ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------
LƢƠNG ANH NGỌC
TRUYỀN THÔNG PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS Ở CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH TUYÊN QUANG: MỘT TIẾP CẬN
NHÂN HỌC
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Dân tộc học Mã số: 60 31 03 10
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hƣơng
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lƣơng Anh Ngọc, học viên cao học chuyên ngành Dân tộc học khóa
QH-2012, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Tôi cam đoan rằng các kết quả nghiên cứu thực địa trình bày trong luận văn
thạc sĩ này đƣợc tôi thu thập trong quá trình điền dã tại các địa phƣơng. Mọi trích
dẫn và tham khảo từ nguồn tài liệu liên quan đều đƣợc chú thích đầy đủ. Cá nhân tôi
chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung trình bày, cũng nhƣ bất kỳ sai sót nếu có,
trong luận văn.
Hà Nội, tháng 08 năm 2015
Học viên
Lương Anh Ngọc
LỜI TRI ÂN
Trƣớc hết tôi xin đặc biệt bày tỏ lời tri ân sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Thu
Hƣơng, giảng viên Khoa Nhân học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội. Dƣới sự dìu dắt của cô, tôi đã xác định đƣợc rõ hƣớng
khai triển đề tài nghiên cứu cả về mặt nội dung lẫn phƣơng pháp tiến hành, cũng
nhƣ tự tu chỉnh các nếp lỗi của bản thân khi chập chễnh những bƣớc đầu tiên trên
con đƣờng nghiên cứu hàn lâm.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cá nhân nhƣ Bà Nguyễn Thu Hoàn –
chuyên viên Phòng Thanh tra Pháp chế (Trƣờng Đại học Tân Trào); Ông Lã Văn
Hào – phụ trách Phòng Lý luận Chính trị (Ban Tuyên giáo Tỉnh Ủy); Ông Hoàng
Đức Hợp – Phó Viện trƣởng Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Hàm Yên; Bà Phan
Ngọc Hƣơng – chuyên viên phòng Dân tộc huyện Hàm Yên; Bà Nguyễn Thị Khánh
Ly – giáo viên Trƣờng Trung học Cơ sở Bán trú Hùng Lợi; Ông Hoàng Lƣơng Đức
Hiệp; Ông Lý A Hùng; Ông Đặng Quốc Nghị - giáo viên Trƣờng Trung học Cơ sở
Công Đa trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đã tận tình cộng tác trong quá trình lựa
chọn mẫu nghiên cứu. Nghiên cứu này cũng khó khả thi nếu nhƣ không nhận đƣợc
sự hỗ trợ quý báu từ phía chính quyền địa phƣơng và đặc biệt là bà con ở các điểm
nghiên cứu thuộc huyện Yên Sơn và huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang.
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................................... 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ ........................................................................... 2
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài ............................................................................ 1
2. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu .................................................................................... 3
2.2. Địa bàn nghiên cứu ........................................................................................ 4
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
2.4. Hạn chế nghiên cứu ..................................................................................... 10
3. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 10
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ................. 11
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 11
1.1.1. Các nghiên cứu ở nƣớc ngoài ................................................................... 11
1.1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc ...................................................................... 15
1.2. Các khái niệm công cụ .................................................................................... 19
1.2.1. Phân biệt khái niệm HIV và AIDS ........................................................... 19
1.2.2. Định nghĩa truyền thông ........................................................................... 21
1.2.3. Khái niệm cộng đồng ............................................................................... 22
1.2.4. Khái niệm dân tộc thiểu số ....................................................................... 24
1.3. Các lý thuyết áp dụng ..................................................................................... 25
1.3.1. Lý thuyết về mô hình truyền thông của Claude Shannon ........................ 25
1.3.2. Lý thuyết truyền thông điệp cho đối tƣợng .............................................. 26
1.4. Sơ lƣợc về tình hình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Tuyên
Quang ..................................................................................................................... 28
Chƣơng 2: NHẬN THỨC VỀ TRUYỀN THÔNG PHÕNG CHỐNG HIV/AIDS
TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ: GÓC NHÌN NGƢỜI DÂN ......... 32
2.1. Nhận thức về bản chất HIV/AIDS .................................................................. 32
2.2. Nhận thức về con đƣờng lây nhiễm HIV ........................................................ 34
2.3. Nhận thức về biện pháp phòng chống lây nhiễm HIV ................................... 36
2.4. Nhận thức về HIV/AIDS trong so sánh tộc ngƣời.......................................... 38
Chƣơng 3: CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG TỪ GÓC ĐỘ “NGUỒN” .................. 49
3.1. Chủ trƣơng ...................................................................................................... 49
3.2. Thực tiễn hoạt động truyền thông ................................................................... 51
3.2.1. Từ thực hành gán nhãn ............................................................................. 51
3.2.2. Đến diễn ngôn “tệ nạn xã hội” ................................................................. 53
3.2.3. Đánh giá hậu truyền thông bị “bỏ ngỏ” .................................................... 55
3.2.4. Thiếu vắng phản hồi từ ngƣời dân ........................................................... 57
3.2.5. Tình trạng kiêm nhiệm trong phân bổ cán bộ .......................................... 59
3.2.6. Ùn đẩy trách nhiệm hay phối hợp liên ngành lỏng lẻo ............................ 61
Chƣơng 4: RÀO CẢN VÀ THÁCH THỨC – BÀI TOÁN KHÓ CHO ................... 66
NGƢỜI DÂN VÀ CÁN BỘ TRUYỀN THÔNG ..................................................... 66
4.1. Rào cản của ngƣời dân khi tiếp cận các chƣơng trình truyền thông .............. 66
4.1.1. Rào cản ngôn ngữ ..................................................................................... 66
4.1.2. Đa dạng tên gọi địa phƣơng về HIV/AIDS .............................................. 71
4.1.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém .............................................................. 74
4.1.4. Tài liệu truyền thông thiếu nhạy cảm văn hóa ......................................... 77
4.2. Khó khăn của cán bộ truyền thông ................................................................. 79
4.2.1. Thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở ............................... 79
4.2.2. Hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa đƣợc nâng cấp ............................................ 82
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 90
PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................................ 97
HIV
: Human Immunodeficiency Virus (Virus suy giảm miễn dịch ở ngƣời)
AIDS
: Acquired Immunodeficiency Syndrome (Hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải)
CTMTQG
: Chƣơng trình Mục tiêu quốc gia
VNĐ
: Việt Nam đồng
ARV
: Antiretroviral therapy (Liệu pháp kháng retro vi rút)
PEPFAR
: President’s Emergency Plan For AIDS Relief (Kế hoạch cứu trợ khẩn cấp về
AIDS đƣợc Tổng thống Hoa kỳ George W. Bush khởi xƣớng từ 2003)
UNAIDS
: United Nations Programme on HIV/AIDS (Chƣơng trình phối hợp của
Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS)
WHO
: World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)
WB
: World Bank (Ngân hàng Thế giới)
UNFPA
: United Nations Population Fund (Qũy dân số Liên Hợp Quốc)
VAAC
: Cục Phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam
GSO
: Tổng cục Thống kê Việt Nam
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ
Bảng 1: Thống kê các thành phần dân tộc tỉnh Tuyên Quang .................................... 4
Bảng 2: Thống kê các thành phần dân tộc huyện Yên Sơn và huyện Lâm Bình ........ 6
Bảng 3: Thiết kế mẫu nghiên cứu của luận văn .......................................................... 9
Bảng 4: Suy nghĩ và hiểu biết về HIV/AIDS của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu ... 33
Bảng 5: Suy nghĩ, hiểu biết của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu về con đƣờng lây
nhiễm HIV ................................................................................................................. 35
Bảng 6: Một số nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu về các biện pháp
phòng tránh lây nhiễm HIV....................................................................................... 37
Bảng 7: Nhận thức về bản chất bệnh HIV/AIDS của dân tộc Tày và dân tộc Hmông .. 40
Bảng 8: Nhận thức của ngƣời dân tộc Tày và dân tộc Hmông về các con đƣờng lây
nhiễm HIV ................................................................................................................. 41
Bảng 9: Nhận thức của hai nhóm Tày và Hmông về các biện pháp phòng tránh lây
nhiễm HIV ................................................................................................................. 42
Bảng 10: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và huyện
Lâm Bình về bản chất HIV/AIDS ............................................................................. 44
Bảng 11: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và huyện
Lâm Bình về các con đƣờng lây nhiễm HIV ............................................................ 45
Bảng 12: Nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số về các biện pháp phòng tránh lây
truyền HIV phân theo huyện ..................................................................................... 46
Bảng 13: Thực hành gán nhãn của cán bộ truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại
cộng đồng dân tộc thiểu số ........................................................................................ 52
Bảng 14: Cơ cấu chuyên môn của cán bộ truyền thông nghiên cứu ......................... 81
Biểu đồ 1: Tỷ lệ giao tiếp bằng ngôn ngữ địa phƣơng và ngôn ngữ phổ thông của
cộng đồng dân tộc thiểu số nghiên cứu ..................................................................... 66
Biểu đồ 2: Tỷ lệ tƣơng quan về tính cần thiết và sự sẵn sàng tham gia xây dựng tài
liệu truyền thông tiếng địa phƣơng của đối tƣợng nghiên cứu cán bộ truyền thông ... 70
Biểu đồ 3: Thái độ của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng đối với nội dung chữ
viết và hình ảnh trong các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS ............... 77
Biểu đồ 4: Sự hứng thú của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng đối với các hình
ảnh trong các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS ................................... 78
Biểu đồ 5: Số bác sĩ/1 vạn dân ở Việt Nam chia theo từng vùng năm 2012 ............ 80
Sơ đồ 1: Mô hình truyền thông của Claude Shannon ............................................... 26
Sơ đồ 2: Quy trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc
thiểu tố tại tỉnh Tuyên Quang.................................................................................... 58
MỞ ĐẦU
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
“Nhiều ngƣời dân tộc thiểu số vận chuyển heroin để đƣợc trả công bằng mấy
gói muối; thậm chí muốn ở tù vì có cơm ăn cả ba bữa; khi bị bắt vẫn không hề biết
vận chuyển ma túy là có thể bị tử hình. Sự “hồn nhiên” của đồng bào phải chăng là
do công tác tuyên truyền của chúng ta?”. Đó là những tổng kết đƣợc ông Lê Sơn
Hải - Thứ trƣởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc đƣa ra tại Hội thảo Đánh giá kết
quả công tác phòng chống tệ nạn ma túy, HIV/AIDS vùng dân tộc thiểu số giai đoạn
2011 – 2015. Nó gợi mở về một thực trạng cần xem xét của công tác truyền thông
phòng chống HIVAIDS cùng các vấn đề xã hội có liên quan trong cộng đồng dân
tộc thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt là khi tình hình HIV/AIDS đang có những diễn
biến phức tạp.
Tại Việt Nam, trƣờng hợp nhiễm HIV đầu tiên đƣợc phát hiện vào tháng 12
năm 1990 tại thành phố Hồ Chí Minh và đến năm 1993 thì HIV mới bắt đầu bùng
nổ thành dịch bệnh lớn (Phan Thị Thu Hƣơng, 2013). Theo số liệu báo cáo công tác
phòng chống HIV/AIDS của Cục Phòng chống HIV/AIDS (Bộ Y tế Việt Nam) đƣa
ra, tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2014, Việt Nam đã phát hiện 224.223 trƣờng hợp
ngƣời nhiễm HIV và 69.617 bệnh nhân AIDS hiện còn sống, 70.734 ngƣời tử vong
do AIDS, địa bàn đƣợc phát hiện có HIV lên tới 80,3% xã/phƣờng, gần 98,9%
quận/huyện và 100% tỉnh/thành phố ở Việt Nam (VAAC, 2014). Cũng theo báo cáo
trên, mặc dù tỷ lệ phát hiện trƣờng hợp ngƣời nhiễm HIV mới đã giảm hơn 10% so
với năm 2013, nhƣng số trƣờng hợp ngƣời nhiễm HIV mới vẫn tiếp tục tăng và địa
bàn phát hiện ngƣời có HIV/AIDS đang ngày càng lan rộng nhanh chóng, đặc biệt
là trong các nhóm dân tộc thiểu số (VAAC, 2014). Đầu năm 2013, Bộ Y tế tổng kết
số liệu báo cáo của 49 tỉnh, thành phố có các nhóm dân tộc thiểu số cƣ trú tập trung
nhiều nhất, cho thấy rằng đến thời điểm cuối năm 2013 có khoảng hơn 16.000
ngƣời dân tộc thiểu số nhiễm HIV/AIDS còn sống (Thanh Mai, 2014). Nhƣ vậy, dù
ngƣời dân tộc thiểu số chỉ chiếm khoảng 14% tổng dân số cả nƣớc, nhƣng số ngƣời
1
dân tộc thiểu số có HIV/AIDS chiếm tới gần 10% tổng số ngƣời có HIV/AIDS toàn
quốc (Hà An, 2014). Theo báo cáo của Bộ Y tế thì trong số 10 tỉnh của Việt Nam có
tỷ lệ nhiễm HIV/100 nghìn dân cao nhất năm 2012 có đến bảy tỉnh thuộc khu vực
miền núi phía bắc (Thanh Mai, 2014). Tổng kết công tác phòng chống HIV/AIDS
trên toàn quốc đến tháng 09/2014, Cục Phòng chống HIV/AIDS đƣa ra số liệu cho
thấy có những xã, thôn bản thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc có tỷ lệ nhiễm
HIV/AIDS cao gấp trên 10 lần so với tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trung bình toàn quốc
(VAAC, 2014). Tỉnh Tuyên Quang cũng là một trong 15 tỉnh trung du miền núi
phía Bắc đƣợc xếp vào nhóm dự báo có nguy cơ tăng nhanh và tăng cao tỷ lệ ngƣời
dân tộc thiểu số nhiễm HIV trong thời gian tới (Bộ Y tế, 2014). Đã có những
chƣơng trình truyền thông đƣợc triển khai trong các nhóm dân tộc thiểu số trên cả
nƣớc nói chung và tại tỉnh Tuyên Quang nói riêng, nhằm phổ biến kiến thức về
HIV/AIDS, giáo dục, thay đổi hành vi có nguy cơ lây nhiễm của ngƣời dân (VAAC,
2014). Tuy nhiên, kể từ năm 2012 đến nay số trƣờng hợp nhiễm HIV phát hiện mới
là ngƣời dân tộc thiểu số vẫn tiếp tục tăng lên và tập trung nhiều ở các huyện miền
núi phía Bắc và miền trung của Việt Nam (VAAC, 2014). Đặc biệt, theo báo cáo
gần đây nhất của Cục Phòng chống HIV/AIDS thì Tuyên Quang là một trong năm
tỉnh có số ngƣời nhiễm HIV tăng cao nhất so với cùng kỳ năm 2013 với tỷ lệ tăng
lên tới 137% (Bộ Y tế, 2014).
Tỷ lệ gia tăng số ngƣời lây nhiễm này lại diễn ra trong bối cảnh nguồn kinh
phí viện trợ cho hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam hiện
đang dần bị thu hẹp (VAAC, 2014). Thực tế ở Việt Nam, trong những năm qua
khoảng 70% kinh phí cho chƣơng trình phòng, chống HIV/AIDS và 90% kinh phí
mua thuốc kháng virút (ARV) cho ngƣời nhiễm HIV là nhờ vào sự hỗ trợ của các tổ
chức quốc tế; phần kinh phí còn lại là do trung ƣơng cung cấp (thông qua Chƣơng
trình mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê
duyệt), ngân sách nhà nƣớc ở địa phƣơng có thể huy động đƣợc, bảo hiểm y tế chi
trả, doanh nghiệp tự chi trả và ngƣời dân tự chi trả (VAAC, 2014). Bắt đầu từ năm
2014, phần lớn nguồn viện trợ từ nƣớc ngoài đã chấm dứt hoàn toàn kinh phí đầu tƣ
2
cho hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam (cắt giảm gần
nhƣ 100%); đồng thời, nguồn viện trợ chính từ Chƣơng trình Mục tiêu quốc gia cho
hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam cũng bị cắt giảm 60%, từ 43183 tỷ VNĐ năm 2013 xuống 17369 tỷ VNĐ năm 2014 (VAAC, 2014)1.
Có thể thấy rằng hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam
đang đứng trƣớc thách thức mới trong vấn đề huy động nguồn lực tài chính.
Trƣớc bối cảnh chính sách trên, tôi muốn thực hiện nghiên cứu này nhằm đi
sâu phân tích các hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng
dân tộc thiểu số thuộc tỉnh Tuyên Quang. Tôi tin rằng các phát hiện ban đầu từ
nghiên cứu này có thể góp phần đƣa ra một số khía cạnh thực tiễn phục vụ công tác
hoạch định chính sách, chƣơng trình can thiệp của các ban ngành hữu quan. Nhìn từ
góc độ học thuật, nghiên cứu này sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho các học giả,
sinh viên chuyên ngành, chuyên gia phát triển cộng đồng và những ngƣời làm công
tác truyền thông can thiệp.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn này là các hoạt động truyền thông phòng
chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại hai huyện Lâm Bình và Yên
Sơn thuộc tỉnh Tuyên Quang. Cần làm rõ rằng, tôi không xem xét tất cả các hình
thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại địa phƣơng. Tôi xem xét khái niệm
“truyền thông” ở đây bao gồm hai hình thức truyền thông là: (1) Truyền thông qua
hội họp thôn/xã và (2) truyền thông qua tài liệu phát tay. Đây là hai kênh truyền
thông phổ biến nhất tại các địa phƣơng trên toàn tỉnh do dễ triển khai và không đòi
hỏi phải đầu tƣ nhiều kinh phí. Hai hình thức truyền thông này đƣợc áp dụng chủ
yếu trong các chƣơng trình truyền thông sức khỏe nói chung và các chƣơng trình
truyền thông phòng chống HIV/AIDS nói riêng tại hai huyện Yên Sơn và Lâm
1 WB (2013): Việt Nam nằm trong danh sách các quốc gia nghèo nên nhận đƣợc nhiều nguồn viện trợ quốc tế cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS. Tuy nhiên, từ năm 2011 Việt Nam đã không còn trong danh sách các nƣớc nghèo (thu nhập bình quân đầu ngƣời là 1.260 USD, số ngƣời nghèo theo chuẩn Việt Nam vào khoảng 20%). Trong bối cảnh Việt Nam đã bƣớc vào ngƣỡng của một quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, các nguồn tài trợ cho Việt Nam sẽ đƣợc cắt, giảm để đầu tƣ cho các nƣớc nghèo hơn.
3
Bình. Bởi lẽ các hình thức truyền thông khác chƣa phổ biến tại các địa phƣơng. Ví
nhƣ kênh truyền thông qua loa phóng thanh thì chƣa đảm bảo số lƣợng loa phóng
thanh tại các thôn xã. Quan sát trên thực địa tôi thấy thƣờng các xã chỉ có một loa
phóng thanh loại lớn ở trụ sở ủy ban xã và các thôn có một loa phóng thanh ở nhà
văn hóa thôn (nhƣng không phải thôn nào cũng có loa phóng thanh). Hoặc nhƣ kênh
truyền thông qua thƣ viện hoặc tủ sách cộng đồng tại các địa phƣơng cũng có những
hạn chế riêng. Một số xã thuộc huyện Yên Sơn và Lâm Bình đã có tủ sách cộng
đồng đặt tại các điểm bƣu điện xã, ngƣời dân có thể đọc sách, báo, truyện… tại đây
miễn phí. Tuy nhiên số lƣợng sách chƣa phong phú, chủ yếu là sách kinh tế nông
nghiệp, các loại báo Nhân dân, Tiền phong, Ngƣời đại biểu nhân dân… Số lƣợng
ngƣời đến đọc sách và mƣợn sách rất ít. Còn nhƣ kênh truyền thông qua tivi thì
không phải hộ gia đình nào cũng có điều kiện kinh tế để sở hữu một chiếc tivi, đặc
biệt là ở các thôn/xã vùng sâu vùng xa.
2.2. Địa bàn nghiên cứu
Do điều kiện tài chính cũng nhƣ thời gian có hạn, tôi lựa chọn phạm vi nghiên
cứu ở hai huyện Lâm Bình và Yên Sơn (bản đồ địa giới hành chính tỉnh Tuyên
Quang xem ảnh 9 tại phụ lục ảnh. Hai huyện chọn mẫu đƣợc tô màu xanh đậm). Tôi
muốn chọn một huyện ở vị trí xa trung tâm thành phố nhất (Lâm Bình) và một
huyện ở vị trí gần trung tâm thành phố nhất (Yên Sơn) nhằm có những so sánh đối
chiếu, để có thể xem xét các khác biệt trong việc tiếp cận thông tin truyền thông
phòng chống HIV/AIDS của cộng đồng dân tộc thiểu số.
Bảng 1: Thống kê các thành phần dân tộc tỉnh Tuyên Quang2
Tổng số
Thành thị
Nông thôn
TT Dân tộc
Chung
Nam
Nữ
Chung
Nam
Nữ
Chung
Nam
Nữ
1
Kinh
334993 167093 167900
77684
38501
39183
257309 128592 128717
2
Tày
185464
92885
92579
11681
5494
6187
173783
87391
86392
3
Thái
348
231
117
89
52
37
259
179
80
4 Mƣờng
725
348
377
141
72
69
584
276
308
5
Khmer
34
17
17
5
4
1
29
13
16
2 Số liệu đƣợc lấy từ kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 của Tổng cục Thống kê Việt Nam.
4
Hoa
5982
3179
2803
1075
4907
2640
2267
536
539
6
Nùng
14214
7244
6970
13604
6926
6678
292
318
7
610
Mông
16974
8521
8453
53
16856
8456
8400
65
8
118
Dao
90618
45530
45088
1478
695
783
89140
44835
44305
9
10 Gia Rai
98
97
1
9
9
0
89
88
1
11
Ê Đê
95
73
22
14
6
8
81
67
14
12
Ba Na
15
14
1
4
4
0
11
10
1
13 Sán Chay
61343
30832
30511
1074
510
564
60269
30322
29974
14
Chăm
4
1
3
0
0
0
4
3
1
15
Cơ Ho
1
1
0
0
0
0
1
0
1
16 Xơ Đăng
7
3
4
2
1
1
5
3
2
Sán Dìu
12565
6361
6204
158
88
70
12407
6273
6134
17
18
Hrê
12
5
7
8
5
3
4
4
0
19
Raglay
4
3
1
0
0
0
4
1
3
35
18
20 Mnông
17
1
1
0
34
16
18
21
Thổ
15
4
11
0
0
0
15
11
4
22
Xtiêng
1
0
1
0
0
0
1
1
0
5
3
2
23 Khơ Mú
0
0
0
5
2
3
24
Cơ Tu
15
9
6
4
2
2
11
4
7
25
Giáy
74
7
56
37
37
18
11
30
26
26
Tà Ôi
4
3
1
0
0
0
4
1
3
3
3
0
27 Xinh Mun
0
0
0
3
0
3
28
Hà Nhì
1
1
0
0
0
0
1
0
1
29
Lào
1
1
0
0
0
0
1
0
1
30
61
39
La Chí
100
11
8
3
89
36
53
31
La Hủ
3
1
2
3
1
2
0
0
0
32
2
2
0
Pà Thẻn
877
444
433
875
442
433
33
Ngái
43
16
27
23
8
15
20
12
8
34
Lô Lô
11
3
8
1
1
0
10
8
2
35
Cơ Lao
69
28
41
2
1
1
67
40
27
36
Bố Y
18
12
6
2
2
0
16
6
10
37
Pu Péo
48
27
21
9
6
3
39
18
21
5
Về mặt địa giới, huyện Lâm Bình phía đông giáp với xã Sinh Long, xã Khâu
Tinh, xã Năng Khả (huyện Na Hang, Tuyên Quang); phía Nam giáp với xã Phúc
Sơn, xã Xuân Quang, xã Trung Hà (huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang); phía Bắc
giáp với xã Thƣợng Tân, xã Minh Ngọc, xã Phiên Luông (Bắc Mê, Hà Giang), xã
Linh Hồ (Vị Xuyên, Hà Giang); phía Tây giáp với xã Bạch Ngọc, Ngọc Minh (Vị
Xuyên, Hà Giang), xã Hữu Sản, xã Liên Hiệp (Bắc Quang, Hà Giang). Đây là
huyện cách xa trung tâm thành phố Tuyên Quang nhất (khoảng 100km), và cách
trung tâm thành phố Hà Giang khoảng hơn 100km đƣờng bộ.
Còn huyện Yên Sơn là huyện có vị trí ở gần với thành phố Tuyên Quang. Các
xã của huyện Yên Sơn tiếp giáp với địa giới thành phố: Xã Tân Long, Tân Tiến, Phú
Thịnh, Thái Bình, Tiến Bộ, Thắng Quân, Kim Phú, Hoàng Khai, Nhữ Khê… Tác giả
lựa chọn một huyện ở vị trí xa trung tâm thành phố nhất (Lâm Bình) và một huyện ở
vị trí gần trung tâm thành phố nhất (Yên Sơn) nhằm có những so sánh đối chiếu, để
có thể rút ra các kết luận về sự khác biệt trong tiếp cận thông tin truyền thông phòng
chống HIV/AIDS của cộng đồng dân tộc thiểu số dựa trên địa bàn sinh sống.
Bảng 2: Thống kê các thành phần dân tộc huyện Yên Sơn và huyện Lâm Bình3
Huyện Yên Sơn
Huyện Lâm Bình
TT
Dân tộc
Hộ
Hộ
Khẩu
Khẩu
1
Kinh
23698
195
844
88063
2
Tày
5649
4468
19333
23244
3
Dao
5419
1838
8645
24109
4
Sán Chay
4539
1
12
17917
5
Nùng
930
7
37
4091
6
Hoa
349
3
15
1329
7
Thái
13
1
8
71
8
Lô Lô
1
0
0
12
3 Số liệu điều tra tính đến tháng 01 năm 2014 do Ủy ban Nhân dân huyện Yên Sơn, Ủy ban Nhân dân huyện Lâm Bình, Ủy ban Nhân dân tỉnh Tuyên Quang cung cấp.
6
9
Hmông
1481
7568
390
2063
10
Pu Péo
12
65
0
0
11
Mƣờng
32
203
0
16
12
Thanh Y
3
0
0
4
13
Sán Dìu
5
0
0
37
14
Ê Đê
5
0
0
27
15
Khơ Me
3
0
0
10
16
Giáy
5
0
0
14
17
Pà Thẻn
13
80
412
43
18
La Chí
1
0
0
2
19
Pa Kô
1
0
0
4
20
Cơ Tu
1
0
0
4
21
Bố Y
2
0
0
16
22
Hơ Rê
1
0
0
3
23
Cơ Ho
1
0
0
1
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này kết hợp tiếp cận định tính và định lƣợng. Cụ thể là dữ liệu
nghiên cứu chủ yếu đƣợc thu thập trong quá trình điền dã Nhân học tại các địa bàn
đƣợc lựa chọn, dựa trên các phƣơng pháp phỏng vấn sâu cá nhân, quan sát tham gia
và thảo luận nhóm tập trung. Bên cạnh đó tôi cũng kết hợp sử dụng điều tra bảng
hỏi có cấu trúc về một số nội dung nhƣ kiến thức về HIV/AIDS của ngƣời dân, tỷ lệ
các ngôn ngữ đƣợc sử dụng phổ biến tại địa phƣơng, cơ cấu chuyên môn của cán bộ
truyền thông, thái độ của ngƣời dân đối với nội dung truyền thông bằng hình ảnh…
nhằm đƣa ra các phân tích mang tính định lƣợng. Nội dung trình bày trong luận văn
này là kết quả nghiên cứu rút ra từ 34 cuộc phỏng vấn sâu, chín buổi thảo luận
nhóm tập trung và 106 phiếu trả lời bảng hỏi có cấu trúc (64 phiếu trả lời của ngƣời
dân địa phƣơng, 42 phiếu trả lời của cán bộ truyền thông) với hai nhóm đối tƣợng
7
ngƣời dân và cán bộ truyền thông các cấp.
Về đối tƣợng ngƣời dân
Ở phạm vi nghiên cứu này, tôi nghiên cứu trƣờng hợp hai nhóm tộc ngƣời Tày
và Hmông. Tại Tuyên Quang, ngƣời Tày là nhóm dân tộc thiểu số chiếm ƣu thế hơn
cả về số lƣợng cũng nhƣ trình độ phát triển kinh tế - xã hội (Nguyễn Thu Hƣơng &
Nguyễn Trƣờng Giang, 2012). Trong khi nhóm ngƣời Hmông là nhóm dân tộc ít
ngƣời hơn và kém ƣu thế hơn (Nguyễn Thu Hƣơng & Nguyễn Trƣờng Giang,
2012). Nghiên cứu trƣờng hợp hai nhóm tộc ngƣời có thể làm sáng rõ những khác
biệt trong tiếp cận thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS.
Do các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS đƣợc triển khai tại
Việt Nam thƣờng hƣớng tới đối tƣợng trong độ tuổi từ 15 - 49 nên luận văn này cũng giới hạn mẫu nghiên cứu ngƣời dân ở độ tuổi từ 15 - 494.
Tại mỗi huyện, tôi áp dụng phƣơng pháp trái bóng tuyết qua sự giới thiệu của
một số ngƣời quen ở địa phƣơng để tìm kiếm và lựa chọn thông tín viên tại 4 xã
tham gia phỏng vấn sâu cá nhân. Tại mỗi xã tôi thực hiện phỏng vấn sâu với hai
ngƣời dân bao gồm một nam và một nữ. Đồng thời 02 thảo luận nhóm cũng đƣợc
tiến hành ở mỗi huyện. 64 ngƣời dân thuộc 8 xã này cũng tham gia trả lời bảng hỏi
phỏng vấn có cấu trúc.
Về đối tƣợng cán bộ truyền thông
Thực tiễn tại các địa bàn nghiên cứu cho thấy với công tác truyền thông, thì ở
mỗi cấp lại có sự tham gia của đại diện các ban ngành khác nhau: Trung tâm y tế, trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe, phòng dân tộc5. Do đó, để vận dụng linh
hoạt theo từng cấp quản lý, tôi cố gắng tiếp cận những cán bộ truyền thông có thể
4 Cục Phòng, chống HIV/AIDS (2014): Do số ngƣời nhiễm HIV/AIDS ở độ tuổi từ 15-49 chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhóm tuổi nên các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS thƣờng hƣớng đến đối tƣợng thuộc nhóm tuổi này. Trong năm 2013, ba nhóm tuổi có số ngƣời nhiễm HIV/AIDS cao nhất là: 20-29 (32.9%), 30-39 (45,1%), 40-49 (13,7%). 5 Ở cấp tỉnh đó là cán bộ thuộc các đơn vị cụ thể: Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe, Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS, Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm Phòng chống các bệnh xã hội. Ở cấp huyện là cán bộ thuộc các đơn vị: Trung tâm Y tế huyện, Phòng Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Phòng Dân tộc, Phòng Văn hóa và Thông tin, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Huyện đoàn. Ở cấp xã/thôn thì cán bộ truyền thông là cán bộ y tế xã/thôn, cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, không có cán bộ truyền thông chuyên biệt.
8
thuộc các ban/ngành khác nhau, nhƣng trực tiếp thực thi hoặc có trách nhiệm chỉ
đạo tổ chức, thực hiện truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân tộc
thiểu số.
