ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ TUYẾT NGA

TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ CHO SINH VIÊN

TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ TUYẾT NGA

TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ CHO SINH VIÊN

TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học

Mã số: 8320101.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học Chủ tịch hội đồng

PGS. TS. HÀ HUY PHƢỢNG PGS.TS. ĐẶNG THỊ THU HƢƠNG

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự

hƣớng dẫn của PGS,TS. Hà Huy Phƣợng (Học viện Báo chí và Tuyên truyền).

Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực, đƣợc dẫn nguồn đầy

đủ. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc công bố trong bất

cứ công trình nào khác.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày….. tháng….. năm 2020

Tác giả luận văn

TRẦN THỊ TUYẾT NGA

LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Viện Đào tạo Báo chí và

Truyền thông, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đến nay tôi đã

hoàn thành luận văn Thạc sĩ Báo chí, chuyên ngành Báo chí học với đề tài

“Truyền thông chính sách khoa học và công nghệ cho sinh viên trên báo

điện tử Việt Nam hiện nay”.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Viện Đào tạo Báo chí

và Truyền thông và các thầy cô giáo trong và ngoài Trƣờng Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn đã cung cấp cho tôi nhiều kiến thức và kỹ năng cần thiết

ở bậc đào tạo sau đại học.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS,TS. Hà Huy

Phƣợng (Học viện Báo chí và Tuyên truyền), ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn,

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.

Luận văn chắc chắn còn những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận

đƣợc sự thông cảm và góp ý chân thành của các nhà khoa học, thầy cô giáo và

các bạn đồng môn, đồng nghiệp để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.

Trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày….. tháng….. năm 2020

Tác giả luận văn

TRẦN THỊ TUYẾT NGA

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 7

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................... 7

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 13

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 16

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................. 17

7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 20

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THÔNG CHÍNH

SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CHO SINH VIÊN TRÊN BÁO

ĐIỆN TỬ ......................................................................................................... 21

1.1. Các khái niệm ......................................................................................... 21

1.1.1. Khái niệ m “khoa họ c và công nghệ ” và “chính sách khoa

họ c và công nghệ ” .................................................................................. 21

1.1.2. Khái niệm “truyền thông chính sách”, “báo điện tử”, “sinh viên” .... 21

1.2. Vai trò và đặc điểm của truyền thông chính sách khoa học và công

nghệ cho sinh viên trên báo điện tử ............................................................. 23

1.2.1. Vai trò của truyền thông chính sách khoa học và công nghệ cho sinh

viên trên báo điện tử........................................................................................ 28

1.2.2. Đặc điểm của truyền thông chính sách khoa học và công nghệ cho sinh

viên trên báo điện tử........................................................................................ 28

1.3. Cơ sở chính trị - pháp lý của truyền thông chính sách khoa học và công

nghệ cho sinh viên trên báo điện tử ................................................................. 34

1.3.1. Cơ sở chính trị ....................................................................................... 35

1.3.2. Cơ sở pháp lý ........................................................................................ 35

1.4. Một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn của truyền thông chính sách khoa

học và công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử ................................................ 38

1

1.4.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 40

1.4.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 42

Tiểu kết Chƣơng 1 ......................................................................................... 50

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ CHO SINH VIÊN TRÊN BÁOĐIỆN TỬ VIỆT NAM ...... 51

2.1. Tổng quan về các báo điện tử khảo sát ................................................ 51

2.1.1. Sơ lược lịch sử phát triển ...................................................................... 51

2.1.2. Quy trình truyề n thông chính sách khoa họ c và công nghệ

trên báo đ iệ n tử .................................................................................... 51

2.2. Thực trạng truyền thông chính sách khoa học và công nghệ trên báo

điện tử VnExpress.net, Dantri.com.vn, Tuoitre.vn, Svvn.vn .................... 54

2.2.1 Chủ thể, thông điệp, kênh và công chúng truyền thông chính sách khoa

học và công nghệ cho sinh viên....................................................................... 55

2.2.2 Nhiễu, phản hồi, hiệu quả và hiệu lực truyền thông chính sách khoa học

và công nghệ cho sinh viên ............................................................................. 55

2.3. Đánh giá hiệu quả truyền thông chính sách khoa học và công nghệ cho sinh

viên trên báo điện tử hiện nay .......................................................................... 73

2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 73

2.3.2. Tồn tại, hạn chế ..................................................................................... 73

2.4. Những nguyên nhân ảnh hƣởng đến truyền thông chính sách khoa

học và công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử hiện nay ........................ 81

2.4.1. Nguyên nhân chủ quan .......................................................................... 85

2.4.2. Nguyên nhân khách quan ...................................................................... 85

Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 88

Chƣơng 3. GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI TRUYỀN THÔNG

CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CHO SINH VIÊN

TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................ 89

2

3.1. Những vấn đề đặt ra đối với truyền thông chính sách khoa học và

công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử Việt Nam hiện nay ................... 89

3.1.1. Những vấn đề chung .............................................................................. 89

3.1.2. Những vấn đề cụ thể đối với truyền thông chính sách khoa học và công

nghệ cho sinh viên trên báo điện tử Việt Nam ................................................ 89

3.2. Giải pháp truyền thông chính sách khoa học và công nghệ cho sinh

viên trên báo điện tử ..................................................................................... 92

3.2.1. Đối với chủ thể, thông điệp, kênh và công chúng truyền thông chính

sách khoa học và công nghệ ............................................................................ 92

3.2.2. Đối với vấn đề nhiễu, phản hồi, hiệu quả và hiệu lực truyền thông chính

sách khoa học và công nghệ ............................................................................ 92

3.3. Một số khuyến nghị .............................................................................. 100

3.3.1. Nhận thức tầm quan trọng của truyền thông chính sách khoa học và

công nghệ cho sinh viên ................................................................................ 102

3.3.2. Đổi mới cơ chế, chính sách và nguồn lực truyền thông chính sách khoa

học và công nghệ cho sinh viên..................................................................... 102

Tiểu kết Chƣơng 3 ....................................................................................... 107

KẾT LUẬN .................................................................................................. 108

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 111

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 116

3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

PGS,TS. : Phó Giáo Sƣ, Tiến Sĩ

TTCS : Truyền thông chính sách

KH&CN : Khoa học và công nghệ

GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo

NXB : Nhà xuất bản

Tr. : Trang

SV : Sinh viên

4

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH

1. Danh mục Bảng

Bảng 1.1 Tổng hợp mức độ đánh giá thông tin chính sách khoa học và công

nghệ ..................................................................................................................... 29

Bảng 2.1 Tính đa phƣơng tiện của báo điện tử ................................................... 62

Bảng 2.2 Tính tƣơng tác hai chiều của 4 báo điện tử ......................................... 68

Bảng 2.3 Lý do sinh viên thích hay không thích các tin, bài chính sách khoa

học và công nghệ trên báo điện tử ...................................................................... 77

Bảng 2.4 Sinh viên đánh giá tầm quan trọng của chính sách ............................. 79

2. Danh mục biểu đồ

Biểu đồ 2.1 Tin, bài chính sách khoa học và công nghệ trên 4 báo điện tử

(bài) ..................................................................................................................... 56

Biều đồ 2.2 Thể loại tin, bài chính sách khoa học và công nghệ trên 4 báo

điện tử .................................................................................................................. 57

Biểu đồ 2.3 So sánh lƣợng tin, bài về chính sách khoa học và công nghệ trên

chuyên mục của 4 báo điện tử ............................................................................. 61

Biểu đồ 2.4 Sinh viên tiếp cận thông tin khoa học và công nghệ trên báo điện

tử .......................................................................................................................... 63

Biểu đồ 2.5 Báo điện tử sinh viên đọc nhiều ...................................................... 64

Biểu đồ 2.6 Mục đích sử dụng báo điện tử của sinh viên ................................... 65

Biểu đồ 2.7 Độ tuổi của sinh viên quan tâm đến báo điện tử ............................. 66

Biểu đồ 2.8 Chuyên mục sinh viên quan tâm trên báo điện tử ........................... 67

Biểu đồ 2.9 Mức độ sinh viên sử dụng mạng xã hội .......................................... 67

Biểu đồ 2.10 Tin, bài chính sách khoa học và công nghệ có chứa các siêu liên

kết trên 4 báo điện tử ........................................................................................... 69

Biều đồ 2.11 Tính tƣơng tác tin, bài chính sách khoa học và công nghệ trên 4

báo điện tử ........................................................................................................... 70

5

Biểu đồ 2.12 So sánh giữa các chủ đề truyền thông khoa học và công nghệ

trên 4 báo điện tử ................................................................................................. 71

Biểu đồ 2.13 Đánh giá của sinh viên về thông tin chính sách khoa học và công

nghệ trên báo điện tử ........................................................................................... 72

Biểu đồ 2.14 Mức độ quan trọng của chính sách khoa học và công nghệ đối

với sinh viên ........................................................................................................ 72

Biểu đồ 2.15 Tỷ lệ số lƣợng báo điện tử sinh viên tiếp nhận thông tin chính

sách khoa học và công nghệ ................................................................................ 75

Biểu đồ 2.16 Tần suất sinh viên tiếp nhận tin tức chính sách khoa học và công

nghệ trên báo điện tử qua mạng xã hội ............................................................... 76

Biểu đồ 2.17 Thống kê độ tuổi sinh viên quan tâm đến báo điện tử .................. 78

Biểu đồ 2.18 Tỷ lệ sinh viên quan tâm chính sách khoa học và công nghệ trên

4 báo điện tử ........................................................................................................ 80

Biểu đồ 2.19 Đánh giá của sinh viên về nội dung của chính sách khoa học và

công nghệ trên báo điện tử .................................................................................. 80

Biểu đồ 3.1 Yêu cầu nội dung bài viết chính sách khoa học và công nghệ trên

báo điện tử ........................................................................................................... 95

Biểu đồ 3.2 Yêu cầu hình thức trình bày bài viết chính sách khoa học và công

nghệ trên báo điện tử ........................................................................................... 97

3. Danh mục hình ảnh

Hình 1.1. Mô hình truyền thông của H. Laswell ................................................ 41

Hình 1.2. Mô hình truyền thông của C.Shannon ................................................ 41

6

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự bùng nổ của cuộc cách mạng công

nghiệp lần thứ 4, Đảng và Nhà nƣớc đã xác định phát triển KH&CN là yếu tố

then chốt đƣa Việt Nam tiến tới xây dựng nền kinh tế tri thức và lực lƣợng

sản xuất hiện đại. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) nội

dung của Nghị quyết đã thể hiện quan điểm đổi mới mạnh mẽ KH&CN, tiêu

biểu là định hƣớng phát triển KH&CN làm cơ sở cho quá trình hoạch định

chủ trƣơng, đƣờng lối lãnh đạo sự nghiệp đổi mới giai đoạn 2016 - 2020 và

những năm tiếp theo. Dựa trên chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng những năm

qua các chính sách, pháp luật về KH&CN đã tích cực đƣợc hoàn thiện và đổi

mới, nhƣ: Luật KH&CN (năm 2013); Luật chuyển giao công nghệ (năm

2017); Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2005 và 2009)...

Để thực hiện đƣợc mục tiêu phát triển KH&CN thì việc đào tạo nguồn

nhân lực chất lƣợng cao hết sức quan trọng. Vì vậy, ngànhGD&ĐT đã đƣợc

giao nhiệm vụ này ngay từ Nghị quyết Trung ƣơng II, khóa VIII “Về định

hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000” đã khẳng định “Thực sự coi giáo

dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát

triển” [5, tr.29]. Từ đó đến nay, các Đại hội IX, X, XI của Đảng, đặc biệt là

Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Trung ƣơng Đảng, khóa XI “Về

đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện

đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập quốc tế” nhấn mạnh “Phát triển GD&ĐT phải gắn với nhu cầu phát

triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ KH&CN”[13, tr. 121]. Qua

đó, một trong chín nhiệm vụ, giải pháp thực hiện đƣợc mục tiêu là “Tăng

cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học,

chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giữa

7

đào tạo và nghiên cứu, giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh

doanh… Có chính sách khuyến khích học sinh, SV nghiên cứu khoa học” [13,

tr.136]. Không chỉ vậy, tầm quan trọng của việc khuyến khích và thúc đẩy

SV, cán bộ nghiên cứu khoa học; triển khai ứng dụng KH&CN đáp ứng nhu

cầu phát triển kinh tế - xã hội đã đƣợc khẳng định tại Luật Giáo dục đại học

năm 2012: “Gắn đào tạo với nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học và

công nghệ… Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền và trách nhiệm tiếp

nhận, tạo điều kiện để người học, giảng viên thực hành, thực tập, nghiên cứu

khoa học và chuyển giao công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng đào

tạo”[41, tr.17].

Tuy nhiên, để tạo ra đƣợc sự cộng hƣởng nghiên cứu khoa học đến từng

cán bộ, giảng viên, đặc biệt là SV trong từng trƣờng đại học, học viện thì lại

là nhiệm vụ quan trọng của báo chí và truyền thông. Hiện nay, cùng với quá

trình phát triển KH&CN, các phƣơng tiện truyền thông đại chúng nƣớc ta

đang phát triển mạnh. Các cơ quan tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực

KH&CN đều đẩy mạnh các hoạt động truyền thông trên báo chí, nhằm tạo

dựng diễn đàn để đối thoại và phản biện chính sách. Đồng thời, báo chí và

truyền thông tạo cầu nối giữa chủ thể và đối tƣợng chính sách. Từ đó,

TTCSKH&CN gắn kết cơ chế, chủ trƣơng đến từng SV, ngƣời dân, nhà

nghiên cứu và nhà doanh nghiệp. Trong Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai

đoạn 2011 - 2020 theo Quyết định số 418/QĐ-TTG của Thủ tƣớng Chính phủ

năm 2012 đã đặc biệt nhấn mạnh, việc đẩy mạnh truyền thông chính sách

(TTCS) hoạt động KH&CN, nhằm nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của

KH&CN. Từ đó, Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai đoạn 2011 - 2020 đã

xác định mục tiêu, “Phát triển KH&CN cùng với GD&ĐT là quốc sách

hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững.

KH&CN phải đóng vai trò chủ đạo để tạo được bước phát triển đột phá về

lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh

8

tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước”[17].

Để KH&CN trở thành động lực quan trọng phát triển kinh tế - xã hội và

bảo vệ Tổ quốc, TTCSKH&CN đóng vai trò hết sức quan trọng. Các thành

tựu, chính sách của KH&CN để đƣợc phổ biến rộng rãi đến SV và đƣa vào

ứng dụng trong thực tiễn, thì không thể thiếu đƣợc lực lƣợng báo chí và đội

ngũ nhà báo, biên tập viên cùng đồng hành và tích cực tham gia TTCS về

KH&CN.

TTCSKH&CN nói chung và cho SV nói riêng là một quá trình liên tục

trao đổi hoặc chia sẻ, phổ biến các thông tin chính sách, pháp luật từ đảng,

nhà nƣớc về năng KH&CN đến SV, quần chúng nhân dân nhằm nâng cao

nhận thức, thay đổi hành vi của đối tƣợng đƣợc tác động. Nói cách khác,

TTCSKH&CN và đội ngũ báo chí đã làm thay đổi môi trƣờng xã hội sáng

tạo, đổi mới, nuôi dƣỡng đội ngũ SV, cán bộ nghiên cứu khoa học giàu lòng

đam mê, nhiệt huyết góp phần xây dựng và phát triển đất nƣớc trong xu thế

toàn cầu hóa ngày nay.

Từ đó, một lần nữa khẳng định vai trò của hoạt động TTCSKH&CN

cho SV, cán bộ khoa học trong các trƣờng đại học nói riêng và các nhà khoa

học, ngƣời dân… nói chung là một trong những nhân tố giúp cho lĩnh vực này

đạt mục tiêu đề ra.

Tuy nhiên, thực trạng chung của TTCS hoạt động KH&CN ở Việt

Nam hiện nay nhƣ thế nào? Hiện nay, công tác TTCS trên báo điện tử đang

đƣợc thực hiện ra sao? Hoạt động này mang lại những hiệu quả thực tế nhƣ

thế nào phục vụ cho chiến lƣợc phát triển KH&CN của Chính phủ? Đây là

câu hỏi đang đƣợc đặt ra cho các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia và

những ngƣời làm truyền thông về KH&CN.

Qua nghiên cứu, hiện nay mới chỉ có một số hội thảo, công trình bàn về

truyền thông các thành tựu ứng dụng KH&CN trên truyền hình và truyền

9

thông các thành tựu ứng dụng KH&CN trên báo điện tử nói riêng. Trong

khi đó, trƣớc khi nhắc đến các thành tựu đạt đƣợc nhờ ứng dụng KH&CN

thì điều cần đƣợc quan tâm hơn cả là làm sao để truyền thông, phổ biến

rộng rãi các chính sách trong lĩnh vực này một cách nhanh chóng và kịp

thời nhất đến mọi đối tƣợng là SV, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu,

ngƣời dân… trong nƣớc và quốc tế, thì lại chƣa có công trình khoa học nào

nghiên cứu cụ thể về vấn đề này.

Đây chính là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài “Truyền thông chính

sách khoa học và công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử Việt Nam hiện

nay” để nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2.1. Trên thế giới

Trên thế giới, hoạt động KH&CN ở các nƣớc phát triển có giá trị to lớn

về mặt quyền lực và củng cố vị trí của quốc gia trong khu vực nói riêng và

quốc tế nói chung. Do vậy, chính sách về hoạt động KH&CN đƣợc các quốc

gia này vô cùng coi trọng. Trong đó, mục tiêu đầu tƣ cho nghiên cứu phát

triển trong các chính sách, chiến lƣợc phát triển KH&CN đƣợc sử dụng có ý

nghĩa và tác dụng nhất. Cuốn “Sách trắng về KH&CN” của Đài Loan (Trung

Quốc) đƣợc xuất bản năm 2007 đƣa ra thực trạng, tầm nhìn và chiến lƣợc phát

triển KH&CN hiện nay để làm cơ sở hƣớng dẫn việc thúc đẩy phát triển

KH&CN ở Đài Loan.

Nhật Bản là một đất nƣớc có nền KH&CN phát triển và muốn xây dựng

một xã hội “Khoa học trong xã hội, xã hội vì khoa học”. Sự ra đời của “Sách

trắng” vào năm 1958 do Cục KH&CN Nhật Bản xuất bản đã mang đến cho

độc giả bức tranh toàn cảnh về hiện trạng phát triển KH&CN hàng năm của

Nhật Bản, cũng nhƣ thông tin mới nhất về KH&CN trong nƣớc và trên thế

giới. Tuy nhiên, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 mối quan tâm của ngƣời dân

Nhật Bản với vấn đề KH&CN, đặc biệt là giới trẻ dần có xu hƣớng giảm đi, vì

10

họ nhận thấy rằng các vấn đề KH&CN quá phức tạp, thiếu thông tin đƣợc

trình bày dễ hiểu. Vì vậy, để thay đổi điều đó, Nhật Bản hiểu rằng phải đẩy

mạnh truyền thông KH&CN bằng cách chính sách đổi mới đƣa truyền thông

KH&CN vào kế hoạch phát triển KH&CN 5 năm. Mô hình phối hợp mới

đƣợc hình thành giữa các viện/trung tâm nghiên cứu với trƣờng phổ thông,

đại học. Từ đó, học sinh và SV nhận thức nghiên cứu khoa học quan trọng,

thậm chí quyết định vận mệnh của đất nƣớc, khích lệ các em hƣớng đến và

say mê nghiên cứu khoa học [15, tr. 285-291].

Chính phủ Úc cũng là một trong những quốc gia chú trọng phát triển

KH&CN, vì thế truyền thông KH&CN là một bộ phận không thể thiếu trong

chiến lƣợc phát triển KH&CN của Úc. Từ năm 1988, Úc liên tục đầu tƣ cho

các chƣơng trình truyền thông KH&CN, tiếp đó vào năm 2001 và năm 2006

lần lƣợt là các Chiến lƣợc quốc gia nâng cao nhận thức về đổi mới sáng tạo và

Chƣơng trình kết nối khoa học [15,tr. 293-298].

Trong cuốn sách “Bùng nổ truyền thông”, Philippe Breton và Serge

Proulx nhận định:“Từ khi các media hiện đại (computer, internet, vô tuyến

truyền hình, quảng cáo…) ra đời đã làm xuất hiện một nền tảng ý thức hệ mới

- nền tảng tư tưởng về truyền thông. Nếu như trong các cơ cấu xã hội cũ, giáo

hội, nhà nước, các đảng phái nắm quyền quyết định và vận hành các thiết chế

xã hội, thì trong cơ cấu xã hội hậu hiện đại, chính những tổ chức và phương

tiện truyền thông đã nắm lấy quyền lực ấy… Từ nay có một nền văn hóa kỹ

thuật, vật chất, được hình thành trong những tiếp xúc hằng ngày giữa các cá

nhân với công cụ kỹ thuật và với máy móc” [38, tr. 120-397].

Tuy nhiên, luận văn này tác giả đi sâu nghiên cứu vào khía cạnh TTCS

hoạt động KH&CN. Trong bài báo khoa học về “Science communication: a

contemporary definition”, nhà nghiên cứu Burns và các cộng sự đã chỉ rõ

truyền thông KH&CN là một phần quan trọng trong xã hội hiện đại. Hoạt

động truyền thông KH&CN không chỉ làm cho các nhà khoa học nói nhiều

11

hơn về công việc của họ hoặc tạo ra các sự kiện khoa học hấp dẫn, truyền

thông KH&CN còn mang đến sự ủng hộ của công chúng trong hoạt động

KH&CN [47, tr.183-202].

Còn nhà nghiên cứu Borchelt trong bài báo khoa học “Communicating

the Future: Report of the Research Roadmap Panel for Public

Communication of Science and Technology in the Twenty-First Century” cho

rằng:“Truyền thông KH&CN bao gồm về chính sách hoạt động KH&CN có

ba mục đích chính để thực hiện truyền thông là thông báo cho công chúng về

các hoạt động khoa học, sản phẩm hoặc kết luận có thể hữu ích trong việc cải

thiện chất lượng cuộc sống nói chung hoặc liên quan đến các vấn đề công

chúng quan tâm; cung cấp thông tin để công chúng có thể hiểu, suy nghĩ và

có thể tham gia vào việc xây dựng chính sách công về các vấn đề cụ thể;

Cung cấp mô tả và giải thích về công việc khoa học để nâng cao trình độ hiểu

biết về khoa học của người dân” [48, tr.194-211].

Đặc biệt, trong cuốn “Journalism, Science and Society: Science

Communication between News and Public Relations” của Martin W. Bauer và

Massimiano Bucchi - hai giáo sƣ tại trƣờng Kinh tế London chuyên nghiên

nghiên cứu sự tƣơng tác giữa KH&CN với truyền thông và thái độ của công

chúng với KH&CN. Cuốn sách tập trung vào hai mục đích chính, thứ nhất là

bảo trợ cá nhân với các nghiên cứu khoa học bằng cách tƣ duy xúc tiến

thƣơng mại đã làm thay đổi bản chất của quá trình truyền thông KH&CN; thứ

hai là các tổ chức và doanh nghiệp ngày càng sử dụng chiến lƣợc và chiến

thuật truyền thông để quảng bá hình ảnh, uy tín và điều hành sản phẩm.

Mặc dù, các tài liệu về truyền thông KH&CN ở ngoài nƣớc tƣơng đối

đa dạng, nhƣng vẫn chƣa có một công trình cụ thể nào nghiên cứu riêng biệt

về hiệu quả TTCS hoạt động KH&CN.

12

2.2. Ở Việt Nam

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo đà phát triển trong lĩnh vực

KH&CN ở Việt Nam với nhiều thành tựu và đóng góp vào sự tăng trƣởng của

nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, TTCSKH&CN nói chung cũng nhƣ hoạt động

đẩy mạnh nghiên cứu khoa học ở các trƣờng đại học nói riêng, đƣợc Đảng,

Nhà nƣớc và Chính phủ đặc biệt quan tâm. Các phƣơng tiện truyền thông đại

chúng nhƣ báo in, báo truyền hình, báo phát thanh, báo điện tử thƣờng xuyên

tuyên truyền, nhấn mạnh những thành tựu, tuyên truyền và phổ biến những cơ

chế, chính sách mới trong KH&CN đến với công chúng. Ngoài ra, có nhiều

chƣơng trình và chuyên mục dành riêng cho KH&CN về nhóm nghiên cứu,

sản phẩm KH&CN...

Trên thực tế công trình nghiên cứu khoa học hiện nay, có rất ít đề tài

tiếp cận dƣới góc độ báo chí về công tác TTCSKH&CN dành cho SV. Chủ

yếu vẫn là các đề tài nghiên cứu về truyền thông KH&CN.

Luận văn Thạc sĩ “Truyền thông về khoa học công nghệ trên báo điện

tử” năm 2015 của tác giả Đào Quang Long bảo vệ tại Trƣờng Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn. Luận văn đã tập trung khái quát những thông tin

KH&CN, quy trình sản xuất trên báo điện tử - một loại hình báo chí mới đã

và đang có những bƣớc phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, luận văn mới đi sâu

vào khảo sát, nghiên cứu về quá trình, quy trình trên báo điện tử chứ không

tìm hiểu, phân tích vào các chính sách KH&CN.

Đề tài “Truyền thông về khoa học công nghệ trên Đài truyền hình Việt

Nam” luận văn Thạc sĩ ngành Báo chí năm 2016 của tác giả Trần Thị Quyên,

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, đã khảo sát các chuyên mục

về KH&CN trên VTV1, VTV2. Từ đó, tác giả đi sâu phân tích đƣợc bức tranh

toàn cảnh về các chƣơng trình truyền hình KH&CN trên Đài Truyền hình Việt

Nam. Nhƣng luận văn vẫn chƣa làm nổi bật đƣợc tầm quan trọng và phân tích

13

cụ thể vào TTCS KH&CN tác động trực tiếp, có lợi ích thiết thực đối với

công chúng.

Đề tài “Tác động của KH&CN hiện đại đến con người Việt Nam hiện

nay”, luận văn Thạc sĩ ngành Báo chí năm 2005 của tác giả Lê Thị Thắm,

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Luận văn khái quát tình hình

phát triển KH&CN ở Việt Nam. Đồng thời phân tích sự tác động của khoa

học hiện đại đến con ngƣời Việt Nam. Từ đó đƣa ra các dạng phác thảo xây

dựng con ngƣời Việt Nam phù hợp với thời đại KH&CN, đáp ứng yêu cầu

công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở nƣớc ta. Tuy vậy, luận văn chƣa

đề cập đến vấn đề TTCS KH&CN trên báo điện tử.

Luận văn thạc sĩ “Thông tin Khoa học Công nghệ trên sóng VTV2 Đài

Truyền hình Việt Nam” năm 2013 của tác giả Nguyễn Thu Quyên bảo vệ tại

Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đã cơ bản khái quát đƣợc những thông tin

KH&CN trên truyền hình, song đề tài tập trung chính vào chƣơng trình “Nhà

sáng chế” đƣợc phát sóng trên kênh VTV2. Tuy nhiên, luận văn chƣa phân

tích sâu đƣợc bức tranh toàn cảnh về “cánh cửa” giải phóng các nguồn lực

phát triển KH&CN là những chính sách KH&CN do Đảng, Nhà nƣớc, Chính

phủ ban hành.

Ngoài các công trình nghiên cứu trên, trong các hội thảo về KH&CN

đƣợc tổ chức cũng có một số báo cáo khoa học của các chuyên gia có đề cập

đến truyền thông về KH&CN. Đặc biệt, hội nghị “Khoa học, công nghệ và

đổi mới sáng tạo - Một trụ cột cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam”

do Bộ KH&CN bàn luận nội dung xoay quanh cách thức mà khoa học, công

nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự có thể đóng góp cho tăng trƣởng kinh tế-xã

hội và thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp với trƣờng/viện.

Tham luận “Vai trò của KH&CN và thực trạng truyền thông về

KH&CN hiện nay” do tác giả Trần Đức Chính thực hiện, đã nhấn mạnh đến

đánh giá về tác phong của phóng viên, biên tập viên khi truyền thông về

14

KH&CN. Mặt khác, trong tham luận “Kỹ năng làm báo về KH&CN” đƣợc

thực hiện bởi tác giả Hà Huy Phƣợng đã đƣa ra những yếu tố, kỹ năng tác

nghiệp mà một nhà báo về KH&CN cần có. Bên cạnh đó, còn một số báo cáo

đề cập đến vấn đề nâng cao hiệu quả truyền thông KH&CN nhƣ: “Nâng cao

chất lượng truyền thông phát triển KH&CN” - tác giả Đinh Thị Thúy Hằng;

“Một số hạn chế về thông tin KH&CN trên báo chí: hiện trạng và giải pháp” -

tác giả Trần Bá Dung....

Bài viết trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông về “Một số vấn

đề về TTCS công ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Dững đề cập

đến những vấn đề chính liên quan đến nhận thức khái niệm và mô thức truyền

thông; vai trò của thiết chế báo chí - truyền thông kiến tạo trong TTCS công;

thử đề xuất mô hình TTCS công ở Việt Nam. Những vấn đề này có thể áp

dụng vào TTCS hoạt động KH&CN nói riêng và chính sách công nói chung.

Ngoài ra, tham luận về “Vai trò của Quỹ vì sự phát triển của khoa học

và sáng tạo Hàn Quốc trong hoạt động truyền thông KH&CN” của tác giả

Nguyễn Thị Thanh Huyền đã nêu lên những kinh nghiệm truyền thông về

KH&CN của Hàn Quốc. Là một trong những biểu tƣợng xuất sắc về KH&CN

trên thế giới, kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, truyền thông khoa học là

phải đƣợc tổ chức mọi nơi, mọi lúc, tác động từ bên trong tổ chức xã hội nhỏ

bé nhất là gia đình, đến cộng đồng và quốc gia...

Qua đây có thể thấy, những bài tham luận này có vai trò rất quan trọng,

giúp tác giả có thêm những kiến thức và nhận thức đƣợc tầm quan trọng về

TTCS hoạt động KH&CN trong quá trình làm luận văn, đồng thời thấy rõ

đƣợc thực trạng TTCS hoạt động KH&CN dành cho SV trên các phƣơng tiện

thông tin đại chúng hiện nay. Dù vậy, đến nay vẫn chƣa có báo cáo nào thực

sự đi sâu tìm hiểu về thực trạng và giải pháp TTCS hoạt động KH&CN cho

SV trên báo điện tử từ góc nhìn báo chí học.

15

Do vậy, luận văn “Truyền thông chính sách khoa học và công nghệ

cho SV trên báo điện tử Việt Nam hiện nay” sẽ làm rõ hơn các vấn đề về vị

thế của truyền thông trong các chính sách KH&CN, thực trạng TTCS hoạt

động KH&CN đến với SV thông qua các báo điện tử VnExpress.net,

Dantri.com.vn, Tuoitre.vn, Svvn.vn. Đồng thời chỉ rõ những vấn đề đặt ra, đề

ra giải pháp và kiến nghị đối với hoạt động truyền thôngchính sách khoa học

và công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu nhằm mục đích hệ thống hóa những vấn đề lý

luận và khảo sát cụ thể một số tác phẩm báo chí TTCSKH&CN, từ đó bổ

sung thông tin khoa học về thực trạng hoạt động TTCSKH&CN trên báo chí

nói chung và điện tử nói riêng trong thời gian gần đây; đồng thời đƣa ra giải

pháp, kiến nghị với ban biên tập các tác phẩm báo chí, cơ quan quản lý và

nghiên cứu về KH&CN, các chuyên gia, các nhà khoa học để nâng cao chất

lƣợng tác phẩm báo chí TTCSKH&CN và hiệu quả thông tin về chính sách

KH&CN; từ đó, luận văn cũng bổ sung tài liệu nghiên cứu và giảng dạy cho

ngành báo chí và truyền thông về các vấn đề liên quan.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, tác giả luận văn sẽ thực hiện các nhiệm

vụ nghiên cứu sau:

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về khoa học và công

nghệ, TTCS về khoa học và công nghệ cho SV trên báo chí. Cụ thể: làm rõ

các khái niệm công cụ; chỉ rõ vai trò và đặc điểm của TTCS KH&CN;khẳng

định đƣờng lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển

KH&CN và TTCS KH&CN cho sinh viên trên báo điện tử; nêu ra các nguyên

tắc, yêu cầu cũng nhƣ vai trò, nhiệm vụ của TTCSKH&CN cho SV trên báo

điện tử.

16

- Khảo sát thực trạng TTCSKH&CN cho SV trên bốn báo điện tử

VnExpress.net, Dantri.com.vn, Tuoitre.vn, Svvn.vn, để rút ra các kết luận và

chứng cứ khoa học nhằm đánh giá khách quan hiệu quả hoạt động

TTCSKH&CN cho SV thông qua các báo điện tử VnExpress.net,

Dantri.com.vn, Tuoitre.vn, Svvn.vn.

- Đề xuất các giải pháp và khuyến nghị với cơ quan quản lý và nghiên

cứu về KH&CN, các chuyên gia, các nhà khoa học, các tòa soạn báo điện tử

để nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của tác phẩm báo chí về chính sách

KH&CN cho SV trên báo điện tử Việt Nam hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về TTCS hoạt động KH&CN cho SV trên báo

điện tử.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn thực hiện nghiên cứu TTCS hoạt động KH&CN khảo sát trên

các báo điện tử, gồm: VnExpress.vn, Dantri.com.vn, Tuoitre.vn, Svvn.vn .

Thời gian khảo sát: Từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2019.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở nhận thức luận những vấn đề của

Chủ nghĩa Mác-LêNin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chính sách và pháp

luật của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về báo chí - truyền thông.

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở các lý thuyết nhƣ: Lý thuyết truyền

thông; các lý thuyết về chính sách; lý thuyết báo chí học và các lý thuyết liên

quan khác.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, tác giả luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên

cứu công cụ nhƣ sau:

17

Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu thứ

cấp; Phƣơng pháp phân tích nội dung các tác phẩm báo chí trên báo điện tử

mà luận văn khảo sát; Phƣơng pháp phỏng vấn sâu những ngƣời làm công tác

truyền thông, chuyên gia quản lý KH&CN ở Bộ, ngành, trƣờng đại học và các

phóng viên đang làm việc tại các cơ quan báo chí; Phƣơng pháp điều tra xã

hội học bảng hỏi anket SV về hiệu quả đọc các tác phẩm báo chí trên báo điện

tử. Các phƣơng pháp nghiên cứu sẽ đƣợc trình bày chi tiết nhƣ sau:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Đề tài sƣu tầm và hệ thống

hóa các văn bản pháp quy liên quan tới hoạt động TTCSKH&CN nhƣ Quyết

định 418/QĐ-TTg năm 2012 của Thủ tƣớng chính phủ về Chiến lƣợc phát

triển KH&CN giai đoạn 2011-2020; Luật KH&CN năm 2013; Luật Chuyển

giao công nghệ năm 2017; Luật Sở hữu trí tuệ; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ XII năm 2016 về định hƣớng phát triển khoa học và công nghệ

làm cơ sở cho quá trình hoạch định chủ trƣơng, đƣờng lối lãnh đạo sự nghiệp

đổi mới giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo,… Ngoài ra còn nghiên

cứu các công trình khoa học, sách, báo tƣ liệu, tài liệu, các luận văn... của

trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Học viện Báo chí tuyên

truyền có liên quan tới đề tài TTCS về khoa học và công nghệ cho SV trên

báo điện tử Việt Nam hiện nay.

