ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------

LƢƠNG ANH NGỌC

TRUYỀN THÔNG PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS Ở CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH TUYÊN QUANG: MỘT TIẾP CẬN

NHÂN HỌC

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Dân tộc học Mã số: 60 31 03 10

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hƣơng

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Lƣơng Anh Ngọc, học viên cao học chuyên ngành Dân tộc học khóa

QH-2012, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà

Nội. Tôi cam đoan rằng các kết quả nghiên cứu thực địa trình bày trong luận văn

thạc sĩ này đƣợc tôi thu thập trong quá trình điền dã tại các địa phƣơng. Mọi trích

dẫn và tham khảo từ nguồn tài liệu liên quan đều đƣợc chú thích đầy đủ. Cá nhân tôi

chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung trình bày, cũng nhƣ bất kỳ sai sót nếu có,

trong luận văn.

Hà Nội, tháng 08 năm 2015

Học viên

Lương Anh Ngọc

LỜI TRI ÂN

Trƣớc hết tôi xin đặc biệt bày tỏ lời tri ân sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Thu

Hƣơng, giảng viên Khoa Nhân học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn,

Đại học Quốc gia Hà Nội. Dƣới sự dìu dắt của cô, tôi đã xác định đƣợc rõ hƣớng

khai triển đề tài nghiên cứu cả về mặt nội dung lẫn phƣơng pháp tiến hành, cũng

nhƣ tự tu chỉnh các nếp lỗi của bản thân khi chập chễnh những bƣớc đầu tiên trên

con đƣờng nghiên cứu hàn lâm.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cá nhân nhƣ Bà Nguyễn Thu Hoàn –

chuyên viên Phòng Thanh tra Pháp chế (Trƣờng Đại học Tân Trào); Ông Lã Văn

Hào – phụ trách Phòng Lý luận Chính trị (Ban Tuyên giáo Tỉnh Ủy); Ông Hoàng

Đức Hợp – Phó Viện trƣởng Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Hàm Yên; Bà Phan

Ngọc Hƣơng – chuyên viên phòng Dân tộc huyện Hàm Yên; Bà Nguyễn Thị Khánh

Ly – giáo viên Trƣờng Trung học Cơ sở Bán trú Hùng Lợi; Ông Hoàng Lƣơng Đức

Hiệp; Ông Lý A Hùng; Ông Đặng Quốc Nghị - giáo viên Trƣờng Trung học Cơ sở

Công Đa trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang đã tận tình cộng tác trong quá trình lựa

chọn mẫu nghiên cứu. Nghiên cứu này cũng khó khả thi nếu nhƣ không nhận đƣợc

sự hỗ trợ quý báu từ phía chính quyền địa phƣơng và đặc biệt là bà con ở các điểm

nghiên cứu thuộc huyện Yên Sơn và huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang.

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................................... 1

DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ ........................................................................... 2

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài ............................................................................ 1

2. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu .................................................................................... 3

2.2. Địa bàn nghiên cứu ........................................................................................ 4

2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 7

2.4. Hạn chế nghiên cứu ..................................................................................... 10

3. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 10

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ................. 11

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 11

1.1.1. Các nghiên cứu ở nƣớc ngoài ................................................................... 11

1.1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc ...................................................................... 15

1.2. Các khái niệm công cụ .................................................................................... 19

1.2.1. Phân biệt khái niệm HIV và AIDS ........................................................... 19

1.2.2. Định nghĩa truyền thông ........................................................................... 21

1.2.3. Khái niệm cộng đồng ............................................................................... 22

1.2.4. Khái niệm dân tộc thiểu số ....................................................................... 24

1.3. Các lý thuyết áp dụng ..................................................................................... 25

1.3.1. Lý thuyết về mô hình truyền thông của Claude Shannon ........................ 25

1.3.2. Lý thuyết truyền thông điệp cho đối tƣợng .............................................. 26

1.4. Sơ lƣợc về tình hình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Tuyên

Quang ..................................................................................................................... 28

Chƣơng 2: NHẬN THỨC VỀ TRUYỀN THÔNG PHÕNG CHỐNG HIV/AIDS

TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ: GÓC NHÌN NGƢỜI DÂN ......... 32

2.1. Nhận thức về bản chất HIV/AIDS .................................................................. 32

2.2. Nhận thức về con đƣờng lây nhiễm HIV ........................................................ 34

2.3. Nhận thức về biện pháp phòng chống lây nhiễm HIV ................................... 36

2.4. Nhận thức về HIV/AIDS trong so sánh tộc ngƣời.......................................... 38

Chƣơng 3: CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG TỪ GÓC ĐỘ “NGUỒN” .................. 49

3.1. Chủ trƣơng ...................................................................................................... 49

3.2. Thực tiễn hoạt động truyền thông ................................................................... 51

3.2.1. Từ thực hành gán nhãn ............................................................................. 51

3.2.2. Đến diễn ngôn “tệ nạn xã hội” ................................................................. 53

3.2.3. Đánh giá hậu truyền thông bị “bỏ ngỏ” .................................................... 55

3.2.4. Thiếu vắng phản hồi từ ngƣời dân ........................................................... 57

3.2.5. Tình trạng kiêm nhiệm trong phân bổ cán bộ .......................................... 59

3.2.6. Ùn đẩy trách nhiệm hay phối hợp liên ngành lỏng lẻo ............................ 61

Chƣơng 4: RÀO CẢN VÀ THÁCH THỨC – BÀI TOÁN KHÓ CHO ................... 66

NGƢỜI DÂN VÀ CÁN BỘ TRUYỀN THÔNG ..................................................... 66

4.1. Rào cản của ngƣời dân khi tiếp cận các chƣơng trình truyền thông .............. 66

4.1.1. Rào cản ngôn ngữ ..................................................................................... 66

4.1.2. Đa dạng tên gọi địa phƣơng về HIV/AIDS .............................................. 71

4.1.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém .............................................................. 74

4.1.4. Tài liệu truyền thông thiếu nhạy cảm văn hóa ......................................... 77

4.2. Khó khăn của cán bộ truyền thông ................................................................. 79

4.2.1. Thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở ............................... 79

4.2.2. Hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa đƣợc nâng cấp ............................................ 82

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................................... 84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 90

PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................................ 97

HIV

: Human Immunodeficiency Virus (Virus suy giảm miễn dịch ở ngƣời)

AIDS

: Acquired Immunodeficiency Syndrome (Hội chứng suy giảm miễn dịch

mắc phải)

CTMTQG

: Chƣơng trình Mục tiêu quốc gia

VNĐ

: Việt Nam đồng

ARV

: Antiretroviral therapy (Liệu pháp kháng retro vi rút)

PEPFAR

: President’s Emergency Plan For AIDS Relief (Kế hoạch cứu trợ khẩn cấp về

AIDS đƣợc Tổng thống Hoa kỳ George W. Bush khởi xƣớng từ 2003)

UNAIDS

: United Nations Programme on HIV/AIDS (Chƣơng trình phối hợp của

Liên Hiệp Quốc về HIV/AIDS)

WHO

: World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)

WB

: World Bank (Ngân hàng Thế giới)

UNFPA

: United Nations Population Fund (Qũy dân số Liên Hợp Quốc)

VAAC

: Cục Phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam

GSO

: Tổng cục Thống kê Việt Nam

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ

Bảng 1: Thống kê các thành phần dân tộc tỉnh Tuyên Quang .................................... 4

Bảng 2: Thống kê các thành phần dân tộc huyện Yên Sơn và huyện Lâm Bình ........ 6

Bảng 3: Thiết kế mẫu nghiên cứu của luận văn .......................................................... 9

Bảng 4: Suy nghĩ và hiểu biết về HIV/AIDS của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu ... 33

Bảng 5: Suy nghĩ, hiểu biết của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu về con đƣờng lây

nhiễm HIV ................................................................................................................. 35

Bảng 6: Một số nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu về các biện pháp

phòng tránh lây nhiễm HIV....................................................................................... 37

Bảng 7: Nhận thức về bản chất bệnh HIV/AIDS của dân tộc Tày và dân tộc Hmông .. 40

Bảng 8: Nhận thức của ngƣời dân tộc Tày và dân tộc Hmông về các con đƣờng lây

nhiễm HIV ................................................................................................................. 41

Bảng 9: Nhận thức của hai nhóm Tày và Hmông về các biện pháp phòng tránh lây

nhiễm HIV ................................................................................................................. 42

Bảng 10: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và huyện

Lâm Bình về bản chất HIV/AIDS ............................................................................. 44

Bảng 11: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và huyện

Lâm Bình về các con đƣờng lây nhiễm HIV ............................................................ 45

Bảng 12: Nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số về các biện pháp phòng tránh lây

truyền HIV phân theo huyện ..................................................................................... 46

Bảng 13: Thực hành gán nhãn của cán bộ truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại

cộng đồng dân tộc thiểu số ........................................................................................ 52

Bảng 14: Cơ cấu chuyên môn của cán bộ truyền thông nghiên cứu ......................... 81

Biểu đồ 1: Tỷ lệ giao tiếp bằng ngôn ngữ địa phƣơng và ngôn ngữ phổ thông của

cộng đồng dân tộc thiểu số nghiên cứu ..................................................................... 66

Biểu đồ 2: Tỷ lệ tƣơng quan về tính cần thiết và sự sẵn sàng tham gia xây dựng tài

liệu truyền thông tiếng địa phƣơng của đối tƣợng nghiên cứu cán bộ truyền thông ... 70

Biểu đồ 3: Thái độ của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng đối với nội dung chữ

viết và hình ảnh trong các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS ............... 77

Biểu đồ 4: Sự hứng thú của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng đối với các hình

ảnh trong các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS ................................... 78

Biểu đồ 5: Số bác sĩ/1 vạn dân ở Việt Nam chia theo từng vùng năm 2012 ............ 80

Sơ đồ 1: Mô hình truyền thông của Claude Shannon ............................................... 26

Sơ đồ 2: Quy trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc

thiểu tố tại tỉnh Tuyên Quang.................................................................................... 58

MỞ ĐẦU

1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài

“Nhiều ngƣời dân tộc thiểu số vận chuyển heroin để đƣợc trả công bằng mấy

gói muối; thậm chí muốn ở tù vì có cơm ăn cả ba bữa; khi bị bắt vẫn không hề biết

vận chuyển ma túy là có thể bị tử hình. Sự “hồn nhiên” của đồng bào phải chăng là

do công tác tuyên truyền của chúng ta?”. Đó là những tổng kết đƣợc ông Lê Sơn

Hải - Thứ trƣởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc đƣa ra tại Hội thảo Đánh giá kết

quả công tác phòng chống tệ nạn ma túy, HIV/AIDS vùng dân tộc thiểu số giai đoạn

2011 – 2015. Nó gợi mở về một thực trạng cần xem xét của công tác truyền thông

phòng chống HIVAIDS cùng các vấn đề xã hội có liên quan trong cộng đồng dân

tộc thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt là khi tình hình HIV/AIDS đang có những diễn

biến phức tạp.

Tại Việt Nam, trƣờng hợp nhiễm HIV đầu tiên đƣợc phát hiện vào tháng 12

năm 1990 tại thành phố Hồ Chí Minh và đến năm 1993 thì HIV mới bắt đầu bùng

nổ thành dịch bệnh lớn (Phan Thị Thu Hƣơng, 2013). Theo số liệu báo cáo công tác

phòng chống HIV/AIDS của Cục Phòng chống HIV/AIDS (Bộ Y tế Việt Nam) đƣa

ra, tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2014, Việt Nam đã phát hiện 224.223 trƣờng hợp

ngƣời nhiễm HIV và 69.617 bệnh nhân AIDS hiện còn sống, 70.734 ngƣời tử vong

do AIDS, địa bàn đƣợc phát hiện có HIV lên tới 80,3% xã/phƣờng, gần 98,9%

quận/huyện và 100% tỉnh/thành phố ở Việt Nam (VAAC, 2014). Cũng theo báo cáo

trên, mặc dù tỷ lệ phát hiện trƣờng hợp ngƣời nhiễm HIV mới đã giảm hơn 10% so

với năm 2013, nhƣng số trƣờng hợp ngƣời nhiễm HIV mới vẫn tiếp tục tăng và địa

bàn phát hiện ngƣời có HIV/AIDS đang ngày càng lan rộng nhanh chóng, đặc biệt

là trong các nhóm dân tộc thiểu số (VAAC, 2014). Đầu năm 2013, Bộ Y tế tổng kết

số liệu báo cáo của 49 tỉnh, thành phố có các nhóm dân tộc thiểu số cƣ trú tập trung

nhiều nhất, cho thấy rằng đến thời điểm cuối năm 2013 có khoảng hơn 16.000

ngƣời dân tộc thiểu số nhiễm HIV/AIDS còn sống (Thanh Mai, 2014). Nhƣ vậy, dù

ngƣời dân tộc thiểu số chỉ chiếm khoảng 14% tổng dân số cả nƣớc, nhƣng số ngƣời

1

dân tộc thiểu số có HIV/AIDS chiếm tới gần 10% tổng số ngƣời có HIV/AIDS toàn

quốc (Hà An, 2014). Theo báo cáo của Bộ Y tế thì trong số 10 tỉnh của Việt Nam có

tỷ lệ nhiễm HIV/100 nghìn dân cao nhất năm 2012 có đến bảy tỉnh thuộc khu vực

miền núi phía bắc (Thanh Mai, 2014). Tổng kết công tác phòng chống HIV/AIDS

trên toàn quốc đến tháng 09/2014, Cục Phòng chống HIV/AIDS đƣa ra số liệu cho

thấy có những xã, thôn bản thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc có tỷ lệ nhiễm

HIV/AIDS cao gấp trên 10 lần so với tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trung bình toàn quốc

(VAAC, 2014). Tỉnh Tuyên Quang cũng là một trong 15 tỉnh trung du miền núi

phía Bắc đƣợc xếp vào nhóm dự báo có nguy cơ tăng nhanh và tăng cao tỷ lệ ngƣời

dân tộc thiểu số nhiễm HIV trong thời gian tới (Bộ Y tế, 2014). Đã có những

chƣơng trình truyền thông đƣợc triển khai trong các nhóm dân tộc thiểu số trên cả

nƣớc nói chung và tại tỉnh Tuyên Quang nói riêng, nhằm phổ biến kiến thức về

HIV/AIDS, giáo dục, thay đổi hành vi có nguy cơ lây nhiễm của ngƣời dân (VAAC,

2014). Tuy nhiên, kể từ năm 2012 đến nay số trƣờng hợp nhiễm HIV phát hiện mới

là ngƣời dân tộc thiểu số vẫn tiếp tục tăng lên và tập trung nhiều ở các huyện miền

núi phía Bắc và miền trung của Việt Nam (VAAC, 2014). Đặc biệt, theo báo cáo

gần đây nhất của Cục Phòng chống HIV/AIDS thì Tuyên Quang là một trong năm

tỉnh có số ngƣời nhiễm HIV tăng cao nhất so với cùng kỳ năm 2013 với tỷ lệ tăng

lên tới 137% (Bộ Y tế, 2014).

Tỷ lệ gia tăng số ngƣời lây nhiễm này lại diễn ra trong bối cảnh nguồn kinh

phí viện trợ cho hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam hiện

đang dần bị thu hẹp (VAAC, 2014). Thực tế ở Việt Nam, trong những năm qua

khoảng 70% kinh phí cho chƣơng trình phòng, chống HIV/AIDS và 90% kinh phí

mua thuốc kháng virút (ARV) cho ngƣời nhiễm HIV là nhờ vào sự hỗ trợ của các tổ

chức quốc tế; phần kinh phí còn lại là do trung ƣơng cung cấp (thông qua Chƣơng

trình mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê

duyệt), ngân sách nhà nƣớc ở địa phƣơng có thể huy động đƣợc, bảo hiểm y tế chi

trả, doanh nghiệp tự chi trả và ngƣời dân tự chi trả (VAAC, 2014). Bắt đầu từ năm

2014, phần lớn nguồn viện trợ từ nƣớc ngoài đã chấm dứt hoàn toàn kinh phí đầu tƣ

2

cho hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam (cắt giảm gần

nhƣ 100%); đồng thời, nguồn viện trợ chính từ Chƣơng trình Mục tiêu quốc gia cho

hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam cũng bị cắt giảm 60%, từ 43183 tỷ VNĐ năm 2013 xuống 17369 tỷ VNĐ năm 2014 (VAAC, 2014)1.

Có thể thấy rằng hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam

đang đứng trƣớc thách thức mới trong vấn đề huy động nguồn lực tài chính.

Trƣớc bối cảnh chính sách trên, tôi muốn thực hiện nghiên cứu này nhằm đi

sâu phân tích các hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng

dân tộc thiểu số thuộc tỉnh Tuyên Quang. Tôi tin rằng các phát hiện ban đầu từ

nghiên cứu này có thể góp phần đƣa ra một số khía cạnh thực tiễn phục vụ công tác

hoạch định chính sách, chƣơng trình can thiệp của các ban ngành hữu quan. Nhìn từ

góc độ học thuật, nghiên cứu này sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho các học giả,

sinh viên chuyên ngành, chuyên gia phát triển cộng đồng và những ngƣời làm công

tác truyền thông can thiệp.

2. Phƣơng pháp nghiên cứu

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn này là các hoạt động truyền thông phòng

chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại hai huyện Lâm Bình và Yên

Sơn thuộc tỉnh Tuyên Quang. Cần làm rõ rằng, tôi không xem xét tất cả các hình

thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại địa phƣơng. Tôi xem xét khái niệm

“truyền thông” ở đây bao gồm hai hình thức truyền thông là: (1) Truyền thông qua

hội họp thôn/xã và (2) truyền thông qua tài liệu phát tay. Đây là hai kênh truyền

thông phổ biến nhất tại các địa phƣơng trên toàn tỉnh do dễ triển khai và không đòi

hỏi phải đầu tƣ nhiều kinh phí. Hai hình thức truyền thông này đƣợc áp dụng chủ

yếu trong các chƣơng trình truyền thông sức khỏe nói chung và các chƣơng trình

truyền thông phòng chống HIV/AIDS nói riêng tại hai huyện Yên Sơn và Lâm

1 WB (2013): Việt Nam nằm trong danh sách các quốc gia nghèo nên nhận đƣợc nhiều nguồn viện trợ quốc tế cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS. Tuy nhiên, từ năm 2011 Việt Nam đã không còn trong danh sách các nƣớc nghèo (thu nhập bình quân đầu ngƣời là 1.260 USD, số ngƣời nghèo theo chuẩn Việt Nam vào khoảng 20%). Trong bối cảnh Việt Nam đã bƣớc vào ngƣỡng của một quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, các nguồn tài trợ cho Việt Nam sẽ đƣợc cắt, giảm để đầu tƣ cho các nƣớc nghèo hơn.

3

Bình. Bởi lẽ các hình thức truyền thông khác chƣa phổ biến tại các địa phƣơng. Ví

nhƣ kênh truyền thông qua loa phóng thanh thì chƣa đảm bảo số lƣợng loa phóng

thanh tại các thôn xã. Quan sát trên thực địa tôi thấy thƣờng các xã chỉ có một loa

phóng thanh loại lớn ở trụ sở ủy ban xã và các thôn có một loa phóng thanh ở nhà

văn hóa thôn (nhƣng không phải thôn nào cũng có loa phóng thanh). Hoặc nhƣ kênh

truyền thông qua thƣ viện hoặc tủ sách cộng đồng tại các địa phƣơng cũng có những

hạn chế riêng. Một số xã thuộc huyện Yên Sơn và Lâm Bình đã có tủ sách cộng

đồng đặt tại các điểm bƣu điện xã, ngƣời dân có thể đọc sách, báo, truyện… tại đây

miễn phí. Tuy nhiên số lƣợng sách chƣa phong phú, chủ yếu là sách kinh tế nông

nghiệp, các loại báo Nhân dân, Tiền phong, Ngƣời đại biểu nhân dân… Số lƣợng

ngƣời đến đọc sách và mƣợn sách rất ít. Còn nhƣ kênh truyền thông qua tivi thì

không phải hộ gia đình nào cũng có điều kiện kinh tế để sở hữu một chiếc tivi, đặc

biệt là ở các thôn/xã vùng sâu vùng xa.

2.2. Địa bàn nghiên cứu

Do điều kiện tài chính cũng nhƣ thời gian có hạn, tôi lựa chọn phạm vi nghiên

cứu ở hai huyện Lâm Bình và Yên Sơn (bản đồ địa giới hành chính tỉnh Tuyên

Quang xem ảnh 9 tại phụ lục ảnh. Hai huyện chọn mẫu đƣợc tô màu xanh đậm). Tôi

muốn chọn một huyện ở vị trí xa trung tâm thành phố nhất (Lâm Bình) và một

huyện ở vị trí gần trung tâm thành phố nhất (Yên Sơn) nhằm có những so sánh đối

chiếu, để có thể xem xét các khác biệt trong việc tiếp cận thông tin truyền thông

phòng chống HIV/AIDS của cộng đồng dân tộc thiểu số.

Bảng 1: Thống kê các thành phần dân tộc tỉnh Tuyên Quang2

Tổng số

Thành thị

Nông thôn

TT Dân tộc

Chung

Nam

Nữ

Chung

Nam

Nữ

Chung

Nam

Nữ

1

Kinh

334993 167093 167900

77684

38501

39183

257309 128592 128717

2

Tày

185464

92885

92579

11681

5494

6187

173783

87391

86392

3

Thái

348

231

117

89

52

37

259

179

80

4 Mƣờng

725

348

377

141

72

69

584

276

308

5

Khmer

34

17

17

5

4

1

29

13

16

2 Số liệu đƣợc lấy từ kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 của Tổng cục Thống kê Việt Nam.

4

Hoa

5982

3179

2803

1075

4907

2640

2267

536

539

6

Nùng

14214

7244

6970

13604

6926

6678

292

318

7

610

Mông

16974

8521

8453

53

16856

8456

8400

65

8

118

Dao

90618

45530

45088

1478

695

783

89140

44835

44305

9

10 Gia Rai

98

97

1

9

9

0

89

88

1

11

Ê Đê

95

73

22

14

6

8

81

67

14

12

Ba Na

15

14

1

4

4

0

11

10

1

13 Sán Chay

61343

30832

30511

1074

510

564

60269

30322

29974

14

Chăm

4

1

3

0

0

0

4

3

1

15

Cơ Ho

1

1

0

0

0

0

1

0

1

16 Xơ Đăng

7

3

4

2

1

1

5

3

2

Sán Dìu

12565

6361

6204

158

88

70

12407

6273

6134

17

18

Hrê

12

5

7

8

5

3

4

4

0

19

Raglay

4

3

1

0

0

0

4

1

3

35

18

20 Mnông

17

1

1

0

34

16

18

21

Thổ

15

4

11

0

0

0

15

11

4

22

Xtiêng

1

0

1

0

0

0

1

1

0

5

3

2

23 Khơ Mú

0

0

0

5

2

3

24

Cơ Tu

15

9

6

4

2

2

11

4

7

25

Giáy

74

7

56

37

37

18

11

30

26

26

Tà Ôi

4

3

1

0

0

0

4

1

3

3

3

0

27 Xinh Mun

0

0

0

3

0

3

28

Hà Nhì

1

1

0

0

0

0

1

0

1

29

Lào

1

1

0

0

0

0

1

0

1

30

61

39

La Chí

100

11

8

3

89

36

53

31

La Hủ

3

1

2

3

1

2

0

0

0

32

2

2

0

Pà Thẻn

877

444

433

875

442

433

33

Ngái

43

16

27

23

8

15

20

12

8

34

Lô Lô

11

3

8

1

1

0

10

8

2

35

Cơ Lao

69

28

41

2

1

1

67

40

27

36

Bố Y

18

12

6

2

2

0

16

6

10

37

Pu Péo

48

27

21

9

6

3

39

18

21

5

Về mặt địa giới, huyện Lâm Bình phía đông giáp với xã Sinh Long, xã Khâu

Tinh, xã Năng Khả (huyện Na Hang, Tuyên Quang); phía Nam giáp với xã Phúc

Sơn, xã Xuân Quang, xã Trung Hà (huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang); phía Bắc

giáp với xã Thƣợng Tân, xã Minh Ngọc, xã Phiên Luông (Bắc Mê, Hà Giang), xã

Linh Hồ (Vị Xuyên, Hà Giang); phía Tây giáp với xã Bạch Ngọc, Ngọc Minh (Vị

Xuyên, Hà Giang), xã Hữu Sản, xã Liên Hiệp (Bắc Quang, Hà Giang). Đây là

huyện cách xa trung tâm thành phố Tuyên Quang nhất (khoảng 100km), và cách

trung tâm thành phố Hà Giang khoảng hơn 100km đƣờng bộ.

Còn huyện Yên Sơn là huyện có vị trí ở gần với thành phố Tuyên Quang. Các

xã của huyện Yên Sơn tiếp giáp với địa giới thành phố: Xã Tân Long, Tân Tiến, Phú

Thịnh, Thái Bình, Tiến Bộ, Thắng Quân, Kim Phú, Hoàng Khai, Nhữ Khê… Tác giả

lựa chọn một huyện ở vị trí xa trung tâm thành phố nhất (Lâm Bình) và một huyện ở

vị trí gần trung tâm thành phố nhất (Yên Sơn) nhằm có những so sánh đối chiếu, để

có thể rút ra các kết luận về sự khác biệt trong tiếp cận thông tin truyền thông phòng

chống HIV/AIDS của cộng đồng dân tộc thiểu số dựa trên địa bàn sinh sống.

Bảng 2: Thống kê các thành phần dân tộc huyện Yên Sơn và huyện Lâm Bình3

Huyện Yên Sơn

Huyện Lâm Bình

TT

Dân tộc

Hộ

Hộ

Khẩu

Khẩu

1

Kinh

23698

195

844

88063

2

Tày

5649

4468

19333

23244

3

Dao

5419

1838

8645

24109

4

Sán Chay

4539

1

12

17917

5

Nùng

930

7

37

4091

6

Hoa

349

3

15

1329

7

Thái

13

1

8

71

8

Lô Lô

1

0

0

12

3 Số liệu điều tra tính đến tháng 01 năm 2014 do Ủy ban Nhân dân huyện Yên Sơn, Ủy ban Nhân dân huyện Lâm Bình, Ủy ban Nhân dân tỉnh Tuyên Quang cung cấp.

6

9

Hmông

1481

7568

390

2063

10

Pu Péo

12

65

0

0

11

Mƣờng

32

203

0

16

12

Thanh Y

3

0

0

4

13

Sán Dìu

5

0

0

37

14

Ê Đê

5

0

0

27

15

Khơ Me

3

0

0

10

16

Giáy

5

0

0

14

17

Pà Thẻn

13

80

412

43

18

La Chí

1

0

0

2

19

Pa Kô

1

0

0

4

20

Cơ Tu

1

0

0

4

21

Bố Y

2

0

0

16

22

Hơ Rê

1

0

0

3

23

Cơ Ho

1

0

0

1

2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này kết hợp tiếp cận định tính và định lƣợng. Cụ thể là dữ liệu

nghiên cứu chủ yếu đƣợc thu thập trong quá trình điền dã Nhân học tại các địa bàn

đƣợc lựa chọn, dựa trên các phƣơng pháp phỏng vấn sâu cá nhân, quan sát tham gia

và thảo luận nhóm tập trung. Bên cạnh đó tôi cũng kết hợp sử dụng điều tra bảng

hỏi có cấu trúc về một số nội dung nhƣ kiến thức về HIV/AIDS của ngƣời dân, tỷ lệ

các ngôn ngữ đƣợc sử dụng phổ biến tại địa phƣơng, cơ cấu chuyên môn của cán bộ

truyền thông, thái độ của ngƣời dân đối với nội dung truyền thông bằng hình ảnh…

nhằm đƣa ra các phân tích mang tính định lƣợng. Nội dung trình bày trong luận văn

này là kết quả nghiên cứu rút ra từ 34 cuộc phỏng vấn sâu, chín buổi thảo luận

nhóm tập trung và 106 phiếu trả lời bảng hỏi có cấu trúc (64 phiếu trả lời của ngƣời

dân địa phƣơng, 42 phiếu trả lời của cán bộ truyền thông) với hai nhóm đối tƣợng

7

ngƣời dân và cán bộ truyền thông các cấp.

Về đối tƣợng ngƣời dân

Ở phạm vi nghiên cứu này, tôi nghiên cứu trƣờng hợp hai nhóm tộc ngƣời Tày

và Hmông. Tại Tuyên Quang, ngƣời Tày là nhóm dân tộc thiểu số chiếm ƣu thế hơn

cả về số lƣợng cũng nhƣ trình độ phát triển kinh tế - xã hội (Nguyễn Thu Hƣơng &

Nguyễn Trƣờng Giang, 2012). Trong khi nhóm ngƣời Hmông là nhóm dân tộc ít

ngƣời hơn và kém ƣu thế hơn (Nguyễn Thu Hƣơng & Nguyễn Trƣờng Giang,

2012). Nghiên cứu trƣờng hợp hai nhóm tộc ngƣời có thể làm sáng rõ những khác

biệt trong tiếp cận thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS.

Do các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS đƣợc triển khai tại

Việt Nam thƣờng hƣớng tới đối tƣợng trong độ tuổi từ 15 - 49 nên luận văn này cũng giới hạn mẫu nghiên cứu ngƣời dân ở độ tuổi từ 15 - 494.

Tại mỗi huyện, tôi áp dụng phƣơng pháp trái bóng tuyết qua sự giới thiệu của

một số ngƣời quen ở địa phƣơng để tìm kiếm và lựa chọn thông tín viên tại 4 xã

tham gia phỏng vấn sâu cá nhân. Tại mỗi xã tôi thực hiện phỏng vấn sâu với hai

ngƣời dân bao gồm một nam và một nữ. Đồng thời 02 thảo luận nhóm cũng đƣợc

tiến hành ở mỗi huyện. 64 ngƣời dân thuộc 8 xã này cũng tham gia trả lời bảng hỏi

phỏng vấn có cấu trúc.

Về đối tƣợng cán bộ truyền thông

Thực tiễn tại các địa bàn nghiên cứu cho thấy với công tác truyền thông, thì ở

mỗi cấp lại có sự tham gia của đại diện các ban ngành khác nhau: Trung tâm y tế, trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe, phòng dân tộc5. Do đó, để vận dụng linh

hoạt theo từng cấp quản lý, tôi cố gắng tiếp cận những cán bộ truyền thông có thể

4 Cục Phòng, chống HIV/AIDS (2014): Do số ngƣời nhiễm HIV/AIDS ở độ tuổi từ 15-49 chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhóm tuổi nên các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS thƣờng hƣớng đến đối tƣợng thuộc nhóm tuổi này. Trong năm 2013, ba nhóm tuổi có số ngƣời nhiễm HIV/AIDS cao nhất là: 20-29 (32.9%), 30-39 (45,1%), 40-49 (13,7%). 5 Ở cấp tỉnh đó là cán bộ thuộc các đơn vị cụ thể: Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe, Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS, Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm Phòng chống các bệnh xã hội. Ở cấp huyện là cán bộ thuộc các đơn vị: Trung tâm Y tế huyện, Phòng Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Phòng Dân tộc, Phòng Văn hóa và Thông tin, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Huyện đoàn. Ở cấp xã/thôn thì cán bộ truyền thông là cán bộ y tế xã/thôn, cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, không có cán bộ truyền thông chuyên biệt.

8

thuộc các ban/ngành khác nhau, nhƣng trực tiếp thực thi hoặc có trách nhiệm chỉ

đạo tổ chức, thực hiện truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân tộc

thiểu số.