Bảng 3: Thiết kế mẫu nghiên cứu của luận văn
Phƣơng pháp nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu
Tổng cộng
Cấp huyện
Cấp tỉnh
Yên Sơn
Lâm Bình
15
15
34
4
Phỏng vấn sâu cá nhân (cuộc)
16
0
Người dân (cuộc)
8
8
8
0
Nam (ngƣời)
4
4
8
0
Nữ (ngƣời)
4
4
18
4
Cán bộ truyền thông (cuộc)
7
7
11
3
Nam (ngƣời)
4
4
7
1
Nữ (ngƣời)
3
3
9
1
4
4
Thảo luận nhóm tập trung (buổi)
4
0
Người dân (buổi)
2
2
8
0
Nam (ngƣời)
4
4
8
0
Nữ (ngƣời)
4
4
5
1
Cán bộ truyền thông (buổi)
2
2
11
3
Nam (ngƣời)
4
4
7
1
Nữ (ngƣời)
3
3
106
8
49
49
Bảng hỏi có cấu trúc (phiếu)
64
0
Người dân (phiếu)
32
32
32
0
Nam (ngƣời)
16
16
32
0
Nữ (ngƣời)
16
16
42
8
Cán bộ truyền thông (phiếu)
17
17
23
5
Nam (ngƣời)
9
9
19
3
8
8
Nữ (ngƣời)
Trong các cuộc phỏng vấn sâu cá nhân và thảo luận nhóm tập trung, tôi đều
9
có sử dụng máy ghi âm. Việc sử dụng máy ghi âm này tôi có xin phép và nhận
đƣợc sự đồng ý của tất cả thông tín viên với cam kết rằng những chia sẻ của họ chỉ
phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học. Vì lý do nhạy cảm, trƣớc khi tiến hành
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung hay phỏng vấn bảng hỏi, tôi đã cam kết
không công bố những thông tin cá nhân quan trọng (họ tên, số điện thoại, địa chỉ,
ngày sinh) của ngƣời tham gia trả lời phỏng vấn. Nên trong một số trích dẫn dữ
liệu ở luận văn này tôi mã hóa tên của các thông tín viên bằng các chữ cái.
Dữ liệu định tính thu thập từ phỏng vấn sâu cá nhân và thảo luận nhóm tập
trung đƣợc tôi xử lý và lƣu trữ bằng phần mềm NVIVO. Dữ liệu định lƣợng thu
thập từ điều tra bảng hỏi đƣợc tôi xử lý và lƣu trữ bằng phần mềm SPSS.
2.4. Hạn chế nghiên cứu
Nghiên cứu này cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định về mặt
phƣơng pháp. Trƣớc hết do tôi không thông thạo tiếng Tày và Hmông nên phải cần
đến hai ngƣời địa phƣơng hỗ trợ phiên dịch trong một số cuộc phỏng vấn sâu, thảo
luận nhóm tập trung và điều tra bảng hỏi. Do đó ý nghĩa một số câu trả lời của
ngƣời dân có thể chƣa đƣợc chuyển ngữ chính xác hoàn toàn. Tuy nhiên, chỉ có 3
trƣờng hợp ngƣời Hmông và 1 trƣờng hợp ngƣời Tày gặp khó khăn trong giao tiếp
bằng tiếng Việt và cần phiên dịch. Các thông tín viên khác đều có khả năng giao
tiếp thành thạo bằng tiếng phổ thông.
Tiếp nữa do điều kiện thời gian và tài lực hạn hẹp, việc tiến hành chọn mẫu
nghiên cứu chƣa mang tính ngẫu nhiên. Hạn chế này dẫn đến khả năng là các phát
hiện nghiên cứu chƣa có tính đại diện, khái quát cao.
3. Cấu trúc của luận văn
Bên cạnh phần mở đầu và phần kết luận, luận văn đƣợc tôi bố cục bao gồm
bốn chƣơng nội dung chính sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
Chƣơng 2: Nhận thức về truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng
đồng dân tộc thiểu số: Góc nhìn ngƣời dân
Chƣơng 3: Công tác truyền thông từ góc độ “nguồn”
Chƣơng 4: Rào cản và thách thức – Bài toán khó cho ngƣời dân và cán bộ
10
truyền thông
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Trong số các nghiên cứu về truyền thông phòng chống HIV/AIDS (Grov,
2015; Eggermont, 2014; Kajubi, 2014; Iqbal, 2007; Muturi, 2005; Obregon, 2000),
rất nhiều nghiên cứu mang tính đánh giá về hiệu quả của các chƣơng trình truyền
thông phòng chống HIV/AIDS triển khai ở cấp cơ sở (Okidu, 2013; Peltzer, 2012;
Karlyn, 2001). Những nghiên cứu này thƣờng đánh giá sự thay đổi nhận thức của
ngƣời dân về kiến thức phòng chống HIV/AIDS và sự thay đổi hành vi nguy cơ lây
nhiễm trƣớc và sau khi triển khai các chƣơng trình truyền thông cộng đồng, để từ đó
xác định đƣợc tầm quan trọng của truyền thông trong cuộc chiến phòng chống đại
dịch này. Nhƣ nghiên cứu của Celeste Farr và cộng sự (2005) đi vào tìm hiểu mức
độ hiệu quả của hình thức truyền thông qua đài phát thanh đến việc thay đổi nhận
thức của ngƣời dân Ethiopia về giảm thiểu hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV. Hay
nhƣ nghiên cứu của William Brown (2009) nhằm tìm hiểu mức độ ảnh hƣởng của
việc các ngôi sao giải trí nổi tiếng tham gia vào hoạt động truyền thông phòng
chống HIV/AIDS đến sự giảm thiểu thực hiện các hành vi có nguy cơ lây nhiễm của
ngƣời dân tại miền tây của Hoa Kỳ. Hoặc nhƣ nghiên cứu của Julie Duck (1995) đi
vào tìm hiểu sự thay đổi tích cực và tiêu cực trong nhận thức của ngƣời dân Úc sau
khi xem các đoạn phim truyền thông ngắn về AIDS và tình dục an toàn. Có thể kể
đến nghiên cứu của Janaki Vidanapathirana và cộng sự (2005) nhằm tìm hiểu mức
độ tác động của truyền thông đại chúng tới việc khuyến khích ngƣời dân quyết định
xét nghiệm HIV.
Các nghiên cứu dạng này thƣờng tập trung vào việc đánh giá hiệu quả các
chƣơng trình truyền thông, nhƣng có rất ít học giả đi sâu phân tích các bất cập trong
quá trình xây dựng và tổ chức chƣơng trình truyền thông. Đáng chú ý là nghiên cứu
của Jane Bertrand và cộng sự (2006) dựa trên 15 chƣơng trình truyền thông đại
chúng trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 2004 tại 10 quốc gia đang phát triển
11
ở châu Phi, Mỹ Latinh và châu Á. Nhóm tác giả cho thấy tại nhiều nơi các chƣơng
trình truyền thông đại chúng chỉ thay đổi nhận thức và hành vi có nguy cơ lây
nhiễm HIV của ngƣời dân ở mức rất thấp (1-2% so với trƣớc khi truyền thông).
Nhóm nghiên cứu cũng khẳng định rằng, truyền thông có vai trò tích cực đối với
việc thay đổi nhận thức và hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV của ngƣời dân, tuy
nhiên cách thực hiện truyền thông nhƣ thế nào mới là yếu tố quyết định. Bertrand và
cộng sự cũng thừa nhận rằng, cần có những đánh giá chi tiết hơn nữa để phân tích
một cách toàn diện về tác động của truyền thông đại chúng về phòng chống
HIV/AIDS trong cộng đồng.
Một hƣớng nghiên cứu thứ hai trên lĩnh vực này là các nhà nghiên cứu (Okidu,
2013; Hasler, 2013) thƣờng đặt ra mục tiêu xây dựng đƣợc một khung chuẩn chung
cho các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Theo đó nhiều nghiên
cứu (Hanan, 2009; Airhihenbuwa, 1999; Arora, 2007) đƣợc tiến hành nhằm phân
tích những ƣu điểm, hạn chế từ các chƣơng trình truyền thông đã triển khai và kinh
nghiệm từ các bên hữu quan. Nhƣ nghiên cứu của Tisha Wheeler (2003) tổng hợp
dữ liệu về các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại Somalia nhằm
đƣa ra một khung lý thuyết chung mà các chƣơng trình truyền thông và vận động
phòng chống HIV/AIDS tại Somalia thƣờng áp dụng. Hay nhƣ nghiên cứu của
Travis Hasler (2013) đi vào tìm hiểu những ý kiến của công nhân ở miền Bắc
Uganda về các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS mà họ đƣợc tiếp
cận nhằm xây dựng một khung truyền thông chiến lƣợc dành cho đối tƣợng này.
Cũng nhƣ nghiên cứu của Catherine Medina (2011) tìm hiểu những nhu cầu cơ bản
có liên quan đến tình dục của phụ nữ da màu sống tại Mỹ nhằm xây dựng một
khung lý thuyết về truyền thông phòng chống HIV/AIDS phù hợp với họ. Những
nghiên cứu dạng này có tính ứng dụng cao nhƣng hạn chế khi chỉ có thể áp dụng
cho một địa phƣơng hoặc một cộng đồng cụ thể.
Truyền thông có sự tham gia của cộng đồng cũng là một hƣớng nghiên cứu
đƣợc các nhà nghiên cứu (Arora, 2007; Gill, 2005) quan tâm và tìm hiểu, đặc biệt là
với đối tƣợng truyền thông là các nhóm cộng đồng yếu thế và nhạy cảm nhƣ ngƣời
12
lao động tình dục, nam giới có quan hệ tình dục với nam giới, ngƣời nghiện ma túy,
dân tộc thiểu số. Những nghiên cứu dạng này chứng tỏ sự cần thiết của việc khuyến
khích đối tƣợng mục tiêu (ngƣời nhận/thụ hƣởng thông tin truyền thông) tham gia
vào quá trình truyền thông. Chính vì vậy, mô hình truyền thông có sự tham gia
(participatory communication model) đƣợc các tác giả nghiên cứu (Gao, 2007;
Basu, 2009) khuyến nghị nhƣ là một mô mình mẫu mực trong công tác truyền thông
phòng chống HIV/AIDS ở nhóm đối tƣợng yếu thế và nhạy cảm. Nhƣ nghiên cứu
của Ambar Basu (2009) phân tích các câu chuyện đƣợc chia sẻ từ ngƣời lao động
tình dục nữ tại thành phố Kolkata (Tây Bengal, Ấn Độ) khi chính bản thân họ tham
gia vào hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong mạng lƣới ngƣời lao
động tình dục tại đây. Các kết nghiên cứu của Basu cho thấy việc ngƣời lao động
tình dục nữ tham gia vào hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong
mạng lƣới ngƣời lao động tình dục giúp đối tƣợng truyền thông thay đổi hành vi có
nguy cơ lây nhiễm một cách tích cực và bền vững. Hay nhƣ nghiên cứu của Yun
Gao và cộng sự (2007) về mức độ hiệu quả của các chƣơng trình truyền thông
phòng chống HIV/AIDS trong nhóm nam giới có quan hệ tình dục với nam giới
(MSM) tại thành phố Thành Đô (Trung Quốc). Gao và nhóm cộng sự đã phân tích
và chỉ ra tính kém hiệu quả của các chƣơng trình truyền thông phòng chống
HIV/AIDS theo phƣơng thức truyền thống vì không thể tiếp cận sâu vào cộng đồng
nam giới có quan hệ tình dục với nam giới; đồng thời cho thấy tỷ lệ sử dụng bao cao
su trong cộng đồng này tăng lên đáng kể khi có sự tham gia của chính thành viên
trong cộng đồng vào hoạt động truyền thông.
Một hƣớng nghiên cứu thứ tƣ trên lĩnh vực này là các nhà nghiên cứu (Uwah,
2013; Hayford, 2001; Dutta, 2009; Airhihenbuwa, 2004…) nhấn mạnh yếu tố văn
hóa trong thiết kế chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Theo đó
nhiều nghiên cứu (Webster, 2004; Resnicow, 1999; Matthew Kreuter, 2004;
Wilson, 2003…) đƣợc tiến hành nhằm làm rõ sự cần thiết của việc lồng ghép nhiều
yếu tố kết hợp với nhau trong một chƣơng trình truyền thông phòng chống
HIV/AIDS, đặc biệt chú trọng đến các yếu tố văn hóa. Ví dụ nhƣ nghiên cứu của
13
Chijioke Uwah (2013) đi vào tìm hiểu các thiết kế chƣơng trình truyền thông phòng
chống HIV/AIDS ở KwaZulu Natal – tỉnh có số ngƣời nhiễm HIV/AIDS cao nhất
của Nam Phi. Bằng những phân tích của mình, Uwah đã cho thấy sự lặp lại rập khuôn
trong các bản thiết kế những chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại
đây mà không chú ý tới các yếu tố văn hóa ở địa phƣơng, dẫn đến tính kém hiệu quả
các các chƣơng trình truyền thông này. Hay nhƣ nghiên cứu của Collins
Airhihenbuwa (2004) đi vào tìm hiểu vai trò của văn hóa trong truyền thông thay đổi
hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV của ngƣời dân ở châu Phi. Các kết quả nghiên cứu
của Airhihenbuwa cho thấy các chƣơng trình truyền thông tác động đến những giá trị
văn hóa có liên quan đến tình dục làm thay đổi tích cực các hành vi tình dục không an
toàn của ngƣời dân. Từ đó, Airhihenbuwa đƣa ra kết luận về sự cần thiết của việc xây
dựng mô hình truyền thông chú trọng tới yếu tố văn hóa ở mỗi địa phƣơng tại châu
Phi. Hay nhƣ nghiên cứu của Muturi (2005) nhằm tìm hiểu sự ảnh hƣởng của các
niềm tin văn hóa đến quyết định sử dụng biện pháp tránh thai của phụ nữ ở vùng
nông thôn của Kenya nhằm xác định các yếu tố văn hóa cần lƣu ý khi tiến hành
truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại đây. Các kết quả nghiên cứu của Muturi
ngoài việc cho thấy mức độ ảnh hƣởng sâu sắc của những niềm tin văn hóa tới việc
quyết định sử dụng các biện pháp tránh thai còn chứng minh tính thất bại của các
chƣơng trình truyền thông tại Kenya vì không thiết lập đƣợc mối quan hệ với ngƣời
dân do tính không phù hợp với những đặc trƣng văn hóa của họ.
Vấn đề truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu
số cũng là một hƣớng nghiên cứu thứ năm đƣợc nhiều nhà nghiên cứu (Stevens,
2010; Patton, 2009; Cargill & Stone, 2005…) quan tâm và tìm hiểu. Các nghiên cứu
dạng này chủ yếu chứng minh tính bất bình đẳng khi ngƣời dân tộc thiểu số tiếp cận
với các dịch vụ truyền thông hoặc xác định những rào cản mà họ gặp phải. Ví dụ
nhƣ nghiên cứu của Valerie Stone (2003) đi vào đo lƣờng mức độ hài lòng của cộng
đồng ngƣời di cƣ gốc Phi cùng các cộng đồng ngƣời dân tộc thiểu số khác sinh sống
tại Mỹ khi tiếp cận những dịch vụ chăm sóc sức khỏe có liên quan đến HIV/AIDS
nhằm xác định tính cần thiết của việc đẩy mạnh hơn nữa hoạt động truyền thông
14
phòng chống HIV/AIDS trong nhóm đối tƣợng này. Bằng những cứ liệu thuyết
phục, Stone chứng minh tình trạng kém hài lòng của cộng đồng ngƣời di cƣ gốc Phi
cùng các cộng đồng ngƣời dân tộc thiểu số khác sinh sống tại Mỹ khi tiếp cận các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe có liên quan đến HIV/AIDS. Stone đề xuất một mô hình
truyền thông phòng chống HIV/AIDS đƣợc lồng ghép vào điều trị y tế; trong đó,
tăng cƣờng sự giao tiếp của các bác sĩ với bệnh nhân là ngƣời dân tộc thiểu số, xóa
bỏ sự bất bình đẳng và kỳ thị đối với họ. Hay nhƣ nghiên cứu của Mark Johnson
(1996) về rào cản đối với cộng đồng dân tộc thiểu số ở vùng miền Tây Midlands
của nƣớc Anh khi tiếp cận các thông tin về truyền thông sức khỏe nói chung và
truyền thông phòng chống HIV/AIDS nói riêng. Các kết quả nghiên cứu của
Johnson cho thấy rào cản tiếp cận với thông tin truyền thông của ngƣời dân tộc
thiểu số đƣợc sinh ra từ sự nghèo đói, vấn đề bất bình đẳng giới và các vấn đề
kinh tế - xã hội khác, đặc biệt là yếu tố văn hóa. Chính vì vậy, việc thực hiện
truyền thông phòng chống HIV/AIDS với đối tƣợng là ngƣời dân tộc thiểu số cần
đặc biệt xem xét mức độ ảnh hƣởng của các đặc trƣng nhƣ văn hóa, trình độ phát
triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc
Ở Việt Nam, trƣờng hợp nhiễm HIV đầu tiên đƣợc phát hiện vào tháng 12
năm 1990 tại thành phố Hồ Chí Minh, nhƣng đến năm 1993 thì HIV mới bắt đầu
bùng nổ thành dịch bệnh lớn và HIV/AIDS đƣợc quan tâm nghiên cứu nhiều hơn
từ cuối thế kỷ XX. Những nghiên cứu đầu tiên về HIV/AIDS trong nhóm đối
tƣợng ngƣời dân tộc thiểu số là các điều tra về tình hình hiện nhiễm (Bộ Y tế Việt
Nam và WB, 2007; Nguyễn Thanh Long, 2007; Nguyễn Bá Cẩn, 2006; Nguyễn
Anh Tuấn và cộng sự, 2010…). Kể từ đó, vấn đề truyền thông phòng chống
HIV/AIDS trong nhóm đối tƣợng ngƣời dân tộc thiểu số ngày càng đƣợc quan tâm
và tìm hiểu nhiều hơn.
Trong số các nghiên cứu về truyền thông phòng chống HIV/AIDS với cộng
đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Phạm Hùng, 2008; Nguyễn Vũ Thƣợng, 2005;
Chu Quốc Ân, 2010), rất nhiều nghiên cứu đƣợc tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả
15
công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở các địa phƣơng khác nhau
(Nguyễn Thùy Dƣơng, 2010; Phan Thị Thu Hƣơng, 2012; Hà Minh Nguyệt, 2012).
Ví dụ nhƣ nghiên cứu của Bộ Y tế Việt Nam phối hợp cùng WB (2007, 2012) nhằm
mục đích đánh giá kết quả truyền thông can thiệp về các chỉ số kiến thức, thái độ,
hành vi phòng chống HIV/AIDS, đồng thời xác định tỷ lệ hiện nhiễm HIV trƣớc và
sau can thiệp trên nhóm dân tộc Thái tại huyện Quan Hóa và Lang Chánh, tỉnh
Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức về HIV/AIDS của ngƣời dân
tăng lên rõ rệt ở lần điều tra năm 2012 so với lần điều tra năm 2007. Nghiên cứu
cũng bƣớc đầu đánh giá sự phù hợp của các biện pháp truyền thông tại địa bàn bao
gồm cả truyền thông đại chúng và một số mô hình truyền thông trực tiếp, truyền
thông dựa vào cộng đồng. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng biện pháp truyền
thông trực tiếp, dựa vào cộng đồng khá là phù hợp với đối tƣợng đồng bào dân tộc
thiểu số. Hay nhƣ nghiên cứu của Phan Thị Thu Hƣơng (2013) đi vào đánh giá hiệu
quả mô hình truyền thông can thiệp phòng lây nhiễm HIV với trƣờng hợp ngƣời
Thái trong độ tuổi 15 - 49 tuổi tại 2 huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa. Tác giả đã thực
hiện việc đánh giá thông qua khung chỉ số về nhận thức, thái độ và hành vi của
nhóm đối tƣợng nghiên cứu về phòng chống HIV/AIDS. Những nghiên cứu dạng
này có sự đóng góp lớn đối với việc cung cấp dữ liệu cơ bản và đánh giá khả năng
duy trì hiệu quả, nhân rộng các các chƣơng trình truyền thông phòng chống
HIV/AIDS với đối tƣợng là ngƣời dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các nghiên cứu này
mới dừng lại ở mức độ mô tả cắt ngang, nên chƣa chỉ ra đƣợc các yếu tố cụ thể nào
cần nhấn mạnh khi thực hiện truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng
dân tộc thiểu số.
Một hƣớng nghiên cứu thứ hai trong lĩnh vực này (Bùi Đức Thắng, 2001;
Nguyễn Thanh Long, 2007) là các nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu khả năng tiếp cận
các dịch vụ truyền thông, dịch vụ chăm sóc sức khỏe có liên quan đến HIV/AIDS ở
ngƣời dân tộc thiểu số. Nghiên cứu của Trịnh Hữu Vách (2010) tìm hiểu về sự tiếp
cận thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS và dịch vụ chăm sóc sức khỏe
có liên quan đến HIV/AIDS của ngƣời dân tộc thiểu số tại năm huyện (Tuần Giáo,
16
Ngọc Hồi, Tân Châu, Điện Biên Đông, Tịnh Biên) thuộc ba tỉnh Kon Tum, An
Giang, Điện Biên. Các kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ sẵn có của các dịch vụ
truyền thông cũng nhƣ dịch vụ chăm sóc sức khỏe chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu thực
tế của ngƣời dân; đồng thời, năng lực cung cấp dịch vụ truyền thông cũng nhƣ dịch
vụ chăm sóc sức khỏe của địa phƣơng còn tƣơng đối hạn chế. Cho nên cộng đồng
dân tộc thiểu số tại đây gặp nhiều thách thức trong việc tiếp cận các thông tin truyền
thông và dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Tƣơng tự nghiên cứu của Lã Mạnh Cƣờng và
các cộng sự (2007) xem xét thực trạng cung cấp dịch vụ truyền thông và chăm sóc
sức khỏe sinh sản có liên quan đến HIV/AIDS cho ngƣời dân tộc thiểu số thuộc ba
huyện miền núi, vùng sâu vùng xa của tỉnh Bình Định là An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân
Canh. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tình trạng thiếu thốn và năng lực cung
cấp dịch vụ truyền thông cũng nhƣ dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản còn hạn chế.
Ngoài việc thiếu cơ sở vật chất và thiếu cán bộ y tế có trình độ chuyên môn thì các
dịch vụ truyền thông phòng chống HIV/AIDS và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản cũng chƣa đƣợc thiết kế phù hợp với tập tục văn hoá của ngƣời dân địa
phƣơng. Lã Mạnh Cƣờng và các cộng sự còn nhấn mạnh khía cạnh bất cập về thời
điểm tiến hành các hoạt động truyền thông tại cộng đồng chủ yếu vào tối muộn nên
gây ra nhiều khó khăn cho cả cán bộ truyền thông và ngƣời dân. Đáng chú ý là tình
trạng thiếu vắng những hoạt động truyền thông ở nhóm đối tƣợng chức sắc uy tín
trong cộng đồng và nam giới (những ngƣời có vai trò ảnh hƣởng hoặc quyết định
đối với phụ nữ và trẻ em trong cộng đồng của họ).
Xác định các rào cản trong công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS với
cộng đồng dân tộc thiểu số cũng là một hƣớng nghiên cứu thứ ba đƣợc các nhà
nghiên cứu (Nguyễn Đình Tuấn, 2014; Phan Thị Thu Hƣơng, 2012…) quan tâm và
tìm hiểu. Có thể kể đến nghiên cứu của Nguyễn Thùy Dƣơng (2010) đi vào phân
tích tác động của các chƣơng trình truyền thông đại chúng và rào cản ngôn ngữ
trong việc phổ cập kiến thức về HIV/AIDS trong nhóm dân tộc Dao ở tỉnh Yên Bái.
Các kết quả hồi quy logistic nhị phân cho thấy rào cản ngôn ngữ là nhân tố quan
trọng ảnh hƣởng đến nhận thức về HIV/AIDS. Cụ thể, tỷ lệ những ngƣời có khả
17
năng giao tiếp bằng tiếng Kinh phổ thông (tiếng Việt) nhận thức khá đầy đủ về
HIV/AIDS cao gấp 2,8 lần so với số ngƣời không có khả năng giao tiếp bằng tiếng
Kinh. Các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thùy Dƣơng cũng hàm chỉ rằng các
chiến lƣợc truyền thông phòng chống HIV/AIDS hƣớng tới ngƣời dân tộc thiểu số
cần đƣợc quan tâm hơn nữa. Một nghiên cứu khác của Mats Malqvist và nhóm
nghiên cứu đến từ Thụy Điển (2013) lại đi vào tìm hiểu quá trình tiếp cận dịch vụ
truyền thông và dịch vụ chăm sóc sức khỏe gồm có HIV/AIDS của đồng bào dân
tộc thiểu số tại Việt Nam. Nghiên cứu đƣợc Malqvist và các cộng sự tiến hành dựa
trên phân tích tài liệu thứ cấp 49 công trình nghiên cứu y học chọn lọc đã công bố
về vấn đề sức khỏe ngƣời dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu cho
thấy thực trạng bất bình đẳng với cộng đồng dân tộc thiểu số khi tiếp cận dịch vụ
truyền thông và dịch vụ chăm sóc sức khỏe liên quan đến HIV/AIDS. Malqvist và
các cộng sự cũng nhấn mạnh rằng, ngoài tình hình nghèo đói và cách biệt địa lý về
nơi sinh tụ thì nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số cũng là vấn đề cần đƣợc truyền
thông can thiệp để thay đổi theo hƣớng tích cực. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn dữ
liệu thứ cấp khiến cho các kết quả của nghiên cứu này có thể chứa nhiều sai số.
Ngoài ra có thể kể đến nghiên cứu của Nguyễn Đình Tuấn (2014) nhằm đi vào tìm
hiểu những yếu tố tác động tới cơ hội tiếp cận dịch vụ truyền thông, dịch vụ chăm
sóc sức khỏe có liên quan tới HIV/AIDS của các nhóm yếu thế, gồm cả ngƣời dân
tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay. Các kết quả nghiên cứu khẳng định tình trạng bất bình đẳng trong dịch vụ y tế ở Việt Nam nhƣ đánh giá của WHO (2009)6. Sự bất
bình đẳng đó không chỉ thể hiện ở những khác biệt và chênh lệch giữa các dân tộc
mà còn giữa các vùng miền, giữa các khu vực cƣ trú, giữa nam và nữ, giữa các
nhóm tuổi, giữa nhóm giàu với nhóm nghèo.... Tác giả Nguyễn Đình Tuấn cũng nêu
bật bốn nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc thu hẹp cơ hội tiếp cận các dịch vụ
nói trên của ngƣời dân tộc thiểu số chính là vấn đề nghèo đói, địa bàn sinh sống ở
vùng sâu vùng xa, nguồn lực y tế còn thiếu và chƣa đƣợc phân bổ đồng đều, đặc
6 WHO (2009): Việt Nam xếp thứ 183 trong tổng số 194 quốc gia đƣợc điều tra về sự công bằng trong y tế.
18
biệt là nhận thức của ngƣời dân còn hạn chế.
Một hƣớng nghiên cứu thứ tƣ đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và tìm
hiểu là xây dựng các mô hình truyền thông phòng chống HIV/AIDS đối với ngƣời
dân tộc thiểu số (Đào Thị Minh Hƣơng, 2015; Nguyễn Văn Huy, 2012…). Nhƣ
nghiên cứu của Hà Minh Nguyệt và các cộng sự (2012) nhằm đi vào tìm hiểu tác
động của các chƣơng trình truyền thông có sự tham gia của cộng đồng về thay đổi
hành vi phòng chống HIV trong nhóm thanh niên dân tộc thiểu số khu vực miền
Trung Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chƣơng trình truyền thông có sự
tham gia của cộng đồng đã làm tăng đáng kể nhận thức của thanh niên dân tộc thiểu
số về HIV/AIDS. Đặc biệt, các chƣơng trình truyền thông thay đổi hành vi đã góp
phần làm tăng tỷ lệ sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục ở thanh niên địa
phƣơng (Hà Minh Nguyệt và cộng sự, 2012). Các kết quả nghiên cứu cho thấy kiến
thức về HIV/AIDS của ngƣời dân có dấu hiệu chuyển biến tích cực khi áp dụng mô
hình truyền thông dựa vào cộng đồng. Các nghiên cứu dạng này gợi mở về tính cần
thiết phải xây dựng một mô hình truyền thông phù hợp với đối tƣợng là ngƣời dân
tộc thiểu số.
Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc cho thấy vấn đề truyền
thông phòng chống HIV/AIDS đã và đang đƣợc giới hàn lâm quan tâm. Tuy nhiên,
cho đến thời điểm hiện tại, phần lớn các nghiên cứu về truyền thông HIV/AIDS
trong nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam đƣợc thực hiện tại miền Trung Việt Nam.
Chỉ có một số ít nghiên cứu đƣợc tiến hành ở các nhóm dân tộc thiểu số khu vực
trung du và miền núi phía Bắc do “những tỉnh, thành phố này trƣớc đây ít đƣợc
quan tâm đầu tƣ của các dự án lớn”. Với mong muốn góp phần làm vợi đi khoảng
trống vùng này, tôi đã lựa chọn địa bàn nghiên cứu tại một tỉnh trung du và miền
núi phía Bắc là Tuyên Quang.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Phân biệt khái niệm HIV và AIDS
Trong các tài liệu có liên quan đến HIV và AIDS chúng ta thấy khái niệm HIV
19
và AIDS thƣờng đƣợc viết liền nhau bởi dấu gạch chéo (HIV/AIDS). Trong khuôn
khổ luận văn này, tôi cũng thể hiện cụm từ HIV liền với AIDS do sự gắn kết chặt
chẽ giữa hai loại bệnh. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của UNAIDS thì cách viết này
thƣờng dẫn đến nhầm hiểu rằng HIV và AIDS là hai khái niệm chỉ cùng một loại
bệnh (Paul Cobley & Peter Schulz, 2013). Cho nên việc làm rõ và phân biệt hai khái
niệm này là điều hết sức cần.
Robin Wess (1993) là ngƣời đầu tiên đƣa ra định nghĩa về HIV/AIDS đầy đủ
và đƣợc trích dẫn lại nhiều trong những nghiên cứu có liên quan đến HIV/AIDS sau
này. Theo Robin định nghĩa, HIV (nguyên văn tiếng Anh: Human
Immunodeficiency Virus, có nghĩa virus suy giảm miễn dịch ở ngƣời) là tên gọi của
một loại lentivirus (thuộc họ retrovirus) có khả năng gây hội chứng suy giảm miễn
dịch mắc phải (AIDS), một tình trạng làm hệ miễn dịch của con ngƣời bị suy giảm
cấp tiến, tạo điều kiện cho những nhiễm trùng cơ hội làm đe dọa mạng sống và phát
triển mạnh ung thƣ cũng nhƣ nhiều căn bệnh nguy hiểm khác. Các tài liệu y học
diễn giải khái niệm HIV sau này đều có nội dung tƣơng tự và xác định HIV hiện
diện dƣới cả 2 dạng hạt virus (virion) tự do và virus trong tế bào miễn dịch đã
nhiễm bệnh; Theo đó, con đƣờng lây nhiễm của HIV bao gồm: Thông qua truyền
dẫn máu, truyền dẫn tinh dịch/dịch âm đạo, tiền phóng tinh (rò rỉ tinh dịch trên đầu
dƣơng vật) hoặc sữa mẹ (Daniel Douek, 2009).
Còn AIDS (nguyên văn tiếng Anh: Acquired Immunodeficiency Syndrome)
đƣợc Robin định nghĩa là Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải hay bệnh liệt
kháng, là một hội chứng của nhiều bệnh nhiễm trùng (ví dụ: lao, viêm phổi,
nấm…), mà ngƣời nhiễm HIV gặp phải do hệ miễn dịch của cơ thể bị tổn thƣơng
hoặc bị phá hủy nặng nề (Robin Wess, 1993). Robin gọi các bệnh này là các bệnh
nhiễm trùng cơ hội và AIDS đƣợc coi là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV.
Tuy nhiên, mỗi ngƣời khi chuyển sang giai đoạn AIDS sẽ có những triệu chứng
khác nhau, tùy theo loại bệnh nhiễm trùng cơ hội mà ngƣời đó mắc phải, và khả
năng chống đỡ của hệ miễn dịch mỗi ngƣời.
Định nghĩa về HIV/AIDS đƣợc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đƣa ra gần đây
20
nhất (cập nhật ngày 03/06/2015) cũng có nội dung tƣơng tự nhƣ định nghĩa của
Robin Wess (1993). Cụ thể, WHO định nghĩa HIV là virus suy giảm miễn dịch ở
ngƣời, một loại retrovirus tấn công tế bào của hệ thống miễn dịch, tiêu diệt hoặc
làm giảm chức năng của hệ thống miễn dịch. Khi quá trình tấn công của virus này
phát triển, hệ thống miễn dịch trở nên ngày càng yếu hơn và ngƣời nhiễm virus này
trở nên dễ dàng nhiễm các bệnh cơ hội khác. Giai đoạn phát triển cao nhất của HIV
chính là Hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS). Thƣờng sẽ mất từ 10 đến 15 năm
thì ngƣời có HIV sẽ tiến triển thành AIDS, và thuốc kháng retrovirus có thể làm chậm quá trình này lại7. HIV lây truyền thông qua các con đƣờng: Quan hệ tình dục
không an toàn (bao gồm cả quan hệ qua đƣờng âm đạo và quan hệ qua đƣờng hậu
môn), truyền máu nhiễm virus, dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời nhiễm bệnh,
lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình mang thai, sinh đẻ hoặc cho con bú
(WHO, 2015).