- Phương pháp phân tích nội dung: Phân tích các tác phẩm báo chí mà

luận văn khảo sát qua đề tài phân tích sâu các tác phẩm báo chí, thông điệp

truyền thông, cũng nhƣ nội dung, hình thức thể hiện của các tác phẩm báo chí

trên 4 báo điện tử VnExpress.net, Dantri.com.vn, Tuoitre.vn, Svvn.vn. Qua đó

tác giả sẽ mô tả đƣợc đặc trƣng, đặc điểm của thông điệp, chỉ rõ ƣu, nhƣợc

điểm và đƣa ra giải pháp TTCSKH&CN cho SV.

- Phương pháp phỏng vấn sâu (phỏng vấn chuyên gia): Ngƣời thực

hiện đã tiến hành gặp gỡ và phỏng vấn sâu 01 lãnh đạo Bộ KH&CN về tầm

quan trọng của công tác TTCS đến SV; phỏng vấn 02 lãnh đạo chuyên mục

18

KH&CN, giáo dục của báo điện tử Dân trí và Giáo dục thời đại cùng với 03

phóng viên mảng KH&CN, giáo dục tại báo điện tử Dân trí, Vnexpress nhằm

thu thập ý kiến đánh giá chung về các tác phẩm báo chí KH&CN, thuận lợi và

khó khăn trong quá trình thực hiện TTCS.

Đồng thời, cũng phỏng vấn 01 lãnh đạo Ban Khoa học Công nghệ (Đại

học Quốc gia Hà Nội) và 02 Bí thƣ Đoàn Thanh niên của các Trƣờng Đại học

Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội), Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội.

Từ đó, đƣa ra các đánh giá chung về công tác TTCSKH&CN trên báo điện tử

hiện nay và những đề xuất để nâng cao công tác TTCSKH&CN trên báo chí

nói chung, báo điện tử nói riêng.

- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi ankét: Phƣơng pháp này áp

dụng với SV, độc giả về hiệu quả đọc các tác phẩm báo chí trên báo điện tử.

Cụ thể, tác giả lập bảng hỏi gồm các câu hỏi và 200 phiếu hỏi online phát cho

SV các trƣờng Đại học Công nghệ, Đại học Bách khoa Hà Nội và Học viện

Công nghệ bƣu chính viễn thông. Tác giả sử dụng phƣơng pháp này để thăm

dò ý kiến của các SV và độc giả. Mục đích sử dụng phƣơng pháp này cũng để

có đƣợc kết quả định lƣợng, mang tính khách quan liên quan đến hiệu quả

truyền thông của các tác phẩm báo chí mà tác giả khảo sát.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn là tài liệu tham khảo dành cho các nhà nghiên cứu, cán bộ

giảng dạy báo chí có thêm cơ sở lý luận trong hoạt đào tạo nhà báo, những

ngƣời làm công tác truyền thông về chính sách KH&CN.

6.2. Giá trị thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có đóng góp cho hoạt động thực tiễn

của nhà báo hoặc những ngƣời làm công tác truyền thông trong việc tuyên

truyền chính sách KH&CN cho SV. Từ đó, chính sách hoạt động KH&CN

cho SV trên báo điện tử sẽ chính xác và đƣợc nâng cao hiệu quả về thông tin,

19

để kết nối giữa nghiên cứu khoa học với các trƣờng đại học, sản xuất, kinh

doanh. Những kết quả nghiên cứu, chuyển giao KH&CN sẽ đƣợc triển khai

ứng dụng thực tiễn.

Các nhà quản lý, tƣ vấn chính sách KH&CN sẽ có cái nhìn toàn diện

hơn với công tác TTCS hoạt động KH&CN để đƣa ra những chính sách, cơ

chế và đầu tƣ hợp lý đối với hoạt động tuyên truyền trên các phƣơng tiện

thông tin đại chúng nói chung và báo điện tử nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung

của luận văn gồm có 3 chƣơng, 11 tiết, 46 hình, biểu bảng. Cụ thể:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận vềtruyền thông chính sách hoạt động

khoa học và công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử.

Chương 2: Thực trạng truyền thông chính sách hoạt động khoa học và

công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp và khuyến nghị đối với thông chính sách hoạt động

khoa học và công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử Việt Nam hiện nay.

20

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CHO SINH VIÊN

TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

1.1. Các khái niệm

1.1.1. Khái niệm “khoa học và công nghệ” và “chính sách khoa học và

công nghệ”

- Khái niệm “khoa học và công nghệ”

Thuật ngữ “khoa học” có nhiều cách hiểu trên thế giới nói chung và

Việt Nam nói riêng. Tùy theo mục đích sử dụng khoa học có nhiều cách tiếp

cận. Khái niệm khoa học có một số cách tiếp cận nhƣ sau:

Từ điển online “MacMillan English Dictionary for Advanced Learners”

đã định nghĩa: “Khoa học là nghiên cứu và tri thức về thế giới vật lý và hành

vi của nó được dựa trên các thực nghiệm và các sự kiện được kiểm chứng và

được tổ chức thành hệ thống” [49].

Trong giáo trình “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” của tác giả

Vũ Cao Đàm viết: “Khoa học là một hệ thống tri thức, bao gồm: Tri thức kinh

nghiệm và tri thức khoa học. Khoa học là một hình thái ý thức xã hội. Khoa

học là một thiết chế xã hội. Khoa học là một hoạt động xã hội” [46, tr.59].

Theo “Luật KH&CN” (2013): “Khoa học là hệ thống tri thức về bản

chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và

tư duy. [42, tr. 8].

Để tiếp cận rõ nét với khái niệm KH&CN, tác giả đƣa ra một số định

nghĩa về thuật ngữ “công nghệ”. Ủy ban kinh tế và xã hội khu vực châu Á -

Thái Bình Dƣơng (ESCAP) đƣa ra khái niệm: “Công nghệ là kiến thức có hệ

thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Công

nghệ bao gồm kiến thức, kỹ năng.” [45, tr. 45].

21

Các tài liệu nghiên cứu của tác giả Vũ Cao Đàm đƣa ra 3 khái niệm về

công nghệ:

 Khái niệm 1: “Công nghệ là một trật tự nghiêm ngặt các thao tác của

quá trình chế biến vật chất thông tin

 Khái niệm 2: “Công nghệ là một phương tiện (device) chế biến vật

chất thông tin, gồm: Phần cứng và Phần mềm”.

 Khái niệm 3 (Mô hình Sharif): “Công nghệ là một cơ thể (hệ thống) tri

thức về quá trình chế biến vật chất hoặc thông tin về phương tiện và

phương pháp chế biến vật chất và hoặc thông tin. Công nghệ gồm 4 yếu

tố: Kỹ thuật (Technoware); Thông tin (Inforware); Con người

(Humanware); Tổ chức (Orgaware)” [45, tr. 46-48].

Cũng nhƣ ở khái niệm khoa học, trong phần này tác giả cũng sử dụng

khái niệm công nghệ theo cách tiếp cận có chọn lọc của văn bản Luật

KH&CN (năm 2013): “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết, kỹ thuật

có kèm theo hoặc không kèm theo các công cụ, phương tiện dùng để biến đổi

các nguồn lực thành sản phẩm có độ tin cậy”[42, tr. 8].

Mối quan hệ giữa KH&CN: KH&CN có nội dung khác nhau nhƣng

chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ chặt chẽ này thể hiện

ở chỗ khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kĩ thuật và sản xuất còn

rất yếu, nhƣng đã phát triển đến trình độ cao nhƣ ngày nay thì nó tác động

mạnh mẽ và trực tiếp tới sản xuất.

Vậy KH&CN là kết quả sự vận dụng những hiểu biết, tri thức khoa học

của con ngƣời để sáng tạo cải tiến các công cụ, phƣơng tiện phục vụ cho sản

xuất và các hoạt động khác.

- Khái niệm “chính sách KH&CN”

Chính sách (hay còn gọi là chính sách công) là vấn đề quan trọng hàng

đầu, ảnh hƣởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia cũng nhƣ

với từng địa phƣơng cụ thể. Chính sách công đƣợc định nghĩa là một tập hợp

22

các quyết định chính trị có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp,

công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội theo mục tiêu tổng

thể đã xác định. Việc xây dựng, hoạch định chính sách, công bố chính sách

tới ngƣời dân, thực thi nhƣ thế nào liên quan nhiều tới công tác TTCS.

Dựa vào “Luật KH&CN” (2013), tác giả cũng đƣa ra khái niệm về hoạt

động KH&CN “Là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai

thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ KH&CN,

phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển KH&CN”

[42, tr. 8].

Vì vậy, chính sách KH&CN là những tập hợp quyết định chính trị liên

quan đến lĩnh vực nghiên cứu khoa học, triển khai và ứng dụng công nghệ, sở

hữu trí tuệ. Từ đó, lĩnh vực KH&CN có những quy chuẩn thực thi, giải pháp

để phát triển năng lực khoa học và công nghệ quốc gia trong từng thời kỳ.

1.1.2. Khái niệm “truyền thông chính sách”, “báo điện tử”, “sinh viên”

- Khái niệm “truyền thông chính sách”

Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí và truyền thông” do tác giả Dƣơng

Xuân Sơn chủ biên đã đƣa ra khái niệm: “Truyền thông là một quá trình liên

tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kĩ năng, nhằm tạo sự liên kết

lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức” [21, tr.13].

Trong đó bao gồm các yếu tố chính là nguồn phát, thông điệp, kênh truyền

thông, ngƣời nhận, phản hồi, nhiễu, hiệu quả truyền thông.

Theo Từ điển tiếng Việt “chính sách” đƣợc hiểu là “sách lược và kế

hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị

chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…” [23, tr.157].

Tác giả Hà Thị Thùy Dƣơng trong bài nghiên cứu “Vai trò của truyền

thông với quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách”

định nghĩa “Chính sách là tập hợp các chủ trƣơng và hành động, bao gồm các

23

mục tiêu muốn đạt đƣợc và cách thức thực hiện các mục tiêu đó. Hiện nay

còn nhiều cách định nghĩa chính nhƣng thƣờng có các điểm chung:

+ Chính sách là những hành động có mục đích, hay nói cách khác,

chính sách cần phải có mục đích rõ ràng;

+ Chính sách phải tác động vào những đối tƣợng cụ thể, hay nói cách

khác phải chỉ rõ đối tƣợng tiếp nhận hoặc hƣởng lợi.

+ Chính sách có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội” [34, tr.

245-248].

Trong cuốn “Truyền thông chính sách: Kinh nghiệm Việt Nam và

Hàn Quốc”, từ bài viết “TTCS: Từ lý luận đến thực tiễn” của tác giả

Trƣơng Ngọc Nam định nghĩa:“TTCS (chính sách công) là chủ đề quan

trọng về lý luận và thực tiễn, gắn liền với năng lực điều hành vĩ mô cũng

như hiệu lực, hiệu quả của hoạt động chính phủ. Là quá trình quảng bá,

phổ biến, thông tin về chính sách đến người dân thông qua các phương

tiện truyền thông. Truyền thông tham gia vào tất cả các khâu trong quá

trình chính sách.” [34, tr. 19-24].

Tại bài viết “TTCS công tạo đồng thuận xã hội: Vai trò giám sát -

phản biện xã hội của báo chí và dư luận xã hội”, tác giả Nguyễn Văn Dững

cho rằng: “TTCS là quá trình liên tục. TTCS chia làm bốn giai đoạn, gồm

truyền thông tham gia ngay từ đầu trong việc khởi phát vấn đề có thể cần

chính sách can thiệp; báo chí truyền thông thực hiện phương thức cung cấp

thông tin, kiến thức..., từ đó lấy ý kiến, tổ chức phản biện xã hội và hình

thành các luồng ý kiến góp phần hoàn thiện chính sách; sau khi chính sách

được quyết định ban hành, báo chí truyền thông vào cuộc thực hiện chiến

dịch tuyên truyền, giáo dục, cung cấp thông tin…” [34, tr. 43-66].

Tóm lại, TTCS là quá trình chủ thể hoạch định, xây dựng, thực thi và

đánh giá chính sách thông qua phƣơng thức, phƣơng tiện truyền thông chia

sẻ, tƣơng tác xã hội đến công chúng nhằm tăng cƣờng sự hiểu biết, nhận thức

24

và thay đổi hành vi của các chủ thể chính sách hay giải quyết vấn đề liên

quan đến lợi ích cộng đồng, nhóm xã hội lớn để đạt mục tiêu chính sách, tạo

sự đồng thuận.

Truyền thông tham gia vào mỗi khâu của chu trình chính sách

KH&CN để đảm bảo chính sách nhận đƣợc sự đồng thuận xã hội, mặt khác

giúp chính sách KH&CN hoàn thiện hơn.

- Khâu hoạch định chính sách, TTCS giúp xác định đƣợc đúng và

trúng vấn đề chính sách, bảo đảm sự đồng thuận xã hội. Nội dung truyền

thông là phổ biến kiến thức và vấn đề chính sách, cần làm rõ nguyên nhân

mức độ của vấn đề chính sách.

- Khâu xây dựng chính sách, TTCS tập trung vào truyền thông và vận

động xã hội, nhận thức về chính sách để lựa chọn, dẫn đến sự đồng thuận

rộng lớn cho thực hiện chính sách.

- Khâu đánh giá chính sách, thông tin về kết quả thực hiện chính sách,

từ việc đánh giá chính sách, cũng đồng thời là quá trình cung cấp kiến thức,

chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm trong cộng đồng xã hội, khu vực và trên

phạm vi toàn cầu về một chính sách nào đó.

- Khái niệm “báo điện tử”

Trên thế giới, báo điện tử có nhiều tên gọi khác nhau nhƣ: online

newpaper (báo chí trên mạng/ trực tuyến), e- journal (electronic journal- báo

chí điện tử), e- zine (electronic magazine- tạp chí điện tử)…

Ở Việt Nam, thuật ngữ “báo điện tử” lần đầu tiên đƣợc ghi rõ trong văn

bản quy phạm pháp luật của Nhà nƣớc năm 1999. Cụ thể, tại Điều 3 Luật Báo

chí sửa đổi, bổ sung của một số điều của Luật Báo chí năm 1999 ghi rõ “Báo

điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính)” [39]. Đến năm 2016,

Luật Báo chí (sửa đổi) quy định tại Khoản 6, Điều 3 nhƣ sau: “Báo điện tử là

loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên

môi trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử” [43, tr.9 ].

25

Theo tác giả Nguyễn Sơn Minh (Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Báo

chí học - 2016) định nghĩa: “Báo điện tử là một hệ thống truyền thông đa

phương tiện, sử dụng nền tảng internet để thực hiện các chức năng báo

chí” [28, tr. 31].

Tuy nhiên, báo điện tử hiện nay ngoài việc sử dụng chữ viết, hình ảnh,

âm thanh mà còn sử dụng đồ họa để đặc tả về một sự kiện, vấn đề nào đó

nhằm thông tin cụ thể, dễ hiểu, dễ xem hơn cho công chúng báo chí. Vì vậy,

tác giả Nguyễn Văn Thắng, trong luận án tiến sĩ Báo chí học, năm 2018 định

nghĩa: “Báo điện tử là một loại hình báo chí đa phương tiện - sử dụng chữ

viết, hình ảnh, âm thanh, đồ họa được truyền dẫn trên môi trường mạng để

thực hiện chức năng báo chí. Báo điện tử được xuất bản bởi tòa soạn điện tử,

còn người sử dụng báo điện tử dựa trên máy tính, điện thoại di động, máy

tính bảng… có kết nối internet” [32, tr.46].

Cho đến nay, ở Việt Nam vẫn còn nhiều cách đƣa ra khái niệm nhƣ:

báo điện tử, báo mạng điện tử, báo trực tuyến, báo internet. Tuy nhiên, do

những quy định pháp lý về báo chí và những quy định tính hợp pháp của loại

hình báo điện tử - là loại hình luận văn đề cập đến. Do vậy, tác giả thống nhất

sử dụng thuật ngữ “báo điện tử” trong nghiên cứu này.

Tóm lại, báo điện tử là một trong những loại hình báo chí đa phƣơng

tiện đƣợc thể hiện bằng chữ viết, âm thanh, hình ảnh và đồ họa, đƣợc

truyền dẫn đến bạn đọc bởi môi trƣờng mạng và thông qua các thiết bị điện

tử thông minh.

- Khái niệm “sinh viên”

Học sinh, SV - thanh niên là khái niệm đƣợc hiểu và định nghĩa theo

nhiều cách tùy thuộc vào nội dung tiếp cận và góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ

đánh giá. Theo tâm lý học lứa tuổi, học sinh, SV là giai đoạn phát triển bắt

đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bƣớc vào tuổi ngƣời lớn.

26

“Từ điển Tiếng Việt” (2012) xếp SV vào danh từ và định nghĩa là

“người học ở bậc đại học” [25, tr. 726]. Theo quy định số 08/2012/QH13 của

Luật Giáo dục đại học thì “đại học là cơ sở giáo dục đại học bao gồm tổ hợp

các trường cao đẳng, trường đại học, viện nghiên cứu khoa học thành viên

thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, để đào tạo

các trình độ của giáo dục đại học”[41, tr.8].

Tóm lại, SV là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những ngƣời

đang trong quá trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia, hoạt động lao

động trong một lĩnh vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội

hoặc SV là những ngƣời đang học tập tại các trƣờng đại học, cao đẳng trong

và ngoài nƣớc. Từ đó, có thể hiểu SV là những công dân có độ tuổi từ 18 đến

30 tuổi đang học tập bậc đại học, cao đẳng.

Đặc điểm của SV:

- Là những ngƣời đã tốt nghiệp phổ thông trung học, bổ túc trung học

hoặc trung cấp chuyên nghiệp, xuất thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau

đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn tại các trƣờng

đại học, cao đẳng;

- Là lớp ngƣời năng động, luôn nhạy cảm và sẵn sàng tiếp thu cái mới.

- SV là bộ phận trí tuệ và ƣu tú trong các thế hệ thanh niên, là nơi kết

tinh nhiều tài năng sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có chuyên sâu

và đại bộ phận SV sẽ trở thành ngƣời trí thức của đất nƣớc.

Vai trò của SV: V.I. Lênin nhấn mạnh: “Người ta chỉ có thể trở thành

người cộng sản khi biết làm giàu trí tuệ của mình bằng tổng số tri thức của

loài người mà nhân loại đã tích lũy được và thanh niên trở thành người lao

động chân chính khi học sống và cùng lao động, cùng chiến đấu với công

nhân” [27, tr. 20-24]. Trong cách đặt vấn đề này, V.I. Lênin đặc biệt chú ý tới

tầng lớp SV trí thức. Vai trò này của họ trong đấu tranh cách mạng và phát

triển xã hội chỉ có thể đƣợc thể hiện, phát huy khi đƣợc giáo dục về thế giới

27

quan khoa học, cách mạng và đƣợc tập hợp thành tổ chức, nhờ đó họ hoạt

động trong các phong trào cách mạng, gắn lý luận với thực tiễn.

Theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, SV phải xác định đƣợc lý tƣởng sống của

họ thông qua hoạt động học tập. Ngƣời đã chỉ bảo ân cần SV phải học tập

toàn diện với phƣơng pháp học hiện đại (học đi đôi với hành, lý luận gắn liền

thực tiễn) phải có quan điểm thực tiễn trong học tập. Trong thời đại hiện nay,

SV phải gắn liền với công nghệ, đặc biệt là nghiên cứu khoa học. Có nhƣ vậy

SV mới trở thành con ngƣời toàn diện có đức, có tài, trở thành một “trí thức

hoàn toàn” và làm tốt công tác mà Đảng, Đoàn giao phó.

Tại đại hội lần thứ V Hội SV Việt Nam (1993) nguyên tổng bí thƣ

Đỗ Mƣời khẳng định “Sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng Chủ nghĩa xã

hội có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí

xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh

niên hiện nay quyết định, trong đó SV là bộ phận có vai trò hết sức quan

trọng” [24, tr. 240-241].

1.2. Vai trò và đặc điểm của truyền thông chính sách khoa học và công

nghệ cho sinh viên trên báo điện tử

1.2.1. Vai trò của truyền thông chính sách khoa học và công nghệ cho sinh

viên trên báo điện tử

Vai trò TTCS của báo điện tử đƣợc Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng

khẳng định tại Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 22/7/2005: “Báo điện tử có tác

dụng và tiện ích hơn hẳn các loại hình báo chí truyền thống, dung lượng

thông tin rất lớn, tương tác thông tin nhanh, phát hành không bị trở ngại về

không gian, thời gian, biên giới quốc gia. Từ khi ra đời, báo điện tử nước ta

đã góp phần quan trọng vào việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, Đường

lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; mở rộng hiệu quả thông

tin đối ngoại; nâng cao dân trí và thỏa mãn nhu cầu thông tin, hưởng thụ văn

hóa của nhân dân…” [29, tr.24].

28

Với vai trò truyền thông trong xã hội là: “Kênh tạo lập, định hướng và

hướng dẫn dư luận; kênh chủ yếu cung cấp kiến thức thông tin về tình hình

thời sự trong nước và quốc tế cho nhân dân; công cụ hữu hiệu để quản lý,

điều hành và cải cách xã hội; một định chế với những quy tắc và chuẩn mực

riêng của mình và có những quan hệ mật thiết với các định chế khác trong xã

hội; chúng cũng trở thành một bộ phận hữu cơ không thể thiếu trong đời sống

hàng ngày của mọi cá nhân, là phương tiện cung cấp thông tin, kiến thức và

giải trí cho người dân” [21, tr.29].

Tác giả hoàn toàn đồng tình với đánh giá trên về vai trò của báo chí.

Điều này càng chắc chắn khi tác giả phân tích, tổng hợp kết quả khảo sát SV

về đánh giá thông tin chính sách KH&CN trên báo điện tử tại Bảng 1.1.

Bảng 1.1 Tổng hợp mức độ đánh giá thông tin chính sách khoa học

và công nghệ

Mức độ đánh giá

Nội dung Quan trọng Không quan

Rất quan trọng 0,5% 93,5% trọng 6%

1. SV đánh giá tầm quan trọng của chính sách KH&CN Hữu ích Không hữu Bình thường

2. SV đánh giá mức độ hữu ích 60% Học tập 34,5% Giải trí

89% ích 5,5% Nghiên cứu 56% 34%

3. Mục đích SV sử dụng thông tin chính sách KH&CN

Kết quả khảo sát Bảng 1.1 cho thấy (1) SV đánh giá tầm quan trọng

của chính sách KH&CN “rất quan trọng” và “quan trọng” chiếm tỷ lệ cao

nhất là 94%; (2) mức độ hữu ích của nội dung thông tin “hữu ích” chiếm tỷ

lệ cao nhất là 60%; (3) mục đích sử dụng thông tin để học tập chiếm tỷ lệ

29

cao nhất là 89%, nghiên cứu xếp thứ hai chiếm tỷ lệ 56% và cuối cùng là

giải trí với tỷ lệ 34%.

Chứng tỏ, báo điện tử đã phát huy thế mạnh và thực hiện tốt nhiệm vụ,

vai trò chủ đạo trong công tác giới thiệu, phổ biến, cung cấp kiến thức, mở

rộng hiểu biết và nâng cao trình độ nhận thức về chính sách KH&CN trong

SV. Đây cũng là vai trò trọng yếu của truyền thông chính sách KH&CN.

Báo điện tử có cơ chế phản hồi nhanh chóng nên SV có thể trực tiếp

bình luận và thể hiện quan điểm ngay dƣới bài viết. Từ đó, các chủ thể thực

hiện chính sách xem xét, điều chỉnh hành vi thực hiện chính sách. Đồng thời

các cơ quan báo chí thu nhận đƣợc ý kiến đóng góp về nội dung, hình thức

của tin bài chính sách trên báo điện tử. Có thể thấy, báo điện tử đã phản hồi,

phản ánh chân thực việc thực thi chính sách, góp phần phát hiện và phản biện

quá trình thực thi chính sách.

Tại kết quả điều tra về độ tuổi SV tham gia khảo sát, trong đó SV năm

ba chiếm tỷ lệ khảo sát cao nhất là 54,5%, xếp thứ hai là SV năm thứ hai

23,5% và xếp thứ ba là SV năm thứ tƣ với tỷ lệ 11,5%, thứ tƣ là SV năm thứ

nhất 10,5%. Tỷ lệ SV năm thứ ba đang chiếm cao nhất có lẽ vì đây là độ tuổi

cần nhiều thông tin để hƣớng đến định hƣớng trong tƣơng lai, cũng nhƣ kiến

thức về chính trị, xã hội để nỗ lực trên con đƣờng sắp tới.

Một nam SV năm thứ ba khoa Cơ học kỹ thuật và tự động hóa, Trƣờng

Đại học Công nghệ cho biết:“ Ngay từ năm thứ nhất em đã tham gia thực

hành tại các phòng thí nghiệm của Nhà trường nên em rất quan tâm đến các

vấn đề về KH&CN. Kể từ khi Đề án hỗ trợ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo quốc gia (gọi tắt là Đề án 844) được Nhà nước đẩy mạnh qua nhiều kênh

truyền thông. Để phong trào nghiên cứu khoa học trong SV nâng cao chất

lượng và số lượng, Nhà trường cũng lựa chọn đầu tư kinh phí cho một số

công trình tiêu biểu, có khả năng triển khai ứng dụng thực tiễn, tính sáng tạo

cao. Và sản phẩm“Nghiên cứu thiết kế hệ thống giám sát tự động, thời gian

30

thực cho xưởng sản xuất nấm quy mô công nghiệp” của nhóm nghiên cứu

đang được đầu tư kinh phí. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với định hướng

tương lai của nhóm nghiên cứu nói riêng và thúc đẩy phong trào sinh viên

nghiên cứu khoa học nói chung. Từ đó, những đề tài hay có nhiều cơ hội để

phát triển thành sản phẩm thực tế, đóng góp vào sự phát triển của nền khoa

học - công nghệ nước nhà. để từ đó định hướng phát triển cơ hội nghề nghiệp

cho bản thân.” [Phỏng vấn sâu].

Qua các phản hồi, khảo sát nghiên cứu, báo điện tử tham gia bổ sung

các giải pháp chính sách trong quá trình thực hiện chính sách. Báo điện tử

cung cấp dữ liệu ban đầu cho nghiên cứu khảo sát bằng gợi ý giải pháp qua

thông tin chính sách trên thế giới, địa phƣơng khác, các chuyên gia về lĩnh

vực KH&CN hoặc bình luận, thăm dò nhanh ý kiến của bạn đọc dƣới bài viết.

Bài phản ánh trên báo Tuổi trẻ “Quỹ nghiên cứu khoa học cần một cơ chế đặc

thù” do Thanh Hà ghi đƣa ra một số giải pháp, góp ý của nguyên Bộ trƣởng

Bộ KH&CN Nguyễn Quân về quản lý ngân sách KH&CN vừa tránh lãng phí,

nhƣng vẫn hỗ trợ hiệu quả cho các nhà khoa học.

1.2.2. Đặc điểm của truyền thông chính sách khoa học và công nghệ cho

sinh viên trên báo điện tử

Theo cơ sở lý luận báo chí thì báo chí hiện đại có 8 đặc điểm, gồm Tính

thời sự của thông tin báo chí; Tính công khai của thông tin báo chí; Tính mục

đích của thông tin báo chí; Tính định kỳ, đều đặn của thông tin báo chí; Tính

phong phú, đa dạng của thông tin báo chí; Tính dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm

theo; Tính tƣơng tác; Tính đa phƣơng tiện. [30, tr.163-180].

Dựa trên những đặc trƣng về loại hình, báo điện tử có 4 đặc điểm cơ

bản, gồm khả năng đa phƣơng tiện, tính tức thời, phi định kỳ, tính tƣơng tác,

khả năng lƣu trữ và tìm kiếm thông tin. Bốn đặc điểm cơ bản nêu trên cũng là

4 đặc điểm TTCS KH&CN trên báo điện tử.

31

1.2.2.1 Truyền thông chính sách khoa học và công nghệ bằng đa phương tiện

Báo điện tử thể hiện khả năng đa phƣơng tiện bởi sự chuyển tải thông

tin bằng các thành tố nhƣ văn bản, truyền hình/video, phát thanh/âm

thanh/audio, hình ảnh/góc ảnh/phóng sự ảnh, đồ họa... Đối với báo điện tử

văn bản là thành phần quan trọng không thể thiếu và thƣờng chiếm dung

lƣợng lớn hơn so với các thành tố khác. Qua khảo sát, cả 4 báo điện tử

Vnexpress, Dân trí, Tuổi trẻ online và Sinh viên Việt Nam đều tích hợp từ 3-4

phƣơng tiện: văn bản; truyền hình/video/clip; phát thanh/audio; ảnh/phóng sự

ảnh; đồ họa. Tuy nhiên, đối với chính sách KH&CN cả 04 báo đều chƣa có

thể hiện tác phẩm bằng đồ họa, chỉ có duy nhất báo Dân trí sử dụng thể loại

eMagazine cho bài viết KH&CN về sản phẩm “Độc đáo với giải pháp tiết

kiệm hàng triệu USD từ việc cải hóan xe thiết giáp bánh lốp” và chính sách

khởi nghiệp “Bộ Khoa học và khát vọng xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp

sáng tạo Việt Nam vươn ra thế giới”.

Đối với báo in tính đa phƣơng tiện hạn chế hơn so với báo điện tử và

khiến độc giả cảm thấy đơn điệu cũng nhƣ cách truyền tải thông điệp hạn chế

đến độc giả vì báo in chỉ có thể sử dụng ảnh, chữ viết để thể hiện tác phẩm

báo chí. Còn báo phát thanh chỉ có thể truyền tải thông điệp bằng âm thanh và

độc giả có thể bị hạn chế về tiếp nhận thông tin nếu trong quá trình nghe

không tập trung. Khả năng đa phƣơng tiện trong truyền hình cũng cao nhƣ

báo điện tử nhƣng sử dụng kỹ thuật dựng phức tạp.

Vì vậy, chính sách KH&CN khi đƣợc truyền thông trên báo điện tử

sẽ phong phú, dễ hiểu, lôi cuốn độc giả hơn so với các loại hình truyền

thông khác.

1.2.2.2 Tính tức thời, phi định kỳ trong truyền thông chính sách khoa học và

công nghệ

Báo điện tử bao gồm những đặc điểm của báo chí hiện đại, tuy nhiên

báo điện tử có đặc điểm riêng biệt và nổi trội. Trong đó, tính định kỳ và đều

32

đặn của thông tin trên báo điện tử đƣợc thay bằng tính tức thời và phi định kỳ.

Các sự kiện thời sự, quan trọng đƣợc tƣờng thuật trực tiếp nhƣ khi xảy ra bão

lũ, thiên tai hay tƣờng thuật vụ bắt cóc con tin, nổ súng... Trên báo Vnexpress

đã có một bài tƣờng thuật trực tiếp về sự kiện “Bộ KH&CN nhận Huân

chương lao động hạng Nhất”. Bài tƣờng thuật đã đƣợc thực hiện vào ngày

30/11/2019, có hai hình thức là tƣờng thuật chi tiết và tổng thuật từ lúc diễn ra

buổi lễ là 8h15 đến 10h17. Còn đối với báo in cùng sự kiện này, độc giả sẽ

phải chờ tới số sau, có thể là ngày hôm sau (nhật báo) hoặc tuần sau vì báo in

phụ thuộc tính định kỳ, thời gian in ấn và phát hành. Còn để tiếp nhận tin tức

về sự kiện Bộ KH&CN nhận huân chƣơng tại buổi lễ trên phát thanh, truyền

hình thì khán thính giả không phải chờ lâu nhƣng lại bị phụ thuộc vào kỹ

thuật, thời gian tuyến tính và thời lƣợng phát sóng. “Chỉ báo mạng điện tử

mới có khái niệm “bài báo mở, nghĩa là bài báo sau khi đã phát hành vẫn

tiếp tục được cập nhật nếu có thông tin mới; trong bài báo mạng điện tử

thường xuất hiện các đường dẫn “mở” ra các nội dung khác”[29, tr.72-

79].Tại bài tƣờng thuật sự kiện Bộ KH&CN nhận huân chƣơng lao động hạng

Nhất đƣợc báo Vnexpress tạo thành chủ đề “Tin tức 60 năm khoa học công

nghệ” bao gồm các thông tin mới, họat động triển lãm sản phẩm, sản phẩm

ứng dụng KH&CN liên quan đến kỷ niệm 60 năm của Bộ KH&CN.

Có thể khẳng định, khả năng cập nhật thông tin báo điện tử hơn hẳn báo

in. Báo phát thanh và truyền hình cập nhật thông tin nhanh hơn, có tính lan

tỏa, có thể phát thanh, truyền hình trực tiếp sự kiện đang diễn ra nhƣng đòi

hỏi yêu cầu công tác tỉ mỉ với kịch bản chi tiết, tốn kém về nhân lực và trang

thiết bị kỹ thuật. Vậy thay vì những điều kiện cồng kềnh đó, báo điện tử

không tốn nhiều công tác chuẩn bị, không áp lực bởi in ấn, phát hành mà vẫn

chuyển tải đƣợc thông tin độc giả quan tâm về vấn đề, sự kiện.

33

1.2.2.3 Khả năng lưu trữ lớn và tìm kiếm thông tin về chính sách khoa học và

công nghệ

So với các loại hình báo chí khác thì báo điện tử không bị hạn chế về số

trang, khuôn khổ hay thời lƣợng chƣơng trình. Nội dung thông tin về báo điện

tử đƣợc phát triển các siêu liên kết. Cụ thể, ở trang đầu, đầu đề (tít) chính của

bài đƣợc đăng tải, kèm theo ảnh đại diện và đoạn văn mở đầu, có tiêu đề phụ

đƣợc liên kết với một hoặc nhiều tít bài liên quan. Trong từng liên kết thành

phần lại có các nội dung thông tin liên quan trên từng góc độ cụ thể. Qua khảo

sát 4 báo đều có các siêu liên kết, trong đó báo Tuổi trẻ online sử dụng các

siêu liên kết này hiệu quả nhất, chiếm tỷ lệ 74%. Ví dụ, trong bài phản ánh

“Để thành quốc gia đổi mới sáng tạo, cần sáng tạo cách trọng dụng con

người” của tác giả T. Hà, độc giả có thể nhìn thấy ngay dƣới đoạn sapo là 3

link liên kết dẫn đến các sự kiện liên quan đến đổi mới sáng tạo đang đƣợc

nhắc đến ở bài viết chính.

Nhờ các siêu liên kết báo điện tử đã trở thành kho tƣ liệu lớn, giúp độc

giả tìm kiếm, tiếp cận thông tin, tra cứu dữ liệu một cách nhanh chóng và có

hệ thống hơn hẳn so với các loại hình báo chí khác.

