ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------000------------------

NGUYỄN VĂN SỰ

TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY

NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ TIỀN GIANG

U N VĂN THẠC S BÁO CHÍ

Vĩnh ong – Năm 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------000--------------

NGUYỄN VĂN SỰ

TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY

NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ TIỀN GIANG

Chuyên ngành: Báo chí học

U N VĂN THẠC S BÁO CHÍ

Mã số: 8320101.01 (UD)

Chủ tịch Hội đồng chấm luận văn Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Thạc sĩ báo chí

PGS.TS. VŨ VĂN HÀ TS. Ê THỊ NHÃ

Vĩnh ong – Năm 2020

ỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự

hướng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Nhã. Các số liệu thống kê, kết quả nghiên

cứu, phát hiện mới là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công

trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Luận văn có sử dụng, phát triển, kế

thừa một số tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài

liệu… liên quan đến nội dung đề tài.

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Sự

1

ỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn Cao học, tôi đã nhận

được rất nhiều sự chỉ dẫn nhiệt tình của các thầy, cô giáo ở Viện Đào tạo Báo

chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

(ĐHQGHN) và Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tôi vô cùng quý trọng,

biết ơn sự chỉ bảo đó và xin được chân thành gửi lời tri ân đến toàn thể các

thầy, cô giáo. Đặc biệt, tôi xin ngỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Lê Thị

Nhã – người cô đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ dạy, giúp đỡ tôi hoàn thành luận

văn. Và hơn hết, trong quá trình làm luận văn, tôi đã học tập ở cô một tinh

thần nghiên cứu khoa học nghiêm túc, cẩn thận, tỉ mỉ và một thái độ làm việc

hết mình. Xin được gửi đến cô sự biết ơn và lòng kính trọng chân thành nhất.

Cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp đang công tác tại Báo Ấp Bắc, Báo

Nhân Dân…là những người luôn sẵn sàng giúp đỡ tôi, tạo điều kiện để tôi

tham gia hoàn thành chương trình đào tạo sau đại học, đồng thời cung cấp

những tư liệu cho tôi trong quá trình viết luận văn. Cảm ơn gia đình và những

người thân yêu đã luôn tin tưởng, động viên và ủng hộ tôi.

Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn chắc chắn không tránh khỏi

những hạn chế nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp chân

thành của Hội đồng khoa học, của quý thầy, cô giáo, cùng với sự góp ý của

bạn bè, đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện có chất lượng tốt hơn.

Tiền Giang, tháng 10 năm 2020

Nguyễn Văn Sự

2

MỤC ỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 4 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................................................... 5 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 12 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 12 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 13 6. ngh a lý luận và giá trị thực ti n của đề tài .................................................................. 13 7. Cấu trúc của luận văn: ..................................................................................................... 14 Chƣơng 1: CƠ SỞ Ý U N VỀ TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ. ........................................................................ 16 1.1. Khái niệm về truyền thông quảng bá ............................................................................ 16 1.2. Khái niệm, đặc điểm về nông sản ................................................................................. 20 1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về nông sản ................................................. 24 1.4. Vấn đề đặt ra cho công tác truyền thông quảng bá nông sản .............................................. 28 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ TIỀN GIANG ..................................................................... 33 2.1. Khái quát Báo chí Tiền Giang. ..................................................................................... 33 2.2. Thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang ................................................................................................... 37 2.3. Đánh giá thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ ........................ 57 Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TIỀN GIANG TRONG VIỆC TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ ........................................................... 63 3.1. Những vấn đề đặt ra về truyền thông quảng bá nông sản của các tờ báo ở Việt Nam nói chung và Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang nói riêng .......................................... 63 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác truyền thông quảng bá nông sản trên báo chí Tiền Giang hiện nay ......................................................................................... 66 3.3. Khuyến nghị: ................................................................................................................. 75 KẾT U N ......................................................................................................................... 83 TÀI IỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 86 PHỤ ỤC ............................................................................................................................ 90

3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. ý do chọn đề tài

Miền Tây Nam Bộ được mệnh danh là vựa lúa, vựa trái cây, vựa thủy

sản của quốc gia. Theo số liệu thống kê của Tổng Cục thống kê, hàng năm,

vùng này đóng góp 40% giá trị sản xuất nông nghiệp, trên 50% sản lượng lúa,

90% sản lượng gạo xuất khẩu, 70% sản lượng trái cây, 30% diện tích rau

màu, chiếm 18% GDP cả nước và thu ngoại tệ hàng năm khoảng 3 tỉ USD.

Nhiều loại nông sản của miền Tây Nam Bộ xây dựng được thương hiệu và

người tiêu dùng đón nhận như: xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn V nh Kim,

thanh long Chợ Gạo, khóm Tân Phước, bưởi Năm Roi, quýt hồng Lai Vung…

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước luôn có những chủ

trương, chính sách nhằm phát triển mạnh mẽ các mặt hàng nông sản; ngành

chuyên môn tăng cường xúc tiến thương mại nhằm đưa thương hiệu nông sản

của miền Tây Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung đến gần hơn với người

tiêu dùng trong, ngoài nước. Tuy nhiên, trước bối cảnh kinh tế thị trường,

nước ta hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng. Vì vậy, việc cạnh

tranh các loại nông sản trên thị trường ngày càng khốc liệt hơn. Trong khi,

thực tế hiện nay, nhiều sản phẩm nông sản của chúng ta chưa tham gia chuỗi

giá trị quốc tế, chưa có hợp đồng dài hạn. Mặc dù, sản lượng xuất khẩu với số

lượng lớn nhưng rất bấp bênh và phụ thuộc quá nhiều vào sự may rủi của thị

trường nhập khẩu. Sản xuất và xuất khẩu nông sản không theo nhu cầu thị

trường, chạy theo số lượng, không coi trọng chất lượng, sản xuất không kết nối

với thị trường… Đây là hậu quả của quá trình canh tác nhỏ lẻ, mang tính tự

phát, chưa giải quyết được việc sản xuất và nhu cầu thị trường. Từ đó, nông

dân liên tục gặp phải điệp khúc “được mùa - mất giá; được giá - mất mùa”.

Cùng với sự nỗ lực của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và các địa

phương trong việc xây dựng và tạo nên thế mạnh cho các mặt hàng nông sản

4

của chúng ta, trong những năm qua, báo chí cả nước nói chung và báo chí

Tiền Giang nói riêng đã có những đóng góp quan trọng trong việc truyền

thông quảng bá nông sản đến với các doanh nghiệp, người dân trong và ngoài

nước. Nhiều tác phẩm báo chí đã giúp cho chúng ta có thêm kinh nghiệm hiểu

biết, nâng cao được nhận thức về tầm quan trọng của mặt hàng nông sản trong

thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy vậy, công tác truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ

trên báo chí Tiền Giang còn nhiều vấn đề đặt ra khi mà doanh nghiệp và

người dân chưa thật sự quan tâm đến vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi cho rằng

việc nghiên cứu truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ hiện nay

là cần thiết nhằm giúp cho báo chí Tiền Giang hiểu và đáp ứng đầy đủ nhu

cầu thông tin đến công chúng cũng như tìm ra một giải pháp phù hợp để công

chúng tiếp nhận các sản phẩm nông sản của địa phương sản xuất ra một cách

tốt nhất, góp phần tăng cường tiêu thụ sản phẩm, tạo đầu ra phát triển bền

vững cho nông sản miền Tây Nam Bộ.

Xuất phát từ những yêu cầu đặt ra, tác giả lựa chọn đề tài: “Truyền

thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên báo chí Tiền Giang (Khảo

sát Báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang; Năm 2018)” làm luận

văn thạc s chuyên ngành Báo chí học – Định hướng ứng dụng.

2. T nh h nh nghi n c u li n quan đ n đề tài

Việt Nam xuất phát điểm là một nước nông nghiệp. Nội dung trọng điểm

của công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cũng từ nền móng của

công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân. Trong đó, vùng đất

Tây Nam Bộ là điểm của nền nông nghiệp cả nước, là nơi quy tụ nhiều loại

nông sản đặc trưng của cả nước, với số lượng rất lớn.

Chính những lợi thế đó đã gợi mở cho các nhà khoa học, nhà quản lý đi

sâu vào nghiên cứu. Ngoài ra, nhiều đề tài luận văn cũng đã đề cập đến nền

5

nông nghiệp của vùng đất này. Các đề tài này nghiên cứu chung chung về vấn

đề nông nghiệp Tây Nam Bộ, các chính sách đầu tư vào nông nghiệp khu vực

Tây Nam Bộ. Theo người viết tìm hiểu thì chưa có luận văn nào nghiên cứu

toàn diện, sâu sắc về vai trò và những tác động trong công tác truyền thông

quảng bá nông sản địa phương trên báo chí miền Tây Nam Bộ. Tuy vậy, có

thể điểm qua các công trình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề sau:

* Những vấn đề nghiên cứu chung:

1. Nguy n Uyển (2001), “Nông nghiệp, nông dân và nông thôn-Nguồn

đề tài phong phú của báo chí” trong cuốn “xử lý thông tin-việc của nhà báo”,

NXB Văn hóa - Thông tin, đã đề cập vai trò, trách nhiệm của báo chí trong

việc phản ánh, cung cấp thông tin đặc biệt là những vấn đề về tiêu thụ sản

phẩm nông nghiệp, ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế…

2. TS. Nguy n Từ chủ biên (2008), “Tác động của hội nhập kinh tế đối

với phát triển nông nghiệp Việt Nam” đề cập đến vấn đề hội nhập WTO có

những tác động tích cực và tiêu cực đối với nền nông nghiệp Việt Nam, trong

đó liên quan nhiều tới sản xuất và tiêu thụ nông sản…

3. GS-TS Trần Thượng Tuấn (1994), Cây ăn trái Đồng bằng sông Cửu

Long, Sở Khoa học – Công nghệ & Môi trường An Giang, tại xí nghiệp in An

Giang khẳng định cây lúa ở vùng Tây Nam Bộ vẫn là loại nông sản chủ lực.

Tuy nhiên, nhà nước không nên chú trọng vào diện tích mà cần phải nâng cao

chất lượng hạt gạo, tính đến giá trị xuất khẩu. Ngoài ra, nội dung sách cũng đề

cập đến việc đa dạng hóa các loại cây trồng bằng việc chuyển đổi diện tích lúa

kém chất lượng sang trồng một số loại cây ăn trái, rau màu có giá trị kinh tế

cao hơn.

4. Trần Hữu Hiệp (2014), Tái cơ cấu nông nghiệp-Góc nhìn từ vựa lúa

Quốc gia, NXB Thông tấn, đã khái quát những trăn trở từ vựa lúa Quốc gia,

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hạt gạo bị cắn làm tám, “chiếc bánh” nông sản

6

thời hội nhập, dán nhãn trách nhiệm, “quả táo cắn dở” của Mỹ và trái cây

Việt, nước mắt của cây, tầm nhìn dài hạn cho đồng bằng sông Cửu Long: an

toàn, phú trú và bền vững.

5. PGS.TS Nguy n Minh Châu: Người nặng lòng với sự phát triển cây

ăn quả. Cuốn kỷ yếu này đã nêu PGS.TS Nguy n Minh Châu, Nguyên Viện

trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam đặt nền móng cho ngành cây ăn quả hiện

đại, kịp đà phát triển của thế giới thông qua các mối quan hệ hợp tác quốc tế.

PGS.TS đã có đóng góp rất lớn cho việc phát triển của ngành Nông nghiệp

nói chung và cây ăn trái nói riêng như: giúp sản xuất nề nếp hơn, xuất khẩu

rau quả luôn tăng theo từng năm. PGS.TS đã đào tạo một đội ngũ cán bộ

nghiên cứu có tay nghề tốt, yêu nghề, tâm huyết và gắn bó nghề với bà con

nông dân.

6. Tập thể tác giả, Đặng Đức Thành (chủ biên), (2009), “Nông dân dựa

vào đâu?”, NXB Chính trị Quốc gia. Cuốn sách đã đề cập khá cụ thể những

vấn đề thiết thực đối với sự phát triển nông nghiệp và nâng cao đời sống của

nông dân, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, nhiều nội

dung phân tích nguyên nhân giá đầu vào của nông sản phẩm luôn tăng cao -

các biện pháp hạn chế, giải quyết vấn đề chủ động “tiền” cho người nông dân,

liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long để đương

đầu với những thử thách khi gia nhập WTO, nông nghiệp trụ đỡ nền kinh tế

trong suy thoái; để nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long phát triển, nông

thôn tiến bộ, nông dân khá giả trong cuộc phát triển bền vững ở nước ta.

7. Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và báo thương mại (2007),

“Vai trò của doanh nghiệp xuất khẩu trong tiến trình Việt Nam hội nhập kinh

tế quốc tế”, đã có những bài viết chuyên sâu về những nguyên tắc, khó khăn,

thuận lợi cho doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra nước ngoài,

trong đó có nông sản…

7

8. Nguy n Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ

đổi mới, NXB Thống kê. Cuốn sách đã cung cấp cho chúng ta hệ thống tư liệu

về phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như là một Niên giám thống kê

nông nghiệp thu nhỏ; chỉ ra những vấn đề đầu tư, vấn đề phân hóa giàu

nghèo, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu nông sản.