Và để phân biệt rõ ràng khái niệm HIV và AIDS, UNAIDS (2011) đã diễn giải
hết sức ngắn gọn: HIV là virus, còn AIDS là hội chứng lâm sàng. Có nghĩa, HIV và
AIDS không phải là hai khái niệm chỉ cùng một loại bệnh. Vì vậy, tùy từng hoàn
cảnh mà khái niệm HIV và AIDS đƣợc sử dụng một cách phù hợp.
1.2.2. Định nghĩa truyền thông
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “truyền thông”. Nhƣ
John Hober (1954) cho rằng truyền thông là quá trình trao đổi tƣ duy hoặc ý tƣởng
bằng lời. Còn theo quan niệm của Dean Barnlund (1964) thì truyền thông là quá
trình liên tục nhằm làm giảm độ không rõ ràng để có thể thực hiện hành vi hiệu quả.
Gerald Miler (1966) lại cho rằng, truyền thông về cơ bản quan tâm nhất đến tình
huống hành vi, trong đó nguồn thông tin truyền nội dung đến ngƣời nhận với mục
đích tác động đến hành vi của họ. Và còn nhiều định nghĩa khác về truyền thông trên
thế giới (George Rodman, 2008; Stanley Baran, 2009; Teri Kwal Gamble, 2010;
7 Trƣớc năm 2011, theo Quyết định số 3003/QĐ-BYT ngày 19/08/2009 của Bộ Y tế Việt Nam thì ngƣời có HIV đƣợc coi là bệnh nhân AIDS khi số lƣợng tế bào CD4 giảm xuống < 200 TB/mm3 và tiêu chuẩn để điều trị ARV cho ngƣời có HIV là có số lƣợng tế bào CD4 < 200 TB/mm3. Từ tháng 11/2011, theo Quyết định số 4139/QĐ-BYT của Bộ Y tế Việt Nam thì tiêu chuẩn điều trị ARV cho ngƣời có HIV thay đổi ở mức quy định là số lƣợng tế bào CD4 ≤ 350 TB/mm3 và không phụ thuộc vào giai đoạn lâm sàng.
21
Michael Schudson, 2011…). Nhƣ vậy, có thể thấy rằng ở mỗi một góc độ tiếp cận
khác nhau, các tác giả lại đƣa ra những định nghĩa riêng về truyền thông. Theo
Nguyễn Văn Dững (2006) trong một công trình nghiên cứu về lý thuyết và kỹ năng
truyền thông, thì “truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tƣ tƣởng, tình
cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều ngƣời nhằm tăng cƣờng
hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp
với nhu cầu phát triển của cá nhân/nhóm/cộng đồng/xã hội. Truyền thông là một quá
trình diễn ra theo trình tự thời gian, trong đó bao gồm các yếu tố tham dự chính:
Nguồn, thông điệp, kênh truyền thông, ngƣời nhận, phản hồi/hiệu quả, nhiễu”
(Nguyễn Văn Dững, 2006).
Và vai trò của truyền thông trong y tế đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu trƣớc đó
khẳng định (Thủy Cúc, 1999; Thùy Dƣơng, 2010; Phan Thị Thu Hƣơng, 2013…).
Truyền thông giáo dục sức khoẻ là nội dung đầu tiên trong tám nội dung chăm sóc
sức khoẻ ban đầu mà Hội nghị Alma - Am đã đề ra năm 1978 và cũng là nội dung
đầu tiên trong 10 nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu của Việt Nam, đó là: Giáo
đục sức khoẻ nhằm giúp cho mọi ngƣời có kiến thức tối thiểu và cơ bản nhất để có
thể tự phòng bệnh cho mình, cho gia đình, ngƣời thân và cho xã hội; để có thể xử
trí đúng khi bị ốm đau, bệnh tật và để thay đổi những cách nghĩ và nếp sống có hại
cho sức khoẻ (Phƣớc Nhƣờng, 2013). Trong phạm vi luận văn này, hoạt động
truyền thông mà tôi xem xét là truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng
đồng dân tộc thiểu số tại Tuyên Quang.
1.2.3. Khái niệm cộng đồng
Một số nghiên cứu về khoa học xã hội ở Việt Nam trong thời gian gần đây
(Đặng Xuân Hải, 2004; Võ Quế, 2006; Trần Ngọc Thêm, 2008…) có nhắc tới khái
niệm cộng đồng, nhƣng rất ít thấy các nghiên cứu này đƣa ra định nghĩa về khái
niệm cộng đồng. Theo Lƣơng Hồng Quang và Tô Duy Hợp (2000) thì khái niệm
cộng đồng (community) là một khái niệm cơ bản của các khoa học xã hội và nhân
văn, với nhiều tuyến nghĩa khác nhau. Cũng nhƣ đối với rất nhiều khái niệm xã hội
học khác nhƣ cơ cấu xã hội, khuôn mẫu, văn hóa, gia đình hay thiết chế xã hội…
22
tình trạng đa nghĩa của khái niệm cộng đồng đã làm cho nó nhiều khi không đƣợc
hiểu một cách rõ ràng. Hơn nữa, cộng đồng còn là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học xã hội và nhân văn (tâm lý học, xã hội học, lịch sử…), mỗi ngành
lại có đối tƣợng riêng của mình, tạo nên những sắc nghĩa khoa học khác nhau về
khái niệm cộng đồng. Rộng nhất là nói đến những khối tập hợp ngƣời, các liên
minh rộng lớn nhƣ cộng đồng thế giới, cộng đồng châu Âu, cộng đồng các nƣớc A
rập, cộng đồng các nƣớc ASEAN… nhỏ hơn, cộng đồng đƣợc áp dụng cho một
kiểu/hạng xã hội, căn cứ vào những đặc tính tƣơng đồng về sắc tộc, chủng tộc hay
tôn giáo… nhƣ cộng đồng các ngƣời Do Thái, cộng đồng ngƣời da đen tại Chicago,
cộng đồng ngƣời Thanh giáo… Nhỏ hơn nữa, cộng đồng đƣợc sử dụng cho các đơn
vị xã hội cơ bản là gia đình, làng hay một nhóm xã hội nào đó có những đặc tính xã
hội chung về lý tƣởng xã hội, lứa tuổi, giới, nghề nghiệp, thân phận xã hội nhƣ các
đảng phái, nhóm những ngƣời lái taxi, nhóm ngƣời khuyết thị… “Có hai cách hiểu
về cộng đồng: Cộng đồng tính và cộng đồng thể. Cộng đồng tính là thuộc tính hay
quan hệ xã hội có những đặc trưng mà các nhà xã hội học đã cố gắng xác định và
cụ thể hóa, chẳng hạn như tình cảm cộng đồng, tinh thần cộng đồng, ý thức cộng
đồng… Cộng đồng thể là các nhóm người, nhóm xã hội có tính cộng đồng với rất
nhiều thể có quy mô khác nhau, đó là các thể nhỏ, thể vừa, thể lớn và thể cực lớn.
Tình trạng này khiến chúng ta phải rất cẩn thận khi các tác giả nói về khái niệm
cộng đồng nhưng với nhiều ý nghĩa và nhiều cách hiểu khác nhau… Có ba kiểu loại
cộng đồng chủ yếu: Cộng đồng thuần khiết (không thuần khiết), cộng đồng trồi và
cộng đồng lịch sử” (Lƣơng Hồng Quang & Tô Duy Hợp, 2000).
Jadov (1990) trong bài viết “Nghĩ về đối tƣợng xã hội học” đã xác định khái
niệm cộng đồng là một phạm trù cơ bản của xã hội học, ở đó ông dùng từ cộng
đồng xã hội (social community). Ông xác định đối tƣợng nghiên cứu của xã hội học
chính là các cộng đồng xã hội: “Xã hội học là khoa học về sự hình thành, phát triển
và vận hành của các cộng đồng xã hội, các tổ chức xã hội và các quá trình xã hội
với tính cách là các hình thức tồn tại của chúng, khoa học về các quan hệ xã hội với
tính cách là các cơ chế liên hệ và tác động qua lại giữa các cộng đồng xã hội đa
dạng, giữa cá nhân và các cộng đồng, khoa học về các tính quy luật của các hành
23
động xã hội và hành vi của chúng” (Viện Thông tin Khoa học Xã hội, 1990).
Cộng đồng xã hội đƣợc Richard Schaefer (1998) diễn giải là khái niệm then
chốt trong việc xác định đối tƣợng xã hội học vì nó bao hàm phẩm chất quyết định
của sự tự vận động, phát triển của chỉnh thể xã hội. Ở mức độ tƣơng tự, nó cho phép
giải thích cả trạng thái bền vững, ổn định của các hệ thống, các tổ chức, các thiết
chế xã hội, nếu nhƣ chúng phù hợp với lợi ích chung. Là một thuật ngữ xã hội học,
cộng đồng đƣợc hiểu nhƣ là một phân thể/đơn vị/nhóm ngƣời trong hệ thống xã hội,
ở đó, mọi ngƣời ý thức đƣợc những đặc trƣng và tình cảm chung về những gì mà
mình đang có (Richard Schaefer & Robert Lamm, 1998).
Nhƣ vậy, xét trong phạm vi luận văn này, khái niệm cộng đồng đƣợc hiểu là
“cộng đồng thể” bao gồm các nhóm tộc ngƣời thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang (cụ thể
trong chọn mẫu nghiên cứu là cộng đồng ngƣời Tày và ngƣời Hmông). Và hoạt
động truyền thông phòng chống HIV/AIDS mà tôi xem xét là hoạt động truyền
thông diễn ra đối với hai tộc ngƣời thiểu số này.
1.2.4. Khái niệm dân tộc thiểu số
Một khái niệm cũng cần làm rõ trong luận văn này đó là thuật ngữ “dân tộc
thiểu số”. Và tất nhiên, nếu đã có “dân tộc thiểu số” thì phải xem xét nó trong mối
quan hệ với “dân tộc đa số”. Theo Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01
năm 2011 của Chính phủ Việt Nam về công tác dân tộc, thuật ngữ “dân tộc thiểu
số” và “dân tộc đa số” đƣợc xác định một cách rõ ràng trong bối cảnh của Việt
Nam. Theo đó, “dân tộc đa số” là khái niệm chỉ những dân tộc có số dân chiếm trên
50% tổng dân số của cả nƣớc Việt Nam, tính theo điều tra dân số quốc gia. Còn
“dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm
vi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Theo số liệu của cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở tại Việt Nam năm 2009
thì tổng dân số Việt Nam là 85.846.997 ngƣời, trong đó có 73.594.427 ngƣời Kinh
chiếm 85,73% tổng dân số cả nƣớc, còn 53 tộc ngƣời còn lại có số dân là
12.252.570 ngƣời chiếm 14,27% tổng dân số cả nƣớc (GSO, 2010). Nhƣ vậy, nếu
dựa theo Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về
24
công tác dân tộc thì có thể thấy rằng trong bối cảnh của Việt Nam, dân tộc Kinh là
tộc ngƣời có số dân đông nhất, chiếm 85,73% tổng dân số cả nƣớc, nên đƣợc coi là
dân tộc đa số; 53 dân tộc còn lại có tổng số dân ít hơn và chỉ chiếm 14,27% tổng
dân số cả nƣớc, nên đƣợc coi là các dân tộc thiểu số (ví dụ nhƣ dân tộc Tày, Nùng,
Dao, Hmông, Khmer, Xơ Đăng, Cơ Ho, Sán Chay, Ba Na, Xtiêng, Khơ Mú…).
Trong luận văn này, tôi chọn mẫu nghiên cứu là tộc ngƣời Tày và tộc ngƣời Hmông
tại tỉnh Tuyên Quang.
1.3. Các lý thuyết áp dụng
1.3.1. Lý thuyết về mô hình truyền thông của Claude Shannon
Có rất nhiều lý thuyết về mô hình truyền thông đƣợc đƣa ra trên thế giới
(Lasswell, 1948; Weaver, 1948; David Berlo, 1963; Charles Osgood, 1954; Wilbur
Schramm, 1954…), nhƣng tôi lựa chọn lý thuyết về mô hình truyền thông của
Claude Shannon (1948) làm nền tảng về mặt lý thuyết để tiếp cận đề tài luận văn.
Vì đây là mô hình truyền thông hai chiều có tính tƣơng tác cao và phân tích đầy đủ
các yếu tố trong truyền thông.
Mô hình truyền thông hai chiều của Claude Shannon đƣợc đƣa ra lần đầu vào
năm 1948. Mô hình này đã khắc phục đƣợc nhƣợc điểm của mô hình truyền thông
một chiều bằng cách nhấn mạnh vai trò của thông tin phản hồi từ đối tƣợng tiếp
nhận. Do đó, mô hình này thể hiện rõ hơn tính tƣơng tác, bình đẳng cũng nhƣ sự
chuyển đổi giữa chủ thể và khách thể truyền thông. Mặt khác, mô hình này cũng
chú ý tới hiệu quả truyền thông - Mong đợi của bất kỳ nhà truyền thông nào khi
chuẩn bị hoạt động truyền thông của mình.
Theo lý thuyết về mô hình truyền thông mà Claude Shannon đƣa ra, thì truyền
thông là một quá trình bao gồm bảy yếu tố sau đây (Paul Cobley & Peter Schulz,
2013):
S (Source, Sender) chính là nguồn phát thông điệp truyền thông hay còn gọi là
chủ thể truyền thông, ngƣời làm truyền thông;
M (Message) là thông điệp, nội dung truyền thông;
C (Chanel) là kênh truyền thông;
25
R (Receiver) là ngƣời nhận thông điệp (đối tƣợng mục tiêu);
E (Effect) là hiệu quả truyền thông;
N (Noise) là yếu tố nhiễu (các yếu tố gây ra sai số cản trở thông điệp tới
ngƣời nhận);
F (Feedback) là sự phản hồi từ đối tƣợng mục tiêu (ngƣời nhận thông điệp).
Để khái quát quá trình truyền thông một cách hệ thống theo sự tƣơng tác lẫn
nhau giữa các yếu tố, Claude Shannon đƣa ra sơ đồ miêu tả mô hình truyền thông
của mình (Sơ đồ 1 dƣới đây).
Sơ đồ 1: Mô hình truyền thông của Claude Shannon
N
M
S
C
R
E
F
Mô hình trên là tổng hòa mối quan hệ của các yếu tố cấu thành nên cả quá
trình truyền thông. Tuy nhiên, ở phạm vi luận văn này tôi không xem xét toàn bộ
bảy yếu tố kể trên. Trong khả năng của mình, tôi tập trung tìm hiểu quá trình truyền
thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên
Quang thông qua hai yếu tố chính bao gồm yếu tố “Nguồn” (Source, Sender) và yếu
tố “Đối tƣợng mục tiêu” hay chính là Ngƣời nhận thông điệp truyền thông
(Receiver); từ đó xác định “Hiệu quả” truyền thông (Effect) và “Sự phản hồi”
(Feedback) từ ngƣời dân địa phƣơng.
1.3.2. Lý thuyết truyền thông điệp cho đối tƣợng
Trong quá trình tìm hiểu các lý thuyết về truyền thông, tôi nhận thấy lý thuyết
26
truyền thông điệp cho đối tƣợng đóng một vai trò hết sức quan trọng khi xem xét
một hoạt động truyền thông cụ thể. Lý thuyết này đặt nền tảng cơ bản để tôi có thể
tiếp cận vấn đề nghiên cứu dễ dàng hơn.
Lý thuyết truyền thông điệp cho đối tƣợng đƣợc Nguyễn Văn Dững đề cập
vào năm 2006, trong cuốn “Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản”. Theo
ông, về đại thể, tâm lý - thần kinh của con ngƣời đƣợc cấu thành bởi hai hệ thống:
Trung tâm và ngoại vi. Hệ thống trung tâm thiên về nhận thức lý trí, hệ thống ngoại
vi thiên về nhận thức tình cảm. Trong thực tế, tùy theo điều kiện hình thành và phát
triển văn hóa - lịch sử của mỗi dân tộc, có nơi thiên về nhận thức lý trí, có dân tộc
lại thiên về tình cảm. Trong mỗi dân tộc, mỗi nhóm công chúng - đối tƣợng cũng có
những sắc thái nhận thức khác nhau, hoặc nghiêng về lý trí hoặc nặng về tình cảm.
Ngƣời Việt Nam có câu: “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”. Do đó, nhiệm
vụ của nhà truyền thông là phải nghiên cứu nắm bắt đặc thù tâm lý tiếp nhận của
nhóm đối tƣợng cụ thể để có thể thiết kế thông điệp phù hợp. Nhƣng cho dù tiếp
nhận thông điệp thông qua con đƣờng ngoại vi - tình cảm, cuối cùng cũng phải tác
động đƣợc tới quá trình nhận thức ở giai đoạn thứ hai - lý trí, khi đó cơ sở nhận thức
của hành vi mới mang tính bền vững.
Mỗi con đƣờng, giai đoạn nhận thức đều có những ƣu điểm và hạn chế nhất
định. Chẳng hạn, tác động vào hệ thống trung tâm thì thông điệp đƣợc nhận thức sâu
hơn, bền vững hơn, nhƣng khó vào hơn; tác động bằng hệ thống ngoại vi dễ vào hơn,
nhƣng hời hợt và dễ quên hơn. Chính vì thế, nếu kết hợp cả hai hệ thống này thật linh
hoạt thì sẽ đạt hiệu quả khi xã hội hóa thông điêp. Năm giai đoạn của thông điệp
đƣợc Nguyễn Văn Dững nhấn mạnh khi truyền thông điệp cho đối tƣợng bao gồm:
(1) Làm cho nhóm đối tƣợng nhận biết thông điệp;
(2) Nhóm đối tƣợng nhận thức, hiểu biết thông điệp;
(3) Nhóm đối tƣợng chấp nhận thông điệp;
(4) Làm cho đối tƣợng tin tƣởng thông điệp;
(5) Đối tƣợng hành động theo mục đích, yêu cầu của thông điệp.
Vì vậy mà trong hoạt động truyền thông, cần tính đến hình thức thể loại phù
hợp với nhóm đối tƣợng và vấn đề thông tin. Mỗi thể loại sẽ có những phƣơng thức
27
tác động đặc thù đến đối tƣợng nhận thông điệp truyền thông. Trong luận văn này,
lý thuyết truyền thông điệp cho đối tƣợng giúp tôi có thể tiếp cận và xem xét tính
hiệu quả của quá trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân
tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang.
1.4. Sơ lƣợc về tình hình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh
Tuyên Quang
Theo báo cáo quý I năm 2014 của Bộ Y tế, số trƣờng hợp nhiễm HIV mới
đƣợc phát hiện trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang tăng 137% so với cùng kỳ năm trƣớc
(2013). Với đặc trƣng kinh tế nông – lâm nghiệp chiếm ƣu thế, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội chƣa cao, Tuyên Quang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động quản
lý, kiểm soát cũng nhƣ phòng chống sự lây lan của dịch bệnh HIV/AIDS. Theo
nghiên cứu của Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Cơ quan
Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), thì chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của
Tuyên Quang trong năm 2013 xếp thứ 63/63 (đứng ở vị trí thấp nhất trên cả nƣớc).
Với điều kiện phát triển kinh tế nhƣ vậy, tỉnh Tuyên Quang đã, đang và sẽ còn gặp
nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn lực tài chính để kiểm soát sự lây lan của
dịch bệnh HIV/AIDS. Đặc biệt, sự phát triển xã hội – giáo dục của tỉnh Tuyên
Quang cũng chƣa cao. Theo Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 thì
Tuyên Quang vẫn chƣa hoàn thành phổ cập giáo dục với tỷ lệ ngƣời trong độ tuổi đi
học và ngƣời từ 15 tuổi trở lên không biết đọc biết viết còn cao (gần 50.000 ngƣời)
(GS0, 2010). Vì vậy mà tỉnh Tuyên Quang cũng gặp nhiều khó khăn trong việc huy
động các nguồn nhân lực trình độ cao trong công cuộc phòng chống HIV/AIDS.
Đặc biệt là công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS sẽ gặp rào cản lớn do sự
đa dạng về văn hóa, tộc ngƣời và trình độ dân trí còn tƣơng đối thấp.
Để nâng cao nhận thức cho nhân dân về công tác phòng chống HIV/AIDS,
thời gian qua các cấp, các ngành, các tổ chức hội, đoàn thể tỉnh Tuyên Quang đã
chủ động triển khai các chƣơng trình phòng chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng
công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về phòng chống lây nhiễm HIV trong
cộng đồng dân cƣ. Đặc biệt là thúc đẩy sự tham gia của cả hệ thống chính trị và của
28
toàn dân vào thực hiện “Chiến lƣợc Quốc gia phòng chống HIV/AIDS”.
Đơn vị chuyên trách
Ở tuyến tỉnh, đơn vị phụ trách chính trong công tác truyền thông phòng chống
HIV/AIDS là Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS (đƣợc thành lập vào năm 2006)
và Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe tỉnh Tuyên Quang (đƣợc thành
lập vào năm 2003). Nhận các thông tin chỉ đạo từ Cục Phòng chống HIV/AIDS –
VAAC (Bộ Y tế Việt Nam), hai trung tâm nói trên sẽ soạn các kế hoạch hành động,
và chuyển tới các đơn vị trong tỉnh, các đơn vị tuyến huyện để chỉ đạo thực hiện về
các đơn vị thôn/xã. Ngoài hai trung tâm này còn có các đơn vị quan trọng khác
trong tỉnh cùng phối hợp để thực hiện công tác truyền thông phòng chống
HIV/AIDS: Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm Phòng chống các bệnh xã hội. Ở
tuyến huyện, nhiều đơn vị thuộc các ban/ngành khác nhau cùng phối hợp truyền
thông phòng chống HIV/AIDS: Trung tâm Y tế huyện, Phòng Lao động – Thƣơng
binh và Xã hội, Phòng Dân tộc, Phòng Văn hóa và Thông tin, Hội Liên hiệp Phụ nữ,
Huyện đoàn. Ở tuyến xã/thôn, công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS chủ
yếu đƣợc thực hiện bởi cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, cán bộ y tế xã/thôn.
Các hình thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong tỉnh Tuyên
Quang
Ngoài các hình thức truyền thông mang tính truyền thống, thì các đơn vị có
trách nhiệm thực hiện công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS của tỉnh
Tuyên Quang đã cố gắng để đa dạng hóa và hiện đại hóa các hình thức truyền
thông, nhằm đảm bảo các thông điệp đƣợc chuyển tới ngƣời dân. Có thể kể ra ba
hình thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS phổ biến nhất ở tỉnh Tuyên Quang
bao gồm: (1) Truyền thông qua đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí, (2)
truyền thông qua các dạng tài liệu phát tay, tờ rơi, pano, áp phích, (3) truyền thông
qua mít tinh, diễu hành quần chúng và nói chuyện chuyên đề.
Đối với hình thức truyền thông qua đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí
thì mỗi tháng, Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS và Trung tâm Truyền thông và
29
Giáo dục sức khỏe tỉnh Tuyên Quang đều có sự phối hợp với Đài Phát thanh và
Truyền hình tỉnh, Báo Tuyên Quang mở các chuyên mục về y tế - sức khỏe nhằm
phổ biến kiến thức về sức khỏe nói chung và phòng chống HIV/AIDS nói riêng. Hai
trung tâm cũng phối hợp với các ngành chức năng hữu quan tổ chức tuyên truyền
theo từng chủ đề giúp ngƣời dân hiểu biết hơn về HIV/AIDS, những nguy cơ tiềm
ẩn ảnh hƣởng đến sức khoẻ con ngƣời: Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con,
quan hệ tình dục an toàn… Bằng sự hỗ trợ của kỹ thuật nhƣ âm thanh, ánh sáng,
điện ảnh, âm nhạc… hình thức truyền thông qua đài truyền hình, đài phát thanh và
báo chí đạt đƣợc hiệu quả tƣơng đối tốt. Nhƣng không phải hộ gia đình nào cũng có
tivi, đài thu thanh, hoặc báo để xem/nghe/đọc, đặc biệt ở các vùng sâu vùng xa. Hệ
thống loa phát thanh chƣa đƣợc trang bị toàn diện ở các thôn/xã. Thƣờng chỉ có một
loa phát thanh cỡ lớn đặt ở trụ sở của mỗi xã. Và chỉ một số lƣợng ít thôn mới có
loa phát thanh riêng. Kể cả trong trƣờng hợp có loa phát thanh riêng ở thôn thì cũng
không đủ để bao phủ thông tin truyền thông tới mọi ngƣời. Vì vậy mà đây là kênh
truyền thông còn chƣa hữu dụng tại các thôn, xã khó khăn ở vùng sâu vùng xa.
Đối với hình thức truyền thông qua các dạng tài liệu phát tay, tờ rơi, pano, áp
phích thì Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe cùng Trung tâm Phòng
chống HIV/AIDS là nơi xuất bản các bản tin kiến thức y tế - sức khỏe theo từng quý
cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin hữu ích về sức khỏe nói chung và dịch bệnh
HIV/AIDS nói riêng. Đồng thời phối hợp với Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm
Phòng chống các bệnh xã hội xuất bản các tờ rơi, tài liệu phát tay, pano, áp phích,
sách mỏng… về kiến thức phòng chống HIV/AIDS để chuyển về các tuyến dƣới
nhằm truyền thông tới ngƣời dân. Phòng Văn hóa – Thông tin huyện thƣờng sẽ là
đơn vị sẽ nhận thông tin từ Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe và Trung
tâm Phòng chống HIV/AIDS để thiết kế các cụm pano, khẩu hiệu, băng rôn treo tại
các địa điểm công cộng có đông ngƣời qua lại nhƣ các trục đƣờng giao thông chính,
cửa ngõ thành phố, xã phƣờng…
Hình thức truyền thông qua mít tinh, diễu hành quần chúng và nói chuyện
chuyên đề cũng đƣợc áp dụng thƣờng xuyên. Mỗi sự kiện thƣờng có mời những tấm
30
gƣơng tiêu biểu trong phong trào phòng chống HIV/AIDS để giao lƣu với ngƣời
nghe nhằm tăng tính tƣơng tác. Điển hình là các chƣơng trình truyền thông phòng
chống HIV/AIDS ở tỉnh Tuyên Quang thƣờng mời chị Phạm Thị Huệ - Ngƣời đƣợc
tạp chí TIME của Mỹ bầu chọn là “Anh hùng châu Á” trong công cuộc phòng
chống HIV/AIDS toàn cầu (2004). Mặc dù có tác động mạnh đến đối tƣợng truyền
thông dựa trên sự tƣơng tác trực tiếp, nhƣng điểm hạn chế lớn của hình thức truyền
thông này là chỉ đƣợc tổ chức tập trung ở các trung tâm thị trấn huyện, thành phố.
Vì vậy mà đối tƣợng nhận thông tin truyền thông sẽ chỉ bó hẹp ở phạm vi của thị
trấn huyện và thành phố đó, sức lan tỏa của thông điệp truyền thông không cao.
Nhìn chung, công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Tuyên
Quang đƣợc thực hiện thƣờng xuyên theo từng tháng, từng quý trong năm. Trong
đó, đơn vị chịu trách nhiệm chính là Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe
và Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh Tuyên Quang. Bằng nhiều hình thức
tuyên truyền, hai trung tâm nói trên cùng các đơn vị hữu quan đã góp phần trang bị
kiến thức, kỹ năng phòng chống dịch bệnh nói chung và HIV/AIDS nói riêng cho
mỗi cá nhân, gia đình ngƣời dân. Tuy nhiên, trong điều kiện còn khó khăn về nhiều
mặt, công tác truyền thông còn bị bỏ ngỏ ở nhiều nội dung, hoặc đã đƣợc thực hiện
nhƣng chƣa triệt để. Điển hình là hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS
trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở các huyện, thôn, xã vùng sâu vùng xa còn cần
31
đƣợc quan tâm nhiều hơn nữa.
Chƣơng 2: NHẬN THỨC VỀ TRUYỀN THÔNG PHÕNG CHỐNG HIV/AIDS
TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ: GÓC NHÌN NGƢỜI DÂN
Chƣơng này sẽ trình bày kết quả nghiên cứu thu thập đƣợc từ các cuộc phỏng
vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung và phỏng vấn bảng hỏi có cấu trúc xoay quanh
nhận thức và thái độ của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng về hoạt động truyền
thông phòng chống HIV/AIDS.
Nhƣ chúng ta đã biết, tính hiệu quả (hay sự tác động) của hoạt động truyền
thông tới đối tƣợng truyền thông đƣợc thể hiện trƣớc tiên là thông qua việc thay đổi
nhận thức của đối tƣợng truyền thông. Vì vậy mà tôi tập trung tìm hiểu nhận thức
của ngƣời dân tộc thiểu số ở địa phƣơng về phòng chống HIV/AIDS, thông qua đó
có thể hiểu rõ hơn về hiệu quả của hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS
tại đây. Nói đến nhận thức của ngƣời dân trong việc phòng chống HIV/AIDS là nói
đến những kiến thức của họ về bản chất bệnh, con đƣờng lây nhiễm bệnh cũng nhƣ
kiến thức về các cách phòng bệnh lây nhiễm. Qua quá trình thực hiện 16 phỏng vấn
sâu, 04 thảo luận nhóm tập trung, 64 phiếu trả lời bảng hỏi có cấu trúc trong nhóm
ngƣời dân địa phƣơng, có thể thấy rằng cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên
Quang còn có nhiều nhận thức chƣa đúng về phòng chống HIV/AIDS.
2.1. Nhận thức về bản chất HIV/AIDS
Trong nhiều phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung, ngƣời dân tộc thiểu
số tại địa phƣơng đã đƣa ra những ý kiến cho thấy họ không chỉ nhận thức sai về
bản chất bệnh mà còn hiểu nhầm HIV/AIDS với những loại bệnh khác. Một số
ngƣời dân khẳng định HIV/AIDS là bệnh ung thƣ. Một số khác thì cho rằng
HIV/AIDS là bệnh lao phổi, bệnh giang mai, bệnh lậu. Đây là những kiến thức chƣa
đúng về bản chất bệnh của HIV/AIDS.
“Si Đa chả lao phổi nặng còn gì. Thằng ở thôn tôi này, hút ma túy. Ho sù
sụ, ho cả ra máu. Lúc chết bảo bị lao phổi mà”.
“Cứ nhìn mấy con cave. Giang mai với lậu thì chả là kim la đấy”.
32
(Thảo luận nhóm, ngƣời dân nhóm Hmông, MS 07-LB)
Trích đoạn thảo luận nhóm tập trung trên đây cho thấy ngƣời dân tộc thiểu số
tại địa phƣơng còn có một số cách hiểu sai lệch về bản chất HIV/AIDS. Đặc biệt, số
liệu từ điều tra bảng hỏi ở nhóm ngƣời dân tộc thiểu số cho thấy tỷ lệ không nhỏ
ngƣời dân có những nhận thức chƣa đúng về bản chất HIV/AIDS (Xem chi tiết
trong bảng 4 dƣới đây). Có gần 55% ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi hiểu đúng
rằng bệnh HIV/AIDS thực chất là suy giảm hệ miễn dịch và gây ra các bệnh nhiễm
trùng cơ hội. Đây là một tỷ lệ khá cao với quá nửa số phiếu trả lời bảng hỏi. Điều đó
chứng tỏ rằng số ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng hiểu đúng về bản chất bệnh
là không ít. Tuy nhiên, có đến khoảng 45% ngƣời dân hiểu chƣa đúng về bản chất
HIV/AIDS cũng là một tỷ lệ không nhỏ, xấp xỉ gần một nửa số phiếu trả lời bảng
hỏi. Đặc biệt, một số ý kiến không chỉ hiểu sai bản chất HIV/AIDS mà còn nhầm
lẫn sang một số bệnh khác hoàn toàn (4,7% nghĩ rằng HIV/AIDS là bệnh kim la,
3,1% nghĩ rằng HIV/AIDS là bệnh về da nguy hiểm, 3,1% cho rằng HIV/AIDS là
bệnh ghẻ lở, 1,5% cho rằng HIV/AIDS là bệnh ho ác).