1.2.2.4 Tính tương tác đa chiều trong truyền thông chính sách khoa học và

công nghệ

Điểm mạnh vƣợt trội của báo điện tử so với các báo khác, thể hiện rõ

tính đại chúng là tính tƣơng tác hai chiều. Sự tƣơng tác giữa tòa soạn và công

chúng qua kênh thông tin phản hồi là một yếu tố quan trọng đánh giá tính hiệu

quả của truyền thông, đồng thời giúp tòa soạn thực hiện những luồng thông

tin theo nhu cầu độc giả. Cụ thể là, ngay dƣới các tin bài đƣợc công bố 4 báo

điện tử Vnexpress, Dân trí, Tuổi trẻ online và Sinh viên Việt Nam đều thiết

lập các công cụ tiếp nhận ý kiến phản hồi, bình luận của bạn đọc hoặc có các

công cụ tƣơng tác qua mạng xã hội.

34

Với các đặc điểm nổi trội và vai trò nhƣ tác giả đã phân tích, thì việc sử

dụng báo điện tử trong TTCS sẽ đem lại hiệu quả cao và độc giả cũng sẽ thích

tiếp cận thông tin chính sách qua báo điện tử hơn.

1.3. Cơ sở chính trị - pháp lý của truyền thông chính sách khoa học và

công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử

1.3.1. Cơ sở chính trị

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nƣớc ta, Đảng Cộng sản Việt Nam

luôn luôn xác định KH&CN và giáo dục đào tạo có vai trò đặc biệt, nền tảng

quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ngay trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951) đã

thông qua “Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam” với nội dung cơ bản:

“Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế

quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; ... phát triển

kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa

xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội” [1, tr.12]. Cụ thể, “Thủ tiêu nạn

mù chữ, cải cách chế độ giáo dục, mở mang các trường chuyên nghiệp; phát

triển khoa học, kỹ thuật và văn nghệ nhân dân.” [1, tr. 26-27].

Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã xác

định: “Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công

nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp

nặng. Đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ

thuật” [2, tr.182- 186].

Năm 1976 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đề ra

đƣờng lối chung của cách mạng Việt Nam trên phạm vi cả nƣớc, ngay trong

nội dung đầu tiên đã yêu cầu: “Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách

mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư

tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt” [3,

tr.17-31]. Để đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật

35

chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội... làm cho nƣớc Việt Nam trở thành một

nƣớc xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hóa và

khoa học - kỹ thuật tiên tiến.

Năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra

đƣờng lối đổi mới toàn diện, đã nhấn mạnh các nhiệm vụ sau: “Tăng cường

và kết hợp chặt chẽ hoạt động của các ngành khoa học kỹ thuật, khoa học tự

nhiên và khoa học xã hội. Tăng mức đầu tư, đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý

và tổ chức lại lực lượng khoa học kỹ thuật, làm cho khoa học, kỹ thuật gắn

chặt với sản xuất và đời sống.” [4, tr.270]. Trong tình hình ấy, nƣớc ta cần

thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo ra động lực để giải phóng năng

lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học và kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng

hóa với năng suất, chất lƣợng, hiệu quả.

Hội nghị Trung ƣơng 2, khóa VIII (1996) đã ra Nghị quyết 02-

NQ/HNTWvề Định hƣớng chiến lƣợc phát triển KH&CN trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, khẳng định vai trò động

lực của KH&CN đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc,

phấn đấu đến năm 2020 nƣớc ta cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp theo

hƣớng hiện đại… [5, tr.48-76]. Nghị quyết còn đặt ra yêu cầu phải sớm có

luật pháp về KH&CN để thể chế hóa mọi mặt hoạt động KH&CN, phải nhanh

chóng đổi mới cơ chế quản lý khoa học.

Bƣớc tiến lớn nhất đó là năm 2000, Luật KH&CN chính thức đƣợc ban

hành tạo hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động KH&CN, nhận định “đầu tư

cho KH&CN là đầu tư phát triển” [40, tr.34].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng

định, phát triển KH&CN vừa là nền tảng, vừa là động lực đối với sự phát triển

kinh tế - xã hội. Đại hội đã nhận định: "Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến

đổi, KH&CN sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng

nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất" [6, tr.10]. Phát triển

36

KH&CN phải hƣớng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản

phẩm, xây dựng năng lực cạnh tranh của hàng hóa, xây dựng năng lực công

nghệ quốc gia đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện

đại, công nghệ cao (tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa).

Hội nghị Trung ƣơng 6 Khóa IX (7/2002) đã kiểm điểm việc thực hiện

Nghị quyết Trung ƣơng 2, Khóa VIII và xác định nhiệm vụ của KH&CN là

“Giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận và thực tiễn; đổi mới nâng cao trình

độ công nghệ trong nền kinh tế quốc dân” [7, tr.97-98].

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng khẳng định:

"Phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN... Kết hợp chặt

chẽ hoạt động KH&CN với GD&ĐT để thực sự phát huy vai trò quốc sách

hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát

triển kinh tế tri thức... Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học

- công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong

từng ngành, từng lĩnh vực của nền kinh tế...” [8, tr. 210-212].

Hội nghị Trung ƣơng 9 Khóa X (2009) đã ra Nghị quyết 31-NQ/TW

"Về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị

quyết Đại hội lần thứ X của Đảng", về KH&CN, Nghị quyết ghi: "Tiếp tục

đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý và chính sách phát triển KH&CN; nghiên cứu

xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển

KH&CN quốc gia và các ngành, các sản phẩm quan trọng. Phát triển thị

trường KH&CN.” [9, tr.23-24].

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã khẳng định:

“Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy

mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý khoa học, công

nghệ có đổi mới, thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học,

công nghệ. Thị trường khoa học, công nghệ bước đầu hình thành. Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng lên” [10, tr.154].

37

Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã vạch rõ những định hƣớng lớn về phát

triển KH&CN trong thời kỳ mới với những quan điểm cơ bản sau:“KH&CN

giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ

tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ

phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển KH&CN nhằm mục

tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri

thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực

KH&CN gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí.” [11, tr.21-22].

Đến năm 2012, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI ban hành

Nghị quyết 20-NQ/TW về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ

nghĩa và hội nhập quốc tế.

Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng 8 khóa XI năm 2013 đƣa ra nhiệm

vụ và giải pháp thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lƣợc gắn liền giáo dục

đào tạo và phát triển KH&CN.“Có cơ chế, chính sách phù hợp thu hút, trọng

dụng nhân tài. Khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng, đầu tư nghiên cứu khoa

học - công nghệ. Tích cực chuẩn bị các điều kiện phục vụ phát triển điện hạt

nhân... Tăng cường quản lý bảo hộ sở hữu trí tuệ” [12, tr.258-259].

1.3.2. Cơ sở pháp lý

Để cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng, nhiều văn bản quan trọng cho

phát triển KH&CN, giáo dục đào tạo đƣợc ban hành. Ngày 11/4/2012, Chính

phủ đã ban hành Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai đoạn 2011- 2020. Chiến

lƣợc đƣợc kỳ vọng sẽ tạo ra sự chuyển biến căn bản trong hoạt động

KH&CN. Ngay sau đó, ngày 29/3/2013 Thủ tƣớng Chính phủ cũng đã ký ban

hành Nghị quyết 46/NQ-CP ban hành chƣơng trình hành động, thực hiện

Nghị quyết 20-NQ/TW.

38

Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 nhấn mạnh giáo dục cùng

song hành với KH&CN, gắn liền với thực tiễn, nhằm phát triển toàn diện

năng lực, phẩm chất ngƣời học: “Phát triển GD&ĐT phải gắn với nhu cầu

phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ KH&CN; phù hợp

quy luật khách quan. Chuyển phát triển GD&ĐT từ chủ yếu theo số lượng

sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng”

[13, tr.121-122].

Ngày 18/6/2013, Quốc hội đã thông qua “Luật KH&CN” thay thế “Luật

KH&CN” năm 2000 với nhiều đột phá trong cơ chế chính sách phát triển

KH&CN, đem lại nguồn sinh khí mới để đƣa KH&CN thực sự trở thành chìa

khóa để phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, trong “Luật KH&CN” luôn

nhấn mạnh định hƣớng liên kết chặt chẽ với các trƣờng đại học để đào tạo

nhân lực, thực hiện nhiệm vụ KH&CN; nâng cao năng lực của các trƣờng đại

học về nghiên cứu khoa học cơ bản; xây dựng cơ chế giao nhiệm vụ KH&CN

tiềm năng cho cán bộ khoa học trẻ, các nhóm SV giỏi trong các trƣờng đại

học trọng điểm và các viện nghiên cứu trọng điểm.

Theo Nghị định 11/2014/NĐ-CP ngày 18/02/2014 của Chính phủ về

hoạt động thông tin KH&CN, hoạt động thông tin KH&CN phải tuân theo các

nguyên tắc “Chính xác, khách quan, đầy đủ, kịp thời và đáp ứng yêu cầu của

tổ chức, cá nhân về chất lượng, khối lượng sản phẩm, dịch vụ thông tin

KH&CN, đồng thời, kết hợp chặt chẽ hoạt động thông tin KH&CN với hoạt

động nghiệp vụ thư viện, lưu trữ, thống kê, truyền thông KH&CN” [18].

Ngày 20/5/2014 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số

40/2014/NĐ-CP về quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động

KH&CN. Đây là sự đột phá lớn trong chính sách KH&CN để thu hút nhân

tài.Trong đó, tại Điều 3 nhấn mạnh nguyên tắc sử dụng, trọng dụng cá nhân

hoạt động KH&CN: “Tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi cho cá

nhân hoạt động phát huy tối đa năng lực… Bảo đảm đúng đối tượng, tạo điều

39

kiện cho nhân tài thực hiện các nhiệm vụ KH&CN quan trọng để phát huy tài

năng…”[19].

Quyết định về việc ban hành “Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin

cho báo chí” của Bộ KH&CN2093/QĐ-BKHCN ngày 14/08/2014. Thực hiện

quyết định này, Bộ KH&CN tổ chức cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí

về hoạt động của cơ quan, về lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ KH&CN

thông qua các hình thức sau: Cập nhật thông tin trên Cổng Thông tin điện tử

của Bộ KH&CN và Trang Thông tin điện tử của các đơn vị thuộc Bộ, đồng

thời tổ chức họp báo định kỳ hàng quý để cung cấp thông tin cho báo chí và

trả lời trực tiếp những vấn đề báo chí quan tâm; Thông tin sẽ đƣợc cung cấp

bằng văn bản hoặc trực tiếp tại buổi giao ban báo chí thƣờng kỳ do Ban

Tuyên giáo Trung ƣơng, Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội Nhà báo Việt

Nam tổ chức trong trƣờng hợp cần thiết…[14].

Hệ thống văn bản chủ trƣơng chính sách nói trên chính là những thuận

lợi, thời cơ lớn cho phát triển ngành KH&CN nhƣng cũng đặt ra cho ngành

nhiều thách thức. Nhiệm vụ đặt ra cho ngành KH&CN không nhỏ. Vai trò, vị

trí của KH&CN đặt ra trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc

đến năm 2020 là hết sức quan trọng nhằm điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế của

đất nƣớc, điều chỉnh lại cơ cấu công nghiệp, cơ cấu công nghệ của đất nƣớc

hƣớng tới công nghệ an toàn, hiệu quả, sạch. Vì thế, hoạt động TTCS

KH&CN cũng cần bám sát các hoạt động của ngành, tập trung khai thác các

tiềm năng và thế mạnh trong KH&CN…

1.4. Một số vấn đề cơ sở lý luận và tình hình của truyền thông chính sách

khoa học và công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử

1.4.1. Cơ sở lý luận

Trên thế giới có nhiều mô hình truyền thông khác nhau, nhƣng mô hình

Harold Laswell và Claude Shannon đƣợc sử dụng, nhắc đến nhiều. Trong đó,

40

mô hình truyền thông một chiều do H. Laswell đƣa ra từ năm 1948 là mô hình

đƣợc nhắc đến nhiều nhất. Mô hình này gồm các yếu tố sau:

Hình 1.1 Mô hình truyền thông của H. Laswell

- Nguồn phát (ai): Ngƣời cung cấp, khởi xƣớng

- Thông điệp (nói, đọc, viết gì): Nội dung thông báo, đƣợc chuyển đi

- Kênh (bằng kênh nào): Phƣơng tiện mà các thông điệp chuyển đi từ

nguồn phát đến ngƣời nhận

- Tiếp nhận (đến ai): Ngƣời tiếp nhận, nơi nhận

- Hiệu quả (kết quả nhƣ thế nào): Ngƣời tiếp nhận có nhận đƣợc

thông điệp từ nguồn phát

Đến năm 1949, mô hình truyền thông hai chiều của C.Shannon đƣợc

đƣa ra đã khắc phục nhƣợc điểm của mô hình truyền thông một chiều bằng

cách nhấn mạnh vai trò thông tin phản hồi từ ngƣời tiếp nhận. Mô hình này,

gồm các yếu tố:

Hình 1.2. Mô hình truyền thông của C.Shannon

- S (Source): Nguồn phát, chủ thể truyền thông

- M (Message): Thông điệp, nội dung truyền thông

- C (Channel): Kênh truyền thông

41

- R (Receiver): Ngƣời nhận thông điệp

- E (Effect): Hiệu quả truyền thông

- N (Noise): Nhiễu (yếu tố gây ra sai số cản trở thông điệp)

- F (Feedback): Phản hồi

Kế thừa những quan điểm cơ bản về mô hình truyền thông một

chiều của H. Laswell, mô hình truyền thông hai chiều của C.Shannon, tác giả

đã đƣa khung lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu luận văn và để thao tác hóa

các khái niệm. Trong đó, thông tin từ nguồn phát -S (chủ thể truyền thông)

đến thông điệp - M (tác phẩm báo chí/tin, bài tuyên truyền chính sách

KH&CN), qua kênh (C) báo điện tử, tới ngƣời nhận thông điệp – R (sinh

viên), đem đến hiệu quả - E (mức độ tiếp cận thông tin, mức độ tác động nhận

thức, mức độ tác động và thay đổi thái độ, hành vi là cả một chu trình đánh

giá hiệu quả truyền thông chính sách KH&CN trên báo điện tử). Trong chu

trình đó, xuất hiện độ “nhiễu” – N (các yếu tố gây ra sai số, cản trở thông

điệp, môi trƣờng, fake news...) và sự phản hồi – F (tƣơng tác hai chiều của SV

đối với tin bài chính sách KH&CN sau khi cơ quan báo chí đăng tải. Điều này

giúp cho cơ quan báo chí và cơ quan ban hành chính sách có những nội dung,

hình thức hoặc chính sách thay đổi phù hợp công chúng).

“Nguyên tắc báo chí chính là cơ sở phương pháp luận của họat động

báo chí” [21, tr.96]. Cho nên, tính Đảng; tính nhân dân và dân chủ của báo

chí; tính chân thực, khách quan sẽ là những nguyên tắc quan trọng trong quá

trình TTCS KH&CN.

- Tính Đảng:Là nguyên tắc xuyên suốt trong chu trình chính sách

KH&CN, gồmkhâu hoạch định chính sách; khâu xây dựng chính sách hình

thành đề án chính sách; khâu đánh giá chính sách.Ởkhâu hoạch định chính

sách, hệ thống chính trị hoạch định chính sách trong đó có sự tham gia quyết

định bởi Đảng, Nhà nƣớc có vai trò nghiên cứu, tham mƣu đề xuất những vấn

đề chính sách, còn tham gia đánh giá và phản biện là mặt trận và các tổ chức

42

chính trị - xã hội. Có thể thấy, chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính

trị, với đảng cầm quyền và với bộ máy quyền lực công - nhà nƣớc. Và chính

sách KH&CN là nền tảng cơ sở để Đảng, Nhà nƣớc và Chính phủ đạt đƣợc

mục tiêu Chiến lƣợc phát triển KH&CN giai đoạn 2011 - 2020.Ở khâu này

truyền thông cần phổ biến kiến thức và chính sách giúp độc giả nhận thức vấn

đề, nguyên nhân của Đảng, Nhà nƣớc và Chính phủ hoạch định chính sách

KH&CN.

Nhƣ vậy, TTCS không chỉ thấm nhuần tính Đảng ngay trong quy trình

hoạch định chính sách, mà còn giống nhƣ truyền thông KH&CN nói chungthể

hiện yếu tố tính Đảng ở việc “Nhà báo nhìn nhận, đánh giá các sự kiện theo

quan điểm, đường lối của Đảng” [21, tr.108]. Đồng thời, báo chí còn phải

họat động trong khuôn khổ pháp luật.

- Tính chân thật, khách quan của báo chí: “là đặc điểm, đặc trưng, là

yêu cầu tồn tại của bản thân báo chí” [21, tr.113]. Đây cũng là nguyên tắc

quan trọng trong TTCS KH&CN cần đảm bảo phản ánh đúng, chuẩn, chính

xác tƣ tƣởng và nội dung của chính sách đến với công chúng. Đối với TTCS

ngay từ khâu hoạch định chính sách, thông tin truyền thông cung cấp cho độc

giả cần nêu rõ thực trạng vấn đề, những khó khăn, trở ngại của chính sách,

đặc biệt là hậu quả có thể có nên không giải quyết vấn đề chính sách. Có nhƣ

vậy, báo chí mới đƣợc đánh giá “vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước,

của các tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân” [21,tr.111]. Nếu TTCS mà

phản ánh không chân thực, sai sự thật đến công chúng sẽ gây mất niềm tin của

nhân dân vào Đảng, Nhà nƣớc, Chính phủ và uy tín của báo chí trong lòng

công chúng.

Còn đối với truyền thông KH&CN nói chung cũng yêu cầu tính chân

thật, khách quan trong bài viết. Với những bài viết truyền thông KH&CN nói

chung hƣ cấu, điển hình hóa nhân vật, hoặc bịa đặt những thông tin chƣa kiểm

tra, xác minh sẽ gây mất lòng tin của công chúng đối với báo chí. Bởi vì,

43

truyền thông KH&CN nói chung chỉ dựa trên tôn chỉ, mục đích họat động của

tờ báo và trong khuôn khổ pháp luật.

- Tính nhân dân và dân chủ của báo chí: so với truyền thông KH&CN

nói chung thì nguyên tắc này thể hiện rõ nét nhất ở TTCS KH&CN. Những

ngƣời tiếp nhận thông tin hay chính sách đều là nhân dân – cũng là đối tƣợng

độc giả của báo chí. Để chính sách triển khai tốt trong thực tiễn thì ở khâu xây

dựng chính sách hình thành đề án chính sách và khâu đánh giá chính sách, cần

có sự tham gia phản biện chính sách của công chúng. Mà “cầu nối” giữa nhân

dân và Đảng, Nhà nƣớc, Chính phủ chính là báo chí. Lúc này, báo chí cần

truyền thông về kết quả phân tích chính sách, đặc biệt là các giải pháp công

cụ chính sách dự kiến sẽ đƣợc lựa chọn. Báo chí cần các tin, bài phân tích về

các phƣơng án chính sách để ngƣời dân thấy đƣợc sự lựa chọn của họ đối với

những vấn đề chính sách đặt ra.

Dựa trên các nguyên tắc TTCS, cùng thế mạnh về sự phát triển của

internet và việc cung cấp lƣợng thông tin lớn, rộng khắp, nhanh nhất và hiệu

quả nhất. Tất cả những điều này đã giúp báo điện tử là phƣơng tiện hữu hiệu

đƣa chính sách đến với nhân dân, độc giả giúp họ dễ dàng tiếp thu, nắm bắt,

tìm hiểu về chính sách KH&CN. Qua đó, góp phần phản ánh thực tiễn thi

hành chính sách và hƣớng dẫn dƣ luận xã hội ủng hộ, biểu dƣơng những

gƣơng mặt tiêu biểu và sản phẩm ứng dụng thực tiễn trong nghiên cứu khoa

học, hình thành dòng tƣ tƣởng phát triển KH&CN trong cộng đồng nhà

nghiên cứu nói riêng và xã hội nói chung. Đồng thời, tính dân chủ và nhân

dân trong báo chí còn giúp cho độc giả thực hiện quyền tự do ngôn luận bằng

việc báo chí sẽphản ánh những đề xuất, kiến nghị của ngƣời dân về chính sách

chƣa phù hợp. Từ đó, báo chí đóng vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nƣớc với

nhân dân.

44

1.4.2. Cơ sở thực tiễn

Để đánh dấu Ngày tự do báo chí thế giới, trong bài viết “Có bao nhiêu

nhà báo ở EU?” báo chí ở Liên minh châu Âu (EU) đã công bố năm 2018 có

khoảng 0,4 triệu nhà báo, tƣơng đƣơng 0,2% tổng số lao động của EU. Trong

đó các quốc gia thành viên có tỷ lệ nhà báo cao nhất là Thụy Điển và Croatia

(đều chiếm 0,4% tổng số lao động). Ngƣợc lại, tỷ lệ thấp nhất đạt 0,1% tổng

số việc làm là ở năm quốc gia thành viên Italia, Ba Lan, Litva, Romania và

Slovakia.Trong khi đó, các họat động kinh doanh liên quan đến báo chí, có

1,3 triệu ngƣời làm việc trong lĩnh vực xuất bản phẩm nhƣ xuất bản sách, báo

và tạp chí, chiếm 0,5% tổng số việc làm [53].

Theo số liệu của Bộ Thông tin và truyền thông, năm 2019 cả nƣớc có

850 cơ quan báo chí, trong đó có 179 cơ quan báo, 648 tạp chí, 23 cơ quan

báo chí điện tử độc lập. Cả nƣớc có 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình

với 02 đài Quốc gia, 64 đài địa phƣơng và 05 kênh truyền hình. Về đội ngũ

những ngƣời làm báo chuyên nghiệp, năm 2019 ở Việt Nam có khoảng 41

nghìn nhà báo đang công tác tại các cơ quan báo chí (cả 4 loại hình), trong đó

có 20.407 trƣờng hợp đã đƣợc cấp Thẻ nhà báo.

Chính sự hùng hậu, xung kích trên mọi mặt trận, lĩnh vực của nhiều cơ

quan báo chí truyền thông và đội ngũ nhà báo, phóng viên, cộng tác viên thời

đại kỹ thuật số đã luôn thông tin, phản ánh về lĩnh vực KH&CN trên các

phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Từ đó, công chúng nhận thấy rõ tầm

quan trọng và vị trí đóng góp của lĩnh vực này đối với sự phát triển kinh tế -

xã hội. Hơn 800 cơ quan báo chí ở đã xây dựng các chuyên trang, chuyên

mục chuyên về KH&CN, đặt song song với các chuyên mục khác nhƣ văn

hóa, giáo dục, y tế,…với tần số phát hành từ 1-2 tuần/trang. Đặc biệt, trên các

đài truyền hình còn có nhiều chuyên đề, chuyên mục riêng về KH&CN nhƣ:

Tuần công nghệ (VTC2), Xã hội thông tin (VTC1), Bảy ngày công nghệ

(VTV2) và Công nghệ - Đời sống (VTV1)....

45

Mặc dù, báo điện tử xuất hiện muộn nhất so với báo in, truyền hình và

phát thanh nhƣng báo điện tử với lợi thế tích hợp đa phƣơng tiện chữ viết, âm

thanh, hình ảnh tĩnh, động. Tốc độ thông tin nhanh, cập nhật thƣờng xuyên,

liên tục, cho phép độc giả tiếp nhận tin tức không phụ thuộc không gian và

thời gian.

Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến hết tháng

6/2019, Việt Nam có 51.128.599 thuê bao di động sử dụng 3G và 4G. Việt

Nam có hơn 60 triệu ngƣời sử dụng internet, là quốc gia đứng thứ 16 trên thế

giới về số lƣợng ngƣời sử dụng Internet. Một thống kê đáng chú ý là thời gian

sử dụng Internet trung bình của ngƣời Việt lên tới gần 7 tiếng/ngày. Điều này

chứng minh rằng ngƣời Việt Nam đã dành lƣợng thời gian đáng kể cho các

hoạt động trên không gian mạng để phục vụ các nhu cầu khác nhau, đồng thời

cho phép ngƣời dân tiếp cận thông tin thuận lợi và hầu nhƣ không hạn chế

nguồn thông tin.

Vì vậy, lĩnh vực KH&CN nói chung và chính sách KH&CN nói

riêng trên báo điện tử ngày càng quan trọng để thu hút đƣợc nhiều đối

tƣợng độc giả.

Một số báo điện tử đã có chuyên mục riêng cho lĩnh vực này:

- Báo Vnexpress: Có chuyên mục Số hóa, trong đó tổng hợp toàn bộ tin

tức công nghệ đƣợc cập nhật liên tục, đặc biệt là các tin tức liên quan đến các

dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin.

- Báo Vietnamnet:Chuyên mục Công nghệ bao gồm các tiểu mục: Sản

phẩm; Ứng dụng; Tin Công nghệ; Viễn thông…cập nhật liên tục các thông tin

KH&CN liên quan.

- Báo Tiền Phong:Cơ quan Trung ƣơng của Đoàn Thanh niên Cộng sản

Hồ Chí Minh, có các chuyên mục: Xã hội, Kinh tế, Thế giới, Giới trẻ, Pháp

Luật, Thể thao, Công nghệ…Trong chuyên mục “Công nghệ” có các tiểu mục

46

nhƣ Khoa học công nghệ trong nƣớc và quốc tế, những thành tựu mới của các

nhà khoa học Việt Nam.

- Báo Sinh viên Việt Nam:Cơ quan Trung ƣơng của Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh, có các chuyên mục Thời sự, Giáo dục, Sống trẻ, Việc

làm, Phƣợt, Công nghệ… Chuyên mục “Công nghệ” có các tiểu mục

“Mobile, Khám phá, Mẹo hay” là những bài viết về cuộc thi, chƣơng trình

đào tạo, ứng dụng, phần mềm thực tiễn, khởi nghiệp, sáng tạo… trong lĩnh

vực công nghệ số, đối tƣợng tập trung vào SV các trƣờng đại học.

- Báo Thanh Niên:Diễn đàn của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam có

chuyên mục Chính trị xã hội, Quốc phòng, Thế giới trẻ, Kinh tế, Thế giới,

Văn nghệ, Giáo dục, Công nghệ, Khoa học, Sức khỏe, Đời sống, các chuyên

mục khác.

- Báo Tuổi trẻ:Cơ quan của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

có các chuyên mục Chính trị xã hội, Pháp luật, Thế giới, Kinh tế, Giáo dục,

Nhịp sống số. Trong chuyên mục Giáo dục có chuyên trang về Khoa học.

- Báo Nhân dân: Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam,

hoạt động KH&CN tuyên truyền trên báo Nhân dân tập trung các nội dung

chính: Chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, cơ chế chính sách của

các bộ, ngành liên quan hoạt động KH&CN; các thành tựu, kết quả nghiên

cứu mới; các mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, về vùng sâu,

vùng xa; chân dung các nhà khoa học. Trang của Ban Khoa giáo có bốn

chuyên mục, trong đó có ba chuyên mục thuộc lĩnh vực KH&CN đó là: Ý

kiến nhà khoa học; Kỹ thuật mới, công nghệ mới; Khoa học ngày nay.

Các báo, tạp chí chuyên về lĩnh vực KH&CN nhƣ: Báo khoa học và

phát triển cơ quan ngôn luận của Bộ KH&CN đi sâu các thông tin khoa học

của đất nƣớc. Các chuyên mục nhƣ: Tin tức sự kiện khoa học công nghệ, công

trình khoa học công nghệ, công nghệ thông tin, diễn đàn khoa học và phát

triển, phát minh sáng chế, sở hữu trí tuệ, tuổi trẻ và khoa học, khám phá, chân

47

dung nhà khoa học, khoa học và đời sống, khoa học lý thú…Đặc biệt còn có

chuyên trang Techmart Việt Nam.

- Báo Khoa học và đời sống:Là một trong những tờ báo lâu đời nhất

ở Việt Nam và là tờ báo hàng đầu về KH&CN. Báo đƣợc thành lập năm

1959, là cơ quan ngôn luận của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật

Việt Nam. Thông tin nhanh nhạy về những tiến bộ khoa học của thế giới và

Việt Nam, phổ biến kiến thức khoa học, hƣớng dẫn kỹ năng sống khoa học,

tƣ vấn ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ cuộc sống, công nghệ

thông tin - Viễn thông.

Ngoài ra, các tờ báochuyên về lĩnh vực Công nghệ thông tin có tạp chí:

“PC world”,“Tin học và đời sống”, “Công nghệ thông tin - 1001” do Sở Bƣu

chính Viễn thông, Đài Truyền hình TP HCM, và IDG Việt Nam phối hợp

thực hiện.

Tạp chí Tia Sáng diễn đàn của trí thức Việt Nam, nơi chia sẻ tiếng nói

của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các học giả đã hình thành nên một mạng

lƣới cộng tác viên đông đảo của Tạp chí Tia Sáng. Bên cạnh đó, Tạp chí Tia

Sáng cũng là đơn vị đề ra sáng kiến giải thƣởng khoa học Tạ Quang Bửu của

Bộ KH&CN nhằm tôn vinh các nhà khoa học Việt Nam ở trong và ngoài

nƣớc trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản.

- Đài Truyền hình Việt Nam:Là một trong những cơ quan báo chí tiên

phong trong truyền thông về KH&CN. Các bản tin thời sự trên các kênh, sau

những thông tin chính trị, xã hội, thì các tin tức liên quan đến KH&CN trong

nƣớc và quốc tế luôn đƣợc ƣu tiên hàng đầu. Thể hiện rõ nhất ở 2 kênh chủ

đạo VTV1 với Chuyên mục Công nghệ và Đời sống và VTV2 với Chƣơng

trình Bảy ngày Công nghệ.

- Đài Tiếng nói Việt Nam: Trên hệ Thời sự Chính trị tổng hợp (VOV1),

là hệ “xƣơng sống” của Đài quốc gia, từ năm 2010, hệ VOV1 đã đổi mới theo

hƣớng tăng gấp đôi số lƣợng bản tin trong ngày, trong đó tin tức về mọi lĩnh

48

vực của đời sống từ kinh tế, văn hóa xã hội, khoa học và công nghệ… liên tục

đƣợc cập nhật.

- Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC: Xây dựng 1 kênh sóng chuyên biệt

về lĩnh vực Khoa học Công nghệ đó là kênh VTC 5.

- Truyền hình Thông tấn xã Việt Nam:Là kênh truyền hình sinh sau đẻ

muộn, nhƣng ngay khi lên sóng vào 8/2010, Truyền hình Thông Tấn

VONews, Thông tấn xã Việt Nam rất quan tâm tới hoạt động tuyên truyền và

phổ biến thông tin về KH&CN.

- Kênh Truyền hình Nhân Dân:Cập nhật những tin tức công nghệ mới

nhất thì chuyên mục KH&CN cũng đặt ra nhiều vấn đề công nghệ mới để tìm

câu trả lời của cơ quan chức năng.

Bên cạnh đó, trong 5 năm trở lại đây, Bộ KH&CN đã phối hợp chặt chẽ

với các cơ quan báo chí nhằm đẩy mạnh hoạt động truyền thông KH&CN. Đi

đầu trong truyền thông về KH&CN chính là các ấn phẩm báo in, tạp chí của

Bộ KH&CN và báo chí của các hội, hiệp hội với hơn 100 ấn phẩm. Hầu hết

các địa phƣơng đều có tạp chí về KH&CN (thuộc Sở KH&CN), các trƣờng

đại học, viện nghiên cứu.

49

Tiểu kết Chƣơng 1

Trong chƣơng này, tác giả đã đƣa ra khái niệm cụ thể về chính sách,

khoa học, công nghệ và truyền thông về KH&CN; SV và báo điện tử. Từ đó,

phân tích một cách rõ ràng về chủ thể truyền thông KH&CN, cũng nhƣ những

nội dung, phƣơng thức truyền thông và công chúng của các chƣơng trình

truyền thông về KH&CN; đồng thời đƣa ra những nội dung cơ bản chủ

trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về KH&CN; GD&ĐT.

Trên cơ sở đó, KH&CN gắn chặt với giáo dục đào tạo để phát triển

kinh tế - xã hội. Trong đó nhiều văn bản pháp luật khẳng định cần đẩy mạnh

tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của KH&CN. Đây chính là

hành lang pháp lý quan trọng cho các hoạt động truyền thông về KH&CN,

nhằm thông tin, quảng bá, hƣớng dẫn và thông tin, tạo cơ chế phản biện xã

hội về kết quả ứng dụng công nghệ mới.

Từ đó có thể khẳng định, truyền thông KH&CN nói chung và chính

sách KH&CN nói riêng trên các phƣơng tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt

trên báo điện tử cần tăng cƣờng thông tin truyền thông khuyến khích - thúc

đẩy ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trƣờng và quốc gia khởi nghiệp -

tăng cƣờng nghiên cứu khoa học, sáng tạo khởi nghiệp trong các trƣờng đại

học, nâng cao vai trò giám sát và phản biện xã hội trong việc ứng dụng

KH&CN, vì một nền kinh tế xã hội phát triển bền vững, trong đó luôn hƣớng

tới mục tiêu vì con ngƣời, phục vụ con ngƣời.

50

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH KHOA HỌC

VÀ CÔNG NGHỆ CHO SINH VIÊN TRÊN

BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM

2.1. Tổng quan về các báo điện tử khảo sát

2.1.1. Sơ lược lịch sử phát triển

- Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam

Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam (gọi tắt là Vnexpress, tên miền:

VnExpress.net) là đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ KH&CN. VnExpress đƣợc

Bộ Thông tin và truyền thông cấp giấy phép hoạt động số 511/GP-BTTT

ngày 25/11/2002. VnExpress là báo điện tử độc lập, có 18 chuyên mục:

Video, Thời sự, Góc nhìn, Thế giới, Kinh doanh, Giải trí, Thể thao, Pháp

luật, Giáo dục, Sức khoẻ, Đời sống, Du lịch, Khoa học, Số hóa, Xe, Ý kiến,

Tâm sự, Cƣời. Đây là tờ báo tiếng Việt đa phƣơng tiện (chữ viết, video,

ảnh, infographics) và có lƣợng độc giả lớn nhất trong hệ thống báo điện tử

ở Việt Nam.

- Báo điện tử Dân trí

Báo điện tử Dân trí (tên miền: dantri.com.vn) trực thuộc Trung ƣơng

Hội Khuyến học Việt Nam, là phiên bản của báo in. Báo Dân trí đƣợc bộ

Thông tin và truyền thông cấp giấy phép hoạt động số 378/GP-BTTTT Hà

Nội, ngày 16/09/2013. Báo có 30 chuyên mục: Video, Sự kiện, Xã hội, Thế

giới, Thể thao, Giáo dục, Nhân ái, Kinh doanh, Bất động sản, Văn hóa, Giải

trí, Du lịch, Pháp luật, Nhịp sống trẻ, Sức khỏe, Sức mạnh số, Xe++, Tình

yêu, Khoa học, Blog, Du học, Tuyển sinh, Fica, Bạn đọc, Báo in, Nhân ái,

Đời sống, Chuyện lạ, Diễn đàn, Việc làm. Báo Dân trí cũng là một trong

những tờ báo có lƣợng bạn đọc đông đảo.