* Về các công trình nghiên cứu có liên quan:

1. Tác giả Nguy n Văn Giang có đề tài nghiên cứu: “Truyền thông về vệ

sinh an toàn thực phẩm nông sản tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn” trong luận văn thạc s , chuyên ngành quan hệ công chúng năm 2013

của Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Luận văn đã hệ thống hóa những vấn

đề lý luận và thực ti n về hoạt động truyền thông nói chung và về vấn đề vệ

sinh an toàn thực phẩm nông sản nói riêng; khảo sát, phân tích và đánh giá

thực trạng hoạt động truyền thông về vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản tại

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với những ưu điểm cần được phát

huy, những hạn chế cần khắc phục và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế

đó; chỉ ra những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động truyền

thông về vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản tại Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn trong giai đoạn hiện nay.

2. Tác giả Thái Thu Quyên có đề tài nghiên cứu: “Quảng bá du lịch Hàn

Quốc thông qua các chiến dịch truyền thông: thực tiễn và những bài học kinh

nghiệm đối với Việt Nam hiện nay”, trong luận văn thạc s , chuyên ngành

Quan hệ công chúng của Học viện Báo chí và Tuyên truyền năm 2015. Tác

giả của luận văn này đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quảng bá du

lịch quốc gia thông qua các chiến dịch truyền thông; khảo sát thực trạng

quảng bá du lịch Hàn Quốc và đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả trong việc truyền thông quảng bá hình ảnh du lịch tại Việt Nam.

8

3. Tác giả Lê Thị Huê có đề tài nghiên cứu: “Nhu cầu sử dụng thông tin

nông nghiệp nông thôn của nông dân” trong luận văn thạc s , chuyên ngành

xã hội học năm 2011, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học

Quốc gia Hà Nội. Luận văn nêu thực trạng tiếp cận thông tin nông nghiệp

nông thôn của nông dân với đúc kết: nông dân rất quan tâm các thông tin

phục vụ sản xuất nông nghiệp, thị trường nông sản và xa lạ các thông tin

chính sách. Các kênh tiếp nhận thông tin, thời gian thích hợp theo dõi… của

nông dân cũng được nghiên cứu và đi đến kết luận: nông dân rất mong muốn

tìm kiếm thông tin nông nghiệp.

4. Tác giả Lê Thị Thanh Hương cũng có đề tài luận văn thạc s : “Xây

dựng mô hình tổ liên kết sản xuất để chuyển giao kết quả nghiên cứu nuôi

thủy sản cho nông dân vùng Đồng Tháp Mười tỉnh Long An”, chuyên ngành

Quản lí Khoa học và công nghệ, trường Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã chỉ ra rằng, Tổ liên kết sản

xuất trong nông nghiệp, nông thôn là những hình thức phổ biến trong thành

phần kinh tế tập thể. Nó phù hợp với yêu cầu của sản xuất kinh doanh, phù

hợp với đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần với sự sở

hữu khác nhau. Đây là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất

hàng hoá càng phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường càng gay gắt

thì những người lao động riêng lẻ, các hộ cá thể càng có yêu cầu phải liên kết

hợp tác với nhau, nếu không khó có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên ở luận

văn này, chưa nhìn thấy được sự tác động của báo chí truyền thông trong “xây

dựng mô hình”, bởi đó là kênh thông tin hiệu quả nhằm phát hiện, đánh giá và

nhân rộng các mô hình. Để giải quyết những tồn tại trong sản xuất tập thể

không mấy tích cực đối với nông dân trước đây và thực tế nhu cầu sản xuất

hàng hóa lớn – nông dân cần liên kết tạo thành sức mạnh, thì vai trò lý giải,

thuyết phục của báo chí là vô cùng lớn.

9

5. Tác giả Lê Thái Hà với đề tài luận văn thạc s : “Vấn đề nông nghiệp,

nông dân, nông thôn trên báo in hiện nay”, chuyên ngành báo chí học,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, do

PGS.TS Đinh Văn Hường hướng dẫn khoa học. Luận văn cung cấp một số

vấn đề lí luận về nội dung “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” theo tinh thần

Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X); bổ sung và làm rõ hơn hệ thống lí luận về

vai trò, chức năng của báo chí trong điều kiện mới và nhiệm vụ tuyên truyền

đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống trên báo in. Cách thức tổ chức tác

phẩm, biện pháp tuyên truyền trên báo in đạt hiệu quả. Luận văn góp phần

làm rõ nội dung nhận thức về Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn Việt Nam

và vị trí của “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” trong sự nghiệp đổi mới,

phát triển đất nước thông qua hoạt động báo chí truyền thông. Qua đó khẳng

định những đóng góp của báo in trong việc tuyên truyền đưa nghị quyết của

Đảng vào cuộc sống và trách nhiệm nâng cao chất lượng tuyên truyền về

“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” trên báo in, chỉ ra những biện pháp khả

thi cho quá trình này.

6. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiếp cận được luận văn thạc s

của Bùi Thị Hồng Vân, năm 2011, do PGS.TS Vũ Quang Hào hướng dẫn với

đề tài: “Vấn đề chỉ dẫn – tư vấn khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân

trên báo chí Việt Nam”. Luận văn phân tích thực trạng chỉ dẫn – tư vấn Khoa

học k thuật nông nghiệp cho nông dân trên báo chí Việt Nam , những mặt

được và chưa được. Từ đó, đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả chỉ dẫn

– tư vấn Khoa học k thuật nông nghiệp cho nông dân trên báo chí Việt Nam.

Có tính ứng dụng thực ti n cao cho các phương tiện truyền thông về chỉ dẫn –

tư vấn KHKT nông nghiệp cho nông dân ở Việt Nam và trong luận văn này

chúng tôi tham khảo một số tư liệu.

10

7. Tác giả Trần An Phước nghiên cứu Báo in địa phương với việc phát

triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong Luận văn Thạc s

Báo chí học năm 2012 do PGS.TS Đinh Văn Hường hướng dẫn. Luận văn đã

làm sáng tỏ sự tác động của báo in địa phương, chỉ ra được hiệu quả của nó

với việc phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long. Nêu được ưu

điểm, cũng như khuyết điểm, hạn chế của báo in với phát triển nông nghiệp

đồng bằng sông Cửu Long. Nhận diện công chúng báo in đồng bằng sông

Cửu Long. Rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả truyền thông của báo in đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó

phục vụ ngày càng thiết thực cho bà con nông dân, đóng góp tích cực vào sự

phát triển bền vững của nền nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long. Luận

văn của Trần An Phước khá tương đồng với đề tài nghiên cứu nên có một số

tư liệu chúng tôi sử dụng tham khảo.

8. Tác giả Lê Minh Tuấn có đề tài nghiên cứu Báo chí Đồng bằng sông

Cửu Long với vấn đề truyền thông, quảng bá sản phẩm nông nghiệp địa

phương do PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng hướng dẫn vào năm 2015. Đề tài đã hệ

thống hóa lý thuyết và cơ sở thực ti n của vấn đề báo chí truyền thông, quảng

bá sản phẩm nông nghiệp, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của

các sản phẩm báo chí thuộc diện khảo sát trong việc truyền thông, quảng bá

sản phẩm nông nghiệp của địa phương hiện nay, đề xuất giải pháp đổi mới

phương thức truyền thông, quảng bá sản phẩm nông nghiệp địa phương trên

báo chí Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.

Có thể nói, các công trình nghiên cứu đề tài khoa học về vùng đất Tây

Nam Bộ khá nhiều. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu về nông nghiệp rất ít, vai trò

và tác động trong việc truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ

trên báo chí địa phương lại càng không có. Chính điều này, người thực hiện

mong muốn đây là một trong những đề tài tạo nên bước đột phá lớn cho công

11

tác truyền thông của Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang nói riêng và

báo, đài cả nước nói chung trong thời gian tới.

3. M c đích nhiệm v nghi n c u

- Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở hình thành khung lý thuyết về truyền thông quảng bá nông

sản miền Tây Nam Bộ, luận văn khảo sát, phân tích thực tế và đánh giá thực

trạng trong công tác truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên

báo chí Tiền Giang. Luận văn cũng hướng tới mục đích tìm kiếm những

khuyến nghị khoa học nhằm tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả tác động

của báo chí đối với quá trình phát triển của kinh tế nông nghiệp nói chung và

nông sản miền Tây Nam Bộ nói riêng.

- Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên, luận văn có những nhiệm

vụ sau:

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về truyền thông, quảng bá, nông sản;

chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước, tức là làm rõ những khái niệm

cơ bản của đề tài nghiên cứu.

Thu thập và phân tích những kết quả khảo sát, nghiên cứu thực trạng đối

với công tác truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên Báo Ấp

Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang.

Qua kết quả khảo sát và phân tích, luận văn đưa ra một số khuyến nghị,

giải pháp nâng cao hoạt động thông tin báo chí về truyền thông quảng bá

nông sản trên báo chí Tiền Giang.

4. Đối tƣ ng phạm vi nghi n c u

- Đối tư ng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là truyền thông quảng bá nông sản

miền Tây Nam Bộ trên báo chí Tiền Giang.

12

- Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây

Nam Bộ trên Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang; năm 2018.

5. Phƣơng pháp nghi n c u

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ ngh a Mác – Lênin

và Tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với hệ thống các quan điểm, đường lối, chủ

trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phát triển nông

nghiệp nói chung, nông sản nói riêng.

Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng tổng hợp các

phương pháp nghiên cứu sau đây:

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tiếp cận các giáo trình, các tài liệu và

các công trình nghiên cứu của những người đi trước, từ đó rút ra những vấn

đề lý luận cần thiết .

Phương pháp phân tích nội dung: Từ các tác phẩm được đăng trên Báo

Ấp Bắc điện tử và phát trên Đài PT – TH Tiền Giang, chúng tôi tiến hành tìm

kiếm dữ liệu cho việc mô tả và phân tích thực trạng, ưu điểm, hạn chế của

hoạt động truyền thông quảng bá nông sản các địa phương ở miền Tây Nam

Bộ trên các sản phẩm báo chí thuộc diện khảo sát.

Phương pháp phỏng vấn sâu: Chúng tôi sẽ thực hiện khảo sát bằng

phỏng vấn trực tiếp tổng biên tập (hoặc phó tổng biên tập) báo, Giám đốc

(hoặc Phó Giám đốc đài); các phóng viên chuyên trách viết về đề tài nông

sản, biên tập viên phụ trách biên tập l nh vực kinh tế nông nghiệp của Báo Ấp

Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang. Mục đích của phương pháp này là thu

thập dữ liệu định tính phục vụ cho đề tài nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài

- ngh a l luận

13

Luận văn nghiên cứu mong muốn làm rõ vai trò truyền thông trong mối

tương quan với l nh vực nông sản. Quan điểm của báo chí Tiền Giang muốn

hướng đến độc giả là đẩy mạnh tuyên truyền các nội dung có liên quan đến

vấn đề nông nghiệp nói chung, vấn đề nông sản nói riêng. Luận văn dựa trên

những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về l nh vực nông nghiệp

như: các kỳ Đại hội của Đảng (từ Đại hội V đến sau Đại hội VIII) và giai

đoạn hiện nay; Nghị quyết 26-NĐ/TW của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành

Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị định

98/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến khích liên kết, hợp tác trong sản xuất,

trong đó quy định rất cụ thể liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản; Nghị

định 116/2018/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nội dung của

Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ với nhiều chính sách khuyến khích

sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao, các mô hình liên

kết sản xuất theo chuỗi giá trị...

- Giá trị thực tiễn

Những kết quả nghiên cứu thực ti n trên báo chí Tiền Giang về vấn đề

truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ, luận văn mang đến một

cái nhìn sâu hơn về vai trò của báo chí đối với việc quảng bá nông sản địa

phương hiện nay. Qua đó, các cơ quan báo chí có thể nhận thức và có hướng

đi đúng trong việc lựa chọn phương thức để truyền thông quảng bá nông sản

cho địa phương mình.

7. Cấu trúc của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn được

kết cấu 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về truyền thông quảng bá nông sản miền Tây

Nam Bộ trên báo chí.

14

Chương 2: Thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam

Bộ trên báo chí Tiền Giang.

Chương 3: Một số vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm nâng cao vai trò

của báo chí Tiền Giang trong việc truyền thông quảng bá nông sản miền Tây

Nam Bộ.

15

Chƣơng 1: CƠ SỞ Ý U N VỀ TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ

NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ.

1.1. Khái niệm về truyền thông quảng bá

- Khái niệm truyền thông

Truyền thông là một dạng căn bản của hành vi con người trong xã hội.

“Đó là cơ chế để các liên hệ của con người tồn tại và phát triển”. Khái niệm

truyền thông được sử dụng ở nhiều l nh vực. Theo ngh a rộng nhất, nó là sự

tạo ra mối liên hệ giữa các đối tượng có thể mang bản chất sự sống hay

không. Khái niệm này không chỉ ứng dụng cho các quy trình hóa học, các

trường lực vật lý, các quá trình tâm lý mà còn cho các phương thức, hành vi

trong xã hội.