Bảng 3: Thiết kế mẫu nghiên cứu của luận văn

Phƣơng pháp nghiên cứu

Địa bàn nghiên cứu

Tổng cộng

Cấp huyện

Cấp tỉnh

Yên Sơn

Lâm Bình

15

15

34

4

Phỏng vấn sâu cá nhân (cuộc)

16

0

Người dân (cuộc)

8

8

8

0

Nam (ngƣời)

4

4

8

0

Nữ (ngƣời)

4

4

18

4

Cán bộ truyền thông (cuộc)

7

7

11

3

Nam (ngƣời)

4

4

7

1

Nữ (ngƣời)

3

3

9

1

4

4

Thảo luận nhóm tập trung (buổi)

4

0

Người dân (buổi)

2

2

8

0

Nam (ngƣời)

4

4

8

0

Nữ (ngƣời)

4

4

5

1

Cán bộ truyền thông (buổi)

2

2

11

3

Nam (ngƣời)

4

4

7

1

Nữ (ngƣời)

3

3

106

8

49

49

Bảng hỏi có cấu trúc (phiếu)

64

0

Người dân (phiếu)

32

32

32

0

Nam (ngƣời)

16

16

32

0

Nữ (ngƣời)

16

16

42

8

Cán bộ truyền thông (phiếu)

17

17

23

5

Nam (ngƣời)

9

9

19

3

8

8

Nữ (ngƣời)

Trong các cuộc phỏng vấn sâu cá nhân và thảo luận nhóm tập trung, tôi đều

9

có sử dụng máy ghi âm. Việc sử dụng máy ghi âm này tôi có xin phép và nhận

đƣợc sự đồng ý của tất cả thông tín viên với cam kết rằng những chia sẻ của họ chỉ

phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học. Vì lý do nhạy cảm, trƣớc khi tiến hành

phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung hay phỏng vấn bảng hỏi, tôi đã cam kết

không công bố những thông tin cá nhân quan trọng (họ tên, số điện thoại, địa chỉ,

ngày sinh) của ngƣời tham gia trả lời phỏng vấn. Nên trong một số trích dẫn dữ

liệu ở luận văn này tôi mã hóa tên của các thông tín viên bằng các chữ cái.

Dữ liệu định tính thu thập từ phỏng vấn sâu cá nhân và thảo luận nhóm tập

trung đƣợc tôi xử lý và lƣu trữ bằng phần mềm NVIVO. Dữ liệu định lƣợng thu

thập từ điều tra bảng hỏi đƣợc tôi xử lý và lƣu trữ bằng phần mềm SPSS.

2.4. Hạn chế nghiên cứu

Nghiên cứu này cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định về mặt

phƣơng pháp. Trƣớc hết do tôi không thông thạo tiếng Tày và Hmông nên phải cần

đến hai ngƣời địa phƣơng hỗ trợ phiên dịch trong một số cuộc phỏng vấn sâu, thảo

luận nhóm tập trung và điều tra bảng hỏi. Do đó ý nghĩa một số câu trả lời của

ngƣời dân có thể chƣa đƣợc chuyển ngữ chính xác hoàn toàn. Tuy nhiên, chỉ có 3

trƣờng hợp ngƣời Hmông và 1 trƣờng hợp ngƣời Tày gặp khó khăn trong giao tiếp

bằng tiếng Việt và cần phiên dịch. Các thông tín viên khác đều có khả năng giao

tiếp thành thạo bằng tiếng phổ thông.

Tiếp nữa do điều kiện thời gian và tài lực hạn hẹp, việc tiến hành chọn mẫu

nghiên cứu chƣa mang tính ngẫu nhiên. Hạn chế này dẫn đến khả năng là các phát

hiện nghiên cứu chƣa có tính đại diện, khái quát cao.

3. Cấu trúc của luận văn

Bên cạnh phần mở đầu và phần kết luận, luận văn đƣợc tôi bố cục bao gồm

bốn chƣơng nội dung chính sau:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài

Chƣơng 2: Nhận thức về truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng

đồng dân tộc thiểu số: Góc nhìn ngƣời dân

Chƣơng 3: Công tác truyền thông từ góc độ “nguồn”

Chƣơng 4: Rào cản và thách thức – Bài toán khó cho ngƣời dân và cán bộ

10

truyền thông

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Các nghiên cứu ở nƣớc ngoài

Trong số các nghiên cứu về truyền thông phòng chống HIV/AIDS (Grov,

2015; Eggermont, 2014; Kajubi, 2014; Iqbal, 2007; Muturi, 2005; Obregon, 2000),

rất nhiều nghiên cứu mang tính đánh giá về hiệu quả của các chƣơng trình truyền

thông phòng chống HIV/AIDS triển khai ở cấp cơ sở (Okidu, 2013; Peltzer, 2012;

Karlyn, 2001). Những nghiên cứu này thƣờng đánh giá sự thay đổi nhận thức của

ngƣời dân về kiến thức phòng chống HIV/AIDS và sự thay đổi hành vi nguy cơ lây

nhiễm trƣớc và sau khi triển khai các chƣơng trình truyền thông cộng đồng, để từ đó

xác định đƣợc tầm quan trọng của truyền thông trong cuộc chiến phòng chống đại

dịch này. Nhƣ nghiên cứu của Celeste Farr và cộng sự (2005) đi vào tìm hiểu mức

độ hiệu quả của hình thức truyền thông qua đài phát thanh đến việc thay đổi nhận

thức của ngƣời dân Ethiopia về giảm thiểu hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV. Hay

nhƣ nghiên cứu của William Brown (2009) nhằm tìm hiểu mức độ ảnh hƣởng của

việc các ngôi sao giải trí nổi tiếng tham gia vào hoạt động truyền thông phòng

chống HIV/AIDS đến sự giảm thiểu thực hiện các hành vi có nguy cơ lây nhiễm của

ngƣời dân tại miền tây của Hoa Kỳ. Hoặc nhƣ nghiên cứu của Julie Duck (1995) đi

vào tìm hiểu sự thay đổi tích cực và tiêu cực trong nhận thức của ngƣời dân Úc sau

khi xem các đoạn phim truyền thông ngắn về AIDS và tình dục an toàn. Có thể kể

đến nghiên cứu của Janaki Vidanapathirana và cộng sự (2005) nhằm tìm hiểu mức

độ tác động của truyền thông đại chúng tới việc khuyến khích ngƣời dân quyết định

xét nghiệm HIV.

Các nghiên cứu dạng này thƣờng tập trung vào việc đánh giá hiệu quả các

chƣơng trình truyền thông, nhƣng có rất ít học giả đi sâu phân tích các bất cập trong

quá trình xây dựng và tổ chức chƣơng trình truyền thông. Đáng chú ý là nghiên cứu

của Jane Bertrand và cộng sự (2006) dựa trên 15 chƣơng trình truyền thông đại

chúng trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 2004 tại 10 quốc gia đang phát triển

11

ở châu Phi, Mỹ Latinh và châu Á. Nhóm tác giả cho thấy tại nhiều nơi các chƣơng

trình truyền thông đại chúng chỉ thay đổi nhận thức và hành vi có nguy cơ lây

nhiễm HIV của ngƣời dân ở mức rất thấp (1-2% so với trƣớc khi truyền thông).

Nhóm nghiên cứu cũng khẳng định rằng, truyền thông có vai trò tích cực đối với

việc thay đổi nhận thức và hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV của ngƣời dân, tuy

nhiên cách thực hiện truyền thông nhƣ thế nào mới là yếu tố quyết định. Bertrand và

cộng sự cũng thừa nhận rằng, cần có những đánh giá chi tiết hơn nữa để phân tích

một cách toàn diện về tác động của truyền thông đại chúng về phòng chống

HIV/AIDS trong cộng đồng.

Một hƣớng nghiên cứu thứ hai trên lĩnh vực này là các nhà nghiên cứu (Okidu,

2013; Hasler, 2013) thƣờng đặt ra mục tiêu xây dựng đƣợc một khung chuẩn chung

cho các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Theo đó nhiều nghiên

cứu (Hanan, 2009; Airhihenbuwa, 1999; Arora, 2007) đƣợc tiến hành nhằm phân

tích những ƣu điểm, hạn chế từ các chƣơng trình truyền thông đã triển khai và kinh

nghiệm từ các bên hữu quan. Nhƣ nghiên cứu của Tisha Wheeler (2003) tổng hợp

dữ liệu về các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại Somalia nhằm

đƣa ra một khung lý thuyết chung mà các chƣơng trình truyền thông và vận động

phòng chống HIV/AIDS tại Somalia thƣờng áp dụng. Hay nhƣ nghiên cứu của

Travis Hasler (2013) đi vào tìm hiểu những ý kiến của công nhân ở miền Bắc

Uganda về các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS mà họ đƣợc tiếp

cận nhằm xây dựng một khung truyền thông chiến lƣợc dành cho đối tƣợng này.

Cũng nhƣ nghiên cứu của Catherine Medina (2011) tìm hiểu những nhu cầu cơ bản

có liên quan đến tình dục của phụ nữ da màu sống tại Mỹ nhằm xây dựng một

khung lý thuyết về truyền thông phòng chống HIV/AIDS phù hợp với họ. Những

nghiên cứu dạng này có tính ứng dụng cao nhƣng hạn chế khi chỉ có thể áp dụng

cho một địa phƣơng hoặc một cộng đồng cụ thể.

Truyền thông có sự tham gia của cộng đồng cũng là một hƣớng nghiên cứu

đƣợc các nhà nghiên cứu (Arora, 2007; Gill, 2005) quan tâm và tìm hiểu, đặc biệt là

với đối tƣợng truyền thông là các nhóm cộng đồng yếu thế và nhạy cảm nhƣ ngƣời

12

lao động tình dục, nam giới có quan hệ tình dục với nam giới, ngƣời nghiện ma túy,

dân tộc thiểu số. Những nghiên cứu dạng này chứng tỏ sự cần thiết của việc khuyến

khích đối tƣợng mục tiêu (ngƣời nhận/thụ hƣởng thông tin truyền thông) tham gia

vào quá trình truyền thông. Chính vì vậy, mô hình truyền thông có sự tham gia

(participatory communication model) đƣợc các tác giả nghiên cứu (Gao, 2007;

Basu, 2009) khuyến nghị nhƣ là một mô mình mẫu mực trong công tác truyền thông

phòng chống HIV/AIDS ở nhóm đối tƣợng yếu thế và nhạy cảm. Nhƣ nghiên cứu

của Ambar Basu (2009) phân tích các câu chuyện đƣợc chia sẻ từ ngƣời lao động

tình dục nữ tại thành phố Kolkata (Tây Bengal, Ấn Độ) khi chính bản thân họ tham

gia vào hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong mạng lƣới ngƣời lao

động tình dục tại đây. Các kết nghiên cứu của Basu cho thấy việc ngƣời lao động

tình dục nữ tham gia vào hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong

mạng lƣới ngƣời lao động tình dục giúp đối tƣợng truyền thông thay đổi hành vi có

nguy cơ lây nhiễm một cách tích cực và bền vững. Hay nhƣ nghiên cứu của Yun

Gao và cộng sự (2007) về mức độ hiệu quả của các chƣơng trình truyền thông

phòng chống HIV/AIDS trong nhóm nam giới có quan hệ tình dục với nam giới

(MSM) tại thành phố Thành Đô (Trung Quốc). Gao và nhóm cộng sự đã phân tích

và chỉ ra tính kém hiệu quả của các chƣơng trình truyền thông phòng chống

HIV/AIDS theo phƣơng thức truyền thống vì không thể tiếp cận sâu vào cộng đồng

nam giới có quan hệ tình dục với nam giới; đồng thời cho thấy tỷ lệ sử dụng bao cao

su trong cộng đồng này tăng lên đáng kể khi có sự tham gia của chính thành viên

trong cộng đồng vào hoạt động truyền thông.

Một hƣớng nghiên cứu thứ tƣ trên lĩnh vực này là các nhà nghiên cứu (Uwah,

2013; Hayford, 2001; Dutta, 2009; Airhihenbuwa, 2004…) nhấn mạnh yếu tố văn

hóa trong thiết kế chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Theo đó

nhiều nghiên cứu (Webster, 2004; Resnicow, 1999; Matthew Kreuter, 2004;

Wilson, 2003…) đƣợc tiến hành nhằm làm rõ sự cần thiết của việc lồng ghép nhiều

yếu tố kết hợp với nhau trong một chƣơng trình truyền thông phòng chống

HIV/AIDS, đặc biệt chú trọng đến các yếu tố văn hóa. Ví dụ nhƣ nghiên cứu của

13

Chijioke Uwah (2013) đi vào tìm hiểu các thiết kế chƣơng trình truyền thông phòng

chống HIV/AIDS ở KwaZulu Natal – tỉnh có số ngƣời nhiễm HIV/AIDS cao nhất

của Nam Phi. Bằng những phân tích của mình, Uwah đã cho thấy sự lặp lại rập khuôn

trong các bản thiết kế những chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại

đây mà không chú ý tới các yếu tố văn hóa ở địa phƣơng, dẫn đến tính kém hiệu quả

các các chƣơng trình truyền thông này. Hay nhƣ nghiên cứu của Collins

Airhihenbuwa (2004) đi vào tìm hiểu vai trò của văn hóa trong truyền thông thay đổi

hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV của ngƣời dân ở châu Phi. Các kết quả nghiên cứu

của Airhihenbuwa cho thấy các chƣơng trình truyền thông tác động đến những giá trị

văn hóa có liên quan đến tình dục làm thay đổi tích cực các hành vi tình dục không an

toàn của ngƣời dân. Từ đó, Airhihenbuwa đƣa ra kết luận về sự cần thiết của việc xây

dựng mô hình truyền thông chú trọng tới yếu tố văn hóa ở mỗi địa phƣơng tại châu

Phi. Hay nhƣ nghiên cứu của Muturi (2005) nhằm tìm hiểu sự ảnh hƣởng của các

niềm tin văn hóa đến quyết định sử dụng biện pháp tránh thai của phụ nữ ở vùng

nông thôn của Kenya nhằm xác định các yếu tố văn hóa cần lƣu ý khi tiến hành

truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại đây. Các kết quả nghiên cứu của Muturi

ngoài việc cho thấy mức độ ảnh hƣởng sâu sắc của những niềm tin văn hóa tới việc

quyết định sử dụng các biện pháp tránh thai còn chứng minh tính thất bại của các

chƣơng trình truyền thông tại Kenya vì không thiết lập đƣợc mối quan hệ với ngƣời

dân do tính không phù hợp với những đặc trƣng văn hóa của họ.

Vấn đề truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu

số cũng là một hƣớng nghiên cứu thứ năm đƣợc nhiều nhà nghiên cứu (Stevens,

2010; Patton, 2009; Cargill & Stone, 2005…) quan tâm và tìm hiểu. Các nghiên cứu

dạng này chủ yếu chứng minh tính bất bình đẳng khi ngƣời dân tộc thiểu số tiếp cận

với các dịch vụ truyền thông hoặc xác định những rào cản mà họ gặp phải. Ví dụ

nhƣ nghiên cứu của Valerie Stone (2003) đi vào đo lƣờng mức độ hài lòng của cộng

đồng ngƣời di cƣ gốc Phi cùng các cộng đồng ngƣời dân tộc thiểu số khác sinh sống

tại Mỹ khi tiếp cận những dịch vụ chăm sóc sức khỏe có liên quan đến HIV/AIDS

nhằm xác định tính cần thiết của việc đẩy mạnh hơn nữa hoạt động truyền thông

14

phòng chống HIV/AIDS trong nhóm đối tƣợng này. Bằng những cứ liệu thuyết

phục, Stone chứng minh tình trạng kém hài lòng của cộng đồng ngƣời di cƣ gốc Phi

cùng các cộng đồng ngƣời dân tộc thiểu số khác sinh sống tại Mỹ khi tiếp cận các

dịch vụ chăm sóc sức khỏe có liên quan đến HIV/AIDS. Stone đề xuất một mô hình

truyền thông phòng chống HIV/AIDS đƣợc lồng ghép vào điều trị y tế; trong đó,

tăng cƣờng sự giao tiếp của các bác sĩ với bệnh nhân là ngƣời dân tộc thiểu số, xóa

bỏ sự bất bình đẳng và kỳ thị đối với họ. Hay nhƣ nghiên cứu của Mark Johnson

(1996) về rào cản đối với cộng đồng dân tộc thiểu số ở vùng miền Tây Midlands

của nƣớc Anh khi tiếp cận các thông tin về truyền thông sức khỏe nói chung và

truyền thông phòng chống HIV/AIDS nói riêng. Các kết quả nghiên cứu của

Johnson cho thấy rào cản tiếp cận với thông tin truyền thông của ngƣời dân tộc

thiểu số đƣợc sinh ra từ sự nghèo đói, vấn đề bất bình đẳng giới và các vấn đề

kinh tế - xã hội khác, đặc biệt là yếu tố văn hóa. Chính vì vậy, việc thực hiện

truyền thông phòng chống HIV/AIDS với đối tƣợng là ngƣời dân tộc thiểu số cần

đặc biệt xem xét mức độ ảnh hƣởng của các đặc trƣng nhƣ văn hóa, trình độ phát

triển kinh tế - xã hội.

1.1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc

Ở Việt Nam, trƣờng hợp nhiễm HIV đầu tiên đƣợc phát hiện vào tháng 12

năm 1990 tại thành phố Hồ Chí Minh, nhƣng đến năm 1993 thì HIV mới bắt đầu

bùng nổ thành dịch bệnh lớn và HIV/AIDS đƣợc quan tâm nghiên cứu nhiều hơn

từ cuối thế kỷ XX. Những nghiên cứu đầu tiên về HIV/AIDS trong nhóm đối

tƣợng ngƣời dân tộc thiểu số là các điều tra về tình hình hiện nhiễm (Bộ Y tế Việt

Nam và WB, 2007; Nguyễn Thanh Long, 2007; Nguyễn Bá Cẩn, 2006; Nguyễn

Anh Tuấn và cộng sự, 2010…). Kể từ đó, vấn đề truyền thông phòng chống

HIV/AIDS trong nhóm đối tƣợng ngƣời dân tộc thiểu số ngày càng đƣợc quan tâm

và tìm hiểu nhiều hơn.

Trong số các nghiên cứu về truyền thông phòng chống HIV/AIDS với cộng

đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Phạm Hùng, 2008; Nguyễn Vũ Thƣợng, 2005;

Chu Quốc Ân, 2010), rất nhiều nghiên cứu đƣợc tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả

15

công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở các địa phƣơng khác nhau

(Nguyễn Thùy Dƣơng, 2010; Phan Thị Thu Hƣơng, 2012; Hà Minh Nguyệt, 2012).

Ví dụ nhƣ nghiên cứu của Bộ Y tế Việt Nam phối hợp cùng WB (2007, 2012) nhằm

mục đích đánh giá kết quả truyền thông can thiệp về các chỉ số kiến thức, thái độ,

hành vi phòng chống HIV/AIDS, đồng thời xác định tỷ lệ hiện nhiễm HIV trƣớc và

sau can thiệp trên nhóm dân tộc Thái tại huyện Quan Hóa và Lang Chánh, tỉnh

Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức về HIV/AIDS của ngƣời dân

tăng lên rõ rệt ở lần điều tra năm 2012 so với lần điều tra năm 2007. Nghiên cứu

cũng bƣớc đầu đánh giá sự phù hợp của các biện pháp truyền thông tại địa bàn bao

gồm cả truyền thông đại chúng và một số mô hình truyền thông trực tiếp, truyền

thông dựa vào cộng đồng. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng biện pháp truyền

thông trực tiếp, dựa vào cộng đồng khá là phù hợp với đối tƣợng đồng bào dân tộc

thiểu số. Hay nhƣ nghiên cứu của Phan Thị Thu Hƣơng (2013) đi vào đánh giá hiệu

quả mô hình truyền thông can thiệp phòng lây nhiễm HIV với trƣờng hợp ngƣời

Thái trong độ tuổi 15 - 49 tuổi tại 2 huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa. Tác giả đã thực

hiện việc đánh giá thông qua khung chỉ số về nhận thức, thái độ và hành vi của

nhóm đối tƣợng nghiên cứu về phòng chống HIV/AIDS. Những nghiên cứu dạng

này có sự đóng góp lớn đối với việc cung cấp dữ liệu cơ bản và đánh giá khả năng

duy trì hiệu quả, nhân rộng các các chƣơng trình truyền thông phòng chống

HIV/AIDS với đối tƣợng là ngƣời dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các nghiên cứu này

mới dừng lại ở mức độ mô tả cắt ngang, nên chƣa chỉ ra đƣợc các yếu tố cụ thể nào

cần nhấn mạnh khi thực hiện truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng

dân tộc thiểu số.

Một hƣớng nghiên cứu thứ hai trong lĩnh vực này (Bùi Đức Thắng, 2001;

Nguyễn Thanh Long, 2007) là các nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu khả năng tiếp cận

các dịch vụ truyền thông, dịch vụ chăm sóc sức khỏe có liên quan đến HIV/AIDS ở

ngƣời dân tộc thiểu số. Nghiên cứu của Trịnh Hữu Vách (2010) tìm hiểu về sự tiếp

cận thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS và dịch vụ chăm sóc sức khỏe

có liên quan đến HIV/AIDS của ngƣời dân tộc thiểu số tại năm huyện (Tuần Giáo,

16

Ngọc Hồi, Tân Châu, Điện Biên Đông, Tịnh Biên) thuộc ba tỉnh Kon Tum, An

Giang, Điện Biên. Các kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ sẵn có của các dịch vụ

truyền thông cũng nhƣ dịch vụ chăm sóc sức khỏe chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu thực

tế của ngƣời dân; đồng thời, năng lực cung cấp dịch vụ truyền thông cũng nhƣ dịch

vụ chăm sóc sức khỏe của địa phƣơng còn tƣơng đối hạn chế. Cho nên cộng đồng

dân tộc thiểu số tại đây gặp nhiều thách thức trong việc tiếp cận các thông tin truyền

thông và dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Tƣơng tự nghiên cứu của Lã Mạnh Cƣờng và

các cộng sự (2007) xem xét thực trạng cung cấp dịch vụ truyền thông và chăm sóc

sức khỏe sinh sản có liên quan đến HIV/AIDS cho ngƣời dân tộc thiểu số thuộc ba

huyện miền núi, vùng sâu vùng xa của tỉnh Bình Định là An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân

Canh. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tình trạng thiếu thốn và năng lực cung

cấp dịch vụ truyền thông cũng nhƣ dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản còn hạn chế.

Ngoài việc thiếu cơ sở vật chất và thiếu cán bộ y tế có trình độ chuyên môn thì các

dịch vụ truyền thông phòng chống HIV/AIDS và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe

sinh sản cũng chƣa đƣợc thiết kế phù hợp với tập tục văn hoá của ngƣời dân địa

phƣơng. Lã Mạnh Cƣờng và các cộng sự còn nhấn mạnh khía cạnh bất cập về thời

điểm tiến hành các hoạt động truyền thông tại cộng đồng chủ yếu vào tối muộn nên

gây ra nhiều khó khăn cho cả cán bộ truyền thông và ngƣời dân. Đáng chú ý là tình

trạng thiếu vắng những hoạt động truyền thông ở nhóm đối tƣợng chức sắc uy tín

trong cộng đồng và nam giới (những ngƣời có vai trò ảnh hƣởng hoặc quyết định

đối với phụ nữ và trẻ em trong cộng đồng của họ).

Xác định các rào cản trong công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS với

cộng đồng dân tộc thiểu số cũng là một hƣớng nghiên cứu thứ ba đƣợc các nhà

nghiên cứu (Nguyễn Đình Tuấn, 2014; Phan Thị Thu Hƣơng, 2012…) quan tâm và

tìm hiểu. Có thể kể đến nghiên cứu của Nguyễn Thùy Dƣơng (2010) đi vào phân

tích tác động của các chƣơng trình truyền thông đại chúng và rào cản ngôn ngữ

trong việc phổ cập kiến thức về HIV/AIDS trong nhóm dân tộc Dao ở tỉnh Yên Bái.

Các kết quả hồi quy logistic nhị phân cho thấy rào cản ngôn ngữ là nhân tố quan

trọng ảnh hƣởng đến nhận thức về HIV/AIDS. Cụ thể, tỷ lệ những ngƣời có khả

17

năng giao tiếp bằng tiếng Kinh phổ thông (tiếng Việt) nhận thức khá đầy đủ về

HIV/AIDS cao gấp 2,8 lần so với số ngƣời không có khả năng giao tiếp bằng tiếng

Kinh. Các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thùy Dƣơng cũng hàm chỉ rằng các

chiến lƣợc truyền thông phòng chống HIV/AIDS hƣớng tới ngƣời dân tộc thiểu số

cần đƣợc quan tâm hơn nữa. Một nghiên cứu khác của Mats Malqvist và nhóm

nghiên cứu đến từ Thụy Điển (2013) lại đi vào tìm hiểu quá trình tiếp cận dịch vụ

truyền thông và dịch vụ chăm sóc sức khỏe gồm có HIV/AIDS của đồng bào dân

tộc thiểu số tại Việt Nam. Nghiên cứu đƣợc Malqvist và các cộng sự tiến hành dựa

trên phân tích tài liệu thứ cấp 49 công trình nghiên cứu y học chọn lọc đã công bố

về vấn đề sức khỏe ngƣời dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu cho

thấy thực trạng bất bình đẳng với cộng đồng dân tộc thiểu số khi tiếp cận dịch vụ

truyền thông và dịch vụ chăm sóc sức khỏe liên quan đến HIV/AIDS. Malqvist và

các cộng sự cũng nhấn mạnh rằng, ngoài tình hình nghèo đói và cách biệt địa lý về

nơi sinh tụ thì nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số cũng là vấn đề cần đƣợc truyền

thông can thiệp để thay đổi theo hƣớng tích cực. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn dữ

liệu thứ cấp khiến cho các kết quả của nghiên cứu này có thể chứa nhiều sai số.

Ngoài ra có thể kể đến nghiên cứu của Nguyễn Đình Tuấn (2014) nhằm đi vào tìm

hiểu những yếu tố tác động tới cơ hội tiếp cận dịch vụ truyền thông, dịch vụ chăm

sóc sức khỏe có liên quan tới HIV/AIDS của các nhóm yếu thế, gồm cả ngƣời dân

tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay. Các kết quả nghiên cứu khẳng định tình trạng bất bình đẳng trong dịch vụ y tế ở Việt Nam nhƣ đánh giá của WHO (2009)6. Sự bất

bình đẳng đó không chỉ thể hiện ở những khác biệt và chênh lệch giữa các dân tộc

mà còn giữa các vùng miền, giữa các khu vực cƣ trú, giữa nam và nữ, giữa các

nhóm tuổi, giữa nhóm giàu với nhóm nghèo.... Tác giả Nguyễn Đình Tuấn cũng nêu

bật bốn nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc thu hẹp cơ hội tiếp cận các dịch vụ

nói trên của ngƣời dân tộc thiểu số chính là vấn đề nghèo đói, địa bàn sinh sống ở

vùng sâu vùng xa, nguồn lực y tế còn thiếu và chƣa đƣợc phân bổ đồng đều, đặc

6 WHO (2009): Việt Nam xếp thứ 183 trong tổng số 194 quốc gia đƣợc điều tra về sự công bằng trong y tế.

18

biệt là nhận thức của ngƣời dân còn hạn chế.

Một hƣớng nghiên cứu thứ tƣ đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và tìm

hiểu là xây dựng các mô hình truyền thông phòng chống HIV/AIDS đối với ngƣời

dân tộc thiểu số (Đào Thị Minh Hƣơng, 2015; Nguyễn Văn Huy, 2012…). Nhƣ

nghiên cứu của Hà Minh Nguyệt và các cộng sự (2012) nhằm đi vào tìm hiểu tác

động của các chƣơng trình truyền thông có sự tham gia của cộng đồng về thay đổi

hành vi phòng chống HIV trong nhóm thanh niên dân tộc thiểu số khu vực miền

Trung Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chƣơng trình truyền thông có sự

tham gia của cộng đồng đã làm tăng đáng kể nhận thức của thanh niên dân tộc thiểu

số về HIV/AIDS. Đặc biệt, các chƣơng trình truyền thông thay đổi hành vi đã góp

phần làm tăng tỷ lệ sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục ở thanh niên địa

phƣơng (Hà Minh Nguyệt và cộng sự, 2012). Các kết quả nghiên cứu cho thấy kiến

thức về HIV/AIDS của ngƣời dân có dấu hiệu chuyển biến tích cực khi áp dụng mô

hình truyền thông dựa vào cộng đồng. Các nghiên cứu dạng này gợi mở về tính cần

thiết phải xây dựng một mô hình truyền thông phù hợp với đối tƣợng là ngƣời dân

tộc thiểu số.

Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc cho thấy vấn đề truyền

thông phòng chống HIV/AIDS đã và đang đƣợc giới hàn lâm quan tâm. Tuy nhiên,

cho đến thời điểm hiện tại, phần lớn các nghiên cứu về truyền thông HIV/AIDS

trong nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam đƣợc thực hiện tại miền Trung Việt Nam.

Chỉ có một số ít nghiên cứu đƣợc tiến hành ở các nhóm dân tộc thiểu số khu vực

trung du và miền núi phía Bắc do “những tỉnh, thành phố này trƣớc đây ít đƣợc

quan tâm đầu tƣ của các dự án lớn”. Với mong muốn góp phần làm vợi đi khoảng

trống vùng này, tôi đã lựa chọn địa bàn nghiên cứu tại một tỉnh trung du và miền

núi phía Bắc là Tuyên Quang.

1.2. Các khái niệm công cụ

1.2.1. Phân biệt khái niệm HIV và AIDS

Trong các tài liệu có liên quan đến HIV và AIDS chúng ta thấy khái niệm HIV

19

và AIDS thƣờng đƣợc viết liền nhau bởi dấu gạch chéo (HIV/AIDS). Trong khuôn

khổ luận văn này, tôi cũng thể hiện cụm từ HIV liền với AIDS do sự gắn kết chặt

chẽ giữa hai loại bệnh. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của UNAIDS thì cách viết này

thƣờng dẫn đến nhầm hiểu rằng HIV và AIDS là hai khái niệm chỉ cùng một loại

bệnh (Paul Cobley & Peter Schulz, 2013). Cho nên việc làm rõ và phân biệt hai khái

niệm này là điều hết sức cần.

Robin Wess (1993) là ngƣời đầu tiên đƣa ra định nghĩa về HIV/AIDS đầy đủ

và đƣợc trích dẫn lại nhiều trong những nghiên cứu có liên quan đến HIV/AIDS sau

này. Theo Robin định nghĩa, HIV (nguyên văn tiếng Anh: Human

Immunodeficiency Virus, có nghĩa virus suy giảm miễn dịch ở ngƣời) là tên gọi của

một loại lentivirus (thuộc họ retrovirus) có khả năng gây hội chứng suy giảm miễn

dịch mắc phải (AIDS), một tình trạng làm hệ miễn dịch của con ngƣời bị suy giảm

cấp tiến, tạo điều kiện cho những nhiễm trùng cơ hội làm đe dọa mạng sống và phát

triển mạnh ung thƣ cũng nhƣ nhiều căn bệnh nguy hiểm khác. Các tài liệu y học

diễn giải khái niệm HIV sau này đều có nội dung tƣơng tự và xác định HIV hiện

diện dƣới cả 2 dạng hạt virus (virion) tự do và virus trong tế bào miễn dịch đã

nhiễm bệnh; Theo đó, con đƣờng lây nhiễm của HIV bao gồm: Thông qua truyền

dẫn máu, truyền dẫn tinh dịch/dịch âm đạo, tiền phóng tinh (rò rỉ tinh dịch trên đầu

dƣơng vật) hoặc sữa mẹ (Daniel Douek, 2009).

Còn AIDS (nguyên văn tiếng Anh: Acquired Immunodeficiency Syndrome)

đƣợc Robin định nghĩa là Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải hay bệnh liệt

kháng, là một hội chứng của nhiều bệnh nhiễm trùng (ví dụ: lao, viêm phổi,

nấm…), mà ngƣời nhiễm HIV gặp phải do hệ miễn dịch của cơ thể bị tổn thƣơng

hoặc bị phá hủy nặng nề (Robin Wess, 1993). Robin gọi các bệnh này là các bệnh

nhiễm trùng cơ hội và AIDS đƣợc coi là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV.

Tuy nhiên, mỗi ngƣời khi chuyển sang giai đoạn AIDS sẽ có những triệu chứng

khác nhau, tùy theo loại bệnh nhiễm trùng cơ hội mà ngƣời đó mắc phải, và khả

năng chống đỡ của hệ miễn dịch mỗi ngƣời.