51

- Báo điện tử Tuổi trẻ

Báo điện tử Tuổi trẻ (tên miền: tuoitre.vn) là đơn vị báo điện tử

thuộc hệ thống sản phẩm của báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ

quan này luôn đƣợc đánh giá là đơn vị có nghiệp vụ báo chí hàng đầu Việt

Nam, với đội ngũ cán bộ, phóng viên có chuyên môn và chính sách thông

tin riêng biệt, đặc thù.

- Báo điện tử Sinh viên Việt Nam

Báo điện tử Sinh viên Việt Nam (tên miền: Svvn.vn) là đơn vị báo điện

tử do Trung ƣơng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh quản lý. Báo đƣợc Bộ Thông tin

và truyền thông cấp giấy phép hoạt động số 131/GP-BTTTT vào ngày

4/4/2017. Báo với 11 chuyên mục tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực hữu ích

đối với SV, giới trẻ nhƣ: Thời sự, Giáo dục, Sống trẻ, Việc làm, Yêu, Giải trí,

Video, Mua và bán, Công nghệ, Phƣợt, Cần biết. Từ ngày 19/02/2020, báo

Sinh viên Việt Nam sáp nhập vào báo Tiền phong và đổi tên thành

Svvn.tienphong.vn.

2.1.2. Quy trình truyền thông chính sách khoa học và công nghệ trên báo

điện tử

Quá trình TTCS KH&CN gồm các giai đoạn nhƣ sau:

- Lập kế hoạch tuyên truyền

Trên cơ sở đề xuất của các ban chuyên môn, đƣợc thông qua trong các

cuộc họp giao ban, dƣới sự giám sát và phê duyệt của ban biên tập, ban thƣ ký

toà soạn sẽ hoàn chỉnh thành kế hoạch tuyên truyền. Trên thực tế, việc lập kế

hoạch của các tòa soạn không giống nhau vì phụ thuộc vào quan điểm tổng

biên tập và khả năng của tổng thƣ ký tòa soạn.

Hằng ngày, mỗi tòa soạn báo điện tử sẽ tập hợp, lựa chọn đề tài, tin bài

theo các bƣớc: Phóng viên, biên tập viên khai thác nguồn tin, đƣa ra đề tài dự

kiến rồi đề xuất trƣởng ban nội dung. Trƣởng ban sẽ tập hợp, lựa chọn những

đề tài, tin bài từ phóng viên, cộng tác viên để khai thác phục vụ cho số báo

52

trong ngày và báo cáo ban biên tập. Ban biên tập sẽ quyết định loại bỏ hay

cho khai thác những tin, bài đƣợc đề xuất.

- Sáng tạo tác phẩm báo điện tử

+ Trƣớc hết, cần xác định đề tài và thu thập, xử lý thông tin, tài liệu:

Lựa chọn đề tài là yếu tố hết sức quan trọng, quyết định nội dung cho tác

phẩm báo chí của chuyên mục. Lựa chọn đúng đề tài và kết cấu chuyên mục

hợp lý là công việc hết sức quan trọng quyết định nội dung của chuyên mục.

Do sức phát triển và lan tỏa của KH&CN trong thời gian gần đây là cực

kỳ mạnh mẽ, nên nguồn đề tài. Tập hợp nguồn đề tài dành cho chuyên mục có

thể tới từ:

Thứ nhất, các thông tin sự kiện, thông tin nóng do phóng viên tự nắm

bắt hoặc qua thƣ mời tham dự của các đơn vị tổ chức sự kiện, các đơn vị

nghiên cứu khoa học và công nghệ trong và ngoài nƣớc.

Thứ hai, khai thác đề tài đã có sẵn trên báo in, báo mạng, phát thanh…

Những đề tài này chủ yếu đề cập đến các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp tiêu

biểu trong ứng dụng, triển khai, chế tạo, sản xuất thiết bị khoa học và công

nghệ tiêu biểu ở Việt Nam, hoặc cá nhân có thành tích xuất sắc về KH&CN.

Thứ ba, theo định hƣớng tuyên truyền của Chính phủ.

Thứ tƣ, các đề tài nóng đang đƣợc sự quan tâm của xã hội, đặc biệt là

về những ý kiến hoặc phản ánh của ngƣời dân về một vấn đề khoa học. Đây là

mảng đề tài tƣơng đối đặc biệt, mang tính phản biện cao trong lĩnh vực

KH&CN.

+ Sau khi lựa chọn đề tài, lãnh đạo phòng sẽ tiến hành phân công thực

hiện. Mỗi phóng viên biên tập sẽ tự đăng ký những hạng mục công việc của

mình, hoặc sẽ do ngƣời chỉ đạo thực hiện đề tài.

53

+ Lập đề cƣơng và kế hoạch thực hiện:Đây là phần việc quan trọng thứ

hai, do phóng viên đã đƣợc phân công phụ trách. Khi lập đề cƣơng phải lên kế

hoạch thật chi tiết, tỉ mỉ vì đây chính là khâu xác định hình ảnh, nội dung,

mục tiêu cũng nhƣ hƣớng phóng sự sẽ phản ánh.

Bên cạnh việc phải bám sát chủ đề, đề cƣơng còn phải vạch ra những

tình huống phát sinh trong quá trình tác nghiệp để tránh những sai sót không

đáng có, ảnh hƣởng tới chất lƣợng bài viết.

+ Kế hoạch thực hiện: Sau khi xây dựng đề cƣơng chi tiết, phóng viên

phụ trách báo cáo lên lãnh đạo và ngƣời tổ chức sản xuất để duyệt đề cƣơng.

Sau khi đƣợc thông quá, phóng viên có trách nhiệm trao đổi kỹ với lãnh đạo

chuyên mục thực hiện đề tài cùng mình, để đảm bảo sự đồng nhất trong quá

trình sản xuất. Từ đó, mọi ngƣời trong tòa soạn sẽ nắm bắt đƣợc ý tƣởng

xuyên suốt và phối hợp nhịp nhàng hơn khi tác nghiệp, đồng thời sẽ hỗ trợ lẫn

nhau nếu có xảy ra sự cố.

+ Hoàn thành sản phẩm và viết, xử lý ảnh, audio, video... cho bài viết.

- Tổ chức duyệt nội dung: Công việc này đƣợc thực hiện bởi đội ngũ

biên tập viên, các trƣởng, phó ban, các thƣ ký tòa soạn, ban biên tập. Công

đoạn này nhằm hoàn thiện các tác phẩm báo chí về nội dung và hình thức

trƣớc khi đến với công chúng.

- Xuất bản lên mạng internet: Sau khi bài viết đƣợc đăng tải, sẽ có thể

có những phản ứng cụ thể thì phía các cơ quan chức năng hoặc từ phía các

nhà khoa học và công chúng. Những phản hồi này sẽ đƣợc những ngƣời tòa

soạn giải đáp nhằm thỏa mãn nhu cầu thông tin rõ ràng, chính xác về hoạt

động KH&CN.

54

2.2. Thực trạng truyền thông chính sách khoa học và công nghệ trên báo

điện tử VnExpress.net, Dantri.com.vn, Tuoitre.vn, Svvn.vn

2.2.1. Chủ thể, thông điệp, kênh và công chúng truyền thông chính sách

khoa học và công nghệ cho sinh viên

Sau khi khảo sát 206 bài viết trong các chuyên mục của 4 báo điện tử

Vnexpress, Dân trí, Tuổi trẻ và SV Việt Nam trong năm 2019, tác giả nhận

thấy các nội dung đƣợc tập trung phản ánh gồm có chủ đề về: Chính sách,

nhân vật, khởi nghiệp, giải thƣởng, học bổng, sản phẩm, hội thảo và hội nghị.

Những nội dung về TTCS KH&CN sẽ đƣợc phân tích cụ thể dƣới đây:

- Chủ thể truyền thông

Kết quả tại thông kê về tin, bài chính sách KH&CN trên 4 báo điện tử

khảo sát trong phần Phụ lục, cho thấy số lƣợng bài viết về chính sách

KH&CN với 47 bài viết, là nội dung thứ hai đƣợc quan tâm và có nhiều bài

viết, chiếm tỷ lệ 22,81% nội dung truyền thông KH&CN. Điều này chứng

minh các cơ quan báo chí đều nhận thức đƣợc tầm quan trọng của chính sách,

là nền tảng hƣớng đến triển khai lĩnh vực KH&CN trong thực tiễn.

Kết quả khảo sát Biểu đồ 2.1, tin bài về chính sách KH&CN đƣợc xuất

hiện nhiều nhất trên báo Dân trí với 21 bài, sau đó là Vnexpress và Tuổi trẻ

online, mỗi báo với 12 bài và cuối cùng là báo Sinh viên Việt Nam thấp nhất

với 2 bài. Nhƣ vậy, mục tiêu báo Dân trí hƣớng đến là tuyên truyền, đẩy mạnh

về phổ biến chính sách pháp luật đến độc giả, để nâng cao nhận thức của độc

giả và tạo sự đồng thuận trong xã hội về việc phát triển KH&CN.

Đồng thời, báo Dân trí cũng đã xác định tầm quan trọng của việc

truyền thông chính sách, hƣớng đi này cũng là tôn chỉ và mục đích họat

động của báo.

55

Biểu đồ 2.1 Tin, bài chính sách khoa học và công nghệ trên 4 báo điện tử

khảo sát (bài)

Tác giả thực hiện khảo sát chủ đề của các tin bài chính sách KH&CN

trên 4 báo điện tử tại Phụ lục cho thấy, tin bài phổ biến chính sách khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo chiếm 48,94% - tỷ lệ nhiều nhất trong tổng số 47

tin bài chính sách KH&CN. Vị trí thứ hai là chính sách chung đẩy mạnh

KH&CN chiếm tỷ lệ 29,78% và các công trình nghiên cứu chiếm 10,64%

lƣợng tin bài chính sách KH&CN. Qua đây có thể nhận thấy, các báo điện

tử đang thực hiện đẩy mạnh tuyên truyền về đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp

theo đúng chủ trƣơng đƣờng lối chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và Chính

phủ cùng xây dựng một quốc gia khởi nghiệp.

- Thông điệp

Việc thể hiện thông điệp ở mỗi báo điện tử có nét đặc trƣng và cách thể

hiện riêng. Kết quả thông điệp truyền thông KH&CN của 206 tác phẩm đƣợc

phản ánh qua các thể loại tại Phụ lục, cho thấy thể loại “tin” đƣợc đăng tải

chiếm 48,06%, thể loại “phản ánh” chiếm 44,66%. Các thể loại còn lại gồm

56

phỏng vấn chiếm tỷ lệ 3,4%; phóng sự chân dung chiếm 2,91% và eMagazine

chiếm tỷ lệ 0,97% với số lƣợng tác phẩm ít nhất.

Tác giả thực hiện việc khảo sát về các thể loại thông điệp chính sách

KH&CN đƣợc truyền thông đến công chúng qua 47 tác phẩm báo chí, thể hiện tại

Biểu đồ 2.2.

Biểu đồ 2.2 Thể loại tin, bài về chính sách khoa học và công nghệ trên 04

báo điện tử

Kết quả khảo sát Biểu đồ 2.2 cho thấy, thông điệp về chính sách

KH&CN đƣợc đăng tải nhiều nhất ở thể loại “phản ánh”, chiếm tỷ lệ cao nhất

với 59,57%. Bài phản ánh trên các báo điện tử chủ yếu là phản ánh toàn diện,

trình bày, phân tích, đƣợc trao đổi, thảo luận gắn với sự kiện, chính sách, tình

huống cụ thể liên quan đến KH&CN tác động đến nhiều ngƣời. Các bài phản

ánh thƣờng xuất hiện trên báo điện tử nhƣ: “Trí thức kiến nghị chính sách

nghiên cứu tạo công nghệ nguồn”, “Từ 20 3, miễn nhiều loại thuế cho doanh

nghiệp KH&CN”, “Quỹ khoa học họat động thế nào?”, “Đỏ mắt tìm nhân lực

chuyên trí tuệ nhân tạo”.... Qua các bài phản ánh, công chúng không chỉ đơn

57

thuần là nhận diện mà còn có thể thấy đƣợc những bình diện khác nhau,

những mối quan hệ ẩn và các góc khuất của sự kiện, hiện tƣợng, vấn đề.

Thông điệp TTCS phải phù hợp với công chúng - nhóm đối tƣợng và

thể hiện rõ mục tiêu của chiến dịch truyền thông chính sách. Truyền thông

chính sách của báo chí giúp truyên truyền, đƣa thông tin, để SV và dƣ luận xã

hội biết và hiểu về chính sách mới. Từ đó, giúp tạo đồng thuận xã hội, đạt

hiệu quả cao trong từng chu trình chính sách. Vì thế, thông điệpTTCS phải rõ,

ngắn gọn, dễ hiểu để công chúng dù là ai cũng có thể nắm đƣợc một cách cơ

bản. Trong cả 4 báo khảo sát số lƣợng tin, bài về đổi mới sáng tạo, khởi

nghiệp đƣợc thể hiện qua các chuỗi bài với các cụm từ nhƣ “đối tác của cuộc

thi khởi nghiệp toàn cầu”, “tỏa sáng trên bản đồ startup thế giới”,... hoặc các

đánh giá về tầm quan trọng của chính sách KH&CN của các lãnh đạo Đảng,

Nhà nƣớc và Chính phủ nhƣ: “Phó Thủ tướng: Khoa học công nghệ đóng góp

trực tiếp cho tăng trưởng”, “Khát vọng của người trẻ là cốt yếu hệ sinh thái

khởi nghiệp Việt”... Những nội dung đƣợc nhấn mạnh và truyền tải trong

thông điệp truyền thông, đã thể hiện mục tiêu “thế hệ trẻ là một trong những

nhân tố phát triển Việt Nam trở thành cầu nối với môi trường khởi nghiệp,

đổi mới sáng tạo”.

Báo Vnexpress, Báo Dân trí, Báo Tuổi trẻ online và Sinh viên Việt

Nam đã xây dựng chuyên mục “Startup – Khởi nghiệp” với nhiều bài viết

trong chuyên mục này để nêu rõ thông điệp trên của Đảng, Chính phủ và Nhà

nƣớc, thể hiện mong muốn sẵn sàng lắng nghe và tiếp thu các đề nghị, đề xuất

của những ngƣời trẻ với các cộng đồng khởi nghiệp, mô hình đầu tƣ kinh

doanh, thúc đẩy khởi nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và

trƣờng đại học đổi mới, sáng tạo.

Một điểm nữa việc xây dựng thông điệp TTCS đƣợc các báo điện tử

chú trọng đó là thời điểm và tần suất xuất hiện thông điệp. Điển hình nhƣ Đề

án 844 ra đời, nếu báo chí chỉ nêu về nội dung, ƣu điểm, nhƣợc điểm của

58

chính sách với thông điệp nhƣ “Đề án sẽ hỗ trợ cho sinh viên, học sinh thuận

lợi trong đổi mới hệ sinh thái khởi nghiệp” sẽ khiến một bộ phận dƣ luận

không hiểu chính sách, cho rằng bất cứ ai cũng dễ dàng khởi nghiệp và đƣợc

sự hỗ trợ từ Đề án này. Vì thế, báo chí cần phải truyền thông để sinh viên hiểu

rằng, điều kiện để khởi nghiệp, xuất phát từ những sản phẩm hoặc ứng dụng

có tính khả thi, cần trải qua các quá trình thẩm định, kêu gọi vốn đầu tƣ...

Thông điệp phải phù hợp với chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà

nƣớc. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc. Thông qua báo điện tử, các chính

sách đã đƣợc thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác các vấn đề trong lĩnh vực

KH&CN. TTCS qua báo điện tử không chỉ giúp SV biết và hiểu về chính

sách, mà báo chí là kênh thông tin hữu hiệu nhất để SV phản hồi về chính

sách mới, phản hồi những bất cập của những chính sách đang thực hiện đến

cơ quan chức năng. Trong các bài viết trên báo Tuổi trẻ online luôn đề cấp

đến những phản hồi của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong chính sách

KH&CN. Cụ thể, bài phản ánh “Quỹ khoa học hoạt động thế nào?” của tác

giả Lê Thanh – Thanh Hà với tập hợp nhiều ý kiến đóng góp của các nhà

khoa học khi Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và Quỹ phát triển khoa học và

công nghệ quốc gia sẽ tự chủ tài chính. Trƣớc những yêu cầu hoạt động mới,

ngoài đề xuất của nhà khoa học, bài viết còn có ý kiến của chuyên gia nhƣ

Thứ trƣởng Bộ Tài chính, Vụ trƣởng Vụ Ngân sách Nhà nƣớc để lý giải

những thu chi trong hoạt động của hai quỹ khoa học và công nghệ này. Từ đó,

tác giả của bài viết đã lý giải những điểm mới trong chính sách KH&CN thời

gian tới, đồng thời góp phần đƣa tiếng nói của ngƣời dân về chính sách đến

với chủ thể ban hành chính sách, giúp điều chỉnh chính sách hợp lý và tạo

điều kiện thuận lợi nhất đối với các nhà khoa học.

59

Dựa trên những đặc trƣng và lợi thế của báo điện tử để xây dựng thông

điệp ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo. Với lợi thế về kỹ thuật và

không gian thể hiện thông tin, khai thác sử dụng thông tin đồ họa

(Infographic), video, clip, phóng sự ảnh cách để tác động nhanh nhất và trực

tiếp nhất đến công chúng. Tuy nhiên, trong 4 báo điện tử khảo sát thì chỉ có

báo Vnexpress, báo Dân trí là có kỹ thuật làm tốt nội dung này.

Trong chủ đề truyền thông chính sách KH&CN, thể loại “tin” đƣợc các

báo điện tử sử dụng nhiều thứ hai sau thể loại “phản ánh”.“Tin” là một trong

những thể loại chính yếu đƣợc các cơ quan báo điện tử sử dụng trong quá

trình TTCS. Đặc điểm nổi bật nhất của tin là thông báo một cách kịp thời về

những sự kiện mới nhất, dƣới hình thức ngắn gọn, chặt chẽ, vì vậy các báo

điện tử đã ƣu tiên sử dụng thể loại tin trong TTCS KH&CN.

Qua khảo sát, phân tích cho thấy, TTCS KH&CN tập trung vào hai thể

loại phản ánh và tin bao nhiêu thì các thể loại khác càng ít bấy nhiêu. Trong

đó, thể loại phỏng vấn chiếm tỷ lệ 4,26%; phóng sự chân dung và eMagazine

đều chiếm tỷ lệ 2,13%. Trong khi đây là hai thể loại giúp phóng viên khai

thác sâu hơn về chính sách KH&CN đồng thời độc giả có góc nhìn đa chiều

hơn trong lĩnh vực này. Nhƣng lại là hai thể loại đƣợc áp dụng ít nhất để

truyền thông về chính sách KH&CN. Nhóm thể loại báo chí này chỉ xuất hiện

khi nói đến những chân dung những nhà nghiên cứu, sinh viên đạt thành tích

xuất sắc trong nghiên cứu khoa học, gƣơng mặt khởi nghiệp thành công và

các sản phẩm khoa học ứng dụng.

Sau khi thực hiện khảo sát, tác giả đã có những kết quả về tình hình

truyền thông chính sách KH&CN trên 4 báo điện tử, thể hiện tại Biểu đồ 2.3.

60

Biểu đồ 2.3 So sánh lượng tin, bài về chính sách khoa học và công nghệ

trên chuyên mục của 4 báo điện tử

Kết quả nghiên cứu (Biểu đồ 2.3) cho thấy, tỷ lệ bài viết truyền thông

về chính sách KH&CN đƣợc đăng tải trên các chuyên mục có sự phân biệt

cao. Trong đó, chuyên mục chiếm tỷ lệ cao nhất là Khoa học - Công nghệ

(57,45%), đứng thứ 2 là Giáo dục (23,4%), đứng thứ ba là Khởi nghiệp

(6,38%). Điều này chứng tỏ tin, bài về chính sách KH&CN đƣợc đăng tải

nhiều ở chuyên mục Khoa học - Công nghệ, một chuyên mục mà nội dung

cần phải đề cập.

Qua khảo sát hình thức thể hiện bài viết trên 4 báo điện tử ở phần Phụ

lục, trong số 47 tin, bài chính sách KH&CN tại 04 báo điện tử thì 100% báo

đều sử dụng hình ảnh trong bài viết, trung bình mỗi bài từ 2-3 ảnh. Ngoài

hình ảnh, báo Vnexpress và Dân trí còn kèm theo video hoặc âm thanh trong

bài viết để mọi đối tƣợng độc giả có thể tiếp cận và nắm bắt đƣợc nội dung

thông tin. Trong đó, số lƣợng bài viết kèm theo âm thanh của Dân trí là nhiều

nhất với16 bài, đạt 76,1% tổng số bài viết. Điều này thể hiện việc Dân trí đã

hƣớng đến những độc giả chuyên biệt hoặc công chúng “ngại” đọc chữ.

61

- Kênh truyền thông

Các bài viết trên báo điện tử ngoài văn bản, ảnh thì ngày nay việc sử

dụng video, audio, đồ họa... đƣợc khai thác hiệu quả để TTCS KH&CN.

Bảng 2.1 Tính đa phương tiện của báo điện tử

Văn bản Ảnh Video Âm thanh Đồ họa

X X X X X X X X X X X X X

Các yếu tố Báo điện tử Vnexpress Dân trí Tuổi trẻ online Sinh viên Việt Nam

Qua khảo sát tại Bảng 2.1, cả 4 báo điện tử (Vnexpress.net,

Dantri.com.vn; Tuoitre.vn; Svvn.vn) đều tích hợp từ 3-4 phƣơng tiện: văn

bản, truyền hình/video, phát thanh/âm thanh/audio, hình ảnh/góc ảnh/phóng

sự ảnh, đồ họa. Chứng tỏ, báo điện tử với lợi thế tích hợp nhiều loại hình báo

chí và tính đa phƣơng tiện nên có khả năng tuyên truyền chính sách hấp dẫn

bằng chữ viết, âm thanh, hình ảnh, video…

Hiện nay, báo điện tử còn tận dụng kênh truyền thông xã hội. Tác giả

đã tiến hành khảo sát, nhận thấy cả 04 báo điện tử hiện nay đều có trang

fanpage riêng với lƣợng độc giả theo dõi lớn. Trong đó, đứng đầu là báo điện

tử VnExpress hơn 3,4 triệu ngƣời; báo Tuổi trẻ hơn 2,3 triệu ngƣời; báo điện

tử Dân trí là 8,7 nghìn ngƣời và báo SV Việt Nam hơn 37 nghìn ngƣời.

Báo điện tử còn có thể sử dụng các phần mềm ứng dụng , theo khảo sát

có 3/4 báo điện sử dụng ứng dụng trên các cửa hàng ứng dụng.

Tác giả thực hiện đề tài TTCS KH&CN cho SV trên báo điện tử hiện

nay, nên kênh sử dụng trong nghiên cứu là các báo điện tử Vnexpress.net,

Tuoitre.vn, Dantri.com.vn và Svvn.vn. Theo đó, khách thể nghiên cứu của

luận án chính là SV - cũng là đối tƣợng tiếp nhận và trả lời phiếu khảo sát.

62

Trong phần phiếu khảo sát, tác giả đã đặt câu hỏi: Anh/Chị thƣờng đọc tin tức

KH&CN thông qua các báo điện tử nào?

Kết quả nghiên cứu thể hiện trên Biểu đồ 2.4 cho thấy, SV đọc tin, bài

về chính sách KH&CN chủ yếu qua báo điện tử. Trong đó, báo Vnexpress

đang chiếm tỷ lệ cao nhất là 79%, báo Dân trí đứng thứ hai với tỷ lệ 57% và

đứng vị trí thứ ba là Tuổi trẻ online chiếm tỷ lệ 47%.

Biểu đồ 2.4 Sinh viên tiếp cận thông tin khoa học và công nghệ trên báo

điện tử

Điều này chứng tỏ SV đang tiếp cận thông tin KH&CN gắn liền với

công nghệ số gồm máy tính, laptop, điện thoại di động... kết nối internet toàn

cầu. Đồng thời SV tiếp nhận thông tin chủ yếu tìm những báo có lƣợng tin bài

phong phú, cập nhật nhanh, giao diện trình bày hiện đại, thân thiện, có số

lƣợng bạn đọc ở tốp đầu trong hệ thống báo điện tử.

- Công chúng

Trong nghiên cứu luận văn thạc sĩ Báo chí học “Công chúng tham gia

diễn đàn báo mạng điện tử” (2012), tác giả Nguyễn Ngọc Cƣơng đƣa ra đặc

điểm về công chúng báo mạng điện tử với độ tuổi trung bình từ 20 đến 32

63

tuổi, thƣờng là SV, những ngƣời làm công việc văn phòng, kinh doanh hoặc

các nghề nghiệp liên quan đến công tác xã hội. Do vậy, nhu cầu thiết yếu của

họ là cập nhật thông tin nhanh chóng [26].

Theo khảo sát năm 2019,do We Are Social và Hootsuite, một tổ chức

có trụ sở chính ở Anh nghiên cứu độc lập về truyền thông xã hội toàn cầu,

65% ngƣời sử dụng internet ở Việt Nam là dƣới 34 tuổi [54]. Trong đó, nhóm

độ tuổi từ 18-24 chiếm 30%, nhóm từ 25-34 tuổi chiếm 35%.

Trong đề tài này, tác giả nghiên cứu TTCS KH&CN cho SV trên báo

điện tử.Tác giả đã lập 200 phiếu điều tra, phát online cho SV 3 trƣờng. Kết

quả sau 2 tuần khảo sát, tác giả nhận đƣợc 200/200 phiếu trả lời. Điều này cho

thấy 100% công chúng – đối tƣợng là SV đều tìm hiểu, khai thác thông tin

trên các báo điện tử.

Tại Biểu đồ 2.5 có thể nhận thấy Vnexpress đang dẫn đầu về tỷ lệ công

chúng đọc nhiều nhất là 79%, báo Dân trí chiếm tỷ lệ 57% và Tuổi trẻ online

chiếm tỷ lệ 47%.

Biều đồ 2.5 Báo điện tử công chúng đọc nhiều

Qua số liệu khảo sát này, nhận thấy công chúng dễ chấp nhận và thấy

phù hợp về lƣợng thông tin, nội dung và hình thức các bài viết trên báo điện

tử Vnexpress hơn so với báo Dân trí, Tuổi trẻ online và Sinh viên Việt Nam.

64

Tác giả tiếp tục khảo sát về nhu cầu, mục đích SV sử dụng thông tin

chính sách KH&CN trên báo điện tử (Biểu đồ 2.6). Qua kết quả khảo sát Biểu

đồ 2.7 cho thấy 49,44% SV đọc tin bài về chính sách KH&CN nhằm phục vụ

học tập, tiếp theo là 31,11% để nghiên cứu khoa học và 18,89% hƣớng đến

mục đích giải trí.

Biểu đồ 2.6 Mục đích sử dụng báo điện tử của sinh viên

Dựa vào những khảo sát trên chứng tỏ SV là những đối tƣợng độc giả

quan tâm đến chính sách KH&CN. Đồng thời, họ sẽ tìm đến những báo chí

với những bài viết đem lại thông tin cần thiết cả về nội dung lẫn hình thức. Cụ

thể nhƣ báo Dân trí là báo duy nhất sử dụng thể loại eMagazine đối với chính

sách KH&CN, với chủ đề về khởi nghiệp “Bộ Khoa học và khát vọng xây

dựng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam vươn ra thế giới”, của tác

giả Sỹ Hùng.

2.2.2. Nhiễu, phản hồi, hiệu quả và hiệu lực thông chính sách khoa học và

công nghệ cho sinh viên

- Nhiễu

Trong 206 bài viết đƣợc khảo sát trên 04 báo điện tử đa số truyền tải

thông điệp thúc đẩy phát triển KH&CN đến độc giả. Với nhiều tác động và

65

các yếu tố khách quan và chủ quan từ phía xã hội hoặc công chúng mà thông

điệp chƣa đƣợc truyền tải đầy đủ đến với công chúng.

Biểu đồ 2.7 Độ tuổi của sinh viên quan tâm đến báo điện tử

Tác giả có nhận xét nhƣ vậy, bởi vì qua khảo sát Biểu đồ 2.7 độ tuổi

của SV quan tâm đến báo điện tử có thể thấy SV năm thứ ba chiếm tỷ lệ nhiều

nhất là 55%, SV năm thứ hai là 25%, cuối cùng là SV năm thứ nhất và năm

thứ tƣ. Tỷ lệ này cho thấy khả năng thông điệp chính sách KH&CN còn bị

nhiễu bởi năng lực tiếp nhận của SV, nên những bài viết về chính sách

KH&CN gần gũi thực tiễn, giúp SV học tập tốt hơn sẽ thu hút đƣợc đối tƣợng

công chúng này.

Nhiễu còn xảy ra với việc công chúng báo điện tử trong điều kiện và

khả năng sử dụng công nghệ hiện đại. “Báo điện tử ra đời, họat động và phát

triển song hành với kỹ thuật hiện đại và công nghệ thông tin. Vì thế để tiếp

nhận thông tin từ loại hình báo chí này, công chúng buộc phải có những cơ

sở vật chất cố định cũng như khả năng sử dụng chúng” [29, tr. 129].

SV là đối tƣợng công chúng dễ bị tác động bởi môi trƣờng xung quanh

và thời đại công nghệ số trên nhiều lĩnh vực. Tác giả đã thực hiện khảo sát

những lĩnh vực SV quan tâm trên báo điện tử (biểu đồ 2.8).

66

Biểu đồ 2.8 Chuyên mục sinh viên quan tâm trên báo điện tử

Qua khảo sát Biểu đồ 2.8 với công chúng – đối tƣợng là SV, trong đó

lĩnh vực SV quan tâm nhiều nhất trên báo điện tử là những vấn đề Thời sự

chiếm tỷ lệ 81,5% phiếu khảo sát; tỷ lệ chiếm vị trí thứ hai là Giáo dục (với

48,5%), sau đó đến vấn đề KH&CN (với 46%). Cuối cùng là các nội dung về

y tế, văn hóa thể thao và vấn đề khác. Điều đó cho thấy nếu TTCS KH&CN

không mang tính thời sự hơn sẽ không thu hút đƣợc SV và từ đó sẽ không

thực hiện đƣợc mục đích đẩy mạnh hƣớng nghiên cứu khoa họctrong SV.

Biểu đồ 2.9 Mức độ sinh viên sử dụng mạng xã hội

Kết quả khảo sát (Biểu đồ 2.9) cho thấy việc SV sử dụng thƣờng xuyên

mạng xã hội đang chiếm tỷ lệ cao nhất là 55%, “thỉnh thoảng” chiếm tỷ lệ

44,5%. Chứng tỏ SV quan tâm và dành nhiều thời gian cho việc sử dụng

67

mạng xã hội, cũng nhƣ xem tin tức trên đó. Tuy nhiên, “fake news” cũng

đang là vấn đề nóng trên mạng xã hội.

- Phản hồi, tương tác

Một trong số điểm mạnh của báo điện tử chính là sự phản hồi, dễ dàng

tƣơng tác trực tiếp với độc giả. Đây cũng có thể là một trong những công cụ

giúp báo chí đánh giá hiệu quả truyền thông về chính sách KH&CN.

Dựa vào phản hồi, các cơ quan báo chí nói chung và phóng viên nói riêng

có thể tích lũy thêm kinh nghiệm và nắm bắt đƣợc xu hƣớng thông tin chính

sách KH&CN mà SV quan tâm. Nếu báo chí bị hạn chế sự tƣơng tác với độc giả

thì những bài viết chỉ mang tính chủ quan của phóng viên, toà soạn.

Bảng 2.2 Tính tương tác hai chiều của bốn báo điện tử

Nội dung

Ảnh Video Liên hệ/ Hotline Âm thanh/ Audio Gửi bình luận Các siêu liên kết Báo điện tử

X X X X X X X X X X X X X X X X X X Vnexpress Dân trí Tuổi trẻ online Sinh viên Việt Nam

Qua khảo sát ở Bảng 2.2 cả 4 báo điện tử đều có tính tƣơng tác hai

chiều dành cho độc giả thông qua cả hai mục “gửi bình luận”, “Liên hệ tòa

soạn hoặc hotline”. Điều này có thể thấy, báo điện tử đang chú trọng đến suy

nghĩ, tƣ tƣởng của bạn đọc. Ngoài những phản hồi, thắc mắc còn có nhiều

đóng góp mang tính xây dựng giúp cơ quan báo chí nâng cao chất lƣợng nội

dung, hình thức của báo điện tử. Từ đó, cơ quan báo chí có thể thu thập và

phân loại đƣợc đối tƣợng độc giả của báo.

Ở Bảng 2.2, có thể thấy cả 4 báo đều có các siêu liên kết để cho phép

ngƣời đọc khả năng tham chiếu tới các nội dung khác.

68

Biểu đồ 2.10 Tin, bài chính sách khoa học và công nghệ có chứa các siêu

liên kết trên 4 báo điện tử

Tuy nhiên, trên Biểu đồ 2.10 tỷ lệ bài viết có chứa siêu liên kết cao nhất

là báo Tuổi trẻ online 74% và thấp nhất là báo Sinh viên Việt Nam chiếm tỷ

lệ 3%. Ví dụ, xung quanh bài phản ánh về “Để thành quốc gia đổi mới sáng

tạo, cần đổi mới sáng tạo cách trọng dụng con người”, báo Tuổi trẻ đãsử

dụng các thông tin chứa siêu liên kết thành các tuyến bài liên quan nhƣ “Việt

Nam trở thành „điểm hẹn‟ đầu tư mới nhờ đổi mới sáng tạo và tầm nhìn dài

hạn”, “Khai mạc sự kiện đổi mới sáng tạo lớn nhất năm tại TP.HCM”, “Thủ

tướng ký quyết định thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia”. Cứ nhƣ

thế, báo Tuổi trẻ online với các siêu liên kết đã “kéo” độc giả vào nhiều tầng,

lớp thông tin đa dạng, nhiều chiều, đối sánh...

Qua khảo sát Biểu đồ 2.11 có thể thấy các báo điện tử đang nâng cao

khả năng tính tƣơng tác của độc giả với báo chí thông qua các video, ảnh,

audio và siêu liên kết. Trong đó, các tin bài chính sách KH&CN có số lƣợng

ảnh chiếm tỷ lệ cao nhất là 74,48%, tiếp đến là các siêu liên kết chiếm

13,10%, audio là 11,03%.

69

Biểu đồ 2.11Tính tương tác tin bài chính sách khoa học và công nghệ trên

4 báo khảo sát

Dựa trên kết quả khảo sát, tác giả nhận thấy nhờ công nghệ số mà ảnh,

audio và video hiện nay cũng có tính tƣơng tác hai chiều, kèm dữ liệu và tra

cứu. SV có thể chia sẻ bất cứ bài viết, ảnh, video hoặc audio mà bản thân cảm

thấy thú vị đến tất cả mọi ngƣời.