Quá trình truyền thông nhằm thực hiện sự trao đổi qua lại về kinh

nghiệm, tri thức, tư tưởng, ý kiến, tình cảm. Người ta có thể sử dụng các hệ

thống ký hiệu khác nhau theo dạng phi ngôn từ hoặc ngôn từ để thông báo.

“Truyền thông là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin,

tình cảm, k năng... nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong

hành vi và nhận thức” [45,tr.13].

Còn theo Nguy n Văn Dững và Đỗ Thị Thu Hằng trong tác phẩm

“Truyền thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản” (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

2012) thì: “Truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình

cảm... chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tang

cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và

thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân/nhóm/cộng đồng/xã hội”

[41, tr.125].

Về phương diện lý thuyết, truyền thông là một trong những khái niệm cơ

bản, chiếm vị trí trung tâm, nền tảng trong hệ thống lý luận báo chí - truyền

thông nói chung. Trên phương diện thực ti n, truyền thông đang là một bộ

16

phận xã hội rất quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề chính trị - kinh tế -

văn hóa - xã hội hàng ngày trên phạm vi quốc gia, phạm vi quốc tế, khu vực

hay trong khuôn khổ gia đình.

Theo PGS.TS Nguy n Văn Dững, truyền thông ở bình diện tổng quát

được hiểu là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, chia sẻ

kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm góp phần nâng cao

(thay đổi) nhận thức, mở rộng hiểu biết, tiến tới thay đổi thái độ và hành vi

của công chúng. Bản chất xã hội của truyền thông là tương tác và chia sẻ,

thực hiện những cuộc vận động xã hội trên cơ sở tương tác bình đẳng giữa

chủ thể và khách thể nhằm hướng tới mục tiêu chung vì lợi ích cộng đồng [4,

tr.32]. Truyền thông là một trong những kênh quan trọng nhất, thể hiện rõ

nhất tính công khai, dân chủ hóa đời sống xã hội. Các kênh truyền thông rất

đa dạng, nhưng về cơ bản có các dạng thức như: truyền thông cá nhân, truyền

thông nhóm và truyền thông đại chúng [4, tr.33].

Có thể nói, yêu cầu quan trọng nhất của hoạt động truyền thông chính là

góp phần làm thay đổi nhận thức của công chúng xã hội, làm cho nhận thức

của nhân dân từ chưa đúng đến đúng đắn hơn, từ nông đến sâu, từ nhiều khác

biệt đến nhiều tương đồng hơn. Và cuối cùng là thống nhất nhận thức, tạo ra

đồng thuận để hình thành thái độ chung, niềm tin, ý chí làm cơ sở cho hành

động của đông đảo quần chúng tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra trong

quá trình phát triển; tạo lập, gây dựng niềm tin và ý chí cho hàng triệu người là

mục tiêu quan trọng nhất của công tác truyền thông. Trước hết, truyền thông là

làm cho công chúng tin cậy vào báo chí thông qua việc cung cấp thông tin nóng

hổi, chân thực, nhiều chiều và hoạt động công chúng một cách chuyên nghiệp.

Hiệu quả tác động của báo chí qua đó cũng chịu sự chi phối, phụ thuộc của

nhiều yếu tố, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và từ chủ quan đến khách

quan... thể hiện theo các bình diện như: Giao diện, tần suất, cường độ giao tiếp

17

của công chúng với các sản phẩm báo chí - truyền thông; năng lực tác động,

khả năng chi phối của các ấn phẩm báo chí đối với cộng đồng thông qua việc

khơi nguồn, thể hiện - truyền dẫn, định hướng và điều hòa dư luận xã hội; mối

quan hệ tác động phản hồi - quan hệ ngược (feedback) của công chúng đối với

các ấn phẩm báo chí cũng như thông điệp truyền thông; vai trò của báo chí -

truyền thông trong việc xã hội hóa cá nhân, trong việc hình thành, thể hiện diện

mạo của văn hóa cộng đồng cũng như góp phần hoàn thiện nhân cách của mỗi

con người; khả năng thuyết phục, tập hợp và tổ chức công chúng tham gia giải

quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đang đặt ra.

- Khái niệm về quảng bá

Quảng bá có ngh a là phổ biến rộng khắp cho mọi người đều biết thông

qua các phương tiện tuyên truyền, báo chí và truyền thông.

Từ quảng bá ở đây có thể được được hiểu như một chiến dịch quảng bá

rầm rộ nhằm giới thiệu một sản phẩm hay dịch vụ nào đó của doanh nghiệp,

người nông dân đến quảng đại công chúng. Quảng bá là quảng cáo và truyền

bá. Quảng bá là để giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhằm thu hút được

nhiều khách hàng tham gia vào chương trình hay chiến dịch quảng cáo đó [42,

tr.15].

Quảng bá là để tạo sức mạnh cho thương hiệu, sức mạnh từ sự thực hiện

tốt được các chức năng, sức mạnh từ sự nhận biết của khách hàng và công

chúng về sản phẩm nông nghiệp thông qua thương hiệu, nhãn hiệu. Quảng bá

bao gồm các hoạt động chính là: quảng cáo, khuyến mại, chào hàng và giao tế

(quan hệ công chúng). Các nội dung này có thể được sử dụng riêng hoặc phối

hợp với nhau và chúng được thực hiện dựa trên những quy tắc nhất định của

một quá trình truyền thông giao tiếp.

18

Còn từ điển tiếng Việt, quảng bá có ngh a là phổ biến rộng khắp cho mọi

người đều biết thông qua các phương tiện tuyên truyền, báo chí và truyền

thông [42, tr15].

Theo PGS.TS Lê Thanh Bình trong cuốn Báo chí truyền thông và kinh tế

văn hóa xã hội, quảng bá là để giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhằm

thu hút được nhiều khách hàng tham quan vào chương trình hay chiến dịch

quảng cáo đó [43, tr.9-10].

Như vậy, quảng bá ở đây được hiểu là hoạt động truyền bá thông qua các

phương tiện báo chí truyền thông. Mục đích để đưa ra các sản phẩm đến được

với công chúng cảm nhận về sản phẩm và giá trị tiêu dùng của từng sản phẩm

đó. Hoạt động truyền thông quảng bá chỉ có ý ngh a khi nó kích thích được

lợi ích của đối tượng tiếp nhận, thuyết phục họ về mặt nhận thức, tạo cho họ

hành động chung. Từ ý ngh a đó, người ta nhận thấy khả năng truyền bá rộng

lớn của hoạt động truyền thông, đặc biệt là các phương tiện truyền thông đại

chúng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển, trong đó có cả vấn đề

truyền thông quảng bá nông sản.

Các phân tích về cơ chế từ tác động truyền thông đối với hành động của

con người cho thấy: bằng việc cung cấp thông tin, kiến thức thông qua các

kênh, hay một con đường nào đó đến với đối tượng tiếp cận, đối tượng tiếp

nhận hiểu và có khả năng làm theo sự chỉ dẫn của thông tin đã tạo nên hành

động của các cá nhân và các tập đoàn người.

Sự quảng bá thông tin được thực hiện trong quá trình truyền thông luôn

luôn gắn liền với các điều kiện xã hội cụ thể, trong đó di n ra các hoạt động

sống với các phương thức sinh hoạt gắn liền với quá trình phát triển của xã

hội, đóng vai trò quan trọng, góp phần làm cho con người tự nhiên trở thành

con người xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng.

19

1.2. Khái niệm đặc điểm về nông sản

- Khái niệm về nông sản

Nông sản là một trong những hàng hóa thiết yếu, không thể thiếu đối với

sản xuất và tiêu dùng của người dân ở mỗi quốc gia, có nhiều quan điểm khác

nhau về nông sản, cụ thể như sau:

Theo quan điểm của liên minh châu Âu: Mặc dù không đề cập đến một

định ngh a cụ thể nào về nông sản, nhưng đã đưa ra một danh sách các mặt

hàng được coi là nông sản bao gồm: động vật sống, thịt và phụ phẩm dạng thịt

ăn được sau khi giết mổ, sản phẩm từ sữa, các sản phẩm có nguồn gốc từ

động vật, cây sống và các loại cây trồng khác, rau, thâm, củ và quả có thể ăn

được; cà phê, chè, phụ gia và các loại gia vị; ngũ cốc, các sản phẩm xay xát,

hạt và quả có dầu; nhựa cánh kiến đỏ, gôm, nhựa cây và các chất nhựa các

loại rau khác; mỡ, dầu động vật hoặc thực vật; các chế phẩm từ thịt; đường và

các loại kẹo đường; ca cao và các chế phẩm từ ca cao; các chế phẩm từ ngũ

cốc, tinh bột, bột; các chế phẩm từ rau, hoa quả và thực vật; các phụ gia có thể

ăn được hỗn tạp; đồ uống, rượu mạnh và giấm; thuốc lá và các sản phẩm

tương tự. Từ danh mục các mặt hàng trên cho thấy, quan điểm của EU về cơ

bản có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của WTO, tuy nhiên, nếu so

sánh với quan điểm nông sản của FAO thì quan điểm về nông sản theo WTO

có điểm khác biệt là có tính cho một số mặt hàng chế biến.

Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, nông sản bao gồm các sản phẩm từ hàng

hóa chưa chế biến như đỗ tương, ngũ cốc, lúa mỳ, gạo và bông thô đến các

thực phẩm và đồ uống đã được chế biến có giá trị cao như: xúc xích, bánh, bia

rượu, các đồ gia vị được bán lẻ trong các cửa hàng, tiệm ăn.

Theo Tổ chức nông lương thế giới, nông sản phẩm/sản phẩm có nguồn

gốc nông nghiệp là bất kỳ sản phẩm hay hàng hóa nào, dù là thô hay đã chế

20

biến, được trao đổi trên thị trường cho mục đích tiêu dùng của con người

(không kể nước, muối và các chất phụ gia) hay thức ăn cho động vật.

Trong từ điển tiếng Việt, nông sản được định ngh a là những sản phẩm

hoặc bán thành phẩm của ngành sản xuất hàng hóa thông qua gây trồng và

phát triển của cây trồng. Sản phẩm nông nghiệp bao gồm nhiều nhóm hàng

thực phẩm, tơ sợi, nhiên liệu, nhiên vật liệu, dược phẩm và ma túy bất hợp

pháp (thuốc lá, cần sa), các sản phẩm độc đáo, đặc thù. Ngày nay, nông sản

còn hàm ngh a những sản phẩm từ hoạt động làm vườn và thực tế nông sản

thường được hiểu là những sản phẩm hàng hóa được làm ra từ tư liệu sản xuất

là đất.

Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguy n Như chủ biên, nông sản (nông

phẩm) là sản vật, sản phẩm nông nghiệp nói chung [50,tr.14].

Theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP của Chính phủ về cơ chế, chính sách

khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thì nông sản là

sản phẩm của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp.

Trong thực ti n thương mại thế giới, nông sản thường được chia thành

hai nhóm: nông sản nhiệt đới và còn lại. Cho đến nay, chúng ta chưa có định

ngh a thống nhất thế nào là nông sản nhiệt đới nhưng những loại nguyên liệu

đồ uống (như chè, cà phê, ca cao), bông và nhóm có sợi khác (đay, lanh),

những loại trái cây (chuối, xoài, ổi và một số loại khác) được xếp vào nhóm

nông sản nhiệt đới. Trên thực tế, nông sản nhiệt đới được sản xuất chủ yếu

bởi các nước đang phát triển.

Theo Viện Cây ăn quả miền Nam (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn), nông sản chính là các sản phẩm từ ngành nông nghiệp. Do đó, muốn

tìm hiểu về nông sản, chúng ta có thể xuất phát từ nông nghiệp. Vì vậy, nông

nghiệp theo ngh a hẹp bao gồm hai ngành trồng trọt và chăn nuôi, song theo

ngh a rộng bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp. Tương tự như vậy,

21

sản phẩm nông nghiệp nếu hiểu theo ngh a hẹp chỉ gồm sản phẩm của hai

ngành trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng nếu hiểu theo ngh a rộng gồm cả sản

phẩm ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp.

Tổng hợp từ các quan điểm trên cho thấy: nông sản là sản phẩm của hoạt

động sản xuất nông nghiệp, bao gồm thành phẩm hay bán thành phẩm thu

được từ cây trồng, vật nuôi hoặc sự phát triển của cây trồng, vật nuôi. Đây là

khái niệm rộng và tương đối phức tạp, vì thể để phù hợp với nội dung nghiên

cứu, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu một số loại nông sản có thế mạnh của

miền Tây Nam Bộ và được tuyên truyền trên báo chí Tiền Giang.

- Đặc điểm về nông sản miền Tây Nam Bộ

Miền Tây Nam Bộ là một trong bảy vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Vùng này có diện tích tự nhiên 39,713 km2 (chiếm 12% diện tích của quốc

gia), dân số chiếm trên 21%. Miền Tây Nam Bộ có 12 tỉnh và 1 thành phố:

Long An, Tiền Giang, V nh Long, Bến Tre, Đồng Tháp, Trà Vinh, An Giang,

Hậu Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau và TP. Cần Thơ.