Định nghĩa về HIV/AIDS đƣợc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đƣa ra gần đây

20

nhất (cập nhật ngày 03/06/2015) cũng có nội dung tƣơng tự nhƣ định nghĩa của

Robin Wess (1993). Cụ thể, WHO định nghĩa HIV là virus suy giảm miễn dịch ở

ngƣời, một loại retrovirus tấn công tế bào của hệ thống miễn dịch, tiêu diệt hoặc

làm giảm chức năng của hệ thống miễn dịch. Khi quá trình tấn công của virus này

phát triển, hệ thống miễn dịch trở nên ngày càng yếu hơn và ngƣời nhiễm virus này

trở nên dễ dàng nhiễm các bệnh cơ hội khác. Giai đoạn phát triển cao nhất của HIV

chính là Hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS). Thƣờng sẽ mất từ 10 đến 15 năm

thì ngƣời có HIV sẽ tiến triển thành AIDS, và thuốc kháng retrovirus có thể làm chậm quá trình này lại7. HIV lây truyền thông qua các con đƣờng: Quan hệ tình dục

không an toàn (bao gồm cả quan hệ qua đƣờng âm đạo và quan hệ qua đƣờng hậu

môn), truyền máu nhiễm virus, dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời nhiễm bệnh,

lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình mang thai, sinh đẻ hoặc cho con bú

(WHO, 2015).

Và để phân biệt rõ ràng khái niệm HIV và AIDS, UNAIDS (2011) đã diễn giải

hết sức ngắn gọn: HIV là virus, còn AIDS là hội chứng lâm sàng. Có nghĩa, HIV và

AIDS không phải là hai khái niệm chỉ cùng một loại bệnh. Vì vậy, tùy từng hoàn

cảnh mà khái niệm HIV và AIDS đƣợc sử dụng một cách phù hợp.

1.2.2. Định nghĩa truyền thông

Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “truyền thông”. Nhƣ

John Hober (1954) cho rằng truyền thông là quá trình trao đổi tƣ duy hoặc ý tƣởng

bằng lời. Còn theo quan niệm của Dean Barnlund (1964) thì truyền thông là quá

trình liên tục nhằm làm giảm độ không rõ ràng để có thể thực hiện hành vi hiệu quả.

Gerald Miler (1966) lại cho rằng, truyền thông về cơ bản quan tâm nhất đến tình

huống hành vi, trong đó nguồn thông tin truyền nội dung đến ngƣời nhận với mục

đích tác động đến hành vi của họ. Và còn nhiều định nghĩa khác về truyền thông trên

thế giới (George Rodman, 2008; Stanley Baran, 2009; Teri Kwal Gamble, 2010;

7 Trƣớc năm 2011, theo Quyết định số 3003/QĐ-BYT ngày 19/08/2009 của Bộ Y tế Việt Nam thì ngƣời có HIV đƣợc coi là bệnh nhân AIDS khi số lƣợng tế bào CD4 giảm xuống < 200 TB/mm3 và tiêu chuẩn để điều trị ARV cho ngƣời có HIV là có số lƣợng tế bào CD4 < 200 TB/mm3. Từ tháng 11/2011, theo Quyết định số 4139/QĐ-BYT của Bộ Y tế Việt Nam thì tiêu chuẩn điều trị ARV cho ngƣời có HIV thay đổi ở mức quy định là số lƣợng tế bào CD4 ≤ 350 TB/mm3 và không phụ thuộc vào giai đoạn lâm sàng.

21

Michael Schudson, 2011…). Nhƣ vậy, có thể thấy rằng ở mỗi một góc độ tiếp cận

khác nhau, các tác giả lại đƣa ra những định nghĩa riêng về truyền thông. Theo

Nguyễn Văn Dững (2006) trong một công trình nghiên cứu về lý thuyết và kỹ năng

truyền thông, thì “truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tƣ tƣởng, tình

cảm… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều ngƣời nhằm tăng cƣờng

hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp

với nhu cầu phát triển của cá nhân/nhóm/cộng đồng/xã hội. Truyền thông là một quá

trình diễn ra theo trình tự thời gian, trong đó bao gồm các yếu tố tham dự chính:

Nguồn, thông điệp, kênh truyền thông, ngƣời nhận, phản hồi/hiệu quả, nhiễu”

(Nguyễn Văn Dững, 2006).

Và vai trò của truyền thông trong y tế đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu trƣớc đó

khẳng định (Thủy Cúc, 1999; Thùy Dƣơng, 2010; Phan Thị Thu Hƣơng, 2013…).

Truyền thông giáo dục sức khoẻ là nội dung đầu tiên trong tám nội dung chăm sóc

sức khoẻ ban đầu mà Hội nghị Alma - Am đã đề ra năm 1978 và cũng là nội dung

đầu tiên trong 10 nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu của Việt Nam, đó là: Giáo

đục sức khoẻ nhằm giúp cho mọi ngƣời có kiến thức tối thiểu và cơ bản nhất để có

thể tự phòng bệnh cho mình, cho gia đình, ngƣời thân và cho xã hội; để có thể xử

trí đúng khi bị ốm đau, bệnh tật và để thay đổi những cách nghĩ và nếp sống có hại

cho sức khoẻ (Phƣớc Nhƣờng, 2013). Trong phạm vi luận văn này, hoạt động

truyền thông mà tôi xem xét là truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng

đồng dân tộc thiểu số tại Tuyên Quang.

1.2.3. Khái niệm cộng đồng

Một số nghiên cứu về khoa học xã hội ở Việt Nam trong thời gian gần đây

(Đặng Xuân Hải, 2004; Võ Quế, 2006; Trần Ngọc Thêm, 2008…) có nhắc tới khái

niệm cộng đồng, nhƣng rất ít thấy các nghiên cứu này đƣa ra định nghĩa về khái

niệm cộng đồng. Theo Lƣơng Hồng Quang và Tô Duy Hợp (2000) thì khái niệm

cộng đồng (community) là một khái niệm cơ bản của các khoa học xã hội và nhân

văn, với nhiều tuyến nghĩa khác nhau. Cũng nhƣ đối với rất nhiều khái niệm xã hội

học khác nhƣ cơ cấu xã hội, khuôn mẫu, văn hóa, gia đình hay thiết chế xã hội…

22

tình trạng đa nghĩa của khái niệm cộng đồng đã làm cho nó nhiều khi không đƣợc

hiểu một cách rõ ràng. Hơn nữa, cộng đồng còn là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều

ngành khoa học xã hội và nhân văn (tâm lý học, xã hội học, lịch sử…), mỗi ngành

lại có đối tƣợng riêng của mình, tạo nên những sắc nghĩa khoa học khác nhau về

khái niệm cộng đồng. Rộng nhất là nói đến những khối tập hợp ngƣời, các liên

minh rộng lớn nhƣ cộng đồng thế giới, cộng đồng châu Âu, cộng đồng các nƣớc A

rập, cộng đồng các nƣớc ASEAN… nhỏ hơn, cộng đồng đƣợc áp dụng cho một

kiểu/hạng xã hội, căn cứ vào những đặc tính tƣơng đồng về sắc tộc, chủng tộc hay

tôn giáo… nhƣ cộng đồng các ngƣời Do Thái, cộng đồng ngƣời da đen tại Chicago,

cộng đồng ngƣời Thanh giáo… Nhỏ hơn nữa, cộng đồng đƣợc sử dụng cho các đơn

vị xã hội cơ bản là gia đình, làng hay một nhóm xã hội nào đó có những đặc tính xã

hội chung về lý tƣởng xã hội, lứa tuổi, giới, nghề nghiệp, thân phận xã hội nhƣ các

đảng phái, nhóm những ngƣời lái taxi, nhóm ngƣời khuyết thị… “Có hai cách hiểu

về cộng đồng: Cộng đồng tính và cộng đồng thể. Cộng đồng tính là thuộc tính hay

quan hệ xã hội có những đặc trưng mà các nhà xã hội học đã cố gắng xác định và

cụ thể hóa, chẳng hạn như tình cảm cộng đồng, tinh thần cộng đồng, ý thức cộng

đồng… Cộng đồng thể là các nhóm người, nhóm xã hội có tính cộng đồng với rất

nhiều thể có quy mô khác nhau, đó là các thể nhỏ, thể vừa, thể lớn và thể cực lớn.

Tình trạng này khiến chúng ta phải rất cẩn thận khi các tác giả nói về khái niệm

cộng đồng nhưng với nhiều ý nghĩa và nhiều cách hiểu khác nhau… Có ba kiểu loại

cộng đồng chủ yếu: Cộng đồng thuần khiết (không thuần khiết), cộng đồng trồi và

cộng đồng lịch sử” (Lƣơng Hồng Quang & Tô Duy Hợp, 2000).

Jadov (1990) trong bài viết “Nghĩ về đối tƣợng xã hội học” đã xác định khái

niệm cộng đồng là một phạm trù cơ bản của xã hội học, ở đó ông dùng từ cộng

đồng xã hội (social community). Ông xác định đối tƣợng nghiên cứu của xã hội học

chính là các cộng đồng xã hội: “Xã hội học là khoa học về sự hình thành, phát triển

và vận hành của các cộng đồng xã hội, các tổ chức xã hội và các quá trình xã hội

với tính cách là các hình thức tồn tại của chúng, khoa học về các quan hệ xã hội với

tính cách là các cơ chế liên hệ và tác động qua lại giữa các cộng đồng xã hội đa

dạng, giữa cá nhân và các cộng đồng, khoa học về các tính quy luật của các hành

23

động xã hội và hành vi của chúng” (Viện Thông tin Khoa học Xã hội, 1990).

Cộng đồng xã hội đƣợc Richard Schaefer (1998) diễn giải là khái niệm then

chốt trong việc xác định đối tƣợng xã hội học vì nó bao hàm phẩm chất quyết định

của sự tự vận động, phát triển của chỉnh thể xã hội. Ở mức độ tƣơng tự, nó cho phép

giải thích cả trạng thái bền vững, ổn định của các hệ thống, các tổ chức, các thiết

chế xã hội, nếu nhƣ chúng phù hợp với lợi ích chung. Là một thuật ngữ xã hội học,

cộng đồng đƣợc hiểu nhƣ là một phân thể/đơn vị/nhóm ngƣời trong hệ thống xã hội,

ở đó, mọi ngƣời ý thức đƣợc những đặc trƣng và tình cảm chung về những gì mà

mình đang có (Richard Schaefer & Robert Lamm, 1998).

Nhƣ vậy, xét trong phạm vi luận văn này, khái niệm cộng đồng đƣợc hiểu là

“cộng đồng thể” bao gồm các nhóm tộc ngƣời thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang (cụ thể

trong chọn mẫu nghiên cứu là cộng đồng ngƣời Tày và ngƣời Hmông). Và hoạt

động truyền thông phòng chống HIV/AIDS mà tôi xem xét là hoạt động truyền

thông diễn ra đối với hai tộc ngƣời thiểu số này.

1.2.4. Khái niệm dân tộc thiểu số

Một khái niệm cũng cần làm rõ trong luận văn này đó là thuật ngữ “dân tộc

thiểu số”. Và tất nhiên, nếu đã có “dân tộc thiểu số” thì phải xem xét nó trong mối

quan hệ với “dân tộc đa số”. Theo Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01

năm 2011 của Chính phủ Việt Nam về công tác dân tộc, thuật ngữ “dân tộc thiểu

số” và “dân tộc đa số” đƣợc xác định một cách rõ ràng trong bối cảnh của Việt

Nam. Theo đó, “dân tộc đa số” là khái niệm chỉ những dân tộc có số dân chiếm trên

50% tổng dân số của cả nƣớc Việt Nam, tính theo điều tra dân số quốc gia. Còn

“dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm

vi lãnh thổ nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Theo số liệu của cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở tại Việt Nam năm 2009

thì tổng dân số Việt Nam là 85.846.997 ngƣời, trong đó có 73.594.427 ngƣời Kinh

chiếm 85,73% tổng dân số cả nƣớc, còn 53 tộc ngƣời còn lại có số dân là

12.252.570 ngƣời chiếm 14,27% tổng dân số cả nƣớc (GSO, 2010). Nhƣ vậy, nếu

dựa theo Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về

24

công tác dân tộc thì có thể thấy rằng trong bối cảnh của Việt Nam, dân tộc Kinh là

tộc ngƣời có số dân đông nhất, chiếm 85,73% tổng dân số cả nƣớc, nên đƣợc coi là

dân tộc đa số; 53 dân tộc còn lại có tổng số dân ít hơn và chỉ chiếm 14,27% tổng

dân số cả nƣớc, nên đƣợc coi là các dân tộc thiểu số (ví dụ nhƣ dân tộc Tày, Nùng,

Dao, Hmông, Khmer, Xơ Đăng, Cơ Ho, Sán Chay, Ba Na, Xtiêng, Khơ Mú…).

Trong luận văn này, tôi chọn mẫu nghiên cứu là tộc ngƣời Tày và tộc ngƣời Hmông

tại tỉnh Tuyên Quang.

1.3. Các lý thuyết áp dụng

1.3.1. Lý thuyết về mô hình truyền thông của Claude Shannon

Có rất nhiều lý thuyết về mô hình truyền thông đƣợc đƣa ra trên thế giới

(Lasswell, 1948; Weaver, 1948; David Berlo, 1963; Charles Osgood, 1954; Wilbur

Schramm, 1954…), nhƣng tôi lựa chọn lý thuyết về mô hình truyền thông của

Claude Shannon (1948) làm nền tảng về mặt lý thuyết để tiếp cận đề tài luận văn.

Vì đây là mô hình truyền thông hai chiều có tính tƣơng tác cao và phân tích đầy đủ

các yếu tố trong truyền thông.

Mô hình truyền thông hai chiều của Claude Shannon đƣợc đƣa ra lần đầu vào

năm 1948. Mô hình này đã khắc phục đƣợc nhƣợc điểm của mô hình truyền thông

một chiều bằng cách nhấn mạnh vai trò của thông tin phản hồi từ đối tƣợng tiếp

nhận. Do đó, mô hình này thể hiện rõ hơn tính tƣơng tác, bình đẳng cũng nhƣ sự

chuyển đổi giữa chủ thể và khách thể truyền thông. Mặt khác, mô hình này cũng

chú ý tới hiệu quả truyền thông - Mong đợi của bất kỳ nhà truyền thông nào khi

chuẩn bị hoạt động truyền thông của mình.

Theo lý thuyết về mô hình truyền thông mà Claude Shannon đƣa ra, thì truyền

thông là một quá trình bao gồm bảy yếu tố sau đây (Paul Cobley & Peter Schulz,

2013):

S (Source, Sender) chính là nguồn phát thông điệp truyền thông hay còn gọi là

chủ thể truyền thông, ngƣời làm truyền thông;

M (Message) là thông điệp, nội dung truyền thông;

C (Chanel) là kênh truyền thông;

25

R (Receiver) là ngƣời nhận thông điệp (đối tƣợng mục tiêu);

E (Effect) là hiệu quả truyền thông;

N (Noise) là yếu tố nhiễu (các yếu tố gây ra sai số cản trở thông điệp tới

ngƣời nhận);

F (Feedback) là sự phản hồi từ đối tƣợng mục tiêu (ngƣời nhận thông điệp).

Để khái quát quá trình truyền thông một cách hệ thống theo sự tƣơng tác lẫn

nhau giữa các yếu tố, Claude Shannon đƣa ra sơ đồ miêu tả mô hình truyền thông

của mình (Sơ đồ 1 dƣới đây).

Sơ đồ 1: Mô hình truyền thông của Claude Shannon

N

M

S

C

R

E

F

Mô hình trên là tổng hòa mối quan hệ của các yếu tố cấu thành nên cả quá

trình truyền thông. Tuy nhiên, ở phạm vi luận văn này tôi không xem xét toàn bộ

bảy yếu tố kể trên. Trong khả năng của mình, tôi tập trung tìm hiểu quá trình truyền

thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên

Quang thông qua hai yếu tố chính bao gồm yếu tố “Nguồn” (Source, Sender) và yếu

tố “Đối tƣợng mục tiêu” hay chính là Ngƣời nhận thông điệp truyền thông

(Receiver); từ đó xác định “Hiệu quả” truyền thông (Effect) và “Sự phản hồi”

(Feedback) từ ngƣời dân địa phƣơng.

1.3.2. Lý thuyết truyền thông điệp cho đối tƣợng

Trong quá trình tìm hiểu các lý thuyết về truyền thông, tôi nhận thấy lý thuyết

26

truyền thông điệp cho đối tƣợng đóng một vai trò hết sức quan trọng khi xem xét

một hoạt động truyền thông cụ thể. Lý thuyết này đặt nền tảng cơ bản để tôi có thể

tiếp cận vấn đề nghiên cứu dễ dàng hơn.

Lý thuyết truyền thông điệp cho đối tƣợng đƣợc Nguyễn Văn Dững đề cập

vào năm 2006, trong cuốn “Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản”. Theo

ông, về đại thể, tâm lý - thần kinh của con ngƣời đƣợc cấu thành bởi hai hệ thống:

Trung tâm và ngoại vi. Hệ thống trung tâm thiên về nhận thức lý trí, hệ thống ngoại

vi thiên về nhận thức tình cảm. Trong thực tế, tùy theo điều kiện hình thành và phát

triển văn hóa - lịch sử của mỗi dân tộc, có nơi thiên về nhận thức lý trí, có dân tộc

lại thiên về tình cảm. Trong mỗi dân tộc, mỗi nhóm công chúng - đối tƣợng cũng có

những sắc thái nhận thức khác nhau, hoặc nghiêng về lý trí hoặc nặng về tình cảm.

Ngƣời Việt Nam có câu: “Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình”. Do đó, nhiệm

vụ của nhà truyền thông là phải nghiên cứu nắm bắt đặc thù tâm lý tiếp nhận của

nhóm đối tƣợng cụ thể để có thể thiết kế thông điệp phù hợp. Nhƣng cho dù tiếp

nhận thông điệp thông qua con đƣờng ngoại vi - tình cảm, cuối cùng cũng phải tác

động đƣợc tới quá trình nhận thức ở giai đoạn thứ hai - lý trí, khi đó cơ sở nhận thức

của hành vi mới mang tính bền vững.

Mỗi con đƣờng, giai đoạn nhận thức đều có những ƣu điểm và hạn chế nhất

định. Chẳng hạn, tác động vào hệ thống trung tâm thì thông điệp đƣợc nhận thức sâu

hơn, bền vững hơn, nhƣng khó vào hơn; tác động bằng hệ thống ngoại vi dễ vào hơn,

nhƣng hời hợt và dễ quên hơn. Chính vì thế, nếu kết hợp cả hai hệ thống này thật linh

hoạt thì sẽ đạt hiệu quả khi xã hội hóa thông điêp. Năm giai đoạn của thông điệp

đƣợc Nguyễn Văn Dững nhấn mạnh khi truyền thông điệp cho đối tƣợng bao gồm:

(1) Làm cho nhóm đối tƣợng nhận biết thông điệp;

(2) Nhóm đối tƣợng nhận thức, hiểu biết thông điệp;

(3) Nhóm đối tƣợng chấp nhận thông điệp;

(4) Làm cho đối tƣợng tin tƣởng thông điệp;

(5) Đối tƣợng hành động theo mục đích, yêu cầu của thông điệp.

Vì vậy mà trong hoạt động truyền thông, cần tính đến hình thức thể loại phù

hợp với nhóm đối tƣợng và vấn đề thông tin. Mỗi thể loại sẽ có những phƣơng thức

27

tác động đặc thù đến đối tƣợng nhận thông điệp truyền thông. Trong luận văn này,

lý thuyết truyền thông điệp cho đối tƣợng giúp tôi có thể tiếp cận và xem xét tính

hiệu quả của quá trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân

tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang.

1.4. Sơ lƣợc về tình hình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh

Tuyên Quang

Theo báo cáo quý I năm 2014 của Bộ Y tế, số trƣờng hợp nhiễm HIV mới

đƣợc phát hiện trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang tăng 137% so với cùng kỳ năm trƣớc

(2013). Với đặc trƣng kinh tế nông – lâm nghiệp chiếm ƣu thế, trình độ phát triển

kinh tế - xã hội chƣa cao, Tuyên Quang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động quản

lý, kiểm soát cũng nhƣ phòng chống sự lây lan của dịch bệnh HIV/AIDS. Theo

nghiên cứu của Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Cơ quan

Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), thì chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của

Tuyên Quang trong năm 2013 xếp thứ 63/63 (đứng ở vị trí thấp nhất trên cả nƣớc).

Với điều kiện phát triển kinh tế nhƣ vậy, tỉnh Tuyên Quang đã, đang và sẽ còn gặp

nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn lực tài chính để kiểm soát sự lây lan của

dịch bệnh HIV/AIDS. Đặc biệt, sự phát triển xã hội – giáo dục của tỉnh Tuyên

Quang cũng chƣa cao. Theo Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 thì

Tuyên Quang vẫn chƣa hoàn thành phổ cập giáo dục với tỷ lệ ngƣời trong độ tuổi đi

học và ngƣời từ 15 tuổi trở lên không biết đọc biết viết còn cao (gần 50.000 ngƣời)

(GS0, 2010). Vì vậy mà tỉnh Tuyên Quang cũng gặp nhiều khó khăn trong việc huy

động các nguồn nhân lực trình độ cao trong công cuộc phòng chống HIV/AIDS.

Đặc biệt là công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS sẽ gặp rào cản lớn do sự

đa dạng về văn hóa, tộc ngƣời và trình độ dân trí còn tƣơng đối thấp.

Để nâng cao nhận thức cho nhân dân về công tác phòng chống HIV/AIDS,

thời gian qua các cấp, các ngành, các tổ chức hội, đoàn thể tỉnh Tuyên Quang đã

chủ động triển khai các chƣơng trình phòng chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng

công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về phòng chống lây nhiễm HIV trong

cộng đồng dân cƣ. Đặc biệt là thúc đẩy sự tham gia của cả hệ thống chính trị và của

28

toàn dân vào thực hiện “Chiến lƣợc Quốc gia phòng chống HIV/AIDS”.

Đơn vị chuyên trách

Ở tuyến tỉnh, đơn vị phụ trách chính trong công tác truyền thông phòng chống

HIV/AIDS là Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS (đƣợc thành lập vào năm 2006)

và Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe tỉnh Tuyên Quang (đƣợc thành

lập vào năm 2003). Nhận các thông tin chỉ đạo từ Cục Phòng chống HIV/AIDS –

VAAC (Bộ Y tế Việt Nam), hai trung tâm nói trên sẽ soạn các kế hoạch hành động,

và chuyển tới các đơn vị trong tỉnh, các đơn vị tuyến huyện để chỉ đạo thực hiện về

các đơn vị thôn/xã. Ngoài hai trung tâm này còn có các đơn vị quan trọng khác

trong tỉnh cùng phối hợp để thực hiện công tác truyền thông phòng chống

HIV/AIDS: Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm Phòng chống các bệnh xã hội. Ở

tuyến huyện, nhiều đơn vị thuộc các ban/ngành khác nhau cùng phối hợp truyền

thông phòng chống HIV/AIDS: Trung tâm Y tế huyện, Phòng Lao động – Thƣơng

binh và Xã hội, Phòng Dân tộc, Phòng Văn hóa và Thông tin, Hội Liên hiệp Phụ nữ,

Huyện đoàn. Ở tuyến xã/thôn, công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS chủ

yếu đƣợc thực hiện bởi cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh, cán bộ y tế xã/thôn.

Các hình thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong tỉnh Tuyên

Quang

Ngoài các hình thức truyền thông mang tính truyền thống, thì các đơn vị có

trách nhiệm thực hiện công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS của tỉnh

Tuyên Quang đã cố gắng để đa dạng hóa và hiện đại hóa các hình thức truyền

thông, nhằm đảm bảo các thông điệp đƣợc chuyển tới ngƣời dân. Có thể kể ra ba

hình thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS phổ biến nhất ở tỉnh Tuyên Quang

bao gồm: (1) Truyền thông qua đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí, (2)

truyền thông qua các dạng tài liệu phát tay, tờ rơi, pano, áp phích, (3) truyền thông

qua mít tinh, diễu hành quần chúng và nói chuyện chuyên đề.

Đối với hình thức truyền thông qua đài truyền hình, đài phát thanh và báo chí

thì mỗi tháng, Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS và Trung tâm Truyền thông và

29

Giáo dục sức khỏe tỉnh Tuyên Quang đều có sự phối hợp với Đài Phát thanh và

Truyền hình tỉnh, Báo Tuyên Quang mở các chuyên mục về y tế - sức khỏe nhằm

phổ biến kiến thức về sức khỏe nói chung và phòng chống HIV/AIDS nói riêng. Hai

trung tâm cũng phối hợp với các ngành chức năng hữu quan tổ chức tuyên truyền

theo từng chủ đề giúp ngƣời dân hiểu biết hơn về HIV/AIDS, những nguy cơ tiềm

ẩn ảnh hƣởng đến sức khoẻ con ngƣời: Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con,

quan hệ tình dục an toàn… Bằng sự hỗ trợ của kỹ thuật nhƣ âm thanh, ánh sáng,

điện ảnh, âm nhạc… hình thức truyền thông qua đài truyền hình, đài phát thanh và

báo chí đạt đƣợc hiệu quả tƣơng đối tốt. Nhƣng không phải hộ gia đình nào cũng có

tivi, đài thu thanh, hoặc báo để xem/nghe/đọc, đặc biệt ở các vùng sâu vùng xa. Hệ

thống loa phát thanh chƣa đƣợc trang bị toàn diện ở các thôn/xã. Thƣờng chỉ có một

loa phát thanh cỡ lớn đặt ở trụ sở của mỗi xã. Và chỉ một số lƣợng ít thôn mới có

loa phát thanh riêng. Kể cả trong trƣờng hợp có loa phát thanh riêng ở thôn thì cũng

không đủ để bao phủ thông tin truyền thông tới mọi ngƣời. Vì vậy mà đây là kênh

truyền thông còn chƣa hữu dụng tại các thôn, xã khó khăn ở vùng sâu vùng xa.

Đối với hình thức truyền thông qua các dạng tài liệu phát tay, tờ rơi, pano, áp

phích thì Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe cùng Trung tâm Phòng

chống HIV/AIDS là nơi xuất bản các bản tin kiến thức y tế - sức khỏe theo từng quý

cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin hữu ích về sức khỏe nói chung và dịch bệnh

HIV/AIDS nói riêng. Đồng thời phối hợp với Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm

Phòng chống các bệnh xã hội xuất bản các tờ rơi, tài liệu phát tay, pano, áp phích,

sách mỏng… về kiến thức phòng chống HIV/AIDS để chuyển về các tuyến dƣới

nhằm truyền thông tới ngƣời dân. Phòng Văn hóa – Thông tin huyện thƣờng sẽ là

đơn vị sẽ nhận thông tin từ Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe và Trung

tâm Phòng chống HIV/AIDS để thiết kế các cụm pano, khẩu hiệu, băng rôn treo tại

các địa điểm công cộng có đông ngƣời qua lại nhƣ các trục đƣờng giao thông chính,

cửa ngõ thành phố, xã phƣờng…

Hình thức truyền thông qua mít tinh, diễu hành quần chúng và nói chuyện

chuyên đề cũng đƣợc áp dụng thƣờng xuyên. Mỗi sự kiện thƣờng có mời những tấm

30

gƣơng tiêu biểu trong phong trào phòng chống HIV/AIDS để giao lƣu với ngƣời

nghe nhằm tăng tính tƣơng tác. Điển hình là các chƣơng trình truyền thông phòng

chống HIV/AIDS ở tỉnh Tuyên Quang thƣờng mời chị Phạm Thị Huệ - Ngƣời đƣợc

tạp chí TIME của Mỹ bầu chọn là “Anh hùng châu Á” trong công cuộc phòng

chống HIV/AIDS toàn cầu (2004). Mặc dù có tác động mạnh đến đối tƣợng truyền

thông dựa trên sự tƣơng tác trực tiếp, nhƣng điểm hạn chế lớn của hình thức truyền

thông này là chỉ đƣợc tổ chức tập trung ở các trung tâm thị trấn huyện, thành phố.

Vì vậy mà đối tƣợng nhận thông tin truyền thông sẽ chỉ bó hẹp ở phạm vi của thị

trấn huyện và thành phố đó, sức lan tỏa của thông điệp truyền thông không cao.

Nhìn chung, công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Tuyên

Quang đƣợc thực hiện thƣờng xuyên theo từng tháng, từng quý trong năm. Trong

đó, đơn vị chịu trách nhiệm chính là Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe

và Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh Tuyên Quang. Bằng nhiều hình thức

tuyên truyền, hai trung tâm nói trên cùng các đơn vị hữu quan đã góp phần trang bị

kiến thức, kỹ năng phòng chống dịch bệnh nói chung và HIV/AIDS nói riêng cho

mỗi cá nhân, gia đình ngƣời dân. Tuy nhiên, trong điều kiện còn khó khăn về nhiều

mặt, công tác truyền thông còn bị bỏ ngỏ ở nhiều nội dung, hoặc đã đƣợc thực hiện

nhƣng chƣa triệt để. Điển hình là hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS

trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở các huyện, thôn, xã vùng sâu vùng xa còn cần

31

đƣợc quan tâm nhiều hơn nữa.

Chƣơng 2: NHẬN THỨC VỀ TRUYỀN THÔNG PHÕNG CHỐNG HIV/AIDS

TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ: GÓC NHÌN NGƢỜI DÂN

Chƣơng này sẽ trình bày kết quả nghiên cứu thu thập đƣợc từ các cuộc phỏng

vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung và phỏng vấn bảng hỏi có cấu trúc xoay quanh

nhận thức và thái độ của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng về hoạt động truyền

thông phòng chống HIV/AIDS.

Nhƣ chúng ta đã biết, tính hiệu quả (hay sự tác động) của hoạt động truyền

thông tới đối tƣợng truyền thông đƣợc thể hiện trƣớc tiên là thông qua việc thay đổi

nhận thức của đối tƣợng truyền thông. Vì vậy mà tôi tập trung tìm hiểu nhận thức

của ngƣời dân tộc thiểu số ở địa phƣơng về phòng chống HIV/AIDS, thông qua đó

có thể hiểu rõ hơn về hiệu quả của hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS

tại đây. Nói đến nhận thức của ngƣời dân trong việc phòng chống HIV/AIDS là nói

đến những kiến thức của họ về bản chất bệnh, con đƣờng lây nhiễm bệnh cũng nhƣ

kiến thức về các cách phòng bệnh lây nhiễm. Qua quá trình thực hiện 16 phỏng vấn

sâu, 04 thảo luận nhóm tập trung, 64 phiếu trả lời bảng hỏi có cấu trúc trong nhóm

ngƣời dân địa phƣơng, có thể thấy rằng cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên

Quang còn có nhiều nhận thức chƣa đúng về phòng chống HIV/AIDS.

2.1. Nhận thức về bản chất HIV/AIDS

Trong nhiều phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung, ngƣời dân tộc thiểu

số tại địa phƣơng đã đƣa ra những ý kiến cho thấy họ không chỉ nhận thức sai về

bản chất bệnh mà còn hiểu nhầm HIV/AIDS với những loại bệnh khác. Một số

ngƣời dân khẳng định HIV/AIDS là bệnh ung thƣ. Một số khác thì cho rằng

HIV/AIDS là bệnh lao phổi, bệnh giang mai, bệnh lậu. Đây là những kiến thức chƣa

đúng về bản chất bệnh của HIV/AIDS.

“Si Đa chả lao phổi nặng còn gì. Thằng ở thôn tôi này, hút ma túy. Ho sù

sụ, ho cả ra máu. Lúc chết bảo bị lao phổi mà”.

“Cứ nhìn mấy con cave. Giang mai với lậu thì chả là kim la đấy”.

32

(Thảo luận nhóm, ngƣời dân nhóm Hmông, MS 07-LB)

Trích đoạn thảo luận nhóm tập trung trên đây cho thấy ngƣời dân tộc thiểu số

tại địa phƣơng còn có một số cách hiểu sai lệch về bản chất HIV/AIDS. Đặc biệt, số

liệu từ điều tra bảng hỏi ở nhóm ngƣời dân tộc thiểu số cho thấy tỷ lệ không nhỏ

ngƣời dân có những nhận thức chƣa đúng về bản chất HIV/AIDS (Xem chi tiết

trong bảng 4 dƣới đây). Có gần 55% ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi hiểu đúng

rằng bệnh HIV/AIDS thực chất là suy giảm hệ miễn dịch và gây ra các bệnh nhiễm

trùng cơ hội. Đây là một tỷ lệ khá cao với quá nửa số phiếu trả lời bảng hỏi. Điều đó

chứng tỏ rằng số ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng hiểu đúng về bản chất bệnh

là không ít. Tuy nhiên, có đến khoảng 45% ngƣời dân hiểu chƣa đúng về bản chất

HIV/AIDS cũng là một tỷ lệ không nhỏ, xấp xỉ gần một nửa số phiếu trả lời bảng

hỏi. Đặc biệt, một số ý kiến không chỉ hiểu sai bản chất HIV/AIDS mà còn nhầm

lẫn sang một số bệnh khác hoàn toàn (4,7% nghĩ rằng HIV/AIDS là bệnh kim la,

3,1% nghĩ rằng HIV/AIDS là bệnh về da nguy hiểm, 3,1% cho rằng HIV/AIDS là

bệnh ghẻ lở, 1,5% cho rằng HIV/AIDS là bệnh ho ác).

