hồi. Khi ấy, cần khuyến khích, tạo điều kiện để thính giả gọi điện hoặc đóng

góp trực tiếp ý kiến…nhằm hoàn thiện chƣơng trình lần sau tốt hơn. Làm đƣợc điều

này, đài truyền thanh huyện sẽ có một kênh thông tin quan trọng ghi nhận sự phản

hồi của thính giả cả về chủ trƣơng, chính sách; cả về tính chân thực của nội dung

thông tin, cả cách thức thể hiện, chất lƣợng chƣơng trình .v.v. Qua đó, từng bƣớc

hoàn thiện hơn, phục vụ công chúng hiệu quả hơn.

Thứ tư là khai thác có hiệu quả thế mạnh âm thanh, linh hồn của phát thanh.

Thông tin trên đài truyền thanh huyện hầu nhƣ rất ít khai thác thế mạnh âm thanh,

một lợi thế của phát thanh mà không loại hình báo chí khác nào có đƣợc. Âm thanh

sẽ góp phần tái hiện hình ảnh qua trí tƣởng tƣợng của thính giả, tạo nên sự phong

phú và sinh động, hấp dẫn ngƣời nghe. Âm thanh bao gồm lời nói, tiếng động và âm

nhạc. Lời nói có lời dẫn của phát thanh viên, biên tập viên dẫn dắt chƣơng trình; lời

nói của nhân vật làm tăng thêm tính chân thực của ngƣời trong cuộc khi đánh giá

vấn đề. Tiếng động hiện trƣờng là bằng chứng sinh động nhất cho sự kiện diễn ra.

Qua đó, thính giả có thể hình dung đƣợc cả không gian, thời gian sự kiện đó diễn ra.

Nó có tính thuyết phục hơn gấp nhiều lần những lời dẫn chay hay miêu tả của phát

thanh viên, biên tập viên. Thay vì một đoạn miêu tả : Mới sáng sớm tinh sƣơng, mọi

ngƣời đã cùng nhau chuẩn bị ngƣ cụ cho một chuyến ra khơi.v.v. Thì hãy để cho âm

thanh thể hiện. Đó là tiếng gà gáy sáng, tiếng ngƣời ngáy ngủ gọi nhau chuẩn bi

ngƣ cụ, tiếng còi tàu, tiếng đề máy vang lên… thì sẽ sinh động hơn rất nhiều. Theo

đó, âm nhạc có tác dụng tích cực trong việc giảm bớt sự nhàm chán khô khan của

thông tin, làm cho cách thể hiện mềm dẽo và nghệ thuật hơn khi bài viết có âm nhạc

đúng chủ đề làm nền. Âm nhạc thƣờng hiện diện trong các chƣơng trình của đài

truyền thanh huyện với vai trò là lời xƣớng cho một thƣơng hiệu của đài và chia

92

cách các nội dung thông tin. Các đài chƣa sử dụng nhiều trong việc làm nền cho

một tin, bài viết. Theo đó, chƣơng trình của đài huyện cũng hiếm khi sử dụng hình

thức có phóng viên dẫn tại hiện trƣờng kết hợp âm thanh, tiếng động hiện trƣờng.

Thế mạnh này cần đƣợc khai thác để làm sinh động, hấp dẫn cho nội dung thông

tin. Đây cũng là yếu tố níu kéo thính giả ở lại với chƣơng trình. Nếu không, họ sẽ

quay đi vì cứ nghe giọng đọc nhàm chán.

Thứ năm là hình thức tin, bài, câu cú cần được diễn tả ngắn hơn, nội dung

súc tích hơn. Câu trong phát thanh có thể chấp nhận thiếu chủ ngữ nhƣ phải đảm

bảo lô-gic trong văn cảnh. Một hạn chế mà nhiều đơn vị còn mắc phải là viết quá

dài dẫn đến lòng vòng, khó hiểu. Đều này có một phần nguyên nhân từ phía tƣ duy

cục bộ địa phƣơng phải đảm bảo vai trò lãnh đạo trong một câu, một đoạn, một tin.

Hoặc có sự so bì sao tin, bài nói về lãnh đạo này nhiều mà ngƣời kia lại ít. Song,

phần lớn thể hiện ở khả năng, thói quen của phóng viên, biên tập viên, hay đơn giản

là kéo dài để đủ thời lƣợng. Theo đó, phần lớn còn viết theo các báo cáo nên cũng

sử dụng khá nhiều câu bị động và tính từ không có giá trị về mặt thông tin. Đại loại

nhƣ …”công tác này đƣợc huyện quan tâm chỉ đạo thực hiện tích cực.” Thực tế cho

thấy, thông tin trong phát thanh, động từ có tác dụng mạnh hơn tính từ, câu chủ

động dễ tiếp thu và mang thông tin nhiều hơn câu bị động. Câu ngắn, đơn giản thì

ngƣời nghe dễ tiếp thu và dễ nhớ hơn câu dài. Đặc biệt là hạn chế sử dụng nhiều

những con số, khi sử dụng cần có sự chọn lọc, tổng hợp và nên làm tròn. Bởi ngƣời

nghe phát thanh không có thời gian đọc lại nhƣ trên báo giấy. Nên thay vì nói con

số chính xác là 1.001 thì hãy nói hơn 1 ngàn sẽ dễ nhớ hơn, thay vì nói một phẩy 5

tỷ thì nên nói là một tỷ rƣỡi sẽ dễ tiếp thu hơn. Do đó, lời khuyên là một câu dài nên

nghiên cứu có thể chia ra thành nhiều câu ngắn; câu bị động nên chuyển sang chủ

động; số lẻ nên làm tròn, sử dụng động từ thay cho tính từ .v.v. hạn chế viết những

câu nhƣ: “Xã không ngừng quan tâm đẩy mạnh phong trào giảm nghèo” trên sóng

phát thanh. Bởi nếu ngƣời nghe bị ảnh hƣởng nguyên nhân nào đó nghe thiếu chữ

“không”, hoặc chữ “ngừng” thì câu sẽ khác nghĩa đi. Tóm lại câu trong phát thanh

phải rõ ràng, dễ hiểu.

93

Thứ sáu là thay đổi cách thể hiện của phát thanh viên. Đây là một trong

những vấn đề quan trọng về hình thức thể hiện. Vấn đề đặt ra là cần phải phá vở lối

thể hiện cũ của phát thanh viên đã không còn phù hợp. Trƣớc nay, phát thanh viên

các đài truyền thanh huyện vẫn thể hiện theo lối truyền thống là đọc tin giúp thính

giả một cách bài bản. Tuy nhiên, là “Bộ mặt” của nhà đài; phát thanh viên phải thể

hiện vai trò là ngƣời bạn đồng hành của thính giả trong từng cung bậc, chia sẻ vui

buồn cùng thính giả. Thế nên, việc đọc thông thạo và tình cảm tin, bài thì chƣa thể

hiện hết điều đó. Phát thanh viên ngày nay không nên đọc cho thính giả nghe mà

phải thể hiện là một ngƣời bạn, đang nói chuyện, đang chia sẻ cùng thính giả về một

vấn đề nào đó. Có nghĩa là tôi đang nói, đang trò chuyện với bạn chứ không phải tôi

đọc cho bạn nghe. Điều này, thính giả sẽ có cảm giác thân thiện và gần gũi hơn, họ

nhƣ đƣợc tham cuộc trò chuyện, khi ấy, hiệu quả truyền thông sẽ đạt cao hơn.

Thứ bảy là nên phát huy loại hình “Câu chuyện truyền thanh”. Câu chuyện

ngắn gọn, có lời thoại để diễn tả một tình huống cụ thể nào đó. Qua đó, giúp thính

giả tiếp cận chủ trƣơng, chính sách hiệu quả hơn. Nhất là những tình huống thƣờng

ngày trong đời sống giảm nghèo. Trong điều kiện hiện nay, các đài truyền thanh cấp

huyện đều thực hiện hợp nhất với trung tâm Văn hóa-Thể thao huyện thì việc làm

này là hoàn toàn nằm trong tầm tay. Đây cũng là một hình thức để làm cho một câu

chuyện truyền thông về chính trị trở nên mềm dẻo, có tính nghệ thuật hơn, công

chúng dễ tiếp cận hơn qua những tình huống thực tế cuộc sống. Từ đó, mới có thể

chạm đến tình cảm của thính giả, giúp hiệu quả truyền thông đƣợc nâng cao.