Bảng 4: Suy nghĩ và hiểu biết về HIV/AIDS của ngƣời dân tộc
thiểu số nghiên cứu
STT Cách hiểu về HIV/AIDS Tỷ lệ (%)
1 Là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội 54,7
2 Là bệnh lao phổi 10,9
3 Là bệnh giang mai 17,3
4 Là bệnh ung thƣ 4,7
5 Là bệnh khác (xin ghi rõ) 12,4
Có thể những suy nghĩ trên của ngƣời dân bắt nguồn từ quan sát trực tiếp các
trƣờng hợp nhiễm HIV và tử vong do AIDS tại cộng đồng. Vì rằng ở giai đoạn
chuyển từ HIV thành AIDS, hệ miễn dịch của cơ thể ngƣời bệnh bị suy yếu nhanh
chóng, tạo điều kiện cho các bệnh nhiễm trùng cơ hội tấn công. Và bản thân ngƣời
33
bệnh sẽ chết bởi những bệnh nhiễm trùng cơ hội này với những triệu chứng lâm
sàng thể hiện rõ ràng (ho ra máu, da nổi nhiều mụn nhọt, ngƣời rất gầy…) khiến
ngƣời dân quan sát, hiểu nhầm rằng các biểu hiện của bệnh nhiễm trùng cơ hội đó
chính là HIV/AIDS. Nhƣ lời một phụ nữ địa phƣơng:
“Chị cũng không dám đứng gần đâu. Nhƣng nhìn xa xa, chị thấy rõ ràng
là bị “chác” (tiếng Tày có nghĩa là ghẻ lở)8 khắp ngƣời”.
(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 24-LB, nữ, dân tộc Tày, 35 tuổi)
2.2. Nhận thức về con đƣờng lây nhiễm HIV
Nhiều trả lời phỏng vấn sâu cũng cho thấy mức độ nhận thức chƣa đầy đủ về
con đƣờng lây nhiễm HIV của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng nghiên cứu.
Một số ý kiến cho rằng các cử chỉ tiếp xúc nhƣ cầm tay, ôm, hôn hay ngủ chung
giƣờng với ngƣời có HIV sẽ dẫn đến nguy cơ lây nhiễm.
“Nói chuyện nƣớc bọt bắn ra, nếu đứng gần là sẽ lây. Hoặc họ thở hơi thở
của họ ra không khí tôi nghĩ là có vi khuẩn lây bệnh (ý muốn nói “vi khuẩn” ở
đây là virus HIV)”.
(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 30-YS, nam, dân tộc Hmông, 37 tuổi)
Thậm chí, có ý kiến cho rằng muỗi đốt cũng có thể làm lây nhiễm HIV:
“Thì bảo meèng khốp (muỗi đốt) không lây, nhƣng nó vừa khốp lƣợt
(châm vào máu) ết xong lại châm mình thì chả lây à”.
(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 24-LB, nữ, dân tộc Tày, 35 tuổi)
Các kết quả định tính này dƣờng nhƣ tƣơng đồng với thông tin định lƣợng thu
thập qua điều tra bảng hỏi (Bảng 5). Một mặt, ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng
đã có những kiến thức nhất định về bốn con đƣờng lây truyền chính của HIV/AIDS.
Tất cả ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi hiểu rằng quan hệ tình dục với ngƣời
nhiễm HIV cũng nhƣ truyền máu/tiếp xúc vết thƣơng với máu ngƣời nhiễm HIV
hoặc dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời nhiễm HIV sẽ làm lây truyền bệnh. Toàn
bộ số ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi cũng hiểu rằng ngƣời mẹ nhiễm HIV có
34
thể lây truyền bệnh sang con theo dạng lây truyền chu sinh. Khoảng 60% ngƣời 8 Các chú thích trong ngoặc đơn là diễn giải của tác giả nhằm làm rõ nội dung trả lời của ngƣời đƣợc phỏng vấn.
dân trả lời bảng hỏi có cái nhìn tích cực khi cho rằng mua đồ của ngƣời nhiễm HIV
bán không phải là con đƣờng có thể làm lây nhiễm HIV. Nhƣ vậy, không thể quy
chụp rằng toàn bộ kiến thức của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng về con đƣờng
lây truyền HIV/AIDS là sai lệch. Họ đã có những nhận thức nhất định về một số
đƣờng lây truyền chính của HIV/AIDS.
Bảng 5: Suy nghĩ, hiểu biết của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu về con
đƣờng lây nhiễm HIV
STT
Các tình huống đƣợc cho là có nguy cơ lây nhiễm HIV
Đúng (%) Sai (%)
1 Quan hệ tình dục với ngƣời nhiễm HIV
100
0
2
Truyền máu/tiếp xúc vết thƣơng với máu ngƣời nhiễm HIV
100
0
3 Ăn cơm chung với ngƣời nhiễm HIV
78,1
21,9
4 Hôn ngƣời nhiễm HIV
85,9
14,1
5 Cầm tay hay ôm ngƣời nhiễm HIV
60,9
39,1
6 Ngủ chung giƣờng với ngƣời nhiễm HIV
70,3
29,7
7 Nói chuyện với ngƣời nhiễm HIV
32,8
67,2
8 Dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời nhiễm HIV
100
0
9 Dùng chung cốc uống nƣớc với ngƣời nhiễm HIV
81,2
18,8
10 Bị muỗi đốt
100
0
11 Mẹ nhiễm HIV lây truyền sang con khi sinh
100
0
12 Mua đồ của ngƣời nhiễm HIV bán
39,1%
60,9
Nhƣng mặt khác, tỷ lệ ngƣời trả lời có nhận thức chƣa đúng về con đƣờng lây
truyền HIV cũng rất đáng chú ý. Tất cả ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi cho rằng
muỗi đốt là một con đƣờng có thể làm lây truyền bệnh; 85,9% đồng ý với phát biểu
35
hôn ngƣời có HIV cũng sẽ bị lây bệnh; 81,2% nghĩ rằng dùng chung cốc uống nƣớc
với ngƣời có HIV sẽ bị lây bệnh; 78,1% chắc chắn rằng ăn cơm chung với ngƣời
nhiễm HIV cũng sẽ làm lây bệnh; 70,3% cho rằng ngủ chung giƣờng với ngƣời
nhiễm HIV sẽ bị lây bệnh; 60,9% đồng ý với phát biểu cầm tay hay ôm ngƣời
nhiễm HIV cũng sẽ bị lây bệnh. Trên thực tế, HIV/AIDS không lây truyền qua
đƣờng hô hấp hay nƣớc bọt. Cũng chƣa có bất kỳ trƣờng hợp nào trên thế giới báo
cáo về việc bị muỗi đốt làm lây nhiễm HIV. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng mặc dù đã có
những nhận thức đúng nhất định nhƣng ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng vẫn
còn rất nhiều cách hiểu sai về con đƣờng lây truyền HIV. Và một điều tất yếu khi
hiểu sai về bản chất bệnh cũng nhƣ con đƣờng lây bệnh thì cũng sẽ có những kiến
thức chƣa đúng về biện pháp phòng chống lây nhiễm. Đây là nội dung sẽ đƣợc bàn
tiếp ở phần dƣới.
2.3. Nhận thức về biện pháp phòng chống lây nhiễm HIV
Xuất phát từ những suy nghĩ, nhìn nhận về các con đƣờng lây nhiễm HIV nhƣ
trên đề cập, những ngƣời dân tham gia nghiên cứu bày tỏ một số quan niệm về các
biện pháp phòng chống lây nhiễm mà họ cho là có hiệu quả. Quan sát bảng 6 dƣới
đây chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Mặc dù tất cả đáp viên cho rằng cần phải sử
dụng các biện pháp an toàn khi quan hệ tìn dục nhƣ bao cao hay không dùng
chung bơm kim tiêm, nhƣng họ cũng bộc lộ những suy nghĩ chƣa thấu đáo về
phòng chống lây nhiễm HIV. Toàn bộ đáp viên tin rằng biện pháp mắc màn trƣớc
khi đi ngủ, tránh bị muỗi đốt có thể phòng lây truyền HIV. Gần 95% nghĩ rằng
không cầm tay, ôm, hôn ngƣời có HIV cũng là một cách tốt để phòng tránh lây
nhiễm. Có đến 89% cho rằng tránh ở cùng ngƣời có HIV tại bất kỳ nơi nào là một
36
biện pháp phòng tránh tốt.
Bảng 6: Một số nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu về các biện
pháp phòng tránh lây nhiễm HIV
STT
Quan niệm ngƣời dân về cách thức phòng tránh
Đúng (%)
Sai (%)
lây nhiễm HIV
1
Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục
100
0
2
Không dùng chung bơm kim tiêm
100
0
3 Mắc màn trƣớc khi đi ngủ
100
0
4
Không nói chuyện với ngƣời có HIV
78,1
21,9
5
Không dùng chung bát đũa/cốc chén với ngƣời có HIV
76,6
23,4
6
Không ăn uống cùng ngƣời có HIV
85,9
14,1
7
Không cầm tay, ôm, hôn ngƣời có HIV
93,75
6,25
8
Không mua đồ của ngƣời có HIV bán
87,5
12,5
9
Tránh ở cùng ngƣời có HIV tại bất kỳ nơi nào (nhà ở,
89,1
10,9
trƣờng học, quán ăn…)
Đặc biệt, dữ liệu thống kê ở bảng 6 cho thấy điểm mâu thuẫn giữa nhận thức
của ngƣời dân về con đƣờng lây truyền với lựa chọn của họ về biện pháp phòng
tránh lây bệnh. Chẳng hạn nhƣ có đến 67% ngƣời dân hiểu rằng nói chuyện với
ngƣời có HIV sẽ không thể làm lây bệnh, nhƣng tỷ lệ đáp viên lựa chọn cách không
nói chuyện với ngƣời có HIV để phòng tránh lây bệnh lên đến gần 80%. Hay có
khoảng 60% cho rằng mua đồ của ngƣời nhiễm HIV bán cũng không thể làm lây
bệnh, nhƣng có tới gần 90% ngƣời dân lựa chọn phƣơng án không mua đồ của
ngƣời có HIV bán để phòng tránh sự lây nhiễm. Rõ ràng có những mâu thuẫn giữa
quan niệm của ngƣời dân với thực hành của họ trên thực tiễn. Đây cũng là một gợi ý
cho công tác truyền thông. Thông tin định tính góp phần làm sáng rõ suy nghĩ của
37
ngƣời dân địa phƣơng:
“Ngƣời ta (ý chỉ ngƣời có HIV/AIDS) bán đồ ăn, rồi nhỡ ngƣời ta đứt tay
rớt máu vào đồ ăn, xong lại bán cho mình. Mình ăn vào rồi thì chắc chắn bị lây
còn gì. Thế nên không bao giờ chị mua đồ ngƣời ta bán”.
(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 31-YS, nữ, dân tộc Tày, 29 tuổi)
Có thể thấy rằng những nhận thức chƣa đúng về biện pháp phòng tránh lây
nhiễm bệnh dƣờng nhƣ bắt nguồn từ cách hiểu sai về bản chất bệnh và con đƣờng
lây bệnh ở ngƣời dân địa phƣơng về HIV/AIDS. Những nhận thức chƣa đúng này
không chỉ có thể dẫn đến các hành vi có tính nguy cơ lây nhiễm cao mà còn có thể
làm gia tăng sự kỳ thị, phân biệt đối xử với ngƣời có HIV/AIDS. Nỗi sợ mơ hồ
dƣờng nhƣ khiến ngƣời dân trở nên xa lánh, hạn chế tối đa sự tiếp xúc với những
ngƣời có HIV/AIDS để phòng tránh nguy cơ lây nhiễm. Đó là hệ lụy của việc thiếu
hụt kiến thức liên quan đến HIV/AIDS. Ngƣời dân chia sẻ thái độ này trong cả các
cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm:
“Tốt nhất là không liên quan gì. Thế là chả lây với truyền”.
(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 28-YS, nam, dân tộc Hmông, 29 tuổi)
“- Ông to mồm bảo nói chuyện với nó (ý chỉ ngƣời có HIV/AIDS) không
lây, thế ông có dám nói chuyện với bọn nó không?
- Tôi sợ cái quái gì?
- Thế ông bảo ăn cơm với bọn nó (ý chỉ ngƣời có HIV/AIDS) cũng không
lây đúng không? Bây giờ tôi cho ông 1 triệu, nếu ông dám ăn cơm cùng”.
(Thảo luận nhóm, ngƣời dân nhóm Tày, MS 06-LB)
2.4. Nhận thức về HIV/AIDS trong so sánh tộc ngƣời
Trong phần tiếp theo đây, tôi sẽ đi vào so sánh giữa hai nhóm tộc ngƣời
nghiên cứu là ngƣời Tày và Hmông để tìm ra những khác biệt trong suy nghĩ và
nhận thức của họ về phòng chống HIV/AIDS.
Trƣớc hết cũng cần phải lƣớt qua về đặc điểm hai nhóm tộc ngƣời này trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang. Trong cơ cấu dân số toàn tỉnh, nếu không kể đến dân tộc
Kinh (chiếm tỷ lệ lớn nhất với 334.993 ngƣời) thì dân tộc Tày là tộc ngƣời thiểu số
38
có số dân đông nhất (185.464 ngƣời). Trong khi đó, dân tộc Hmông lại chiếm tỷ lệ
ít hơn rất nhiều với 16.974 ngƣời, chỉ gần bằng 1/10 số dân của tộc ngƣời Tày
(GSO, 2010). Nhƣ vậy, xét về thành phần dân cƣ thì cộng đồng dân tộc Tày ƣu trội
hơn nhiều lần so với dân tộc Hmông ở tỉnh. Tại hai địa điểm chọn mẫu (huyện Yên
Sơn, huyện Lâm Bình), dân tộc Tày cũng hoàn toàn áp đảo ngƣời Hmông trong cơ
cấu dân số địa phƣơng nghiêng về. Cụ thể, theo báo cáo của Ủy ban Nhân dân
huyện Yên Sơn và Ủy ban Nhân dân huyện Lâm Bình trong năm 2014, tại huyện
Yên Sơn có 23.244 ngƣời Tày nhƣng chỉ có 7.568 ngƣời Hmông; tại huyện Lâm
Bình có 19.333 ngƣời Tày nhƣng chỉ có 2063 ngƣời Hmông (xem số liệu chi tiết tại
Bảng 2 và Bảng 3 trong phần Mở đầu).
Cùng với ƣu thế về dân số thì nhóm Tày cũng là cộng đồng có địa bàn tụ cƣ
gần kề ngƣời Kinh. Họ thƣờng sinh sống tại các thôn, xã dƣới chân núi, dƣới ven
đồi, gần ven suối hoặc gần các tuyến đƣờng giao thông chính, gần với thị tứ và các
khu vực trung tâm huyện lỵ. Do đó dân tộc Tày có điều kiện thuận lợi hơn trong
giao thƣơng với ngƣời Kinh. Trong khi đó, ngƣời Hmông lại thƣờng sinh sống ở
những khu vực có địa hình cao, cách xa thị tứ và trung tâm huyện lỵ. Chỉ tính tỷ lệ
số dân sinh sống ở thành thị với số dân sinh sống ở nông thôn của hai tộc ngƣời này
chúng ta đã có thể thấy rõ điều đó. Cụ thể, cả tỉnh Tuyên Quang có 11.681 ngƣời
Tày sinh sống ở thành thị chiếm 6,3% trong tổng số 18.5464 ngƣời Tày trên toàn
tỉnh; trong khi chỉ có 118 ngƣời Hmông sinh sống ở thành thị chiếm 0,7% trong
tổng số 16.974 ngƣời Hmông trên toàn tỉnh (GSO, 2010). Nhƣ vậy, có tới 99%
ngƣời Hmông ở Tuyên Quang sinh sống tại khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa.
Điều này khiến cho việc giao tác với các cộng đồng bên ngoài của ngƣời Hmông
dƣờng nhƣ bị hạn chế hơn rất nhiều.
Với những đặc trƣng tộc ngƣời nêu trên, có thể dễ đƣa đến giả thuyết về tƣơng
quan giữa trình độ phát triển kinh tế - xã hội của hai tộc ngƣời và sự tiếp nhận thông
tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS của họ. Chẳng hạn ngƣời ta có thể cho
rằng tộc ngƣời chiếm ƣu thế về dân số cộng với trình độ kinh tế - xã hội phát triển
hơn (trong luận văn này là trƣờng hợp ngƣời Tày) thì rất có thể sẽ nhận đƣợc nhiều
39
cơ hội tiếp cận các kênh truyền thông, nguồn thông tin truyền thông phòng chống
HIV/AIDS, và đƣơng nhiên sẽ có nhận thức tốt về phòng chống HIV/AIDS. Còn
tộc ngƣời yếu thế hơn trong luận văn này là trƣờng hợp ngƣời Hmông sẽ gặp nhiều
thách thức trong việc tiếp cận các kênh truyền thông, nguồn thông tin truyền thông
phòng chống HIV/AIDS, thì đƣơng nhiên sẽ có nhiều nhận thức chƣa đúng về
phòng chống HIV/AIDS.
Thế nhƣng thông tin thực địa hé mở rằng những suy nghĩ, nhìn nhận sai lệch
bộc lộ ở cả hai nhóm cộng đồng nghiên cứu Các dữ liệu định lƣợng sẽ góp phần
minh họa rõ hơn thực tế này.
Bảng 7: Nhận thức về bản chất bệnh HIV/AIDS của dân tộc Tày và
dân tộc Hmông
TT
Cách hiểu về bản chất bệnh
Tỷ lệ trả lời phân theo tộc ngƣời (%) Tổng
HIV/AIDS
(%)
Tộc ngƣời Tày
Tộc ngƣời Hmông
1 Là suy giảm hệ miễn dịch gây ra
28,1
26,6
54,7
các bệnh nhiễm trùng cơ hội
2 Là bệnh lao phổi
6,25
4,25
10,9
3 Là bệnh giang mai
7,9
9,4
17,3
4 Là bệnh ung thƣ
1,6
3,1
4,7
5 Là bệnh khác (xin ghi rõ)
6,2
6,2
12,4
50
50
100
Tổng
Bảng 7 cho thấy rằng tỷ lệ chênh lệch giữa ngƣời Tày và ngƣời Hmông xoay
quanh nhận thức về bản chất HIV/AIDS hết sức nhỏ. Trong số gần 55% ngƣời dân
trả lời HIV/AIDS là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội thì
ngƣời Tày chiếm 28%, nhỉnh hơn không đáng kể so với mức 27% đáp viên Hmông.
Nhƣng trong số gần 11% cho rằng HIV/AIDS là bệnh lao phổi thì tỷ lệ ngƣời Tày
40
nhận thức sai lại cao hơn một chút so với ngƣời Hmông.
Có thể thấy rằng tỷ lệ trả lời chƣa chính xác ở ngƣời Tày và ngƣời Hmông
quanh bản chất HIV/AIDS chênh lệch không đáng kể. Điều này cũng biểu hiện qua
nội dung trả lời của ngƣời dân hai nhóm về con đƣờng lây truyền HIV.
Bảng 8: Nhận thức của ngƣời dân tộc Tày và dân tộc Hmông về các
con đƣờng lây nhiễm HIV
STT Các trƣờng hợp có thể khiến chúng ta
Tỷ lệ trả lời phân theo tộc ngƣời (%) Tổng
bị lây nhiễm HIV
(%)
Tộc ngƣời Tày Tộc ngƣời Hmông
Đúng
Sai
Đúng
Sai
1 Quan hệ tình dục với ngƣời nhiễm HIV
50
0
50
0
100
2
50
0
50
0
100
Truyền máu/tiếp xúc vết thƣơng với máu ngƣời nhiễm HIV
3 Ăn cơm chung với ngƣời nhiễm HIV
37,5
12,5
40,6
9,4
100
4 Hôn ngƣời nhiễm HIV
42,2
7,8
43,7
6,3
100
5
Cầm tay hay ôm ngƣời nhiễm HIV
29,7
20,3
31,2
18,8
100
6 Ngủ chung giƣờng với ngƣời nhiễm HIV
34,4
15,6
35,9
14,1
100
7 Nói chuyện với ngƣời nhiễm HIV
15,6
34,4
17,2
32,8
100
8 Dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời
50
0
50
0
100
nhiễm HIV
9 Dùng chung cốc uống nƣớc với ngƣời
38,1
11,9
43,1
6,9
100
nhiễm HIV
10 Bị muỗi đốt
50
0
50
0
100
11 Mẹ nhiễm HIV lây truyền sang con khi sinh
50
0
50
0
100
12 Mua đồ của ngƣời nhiễm HIV bán
18,8
31,2
20,3
29,7
100
Bảng 8 trên cho thấy tỷ lệ nhận thức về con đƣờng lây truyền HIV/AIDS của
ngƣời dân tộc Tày và dân tộc Hmông chênh lệch không nhiều. Về nội dung bốn con
đƣờng lây truyền HIV chủ yếu (truyền dẫn máu, truyền dẫn tinh dịch/dịch âm đạo,
tiền phóng tinh, lây truyền chu sinh) thì tất cả đáp viên ngƣời Tày và ngƣời Hmông
41
đều lựa chọn đáp án đúng. Ở một số phƣơng án trả lời khác, ngƣời Hmông có vẻ trả
lời nhiều câu chƣa đúng hơn so với ngƣời Tày. Tuy nhiên, sự chênh lệch tƣơng đối
nhỏ. Tỷ lệ chênh lệch cao nhất (5%) thể hiện qua con số 38% ngƣời Tày đồng ý
rằng dùng chung cốc uống nƣớc với ngƣời nhiễm HIV sẽ làm lây bệnh, trong khi có
đến 43% đáp viên Hmông nhất trí. Có vẻ nhƣ tỷ lệ trả lời đúng ở ngƣời Tày nhỉnh
hơn ngƣời Hmông một chút. Sự chênh lệch dƣờng nhƣ thể hiện rõ nét hơn trong
phần trả lời về biện pháp phòng tránh lây truyền HIV/AIDS.
Bảng 9: Nhận thức của hai nhóm Tày và Hmông về các biện pháp
phòng tránh lây nhiễm HIV
STT
Các cách để phòng tránh sự lây
Tỷ lệ trả lời phân theo tộc ngƣời (%) Tổng
nhiễm HIV
(%)
Tộc ngƣời Tày Tộc ngƣời Hmông
Đúng
Sai
Đúng
Sai
1
Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục
50
50
0
100
0
2
Không dùng chung bơm kim tiêm
50
50
0
100
0
3 Mắc màn trƣớc khi đi ngủ
50
50
0
100
0
4
Không nói chuyện với ngƣời có HIV
46,9
31,2
18,8
100
3,1
5
46,9
29,7
20,3
100
3,1
Không dùng chung bát đũa/cốc chén với ngƣời có HIV
6
Không ăn uống cùng ngƣời có HIV
48,4
37,5
12,6
100
1,5
7
Không cầm tay, ôm, hôn ngƣời có HIV
48,4
45,35
4,75
100
1,5
8
Không mua đồ của ngƣời có HIV bán
45,3
4,75
42,2
7,75
100
9
46,9
3,15
42,2
7,75
100
Tránh ở cùng ngƣời có HIV tại bất kỳ nơi nào
Quan sát bảng 9 ở trên, chúng ta thấy ngƣời dân ở cả hai nhóm dƣờng nhƣ
nhận thức về con đƣờng lây truyền đúng nhƣng lại lựa chọn biện pháp phòng tránh
sai. Nhƣ đề cập ở phần trên, từ nỗi sợ mơ hồ về HIV/AIDS, ngƣời dân tộc thiểu số
tại địa phƣơng lựa chọn mọi cách để hạn chế tối đa sự tiếp cận với ngƣời có
42
HIV/AIDS, kể cả trong trƣờng hợp không thể bị lây nhiễm. Đáng chú ý là tỷ lệ nhận
thức đúng về con đƣờng lây truyền HIV/AIDS ở nhóm đáp viên ngƣời Tày cao hơn
so với ngƣời Hmông, nhƣng khi họ lựa chọn biện pháp phòng tránh lây bệnh thì lại
có tỷ lệ sai nhiều hơn các đáp viên Hmông. Đối chiếu với bảng 8 chúng ta thấy có
khoảng 16% ngƣời Tày cho rằng nói chuyện với ngƣời có HIV sẽ làm lây bệnh,
nhƣng lại có tới gần 47% đáp viên Tày lựa chọn phƣơng án không nói chuyện với
ngƣời có HIV để phòng tránh lây bệnh (bảng 9). Tƣơng tự, có độ 19% ngƣời Tày
đồng ý rằng mua đồ của ngƣời có HIV bán thì sẽ làm lây bệnh, nhƣng phải đến 45%
ngƣời Tày lựa chọn phƣơng án không mua đồ của ngƣời có HIV bán để phòng tránh
lây bệnh. Ở phần trả lời của ngƣời Hmông cũng bộc lộ tỷ lệ trả lời mâu thuẫn giữa
nhận thức và thực hành nhƣng thấp hơn so với ngƣời Tày.
Có vẻ nhƣ không có cách biệt đáng kể trong nhận thức và thực hành của hai
nhóm tộc ngƣời xoay quanh vấn đề phòng chống HIV/AIDS.
Nhận thức tộc ngƣời trong tƣơng quan với địa bàn sinh tụ
Thông tin định tính từ phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung lại hé mở
thêm rằng những ý kiến sai về bản chất bệnh chỉ biểu hiện ở cộng đồng dân tộc
thiểu số thuộc huyện Lâm Bình – huyện cách xa trung tâm thành phố Tuyên Quang
khoảng 100km và cách trung tâm thành phố Hà Giang khoảng hơn 100km đƣờng
bộ. Các ý kiến cho rằng HIV/AIDS là (1) bệnh về da nguy hiểm, (2) bệnh kim la,
(3) bệnh ho ác, (4) bệnh ghẻ lở, (5) bệnh lao phổi, (6) bệnh giang mai đều đƣợc đƣa
ra trong các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung với ngƣời dân huyện Lâm
Bình. Trong các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung tại huyện Yên
Sơn chỉ thấy xuất hiện một ý kiến hiểu sai về bản chất HIV/AIDS khi xem
HIV/AIDS là bệnh ung thƣ. Tuy nhiên, những ý kiến trả lời sai về con đƣờng lây
truyền và biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS vẫn thể hiện nhiều hơn ở
cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Lâm Bình. Dƣờng nhƣ cộng đồng dân tộc
thiểu số ở huyện Lâm Bình có sự khó khăn hơn trong tiếp cận thông tin truyền
thông; vì vậy mà kiến thức về phòng chống HIV/AIDS chƣa đƣợc tốt nhƣ cộng
đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn. Số liệu từ điều tra bảng hỏi càng củng cố
43
thêm luận điểm trên.
Bảng 10: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và
huyện Lâm Bình về bản chất HIV/AIDS
STT
Cách hiểu về bản
Tỷ lệ trả lời phân theo địa bàn sinh sống (%) Tổng
chất bệnh HIV/AIDS
(%)
Huyện Lâm Bình
Huyện Yên Sơn
1
Là suy giảm hệ miễn
12,5
42,2
54,7
dịch gây ra các bệnh
nhiễm trùng cơ hội
2
Là bệnh lao phổi
10,9
1,5
9,4
3
Là bệnh giang mai
17,3
3,2
14,1
4
Là bệnh ung thƣ
4,7
1,5
3,2
5
Là bệnh khác (xin
12,4
1,5
10,9
ghi rõ)
100
50
50
Tổng
Từ bảng 10, chúng ta có thể thấy tỷ lệ trả lời đúng của nhóm ngƣời dân huyện
Lâm Bình thấp hơn hẳn so với huyện Yên Sơn. Đối với phƣơng án cho rằng
HIV/AIDS là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội thì có
khoảng 12% ngƣời dân huyện Lâm Bình trả lời đúng, trong khi tỷ lệ trả lời đúng ở
các đáp viên huyện Yên Sơn là 42%. Ở các phƣơng án trả lời khác về bản chất
HIV/AIDS, các đáp viên huyện Lâm Bình lại có tỷ lệ trả lời sai cao hơn hẳn so với
huyện Yên Sơn. Chẳng hạn chỉ có 3,2% đáp viên dân tộc thiểu số huyện Yên Sơn
44
cho rằng HIV/AIDS là bệnh giang mai, thì tỷ lệ ở huyện Lâm Bình lên tới 14%.
Bảng 11: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và
huyện Lâm Bình về các con đƣờng lây nhiễm HIV
TT Các trƣờng hợp có thể khiến chúng
Tỷ lệ trả lời phân theo địa bàn
Tổng
ta bị lây nhiễm HIV
sinh sống (%)
(%)
Huyện Lâm Bình Huyện Yên Sơn
Đúng
Sai
Đúng
Sai
1
Quan hệ tình dục với ngƣời nhiễm HIV
50
0
50
0
100
2
50
0
50
0
100
Truyền máu/tiếp xúc vết thƣơng với máu ngƣời nhiễm HIV
3
Ăn cơm chung với ngƣời nhiễm HIV
46,9
3,1
31,2
18,8
100
4
Hôn ngƣời nhiễm HIV
48,4
1,5
37,5
12,6
100
5
Cầm tay hay ôm ngƣời nhiễm HIV
45,3
4,7
15,6
34,4
100
6
48,4
1,5
21,9
28,2
100
Ngủ chung giƣờng với ngƣời nhiễm HIV
7
Nói chuyện với ngƣời nhiễm HIV
31,3
18,8
1,5
48,4
100
8
50
0
50
0
100
Dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời nhiễm HIV
9
46,9
3,1
34,3
15,7
100
Dùng chung cốc uống nƣớc với ngƣời nhiễm HIV
10 Bị muỗi đốt
50
0
50
0
100
11 Mẹ nhiễm HIV lây truyền sang con khi
50
0
50
0
100
sinh
12 Mua đồ của ngƣời nhiễm HIV bán
32,8
17,2
6,3
43,7
100
Bảng 11 tiếp tục thể hiện rõ sự khác biệt trong nhận thức của ngƣời dân hai
huyện về con đƣờng lây truyền HIV. Nếu không xét đến các câu hỏi có tỷ lệ trả lời
bằng nhau, thì ở mỗi phƣơng án đƣa ra số ngƣời dân tộc thiểu số ở huyện Lâm Bình
luôn có tỷ lệ trả lời sai cao hơn ở huyện Yên Sơn rất nhiều. Ví dụ nếu khoảng 19%
ngƣời dân tộc thiểu số ở huyện Yên Sơn hiểu rằng ăn cơm chung với ngƣời có HIV
45
không thể làm lây bệnh thì con số đáp viên nhất trí với suy nghĩ đó ở huyện Lâm
Bình chỉ chiếm 3%. Tƣơng tự, nếu có tới 31% ngƣời dân tộc thiểu số huyện Lâm
Bình cho rằng nói chuyện với ngƣời nhiễm HIV cũng có thể làm lây bệnh, thì tỷ lệ
chọn phƣơng án trả lời đó ở huyện Yên Sơn là 1,5%.
So sánh số lƣợng trả lời ở mỗi phƣơng án trong bảng 11 về con đƣờng lây truyền
HIV thì đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Yên Sơn luôn có tỷ lệ trả lời đúng cao hơn
huyện Lâm Bình rất nhiều. Những số liệu này tiếp tục khẳng định chắc chắn hơn nữa
về sự tồn tại của mối quan hệ giữa địa bàn sinh sống với việc tiếp nhận kiến thức
truyền thông phòng chống HIV/AIDS của ngƣời dân tộc thiểu số hai huyện. Rõ ràng có
sự cách biệt đáng kể trong nhận thức ngƣời dân tại hai địa phƣơng về bản chất
HIV/AIDS. Dữ liệu định lƣợng này cho thấy mối liên hệ giữa cách biệt địa lý nơi sinh
tụ và mức độ tiếp nhận kiến thức truyền thông của ngƣời dân hai huyện nghiên cứu.