Bảng 4: Suy nghĩ và hiểu biết về HIV/AIDS của ngƣời dân tộc

thiểu số nghiên cứu

STT Cách hiểu về HIV/AIDS Tỷ lệ (%)

1 Là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội 54,7

2 Là bệnh lao phổi 10,9

3 Là bệnh giang mai 17,3

4 Là bệnh ung thƣ 4,7

5 Là bệnh khác (xin ghi rõ) 12,4

Có thể những suy nghĩ trên của ngƣời dân bắt nguồn từ quan sát trực tiếp các

trƣờng hợp nhiễm HIV và tử vong do AIDS tại cộng đồng. Vì rằng ở giai đoạn

chuyển từ HIV thành AIDS, hệ miễn dịch của cơ thể ngƣời bệnh bị suy yếu nhanh

chóng, tạo điều kiện cho các bệnh nhiễm trùng cơ hội tấn công. Và bản thân ngƣời

33

bệnh sẽ chết bởi những bệnh nhiễm trùng cơ hội này với những triệu chứng lâm

sàng thể hiện rõ ràng (ho ra máu, da nổi nhiều mụn nhọt, ngƣời rất gầy…) khiến

ngƣời dân quan sát, hiểu nhầm rằng các biểu hiện của bệnh nhiễm trùng cơ hội đó

chính là HIV/AIDS. Nhƣ lời một phụ nữ địa phƣơng:

“Chị cũng không dám đứng gần đâu. Nhƣng nhìn xa xa, chị thấy rõ ràng

là bị “chác” (tiếng Tày có nghĩa là ghẻ lở)8 khắp ngƣời”.

(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 24-LB, nữ, dân tộc Tày, 35 tuổi)

2.2. Nhận thức về con đƣờng lây nhiễm HIV

Nhiều trả lời phỏng vấn sâu cũng cho thấy mức độ nhận thức chƣa đầy đủ về

con đƣờng lây nhiễm HIV của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng nghiên cứu.

Một số ý kiến cho rằng các cử chỉ tiếp xúc nhƣ cầm tay, ôm, hôn hay ngủ chung

giƣờng với ngƣời có HIV sẽ dẫn đến nguy cơ lây nhiễm.

“Nói chuyện nƣớc bọt bắn ra, nếu đứng gần là sẽ lây. Hoặc họ thở hơi thở

của họ ra không khí tôi nghĩ là có vi khuẩn lây bệnh (ý muốn nói “vi khuẩn” ở

đây là virus HIV)”.

(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 30-YS, nam, dân tộc Hmông, 37 tuổi)

Thậm chí, có ý kiến cho rằng muỗi đốt cũng có thể làm lây nhiễm HIV:

“Thì bảo meèng khốp (muỗi đốt) không lây, nhƣng nó vừa khốp lƣợt

(châm vào máu) ết xong lại châm mình thì chả lây à”.

(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 24-LB, nữ, dân tộc Tày, 35 tuổi)

Các kết quả định tính này dƣờng nhƣ tƣơng đồng với thông tin định lƣợng thu

thập qua điều tra bảng hỏi (Bảng 5). Một mặt, ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng

đã có những kiến thức nhất định về bốn con đƣờng lây truyền chính của HIV/AIDS.

Tất cả ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi hiểu rằng quan hệ tình dục với ngƣời

nhiễm HIV cũng nhƣ truyền máu/tiếp xúc vết thƣơng với máu ngƣời nhiễm HIV

hoặc dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời nhiễm HIV sẽ làm lây truyền bệnh. Toàn

bộ số ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi cũng hiểu rằng ngƣời mẹ nhiễm HIV có

34

thể lây truyền bệnh sang con theo dạng lây truyền chu sinh. Khoảng 60% ngƣời 8 Các chú thích trong ngoặc đơn là diễn giải của tác giả nhằm làm rõ nội dung trả lời của ngƣời đƣợc phỏng vấn.

dân trả lời bảng hỏi có cái nhìn tích cực khi cho rằng mua đồ của ngƣời nhiễm HIV

bán không phải là con đƣờng có thể làm lây nhiễm HIV. Nhƣ vậy, không thể quy

chụp rằng toàn bộ kiến thức của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng về con đƣờng

lây truyền HIV/AIDS là sai lệch. Họ đã có những nhận thức nhất định về một số

đƣờng lây truyền chính của HIV/AIDS.

Bảng 5: Suy nghĩ, hiểu biết của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu về con

đƣờng lây nhiễm HIV

STT

Các tình huống đƣợc cho là có nguy cơ lây nhiễm HIV

Đúng (%) Sai (%)

1 Quan hệ tình dục với ngƣời nhiễm HIV

100

0

2

Truyền máu/tiếp xúc vết thƣơng với máu ngƣời nhiễm HIV

100

0

3 Ăn cơm chung với ngƣời nhiễm HIV

78,1

21,9

4 Hôn ngƣời nhiễm HIV

85,9

14,1

5 Cầm tay hay ôm ngƣời nhiễm HIV

60,9

39,1

6 Ngủ chung giƣờng với ngƣời nhiễm HIV

70,3

29,7

7 Nói chuyện với ngƣời nhiễm HIV

32,8

67,2

8 Dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời nhiễm HIV

100

0

9 Dùng chung cốc uống nƣớc với ngƣời nhiễm HIV

81,2

18,8

10 Bị muỗi đốt

100

0

11 Mẹ nhiễm HIV lây truyền sang con khi sinh

100

0

12 Mua đồ của ngƣời nhiễm HIV bán

39,1%

60,9

Nhƣng mặt khác, tỷ lệ ngƣời trả lời có nhận thức chƣa đúng về con đƣờng lây

truyền HIV cũng rất đáng chú ý. Tất cả ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi cho rằng

muỗi đốt là một con đƣờng có thể làm lây truyền bệnh; 85,9% đồng ý với phát biểu

35

hôn ngƣời có HIV cũng sẽ bị lây bệnh; 81,2% nghĩ rằng dùng chung cốc uống nƣớc

với ngƣời có HIV sẽ bị lây bệnh; 78,1% chắc chắn rằng ăn cơm chung với ngƣời

nhiễm HIV cũng sẽ làm lây bệnh; 70,3% cho rằng ngủ chung giƣờng với ngƣời

nhiễm HIV sẽ bị lây bệnh; 60,9% đồng ý với phát biểu cầm tay hay ôm ngƣời

nhiễm HIV cũng sẽ bị lây bệnh. Trên thực tế, HIV/AIDS không lây truyền qua

đƣờng hô hấp hay nƣớc bọt. Cũng chƣa có bất kỳ trƣờng hợp nào trên thế giới báo

cáo về việc bị muỗi đốt làm lây nhiễm HIV. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng mặc dù đã có

những nhận thức đúng nhất định nhƣng ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng vẫn

còn rất nhiều cách hiểu sai về con đƣờng lây truyền HIV. Và một điều tất yếu khi

hiểu sai về bản chất bệnh cũng nhƣ con đƣờng lây bệnh thì cũng sẽ có những kiến

thức chƣa đúng về biện pháp phòng chống lây nhiễm. Đây là nội dung sẽ đƣợc bàn

tiếp ở phần dƣới.

2.3. Nhận thức về biện pháp phòng chống lây nhiễm HIV

Xuất phát từ những suy nghĩ, nhìn nhận về các con đƣờng lây nhiễm HIV nhƣ

trên đề cập, những ngƣời dân tham gia nghiên cứu bày tỏ một số quan niệm về các

biện pháp phòng chống lây nhiễm mà họ cho là có hiệu quả. Quan sát bảng 6 dƣới

đây chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Mặc dù tất cả đáp viên cho rằng cần phải sử

dụng các biện pháp an toàn khi quan hệ tìn dục nhƣ bao cao hay không dùng

chung bơm kim tiêm, nhƣng họ cũng bộc lộ những suy nghĩ chƣa thấu đáo về

phòng chống lây nhiễm HIV. Toàn bộ đáp viên tin rằng biện pháp mắc màn trƣớc

khi đi ngủ, tránh bị muỗi đốt có thể phòng lây truyền HIV. Gần 95% nghĩ rằng

không cầm tay, ôm, hôn ngƣời có HIV cũng là một cách tốt để phòng tránh lây

nhiễm. Có đến 89% cho rằng tránh ở cùng ngƣời có HIV tại bất kỳ nơi nào là một

36

biện pháp phòng tránh tốt.

Bảng 6: Một số nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số nghiên cứu về các biện

pháp phòng tránh lây nhiễm HIV

STT

Quan niệm ngƣời dân về cách thức phòng tránh

Đúng (%)

Sai (%)

lây nhiễm HIV

1

Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục

100

0

2

Không dùng chung bơm kim tiêm

100

0

3 Mắc màn trƣớc khi đi ngủ

100

0

4

Không nói chuyện với ngƣời có HIV

78,1

21,9

5

Không dùng chung bát đũa/cốc chén với ngƣời có HIV

76,6

23,4

6

Không ăn uống cùng ngƣời có HIV

85,9

14,1

7

Không cầm tay, ôm, hôn ngƣời có HIV

93,75

6,25

8

Không mua đồ của ngƣời có HIV bán

87,5

12,5

9

Tránh ở cùng ngƣời có HIV tại bất kỳ nơi nào (nhà ở,

89,1

10,9

trƣờng học, quán ăn…)

Đặc biệt, dữ liệu thống kê ở bảng 6 cho thấy điểm mâu thuẫn giữa nhận thức

của ngƣời dân về con đƣờng lây truyền với lựa chọn của họ về biện pháp phòng

tránh lây bệnh. Chẳng hạn nhƣ có đến 67% ngƣời dân hiểu rằng nói chuyện với

ngƣời có HIV sẽ không thể làm lây bệnh, nhƣng tỷ lệ đáp viên lựa chọn cách không

nói chuyện với ngƣời có HIV để phòng tránh lây bệnh lên đến gần 80%. Hay có

khoảng 60% cho rằng mua đồ của ngƣời nhiễm HIV bán cũng không thể làm lây

bệnh, nhƣng có tới gần 90% ngƣời dân lựa chọn phƣơng án không mua đồ của

ngƣời có HIV bán để phòng tránh sự lây nhiễm. Rõ ràng có những mâu thuẫn giữa

quan niệm của ngƣời dân với thực hành của họ trên thực tiễn. Đây cũng là một gợi ý

cho công tác truyền thông. Thông tin định tính góp phần làm sáng rõ suy nghĩ của

37

ngƣời dân địa phƣơng:

“Ngƣời ta (ý chỉ ngƣời có HIV/AIDS) bán đồ ăn, rồi nhỡ ngƣời ta đứt tay

rớt máu vào đồ ăn, xong lại bán cho mình. Mình ăn vào rồi thì chắc chắn bị lây

còn gì. Thế nên không bao giờ chị mua đồ ngƣời ta bán”.

(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 31-YS, nữ, dân tộc Tày, 29 tuổi)

Có thể thấy rằng những nhận thức chƣa đúng về biện pháp phòng tránh lây

nhiễm bệnh dƣờng nhƣ bắt nguồn từ cách hiểu sai về bản chất bệnh và con đƣờng

lây bệnh ở ngƣời dân địa phƣơng về HIV/AIDS. Những nhận thức chƣa đúng này

không chỉ có thể dẫn đến các hành vi có tính nguy cơ lây nhiễm cao mà còn có thể

làm gia tăng sự kỳ thị, phân biệt đối xử với ngƣời có HIV/AIDS. Nỗi sợ mơ hồ

dƣờng nhƣ khiến ngƣời dân trở nên xa lánh, hạn chế tối đa sự tiếp xúc với những

ngƣời có HIV/AIDS để phòng tránh nguy cơ lây nhiễm. Đó là hệ lụy của việc thiếu

hụt kiến thức liên quan đến HIV/AIDS. Ngƣời dân chia sẻ thái độ này trong cả các

cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm:

“Tốt nhất là không liên quan gì. Thế là chả lây với truyền”.

(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 28-YS, nam, dân tộc Hmông, 29 tuổi)

“- Ông to mồm bảo nói chuyện với nó (ý chỉ ngƣời có HIV/AIDS) không

lây, thế ông có dám nói chuyện với bọn nó không?

- Tôi sợ cái quái gì?

- Thế ông bảo ăn cơm với bọn nó (ý chỉ ngƣời có HIV/AIDS) cũng không

lây đúng không? Bây giờ tôi cho ông 1 triệu, nếu ông dám ăn cơm cùng”.

(Thảo luận nhóm, ngƣời dân nhóm Tày, MS 06-LB)

2.4. Nhận thức về HIV/AIDS trong so sánh tộc ngƣời

Trong phần tiếp theo đây, tôi sẽ đi vào so sánh giữa hai nhóm tộc ngƣời

nghiên cứu là ngƣời Tày và Hmông để tìm ra những khác biệt trong suy nghĩ và

nhận thức của họ về phòng chống HIV/AIDS.

Trƣớc hết cũng cần phải lƣớt qua về đặc điểm hai nhóm tộc ngƣời này trên địa

bàn tỉnh Tuyên Quang. Trong cơ cấu dân số toàn tỉnh, nếu không kể đến dân tộc

Kinh (chiếm tỷ lệ lớn nhất với 334.993 ngƣời) thì dân tộc Tày là tộc ngƣời thiểu số

38

có số dân đông nhất (185.464 ngƣời). Trong khi đó, dân tộc Hmông lại chiếm tỷ lệ

ít hơn rất nhiều với 16.974 ngƣời, chỉ gần bằng 1/10 số dân của tộc ngƣời Tày

(GSO, 2010). Nhƣ vậy, xét về thành phần dân cƣ thì cộng đồng dân tộc Tày ƣu trội

hơn nhiều lần so với dân tộc Hmông ở tỉnh. Tại hai địa điểm chọn mẫu (huyện Yên

Sơn, huyện Lâm Bình), dân tộc Tày cũng hoàn toàn áp đảo ngƣời Hmông trong cơ

cấu dân số địa phƣơng nghiêng về. Cụ thể, theo báo cáo của Ủy ban Nhân dân

huyện Yên Sơn và Ủy ban Nhân dân huyện Lâm Bình trong năm 2014, tại huyện

Yên Sơn có 23.244 ngƣời Tày nhƣng chỉ có 7.568 ngƣời Hmông; tại huyện Lâm

Bình có 19.333 ngƣời Tày nhƣng chỉ có 2063 ngƣời Hmông (xem số liệu chi tiết tại

Bảng 2 và Bảng 3 trong phần Mở đầu).

Cùng với ƣu thế về dân số thì nhóm Tày cũng là cộng đồng có địa bàn tụ cƣ

gần kề ngƣời Kinh. Họ thƣờng sinh sống tại các thôn, xã dƣới chân núi, dƣới ven

đồi, gần ven suối hoặc gần các tuyến đƣờng giao thông chính, gần với thị tứ và các

khu vực trung tâm huyện lỵ. Do đó dân tộc Tày có điều kiện thuận lợi hơn trong

giao thƣơng với ngƣời Kinh. Trong khi đó, ngƣời Hmông lại thƣờng sinh sống ở

những khu vực có địa hình cao, cách xa thị tứ và trung tâm huyện lỵ. Chỉ tính tỷ lệ

số dân sinh sống ở thành thị với số dân sinh sống ở nông thôn của hai tộc ngƣời này

chúng ta đã có thể thấy rõ điều đó. Cụ thể, cả tỉnh Tuyên Quang có 11.681 ngƣời

Tày sinh sống ở thành thị chiếm 6,3% trong tổng số 18.5464 ngƣời Tày trên toàn

tỉnh; trong khi chỉ có 118 ngƣời Hmông sinh sống ở thành thị chiếm 0,7% trong

tổng số 16.974 ngƣời Hmông trên toàn tỉnh (GSO, 2010). Nhƣ vậy, có tới 99%

ngƣời Hmông ở Tuyên Quang sinh sống tại khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa.

Điều này khiến cho việc giao tác với các cộng đồng bên ngoài của ngƣời Hmông

dƣờng nhƣ bị hạn chế hơn rất nhiều.

Với những đặc trƣng tộc ngƣời nêu trên, có thể dễ đƣa đến giả thuyết về tƣơng

quan giữa trình độ phát triển kinh tế - xã hội của hai tộc ngƣời và sự tiếp nhận thông

tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS của họ. Chẳng hạn ngƣời ta có thể cho

rằng tộc ngƣời chiếm ƣu thế về dân số cộng với trình độ kinh tế - xã hội phát triển

hơn (trong luận văn này là trƣờng hợp ngƣời Tày) thì rất có thể sẽ nhận đƣợc nhiều

39

cơ hội tiếp cận các kênh truyền thông, nguồn thông tin truyền thông phòng chống

HIV/AIDS, và đƣơng nhiên sẽ có nhận thức tốt về phòng chống HIV/AIDS. Còn

tộc ngƣời yếu thế hơn trong luận văn này là trƣờng hợp ngƣời Hmông sẽ gặp nhiều

thách thức trong việc tiếp cận các kênh truyền thông, nguồn thông tin truyền thông

phòng chống HIV/AIDS, thì đƣơng nhiên sẽ có nhiều nhận thức chƣa đúng về

phòng chống HIV/AIDS.

Thế nhƣng thông tin thực địa hé mở rằng những suy nghĩ, nhìn nhận sai lệch

bộc lộ ở cả hai nhóm cộng đồng nghiên cứu Các dữ liệu định lƣợng sẽ góp phần

minh họa rõ hơn thực tế này.

Bảng 7: Nhận thức về bản chất bệnh HIV/AIDS của dân tộc Tày và

dân tộc Hmông

TT

Cách hiểu về bản chất bệnh

Tỷ lệ trả lời phân theo tộc ngƣời (%) Tổng

HIV/AIDS

(%)

Tộc ngƣời Tày

Tộc ngƣời Hmông

1 Là suy giảm hệ miễn dịch gây ra

28,1

26,6

54,7

các bệnh nhiễm trùng cơ hội

2 Là bệnh lao phổi

6,25

4,25

10,9

3 Là bệnh giang mai

7,9

9,4

17,3

4 Là bệnh ung thƣ

1,6

3,1

4,7

5 Là bệnh khác (xin ghi rõ)

6,2

6,2

12,4

50

50

100

Tổng

Bảng 7 cho thấy rằng tỷ lệ chênh lệch giữa ngƣời Tày và ngƣời Hmông xoay

quanh nhận thức về bản chất HIV/AIDS hết sức nhỏ. Trong số gần 55% ngƣời dân

trả lời HIV/AIDS là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội thì

ngƣời Tày chiếm 28%, nhỉnh hơn không đáng kể so với mức 27% đáp viên Hmông.

Nhƣng trong số gần 11% cho rằng HIV/AIDS là bệnh lao phổi thì tỷ lệ ngƣời Tày

40

nhận thức sai lại cao hơn một chút so với ngƣời Hmông.

Có thể thấy rằng tỷ lệ trả lời chƣa chính xác ở ngƣời Tày và ngƣời Hmông

quanh bản chất HIV/AIDS chênh lệch không đáng kể. Điều này cũng biểu hiện qua

nội dung trả lời của ngƣời dân hai nhóm về con đƣờng lây truyền HIV.

Bảng 8: Nhận thức của ngƣời dân tộc Tày và dân tộc Hmông về các

con đƣờng lây nhiễm HIV

STT Các trƣờng hợp có thể khiến chúng ta

Tỷ lệ trả lời phân theo tộc ngƣời (%) Tổng

bị lây nhiễm HIV

(%)

Tộc ngƣời Tày Tộc ngƣời Hmông

Đúng

Sai

Đúng

Sai

1 Quan hệ tình dục với ngƣời nhiễm HIV

50

0

50

0

100

2

50

0

50

0

100

Truyền máu/tiếp xúc vết thƣơng với máu ngƣời nhiễm HIV

3 Ăn cơm chung với ngƣời nhiễm HIV

37,5

12,5

40,6

9,4

100

4 Hôn ngƣời nhiễm HIV

42,2

7,8

43,7

6,3

100

5

Cầm tay hay ôm ngƣời nhiễm HIV

29,7

20,3

31,2

18,8

100

6 Ngủ chung giƣờng với ngƣời nhiễm HIV

34,4

15,6

35,9

14,1

100

7 Nói chuyện với ngƣời nhiễm HIV

15,6

34,4

17,2

32,8

100

8 Dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời

50

0

50

0

100

nhiễm HIV

9 Dùng chung cốc uống nƣớc với ngƣời

38,1

11,9

43,1

6,9

100

nhiễm HIV

10 Bị muỗi đốt

50

0

50

0

100

11 Mẹ nhiễm HIV lây truyền sang con khi sinh

50

0

50

0

100

12 Mua đồ của ngƣời nhiễm HIV bán

18,8

31,2

20,3

29,7

100

Bảng 8 trên cho thấy tỷ lệ nhận thức về con đƣờng lây truyền HIV/AIDS của

ngƣời dân tộc Tày và dân tộc Hmông chênh lệch không nhiều. Về nội dung bốn con

đƣờng lây truyền HIV chủ yếu (truyền dẫn máu, truyền dẫn tinh dịch/dịch âm đạo,

tiền phóng tinh, lây truyền chu sinh) thì tất cả đáp viên ngƣời Tày và ngƣời Hmông

41

đều lựa chọn đáp án đúng. Ở một số phƣơng án trả lời khác, ngƣời Hmông có vẻ trả

lời nhiều câu chƣa đúng hơn so với ngƣời Tày. Tuy nhiên, sự chênh lệch tƣơng đối

nhỏ. Tỷ lệ chênh lệch cao nhất (5%) thể hiện qua con số 38% ngƣời Tày đồng ý

rằng dùng chung cốc uống nƣớc với ngƣời nhiễm HIV sẽ làm lây bệnh, trong khi có

đến 43% đáp viên Hmông nhất trí. Có vẻ nhƣ tỷ lệ trả lời đúng ở ngƣời Tày nhỉnh

hơn ngƣời Hmông một chút. Sự chênh lệch dƣờng nhƣ thể hiện rõ nét hơn trong

phần trả lời về biện pháp phòng tránh lây truyền HIV/AIDS.

Bảng 9: Nhận thức của hai nhóm Tày và Hmông về các biện pháp

phòng tránh lây nhiễm HIV

STT

Các cách để phòng tránh sự lây

Tỷ lệ trả lời phân theo tộc ngƣời (%) Tổng

nhiễm HIV

(%)

Tộc ngƣời Tày Tộc ngƣời Hmông

Đúng

Sai

Đúng

Sai

1

Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục

50

50

0

100

0

2

Không dùng chung bơm kim tiêm

50

50

0

100

0

3 Mắc màn trƣớc khi đi ngủ

50

50

0

100

0

4

Không nói chuyện với ngƣời có HIV

46,9

31,2

18,8

100

3,1

5

46,9

29,7

20,3

100

3,1

Không dùng chung bát đũa/cốc chén với ngƣời có HIV

6

Không ăn uống cùng ngƣời có HIV

48,4

37,5

12,6

100

1,5

7

Không cầm tay, ôm, hôn ngƣời có HIV

48,4

45,35

4,75

100

1,5

8

Không mua đồ của ngƣời có HIV bán

45,3

4,75

42,2

7,75

100

9

46,9

3,15

42,2

7,75

100

Tránh ở cùng ngƣời có HIV tại bất kỳ nơi nào

Quan sát bảng 9 ở trên, chúng ta thấy ngƣời dân ở cả hai nhóm dƣờng nhƣ

nhận thức về con đƣờng lây truyền đúng nhƣng lại lựa chọn biện pháp phòng tránh

sai. Nhƣ đề cập ở phần trên, từ nỗi sợ mơ hồ về HIV/AIDS, ngƣời dân tộc thiểu số

tại địa phƣơng lựa chọn mọi cách để hạn chế tối đa sự tiếp cận với ngƣời có

42

HIV/AIDS, kể cả trong trƣờng hợp không thể bị lây nhiễm. Đáng chú ý là tỷ lệ nhận

thức đúng về con đƣờng lây truyền HIV/AIDS ở nhóm đáp viên ngƣời Tày cao hơn

so với ngƣời Hmông, nhƣng khi họ lựa chọn biện pháp phòng tránh lây bệnh thì lại

có tỷ lệ sai nhiều hơn các đáp viên Hmông. Đối chiếu với bảng 8 chúng ta thấy có

khoảng 16% ngƣời Tày cho rằng nói chuyện với ngƣời có HIV sẽ làm lây bệnh,

nhƣng lại có tới gần 47% đáp viên Tày lựa chọn phƣơng án không nói chuyện với

ngƣời có HIV để phòng tránh lây bệnh (bảng 9). Tƣơng tự, có độ 19% ngƣời Tày

đồng ý rằng mua đồ của ngƣời có HIV bán thì sẽ làm lây bệnh, nhƣng phải đến 45%

ngƣời Tày lựa chọn phƣơng án không mua đồ của ngƣời có HIV bán để phòng tránh

lây bệnh. Ở phần trả lời của ngƣời Hmông cũng bộc lộ tỷ lệ trả lời mâu thuẫn giữa

nhận thức và thực hành nhƣng thấp hơn so với ngƣời Tày.

Có vẻ nhƣ không có cách biệt đáng kể trong nhận thức và thực hành của hai

nhóm tộc ngƣời xoay quanh vấn đề phòng chống HIV/AIDS.

Nhận thức tộc ngƣời trong tƣơng quan với địa bàn sinh tụ

Thông tin định tính từ phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung lại hé mở

thêm rằng những ý kiến sai về bản chất bệnh chỉ biểu hiện ở cộng đồng dân tộc

thiểu số thuộc huyện Lâm Bình – huyện cách xa trung tâm thành phố Tuyên Quang

khoảng 100km và cách trung tâm thành phố Hà Giang khoảng hơn 100km đƣờng

bộ. Các ý kiến cho rằng HIV/AIDS là (1) bệnh về da nguy hiểm, (2) bệnh kim la,

(3) bệnh ho ác, (4) bệnh ghẻ lở, (5) bệnh lao phổi, (6) bệnh giang mai đều đƣợc đƣa

ra trong các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung với ngƣời dân huyện Lâm

Bình. Trong các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung tại huyện Yên

Sơn chỉ thấy xuất hiện một ý kiến hiểu sai về bản chất HIV/AIDS khi xem

HIV/AIDS là bệnh ung thƣ. Tuy nhiên, những ý kiến trả lời sai về con đƣờng lây

truyền và biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS vẫn thể hiện nhiều hơn ở

cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Lâm Bình. Dƣờng nhƣ cộng đồng dân tộc

thiểu số ở huyện Lâm Bình có sự khó khăn hơn trong tiếp cận thông tin truyền

thông; vì vậy mà kiến thức về phòng chống HIV/AIDS chƣa đƣợc tốt nhƣ cộng

đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn. Số liệu từ điều tra bảng hỏi càng củng cố

43

thêm luận điểm trên.

Bảng 10: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và

huyện Lâm Bình về bản chất HIV/AIDS

STT

Cách hiểu về bản

Tỷ lệ trả lời phân theo địa bàn sinh sống (%) Tổng

chất bệnh HIV/AIDS

(%)

Huyện Lâm Bình

Huyện Yên Sơn

1

Là suy giảm hệ miễn

12,5

42,2

54,7

dịch gây ra các bệnh

nhiễm trùng cơ hội

2

Là bệnh lao phổi

10,9

1,5

9,4

3

Là bệnh giang mai

17,3

3,2

14,1

4

Là bệnh ung thƣ

4,7

1,5

3,2

5

Là bệnh khác (xin

12,4

1,5

10,9

ghi rõ)

100

50

50

Tổng

Từ bảng 10, chúng ta có thể thấy tỷ lệ trả lời đúng của nhóm ngƣời dân huyện

Lâm Bình thấp hơn hẳn so với huyện Yên Sơn. Đối với phƣơng án cho rằng

HIV/AIDS là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội thì có

khoảng 12% ngƣời dân huyện Lâm Bình trả lời đúng, trong khi tỷ lệ trả lời đúng ở

các đáp viên huyện Yên Sơn là 42%. Ở các phƣơng án trả lời khác về bản chất

HIV/AIDS, các đáp viên huyện Lâm Bình lại có tỷ lệ trả lời sai cao hơn hẳn so với

huyện Yên Sơn. Chẳng hạn chỉ có 3,2% đáp viên dân tộc thiểu số huyện Yên Sơn

44

cho rằng HIV/AIDS là bệnh giang mai, thì tỷ lệ ở huyện Lâm Bình lên tới 14%.

Bảng 11: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và

huyện Lâm Bình về các con đƣờng lây nhiễm HIV

TT Các trƣờng hợp có thể khiến chúng

Tỷ lệ trả lời phân theo địa bàn

Tổng

ta bị lây nhiễm HIV

sinh sống (%)

(%)

Huyện Lâm Bình Huyện Yên Sơn

Đúng

Sai

Đúng

Sai

1

Quan hệ tình dục với ngƣời nhiễm HIV

50

0

50

0

100

2

50

0

50

0

100

Truyền máu/tiếp xúc vết thƣơng với máu ngƣời nhiễm HIV

3

Ăn cơm chung với ngƣời nhiễm HIV

46,9

3,1

31,2

18,8

100

4

Hôn ngƣời nhiễm HIV

48,4

1,5

37,5

12,6

100

5

Cầm tay hay ôm ngƣời nhiễm HIV

45,3

4,7

15,6

34,4

100

6

48,4

1,5

21,9

28,2

100

Ngủ chung giƣờng với ngƣời nhiễm HIV

7

Nói chuyện với ngƣời nhiễm HIV

31,3

18,8

1,5

48,4

100

8

50

0

50

0

100

Dùng chung bơm kim tiêm với ngƣời nhiễm HIV

9

46,9

3,1

34,3

15,7

100

Dùng chung cốc uống nƣớc với ngƣời nhiễm HIV

10 Bị muỗi đốt

50

0

50

0

100

11 Mẹ nhiễm HIV lây truyền sang con khi

50

0

50

0

100

sinh

12 Mua đồ của ngƣời nhiễm HIV bán

32,8

17,2

6,3

43,7

100

Bảng 11 tiếp tục thể hiện rõ sự khác biệt trong nhận thức của ngƣời dân hai

huyện về con đƣờng lây truyền HIV. Nếu không xét đến các câu hỏi có tỷ lệ trả lời

bằng nhau, thì ở mỗi phƣơng án đƣa ra số ngƣời dân tộc thiểu số ở huyện Lâm Bình

luôn có tỷ lệ trả lời sai cao hơn ở huyện Yên Sơn rất nhiều. Ví dụ nếu khoảng 19%

ngƣời dân tộc thiểu số ở huyện Yên Sơn hiểu rằng ăn cơm chung với ngƣời có HIV

45

không thể làm lây bệnh thì con số đáp viên nhất trí với suy nghĩ đó ở huyện Lâm

Bình chỉ chiếm 3%. Tƣơng tự, nếu có tới 31% ngƣời dân tộc thiểu số huyện Lâm

Bình cho rằng nói chuyện với ngƣời nhiễm HIV cũng có thể làm lây bệnh, thì tỷ lệ

chọn phƣơng án trả lời đó ở huyện Yên Sơn là 1,5%.

So sánh số lƣợng trả lời ở mỗi phƣơng án trong bảng 11 về con đƣờng lây truyền

HIV thì đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Yên Sơn luôn có tỷ lệ trả lời đúng cao hơn

huyện Lâm Bình rất nhiều. Những số liệu này tiếp tục khẳng định chắc chắn hơn nữa

về sự tồn tại của mối quan hệ giữa địa bàn sinh sống với việc tiếp nhận kiến thức

truyền thông phòng chống HIV/AIDS của ngƣời dân tộc thiểu số hai huyện. Rõ ràng có

sự cách biệt đáng kể trong nhận thức ngƣời dân tại hai địa phƣơng về bản chất

HIV/AIDS. Dữ liệu định lƣợng này cho thấy mối liên hệ giữa cách biệt địa lý nơi sinh

tụ và mức độ tiếp nhận kiến thức truyền thông của ngƣời dân hai huyện nghiên cứu.