4.2.2. Thay đổi tư duy lãnh đạo, cách thức tổ chức thông tin

Thay đổi tƣ duy lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện thông tin và truyền

thông là một khâu quan trọng. Ở đây thể hiện ở sự chỉ đạo của cấp trên, sự phối hợp

của các cơ quan khác với đài truyền thanh cấp huyện trong hoạt động thông tin,

truyền thông. Các ngành nên thay đổi cách nhìn, không nên can thiệp quá sâu vào

nội dung thông tin của đài truyền thanh và cũng không nên coi đài truyền thanh là

công cụ để phô trƣơng thành tích của cơ quan, đơn vị mình. Mà ở đó là sự phối hợp

thực hiện, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả truyền thông chính sách, trong đó có

94

chính sách giảm nghèo. Điều này thể hiện rất rõ là khi có những thông tin phản ánh

tiêu cực thì luôn có sự can thiệp, thậm chí sử dụng quyền lực cấp trên chỉ đạo chụp

mũ. Hay khi phối hợp với các đơn vị, cơ quan thực hiện một đề tài, chƣơng trình

nào đó thì hẵn có sự sắp đặt để mọi ngƣời cùng “diễn”, mà đạo diễn chính là cơ

quan phối hợp đó. Điều này ít nhiều tô vẽ thêm cho thành tích của cơ quan, đơn vị

nhƣng đôi khi chƣa đúng và không sát với thực tế, gây mất lòng tin trong nhân dân.

Cần có những bài viết phản ánh hạn chế, tiêu cực khi chính sách đi vào cuộc

sống nhằm góp phần điều chỉnh chính sách cho phù hợp thực tiễn. Điều này đòi hỏi

các cấp lãnh đạo, quản lý và các ngành phối hợp phải thay đổi tƣ duy, có cách nhìn

thông thoáng, không chạy theo thành tích, không áp đặt và không can thiệp sâu vào

hoạt động thông tin của đài nhƣ đã nói trên. Đồng thời, ngƣời lãnh đạo đài phải có

bản lĩnh, dám thông tin và dám nhận trách nhiệm, bảo vệ cái đúng của thông tin;

nhất là những tiêu cực, những bức xúc từ cơ sở.

4.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng cho phóng viên, biên tập viên, phát

thanh viên

Phóng viên đài truyền thanh huyện dù một số đã đƣợc đào tạo, tập huấn

nhƣng chƣa hoạt động trong môi trƣờng báo chí chuyên nghiệp. Họ thƣờng là

những ngƣời kiêm nhiệm hai ba trong một ( phóng viên, biên tập, quay phim, phát

thanh viên cả kỹ thuật viên khi cần thiết), vì vậy thiếu khả năng chuyên sâu. Do cán

bộ ít, phải kiêm nhiệm nên họ thƣờng bị chi phối các công việc khác, cũng nhƣ

thƣờng xuyên dành thời gian thông tin cho những hoạt động của lãnh đạo nên ít có

thời gian tự đi, tự khai thác. Một số ít tin tức viết theo sự chỉ đạo, theo báo cáo nên

sự việc thƣờng bị “tô hồng”, thiếu hơi thở cuộc sống. Chính vì vậy, cần phải có

những phóng viên mang tính chuyên nghiệp đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng và hoạt động

chuyên về một lĩnh vực. Để làm đƣợc điều này, trong đề án vị trí, việc làm của các

đài truyền thanh huyện cần ƣu tiên nhiều cho biên chế phóng viên, giúp họ vừa có

đủ thời gian tham gia những hoạt động “theo đơn đặt hàng”, theo sự chỉ đạo…đồng

thời, còn dành thời gian tìm hiểu, khai thác những đề tài ở cơ sở. Các cấp lãnh đạo

cũng nên ƣu tiên về biên chế phóng viên để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ. Trên

95

thực tế, ở các đài huyện hiện nay, biên chế phóng viên chỉ từ 1 đến 2 ngƣời, còn lại

đều là kiêm nhiệm.

Tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng về chính trị chuyên môn nghiệp vụ cho đội

ngũ những ngƣời làm báo ở cấp huyện đồng thời với tạo điều kiện cho họ sâu sát cơ

sở hơn nữa để trải nghiệm cuộc sống. Qua đó, giúp phóng viên hiểu hơn về cuộc

sống dân sinh cùng với tâm tƣ, nguyện vọng của ngƣời dân, nhất là gia cảnh hộ

nghèo, nhu cầu chính đáng của họ để phóng viên thể hiện đƣợc vai trò là cầu nối

giữa cấp ủy, chính quyền với ngƣời nghèo, có thể huy động doanh nghiệp tham gia

giúp đỡ, tiếp sức hộ nghèo. Từ đó, cũng giúp phóng viên xác định đƣợc cách thức

thông tin phù hợp trong tiếp cận ngƣời nghèo để họ phần nào hiểu đƣợc chủ trƣơng,

ý thức đƣợc nhiệm vụ của mình, tự lực vƣơn lên không trông chở, ỷ lại.

Đồng thời, tích cực đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ phát thanh viên. Đây là bộ

mặt thể hiện không chỉ của đài truyền thanh huyện mà là của đảng bộ huyện; là

“cửa sổ” giao tiếp giữa đài với thính giả nên cần có phát thanh viên có năng lực thể

hiện, biết giao tiếp trên sóng; nhằm dẫn dắt thông tin đạt hiệu quả, đảm bảo thông

tin đi vào lòng ngƣời. Bản tin mặc dù viết hay thế nào đi nữa nhƣng phát thanh viên

thể hiện chƣa đạt cũng coi nhƣ không thành công. Giọng nói của phát thanh viên

chính là đặc trƣng của đài, là tín hiệu để thính giả nhớ đến chƣơng trình của đài.

Phát thanh viên phải là ngƣời bạn đồng hành, chia sẻ, hiểu biết, tin tƣởng đối với

thính giả. Có nhƣ vậy, hiệu quả thông tin, tuyền thông mới đạt cao. Để làm đƣợc

điều đó, phát thanh viên cần phải đƣơc bồi dƣỡng nghiệp vụ một cách bài bản. Thực

tế đến nay, ở Việt Nam chƣa có một chuyên ngành nào đào tạo chuyên nghiệp về

nghiệp vụ phát thanh viên. Chính vì vậy, cùng với năng khiếu bẩm sinh về chất

giọng, cách thể hiện (và cả ngoại hình với phát thanh viên truyền hình); phát thanh

viên phải rèn luyện rất nhiều về cách thể hiện để trở thành ngƣời bạn đồng hành của

thính giả.

4.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động truyền thanh

Phát triển đồng bộ thiết bị thông tin từ huyện đến cơ sở cũng là một biện

pháp giảm nghèo thông tin cho ngƣời dân, nâng cao khả năng tiếp cận thông tin,

96

góp phần giảm nghèo đa chiều. Trong đó, nhất thiết phải đầu tƣ nhiều hơn cho hệ

thống truyền thanh từ huyện đến cơ sở, đảm bảo phủ sóng toàn bộ từng địa bàn.

Tăng cƣờng kinh phí cho hoạt động truyền thanh sẽ là động lực tích cực để ngƣời

làm báo ở huyện phát huy sự sáng tạo, góp phần tạo ra sản phẩm báo chí chất lƣợng

cao hơn, phục vụ công tác truyền thông giảm nghèo hiệu quả hơn.