Kinh tế của khu vực miền Tây Nam Bộ chủ yếu dựa vào nông nghiệp và

thủy sản. Thật vậy, vùng đất này là vựa lúa của quốc gia và cũng là nơi sản

xuất thủy sản lớn nhất Việt Nam. Các ngành hàng chủ lực vùng đất miền Tây

Nam Bộ bao gồm: lúa-gạo, trái cây, cá tra, tôm và rau màu. Cụ thể, năm 2017,

diện tích trồng lúa toàn vùng khoảng 4,3 triệu ha (chiếm 55,1% diện tích trồng

lúa cả nước), với sản lượng 24,2 triệu tấn (chiếm 55,5 sản lượng lúa quốc gia)

và kim ngạch xuất khẩu gạo cả nước đạt 2,2 tỷ USD (trong đó, Tây Nam Bộ

chiếm 91,5%) qua 45 quốc gia. Riêng trái cây, năm 2017, diện tích có khoảng

300.000 ha (chiếm 36,6% diện tích cây ăn trái của cả nước), sản lượng đạt gần

4 triệu tấn (chiếm 42,4% sản lượng trái cây quốc gia); trong đó có trên 185.000

ha diện tích trái cây đặc sản (chiếm 64,6% diện tích cây ăn trái đặc sản của khu

vực Nam Bộ), với 13 chủng loại trái cây trong “Top 50” loại trái cây đặc sản

22

của Việt Nam bao gồm: thanh long, xoài, chôm chôm, sầu riêng, vú sữa, bưởi,

nhãn, chuối, khóm (dứa), cam, mãng cầu, sapôchê (hồng xiêm), quýt... Kim

ngạch xuất khẩu rau quả cả nước năm 2017 đạt khoảng 3 tỷ USD qua hơn 76

quốc gia. Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho biết, đây là tín hiệu tích cực để toàn

ngành tiến tới mục tiêu 3,5 tỷ USD trong năm 2018.

Đơn vị tính: 1.000 ha

Cây trồng

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

21,1

39,5 30,8 38,9 32,1 24,8 13,8 10,2 26,0 9,5

211,6

41,1 35,7 39,1 29,7 26,4 11,9 3,5 22,7 8,1 218,1

41,0 34,5 38,4 27,8 26,4 12,6 4,3 23,5 8,9 217,4

39,8 33,4 39,4 29,5 25,4 12,6 6,2 23,9 8,7 219,0 211,8

39,0 28,2 39,7 31,1 25,6 14,9 12,4 24,7 9,9 210,6

41,4 27,4 39,5 32,6 27,4 14,9 13,4 25,5 9,9 232

44,3 27,8 39,5 35,9 28,5 15,1 16,3 27,2 10,1 244,8

45,1 24,9 40,8 38,2 30,8 18,8 20,7 27,4 9,5 256,1

45,0 1. Xoài 33,8 2. Nhãn 35,5 3. Chuối 36,3 4. Cam 27,7 5. Bưởi 6. Sầu riêng 4,8 7. Thanh Long 0,9 8. Dứa 9. Chôm chôm 6,5 Tổng cộng

Bảng 1: Diện tích cây ăn quả chủ lực vùng đồng bằng sông Cửu ong từ

2010 đ n 2018.

Nông sản miền Tây Nam Bộ có một số đặc điểm cụ thể như:

Tính thời vụ:

Qúa trình sản xuất, thu hoạch và tiêu thụ nông sản luôn mang tính thời

vụ bởi các loại cây trồng sinh trưởng và phát triển theo quy luật sinh vật nhất

định. Mặc khác, do sự biến thiên về điều kiện tự nhiên khí hậu làm cho mỗi

loại cây trồng có sự thích ứng riêng, tạo nên những mùa vụ khác nhau trong

sản xuất. Vào khoảng thời gian chính vụ, nông sản thường dồi dào, phong phú

về chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá rẻ; ngược lại khi trái vụ thì

nông sản khan hiếm, chất lượng không đều nhau và giá bán thường cao.

23

Nông sản phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên:

Nông sản chịu tác động lớn từ điều kiện tự nhiên, đặc biệt là các điều

kiện về đất đai, khí hậu và thời tiết. Đa số các nông sản đều rất nhạy cảm với

các nhân tố ngoại cảnh, do vậy, mọi sự thay đổi về điều kiện tự nhiên về tác

động trực tiếp tới sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng.

Chất lượng nông sản ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người tiêu dùng

Chất lượng nông sản luôn là tiêu chí đầu tiên được người tiêu dùng quan

tâm khi quyết định mua hàng. Tại các quốc gia phát triển, đối với hoạt động

nhập khẩu nông sản, ngày càng có nhiều yêu cầu khắt khe đặt ra về chất

lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ...của các loại hàng hóa.

Nguyên nhân chính là do chất lượng của nông sản sẽ có ảnh hưởng trực tiếp

đến sức khỏe của người sử dụng. Vì vậy, khi đời sống người dân được nâng

lên thì chất lượng nông sản cũng cần được cải thiện tương ứng.

Nông sản có tính đa dạng:

Nông sản có đặc điểm đa dạng cả về chủng loại và chất lượng, bởi nông

sản được sản xuất từ các địa phương khác nhau với các nhân tố về địa lý, tự

nhiên khác nhau, mỗi vùng, mỗi hộ dân, mỗi trang trại có phương thức sản

xuất khác nhau với các giống nông sản khác nhau cho nên chủng loại cũng

khác nhau, nông sản rất d bị hư hỏng, ẩm mốc, biến chất... Do đó, nông sản

chỉ cần để trong thời gian ngắn ở môi trường không đảm bảo về ẩm độ, nhiệt

độ, nông sản sẽ bị hư hỏng, giảm chất lượng.

1.3. Chủ trƣơng chính sách của Đảng Nhà nƣớc về nông sản

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn

mạnh vị trí đặc biệt quan trọng của sản xuất nông nghiệp và đã có nhiều chủ

trương, chính sách đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, phát huy triệt

để vai trò chủ động của nông dân, phấn đấu đưa nông nghiệp nước ta trở

thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa.

24

Đại hội VI của Đảng (12-1986) chỉ rõ: “Chính yêu cầu cấp bách về

lương thực, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của nông nghiệp”.

Thực hiện chủ trương của Đại hội VI về đổi mới kinh tế, trong đó quan

tâm hàng đầu tới đổi mới l nh vực nông nghiệp, nông thôn, Bộ Chính trị, Ban

Bí thư đã ra nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm điều chỉnh cơ chế quản lý v mô,

tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.

Trong đó, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông

nghiệp, tháng 4-1998 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa VI,

tháng 3-1989) đã đề ra nhiều nội dung quan trọng như: chính sách một giá

nhằm đảm bảo tự do lưu thông, tiêu thụ trên thị trường cả nước; thương mại

hóa vật tư, từng bước xác lập vai trò tự chủ của kinh tế hộ; giải quyết những

vấn đề cấp bách về ruộng đất...

Đổi mới quản lý trên l nh vực nông nghiệp đã đáp ứng đúng tâm tư,

nguyện vọng của đông đảo nông dân, khơi dậy khí thế mới, cổ vũ hàng triệu

nông dân đầu tư, phát triển sản xuất. Sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1986-1991

đã vượt qua những khó khăn và có bước phát triển mới. Sản lượng lương thực

giai đoạn 1986-1991 đã dần vượt qua những khó khăn và có bước phát triển

mới. Sản lượng lương thực năm 1986 đạt 18,3 triệu tấn, năm 1990 tăng lên

21,5 triệu tấn. Cùng với cây lương thực, diện tích và năng suất các cây trồng

khác đều tăng, nhất là cà phê, cao su, dâu tằm. Đã bước đầu hình thành các

vùng sản xuất hàng hóa gắn với xuất khẩu như: lúa gạo vùng Đồng bằng sông

Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ; rau, đậu ở Đồng

bằng Bắc Bộ...Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo với số lượng

1,42 triệu tấn. Cùng vơi gạo, cà phê, cao su, hải sản từng bước thâm nhập thị

trường nhiều nước. Tổng giá trị nông sản xuất khẩu năm 1989 đạt 1 tỷ USD,

năm 1990 đạt 1,14 tỷ USD, chiếm 50% tổng giá trị xuất khẩu cả nước, tăng 5

lần so với năm 1986.

25

Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong nông nghiệp được điều chỉnh một

bước rất quan trọng, từ chỗ tập thể hóa triệt để máy móc, trâu bò, nông cụ đến

thừa nhận quyền sở hữu của các hộ xã viên. Nhờ đó, nông dân đã tích cực

mua thêm máy móc, trâu bò...hoặc nhận hóa giá tư liệu sản xuất từ các hợp

tác xã.

Tại hội nghị Trung ương 5 (khóa VII), Đảng ta nêu rõ cần phải tiếp tục

đổi mới và phát triển mạnh mẽ kinh tế-xã hội nông thôn, quyết định một số

vấn đề quan trọng: Một là, đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn

theo hướng sản xuất hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước. Coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu. Hai là,

thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông

nghiệp và kinh tế nông thôn theo định hướng xã hội chủ ngh a. Ba là, sản xuất

gắn với thị trường, mở rộng sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ

nông sản. Bốn là, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, nâng

cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trung ương Đảng đã đề ra phương hướng, giải

pháp cụ thể như: đổi mới cơ cấu kinh tế nong nghiệp, cải tiến cơ cấu kinh tế

nông thôn; kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều

thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; thực

hiện chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ nông

dân.

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) khẳng định: “Thực hiện tốt chính

sách giao đất, giao rừng; ngăn chặn và khắc phục tình trạng nông dân không

có ruộng đất sản xuất; giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, các dịch vụ cung ứng vật tư

nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm, phát triển công nghiệp chế biến và các nghề

tiểu thủ công; phát triển tín dụng nông thôn, mở rộng cho nông dân nghèo vay

vốn sản xuất, chống nạn cho vay nặng lãi, mua lúa non, buôn bán trái phép

26

ruộng đất; giúp đỡ nông dân phát triển các hình thức kinh tế hợp tác; có chính

sách bảo hộ sản xuất cho nông sản.

Sau Đại hội VIII, Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra chủ trương, chính

sách khuyến khích phát triển hợp tác xã; ban hành quy chế quản lý và sử dụng

vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước cho các dự án đóng mới tàu đánh

bắt cá; đẩy mạnh hoàn thành việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất nông nghiệp. Nghị quyết Trung ương VI (lần 1) khóa VIII chỉ rõ:

việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tích tựu và tập trung đất đai là hiện

tượng sẽ di n ra trong quá trình phát triển nông nghiệp lên sản xuất hàng hóa

lớn. Việc tích tựu và tập trung phải được kiểm soát, quản lý chặt chẽ của Nhà

nước, không để quá trình này di n ra tự phát làm cho người nông dân mất

ruộng đất mà không có việc làm; tăng thời điểm giao đất nông nghiệp cho hộ

gia đình, cá nhân để nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất...

Bước sang thế kỷ XXI, nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển theo

hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2001

tăng 4,1%, năm 2002 tăng 5,4. Sản lượng lương thực năm 2001 đạt 34 triệu

tấn, năm 2002 đạt 36,67 triệu tấn. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển

dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông

nghiệp.

Ngày 3-1-2003, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cùng

Hội Nông dân Việt Nam, Tổng Liên doàn Lao động Việt Nam, Liên Hiệp các

hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký kết

cam kết liên tịch nhằm phối hợp để phục vụ sản xuất của nông dân, gọi tắt là

liên kết “4 nhà” (Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, nông dân).

Hội nghị Trung ương VII (khóa IX) của Đảng chỉ rõ: “Nhà nước có

những điều tiết, hỗ trợ, tổ chức tốt việc tiêu thụ nông sản cho nông dân; đưa

công nghệ sản xuất tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn; có chính sách điều

27

chỉnh hợp lý việc sử dụng quỹ đất, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa thúc

đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; nâng cao hiệu quả ử dụng đất; có

chính sách khuyến khích nông dân chuyển sang các nghề phi nông nghiệp;

thúc đẩy khôi phục làng nghề, phát triển ngành nghề mới ở nông thôn; mở

rộng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với nông dân hết tuổi lao động;

mở rộng các loại hình đào tạo, chuyển giao khoa học kỹ thuật và công nghệ

thông qua các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, các trung

tâm học tập cộng đồng và các điển hình nông dân sản xuất kinh doanh giỏi”.

1.4. Vấn đề đặt ra cho công tác truyền thông quảng bá nông sản

- ngh a của công tác truyền thông quảng bá

Truyền thông có vai trò quan trọng và đóng góp vào sự phát triển của

kinh tế-xã hội. Trong những năm qua, xuất khẩu nông sản của nước ta đã tăng

cả về số lượng lẫn giá trị, là ngành duy nhất có đóng góp giá trị thặng dư cho

cán cân thương mại nước nhà. Trong đó, vai trò của báo chí đóng góp là

không nhỏ trong việc tuyên truyền, đẩy mạnh các chủ trương, đường lối của

Đảng; quan điểm của các địa phương và thực trạng còn tồn tại của các mặt

hàng nông sản hiện nay.