Thế nhƣng yếu tố cách biệt địa lý này có vẻ lại không thể hiện rõ nét trong suy

nghĩ và lựa chọn của ngƣời dân hai huyện về biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV:

Bảng 12: Nhận thức của ngƣời dân tộc thiểu số về các biện pháp phòng tránh

lây truyền HIV phân theo huyện

Tỷ lệ trả lời phân theo địa bàn

sinh sống (%)

Tổng

STT

Các cách để phòng tránh sự lây nhiễm HIV

Huyện Lâm Bình Huyện Yên Sơn

(%)

Đúng

Sai

Đúng

Sai

1

Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục

50

0

50

0

100

2 Không dùng chung bơm kim tiêm

50

0

50

0

100

3 Mắc màn trƣớc khi đi ngủ

50

0

50

0

100

4 Không nói chuyện với ngƣời có HIV

40,6

9,4

37,5

12,5

100

5 Không dùng chung bát đũa/cốc chén với

42,1

7,8

34,5

15,6

100

ngƣời có HIV

7,85

100

6 Không ăn uống cùng ngƣời có HIV

43,75

6,25

42,15

7 Không cầm tay, ôm, hôn ngƣời có HIV

46,9

3,1

46,85

3,15

100

8 Không mua đồ của ngƣời có HIV bán

45,3

4,7

42,2

7,8

100

9

45,3

4,7

43,8

6,2

100

Tránh ở cùng ngƣời có HIV tại bất kỳ nơi nào

46

Bảng 9 cho thấy ngƣời dân ở cả hai huyện cùng có xu hƣớng mâu thuẫn giữa

nhận thức với lựa chọn thực hành. Có thể yếu tố địa bàn tụ cƣ không nhất thiết tác

động đến việc ngƣời dân lựa chọn biện pháp phòng tránh lây nhiễm. Có lẽ ngƣời

dân phần nào hiểu về bản chất bệnh và các con đƣờng lây truyền, nhƣng họ lại có vẻ

chƣa “tin” và vẫn “sợ”. Điều này có thể sẽ khiến họ tìm mọi cách hạn chế tiếp xúc

với ngƣời có HIV/AIDS.

Một mặt, các kết quả nghiên cứu ban đầu này hàm chỉ rằng chƣa hẳn tộc ngƣời

có ƣu thế về số lƣợng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội (nhƣ ngƣời Tày) thì sẽ

tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS tốt hơn; và ngƣợc lại,

cũng chƣa thể khẳng định đƣợc rằng tộc ngƣời yếu thế về số lƣợng và trình độ phát

triển kinh tế - xã hội (nhƣ ngƣời Hmông) thì sẽ tiếp nhận kiến thức truyền thông

kém hơn.

Mặt khác, các phát hiện nghiên cứu cho thấy yếu tố cách biệt địa lý dƣờng nhƣ

tác động rất đáng kể tới khả năng tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống

HIV/AIDS. Cụ thể hơn, các cộng đồng sinh tụ ở những khu vực cách xa trung tâm

thành thị thì việc tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS sẽ gặp

nhiều thách thức hơn. Điều này vô hình trung ảnh hƣởng ngƣợc trở lại đến mức độ

nhận thức của ngƣời dân về chủ đề liên quan. Trong khi đó các cộng đồng sinh sống

gần trung tâm thành thị có nhiều khả năng tiếp nhận đƣợc kiến thức truyền thông và

nhận thức của ngƣời dân cũng có thể khả quan hơn.

Tiểu kết chƣơng 2

Qua những phân tích ở chƣơng 2, chúng ta thấy rằng mặc dù ngƣời dân tộc

thiểu số tại Tuyên Quang đã có những kiến thức đúng nhất định về phòng chống

HIV/AIDS nhƣng con số ngƣời dân bộc lộ những cách hiểu chƣa đúng vẫn còn khá

nhiều. Thực tế cho thấy ngay cả khi ngƣời dân hiểu đúng nhƣng lựa chọn thực hành

lại không tƣơng thích. Xét từ góc độ lý thuyết, điều này thể hiện thông điệp truyền

thông mới chỉ đạt ở giai đoạn 3 (làm cho nhóm đối tƣợng nhận biết thông điệp;

47

Nhóm đối tƣợng nhận thức, hiểu biết thông điệp; Nhóm đối tƣợng chấp nhận thông

điệp) trong tổng số năm giai đoạn, chứ chƣa thành công ở giai đoạn 4 và 5 (làm cho

đối tƣợng tin tƣởng thông điệp; Đối tƣợng hành động theo mục đích, yêu cầu của

thông điệp). Điều này gợi mở rằng sẽ rất cần có những chƣơng trình truyền thông

mang tính chiều sâu và thực chất hơn nữa để có thể làm chuyển biến nhận thức của

ngƣời dân tộc thiểu số tại các địa phƣơng xoay quanh phòng chống HIV/AIDS. Các

kết quả nghiên cứu so sánh tộc ngƣời cũng cho thấy rằng địa bàn sinh tụ dƣờng nhƣ

là một yếu tố quan trọng tác động tới khả năng tiếp nhận thông tin truyền thông của

ngƣời dân. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội ƣu trội hơn chƣa hẳn đã là

48

một yếu tố tác động tới mức độ nhận thức của tộc ngƣời.

Chƣơng 3: CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG TỪ GÓC ĐỘ “NGUỒN”

Trong lý thuyết về mô hình truyền thông mà Claude Shannon (1948) đƣa ra,

thì quá trình truyền thông bao gồm bảy yếu tố: Nguồn, thông điệp, kênh, ngƣời

nhận thông điệp, hiệu quả, yếu tố gây nhiễu, sự phản hồi. Theo mô hình này,

“nguồn” đóng vai trò là yếu tố mở đầu cho cả chuỗi các hoạt động liên quan tới quá

trình truyền thông. Việc truyền thông có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào

yếu tố “nguồn”. Chính vì vậy, luận văn này tiếp cận hoạt động truyền thông phòng

chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang bao gồm

cả yếu tố “nguồn”, mà cụ thể là cán bộ có trách nhiệm quản lý, tổ chức, thực hiện

hoạt động truyền thông (gọi chung là cán bộ truyền thông).

3.1. Chủ trƣơng

Công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu

số ở tỉnh Tuyên Quang đƣợc Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe cùng

Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh bắt đầu chú ý từ nhiều năm trƣớc. Trong

mỗi bản kế hoạch truyền thông theo từng tháng, từng quý lƣu tại hai trung tâm đều

nhấn mạnh “tăng cƣờng các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS ở vùng sâu vùng xa

và vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Tuy nhiên, do đặc thù về sự đa dạng tộc ngƣời,

đa dạng về văn hóa, sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội nên công tác

truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số luôn là một

nội dung khó thực hiện đối với không chỉ tỉnh Tuyên Quang nhƣ chia sẻ của một

cán bộ truyền thông:

“Việc tuyên truyền còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,

vùng đồng bào dân tộc ít ngƣời; năng lực chuyên môn của đội ngũ y sĩ còn hạn

chế; hệ thống loa truyền thanh của các xã, thôn, bản bị hƣ hỏng nhiều...”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 03-T, nam, 47 tuổi)

Qua điền dã thực tế tại địa phƣơng tôi nhận thấy các hình thức truyền thông

phòng chống HIV/AIDS với đối tƣợng là đồng bào dân tộc thiểu số đa phần vẫn là

hai kênh truyền thống qua tài liệu phát tay và qua hội họp thôn/xã và đƣợc tiến hành

49

tƣơng tự nhƣ với các đối tƣợng khác. Một cán bộ truyền thông nam cho biết:

“Bọn mình không xuất bản các tài liệu phát tay này, là chuyển về từ

tuyến tỉnh thôi. Chuyển về nhƣ nào thì bọn mình sử dụng nhƣ vậy… Các đối

tƣợng là ngƣời dân tộc thiểu số thì vẫn dùng những tài liệu này thôi. Vì nói

chung là những nội dung tuyên truyền thì giống nhau cả”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 08-H-YS, nam, 36 tuổi)

Vì vậy dƣờng nhƣ không có sự khác biệt trong hoạt động truyền thông phòng

chống HIV/AIDS ở cộng đồng dân tộc thiểu số so với các nhóm đối tƣợng khác. Sự

không phân biệt rõ ràng các nhóm đối tƣợng đích của chƣơng trình truyền thông

nhƣ vậy sẽ khó có thể đạt đƣợc hiệu quả truyền thông tốt.

Tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS đƣợc chuyển từ Trung tâm

Phòng chống HIV/AIDS và Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe tỉnh

Tuyên Quang về các Trung tâm Y tế huyện. Sau đó Trung tâm Y tế huyện sẽ phối

hợp với các đơn vị hữu quan nhƣ Phòng Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Phòng

Dân tộc, Phòng Văn hóa và Thông tin, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Huyện đoàn… để tổ

chức kế hoạch truyền thông ở các địa phƣơng trong huyện. Tài liệu truyền thông sẽ

đƣợc tiếp tục chuyển xuống tuyến xã/thôn và công tác truyền thông chủ yếu đƣợc

thực hiện bởi cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh, cán bộ y tế xã/thôn. Thực tế các cán bộ địa phƣơng phải khắc phục sự

thiếu thốn thiết bị, cơ sở vật chất cũng nhƣ sự cách trở về địa lý:

“Không có loa đài, không có tivi, đƣờng đi lại khó khăn. Cũng chỉ có

cách tuyên truyền nhƣ thế thôi. Nếu muốn thay đổi thì anh nghĩ phải xây dựng

lại hệ thống phƣơng tiện vật chất trƣớc”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 15-TX, nam, 32 tuổi)

Mặc dù chủ trƣơng “tăng cƣờng các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS ở

vùng sâu vùng xa và vùng đồng bào dân tộc thiểu số” luôn đƣợc đặt ra nhƣng trên

thực tế công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc

thiểu số chƣa thực sự đƣợc quan tâm đúng mức. Một cán bộ nhận định:

“Có truyền thông trong đồng bào dân tộc ít ngƣời chứ. Nhƣng nếu để nói

50

là làm chƣơng trình tuyên truyền riêng cho đối tƣợng là đồng bào dân tộc ít

ngƣời thì đúng là chƣa có đâu. Vì các chƣơng trình truyền thông chủ yếu nhằm

vào các đối tƣợng “hạt sạn” chính nhƣ là ngƣời sử dụng ma túy, nữ bán dâm”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 02-T, nam, 43 tuổi)

Có vẻ nhƣ hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng

dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang vẫn là một bức tranh chƣa hoàn thiện. Mặc dù

đã có những cố gắng nhất định, nhƣng đội ngũ thực hiện công tác truyền thông vẫn

bộc lộ những hạn chế nhất định.

“Chúng tôi cũng không phủ nhận rằng việc tuyên truyền trong đồng bào

dân tộc ít ngƣời còn chƣa hiệu quả, nhƣng chúng tôi cũng đã rất nỗ lực. Bạn

biết đấy, trong hoàn cảnh thiếu thốn về con ngƣời, tài chính, thiếu thốn cả cơ

sở vật chất, phƣơng tiện khoa học kỹ thuật nhƣ thế này thì rất khó khăn đối với

chúng tôi. Bạn về các địa phƣơng bạn sẽ rõ, có những nơi điện nƣớc còn chƣa

có đâu”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 02-T, nam, 43 tuổi)

3.2. Thực tiễn hoạt động truyền thông

3.2.1. Từ thực hành gán nhãn

Nhiều chia sẻ của cán bộ truyền thông từ các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận

nhóm tập trung cho thấy họ có xu hƣớng “gán nhãn” trong hoạt động truyền thông

của mình. Theo lời một nữ truyền thông viên:

“- Nhiều khi nói mãi nhƣng ngƣời ta không vỡ (ý nói ngƣời dân tộc thiểu

số tại địa phƣơng không hiểu). Nên bọn chị càng phải làm cho họ sợ.

- Sao lại phải làm cho họ sợ hả chị?

- Sợ thì mới biết mà tránh ra chứ! Nói để mà hiểu có mà đến mùa khoai

sọ năm sau, nhƣng mà làm cho họ sợ thì họ khác biết tránh.

- Vậy mình làm cho họ sợ nhƣ thế nào ạ?

- Mình cứ lấy mấy cái hình ảnh ngƣời bị ết (ý chỉ AIDS) lên, nhìn có phát

khiếp ngay. Rồi có khi bọn chị lấy ví dụ để họ thấy là bị ết nó khổ sở nhƣ nào,

kinh khủng thế nào. Họ sợ thì tất nhiên họ cũng sẽ biết đƣờng mà tránh xa ra”.

51

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 17-TX, nữ, 33 tuổi)

Chia sẻ của nữ cán bộ này cho thấy sự vận dụng “gán nhãn” trong thực hành

truyền thông ở cấp cơ sở. Hiểu một cách đơn giản nhƣ Frank Tannenbaum, Howard

Becker và Jensen (2007) định nghĩa thì “gán nhãn” (labeling) là một quá trình phản

ứng xã hội mang tính cứng nhắc bởi các đối tƣợng cụ thể, trong đó, mọi ngƣời sẽ

tiếp xúc, đánh giá và xác định (gán nhãn) cho một ai đó hoặc hành vi nào đó là lệch

chuẩn, sau đó lôi kéo niềm tin của cộng đồng nhằm đánh giá hành vi theo hƣớng

tiêu cực và các cá nhân sẽ đƣợc lựa chọn để gán cho nhãn tiêu cực này (Gary

Jensen, 2007). Trong trƣờng hợp ngƣời cán bộ trên, sự gán nhãn đƣợc thể hiện qua

việc chị cố gắng chứng minh và thuyết phục ngƣời dân địa phƣơng tin rằng tình

trạng có HIV/AIDS là “kinh khủng” và ngƣời có HIV/AIDS là xấu. Bằng việc sử

dụng hình ảnh “phát khiếp” về ngƣời có HIV/AIDS, nữ cán bộ truyền thông này ra

sức làm cho ngƣời dân tin rằng, việc có HIV/AIDS là điều đáng sợ cần tránh xa.

Đáng chú ý là không chỉ cá nhân nữ cán bộ truyền thông vận dụng cách gán

nhãn mang tính kỳ thị về HIV/AIDS mà phần lớn các cán bộ truyền thông tham gia

nghiên cứu đều có thực hành tƣơng tự. Số liệu từ phỏng vấn bảng hỏi (xem bảng 13

dƣới đây) cho thấy có tới gần 74% cán bộ truyền thông trả lời phỏng vấn xác nhận

rằng mình có sử dụng hình ảnh tiêu cực về ngƣời có HIV/AIDS để truyền thông.

Bảng 13: Thực hành gán nhãn của cán bộ truyền thông phòng chống

HIV/AIDS tại cộng đồng dân tộc thiểu số

Anh/chị có từng sử dụng các cách sau khi thực Có Không Không biết

hiện truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong (%) (%) (%) cộng đồng dân tộc thiểu số?

Sử dụng hình ảnh xấu xí về người có HIV/AIDS 73,8 26,2 0

69 31 0

Sử dụng các ví dụ kinh khủng và khổ sở vì có HIV/AIDS

Có thể là khả quan nếu thực hành truyền thông gán nhãn này chỉ khiến ngƣời

dân tộc thiểu số tại địa phƣơng có ý thức phòng chống HIV/AIDS tốt hơn, tránh

52

thực hiện những hành vi có nguy cơ lây nhiễm. Thế nhƣng thực tế lại phức tạp hơn

bởi lẽ thực hành “gán nhãn” đầy kỳ thị lại dẫn đến hệ lụy tiêu cực hơn. Nó càng

nhấn thêm tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử mà những cá nhân có HIV/AIDS

đang phải gánh chịu tại cộng đồng dân tộc thiểu số. Goffman (2006) từng biện luận

rằng hành vi “nhục mạ” (humiliation) và “gán nhãn” (labeling) là hai tác nhân quan

trọng định hình sự kỳ thị (stigma) và phân biệt đối xử (discrimination) (Sarah

Nettleton, 2006). Cũng nhƣ Bruce Link và Jo Phelan (2001) đã chỉ ra rằng, sự kỳ thị

chỉ tồn tại khi có sự phân biệt cá nhân và gán nhãn cho các biến thể của con ngƣời

trong xã hội; theo đó, các cá nhân đã đƣợc gán nhãn sẽ đƣợc đặt trong một nhóm

riêng biệt, nhằm thiết lập một ý thức để phân cách rõ ràng ranh giới giữa “chúng ta”

và “chúng nó”; từ đó, các cá nhân đã đƣợc gán nhãn sẽ trải qua “việc đánh mất địa

vị xã hội và bị phân biệt đối xử” theo sự phân định ranh giới giữa nhóm “chúng ta”

và nhóm “chúng nó” đã đƣợc lập ra trƣớc đó (Bruce Link & Jo Phelan, 2001). Việc

cán bộ truyền thông gán nhãn ngƣời có HIV/AIDS là “phát khiếp” vô hình trung

càng khơi sâu ranh giới cách ngăn giữa những ngƣời có HIV/AIDS và cộng đồng.

Theo cách phân định này, những ngƣời có HIV/AIDS đƣợc khách thể hóa (“chúng

nó”), hay theo ngôn ngữ lý thuyết Nhân học, trở thành “Other”-tạm dịch: Cái khác

(ta) (Ortner, 2009). Những thành viên còn lại khác không có HIV/AIDS đƣợc nhóm

lại dƣới danh xƣng “chúng ta”. Và không có gì là ngạc nhiên khi các cá nhân có

HIV/AIDS sẽ dẫn đến bị cô lập và đối xử nhƣ một nhóm ngƣời có lỗi với cộng

đồng. Điều này liên quan trực tiếp các quan niệm đƣơng thời về các hiện tƣợng tiêu

cực trong xã hội, vốn thƣờng đƣợc gom dƣới cụm từ “tệ nạn xã hội”.

3.2.2. Đến diễn ngôn “tệ nạn xã hội”

Thông tin định tính cho thấy xu hƣớng gắn tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS

với các đánh giá về mặt đạo đức xã hội. Một số thành viên tham gia thảo luận nhóm

chia sẻ các suy nghĩ dƣới đây:

“- Nói chung là đã bị ết (ý chỉ AIDS) thì cũng không phải dạng bình thƣờng.

- Đúng rồi. Nói thì bảo ghê ghớm, chứ thử hỏi cả cái cái xã hội này ai tử

tế mà lại bị ết?”.

53

(Thảo luận nhóm, cán bộ truyền thông, MS 04-TX, nhóm 3 ngƣời)

Theo cách suy luận này, thì ngƣời có HIV/AIDS đƣợc coi nhƣ là những

trƣờng hợp điển hình của tệ nạn xã hội. Điều này có liên quan đến những diễn ngôn

về “tệ nạn xã hội” ở Việt Nam. Cụ thể, đầu những năm 1990 việc cổ động xây dựng

gia đình hạnh phúc ở nƣớc ta luôn đi đôi với các chiến dịch phòng chống tệ nạn xã

hội. Mà theo đó thì văn hóa phẩm khiêu dâm, mại dâm, cờ bạc, nghiện hút, bao gồm

cả HIV/AIDS đƣợc coi nhƣ là những “tệ nạn đạo đức” gây ra thách thức, làm mất

ổn định quốc gia và gia đình (Montoya, 2012). Đặc biệt trong bối cảnh dịch

HIV/AIDS ở Việt Nam tập trung chủ yếu trên nhóm ngƣời sử dụng ma túy và ngƣời

hành nghề mại dâm, thì từ năm 2002, Chính phủ đã thành lập Ủy ban Quốc gia về

Phòng chống AIDS, ma túy, mại dâm bao gồm các thành viên của Cục Phòng chống

Tệ nạn Xã hội thuộc quản lý của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội. Từ đó, các

diễn ngôn về tệ nạn xã hội dƣờng nhƣ đƣợc thể chế hóa khi gắn liền với HIV/AIDS,

ma túy, mại dâm. Vì vậy mà củng cố quan niệm rằng những ngƣời có HIV/AIDS và

những ngƣời lao động tình dục là hiện thân sống động cho những tệ nạn xã hội cần

bài trừ (Nguyễn Thu Hƣơng & Tine Gammeltoft, 2014). Nhƣ vậy, sự phổ biến của

diễn ngôn cho rằng HIVAIDS là hệ lụy của tệ nạn xã hội phần nào bắt nguồn từ

những chính sách của Chính phủ (USAID, 2010). Các diễn ngôn này góp phần xây

dựng niềm tin rằng tình trạng có HIV/AIDS là một dạng “phi đạo đức” luôn đồng

hành với câu hỏi “chắc nó phải làm sao thì mới bị HIV?” (Lƣơng Anh Ngọc &

Phan Hồng Giang, 2012). Mặc dù, việc có HIV không phải lúc nào cũng là từ lý do

tệ nạn xã hội nhƣ tiêm chích ma túy, mại dâm… mà có thể ngƣời có HIV bị lây từ

chồng, lây từ mẹ sang con…

Dƣờng nhƣ ám ảnh sợ hãi về ngƣời có HIV/AIDS khiến ngƣời dân địa phƣơng

trở nên xa lánh, hạn chế tối đa sự tiếp xúc với những ngƣời có HIV/AIDS để phòng

tránh việc lây bệnh. Đó có thể là hệ lụy từ áp dụng “gán nhãn” không phù hợp trong

hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Xét ở góc độ can thiệp, đây sẽ là

yếu tố gây cản trở quá trình phòng chống HIV/AIDS nói chung, đồng thời khiến

cho truyền thông phòng chống HIV/AIDS sẽ càng khó khăn hơn trong quá trình tác

54

động từ thay đổi nhận thức đến thay đổi thái độ thực hành của ngƣời dân.

Có thể nói việc truyền thông để ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng hiểu về

mức độ nguy hại của HIV/AIDS là hết sức cần thiết; tuy nhiên, cách thức truyền tải

các thông tin nhƣ thế nào lại là điều hết sức quan trọng. Thực tế một số địa

phƣơng trên cả nƣớc đã vận dụng thành công mô hình truyền thông dựa vào các

nhóm đồng đẳng viên - Những ngƣời có HIV/AIDS truyền thông phòng chống

HIV/AIDS (Dự án Giáo dục đồng đẳng phòng chống HIV/AIDS tại các trung

tâm Giáo dục lao động xã hội của Hà Nội, Thái Nguyên, Khánh Hoà, 2005). Do

vậy, nếu sử dụng hình ảnh ngƣời có HIV/AIDS một cách phù hợp, nhất là những

câu chuyện có thực trong cộng đồng, thì hiệu quả truyền thông hẳn sẽ đạt đƣợc.

3.2.3. Đánh giá hậu truyền thông bị “bỏ ngỏ”

Theo dõi sơ đồ 1 trong chƣơng 1 của luận văn này, chúng ta có thể thấy rằng

trong mô hình truyền thông mà Claude Shannon đƣa ra, không thể thiếu yếu tố E

(Effect) là hiệu quả truyền thông và F (Feedback) là sự phản hồi hoạt động truyền

thông. Tuy nhiên, thực tế công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở tỉnh

Tuyên Quang lại chƣa chú trọng đến hai yếu tố này. Hay nói cách khác là hai yếu tố

E và F vẫn còn vắng bóng trong quy trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở

cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang.

Dựa vào các văn bản thứ cấp thu thập đƣợc, tôi nhận thấy chƣa có bất kỳ một

hoạt động nào đƣợc cán bộ truyền thông cũng nhƣ đơn vị truyền thông tại địa

phƣơng triển khai để đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ, hành vi của ngƣời dân

tộc thiểu số tại địa phƣơng. Mục đích truyền thông là để thay đổi nhận thức, thái độ

và hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS của đồng bào dân tộc thiểu số tại địa

phƣơng, nhƣng trƣớc khi thực hiện truyền thông và sau khi thực hiện truyền thông

lại không có đánh giá hiệu quả xem có sự thay đổi không, và nếu có thì sự thay đổi

đó là tích cực hay tiêu cực.

Tại địa phƣơng, các đơn vị hữu quan thƣờng có các báo cáo kết quả triển khai

theo từng tháng của hoạt động phòng chống HIV/AIDS nói chung, và nội dung

tuyên truyền là một trong những nội dung chủ đạo. Rà soát các báo cáo này tôi thấy

55

thiếu vắng sự đánh giá kết quả truyền thông sau mỗi lần hay mỗi buổi truyền thông

cụ thể, thay vào đó chỉ là các báo cáo theo từng tháng thực hiện truyền thông. Vì

rằng kế hoạch phòng chống HIV/ADIS (trong đó có nội dung truyền thông) đƣợc

triển khai theo từng tháng. Mỗi một tháng lại có từng chủ điểm khác nhau. Ví dụ

nhƣ “Hƣớng tới không còn trẻ em lây truyền HIV từ mẹ”, hay “Hƣớng tới không kỳ

thị và phân biệt đối xử với ngƣời có HIV/AIDS”.

Phản hồi từ cán bộ truyền thông minh họa thực tiễn tại địa phƣơng:

“- Sau các buổi truyền thông thì bọn anh không có đánh giá gì cả đâu.

Thƣờng thì bọn anh truyền thông theo đợt là từng tháng một. Mỗi tháng là một

chủ điểm, một kế hoạch truyền thông lớn.

- Vậy tức là bên mình đánh giá hoạt động truyền thông theo từng tháng ạ?

- Đúng rồi. Vì tổ chức kế hoạch là theo tháng mà. Mỗi tháng là một chủ

điểm. Cuối mỗi tháng thì có đánh giá. Nói chính xác thì là làm báo cáo kết quả

triển khai để còn lƣu và gửi báo cáo cho tuyến trên.

- Mình đánh giá và báo cáo những nội dung gì trong hoạt động truyền

thông phòng chống HIV/AIDS vậy anh?

- Bọn anh tổng kết xem truyền thông đƣợc bao nhiêu buổi; số lƣợng các

băng rôn, khẩu hiệu với áp phích mà mình đã treo; số lƣợng các tờ gấp bƣớm,

tài liệu phát tay cho ngƣời dân; với số lƣợng ngƣời dân tham gia các buổi

tuyên truyền nữa. Thế thôi. Ngoài ra thì trong báo cáo còn tổng kết công tác

tham mƣu chỉ đạo, công tác chuyên môn, công tác giám sát, các hạn chế với

khuyến nghị”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 14- TX, nam, 37 tuổi)

Nhƣ vậy, xét trong trƣờng hợp báo cáo triển khai hoạt động phòng chống

HIV/AIDS ở tỉnh Tuyên Quang nói trên thì mới chỉ dừng lại ở việc mô tả kết quả

các hoạt động mình đã làm đƣợc với những số liệu thô đơn giản nhƣ số buổi tuyên

truyền, số ngƣời tham gia, số tài liệu đƣợc phát ra… Đó chƣa phải là báo cáo về

mức độ hiệu quả truyền thông. Bởi lẽ báo cáo hiệu quả truyền thông phải dựa trên

sự đánh giá về thay đổi kiến thức, thái độ, hành vi của đối tƣợng mục tiêu trƣớc và

56

sau khi truyền thông. Từ sự đánh giá về thay đổi kiến thức, thái độ, hành vi thì

chúng ta mới có cơ sở để đo lƣờng đƣợc rằng hoạt động truyền thông có thực sự

hiệu quả hay không. Việc cán bộ truyền thông đã thực hiện bao nhiêu cuộc tuyên

truyền, phát đƣợc bao nhiêu tài liệu phát tay, thu hút đƣợc bao nhiêu ngƣời tham

gia… không phải là cơ sở khoa học để có thể kết luận về tính hiệu quả của chƣơng

trình truyền thông.

3.2.4. Thiếu vắng phản hồi từ ngƣời dân

Quan sát sơ đồ về mô hình truyền thông của Claude Shannon (sơ đồ 1) trong

phần đầu chƣơng 1, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra rằng yếu tố “phản hồi” (F:

Feedback) là khâu cuối cùng trong chuỗi các thành phần của quá trình truyền thông

nhƣng nó lại đóng vai trò quan trọng khi “tái thiết lập” yếu tố “nguồn” (S: Source,

Sender) của quá trình truyền thông. Cụ thể, sau truyền thông các ý kiến phản hồi từ

đối tƣợng mục tiêu sẽ đƣợc tiếp nhận, từ đó làm cơ sở để đánh giá hiệu quả sau

truyền thông, đồng thời tái thiết lập nguồn truyền thông cho phù hợp với đối tƣợng

mục tiêu, nhằm mục đích tăng tính hiệu quả của các chƣơng trình truyền thông kế

tiếp. Tuy nhiên, hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng

dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang lại bỏ qua yếu tố quan trọng này.

“- Ngƣời dân thƣờng phản hồi nhƣ thế nào sau các chƣơng trình truyền

thông vậy anh?

- Bình thƣờng.

- Tức là ngƣời dân phản hồi tốt hay chƣa tốt về các chƣơng trình truyền

thông phòng chống HIV/AIDS của mình ạ?

- Thật ra là bọn anh thực hiện truyền thông xong là thôi mà em. Báo cáo

với tuyến trên thì có chứ bọn anh không hỏi ý kiến phản hồi của ngƣời dân.

Nhƣng ngƣời dân họ cũng không có ý kiến ý cò gì đâu”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 14-TX, nam, 37 tuổi)

Trích đoạn phỏng vấn sâu phần nào cho chúng ta thấy tình trạng cán bộ truyền

thông và đơn vị truyền thông đang bỏ qua khâu thu nhận ý kiến phản hồi của ngƣời

dân tộc thiểu số tại địa phƣơng về các chƣơng trình truyền thông phòng chống

57

HIV/AIDS. Đáng chú ý là không chỉ khâu tiếp nhận ý kiến phản hồi của ngƣời dân

địa phƣơng (đối tƣợng mục tiêu) vẫn chƣa đƣợc thực hiện mà có vẻ nhƣ các cán bộ

truyền thông (nguồn) có khuynh hƣớng tráo lộn trách nhiệm giữa “ngƣời làm truyền

thông” và “ngƣời đƣợc truyền thông” (đối tƣợng mục tiêu). Cụ thể, cán bộ truyền

thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên

Quang là ngƣời chịu trách nhiệm cho việc thực hiện chƣơng trình truyền thông, bao

gồm cả hoạt động lấy ý kiến phản hồi của ngƣời dân. Việc ngƣời dân chƣa đƣa ra

phản hồi không có nghĩa là ngƣời dân không có sự phản hồi. Và đặc biệt, không thể

“đẩy” trách nhiệm phản hồi cho ngƣời dân. Ngƣời dân địa phƣơng đƣợc coi là đối

tƣợng mục tiêu, tức là những ngƣời “thụ hƣởng” quyền lợi từ chƣơng trình truyền

thông. Còn cán bộ truyền thông là ngƣời chịu trách nhiệm về tính hiệu quả của

chƣơng trình truyền thông, và để đánh giá tính hiệu quả đó thì cán bộ truyền thông

có trách nhiệm cần phải lấy ý kiến phản hồi của ngƣời dân về chƣơng trình truyền

thông. Thế nhƣng, thái độ đánh đồng chuyện ngƣời dân “chƣa đƣa ra ý kiến phản

hồi” với việc ngƣời dân “không có ý kiến phản hồi” là tráo đổi trách nhiệm giải

trình một cách khôn khéo. Từ những diễn giải trên, đồng thời dựa trên mô hình về

truyền thông của Claude Shannon, tôi phác họa quy trình truyền thông phòng chống

HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang nhƣ sau:

Sơ đồ 2: Quy trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân

tộc thiểu tố tại tỉnh Tuyên Quang

N

S

C

R

E

M

F

58

Quan sát sơ đồ 2 trên đây, chúng ta có thể thấy quy trình truyền thông phòng

chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang đã có các

yếu tố S (Source, Sender) chính là nguồn phát thông điệp truyền thông hay còn gọi

là chủ thể truyền thông; M (Message) là thông điệp, nội dung truyền thông; C

(Chanel) là kênh truyền thông; R (Receiver) là ngƣời nhận thông điệp (đối tƣợng);

N (Noise) là nhiễu (yếu tố gây ra sai số cản trở thông điệp). Tuy nhiên, hai yếu tố là

E (Effect) - Hiệu quả truyền thông và F (Feedback) - Sự phản hồi, thì lại nằm ngoài

quy trình truyền thông, không có sự liên kết với các yếu tố khác trong quy trình

truyền thông. Trong khi đó, yếu tố đánh giá hiệu quả (E) và thu nhận sự phản hồi

(F) lại đóng vai trò quan trọng trong việc tái thiết lập chƣơng trình truyền thông.