Thực tế hiện nay, các huyện đều thiếu thốn về hệ thống loa công cộng cũng

nhƣ kinh phí cho hoạt động chuyên môn. Trong đó, thiếu hệ thống loa thì không thể

vƣơn tầm phủ sóng để thu hút thính giả đƣợc; thiếu kinh phí chi trả nhuận bút thì

không thể đổi mới nội dung chƣơng trình. Chính vì vậy, cùng với đổi mới nội dung

và hình thức thông tin thì hoạt động truyền thông chính sách nói chung, chính sách

giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện cần đƣợc sự hỗ trợ tích cực từ phía

các cơ cấp lãnh đạo, cơ quan chủ quản, các ngành phối hợp, tạo điều kiện để hoàn

thành tốt nhiệm vụ đặt ra.

4.2.5. Tận dụng truyền thông mạng xã hội

Đây không phải là một vấn đề mới đối với các cơ quan báo chí trong điều

kiện cạnh tranh thông tin nhƣ hiện nay. Song, các đài truyền thanh cấp huyện thời

gian qua chƣa tận dụng tốt lợi thế này. Tận dụng truyền thông mạng xã hội đối với

truyền thanh cấp huyện thể hiện ở cả hai mặt.

Thứ nhất là sử dụng nền tảng công nghệ để chuyển tải những thông tin của

đài truyền thanh huyện trên mạng xã hội. Phổ biến ngày nay là facebook hoặc

youtube. Các đài truyền thanh huyện nên tận dụng những mạng xã hội này để phổ

biến những thông tin của đài, thay vì chỉ phát qua hệ thống loa công cộng. Qua đó,

nhằm mở rộng vùng “phủ sóng” của đài huyện. Đồng thời, truyền thông mạng xã hội

cũng tạo điều kiện dễ dàng cho sự tƣơng tác, trao đổi, ghi nhận ý kiến từ thính giả.

Thứ hai là khai thác thông tin từ mạng xã hội. Trên thực tế, có nhiều thông

tin, clip trên mạng xã hội liên quan đến ngƣời dân, nhất là ngƣời nghèo đƣợc đăng

tải. Xuất phát từ một clip của cá nhân về gia cảnh của một hộ nghèo tại địa phƣơng,

một phản ánh về những hạn chế bất cập trong công tác giảm nghèo; đài truyền

97

thanh huyện có thể khai thác điều đó, tiến hành điều tra, phỏng vấn,… để thông tin

chính thống đến thính giả.

Từ đó, đòi hỏi truyền thanh huyện cần phải bắt nhịp với xu thế phát triển của

công nghệ, kết hợp chặt chẽ lối truyền thông truyền thống và hiện đại; nhằm đảm

bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đƣợc giao.

4.3. Khuyến nghị giải pháp đối với các cơ quan trong diện khảo sát

Truyền thông chính sách giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ chính trị

quan trọng mà đài truyền thanh cấp huyện phải tham gia với tƣ cách là cơ quan

tuyên truyền của đảng bộ, chính quyền, là diễn đàn của nhân dân. Chính vì vậy, đổi

mới và nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền

thanh cấp huyện là vấn đề cần thiết hiện nay. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu nội

dung thông điệp, phỏng vấn sâu lãnh đạo UBND huyện, lãnh đạo và phóng viên đài

truyền thanh huyện; cùng với những giải pháp chung đã nêu trên; tác giả cũng xin

đề xuất một số giải pháp riêng đối với từng cơ quan nhƣ sau:

4.3.1: Đối với Đài truyền thanh huyện Thới Bình

Một là tăng cƣờng hơn nữa việc khai thác, thông tin về nội dung những chính

sách giảm nghèo trên đài truyền thanh huyện trên cơ sở tăng số lƣợng tin, bài, tăng

thời lƣợng thông tin cho lĩnh vực này. Xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm, thƣờng xuyên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị đƣợc giao. Trong đó, cần kết

hợp chặt chẽ truyền thông chính sách giảm nghèo với các chƣơng trình khác nhƣ

xây dựng nông thôn mới. Cần lồng ghép truyền thông chính sách vào những giải

pháp, những việc làm cụ thể, thiết thực của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và những

điển hình tiêu biểu từ cơ sở. Cần thông tin những việc làm cụ thể mà cấp ủy, chính

quyền địa phƣơng quy định cho ngƣời dân trong thực hiện chƣơng trình giảm

nghèo. Trong khai thác thông tin về giảm nghèo cần chú trọng cách thức, giải pháp

giảm nghèo; giúp ngƣời dân chia sẻ kinh nghiệm để thoát nghèo, sử dụng nhiều hơn

âm thanh, tiếng động hiện trƣờng để làm sinh động vấn đề cần thông tin.

Hai là thông tin trên đài truyền thanh huyện cần ngắn gọn, xúc tích, cô đọng

nội dung dễ hiểu, dễ nghe. Hạn chế sử dụng quá nhiều những con số, thông tin

98

trong một tin, bài. Khi sử dụng số liệu cần phải đƣợc làm tròn để dễ nhớ, dễ nghe

phù hợp với loại hình báo chí phát thanh.

Ba là phối hợp tích cực với các cấp, các ngành để sản xuất các chƣơng trình

chuyên đề về giảm nghèo. Trong đó, chú trọng những tấm gƣơng đời thƣờng, chân

thực nhằm khuyến khích, động viên ngƣời nghèo vƣơn lên; phát huy hơn nữa vai

trò của đảng viên, hội viên các đoàn thể trong việc giúp dân giảm nghèo; chú ý khai

thác những hạn chế trong hoạt động giảm nghèo; để góp phần hoàn thiện chính

sách.

Bốn là cần tranh thủ các nguồn lực nhằm nâng cao nhuận bút cho phóng

viên, biên tập viên; nhằm khuyến khích phóng viên tích cực khai thác đề tài, nhất là

đề tài về giảm nghèo; có chế độ khuyến khích nhƣ khen thƣởng, biểu dƣơng những

phóng viên có đề tài hay về giảm nghèo.

4.3.2: Đối với Đài truyền thanh huyện Cái Nước

Một là đảm bảo cân đối lƣợng thông tin trong công tác truyền thông về chính

sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh huyện. Nội dung giảm nghèo phải đảm

bảo toàn diện trên các lĩnh vực vật chất và tinh thần nhƣ: hỗ trợ về sản xuất, đời

sống, việc làm, nhà ở cùng tiếp cận các dịch vụ về y tế, giáo dục, pháp lý, văn hóa

thông tin .v.v. Từ đó, giúp ngƣời nghèo không chỉ giảm nghèo về vật chất mà còn tiếp

cận tốt các dịch vụ xã hội cơ bản, góp phần giảm nghèo bền vững. Không chỉ khai thác

về việc chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ xây dựng mô hình phát triển kinh tế nông nghiệp,

nông thôn mà nên thông tin nhiều hơn việc tiếp cận các dịch vụ xã hội.

Hai là trong hoạt động chuyên môn, nên tăng cƣờng hơn nữa các thể tài báo

chí có tính chất ghi nhận trực tiếp nhƣ phỏng vấn, ghi nhanh, tọa đàm…để tăng tính

xác thực, sinh động từ tiếng nói ngƣời trong cuộc. Từng bƣớc đổi mới các bài viết

theo hƣớng diễn tả chân thực cuộc sống, hạn chế những bài viết chính luận đánh giá

khô khan, phát biểu chỉ đạo dài dòng.

Ba là phối hợp tích cực và chặt chẽ hơn với các ngành, đoàn thể và các xã,

thị trấn trong hoạt động tác nghiệp; đẩy mạnh phổ biến chính sách giảm nghèo

thông qua những chƣơng trình, việc làm cụ thể. Đồng thời, tăng cƣờng những

99

phóng sự, bài viết chuyên sâu về phản biện xã hội, góp phần hoàn thiện chính sách

về giảm nghèo.

Bốn là cần tạo điều kiện cho tất cả cán bộ, viên chức tham gia làm phóng

viên cũng nhƣ phát triển mạng lƣới cộng tác viên để có một lƣợng tin bài phong phú

hơn, phản ánh nhiều mặt trong đời sống, xã hội; giúp thính giả có cách nhìn toàn

diện về công tác giảm nghèo của địa phƣơng.