Trong thời gian qua, báo chí cả nước nói chung và báo chí Tiền Giang

nói riêng đã tập trung tuyên truyền đậm nét về việc quy hoạch sản xuất, chú

trọng nông sản chủ lực; thông tin về cơ chế tích tựu ruộng đất để khuyến

khích doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn đầu tư, liên kết với nông

dân trong chuỗi giá trị nông sản chủ lực trồng tập trung từ sản xuất đến thu

mua, bảo quản, chế biến, xuất khẩu; phản ánh vấn đề giống cây trồng, kỹ

thuật canh tác; làm bật nổi các vấn đề có liên quan đến công nghệ sau thu

hoạch nhằm khuyến khích doanh nghiệp tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị,

dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại và đồng bộ. Đa dạng hóa sản phẩm

28

chế biến từ nông sản, tăng cường chế biến sâu như: quả đông lạnh, đóng hộp,

chiên, sấy, nước quả tự nhiên, nước quả cô đặc, đông lạnh.

Bên cạnh đó, báo chí cũng tuyên truyền quảng bá lợi ích, công dụng tốt

của trái cây đối với sức khỏe con người nhằm kích thích thị hiếu tiêu dùng,

tăng dung lượng, phát triển mở rộng thị trường; kiến nghị, đề xuất thông qua

những bài viết của mình về việc xây dựng chương trình xúc tiến thương mại,

xúc tiến xuất khẩu thiết thực, hiệu quả, phù hợp với định hướng và nhu cầu

thị trường; vận động doanh nghiệp tích cực tham gia cùng các địa phương tiếp

tục quan tâm hoạch định, tổ chức các chương trình quảng bá và xúc tiến

thương mại các mặt hàng nông sản; quan tâm, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp xuất khẩu nông sản tham gia các chương trình xúc tiến thương mại

trọng điểm của quốc gia, của các tỉnh. Tiếp nhận, đăng tải thông tin về hàng

rào kỹ thuật trong thương mại, chọn lọc, chuyển ngữ những thông báo hàng

rào kỹ thuật trong thương mại liên quan đến sản phẩm, thị trường xuất khẩu

nông sản… nhằm giúp cho các doanh nghiệp có thêm thông tin.

- Yêu cầu quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ

Báo chí cần quảng bá thương hiệu nông sản

Thương hiệu hiện được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau. Theo Hiệp

định các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại

(TRIPS) của WTO, thương hiệu là bất cứ dấu hiệu nào hoặc dịch vụ của một

doanh nghiệp với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác,

chẳng hạn từ ngữ, kể cả tên cá nhân, chữ, số, hính vẽ và sự kết hợp các màu

sắc cũng như bất kỳ sự kết hợp nào của các yếu tố đó [35, tr.16 và 17].

Theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, thương hiệu là cái tên, một từ ngữ, một

dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hay tổng hợp tất cả yếu tố kể trên để

phân biệt một sản phẩm đó với sản phẩm (dịch vụ) của các đối thủ cạnh tranh.

29

Cũng có quan điểm cho rằng: Thương hiệu là một thuật ngữ để chỉ

chung cho các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ như nhãn hiệu hàng

hóa, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ. Trong cuốn Quản trị

thương hiệu, Fatricia F.Nicolino định ngh a về thương hiệu rất ngắn gọn:

“Thương hiệu là một thực thể xác định, tạo ra những cam kết nhất định về giá

trị” [35, tr.17].

Có thể khẳng định: Truyền thông có vai trò đặc biệt quan trọng đối với

các mặt hàng nông sản. Sản phẩm đó có khẳng định được thương hiệu, có chỗ

đứng trên thị trường hay không sẽ phụ thuộc rất lớn vào quá trình truyền

thông quảng bá. Ngoài ra, nông dân, nhà khoa học, doanh nghiệp và cả nhà

nước rất cần nhu cầu về thị trường của các loại nông sản. Sản xuất cái gì?

Chất lượng ra sao? Số lượng bao nhiêu? Giá cả? Những vấn đề này, truyền

thông làm tốt sẽ giải quyết được những câu hỏi nói trên...

Thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức về nông sản:

Báo chí cần tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức trong hệ thống

chính trị và người dân về tính tất yếu trong việc phát triển các loại nông sản; xu

hướng tiêu dùng sạch, đảm bảo an toàn thực phẩm, chất lượng cao để tạo sự

chuyển biến về nhận thức và hành động; thay đổi tư duy trong sản xuất nông

nghiệp, chuyển từ phát triển theo số lượng sang phát triển về chất lượng; từng

bước điều chỉnh hành vi tiêu dùng của người dân theo hướng ưu tiên sử dụng các

sản phẩm nông sản có chứng nhận chất lượng, thân thiện với môi trường.

Tuyên truyền để các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục vận động, mời gọi

doanh nghiệp, nông dân tham gia xây dựng và hoàn chỉnh các chuỗi giá trị

sản phẩm nông nghiệp (chuỗi này có sự liên kết giữa nông dân và doanh

nghiệp, từ sản xuất cho đến đầu ra). Từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất

kinh doanh giữa nông dân và doanh nghiệp theo hướng chủ động, tự giác hợp

tác. Liên kết kinh doanh giữa nông dân và doanh nghiệp theo hướng chủ

30

động, tự giác hợp tác liên kết kinh doanh nhằm không ngừng nâng cao khả

năng cạnh tranh của sản phẩm trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

Thực hiện đồng bộ các thông tin, truyền thông quảng bá về các sản phẩm

nông nghiệp sản xuất gắn với nâng cao nhận thức của nông dân về hợp tác xã

kiểu mới, về liên kết kinh doanh theo chuỗi; kết hợp giữa du lịch và tham

quan vườn cây ăn trái tuyên truyền, quảng bá chất lượng trái cây miền Tây

Nam Bộ đến với du khách trong và ngoài nước.

Đẩy mạnh tuyên truyền về tổ chức, quản lý và điều hành lại sản xuất

Báo chí cần tập trung tuyên truyền cho việc quy hoạch và thực hiện tốt

quy hoạch vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung, trên cơ sở lợi thế điều

kiện tự nhiên, thị trường, gắn với quản lý và phát triển nguồn giống; tránh

phát triển chạy theo phong trào dẫn đến tình trạng: “trồng, chặt” gây tốn kém

công sức, chi phí, cũng như hiệu quả sản xuất, chế biến.

Tuyên truyền sâu đậm nhằm giúp cho cơ quan nhà nước thấy được vai

trò quan trọng trong việc phát triển các chủng loại và giống nông sản đặc sản,

chủ lực có lợi thế cạnh tranh và thị trường tiêu thụ ổn định, đồng thời chú

trọng phát triển các chủng loại nông sản có lợi thế phục vụ tiêu thụ nội địa,

góp phần giảm nhập khẩu. Đổi mới toàn diện phương thức phát triển sản xuất

nông sản theo chuỗi ngành hàng, trong đó các doanh nghiệp đóng vai trò chủ

đạo, hình thành và phát triển ổn định các vùng nguyên liệu trọng điểm. Tăng

cường năng lực chế biến, đa dạng hóa sản phẩm, nhất là sản phẩm chế biến

sâu. Áp dụng rộng rãi tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, kịp thời ứng phó điều

kiện thời tiết do biến đổi khí hậu, đảm bảo năng suất, chất lượng và an toàn

vệ sinh thực phẩm; tổ chức thực hiện tốt sản xuất nông sản rải vụ thu hoạch

nhằm giảm thiểu tình trạng “được mùa, mất giá”, “dội chợ”, tạo lợi thế

cạnh tranh. Cải tiến mạnh mẽ và triệt để công tác chỉ đạo kỹ thuật trong sản

xuất theo hướng tập hợp thành các gói công nghệ đồng bộ, có phân cấp độ

31

ứng dụng phù hợp với điều kiện từng vùng và gắn các tổ chức, đơn vị nghiên

cứu khoa học vào chuỗi sản xuất. Củng cố, phát triển thị trường tiêu thụ nội

địa; tăng cường các hoạt động tìm kiếm, quảng bá, xúc tiến xuất khẩu trái cây,

giữ vững và phát triển các thị trường truyền thống; đồng thời mở rộng thị

trường mới, đặc biệt là các thị trường lớn, khó tính.

Truyền thông nhằm giúp các Bộ, ngành, địa phương quan tâm, vào cuộc

quyết liệt để xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các cơ chế chính sách

vào thực tế, kịp thời hỗ trợ thúc đẩy sản xuất.

Tiểu k t chƣơng 1:

Trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập như hiện nay, việc

quảng bá nông sản đến với người tiêu dùng thông qua kênh báo chí là rất cần

thiết nhằm truyền tải thông tin đến với người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Để các mặt hàng nông sản miền Tây Nam Bộ có chỗ đứng vững chắc trên thị

trường thì cần thiết phải xây dựng, tạo dựng được giá trị thương hiệu của nó.

Trong chương 1, tác giả đã kế thừa và phát triển thêm khái niệm về

truyền thông quảng bá nông sản. Đồng thời, tác giả cũng nêu bật những đặc

điểm của nông sản miền Tây Nam Bộ, vai trò và ý ngh a của việc truyền

thông quảng bá đối với nông sản.

Trong chương này, tác giả cũng phân tích vai trò, thế mạnh của báo chí

địa phương trong việc truyền thông, quảng bá nông sản. Trên cơ sở lý luận và

thực ti n, tác giả đã đưa ra những nội dung và phương thức truyền thông trên

báo điện tử và truyền hình của địa phương. Tuy nhiên, việc truyền thông

quảng bá nông sản cũng còn nhiều hạn chế. Vậy, báo chí Tiền Giang đã và

đang làm gì để phát huy vai trò, tác động hiệu quả vào việc quảng bá nông sản

miền Tây Nam Bộ?

32

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN

MIỀN TÂY NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ TIỀN GIANG

2.1. Khái quát Báo chí Tiền Giang.

Trên địa bàn tỉnh Tiền Giang hiện có đủ các loại hình báo chí, bao gồm

báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử. Toàn tỉnh có 99 phóng viên, biên

tập viên đủ điều kiện được cấp thẻ nhà báo. Về báo in, Tiền Giang hiện có 1

tờ báo và 2 tạp chí chuyên ngành: Báo Ấp Bắc, cơ quan ngôn luận của Đảng

bộ tỉnh, xuất bản 3 số/tuần; Tạp chí Văn nghệ Tiền Giang của Hội Văn học -

Nghệ thuật tỉnh, ra định kỳ hàng tháng với những nội dung chuyên sâu về văn

học - nghệ thuật trên địa bàn tỉnh; tạp chí Khoa học của Trường Đại học Tiền

Giang, xuất bản định kỳ 2 số/năm, chuyển tải những nội dung chuyên sâu về

l nh vực nghiên cứu khoa học của trường.

Về phát thanh, toàn tỉnh hiện có 1 đài phát thanh cấp tỉnh (thuộc Đài PT-

TH tỉnh Tiền Giang), 11 đài truyền thanh cấp huyện (thuộc Đài Truyền thanh

– Truyền hình huyện), 172 đài truyền thanh cấp xã và trên 720 trạm truyền

thanh ấp, liên ấp. Về báo hình, tỉnh Tiền Giang có 1 Đài PT-TH và 11 Đài

Truyền thanh - Truyền hình cấp huyện. Các đài truyền thanh - truyền hình cấp

huyện hoạt động ổn định với sóng FM có công suất từ 300W đến 500W để

truyền tải thông tin, trong đó có 8/11 đài thu, phát sóng chương trình hàng

ngày bằng máy vi tính.

Về báo điện tử, trên địa bàn tỉnh có Báo Ấp Bắc điện tử và 4 trang thông

tin điện tử của tỉnh (Hội Văn học - Nghệ thuật, Hội Nhà báo, Sở Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn, Điện lực Tiền Giang) đều được cấp giấy phép hoạt

động, góp phần quan trọng trong việc cung cấp thông tin tuyên truyền, phổ

biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và

các hoạt động chuyên ngành được triển khai thực hiện trên đia bàn.

33

Theo Báo cáo của Sở Thông tin – Truyền thông năm 2018: “Báo Ấp Bắc,

Đài PT-TH Tiền Giang, Đài Truyền thanh - Truyền hình các huyện, Thị xã Gò

Công và thành phố Mỹ Tho hoạt động ổn định, bám sát tuyên truyền nhiệm vụ

chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng tại địa phương”.

- Báo Ấp Bắc điện tử

Báo Ấp Bắc điện tử đi vào hoạt động kể từ đầu tháng 5-2012. Tên phần

mềm truy cập http://baoapbac.vn hoặc http://baotiengiang.vn. Báo Ấp Bắc có

trang tiếng Việt và trang tiếng Anh. Mỗi ngày, báo có lượng truy cập 10.000-

20.000 lượt.

Báo Ấp Bắc điện tử có chức năng thông tin, tuyên truyền trung thực,

khách quan, chính xác về mọi mặt tình hình địa phương, trong nước và quốc

tế, đảm bảo lợi ích đất nước, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân.

Phát hiện, phản ánh, biểu dương điển hình, nhân tố mới, tham gia đấu

tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, các hành vi vi phạm pháp luật, góp

phần nhân rộng cái tốt, ngăn ngừa xóa bỏ cái xấu; xây dựng xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh.