Thế nhƣng yếu tố cách biệt địa lý này có vẻ lại không thể hiện rõ nét trong suy
nghĩ và lựa chọn của ngƣời dân hai huyện về biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV:
Bảng 12: Nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số về các biện pháp phòng tránh
lây truyền HIV phân theo huyện
Tỷ lệ trả lời phân theo địa bàn
sinh sống (%)
Tổng
STT
Các cách để phòng tránh sự lây nhiễm HIV
Huyện Lâm Bình Huyện Yên Sơn
(%)
Đúng
Sai
Đúng
Sai
1
Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục
50
0
50
0
100
2 Không dùng chung bơm kim tiêm
50
0
50
0
100
3 Mắc màn trƣớc khi đi ngủ
50
0
50
0
100
4 Không nói chuyện với ngƣời có HIV
40,6
9,4
37,5
12,5
100
5 Không dùng chung bát đũa/cốc chén với
42,1
7,8
34,5
15,6
100
ngƣời có HIV
7,85
100
6 Không ăn uống cùng ngƣời có HIV
43,75
6,25
42,15
7 Không cầm tay, ôm, hôn ngƣời có HIV
46,9
3,1
46,85
3,15
100
8 Không mua đồ của ngƣời có HIV bán
45,3
4,7
42,2
7,8
100
9
45,3
4,7
43,8
6,2
100
Tránh ở cùng ngƣời có HIV tại bất kỳ nơi nào
46
Bảng 9 cho thấy ngƣời dân ở cả hai huyện cùng có xu hƣớng mâu thuẫn giữa
nhận thức với lựa chọn thực hành. Có thể yếu tố địa bàn tụ cƣ không nhất thiết tác
động đến việc ngƣời dân lựa chọn biện pháp phòng tránh lây nhiễm. Có lẽ ngƣời
dân phần nào hiểu về bản chất bệnh và các con đƣờng lây truyền, nhƣng họ lại có vẻ
chƣa “tin” và vẫn “sợ”. Điều này có thể sẽ khiến họ tìm mọi cách hạn chế tiếp xúc
với ngƣời có HIV/AIDS.
Một mặt, các kết quả nghiên cứu ban đầu này hàm chỉ rằng chƣa hẳn tộc ngƣời
có ƣu thế về số lƣợng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội (nhƣ ngƣời Tày) thì sẽ
tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS tốt hơn; và ngƣợc lại,
cũng chƣa thể khẳng định đƣợc rằng tộc ngƣời yếu thế về số lƣợng và trình độ phát
triển kinh tế - xã hội (nhƣ ngƣời Hmông) thì sẽ tiếp nhận kiến thức truyền thông
kém hơn.
Mặt khác, các phát hiện nghiên cứu cho thấy yếu tố cách biệt địa lý dƣờng nhƣ
tác động rất đáng kể tới khả năng tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống
HIV/AIDS. Cụ thể hơn, các cộng đồng sinh tụ ở những khu vực cách xa trung tâm
thành thị thì việc tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS sẽ gặp
nhiều thách thức hơn. Điều này vô hình trung ảnh hƣởng ngƣợc trở lại đến mức độ
nhận thức của ngƣời dân về chủ đề liên quan. Trong khi đó các cộng đồng sinh sống
gần trung tâm thành thị có nhiều khả năng tiếp nhận đƣợc kiến thức truyền thông và
nhận thức của ngƣời dân cũng có thể khả quan hơn.
Tiểu kết chƣơng 2
Qua những phân tích ở chƣơng 2, chúng ta thấy rằng mặc dù ngƣời dân tộc
thiểu số tại Tuyên Quang đã có những kiến thức đúng nhất định về phòng chống
HIV/AIDS nhƣng con số ngƣời dân bộc lộ những cách hiểu chƣa đúng vẫn còn khá
nhiều. Thực tế cho thấy ngay cả khi ngƣời dân hiểu đúng nhƣng lựa chọn thực hành
lại không tƣơng thích. Xét từ góc độ lý thuyết, điều này thể hiện thông điệp truyền
thông mới chỉ đạt ở giai đoạn 3 (làm cho nhóm đối tƣợng nhận biết thông điệp;
47
Nhóm đối tƣợng nhận thức, hiểu biết thông điệp; Nhóm đối tƣợng chấp nhận thông
điệp) trong tổng số năm giai đoạn, chứ chƣa thành công ở giai đoạn 4 và 5 (làm cho
đối tƣợng tin tƣởng thông điệp; Đối tƣợng hành động theo mục đích, yêu cầu của
thông điệp). Điều này gợi mở rằng sẽ rất cần có những chƣơng trình truyền thông
mang tính chiều sâu và thực chất hơn nữa để có thể làm chuyển biến nhận thức của
ngƣời dân tộc thiểu số tại các địa phƣơng xoay quanh phòng chống HIV/AIDS. Các
kết quả nghiên cứu so sánh tộc ngƣời cũng cho thấy rằng địa bàn sinh tụ dƣờng nhƣ
là một yếu tố quan trọng tác động tới khả năng tiếp nhận thông tin truyền thông của
ngƣời dân. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội ƣu trội hơn chƣa hẳn đã là
48
một yếu tố tác động tới mức độ nhận thức của tộc ngƣời.
Chƣơng 3: CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG TỪ GÓC ĐỘ “NGUỒN”
Trong lý thuyết về mô hình truyền thông mà Claude Shannon (1948) đƣa ra,
thì quá trình truyền thông bao gồm bảy yếu tố: Nguồn, thông điệp, kênh, ngƣời
nhận thông điệp, hiệu quả, yếu tố gây nhiễu, sự phản hồi. Theo mô hình này,
“nguồn” đóng vai trò là yếu tố mở đầu cho cả chuỗi các hoạt động liên quan tới quá
trình truyền thông. Việc truyền thông có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào
yếu tố “nguồn”. Chính vì vậy, luận văn này tiếp cận hoạt động truyền thông phòng
chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang bao gồm
cả yếu tố “nguồn”, mà cụ thể là cán bộ có trách nhiệm quản lý, tổ chức, thực hiện
hoạt động truyền thông (gọi chung là cán bộ truyền thông).
3.1. Chủ trƣơng
Công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu
số ở tỉnh Tuyên Quang đƣợc Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe cùng
Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh bắt đầu chú ý từ nhiều năm trƣớc. Trong
mỗi bản kế hoạch truyền thông theo từng tháng, từng quý lƣu tại hai trung tâm đều
nhấn mạnh “tăng cƣờng các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS ở vùng sâu vùng xa
và vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Tuy nhiên, do đặc thù về sự đa dạng tộc ngƣời,
đa dạng về văn hóa, sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội nên công tác
truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số luôn là một
nội dung khó thực hiện đối với không chỉ tỉnh Tuyên Quang nhƣ chia sẻ của một
cán bộ truyền thông:
“Việc tuyên truyền còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc ít ngƣời; năng lực chuyên môn của đội ngũ y sĩ còn hạn
chế; hệ thống loa truyền thanh của các xã, thôn, bản bị hƣ hỏng nhiều...”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 03-T, nam, 47 tuổi)
Qua điền dã thực tế tại địa phƣơng tôi nhận thấy các hình thức truyền thông
phòng chống HIV/AIDS với đối tƣợng là đồng bào dân tộc thiểu số đa phần vẫn là
hai kênh truyền thống qua tài liệu phát tay và qua hội họp thôn/xã và đƣợc tiến hành
49
tƣơng tự nhƣ với các đối tƣợng khác. Một cán bộ truyền thông nam cho biết:
“Bọn mình không xuất bản các tài liệu phát tay này, là chuyển về từ
tuyến tỉnh thôi. Chuyển về nhƣ nào thì bọn mình sử dụng nhƣ vậy… Các đối
tƣợng là ngƣời dân tộc thiểu số thì vẫn dùng những tài liệu này thôi. Vì nói
chung là những nội dung tuyên truyền thì giống nhau cả”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 08-H-YS, nam, 36 tuổi)
Vì vậy dƣờng nhƣ không có sự khác biệt trong hoạt động truyền thông phòng
chống HIV/AIDS ở cộng đồng dân tộc thiểu số so với các nhóm đối tƣợng khác. Sự
không phân biệt rõ ràng các nhóm đối tƣợng đích của chƣơng trình truyền thông
nhƣ vậy sẽ khó có thể đạt đƣợc hiệu quả truyền thông tốt.
Tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS đƣợc chuyển từ Trung tâm
Phòng chống HIV/AIDS và Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe tỉnh
Tuyên Quang về các Trung tâm Y tế huyện. Sau đó Trung tâm Y tế huyện sẽ phối
hợp với các đơn vị hữu quan nhƣ Phòng Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Phòng
Dân tộc, Phòng Văn hóa và Thông tin, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Huyện đoàn… để tổ
chức kế hoạch truyền thông ở các địa phƣơng trong huyện. Tài liệu truyền thông sẽ
đƣợc tiếp tục chuyển xuống tuyến xã/thôn và công tác truyền thông chủ yếu đƣợc
thực hiện bởi cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, cán bộ y tế xã/thôn. Thực tế các cán bộ địa phƣơng phải khắc phục sự
thiếu thốn thiết bị, cơ sở vật chất cũng nhƣ sự cách trở về địa lý:
“Không có loa đài, không có tivi, đƣờng đi lại khó khăn. Cũng chỉ có
cách tuyên truyền nhƣ thế thôi. Nếu muốn thay đổi thì anh nghĩ phải xây dựng
lại hệ thống phƣơng tiện vật chất trƣớc”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 15-TX, nam, 32 tuổi)
Mặc dù chủ trƣơng “tăng cƣờng các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS ở
vùng sâu vùng xa và vùng đồng bào dân tộc thiểu số” luôn đƣợc đặt ra nhƣng trên
thực tế công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc
thiểu số chƣa thực sự đƣợc quan tâm đúng mức. Một cán bộ nhận định:
“Có truyền thông trong đồng bào dân tộc ít ngƣời chứ. Nhƣng nếu để nói
50
là làm chƣơng trình tuyên truyền riêng cho đối tƣợng là đồng bào dân tộc ít
ngƣời thì đúng là chƣa có đâu. Vì các chƣơng trình truyền thông chủ yếu nhằm
vào các đối tƣợng “hạt sạn” chính nhƣ là ngƣời sử dụng ma túy, nữ bán dâm”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 02-T, nam, 43 tuổi)
Có vẻ nhƣ hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng
dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang vẫn là một bức tranh chƣa hoàn thiện. Mặc dù
đã có những cố gắng nhất định, nhƣng đội ngũ thực hiện công tác truyền thông vẫn
bộc lộ những hạn chế nhất định.
“Chúng tôi cũng không phủ nhận rằng việc tuyên truyền trong đồng bào
dân tộc ít ngƣời còn chƣa hiệu quả, nhƣng chúng tôi cũng đã rất nỗ lực. Bạn
biết đấy, trong hoàn cảnh thiếu thốn về con ngƣời, tài chính, thiếu thốn cả cơ
sở vật chất, phƣơng tiện khoa học kỹ thuật nhƣ thế này thì rất khó khăn đối với
chúng tôi. Bạn về các địa phƣơng bạn sẽ rõ, có những nơi điện nƣớc còn chƣa
có đâu”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 02-T, nam, 43 tuổi)
3.2. Thực tiễn hoạt động truyền thông
3.2.1. Từ thực hành gán nhãn
Nhiều chia sẻ của cán bộ truyền thông từ các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận
nhóm tập trung cho thấy họ có xu hƣớng “gán nhãn” trong hoạt động truyền thông
của mình. Theo lời một nữ truyền thông viên:
“- Nhiều khi nói mãi nhƣng ngƣời ta không vỡ (ý nói ngƣời dân tộc thiểu
số tại địa phƣơng không hiểu). Nên bọn chị càng phải làm cho họ sợ.
- Sao lại phải làm cho họ sợ hả chị?
- Sợ thì mới biết mà tránh ra chứ! Nói để mà hiểu có mà đến mùa khoai
sọ năm sau, nhƣng mà làm cho họ sợ thì họ khác biết tránh.
- Vậy mình làm cho họ sợ nhƣ thế nào ạ?
- Mình cứ lấy mấy cái hình ảnh ngƣời bị ết (ý chỉ AIDS) lên, nhìn có phát
khiếp ngay. Rồi có khi bọn chị lấy ví dụ để họ thấy là bị ết nó khổ sở nhƣ nào,
kinh khủng thế nào. Họ sợ thì tất nhiên họ cũng sẽ biết đƣờng mà tránh xa ra”.
51
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 17-TX, nữ, 33 tuổi)
Chia sẻ của nữ cán bộ này cho thấy sự vận dụng “gán nhãn” trong thực hành
truyền thông ở cấp cơ sở. Hiểu một cách đơn giản nhƣ Frank Tannenbaum, Howard
Becker và Jensen (2007) định nghĩa thì “gán nhãn” (labeling) là một quá trình phản
ứng xã hội mang tính cứng nhắc bởi các đối tƣợng cụ thể, trong đó, mọi ngƣời sẽ
tiếp xúc, đánh giá và xác định (gán nhãn) cho một ai đó hoặc hành vi nào đó là lệch
chuẩn, sau đó lôi kéo niềm tin của cộng đồng nhằm đánh giá hành vi theo hƣớng
tiêu cực và các cá nhân sẽ đƣợc lựa chọn để gán cho nhãn tiêu cực này (Gary
Jensen, 2007). Trong trƣờng hợp ngƣời cán bộ trên, sự gán nhãn đƣợc thể hiện qua
việc chị cố gắng chứng minh và thuyết phục ngƣời dân địa phƣơng tin rằng tình
trạng có HIV/AIDS là “kinh khủng” và ngƣời có HIV/AIDS là xấu. Bằng việc sử
dụng hình ảnh “phát khiếp” về ngƣời có HIV/AIDS, nữ cán bộ truyền thông này ra
sức làm cho ngƣời dân tin rằng, việc có HIV/AIDS là điều đáng sợ cần tránh xa.
Đáng chú ý là không chỉ cá nhân nữ cán bộ truyền thông vận dụng cách gán
nhãn mang tính kỳ thị về HIV/AIDS mà phần lớn các cán bộ truyền thông tham gia
nghiên cứu đều có thực hành tƣơng tự. Số liệu từ phỏng vấn bảng hỏi (xem bảng 13
dƣới đây) cho thấy có tới gần 74% cán bộ truyền thông trả lời phỏng vấn xác nhận
rằng mình có sử dụng hình ảnh tiêu cực về ngƣời có HIV/AIDS để truyền thông.
Bảng 13: Thực hành gán nhãn của cán bộ truyền thông phòng chống
HIV/AIDS tại cộng đồng dân tộc thiểu số
Anh/chị có từng sử dụng các cách sau khi thực Có Không Không biết
hiện truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong (%) (%) (%) cộng đồng dân tộc thiểu số?
Sử dụng hình ảnh xấu xí về người có HIV/AIDS 73,8 26,2 0
69 31 0
Sử dụng các ví dụ kinh khủng và khổ sở vì có HIV/AIDS
Có thể là khả quan nếu thực hành truyền thông gán nhãn này chỉ khiến ngƣời
dân tộc thiểu số tại địa phƣơng có ý thức phòng chống HIV/AIDS tốt hơn, tránh
52
thực hiện những hành vi có nguy cơ lây nhiễm. Thế nhƣng thực tế lại phức tạp hơn
bởi lẽ thực hành “gán nhãn” đầy kỳ thị lại dẫn đến hệ lụy tiêu cực hơn. Nó càng
nhấn thêm tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử mà những cá nhân có HIV/AIDS
đang phải gánh chịu tại cộng đồng dân tộc thiểu số. Goffman (2006) từng biện luận
rằng hành vi “nhục mạ” (humiliation) và “gán nhãn” (labeling) là hai tác nhân quan
trọng định hình sự kỳ thị (stigma) và phân biệt đối xử (discrimination) (Sarah
Nettleton, 2006). Cũng nhƣ Bruce Link và Jo Phelan (2001) đã chỉ ra rằng, sự kỳ thị
chỉ tồn tại khi có sự phân biệt cá nhân và gán nhãn cho các biến thể của con ngƣời
trong xã hội; theo đó, các cá nhân đã đƣợc gán nhãn sẽ đƣợc đặt trong một nhóm
riêng biệt, nhằm thiết lập một ý thức để phân cách rõ ràng ranh giới giữa “chúng ta”
và “chúng nó”; từ đó, các cá nhân đã đƣợc gán nhãn sẽ trải qua “việc đánh mất địa
vị xã hội và bị phân biệt đối xử” theo sự phân định ranh giới giữa nhóm “chúng ta”
và nhóm “chúng nó” đã đƣợc lập ra trƣớc đó (Bruce Link & Jo Phelan, 2001). Việc
cán bộ truyền thông gán nhãn ngƣời có HIV/AIDS là “phát khiếp” vô hình trung
càng khơi sâu ranh giới cách ngăn giữa những ngƣời có HIV/AIDS và cộng đồng.
Theo cách phân định này, những ngƣời có HIV/AIDS đƣợc khách thể hóa (“chúng
nó”), hay theo ngôn ngữ lý thuyết Nhân học, trở thành “Other”-tạm dịch: Cái khác
(ta) (Ortner, 2009). Những thành viên còn lại khác không có HIV/AIDS đƣợc nhóm
lại dƣới danh xƣng “chúng ta”. Và không có gì là ngạc nhiên khi các cá nhân có
HIV/AIDS sẽ dẫn đến bị cô lập và đối xử nhƣ một nhóm ngƣời có lỗi với cộng
đồng. Điều này liên quan trực tiếp các quan niệm đƣơng thời về các hiện tƣợng tiêu
cực trong xã hội, vốn thƣờng đƣợc gom dƣới cụm từ “tệ nạn xã hội”.
3.2.2. Đến diễn ngôn “tệ nạn xã hội”
Thông tin định tính cho thấy xu hƣớng gắn tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS
với các đánh giá về mặt đạo đức xã hội. Một số thành viên tham gia thảo luận nhóm
chia sẻ các suy nghĩ dƣới đây:
“- Nói chung là đã bị ết (ý chỉ AIDS) thì cũng không phải dạng bình thƣờng.
- Đúng rồi. Nói thì bảo ghê ghớm, chứ thử hỏi cả cái cái xã hội này ai tử
tế mà lại bị ết?”.
53
(Thảo luận nhóm, cán bộ truyền thông, MS 04-TX, nhóm 3 ngƣời)
Theo cách suy luận này, thì ngƣời có HIV/AIDS đƣợc coi nhƣ là những
trƣờng hợp điển hình của tệ nạn xã hội. Điều này có liên quan đến những diễn ngôn
về “tệ nạn xã hội” ở Việt Nam. Cụ thể, đầu những năm 1990 việc cổ động xây dựng
gia đình hạnh phúc ở nƣớc ta luôn đi đôi với các chiến dịch phòng chống tệ nạn xã
hội. Mà theo đó thì văn hóa phẩm khiêu dâm, mại dâm, cờ bạc, nghiện hút, bao gồm
cả HIV/AIDS đƣợc coi nhƣ là những “tệ nạn đạo đức” gây ra thách thức, làm mất
ổn định quốc gia và gia đình (Montoya, 2012). Đặc biệt trong bối cảnh dịch
HIV/AIDS ở Việt Nam tập trung chủ yếu trên nhóm ngƣời sử dụng ma túy và ngƣời
hành nghề mại dâm, thì từ năm 2002, Chính phủ đã thành lập Ủy ban Quốc gia về
Phòng chống AIDS, ma túy, mại dâm bao gồm các thành viên của Cục Phòng chống
Tệ nạn Xã hội thuộc quản lý của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội. Từ đó, các
diễn ngôn về tệ nạn xã hội dƣờng nhƣ đƣợc thể chế hóa khi gắn liền với HIV/AIDS,
ma túy, mại dâm. Vì vậy mà củng cố quan niệm rằng những ngƣời có HIV/AIDS và
những ngƣời lao động tình dục là hiện thân sống động cho những tệ nạn xã hội cần
bài trừ (Nguyễn Thu Hƣơng & Tine Gammeltoft, 2014). Nhƣ vậy, sự phổ biến của
diễn ngôn cho rằng HIVAIDS là hệ lụy của tệ nạn xã hội phần nào bắt nguồn từ
những chính sách của Chính phủ (USAID, 2010). Các diễn ngôn này góp phần xây
dựng niềm tin rằng tình trạng có HIV/AIDS là một dạng “phi đạo đức” luôn đồng
hành với câu hỏi “chắc nó phải làm sao thì mới bị HIV?” (Lƣơng Anh Ngọc &
Phan Hồng Giang, 2012). Mặc dù, việc có HIV không phải lúc nào cũng là từ lý do
tệ nạn xã hội nhƣ tiêm chích ma túy, mại dâm… mà có thể ngƣời có HIV bị lây từ
chồng, lây từ mẹ sang con…
Dƣờng nhƣ ám ảnh sợ hãi về ngƣời có HIV/AIDS khiến ngƣời dân địa phƣơng
trở nên xa lánh, hạn chế tối đa sự tiếp xúc với những ngƣời có HIV/AIDS để phòng
tránh việc lây bệnh. Đó có thể là hệ lụy từ áp dụng “gán nhãn” không phù hợp trong
hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Xét ở góc độ can thiệp, đây sẽ là
yếu tố gây cản trở quá trình phòng chống HIV/AIDS nói chung, đồng thời khiến
cho truyền thông phòng chống HIV/AIDS sẽ càng khó khăn hơn trong quá trình tác
54
động từ thay đổi nhận thức đến thay đổi thái độ thực hành của ngƣời dân.
Có thể nói việc truyền thông để ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng hiểu về
mức độ nguy hại của HIV/AIDS là hết sức cần thiết; tuy nhiên, cách thức truyền tải
các thông tin nhƣ thế nào lại là điều hết sức quan trọng. Thực tế một số địa
phƣơng trên cả nƣớc đã vận dụng thành công mô hình truyền thông dựa vào các
nhóm đồng đẳng viên - Những ngƣời có HIV/AIDS truyền thông phòng chống
HIV/AIDS (Dự án Giáo dục đồng đẳng phòng chống HIV/AIDS tại các trung
tâm Giáo dục lao động xã hội của Hà Nội, Thái Nguyên, Khánh Hoà, 2005). Do
vậy, nếu sử dụng hình ảnh ngƣời có HIV/AIDS một cách phù hợp, nhất là những
câu chuyện có thực trong cộng đồng, thì hiệu quả truyền thông hẳn sẽ đạt đƣợc.
3.2.3. Đánh giá hậu truyền thông bị “bỏ ngỏ”
Theo dõi sơ đồ 1 trong chƣơng 1 của luận văn này, chúng ta có thể thấy rằng
trong mô hình truyền thông mà Claude Shannon đƣa ra, không thể thiếu yếu tố E
(Effect) là hiệu quả truyền thông và F (Feedback) là sự phản hồi hoạt động truyền
thông. Tuy nhiên, thực tế công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở tỉnh
Tuyên Quang lại chƣa chú trọng đến hai yếu tố này. Hay nói cách khác là hai yếu tố
E và F vẫn còn vắng bóng trong quy trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở
cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang.
Dựa vào các văn bản thứ cấp thu thập đƣợc, tôi nhận thấy chƣa có bất kỳ một
hoạt động nào đƣợc cán bộ truyền thông cũng nhƣ đơn vị truyền thông tại địa
phƣơng triển khai để đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ, hành vi của ngƣời dân
tộc thiểu số tại địa phƣơng. Mục đích truyền thông là để thay đổi nhận thức, thái độ
và hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS của đồng bào dân tộc thiểu số tại địa
phƣơng, nhƣng trƣớc khi thực hiện truyền thông và sau khi thực hiện truyền thông
lại không có đánh giá hiệu quả xem có sự thay đổi không, và nếu có thì sự thay đổi
đó là tích cực hay tiêu cực.
Tại địa phƣơng, các đơn vị hữu quan thƣờng có các báo cáo kết quả triển khai
theo từng tháng của hoạt động phòng chống HIV/AIDS nói chung, và nội dung
tuyên truyền là một trong những nội dung chủ đạo. Rà soát các báo cáo này tôi thấy
55
thiếu vắng sự đánh giá kết quả truyền thông sau mỗi lần hay mỗi buổi truyền thông
cụ thể, thay vào đó chỉ là các báo cáo theo từng tháng thực hiện truyền thông. Vì
rằng kế hoạch phòng chống HIV/ADIS (trong đó có nội dung truyền thông) đƣợc
triển khai theo từng tháng. Mỗi một tháng lại có từng chủ điểm khác nhau. Ví dụ
nhƣ “Hƣớng tới không còn trẻ em lây truyền HIV từ mẹ”, hay “Hƣớng tới không kỳ
thị và phân biệt đối xử với ngƣời có HIV/AIDS”.
Phản hồi từ cán bộ truyền thông minh họa thực tiễn tại địa phƣơng:
“- Sau các buổi truyền thông thì bọn anh không có đánh giá gì cả đâu.
Thƣờng thì bọn anh truyền thông theo đợt là từng tháng một. Mỗi tháng là một
chủ điểm, một kế hoạch truyền thông lớn.
- Vậy tức là bên mình đánh giá hoạt động truyền thông theo từng tháng ạ?
- Đúng rồi. Vì tổ chức kế hoạch là theo tháng mà. Mỗi tháng là một chủ
điểm. Cuối mỗi tháng thì có đánh giá. Nói chính xác thì là làm báo cáo kết quả
triển khai để còn lƣu và gửi báo cáo cho tuyến trên.
- Mình đánh giá và báo cáo những nội dung gì trong hoạt động truyền
thông phòng chống HIV/AIDS vậy anh?
- Bọn anh tổng kết xem truyền thông đƣợc bao nhiêu buổi; số lƣợng các
băng rôn, khẩu hiệu với áp phích mà mình đã treo; số lƣợng các tờ gấp bƣớm,
tài liệu phát tay cho ngƣời dân; với số lƣợng ngƣời dân tham gia các buổi
tuyên truyền nữa. Thế thôi. Ngoài ra thì trong báo cáo còn tổng kết công tác
tham mƣu chỉ đạo, công tác chuyên môn, công tác giám sát, các hạn chế với
khuyến nghị”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 14- TX, nam, 37 tuổi)
Nhƣ vậy, xét trong trƣờng hợp báo cáo triển khai hoạt động phòng chống
HIV/AIDS ở tỉnh Tuyên Quang nói trên thì mới chỉ dừng lại ở việc mô tả kết quả
các hoạt động mình đã làm đƣợc với những số liệu thô đơn giản nhƣ số buổi tuyên
truyền, số ngƣời tham gia, số tài liệu đƣợc phát ra… Đó chƣa phải là báo cáo về
mức độ hiệu quả truyền thông. Bởi lẽ báo cáo hiệu quả truyền thông phải dựa trên
sự đánh giá về thay đổi kiến thức, thái độ, hành vi của đối tƣợng mục tiêu trƣớc và
56
sau khi truyền thông. Từ sự đánh giá về thay đổi kiến thức, thái độ, hành vi thì
chúng ta mới có cơ sở để đo lƣờng đƣợc rằng hoạt động truyền thông có thực sự
hiệu quả hay không. Việc cán bộ truyền thông đã thực hiện bao nhiêu cuộc tuyên
truyền, phát đƣợc bao nhiêu tài liệu phát tay, thu hút đƣợc bao nhiêu ngƣời tham
gia… không phải là cơ sở khoa học để có thể kết luận về tính hiệu quả của chƣơng
trình truyền thông.
3.2.4. Thiếu vắng phản hồi từ ngƣời dân
Quan sát sơ đồ về mô hình truyền thông của Claude Shannon (sơ đồ 1) trong
phần đầu chƣơng 1, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra rằng yếu tố “phản hồi” (F:
Feedback) là khâu cuối cùng trong chuỗi các thành phần của quá trình truyền thông
nhƣng nó lại đóng vai trò quan trọng khi “tái thiết lập” yếu tố “nguồn” (S: Source,
Sender) của quá trình truyền thông. Cụ thể, sau truyền thông các ý kiến phản hồi từ
đối tƣợng mục tiêu sẽ đƣợc tiếp nhận, từ đó làm cơ sở để đánh giá hiệu quả sau
truyền thông, đồng thời tái thiết lập nguồn truyền thông cho phù hợp với đối tƣợng
mục tiêu, nhằm mục đích tăng tính hiệu quả của các chƣơng trình truyền thông kế
tiếp. Tuy nhiên, hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng
dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang lại bỏ qua yếu tố quan trọng này.
“- Ngƣời dân thƣờng phản hồi nhƣ thế nào sau các chƣơng trình truyền
thông vậy anh?
- Bình thƣờng.
- Tức là ngƣời dân phản hồi tốt hay chƣa tốt về các chƣơng trình truyền
thông phòng chống HIV/AIDS của mình ạ?
- Thật ra là bọn anh thực hiện truyền thông xong là thôi mà em. Báo cáo
với tuyến trên thì có chứ bọn anh không hỏi ý kiến phản hồi của ngƣời dân.
Nhƣng ngƣời dân họ cũng không có ý kiến ý cò gì đâu”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 14-TX, nam, 37 tuổi)
Trích đoạn phỏng vấn sâu phần nào cho chúng ta thấy tình trạng cán bộ truyền
thông và đơn vị truyền thông đang bỏ qua khâu thu nhận ý kiến phản hồi của ngƣời
dân tộc thiểu số tại địa phƣơng về các chƣơng trình truyền thông phòng chống
57
HIV/AIDS. Đáng chú ý là không chỉ khâu tiếp nhận ý kiến phản hồi của ngƣời dân
địa phƣơng (đối tƣợng mục tiêu) vẫn chƣa đƣợc thực hiện mà có vẻ nhƣ các cán bộ
truyền thông (nguồn) có khuynh hƣớng tráo lộn trách nhiệm giữa “ngƣời làm truyền
thông” và “ngƣời đƣợc truyền thông” (đối tƣợng mục tiêu). Cụ thể, cán bộ truyền
thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên
Quang là ngƣời chịu trách nhiệm cho việc thực hiện chƣơng trình truyền thông, bao
gồm cả hoạt động lấy ý kiến phản hồi của ngƣời dân. Việc ngƣời dân chƣa đƣa ra
phản hồi không có nghĩa là ngƣời dân không có sự phản hồi. Và đặc biệt, không thể
“đẩy” trách nhiệm phản hồi cho ngƣời dân. Ngƣời dân địa phƣơng đƣợc coi là đối
tƣợng mục tiêu, tức là những ngƣời “thụ hƣởng” quyền lợi từ chƣơng trình truyền
thông. Còn cán bộ truyền thông là ngƣời chịu trách nhiệm về tính hiệu quả của
chƣơng trình truyền thông, và để đánh giá tính hiệu quả đó thì cán bộ truyền thông
có trách nhiệm cần phải lấy ý kiến phản hồi của ngƣời dân về chƣơng trình truyền
thông. Thế nhƣng, thái độ đánh đồng chuyện ngƣời dân “chƣa đƣa ra ý kiến phản
hồi” với việc ngƣời dân “không có ý kiến phản hồi” là tráo đổi trách nhiệm giải
trình một cách khôn khéo. Từ những diễn giải trên, đồng thời dựa trên mô hình về
truyền thông của Claude Shannon, tôi phác họa quy trình truyền thông phòng chống
HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang nhƣ sau:
Sơ đồ 2: Quy trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân
tộc thiểu tố tại tỉnh Tuyên Quang
N
S
C
R
E
M
F
58
Quan sát sơ đồ 2 trên đây, chúng ta có thể thấy quy trình truyền thông phòng
chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang đã có các
yếu tố S (Source, Sender) chính là nguồn phát thông điệp truyền thông hay còn gọi
là chủ thể truyền thông; M (Message) là thông điệp, nội dung truyền thông; C
(Chanel) là kênh truyền thông; R (Receiver) là ngƣời nhận thông điệp (đối tƣợng);
N (Noise) là nhiễu (yếu tố gây ra sai số cản trở thông điệp). Tuy nhiên, hai yếu tố là
E (Effect) - Hiệu quả truyền thông và F (Feedback) - Sự phản hồi, thì lại nằm ngoài
quy trình truyền thông, không có sự liên kết với các yếu tố khác trong quy trình
truyền thông. Trong khi đó, yếu tố đánh giá hiệu quả (E) và thu nhận sự phản hồi
(F) lại đóng vai trò quan trọng trong việc tái thiết lập chƣơng trình truyền thông.