Hai yếu tố này giúp cho đơn vị truyền thông và cán bộ truyền thông có thể xác định

rõ ràng hơn về sự phù hợp giữa nguồn truyền thông, thông điệp truyền thông với

đối tƣợng mục tiêu nhận thông điệp truyền thông. Trong trƣờng hợp có sự không

phù hợp, việc điều chỉnh nguồn và điều chỉnh thông điệp truyền thông sẽ giúp tăng

tính hiệu quả của chƣơng trình truyền thông.

3.2.5. Tình trạng kiêm nhiệm trong phân bổ cán bộ

Qua các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung, tôi thấy tình trạng một

cán bộ truyền thông cấp cơ sở thôn xã (ngƣời trực tiếp thực hiện hoạt động truyền

thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số) phải kiêm nhiệm

quá nhiều nội dung và lĩnh vực truyền thông. Điều này dƣờng nhƣ phản ánh thực

trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ chuyên môn về y tế và truyền thông làm việc tại

các cơ sở thôn xã (Bộ Y tế, 2014). Mặc dù trong luận văn này tôi gọi chung những

ngƣời làm công tác truyền thông tại cơ sở thôn/xã là “cán bộ truyền thông”, nhƣng

trên thực tế họ không đƣợc gọi tên chính thức là “cán bộ truyền thông” mà đƣợc gọi

là “cộng tác viên truyền thông”. Bởi họ vốn là cán bộ chuyên môn thuộc một

ban/ngành/đoàn thể khác: Cán bộ y tế, cán bộ hội phụ nữ, cán bộ đoàn thanh niên…

Nhƣ đề cập ở chƣơng một luận văn, cán bộ truyền thông cấp cơ sở thôn xã chủ

yếu là cán bộ y tế, cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản

59

Hồ Chí Minh. Khi nhận đƣợc kế hoạch chỉ đạo từ tuyến trên, thì họ sẽ tổ chức các

cuộc họp cộng đồng hoặc đến tận nhà ngƣời dân để phát tài liệu, tuyên truyền kiến

thức phòng chống HIV/AIDS theo hƣớng dẫn. Điều đáng nói là vẫn những cán bộ

ấy, sẽ lại là ngƣời tổ chức họp hoặc đến từng nhà ngƣời dân để tuyên tuyền về sức

khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, bảo hiểm y tế, vấn đề dinh dƣỡng cho trẻ em,

phòng bệnh lây nhiễm theo mùa… Tức là xảy ra tình trạng một cán bộ nhƣng lại

làm công tác truyền thông cho nhiều ban ngành khác nhau. Trích dẫn phỏng vấn sâu

dƣới đây giúp mô tả thực tiễn này:

“Bọn chị làm tuốt. Tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình, mỗi nhà sinh hai

con, cho đến sức khỏe phụ khoa, sinh đẻ, chống bạo lực gia đình”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 17-TX, nữ, 33 tuổi)

“- Có khi bọn em cũng ghép các nội dung vào với nhau. Nhƣ là hƣớng

dẫn sử dụng bao cao su tránh thai thì tuyên tuyền luôn cả mỗi gia đình nên đẻ

ít con để không vất vả.

- Tức là đoàn thanh niên các em tuyên truyền cả về sức khỏe sinh sản, kế

hoạch hóa gia đình?

- Vầng. Tất anh ạ. Mà có khi cái đó ngƣời ta còn quan tâm hơn cả HIV”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 18-TX, nữ, 16 tuổi)

Có thể thấy một cán bộ truyền thông kiêm nhiệm nhiều vấn đề khác nhau từ

dân số, kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh sản cho đến bạo lực gia đình. Tình

trạng quá tải này khiến các cán bộ thƣờng ít có cơ hội nắm bắt kiến thức sâu về

những nội dung công việc mà họ đảm nhiệm. Chƣa kể rằng, bản thân cán bộ truyền

thông cấp cơ sở thôn xã không phải là đội ngũ nhân viên y tế đƣợc đào tạo bài bản

(chủ yếu là trình độ trung cấp hoặc thậm chí mới ở mức sơ cấp), cũng không phải là

đội ngũ đƣợc đào tạo truyền thông chuyên nghiệp (vấn đề này sẽ đƣợc tôi bàn kỹ

hơn trong chƣơng sau). Việc kiêm nhiệm truyền thông cho nhiều vấn đề cùng lúc

nhƣ trên có thể khiến cán bộ cấp cơ sở dễ phạm sai sót khi triển khai các hoạt động

truyền thông. Một cán bộ cơ sở chia sẻ trải nghiệm công việc:

“- Đã có lần nào các em bị nhầm lẫn khi mà phải phụ trách truyền thông

60

nhiều nội dung nhƣ vậy?

- Nhầm thì không nhƣng mà thật ra đôi khi bọn em tuyên truyền nhƣng

cũng không biết nó có đúng không.

- Tức là các em nghi ngờ nó sai nhƣng vẫn truyền thông hả?

- Vâng. Thì tài liệu với kế hoạch thế nào thì bọn em làm theo thôi. Đã in

thành tài liệu thì chắc nó đúng.

- Ví dụ cho anh một trƣờng hợp mà em thấy thông tin truyền thông có vẻ

không đúng đƣợc không?

- Ví dụ à? Nhƣ là bảo muỗi đốt không lây truyền HIV ấy. Em không

đƣợc tin lắm. Có khi chỉ là nói vậy cho ngƣời dân đỡ sợ thôi”

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 18-TX, nữ, 16 tuổi)

Trích đoạn phỏng vấn sâu nói trên khẳng định sự thiếu hụt các hiểu biết và

kiến thức cần thiết ở chính đội ngũ cán bộ truyền thông. Trong bối cảnh bản thân nữ

cán bộ truyền thông này cũng “nghi ngờ” chính những thông điệp mà mình truyền

tải nhƣ vậy, thì liệu rằng công tác truyền thông đạt đƣợc mức độ hiệu quả đến đâu.

Rõ ràng, trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực có trình độ chuyên môn về y tế và

truyền thông làm việc tại các cơ sở thôn xã nhƣ hiện nay thì tình trạng kiêm nhiệm

của cán bộ truyền thông đƣợc xem là cách thích ứng tích cực với các khó khăn

mang tính khách quan (Bộ Y tế, 2014). Thế nhƣng, đội ngũ cán bộ truyền thông ít

nhất cũng phải đƣợc đào tạo để nắm vững các kiến thức cơ bản về nội dung truyền

thông họ sẽ đảm nhiệm.

3.2.6. Ùn đẩy trách nhiệm hay phối hợp liên ngành lỏng lẻo

Để thực hiện tốt công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng

đồng dân tộc thiểu số, đòi hỏi sự quyết tâm của không chỉ một mình cán bộ y tế mà

còn cần có sự tham gia của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Nhiều nghiên cứu và

kinh nghiệm thực tế chứng minh, sự phối hợp giữa các cấp và các ban ngành khác

nhau là tiền đề cho việc truyền thông toàn diện và hiệu quả (Hà An, 2014). Tuy

nhiên, trong quá trình phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung tôi thấy rằng sự

phối hợp của cán bộ truyền thông giữa các cấp, các ban/ngành khác nhau tại tỉnh

61

Tuyên Quang còn hết sức mờ nhạt.

Trƣớc hết là xu hƣớng “ùn đẩy” trách nhiệm giữa cán bộ truyền thông ở các

ban ngành khác nhau.

“- Y: Chị nghĩ là cái này em nên hỏi anh X kìa. Vấn đề phòng chống HIV

trong đồng bào hay ở chỗ nào thì cũng phải là bên anh ấy. Bên chị chủ yếu

thực hiện công tác liên quan đến xây dựng văn bản với quản lý nhân khẩu về

đồng bào thôi.

- X: Ô đừng đá cái quả bóng đấy cho anh nhé. Cô buồn cƣời thế. Rõ ràng

có hẳn cái trung tâm y tế đấy còn gì. Anh Z giúp em ấy đi (ý nói cán bộ Z là

giúp tác giả có đƣợc các thông tin liên quan đến phòng chống HIV/AIDS ở địa

phƣơng)

- Z: Ừ là bên anh chịu trách nhiệm chính toàn bộ về vấn đề này. Còn có

bên chị Q, em K nữa.

- K: Vâng. Chị Q hôm nay nhà có giỗ nên không đến. Nhƣng bọn em chỉ

lăng xăng thôi, chứ bên anh Z vẫn là chính.”.

(Thảo luận nhóm, cán bộ truyền thông, MS 02-H, LB, nhóm 4 ngƣời)

Trong các kế hoạch gửi về tuyến huyện và thôn/xã đều ghi rõ cần có sự phối

hợp với các ban ngành khác nhau. Tuy nhiên, sự phối hợp của cán bộ truyền thông

ở các ban ngành là chƣa chặt chẽ. Cán bộ Y trong thảo luận nhóm trên đây thuộc

đơn vị quản lý công tác dân tộc tại địa phƣơng. Cán bộ Y không thừa nhận rằng

mình có trách nhiệm liên quan đến hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS

trong cộng đồng dân tộc thiểu số, và khẳng định là đơn vị mình chủ yếu có trách

nhiệm “quản lý nhân khẩu”, “xây dựng văn bản” về đối tƣợng là ngƣời dân tộc

thiểu số. Thái độ này thể hiện sự “ùn đẩy” trách nhiệm. Vì rằng ngay cả khi có lực

lƣợng y tế chuyên nghiệp có kiến thức chuyên sâu về HIV/AIDS hay là có một đội

ngũ chuyên nghiệp về truyền thông thì họ thƣờng không phải là những ngƣời tƣờng

tận nhất về tình hình dân tộc thiểu số tại địa phƣơng. Nơi lƣu trữ nhiều tƣ liệu nhất

và cập nhật các thông tin về ngôn ngữ, phong tục tập quán, địa bàn sinh sống, các

đặc điểm nhân khẩu học của đồng bào dân tộc thiểu số thƣờng do đơn vị quản lý

62

công tác dân tộc. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu có thể thiết kế một chƣơng trình truyền

thông hiệu quả khi mà đơn vị đảm trách về đối tƣợng truyền thông đích lại đứng

ngoài quá trình đó?

Vẫn trong thảo luận nhóm tập trung nói trên, cán bộ X phụ trách mảng văn

hóa – thông tin, cũng không thừa nhận trách nhiệm của ngành mình trong hoạt động

truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân tộc thiểu số. Nếu xét về

khía cạnh truyền thông, thì cán bộ X là cán bộ chuyên trách về chức năng truyền

thông (in ấn, phát hành, chuyển giao các tài liệu, ấn phẩm văn hóa, thông tin). Nhƣ

vậy, rõ ràng cán bộ X cùng đơn vị liên quan đến công tác văn hóa – thông tin cần có

sự phối hợp với trung tâm y tế để thực hiện công tác truyền thông phòng chống

HIV/AIDS. Khi có sự tham gia của đội ngũ có chuyên môn về văn hóa – thông tin

tuyên truyền sẽ giúp đa dạng hóa các hình thức truyền thông, đảm bảo sự thu hút

của thông điệp truyền thông với đối tƣợng mục tiêu. Nhƣng cán bộ X lại phủ nhận

điều này và coi đó là việc “đá quả bóng” cho mình. Và liền sau đó cán bộ X chuyển

“quả bóng” ấy sang cho cán bộ Z.

Cán bộ Z trong thảo luận nhóm tập trung nói trên là đại diện ngành y tế. Cán

bộ Z khẳng định mình cùng với cán bộ K (cán bộ đoàn thanh niên) và cán bộ Q (cán

bộ hội phụ nữ) có trách nhiệm chính trong việc truyền thông phòng chống

HIV/AIDS. Điều này là hoàn toàn bám sát nội dung các văn bản chỉ đạo, kế hoạch

truyền thông và đúng với thực tế tại các địa phƣơng mà tôi đã điền dã. Tuy nhiên,

nếu chỉ có 3 đơn vị của cán bộ Z, cán bộ K và cán bộ Q tham gia vào quá trình

truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số thì rõ ràng

cần đặt ra câu hỏi về tính hiệu quả. Trong quá trình điền dã tại các thôn bản ở địa

phƣơng, tôi thấy có những hộ gia đình chƣa từng tham gia vào một cuộc hội họp

thôn xã truyền thông về HIV/AIDS bao giờ. Thậm chí các hộ dân này chƣa từng

nhìn thấy hoặc chƣa từng đƣợc phát tài liệu tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS.

Tình trạng này khá phổ biến ở những địa phƣơng vùng cao nơi hệ thống giao thông

đƣờng bộ còn chƣa đƣợc nâng cấp, hệ thống điện chiếu sáng chƣa ổn định, mạng

63

điện thoại chƣa phủ sóng hết.

Thái độ “ùn đẩy” trách nhiệm trên còn thể hiện tình trạng phối kết hợp không

chặt chẽ giữa các cấp và các ban ngành khác nhau xoay quanh hoạt động truyền

thông phòng chống HIV/AIDS tại địa phƣơng.

“- Tôi: Em có đọc các văn bản, kế hoạch truyền thông HIV/AIDS thấy có

nêu tên rất nhiều đơn vị liên quan đến việc tổ chức các hoạt động truyền thông.

Vậy các đơn vị trong huyện có thƣờng xuyên họp mặt để trao đổi, bàn bạc

không ạ?

- Z: Ít em ạ.

- K: Thật ra không phải là ít mà cũng chƣa có cơ hội ngồi lại với nhau thế

này bao giờ. Thƣờng các văn bản, kế hoạch chuyển xuống cũng sát ngày anh ạ.

Đơn vị nào có tên thì triển khai thôi, còn hỏi han với bàn bạc gì nữa anh?

- Tôi: Vậy mình có thƣờng xuyên xuống tuyến thôn bản giao lƣu và họp

mặt về vấn đề truyền thông HIV/AIDS không anh Z, chị K?

- Z: Bên anh nhận kế hoạch hay tài liệu văn bản gì ở tuyến trên gửi chỉ

đạo thì chuyển xuống cho tuyến dƣới để họ phổ biến cho ngƣời dân. Vậy thôi

chứ họp hành với nhau về vấn đề này thì không có. Còn anh em thì vẫn giao

lƣu bình thƣờng mà, có khi giao lƣu còn không về đƣợc (ý nói giao lƣu ở đây

là ăn cơm và uống rƣợu cùng nhau).

- K: Bọn em cũng nhƣ bên anh Z thôi ạ”.

(Thảo luận nhóm, cán bộ truyền thông, MS 02-H, LB, nhóm 4 ngƣời)

Đoạn trích thảo luận nhóm phần nào thể hiện sự kết hợp theo cả ngành dọc lẫn

liên ngành trong công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại địa phƣơng

nghiên cứu còn nhiều khoảng trống. Theo thông tin mà cán bộ Z và cán bộ K cung

cấp thì chƣa bao giờ có một cuộc họp giữa các ban ngành để cùng bàn bạc, thảo

luận kế hoạch truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu

số; cũng chƣa bao giờ có một cuộc họp giữa cán bộ truyền thông các cấp để thảo

luận, xây dựng kế hoạch cho hoạt động này. Sự chuyển giao công việc giữa các cấp

mang tính cứng nhắc khi chỉ đơn thuần là “nhận kế hoạch hay tài liệu văn bản gì ở

64

tuyến trên gửi chỉ đạo thì chuyển xuống cho tuyến dƣới để họ phổ biến cho ngƣời

dân”, trong khi mỗi địa phƣơng lại có những đặc thù. Việc chuyển tài liệu từ tuyến

trên gửi xuống cho tuyến dƣới một cách đơn thuần, không hề có điều chỉnh hay đề

xuất vận dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình địa phƣơng rõ ràng

mang nặng tính rập khuân. Đặc biệt, khi nhận văn bản và kế hoạch truyền thông từ

tuyến trên chuyển xuống thì lại tiếp tục xảy ra tình trạng “đơn vị nào có tên thì triển

khai thôi” nhƣ cán bộ K chia sẻ trong buổi thảo luận nhóm tập trung. Điều này dẫn

đến các hoạt động đƣợc triển khai manh mún, riêng lẻ thay vì một kế hoạch chỉ đạo

nhất quán.

Tiểu kết chƣơng 3

Những phân tích từ trả lời của cán bộ truyền thông trong chƣơng 3 cho thấy từ

chủ trƣơng cho đến thực tiễn truyền thông tại địa phƣơng có những mâu thuẫn lớn.

Mặc dù luôn nhấn mạnh cần chú ý công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở

cộng đồng dân tộc thiểu số trong các bản kế hoạch lƣu trữ ở các đơn vị hữu quan

nhƣng thực tế lại chƣa có sự quan tâm sát sao. Các kết quả nghiên cứu cho thấy

những thực hành bất hợp lý của cán bộ truyền thông mà điển hình là thực hành gán

nhãn hình ảnh ngƣời có HIV/AIDS và diễn ngôn về tệ nạn xã hội. Xem xét từ mô

hình truyền thông của Claude Shannon, có thể thấy nhiều yếu tố còn chƣa đƣợc

thực hiện tại địa phƣơng nghiên cứu. Cụ thể là hoạt động đánh giá hậu truyền thông

(Effect) bị bỏ ngỏ, đồng thời cũng thiếu vắng việc thu thập ý kiến phản hồi từ ngƣời

dân (Feedback). Những bất cập này diễn ra trong bối cảnh nguồn nhân lực truyền

thông có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở còn hết sức thiếu thốn và phân bổ không

đồng đều, thể hiện rõ ràng qua thực trạng phải kiêm nhiệm “quá tải” của cán bộ

truyền thông. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy dấu hiệu của tình trạng ùn đẩy

trách nhiệm hay phối hợp lỏng lẻo của các ban ngành hữu quan. Những phân tích từ

góc độ “nguồn” trong chƣơng này cùng những phân tích từ góc nhìn ngƣời dân

trong chƣơng 2 gợi mở về các rào cản và thách thức đối với cả cán bộ truyền thông

65

và ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng.

Chƣơng 4: RÀO CẢN VÀ THÁCH THỨC – BÀI TOÁN KHÓ CHO

NGƢỜI DÂN VÀ CÁN BỘ TRUYỀN THÔNG

Trong chƣơng này, tôi đi vào tìm hiểu các rào cản hiện tại đối với sự tiếp cận

của ngƣời dân địa phƣơng cũng nhƣ những thách thức từ phía nhà cung cấp dịch vụ

truyền thông khi thực hiện các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS

trong cộng đồng dân tộc thiểu số.

4.1. Rào cản của ngƣời dân khi tiếp cận các chƣơng trình truyền thông

4.1.1. Rào cản ngôn ngữ

Trong quá trình nghiên cứu thực địa, tôi quan sát đƣợc rằng một trong những

khó khăn lớn nhất của ngƣời dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang khi tiếp cận các

chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS nằm ở vấn đề bất đồng ngôn

ngữ. Tại các thôn bản, tiếng (nhóm) tộc ngƣời địa phƣơng vẫn là công cụ giao tiếp

chính hàng ngày. Quan sát biểu đồ sau chúng ta có thể thấy rõ đƣợc điều đó:

Biểu đồ 1: Tỷ lệ giao tiếp bằng ngôn ngữ địa phƣơng và ngôn ngữ phổ thông

của cộng đồng dân tộc thiểu số nghiên cứu

Số liệu trong biểu đồ 1 đƣợc mã hóa từ dữ liệu bảng hỏi ngƣời dân tộc thiểu số tại

66

địa phƣơng do tác giả thực hiện. Có tới 78% ngƣời dân giao tiếp bằng tiếng dân tộc

của mình (tiếng địa phƣơng) nhiều hơn tại nơi họ sinh sống; gần 16% ngƣời dân

giao tiếp bằng cả tiếng dân tộc mình và tiếng Việt (tiếng phổ thông hay còn gọi là

tiếng Kinh, tiếng Việt) tại thôn bản của mình; và có khoảng 6% ngƣời dân sử dụng

tiếng Việt để giao tiếp nhiều hơn tại cộng đồng mà họ sinh sống. Nhƣ vậy, rõ ràng

tỷ lệ ngƣời dân sử dụng tiếng dân tộc của mình để giao tiếp tại địa phƣơng chiếm tỷ

lệ khá lớn. Tiếng Việt cũng đã đƣợc phổ cập trong cộng đồng dân tộc thiểu số.

Nhiều ngƣời đã có khả năng sử dụng thành thạo tiếng Việt nên họ có thể kết hợp sử

dụng cả tiếng phổ thông và tiếng địa phƣơng trong giao tiếp. Thậm chí, một số bộ

phận ngƣời dân cho biết là sử dụng tiếng Việt nhiều hơn tiếng địa phƣơng tại cộng

đồng mà họ sinh sống. Tuy nhiên, số lƣợng sử dụng tiếng địa phƣơng để giao tiếp

hàng ngày vẫn chiếm đa số. Có khoảng 6% đáp viên cho biết không có khả năng

giao tiếp bằng tiếng Việt

Trong khi đó, toàn bộ tài liệu truyền thông lại đều đƣợc phát hành bằng tiếng

Việt. Khảo sát nhanh các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/ADIS mà các đơn

vị truyền thông cũng nhƣ ngƣời dân địa phƣơng cung cấp, tôi chƣa thấy có bất kỳ

văn bản tài liệu nào đƣợc viết bằng tiếng tộc ngƣời (địa phƣơng). Các băng rôn,

khẩu hiệu, pa nô, áp phích thƣờng đƣợc thiết kế với kích thƣớc phóng to và bắt mắt

nhƣng cũng không có trƣờng hợp nào sử dụng tiếng địa phƣơng để truyền tải nội

dung truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Điều này đƣơng nhiên sẽ khiến cho

việc đọc và hiểu các tài liệu truyền thông của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng

bị hạn chế rất nhiều. Một số ngƣời dân bộc lộ khả năng nghe và nói tiếng Việt

thành thạo nhƣng không thể đọc hoặc viết tiếng Việt lƣu loát. Đáng chú ý là cũng có

nhiều ngƣời địa phƣơng dù thành thạo cả bốn kỹ năng nghe nói đọc viết tiếng Việt

nhƣng lại không hào hứng tìm đọc các tài liệu truyền thông phòng chống

HIV/AIDS tiếng Việt.

“- Nhiều khi nhận thì cũng đọc nhƣng cũng có khi không đọc.

- Chị có hiểu hết các thông tin trong những tài liệu đó không ạ?

67

- Cũng không. Cũng hiểu ít thôi.

- Chị không đọc tiếng Việt thành thạo nhƣ vậy thì làm cách nào để đọc

đƣợc những tài liệu này?

- Cũng có con gái. Nhờ nó đọc vì nó cũng đọc đƣợc”.

(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 19-LB, nữ, dân tộc Hmông, 29 tuổi)

Rào cản ngôn ngữ thƣờng hạn chế khả năng tiếp cận thông tin truyền thông ở

ngƣời dân tộc thiểu số đƣợc xem là khá phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở

nhiều nƣớc trên thế giới. Nhiều nghiên cứu ở cả trong và ngoài nƣớc nhận định, rào

cản ngôn ngữ đối với ngƣời dân tộc thiểu số không chỉ thể hiện qua việc thâu nhận

các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS mà cả trong việc họ tiếp cận

các dịch vụ giáo dục, y tế, xã hội khác. Jirakun (1993) trong một nghiên cứu đã đƣa

ra báo cáo về tình trạng những ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số Lào di cƣ tới vùng

nông thôn phía Bắc của đất nƣớc Thái Lan không thể giao tiếp bằng tiếng Thái thì

có nhận thức rất thấp về HIV/AIDS; các thông tin truyền thông về HIV/AIDS vì thế

cũng chủ yếu chỉ tập trung tại thành thị và trƣờng học, nơi mà tiếng phổ thông của

Thái Lan đƣợc sử dụng rộng rãi (Jirakun, 1993). Ở Việt Nam, nghiên cứu của

Nguyễn Thùy Dƣơng (2010) về tác động của truyền thông đại chúng tới nhận thức

về HIV/AIDS của đồng bào dân tộc Dao tại Yên Bái cũng cho thấy những ngƣời

Dao có khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt thì khả năng nhận thức đúng về

HIV/AIDS cao gấp gần 3 lần so với ngƣời Dao không có khả năng này. Hơn thế số

ngƣời Dao cho biết sử dụng tiếng Việt thành thạo từng nghe về HIV/AIDS thƣờng

xuyên hơn số ngƣời Dao không giao tiếp bằng tiếng Việt đƣợc (Phan Thị Thu

Hƣơng, 2010).

Trở lại trƣờng hợp ngƣời dân tộc Hmông và ngƣời dân tộc Tày tại hai huyện

Yên Sơn và Lâm Bình, trong số gần 6% đáp viên cho biết không thể giao tiếp bằng

tiếng Việt thì đa phần họ nhờ con em trợ giúp đọc hiểu các tài liệu này. Bởi lẽ trẻ

em địa phƣơng đều đƣợc phổ cập tiểu học và có khả năng đọc viết tiếng Việt thành

thạo. Tuy nhiên thông tin truyền thông gián tiếp nhƣ vậy dễ có khả năng tạo ra

68

những sai lệch, hoặc không thích hợp khiến ngƣời dân giảm hứng thú theo dõi.

“- Cũng có mấy lần họ (ý chỉ ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng) hỏi

về việc tại sao lại phát toàn tài liệu tiếng Kinh đấy.

- Vậy anh trả lời những trƣờng hợp đó nhƣ thế nào ạ?

- Thì bảo bên trên gửi xuống nhƣ thế nào thì có vậy chứ có “đẻ” ra đƣợc

mấy cái tài liệu đấy đâu”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 34-TX, nam, 35 tuổi)

Có thể thấy rằng, chƣơng trình truyền thông đƣợc thực hiện trong cộng đồng

dân tộc thiểu số nhƣng lại sử dụng tài liệu ấn hành bằng tiếng phổ thông thì đó là

một bất cập lớn. Nó khiến cho ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng hoặc là không

thể đọc – hiểu đƣợc, hoặc là đọc nhƣng không hiểu, và cũng xảy ra cả tình trạng đọc

hiểu đƣợc nhƣng không hào hứng với các tài liệu tiếng Việt.

Ngoài ra, số liệu từ phần trả lời phỏng vấn bảng hỏi của nhóm mẫu cán bộ

truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại tỉnh Tuyên Quang cũng cho thấy thái độ

“lừng chừng” của họ trong việc tham gia thiết kế, xây dựng những tài liệu nhƣ vậy.

Trong bảng hỏi phỏng vấn cán bộ truyền thông, tôi đƣa ra hai câu hỏi cụ thể: (1) Ý

kiến của cán bộ truyền thông về sự cần thiết phải có các tài liệu truyền thông bằng

tiếng địa phƣơng? và (2) Nếu tổ chức một chƣơng trình về việc thiết kế, xây dựng

các tài liệu truyền thông sử dụng tiếng địa phƣơng thì cán bộ truyền thông có sẵn

sàng tham gia không? Với tình huống đƣa ra, dữ liệu từ phần trả lời của cán bộ

69

truyền thông đƣợc biểu hiện ở biểu đồ 2 sau đây với những mâu thuẫn rõ ràng.

Biểu đồ 2: Tỷ lệ tƣơng quan về tính cần thiết và sự sẵn sàng tham gia xây dựng

tài liệu truyền thông tiếng địa phƣơng của đối tƣợng nghiên cứu cán bộ

truyền thông

85,7%

14.3%

Biểu đồ 2 cho thấy có đến 86% cán bộ truyền thông tại tỉnh Tuyên Quang

tham gia nghiên cứu tán đồng phải có các tài liệu truyền thông phòng chống

HIV/AIDS đƣợc thiết kế bằng tiếng địa phƣơng, và khoảng 14% bày tỏ suy nghĩ

không nhất thiết phải có. Điểm mâu thuẫn ở đây là trong gần 86% cán bộ truyền

thông đồng ý rằng cần có các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS đƣợc

viết bằng tiếng địa phƣơng, thì chỉ có khoảng 12% sẵn sàng tham gia vào việc thiết

kế, xây dựng các tài liệu này; còn đến tới 50% không quả quyết khả năng tham gia

và có gần 24% khẳng định chắc chắn sẽ không liên đới. Có thể thấy, điểm mâu

70

thuẫn chính là việc phần lớn cán bộ truyền thông đều cho rằng cần thiết phải thiết

kế các tài liệu truyền thông bằng tiếng địa phƣơng, nhƣng nếu có một chƣơng trình

thiết kế tài liệu bằng tiếng địa phƣơng họ lại không sẵn sàng tham gia vào quá trình

đó. Nhƣ vậy, ngoài việc chúng ta khẳng định ngôn ngữ là một rào cản lớn đối với

ngƣời dân tộc thiểu số trong việc tiếp cận thông tin truyền thông phòng chống

HIV/AIDS, cần thiết phải có các tài liệu truyền thông sử dụng tiếng địa phƣơng, thì

một vấn đề nữa cần đƣợc xem xét đó chính là nhiệt huyết tham gia hỗ trợ quá trình

thiết kế những tài liệu này từ phía cán bộ truyền thông.

4.1.2. Đa dạng tên gọi địa phƣơng về HIV/AIDS

Nhƣ đã trình bày ở những phần trƣớc, các tài liệu truyền thông phòng chống

HIV/AIDS thƣờng đƣợc chuyển từ tuyến trên xuống và cán bộ truyền thông tuyến

dƣới có trách nhiệm tuyên truyền thông tin tới ngƣời dân tộc thiểu số tại địa

phƣơng. Tuy nhiên, do các tài liệu truyền thông này đƣợc thiết kế bởi những cán bộ

truyền thông “ở ngoài” cộng đồng dân tộc thiểu số tại địa phƣơng và tài liệu thƣờng

đƣợc dùng chung cho tất cả mọi đối tƣợng nên các từ ngữ đƣợc sử dụng bằng tiếng

phổ thông. Trong quá trình điền dã tại địa phƣơng tôi nhận thấy ngƣời dân tộc thiểu

số sử dụng nhiều tên gọi khác nhau để ám chỉ HIV/AIDS.

Thời gian đầu gặp gỡ hỏi chuyện ngƣời dân tại các địa phƣơng nghiên cứu, tôi

thấy không ít ngƣời “không hiểu” những nội dung tôi trao đổi. Họ không biết tôi

đang nhắc tới loại bệnh gì, đặc biệt là những ngƣời dân trên 35 tuổi. Đƣợc cộng sự

địa phƣơng gợi ý, tôi nhắc đến các từ “kim la” và “si đa”. Và đến lúc đó những

ngƣời dân đối thoại với tôi mới nhận ra chủ đề về HIV/AIDS. Mọi ngƣời giải thích

cho tôi rằng trong cộng đồng họ thƣờng gọi HIV/AIDS là “Si Đa” hoặc “Kim La”.

Từ thứ nhất Si Đa là cách gọi cũ, còn từ thứ hai Kim la thì rõ ràng không phải là từ

chuyên môn y khoa. Các cán bộ truyền thông tại những địa phƣơng này cũng chia

sẻ rằng họ thƣờng dùng các từ nhƣ kim la và si đa để truyền thông về HIV/AIDS.

“- Thì ngƣời ta quen gọi là kim la hoặc là si đa. Mình đi nói là HIV với

AIDS thì họ khó hiểu rồi. Nên bọn anh cũng gọi là kim la hoặc si đa cho ngƣời

ta dễ hiểu.

- Nhƣng trong các tờ gấp bƣớm và tài liệu phát tay thì vẫn ghi là

71

HIV/AIDS mà anh?

- Ôi xồi. Cái tài liệu nhiều khi cũng đem đi cho oai vậy chứ phát chƣa

chắc họ đã lấy, đã đọc đâu. Nhiều ngƣời họ lấy xong họ đƣa trả lại mình luôn

ấy mà”.