Khai thác thông tin lành mạnh, bổ ích, góp phần thỏa mãn nhu cầu giải

trí, nâng cao kiến thức trong nhân dân, mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau trong

nhân dân ở địa phương và cộng đồng các dân tộc trong nước và quốc tế.

Tổ chức, tham gia tổ chức các hoạt động xã hội từ thiện, thể dục thể thao

và các hoạt động khác nhằm nâng cao uy tín của báo và góp phần thúc đẩy các

hoạt động xã hội.

Báo Ấp Bắc có quyền khước từ thực hiện các hoạt động không phù hợp,

trái với pháp luật, vi phạm Luật Báo chí, vi phạm quy định về đạo đức nghề

nghiệp trong hoạt động báo chí.

Giao diện Báo Ấp Bắc điện tử được đông đảo bạn đọc đánh giá là thân

thiện với người dùng, d dàng theo dõi cập nhật tin tức trên nhiều l nh vực,

34

màu sắc hài hòa. Báo có 11 chuyên mục như: chính trị, xã hội, kinh tế, pháp

luật, văn hóa-nghệ thuật, thể thao, giáo dục, đối ngoại, quốc tế, khoa học, sức

khỏe-đời sống. Ngoài ra, báo điện tử còn có những mục nội dung, tiện ích cung

cấp độc giả những thông tin hữu ích, tăng cường tương tác đa chiều như: mục

học tập và làm theo tấm gương đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, bạn đọc, sự

kiện-bình luận, đất nước con người, cải cách hành chính, phóng sự-ký sự, tin

nổi bật, liên hệ tòa soạn. Bên cạnh đó, Báo Ấp Bắc điện tử còn phát truyền hình

trực tuyến với kênh khám phá Tiền Giang, video clip-khoảnh khắc.

Tin tức trên Báo Ấp Bắc điện tử được cập nhật thường xuyên, liên tục

không kể ngày nghỉ, ngày l , tết. Tất cả những nội dung này sẽ đem đến cho

độc giả thông tin thời sự trên địa bàn tỉnh Tiền Giang và thông tin tình hình

kinh tế-chính trị trong nước và quốc tế.

Báo đã trở thành một kênh thông tin chính thống và uy tín trong việc

cung cấp thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tuyên

truyền phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước

đến đông đảo độc giả trong và ngoài nước.

- Đài PT-TH Tiền Giang

Đài PT-TH Tiền Giang cũng là một trong hai kênh thông tin có vai trò to

lớn trong việc phục vụ công tác quản lý, lãnh đạo của tỉnh trong công cuộc

đổi mới kinh tế - đổi mới chính trị ở địa phương. Khác với Báo Ấp Bắc, Đài

PT-TH Tiền Giang ra đời hơi muộn nhưng cũng đã đóng góp những thành tựu

rất to lớn trong sự nghiệp phát triển của tỉnh Tiền Giang.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc phát triển hệ thống phát

thanh được xúc tiến khẩn trương. Năm 1978, Tiền Giang được Trung ương

điều động cho một máy phát thanh AM 1kw. Sau một thời gian chuẩn bị, đầu

năm 1979 tiến hành phát thử nghiệm và đến ngày 16/9/1979 chính thức phát

sóng phục vụ nhân dân tỉnh nhà. Trụ sở làm việc của đài được bố trí tại ngôi

35

nhà số 125 Lê Thị Hồng Gấm, TP. Mỹ Tho. Bấy giờ do cơ sở vật chất còn rất

thiếu thốn, phòng ốc tạm bợ, máy móc lạc hậu nên thời lượng phát sóng chỉ

có 2 giờ/ngày chủ yếu chuyển tải những thông tin cần thiết phục vụ đời sống

người dân như dự báo thời tiết, phòng chống thiên tai bão lụt, diệt trừ sâu rầy

phá hoại mùa màng, khuyến khích nông dân sản xuất, nuôi trồng thủy sản, cải

tạo vườn tạp…

Năm 1994, Ban Giám đốc Đài PT-TH Tiền Giang đã xin chủ trương và

được Tỉnh ủy, UBND tỉnh cho phép lập dự án đầu tư xây dựng Đài PT-TH Tiền

Giang hoàn chỉnh từ khâu sản xuất chương trình đến truyền dẫn phát sóng truyền

hình song song với sóng phát thanh hiện có. Tối ngày 19/12/1996, Đài PT-TH

Tiền Giang đã có buổi phát sóng truyền hình đầu tiên.

Sóng Đài PT-TH Tiền Giang đã phát trên vệ tinh Vinasat, truyền hình

cáp HVTV, SCTV, cáp Đà Lạt, Cáp Sông Thu - Đà Nẵng, cáp Tây Đô - Cần

Thơ, VOV và truyền hình Internet (MyTV,Viettel, FPT). Để mở rộng phủ

sóng, Đài đã đưa sóng truyền hình lên 2 mạng truyền hình cáp có số thuê bao

lớn nhất của cả nước, đó là HCTV và SCTV. Ngoài ra, Đài cũng đã hòa

mạng cáp của Đài Truyền hình V nh Long và cáp của mạng MyTV. Hiện

nay, phần lớn từ khâu sản xuất chương trình đến phát sóng đều được vi tính

hóa. Ngoài ra, Đài PT-TH Tiền Giang cũng đã tổ chức sản xuất một số

chương trình mới như “Cây lành trái ngọt”, “Bạn nhà nông”, giải thể thao

gắn với tên gọi Cúp truyền hình Tiền Giang...

Đài PT-TH Tiền Giang là cơ quan báo chí trực thuộc UBND tỉnh Tiền

Giang; là công cụ lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền địa phương và là

di n đàn của nhân dân. Đài PT-TH Tiền Giang là đơn vị sự nghiệp có thu, có

chức năng thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước, các chương trình giáo dục, giải trí phục vụ nhu cầu

36

thông tin và giải trí của nhân dân; tham mưu giúp UBND tỉnh Tiền Giang quản

lý nhà nước về l nh vực phát thanh - truyền hình trên địa bàn tỉnh.

2.2. Thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ

tr n Báo Ấp Bắc điện tử Đài PT-TH Tiền Giang

- Số lư ng, tần suất xuất hiện

Báo chí truyền tải thông tin thường xuyên, cố định và thời sự sẽ đáp ứng

được nhu cầu tiếp nhận của công chúng. Trong thời gian quan, báo chí Tiền

Giang đã sắp xếp và tổ chức được các chuyên trang, chuyên mục ổn định, phù

hợp với tôn chỉ mục đích và đối tượng công chúng mà tờ báo hay cơ quan báo

chí đó muốn hướng tới. Trên Báo Ấp Bắc điện tử có trang ổn định tuyên

truyền quảng bá sản phẩm nông sản như trang kinh tế, nông nghiệp-nông dân-

nông thôn. Đối với Đài PT-TH Tiền Giang có chuyên đề, chuyên mục: cây

lành trái ngọt, bạn nhà nông, bản tin thị trường, nông nghiệp và phát triển

nông thôn…

Qua khảo sát, trong năm 2018, Báo Ấp Bắc điện tử đã đăng tải 19 tin,

bài có liên quan đến cây ăn trái, 10 đề tài có liên quan đến rau màu và 23

thông tin nói về tình hình lúa gạo khu vực miền Tây Nam Bộ. Như vậy, trong

năm 2018, Báo Ấp Bắc điện tử đã đăng tải 52 tin, bài về nông sản.

37

Riêng Đài PT-TH Tiền Giang có chuyên mục cây lành trái ngọt được

phát 2 kỳ/tháng, vào tuần đầu và tuần cận cuối của tháng; chương trình tọa

đàm truyền hình trực tiếp bạn nhà nông cũng được phát 2 kỳ/tháng, vào tuần

cận giữa và tuần cuối của tháng; bản tin thị trường thông báo và dự báo giá cả

nông sản được phát hàng ngày; chương trình thời sự phát 23 tin, bài; phóng sự

21 bài. Như vậy, năm 2018, Đài PT-TH Tiền Giang đã phát 24 chuyên mục

cây lành trái ngọt, 24 chương trình tọa đàm truyền hình trực tiếp bạn nhà

nông, 365 bản tin thị trường; thời sự có 23 tin, bài; phóng sự 21 bài.

Báo Ấp Bắc điện tử không giới hạn nội dung và hình ảnh. Tuy nhiên, tần

suất xuất hiện các vấn đề về nông sản rất ít, thời gian đăng tải cũng rời rạc và

cách xa. Tháng 1 đăng 5 bài, tháng 2 đăng 3 bài, tháng 3 đăng 7 bài, tháng 4

đăng 5 bài, tháng 5 đăng 3 bài, tháng 6 đăng 3 bài, tháng 7 đăng 5 bài, tháng 8

đăng 3 bài, tháng 9 đăng 2 bài, tháng 10 đăng 5 bài, tháng 11 đăng 4 bài và

tháng 12 đăng 4 bài.

38

Nếu nhìn vào bảng đồ hình cột, chúng ta d dàng nhận ra số lượng bài

các tháng trong năm của Báo Ấp Bắc điện tử quá ít và không đều nhau. Ngày

5-1-2018, báo đăng bài: Thực phẩm “sạch” còn chờ tâm lý người tiêu dùng thì

đến tận ngày 15-1-2018 mới tiếp tục có bài huyện Tân Phước chú trọng phát

triển cây trồng chủ lực. Hay ngày 28-3-2018 có bài làm giàu từ trồng cây ăn

trái để làm tốt công tác xã hội thì đến ngày 26-4-2018 mới tiếp tục đăng bài

có nên tăng nhanh diện tích trồng thanh long?. Việc, các tin, bài xuất hiện quá

ít và cách xa nhau đã không làm truyền thông liên tục, không gây ấn tượng

cho người xem.

Đối với Đài PT-TH Tiền Giang, chuyên mục cây lành trái ngọt được

phát cũng khá rời rạc. Mặc dù, Ban Giám đốc Đài cho phát 2 kỳ/tháng nhưng

số lượng như vậy là quá ít và một số chủ đề cũng chưa liên quan đến vấn đề

nông sản. Cụ thể, chuyên mục Cây lành trái ngọt phát ngày 20-12-2018 có nội

dung mô hình trồng cây kiểng. Chương trình tọa đàm truyền hình trực tiếp

bạn nhà nông cũng xuất hiện đều 2 kỳ/tháng. Song, nội dung chương trình

cũng chưa được người xem đón nhận nhiều do các đơn vị tài trợ tập trung

quảng bá nhiều hình ảnh về sản phẩm phân, thuốc của mình mà chưa tập

trung vào trồng cây gì? Kỹ thuật ra sao? Bán cho ai? Giá cả bao nhiêu? Lợi

39

nhuận thu được của nông dân sau khi bán sản phẩm? Bản tin dự báo thị

trường xuất hiện đều đặn mỗi ngày nhưng nhiều bản tin dự báo chưa chính

xác hoặc chưa xác với thực tế khiến cho người xem tham khảo là chính.

- Những nội dung truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ

trên Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang

+ Giới thiệu các loại sản phẩm nông sản miền Tây Nam Bộ

Lúa, gạo:

Lúa là cây trồng bản địa của Việt Nam. Cây lúa có thể sinh sống và chịu

được nhiều điều kiện môi trường khắc nghiệt mà đa số các cây lương thực,

cây thực phẩm khác không thể chịu đựng được như đất ngập nước liên tục

trong nhiều tháng, đất nhi m mặn, phèn, chua…Vì vậy, lúa là cây tiên phong

trong khai khẩn đất hoang trên thế giới. Vào mùa mưa ở những vùng có khí

hậu nhiệt đới gió mùa, ngoài cây lúa có lẽ không một cây nào khác có thể

sống trong nước để cung cấp đủ lương thực cho những vùng dân cư đông đúc

ở châu Á. Đặc biệt hơn, lúa là cây trồng duy nhất có thể trồng liên tục hang

vạn năm trên cùng một thửa ruộng mà năng suất không giảm sút nhờ những

biến đổi sinh hóa của đất ngập nước bao đời nay.

Năm 2018, diện tích trồng lúa toàn vùng miền Tây Nam Bộ khoảng 4,3

triệu ha (chiếm 55,1% diện tích trồng lúa cả nước), với sản lượng 24,2 triệu

tấn (chiếm 55,5 sản lượng lúa quốc gia) và kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 2,7

tỷ USD qua 45 quốc gia, một số thị trường chính là: Trung Quốc, Philippines,

Singapore, Gana... Vùng này có 558 doanh nghiệp xay xát và chế biến gạo

quy mô công nghiệp, chiếm gần 96% so với cả nước; cơ sở có công suất dưới

10.000 tấn lúa/năm, chiếm khoảng 38,5%; cơ sở có công suất trên 10.000 tấn

lúa/năm, chiếm khoảng 61,5%.