4.3.3: Đối với Đài truyền thanh huyện Phú Tân

Một là phát huy mô hình đổi mới thông tin theo hƣớng nêu những vấn đề

quan trọng trong những quyết sách chỉ đạo có ảnh hƣởng trực tiếp đến ngƣời nghèo;

chú trọng phát hiện chi tiết đắc giá trong tác phẩm phát thanh. Từ đó, đi sâu khai

thác, chỉ dẫn, chia sẻ kinh nghiệm thực hiện quyết sách đó bằng việc làm cụ thể,

góp phần cho hộ nghèo định hình đƣợc công việc cụ thể của mình; nhất là trong

thực hiện các công việc của ngƣời dân trong xây dựng nông thôn mới kết hợp giảm

nghèo bền vững nhƣ: tăng gia sản xuất, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc gia cầm, trồng

cây ăn trái, rau cải; giữ gìn vệ sinh môi trƣờng, tham gia các phong trào ở cơ

sở…Từ đó, huy động sức mạnh cộng đồng xã, ấp, tiếp sức cho hộ nghèo vƣơn lên

cả vật chất và tinh thần.

Hai là chỉ đạo, tạo điều kiện cho phóng viên nghiên cứu khai thác nhiều lĩnh

vực khác trong công tác giảm nghèo, không chỉ quanh quẩn ở mô hình, chƣơng

trình, việc làm của hội phụ nữ, cựu chiến binh, nông dân… mà cần có nhiều bài viết

trên nhiều lĩnh vực khác. Chú trọng phát hiện những nhân tố điển hình qua phong

trào huy động đảng viên, cán bộ, hội viên các đoàn thể, doanh nghiệp, hộ khá

…giúp đỡ hộ nghèo theo nghị quyết chuyên đề của Huyện ủy Phú Tân đề ra. Nhất

là những cách giúp hộ nghèo mang tính thiết thực nhƣ: hỗ trợ vốn, giống, cho mƣợn

đất đai, tƣ liệu sản xuất, hƣớng dẫn cách làm ăn…đồng thời, tạo điều kiện cho hộ

nghèo đã thoát nghèo chia sẻ kinh nghiệm, cách làm phù hợp để hộ khác thoát

nghèo, không chỉ nói về thành tích đạt đƣợc.

Ba là hạn chế lối viết trung thành với các báo cáo thành tích của các cấp, các

ngành đánh giá chung chung, thiếu tính chân thực của cuộc sống, không phản ánh

100

đƣợc hơi thở cuộc sống; tránh lối viết sử dụng quá nhiều từ ngữ chỉ đạo không phù

hợp với ngƣời nghèo mà thay vào đó là sự chia sẻ, chỉ dẫn cách làm cụ thể để tham

khảo, lựa chọn cho phù hợp. Tạo điều kiện hơn nữa cho phóng viên sâu sát cơ sở,

khai thác những đề tài nóng hổi, mang hơi thở cuộc sống. Bản thân phóng viên năng

đi cơ sở nhiều hơn, phát huy tính năng động, khai thác đề tài theo nhiều góc nhìn

khác nhau để có tác phẩm hay.

Bốn là phải luôn luôn đổi mới cách thể hiện tin, bài. Bản thân phóng viên

phải luôn tìm cách “ phá vở lối mòn”, không nên trung thành với kho tƣ liệu cũ,

tham khảo những gì đã có mà nên tự làm mới chính mình; tin bài luôn đổi mới

thƣờng xuyên và thay đổi nhiều cách thể hiện khác nhau, không nên theo một khuôn

mẫu sẵn có. Quan trọng là phải tìm hiểu, viết những gì thính giả cần chứ không phải

viết những gì mình có, mình nắm đƣợc là có thể thông tin.

Tóm lại, để khắc phục những hạn chế trong tác nghiệp về lĩnh vục truyền

thông chính sách giảm nghèo; đài truyền thanh các huyện Cái Nƣớc, Thới Bình,

Phú Tân cần có sự cân đối, bố trí số lƣợng tin, bài và thời lƣợng hợp lý cho từng

lĩnh vực, từng nội dung trong các chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo. Cần sử dụng nhiều

thể tài báo chí trong một chƣơng trình và tăng cƣờng khai thác tiếng nói từ cơ sở để

đảm bảo tính chân thực của cuộc sống. Theo đó, cần cụ thể hóa chủ trƣơng, chính

sách bằng những việc làm cụ thể, gắn liền cuộc sống, sản xuất của ngƣời nghèo để

đảm bảo chính sách đi vào cuộc sống và mạnh dạn phản ánh hạn chế, tiêu cực để

hoàn thiện, bổ sung chính sách; nhất là các bài viết mang tính phản biện xã hội.

Vấn đề quan trọng là phải có cách nhìn toàn diện, không chỉ dựa vào báo cáo

toàn màu hồng mà phải kết hợp thực tế cuộc sống qua khảo sát, điều tra, phỏng vấn.

Tác phẩm báo chí cần phát huy tốt lợi thế của loại hình phát thanh, đảm bảo cung

cấp thông tin sinh động đến ngƣời dân theo hƣớng: ngắn gọn, dễ nghe, dễ hiểu và

có thể thực hiện. Dung lƣợng tin, bài cần ngắn gọn hơn, phù hợp hơn. Phóng viên

cũng phải luôn đổi mới cách viết để bài viết luôn mới lạ và hấp dẫn hơn, nhằm đa

dạng hóa cách thức về thông tin; góp phần cho hoạt động truyền thông giảm nghèo

đạt hiệu quả hơn.

101

Tiểu kết chƣơng 3

Truyền thông về chính sách giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng trong giai

đoạn hiện nay; nhất là khi xã hội phát triển, nhu cầu vật chất tinh thần tăng lên thì

tiêu chí đánh giá cũng tăng, hộ nghèo cũng tăng. Xã hội phát triển thì mặt trái của

nó cũng là sự phân hóa giàu nghèo. Vì vậy, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc luôn có

sự điều chỉnh trong từng giai đoạn cho phù hợp. Nhiệm vụ của hoạt động báo chí,

nhất là truyền thanh địa phƣơng là phải làm thế nào chuyển tải chính sách đi vào

cuộc sống một cách thiết thực.

Để làm đƣợc điều đó, hoạt động thông tin, báo chí ở đài truyền thanh cấp

huyện phải thực sự đổi mới. Trên cơ sở những vấn đề lý luận đã đƣợc hệ thống; kết

quả khảo sát nội dung, hình thức thông điệp; những thành công, hạn chế qua phỏng

vấn, khảo sát đã trình bày; theo quan điểm cá nhân, tác giả cũng đã đề xuất 5 nhóm

giải pháp có tính chất tham khảo, góp phần cùng với các cơ quan, ban ngành, nhất

là đài truyền thanh huyện trong việc đổi mới, nâng cao chất lƣợng tin, bài nói

chung, lĩnh vực truyền thông chính sách giảm nghèo nói riêng. Đó là việc quan tâm

đổi mới nội dung và hình thức thông tin theo hƣớng gắn liền thực tiễn cuộc sống,

tạo sự sinh động để thu hút thính giả nghe đài; đồng thời, thay đổi tƣ duy, cách nhìn

của lãnh đạo các cấp, các ngành trong việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ truyền

thông của đài truyền thanh huyện; theo đó, cần phải nắm bắt công nghệ, tận dụng

tốt lợi thế mạng xã hội trong việc mở rộng phạm vi tỏa sóng; cũng nhƣ tăng cƣờng

đầu tƣ cơ sở vật chất, thiết bị, kinh phí cho truyền thanh; quan tâm đào tào, bồi

dƣỡng đội ngũ phóng viên, biên tập, phát thanh viên… giúp họ đủ năng lực, kinh

nghiệm, tài chính để thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao.