Hai yếu tố này giúp cho đơn vị truyền thông và cán bộ truyền thông có thể xác định
rõ ràng hơn về sự phù hợp giữa nguồn truyền thông, thông điệp truyền thông với
đối tƣợng mục tiêu nhận thông điệp truyền thông. Trong trƣờng hợp có sự không
phù hợp, việc điều chỉnh nguồn và điều chỉnh thông điệp truyền thông sẽ giúp tăng
tính hiệu quả của chƣơng trình truyền thông.
3.2.5. Tình trạng kiêm nhiệm trong phân bổ cán bộ
Qua các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung, tôi thấy tình trạng một
cán bộ truyền thông cấp cơ sở thôn xã (ngƣời trực tiếp thực hiện hoạt động truyền
thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số) phải kiêm nhiệm
quá nhiều nội dung và lĩnh vực truyền thông. Điều này dƣờng nhƣ phản ánh thực
trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ chuyên môn về y tế và truyền thông làm việc tại
các cơ sở thôn xã (Bộ Y tế, 2014). Mặc dù trong luận văn này tôi gọi chung những
ngƣời làm công tác truyền thông tại cơ sở thôn/xã là “cán bộ truyền thông”, nhƣng
trên thực tế họ không đƣợc gọi tên chính thức là “cán bộ truyền thông” mà đƣợc gọi
là “cộng tác viên truyền thông”. Bởi họ vốn là cán bộ chuyên môn thuộc một
ban/ngành/đoàn thể khác: Cán bộ y tế, cán bộ hội phụ nữ, cán bộ đoàn thanh niên…
Nhƣ đề cập ở chƣơng một luận văn, cán bộ truyền thông cấp cơ sở thôn xã chủ
yếu là cán bộ y tế, cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản
59
Hồ Chí Minh. Khi nhận đƣợc kế hoạch chỉ đạo từ tuyến trên, thì họ sẽ tổ chức các
cuộc họp cộng đồng hoặc đến tận nhà ngƣời dân để phát tài liệu, tuyên truyền kiến
thức phòng chống HIV/AIDS theo hƣớng dẫn. Điều đáng nói là vẫn những cán bộ
ấy, sẽ lại là ngƣời tổ chức họp hoặc đến từng nhà ngƣời dân để tuyên tuyền về sức
khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, bảo hiểm y tế, vấn đề dinh dƣỡng cho trẻ em,
phòng bệnh lây nhiễm theo mùa… Tức là xảy ra tình trạng một cán bộ nhƣng lại
làm công tác truyền thông cho nhiều ban ngành khác nhau. Trích dẫn phỏng vấn sâu
dƣới đây giúp mô tả thực tiễn này:
“Bọn chị làm tuốt. Tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình, mỗi nhà sinh hai
con, cho đến sức khỏe phụ khoa, sinh đẻ, chống bạo lực gia đình”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 17-TX, nữ, 33 tuổi)
“- Có khi bọn em cũng ghép các nội dung vào với nhau. Nhƣ là hƣớng
dẫn sử dụng bao cao su tránh thai thì tuyên tuyền luôn cả mỗi gia đình nên đẻ
ít con để không vất vả.
- Tức là đoàn thanh niên các em tuyên truyền cả về sức khỏe sinh sản, kế
hoạch hóa gia đình?
- Vầng. Tất anh ạ. Mà có khi cái đó ngƣời ta còn quan tâm hơn cả HIV”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 18-TX, nữ, 16 tuổi)
Có thể thấy một cán bộ truyền thông kiêm nhiệm nhiều vấn đề khác nhau từ
dân số, kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh sản cho đến bạo lực gia đình. Tình
trạng quá tải này khiến các cán bộ thƣờng ít có cơ hội nắm bắt kiến thức sâu về
những nội dung công việc mà họ đảm nhiệm. Chƣa kể rằng, bản thân cán bộ truyền
thông cấp cơ sở thôn xã không phải là đội ngũ nhân viên y tế đƣợc đào tạo bài bản
(chủ yếu là trình độ trung cấp hoặc thậm chí mới ở mức sơ cấp), cũng không phải là
đội ngũ đƣợc đào tạo truyền thông chuyên nghiệp (vấn đề này sẽ đƣợc tôi bàn kỹ
hơn trong chƣơng sau). Việc kiêm nhiệm truyền thông cho nhiều vấn đề cùng lúc
nhƣ trên có thể khiến cán bộ cấp cơ sở dễ phạm sai sót khi triển khai các hoạt động
truyền thông. Một cán bộ cơ sở chia sẻ trải nghiệm công việc:
“- Đã có lần nào các em bị nhầm lẫn khi mà phải phụ trách truyền thông
60
nhiều nội dung nhƣ vậy?
- Nhầm thì không nhƣng mà thật ra đôi khi bọn em tuyên truyền nhƣng
cũng không biết nó có đúng không.
- Tức là các em nghi ngờ nó sai nhƣng vẫn truyền thông hả?
- Vâng. Thì tài liệu với kế hoạch thế nào thì bọn em làm theo thôi. Đã in
thành tài liệu thì chắc nó đúng.
- Ví dụ cho anh một trƣờng hợp mà em thấy thông tin truyền thông có vẻ
không đúng đƣợc không?
- Ví dụ à? Nhƣ là bảo muỗi đốt không lây truyền HIV ấy. Em không
đƣợc tin lắm. Có khi chỉ là nói vậy cho ngƣời dân đỡ sợ thôi”
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 18-TX, nữ, 16 tuổi)
Trích đoạn phỏng vấn sâu nói trên khẳng định sự thiếu hụt các hiểu biết và
kiến thức cần thiết ở chính đội ngũ cán bộ truyền thông. Trong bối cảnh bản thân nữ
cán bộ truyền thông này cũng “nghi ngờ” chính những thông điệp mà mình truyền
tải nhƣ vậy, thì liệu rằng công tác truyền thông đạt đƣợc mức độ hiệu quả đến đâu.
Rõ ràng, trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực có trình độ chuyên môn về y tế và
truyền thông làm việc tại các cơ sở thôn xã nhƣ hiện nay thì tình trạng kiêm nhiệm
của cán bộ truyền thông đƣợc xem là cách thích ứng tích cực với các khó khăn
mang tính khách quan (Bộ Y tế, 2014). Thế nhƣng, đội ngũ cán bộ truyền thông ít
nhất cũng phải đƣợc đào tạo để nắm vững các kiến thức cơ bản về nội dung truyền
thông họ sẽ đảm nhiệm.
3.2.6. Ùn đẩy trách nhiệm hay phối hợp liên ngành lỏng lẻo
Để thực hiện tốt công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng
đồng dân tộc thiểu số, đòi hỏi sự quyết tâm của không chỉ một mình cán bộ y tế mà
còn cần có sự tham gia của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Nhiều nghiên cứu và
kinh nghiệm thực tế chứng minh, sự phối hợp giữa các cấp và các ban ngành khác
nhau là tiền đề cho việc truyền thông toàn diện và hiệu quả (Hà An, 2014). Tuy
nhiên, trong quá trình phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung tôi thấy rằng sự
phối hợp của cán bộ truyền thông giữa các cấp, các ban/ngành khác nhau tại tỉnh
61
Tuyên Quang còn hết sức mờ nhạt.
Trƣớc hết là xu hƣớng “ùn đẩy” trách nhiệm giữa cán bộ truyền thông ở các
ban ngành khác nhau.
“- Y: Chị nghĩ là cái này em nên hỏi anh X kìa. Vấn đề phòng chống HIV
trong đồng bào hay ở chỗ nào thì cũng phải là bên anh ấy. Bên chị chủ yếu
thực hiện công tác liên quan đến xây dựng văn bản với quản lý nhân khẩu về
đồng bào thôi.
- X: Ô đừng đá cái quả bóng đấy cho anh nhé. Cô buồn cƣời thế. Rõ ràng
có hẳn cái trung tâm y tế đấy còn gì. Anh Z giúp em ấy đi (ý nói cán bộ Z là
giúp tác giả có đƣợc các thông tin liên quan đến phòng chống HIV/AIDS ở địa
phƣơng)
- Z: Ừ là bên anh chịu trách nhiệm chính toàn bộ về vấn đề này. Còn có
bên chị Q, em K nữa.
- K: Vâng. Chị Q hôm nay nhà có giỗ nên không đến. Nhƣng bọn em chỉ
lăng xăng thôi, chứ bên anh Z vẫn là chính.”.
(Thảo luận nhóm, cán bộ truyền thông, MS 02-H, LB, nhóm 4 ngƣời)
Trong các kế hoạch gửi về tuyến huyện và thôn/xã đều ghi rõ cần có sự phối
hợp với các ban ngành khác nhau. Tuy nhiên, sự phối hợp của cán bộ truyền thông
ở các ban ngành là chƣa chặt chẽ. Cán bộ Y trong thảo luận nhóm trên đây thuộc
đơn vị quản lý công tác dân tộc tại địa phƣơng. Cán bộ Y không thừa nhận rằng
mình có trách nhiệm liên quan đến hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS
trong cộng đồng dân tộc thiểu số, và khẳng định là đơn vị mình chủ yếu có trách
nhiệm “quản lý nhân khẩu”, “xây dựng văn bản” về đối tƣợng là ngƣời dân tộc
thiểu số. Thái độ này thể hiện sự “ùn đẩy” trách nhiệm. Vì rằng ngay cả khi có lực
lƣợng y tế chuyên nghiệp có kiến thức chuyên sâu về HIV/AIDS hay là có một đội
ngũ chuyên nghiệp về truyền thông thì họ thƣờng không phải là những ngƣời tƣờng
tận nhất về tình hình dân tộc thiểu số tại địa phƣơng. Nơi lƣu trữ nhiều tƣ liệu nhất
và cập nhật các thông tin về ngôn ngữ, phong tục tập quán, địa bàn sinh sống, các
đặc điểm nhân khẩu học của đồng bào dân tộc thiểu số thƣờng do đơn vị quản lý
62
công tác dân tộc. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu có thể thiết kế một chƣơng trình truyền
thông hiệu quả khi mà đơn vị đảm trách về đối tƣợng truyền thông đích lại đứng
ngoài quá trình đó?
Vẫn trong thảo luận nhóm tập trung nói trên, cán bộ X phụ trách mảng văn
hóa – thông tin, cũng không thừa nhận trách nhiệm của ngành mình trong hoạt động
truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân tộc thiểu số. Nếu xét về
khía cạnh truyền thông, thì cán bộ X là cán bộ chuyên trách về chức năng truyền
thông (in ấn, phát hành, chuyển giao các tài liệu, ấn phẩm văn hóa, thông tin). Nhƣ
vậy, rõ ràng cán bộ X cùng đơn vị liên quan đến công tác văn hóa – thông tin cần có
sự phối hợp với trung tâm y tế để thực hiện công tác truyền thông phòng chống
HIV/AIDS. Khi có sự tham gia của đội ngũ có chuyên môn về văn hóa – thông tin
tuyên truyền sẽ giúp đa dạng hóa các hình thức truyền thông, đảm bảo sự thu hút
của thông điệp truyền thông với đối tƣợng mục tiêu. Nhƣng cán bộ X lại phủ nhận
điều này và coi đó là việc “đá quả bóng” cho mình. Và liền sau đó cán bộ X chuyển
“quả bóng” ấy sang cho cán bộ Z.
Cán bộ Z trong thảo luận nhóm tập trung nói trên là đại diện ngành y tế. Cán
bộ Z khẳng định mình cùng với cán bộ K (cán bộ đoàn thanh niên) và cán bộ Q (cán
bộ hội phụ nữ) có trách nhiệm chính trong việc truyền thông phòng chống
HIV/AIDS. Điều này là hoàn toàn bám sát nội dung các văn bản chỉ đạo, kế hoạch
truyền thông và đúng với thực tế tại các địa phƣơng mà tôi đã điền dã. Tuy nhiên,
nếu chỉ có 3 đơn vị của cán bộ Z, cán bộ K và cán bộ Q tham gia vào quá trình
truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số thì rõ ràng
cần đặt ra câu hỏi về tính hiệu quả. Trong quá trình điền dã tại các thôn bản ở địa
phƣơng, tôi thấy có những hộ gia đình chƣa từng tham gia vào một cuộc hội họp
thôn xã truyền thông về HIV/AIDS bao giờ. Thậm chí các hộ dân này chƣa từng
nhìn thấy hoặc chƣa từng đƣợc phát tài liệu tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS.
Tình trạng này khá phổ biến ở những địa phƣơng vùng cao nơi hệ thống giao thông
đƣờng bộ còn chƣa đƣợc nâng cấp, hệ thống điện chiếu sáng chƣa ổn định, mạng
63
điện thoại chƣa phủ sóng hết.
Thái độ “ùn đẩy” trách nhiệm trên còn thể hiện tình trạng phối kết hợp không
chặt chẽ giữa các cấp và các ban ngành khác nhau xoay quanh hoạt động truyền
thông phòng chống HIV/AIDS tại địa phƣơng.
“- Tôi: Em có đọc các văn bản, kế hoạch truyền thông HIV/AIDS thấy có
nêu tên rất nhiều đơn vị liên quan đến việc tổ chức các hoạt động truyền thông.
Vậy các đơn vị trong huyện có thƣờng xuyên họp mặt để trao đổi, bàn bạc
không ạ?
- Z: Ít em ạ.
- K: Thật ra không phải là ít mà cũng chƣa có cơ hội ngồi lại với nhau thế
này bao giờ. Thƣờng các văn bản, kế hoạch chuyển xuống cũng sát ngày anh ạ.
Đơn vị nào có tên thì triển khai thôi, còn hỏi han với bàn bạc gì nữa anh?
- Tôi: Vậy mình có thƣờng xuyên xuống tuyến thôn bản giao lƣu và họp
mặt về vấn đề truyền thông HIV/AIDS không anh Z, chị K?
- Z: Bên anh nhận kế hoạch hay tài liệu văn bản gì ở tuyến trên gửi chỉ
đạo thì chuyển xuống cho tuyến dƣới để họ phổ biến cho ngƣời dân. Vậy thôi
chứ họp hành với nhau về vấn đề này thì không có. Còn anh em thì vẫn giao
lƣu bình thƣờng mà, có khi giao lƣu còn không về đƣợc (ý nói giao lƣu ở đây
là ăn cơm và uống rƣợu cùng nhau).
- K: Bọn em cũng nhƣ bên anh Z thôi ạ”.
(Thảo luận nhóm, cán bộ truyền thông, MS 02-H, LB, nhóm 4 ngƣời)
Đoạn trích thảo luận nhóm phần nào thể hiện sự kết hợp theo cả ngành dọc lẫn
liên ngành trong công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại địa phƣơng
nghiên cứu còn nhiều khoảng trống. Theo thông tin mà cán bộ Z và cán bộ K cung
cấp thì chƣa bao giờ có một cuộc họp giữa các ban ngành để cùng bàn bạc, thảo
luận kế hoạch truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu
số; cũng chƣa bao giờ có một cuộc họp giữa cán bộ truyền thông các cấp để thảo
luận, xây dựng kế hoạch cho hoạt động này. Sự chuyển giao công việc giữa các cấp
mang tính cứng nhắc khi chỉ đơn thuần là “nhận kế hoạch hay tài liệu văn bản gì ở
64
tuyến trên gửi chỉ đạo thì chuyển xuống cho tuyến dƣới để họ phổ biến cho ngƣời
dân”, trong khi mỗi địa phƣơng lại có những đặc thù. Việc chuyển tài liệu từ tuyến
trên gửi xuống cho tuyến dƣới một cách đơn thuần, không hề có điều chỉnh hay đề
xuất vận dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình địa phƣơng rõ ràng
mang nặng tính rập khuân. Đặc biệt, khi nhận văn bản và kế hoạch truyền thông từ
tuyến trên chuyển xuống thì lại tiếp tục xảy ra tình trạng “đơn vị nào có tên thì triển
khai thôi” nhƣ cán bộ K chia sẻ trong buổi thảo luận nhóm tập trung. Điều này dẫn
đến các hoạt động đƣợc triển khai manh mún, riêng lẻ thay vì một kế hoạch chỉ đạo
nhất quán.
Tiểu kết chƣơng 3
Những phân tích từ trả lời của cán bộ truyền thông trong chƣơng 3 cho thấy từ
chủ trƣơng cho đến thực tiễn truyền thông tại địa phƣơng có những mâu thuẫn lớn.
Mặc dù luôn nhấn mạnh cần chú ý công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở
cộng đồng dân tộc thiểu số trong các bản kế hoạch lƣu trữ ở các đơn vị hữu quan
nhƣng thực tế lại chƣa có sự quan tâm sát sao. Các kết quả nghiên cứu cho thấy
những thực hành bất hợp lý của cán bộ truyền thông mà điển hình là thực hành gán
nhãn hình ảnh ngƣời có HIV/AIDS và diễn ngôn về tệ nạn xã hội. Xem xét từ mô
hình truyền thông của Claude Shannon, có thể thấy nhiều yếu tố còn chƣa đƣợc
thực hiện tại địa phƣơng nghiên cứu. Cụ thể là hoạt động đánh giá hậu truyền thông
(Effect) bị bỏ ngỏ, đồng thời cũng thiếu vắng việc thu thập ý kiến phản hồi từ ngƣời
dân (Feedback). Những bất cập này diễn ra trong bối cảnh nguồn nhân lực truyền
thông có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở còn hết sức thiếu thốn và phân bổ không
đồng đều, thể hiện rõ ràng qua thực trạng phải kiêm nhiệm “quá tải” của cán bộ
truyền thông. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy dấu hiệu của tình trạng ùn đẩy
trách nhiệm hay phối hợp lỏng lẻo của các ban ngành hữu quan. Những phân tích từ
góc độ “nguồn” trong chƣơng này cùng những phân tích từ góc nhìn ngƣời dân
trong chƣơng 2 gợi mở về các rào cản và thách thức đối với cả cán bộ truyền thông
65
và ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng.
Chƣơng 4: RÀO CẢN VÀ THÁCH THỨC – BÀI TOÁN KHÓ CHO
NGƢỜI DÂN VÀ CÁN BỘ TRUYỀN THÔNG
Trong chƣơng này, tôi đi vào tìm hiểu các rào cản hiện tại đối với sự tiếp cận
của ngƣời dân địa phƣơng cũng nhƣ những thách thức từ phía nhà cung cấp dịch vụ
truyền thông khi thực hiện các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS
trong cộng đồng dân tộc thiểu số.
4.1. Rào cản của ngƣời dân khi tiếp cận các chƣơng trình truyền thông
4.1.1. Rào cản ngôn ngữ
Trong quá trình nghiên cứu thực địa, tôi quan sát đƣợc rằng một trong những
khó khăn lớn nhất của ngƣời dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang khi tiếp cận các
chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS nằm ở vấn đề bất đồng ngôn
ngữ. Tại các thôn bản, tiếng (nhóm) tộc ngƣời địa phƣơng vẫn là công cụ giao tiếp
chính hàng ngày. Quan sát biểu đồ sau chúng ta có thể thấy rõ đƣợc điều đó:
Biểu đồ 1: Tỷ lệ giao tiếp bằng ngôn ngữ địa phƣơng và ngôn ngữ phổ thông
của cộng đồng dân tộc thiểu số nghiên cứu
Số liệu trong biểu đồ 1 đƣợc mã hóa từ dữ liệu bảng hỏi ngƣời dân tộc thiểu số tại
66
địa phƣơng do tác giả thực hiện. Có tới 78% ngƣời dân giao tiếp bằng tiếng dân tộc
của mình (tiếng địa phƣơng) nhiều hơn tại nơi họ sinh sống; gần 16% ngƣời dân
giao tiếp bằng cả tiếng dân tộc mình và tiếng Việt (tiếng phổ thông hay còn gọi là
tiếng Kinh, tiếng Việt) tại thôn bản của mình; và có khoảng 6% ngƣời dân sử dụng
tiếng Việt để giao tiếp nhiều hơn tại cộng đồng mà họ sinh sống. Nhƣ vậy, rõ ràng
tỷ lệ ngƣời dân sử dụng tiếng dân tộc của mình để giao tiếp tại địa phƣơng chiếm tỷ
lệ khá lớn. Tiếng Việt cũng đã đƣợc phổ cập trong cộng đồng dân tộc thiểu số.
Nhiều ngƣời đã có khả năng sử dụng thành thạo tiếng Việt nên họ có thể kết hợp sử
dụng cả tiếng phổ thông và tiếng địa phƣơng trong giao tiếp. Thậm chí, một số bộ
phận ngƣời dân cho biết là sử dụng tiếng Việt nhiều hơn tiếng địa phƣơng tại cộng
đồng mà họ sinh sống. Tuy nhiên, số lƣợng sử dụng tiếng địa phƣơng để giao tiếp
hàng ngày vẫn chiếm đa số. Có khoảng 6% đáp viên cho biết không có khả năng
giao tiếp bằng tiếng Việt
Trong khi đó, toàn bộ tài liệu truyền thông lại đều đƣợc phát hành bằng tiếng
Việt. Khảo sát nhanh các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/ADIS mà các đơn
vị truyền thông cũng nhƣ ngƣời dân địa phƣơng cung cấp, tôi chƣa thấy có bất kỳ
văn bản tài liệu nào đƣợc viết bằng tiếng tộc ngƣời (địa phƣơng). Các băng rôn,
khẩu hiệu, pa nô, áp phích thƣờng đƣợc thiết kế với kích thƣớc phóng to và bắt mắt
nhƣng cũng không có trƣờng hợp nào sử dụng tiếng địa phƣơng để truyền tải nội
dung truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Điều này đƣơng nhiên sẽ khiến cho
việc đọc và hiểu các tài liệu truyền thông của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng
bị hạn chế rất nhiều. Một số ngƣời dân bộc lộ khả năng nghe và nói tiếng Việt
thành thạo nhƣng không thể đọc hoặc viết tiếng Việt lƣu loát. Đáng chú ý là cũng có
nhiều ngƣời địa phƣơng dù thành thạo cả bốn kỹ năng nghe nói đọc viết tiếng Việt
nhƣng lại không hào hứng tìm đọc các tài liệu truyền thông phòng chống
HIV/AIDS tiếng Việt.
“- Nhiều khi nhận thì cũng đọc nhƣng cũng có khi không đọc.
- Chị có hiểu hết các thông tin trong những tài liệu đó không ạ?
67
- Cũng không. Cũng hiểu ít thôi.
- Chị không đọc tiếng Việt thành thạo nhƣ vậy thì làm cách nào để đọc
đƣợc những tài liệu này?
- Cũng có con gái. Nhờ nó đọc vì nó cũng đọc đƣợc”.
(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 19-LB, nữ, dân tộc Hmông, 29 tuổi)
Rào cản ngôn ngữ thƣờng hạn chế khả năng tiếp cận thông tin truyền thông ở
ngƣời dân tộc thiểu số đƣợc xem là khá phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở
nhiều nƣớc trên thế giới. Nhiều nghiên cứu ở cả trong và ngoài nƣớc nhận định, rào
cản ngôn ngữ đối với ngƣời dân tộc thiểu số không chỉ thể hiện qua việc thâu nhận
các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS mà cả trong việc họ tiếp cận
các dịch vụ giáo dục, y tế, xã hội khác. Jirakun (1993) trong một nghiên cứu đã đƣa
ra báo cáo về tình trạng những ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số Lào di cƣ tới vùng
nông thôn phía Bắc của đất nƣớc Thái Lan không thể giao tiếp bằng tiếng Thái thì
có nhận thức rất thấp về HIV/AIDS; các thông tin truyền thông về HIV/AIDS vì thế
cũng chủ yếu chỉ tập trung tại thành thị và trƣờng học, nơi mà tiếng phổ thông của
Thái Lan đƣợc sử dụng rộng rãi (Jirakun, 1993). Ở Việt Nam, nghiên cứu của
Nguyễn Thùy Dƣơng (2010) về tác động của truyền thông đại chúng tới nhận thức
về HIV/AIDS của đồng bào dân tộc Dao tại Yên Bái cũng cho thấy những ngƣời
Dao có khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt thì khả năng nhận thức đúng về
HIV/AIDS cao gấp gần 3 lần so với ngƣời Dao không có khả năng này. Hơn thế số
ngƣời Dao cho biết sử dụng tiếng Việt thành thạo từng nghe về HIV/AIDS thƣờng
xuyên hơn số ngƣời Dao không giao tiếp bằng tiếng Việt đƣợc (Phan Thị Thu
Hƣơng, 2010).
Trở lại trƣờng hợp ngƣời dân tộc Hmông và ngƣời dân tộc Tày tại hai huyện
Yên Sơn và Lâm Bình, trong số gần 6% đáp viên cho biết không thể giao tiếp bằng
tiếng Việt thì đa phần họ nhờ con em trợ giúp đọc hiểu các tài liệu này. Bởi lẽ trẻ
em địa phƣơng đều đƣợc phổ cập tiểu học và có khả năng đọc viết tiếng Việt thành
thạo. Tuy nhiên thông tin truyền thông gián tiếp nhƣ vậy dễ có khả năng tạo ra
68
những sai lệch, hoặc không thích hợp khiến ngƣời dân giảm hứng thú theo dõi.
“- Cũng có mấy lần họ (ý chỉ ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng) hỏi
về việc tại sao lại phát toàn tài liệu tiếng Kinh đấy.
- Vậy anh trả lời những trƣờng hợp đó nhƣ thế nào ạ?
- Thì bảo bên trên gửi xuống nhƣ thế nào thì có vậy chứ có “đẻ” ra đƣợc
mấy cái tài liệu đấy đâu”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 34-TX, nam, 35 tuổi)
Có thể thấy rằng, chƣơng trình truyền thông đƣợc thực hiện trong cộng đồng
dân tộc thiểu số nhƣng lại sử dụng tài liệu ấn hành bằng tiếng phổ thông thì đó là
một bất cập lớn. Nó khiến cho ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng hoặc là không
thể đọc – hiểu đƣợc, hoặc là đọc nhƣng không hiểu, và cũng xảy ra cả tình trạng đọc
hiểu đƣợc nhƣng không hào hứng với các tài liệu tiếng Việt.
Ngoài ra, số liệu từ phần trả lời phỏng vấn bảng hỏi của nhóm mẫu cán bộ
truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Tuyên Quang cũng cho thấy thái độ
“lừng chừng” của họ trong việc tham gia thiết kế, xây dựng những tài liệu nhƣ vậy.
Trong bảng hỏi phỏng vấn cán bộ truyền thông, tôi đƣa ra hai câu hỏi cụ thể: (1) Ý
kiến của cán bộ truyền thông về sự cần thiết phải có các tài liệu truyền thông bằng
tiếng địa phƣơng? và (2) Nếu tổ chức một chƣơng trình về việc thiết kế, xây dựng
các tài liệu truyền thông sử dụng tiếng địa phƣơng thì cán bộ truyền thông có sẵn
sàng tham gia không? Với tình huống đƣa ra, dữ liệu từ phần trả lời của cán bộ
69
truyền thông đƣợc biểu hiện ở biểu đồ 2 sau đây với những mâu thuẫn rõ ràng.
Biểu đồ 2: Tỷ lệ tƣơng quan về tính cần thiết và sự sẵn sàng tham gia xây dựng
tài liệu truyền thông tiếng địa phƣơng của đối tƣợng nghiên cứu cán bộ
truyền thông
85,7%
14.3%
Biểu đồ 2 cho thấy có đến 86% cán bộ truyền thông tại tỉnh Tuyên Quang
tham gia nghiên cứu tán đồng phải có các tài liệu truyền thông phòng chống
HIV/AIDS đƣợc thiết kế bằng tiếng địa phƣơng, và khoảng 14% bày tỏ suy nghĩ
không nhất thiết phải có. Điểm mâu thuẫn ở đây là trong gần 86% cán bộ truyền
thông đồng ý rằng cần có các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS đƣợc
viết bằng tiếng địa phƣơng, thì chỉ có khoảng 12% sẵn sàng tham gia vào việc thiết
kế, xây dựng các tài liệu này; còn đến tới 50% không quả quyết khả năng tham gia
và có gần 24% khẳng định chắc chắn sẽ không liên đới. Có thể thấy, điểm mâu
70
thuẫn chính là việc phần lớn cán bộ truyền thông đều cho rằng cần thiết phải thiết
kế các tài liệu truyền thông bằng tiếng địa phƣơng, nhƣng nếu có một chƣơng trình
thiết kế tài liệu bằng tiếng địa phƣơng họ lại không sẵn sàng tham gia vào quá trình
đó. Nhƣ vậy, ngoài việc chúng ta khẳng định ngôn ngữ là một rào cản lớn đối với
ngƣời dân tộc thiểu số trong việc tiếp cận thông tin truyền thông phòng chống
HIV/AIDS, cần thiết phải có các tài liệu truyền thông sử dụng tiếng địa phƣơng, thì
một vấn đề nữa cần đƣợc xem xét đó chính là nhiệt huyết tham gia hỗ trợ quá trình
thiết kế những tài liệu này từ phía cán bộ truyền thông.
4.1.2. Đa dạng tên gọi địa phƣơng về HIV/AIDS
Nhƣ đã trình bày ở những phần trƣớc, các tài liệu truyền thông phòng chống
HIV/AIDS thƣờng đƣợc chuyển từ tuyến trên xuống và cán bộ truyền thông tuyến
dƣới có trách nhiệm tuyên truyền thông tin tới ngƣời dân tộc thiểu số tại địa
phƣơng. Tuy nhiên, do các tài liệu truyền thông này đƣợc thiết kế bởi những cán bộ
truyền thông “ở ngoài” cộng đồng dân tộc thiểu số tại địa phƣơng và tài liệu thƣờng
đƣợc dùng chung cho tất cả mọi đối tƣợng nên các từ ngữ đƣợc sử dụng bằng tiếng
phổ thông. Trong quá trình điền dã tại địa phƣơng tôi nhận thấy ngƣời dân tộc thiểu
số sử dụng nhiều tên gọi khác nhau để ám chỉ HIV/AIDS.
Thời gian đầu gặp gỡ hỏi chuyện ngƣời dân tại các địa phƣơng nghiên cứu, tôi
thấy không ít ngƣời “không hiểu” những nội dung tôi trao đổi. Họ không biết tôi
đang nhắc tới loại bệnh gì, đặc biệt là những ngƣời dân trên 35 tuổi. Đƣợc cộng sự
địa phƣơng gợi ý, tôi nhắc đến các từ “kim la” và “si đa”. Và đến lúc đó những
ngƣời dân đối thoại với tôi mới nhận ra chủ đề về HIV/AIDS. Mọi ngƣời giải thích
cho tôi rằng trong cộng đồng họ thƣờng gọi HIV/AIDS là “Si Đa” hoặc “Kim La”.
Từ thứ nhất Si Đa là cách gọi cũ, còn từ thứ hai Kim la thì rõ ràng không phải là từ
chuyên môn y khoa. Các cán bộ truyền thông tại những địa phƣơng này cũng chia
sẻ rằng họ thƣờng dùng các từ nhƣ kim la và si đa để truyền thông về HIV/AIDS.
“- Thì ngƣời ta quen gọi là kim la hoặc là si đa. Mình đi nói là HIV với
AIDS thì họ khó hiểu rồi. Nên bọn anh cũng gọi là kim la hoặc si đa cho ngƣời
ta dễ hiểu.
- Nhƣng trong các tờ gấp bƣớm và tài liệu phát tay thì vẫn ghi là
71
HIV/AIDS mà anh?
- Ôi xồi. Cái tài liệu nhiều khi cũng đem đi cho oai vậy chứ phát chƣa
chắc họ đã lấy, đã đọc đâu. Nhiều ngƣời họ lấy xong họ đƣa trả lại mình luôn
ấy mà”.