Báo Ấp Bắc điện tử trong năm 2018 đã tuyên truyền 23 tin, bài có liên

quan đến vấn đề lúa gạo. Trong đó, nhiều tin, bài đã tạo được điểm nhấn quan

40

trọng, giúp công tác truyền thông quảng bá lúa gạo tạo được hiệu ứng mạnh

mã. Cũ thể, ngày 19-12-2018 có bài: “Logo thương hiệu gạo Việt Nam: Cơ

hội cho người làm ra hạt gạo?” Trong đó, tác giả có nói: “Lễ công bố thương

hiệu gạo Việt Nam đư c tổ chức nằm trong khuôn khổ Festival lúa gạo lần

thứ III tại tỉnh Long An, khai mạc vào tối 18-12 và kéo dài đến hết ngày 24-

12. Đây đư c xem là sự kiện mang lại nhiều ngh a nhất đối với người làm

ra hạt gạo của Đồng bằng sông Cửu Long. Logo thương hiệu gạo Việt Nam

mở ra một chương mới cho hành trình thực hiện chiến lư c của ngành Nông

nghiệp nói chung và lúa-gạo nước ta nói riêng trên con đường khẳng định giá

trị thương hiệu gạo Việt Nam đối với các nước có thế mạnh về nông nghiệp

lúa-gạo trong khu vực và trên thế giới”.

Nội dung bài viết một lần nữa khẳng định: logo thương hiệu gạo Việt

Nam là một tín hiệu sáng để mở ra một chặng đường mới. Điều này cũng đã

hiện thực hóa Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020 và

tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với mong

muốn hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong sản xuất, thương mại hóa lúa-gạo.

Trong năm 2018, Đài PT-TH Tiền Giang có 47 tin, bài phát về đề tài lúa gạo.

Cụ thể, ngày 23-2-2018 có nội dung: Khởi sắc vụ đông xuân. Nội dung có

đoạn: “Sau tết thật vui! Tôi vừa thu hoạch 5 công lúa đông xuân trồng giống

lúa thơm, đư c thương lái mua 7.200 đồng/kg. Đây là mức giá cao nhất tôi

bán đư c trong nhiều năm qua khi làm lúa đông xuân”-chị Sáu Bảnh, phường

V nh Tường, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang tươi cười cho biết.

Từ những yếu tố trên, lúa gạo có vai trò rất lớn đối với mỗi con người

chúng ta. Một thời gian dài, hệ thống chính trị của nước ta rất tâm huyết trong

việc xây dựng thương hiệu gạo của Việt Nam nhằm khẳng định được vị thế

của mình trên thương trường xuất khẩu gạo của thế giới. Nhiều loại gạo đã có

được thương hiệu như: gạo nàng thơm chợ Đào, gạo đặc sản Hạt Ngọc Trời,

41

gạo ST 25 Sóc Trăng. Tuy nhiên, hầu hết các thương hiệu gạo này đều do

doanh nghiệp tự xây dựng và làm công tác truyền thông để khẳng định thương

hiệu của mình. Song, thương hiệu gạo ấy chỉ có chỗ đứng trên thị trường Việt

Nam. Đến nay, hạt gạo xuất khẩu của Việt Nam được thế giới biết đến chỉ là

loại gạo trắng bình thường.

Có thể nói, miền Tây Nam Bộ là vựa lúa của cả nước, hàng năm đóng

góp trên 50% sản lượng lúa và trên 90% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả

nước. Cây lúa hiện nay và trong vài thập niên tới vẫn là cây trồng chủ lực ở

miền Tây Nam Bộ ví nó là cây trồng truyền thống, rất phù hợp với điều kiện

tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng và chính sách bảo đảm an ninh lương thực

của Việt Nam.

Cây ăn quả:

Miền Tây Nam Bộ được mệnh danh là thủ phủ cây ăn quả của cả nước.

Bởi, diện tích đạt tới 307.000 ha, chiếm gần 40% diện tích của cả nước. Hàng

năm, vùng này cung cấp cho thị trường khoảng 5 triệu tấn trái. Các tỉnh, thành

có diện tích vườn cây ăn trái nhiều là: Tiền Giang, V nh Long, Bến Tre, Cần

Thơ, Hậu Giang… Các giống cây trồng đặc sản đã có thương hiệu trên thị

trường như: xoài cát Hòa Lộc, vú sữa lò rèn V nh Kim, sầu riêng Chín Hóa,

quýt hồng Đồng Tháp…

Trong thời gian gần đây, miền Tây Nam Bộ không chỉ là vùng trồng cây

ăn trái chủ lực mà còn đóng góp vai trò quan trọng trong cung cấp trái cây

nguyên liệu cho xuất khẩu tươi và chế biến. Các loại cây ăn trái như xoài,

nhãn, thanh long, bưởi, chuối, khóm…được thị trường ưa chuộng, kể cả xuất

khẩu. Trái xoài (trong đó có xoài cát Hòa Lộc, cát Chu) được thị trường Nhật

Bản, Hàn Quốc ưa thích; thanh long, nhãn, vú sữa, chôm chôm đã xuất khẩu

sang Hoa Kỳ với sản lượng gia tăng hàng năm; bưởi da xanh, bưởi 5 Roi

được thị trường châu Á có nhu cầu nhập khẩu dạng tươi. Riêng thanh long là

42

mặt hàng trái xuất khẩu chủ lực, với khoảng 1,1 triệu USD năm 2018. Trong

năm 2018, 13 thị trường xuất khẩu lớn, có giá trị trên 25 triệu USD, Trung

Quốc là thị trường lớn nhất, chiếm 73,1% thị phần; còn lại là Mỹ, Hàn Quốc,

Nhật Bản, Hà Lan, Malaisia, Úc, UAE.

Năm 2018, Đài PT-TH Tiền Giang đã phát sóng 34 tin, bài có liên quan

đến vấn đề cây ăn quả. Trong đó, chuyên mục kinh tế trên Đài PT-TH Tiền

Giang phát ngày 12-3-2018 với chủ đề: “ĐBSCL chuyển đổi 118.290 ha cây

trồng trên đất lúa”. Trong đó, nội dung được chú ý: “Trong năm 2018, ngành

Nông nghiệp đề ra kế hoạch chuyển đổi 118.290 ha đất trồng lúa kém hiệu

quả chuyển sang trồng cây ăn trái và rau màu đặc sản. Bởi, bưởi Năm Roi

đạt hơn 667 triệu đồng/ha/năm, nhãn lãi 646 triệu đồng/ha/năm, xoài lãi 445

triệu đồng/ha/năm…cao gấp nhiều lần trồng lúa”.

Còn Báo Ấp Bắc điện tử đã có 19 tin, bài viết về cây ăn quả. Trong đó,

nhiều bài mang tầm khu vực và có tầm ảnh hưởng lớn đến việc truyền thông

quảng bá nông sản miền Tây. Cụ thể, ngày 7-10-2018 có đề tài: Chuẩn bị thật

kỹ cho trái vú sữa xuất đi Hoa Kỳ. Trong bài này có nội dùng: “Rút kinh

nghiệm năm đầu tiên xuất khẩu vú sữa đi Hoa Kỳ, năm nay, UBND tỉnh Tiền

Giang đặc biệt quan tâm đến vấn đề này nhằm tạo thương hiệu cho trái vú

sữa…Lãnh đạo tỉnh và ngành chuyên môn thường xuyên khảo sát vùng trồng

đư c cấp mà code xuất khẩu, công tác chuẩn bị của nhà vườn và kế hoạch

của các doanh nghiệp thu mua”.

Như vậy, miền Tây Nam Bộ là nơi có truyền thống lâu đời về trồng cây

ăn trái, có điều kiện thuận lợi về tài nguyên và nước, cơ cấu chủng loại trái

cây chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hóa, diện tích các loại cây chủ lực

đều tăng, việc áp dụng tiến bộ khoc học kỹ thuật trong sản xuất, chế biến, bảo

quản ngày càng cao. Nhiều loại cây đã có thương hiệu và khẳng định được vị

thế của mình trên thị trường trong và ngoài nước như: xoài cát Hòa Lộc, vú

43

sữa Lò rèn V nh Kim, khóm Tân Phước, thanh long Chợ Gạo, sầu riêng Ngũ

Hiệp, sầu riêng Cai Lậy, sơ ri Gò Công, mãng cầu xiêm Tân Phú Đông, bưởi

long Cổ Cò, trong đó, thanh long Chợ Gạo, khóm Tân Phước, sầu riêng Ngũ

Hiệp và sầu riêng Cai Lậy có vùng chuyên canh, với diện tích và sản lượng

lớn, có khả năng cung ứng hàng hóa với số lượng lớn cho tiêu thụ tươi, chế

biến và xuất khẩu. Việc áp dụng quy trình thực hành nông nghiệp tốt (GAP)

đã và đang được áp dụng trong sản xuất thanh long Chợ Gạo, khóm Tân

Phước, xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò rèn V nh Kim…

Rau màu:

Rau màu là một trong những cây trồng hàng hóa của các tỉnh, thành

miền Tây Nam Bộ. Hiện, diện tích đạt khoảng 246.000 ha, sản lượng đạt trên

4 triệu tấn, chiếm 30% diện tích trồng rau của cả nước. Một số địa phương có

diện tích trồng rau màu lớn là: Tiền Giang khoảng 50.000 ha, Sóc Trăng gần

38.000 ha, An Giang khoảng 37.400 ha…

Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành của khu vực này đều có dự án xây dựng

các phương tiện phục vụ sản xuất theo hướng nông nghiệp công nghệ cao

như: sản xuất trong nhà lưới chống côn trùng, mái lưới che hạn chế tác hại

của các yếu tố thời tiết bất lợi, trồng rau không cần đất, đầu tư hệ thống

tưới…Hướng sản phẩm đầu ra đều được chứng nhận và cấp chứng chỉ đảm

bảo đạt tiêu chuẩn an toàn theo quy định của VietGAP. Tuy nhiên, hiện nay,

đầu ra của sản phẩm rau an toàn gặp khó do chứng nhận còn chung chung,

chứ chưa thiết lập nhãn hiệu (logo) gắn liền với sản phẩm khi được tiêu thụ

trên thị trường. Riêng về mặt hình dạng nhận diện sản phẩm rau an toàn

VietGAP cũng tương tự như những sản phẩm rau khác trên thị trường nên

chưa có cơ sở để chứng minh với người tiêu dùng tin tưởng vào rau an toàn.

Do đó , người sản xuất rau an toàn còn chịu cảnh bán với giá như các loại rau

sản xuất theo kiểu truyền thống.

44

Năm 2018, Báo Ấp Bắc điện tử có 10 tin, bài viết về rau màu. Cụ thể,

ngày 25-4-2018 ở mục kinh tế có bài: Đẩy mạnh chuyển đổi cây trồng phù hợp

theo từng vùng. Trong đó, tác giả có viết: “Hiện tại, các ngành chức năng

huyện Gò Công Tây đang chú trọng phát triển các loại rau màu trên nền đất

lúa. Trong quá trình canh tác, cán bộ kỹ thuật thường xuyên tập huấn, hướng

dẫn nông dân canh tác theo quy trình an toàn và hỗ tr tìm kiếm thị trường để

người dân trồng rau màu có đầu ra ổn định”.

Đài PT-TH Tiền Giang đã phát 14 tin, bài có liên quan đến vấn đề rau

màu. Cụ thể, chuyên mục kinh tế trên Đài PT-TH Tiền Giang phát ngày 6-2-

2018 có chủ đề: Tiền Giang xuống giống gần 9.500 ha rau màu sau Tết. Tác

giả bài viết đề cập: “Sau khi thu hoạch thắng l i vụ rau màu phục vụ Tết

Nguyên đán Mậu Tuất 2018, từ đầu tháng giêng âm lịch đến nay, nông dân

tỉnh Tiền Giang tiếp tục xuống giống vụ rau màu mới nhằm phục vụ nhu cầu

người tiêu dùng. Một số loại rau màu đư c trồng để tiêu thụ trong mùa nắng

nóng như: dưa leo, cà chua, đậu que, khổ qua…”.

Để đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ rau của người dân ngày càng tăng,

ngành chức năng của các tỉnh, thành miền Tây Nam Bộ đã quan tâm nhiều

hơn, đầu tư phát triển và hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung,

chuyên canh với mô hình liên kết, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi từ canh tác,

sơ chế, chế biến đến tiêu thụ đối với hàng hóa nông sản. Hình thành và phát

triển các mô hình kinh tế tập thể như: tổ hợp tác, hợp tác xã đảm bảo hiệu quả

và phát triển bền vững để liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ trên cơ

sở phát huy thế mạnh từng vùng kinh tế, tạo động lực phát triển bền vững,

liên kết phát triển kinh tế-đô thị của mỗi vùng gắn với mục tiêu, định hướng

phát triển kinh tế-xã hội chung của tỉnh.

45

+ Thông tin, dự báo thị trường nông sản

Việt Nam là quốc gia có lợi thế trong việc xuất khẩu các mặt hàng nông

sản như: lúa gạo, trái cây, rau màu… Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, việc dự

báo thị trường rất quan trọng và có ý ngh a rất lớn đối với các doanh nghiệp

và nông dân trong việc hoạch định, điều chỉnh các chiến lược phát triển sản

xuất, kinh doanh. Thực tế cho thấy, khâu đầu tiên cho công tác phát triển

thương mại là thông tin thị trường, đặc biệt là dự báo.