- Hiệu quả và hiệu lực truyền thông

Để đánh giá đƣợc hiệu quả TTCS KH&CN cần thời gian rất dài và sau

nhiều quá trình phản hồi, góp ý. Cần đánh giá hiệu quả và hiệu lực TTCS

KH&CN bài bản, chuyên nghiệp. Việc đánh giá hiệu quả TTCS KH&CN phải

dựa trên cơ sở khảo sát, phân tích định lƣợng, định tính cụ thể, tƣờng minh.

Các dữ liệu khảo sát, đánh giá sẽ có giá trị minh chứng cho hiệu quả truyền

thông. Hiệu quả TTCS KH&CN phải đi đôi với hiệu lực TTCS KH&CN.

Mục đích cuối cùng của TTCS là phải đƣa chính sách vào cuộc sống, góp

phần phát triển xã hội. Điều này có thể nhận thấy rõ khi tác giả thực hiện các

chuỗi tin, bài về chính sách học bổng, giải thƣởng KH&CN dành cho SV. Có

những cuộc thi, giải thƣởng tổ chức qua nhiều năm và mỗi năm đều có những

hình thức mới, giá trị giải thƣởng và quy mô cuộc thi tăng lên. Cụ thể nhƣ các

bài phản ánh, “Cuộc đua số” mùa 4 chính thức khởi động, công bố giải

70

thƣởng 2,2 tỷ đồng; các chuỗi sự kiện “Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa

học” diễn ra tại các trƣờng đại học với nhiều sản phẩm mang tính ứng dụng

thực tiễn cao; giải thƣởng Honda-YES dành cho SV khối ngành kỹ thuật...

Qua Biểu đồ 2.12 có thể nhận thấy chủ đề về sản phẩm, chính sách,

khởi nghiệp, giải thƣởng học bổng đang lần lƣợt chiếm tỷ lệ cao trong các chủ

đề truyền thông KH&CN. Trong đó, sản phẩm có tỷ lệ 24,27%, chính sách có

tỷ lệ 22,82%, khởi nghiệp chiếm tỷ lệ 19,42% và giải thƣởng, học bổng là

15,05%. Nhƣ vậy, báo chí đã thấm nhuần và đang định hƣớng theo quan điểm

phát triển KH&CN của Đảng, Nhà nƣớc và Chính phủ.

Biểu đồ 2.12 So sánh giữa các chủ đề truyền thông KH&CN trên bốn báo

điện tử

Dựa trên cơ sở đó, báo chí đang thực hiện nhiệm vụ, vai trò truyền tải

thông điệp hƣởng ứng phát triển chính sách KH&CN đến với công chúng

thông qua các chủ đề đƣợc khảo sát trên bốn báo điện tử.

Tác giả đánh giả hiệu quả truyền thông chính sách KH&CN dựa trên

kết quả khảo sát 200 phiếu trả lời của SV tại Biểu đồ 2.13 và Biểu đồ 2.14.

71

Biểu đồ 2.13 Đánh giá của sinh viên về thông tin chính sách khoa học và

công nghệ trên báo điện tử

Tại kết quả khảo sát (Biểu đồ 2.13) có thể cho thấy đánh giá về thông

tin chính sách KH&CN của SV trên báo điện tử đang rất cao, trong đó tỷ lệ

hữu ích và bình thƣờng đã chiếm 94,5%, chỉ có 5,5% SV đánh giá thông tin

chính sách KH&CN không hữu ích. Dựa vào tỷ lệ hữu ích do SV đánh giá

có thể thấy báo điện tử đang dần đạt đƣợc hiệu quả. Về mặt tinh thần đã

giúp SV thay đổi trong nhận thức, họ sẵn sàng tiếp nhận thông tin chính

sách KH&CN. Những thay đổi này do ảnh hƣởng thông tin chính sách

KH&CN báo chí cung cấp.

Biểu đồ 2.14 Mức độ quan trọng của chính sách khoa học và công nghệ đối

với sinh viên

72

Kết quả Biểu đồ 2.14 cho thấy có tới 94% SV nhận thấy thông tin chính

sách KH&CN “Quan trọng”, “Rất quan trọng” và chỉ có 6% SV nhận xét

“Không quan trọng”. Điều đó cho thấy, về mặt thực tiễn báo chí đã thay đổi

đƣợc quan niệm của SV về mức độ ảnh hƣởng của chính sách đến sự phát

triển KH&CN.

Tóm lại, dựa trên quá trình khảo sát, phân tích, tác giả nhận thấy báo

điện tử đã phát huy đƣợc thế mạnh trong truyền thông KH&CN nói chung,

TTCS KH&CN nói riêng về tính tƣơng tác hai chiều, cải thiện thể loại tin bài

TTCS KH&CN để hƣớng đến đối tƣợng SV và đang dần đạt đƣợc hiệu quả

truyền thông.

Tuy nhiên, thông tin các bài viết vẫn mang nặng tính hàn lâm, chƣa

định hƣớng cụ thể đối với từng đối tƣợng công chúng. Trong đó, đối tƣợng

công chúng là SV là một trong những bộ phận góp phần xây dựng tƣơng lai

đất nƣớc, lại chƣa đƣợc báo điện tử chú trọng trong công tác TTCS

KH&CN. Những hạn chế này đều đến từ phía các bộ ban ngành, trƣờng đại

học chƣa có các cơ chế thông tin, chính sách thiết thực hƣớng tới đẩy mạnh

TTCS SV và báo chí.

Bên cạnh đó, TTCS KH&CN cần đẩy mạnh hơn nữa những đề tài gần

gũi với SV nhƣ đề tài về sản phẩm, nhân vật điển hình, giải thƣởng và khởi

nghiệp. Các chủ đề này có thông tin hữu ích đối với SV, giúp SV có thêm cơ

hội phát triển bản thân và nắm bắt đƣợc định hƣớng lĩnh vực KH&CN trong

tƣơng lai.

2.3. Đánh giá hiệu quả truyền thông chính sách về khoa học và công nghệ

cho sinh viên trên báo điện tử hiện nay

2.3.1. Những kết quả đạt được

Ngoài lập bảng hỏi điều tra xã hội học nghiên cứu hiệu quả truyền

thông của tin bài chính sách KH&CN trên báo điện tử,tác giả còn tiến hành

73

phỏng vấn sâu lãnh đạo các chuyên mục cũng nhƣ các phóng viên, biên tập

viên phụ trách KH&CN, GD&ĐT. Bên cạnh đó, cũng thực hiện phỏng vấn

sâu một số lãnh đạo các trƣờng đại học, Bí thƣ Đoàn thanh niên về lĩnh vực

TTCS KH&CN. Toàn bộ biên bản phỏng vấn sâu đƣợc đính kèm ở phần

phụ lục.

- Chủ thể truyền thông

TTCS KH&CN cho SV đã giúp các cơ quan ban hành chính sách, các

trƣờng đại học nhận thấy chính sách KH&CN đối với SV có tính thực tiễn,

triển khai đến từng đơn vị hiệu quả hoặc có cần thay đổi bổ sung để phù hợp

với đối tƣợng SV.

Một lãnh đạo Ban KH&CN (Đại học Quốc gia Hà Nội), khẳng

định:“Sau khi có nhiều văn bản đẩy mạnh phát triển KH&CN ĐHQGHN

đã chú trọng sử dụng các kênh truyền thông gián tiếp và trực tiếp như

giảng viên, cán bộ, website, fanpage... Tuy nhiên, những kênh này chỉ giúp

SV biết đến chính sách KH&CN. Còn các trường thành viên và Đoàn thanh

niên là những đơn vị trực tiếp triển khai thực tiễn chính sách vào họat

động đối với SV. Và trong đó, cơ quan báo chí góp một phần không nhỏ

vào việc lan toả chính sách và triển khai chính sách vào thực tế để mở rộng

mô hình chính sách, giúp nhiều người học có cơ hội tiếp cận nhanh và đầy

đủ hơn về lý thuyết lẫn thực tiễn đối với các chính sách về KH&CN”

[Phỏng vấn sâu].

Cơ quan báo chí có định hƣớng phát triển chính sách KH&CN cũng

nhƣ nội dung, hình thức của tờ báo phục vụ tốt hơn cho độc giả. Phóng viên

nữ, báo Vnexpress cho biết:“Với các chính sách nói chung và chính sách

KH&CN nói riêng, em thường làm tin trước sau đó sẽ có bài ý kiến từ nhiều

phía. Điều quan trọng nhất đối với tin là phải diễn giải từ ngôn ngữ văn bản

sang ngôn ngữ phổ thông để độc giả dễ hiểu, dễ tiếp nhận. Đây là công việc

quan trọng và được Vnexpress đặc biệt chú ý. Sau khi hoàn thành tin, em

74

thường triển khai thành những bài viết rộng hơn thể hiện bằng thể loại phản

ánh, phỏng vấn với những ý kiến của cơ quan quản lý, chuyên giá đánh giá

chính sách, quyết định, đề xuất… Nếu chính sách có tầm ảnh hưởng sâu rộng

trong xã hội và sự quan tâm của nhiều độc giả, phóng viên sẽ thể hiện nội

dung bằng video, infographic để độc giả có được bức tranh toàn cảnh về

chính sách.”[Phỏng vấn sâu].

- Về kênh truyền thông

Qua khảo sát điều tra trong Biểu đồ 2.15 có thể thấy tỷ lệ báo điện tử

đƣợc SV quan tâm rất cao đểtiếp nhận các tin bài chính sách KH&CN. Trong

đó, SV đọc “1 loại báo điện tử” chiếm tỷ lệ cao nhất với 44,5%, xếp thứ hai

là “2 loại báo” tỷ lệ 25%, xếp thứ ba là “ba loại báo trở lên” chiếm tỷ lệ 27%.

Vậy, tỷ lệ SV tiếp nhận thông tin chính sách KH&CN trên báo điện tử rất cao,

đạt 97%.

Biểu đồ 2.15 Tỷ lệ số lượng báo điện tử sinh viên tiếp nhận thông tin chính

sách khoa học và công nghệ

Điều này chứng tỏ thông tin chính sách KH&CN đang đƣợc gắn liền

với công nghệ số kết nối internet toàn cầu. Và báo điện tử là lựa chọn chủ yếu

của SV, bởi khả năng đa phƣơng tiện, cập nhật thông tin nhanh chóng, tƣơng

75

tác cao cùng các đƣờng dẫn siêu liên kết, lƣu trữ thông tin lâu dài và có hệ

thống giúp cho công chúng báo chí có thể tra cứu dữ liệu một cách nhanh

chóng, lợi thế hơn so với các loại hình báo chí khác.

Biểu đồ 2.16 Tần suất sinh viên tiếp nhận tin tức chính sách khoa học và

công nghệ trên báo điện tử qua mạng xã hội (phiếu)

Kết quả khảo sát (Biểu đồ 2.16) cho thấy 110 SV “thƣờng xuyên” theo

dõi tin bài chính sách KH&CN của báo điện tử thông qua mạng xã hội chiếm

tỷ lệ cao nhất, 89 SV “thỉnh thoảng” đọc tin tức báo điện tử qua mạng xã hội.

Vậy, tỷ lệ SV cập nhật tin tức qua mạng xã hội là 99,5%. Chứng tỏ, SV đã

thay đổi và mở rộng cách thức tiếp nhận thông tin trên báo điện tử qua mạng

xã hội.

- Về thông điệp

Tác giả đã thực hiện khảo sát Bảng 2.3, cho thấy SV nhận thức thông

tin chính sách KH&CN “đa dạng, nhiều chiều, thú vị” và “thời sự, chân thật,

khách quan” chiếm tổng tỷ lệ 42,51% so với những hạn chế về hình thức, nội

dung của tin bài chính sách KH&CN. Chứng tỏ các báo điện tử đã dần thay

đổi nội dung, hình thức thông điệp để thu hút đƣợc độc giả quan tâm hơn nữa

đến chính sách KH&CN.

76

Bảng 2.3 Lý do sinh viên thích hay không thích các tin, bài chính

sách khoa học và công nghệ trên báo điện tử

Biểu lộ thái độ

Tin, bài truyền thông KH&CN

Thích/Lý do (1, 2) 40,7% Không thích/Lý do (3,4,5 và 6)

1,81%

11,55%

17,09%

21%

1. Thông tin đa dạng, nhiều chiều, thú vị 2. Thông tin thời sự, chân thật, khách quan 3. Thông tin một chiều, kém hấp dẫn 4. Bài viết chƣa có sự đầu tƣ, sáng tạo trong việc thể hiện nội dung 5. Bài viết khó hiểu, dài dòng, nhiều thuật ngữ chuyên ngành 6. Nhàm chán 7,58%

Qua khảo sát số lƣợng ảnh, video, âm thanh đƣợc sử dụng trong thông

điệp chính sách KH&CN tại Phụ lục, tác giả nhận thấy 4 báo điện tử đã có sự

đầu tƣ về việc thay đổi nội dung, cách trình bày trong bài viết báo điện tử. Về

số lƣợng ảnh và video Vnexpress đang dẫn đầu về việc chú trọng đầu tƣ ảnh

cùng với video trong bài viết với 60 ảnh, 02 video/12 bài viết; về âm thanh

báo Dân trí là cơ quan báo chí duy nhất có 16 file âm thanh/21 bài viết.

Về thể loại thông điệp chính sách KH&CN trên 4 báo điện tử, ngoài

những thể loại nhƣ “phản ánh, “phóng sự”, “tin tức”, “phỏng vấn” thì báo

Dân trí là báo điện tử duy nhất có bài viết về chính sách KH&CN bằng

eMagazine.

- Về các yếu tố gây nhiễu

Qua biểu đồ 2.17, cho thấy SV tham gia khảo sát chiếm số lƣợng lớn là

SV năm thứ 3 với 109 SV, sau đó là đến SV năm thứ 2 với số lƣợng 47 SV và

cuối cùng là SV năm thứ nhất và thứ tƣ.

77

Biểu đồ 2.17 Thống kê độ tuổi sinh viên quan tâm đến báo điện tử

Dựa trên kết quả khảo sát Biểu đồ 2.19 độ tuổi SV, tác giả có thể nhận

thấy số lƣợng SV quan tâm nhiều nhất là năm thứ ba. Vì vậy, chứng tỏ lứa

tuổi này đang quan tâm đến hƣớng đi cho tƣơng lai, lúc này là thời điểm SV

cần đƣợc định hƣớng nhiều về thông tin chính sách. Đồng thời, SV là những

độc giả có trình độ kiến thức xã hội nhất định nên có khả năng tự nhận biết,

đánh giá và xử lý thông tin về chính sách KH&CN.

Tiếp đến, với độc giả chủ yếu là SV từ 18-23 tuổi TTCS KH&CN sẽ

gặp ít rào cản về điều kiện và khả năng sử dụng công nghệ hiện đại hơn so

với các lứa tuổi khác. Theo thống kê từ We Are Social công bố năm 2019

cho thấy Việt Nam có 64 triệu ngƣời dùng internet với độ tuổi phổ biến từ

18-34 tuổi.

- Về phản hồi, tương tác

Kết quả khảo sát 04/04 báo điện tử đều giúp SV tƣơng tác bằng cách

chia sẻ link bài viết, ảnh, video, audio… trên các mạng xã hội. Việc tìm kiếm

và đọc thông tin diễn ra dƣới nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể, các báo điện

78

tử sẽ có các siêu liên kết hoặc họat động đọc tiếp theo đƣờng link ở cuối bài

viết hoặc đọc thêm các tin/bài liên quan.

Độc giả có thể trực tiếp thể hiện quan điểm và bình luận ngay dƣới

bài viết, điều này có đƣợc là do cơ chế công khai và phản hồi nhanh chóng

của các tờ báo điện tử. Hoặc độc giả có thể chia sẻ những hình ảnh, video

và âm thanh bản thân cảm thấy hữu ích và thú vị trên mạng xã hội bằng các

đƣờng link.

- Về công chúng

Kết quả điều tra xã hội học cho thấy trên 200 SV trả lời thì có 199 SV

đánh giá chính sách KH&CN ở mức độ “rất quan trọng” và “quan trọng”,

chiếm 94% tổng số phiếu (Bảng 2.4).

Bảng 2.4 Sinh viên đánh giá tầm quan trọng của chính sách

Rất quan trọng/Lý do (1) Không quan trọng/Lý do (3)

0,5% Quan trọng/ Lý do (2)

1. Hiện nay xu thế 4.0 đang phát triển và thay đổi hằng ngày, nên chúng ta cần nắm bắt KH&CN để không “tụt” lại so với thế giới

2. Là nền tảng phát triển KH&CN 93,5%

6%

3. SV không sử dụng trong quá trình học tập Nhƣ vậy, đối tƣợng công chúng của TTCS KH&CN đang đƣợc trẻ hóa

và đã có thể tiếp cận với những thông tin mang tính chất quy phạm pháp luật.

Qua khảo sát biểu đồ 2.18, tác giả nhận thấy SV lựa chọn quan tâm đến

TTCS KH&CN trên báo Dân trí nhiều nhất với tỷ lệ 40%, Vnexpress chiếm tỷ

lệ 37% và Tuổi trẻ online, Sinh viên Việt Nam đều chiếm 32%. Có thể thấy,

79

SV hứng thú với các bài viết về chính sách KH&CN trên báo Dân trí hơn so

với các báo còn lại.

Biểu đồ 2.18 Tỷ lệ sinh viên quan tâm chính sách khoa học và công nghệ

trên 4 báo điện tử

- Hiệu quả

Biểu đồ 2.19 Đánh giá của sinh viên về nội dung của chính sách khoa học

và công nghệ trên báo điện tử

Kết quả khảo sát biểu đồ 2.19 cho thấy, SV đánh giá nội dung chính sách

KH&CN trên báo điện tử “hữu ích” chiếm tỷ lệ 60%, đứng thứ hai là tỷ lệ SV

đánh giá nội dung chính sách KH&CN “bình thƣờng” là 34,5%. Chứng tỏ,

qua quá trình TTCS của báo điện tử đã làm thay đổi nhận thức của một bộ

phận SV.

80

2.3.2. Tồn tại, hạn chế

So với vị thế, tầm quan trọng cũng nhƣ vai trò ứng dụng cao vào thực tế

của chính sáchKH&CN trong mọi mặt đời sống xã hội, thì thông tin về lĩnh

vực này đƣợc ít báo chí quan tâm hay nhận thức của công chúng về vị trí của

lĩnh vực này chƣa đƣợc truyền thông đầy đủ. Mặc dù, bốn tờ báo đƣợc tác giả

khảo sát, chủ đề chính sách KH&CN chiếm vị trí thứ 2 với tỷ lệ 22,81% trong

số các chủ đề về KH&CN.Trên thực tế, thông tin còn nghèo nàn, chủ yếu

dừng ở mức phổ biến kiến thức, các bài viết chƣa đổi mới về hình thức, ít đi

sâu vào phân tích cơ chế chính sách, tính chất hữu ích, khả năng thiết thực của

việc áp dụng chính sách trong đời sống.

- Về chủ thể truyền thông

Nguồn lực cho TTCS KH&CN còn hạn chế. Điều này gây ảnh hƣởng

đến chất lƣợng và hiệu quả của TTCS. Từ đó, thiếu các phƣơng tiện vật chất,

kỹ thuật cho các cơ quan báo chí thực hiện TTCS.

TTCS KH&CN vẫn mang tính truyền thống, phƣơng thức chƣa đa

dạng, chƣa thời sự và chƣa có tính mới để thu hút đông đảo độc giả, đặc biệt

là giới trẻ và. Hầu hết các chính sách mới của Việt Nam liên quan đến

KH&CN đều đƣợc đƣa lên trang thông tin điện tử hoặc trang mạng với toàn

văn bản chính sách hoặc một số nội dung nhà báo quan tâm nên chƣa mang

tính toàn diện. Cùng với đó là khả năng phân tích của ngƣời viết chƣa thuyết

phục nên tính tuyên truyền còn kém.Cụ thể, báo Dân trí đăng toàn văn Nghị

quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trƣơng, chính sách chủ động tham gia

cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ; Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh

nghiệp KH&CN; Quyết định của UBND TP. Hồ Chí Minh về chính sách thu

hút phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học và ngƣời có tài năng đặc biệt

với lĩnh vực thành phố.

81

- Về thông điệp

Dựa trên những số liệu khảo sát từ SV thì nội dung, chủ đề truyền

thông về chính sách KH&CN cho SV cần không hấp dẫn với sinh viên.

Trong tổng số 47 bài viết TTCS KH&CN, tác giả đã khảo sát về thể loại

tin, bài chính sách KH&CN đƣợc đăng trên 4 báo điện tử, có thể thấy thể

loại phản ánh và tin tức chứa số lƣợng lớn. Trong đó, thể loại phản ánh có

28 tác phẩm và tin tức với 15 tác phẩm. Còn những thể loại mang lại nội

dung phong phú và hút độc giả nhƣ “phóng sự chân dung”, “emagazine” thì

lại chỉ có 2 tác phẩm.

Một nữ lãnh đạo chuyên mục Khoa học- Giáo dục tại báo Dân trí cho

biết: “Những thông tin KH&CN trên thế giới chiếm nhiều hơn thông tin trong

nước, bởi vì nội dung các thông tin này phong phú, nhiều phát minh mới tiên

tiến, độc, lạ thu hút độc giả nhiều. Còn các thông tin KH&CN trong nước vẫn

còn nhỏ lẻ, chưa gắn với thời sự và đời sống nên báo chí và bạn đọc đều ít

quan tâm” [Phỏng vấn sâu].

- Về các yếu tố gây nhiễu

Nhận thức của xã hội nói chung, SV nói riêng chƣa đầy đủ về vai trò

của TTCS dẫn đến thực tiễn chƣa quan tâm đến truyền thông, chƣa coi

TTCSKH&CN là một điều kiện, yếu tố hay động lực quan trọng của quy trình

chính sách. Thực tế cho thấy, trong quá trình hoạch định và triển khai thực

hiện các chính sách ở Việt Nam, công tác TTCS ít đƣợc chú trọng, nếu có

cũng chỉ mang tính hình thức mà chƣa đi sâu vào thực chất. Việc phân định

chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm giữa các bên có liên quan trong vấn đề

TTCS chƣa rõ ràng, nên thiếu sự phối hợp giữa phóng viên với các nhà quản

lý, nhà khoa học, các trƣờng/viện. Từ đó, tạo ra khoảng cách truyền thông,

làm thông điệp không đúng hƣớng hoặc chƣa đƣợc thông suốt về nội dung,

quan điểm.

82

Năng lực TTCS của các chủ thể còn hạn chế. Trong mọi họat động yếu

tố con ngƣời luôn mang tính quyết định. Nhƣng hiện nay đội ngũ làm công

tác truyền thông ở Việt Nam còn hạn chế. Họ chƣa đƣợc đào tạo bài bản,

chuyên nghiệp về TTCS, đặc biệt họ chƣa nắm rõ đƣợc chuyên sâu lĩnh vực

KH&CN. Lãnh đạo nữ tại báo Dân trí cho biết: “Các phóng viên, biên tập

viên của báo Dân trí, hằng năm đều được tham gia học các lớp bồi dưỡng về

nghiệp vụ báo chí. Tuy nhiên, về mảng khoa học – công nghệ thì hầu như

chưa bởi vì đơn vị nào sẽ đứng ra đào tạo bồi dưỡng phóng viên về khoa

học?, họ tổ chức như thế nào? Thì báo chưa biết” [Phỏng vấn sâu].

- Về hiệu quả và hiệu lực truyền thông

Hiệu quả và hiệu ứng TTCS của các chính sách khác nhau, phụ thuộc

vào khả năng và năng lực cũng nhƣ nhận thức chủ quan của các chủ thể

chính sách.

Mặc dù với mọi nỗ lực thay đổi hình thức nội dung trong công tác

TTCS KH&CN cho SV, nhƣng qua kết quả phân tích số liệu khảo sát tỷ lệ SV

đánh giá nội dung chính sách KH&CN tại Phụ lục, có thể nhận thấy vẫn còn

một bộ phận SV chƣa nhận thức đúng đắn về chính sách KH&CN.

Trong đó, có 6% tỷ lệ SV đánh giá chính sách “không quan trọng vì SV

không sử dụng trong quá trình học tập”; 5,5% tỷ lệ SV đánh giá nội dung

chính sách KH&CN trên báo điện tử “không hữu ích”. Đặc biệt, vẫn còn

34,5% SV đánh giá chính sách “bình thƣờng” – nghĩa là có hay không có đều

không ảnh hƣởng. Đây là tỉ lệ không nhỏ chứng tỏ một bộ phận SV vẫn còn

thờ ơ với chính sách KH&CN.

Báo Dân trí là báo duy nhất khi tác giả khảo sát có thực hiện thể loại

“eMagazine” trong TTCS KH&CN. Tuy nhiên, báo đổi mới là một chuyện

còn việc công chúng nói chung hay SV nói riêng có tiếp cận nguồn thông tin

không thì lại là một chuyện khác. Bài eMagazine “Bộ Khoa học và khát vọng

xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam vươn ra thế giới” do tác

83

giả Sỹ Hùng thực hiện với chủ đề nhắc về sự lớn mạnh của hệ sinh thái khởi

nghiệp ở Việt Nam dù mới đƣợc hình thành trong 3 năm trở lại đây. Bài viết

cung cấp cho độc giả một lọat các thông tin chính sách để nói lên rằng Bộ

KH&CN đang quan tâm đến vấn đề này, nhƣ “Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” (Đề án 844), Đề án

“Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”, Đề án “Hỗ trợ phụ

nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025”; Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh đã phát động Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi

nghiệp” giai đoạn 2016-2021”... Ngoài ra, bài viết còn đƣa ra một lọat ảnh

về những họat động Đảng, Nhà nƣớc và Chính phủ đẩy mạnh khởi nghiệp tại

Việt Nam. Tuy nhiên, phần phản hồi, tƣơng tác với độc giả lại không hề có

một bình luận nào. Có lẽ thông điệp chính sách này về mặt hình thức, nội

dung đều chƣa đủ hấp dẫn, thỏa mãn đƣợc độc giả, đồng thời những độc giả

tiếp cận thông tin lại nằm trong số thờ ơ với chính sách. Để báo chí thay đổi

đƣợc nhận thức của độc giả không thể trong một sớm một chiều mà làm đƣợc

việc đó, điều này cần một quá trình lâu dài.

Nhìn chung, thông tin từ nguồn phát (chủ thể truyền thông), cho ra

thông điệp (sản phẩm báo chí TTCS KH&CN), qua kênh (Báo điện tử), tới

ngƣời nhận thông điệp (SV) đem lại hiệu quả (tiếp cận thông điệp chính sách

KH&CN, thay đổi nhận thức, quan điểm) là cả một chu trình đánh giá hiệu

quả TTCS cho SV trên báo điện tử. Trong chu trình đó, xuất hiện các yếu tố

ảnh hƣởng tác động đến hiệu quả TTCS KH&CN cho SV.

Trong các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả TTCS KH&CN cho SV trên

báo điện tử, qua khảo sát, phân tích cho thấy có: Yếu tố chủ quan của ngƣời

làm báo ảnh hƣởng đến hiệu quả TTCS KH&CN trên báo điện tử và yếu tố

khách quan ảnh hƣởng đến hiệu quả TTCS KH&CN cho SV trên báo điện tử.

84

2.4. Những nguyên nhân ảnh hƣởng đến truyền thông chính sách khoa

học và công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử hiện nay

2.4.1. Những nguyên nhân chủ quan

- Đối với cơ quan báo chí

Lãnh đạo nữ tại báo Dân trí cho biết:“Trên thực tế truyền thông

KH&CN nói chung và chính sách KH&CN nói riêng trên báo điện tử chỉ đáp

ứng được khoảng 30% nhu cầu thông tin đối với SV. Mặt khác, SV cũng là đối

tượng độc giả mà báo Dân trí quan tâm, nhưng qua theo dõi của chúng tôi

các bài viết về chính sách KH&CN được đăng tải lên website rất ít người đọc

so với những bài giải trí cho SV khác. Mà với báo điện tử thì lượng người đọc

vô cùng quan trọng gắn với sự phát triển và tồn tại của báo nên những lượng

bài có người đọc đông sẽ được chú trọng nhiều hơn. Tuy nhiên, báo vẫn đưa

đầy đủ các nội dung chính sách về KH&CN”[Phỏng vấn sâu].

Lãnh đạo chuyên mục Giáo dục, báo Giáo dục thời đại:“Việc truyền

thông cho các công trình nghiên cứu khoa học chưa nhiều mà chủ yếu là

những đề tài nóng, được giải thưởng lớn thì truyền thông sẽ tự tìm đến,

hoặc số ít những công trình có hợp tác với doanh nghiệp thì truyền thông

mang tính quảng bá hình ảnh cho doanh nghiệp là nhiều hơn. Vì vậy, một

số tin, bài KH&CN nói chung và chính sách KH&CN nói riêng còn mang

màu sắc xã hội hóa và làm theo đơn đặt hàng, nên góc độ phản ánh chưa

khách quan, chưa đa chiều”[Phỏng vấn sâu].

- Đối với phóng viên

Nhiều nhà báo, phóng viên làm nhiệm vụ TTCSKH&CN chƣa có vốn

kiến thức chuyên ngành để có thể thông tin chính xác, kịp thời các nghiên

cứu, ứng dụng, thành tựu KH&CN đến với công chúng. Một số phóng viên

không mấy say mê lĩnh vực này vì khô khan, khó viết và không “hot”, không

đƣợc đánh giá cao.

85

Phóng viên nữ, báo Vnexpress chia sẻ:“Việc khai thác thông tin xung

quanh chính sách đó cũng có phần khó khăn hoặc phóng viên chưa sáng tạo

trong TTCS do phụ thuộc vào tài liệu có sẵn. Chưa kể, phóng viên về lĩnh vực

KH&CN cần phải nắm chắc các thuật ngữ chuyên môn, để biến những ngôn

ngữ đó thành từ ngữ chuyên môn cho mọi đối tượng độc giả. Đồng thời,

phóng viên cần có những mối quan hệ thân thiết với chuyên gia trong nhiều

lĩnh vực để giúp những bài viết về chính sách có sự đánh giá đa chiều và chất

lượng hơn” [Phỏng vấn sâu].

2.4.2. Những nguyên nhân khách quan

- Cơ quan chủ quản, các trường đại học chưa quan tâm truyền thông

chính sách

Truyền thông về KH&CN trên báo điện tử hiện còn chƣa đƣợc phát

triển theo hƣớng đồng bộ, rộng khắp, vừa có trọng tâm, trọng điểm theo từng

giai đoạn, chủ đề, sát với nhu cầu thực tế. Nói đến nguyên nhân này,theo lãnh

đạo Bộ KH&CN cho biết: “Do hạn chế về nguồn lực, bao gồm nhân lực và

tài lực, nên hiệu quả chưa thực sự cao như mong muốn. Một bộ phận không

nhỏ người dân, kể các lãnh đạo các cấp, các ngành, địa phương, đặc biệt là ở

cấp huyện, cấp xã, chưa thực sự nhận thức đầy đủ về KH&CN, tiềm năng và

vai trò của KH&CN cho phát triển”[Phỏng vấn sâu].

Sự phối hợp truyền thông giữa cơ quan báo chí và cơ quan quản lý về

KH&CN, cũng nhƣ các nhà khoa học, các chuyên gia các doanh nghiệp, nhà

sản xuất chƣa thực sự gắn bó. Bộ chủ quan, các cơ quan nghiên cứu, doanh

nghiệp ứng dụng KH&CN, trƣờng viện chƣa quan tâm tới công tác truyền

thông. Các bài viết vẫn dựa trên những nguồn thông tin từ phía tòa soạn,

phóng viên chứ chƣa có việc điều tra từ phía nhu cầu độc giả, cụ thể là SV.

Bí thƣ Đoàn Thanh niên Trƣờng Đại học Công nghệ cho biết: “Hiệu

quả TTCS KH&CN cho SV trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa

cao. Có lẽ bởi hết các chính sách KH&CN đều được đưa tới các trường đại

học. Sau đó các trường đại học sẽ cho truyền thông tới các sinh viên thông

86

qua các đơn vị trong nhà trường, chứ chưa quan tâm đến truyền thông bằng

báo chí” [Phỏng vấn sâu].

- Về nội dung

Nội dung truyền thông chính sách KH&CN chƣa thực sự gần gũi với

từng đối tƣợng độc giả, chƣa biến đƣợc những con số, thuật ngữ khô khan

thành những thông tin gần gũi, hữu ích cho công chúng. Vì vậy, hình thức

truyền tải những chính sách KH&CN trên báo điện tử chƣa thu hút đƣợc SV.

Từ đó, việc tiếp nhận thông tin chính sách KH&CN của SV còn hạn chế.

Qua khảo sát tại thể loại tin, bài chính sách KH&CN trên 4 báo điện tử

khảo sát tại phẩn Phụ lục, cho thấy các tác phẩm báo chí chủ yếu đƣợc thể

hiện bằng phản ánh với 28 tác phẩm báo chí (chiếm 59,57%);tin tức là 15 tác

phẩm (chiếm 31,91%); phỏng vấn; phóng sự và emagazine với 4 tác phẩm

(chiếm 8,52%). Trong đó, các bài viết thể hiện bằng hình thức đồ họa mới và

bắt mắt nhƣ emagazine, infogaphic... thì rất hiếm, chỉ có 1 tác phẩm chiếm

2,13%.Có thể nhận thấy việc hình thức thể hiện bài viết của báo chí đối với

chính sách KH&CN không thu hút độc giả, đặc biệt đối tƣợng độc giả là sinh

viên - lứa tuổi thích sự mới mẻ và khám phá.

Ngoài ra, trong tổng số 47 tin bài TTCS KH&CN có duy nhất bài phản

ánh “Bộ Khoa học và khát vọng xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo

Việt Nam vươn ra thế giới”, của tác giả Sỹ Hùng đƣợc thể hiện bằng

emagazine. Tuy nhiên, bài viết này không nhận đƣợc lƣợt bình luận của công

chúng. Điều này chứng tỏ ngoài việc báo chí có cách thể hiện thức hình mới

thì nội dung cần có sự đầu tƣ về hình ảnh, thông tin đa chiều. Nếu không dù

bài viết thể hiện hình thức mới nhƣng hiệu quả truyền thông chính sách

KH&CN vẫn không cao.

87

Tiểu kết Chƣơng 2

Trong Chƣơng 2 tác giả đã thực hiện khảo sát 206 bài báo của bốn báo

điện tử VnExpress.net, Dantri.com.vn, Tuoitre.vn và Svvn.vn trong năm 2019

để phân tích số liệu, chủ đề và nội dung của các bài viết liên quan đến chính

sách KH&CN dành cho SV hiện nay. Qua khảo sát, phân tích số liệu và các

bài viết tiêu biểu tác giả đã đƣa ra những thực trạng TTCS KH&CN trên 04

báo điện tử, gồm 47 bài viết phản ánh về thông tin chính sách pháp luật; 50

bài viết giới thiệu những thành tựu nổi bật của khoa học; 20 bài viết tuyên

truyền những nhân vật điển hình trong KH&CN vào đời sống; 31 bài viết phổ

biến những giải thƣởng KH&CN; 18 bài viết về những hội nghị, hội thảo; 40

bài viết với chủ đề khởi nghiệp.