102

KẾT LUẬN

Thời gian qua, với vai trò của mình, các đài truyền thanh huyện trong tỉnh Cà

Mau cơ bản đã có sự cải tiến về nội dung lẫn hình thức truyền thông. Hoạt động

truyền thông về giảm nghèo đã có nhiều chuyển biến tích cực; cụ thể hóa đƣợc chủ

trƣơng, chính sách gắn với tình hình thực tế cuộc sống, sản xuất của ngƣời nghèo;

phát huy đƣợc vai trò của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể trong triển khai thực hiện

các chƣơng trình hỗ trợ ngƣời nghèo; kịp thời biểu dƣơng những tổ chức, cá nhân

tiêu biểu góp phần khích lệ, thúc đẩy công tác giảm nghèo đi vào chiều sâu. Kịp

thời phổ biến, chia sẻ về những kinh nghiệm tốt, cách làm hay, mô hình hiệu quả

trong hoạt động giảm nghèo. Truyền thanh cấp huyện còn dành khá nhiều thời gian

cho việc thông tin hoạt động của các nhà hảo tâm, cá nhà tài trợ; qua đó, vận động,

kêu gọi cộng đồng xã hội chung tay giúp đỡ hộ nghèo, góp phần cùng với Đảng,

Nhà nƣớc thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững.

Hoạt động truyền thông trên sóng đài truyền thanh cấp huyện cũng đã có

nhiều đổi mới theo hƣớng chú trọng khai thác thông tin từ cơ sở; ghi nhận tiếng nói

từ phía ngƣời dân; hình thức thể hiện cũng phong phú, đa dạng. Từ đó, góp phần

phản ánh hiệu quả khi chủ trƣơng, chính sách đi vào cuộc sống và cỗ vũ, động viên

các phong trào hỗ trợ, tiếp sức cho hộ nghèo vƣơn lên.

Công tác giảm nghèo trong giai đoạn mới càng khó khăn, phức tạp; cần sự

chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong đó, đài truyền

thanh cấp huyện là cầu nối giữa cấp ủy, chính quyền với ngƣời dân; có trách nhiệm

chuyển tải, phổ biến chủ trƣơng, tuyên truyền cỗ vũ, nhằm tạo sự đồng thuận xã hội,

góp phần thực hiện chủ trƣơng giảm nghèo một cách hiệu quả. Chƣơng trình giảm

nghèo theo hƣớng tiếp cận đa chiều, lấy tiêu chí chính là thu nhập, song cũng xác

định các mức độ thiếu hụt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản nhƣ: y tế,

nhà ở, nƣớc sạch, vệ sinh, văn hóa thông tin .v.v. đòi hỏi hộ nghèo phải hiểu và tiếp

cận thực hiện một cách toàn diện. Chủ trƣơng chuyển dần từ cho không sang hỗ trợ

có điều kiện là một vấn đề quan trọng đòi hỏi phải làm tốt công tác tuyên truyền,

truyền thông để ngƣời dân hiểu, tránh chủ quan, ỷ lại và nâng cao ý thức tự lực

103

vƣơn lên. Để làm đƣợc điều đó, đòi hỏi đài truyền thanh cấp huyện phải làm tốt hơn

nữa vai trò của mình trong việc cụ thể hóa chủ trƣơng thành những việc làm thiết

thực; thông qua những câu chuyện thực tế, những sự kiện cụ thể để phổ biến, đƣa

nghị quyết đi vào cuộc sống.

Trong sự cạnh tranh khốc liệt của các phƣơng tiện truyền thông hiện đại thì

phát thanh vẫn đóng vai trò rất quan trọng. Riêng truyền thanh cấp huyện có thế

mạnh, đặc trƣng riêng. Nhất là tham gia xử lý các khủng hoảng, các tình huống

khẩn cấp nhƣ thiên tai, tai nạn, cháy nổ, tụ tập đám đông...hay một tiện ích mà

không có loại hình nào có đƣợc đó là vừa nghe, vừa kết hợp với công việc khác.

Những câu chuyện về giảm nghèo cần đƣợc tiếp cận một cách nhẹ nhàng

thể hiện qua những tình huống, câu chuyện đơn giản và dung dị của cuộc sống sẽ là

cách để truyền thanh huyện gần gũi hơn với thính giả. Ngoài ra, để thu hút thính

giả, phát thanh phải lạ, phải mới, hấp dẫn và không theo lối mòn một cách nhàm

chán. Muốn làm đƣợc điều đó, ngay từ bây giờ, bản thân những ngƣời làm công tác

truyền thanh ở cấp huyện phải tìm cách đổi mới hoạt động báo chí của mình. Điều

này đòi hỏi sự nhạy cảm nghề nghiệp, tùy theo khả năng sáng tạo và thích ứng xã

hội của từng ngƣời; song, mục tiêu cơ bản là làm sao để phát thanh trở thành ngƣời

bạn đồng hành, gần gũi với thính giả; thính giả có thể tin tƣởng, sẻ chia, gửi gấm

mới có thể thành công.

Vấn đề đặt ra là phải đổi mới nhƣ thế nào để thu hút công chúng, để truyền

thông chính sách một cách có hiệu quả? Báo chí nói chung, truyền thanh nói riêng

muốn đến với công chúng phải chú ý tới nội dung và cả hình thức. Điều này không

đơn thuần là nhanh và đúng, mà còn là sự độc đáo, tạo đƣợc cảm xúc và sức hấp

dẫn cho ngƣời nghe. Đồng thời, hình thức thể hiện không chỉ lời nói, mà còn phải

làm sinh động hơn bằng âm nhạc, bằng tiếng động hiện trƣờng. Đó là những lợi thế

mà phát thanh phải phát huy và bằng trái tim nhiệt huyết của những ngƣời làm

truyền thanh cấp huyện, bằng sự tiếp sức, hỗ trợ các điều kiện của các cấp, các

ngành về vật chất thiết bị, về kinh phí, về sự hỗ trợ tác nghiệp…để biến những câu

chuyện truyền thông chính sách mang ý nghĩa chính trị trở nên mềm dẻo hơn, công

104

chúng dễ tiếp cận hơn. Từ đó, chƣơng trình phát thanh trên sóng truyền thanh huyện

mới có thể chạm tới trái tim thính giả và góp phần vào thành công trong công tác

truyền thông chính sách, trong đó có chính sách giảm nghèo.

Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu, khảo sát, phỏng vấn và đánh giá thực trạng;

tác giả đã đƣa ra một số giải pháp, hy vọng sẽ góp phần tích cực vào việc đổi mới,

nâng cao chất lƣợng truyền thông chính sách giảm nghèo nói riêng, truyền thông

chính sách nói chung trên sóng đài truyền thanh huyện. Những giải pháp thiết thực

trong việc đổi mới nội dung và hình thức; thay đổi tƣ duy, cách nhìn của lãnh đạo

các cấp; tận dụng tốt lợi thế mạng xã hội; tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, thiết bị,

kinh phí; quan tâm đào tào, bồi dƣỡng đội ngũ phóng viên, biên tập, phát thanh viên

.v.v. cũng nhƣ khuyến nghị riêng cho các cơ quan đài truyền thanh huyện trong diện

khảo sát, nhƣ: cân đối, bố trí số lƣợng tin, bài và thời lƣợng hợp lý cho từng lĩnh

vực, từng nội dung trong các chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo; sử dụng nhiều thể tài

báo chí trong một chƣơng trình và tăng cƣờng khai thác tiếng nói từ cơ sở để đảm

bảo tính chân thực của cuộc sống; cụ thể hóa chủ trƣơng, chính sách bằng những

việc làm cụ thể.v.v. tất cả đều mang tính chất tham khảo. Vấn đề quan trọng là sự

quyết tâm và điều kiện về nguồn nhân lực, tài chính, sự hợp tác hỗ trợ của các cấp,

các ngành với đài truyền thanh cấp huyện, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị

đặt ra.