(Cán bộ truyền thông, MS 15-TX, nam, 32 tuổi)

Ở đây, chúng ta cần hiểu định nghĩa chính xác của các từ “si đa” và “kim la”

mà ở một số nơi ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng sử dụng để gọi tên

HIV/AIDS. Si đa (SIDA) đúng là tên gọi khoa học để chỉ bệnh HIV/AIDS, nhƣng

đó là cách gọi tên đƣợc sử dụng từ rất lâu trƣớc đây. Từ SIDA đƣợc viết tắt từ tiếng

Pháp Syndrome d'Immuno Deficience Acquise, đƣợc hiểu là Hội chứng suy giảm

miễn dịch mắc phải. Nhƣng cách gọi tên SIDA này lại trùng với tên của Cơ quan

Phát triển Quốc tế Thụy Điển (The Swedish International Development Cooperation

Agency, viết tắt là SIDA) và tên của Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (The

Canadian International Development Agency, viết tắt là CIDA). Cơ quan Phát triển

Quốc tế Thụy Điển (nguyên tiếng là Styrelsen för Internationellt

Utvecklingssamarbete) là một tổ chức chính phủ trực thuộc Bộ Ngoại giao Thụy

Điển, có trách nhiệm quản lý những hỗ trợ chính thức của Thụy Điển cho các quốc

gia đang phát triển. Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (The Canadian

International Development Agency) cũng là tổ chức quản lý hoạt động hỗ trợ chính

thức của Canada cho các nƣớc đang phát triển, là đầu mối liên kết với các tổ chức

hoạt động vì sự phát triển khác của Canada hoặc có trụ sở tại Canada. Đây là hai tổ

chức có quy mô lớn và đƣợc biết đến ở rất nhiều nƣớc trên khắp thế giới. Vì vậy,

khi sử dụng cách gọi tên SIDA để nói về bệnh HIV/AIDS thì thƣờng bị nhầm lẫn

với tên gọi của hai tổ chức này. Từ lý do đó mà giới chuyên môn đã gọi Hội chứng

suy giảm miễn dịch mắc phải là AIDS, viết tắt của cụm từ tiếng Anh Acquired

Immuno Deficiency Syndrom, để phân biệt với tên gọi của Cơ quan Phát triển Quốc

tế Thụy Điển và Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (VAAC, 2009).

Còn “kim la” thì không phải là từ chuyên môn đƣợc sử dụng để gọi tên Hội

chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Từ kim la đƣợc sử dụng phổ biến trong giới y

72

học cũng nhƣ trong xã hội nói chung để chỉ những ngƣời có hành vi lệch lạc về tình

dục. Tuy nhiên, lệch lạc tình dục lại là một bệnh lý rất phức tạp. Nội hàm của bản

thân từ kim la chƣa diễn đạt hết nội dung của bệnh lý này. Lệch lạc tình dục (tiếng

Anh: Paraphilia) là một bệnh lý tâm thần liên quan đến hành vi tình dục bất thƣờng,

có biểu hiện bằng sự say mê tìm kiếm một phƣơng thức hoạt động tình dục đặc biệt,

không đƣợc chấp nhận và tiềm ẩn nguy cơ gây đau khổ, nhằm đạt đƣợc sự cực

khoái thay vì hình thức giao hợp bình thƣờng (Ngô Văn Lƣơng, 2012). Và lệch lạc

tình dục đƣợc phân chia thành hai nhóm bao gồm: Lệch lạc đối tƣợng và lệch lạc

mục tiêu. Trong đó, lệch lạc đối tƣợng bao gồm hành động Ấu dâm (Ham thích tình

dục hƣớng tới đối tƣợng là trẻ em), Ái lão (Ham thích tình dục hƣớng tới đối tƣợng là

ngƣời già), Ái vật (Thỏa mãn tình dục với các đồ vật vô tri vô giác), Ái tử thi (Thỏa

mãn tình dục đối với các xác chết), Ái thú (Thỏa mãn tình dục bằng cách quan hệ với

động vật). Còn lệch lạc mục tiêu đƣợc phân loại bao gồm Ác dâm (Thỏa mãn tình dục

khi gây đau đớn về thể xác hay tinh thần cho ngƣời cùng hoạt động tình dục), Khổ dâm

(Thỏa mãn tình dục bằng cách để ngƣời khác hành hạ mình), Phô dâm (Thích phô bày

cơ quan sinh dục của mình cho ngƣời khác xem), Thị dâm (Thỏa mãn tình dục bằng

cách nhìn trộm bộ phận sinh dục ngƣời khác), Thính dâm (Thỏa mãn tình dục bằng

cách nghe những âm thanh có khả năng kích), Miên dâm (Trạng thái mà một ngƣời

thực hiện hành vi tình dục trong khi vẫn đang ngủ), Loạn dục cọ xát (Thỏa mãn tình

dục bằng cách cọ xát bộ phận sinh dục của họ vào những ngƣời khác), Loạn dục cải

trang (Thỏa mãn tình dục bằng cách mặc quần áo của ngƣời khác giới).

Nhƣ vậy, từ “kim la” thƣờng đƣợc nhiều ngƣời sử dụng để ám chỉ hành vi lệch

lạc tình dục mục tiêu nhƣ phô dâm.

Điều khiến tôi thắc mắc là nguồn gốc xuất hiện của từ “kim la” trong cộng

đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang. Những cán bộ truyền thông lâu năm tại

địa phƣơng đã đƣa ra giả thuyết cụ thể về quá trình hình thành của từ kim la khi ám

chỉ HIV/AIDS.

“Trƣớc đây khi còn gọi bệnh dƣơng mai (ý chỉ bệnh giang mai) là bệnh

“tiêm la” thì ngƣời dân họ nghe thấy chủ yếu nhắc đến là tiêm la. Nhƣng

không hiểu sao sau này thì ngƣời ta đều nói chệch thành “kim la”.

73

(Cán bộ truyền thông, MS 15-TX, nam, 32 tuổi)

Cán bộ truyền thông tại những địa phƣơng mà cộng đồng dân tộc thiểu số sử

dụng từ kim la để gọi tên HIV/AIDS đã đặt ra giả thuyết về sự biến đổi của từ “tiêm

la” thành “kim la”. Những năm trƣớc đây, bệnh giang mai (syphilis) thƣờng đƣợc

cán bộ y tế và ngƣời dân tại địa phƣơng gọi là bệnh “tiêm la” hoặc gọi là bệnh

“dƣơng mai”. Các truyền thông về HIV/AIDS thƣờng gắn liền với hình ảnh và

thông tin về các bệnh lây truyền qua đƣờng tình dục, mà trong đó bệnh giang mai là

hết sức phổ biến. Sự lặp lại nhiều lần của cán bộ y tế khi truyền thông sử dụng cụm

từ “tiêm la” đã khiến nó đƣợc dùng phổ biến trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại

địa phƣơng. Và trải qua quá trình “dị bản” thì từ “tiêm la” biến đổi thành “kim la”

nhƣ một tên gọi ám chỉ Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Mặc dù chƣa thể

khẳng định giả thuyết này là hoàn toàn đúng, nhƣng đây cũng có thể xem là một

cách giải thích về sự xuất hiện và tính phổ biến của từ kim la trong cộng đồng dân

tộc thiểu số tại địa phƣơng khi đề cập HIV/AIDS.

4.1.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém

Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém là khó khăn không chỉ đối với cán bộ truyền

thông mà còn gây cản trở tới cả ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng trong quá

trình tiếp nhận các thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Chúng ta hiểu

rằng, các kênh truyền thông mang tính truyền thống sẽ ngày càng trở nên lạc hậu so

với sự phát triển của xã hội. Vì vậy, nó sẽ bị thay thế bởi những kênh truyền thông

hiện đại hơn: Tivi, điện thoại, internet, máy tính. Nhƣng với hệ thống cơ sở hạ tầng

còn thô sơ nhƣ hiện tại ở các thôn bản của đồng dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa

thì các hình thức truyền thông đại chúng phổ biến nhƣ loa phóng thanh, tivi vẫn

chƣa thể hoạt động tốt đƣợc.

Điện lƣới: Thiếu và yếu

Đầu tiên phải kể đến điện lƣới tại địa phƣơng. Hệ thống điện lƣới ở các thôn

bản miền núi vùng sâu vùng xa tại Tuyên Quang đƣợc ngƣời dân địa phƣơng, thậm

chí là cả cán bộ truyền thông nhấn mạnh về tình trạng cung cấp thất thƣờng:

“Cũng có điện, nhƣng nhà nào ở xa quá thì cũng không kéo đƣợc điện (ý

nói kéo dây điện từ đƣờng dây tổng về hộ gia đình dân)”.

74

(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 19-LB, nữ, dân tộc Hmông, 29 tuổi)

“Điện lƣới ở đây hay bị cắt luân phiên. Kiểu một ngày có thì một ngày

mất. Hoặc buổi sáng có thì buổi tối mất. Mà điện yếu lắm, chỉ thắp sáng thôi.

Còn xem tivi thì khó, vì nó cứ díu đen cái màn hình rồi tắt phụt, lên đƣợc tí lại

tắt. Thế nên em thấy quanh đây mọi ngƣời thƣờng chỉ có bóng đèn thôi, không

có nhiều đồ điện khác. Đèn dầu thì nhà nào cũng phải có vài cái vì dùng mất

điện thƣờng xuyên”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 14-TX, nam, 37 tuổi)

Nhƣ vậy, hệ thống điện lƣới mặc dù đã có sự trải rộng đến các thôn bản vùng

sâu vùng xa nhƣng không phải là tất cả mọi nơi. Ở những địa phƣơng quá xa trung

tâm thì ngƣời dân vẫn chƣa đủ điều kiện để kéo điện từ trạm tổng về đến hộ gia

đình của mình: “nhà nào ở xa quá thì cũng không kéo được điện”. Tại những nơi

điện lƣới bao phủ ngƣời dân cũng cho biết tình trạng nguồn điện không ổn định,

thƣờng bị cắt điện luân phiên “kiểu một ngày có thì một ngày mất. Hoặc buổi sáng

có thì buổi tối mất”. Và đặc biệt là nguồn điện yếu, không đủ điều kiện để cung cấp

năng lƣợng cho nhiều thiết bị điện hoạt động cùng một lúc. Vì vậy mà xuất hiện

tình trạng các hộ gia đình thƣờng chỉ có thiết bị điện là bóng đèn và điện lƣới chủ

yếu đƣợc sử dụng cho nhu cầu thắp sáng (trong trƣờng hợp có điện). Nhƣng do điện

mất thƣờng xuyên nên tất cả các hộ gia đình đều sở hữu vài chiếc đèn dầu để dùng

khi mất điện. Với tình trạng điện yếu, hoạt động không ổn định và thậm chí ở nhiều

nơi chƣa có, thì rõ ràng gây khó khăn cho sinh hoạt thƣờng nhật của ngƣời dân địa

phƣơng, chƣa kể đến khả năng tiếp cận thông tin truyền thông. Hơn nữa, các

phƣơng tiện truyền thông có sử dụng điện nhƣ loa, đài phát thanh, tivi cũng khó có

thể vận hành tốt trong tình trạng nguồn điện không ổn định nhƣ vậy.

Giao lộ: Sâu và xa

Cùng với điện lƣới thì giao thông cũng là một vấn đề gây khó khăn lớn cho ngƣời

dân tộc thiểu số tại địa phƣơng. Những thôn bản ngƣời Tày và ngƣời Hmông (mà đặc

biệt là ngƣời Hmông) thƣờng ở các khu vực núi cao, đƣờng đi lại chủ yếu là đƣờng đất

nhỏ, hẹp. Ngay với tôi khi đi điền đã thu thập dữ liệu cho nghiên cứu này cũng phải

75

vƣợt qua các con suối lớn và đi bộ rất sâu mới vào đến nhiều thôn bản. Ngay cả trƣờng

hợp các thôn bản của ngƣời dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn – đƣợc xem là gần

trung tâm thành phố nhất, cũng thƣờng tọa lạc ở các khu vực hẻo lánh. Ngƣời dân địa

phƣơng thƣờng gặp nhiều khó khăn trong việc giao thƣơng và tiếp xúc với các địa

phƣơng bên ngoài khác. Hệ thống giao thông chƣa đƣợc cải thiện đã trở thành rào cản

hạn chế sự tƣơng tác xã hội của các đồng bào dân tộc thiểu số tại đây. Điều kiện thực tế

này cũng tạo ra những khó khăn nhất định cho cán bộ truyền thông:

“Đến các thôn ngƣời Tày còn đỡ. Chứ các bản ngƣời Mèo (Ý chỉ đồng

bào dân tộc Hmông) thì cực kỳ mệt. Họ ở xa lắm mà toàn ở trên cao. Bây giờ

thì nhiều ngƣời chuyển xuống dần ra ngoài gần đƣờng này sống rồi đấy, nhƣng

đa phần họ vẫn ở xa… Nếu muốn thay đổi thì anh nghĩ phải xây dựng lại hệ

thống phƣơng tiện vật chất trƣớc”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 15-TX, nam, 32 tuổi)

“Có rất nhiều cái khó. Nhƣ là chuyện đến tận nhà ngƣời dân để phát tài

liệu. Bọn chị toàn phải đi vào ngày nào mà trời mƣa ý. Vì chỉ có hôm nào trời

mƣa thì họ mới có ở nhà, còn bình thƣờng họ đi làm hết. Buổi tối có nhiều nhà

cũng không chắc về, có khi họ ở trên nƣơng. Mà đi vào hôm mƣa thì đƣờng

trơn, bẩn. Cũng chỉ đi bộ đƣợc chứ không đi xe đạp hay xe máy đƣợc. Hôm

nào đi buổi tối thì toàn rủ con đi cùng vì sợ ma”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 17-TX, nữ, 33 tuổi)

Cán bộ truyền thông cũng phải rất vất vả mới tiếp cận đƣợc ngƣời dân. Họ

thƣờng chọn thời điểm là những ngày có thời tiết mƣa để đến các hộ gia đình dân

tộc thiểu số làm công tác tuyên truyền, bởi chỉ có những ngày mƣa thì đồng bào

không thể lên nƣơng rẫy làm và có mặt ở nhà. Việc đến các hộ gia đình ngƣời dân

vào những hôm trời mƣa làm tăng xác suất có thể gặp các thành viên trong gia đình

nhiều hơn. Tuy nhiên, nhƣ chúng ta đã biết là đƣờng đi tới các thôn bản này đa phần

là đƣờng đất nhỏ, thậm chí với các bản ở trên núi hoặc đồi cao thì đƣờng đi lại rất

dốc. Nếu trời mƣa thì việc di chuyển trên những con đƣờng nhƣ vậy trở nên vô

cùng khó khăn do tình trạng trơn trƣợt và dễ ngã. Cán bộ truyền thông tới nhà ngƣời

76

dân vào những ngày mƣa thƣờng chỉ có thể đi bộ và không sử dụng đƣợc những

phƣơng tiện giao thông phổ biến nhƣ xe đạp, xe máy. Nhƣ vậy, rõ ràng công tác

truyền thông phòng chống HIV/AIDS sẽ bị ảnh hƣởng ít nhiều. Và con đƣờng đi tới

sự tiếp cận với thông tin truyền thông của ngƣời dân tại địa phƣơng sẽ bị hạn chế.

4.1.4. Tài liệu truyền thông thiếu nhạy cảm văn hóa

Nghiên cứu của Robert Pike (1992) về khả năng thu nhận tri thức của con

ngƣời đã chứng minh những ƣu việt của việc đƣợc “nhìn thấy” (thông qua thị giác)

có thể đem lại khả năng thu nhận tri thức cao nhất cho con ngƣời. Việc sử dụng

kênh hình để truyền đạt nội dung trong tài liệu truyền thông phòng chống

HIV/AIDS là một sự lựa chọn đúng đắn. Nó có thể làm tăng sự chú ý, thu hút sự

quan tâm của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng; đồng thời, cũng làm cho ngƣời

dân tiếp thu các thông điệp truyền thông một cách dễ dàng hơn.

Dữ liệu định lƣợng từ điều tra bảng hỏi ngƣời dân địa phƣơng gợi ra rằng

ngƣời dân có khuynh hƣớng tập trung chú ý rất lớn vào các hình ảnh trình bày trong

tài liệu truyền thông. Biểu đồ 3 giúp minh họa rõ hơn:

Biểu đồ 3: Thái độ của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng đối với nội dung chữ

viết và hình ảnh trong các tài liệu truyền thông phòng chống

77

HIV/AIDS

Từ biểu đồ 3 trên đây, chúng ta có thể thấy đƣợc thái độ của đồng bào dân tộc

thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang đối với nội dung chữ viết và hình ảnh trong các tài

liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Có tới 57,81% ngƣời dân tham gia trả

lời phỏng vấn chỉ xem hình ảnh trong các tài liệu truyền thông. Tỷ lệ này đã chứng

tỏ sự quan tâm rất cao của ngƣời dân tới các hình ảnh đƣợc trình bày trong tài liệu

truyền thông. Trong khi đó, có 31% cho biết đọc cả nội dung chữ viết và hình ảnh,

6% chỉ đọc nội dung chữ viết và gần 5% thì không để ý đến việc nội dung tài liệu

truyền thông đƣợc thể hiện bằng chữ viết hay hình ảnh. Nhƣ vậy, sự truyền đạt nội

dung tài liệu truyền thông bằng “kênh hình” thu hút đƣợc sự chú ý rất lớn từ phía

ngƣời dân. Và nếu khai thác tốt cách truyền đạt nội dung truyền thông bằng kênh

hình, thì hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc

thiểu số sẽ đạt kết quả tốt. Thế nhƣng vấn đề nằm ở chỗ: cách sử dụng kênh hình

nhƣ thế nào cho hợp lý? Mặc dù kênh hình có tính hiệu quả cao, nhƣng khi áp dụng

chƣa đúng sẽ có thể trở thành phản cảm. Qua quá trình phỏng vấn sâu và thảo luận

nhóm tập trung, ngƣời dân địa phƣơng bày tỏ rằng họ không cảm thấy hào hứng

trƣớc các hình ảnh minh họa trong tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS:

Biểu đồ 4: Sự hứng thú của ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng đối với các

78

hình ảnh trong các tài liệu truyền thông phòng chống HIV/AIDS

Quan sát biểu đồ 4 chúng ta có thể thấy, có tới 67% ngƣời dân tộc thiểu số tại

địa phƣơng tham gia trả lời phỏng vấn bảng hỏi cho biết về tình trạng họ không hề

hứng thú với các hình ảnh đƣợc sử dụng trong tài liệu truyền thông phòng chống

HIV/AIDS. Số ngƣời dân tỏ ra hứng thú với hình ảnh là 11%, số ngƣời dân cảm

thấy bình thƣờng đối với các hình ảnh đó là 17%, và 5% còn lại thì không quan tâm.

Nhƣ vậy, phần lớn ngƣời dân tham gia trả lời bảng hỏi đều cảm thấy không hứng

thú với các hình ảnh đƣợc sử dụng trong tài liệu truyền thông. Điều này phần nào là

hệ quả của việc sử dụng kênh hình chƣa hợp lý, nhƣ bày tỏ của một ngƣời dân:

“Hình thì cũng thích xem vì cũng không phải đọc, nhƣng mấy cái hình

này mình cũng không thích. Nó là ngƣời keo mà (ý nói hình ảnh vẽ cuộc sống

của ngƣời Kinh)”.

(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 27-LB, nữ, dân tộc Tày, 29 tuổi)

Mâu thuẫn ở chỗ, đối tƣợng đích của hoạt động truyền thông là cộng đồng dân

tộc thiểu số, nhƣng hình ảnh minh họa thì về sinh hoạt văn hóa của ngƣời Kinh.

Điều này không tạo đƣợc hứng thú quan tâm từ phía ngƣời dân địa phƣơng và

đƣơng nhiên mức độ tiếp nhận các thông tin truyền thông sẽ bị ảnh hƣởng đáng kể.

4.2. Khó khăn của cán bộ truyền thông

4.2.1. Thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở

Một tình trạng khó khăn đầu tiên của cán bộ truyền thông phòng chống

HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang là sự thiếu nhân

lực có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở thôn xã. Chúng ta hiểu rằng để làm tốt công

tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS thì buộc phải có những cán bộ truyền

thông đƣợc đào tạo chuyên sâu về y tế và truyền thông. Mặc dù số lƣợng nhân lực

có trình độ chuyên môn ở tỉnh Tuyên Quang không hề ít, nhƣng sự phân bổ tại các

cấp cơ sở lại không đồng đều và bất hợp lý. Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế Việt

Nam thì các tỉnh miền núi phía Bắc, bao gồm cả tỉnh Tuyên Quang, có nhân lực về

y tế tƣơng đối tốt, với tỷ lệ bác sĩ/1 vạn dân rất cao. Quan sát biểu đồ so sánh số bác

sĩ/1 vạn dân chia theo từng vùng ở Việt Nam năm 2012 sau đây chúng ta có thể thấy

79

rõ điều đó (Bộ Y tế, 2014):

Biểu đồ 5: Số bác sĩ/1 vạn dân ở Việt Nam chia theo từng vùng năm 2012

Quan sát biểu đồ trên, chúng ta thấy rằng khu vực miền núi phía Bắc có tỷ lệ

bác sĩ/1 vạn dân cao nhất cả nƣớc với 6 bác sĩ/1 vạn dân. Ngay cả các khu vực phát

triển kinh tế mạnh hơn nhƣ vùng Đồng bằng Sông Hồng, Bắc trung bộ và duyên hải

miền Trung… cũng có tỷ lệ bác sĩ/1 vạn dân thấp hơn so với khu vực miền núi phía

Bắc. Khu vực Tây Nguyên thậm chí chỉ bằng một nửa khu vực miền núi phía Bắc

với tỷ lệ 3,6 bác sĩ/1 vạn dân. Nhƣ vậy, nếu nói rằng khu vực miền núi phía Bắc

trong đó có tỉnh Tuyên Quang thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn y tế

là chƣa hoàn toàn đúng. Với tỷ lệ bác sĩ/1 vạn dân cao nhất cả nƣớc, rõ ràng khu

vực miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Tuyên Quang nói riêng có một đội ngũ

nhân lực y tế dày dặn hơn những khu vực khác. Vấn đề nằm ở việc phân bố nguồn

nhân lực ấy không đồng đều ở các cấp cơ sở thôn/xã. Số liệu từ điều tra bảng hỏi

đối với nhóm mẫu cán bộ truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở tỉnh Tuyên

80

Quang phần nào chỉ ra sự mất cân đối và không đồng đều đó.

Bảng 14: Cơ cấu chuyên môn của cán bộ truyền thông nghiên cứu

Y tế Truyền thông Các ngành khác Chuyên môn của cán bộ truyền thông

42,86 0 57,14 Tỷ lệ (%)

Bảng 14 cho thấy chỉ có 42,86% cán bộ truyền thông tham gia trả lời phỏng

vấn bảng hỏi có chuyên môn về y tế, 57,14% còn lại có chuyên môn thuộc ngành

khác, không có cán bộ nào có đƣợc đào tạo chuyên sâu về truyền thông. Đặc biệt,

trong số 42,86% cán bộ có trình độ chuyên môn về y tế thì có chỉ có 28,57% có

trình độ bác sĩ, 2,38% có trình độ cao đẳng y tế, 11,91% có trình độ trung cấp y tế.

Đáng chú ý là tất cả cán bộ có trình độ bác sĩ đều làm việc ở tuyến tỉnh và tuyến

huyện. Ở tuyến cơ sở thôn xã cũng có các cán bộ truyền thông có trình độ cao đẳng

y tế hoặc trung cấp y tế, tuy nhiên số lƣợng không nhiều chỉ 14,29%. Thực trạng

này phần nào cho thấy sự thiếu thốn cán bộ có trình độ chuyên môn về y tế ở cấp cơ

sở thôn/xã. Đồng thời, số cán bộ có trình độ chuyên môn về truyền thông cũng rất

hạn chế (0% trong số các cán bộ truyền thông tham gia trả lời phỏng vấn bảng hỏi).

Thực tế này có thể dẫn đến việc công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS

trong cộng đồng dân tộc thiểu số khó đảm bảo tính chuyên nghiệp.

Một tình trạng điển hình mà tôi nhận thấy nó là hệ lụy của việc thiếu nguồn

nhân lực có trình độ chuyên môn đó chính là sự mất lòng tin của ngƣời dân tộc

thiểu số tại địa phƣơng với cán bộ truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Ngƣời

dân địa phƣơng báo cáo về tình trạng mà cán bộ truyền thông làm ngƣợc lại với các

thông tin mà họ truyền thông:

“Thì bảo ở gần kim la (ý nói HIV/AIDS) cũng không lây nhƣng mà cán bộ

cũng có dám đến nhà bọn nó (ý nói những ngƣời có HIV/AIDS tại địa phƣơng)

bao giờ đâu. Nó đến nhà (ý nói ngƣời có HIV/AIDS đến nhà cán bộ truyền thông)

hỏi cái gì chữa bệnh đấy, xong vứt cái chén nƣớc nó uống đi mà”.

(Phỏng vấn sâu, ngƣời dân địa phƣơng, MS 19-LB, nữ, dân tộc Hmông, 29 tuổi)

Trích đoạn phỏng vấn sâu trên đây cho hiện tƣợng cán bộ truyền thông thực

81

hành ngƣợc lại với thông điệp mà mình truyền thông. Cụ thể, cán bộ truyền thông

tuyên truyền về việc giao tiếp, ăn uống chung với ngƣời có HIV/AIDS không làm

lây bệnh nhƣng họ lại không “dám đến nhà” và giao tiếp bình thƣờng với ngƣời có

HIV/AIDS. Thậm chí, nhƣ một ngƣời dân địa phƣơng chia sẻ trong trích đoạn

phỏng vấn trên đây thì còn xảy ra trƣờng hợp ngƣời có HIV/AIDS “đến nhà” của

cán bộ truyền thông để hỏi về thông tin điều trị bệnh và có sử dụng chén uống nƣớc

tại đây thì sau khi ngƣời đó ra về, cán bộ truyền thông đã “vứt cái chén” đó đi. Hành

động này cho thấy rằng dƣờng nhƣ trong nhận thức của cán bộ truyền thông vẫn

cho rằng việc ăn uống giao tiếp với ngƣời có HIV/AIDS sẽ làm lây bệnh, tức là họ

cũng chƣa tin vào thông điệp mà mình truyền thông.

4.2.2. Hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa đƣợc nâng cấp

Nhƣ đã phân tích ở phía trên, hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém không chỉ là rào

cản đối với ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng trong quá trình tiếp nhận các

thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS mà còn gây ra khó khăn lớn cho cán

bộ truyền thông trong việc đƣa thông tin đến ngƣời dân (xem thêm tại phần 3.1.3).

Với hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa đƣợc nâng cấp nhƣ hiện tại thì cán bộ truyền thông

rất khó để thực hiện các hình thức truyền thông đại chúng phổ biến nhƣ loa phóng

thanh, tivi… đặc biệt là ở các thôn bản vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, việc quản lý

hệ thống cơ sở hạ tầng cũng chƣa đƣợc thực hiện tốt, mà điển hình là hệ thống loa

phóng thanh. Các thông tin định tính góp phần làm sáng tỏ hơn luận điểm này:

“- Loa phóng thanh ở các thôn bản thì chƣa nhiều đâu.

- Anh có nắm đƣợc cụ thể số lƣợng loa phóng thanh ở các thôn bản

không ạ?

- Không, anh chả nhớ đâu. Có báo cáo nào yêu cầu thống kê về cái này đâu”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 11-H-LB, nam, 38 tuổi)

“- Loa hỏng cũng nhiều.

- Mình có bao giờ thống kê số lƣợng loa đang còn hoạt động tốt và số

lƣợng loa đang có vấn đề trục trặc không anh?

- Không. Cái đấy do địa phƣơng tự quản lý chứ bọn anh không can thiệp.

- Ở các tuyến trên cũng không yêu cầu báo cáo về tình trạng hoạt động

82

của hệ thống loa phóng thanh ạ?

- Không. Chú hỏi thế anh chịu”.

(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 08-H-YS, nam, 36 tuổi).

Các trích đoạn phỏng vấn sâu cán bộ truyền thông trên đây cho thấy việc kiểm

soát số lƣợng cũng nhƣ tình trạng hoạt động của hệ thống loa phóng thanh vẫn chƣa

đƣợc các ban ngành hữu quan chú ý. Mặc dù đây là phƣơng tiện đƣợc dùng thƣờng

xuyên và phổ biến trong các cuộc hội họp tuyên truyền. Trả lời của cán bộ truyền

thông cho thấy rằng không có bất cứ báo cáo nào về số lƣợng loa phóng thanh đƣợc

lắp đặt tại các thôn xã. Và cũng không có báo cáo nào về tình trạng hoạt động (tốt

hay đang có vấn đề trục trặc) của hệ thống loa phóng thanh. Lý giải của cán bộ

truyền thông về tình trạng này là chƣa hợp lý: “Có báo cáo nào yêu cầu thống kê về

cái này đâu”. Những trả lời trong trích đoạn phỏng vấn nói trên phần nào gợi mở

rằng cán bộ truyền thông vẫn đang thực hiện công việc một cách cứng nhắc dựa trên

những nội dung mà các báo cáo “yêu cầu”, chứ chƣa dựa trên sự cần thiết của tình

hình thực tế tại địa phƣơng.

Tiểu kết chƣơng 4

Với những phân tích trong chƣơng 4, chúng ta có thể thấy rằng các khó khăn hiện

tại không chỉ là rào cản đối với sự tiếp cận chƣơng trình truyền thông của ngƣời dân địa

phƣơng mà còn là thách thức đối với nhà cung cấp dịch vụ truyền thông khi thực hiện

các chƣơng trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu

số. Về phía ngƣời dân, vấn đề ngôn ngữ dƣờng nhƣ là rào cản có nhiều ảnh hƣởng hơn

cả. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự đa dạng trong tên gọi địa phƣơng về

HIV/AIDS cùng những tài liệu truyền thông thiếu nhạy cảm văn hóa cũng là các rào

cản gây khó khăn cho ngƣời dân trong tiếp cận thông tin truyền thông. Những bất cập

này tồn tại trong bối cảnh khó khăn chung là hệ thống cơ sở hạ tầng ở địa phƣơng yếu

kém và chƣa đƣợc nâng cấp. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ truyền thông có trình độ

chuyên môn ở cấp cơ sở thì thiếu thốn và phân bổ không đều. Những rào cản và thách

thức nói trên giống nhƣ bài toán khó giải đối với cả cán bộ truyền thông và ngƣời dân

tộc thiểu số tại địa phƣơng nghiên cứu. Điều này ngụ ý rằng hoạt động truyền thông

phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số cần có sự đầu tƣ mạnh hơn

83

cả về nguồn nhân lực, tài chính và cơ sở hạ tầng kỹ thuật.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Có thể thấy rằng, các nghiên cứu về truyền thông phòng chống HIV/AIDS

trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam đƣợc thực hiện phần lớn ở miền

Trung, và chƣa nhiều nghiên cứu thực hiện ở khu vực miền núi phía Bắc. Luận văn

này đi vào tìm hiểu truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc

thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang – một trong 15 tỉnh trung du miền núi phía Bắc đƣợc

xếp vào nhóm dự báo có nguy cơ tăng nhanh và tăng cao tỷ lệ ngƣời dân tộc thiểu

số nhiễm HIV trong thời gian tới. Từ góc nhìn ngƣời dân, có thể thấy cộng đồng

dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang đã có những kiến thức thức đúng cơ bản về

phòng chống HIV/AIDS, không giống nhƣ những diễn ngôn xã hội gần đây về tính

“agency” của đồng bào dân tộc thiểu số. Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu cũng

chỉ ra rằng vẫn còn những nhận thức hạn chế trong cộng đồng về bản chất bệnh, con

đƣờng lây truyền bệnh và cách phòng tránh lây bệnh. So sánh giữa hai nhóm tộc

ngƣời Tày và Hmông tại địa phƣơng cho thấy rằng địa bàn sinh tụ dƣờng nhƣ là

một yếu tố quan trọng tác động tới khả năng tiếp nhận thông tin truyền thông của

ngƣời dân. Tuy nhiên, giữa nhóm tộc ngƣời thiểu số đƣợc coi là có ƣu thế hơn về

dân số, trình độ phát triển kinh tế - xã hội – chính trị (ngƣời Tày) và nhóm tộc

ngƣời thiểu số đƣợc coi là yếu thế hơn (ngƣời Hmông) lại không thể hiện sự khác

biệt rõ ràng trong mức độ nhận thức về phòng chống HIV/AIDS. Rất có thể sự hạn

chế về số lƣợng mẫu nghiên cứu dẫn đến khả năng các kết quả phát hiện chƣa có

tính đại diện cao. Những phân tích công tác truyền thông từ góc độ “nguồn” đã

phần nào làm sáng tỏ hơn vấn đề này.

Thực tiễn hoạt động truyền thông tại địa phƣơng bộc lộ nhiều hạn chế qua

phân tích trả lời của cán bộ truyền thông. Những thực hành của đội ngũ cán bộ

truyền thông ngoài việc tác động tới nhận thức của cộng đồng thì còn có khả năng

dẫn đến tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử với ngƣời dân tộc thiểu số có HIV/AIDS.