(Cán bộ truyền thông, MS 15-TX, nam, 32 tuổi)
Ở đây, chúng ta cần hiểu định nghĩa chính xác của các từ “si đa” và “kim la”
mà ở một số nơi ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng sử dụng để gọi tên
HIV/AIDS. Si đa (SIDA) đúng là tên gọi khoa học để chỉ bệnh HIV/AIDS, nhƣng
đó là cách gọi tên đƣợc sử dụng từ rất lâu trƣớc đây. Từ SIDA đƣợc viết tắt từ tiếng
Pháp Syndrome d'Immuno Deficience Acquise, đƣợc hiểu là Hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải. Nhƣng cách gọi tên SIDA này lại trùng với tên của Cơ quan
Phát triển Quốc tế Thụy Điển (The Swedish International Development Cooperation
Agency, viết tắt là SIDA) và tên của Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (The
Canadian International Development Agency, viết tắt là CIDA). Cơ quan Phát triển
Quốc tế Thụy Điển (nguyên tiếng là Styrelsen för Internationellt
Utvecklingssamarbete) là một tổ chức chính phủ trực thuộc Bộ Ngoại giao Thụy
Điển, có trách nhiệm quản lý những hỗ trợ chính thức của Thụy Điển cho các quốc
gia đang phát triển. Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (The Canadian
International Development Agency) cũng là tổ chức quản lý hoạt động hỗ trợ chính
thức của Canada cho các nƣớc đang phát triển, là đầu mối liên kết với các tổ chức
hoạt động vì sự phát triển khác của Canada hoặc có trụ sở tại Canada. Đây là hai tổ
chức có quy mô lớn và đƣợc biết đến ở rất nhiều nƣớc trên khắp thế giới. Vì vậy,
khi sử dụng cách gọi tên SIDA để nói về bệnh HIV/AIDS thì thƣờng bị nhầm lẫn
với tên gọi của hai tổ chức này. Từ lý do đó mà giới chuyên môn đã gọi Hội chứng
suy giảm miễn dịch mắc phải là AIDS, viết tắt của cụm từ tiếng Anh Acquired
Immuno Deficiency Syndrom, để phân biệt với tên gọi của Cơ quan Phát triển Quốc
tế Thụy Điển và Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (VAAC, 2009).
Còn “kim la” thì không phải là từ chuyên môn đƣợc sử dụng để gọi tên Hội
chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Từ kim la đƣợc sử dụng phổ biến trong giới y
72
học cũng nhƣ trong xã hội nói chung để chỉ những ngƣời có hành vi lệch lạc về tình
dục. Tuy nhiên, lệch lạc tình dục lại là một bệnh lý rất phức tạp. Nội hàm của bản
thân từ kim la chƣa diễn đạt hết nội dung của bệnh lý này. Lệch lạc tình dục (tiếng
Anh: Paraphilia) là một bệnh lý tâm thần liên quan đến hành vi tình dục bất thƣờng,
có biểu hiện bằng sự say mê tìm kiếm một phƣơng thức hoạt động tình dục đặc biệt,
không đƣợc chấp nhận và tiềm ẩn nguy cơ gây đau khổ, nhằm đạt đƣợc sự cực
khoái thay vì hình thức giao hợp bình thƣờng (Ngô Văn Lƣơng, 2012). Và lệch lạc
tình dục đƣợc phân chia thành hai nhóm bao gồm: Lệch lạc đối tƣợng và lệch lạc
mục tiêu. Trong đó, lệch lạc đối tƣợng bao gồm hành động Ấu dâm (Ham thích tình
dục hƣớng tới đối tƣợng là trẻ em), Ái lão (Ham thích tình dục hƣớng tới đối tƣợng là
ngƣời già), Ái vật (Thỏa mãn tình dục với các đồ vật vô tri vô giác), Ái tử thi (Thỏa
mãn tình dục đối với các xác chết), Ái thú (Thỏa mãn tình dục bằng cách quan hệ với
động vật). Còn lệch lạc mục tiêu đƣợc phân loại bao gồm Ác dâm (Thỏa mãn tình dục
khi gây đau đớn về thể xác hay tinh thần cho ngƣời cùng hoạt động tình dục), Khổ dâm
(Thỏa mãn tình dục bằng cách để ngƣời khác hành hạ mình), Phô dâm (Thích phô bày
cơ quan sinh dục của mình cho ngƣời khác xem), Thị dâm (Thỏa mãn tình dục bằng
cách nhìn trộm bộ phận sinh dục ngƣời khác), Thính dâm (Thỏa mãn tình dục bằng
cách nghe những âm thanh có khả năng kích), Miên dâm (Trạng thái mà một ngƣời
thực hiện hành vi tình dục trong khi vẫn đang ngủ), Loạn dục cọ xát (Thỏa mãn tình
dục bằng cách cọ xát bộ phận sinh dục của họ vào những ngƣời khác), Loạn dục cải
trang (Thỏa mãn tình dục bằng cách mặc quần áo của ngƣời khác giới).
Nhƣ vậy, từ “kim la” thƣờng đƣợc nhiều ngƣời sử dụng để ám chỉ hành vi lệch
lạc tình dục mục tiêu nhƣ phô dâm.
Điều khiến tôi thắc mắc là nguồn gốc xuất hiện của từ “kim la” trong cộng
đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang. Những cán bộ truyền thông lâu năm tại
địa phƣơng đã đƣa ra giả thuyết cụ thể về quá trình hình thành của từ kim la khi ám
chỉ HIV/AIDS.
“Trƣớc đây khi còn gọi bệnh dƣơng mai (ý chỉ bệnh giang mai) là bệnh
“tiêm la” thì ngƣời dân họ nghe thấy chủ yếu nhắc đến là tiêm la. Nhƣng
không hiểu sao sau này thì ngƣời ta đều nói chệch thành “kim la”.
73
(Cán bộ truyền thông, MS 15-TX, nam, 32 tuổi)
Cán bộ truyền thông tại những địa phƣơng mà cộng đồng dân tộc thiểu số sử
dụng từ kim la để gọi tên HIV/AIDS đã đặt ra giả thuyết về sự biến đổi của từ “tiêm
la” thành “kim la”. Những năm trƣớc đây, bệnh giang mai (syphilis) thƣờng đƣợc
cán bộ y tế và ngƣời dân tại địa phƣơng gọi là bệnh “tiêm la” hoặc gọi là bệnh
“dƣơng mai”. Các truyền thông về HIV/AIDS thƣờng gắn liền với hình ảnh và
thông tin về các bệnh lây truyền qua đƣờng tình dục, mà trong đó bệnh giang mai là
hết sức phổ biến. Sự lặp lại nhiều lần của cán bộ y tế khi truyền thông sử dụng cụm
từ “tiêm la” đã khiến nó đƣợc dùng phổ biến trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại
địa phƣơng. Và trải qua quá trình “dị bản” thì từ “tiêm la” biến đổi thành “kim la”
nhƣ một tên gọi ám chỉ Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Mặc dù chƣa thể
khẳng định giả thuyết này là hoàn toàn đúng, nhƣng đây cũng có thể xem là một
cách giải thích về sự xuất hiện và tính phổ biến của từ kim la trong cộng đồng dân
tộc thiểu số tại địa phƣơng khi đề cập HIV/AIDS.
4.1.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém
Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém là khó khăn không chỉ đối với cán bộ truyền
thông mà còn gây cản trở tới cả ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng trong quá
trình tiếp nhận các thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Chúng ta hiểu
rằng, các kênh truyền thông mang tính truyền thống sẽ ngày càng trở nên lạc hậu so
với sự phát triển của xã hội. Vì vậy, nó sẽ bị thay thế bởi những kênh truyền thông
hiện đại hơn: Tivi, điện thoại, internet, máy tính. Nhƣng với hệ thống cơ sở hạ tầng
còn thô sơ nhƣ hiện tại ở các thôn bản của đồng dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa
thì các hình thức truyền thông đại chúng phổ biến nhƣ loa phóng thanh, tivi vẫn
chƣa thể hoạt động tốt đƣợc.
Điện lƣới: Thiếu và yếu
Đầu tiên phải kể đến điện lƣới tại địa phƣơng. Hệ thống điện lƣới ở các thôn
bản miền núi vùng sâu vùng xa tại Tuyên Quang đƣợc ngƣời dân địa phƣơng, thậm
chí là cả cán bộ truyền thông nhấn mạnh về tình trạng cung cấp thất thƣờng:
“Cũng có điện, nhƣng nhà nào ở xa quá thì cũng không kéo đƣợc điện (ý
nói kéo dây điện từ đƣờng dây tổng về hộ gia đình dân)”.
74
(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 19-LB, nữ, dân tộc Hmông, 29 tuổi)
“Điện lƣới ở đây hay bị cắt luân phiên. Kiểu một ngày có thì một ngày
mất. Hoặc buổi sáng có thì buổi tối mất. Mà điện yếu lắm, chỉ thắp sáng thôi.
Còn xem tivi thì khó, vì nó cứ díu đen cái màn hình rồi tắt phụt, lên đƣợc tí lại
tắt. Thế nên em thấy quanh đây mọi ngƣời thƣờng chỉ có bóng đèn thôi, không
có nhiều đồ điện khác. Đèn dầu thì nhà nào cũng phải có vài cái vì dùng mất
điện thƣờng xuyên”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 14-TX, nam, 37 tuổi)
Nhƣ vậy, hệ thống điện lƣới mặc dù đã có sự trải rộng đến các thôn bản vùng
sâu vùng xa nhƣng không phải là tất cả mọi nơi. Ở những địa phƣơng quá xa trung
tâm thì ngƣời dân vẫn chƣa đủ điều kiện để kéo điện từ trạm tổng về đến hộ gia
đình của mình: “nhà nào ở xa quá thì cũng không kéo được điện”. Tại những nơi
điện lƣới bao phủ ngƣời dân cũng cho biết tình trạng nguồn điện không ổn định,
thƣờng bị cắt điện luân phiên “kiểu một ngày có thì một ngày mất. Hoặc buổi sáng
có thì buổi tối mất”. Và đặc biệt là nguồn điện yếu, không đủ điều kiện để cung cấp
năng lƣợng cho nhiều thiết bị điện hoạt động cùng một lúc. Vì vậy mà xuất hiện
tình trạng các hộ gia đình thƣờng chỉ có thiết bị điện là bóng đèn và điện lƣới chủ
yếu đƣợc sử dụng cho nhu cầu thắp sáng (trong trƣờng hợp có điện). Nhƣng do điện
mất thƣờng xuyên nên tất cả các hộ gia đình đều sở hữu vài chiếc đèn dầu để dùng
khi mất điện. Với tình trạng điện yếu, hoạt động không ổn định và thậm chí ở nhiều
nơi chƣa có, thì rõ ràng gây khó khăn cho sinh hoạt thƣờng nhật của ngƣời dân địa
phƣơng, chƣa kể đến khả năng tiếp cận thông tin truyền thông. Hơn nữa, các
phƣơng tiện truyền thông có sử dụng điện nhƣ loa, đài phát thanh, tivi cũng khó có
thể vận hành tốt trong tình trạng nguồn điện không ổn định nhƣ vậy.
Giao lộ: Sâu và xa
Cùng với điện lƣới thì giao thông cũng là một vấn đề gây khó khăn lớn cho ngƣời
dân tộc thiểu số tại địa phƣơng. Những thôn bản ngƣời Tày và ngƣời Hmông (mà đặc
biệt là ngƣời Hmông) thƣờng ở các khu vực núi cao, đƣờng đi lại chủ yếu là đƣờng đất
nhỏ, hẹp. Ngay với tôi khi đi điền đã thu thập dữ liệu cho nghiên cứu này cũng phải
75
vƣợt qua các con suối lớn và đi bộ rất sâu mới vào đến nhiều thôn bản. Ngay cả trƣờng
hợp các thôn bản của ngƣời dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn – đƣợc xem là gần
trung tâm thành phố nhất, cũng thƣờng tọa lạc ở các khu vực hẻo lánh. Ngƣời dân địa
phƣơng thƣờng gặp nhiều khó khăn trong việc giao thƣơng và tiếp xúc với các địa
phƣơng bên ngoài khác. Hệ thống giao thông chƣa đƣợc cải thiện đã trở thành rào cản
hạn chế sự tƣơng tác xã hội của các đồng bào dân tộc thiểu số tại đây. Điều kiện thực tế
này cũng tạo ra những khó khăn nhất định cho cán bộ truyền thông:
“Đến các thôn ngƣời Tày còn đỡ. Chứ các bản ngƣời Mèo (Ý chỉ đồng
bào dân tộc Hmông) thì cực kỳ mệt. Họ ở xa lắm mà toàn ở trên cao. Bây giờ
thì nhiều ngƣời chuyển xuống dần ra ngoài gần đƣờng này sống rồi đấy, nhƣng
đa phần họ vẫn ở xa… Nếu muốn thay đổi thì anh nghĩ phải xây dựng lại hệ
thống phƣơng tiện vật chất trƣớc”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 15-TX, nam, 32 tuổi)
“Có rất nhiều cái khó. Nhƣ là chuyện đến tận nhà ngƣời dân để phát tài
liệu. Bọn chị toàn phải đi vào ngày nào mà trời mƣa ý. Vì chỉ có hôm nào trời
mƣa thì họ mới có ở nhà, còn bình thƣờng họ đi làm hết. Buổi tối có nhiều nhà
cũng không chắc về, có khi họ ở trên nƣơng. Mà đi vào hôm mƣa thì đƣờng
trơn, bẩn. Cũng chỉ đi bộ đƣợc chứ không đi xe đạp hay xe máy đƣợc. Hôm
nào đi buổi tối thì toàn rủ con đi cùng vì sợ ma”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 17-TX, nữ, 33 tuổi)
Cán bộ truyền thông cũng phải rất vất vả mới tiếp cận đƣợc ngƣời dân. Họ
thƣờng chọn thời điểm là những ngày có thời tiết mƣa để đến các hộ gia đình dân
tộc thiểu số làm công tác tuyên truyền, bởi chỉ có những ngày mƣa thì đồng bào
không thể lên nƣơng rẫy làm và có mặt ở nhà. Việc đến các hộ gia đình ngƣời dân
vào những hôm trời mƣa làm tăng xác suất có thể gặp các thành viên trong gia đình
nhiều hơn. Tuy nhiên, nhƣ chúng ta đã biết là đƣờng đi tới các thôn bản này đa phần
là đƣờng đất nhỏ, thậm chí với các bản ở trên núi hoặc đồi cao thì đƣờng đi lại rất
dốc. Nếu trời mƣa thì việc di chuyển trên những con đƣờng nhƣ vậy trở nên vô
cùng khó khăn do tình trạng trơn trƣợt và dễ ngã. Cán bộ truyền thông tới nhà ngƣời
76
dân vào những ngày mƣa thƣờng chỉ có thể đi bộ và không sử dụng đƣợc những
phƣơng tiện giao thông phổ biến nhƣ xe đạp, xe máy. Nhƣ vậy, rõ ràng công tác
truyền thông phòng chống HIV/AIDS sẽ bị ảnh hƣởng ít nhiều. Và con đƣờng đi tới
sự tiếp cận với thông tin truyền thông của ngƣời dân tại địa phƣơng sẽ bị hạn chế.
4.1.4. Tài liệu truyền thông thiếu nhạy cảm văn hóa
Nghiên cứu của Robert Pike (1992) về khả năng thu nhận tri thức của con
ngƣời đã chứng minh những ƣu việt của việc đƣợc “nhìn thấy” (thông qua thị giác)
có thể đem lại khả năng thu nhận tri thức cao nhất cho con ngƣời. Việc sử dụng
kênh hình để truyền đạt nội dung trong tài liệu truyền thông phòng chống
HIV/AIDS là một sự lựa chọn đúng đắn. Nó có thể làm tăng sự chú ý, thu hút sự
quan tâm của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng; đồng thời, cũng làm cho ngƣời
dân tiếp thu các thông điệp truyền thông một cách dễ dàng hơn.
Dữ liệu định lƣợng từ điều tra bảng hỏi ngƣời dân địa phƣơng gợi ra rằng
ngƣời dân có khuynh hƣớng tập trung chú ý rất lớn vào các hình ảnh trình bày trong
tài liệu truyền thông. Biểu đồ 3 giúp minh họa rõ hơn:
Biểu đồ 3: Thái độ của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng đối với nội dung chữ
viết và hình ảnh trong các tài liệu truyền thông phòng chống
77
HIV/AIDS
Từ biểu đồ 3 trên đây, chúng ta có thể thấy đƣợc thái độ của đồng bào dân tộc
thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang đối với nội dung chữ viết và hình ảnh trong các tài
liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Có tới 57,81% ngƣời dân tham gia trả
lời phỏng vấn chỉ xem hình ảnh trong các tài liệu truyền thông. Tỷ lệ này đã chứng
tỏ sự quan tâm rất cao của ngƣời dân tới các hình ảnh đƣợc trình bày trong tài liệu
truyền thông. Trong khi đó, có 31% cho biết đọc cả nội dung chữ viết và hình ảnh,
6% chỉ đọc nội dung chữ viết và gần 5% thì không để ý đến việc nội dung tài liệu
truyền thông đƣợc thể hiện bằng chữ viết hay hình ảnh. Nhƣ vậy, sự truyền đạt nội
dung tài liệu truyền thông bằng “kênh hình” thu hút đƣợc sự chú ý rất lớn từ phía
ngƣời dân. Và nếu khai thác tốt cách truyền đạt nội dung truyền thông bằng kênh
hình, thì hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc
thiểu số sẽ đạt kết quả tốt. Thế nhƣng vấn đề nằm ở chỗ: cách sử dụng kênh hình
nhƣ thế nào cho hợp lý? Mặc dù kênh hình có tính hiệu quả cao, nhƣng khi áp dụng
chƣa đúng sẽ có thể trở thành phản cảm. Qua quá trình phỏng vấn sâu và thảo luận
nhóm tập trung, ngƣời dân địa phƣơng bày tỏ rằng họ không cảm thấy hào hứng
trƣớc các hình ảnh minh họa trong tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS:
Biểu đồ 4: Sự hứng thú của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng đối với các
78
hình ảnh trong các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS
Quan sát biểu đồ 4 chúng ta có thể thấy, có tới 67% ngƣời dân tộc thiểu số tại
địa phƣơng tham gia trả lời phỏng vấn bảng hỏi cho biết về tình trạng họ không hề
hứng thú với các hình ảnh đƣợc sử dụng trong tài liệu truyền thông phòng chống
HIV/AIDS. Số ngƣời dân tỏ ra hứng thú với hình ảnh là 11%, số ngƣời dân cảm
thấy bình thƣờng đối với các hình ảnh đó là 17%, và 5% còn lại thì không quan tâm.
Nhƣ vậy, phần lớn ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi đều cảm thấy không hứng
thú với các hình ảnh đƣợc sử dụng trong tài liệu truyền thông. Điều này phần nào là
hệ quả của việc sử dụng kênh hình chƣa hợp lý, nhƣ bày tỏ của một ngƣời dân:
“Hình thì cũng thích xem vì cũng không phải đọc, nhƣng mấy cái hình
này mình cũng không thích. Nó là ngƣời keo mà (ý nói hình ảnh vẽ cuộc sống
của ngƣời Kinh)”.
(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 27-LB, nữ, dân tộc Tày, 29 tuổi)
Mâu thuẫn ở chỗ, đối tƣợng đích của hoạt động truyền thông là cộng đồng dân
tộc thiểu số, nhƣng hình ảnh minh họa thì về sinh hoạt văn hóa của ngƣời Kinh.
Điều này không tạo đƣợc hứng thú quan tâm từ phía ngƣời dân địa phƣơng và
đƣơng nhiên mức độ tiếp nhận các thông tin truyền thông sẽ bị ảnh hƣởng đáng kể.
4.2. Khó khăn của cán bộ truyền thông
4.2.1. Thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở
Một tình trạng khó khăn đầu tiên của cán bộ truyền thông phòng chống
HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang là sự thiếu nhân
lực có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở thôn xã. Chúng ta hiểu rằng để làm tốt công
tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS thì buộc phải có những cán bộ truyền
thông đƣợc đào tạo chuyên sâu về y tế và truyền thông. Mặc dù số lƣợng nhân lực
có trình độ chuyên môn ở tỉnh Tuyên Quang không hề ít, nhƣng sự phân bổ tại các
cấp cơ sở lại không đồng đều và bất hợp lý. Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế Việt
Nam thì các tỉnh miền núi phía Bắc, bao gồm cả tỉnh Tuyên Quang, có nhân lực về
y tế tƣơng đối tốt, với tỷ lệ bác sĩ/1 vạn dân rất cao. Quan sát biểu đồ so sánh số bác
sĩ/1 vạn dân chia theo từng vùng ở Việt Nam năm 2012 sau đây chúng ta có thể thấy
79
rõ điều đó (Bộ Y tế, 2014):
Biểu đồ 5: Số bác sĩ/1 vạn dân ở Việt Nam chia theo từng vùng năm 2012
Quan sát biểu đồ trên, chúng ta thấy rằng khu vực miền núi phía Bắc có tỷ lệ
bác sĩ/1 vạn dân cao nhất cả nƣớc với 6 bác sĩ/1 vạn dân. Ngay cả các khu vực phát
triển kinh tế mạnh hơn nhƣ vùng Đồng bằng Sông Hồng, Bắc trung bộ và duyên hải
miền Trung… cũng có tỷ lệ bác sĩ/1 vạn dân thấp hơn so với khu vực miền núi phía
Bắc. Khu vực Tây Nguyên thậm chí chỉ bằng một nửa khu vực miền núi phía Bắc
với tỷ lệ 3,6 bác sĩ/1 vạn dân. Nhƣ vậy, nếu nói rằng khu vực miền núi phía Bắc
trong đó có tỉnh Tuyên Quang thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn y tế
là chƣa hoàn toàn đúng. Với tỷ lệ bác sĩ/1 vạn dân cao nhất cả nƣớc, rõ ràng khu
vực miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Tuyên Quang nói riêng có một đội ngũ
nhân lực y tế dày dặn hơn những khu vực khác. Vấn đề nằm ở việc phân bố nguồn
nhân lực ấy không đồng đều ở các cấp cơ sở thôn/xã. Số liệu từ điều tra bảng hỏi
đối với nhóm mẫu cán bộ truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở tỉnh Tuyên
80
Quang phần nào chỉ ra sự mất cân đối và không đồng đều đó.
Bảng 14: Cơ cấu chuyên môn của cán bộ truyền thông nghiên cứu
Y tế Truyền thông Các ngành khác Chuyên môn của cán bộ truyền thông
42,86 0 57,14 Tỷ lệ (%)
Bảng 14 cho thấy chỉ có 42,86% cán bộ truyền thông tham gia trả lời phỏng
vấn bảng hỏi có chuyên môn về y tế, 57,14% còn lại có chuyên môn thuộc ngành
khác, không có cán bộ nào có đƣợc đào tạo chuyên sâu về truyền thông. Đặc biệt,
trong số 42,86% cán bộ có trình độ chuyên môn về y tế thì có chỉ có 28,57% có
trình độ bác sĩ, 2,38% có trình độ cao đẳng y tế, 11,91% có trình độ trung cấp y tế.
Đáng chú ý là tất cả cán bộ có trình độ bác sĩ đều làm việc ở tuyến tỉnh và tuyến
huyện. Ở tuyến cơ sở thôn xã cũng có các cán bộ truyền thông có trình độ cao đẳng
y tế hoặc trung cấp y tế, tuy nhiên số lƣợng không nhiều chỉ 14,29%. Thực trạng
này phần nào cho thấy sự thiếu thốn cán bộ có trình độ chuyên môn về y tế ở cấp cơ
sở thôn/xã. Đồng thời, số cán bộ có trình độ chuyên môn về truyền thông cũng rất
hạn chế (0% trong số các cán bộ truyền thông tham gia trả lời phỏng vấn bảng hỏi).
Thực tế này có thể dẫn đến việc công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS
trong cộng đồng dân tộc thiểu số khó đảm bảo tính chuyên nghiệp.
Một tình trạng điển hình mà tôi nhận thấy nó là hệ lụy của việc thiếu nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn đó chính là sự mất lòng tin của ngƣời dân tộc
thiểu số tại địa phƣơng với cán bộ truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Ngƣời
dân địa phƣơng báo cáo về tình trạng mà cán bộ truyền thông làm ngƣợc lại với các
thông tin mà họ truyền thông:
“Thì bảo ở gần kim la (ý nói HIV/AIDS) cũng không lây nhƣng mà cán bộ
cũng có dám đến nhà bọn nó (ý nói những ngƣời có HIV/AIDS tại địa phƣơng)
bao giờ đâu. Nó đến nhà (ý nói ngƣời có HIV/AIDS đến nhà cán bộ truyền thông)
hỏi cái gì chữa bệnh đấy, xong vứt cái chén nƣớc nó uống đi mà”.
(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 19-LB, nữ, dân tộc Hmông, 29 tuổi)
Trích đoạn phỏng vấn sâu trên đây cho hiện tƣợng cán bộ truyền thông thực
81
hành ngƣợc lại với thông điệp mà mình truyền thông. Cụ thể, cán bộ truyền thông
tuyên truyền về việc giao tiếp, ăn uống chung với ngƣời có HIV/AIDS không làm
lây bệnh nhƣng họ lại không “dám đến nhà” và giao tiếp bình thƣờng với ngƣời có
HIV/AIDS. Thậm chí, nhƣ một ngƣời dân địa phƣơng chia sẻ trong trích đoạn
phỏng vấn trên đây thì còn xảy ra trƣờng hợp ngƣời có HIV/AIDS “đến nhà” của
cán bộ truyền thông để hỏi về thông tin điều trị bệnh và có sử dụng chén uống nƣớc
tại đây thì sau khi ngƣời đó ra về, cán bộ truyền thông đã “vứt cái chén” đó đi. Hành
động này cho thấy rằng dƣờng nhƣ trong nhận thức của cán bộ truyền thông vẫn
cho rằng việc ăn uống giao tiếp với ngƣời có HIV/AIDS sẽ làm lây bệnh, tức là họ
cũng chƣa tin vào thông điệp mà mình truyền thông.
4.2.2. Hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa đƣợc nâng cấp
Nhƣ đã phân tích ở phía trên, hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém không chỉ là rào
cản đối với ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng trong quá trình tiếp nhận các
thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS mà còn gây ra khó khăn lớn cho cán
bộ truyền thông trong việc đƣa thông tin đến ngƣời dân (xem thêm tại phần 3.1.3).
Với hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa đƣợc nâng cấp nhƣ hiện tại thì cán bộ truyền thông
rất khó để thực hiện các hình thức truyền thông đại chúng phổ biến nhƣ loa phóng
thanh, tivi… đặc biệt là ở các thôn bản vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, việc quản lý
hệ thống cơ sở hạ tầng cũng chƣa đƣợc thực hiện tốt, mà điển hình là hệ thống loa
phóng thanh. Các thông tin định tính góp phần làm sáng tỏ hơn luận điểm này:
“- Loa phóng thanh ở các thôn bản thì chƣa nhiều đâu.
- Anh có nắm đƣợc cụ thể số lƣợng loa phóng thanh ở các thôn bản
không ạ?
- Không, anh chả nhớ đâu. Có báo cáo nào yêu cầu thống kê về cái này đâu”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 11-H-LB, nam, 38 tuổi)
“- Loa hỏng cũng nhiều.
- Mình có bao giờ thống kê số lƣợng loa đang còn hoạt động tốt và số
lƣợng loa đang có vấn đề trục trặc không anh?
- Không. Cái đấy do địa phƣơng tự quản lý chứ bọn anh không can thiệp.
- Ở các tuyến trên cũng không yêu cầu báo cáo về tình trạng hoạt động
82
của hệ thống loa phóng thanh ạ?
- Không. Chú hỏi thế anh chịu”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 08-H-YS, nam, 36 tuổi).
Các trích đoạn phỏng vấn sâu cán bộ truyền thông trên đây cho thấy việc kiểm
soát số lƣợng cũng nhƣ tình trạng hoạt động của hệ thống loa phóng thanh vẫn chƣa
đƣợc các ban ngành hữu quan chú ý. Mặc dù đây là phƣơng tiện đƣợc dùng thƣờng
xuyên và phổ biến trong các cuộc hội họp tuyên truyền. Trả lời của cán bộ truyền
thông cho thấy rằng không có bất cứ báo cáo nào về số lƣợng loa phóng thanh đƣợc
lắp đặt tại các thôn xã. Và cũng không có báo cáo nào về tình trạng hoạt động (tốt
hay đang có vấn đề trục trặc) của hệ thống loa phóng thanh. Lý giải của cán bộ
truyền thông về tình trạng này là chƣa hợp lý: “Có báo cáo nào yêu cầu thống kê về
cái này đâu”. Những trả lời trong trích đoạn phỏng vấn nói trên phần nào gợi mở
rằng cán bộ truyền thông vẫn đang thực hiện công việc một cách cứng nhắc dựa trên
những nội dung mà các báo cáo “yêu cầu”, chứ chƣa dựa trên sự cần thiết của tình
hình thực tế tại địa phƣơng.
Tiểu kết chƣơng 4
Với những phân tích trong chƣơng 4, chúng ta có thể thấy rằng các khó khăn hiện
tại không chỉ là rào cản đối với sự tiếp cận chƣơng trình truyền thông của ngƣời dân địa
phƣơng mà còn là thách thức đối với nhà cung cấp dịch vụ truyền thông khi thực hiện
các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu
số. Về phía ngƣời dân, vấn đề ngôn ngữ dƣờng nhƣ là rào cản có nhiều ảnh hƣởng hơn
cả. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự đa dạng trong tên gọi địa phƣơng về
HIV/AIDS cùng những tài liệu truyền thông thiếu nhạy cảm văn hóa cũng là các rào
cản gây khó khăn cho ngƣời dân trong tiếp cận thông tin truyền thông. Những bất cập
này tồn tại trong bối cảnh khó khăn chung là hệ thống cơ sở hạ tầng ở địa phƣơng yếu
kém và chƣa đƣợc nâng cấp. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ truyền thông có trình độ
chuyên môn ở cấp cơ sở thì thiếu thốn và phân bổ không đều. Những rào cản và thách
thức nói trên giống nhƣ bài toán khó giải đối với cả cán bộ truyền thông và ngƣời dân
tộc thiểu số tại địa phƣơng nghiên cứu. Điều này ngụ ý rằng hoạt động truyền thông
phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số cần có sự đầu tƣ mạnh hơn
83
cả về nguồn nhân lực, tài chính và cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Có thể thấy rằng, các nghiên cứu về truyền thông phòng chống HIV/AIDS
trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam đƣợc thực hiện phần lớn ở miền
Trung, và chƣa nhiều nghiên cứu thực hiện ở khu vực miền núi phía Bắc. Luận văn
này đi vào tìm hiểu truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc
thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang – một trong 15 tỉnh trung du miền núi phía Bắc đƣợc
xếp vào nhóm dự báo có nguy cơ tăng nhanh và tăng cao tỷ lệ ngƣời dân tộc thiểu
số nhiễm HIV trong thời gian tới. Từ góc nhìn ngƣời dân, có thể thấy cộng đồng
dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang đã có những kiến thức thức đúng cơ bản về
phòng chống HIV/AIDS, không giống nhƣ những diễn ngôn xã hội gần đây về tính
“agency” của đồng bào dân tộc thiểu số. Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng vẫn còn những nhận thức hạn chế trong cộng đồng về bản chất bệnh, con
đƣờng lây truyền bệnh và cách phòng tránh lây bệnh. So sánh giữa hai nhóm tộc
ngƣời Tày và Hmông tại địa phƣơng cho thấy rằng địa bàn sinh tụ dƣờng nhƣ là
một yếu tố quan trọng tác động tới khả năng tiếp nhận thông tin truyền thông của
ngƣời dân. Tuy nhiên, giữa nhóm tộc ngƣời thiểu số đƣợc coi là có ƣu thế hơn về
dân số, trình độ phát triển kinh tế - xã hội – chính trị (ngƣời Tày) và nhóm tộc
ngƣời thiểu số đƣợc coi là yếu thế hơn (ngƣời Hmông) lại không thể hiện sự khác
biệt rõ ràng trong mức độ nhận thức về phòng chống HIV/AIDS. Rất có thể sự hạn
chế về số lƣợng mẫu nghiên cứu dẫn đến khả năng các kết quả phát hiện chƣa có
tính đại diện cao. Những phân tích công tác truyền thông từ góc độ “nguồn” đã
phần nào làm sáng tỏ hơn vấn đề này.
Thực tiễn hoạt động truyền thông tại địa phƣơng bộc lộ nhiều hạn chế qua
phân tích trả lời của cán bộ truyền thông. Những thực hành của đội ngũ cán bộ
truyền thông ngoài việc tác động tới nhận thức của cộng đồng thì còn có khả năng
dẫn đến tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử với ngƣời dân tộc thiểu số có HIV/AIDS.