Tác giả đã đi sâu phân tích các yếu tố truyền thông, một số bài viết tiêu

biểu trong tổng số 47 tin bài chính sách KH&CN, thống kê 200 phiếu khảo

sát SV các trƣờng đại học để làm rõ yếu tố hấp dẫn, thu hút SV đối với các

bài viết về chính sách KH&CN. Thông qua việc tổ chức sản xuất bài viết dựa

trên việc lựa chọn chủ đề, thông điệp và nội dung bài viết để KH&CN đƣợc

SV tiếp cận nhiều hơn.

Tuy còn một số hạn chế do nguyên nhân khách quan và chủ quan,

nhƣng TTCSKH&CN trên báo điện tử đã có hiệu quả rõ ràng, tác động mạnh

mẽ vào cả hệ thống chính sách pháp luật, đồng thời góp phần kết nối giữa các

trƣờng đại học - viện nghiên cứu và doanh nghiệp hoặc giữa SV với các nhà

nghiên cứu nhằm tăng cƣờng đầu tƣ, cũng nhƣ nghiên cứu khoa học trong các

trƣờng đại học.

88

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI TRUYỀN THÔNG

CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CHO SINH VIÊN

TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Những vấn đề đặt ra đối với truyền thông chính sách khoa học và

công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử Việt Nam hiện nay

3.1.1. Những vấn đề chung

- Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với truyền thông:

TTCS nói chung và KH&CN nói riêng trong thời gian qua luôn nhận

đƣợc sự quan tâm của các cấp, ngành, coi TTCS là loại hình truyền thông cần

đƣợc ƣu tiên, đầu tƣ bên cạnh các loại hình truyền thông giải trí. Công tác này

đã đƣợc khẳng định trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nƣớc

nhƣ: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa

XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW) về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, định hƣớng xã hội

chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Luật KH&CN năm 2013 sửa đổi (Điều 48 của

Luật đã quy định về hoạt động truyền thông và phổ biến kiến thức KH&CN).

- Sự thay đổi về hệ thống, mô hình tổ chức báo chí

Thủ tƣớng Chính phủ đã phê duyệt “Quy hoạch phát triển và quản lý

báo chí toàn quốc đến năm 2025”, nhằm mục tiêu sắp xếp hệ thống báo chí

gắn với đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý báo chí

để phát triển hệ thống báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử. Trong đó, Nhà

nƣớc có cơ chế hỗ trợ phát triển một số báo điện tử chủ lực có kỹ thuật, công

nghệ hiện đại, tính tƣơng tác cao, phong phú về nội dung, có khả năng thu hút

công chúng, định hƣớng dƣ luận xã hội, nhất là trƣớc các sự kiện, vấn đề quan

trọng, phức tạp, nhạy cảm để phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền và

thông tin đối ngoại.

89

Điều này đã tạo thuận lợi cho TTCSKH&CN trên báo điện tử có cơ hội

tiếp cận gần hơn với công chúng. Ngoài ra, những cải cách về thể chế, chính

sách, đổi mới tƣ duy, hình thức làm báo theo kịp sự phát triển của KH&CN và

đòi hỏi của công chúng. Từ đó, giúp báo chí truyền thông trở thành ngƣời

bạn tin cậy của độc giả trên mọi mặt trận.

- Xã hội phát triển, độc giả có nhiều cơ hội tiếp cận với công nghệ số

Đời sống xã hội của ngƣời dân đã có những cải thiện, tín hiệu tích cực,

trình độ dân trí đƣợc nâng cao giúp ngƣời dân có nhiều điều kiện tiếp cận các

loại hình truyền thông trong nƣớc và quốc tế. Đặt biệt, sự bùng nổ của công

nghệ 4.0 và mạng internet giúp ngƣời dân nắm bắt thông tin, sự kiện trên

khắp mọi nơi một cách thuận lợi; dễ dàng kết nối giao lƣu với bạn bè.

Sự ổn định tình hình chính trị có vai trò quan trọng của công tác truyền

thông, nhất là TTCS nói chung và chính sách KH&CN nói riêng. Đó là công

cụ quyền lực thiết yếu, hiệu quả, tác động nhanh nhạy đến tâm thức quần

chúng. Đảng và Nhà nƣớc luôn dành những chính sách ƣu tiên đặc biệt cho

truyền thông qua các loại hình đa dạng đến các loại hình truyền thông đa

phƣơng tiện hiện đại ngày nay.

3.1.2. Những vấn đề cụ thể đối với truyền thông chính sách khoa học và

công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử Việt Nam

Tuy nhiên, TTCSKH&CN đang có những thách thức và khó khăn đối

với báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng.

- Thông điệp của chính sách cần được làm mới

Do tính đặc thù của chính sách KH&CN nên TTCSKH&CN thƣờng

mang tính chính trị, lý luận khô khan, trừu tƣợng nên việc tuyên truyền, phổ

biến chính sách gặp phải những trở ngại từ tâm lý tiếp nhận của công chúng.

Đặc biệt là SV hiện nay chỉ quan tâm nhiều đến những chủ đề về giải trí, thần

tƣợng, âm nhạc, trò chơi… điều này càng làm cho TTCS ít đƣợc công chúng

đón nhận. Thêm nữa là cách làm TTCS trong những năm qua của các cơ quan

90

báo chí thƣờng tuyên truyền một chiều với những khẩu hiệu, câu chữ không

mới nên thiếu sự hấp dẫn đối với công chúng.

- Lượt truy cập gây ảnh hướng đến sinh mạng của báo điện tử

Vấn đề “sống còn” của báo điện tử ngày nay chính là số lƣợng view của

một bài viết.“Nếu không thu hút, lôi kéo được công chúng đến với mình, các

tờ báo mạng điện tử sẽ chết (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ này)”

[29, tr.142].Theo cập nhật của Alexa - bảng xếp hạng uy tín cho các website

trong nƣớc, theo đó VnExpress giữ vị trí số 5, trung bình một độc giả xem

hơn 5 lần (5.41) hàng ngày tại VnExpress và tỉ lệ thoát trang này khá thấp chỉ

khoảng 43.40%. Báo điện tử Dân trí xếp thứ 11, với 6 giờ 40 phút là tổng thời

gian trong 1 ngày của một ngƣời dùng truy cập vào báo này [52].

- Mạng xã hội đang trở thành một trong những công cụ truyền thông

thu hút được nhiều sự quan tâm từ độc giả

Theo báo cáo của tổ chức Weare Social, năm 2019, tại Việt Nam

mạng xã hội tiếp tục phát triển với 62 triệu ngƣời dùng (chiếm 64% dân số

Việt Nam, tăng đến 7% so với năm 2018) [54]. Vớisự phát triển mạnh mẽ

của mạng xã hội cùngtính tƣơng tác cao với bạn đọc, tác động trực tiếp đến

tâm lý độc giả, đòi hỏi các cơ quan báo chí cần phải thay đổi về cách thức

truyền tải thông điệp tới công chúng. Đồng thời, theo dõi sát sao sự thay

đổi trong xu hƣớng và thói quen của công chúng để luôn có những điều

chỉnh phù hợp, kịp thời.

- Sự giảm sút về đạo đức của một số cơ quan báo chí, phóng viên

Bên cạnh những cơ quan báo chí có tôn chỉ, mục đích rõ ràng, họat

động lợi vì lợi ích cộng đồng thì vẫn có những cơ quan báo chí, phóng viên

họat động với mục đích thƣơng mại, đặt lợi ích vật chất lên trên hết. Chƣa kể

những họat động dạm dụng quảng cáo, trò chơi truyền hình dành nhiều thời

lƣợng phát sóng phim ảnh nƣớc ngoài khiến TTCS không phát huy đƣợc vị

thế, chức năng vốn có của mình.

91

- Trình độ nhận thức, tâm lý tiếp nhận chính sách của công chúng đang

gặp trở ngại vì khoảng cách địa lý, hoặc một bộ phận độc giả thờ ơ với những

vấn đề chung của đất nước

Trình độ nhận thức không đồng đều của ngƣời dân các vùng, miền cũng

là một trở ngại TTCSKH&CN khó đến đƣợc với đồng bào vùng sâu vùng xa.

Ở những vùng kinh tế khó khăn, ngƣời dân chƣa đƣợc tiếp cận với KH&CN,

chính sách đổi mới sáng tạo của Đảng và Nhà nƣớc nên chƣa ý thức, đồng

thuận những quan điểm đổi mới trong nhiều lĩnh vực. Từ những kẽ hở này

những thế lực thù địch đã lợi dụng để tuyên truyền kêu gọi đồng bào dân tộc

thiểu số có những hành động chống phá, ảnh hƣởng đến tình hình an ninh

chính trị, gây bất ổn xã hội.

Về tâm lý, ý thức của độc giả: Thực tế, không chỉ một bộ phận giới trẻ

không quan tâm đến tình hình chính trị của đất nƣớc mà một số ngƣời trong

đội ngũ cán bộ, nhà nghiên cứu, khoa học… thiếu quan tâm đến các chính

sách chung của Đảng và Nhà nƣớc để tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đây

cũng là một trong những trở ngại đối với TTCS trong việc tìm kiếm, chinh

phục thị trƣờng khán, thính giả có độ phân hóa cao nhƣ hiện nay.

TTCSKH&CN cần có những giải pháp đột phá, đổi mới mạnh mẽ để

đồng hành với từng đối tƣợng công chúng.

3.2. Giải pháp truyền thông chính sách khoa học và công nghệ cho sinh

viên trên báo điện tử

3.2.1. Đối với chủ thể, thông điệp, kênh và công chúng truyền thông chính

sách khoa học và công nghệ

- Về chủ thể truyền thông

TTCS KH&CN đƣợc nghiên cứu trong luận văn này là họat động thông

tin về chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về lĩnh vực

KH&CN cho SV. Họat động này hƣớng tới việc nâng cao nhận thức, vai trò

quan trọng và thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học trong SV. Có thể ví

92

TTCS là cây cầu kết nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nƣớc với cơ quan, đoàn

thể đến với công chúng.

Chất lƣợng truyền thông chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố nguồn phát

(cơ quan báo chí; nhà báo với trình độ năng lực, kỹ năng và tâm huyết), thông

điệp (với sức hấp dẫn, giá trị về nội dung, hình thức), kênh (phù hợp, phổ

biến, dễ dàng tiếp cận với nhiều công chúng), ngƣời nhận (công chúng với

khả năng tiếp nhận thông tin).

“Đảng và Nhà nước ta đã xác định rằng: người làm báo như một chiến

sĩ trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, nghĩa là phải tạo nên những thông tin có

khả năng thuyết phục, phải trao đổi với công chúng về những vấn đề kinh tế -

xã hội, văn hóa... Một trong những yêu cầu để cán bộ báo chí thực hiện tốt

công việc hằng ngày là được đào tạo và biết cách tích lũy, học hỏi kinh

nghiệm” [21, tr.225].

Bí thƣ Đoàn Thanh niên Trƣờng Đại học Công nghệ cho biết: “Những

chính sách, quan điểm phát triển mạnh mẽ về KH&CN của Đảng, Nhà nước

và Chính phủ đã giúp cho nhiều công ty, doanh nghiệp liên kết với các tổ

chức, cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc thi sáng tạo KH&CN, hỗ trợ khởi

nghiệp. Nhờ đó mà công tác truyền thông của các báo điện tử về các chính

sách KH&CN được chú trọng hơn và mang tính lan tỏa, tạo ra sân chơi cho

những SV đam mê khoa học” [Phỏng vấn sâu].

Tác giả đồng tình với nhận định trên và cho rằng nhà báo muốn họat động

một cách có hiệu quả phải xác định đƣợc nhiệm vụ công tác của bản thân. Đồng

thời, nắm vững tri thức về chức năng báo chí, tri thức về chính sách KH&CN,

xác định rõ trách nhiệm TTCS KH&CN của nhà báo là điều kiện và một trong

những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả TTCS.

Ngoài ra, còn chủ thể cần nhắc đến đó là các cơ quan ban hành, xây

dựng chính sách đƣa thông điệp đến với nhà báo. Theo lãnh đạo báo Giáo dục

thời đại chia sẻ: “Các bộ ban ngành, trường đại học, viện nghiên cứu muốn

93

đẩy mạnh công tác truyền thông KH&CN, cần phải có những cơ chế phát

ngôn cụ thể về thông tin KH&CN đến báo chí. Dựa trên cơ sở đó, các nhà

báo kết nối và hợp tác để xây dựng định hướng TTCS KH&CN hiệu quả. Nếu

chính sách, công trình khoa học mà xa rời thực tế, làm xong cất tủ thì không

còn ý nghĩa. Chỉ khi có sự kết hợp với truyền thông để xã hội hóa, đẩy mạnh

khả năng ứng dụng, các chính sách và sản phẩm KH&CN mới đem lại hiệu

quả hơn” [Phỏng vấn sâu].

Lãnh đạo chuyên mục Giáo dục, báo Giáo dục thời đại chia sẻ thêm:

“Những giá trị đạt được của KH&CN trong các trường đại học là một trong

những thước đo năng lực quản trị hiệu quả và ý thức phục vụ cộng đồng,

trách nhiệm của nhà trường với người học và xã hội. Có trường thực hiện tốt

các nhiệm vụ KH&CN, nhưng cũng có trường làm chưa tốt. Họ quên hoặc cố

tình lờ đi nhiệm vụ quan trọng của đại học là hoạt động nghiên cứu khoa học

và chuyển giao công nghệ. Những trường đại học đã có thành công trong

họat động KH&CN thì công tác truyền thông lại “khép kín” cả về họat động

lẫn chính sách. Chủ yếu chỉ là những đề tài nóng, được giải thưởng lớn thì

truyền thông tìm đến, hoặc số ít những công trình có hợp tác với doanh

nghiệp thì truyền thông mang tính quảng bá hình ảnh cho doanh nghiệp nhiều

hơn” [Phỏng vấn sâu].

- Về thông điệp

Trƣớc hết, chất lƣợng thông điệp là yếu tố quan trọng, quyết định lớn

đến sự thành công của họat động truyền thông. Tác phẩm báo chí về chính

sách KH&CN có chất lƣợng là những tác phẩm có thông tin nhanh chóng, kịp

thời các chỉ thị, nghị quyết…; thông tin thƣờng xuyên, liên tục về các chỉ thị,

nghị quyết… vì những văn bản này có vòng đời dài và triển khai thực hiện

cần thời gian dài, cho nên báo chí phải thƣờng xuyên thông tin nhắc lại để

công chúng và xã hội thấm nhuần tƣ tƣởng của các chính sách; thông tin đơn

giản, dễ hiểu; thông tin phù hợp từng loại hình báo chí; thông tin có tính phân

94

tích, chỉ dẫn nhằm định hƣớng, củng cố niềm tin, kêu gọi hành động; thông

tin sáng tạo về tình hình vận dụng và cụ thể hóa chủ trƣơng, đƣờng lối phù

hợp với tình hình thực tiễn ở mỗi địa phƣơng, đơn vị.

Đối với thông điệp, giải pháp đầu tiên là cần nâng cao chất lƣợng các

bài viết TTCS KH&CN trên báo điện tử. Khi thông điệp chính sách KH&CN

đƣợc đảm bảo độ tin cậy cao, hấp dẫn thì khi đó SV mới có thể tiếp cận.

Biểu đồ 3.1 Yêu cầu nội dung bài viết chính sách khoa học và công

nghệ trên báo điện tử

Kết quả khảo sát thể hiện trên Biểu đồ 3.1 cho thấy, có 30,43% sinh

viên đƣợc hỏi cho rằng, báo chí “cần có góc nhìn mới khi tiếp cận vấn đề

chính sách”. Có 22,83% ý kiến cho rằng “bài viết ngắn gọn, súc tích, dễ

hiểu”. Những kết quả của SV đƣa ra đƣợc tác giả đồng tình bởi vì bản thân

chính sách là những quy phạm, quy định pháp luật rất dễ gây nhàm chán, khô

cứng đối với bạn đọc, hơn nữa đối tƣợng hƣớng đến là sinh viên. Vì vậy, nội

dung bài viết cần viết ngôn ngữ dễ hiểu khác với ngôn ngữ học thuật dành cho

các nhà nghiên cứu; sử dụng góc nhìn của “SV” để viết về các thông điệp

chính sách. Điều này đồng nghĩa với việc, báo điện tử cần phát huy thế mạnh,

đặc trƣng của loại hình báo điện tử - đa phƣơng tiện với thông tin đa dạng,

hấp dẫn, có khả năng tƣơng tác cao.

Đối với nội dung, hình thức của báo điện tử, Trƣởng ban Giáo dục, Báo

điện tử Dân trí cho biết: “Dân trí có 2 trang dành cho SV là trang Giáo dục

95

và Nhịp sống trẻ, Du học. Một khoảng đất khá rộng để giới thiệu các hoạt

động SV, đời sống SV, đặc biệt có mục gương sáng giới thiệu các SV hiếu

học, SV có các nghiên cứu khoa học xuất sắc, sinh viên có hoạt động đoàn sôi

nổi… không chỉ các SV trong nước mà cả các SV Việt Nam ở nước ngoài.

Bước đầu, báo đã có những bài viết được triển khai và đầu tư nhiều về thiết

kế hình ảnh, đồ họa trong các bài viết KH&CN dưới thể loại emagazine hoặc

infographics. Những bức ảnh và video cho phép độc giả chia sẻ, kèm dữ liệu,

có thể tra cứu và tương tác trên các trang khác” [Phỏng vấn sâu].

Với kinh nghiệm làm việc hơn 10 năm tại Dân trí, Trƣởng ban Khoa

học – Giáo dục tiếp tục cho biết: “Từ khi thành lập báo điện tử Dân trí cho

đến nay, việc truyền thông về KH&CN nói chung và chính sách KH&CN nói

riêng đã được gắn liền với tôn chỉ, mục đích họat động của tờ báo. Báo dành

hẳn chuyên mục Khoa học để đưa tin và phản ánh các họat động KH&CN

như chính sách, các công nghệ, nghiên cứu khoa học trong nước và trên thế

giới” [Phỏng vấn sâu].

Về chất lƣợng thông tin, phóng viên nữ chuyên mục Giáo dục (báo điện

tử Vnexpress) chia sẻ: “Đôi khi phóng viên vẫn có xu hướng phụ thuộc vào

nguồn tài liệu có sẵn, nên sẽ không biến ngôn ngữ văn bản thành ngôn ngữ

phổ thông. Vì vậy, phóng viên trở nên thụ động, không có sự sáng tạo với

những bài viết liên quan đến chính sách nói chung và chính sách KH&CN nói

riêng” [Phỏng vấn sâu].

Một nữ lãnh đạo chuyên mục Khoa học – Giáo dục tại Báo điện tử Dân

trí chia sẻ: “Công tác TTCS KH&CN trong vài năm trở lại đây được các cơ

sở về khoa học đầu tư khá mạnh mẽ từ Bộ KH&CN, Viện nghiên cứu đến các

sở KH&CN địa phương, từ các trường đại học, cao đẳng với nhiều nội dung

tuyên truyền khá phong phú. Tôi thấy đã có trường đại học mạnh dạn đưa các

nghiên cứu, các hợp tác khoa học, các sản phẩm nghiên cứu, các thầy cô giáo

96

có công trình nghiên cứu khoa học…. đến các phương tiện truyền thông tạo

sự lan tỏa rất tốt” [Phỏng vấn sâu].

Để nâng cao chất lƣợng nội dung bài viết TTCS KH&CN trên báo điện

tử, để nhận đƣợc sự quan tâm từ phía sinh viên cũng cần có các giải pháp về

hình thức trình bày bài viết.Đặc biệt là sự bùng nổ thông tin nhƣ ngày nay, thì

SV sẽ có nhiều sự quan tâm về các thông tin khác nữa.

Biểu đồ 3.2 Yêu cầu hình thức trình bày bài viết chính sách khoa học và

công nghệ trên báo điện tử

Kết quả khảo sát thể hiện trên Biểu đồ 3.2, cho thấy báo điện tử cần

phải đầu tƣ hơn về hình ảnh, làm nổi bật yếu tố công nghệ khi thông tin

chính sách nhắc đến trong bài viết, với tỷ lệ 51,62% ý kiến đồng tình với

giải pháp này. Giải pháp “tăng số lƣợng các tác phẩm emagazine hoặc

infographic” nhận đƣợc tỉ lệ 24,35% ý kiến đồng tình và có 23,7% sinh

viên đƣợc hỏi cho rằng “cần đa dạng các thể loại báo chí trong cách thức

truyền thông chính sách”.

- Về kênh truyền thông

Vấn đề quản lý họat động TTCS KH&CN trên báo điện tửdựa trên sự

chỉ đạo, định hƣớng, kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý tƣ tƣởng và Nhà

nƣớc về báo chí. Theo Luật Báo chí hiện hành, ngƣời đứng đầu cơ quan báo

chí là Tổng biên tập (đối với báo in, báo điện tử), là Tổng giám đốc hoặc

97

Giám đốc (đối với báo nói, báo hình). Là ngƣời đƣợc cơ quan có thẩm quyền

xem xét, bổ nhiệm và giao trách nhiệm quản lý, điều hành một cơ quan báo

điện tử. Do đó, ngƣời đứng đầu phải có trách nhiệm là lẽ đƣơng nhiên vì

quyền đi đôi với trách nhiệm. Lãnh đạo cơ quan báo điện tử sẽ giao trách

nhiệm cho Trƣởng ban (Trƣởng phòng) chuyên trách về lĩnh vực KH&CN. Vì

vậy, để họat động TTCS KH&CN đạt hiệu quả cao, ngay từ đội ngũ quản lý

của báo điện tử phải có kiến thức nền chắc, hiểu sâu và nhạy bén, linh họat về

các vấn đề trong chính sách KH&CN.

Từ đó, mới đƣa ra những định hƣớng và kế họach cho TTCS cũng nhƣ

các sản phẩm báo chí trong lĩnh vực này đạt chất lƣợng cao và đảm bảo thực

hiện đúng tôn chỉ, mục đích họat động của cơ quan báo chí, cũng nhƣ theo

đúng định hƣớng phát triển KH&CN của Đảng, Nhà nƣớc, Chính phủ. Đồng

thời họ phải là những ngƣời khơi nguồn đề tài, vấn đề “nóng” trong chính

sách đang đƣợc Nhà nƣớc, công chúng đẩy mạnh và quan tâm giúp phóng

viên, biên tập viên phát huy đƣợc tính sáng tạo, tính thời sự trong tác phẩm.

Qua khảo sát sự phân bố của chủ đề KH&CN trên bốn báo điện tử, với

47 bài báo về khởi nghiệp chiếm 22,81% tổng bài viết trên báo. Đồng thời

cũng là chủ đề đứng thứ hai trong tổng số 206 tin bài về KH&CN. Điều đó

cho thấy, lãnh đạo cơ quan báo chí đã có sự nhạy bén đối với đề tài chính

sách đẩy mạnh khởi nghiệp của Đảng, Nhà nƣớc và Chính phủ. Đến ngày

18/2/2020, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-TTg về tạo

điều kiện cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Trong đó, có nhóm giải

pháp, nhiệm vụ đối với Bộ KH&CN “Tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án

Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025…”

[20],Bộ GD&ĐT“Nghiên cứu, đề xuất giải pháp khuyến khích khởi nghiệp

sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học, giải phápkết nối các trường đại

học với các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” [20].

Kết quả khảo sát tần suất SV đọc báo điện tử qua mạng xã hội tại Phụ

lục có thể cho thấy, các báo điện tử nên định hƣớng mở rộng kênh truyền

98

thông trên mạng xã hội. Dựa vào kết quả trên, có đến 99,5% SV đọc báo điện

tử bằng các trang mạng xã hội. Nghĩa là, 99% SV sử dụng mạng xã hội thay

vì cập nhật tin tức trên các báo điện tử. Do vậy, đây cũng là kênh TTCS

KH&CN hiệu quả mà báo điện tử có thể khai thác, phát triển để tiếp cận gần

hơn với SV. Qua đó có thể định hƣớng đƣợc các thông tin về chính sách của

SV trên mạng xã hội hiện nay.

- Về công chúng

TTCS lấy công chúng làm trung tâm đề cao vai trò của công chúng

trong quá trình chính sách. Mà công chúng cụ thể ở đây là đối tƣợng SV tại

các trƣờng đại học, cao đẳng cần nắm vững, cập nhật và năng lực tiếp nhận

những chính sách của KH&CN. Vai trò trung tâm của công chúng trong

quá trình chính sách thể hiện không chỉ ở việc SV là đối tƣợng của chính

sách mà còn là ngƣời tham gia quá trình chính sách, phản hồi về các lựa

chọn chính sách và đánh giá tác động của chính sách. Từ đó, TTCS

KH&CN cần xem xét đầy đủ các yếu tố về nhu cầu, tâm lý và hành vi tiếp

nhận thông tin của công chúng.

Trong khảo sát nhu cầu tìm hiểu thông tin KH&CN của SV trên báo

điện tử nêu tại phần Phụ luc, tác giả có thể nhận định nhu cầu tìm hiểu thông

tin của SV khá cao. Tỷ lệ SV đọc 3 báo điện tử trở lên chiếm 27%, 2 loại báo

với tỷ lệ 25,5%, cao nhất là tỷ lệ đọc 1 loại báo 44,5%. Điều này cho thấy, SV

có nhu cầu lớn về tìm hiểu thông tin.

Dựa vào khảo sát mức độ quan tâm của SV trên 4 báo điện tử tại Phụ

lục, có thể thấy số lƣợng báo Vnexpress (chiếm 79% tổng số SV khảo sát) và

Dân trí (chiếm 57%) đƣợc SV quan tâm nhiều nhất.

Tóm lại, để TTCS KH&CN đối với công chúng (đối tƣợng là SV) đạt

đƣợc hiệu quả các chủ thể truyền thông và chủ thể chính sách cần phối hợp

thực hiện các nghiên cứu về nhận thức, hiệu quả tiếp nhận thông tin chính

sách từ công chúng.

99

3.2.2. Đối với vấn đề nhiễu, phản hồi, hiệu quả và hiệu lực truyền thông

chính sách khoa học và công nghệ cho sinh viên

- Về nhiễu

Để chính sách KH&CN đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả trong

việc nghiên cứu, đánh giá năng lực thi hành chính sách từ phía cơ quan nhà

nƣớc thì việc xác định những rào cản (nhiễu) trong quá trình truyền thông để

tìm cách hạn chế càng nhiều càng tốt và năng lực tiếp nhận thông tin của công

chúng là vấn đề quan trọng.

Ngày nay, công chúng nói chung và SV nói riêng có rất nhiều mối

quan tâm nên có thể xuất hiện rào cản trong truyền thông về tâm lý của đối

tƣợng tiếp nhận (sự thờ ơ, thiếu quan tâm); nhiễu về tác động của môi

trƣờng xã hội (các thế lực thù địch dùng truyền thông chống phá Đảng, chế

độ…); nhiễu về trình độ năng lực của chủ thể truyền thông (thiếu kỹ năng

và đạo đức truyền thông)...

Đối với chủ thể truyền thông là báo điện tử, cần có các phóng viên

hiểu sâu về chính sách, luôn trau dồi đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng

chuyên môn.“Nếu nhà báo tôn trọng nhân phẩm của mình thì anh ta không

bao giờ lại bán rẻ lương tâm mình và luôn trung thành với các nguyên tắc

khách quan như luật “chơi trung thực”, là những gì điển hình cho báo chí

đích thực” [37, tr.38].

Để nâng cao năng lực tiếp nhận thông tin, tâm lý của công chúng mà ở

đây đối tƣợng là SV, các cơ quan ban hành chính sách KH&CN với báo chí

cần phải dùng “cầu nối” là các trƣờng đại học, Đoàn Thanh niên trong công

tác TTCS KH&CN đến từng SV bằng các kế hoạch, phƣơng thức truyền

thông cụ thể; truyền thông đa phƣơng tiện, liên tục với cƣờng độ cao và chất

lƣợng tin, bài pháp luật trên báo điện tử; tổ chức cho SV các cuộc thi tìm hiểu

chính sách KH&CN trên báo điện tử; giao lƣu trực tuyến trên báo điện tử về

từng chính sách cụ thể trong lĩnh vực KH&CN...

100

Bí thƣ Đoàn Thanh niên Trƣờng Đại học Công nghệ (Đại học Quốc

gia Hà Nội) đƣa ra đề xuất: “Cần tăng cường tổ chức các buổi chia sẻ

thông tin về chính sách cho SV như mời các diễn giả có uy tín và có vai

trò trong việc hoạch định các chính sách này tham gia vào diễn đàn;

thường xuyên, triển khai việc khảo sát, lấy ý kiến của SV về những chính

sách KH&CN; tổ chức các cuộc thi về KH&CN, trong đó lồng ghép thêm

các phần thi kiến thức có liên quan tới chính sách KH&CN; phát huy tối

đa vai trò cầu nối của Đoàn Thanh niên với các doanh nghiệp, tổ chức

trong việc lan tỏa các chính sách KH&CN dành cho SV; không ngừng tìm

kiếm các nguồn lực để hỗ trợ SV trong học tập và nghiên cứu khoa học”

[Phỏng vấn sâu].

Liên quan đến công tác tiếp nhận thông tin của SV, Bí thƣ Đoàn

Thanh niên Trƣờng Đại học Công nghệ cho biết thêm, "Hiện nay, các

chính sách KH&CN dành cho SV phần lớn đều được cung cấp cho SV

thông qua nhà trường qua các hình thức như email, website của nhà

trường, các khoa, phòng liên quan, qua các giảng viên… Vì vậy, SV đa số

chỉ tiếp nhận chính sách KH&CN từ phía các trường đại học”. [Phỏng

vấn sâu].

- Về phản hồi

Qua ý kiến phản hồi của công chúng (đối tƣợng là SV) trên báo điện tử

sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, cơ quan quản lý điều chỉnh hành vi,

chính sách phù hợp và sát với tình hình thực tiễn, tạo sự đồng thuận xã hội để

phát triển ổn định, bền vững. Nhƣng để thực hiện đƣợc việc SV nhận thức

chính xác thông điệp của chính sách cần các mô hình và giải pháp để tiếp

nhận, phân tích phản hồi của công chúng nhƣ mô hình chính phủ điện tử hay

các mô hình truyền thông ứng dụng công nghệ khác.

Bên cạnh báo chí, một kênh phản hồi mà báo chí hay các cơ quan ban

hành chính sách có thể sử dụng để nâng cao chất lƣợng TTCS KH&CN là

các trƣờng đại học. Theo lãnh đạo Ban KH&CN (Đại học Quốc gia Hà

101

Nội) cho biết: “Các trường đại học là nơi cung cấp phản hồi ý kiến của

người học về chính sách KH&CN đối với các cơ quan quản lý nhà nước

một cách hiệu quả nhất. Bởi vì, các trường đại học gắn liền với SV nhất

bằng các kênh truyền thông: trực tiếp trao đổi giữa cán bộ quản lý khoa

học với sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh; gián tiếp qua các

trang thông tin điện tử và các fanpage của Nhà trường cũng như của các

đơn vị” [Phỏng vấn sâu].

- Về hiệu quả

Hiệu quả của TTCS với các chỉ thị, nghị quyết… chỉ đƣợc xác định

bằng những chỉ số thay đổi trên thực tế ở đối tƣợng tiếp nhận, thông qua các

tiêu chí đánh giá hiệu quả truyền thông. TTCS Nhà nƣớc có thể tạo một diễn

đàn thảo luận công khai minh bạch, lắng nghe tiếng nói của SV nói riêng và

nhân dân nói chung, đồng thời đối thoại một cách cởi mở trƣớc khi hình thành

nên các phong trào xã hội.

Khi chính sách nhận đƣợc sự ủng hộ và đồng lòng của nhân dân, thì việc

thực thi mới thành công trong thực tiễn. Lúc đó, các cơ quan báo chí cần tiến

hànhcác cuộc điều tra xã hội học về nhu cầu và năng lực tiếp nhận các chính

sách ở các tổ chức, cá nhân. Các chƣơng trình nghiên cứu bằng việc đo đếm

hiệu quả truyền thông giúp cơ quan báo chí có định hƣớng thay đổi nội dung,

phƣơng thức và nâng cao TTCS. Ngoài ra, còn thu hút sự quan tâm của tổ

chức, cá nhân vào việc tìm hiểu, nắm bắt, thực hiện các chính sách Đảng, Nhà

nƣớc ban hành.

3.3. Một số khuyến nghị

3.3.1. Nhận thức tầm quan trọng của truyền thông chính sách khoa học và

công nghệ cho sinh viên

- Đối với lãnh đạo, quản lý

TTCSKH&CN là nghệ thuật thuyết phục công chúng. Nghệ thuật này

đòi hỏi cơ quan truyền thông nắm và hiểu rõ bản chất quá trình hay công nghệ

chính sách. Trên cơ sở ấy, thiết kế nội dung và phƣơng thức truyền thông phù

102

hợp, hiệu quả hƣớng đến từng nhóm công chúng nói chung và nhóm công

chúng là SV nói riêng, với những họat động, thông điệp và mục tiêu cụ thể.

Trong chiến lƣợc, phƣơng thức tiếp cận TTCS cần coi trọng công tác thăm dò

ý kiến công chúng.

Về vấn đề quản lý hoạt động truyền thông KH&CN ở góc độ quản lý tƣ

tƣởng và quản lý Nhà nƣớc trong hoạt động báo chí nói chung, báo chí về

KH&CN nói riêng, qua hệ thống văn bản pháp luật đồ sộ liên quan đến

KH&CN hiện nay, có thể thấy rằng Đảng và Nhà nƣớc đã thấy rõ vai trò quan

trọng của báo chí trong truyền thông về KH&CN.

Về vấn đề quản lý hoạt động truyền thông KH&CN trên phƣơng tiện

truyền thông đại chúng dựa trên sự chỉ đạo, định hƣớng, kiểm tra, giám sát

của cơ quan quản lý tƣ tƣởng và Nhà nƣớc về báo chí. Các cơ truyền thông,

báo chí sẽ chịu trách nhiệm pháp lý về đội ngũ nhà báo làm báo về chính sách

KH&CN. Để hoạt động TTCSKH&CN đạt kết quả cao, đòi hỏi ngay từ đội

ngũ quản lý phải có kiến thức nền chắc, hiểu sâu về chính sách KH&CN. Có

nhƣ vậy mới định hƣớng đƣợc các sản phẩm báo chí chất lƣợng cao mà vẫn

đảm bảo thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích của tòa soạn. Đồng thời cũng phải

linh hoạt, tạo điều kiện tốt nhất cho phóng viên, biên tập viên trong quá trình

thực hiện, để phát huy đƣợc cao nhất tính sáng tạo của tác phẩm.