Điển hình là thực hành “gán nhãn” nhằm sử dụng hình ảnh “phát khiếp” về ngƣời

có HIV/AIDS trong quá trình tuyên truyền đã vô tình mở rộng sự ngăn cách với

84

ngƣời dân tộc thiểu số có HIV/AIDS. Điều này có liên hệ trực tiếp với các quan

niệm đƣơng thời về những hiện tƣợng tiêu cực đƣợc gọi chung bằng cụm từ “tệ nạn

xã hội”. Sự phổ biến của diễn ngôn cho rằng HIVAIDS là tệ nạn xã hội góp phần xây

dựng niềm tin rằng tình trạng có HIV/AIDS là một dạng “phi đạo đức” mà những

ngƣời có HIV/AIDS là bằng chứng sống. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng

sau khi thực hiện truyền thông tại địa phƣơng, các đơn vị hữu quan chƣa tổ chức đánh

giá mức độ hiệu quả của hoạt động truyền thông. Nếu kiến thức, thái độ và hành vi của

ngƣời dân tộc thiểu số tại địa phƣơng là đối tƣợng tác động của các chƣơng trình truyền

thông, thì hiển nhiên cần đánh giá dựa trên những tiêu chí này. Tuy nhiên, công tác

tổng kết hậu truyền thông của các đơn vị hữu quan tại địa phƣơng mới chỉ dừng lại ở

việc mô tả các việc đã làm đƣợc, nên hoạt động đánh giá hiệu quả truyền thông vẫn bị

bỏ ngỏ. Thực tế cũng cho thấy quá trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại địa

phƣơng mang nặng tính một chiều. Các ý kiến phản hồi của ngƣời dân địa phƣơng

chƣa đƣợc nhà cung cấp dịch vụ truyền thông quan tâm. Đáng chú ý là không chỉ khâu

tiếp nhận ý kiến phản hồi của ngƣời dân vẫn chƣa đƣợc thực hiện mà có vẻ nhƣ các cán

bộ truyền thông có khuynh hƣớng tráo đổi trách nhiệm giải trình giữa “ngƣời làm

truyền thông” và “ngƣời đƣợc truyền thông”. Điều này khiến cho quy trình truyền

thông phòng chống HIV/AIDS bị thiếu đi những “mắt xích” quan trọng để có thể tái

thiết lập các chƣơng trình truyền thông hiệu quả trong tƣơng lai.

Cũng cần nhìn nhận vấn đề trong bối cảnh nguồn nhân lực có trình độ chuyên

môn ở địa phƣơng còn thiếu thốn. Biểu hiện rõ ràng nhất của vấn đề này là tình

trạng kiêm nhiệm trong phân bổ cán bộ. Sự quá tải khi một cán bộ phải đảm nhiệm

truyền thông cho nhiều vấn đề khác nhau khiến họ thƣờng ít có cơ hội nắm bắt kiến

thức sâu về những nội dung công việc mà bản thân đảm nhiệm, dễ phạm phải sai

lầm trong quá trình thực hiện truyền thông. Những phân tích từ góc độ “nguồn”

cũng cho thấy tình trạng phối hợp lỏng lẻo giữa các ban ngành hữu quan. Một dẫn

chứng rõ ràng cho vấn đề này là tình trạng ùn đẩy trách nhiệm ở cán bộ truyền

thông. Liên kết không chặt chẽ giữa các ban ngành hữu quan khiến cho hoạt động

truyền thông đƣợc thực hiện cứng nhắc, không có sự xem xét đến tình hình của mỗi

địa phƣơng khác nhau. Bởi vậy mà có thể dẫn đến khả năng là chƣơng trình truyền

85

thông không phù hợp với đối tƣợng đích.

Đặt trong bối cảnh của địa phƣơng nghiên cứu, ta thấy có nhiều rào cản đối

với cộng đồng dân tộc thiểu số khi tiếp cận thông tin truyền thông; đồng thời cũng

có nhiều thách thức đặt ra cho nhà cung cấp dịch vụ truyền thông. Trong đó, vấn đề

ngôn ngữ đƣợc phân tích nhƣ là rào cản lớn đầu tiên đối với ngƣời dân. Tỷ lệ đồng

bào sử dụng ngôn ngữ của nhóm tộc ngƣời địa phƣơng vẫn chiếm đa số trong khi

các tài liệu truyền thông lại đƣợc thiết kế hoàn toàn bằng tiếng Việt dẫn đến bất cập

là ngƣời dân hoặc là không thể đọc – hiểu đƣợc, hoặc là đọc nhƣng không hiểu, và

cũng xảy ra cả tình trạng đọc hiểu đƣợc nhƣng không hào hứng với các tài liệu tiếng

Việt. Còn cán bộ truyền thông thì lại “lừng chừng” khi nhận ra tính cần thiết của

việc xây dựng tài liệu bằng tiếng địa phƣơng nhƣng không sẵn sàng tham gia vào

hoạt động này. Liên quan trực tiếp đến vấn đề tài liệu truyền thông hoàn toàn đƣợc

thiết kế bằng tiếng Việt thì sự đa dạng của tên gọi địa phƣơng về HIV/AIDS cũng là

một trong những vấn đề dƣờng nhƣ gây khó khăn cho ngƣời dân khi tiếp cận thông

tin truyền thông. Tính thiếu nhạy cảm văn hóa của tài liệu truyền thông cũng gây ra

những bất cập không nhỏ. Trong khi đối tƣợng đích của hoạt động truyền thông là

cộng đồng dân tộc thiểu số, nhƣng hình ảnh minh họa thì về sinh hoạt văn hóa của

ngƣời Kinh. Điều này không tạo đƣợc hứng thú quan tâm từ phía ngƣời dân địa

phƣơng và đƣơng nhiên mức độ tiếp nhận các thông tin truyền thông sẽ bị ảnh

hƣởng đáng kể. Một thách thức chung đối với ngƣời dân và nhà cung cấp dịch vụ

truyền thông là hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém. Với những giao lộ sâu và xa, địa

bàn sinh tụ của ngƣời dân ở những nơi hẻo lánh, điện lƣới thiếu và yếu, hệ thống loa

phóng thanh cũ và ít, thì cán bộ truyền thông gặp nhiều bất cập khi tiếp cận với

ngƣời dân và triển khai các hoạt động truyền thông hiện đại; ngƣợc lại, ngƣời dân

địa phƣơng cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiếp cận thông tin truyền

thông. Đặc biệt, những rào cản và thách thức này lại tồn tại trong bối cảnh thiếu

thốn cán bộ truyền thông có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở.

Ngoài các nguyên do khách quan thì những bất cập nói trên cho thấy hạn chế

trong quản lý và triển khai thực hiện truyền thông của các ban ngành hữu quan. Để

86

khắc phục những bất cập này, trƣớc tiên cần phải thay đổi quy trình truyền thông

mang tính một chiều thành mô hình truyền thông hai chiều. Theo đó, cần thiết phải

khuyến khích và tạo cơ hội để cán bộ truyền thông cấp cơ sở cũng nhƣ của ngƣời

dân đƣợc sự tham gia vào quá trình thiết kế các tài liệu truyền thông. Mô hình

truyền thông có sự tham gia của đối tƣợng đích (participatory communication

model) đã đƣợc nhiều nghiên cứu cũng nhƣ chuyên gia phát triển xã hội khuyến

nghị nhƣ là một mô mình mẫu mực trong công tác truyền thông phòng chống

HIV/AIDS ở nhóm đối tƣợng yếu thế và nhạy cảm. Nó cho thấy tính tích cực khi có

thể điều chỉnh sự phù hợp giữa thông tin truyền thông với đối tƣợng đích.

Những phân tích truyền thông nhìn từ góc độ “nguồn” dƣờng nhƣ ngụ ý rằng nên

có những nghiên cứu sâu về kiến thức, thái độ và thực hành của đội ngũ cán bộ truyền

thông. Bấy lâu nay các nghiên cứu đặt sự chú ý rất lớn vào đối tƣợng là ngƣời dân

nhƣng lại thƣờng bỏ quên yếu tố quan trọng là cán bộ truyền thông. Tình trạng thực

hành gán nhãn phổ biến và diễn ngôn xã hội chƣa hợp lý của cán bộ truyền thông chỉ ra

rằng cần có sự thận trọng khi sử dụng hình ảnh ngƣời có HIV/AIDS khi thực hiện

truyền thông để tránh gây ra hệ lụy tiêu cực nhƣ là kỳ thị, phân biệt đối xử với ngƣời

dân tộc thiểu số có HIV/AIDS. Thực tế một số địa phƣơng trên cả nƣớc đã rất thành

công khi sử dụng hình ảnh về ngƣời có HIV/AIDS một cách phù hợp, thậm chí áp

dụng mô hình truyền thông dựa vào đồng đẳng viên (những ngƣời có HIV/AIDS

truyền thông phòng chống HIV/AIDS). Do vậy, việc sử dụng hình ảnh ngƣời có

HIV/AIDS đƣợc cân nhắc cẩn trọng thì hiệu quả truyền thông hẳn sẽ đạt đƣợc. Cũng

cần có quy định rõ ràng cũng nhƣ cơ chế giám sát việc phối hợp giữa các ban ngành

hữu quan. Khi đã có quy định rõ ràng và đƣợc giám sát chặt chẽ, sẽ có khả năng hạn

chế xảy ra tình trạng ùn đẩy trách nhiệm hay phối hợp lỏng lẻo giữa các ban ngành hữu

quan nhƣ thực tế nghiên cứu đã chỉ ra. Tôi cũng cho rằng, nên có chính sách thu hút

đồng thời phân bổ những cán bộ truyền thông có trình độ chuyên môn về làm việc tại

các cấp cơ sở. Trong khi đó, có thể tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ truyền thông tại địa

phƣơng hiện giờ đƣợc đi học và đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn. Điều này

giúp cho công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân tộc thiểu số

87

sẽ trở nên chuyên nghiệp hơn và đạt đƣợc hiệu quả tốt hơn.

Xét về quy trình thực hiện, các kết quả từ nghiên cứu này cũng cho thấy rằng

nhà cung cấp dịch vụ truyền thông và cán bộ truyền thông tại địa phƣơng cần phải

triển khai hoạt động đánh giá hiệu quả và thu thập ý kiến phản hồi của ngƣời dân

trƣớc cũng nhƣ sau truyền thông nhằm đánh giá đƣợc tác động thực sự của chƣơng

trình truyền thông tới đối tƣợng đích. Bổ sung thêm hai “mắt xích” quan trọng này

giúp cho nhà cung cấp dịch vụ truyền thông có thể nắm bắt đƣợc các hạn chế hiện

hữu để có những điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn các chƣơng trình truyền thông

tiếp theo.

Về cơ sở hạ tầng, thực tế đƣợc chỉ ra từ nghiên cứu này cho thấy rõ ràng cần

có những nâng cấp mang tính hệ thống và quy mô. Tuy nhiên, những nâng cấp này

có thể mất thời gian lâu dài với sự đầu tƣ nguồn vốn lớn. Có những thay đổi nhỏ

hơn mà các ban ngành hữu quan tại địa phƣơng hoàn toàn có thể thực hiện đƣợc

một cách khả thi mà không tốn nguồn kinh phí lớn cũng nhƣ không mất nhiều thời

gian. Ví dụ nhƣ việc cải thiện hiện trạng của các bảng hiệu, biển hiệu tuyên truyền

để thu hút sự chú ý của ngƣời dân. Cần xóa các nội dung tuyên truyền chung chung

và quá cũ, làm mới các nội dung tuyên truyền này để các thông tin tới ngƣời dân cụ

thể, chi tiết hơn. Di chuyển những bảng hiệu, biển hiệu tuyên truyền ở các vị trí

vắng ngƣời tới những nơi tập trung đông ngƣời nhƣ chợ, ngã ba giao thông, trƣờng

học… Hay đối với hệ thống loa phóng thanh, cán bộ truyền thông tại địa phƣơng có

thể thống kê tình trạng hoạt động của chúng, sửa chữa những loa có trục trặc, di

chuyển các loa để ở vị trí bất tiện nhƣ quá gần nhà dân, quá thấp dễ bị trẻ con

nghịch… Những vấn đề thuộc về quản lý cơ sở vật chất này các ban ngành hữu

quan tại địa phƣơng đều có thể thực hiện khả thi trong khi chờ đợi một sự nâng cấp

mang tính hệ thống và quy mô về cơ sở hạ tầng.

Một khuyến nghị cuối cùng nhƣng không kém phần quan trọng đó chính là

thiết kế các tài liệu truyền thông có tính nhạy cảm văn hóa với đối tƣợng đích của

chƣơng trình truyền thông. Nhạy cảm văn hóa ở đây bao gồm cả vấn đề ngôn ngữ

chữ viết và hình ảnh. Việc thiết kế các tài liệu đƣợc viết bằng tiếng địa phƣơng và

88

sử dụng hình ảnh minh họa là sinh hoạt văn hóa của đối tƣợng đích sẽ dẫn đến khả

năng tăng sự thu hút đối với ngƣời dân địa phƣơng rất lớn. Việc bắt đối tƣợng đích

phải đọc hiểu một ngôn ngữ không phải của mình và xem các hình ảnh minh họa

của một cộng đồng khác thì rõ ràng là rất thiếu phù hợp. Vì vậy, tôi cho rằng việc

thiết kế các tài liệu truyền thông có tính nhạy cảm văn hóa nhƣ vậy sẽ tạo đƣợc sự

quan tâm từ ngƣời dân địa phƣơng.

Cũng cần nói thêm rằng, luận văn này đƣợc tôi thực hiện trong điều kiện hạn

chế nguồn lực về tài chính và thời gian nên số lƣợng mẫu nghiên cứu chƣa lớn và

địa bàn nghiên cứu chƣa rộng. Tôi cũng chƣa tiếp cận đƣợc đầy đủ tất cả các nhóm

mẫu có liên quan đến hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng

đồng dân tộc thiểu số. Đồng thời, tôi không có khả năng sử dụng ngôn ngữ của hai

tộc ngƣời Tày và Hmông nên trong quá trình thu thập dữ liệu có thể xảy ra những

sai số nhất định do thông tin đƣợc xử lý gián tiếp qua sự trợ giúp của phiên dịch

viên. Những hạn chế này có thể dẫn đến khả năng là các kết quả nghiên cứu chƣa có

tính đại diện cao. Đó là gợi mở để tôi có thể thực hiện các nghiên cứu sâu hơn và

rộng hơn trong tƣơng lai về vấn đề phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân

89

tộc thiểu số.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Hà An (2014), Phòng chống HIV/AIDS cho đồng bào dân tộc thiểu số cần sự

chung tay của cả cộng đồng, Tạp chí AIDS và cộng đồng, (số 10), tr. 6-7.

2. Lê Vũ Anh (2005), Quản lý chương trình phòng chống HIV/AIDS : Tài liệu đào

tạo dùng cho giảng viên và trợ giảng, Nhà xuất bản Y học.

3. Chung Á (2000), Truyền thông về HIV/AIDS/STD cho thanh thiếu niên: Tài liệu

hướng dẫn tuyến tỉnh, Nhà xuất bản Y học.

4. Chung Á (2000), Hướng dẫn tổ chức mạng lưới và hoạt động tư vấn HIV/AIDS:

Tài liệu hướng dẫn tuyến tỉnh, Nhà xuất bản Y học.

5. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (1990), Cái mới trong khoa học xã hội: Triết

học và xã hội học, Xã hội học và thời đại, (số 13), tr. 11.

6. Chu Quốc Ân (12.2007), Báo cáo đề tài đánh giá thực trạng hoạt động phòng,

chống HIV/AIDS tại chùa Pháp Vân và chùa Bồ Đề (Hà Nội), Bộ Y tế Việt

Nam, Hà Nội.

7. Ban Chỉ đạo Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở trung ƣơng (06.2010), Tổng Điều

tra Dân số và Nhà ở năm 2009 - Kết quả toàn bộ, Nhà xuất bản Thống Kê.

8. Đặng Quốc Bảo (2004), “Nền giáo dục nhà trƣờng có chất lƣợng là đảm bảo bền

vững cho việc phòng chống HIV/AIDS trong thế hệ trẻ”, Tạp chí Phát triển giáo

dục, (số 8), tr. 26-27.

9. Lƣơng Hồng Quang, Tô Duy Hợp (2000), Phát triển cộng đồng – Lý thuyết và

vận dụng, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

10. Bộ Y tế Việt Nam (04.2000), Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học về

HIV/AIDS giai đoạn 1997-1999, Cục Phòng Chống HIV/AIDS Việt Nam, Nhà

xuất bản Y học, Hà Nội.

11. Bộ Y tế Việt Nam (2006), HIV/AIDS tại Việt Nam: Thực trạng, đáp ứng quốc

90

gia, những thách thức, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

12. Bộ Y tế Việt Nam (2008), Chương trình Phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam,

Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

13. Bộ Y tế Việt Nam (11.2010), Việt Nam 20 năm phòng chống HIV/AIDS, Nhà

xuất bản Bộ Y tế Việt Nam, Hà Nội

14. Bộ Y tế Việt Nam (12.2010), Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học về

HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, Cục Phòng Chống HIV/AIDS Việt Nam kết

hợp với Tạp chí Y học Thực hành, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

15. Bộ Y tế Việt Nam (2014), Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2013,

JAHR, Hà Nội.

16. Bộ Y tế Việt Nam (2014), Tình hình nhiễm HIV/AIDS và kết quả hoạt động

phòng, chống HIV/AIDS 4 tháng đầu năm 2014, Hà Nội.

17. Nguyễn Bá Cẩn (2010), Tỷ lệ nhiễm HIV, giang mai và các hành vi nguy cơ lây

nhiễm HIV trong nhóm đồng bào dân tộc Thái ở Thanh Hóa, Tạp chí Y học thực

hành, (số 742+743), tr. 271-277.

18. Thuỷ Cúc (1999), Những người kỳ quặc : Viết về những người hoạt động truyền

thông phòng chống HIV/AIDS (Chương trình AIDS - Quỹ cứu trợ nhi đồng

Anh), Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

19. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (01.2013), Báo cáo tổng kết Công tác

phòng, chống HIV/AIDS năm 2012 và kế hoạch công tác năm 2013, Bộ Y tế

Việt Nam.

20. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (11.2014), Báo cáo tổng kết Công tác

phòng, chống HIV/AIDS đến 30/09/2014, Bộ Y tế Việt Nam.

21. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (01.2013), Báo cáo tổng kết Công tác

phòng, chống HIV/AIDS năm 2013 và định hướng kế hoạch công tác năm 2014,

Bộ Y tế Việt Nam.

22. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (05.2014), Tình hình nhiễm HIV/AIDS

và kết quả hoạt động phòng, chống HIV/AIDS 4 tháng đầu năm 2014, Bộ Y tế

91

Việt Nam.

23. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (2010), Báo cáo Công tác phòng chống

HIV/AIDS giai đoạn 1990-2010, Bộ Y tế Việt Nam.

24. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (2014), Bảo đảm tài chính cho các hoạt

động phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2013 – 2020, đƣờng link:

http://vaac.gov.vn/

/Bao_dam_tai_chinh_cho_cac_hoat_dong_phong_chong_HIVAIDS_giai_doan_

2013-2020-Mot_viec_lam_cap_bach/?print=83689149, ngày cập nhật

06/03/2014.

25. Nguyễn Văn Dững (2006), Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Lý

luận chính trị, Hà Nội.

26. Đài Phát thanh và Truyền hình Tuyên Quang (12/2013), Tuyên Quang tăng

cường công tác phòng chống HIV/AIDS, Chuyên mục Văn hóa – Xã hội, Tạp chí

điện tử, ngày 01/12/2013.

27. Dự án Giáo dục đồng đẳng phòng chống HIV/AIDS tại các trung tâm Giáo dục

lao động xã hội của Hà Nội, Thái Nguyên, Khánh Hoà (2005), Chuyện chúng

mình, Nhà xuất bản Y học.

28. Nguyễn Thùy Dƣơng (2010), Tác động của các chƣơng trình truyền thông đại

chúng và rào cản ngôn ngữ trong việc phổ cập kiến thức về HIV/AIDS trong nhóm

dân tộc Dao ở tỉnh Yên Bái, Tạp chí Y học thực hành, (số 742+743), tr. 337-341.

29. Đàm Hữu Đắc (2005), Cần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, truyền thông

phòng chống HIV/AIDS ở nƣớc ta, Tạp chí lao động và xã hội, (số 271), tr. 4-5.

30. Hoàng Hoa (2005), Tích hợp giáo dục phòng ngừa HIV/AIDS với chƣơng trình

giảng dạy, Tạp chí Giáo dục, (số 113), tr. 43-45.

31. Trịnh Quân Huấn (2003), Truyền thông thay đổi hành vi phòng lây nhiễm

HIV/AIDS, Trung Tâm Y tế dự phòng Nghệ An, thành phố Vinh.

32. Tuấn Huấn (2004), Nhóm đồng đẳng và những đóng góp thầm lặng, Tạp chí

Lao động và Xã hội, (số 253), tr. 37-38.

33. Nguyễn Thu Hƣơng & Nguyễn Trƣờng Giang (2012), “Học không đƣợc hay học để

làm gì” – Nghiên cứu trƣờng hợp về tình hình học tập của thanh thiếu niên dân tộc

92

thiểu số miền Bắc Việt Nam, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trƣờng, Hà Nội.

34. Phan Thị Thu Hƣơng (2010), Một số đặc điểm hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV và

tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy ngƣời dân tộc thiểu số ở

huyện Quan Hóa, Thanh Hóa, Tạp chí Y học thực hành, (số 742+743), tr. 266-271.

35. Phan Thị Thu Hƣơng (5.2013), “Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thái độ

và hành vi phòng, chống HIV/AIDS của đồng bào Thái tại Thanh Hóa (2007-

2012)”, Tạp chí Y học thực hành, (số 868), tr. 62-65.

36. Phan Thị Thu Hƣơng (2013), “Thực trạng kiến thức, thái độ và hành vi và hiệu

quả mô hình can thiệp phòng lây nhiễm HIV trong nhóm dân tộc Thái 15 - 49

tuổi tại 2 huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa”, Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại học Y tế

Công cộng, bảo vệ ngày 11/07/2013.

37. Ngô Văn Lƣơng (2012), Tại sao lại khoe “của quý”, trang điện tử Y khoa Việt

Nam, link đăng bài http://ykhoa.net/yhocphothong/tamthan/tamthan14.htm,

ngày cập nhật 03/12/2012.

38. Nguyễn Thanh Long (2013), HIV/AIDS tại Việt Nam – Ước tính và dự báo giai

đoạn 2011-2015, Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam, Nhà xuất bản Y học.

39. Lê Quốc Nam (2008), Lệch lạc tình dục – Bệnh tâm thần phức tạp, Báo Người

Lao Động, Tổng Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

26/09/2008.

40. Hà Minh Nguyệt và cộng sự (2012), Tác động của các chƣơng trình truyền

thông có sự tham gia của cộng đồng về thay đổi hành vi để phòng chống HIV

trong nhóm thanh niên dân tộc thiểu số ở miền Trung Việt Nam, Tạp chí BMC

Public Health, (số 12), tr. 170.

41. Qũy Dân số Liên hợp quốc – UNFPA (2007), Kiến thức và hành vi của cộng

đồng dân tộc thiểu số về sức khỏe sinh sản, UNFPA Việt Nam.

42. Nguyễn Anh Tuấn (2010), Tỷ lệ nhiễm HIV, giang mai và các hành vi nguy cơ

lây nhiễm HIV trong nhóm đồng bào dân tộc ít ngƣời tại Việt Nam, Tạp chí Y

học thực hành, (số 742+743), tr.29-39.

43. UNESCO (2004), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong dự phòng và chăm sóc

93

HIV/AIDS, Văn phòng UNESCO Hà Nội, Hà Nội.

44. Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy mại dâm

(2012), Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn

2030, Hà Nội.

45. Phƣớc Nhƣờng (2013), Vai trò của truyền thông giáo dục sức khỏe trong thay

đổi hành vi, Sở Y tế tỉnh Bạc Liêu, đƣờng link:

http://syt.baclieu.gov.vn/suckhoe/ BB%8Fe&ItemID=42&Mode=1, ngày cập

nhật 05/11/2013.

46. Cục Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (2009), Bệnh AIDS được phát hiện khi

nào, http://www.vaac.gov.vn//Hoi-dap/Benh_AIDS_duoc_phat_hien_khi_nao/,

ngày cập nhật 09/10/2009.

47. Thanh Mai (2014), Nguy cơ lây nhiễm HIV ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu

số, Báo Nhân dân số ra ngày 04/01/2014, Hà Nội.

CÁC TÀI LIỆU TIẾNG ANH

48. Airhihenbuwa, Collins O. & Rafael Obregon (2000), A critical assesssment of

theories/ models used in health communication for HIV/AIDS, Journal of

Health Communication, (Vol. 5), pg. 5-15.

49. Amo, Julia D. (2004), Monitoring HIV/AIDS in Europe’s migrant communities

and ethnic minorities, AIDS 2004, (18), pg. 1867–1873.

50. Bertrand, Jane T. (2006), Systematic review of the effectiveness of mass

communication programs to change HIV/AIDS-related behaviors in developing

countries, HEALTH EDUCATION RESEARCH, (Vol.21), pg. 567–597.

51. Douek, Daniel C. (2009), Emerging concepts in the immunopathogenesis of

AIDS, Annu. Rev. Med, (Vol. 60), pg. 471-484.

52. Farr, Celeste A. (2005), The Effectiveness of Media Use in Health Education:

Evaluation of an HIV/AID RadioCampaign in Ethiopia, Journal of Health

Communication: International Perspectives, (10), pg. 225-235.

53. Gao, Yun M. & Wang S. (2007), Participatory communication and HIV/AIDS

prevention in a Chinese marginalized (MSM) population, AIDS Care:

94

Psychological and Socio-medical Aspects of AIDS/HIV, (19), pg. 799-810.

54. Jensen, Gary F. (2007), The path of the devil: Early modern witch hunts,

Rowman & Littlefield, pg. 11.

55. Jirakun, A. (1993), Risk factors to HIV infection among ethnic minorities (EM) in

north Thailand. International Conference on AIDS, Retrieved March 18, 2010.

56. Johnson, Mark R D (1996), Ethnic Minorities, Health & Communication - A

Research Review for the NHS Executive and West Midlands Regional Health

Authority, Centre for Research in Ethnic Relations, University of Warwick.

57. Karlyn, Andrew S. (2001), The Impact of a Targeted Radio Campaign to

Prevent STIs and HIV/AIDS in Mozambique, PSI Research Division, (40).

58. Kelley, R. T. & Hannans A. (2012), The Community Liaison Program: a health

education pilot program to increase minority awareness of HIV and acceptance of

HIV vaccine trials, HEALTH EDUCATION RESEARCH, (Vol.27), pg. 746–754.

59. Knipe, Mary H. & Francois Fleuryb (1999), HIV/AIDS prevention for migrants

and ethnic minorities: three phases of evaluation, Social Science & Medicine,

(Vol. 49), pg.1357-1372.

60. Link, Bruce G. & Jo C. Phelan (August 2001), Conceptualizing Stigma, Annual

Review of Sociology, (Vol. 27), pg. 363-385.

61. Macionis, J. John & Gerber M. Linda (2011), Sociology, Seventh Canadian

Edition with MySocLab, Pearson Canada Inc, Toronto, pg. 163-200.

62. Malqvist, M. & Dinh, Hoa T. P. (2013), Ethnic minority health in Vietnam: A

review exposing horizontal inequity, Glob Health Action 2013, (6).

63. Muturi, Nancy W. (2005), Cultural considerations in HIV/AIDS

communication and prevention in Kenya, Journal of Health Communication,

(10), pg. 77-98.

64. Nguyen, Huy V. et al (2012), The effect of participatory community

communication on HIV preventive behaviors among ethnic minority youth in

central Vietnam, BMC Public Health 2012, (vol.12), pg.170.

65. Noar, Seth M. (2009), A 10-Year Systematic Review of HIV/AIDS Mass

Communication Campaigns: Have We Made Progress?, Journal of Health

95

Communication, (vol.14), pg. 15–42.

66. Nettleton, Sarah (2006), The Sociology of Health and Fitness, Polity Press,

Cambridge, UK, pg. 95.

67. Onjefu Okidu (2013), A comparative study of two communication models in

HIV/AIDS coverage in selected Nigerian newspapers, Glob Health Action 2013,

(vol.6), pg. 18993.

68. Paul Cobley & Peter J. Schulz (2013), Theories and model of communication,

Walter de Gruyter.

69. Peltzer, Karl (2012), Impact of National HIV and AIDS Communication

Campaigns in South Africa to Reduce HIV Risk Behaviour, The ScientificWorld

Journal, (Vol. 2012), Article ID 384608.

70. Phan, Huong T.T., Duong T. Nguyen (2010), Impacts of mass media exposure

and language barrier on comprehensive HIV/AIDS knowledge among “Dzao”

ethnic minority in Yenbai province, Vietnam, Journal of Practical Medicine,

(Vol. 742+743), pg. 337-341.

71. Pike, Robert W. (2003), Creative Training Techniques Handbook: Tips, Tactics,

and How-To’s for Delivering Effective Training, Human Resource Development

Press, 3 edition.

72. Wess, Robin A. (May 1993), How does HIV cause AIDS?, Science, New series,

(Vol. 260), pg. 1273–1279.

73. Wheeler, Tisha (2003), Somalia HIV/AIDS Prevention, Advocacy &

Communication Framework, The World Bank and UNICEF.

74. Richard T. Schaefer, Robert P. Lamm (1998), Sociology, 6th Edition, The Mc

Graw-Hill companies, Inc, pg. 512.

75. UNAIDS (2011), UNAIDS Terminology Guidelines.

76. WHO (2014), Core epidemiological slides HIV/AIDS estimates July 2014, HIV

Department.

77. WHO (2015), HIV/AIDS definition, link:

96

http://www.who.int/topics/hiv_aids/en/, ngày cập nhật 03/06/2015.

PHỤ LỤC ẢNH

Ảnh 1: Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Tuyên Quang chuẩn bị tài liệu tuyên truyền về phòng, chống HIV/AIDS9

9 Ảnh 1: Do P.V. chụp vào ngày 02/12/2013. 10 Ảnh 2: Do Thanh Huế chụp vào ngày 15/07/2013.

97

Ảnh 2: Cán bộ Huyện đoàn Lâm Bình sử dụng tờ gấp của Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe tỉnh tuyên truyền chăm sóc sức khỏe cho người dân xã Phúc Yên10

Ảnh 3: Người dân tộc thiểu số tại huyện Lâm Bình thuộc tỉnh Tuyên Quang tham gia một buổi họp truyền thông phòng chống HIV/AIDS11

11 Ảnh 3: Ảnh do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 05/02/2015. 12 Ảnh 4: Ảnh do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 14/03/2015.

98

Ảnh 4: Một bảng hiệu tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS với nội dung chung chung và bị cỏ mọc che lấp tại huyện Yên Sơn thuộc tỉnh Tuyên Quang12

Ảnh 5: Tôi phỏng vấn sâu một phụ nữ người Hmông tại xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang13

13 Ảnh 5: Ảnh do Đặng Quốc Thắng chụp vào ngày 06/12/2013. 14 Ảnh 6: Ảnh do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 13/06/2014.

99

Ảnh 6: Một phụ nữ người Hmông không thể giao tiếp bằng tiếng Kinh và tác giả phải thực hiện phỏng vấn sâu nhờ sự trợ giúp của con gái chị cùng người phiên dịch của mình (đứng ở phía sau)14

Ảnh 7: Một bé gái người Hmông tại huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang giúp mẹ đọc các tài liệu truyền thông viết bằng tiếng Kinh15

15 Ảnh 7: Do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 15/06/2014 16 Ảnh 8: Do tôi (Lƣơng Anh Ngọc) chụp vào ngày 13/06/2014

100

Ảnh 8: Các tài liệu truyền thông đều được thiết kế bằng tiếng Kinh16

17 Ảnh do Trung tâm Công nghệ Thông tin – Sở Tài nguyên & Môi trƣờng Tuyên Quang cung cấp vào ngày 15/07/2013. Tôi đã tô màu xanh đậm vào hai huyện chọn mẫu nghiên cứu.

101

Ảnh 9: Bản đồ hành chính tỉnh Tuyên Quang (hai huyện chọn mẫu nghiên cứu được tô màu xanh đậm)17