Ngƣời làm truyền thanh nên tìm hiểu và cảm nhận thực tế cuộc sống, hãy

viết bằng trái tim, bằng sự rung động của chính ngƣời trong cuộc; hiểu đƣợc công

chúng cần gì và cố gắng đáp ứng cái họ cần trong điều kiện có thể, làm sao để thính

giả có cảm nhận rằng họ đang đƣợc lắng nghe. Đối với truyền thanh cấp huyện,

nhiệm vụ chính vẫn là truyền thông chính sách, làm cho chủ trƣơng, chính sách đi

vào cuộc sống, tạo sự đồng thuận xã hội và cổ vũ, động viên, nâng cao nhận thức và

hành động của ngƣời dân nhằm chung tay thực hiện đạt đƣợc mục tiêu đề ra./.

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lƣu Văn An (2008), Truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức

quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội

2. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa- xã hội,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội

3. Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, Nxb Chính

trị quốc gia

4. Phƣơng Chi, Tổ chức thi báo chí về công tác giảm nghèo lần thứ ba, Nhân dân

điện tử, https://www.nhandan.com.vn/nation_news/item/40067302-to-chuc-thi-

bao-chi-ve-cong-tac-giam-ngheo-lan-thu-ba.html

5. Nguyễn Văn Dững (Chủ biên), Đỗ Thị Thu Hằng (2018), Truyền thông, lý thuyết

và kỹ năng cơ bản, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội

6. Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao động, Hà Nội

7. Nguyễn Văn Dững (2017), Báo chí Truyền thông, những điểm nhìn từ thực tiễn-

Tập 3, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội

8. Nguyễn Văn Dững (2007), Cơ chế tác động của báo chí, Tạp chí khoa học

ĐQGHN, Khoa học xã hội và nhân văn 23, Tr.116-125

9. Nguyễn Văn Dững (2018), Một số vấn đề về truyền thông chính sách công ở Việt

Nam hiện nay, Tạp chí lý luận chính trị số 2

10. Nguyễn Văn Dững (2017), Tìm kiếm mô hình tổ chức hoạt động truyền thông

chính sách công ở Việt Nam, Hội thảo khoa học quốc tế “Truyền thông chính

sách và đồng thuận xã hội” đã diễn tại Hà Nội

11. Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996, tr.92

12. Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2001, tr.163

106

13. Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2011, tr. 124 - 125

14. Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2016, tr.137

15. Trần Chí Đạt (2018), Truyền thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Thông tin

và truyền thông, Hà Nội

16. Hà Minh Đức (1996), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn-tập 2, Nxb

Giáo dục

17. Nguyễn Hữu Hải (2014), Chính sách công Những vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội

18. Đỗ Phú Hải, Truyền thông chính sách trong các khâu của chu trình chính sách

công, Học viên báo chí và tuyên truyền, https://ajc.hcma.vn/Pages/nghien-cuu-

khoa-hoc.aspx?CateID=679&ItemID=9538

19. Vũ Quang Hào (2001), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội

20. Đinh Văn Hƣờng (2006), Các thể loại báo chí thông tấn, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội

21. Lê Văn Hòa (2016), Giám sát và đánh giá chính sách công, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội

22. Khoa báo chí và truyền thông, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội

(2010), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn-tập VII, Nxb Đại học quốc

gia Hà Nội

23. Khoa báo chí và truyền thông, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội

(2013), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn-tập VIII, Nxb Thông tin và

truyền thông

24. Lê Quốc Lý (2011), Quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.LêNin, Hồ Chí

Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về Báo chí, Nxb Chính trị quốc gia-sự thật,

Hà Nội

107

25. Lê Quốc Lý (2012), Chính sách xóa đói giảm nghèo thực trạng và giải pháp,

Nxb Chính trị quốc gia-sự thật, Hà Nội

26. Nguyễn Đình Lƣơng ( 1993), Nghề báo nói, Nxb Văn hóa-Thông tin, Trung tâm

đào tạo phánh thanh truyền hình Việt Nam

27. Nguyễn Thành Lợi (2019), Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông

hiện đại, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội

28. Trần Hữu Quang ( 2006), Xã hội học về truyền thông đại chúng, Tài liệu hƣớng

dẫn học tập, Đại học mở bán công TP.HCM

29. Dƣơng Xuân Sơn (2016), Các loại hình báo chí truyền thông, Nxb Thông tin và

truyền thông, Hà Nội

30. Dƣơng Xuân Sơn, Đinh Văn Hƣờng, Trần Quang (2011), Cơ sở lý luận báo chí

truyền thông, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội

31. Nguyễn Ngọc Sơn (2012), Chính sách giảm nghèo ở nƣớc ta hiện nay: Thực trạng và

định hƣớng hoàn thiện, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 181, Tr.19-26.

32. Hữu Thọ (1997), Công việc của người viết báo, Nxb Giáo dục

33. Tạ Ngọc Tấn (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa thông tin.

34. Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

35. Xuân Thƣờng, Các báo, tạp chí cần tiếp tục khẳng định vai trò đối với sự phát

triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Cổng thông tin điện tử Ủy ban Dân tộc,

http://www.cema.gov.vn/cac-bao-tap-chi-can-tiep-tuc-khang-dinh-vai-tro-doi-

voi-su-phat-trien-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui.htm

36. Thủy Tiên (2019), Thông điệp truyền thông chính sách trên báo mạng điện tử

của TP. Hà Nội, Tạp chí Ngƣời làm báo online, http://nguoilambao.vn/thong-

diep-truyen-thong-chinh-sach-tren-bao-mang-dien-tu-cua-tp-ha-noi-

n11963.html

37. Thông tƣ số: 17/2010/TTLT-BTTTT-BNV, ngày 27/7/2010 Bộ Thông tin và

Truyền thông, Bộ Nội vụ Hƣớng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

108

và cơ cấu tổ chức của Đài Phát thanh và Truyền hình thuộc Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh,

Đài Truyền thanh - Truyền hình thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

38. Trần Huỳnh, Truyền thông chính sách muốn hiệu quả phải lấy công chúng làm

trung tâm, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, http://dangcongsan.vn/tu-

tuong-van-hoa/truyen-thong-chinh-sach-muon-hieu-qua-phai-lay-cong-chung-

lam-trung-tam-504249.html

39. Nhật Thy, Truyền thông chính sách nhƣ thế nào để tạo đồng thuận xã hội, Tạp

chí khoa học truyền thông và phát triển online,

http://truyenthongphattrien.vn/truyen-thong-chinh-sach-nhu-the-nao-de-tao-

dong-thuan-xa-hoi.

40. Viện đào tạo Báo chí và Truyền thông (2018), Báo chí truyền thông, những vấn

đề trọng yếu-Tập 1, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội

41. Truyền thông chính sách công-Kinh nghiệm Việt Nam và Hàn Quốc, (2017),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

42. Học viện Báo chí và tuyên truyền, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cơ quan

hợp tác quốc tế Hàn Quốc (đồng chủ biên - 2018), Truyền thông chính sách và

đồng thuận xã hội, Nxb Chính trị quốc gia sự thật

43. Trƣờng đại học Y tế cộng đồng, văn phòng tƣ liệu dân số Mỹ (2009), Truyền

thông chính sách – truyền tải thông tin và can thiệp hiệu quả tới các nhà hoạch

định chính sách trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản và HIV/AIDS tại Việt Nam

44. Luận văn Thạc sĩ Quan hệ công chúng, Học viện Báo chí và tuyên truyền (2014)

của Nguyễn Thu Hƣơng về “Bộ Y tế với hoạt động truyền thông phòng chống

tác hại của thuốc lá”

45. Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2013) của

Trần Thị Thùy Linh về “Tuyên truyền xây dựng nông thôn mới trên sóng truyền

hình, đài phát thanh – truyền hình Nghệ An”

109

46. Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Đại học KHXH và NV Hà Nội (2017) của Đặng

Đình Sáng “Vai trò của đài phát thanh cơ sở trong truyền thông về chính sách

đất đai ở các huyện ngoại thành Hà Nội”

47. Luận văn Thạc sĩ Báo chí học , Đại học KHXH và NV Hà Nội (2017) của Lƣu

Thị Bích Ngọc về “Truyền thông về vấn đề xóa đói giảm nghèo trên Báo Bắc

Kạn và Yên Bái”

48. Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viên hành chính quốc gia ( 2017) Lê Thanh

Cƣờng về “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện

Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình”

49. Kế hoạch số 53/KH-UBND của UBND tỉnh Cà Mau ngày 15/6/2017 thực hiện

chƣơng trình giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Cà Mau giai đoạn 2017 – 2020.