Trên thực tế những nguyên nhân về việc phối hợp chƣa đồng bộ hay cơ

chế cung cấp thông tin cho báo chí chƣa rõ ràng vì chƣa nhận thức đƣợc tầm

quan trọng của TTCS, đã đƣợc Trƣởng ban chuyên mục Khoa học – Giáo

dục, báo Dân trí, khẳng định: “Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì

KH&CN là lĩnh vực họat động quan trọng, còn SV là một nguồn lực, đối

tượng quan trọng cần phải được đầu tư để mạnh mẽ để đáp ứng với thời

cuộc. Tại một số các trường đại học như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Giao thông vận tải…

công tác truyền thông về họat động KH&CN cho SV rất được quan tâm.

Trong khi đó, các trường đại học khác lại thờ ơ hoặc không quan tâm đến

103

truyền thông KH&CN cho SV. Cá biệt, có trường đại học nhiều năm trở lại

đây không có một thông tin về nghiên cứu khoa học nào của sinh viên như

ĐH Tài Nguyên môi trường, ĐH Công Đoàn, Học viện Báo chí và tuyên

truyền, ĐH Thương Mại, ĐH Thủy Lợi, Ngân hàng…. Hoặc nhiều trường đại

học khối ngành kỹ thuật khác” [Phỏng vấn sâu].

Trƣởng ban Khoa học - Giáo dục, báo Giáo dục thời đại cho

biết:“Công tác TTCS hướng đến SV nói riêng và công chúng nói chung luôn

được báo chí quan tâm. Cơ quan báo chí luôn mong muốn mang lại cho độc

giả những thông tin hữu ich, tuy nhiên việc này khó thực hiện vì thực tế nhiều

trường đại học, viện nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học khép kín.

Dường như họ không muốn sẻ chia thông tin với báo chí (trừ một vài công

trình thực tự có giá trị thực tiễn cao, gắn với đời sống xã hội). Các đề tài,

công trình khoa học và ngân sách luôn được các cơ quan ban hành chính

sách, trường đại học và viện nghiên cứu giữ kín.Tóm lại, chính việc cung cấp

thông tin không kịp thời hoặc coi nhẹ truyền thông là những rào cản, hạn chế

hiệu quả truyền thông của báo chí trong TTCS nói chung” [Phỏng vấn sâu].

- Đối với phóng viên, biên tập viên

Trƣớc hết, phóng viên và biên tập viên là những ngƣời trực tiếp đƣa

thông điệp, nội dung thông tin chính sách KH&CN đến với độc giả giúp cho

độc giả nói chung và sinh viên nói riêng xây dựng thế giới quan, phƣơng pháp

luận đúng đắn, nâng cao nhận thức về các chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và

Chính phủ.

Bởi vậy, những phóng viên phải xác định đƣợc TTCS, nâng cao nhận

thức cho nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác phát triển

KH&CN. Từ đó, báo chí trở thành “cầu nối” giữa ngƣời dân với chính sách

phát triển KH&CN của Đảng, Chính phủ và Nhà nƣớc. Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã nêu rõ: “Đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm.

Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại” [21, tr.162]. Qua

đó, phóng viên cần chủ động thực hiện, xây dựng các kế hoạch TTCS phù

104

hợp với từng nhận thức của đối tƣợng độc giả. Để chính sách có thể đến từng

độc giả phát huy đƣợc sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi nguồn

lực, quyết tâm đƣa đất nƣớc phát triển nhanh và bền vững dựa trên nền tảng

đẩy mạnh KH&CN.

3.3.2. Đổi mới cơ chế, chính sách và nguồn lực truyền thông chính sách

khoa học và công nghệ cho sinh viên

- Về cơ chế chính sách

Nhà nƣớc ban hành cơ chế phối hợp và quy chế phối hợp giữa các cơ

quan ban hành chính sách với các cơ quan báo chí trong việc

TTCSKH&CN đối với SV. Từ khâu công bố dự thảo, lấy ý kiến nhân dân,

thảo luận, tiếp thu ý kiến, chỉnh sửa và hoàn thiện chính sách, đến công bố

rộng rãi cho nhân dân.

Cần quy định những trƣờng hợp bắt buộc các cơ quan hoạch định chính

sách phải mời báo chí tham gia vào quy trình chính sách, quy định rõ ràng, cụ

thể về vận động chính sách; truyền thông rộng rãi, nâng cao năng lực của báo

chí trong phân tích, phản biện chính sách; thiết lập mối quan hệ tốt hơn giữa

báo chí với các cơ quan ban hành chính sách…

Song, để TTCS KH&CN đạt hiệu quả cao trên báo điện tử nói riêng và

các loại hình báo chí nói chung thì cần phải có thêm các chính sách hỗ trợ cụ

thể, tạo ra nguồn lực nhất định cho TTCS KH&CN nhƣ bố trí kinh phí tuyên

truyền vào đề tài, dự án của các nhà khoa học, kinh phí đào tạo nghiệp vụ

truyền thông cho cán bộ khoa học và phóng viên.

- Về kinh phí

Để có công cụ xác định đƣợc những chỉ số thay đổi trên thực tế đối với

công tác TTCS thì việc các cơ quan báo chí tiến hành các cuộc điều tra xã hội

học và các tiêu chí đánh giá hiệu quả truyền thông, cụ thể số lƣợng đối tƣợng

công chúng, SV cung cấp ý kiến phản hồi về việc tiếp nhận thông tin chính

sách; số lƣợng đối tƣợng công chúng, SV nhận thức tầm quan trọng, giá trị

105

của chính sách KH&CN, quan tâm và sẵn sàng tiếp nhận thông tin về chính

sách qua báo chí; số lƣợng đối tƣợng làm theo nội dung chính sách ban hành.

Việc điều tra hiệu quả tiếp nhận có thể đƣợc tiến hành theo định kỳ 1-2

năm/lần. Nhƣng công việc này không phải cơ quan báo chí nào cũng có điều

kiện thực hiện vì thiếu kinh phí. Vì vậy, cần sự quan tâm chính sách, hỗ trợ

kinh phí của cơ quan chủ quản, thậm chí là lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc đối với

họat động này.

- Về đào tạo và nhân lực

Muốn có những tác phẩm báo chí truyền thông hiệu quả về chính sách

KH&CN, đội ngũ nhà báo cần có những phẩm chất nhất định. Vì vậy, nhằm

nâng cao chất lƣợng đội ngũ phóng viên, biên tập viên phụ trách KH&CN, Bộ

KH&CN đã có chƣơng trình đào tạo riêng về kiến thức KH&CN thƣờng niên.

Phó vụ trƣởng Vụ Công nghệ cao (Bộ KH&CN), nhấn mạnh: “Điều đầu tiên

bản thân các phóng viên, biên tập viên phải nắm bắt chính xác về KH&CN để

từ đó có được sự chính xác trong các bài viết, các hoạt động truyền thông. Để

có thể có được thông tin chính xác, cần phải tiếp cận thường xuyên với các

nhóm nghiên cứu tại các trường đại học, kịp thời quảng bá các kết quả

nghiên cứu mới, đưa thông tin KH&CN đến từng người dân một cách dễ hiểu.

Thứ hai là, các cơ sở đào tạo, nghiên cứu báo chí – truyền thông cần đi đầu

trong việc tổng kết thực tiễn, xây dựng các chương trình, hình thức đào tạo

phù hợp, có như vậy mới đào tạo được đội ngũ nhà báo đáp ứng nhu cầu xã

hội” [Phỏng vấn sâu].

Trƣởng ban chuyên mục Khoa học – giáo dục (Báo Giáo dục thời đại), cho

biết “Việc hiểu biết chuyên sâu và đào tạo đội ngũ phóng viên của từng lĩnh

vực rất cần thiết đối với những tạp chí chuyên ngành để họ có thể đưa ra

những bình luận, bài viết phản hồi chính xác cho các chính sách trong lĩnh

vực đó”[Phỏng vấn sâu].

106

Tiểu kết Chƣơng 3

Trong chƣơng 3, tác giả đã tập trung phân tích những thách thức, vấn

đề đặt ra đối với TTCSKH&CN cho SV trên báo điện tử hiện nay.

Một trong những thách thức đối với TTCSKH&CN cho SV là nội

dung khô khan, chính trị. Bởi vì, bản thân chính sách mang tính chính trị,

lý luận khô khan, trừu tƣợng nên công tác truyền thông càng khó tiếp cận

đối tƣợng bạn đọc hơn. Do vậy, việc thay đổi nội dung và cách thức tuyên

truyền để phù hợp với nhận thức, sự tiếp nhận của SV trên các báo điện tử

về lĩnh vực KH&CN nói chung, chính sách KH&CN nói riêng là vấn đề

thiết yếu đƣợc đặt ra.

Hơn nữa, để cơ quan báo chí có cơ sở thay đổi nội dung trong TTCS

với các chỉ thị, nghị quyết… thì phải dựa vào hiệu quả truyền thông. Để làm

đƣợc điều này, các cơ quan báo chí cần tiến hành các cuộc điều tra xã hội học

về nhu cầu và năng lực tiếp nhận các chính sách ở các cá nhân.

Để giải quyết những thách thức và vấn đề trong TTCSKH&CN hiện

nay, bằng phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu, cùng với quan sát, phân tích các

nguyên nhân tác động đến, tác giả đã mạnh dạn đƣa ra sáu nhóm giải pháp

liên quan đến: chính sách, quản lý, đào tạo và nhân lực, nội dung, hình thức

và kinh phí. Hy vọng công tác truyền thông về chính sách KH&CN sẽ thực sự

phát triển tƣơng xứng với tiềm lực của mình.

107

KẾT LUẬN

Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận của đề tài nghiên cứu,

dựa vào khung lý thuyết, tác giả đã khảo sát, phỏng vấn anket, phân tích, kết

luận thành nhiệm vụ nghiên cứu luận văn “Truyền thông chính sách khoa

học và công nghệ cho sinh viên trên báo điện tử hiện nay”.

1.Chƣơng 1, tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tầm quan

trọng của TTCS KH&CN cho SV trên báo điện tử. Trong đó, tác giả đã luận

giải và đƣa ra khái niệm cụ thể về “chính sách, khoa học, công nghệ và truyền

thông về KH&CN; SV và báo điện tử”. Đồng thời, làm rõ cơ sở lý luận và

định hƣớng của Đảng, Nhà nƣớc, Chính phủ cùng Bộ KH&CN, Bộ

GD&ĐTtrong công tác TTCS KH&CN hƣớng đến SV trên báo chí. Đây

chính là hành lang pháp lý quan trọng cho các hoạt động TTCS KH&CN,

nhằm thông tin, quảng bá, hƣớng dẫn và thông tin, tạo cơ chế phản biện xã

hội về kết quả ứng dụng công nghệ mới.

2. Cho đến Chƣơng 2, qua quá trình nghiên cứu, kết hợp các phƣơng

pháp: Nghiên cứu tài liệu thứ cấp; Phƣơng pháp phân tích nội dung 206 tác

phẩm KH&CN trên 04 báo điện tử VnExpress.net, Dantri.com.vn, Tuoitre.vn

và Svvn.vn, trong đó có 47 bài viết phản ánh về thông tin chính sách

KH&CN; Phƣơng pháp phỏng vấn sâu phóng viên, biên tập viên, chuyên gia

quản lý KH&CN ở Bộ, trƣờng đại học; Phƣơng pháp điều tra xã hội học

phỏng vấn anket từ 200 SV các trƣờng Đại học Công nghệ, Đại học Bách

khoa Hà Nội và Học viện công nghệ bƣu chính – viễn thông về để làm rõ yếu

tố hấp dẫn, thu hút SV đối với các bài viết về chính sách KH&CN. Từ đó, tác

giả đánh giá đƣợc hiệu quả và nhu cầu đọc thông tin để đề xuất những cách

thức tiếp cận về hình thức, nội dung và chủ đề của chính sách KH&CN trên

báo điện tử dành cho SV ngày nay.

Kết quả khảo sát cho thấy,có đến 93,5% SV đánh giá chính sách

KH&CN rất quan trọng với lý do “là nền tảng phát triển KH&CN và hiện nay

108

xu thế 4.0 đang phát triển và thay đổi hằng ngày nếu chúng ta không nắm bắt

thì dễ bị tụt lại phía sau”. Và 94,5% SV cho biết “những thông tin về chính

sách hữu ích” đối với họ. Điều này thể hiện rằng, SV có nhu cầu thông tin và

nhận thức đƣợc tầm quan trọng của chính sách KH&CN.

Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu 56% SV cho rằng “Cần có góc nhìn

mới khi tiếp cận vấn đề chính sách” và 79% SV mong muốn “đầu tƣ về hình

ảnh, làm nổi bật yếu tố công nghệ trong thông tin về chính sách”.

Từ những kết quả nghiên cứu này, tác giả đƣa ra những yếu tố ảnh

hƣởng đến việc tiếp nhận thông tin về chính sách KH&CN của đối tƣợng độc

giả là SV. Cụ thể là hình thức chƣa hấp dẫn, nội dung còn mang tính chuyên

ngành, học thuật không phù hợp với thị hiếu của SV và điều này làm giảm

hiệu quả truyền thông về chính sách KH&CN với SV. Từ đó, tác giảđƣa ra

một số hạn chế là do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan.

3.Chƣơng 3 của luận văn, tác giả đã nêu và tập trung phân tích những

thách thức, vấn đề đặt ra đối với TTCSKH&CN cho SV trên báo điện tử hiện

nay. Trong đó, có phân tích một trong những thách thức đối với

TTCSKH&CN cho SV là việc thay đổi nội dung, hình thức phù hợp với việc

tiếp nhận thông tin của SV; nguồn thông tin của phóng viên; nhận thức của

một bộ phận giới trẻ; ý thức chính trị - xã hội...

4.Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của Chƣơng 1, Chƣơng 2, Chƣơng 3,

tác giả đã nêu ra giải pháp nâng cao chất lƣợng tin, bài TTCS KH&CN trên

báo điện tử; giải pháp khắc phục những yếu kém, khuyết điểm gồm sáu nhóm

giải pháp liên quan đến: chính sách, quản lý, đào tạo và nhân lực, nội dung,

hình thức và kinh phí. Cùng với đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị sau:

Một là,các cơ quan báo chí cần hƣớng đến việc tiến hành các cuộc điều

tra xã hội học về nhu cầu và năng lực tiếp nhận các chính sách ở các cá nhân.

Từ đó, hình thành công cụ để đo hiệu quả TTCS KH&CN đối với độc giả nói

chung và SV nói riêng.

109

Hai là, tiếp tục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của chính sách

KH&CN đối với SV. Tỉ lệ 26,1% số lƣợng tin bài truyền thông về chính sách

KH&CN trên 04 báo điện tử đƣợc khảo sát là con số cần đƣợc tăng lên.

Ba là, Bộ KH&CN cùng Bộ GD&ĐT cần đầu tƣ và đẩy mạnh nâng cao

chuyên môn về lĩnh vực KH&CN đối với đội ngũ phóng viên, biên tập viên

trong lĩnh vực này.

5.Luận văn chắc chắn sẽ còn một số hạn chế về phƣơng pháp nghiên

cứu khoa học, bởi vìtrong quá trình thực hiện tác giả còn gặp khó khăn khi

tiếp cận nguồn thông tin và tƣ liệu tham khảo từ phía Bộ KH&CN, Bộ

GD&ĐT. Trong khả năng của mình, tác giả đã nghiêm túc nghiên cứu để đƣa

ra đƣợc những đánh giá tổng quan nhất về bức tranh TTCSKH&CN cho SV

trên báo điện tử hiện nay thông qua 04 báo điện tử VnExpress.net,

Dantri.com.vn, Tuoitre.vn và Svvn.vn. Hy vọng luận văn sẽ có những đóng

góp nhất định góp phần hoàn thiện hơn hoạt động TTCS KH&CN trên báo

chí nói chung và báo điện tử nói riêng.

Tác giả rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của các nhà quản lý, các

nhà khoa học, các chuyên gia, những phóng viên, biên tập phụ trách chuyên

mục và các thầy, cô giáo và những ngƣời quan tâm đến KH&CN để tác giả

học hỏi, rút kinh nghiệm cho những nghiên cứu tiếp theo.

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu Tiếng Việt

1. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (1951), Chính

cương của Đảng Lao động Việt Nam.

2. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Nghị quyết

Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ III về nhiệm vụ và đường lối của Đảng

trong giai đoạn mới.

3. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Nghị quyết

Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ IV của Đảng, NXB Sự thật.

4. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết

Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ VI của Đảng, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

5. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết

số 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996 về Định hướng chiến lược phát triển

KH&CN trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến

năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Báo cáo

chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Kết luận

số 14-KL/TW ngày 26/7/2002 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung

ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa

học và công nghệ từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

8. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo

của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng, nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 tại Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111

9. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Nghị quyết

số 31-NQ/TW ngày 2/2/2009 về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp

tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo

chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,

phát triển năm 2011), NXB Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.

12. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Kết luận số

74-KL/TW ngày 17/10/2003 về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 và

nhiệm vụ năm 2014 và đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI

về kinh tế - xã hội, trọng tâm là ba đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu

nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng,NXB Chính trị quốc gia – sự

thật, Hà Nội.

13. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết

số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và

đào tạo, NXB Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.

14. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Quyết định số 2093/QĐ-BKHCN

ngày 14/8/2014 về Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí.

15. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Tuyển tập báo cáo các hội nghị khoa

học đổi mới về cơ chế chính sách khoa học công nghệ và truyền thông

khoa học công nghệ, NXB Khoa học và kỹ thuật.

16. Chính phủ (1996), Nghị định 63/CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp.

17. Chính phủ (2012), Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 phê duyệt

Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020.

112

18. Chính phủ (2014), Nghị định 11/2014/NĐ-CP ngày 18/2/2014 về họat

động thông tin khoa học và công nghệ.

19. Chính phủ (2014), Nghị định 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 về việc sử

dụng, trọng dụng cá nhân họat động khoa học và công nghệ.

20. Chính phủ (2020), Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 18/02/2020 về tạo điều

kiện cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

21. Dƣơng Xuân Sơn (chủ biên) (2011), Cơ sở lý luận Báo chí truyền thông,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

22. Hoàng Đình Cúc và Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện

đại, NXB Lý luận chính trị.

23. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng và Trung

tâm từ điển học

24. Hội Sinh viên Việt Nam (2003), Lịch sử phong trào học sinh, sinh viên

Việt Nam và Hội Sinh viên Việt Nam, NXB Thanh niên.

25. Khang Việt (2012), Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa.

26. Nguyễn Ngọc Cƣơng (2012), Công chúng tham gia diễn đàn báo mạng

điện tử, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

27. Lênin, V. I.(1955), Nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên, NXB Thanh niên.

28. Nguyễn Sơn Minh (2016), Báo điện tử với vấn đề xây dựng và phát triển nền

văn hóa Việt Nam hiện nay, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

29. Nguyễn Trí Nhiệm và TS Nguyễn Thị Trƣờng Giang (2014), Báo mạng

điện tử: Đặc trưng và phương pháp sáng tạo, NXB Chính trị quốc gia sự

thật, Hà Nội.

30. Nguyễn Văn Dững (2013), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lao động, Hà Nội.

31. Nguyễn Văn Dững và Hoàng Anh dịch (1998), Nhà báo, bí quyết kỹ năng

- nghề nghiệp (kinh nghiệm nghề nghiệp báo chí quốc tế), NXB Lao

động, Hà Nội.

113

32. Nguyễn Văn Thắng (2018), Hiệu quả tuyên truyền pháp luật cho cán bộ,

đảng viên trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay, Học viện Báo chí và

tuyên truyền.

33. Nhiều tác giả (2013), Tuyển tập báo cáo hội nghị khoa học báo chí với truyền

thông khoa học công nghệ, Hà Nội 9 2013, NXB Khoa học và kỹ thuật.

34. Nhiều tác giả (2017), Truyền thông chính sách: Kinh nghiệm Việt Nam và

Hàn Quốc, NXB Chính trị quốc gia sự thật.

35. Nhiều tác giả (2018), Truyền thông chính sách và đồng thuận xã hội,

NXB Chính trị quốc gia sự thật.

36. Nhiều tác giả (2019), Truyền thông chính sách và năng lực tiếp nhận của

công chúng, NXB Chính trị quốc gia sự thật.

37. Phạm Thành Hƣng (2007), Thuật ngữ báo chí – truyền thông, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội.

38. Philippe Breton và Serge Proulx (1996), Bùng nổ truyền thông - Sự ra đời

một ý thức hệ mới, NXB Văn hóa, Hà Nội.

39. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (1999), Luật Báo chí số

12/1999/QH10 ngày 12/6/1999 sửa đổi, bổ sung của một số điều của Luật

Báo chí.

40. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2000), Luật Khoa học và Công nghệ

số 21/2000/QH10 ngày 9/6/2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2012), Luật giáo dục đại học số

08/2012/QH13 ngày 18/6/2012, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

42. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2013), Luật Khoa học và Công nghệ

29/2013/QH13 ngày 18/6/2013,NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

43. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2016), Luật Báo chí số

103/2016/QH13 ngày 5/4/2016, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

44. Trung ƣơng Hội SV Việt Nam (2007), Định hướng giá trị cho SV trong

giai đoạn hiện nay, NXB Thanh niên.

114

45. Vũ Cao Đàm (2011), Một số vấn đề về quản lý KH&CN ở nước ta, NXB

Khoa học và kỹ thuật.

46. Vũ Cao Đàm (2018), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB

Giáo dục.

II. Tài liệu Tiếng Anh

47. Anders Hansen (2010), Environment, Media and Communication

Burns, T.W., O’Connor D.J. and Stocklmayer, S.M. (2003). Science

communication: a contemporary definition.

48. Borchelt, R.E. (2001). Communicating the Future: Report of the Research

Roadmap Panel for Public Communication of Science and Technology in

the Twenty-First Century.

49. MacMillan, English Dictionary for Advanced Learners.

50. Massimiano Bucchi (1998), Science and the Media

51. Martin W. Bauer, Massimiano Bucchi (2007), Journalism, Science and

Society: Science Communication Between News and Public Relations

III. Các website:

52. Alexa Ranking, Top các website nhiều ngƣời truy cập ở Việt Nam,

Alexa.com, https://www.alexa.com/topsites/countries/VN, 22/4/2020.

53. Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu, Có bao nhiêu phóng viên ở

EU?, Website Cơ quan thống kê Liên minh châu Âu,

https://ec.europa.eu/eurostat/web/products-eurostat-news/-/EDN-

20190503-2, 3/5/2019.

54. Hà Thu – Trƣờng Dƣơng, Infographic: Ngƣời Việt sử dụng mạng xã hội,

Internet và đồ công nghệ nhiều tới mức nào?, Chuyên trang Trí thức

trẻ,http://ttvn.toquoc.vn/cong-nghe/infographic-nguoi-viet-su-dung-mang-

xa-hoi-internet-va-do-cong-nghe-nhieu-toi-muc-nao-

2120191459552534.htm, 2019.

115

PHỤ LỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ SỐ LIỆU KHẢO SÁT

Thống kê chủ đề KH&CN được phản ánh tại 04 báo điện tử khảo sát

(bài)

Chính sách Nhân vật Khởi nghiệp Sản phẩm Giải thƣởng, học bổng Hội thảo, hội nghị

7 4 12 21 6 6 8 7 13 12 8 4

8 12 4 9 17 3

21 2 4 7 8 3 Chủ đề Báo chí Vnexpress Dân trí Tuổi trẻ online Sinh viên Việt Nam

Thống kế chủ đề chính sách KH&CN được phản ánh tại 4 báo điện tử khảo sát (bài)

Giải thƣởng, học bổng Sở hữu trí tuệ

Đẩy mạnh khoa học và công nghệ 2 7 Đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp 8 9 1 1 Công trình nghiên cứu 1 3 0 1

5 4 2 1 0

0 2 0 0 0 Chủ đề Báo chí Vnexpress Dân trí Tuổi trẻ online Sinh viên Việt Nam

Biểu đồ chủ đề các tin bài chính sách khoa học và công nghệ

116

Thông điệp truyền thông KH&CN của 206 bài viết được phản ánh

qua các thể loại báo chí (bài)

eMagazine

Thể loại Báo chí Tin tức Phản ánh Phỏng vấn Phóng sự chân dung

0 2 33 20 16 30 2 1 3 1 Vnexpress Dân trí

0 24 26 2 1 Tuổi trẻ online

0 22 20 2 1 Sinh viên Việt Nam

Thể loại của 47 tin, bài chính sách khoa học và công nghệ trên 4 báo điện tử khảo sát

Nội dung

Tin tức Phản ánh eMagazine Phỏng vấn Phóng sự chân dung Báo điện tử

1 1 6 14

5 4 6 0 1 0 0 1 0

0

6 2 0 0 0

0

Vnexpress Dân trí Tuổi trẻ online Sinh viên Việt Nam Hình thức thể hiện bài viết trên bốn báo điện tử (file)

Ảnh Video Âm thanh Hình thức Báo điện tử

2 0 0 28 60 16 0 16 0 Vnexpress Dân trí Tuổi trẻ online

0 4 0 Sinh viên Việt Nam

117

Số lượng ảnh, video, âm thanh được sử dụng trong thông điệp chính sách khoa học và công nghệ (file)

Ảnh

Nội dung Âm thanh/ Audio

Báo điện tử

28 60 16 4 Video 2 0 0 0 0 16 0 0 Vnexpress Dân trí Tuổi trẻ online Sinh viên Việt Nam

Tần suất sinh viên đọc báo điện tử qua mạng xã hội Thƣờng xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ

110 89 01

Nhu cầu tìm hiểu thông tin khoa học và công nghệ của sinh viên trên

báo điện tử

Số lượng báo điện tử

Tỷ lệ 44,5% 25,5% 27% 12% 1 loại báo 2 loại báo 3 loại báo trở lên Không đọc

Mức độ quan tâm của sinh viên đến 4 báo điện tử khảo sát

Báo điện tử

Tỷ lệ 79% 57% Vnexpress Dân trí

47% 36% 9% Tuổi trẻ online Sinh viên việt Nam Khác

118

Thể loại tin, bài chính sách khoa học và công nghệ trên bốn báo điện tử Emagazine Phỏng vấn Tin tức 1 2 15 Phản ánh 28 Phóng sự 1

Tỷ lệ sinh viên đánh giá nội dung chính sách khoa học và công nghệ trên báo điện tử

Không quan trọng

Bình thƣờng 34,5% 6% Không hữu ích 5,5%

Thông điệp truyền thông khoa học và công nghệ được phản ánh qua

các thể loại báo chí

Phỏng vấn lãnh đạo Bộ Khoa học & Công nghệ

Ông Đào Ngọc Chiến - Phó Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao – Bộ KH&CN 1) Xin ông cho biết những đánh giá hiệu quả truyền thông trên báo chí nói chung và báo điện tử cụ thể Vnexpress, Dân trí, Tuổi trẻ và SVVN hiện nay? Truyền thông chính sách KH&CN nhìn chung đã và đang được thực hiện ở mức tương đối tốt thông qua các kênh khác nhau, gồm báo giấy, báo điện tử và các hoạt động nâng cao nhận thức khác nhau. Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn lực, bao gồm nhân lực và tài lực, nên hiệu quả chưa thực sự cao như mong muốn. Một bộ phận không nhỏ người dân, kể các lãnh đạo các cấp, các ngành, địa phương, đặc biệt là ở cấp huyện, cấp xã, chưa thực sự nhận thức đầy đủ về KH&CN, tiềm năng và vai trò của KH&CN cho phát triển.

2) Những năm gần đây, Bộ KH&CN chú trọng đến truyền thông KH&CN, theo ông các đối tƣợng độc giả là SV cần đƣợc tiếp cận nhƣ thế nào? Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đang có nhiều hoạt động truyền thông được thực hiện nhằmnângcao nhận thức về vai trò,

119

tiềm năng của KH&CN đối với mọi người dân, đặc biệt là khuyến khích sự say mê, sáng tạo của sinh viên. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của đối tượng sinh viên tại các trường đại học luôn được quan tâm đặc biệt bởi vì đây là nguồn sáng tạo lớn cho phát triển KH&CN. Bộ KH&CN thường xuyên phối hợp với các Hội nghề nghiệp tổ chức các cuộc thi cho đối tượng sinh viên, có ưu đãi cho sinh viên tham gia các hội thảo, hội nghị chuyên ngành. Tại các Techfest hằng năm đều có cuộc thi, gian hàng dành riêng cho đối tượng nhà khoa học trẻ, sinh viên đại học.

3) Những năm gần đây, Bộ KH&CN chú trọng đến truyền thông KH&CN, theo Ông các đối tƣợng độc giả là sinh viên cần đƣợc tiếp cận theo hƣớng nhƣ thế nào (về nội dung, hình thức thông tin, thông điệp…)? Với sinh viên đại học, cần thiết phải tham gia các Lab nghiên cứu do các giảng viên dẫn dắt để có thể có được định hướng nghiên cứu phù hợp, có kết quả mới có thể công bố trên các tạp chí chuyên ngành. Do đó, Bộ KH&CN định hướng hỗ trợ cho các Lab nghiên cứu, trong đó sẽ khuyến khích sự tham gia của sinh viên đại học.

4) KH&CN ngày càng phát triển mạnh mẽ, trong bối cảnh ấy, phóng viên, biên tập viên phụ trách KH&CN cần làm gì để nâng cao hiệu quả truyền thông, thƣa Ông? Điều đầu tiên bản thân các phóng viên, biên tập viên phải nắm bắt chính xác về KH&CN để từ đó có được sự chính xác trong các bài viết, các hoạt động truyền thông. Để có thể có được thông tin chính xác, cần phải tiếp cận thường xuyên với các nhóm nghiên cứu tại các trường đại học, kịp thời quảng bá các kết quả nghiên cứu mới, đưa thông tin KH&CN đến từng người dân một cách dễ hiểu. Tiếp theo là các cơ sở đào tạo, nghiên cứu báo chí – truyền thông cần đi đầu trong việc tổng kết thực tiễn, xây dựng các chương trình, hình thức đào tạo phù hợp, có như vậy mới đào tạo được đội ngũ nhà báo đáp ứng nhu cầu xã hội.

Phỏng vấn Lãnh đạo các báo điện tử

* Bà Vũ Hồng Hạnh – Trưởng ban Giáo dục, Báo điện tử Dân trí 1. Những năm gần đây, khoa học và công nghệ đang có những bƣớc tiến mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến nhiều khía cạnh của đời sống xã hội, hoạt động truyền thông về khoa học và công nghệ cũng diễn ra sôi nổi và có vai trò to lớn trong thúc đẩy các hoạt động khoa học và công nghệ. Nhƣ vậy, Ông/Bà có quan điểm nhƣ thế nào đối với công tác truyền thông về KH&CN hiện nay của báo chí nói chung và cơ quan Ông/Bà nói riêng?

- Công tác truyền thông về KH&CN trong vài năm trở lại đây được các cơ sở về khoa học đầu tư khá mạnh mẽ từ Bộ KH&CN, Viện nghiên cứu đến các sở KH&CN địa phương, từ các trường đại học, cao đẳng với nhiều nội

120

dung tuyên truyền khá phong phú. Đặc biệt, ở các trường đại học, tôi thấy, đã chú trọng nhiều về vấn đề này, đã trường đã mạnh dạn đưa các nghiên cứu của mình, các hợp tác khoa học, các sản phẩm nghiên cứu, các thầy cô giáo có công trình nghiên cứu khoa học …. Tới các phương tiện truyền thông như các bản tin, trang web của nhà trường và báo chí, mạng xã hội… tạo sự lan tỏa rất tốt.

- Tại báo điện tử Dân trí, các thông tin mảng khoa học đã được cơ quan chú trọng từ khi xây dựng tờ báo vì gắn nhiều với tôn chỉ mục đích hoạt động của tờ báo.

- Báo đã có trang khoa học riêng, đưa tin và phản ánh về các hoạt động khoa học, các nghiên cứu trên thế giới và trong nước. Tuy nhiên, những thông tin khoa học trên thế giới chiếm nhiều hơn thông tin trong nước bởi vì nội dung các thông tin này phong phú, nhiều phát minh mới tiên tiến, độc, lạ thu hút độc giả nhiều. Còn các thông tin khoa học trong nước vẫn còn nhỏ lẻ, chưa có nhiều nội dung đặc sắc.

2. Truyền thông khoa học và công nghệ không chỉ hƣớng đến độc giả chung, mà còn có đối tƣợng là sinh viên, vậy cơ quan báo chí của Ông/Bà xây dựng định hƣớng truyền thông cho nhóm đối tƣợng này nhƣ thế nào hiện nay và trong thời gian tới?

Với đối tượng sinh viên, báo Dân trí có 2 trang dành cho đối tượng này là trang Giáo dục và Nhịp sống trẻ, Du học. Một khoảng đất khá rộng để giới thiệu các hoạt động sinh viên, đời sống sinh viên, đặc biệt có mục gương sáng giới thiệu các sinh viên hiếu học, sinh viên có các nghiên cứu khoa học xuất sắc, sinh viên có hoạt động đoàn sôi nổi… không chỉ các sinh viên trong nước mà cả các sinh viên Việt Nam ở nước ngoài.

Báo Dân trí, đang đầu tư về công nghệ, nội dung để các nội dung trên báo hấp dẫn hơn, phong phú về nội dung để thu hút bạn đọc, nhất là giới trẻ. Cụ thể là báo đang xây dựng những bài viết sử dụng nhiều hơn về đồ họa, ảnh, audio, video... để phù hợp với nhu cầu SV. Bước đầu, báo đã có những bài viết được triển khai và đầu tư nhiều về thiết kế hình ảnh, đồ họa trong các bài viết KH&CN dưới thể loại emagazine hoặc infographics. Những bức ảnh và video cho phép độc giả chia sẻ, kèm dữ liệu, có thể tra cứu và tương tác trên các trang khác.

3. Truyền thông chính sách KH&CN là họat động quan trọng nhƣng có ý kiến cho rằng hiệu quả truyền thông trên báo điện tử chƣa thực sự phát huy tốt với đối tƣợng độc giả là sinh viên, Ông/Bà có nhận định nhƣ thế nào về ý kiến này?

Nếu nói truyền thông trên báo điện tử chưa thực sự phát huy tốt với đối tượng độc giả là sinh viên thì chưa hẳn sát với thực tế, chỉ đúng khoảng 30%. Đây là lĩnh vực hoạt động quan trọng trong cách mạng CN 4.0, trong khi đó,

sinh viên là mộ t nguồ n lự c, đ ố i tư ợ ng quan trọ ng cầ n

121

phả i đ ư ợ c đ ầ u tư đ ể mạ nh mẽ đ ể đ áp ứ ng vớ i

thờ i cuộ c. Mặ c dù, các hoạ t đ ộ ng nghiên cứ u khoa họ c củ a

sinh viên trong các trư ờ ng đ ạ i họ c đ ã đ ư ợ c chú trọ ng,

đ ã đ ư ợ c các đ ơ n vị hàng nă m tổ chứ c các cuộ c thi xét

duyệ t, trao giả i các sinh viên xuấ t sắ c.