Điển hình là thực hành “gán nhãn” nhằm sử dụng hình ảnh “phát khiếp” về ngƣời
có HIV/AIDS trong quá trình tuyên truyền đã vô tình mở rộng sự ngăn cách với
84
ngƣời dân tộc thiểu số có HIV/AIDS. Điều này có liên hệ trực tiếp với các quan
niệm đƣơng thời về những hiện tƣợng tiêu cực đƣợc gọi chung bằng cụm từ “tệ nạn
xã hội”. Sự phổ biến của diễn ngôn cho rằng HIVAIDS là tệ nạn xã hội góp phần xây
dựng niềm tin rằng tình trạng có HIV/AIDS là một dạng “phi đạo đức” mà những
ngƣời có HIV/AIDS là bằng chứng sống. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng
sau khi thực hiện truyền thông tại địa phƣơng, các đơn vị hữu quan chƣa tổ chức đánh
giá mức độ hiệu quả của hoạt động truyền thông. Nếu kiến thức, thái độ và hành vi của
ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng là đối tƣợng tác động của các chƣơng trình truyền
thông, thì hiển nhiên cần đánh giá dựa trên những tiêu chí này. Tuy nhiên, công tác
tổng kết hậu truyền thông của các đơn vị hữu quan tại địa phƣơng mới chỉ dừng lại ở
việc mô tả các việc đã làm đƣợc, nên hoạt động đánh giá hiệu quả truyền thông vẫn bị
bỏ ngỏ. Thực tế cũng cho thấy quá trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại địa
phƣơng mang nặng tính một chiều. Các ý kiến phản hồi của ngƣời dân địa phƣơng
chƣa đƣợc nhà cung cấp dịch vụ truyền thông quan tâm. Đáng chú ý là không chỉ khâu
tiếp nhận ý kiến phản hồi của ngƣời dân vẫn chƣa đƣợc thực hiện mà có vẻ nhƣ các cán
bộ truyền thông có khuynh hƣớng tráo đổi trách nhiệm giải trình giữa “ngƣời làm
truyền thông” và “ngƣời đƣợc truyền thông”. Điều này khiến cho quy trình truyền
thông phòng chống HIV/AIDS bị thiếu đi những “mắt xích” quan trọng để có thể tái
thiết lập các chƣơng trình truyền thông hiệu quả trong tƣơng lai.
Cũng cần nhìn nhận vấn đề trong bối cảnh nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn ở địa phƣơng còn thiếu thốn. Biểu hiện rõ ràng nhất của vấn đề này là tình
trạng kiêm nhiệm trong phân bổ cán bộ. Sự quá tải khi một cán bộ phải đảm nhiệm
truyền thông cho nhiều vấn đề khác nhau khiến họ thƣờng ít có cơ hội nắm bắt kiến
thức sâu về những nội dung công việc mà bản thân đảm nhiệm, dễ phạm phải sai
lầm trong quá trình thực hiện truyền thông. Những phân tích từ góc độ “nguồn”
cũng cho thấy tình trạng phối hợp lỏng lẻo giữa các ban ngành hữu quan. Một dẫn
chứng rõ ràng cho vấn đề này là tình trạng ùn đẩy trách nhiệm ở cán bộ truyền
thông. Liên kết không chặt chẽ giữa các ban ngành hữu quan khiến cho hoạt động
truyền thông đƣợc thực hiện cứng nhắc, không có sự xem xét đến tình hình của mỗi
địa phƣơng khác nhau. Bởi vậy mà có thể dẫn đến khả năng là chƣơng trình truyền
85
thông không phù hợp với đối tƣợng đích.
Đặt trong bối cảnh của địa phƣơng nghiên cứu, ta thấy có nhiều rào cản đối
với cộng đồng dân tộc thiểu số khi tiếp cận thông tin truyền thông; đồng thời cũng
có nhiều thách thức đặt ra cho nhà cung cấp dịch vụ truyền thông. Trong đó, vấn đề
ngôn ngữ đƣợc phân tích nhƣ là rào cản lớn đầu tiên đối với ngƣời dân. Tỷ lệ đồng
bào sử dụng ngôn ngữ của nhóm tộc ngƣời địa phƣơng vẫn chiếm đa số trong khi
các tài liệu truyền thông lại đƣợc thiết kế hoàn toàn bằng tiếng Việt dẫn đến bất cập
là ngƣời dân hoặc là không thể đọc – hiểu đƣợc, hoặc là đọc nhƣng không hiểu, và
cũng xảy ra cả tình trạng đọc hiểu đƣợc nhƣng không hào hứng với các tài liệu tiếng
Việt. Còn cán bộ truyền thông thì lại “lừng chừng” khi nhận ra tính cần thiết của
việc xây dựng tài liệu bằng tiếng địa phƣơng nhƣng không sẵn sàng tham gia vào
hoạt động này. Liên quan trực tiếp đến vấn đề tài liệu truyền thông hoàn toàn đƣợc
thiết kế bằng tiếng Việt thì sự đa dạng của tên gọi địa phƣơng về HIV/AIDS cũng là
một trong những vấn đề dƣờng nhƣ gây khó khăn cho ngƣời dân khi tiếp cận thông
tin truyền thông. Tính thiếu nhạy cảm văn hóa của tài liệu truyền thông cũng gây ra
những bất cập không nhỏ. Trong khi đối tƣợng đích của hoạt động truyền thông là
cộng đồng dân tộc thiểu số, nhƣng hình ảnh minh họa thì về sinh hoạt văn hóa của
ngƣời Kinh. Điều này không tạo đƣợc hứng thú quan tâm từ phía ngƣời dân địa
phƣơng và đƣơng nhiên mức độ tiếp nhận các thông tin truyền thông sẽ bị ảnh
hƣởng đáng kể. Một thách thức chung đối với ngƣời dân và nhà cung cấp dịch vụ
truyền thông là hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém. Với những giao lộ sâu và xa, địa
bàn sinh tụ của ngƣời dân ở những nơi hẻo lánh, điện lƣới thiếu và yếu, hệ thống loa
phóng thanh cũ và ít, thì cán bộ truyền thông gặp nhiều bất cập khi tiếp cận với
ngƣời dân và triển khai các hoạt động truyền thông hiện đại; ngƣợc lại, ngƣời dân
địa phƣơng cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiếp cận thông tin truyền
thông. Đặc biệt, những rào cản và thách thức này lại tồn tại trong bối cảnh thiếu
thốn cán bộ truyền thông có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở.
Ngoài các nguyên do khách quan thì những bất cập nói trên cho thấy hạn chế
trong quản lý và triển khai thực hiện truyền thông của các ban ngành hữu quan. Để
86
khắc phục những bất cập này, trƣớc tiên cần phải thay đổi quy trình truyền thông
mang tính một chiều thành mô hình truyền thông hai chiều. Theo đó, cần thiết phải
khuyến khích và tạo cơ hội để cán bộ truyền thông cấp cơ sở cũng nhƣ của ngƣời
dân đƣợc sự tham gia vào quá trình thiết kế các tài liệu truyền thông. Mô hình
truyền thông có sự tham gia của đối tƣợng đích (participatory communication
model) đã đƣợc nhiều nghiên cứu cũng nhƣ chuyên gia phát triển xã hội khuyến
nghị nhƣ là một mô mình mẫu mực trong công tác truyền thông phòng chống
HIV/AIDS ở nhóm đối tƣợng yếu thế và nhạy cảm. Nó cho thấy tính tích cực khi có
thể điều chỉnh sự phù hợp giữa thông tin truyền thông với đối tƣợng đích.
Những phân tích truyền thông nhìn từ góc độ “nguồn” dƣờng nhƣ ngụ ý rằng nên
có những nghiên cứu sâu về kiến thức, thái độ và thực hành của đội ngũ cán bộ truyền
thông. Bấy lâu nay các nghiên cứu đặt sự chú ý rất lớn vào đối tƣợng là ngƣời dân
nhƣng lại thƣờng bỏ quên yếu tố quan trọng là cán bộ truyền thông. Tình trạng thực
hành gán nhãn phổ biến và diễn ngôn xã hội chƣa hợp lý của cán bộ truyền thông chỉ ra
rằng cần có sự thận trọng khi sử dụng hình ảnh ngƣời có HIV/AIDS khi thực hiện
truyền thông để tránh gây ra hệ lụy tiêu cực nhƣ là kỳ thị, phân biệt đối xử với ngƣời
dân tộc thiểu số có HIV/AIDS. Thực tế một số địa phƣơng trên cả nƣớc đã rất thành
công khi sử dụng hình ảnh về ngƣời có HIV/AIDS một cách phù hợp, thậm chí áp
dụng mô hình truyền thông dựa vào đồng đẳng viên (những ngƣời có HIV/AIDS
truyền thông phòng chống HIV/AIDS). Do vậy, việc sử dụng hình ảnh ngƣời có
HIV/AIDS đƣợc cân nhắc cẩn trọng thì hiệu quả truyền thông hẳn sẽ đạt đƣợc. Cũng
cần có quy định rõ ràng cũng nhƣ cơ chế giám sát việc phối hợp giữa các ban ngành
hữu quan. Khi đã có quy định rõ ràng và đƣợc giám sát chặt chẽ, sẽ có khả năng hạn
chế xảy ra tình trạng ùn đẩy trách nhiệm hay phối hợp lỏng lẻo giữa các ban ngành hữu
quan nhƣ thực tế nghiên cứu đã chỉ ra. Tôi cũng cho rằng, nên có chính sách thu hút
đồng thời phân bổ những cán bộ truyền thông có trình độ chuyên môn về làm việc tại
các cấp cơ sở. Trong khi đó, có thể tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ truyền thông tại địa
phƣơng hiện giờ đƣợc đi học và đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn. Điều này
giúp cho công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân tộc thiểu số
87
sẽ trở nên chuyên nghiệp hơn và đạt đƣợc hiệu quả tốt hơn.
Xét về quy trình thực hiện, các kết quả từ nghiên cứu này cũng cho thấy rằng
nhà cung cấp dịch vụ truyền thông và cán bộ truyền thông tại địa phƣơng cần phải
triển khai hoạt động đánh giá hiệu quả và thu thập ý kiến phản hồi của ngƣời dân
trƣớc cũng nhƣ sau truyền thông nhằm đánh giá đƣợc tác động thực sự của chƣơng
trình truyền thông tới đối tƣợng đích. Bổ sung thêm hai “mắt xích” quan trọng này
giúp cho nhà cung cấp dịch vụ truyền thông có thể nắm bắt đƣợc các hạn chế hiện
hữu để có những điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn các chƣơng trình truyền thông
tiếp theo.
Về cơ sở hạ tầng, thực tế đƣợc chỉ ra từ nghiên cứu này cho thấy rõ ràng cần
có những nâng cấp mang tính hệ thống và quy mô. Tuy nhiên, những nâng cấp này
có thể mất thời gian lâu dài với sự đầu tƣ nguồn vốn lớn. Có những thay đổi nhỏ
hơn mà các ban ngành hữu quan tại địa phƣơng hoàn toàn có thể thực hiện đƣợc
một cách khả thi mà không tốn nguồn kinh phí lớn cũng nhƣ không mất nhiều thời
gian. Ví dụ nhƣ việc cải thiện hiện trạng của các bảng hiệu, biển hiệu tuyên truyền
để thu hút sự chú ý của ngƣời dân. Cần xóa các nội dung tuyên truyền chung chung
và quá cũ, làm mới các nội dung tuyên truyền này để các thông tin tới ngƣời dân cụ
thể, chi tiết hơn. Di chuyển những bảng hiệu, biển hiệu tuyên truyền ở các vị trí
vắng ngƣời tới những nơi tập trung đông ngƣời nhƣ chợ, ngã ba giao thông, trƣờng
học… Hay đối với hệ thống loa phóng thanh, cán bộ truyền thông tại địa phƣơng có
thể thống kê tình trạng hoạt động của chúng, sửa chữa những loa có trục trặc, di
chuyển các loa để ở vị trí bất tiện nhƣ quá gần nhà dân, quá thấp dễ bị trẻ con
nghịch… Những vấn đề thuộc về quản lý cơ sở vật chất này các ban ngành hữu
quan tại địa phƣơng đều có thể thực hiện khả thi trong khi chờ đợi một sự nâng cấp
mang tính hệ thống và quy mô về cơ sở hạ tầng.
Một khuyến nghị cuối cùng nhƣng không kém phần quan trọng đó chính là
thiết kế các tài liệu truyền thông có tính nhạy cảm văn hóa với đối tƣợng đích của
chƣơng trình truyền thông. Nhạy cảm văn hóa ở đây bao gồm cả vấn đề ngôn ngữ
chữ viết và hình ảnh. Việc thiết kế các tài liệu đƣợc viết bằng tiếng địa phƣơng và
88
sử dụng hình ảnh minh họa là sinh hoạt văn hóa của đối tƣợng đích sẽ dẫn đến khả
năng tăng sự thu hút đối với ngƣời dân địa phƣơng rất lớn. Việc bắt đối tƣợng đích
phải đọc hiểu một ngôn ngữ không phải của mình và xem các hình ảnh minh họa
của một cộng đồng khác thì rõ ràng là rất thiếu phù hợp. Vì vậy, tôi cho rằng việc
thiết kế các tài liệu truyền thông có tính nhạy cảm văn hóa nhƣ vậy sẽ tạo đƣợc sự
quan tâm từ ngƣời dân địa phƣơng.
Cũng cần nói thêm rằng, luận văn này đƣợc tôi thực hiện trong điều kiện hạn
chế nguồn lực về tài chính và thời gian nên số lƣợng mẫu nghiên cứu chƣa lớn và
địa bàn nghiên cứu chƣa rộng. Tôi cũng chƣa tiếp cận đƣợc đầy đủ tất cả các nhóm
mẫu có liên quan đến hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng
đồng dân tộc thiểu số. Đồng thời, tôi không có khả năng sử dụng ngôn ngữ của hai
tộc ngƣời Tày và Hmông nên trong quá trình thu thập dữ liệu có thể xảy ra những
sai số nhất định do thông tin đƣợc xử lý gián tiếp qua sự trợ giúp của phiên dịch
viên. Những hạn chế này có thể dẫn đến khả năng là các kết quả nghiên cứu chƣa có
tính đại diện cao. Đó là gợi mở để tôi có thể thực hiện các nghiên cứu sâu hơn và
rộng hơn trong tƣơng lai về vấn đề phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân
89
tộc thiểu số.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Hà An (2014), Phòng chống HIV/AIDS cho đồng bào dân tộc thiểu số cần sự
chung tay của cả cộng đồng, Tạp chí AIDS và cộng đồng, (số 10), tr. 6-7.
2. Lê Vũ Anh (2005), Quản lý chương trình phòng chống HIV/AIDS : Tài liệu đào
tạo dùng cho giảng viên và trợ giảng, Nhà xuất bản Y học.
3. Chung Á (2000), Truyền thông về HIV/AIDS/STD cho thanh thiếu niên: Tài liệu
hướng dẫn tuyến tỉnh, Nhà xuất bản Y học.
4. Chung Á (2000), Hướng dẫn tổ chức mạng lưới và hoạt động tư vấn HIV/AIDS:
Tài liệu hướng dẫn tuyến tỉnh, Nhà xuất bản Y học.
5. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (1990), Cái mới trong khoa học xã hội: Triết
học và xã hội học, Xã hội học và thời đại, (số 13), tr. 11.
6. Chu Quốc Ân (12.2007), Báo cáo đề tài đánh giá thực trạng hoạt động phòng,
chống HIV/AIDS tại chùa Pháp Vân và chùa Bồ Đề (Hà Nội), Bộ Y tế Việt
Nam, Hà Nội.
7. Ban Chỉ đạo Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở trung ƣơng (06.2010), Tổng Điều
tra Dân số và Nhà ở năm 2009 - Kết quả toàn bộ, Nhà xuất bản Thống Kê.
8. Đặng Quốc Bảo (2004), “Nền giáo dục nhà trƣờng có chất lƣợng là đảm bảo bền
vững cho việc phòng chống HIV/AIDS trong thế hệ trẻ”, Tạp chí Phát triển giáo
dục, (số 8), tr. 26-27.
9. Lƣơng Hồng Quang, Tô Duy Hợp (2000), Phát triển cộng đồng – Lý thuyết và
vận dụng, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
10. Bộ Y tế Việt Nam (04.2000), Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học về
HIV/AIDS giai đoạn 1997-1999, Cục Phòng Chống HIV/AIDS Việt Nam, Nhà
xuất bản Y học, Hà Nội.
11. Bộ Y tế Việt Nam (2006), HIV/AIDS tại Việt Nam: Thực trạng, đáp ứng quốc
90
gia, những thách thức, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
12. Bộ Y tế Việt Nam (2008), Chương trình Phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
13. Bộ Y tế Việt Nam (11.2010), Việt Nam 20 năm phòng chống HIV/AIDS, Nhà
xuất bản Bộ Y tế Việt Nam, Hà Nội
14. Bộ Y tế Việt Nam (12.2010), Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học về
HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, Cục Phòng Chống HIV/AIDS Việt Nam kết
hợp với Tạp chí Y học Thực hành, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
15. Bộ Y tế Việt Nam (2014), Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2013,
JAHR, Hà Nội.
16. Bộ Y tế Việt Nam (2014), Tình hình nhiễm HIV/AIDS và kết quả hoạt động
phòng, chống HIV/AIDS 4 tháng đầu năm 2014, Hà Nội.
17. Nguyễn Bá Cẩn (2010), Tỷ lệ nhiễm HIV, giang mai và các hành vi nguy cơ lây
nhiễm HIV trong nhóm đồng bào dân tộc Thái ở Thanh Hóa, Tạp chí Y học thực
hành, (số 742+743), tr. 271-277.
18. Thuỷ Cúc (1999), Những người kỳ quặc : Viết về những người hoạt động truyền
thông phòng chống HIV/AIDS (Chương trình AIDS - Quỹ cứu trợ nhi đồng
Anh), Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
19. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (01.2013), Báo cáo tổng kết Công tác
phòng, chống HIV/AIDS năm 2012 và kế hoạch công tác năm 2013, Bộ Y tế
Việt Nam.
20. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (11.2014), Báo cáo tổng kết Công tác
phòng, chống HIV/AIDS đến 30/09/2014, Bộ Y tế Việt Nam.
21. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (01.2013), Báo cáo tổng kết Công tác
phòng, chống HIV/AIDS năm 2013 và định hướng kế hoạch công tác năm 2014,
Bộ Y tế Việt Nam.
22. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (05.2014), Tình hình nhiễm HIV/AIDS
và kết quả hoạt động phòng, chống HIV/AIDS 4 tháng đầu năm 2014, Bộ Y tế
91
Việt Nam.
23. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (2010), Báo cáo Công tác phòng chống
HIV/AIDS giai đoạn 1990-2010, Bộ Y tế Việt Nam.
24. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (2014), Bảo đảm tài chính cho các hoạt
động phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2013 – 2020, đƣờng link:
http://vaac.gov.vn/
/Bao_dam_tai_chinh_cho_cac_hoat_dong_phong_chong_HIVAIDS_giai_doan_
2013-2020-Mot_viec_lam_cap_bach/?print=83689149, ngày cập nhật
06/03/2014.
25. Nguyễn Văn Dững (2006), Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
26. Đài Phát thanh và Truyền hình Tuyên Quang (12/2013), Tuyên Quang tăng
cường công tác phòng chống HIV/AIDS, Chuyên mục Văn hóa – Xã hội, Tạp chí
điện tử, ngày 01/12/2013.
27. Dự án Giáo dục đồng đẳng phòng chống HIV/AIDS tại các trung tâm Giáo dục
lao động xã hội của Hà Nội, Thái Nguyên, Khánh Hoà (2005), Chuyện chúng
mình, Nhà xuất bản Y học.
28. Nguyễn Thùy Dƣơng (2010), Tác động của các chƣơng trình truyền thông đại
chúng và rào cản ngôn ngữ trong việc phổ cập kiến thức về HIV/AIDS trong nhóm
dân tộc Dao ở tỉnh Yên Bái, Tạp chí Y học thực hành, (số 742+743), tr. 337-341.
29. Đàm Hữu Đắc (2005), Cần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, truyền thông
phòng chống HIV/AIDS ở nƣớc ta, Tạp chí lao động và xã hội, (số 271), tr. 4-5.
30. Hoàng Hoa (2005), Tích hợp giáo dục phòng ngừa HIV/AIDS với chƣơng trình
giảng dạy, Tạp chí Giáo dục, (số 113), tr. 43-45.
31. Trịnh Quân Huấn (2003), Truyền thông thay đổi hành vi phòng lây nhiễm
HIV/AIDS, Trung Tâm Y tế dự phòng Nghệ An, thành phố Vinh.
32. Tuấn Huấn (2004), Nhóm đồng đẳng và những đóng góp thầm lặng, Tạp chí
Lao động và Xã hội, (số 253), tr. 37-38.
33. Nguyễn Thu Hƣơng & Nguyễn Trƣờng Giang (2012), “Học không đƣợc hay học để
làm gì” – Nghiên cứu trƣờng hợp về tình hình học tập của thanh thiếu niên dân tộc
92
thiểu số miền Bắc Việt Nam, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trƣờng, Hà Nội.
34. Phan Thị Thu Hƣơng (2010), Một số đặc điểm hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV và
tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy ngƣời dân tộc thiểu số ở
huyện Quan Hóa, Thanh Hóa, Tạp chí Y học thực hành, (số 742+743), tr. 266-271.
35. Phan Thị Thu Hƣơng (5.2013), “Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thái độ
và hành vi phòng, chống HIV/AIDS của đồng bào Thái tại Thanh Hóa (2007-
2012)”, Tạp chí Y học thực hành, (số 868), tr. 62-65.
36. Phan Thị Thu Hƣơng (2013), “Thực trạng kiến thức, thái độ và hành vi và hiệu
quả mô hình can thiệp phòng lây nhiễm HIV trong nhóm dân tộc Thái 15 - 49
tuổi tại 2 huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa”, Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại học Y tế
Công cộng, bảo vệ ngày 11/07/2013.
37. Ngô Văn Lƣơng (2012), Tại sao lại khoe “của quý”, trang điện tử Y khoa Việt
Nam, link đăng bài http://ykhoa.net/yhocphothong/tamthan/tamthan14.htm,
ngày cập nhật 03/12/2012.
38. Nguyễn Thanh Long (2013), HIV/AIDS tại Việt Nam – Ước tính và dự báo giai
đoạn 2011-2015, Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam, Nhà xuất bản Y học.
39. Lê Quốc Nam (2008), Lệch lạc tình dục – Bệnh tâm thần phức tạp, Báo Người
Lao Động, Tổng Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh, ngày
26/09/2008.
40. Hà Minh Nguyệt và cộng sự (2012), Tác động của các chƣơng trình truyền
thông có sự tham gia của cộng đồng về thay đổi hành vi để phòng chống HIV
trong nhóm thanh niên dân tộc thiểu số ở miền Trung Việt Nam, Tạp chí BMC
Public Health, (số 12), tr. 170.
41. Qũy Dân số Liên hợp quốc – UNFPA (2007), Kiến thức và hành vi của cộng
đồng dân tộc thiểu số về sức khỏe sinh sản, UNFPA Việt Nam.
42. Nguyễn Anh Tuấn (2010), Tỷ lệ nhiễm HIV, giang mai và các hành vi nguy cơ
lây nhiễm HIV trong nhóm đồng bào dân tộc ít ngƣời tại Việt Nam, Tạp chí Y
học thực hành, (số 742+743), tr.29-39.
43. UNESCO (2004), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong dự phòng và chăm sóc
93
HIV/AIDS, Văn phòng UNESCO Hà Nội, Hà Nội.
44. Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy mại dâm
(2012), Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn
2030, Hà Nội.
45. Phƣớc Nhƣờng (2013), Vai trò của truyền thông giáo dục sức khỏe trong thay
đổi hành vi, Sở Y tế tỉnh Bạc Liêu, đƣờng link:
http://syt.baclieu.gov.vn/suckhoe/ BB%8Fe&ItemID=42&Mode=1, ngày cập
nhật 05/11/2013.
46. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (2009), Bệnh AIDS được phát hiện khi
nào, http://www.vaac.gov.vn//Hoi-dap/Benh_AIDS_duoc_phat_hien_khi_nao/,
ngày cập nhật 09/10/2009.
47. Thanh Mai (2014), Nguy cơ lây nhiễm HIV ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, Báo Nhân dân số ra ngày 04/01/2014, Hà Nội.
CÁC TÀI LIỆU TIẾNG ANH
48. Airhihenbuwa, Collins O. & Rafael Obregon (2000), A critical assesssment of
theories/ models used in health communication for HIV/AIDS, Journal of
Health Communication, (Vol. 5), pg. 5-15.
49. Amo, Julia D. (2004), Monitoring HIV/AIDS in Europe’s migrant communities
and ethnic minorities, AIDS 2004, (18), pg. 1867–1873.
50. Bertrand, Jane T. (2006), Systematic review of the effectiveness of mass
communication programs to change HIV/AIDS-related behaviors in developing
countries, HEALTH EDUCATION RESEARCH, (Vol.21), pg. 567–597.
51. Douek, Daniel C. (2009), Emerging concepts in the immunopathogenesis of
AIDS, Annu. Rev. Med, (Vol. 60), pg. 471-484.
52. Farr, Celeste A. (2005), The Effectiveness of Media Use in Health Education:
Evaluation of an HIV/AID RadioCampaign in Ethiopia, Journal of Health
Communication: International Perspectives, (10), pg. 225-235.
53. Gao, Yun M. & Wang S. (2007), Participatory communication and HIV/AIDS
prevention in a Chinese marginalized (MSM) population, AIDS Care:
94
Psychological and Socio-medical Aspects of AIDS/HIV, (19), pg. 799-810.
54. Jensen, Gary F. (2007), The path of the devil: Early modern witch hunts,
Rowman & Littlefield, pg. 11.
55. Jirakun, A. (1993), Risk factors to HIV infection among ethnic minorities (EM) in
north Thailand. International Conference on AIDS, Retrieved March 18, 2010.
56. Johnson, Mark R D (1996), Ethnic Minorities, Health & Communication - A
Research Review for the NHS Executive and West Midlands Regional Health
Authority, Centre for Research in Ethnic Relations, University of Warwick.
57. Karlyn, Andrew S. (2001), The Impact of a Targeted Radio Campaign to
Prevent STIs and HIV/AIDS in Mozambique, PSI Research Division, (40).
58. Kelley, R. T. & Hannans A. (2012), The Community Liaison Program: a health
education pilot program to increase minority awareness of HIV and acceptance of
HIV vaccine trials, HEALTH EDUCATION RESEARCH, (Vol.27), pg. 746–754.
59. Knipe, Mary H. & Francois Fleuryb (1999), HIV/AIDS prevention for migrants
and ethnic minorities: three phases of evaluation, Social Science & Medicine,
(Vol. 49), pg.1357-1372.
60. Link, Bruce G. & Jo C. Phelan (August 2001), Conceptualizing Stigma, Annual
Review of Sociology, (Vol. 27), pg. 363-385.
61. Macionis, J. John & Gerber M. Linda (2011), Sociology, Seventh Canadian
Edition with MySocLab, Pearson Canada Inc, Toronto, pg. 163-200.
62. Malqvist, M. & Dinh, Hoa T. P. (2013), Ethnic minority health in Vietnam: A
review exposing horizontal inequity, Glob Health Action 2013, (6).
63. Muturi, Nancy W. (2005), Cultural considerations in HIV/AIDS
communication and prevention in Kenya, Journal of Health Communication,
(10), pg. 77-98.
64. Nguyen, Huy V. et al (2012), The effect of participatory community
communication on HIV preventive behaviors among ethnic minority youth in
central Vietnam, BMC Public Health 2012, (vol.12), pg.170.
65. Noar, Seth M. (2009), A 10-Year Systematic Review of HIV/AIDS Mass
Communication Campaigns: Have We Made Progress?, Journal of Health
95
Communication, (vol.14), pg. 15–42.
66. Nettleton, Sarah (2006), The Sociology of Health and Fitness, Polity Press,
Cambridge, UK, pg. 95.
67. Onjefu Okidu (2013), A comparative study of two communication models in
HIV/AIDS coverage in selected Nigerian newspapers, Glob Health Action 2013,
(vol.6), pg. 18993.
68. Paul Cobley & Peter J. Schulz (2013), Theories and model of communication,
Walter de Gruyter.
69. Peltzer, Karl (2012), Impact of National HIV and AIDS Communication
Campaigns in South Africa to Reduce HIV Risk Behaviour, The ScientificWorld
Journal, (Vol. 2012), Article ID 384608.
70. Phan, Huong T.T., Duong T. Nguyen (2010), Impacts of mass media exposure
and language barrier on comprehensive HIV/AIDS knowledge among “Dzao”
ethnic minority in Yenbai province, Vietnam, Journal of Practical Medicine,
(Vol. 742+743), pg. 337-341.
71. Pike, Robert W. (2003), Creative Training Techniques Handbook: Tips, Tactics,
and How-To’s for Delivering Effective Training, Human Resource Development
Press, 3 edition.
72. Wess, Robin A. (May 1993), How does HIV cause AIDS?, Science, New series,
(Vol. 260), pg. 1273–1279.
73. Wheeler, Tisha (2003), Somalia HIV/AIDS Prevention, Advocacy &
Communication Framework, The World Bank and UNICEF.
74. Richard T. Schaefer, Robert P. Lamm (1998), Sociology, 6th Edition, The Mc
Graw-Hill companies, Inc, pg. 512.
75. UNAIDS (2011), UNAIDS Terminology Guidelines.
76. WHO (2014), Core epidemiological slides HIV/AIDS estimates July 2014, HIV
Department.
77. WHO (2015), HIV/AIDS definition, link:
96
http://www.who.int/topics/hiv_aids/en/, ngày cập nhật 03/06/2015.
PHỤ LỤC ẢNH
Ảnh 1: Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Tuyên Quang chuẩn bị tài liệu tuyên truyền về phòng, chống HIV/AIDS9
9 Ảnh 1: Do P.V. chụp vào ngày 02/12/2013. 10 Ảnh 2: Do Thanh Huế chụp vào ngày 15/07/2013.
97
Ảnh 2: Cán bộ Huyện đoàn Lâm Bình sử dụng tờ gấp của Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe tỉnh tuyên truyền chăm sóc sức khỏe cho người dân xã Phúc Yên10
Ảnh 3: Người dân tộc thiểu số tại huyện Lâm Bình thuộc tỉnh Tuyên Quang tham gia một buổi họp truyền thông phòng chống HIV/AIDS11
11 Ảnh 3: Ảnh do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 05/02/2015. 12 Ảnh 4: Ảnh do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 14/03/2015.
98
Ảnh 4: Một bảng hiệu tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS với nội dung chung chung và bị cỏ mọc che lấp tại huyện Yên Sơn thuộc tỉnh Tuyên Quang12
Ảnh 5: Tôi phỏng vấn sâu một phụ nữ người Hmông tại xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang13
13 Ảnh 5: Ảnh do Đặng Quốc Thắng chụp vào ngày 06/12/2013. 14 Ảnh 6: Ảnh do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 13/06/2014.
99
Ảnh 6: Một phụ nữ người Hmông không thể giao tiếp bằng tiếng Kinh và tác giả phải thực hiện phỏng vấn sâu nhờ sự trợ giúp của con gái chị cùng người phiên dịch của mình (đứng ở phía sau)14
Ảnh 7: Một bé gái người Hmông tại huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang giúp mẹ đọc các tài liệu truyền thông viết bằng tiếng Kinh15
15 Ảnh 7: Do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 15/06/2014 16 Ảnh 8: Do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 13/06/2014
100
Ảnh 8: Các tài liệu truyền thông đều được thiết kế bằng tiếng Kinh16
17 Ảnh do Trung tâm Công nghệ Thông tin – Sở Tài nguyên & Môi trƣờng Tuyên Quang cung cấp vào ngày 15/07/2013. Tôi đã tô màu xanh đậm vào hai huyện chọn mẫu nghiên cứu.
101
Ảnh 9: Bản đồ hành chính tỉnh Tuyên Quang (hai huyện chọn mẫu nghiên cứu được tô màu xanh đậm)17