50. Luật Báo chí (2016), Quốc hội Nƣớc CHXHCN Việt Nam

51. Quyết định 1722/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 9 năm 2016 của Thủ tƣớng Chính phủ

phê duyệt Chƣơng trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn

2016-2020

52. Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tƣớng Chính phủ về

việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020

53. http://giamngheo.molisa.gov.vn/NewsDetail.aspx?lg=1&CateID=12&ID=960

54. Cầu nối báo chí với công tác giảm nghèo, Vietnamnet,

https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/cau-noi-bao-chi-va-cong-tac-giam-ngheo-

418572.html

110

PHỤ LỤC 1

PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN

( Dành cho thính giả của các đài truyền thanh cấp huyện)

Thƣa Ông/Bà! Tôi tên Nguyễn Quốc Hiệp, học viên lớp cao học báo chí

2018-2020 của Viện Báo chí và Truyền thông, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn-Đại học quốc gia Hà Nội.

Để có cơ sở dữ liệu tham khảo xây dựng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

truyền thông về chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện trong

tỉnh Cà Mau, xin Ông/Bà vui lòng cho ý kiến xung quanh vấn đề: “Truyền thông

chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện trong tỉnh Cà Mau”.

Trong phiếu này, chúng tôi đã chuẩn bị câu hỏi và các phƣơng án trả lời.

Ông/ Bà vui lòng khoanh tròn vào số thứ tự đáp áp mà Ông/Bà cho là phù hợp nhất,

Nếu có ý kiến khác xin vui lòng ghi rõ vào phần để trống sau các đáp án.

Các thông tin mà quý vị cung cấp chỉ phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học

và đảm bảo tính khuyết danh khi công bố tổng thể nghiên cứu đề tài.

Xin trân trọng cảm ơn quý vị đã nhiệt tình công tác!

I. THÔNG TIN NGƢỜI TRẢ LỜI:

Họ và tên: …………………………………………………………………………

Giới tính: ……………………………………Tuổi………………………………..

Địa bàn: 1. Cái Nƣớc 2. Phú Tân 3. Thới Bình

II. THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO Ở ĐỊA

PHƢƠNG

Quý ông/bà vui lòng khoanh tròn vào đáp án đúng của các câu hỏi sau đây:

Câu 1: Ông/Bà có thƣờng xuyên nghe đài truyền thanh huyện không?

1. Rất thƣờng xuyên ( nghe mỗi ngày)

2. Thƣờng xuyên (từ 3 đến 4 lần trong tuần)

3. Thỉnh thoảng ( 1 đến 2 lần trong tuần)

111

4. Hiếm khi nghe ( một lần một tháng)

5. Không bao giờ

Nếu có nghe thì Ông/Bà thường nghe qua thiết bị gì?

1. Qua loa truyền thanh

2. Qua Radio

3. Qua điện thoại có chức năng FM

Câu 2: Ông/Bà có quan tâm đến tin bài nói về chính sách giảm nghèo không?

1. Rất quan tâm

2. Quan tâm

3. Tƣơng đối quan tâm

4. Ít quan tâm

5. Không quan tâm

Câu 3: Ông/Bà có tin tƣởng về tính xác thực và làm theo những thông tin về

giảm nghèo mà đài thƣờng đƣa không?

1. Rất tin tƣởng ( có thể tìm tòi, học hỏi, làm theo)

2. Tƣơng đối tin tƣởng ( có những vấn đề tin, có những vấn đề không tin)

3. Không tin tƣởng

Câu 4: Theo Ông/Bà chƣơng trình phát thanh hiện tại của đài truyền thanh

huyện có hấp dẫn không?

1. Hấp dẫn ( có nhạc, âm thanh, tiếng động)

2. Tƣơng đối hấp dẫn

3. Bình thƣờng

4. Ít hấp dẫn

5. Không hấp dẫn

Câu 5: Theo Ông/Bà tin, bài đƣợc phát trên sóng đài truyền thanh huyện có dễ

nghe, dễ hiểu không?

112

1. Dễ hiểu

2. Tƣơng đối dễ

3. Khó hiểu

Có thể cho biết nguyên nhân:

1. Câu từ khó hiểu, khó tiếp thu

2. Giọng đọc phát thanh viên chƣa tốt

3. Ý kiến khác…………………………………………………………

Xin cảm ơn ông/bà đã nhiệt tình hợp tác.

113

PHỤ LỤC 2

NỘI DUNG PHỎNG VẤN VỀ TRUYỀN THÔNG GIẢM NGHÈO TRÊN

SÓNG ĐÀI HUYỆN

Thƣa Ông/Bà! Tôi tên Nguyễn Quốc Hiệp, học viên lớp cao học báo chí

2018-2020 của Viện Báo chí và Truyền thông, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn-Đại học quốc gia Hà Nội.

Để có cơ sở dữ liệu tham khảo xây dựng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

truyền thông về chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện trong

tỉnh Cà Mau, xin Ông/Bà vui lòng cho ý kiến xung quanh vấn đề: “Truyền thông

chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh cấp huyện trong tỉnh Cà Mau”.

Xin ông/bà vui lòng trả lời một số câu hỏi phỏng vấn của chúng tôi để làm rõ

hơn một số nội dung liên quan vấn đề chỉ đạo, thực hiện công tác truyền thông

chính sách giảm nghèo trên sóng đài truyền thanh của huyện. Các thông tin cung

cấp chủ yếu phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học và đảm bảo tính khuyết danh khi

công bố công khai tổng thể nghiên cứu. Mong ông/bà vui lòng hợp tác.

I. THÔNG TIN NGƢỜI ĐƢỢC PHỎNG VẤN:

Họ và tên: ……………………………………………………………………

Chức vụ: …………………………………………………………………….

Đơn vị công tác: ……………………………………………………….........

II. NỘI DUNG PHỎNG VẤN

a. Đối với lãnh đạo UBND huyện:

1. Thƣa ông! Xin ông vui lòng cho biết những chính sách giảm nghèo nổi bật

mà địa phƣơng đã áp dụng thời gian qua? Những chính sách đó có tác động thế nào

đến hiệu quả giảm nghèo ở địa phƣơng?

2. Ông đánh giá thế nào về vai trò của đài truyền thanh huyện trong hoạt

động truyền tải chính sách giảm nghèo đến với ngƣời dân?

114

3. Những thông tin chính nào về giảm nghèo đƣợc thể hiện trên sóng truyền

thanh huyện thƣa ông?

4. Theo ông, thông tin trên đài truyền thanh huyện có đủ sức thuyết phục,

nhất là trong phổ biến chỉ trƣơng, nhân rộng mô hình giảm nghèo để ngƣời dân làm

theo hay chƣa?

5. Hiệu quả truyền thông giảm nghèo do đài truyền thanh huyện mang lại là

gì thƣa ông?

6. Thƣa ông! Các cấp lãnh đạo, quản lý ở địa phƣơng đã định hƣớng và hỗ

trợ thế nào để đài truyền thanh huyện phát huy vai trò của mình trong hoạt động

truyền thông giảm nghèo?

7. Ông có thể cho biết một vài điểm mạnh đài truyền thanh huyện cần phát

huy cũng nhƣ điểm yếu cần khắc phục để làm tốt công tác truyền thông chính sách,

nhất là chính sách giảm nghèo thời gian tới.