Với các báo, sinh viên là đối tượng độc giả rất quan trọng mà báo Dân trí chú trọng nhưng với nguồn thông tin về khoa học – công nghệ qua theo dõi của chúng tôi các bài viết về chính sách khoa học được đưa lên rất ít người đọc so với những bài giải trí cho sinh viên khác. Những bài về nghiên cứu khoa học phải thật đặc sắc mới có người đọc, ví dụ, sinh viên có bài báo công bố quốc tế, hay sinh viên nghèo, có hoàn cảnh đặc biệt, hoặc sinh viên đẹp trai, nhà giàu học giỏi, có nghiên cứu hoạt động khoa học đoạt giải thưởng thì mới có người đọc…

Với báo điện tử thì lượng người đọc vô cùng quan trọng gắn với sự phát triển và tồn tại của báo nên những lượng bài có người đọc đông sẽ được chú trọng nhiều hơn. Tuy nhiên, báo vẫn đưa đầy đủ các nội dung chính sách về khoa học – công nghệ.

4.Theo quan điểm của Ông/Bà, khó khăn trong công tác truyền thông

chính sách về KH&CN dành cho sinh viên có những yếu tố nào? Tại sao?

Tuy nhiên, các trường đại học lại chưa đầu tư trong việc tuyên truyền hoạt động nghiên cứu cho sinh viên, chỉ vài trường có nghiên cứu mạnh mới quan tâm tới vấn đề này như ĐH Bách khoa HN, ĐH QGHN, ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Giao thông vận tải… nên hầu hết các thông tin về nghiên cứu khoa học tập trung ở các đơn vị này trên báo Dân trí.

Chính vì vậy, các nguồn thông tin về sinh viên có thành tích nghiên cứu khoa học xuất sắc tới các báo không nhiều, thậm chí không có. Cá biệt, có trường đại học nhiều năm trở lại đây không có một thông tin về nghiên cứu khoa học nào của sinh viên như ĐH Tài Nguyên môi trường, ĐH Công Đoàn, Học viện Báo chí, ĐH Thương Mại, ĐH Thủy Lợi, Ngân hàng…. Và nhiều trường đại học khối ngành kỹ thuật khác.

5. Để nâng cao chất lƣợng các tác phẩm báo chí về khoa học và công nghệ nói chung và truyền thông chính sách KHCN hƣớng đến sinh viên nói riêng, thì vấn đề nhân lực rất quan trọng, vậy cơ quan đã có chƣơng trình đào tạo nhƣ thế nào cho phóng viên, biên tập viên phụ trách, thƣa Ông/Bà?

- Các phóng viên, biên tập viên của báo Dân trí, hàng năm đều được tham gia học các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ báo chí. Tuy nhiên, về mảng khoa học – công nghệ thì hầu như chưa bởi vì đơn vị nào sẽ đứng ra đào tạo bồi dưỡng phóng viên về khoa học?, họ tổ chức như thế nào? Thì báo chưa biết.

122

- Đối tượng sinh viên là đối tượng quan trọng và mảng khoa học và công nghệ cũng là vấn đề quan trọng trong thời cuộc CM CN 4.0. Do đó, báo sẽ đầu tư chú trọng đến các sản phẩm, đến các hoạt động phong trào nghiên cứu khoa học của sinh viên hơn trong thời gian tới.

*Ông Ngọc Dư – Trưởng ban chuyên mục báo Giáo dục thời đại 1.Những năm gần đây, KH&CN đang có những bƣớc tiến mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến nhiều khía cạnh của đời sống xã hội, hoạt động truyền thông về KH&CN cũng diễn ra sôi nổi và có vai trò to lớn trong thúc đẩy các hoạt động KH&CN. Nhƣ vậy, Ông/Bà có quan điểm nhƣ thế nào đối với công tác truyền thông về KH&CN hiện nay của báo chí nói chung và cơ quan Ông/Bà nói riêng?

Trả lời: Những giá trị đạt được của khoa học và công nghệ trong các trường đại học là một trong những thước đo năng lực quản trị hiệu quả và ý thức phục vụ cộng đồng, trách nhiệm của nhà trường với người học và xã hội. Có trường thực hiện tốt các nhiệm vụ KHCN, nhưng cũng có trường làm chưa tốt. Nguyên nhân có cả khách quan lẫn chủ quan. Nhưng không thể phủ nhận tầm nhìn hạn chế của một số ít trường vẫn loanh quanh với việc tuyển sinh và làm sao cho hết chỉ tiêu đã được xây dựng. Họ quên hoặc cố tình lờ đi nhiệm vụ quan trọng của đại học là hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Vì vậy, công tác truyền thông cho các công trình nghiên cứu khoa học chưa nhiều mà chủ yếu là những đề tài nóng, được giải thưởng lớn thì truyền thông sẽ tự tìm đến, hoặc số ít những công trình có hợp tác với doanh nghiệp thì truyền thông mang tính quảng bá hình ảnh cho doanh nghiệp là nhiều hơn. Một số tin, bài KH&CN nói chung và chính sách KH&CN nói riêng còn mang màu sắc xã hội hóa và làm theo đơn đặt hàng, nên góc độ phản ánh chưa khách quan, chưa đa chiều.

Các bộ ban ngành, trường đại học, viện nghiên cứu muốn đẩy mạnh công tác truyền thông KH&CN, cần phải có những cơ chế phát ngôn cụ thể về thông tin KH&CN đến báo chí. Dựa trên cơ sở đó, các nhà báo kết nối và hợp tác để xây dựng định hướng TTCS KH&CN hiệu quả. Nếu chính sách, công trình khoa học mà xa rời thực tế, làm xong cất tủ thì không còn ý nghĩa. Chỉ khi có sự kết hợp với truyền thông để xã hội hóa, đẩy mạnh khả năng ứng dụng, các chính sách và sản phẩm KH&CN mới đem lại hiệu quả hơn

2. Truyền thông KH&CN không chỉ hƣớng đến độc giả chung, mà còn có đối tƣợng là SV, vậy cơ quan báo chí của Ông/Bà xây dựng định hƣớng truyền thông cho nhóm đối tƣợng này nhƣ thế nào hiện nay và trong thời gian tới?

Trả lời: Công tác truyền thông chính sách hướng đến sinh viên nói riêng và công chúng nói chung luôn được báo Giáo dục thời đại quan tâm. Cơ quan báo chí luôn mong muốn mang lại cho độc giả những thông tin hữu

123

ich, tuy nhiên việc này khó thực hiện vì thực tế nhiều trường đại học, viện nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học khép kín. Dường như họ không muốn sẻ chia thông tin với báo chí (trừ một vài công trình thực tự có giá trị thực tiễn cao, gắn với đời sống xã hội).

3.TTCS KH&CN là họat động quan trọng nhƣng có ý kiến cho rằng hiệu quả truyền thông trên báo điện tử chƣa thực sự phát huy tốt với đối tƣợng độc giả là SV, Ông/Bà có nhận định nhƣ thế nào về ý kiến này?

Trả lời: Đúng là vậy, như trên đã nói. Các đề tài, công trình khoa học và ngân sách luôn được các cơ quan ban hành chính sách, trường đại học và viện nghiên cứu giữ kín. Trong khi, điều quan trọng để truyền thông có hiệu quả chính là các cơ quan này phải cởi mở với báo chí để chia sẻ thông tin. Đơn cử như một ngày hội khoa học của SV, nếu báo chí tham gia từ khi cuộc thi bắt đầu, cùng phát hiện và đưa những hình ảnh, công trình sang tạo, giá trị sẽ có ý nghĩa động viên lớn cho phong trào chung.

Tóm lại, chính việc cung cấp thông tin không kịp thời hoặc coi nhẹ truyền thông là những rào cản, hạn chế hiệu quả truyền thông của báo chí trong TTCS nói chung.

4.Theo quan điểm của Ông/Bà, khó khăn trong công tác TTCS về

KH&CN dành cho SV có những yếu tố nào? Tại sao? Trả lời: Khó khăn là do các trường không chia sẻ thông tin để báo chí đồng hành cùng. Việc đồng hành không chỉ là kêu gọi thay đổi, đầu tư chính sách mà còn là góp tiếng nói đưa sản phẩm ra ngoài xã hội.

5. Để nâng cao chất lƣợng các tác phẩm báo chí về KH&CN nói chung và TTCS KHCN hƣớng đến SV nói riêng, thì vấn đề nhân lực rất quan trọng, vậy cơ quan đã có chƣơng trình đào tạo nhƣ thế nào cho phóng viên, biên tập viên phụ trách, thƣa Ông/Bà?

Trả lời: Hiện nay, báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng cùng đội ngũ phóng viên nhanh nhạy, mỗi phóng viên luôn trang bị đầy đủ trang thiết bị và kỹ năng tác nghiệp trong xu thế 4.0. Mỗi cơ quan báo chí luôn có những phóng viên chuyên trách vấn đề chung của giáo dục hay giáo dục đại học, khoa học và công nghệ. Thực tế là những phóng viên này có hiểu biết căn bản về lĩnh vực bản thân theo dõi và phụ trách, tuy nhiên khi đi sâu vào từng lĩnh vực đề tài cụ thể thì luôn phải có ý kiến của chuyên gia để đảm bảo tính khách quan và độ chính xác cao của thông tin.Còn đối với việc hiểu biết chuyên sâu và đào tạo đội ngũ phóng viên của từng lĩnh vực rất cần thiết đối với những tạp chí chuyên ngành để họ có thể đưa ra những bình luận, bài viết phản hồi chính xác cho các chính sách trong lĩnh vực đó.

Phỏng vấn Phóng viên, Biên tập viênchuyên mục KH&CN

PV Dương Tâm – phụ trách lĩnh vực KHCN báo Vnexpress

1. Để một bài viết về chính sách KH&CN có thể thu hút đƣợc sự quan tâm của SV, theo Anh/Chị, công việc nào trong quá trình triển khai là quan

124

trọng nhất? Các thể loại thƣờng đƣợc sử dụng đối với bài viết của chuyên mục là gì?

Với các chính sách nói chung và chính sách KH&CN nói riêng, em thường làm tin trước sau đó sẽ có bài ý kiến từ nhiều phía. Điều quan trọng nhất đối với tin là phải diễn giải từ ngôn ngữ văn bản sang ngôn ngữ phổ thông để độc giả dễ hiểu, dễ tiếp nhận. Đây là công việc quan trọng và được Vnexpress đặc biệt chú ý. Ban đầu, khi làm ở ban Thời sự, em nghĩ đơn giản rằng những tin văn bản, tin chính sách sẽ được duyệt dễ dàng do nguồn tư liệu sẵn có, nhưng bài của em liên tục bị ban biên tập gửi trả về do chưa xử lý thành ngôn ngữ thông dụng. Nhờ vậy, các tin chính sách của Vnexpress thường thu hút nhiều lượt xem, comment từ độc giả. Sau khi hoàn thành tin, em thường triển khai thành những bài viết rộng hơn thể hiện bằng thể loại phản ánh, phỏng vấn với những ý kiến của cơ quan quản lý, chuyên giá đánh giá chính sách, quyết định, đề xuất… Những bài viết này sẽ giúp đưa đến góc nhìn đa chiều cho độc giả, giúp độc giả hiểu sâu hơn.

Nếu chính sách có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong toàn thể xã hội và có sự quan tâm của nhiều độc giả, phóng viên sẽ thể hiện nội dung bằng video, infographic để độc giả có được bức tranh toàn cảnh về chính sách.Công

chúng củ a xã hộ i hiệ n đ ạ i luôn cậ p nhậ t nhữ ng công nghệ

mớ i, nên cơ quan báo chí nói chung và phóng viên nói riêng đ ề u

phả i thay đ ổ i lố i tư duy và trư ở ng thành hơ n trong công

tác xử lý thông tin và hoàn thiệ n sả n phẩ m báo chí.

Việc khai thác thông tin xung quanh chính sách đó cũng có phần khó khăn hoặc phóng viên chưa sáng tạo trong TTCS do phụ thuộc vào tài liệu có sẵn. Ví dụ như bài ý kiến, nếu không tìm được chuyên gia hiểu sâu và quan tâm đến chính sách, ý kiến đưa ra sẽ nông, bài viết khó được đón nhận.Như vậy, phóng viên cần có những mối quan hệ thân thiết với chuyên gia trong nhiều lĩnh vực để giúp những bài viết về chính sách có sự đánh giá đa chiều và chất lượng hơn.

2. Theo đánh giá của Anh/Chị những bài viết về chính sách khoa học và công nghệ (hoặc chính sách nói chung) trên báo của Anh/Chị đã có tính lan tỏa đến độc giả nói chung và sinh viên nói riêng chƣa? (Anh/Chị hãy lấy ví dụ về bài viết có nội dung đƣợc phản hồi và lƣợng xem nhiều nhất từ phía độc giả (nếu có).

Tuỳ vào chính sách mà lượng độc giả khác nhau nhưng có thể thấy những chính sách liên quan mật thiết đến đời sống thì có độc giả nhiều hơn. Chính sách khoa học và công nghệ em thấy không nhiều độc giả. Điều này cũng dễ hiểu vì nó liên quan mật thiết đến một bộ phận nhất định thôi.

125

Độc giả bên em có đ ộ tuổ i trung bình tầ m 28-30 trở lên thì

phả i (cái này em ko nhớ lắ m). Vì vậ y, đ ộ c giả là sinh viên

tiế p nhậ n em thấ y có lẽ ít. Giờ sinh viên tiế p nhậ n qua

mạ ng xã hộ i nhiề u hơ n báo chí. (Cái này là cá nhân em thấ y). Còn ví dụ cụ thể thì em chưua có thời gian lọc ra ạ. Nhưng VNE đầu tháng nào cũng có bài “Chính sách nổi bật có hiệu lực từ tháng 1,2,3,4…”. Những bài này độc giả rất đông bởi nó tóm gọn, họ có thể tiếp nhận thông tin chính sách nhanh, cùng lúc.

3. Theo Anh/Chị các bài viết truyền thông chính sách KH&CN (hoặc chính sách nói chung) dành cho sinh viên có khác biệt nhƣ thế nào đối với các đối tƣợng độc giả là cán bộ khoa học, nhà nghiên cứu, giảng viên…?

Phóng viên về lĩnh vực KH&CN cần phải nắm chắc các thuật ngữ chuyên môn, bởi vì với cán bộ khoa học, nhà nghiên cứu, giảng viên, ngôn ngữ theo đúng văn bản họ vẫn có thể hiểu nhưng với sinh viên phải càng phổ thông càng tốt. Ngoài ra sự kiên trì đọc hết bài thì ko phải độc giả nào cũng có nên bọn em được yêu cầu đưa tất cả thông tin quan trọng lên đầu, đặc biệt là lead (dưới title), lead phải là trái tim của bài báo. (Yêu cầu này áp dụng với tất cả bài chứ không riêng bài nào).

Ngoài ra, với sinh viên, việc làm infographic và video để truyền tải

chính sách sẽ hiệu quả hơn.

Bên em có một cái là khi diễn giải thành tin hay bài thì văn bản gốc vẫn được đính kèm ở cuối bài để mọi người (chuyên gia, nhà khoa học…) có thể đọc chi tiết nếu muốn.

4. Là những Phóng Viên trực tiếp thực hiện bài viết, Anh/Chị có đề xuất và mong muốn gì để nâng cao hơn nữa chất lƣợng những bài viết về chính sách KH&CN dành cho SV nói riêng và độc giả nói chung?

Câu này em cũng ko biết đề xuất sao nữa. Cá nhân em thì thấy như báo em thực hiện bây giờ khá vừa và phù hợp. Về đối tượng sinh viên chắc chị phải tham khảo các tờ báo có độc giả là sinh viên sẽ dễ dàng hơn ạ.

Phỏng vấn Đoàn Thanh niên, Hội SV

● Bí thư Đoàn Thanh niên Trường ĐHCN: Nguyễn Ngọc Linh

1) Với tƣ cách là Bí thƣ Đoàn Thanh niên – 1 tổ chức gần gũi với mọi họat động và tinh thần của SV, anh có nhận xét thế nào trong công tác truyền thông về chính sách KH&CN dành cho SV trên báo điện tử hiện nay? - Hiện nay, các chính sách KH&CN dành cho SV phần lớn đều được cung cấp cho SV thông qua nhà trường qua các hình thức như email, website của nhà trường, các khoa, phòng liên quan, qua các giảng viên… - Đoàn Thanh niên là một tổ chức gần gũi với SV, chăm lo đời sống tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho đoàn viên, SV cũng luôn phối hợp trong

126

công tác truyền thông về các chính sách về KH&CN cho SV với những hình thức tương tự. - Ở khía cạnh các báo điện tử chính thống, bản thân tôi thấy còn nhiều hạn chế trong việc truyền thông về chính sách KH&CN cho SV. Nguyên nhân thì có lẽ bởi như tôi đã nói ở trên hầu hết các chính sách KH&CN thì đều được đưa tới các trường đại học. Sau đó các trường ĐH sẽ cho truyền thông tới các SV thông qua các đơn vị trong nhà trường. - Những chính sách, quan điểm phát triển mạnh mẽ về KH&CN của Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã giúp cho nhiều công ty, doanh nghiệp liên kết với các tổ chức, cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc thi sáng tạo KH&CN, hỗ trợ khởi nghiệp. Nhờ đó mà công tác truyền thông của các báo điện tử về các chính sách KH&CN của nhà nước được chú trọng hơn và mang tính lan tỏa, tạo ra sân chơi cho những SV đam mê khoa học. 2) Anh có đánh giá nhƣ thế nào về tầm quan trọng của công tác TTCS KH&CN cho SV hiện nay? Tại sao? - Trong thời đại khoa học và công nghệ bùng nổ như hiện nay, việc khích lệ SV tham gia nghiên cứu khoa học khi còn đang là SV đang ngồi trên ghế nhà trường là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong sự phát triển của khoa học và công nghệ không chỉ riêng ở Việt Nam mà là trên toàn thế giới. Chính vì vậy, việc truyền thông được các chính sách KH&CN tới được càng đông càng tốt các bạn SV sẽ là một liều dopping to lớn để các bạn SV đã và đang có đam mê khoa học sẽ mạnh dạn hơn nữa trong nghiên cứu KH&CN. 3) Theo anh, trong mối quan hệ giữa báo chí và bộ/ban ngành thì Đoàn Thanh niên đóng vai trò “cầu nối” nhƣ thế nào để nâng cao hiệu quả công tác TTCS KH&CN đến SV? - Như các bạn đã biết, nói tới Đoàn Thanh niên là nói tới tuổi trẻ năng động, sáng tạo, bản lĩnh và trách nhiệm. Đoàn Thanh niên luôn là cầu nối quan trọng giữa chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội với thanh niên, với tuổi trẻ chứ không riêng gì mối quan hệ giữa báo chí và Bộ Ban ngành và đặc biệt là với các bạn SV. Đoàn Thanh niên luôn có những cách làm sáng tạo, tiên phong và thậm chí là liều lĩnh trong việc hiện thực hóa những đề xuất, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhờ đó mà rất nhiều những chính sách KH&CN đã có thể được truyền tải một cách sâu rộng tới đoàn viên SV, khích lệ tinh thần ham học hỏi, đam mê nghiên cứu khoa học của giới trẻ ngày nay. Thông qua những phong trào, cuộc thi do Đoàn Thanh niên phối hợp phát động thì ngày càng nhiều các bạn SV đã mạnh dạn thể hiện mình trong lĩnh vực KH&CN. 4) Trong thời gian qua, Đoàn Thanh niên đã có những hình thức tuyên truyền để đẩy mạnh các họat động về KH&CN nói chung và tìm hiểu về chính sách trong lĩnh vực này nhƣ thế nào đến SV?

127

- Tổ chức các cuộc thi sáng tạo khoa học và công nghệ với quy mô lớn cùng với nhiều giải thưởng giá trị. - Tuyên truyền về những tấm gương sáng trong nghiên cứu KH&CN tới đông đảo đoàn viên, SV. - Có những hình thức vinh danh với những cá nhân đã đạt được nhiều thành tích suất xắc trong học tập, nghiên cứu khoa học. - Tổ chức các phong trào, cuộc vận động lớn vào những đợt cao điểm như tháng thanh niên, ngày khoa học và công nghệ quốc gia, … 5) Đối với SV, hoạt động hay chính sách KH&CN nào thu hút đƣợc sự quan tâm nhiều nhất của SV? - Hiện nay, các bạn SV tại các trường đại học về công nghệ vẫn nghiên cứu khoa học bằng niềm đam mê của bản thân là chính. Tuy nhiên, trong tương lai, để đảm bảo được sự phát triển KH&CN của đất nước thì cần rất nhiều những chính sách hỗ trợ của các cấp về nghiên cứu khoa học, học bổng, tài trợ khởi nghiệp, giải thưởng KH&CN. Và đặc biệt những chính sách này cần phải được truyền tải một cách trực tiếp, chính xác, sâu, rộng tới SV. Có như vậy mới có thể khuyến khích được các bạn SV tiếp tục cống hiến đam mê cho KH&CN. 6) Trong thời gian tới, Đoàn Thanh niên cần có những họat động thiết thực nhƣ thế nào để truyền thông đƣợc chính sách KHCN đến SV? - Bên cạnh hàng loạt những hoạt động thiết thực đã triển khai trong suốt thời gian qua cũng đã đem lại nhiều tín hiệu tích cực cho phong trào nghiên cứu khoa học trong đoàn viên, thanh niên, đặc biệt là các bạn SV, ĐTN sẽ cần phải tiếp tục đổi mới trong phương pháp, sáng tạo trong hành động để có thể truyền thông được chính sách KHCN đến SV. Một số hoạt động cụ thể: - Tăng cường tổ chức các buổi chia sẻ thông tin về chính sách cho SV. Mời các diễn giả có uy tín và có vai trò trong việc hoạch định các chính sách này tham gia vào diễn đàn. - Thường xuyên, triển khai việc khảo sát, lấy ý kiến của SV về những chính sách KH&CN. - Tổ chức các cuộc thi về KH&CN, trong đó lồng ghép thêm các phần thi kiến thức có liên quan tới chính sách KH&CN - Phát huy tối đa vai trò cầu nối của ĐTN với các doanh nghiệp, tổ chức trong việc lan tỏa các chính sách KH&CN dành cho SV. Không ngừng tìm kiếm các nguồn lực để hỗ trợ SV trong học tập và NCKH. Xin cảm ơn Anh!

Phỏng vấn lãnh đạo Khoa học và công nghệ

* Ông Vũ Tuấn Anh – Phó Trưởng ban Khoa học công nghệ,

ĐHQGHN

128

1. Hiện nay, phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) và truyền thông chính sách KH&CN đang đƣợc ƣu tiên, đẩy mạnh trong chính sách của Đảng, Nhà nƣớc. Vậy Ông/Bà có đánh giá nhƣ thế nào đối với công tác truyền thông chính sách KH&CN nói riêng và họat động KH&CN nói chung cho sinh viên tại Nhà trƣờng và trên báo chí?

Trả lời:

- Qua kênh trực tiếp: Trao đổi giữa cán bộ quản lý khoa học với sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh. - Qua kênh gián tiếp: Trang thông tin điện tử và các fanpage của VNU và của các đơn vị. 2.Theo đánh giá của Ông/Bà hiệu quả của công tác truyền thông chính sách đƣợc thể hiện nhƣ thế nào đối với từng đơn vị?

Trả lời: Sau khi có Nghị quyết số 20-NQ TW về phát triển KH&CN, Chiến lược phát triển KH&CN quốc gia đến 2020, Chỉ thị 16 CT-CP về chủ động tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ĐHQGHN đã chú trọng truyền thông phát triển các hoạt động nghiên cứu khoa học ứng dụng gắn với doanh nghiệp, hướng tới khởi nghiệp. Các kênh truyền thông gián tiếp và trực tiếp qua giảng viên, cán bộ, website, fanpage... đều được ĐHQGHN sử dụng, nhưng những kênh này chỉ giúp SV biết đến chính sách KH&CN đó. Còn các trường thành viên và Đoàn thanh niên là những đơn vị trực tiếp triển khai thực tiễn chính sách vào họat động đối với SV. Và trong đó, cơ quan báo chí góp một phần không nhỏ vào việc lan toả chính sách nói chung và triển khai chính sách vào thực tế nói riêng để mở rộng mô hình chính sách, giúp nhiều người học có cơ hội tiếp cận nhanh và đầy đủ hơn về lý thuyết lẫn thực tiễn đối với các chính sách về KH&CN

3.Ông/Bà có đánh giá nhƣ thế nào về vai trò kết nối của đơn vị trong công tác truyền thông chính sách KH&CN giữa SV với báo chí và bộ ban ngành các cấp?

Trả lời:Các nhà trường là nơi cung cấp phản hồi ý kiến của người học về chính sách khoa học và công nghệ đối với các cơ quan quản lý nhà nước một cách hiệu quả.

4. Hiện nay, có ý kiến cho rằng công tác truyền thông chính sách KH&CN trên báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng đối với SV còn nhàm chán chƣa hiệu quả, Ông/Bà có quan điểm nhƣ thế nào về đánh giá này?

Trả lời: Thực hiện theo đúng tinh thần định hướng của Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” của Thủ tướng chính phủ, ĐHQGHN đã triển khai mạnh công tác tuyền thông về tinh thần xây dựng quốc gia khởi nghiệp sáng tạo. Đối với những mảng hoạt động này ĐHQGHN đã tập trung quan tâm đến chính sách thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chính sách phát triển kết nối cung cầu công nghệ,… Cụ thể, ĐHQGHN triển khai sâu rộng đến toàn thể cán bộ, sinh viên về các kế hoạch

129

của Đề án 844, cuộc thi khởi nghiệp như “Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo – kết nối thành công”, “Thúc đẩy mô hình khởi nghiệp spin-off trong trường đại học”, “Kết nối ươm mầm khởi nghiệp”…; hoặc các khóa bồi dưỡng cho cán bộ tư vấn hỗ trợ SV khởi nghiệp. Bên cạnh đó, để thúc đẩy và hỗ trợ tốt hơn đối với khởi nghiệp ĐHQGHN còn thành lập Trung tâm chuyển giao tri thức và hỗ trợ khởi nghiệp.

5. Hiện nay, những khía cạnh nào của chính sách KH&CN mà SV có thể tiếp cận hiệu quả và ngƣợc lại đối với công tác truyền thông khai thác đƣợc trong chính sách?

Trả lời: Tuy nhiên, đối với những chủ đề khác của KH&CN như việc hỗ trợ SV tiếp cận các nguồn hỗ trợ về tài chính, cơ sở vật chất trang thiết bị nghiên cứu được quy định trong các chính sách. Đặc biệt là những nội dung chính sách trong lĩnh vực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và thúc đẩy nghiên cứu khoa học sinh viên, ĐHQGHN đang tiếp tục cần sự đầu tư hiệu quả hơn nữa trong công tác truyền thông đến cán bộ, SV.

Phỏng vấn độc giả Theo Anh/Chị, các tin bài về chính sách KH&CN có ý nghĩa như thế nào trong quá trình học tập? Các tin bài về chính sách KH&CN đã đáp ứng được nhu cầu độc giả chưa?

Phạm Mạnh Tuấn, SV năm thứ ba khoa CHKT&TĐH, Trƣờng ĐHCN cho biết, ngay từ năm thứ nhất em đã tham gia thực hành tại các phòng thí nghiệm của Nhà trường nên em rất quan tâm đến các vấn đề về KH&CN. Kể từ khi Đề án hỗ trợ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (gọi tắt là Đề án 844) được Nhà nước đẩy mạnh qua nhiều kênh truyền thông. Để phong trào nghiên cứu khoa học trong SV nâng cao chất lượng và số lượng, Nhà trường cũng lựa chọn đầu tư kinh phí cho một số công trình tiêu biểu, có khả năng triển khai ứng dụng thực tiễn, tính sáng tạo cao. Và sản phẩm“Nghiên cứu thiết kế hệ thống giám sát tự động, thời gian thực cho xưởng sản xuất nấm quy mô công nghiệp” của nhóm nghiên cứu đang được đầu tư kinh phí.Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với định hướng tương lai của nhóm nghiên cứu nói riêng và thúc đẩy phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học nói chung. Từ đó, những đề tài hay có nhiều cơ hội để phát triển thành sản phẩm thực tế, đóng góp vào sự phát triển của nền khoa học – công nghệ nước nhà. Để từ đó định hướng phát triển cơ hội nghề nghiệp cho bản thân.

Vũ Hƣơng Giang, SV năm thứ hai khoa Điện tử viễn thông, Trƣờng ĐHCN cho biết, bản thân em là người đam mê nghiên cứu khoa học nên em luôn tham gia và tìm hiểu về các cuộc thi trong lĩnh vực này. Cho nên, em cảm thấy báo chí và Nhà trường là hai kênh truyền thông có thể cung cấp cho em nhiều thông tin về chính sách cũng như các cuộc thi trong lĩnh vực KH&CN. Nhờ vậy, qua hai năm học tập, em đã “dắt túi” được nhiều thành tích khi tham gia các cuộc thi như “Đua xe dò đường X- CAR” năm 2018;

130

chương trình “Internet of Tomorrow DCAR” nằm trong chuỗi chương trình giao lưu, trao đổi và đưa ra các giải pháp, các sản phẩm về IoT-NFC tới các trường đại học; chương trình “Sakura Science Exchange Program” tại Trường Đại học Điện tử – Truyền thông Tokyo (University of Electro- Communications)… Và cuối cùng sau những cố gắng và nỗ lực em đã rất tự hào khi đạt Danh hiệu Nữ sinh viên tiêu biểu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ năm 2019 do TW Đoàn và Bộ KH&CN phối hợp tổ chức. Những hoạt động và trải nghiệm này giúp em có cái nhìn khác về những kiến thức thầy cô giảng dạy trên lớp, đồng thời bổ sung thêm những kiến thức ngoài sách vở. Những lý thuyết khô khan trên giảng đường khi biết cách vận dụng sẽ tạo ra những sản phẩm hữu ích.

Mẫu phiếu điều tra khảo sát (phát 200 phiếu) đến SV trƣờng Đại học Công nghệ, Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện Bƣu chính viễn thông Xin chào Anh/Chị Hiện nay, tôi đang làm đề tài luận văn nghiên cứu về “TTCSKH&CN cho SV trên báo điện tử Việt Nam hiện nay”. Rất mong anh/chị dành chút thời gian để trả lời bảng khảo sát này. Khảo sát này chỉ nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu. Tôi cam đoan rằng sẽ bảo mật tuyệt đối thông tin cá nhân của anh/chị! 1. Thông tin cá nhân - Họ tên: - Trƣờng: - SV năm thứ:

2. Anh/chị thƣờng tiếp cận thông tin chính sách KH&CN thông qua các kênh nào? a. Báo in b. Báo phát thanh c. Báo truyền hình d. Thƣ viện e. Sách KH&CN f. Các họat động của trƣờng đại học

2. Các anh/chị thƣờng đọc các báo điện tử nào sau đây?

a. Vnexpress.net b. Dantri.com.vn c. Tuoitre.vn d. Svvn.vn e. Khác

3. Anh/chị có sử dụng các trang facebook hay mạng xã hội để theo dõi tin tức KH&CNcủa các báo điện tử không?

a. Thƣờng xuyên b. Thỉnh thoảng

131

c. Không bao giờ

4. Những vấn đề nào anh/chị quan tâm khi cập nhật thông tin trên báo điện tử?

a. Thời sự b. Giáo dục c. Y tế d. KH&CN e. Văn hóa - Thể thao f. Khác

5. Nội dung về KH&CN mà các anh/chị hay theo dõi trên báo điện tử VnExpress liên quan đến vấn đề nào?

a. Sản phẩm ứng dụng b. Giải thƣởng c. Các gƣơng mặt tiêu biểu d. Học bổng e. Khởi nghiệp f. Chính sách

6. Nội dung về KH&CN mà các anh/chị hay theo dõi trên báo điện tử Dân trí liên quan đến vấn đề nào?

a.Sản phẩm ứng dụng b. Giải thƣởng c. Các gƣơng mặt tiêu biểu d. Học bổng e. Khởi nghiệp f. Chính sách

7. Nội dung về KH&CN mà các anh/chị hay theo dõi trên báo điện tử Tuổi trẻ liên quan đến vấn đề nào?

a. Sản phẩm ứng dụng b. Giải thƣởng c. Các gƣơng mặt tiêu biểu d. Học bổng e. Khởi nghiệp f. Chính sách

8. Nội dung về KH&CN mà các anh/chị hay theo dõi trên báo điện tử SV Việt Nam liên quan đến vấn đề nào?

a. Sản phẩm ứng dụng b. Giải thƣởng c. Các gƣơng mặt tiêu biểu d. Học bổng e. Khởi nghiệp f. Chính sách

132

9. Anh/chị đánh giá nhƣ thế nào về việc SV cần hiểu biết về chính sách KH&CN?

a. Quan trọng vì chính sách là nền tảng phát triển KH&CN b. Không quan trọng vì SV không sử dụng trong quá trình học tập c. Khác….

10. Mục đích tìm hiểu những nội dung về chính sáchKH&CN của anh/chị trên báo điện tử là gì?

a. Phục vụ học tập b. Nghiên cứu khoa học c. Giải trí d. Khác

11. Theo Anh/chị, tác phẩm về KH&CN đang đƣợc truyền thông bằng các thể loại báo chí nào? a. Bài phản ánh b. Phỏng vấn c. Tin tức d. Phóng sự gƣơng mặt tiêu biểu e.Infographic f. Emagazine 12. Anh/chị thấy các nội dung chính sách KH&CN trên báo điện tử Việt Nam hiện nay có hữu ích với bản thân không?

a. Hữu ích b. Không hữu ích c. Bình thƣờng

13. Lý do Anh/chị thích hay không thích các tin, bài về chính sách KH&CN nói riêng và lĩnh vực KH&CN nói chung trên báo điện tử? a. Thông tin chính sách đa dạng, nhiều chiều, thú vị b. Thông tin chính sách một chiều, kém hấp dẫn c. Bài viết chƣa có sự đầu tƣ, sáng tạo trong việc thể hiện nội dung d. Bài viết khó hiểu, dài dòng, nhiều thuật ngữ chuyên ngành e. Nhàm chán f. Ý kiến khác…

14. Theo Anh/chị, TTCSKH&CN trên báo điện tử cần thay đổi nhƣ thế nào về nội dung để thu hút đƣợc sự quan tâm của độc giả nói chung và SV nói riêng?

a. Cần có góc nhìn mới khi tiếp cận vấn đề chính sách b. Thông tin chính sách nhiều chiều c. Bài viết ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu d. Tăng số lƣợng bài viết về khoa học ứng dụng e. Tăng số lƣợng bài viết về tấm gƣơng nghiên cứu khoa học, học bổng và

tài trợ

133

f. Khác...

15. Theo Anh/chị, TTCSKH&CN trên báo điện tử cần thay đổi nhƣ thế nào về hình ảnh, thiết kế và cách thức thể hiện để thu hút đƣợc sự quan tâm của độc giả nói chung và SV nói riêng?

a. Đầu tƣ hơn về hình ảnh, làm nổi bật yếu tố công nghệ khi thông tin

chính sách nhắc đến

b. Tăng số lƣợng các tác phẩm e-magazine hoặc infographic c. Đa dạng các thể loại báo chí trong cách thức TTCS

134