- Xin cảm ơn ông/ bà đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.

b. Đối với lãnh đạo đài truyền thanh huyện:

1. Thƣa ông! Xin ông vui lòng cho biết những nội dung chính nào đƣợc đài

truyền thanh huyện thể hiện trong công tác truyền thông về giảm nghèo thời gian

qua?

2. Lý do nào những đề tài ấy thƣờng đƣợc quan tâm thông tin nhiều thƣa

ông?

3. Những đổi mới cơ bản nào về nội dung, hình thức tin bài trong hoạt động

truyền thông của đơn vị thời gian qua đã áp dụng?

4. Theo ông, nội dung và hình thức tin, bài về giảm nghèo thời gian qua của

đơn vị có phong phú, hấp dẫn và đủ sức thuyết phục ngƣời nghe chƣa?

5. Đội ngũ phóng viên tại đơn vị có những ƣu điểm và hạn chế nào?

6. Ông có đánh giá gì về công tác chỉ đạo, phối hợp tạo điều kiện của các

cấp, các ngành trong hoạt động truyền thông giảm nghèo nở địa phƣơng?

115

7. Theo ông, hoạt động truyền thông giảm nghèo ở địa phƣơng hiện nay còn

những yếu kém gì ? Giải pháp khắc phục ra sao?

- Xin cảm ơn ông/ bà đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này

c. Đối với phóng viên đài truyền thanh huyện:

1. Ông ( bà) đánh giá thế nào về vai trò của đài truyền thanh huyện trong

hoạt động truyền thông chính sách giảm nghèo ?

2. Theo ông( bà) yếu tố nào ảnh hƣởng đến nội dung và hình thức tin bài về

giảm nghèo thời gian qua ở địa phƣơng?

3. Cách thức đƣa tin nhƣ hiện nay ( Nội dung và hình thức) đƣa của phóng

viên có đủ sức hấp dẫn ngƣời nghe chƣa? Thính giả phản hồi thế nào?

4. Theo ông (bà) phóng viên đã có những đổi mới gì trong cách thức thể hiện

tin bài thời gian qua?

5. Nội dung nào liên quan đến giảm nghèo đƣợc phóng viên khai thác và thể

hiện nhiều trên sóng thời gian qua? Xin cho biết nguyên nhân?

6. Thuận lợi và khó của phóng viên đài huyện trong hoạt động tác nghiệp

thời gian qua là gì?

7. Điểm mạnh và hạn chế của phóng viên đài huyện hiện nay thế nào? giải

pháp khắc phục?

- Xin cảm ơn ông/ bà đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này

116

PHỤ LỤC 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THÔNG ĐIỆP TRÊN ĐÀI TRUYỀN THANH 3

HUYỆN ĐƢỢC KHẢO SÁT

1. Kết quả khảo sát tin, bài Đài truyền thanh huyện Thới Bình:

Kết quả khảo sát 741 tin, bài. Trong đó, có 149 tin, bài liên quan đến lĩnh vực giảm

nghèo, chiếm 20,1%.

TT Các nội dung chính về chính sách giảm Tin Bài Tổng Tỷ lệ

nghèo cộng

1 Chính sách hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo 53 13 66 45%

việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời nghèo

2 Chính sách hỗ trợ về giáo dục và đào tạo cho 15 2 17 11%

ngƣời nghèo

Chính sách hỗ trợ về y tế và dinh dƣỡng 17 11% 17 3

Chính sách hỗ trợ về nhà ở 17 11% 15 2 4

Chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo tiếp cận các 10 10 7% 5

dịch vụ hỗ trợ pháp lý

6 Chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo hƣởng thụ 9 9 6%

văn hóa thông tin

7 Chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù 12 1 13 9%

131 18 149 Cộng

117

2. Kết quả khảo sát tin, bài Đài truyền thanh huyện Cái Nước:

Kết quả khảo sát 844 tin, bài. Trong đó, có 278 tin, bài liên quan đến lĩnh vực giảm

nghèo, chiếm 32,9%.

TT Các nội dung chính về chính sách giảm Tin Bài Tổng Tỷ lệ

nghèo cộng

1 Chính sách hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo 189 20 209 75%

việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời nghèo

2 Chính sách hỗ trợ về giáo dục và đào tạo cho 10 1 11 4%

ngƣời nghèo

Chính sách hỗ trợ về y tế và dinh dƣỡng 16 18 6,6% 2 3

Chính sách hỗ trợ về nhà ở 22 22 8% 4

Chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo tiếp cận các 6 6 2% 5

dịch vụ hỗ trợ pháp lý

6 Chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo hƣởng thụ 2 2 0,8%

văn hóa thông tin

7 Chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù 9 1 10 3,6%

254 24 278 Cộng

3. Kết quả khảo sát tin, bài Đài truyền thanh huyện Phú Tân: Kết quả khảo sát

716 tin, bài. Trong đó, có 278 tin, bài liên quan đến lĩnh vực giảm nghèo, chiếm

24,7%.

TT Các nội dung chính về chính sách giảm Tin Bài Tổng Tỷ lệ

nghèo cộng

1 Chính sách hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo 105 10 115 65%

việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời nghèo

2 Chính sách hỗ trợ về giáo dục và đào tạo 8 1 9 5%

118

cho ngƣời nghèo

Chính sách hỗ trợ về y tế và dinh dƣỡng 11 12 7% 1 3

Chính sách hỗ trợ về nhà ở 16 18 10% 2 4

Chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo tiếp cận các 5 6 3% 1 5

dịch vụ hỗ trợ pháp lý

6 Chính sách hỗ trợ ngƣời nghèo hƣởng thụ 5 5 3%

văn hóa thông tin

Chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù 9 3 12 7% 7

159 18 177 Cộng

119

PHỤ LỤC 4

KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ý KIẾN THÍNH GIẢ

1. Mức độ thường xuyên nghe đài

Mức độ Rất thƣờng Thƣờng Thỉnh Hiếm Không Tổng số

xuyên xuyên thoảng khi bao giờ Địa bàn

9 4 48/50 2 Cái Nƣớc 18 15

4 3 47/50 3 Phú Tân 10 27

8 3 46/50 4 Thới Bình 15 16

9 21 10 141/150 Tổng số 43 58

Phƣơng tiện Loa truyền Radio Điện thoại Tổng số

thanh Địa bàn

Cái Nƣớc 35 5 8 48/50

Phú Tân 41 4 2 47/50

Thới Bình 36 5 5 46/50

Tổng số 112 14 15 141/150

2. Mức độ quan tâm tin, bài về chính sách giảm nghèo

Mức độ Rất quan Quan Tƣơng đối Ít quan Không Tổng số

tâm tâm quan tâm tâm quan tâm Địa bàn

Cái Nƣớc 10 21 12 5 0 48/50

Phú Tân 13 20 13 1 0 47/50

Thới Bình 12 19 12 3 0 46/50

Tổng số 35 60 37 9 0 141/150

120

3. Mức độ tin tưởng về tính xác thực, làm theo

Mức độ Rất tin tƣởng Tƣơng đối tin Không tin Tổng số

tƣởng tƣởng Địa bàn

22 0 48/50 Cái Nƣớc 26

22 0 47/50 Phú Tân 25

23 0 46/50 Thới Bình 23

67 0 141/150 Tổng số 74

4. Tính hấp dẫn của thông tin

Mức độ Hấp Tƣơng Bình Ít hấp Không Tổng số

dẫn đối hấp thƣờng dẫn hấp dẫn Địa bàn

dẫn

26 5 13 4 0 48/50 Cái Nƣớc

25 6 13 3 0 47/50 Phú Tân

26 4 11 5 0 46/50 Thới Bình

77 15 37 12 0 141/150 Tổng số

5. Mức độ, hiểu, tiếp nhận thông tin

Mức độ Dễ hiểu Tƣơng đối dễ Khó hiểu Tổng số

hiểu Địa bàn

Cái Nƣớc 4 48/50 21 23

Phú Tân 3 47/50 18 26

Thới Bình 8 /4650 18 20

Tổng số 15 141/150 57 69

121