Đài PT-TH Tiền Giang ngày 23-5-2018 có phát phóng sự: Cảnh báo phát

triển nhanh diện tích trồng mít. Trong đó, tác giả có dự báo: “Hiện nay, các

địa phương khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như: Tiền Giang, V nh Long,

Cần Thơ, Hậu Giang đã phát triển rất nhanh về diện tích trồng mít. Trong đó,

nhiều diện tích chuyển đổi tự phát trên nền đất lúa. Việc, phát triển quá

nhanh về số lư ng và sản lư ng có nguy cơ cung vư t cầu, có nguy cơ xảy ra

tình trạng “dội ch ” khi thị trường nhập khẩu hạn chế thu mua”.

Để vận hành nền kinh tế trong cơ chế thị trường, đối với cấp quản lý nhà

nước, thông tin dự báo giúp cho việc hình thành một chiến lược đầu tư hiệu

quả cho công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở hạ tầng, tổ chức sản

xuất, giúp hình thành các chính sách thích hợp để bảo vệ, hỗ trợ sản xuất

trong nước. Đối với người sản xuất, kinh doanh, dự báo thị trường giúp đưa ra

quyết định hợp lý về đầu tư tổ chức sản xuất, kinh doanh, chọn lựa thị trường.

Báo Ấp Bắc ngày 26-4-2018 có dự báo trong bài: Có nên tăng nhanh

diện tích trồng thanh long. Trong đó, tác giả đã làm bật nổi vấn đề: “Khuyến

cáo không nên tăng nhanh diện tích thanh long do yếu tố thị trường tới đây sẽ

bất ổn vì phía Trung Quốc, nơi nhập khẩu chính sẽ hạn chế nhập khẩu thanh

long Việt Nam đến mức thấp nhất. Mặt khác, thanh long xuất sang thị trường

mới như Ấn Độ và các thị trường khó tính Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Hoa

46

Kỳ…cũng như tiêu dùng trong nước và công nghiệp chế biến tăng trưởng

không cao”.

Quả thật, với diện tích tăng nhanh trong thời gian qua tại các tỉnh, thành

khu vực miền Tây Nam Bộ đã khiến dội hàng, rớt giá. Cung vượt cầu đã

khiến trái thanh long phải bán tràn lan ngoài các tuyến đường.

+ Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sản xuất nông sản theo tiêu

chuẩn quốc gia, quốc tế

Khoa học kỹ thuật là chìa khóa để tăng năng suất, chất lượng và giá trị

nông sản. Điều đó càng ý ngh a hơn khi nước ta hội nhập thị trường quốc tế,

sự cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu trở nên khốc liệt hơn. Chính vì vậy,

việc tuyên truyền của các cơ quan truyền thông giúp cho Nhà nước, nhà khoa

học, nhà doanh nghiệp và nông dân nhận thức được việc đưa khoa học kỹ

thuật vào sản xuất, áp dụng quy trình theo tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế như

VietGAP, GlobalGAP có ý ngh a “sống còn” với từng loại nông sản.

Chuyên mục Cây lành trái ngọt phát ngày 28-2-2018 của Đài PT-TH

Tiền Giang có chủ đề: Vú sữa Hữu Đạo. Trong đó, tác giả Văn Phấn có nói:

“Tỉnh Tiền Giang bên cạnh chú trọng phát triển nhanh về diện tích và sản

lư ng thì việc tập trung đầu tư khoa học kỹ thuật cho nông sản thông qua quy

trình VietGAP, GlobalGAP, cải thiện chất lư ng giống, nâng cao năng suất,

tăng thu nhập cho nông dân. Trong đó, trái vú sữa đư c tập trung đầu tư, bởi,

trái vú sữa đã xuất khẩu vào thị trường khó tính như Hoa Kỳ”.

Trong giai đoạn hội nhập, chất lượng được đặt lên hàng đầu. Việc trái vú

sữa có mặt tại thị trường Hoa Kỳ như đã chứng minh cho việc áp dụng quy

trình kỹ thuật tiên tiến vào quá trình thâm canh sản xuất.

Báo Ấp Bắc điện tử có bài: “Hướng đến vùng chuyên canh nông sản an

toàn” đăng ngày 20-4-2018 có nói: “Toàn tỉnh Tiền Giang có trên 5.000 ha

thanh long, sản lư ng gần 60.000 tấn/năm và tập trung tại 4 huyện: Ch Gạo,

47

Gò Công Tây, Gò Công Đông, Tân Phước. Năm 2017, UBND tỉnh phê duyệt về

việc đăng k sản xuất thanh long theo hướng bền vững (GAP) và ngành Nông

nghiệp của tỉnh đã hỗ tr cho 5 tổ h p tác, h p tác xã đư c chứng nhận

VietGAP, với diện tích trên 60 ha, nâng tổng diện tích đư c chứng nhận GAP

trên 315 ha. Tiền Giang đang phấn đấu đến năm 2025, diện tích trồng thanh

long đạt trên 10.000 ha, trong đó có 4.000 ha đạt tiêu chuẩn GAP”.

Có thể nói, việc thông tin tuyên truyền của bái báo nói trên đã giúp cho

bạn đọc tiếp nhận một lượng thông tin khá lớn về vùng thanh long ở Tiền

Giang. UBND tỉnh Tiền Giang cùng với ngành Nông nghiệp của tỉnh này

đang rất quyết tâm đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhân rộng mô hình

trồng theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế.

+ Phát hiện và nhân rộng mô hình sản xuất tiên tiến

Báo Ấp Bắc ngày 21-10-2018 có bài xã Song Bình: Nhiều mô hình sản

xuất hiệu quả. Trong bài có nói: “Ông Phạm Hoàng Minh, ấp Bình An đã mạnh dạn chuyển đổi 5.000 m2 đất trồng lúa sang trồng 470 gốc bưởi da

xanh. Sau 2 năm trồng, vườn bưởi của ông bắt đầu cho trái, thu hoạch định

kỳ mỗi tháng/lần. Sau khi trừ chi phí, l i nhuận thu về khoảng 500 triệu

đồng/năm. Nhận thấy hiệu quả tăng cao, nhiều nông dân trong vùng đến học

tập để áp dụng, chuyển đổi theo mô hình để nâng cao hiệu quả canh tác. Đến

nay, trên địa bàn xã có hơn 250 ha trồng bưởi da xanh, từ đó góp phần giúp

nhiều hộ dân cải thiện cuộc sống”.

Có thể nói, đây là câu chuyện điển hình của nông dân trong việc mạnh

dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Nông dân dám ngh , dám làm.

Thực tế, trồng cây ăn trái hiện nay đã cho thu nhập cao rất nhiều lần so với

trồng lúa. Đây là việc làm tạo nên phong trào cho người dân trong việc

chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng có lợi nhuận hơn.

48

Chương trình Cây lành trái ngọt của Đài PT-TH Tiền Giang phát ngày

18-01-2018 có bài phóng sự: “Bí nghệ Long An”. Trong bài, tác giả cho rằng:

“Mô hình này là một điểm nhấn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng

cao thu nhập cho người dân. Bởi, canh tác lúa chỉ có 3 vụ trong năm còn luân

canh màu đư c khoảng 5-7 vụ/năm. L i nhuận cao gấp 10 lần trồng lúa”.

Việc chuyển đổi sang mô hình phù hợp với kinh tế thị trường sẽ là

hướng đi tốt nhất cho người nông dân. Rất nhiều người đã mạnh dạn chuyển

sang trồng các loại rau màu, cây ăn trái có lợi nhuận cao, nâng cao thu nhập

cho người dân, từng bước thay đổi diện mạo nông thôn.

+ Phản ánh về việc quy hoạch vùng sản xuất

Truyền thông quảng bá trong việc quy hoạch sản xuất vùng nông sản

nhằm phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa

lớn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh; áp dụng khoa học công nghệ để tăng

năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững

chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài, đáp ứng nhu cầu đa

dạng trong nước và xuất khẩu; nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, nguồn

nước, lao động và nguồn vốn; nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân.

Trong bài: “Hướng tới vùng chuyên canh nông sản an toàn” đăng ngày

20-4-2018 trên báo Ấp Bắc có nói: “Vùng chuyên canh rau màu của tỉnh

đang đư c trồng tập trung tại các huyện Ch Gạo, Châu Thành, Gò Công

Đông và TX. Gò Công. Hiện nay, diện tích rau màu có trên 55,3 ngàn ha,

cung cấp sản lư ng trên 1 triệu tấn, với nhiều chủng loại khác nhau như: rau

ăn lá, ăn củ và rau gia vị. Ngoài ra, tỉnh Tiền Giang cũng có trên 5.000 ha

thanh long, sản lư ng gần 60 ngàn tấn/năm và tập trung tại 4 huyện: Ch

Gạo, Gò Công Tây, Gò Công Đông và Tân Phước”.

Bài báo nói trên đã thông tin nhiều chi tiết để người tiêu dùng biết được

tỉnh Tiền Giang hiện nay có được vùng trồng rau màu chuyên canh, tập trung

49

tại một số địa phương và nhiều chủng loại rau được tiêu thụ nhiều trên thị

trường. Ngoài ra, vùng thanh long cũng được trồng chuyên canh, được tỉnh

Tiền Giang quy hoạch rất cụ thể, sản lượng cung ứng ra thị trường.

Trong chuyên mục “Cây lành trái ngọt” ngày 5-7-2018 của Đài PT-TH

Tiền Giang có phát đề tài Hợp tác xã bưởi da xanh ở Giồng Trôm – Bến Tre

có đoạn: “Tỉnh Bến Tre có nhiều loại cây ăn trái. Hiện nay, trước xu thế hội

nhập thế giới, nhiều loại nông sản đặc trưng phải lận đận, lao đao trước làn

sóng giá cả. Để nâng cao thu nhập cho người dân, chính quyền đã có chủ

trương quy hoạch và phát triển nhanh diện tích bưởi da xanh xen trong vườn

dừa ở huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Diện tích hiện có khoảng 6.500 ha

bưởi da xanh, với sản lư ng 100 ngàn tấn trái/năm. Đầu năm 2018, Cục Sở

hữu Trí tuệ đã cấp chỉ dẫn địa l cho bưởi da xanh Bến Tre”.

Nội dung đã thể hiện tính linh hoạt của nhà nước và nông dân trong việc

chọn lựa cây ăn quả thích ứng với thị trường, giúp nông sản có đầu ra ổn định,

giá cả đảm bảo cho nông dân có lãi, người trồng tăng thu nhập. Bên cạnh đó,

nhà nước cũng đã quy hoạch vùng trồng tập trung nhiều tại huyện Giồng

Trôm nhằm hỗ trợ kỹ thuật, quản lý dịch bệnh, đáp ứng đủ số lượng cho thị

trường trong và ngoài nước.

- Truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên Báo Ấp Bắc

điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang

Mở chiến dịch truyền thông quảng bá nông sản

Trong những năm gần đây, các vùng sản xuất và chế biến nông sản của

miền Tây Nam Bộ đã rất chú trọng tăng cường công tác truyền thông quảng

bá sản phẩm của mình. Các l hội nông sản được tổ chức đều đặn hàng năm,

với phạm vi và quy mô liên tục được mở rộng. Thông qua số lượng các bài

viết, trang báo đưa tin về sự kiện, công chúng và người tiêu dùng cũng nâng

cao được khả năng nhận thức về nhiều loại nông sản của Việt Nam. Trong đó,

50

báo chí Tiền Giang đã đăng phát nhiều thông tin trước, trong và sau sự kiện

lớn về nông sản.

Cụ thể, sự kiện trái vú sữa Việt Nam cho phép nhập khẩu vào thị trường

Hoa Kỳ. Đây là vấn đề được rất nhiều người dân trồng vú sữa ở Tiền Giang

nói riêng và miền Tây Nam Bộ nói chung mong đợi. Tiền Giang được chọn là

nơi xuất khẩu lô hàng vú sữa Lò Rèn V nh Kim đầu tiên sang Hoa Kỳ. Trước

buổi l xuất khẩu lô vú sữa này, báo chí Tiền Giang đã có 11 tin, bài tuyên

truyền xung quanh sự kiện. Trong đó, một số bài nổi trội như: Nông dân tất

bật chuẩn bị vú sữa đi Hoa Kỳ, kiểm tra các vườn vú sữa, Chủ tịch UBND

tỉnh Tiền Giang tiếp xúc với người trồng vú sữa, trao đổi với các doanh

nghiệp xuất khẩu vú sữa, kỳ vọng vú sữa xuất đi Hoa Kỳ, vú sữa đi Hoa Kỳ

tạo nên bước ngoặc mới cho nông sản Việt Nam…

Việc truyền thông liên tục và theo chuỗi vấn đề đã góp phần xây dựng

hình ảnh thương hiệu nông sản của Việt Nam nói chung và của miền Tây

Nam Bộ nói riêng đến gần hơn với công chúng. Nội dung thông tin được lựa

chọn để truyền thông chủ yếu tập trung vào những điểm nổi bật của sản phẩm

như: kiểu dáng, hương vị, công dụng, lợi ích kinh tế, nguồn gốc xuất xứ, cách

thức canh tác sản xuất. Đây là những thông tin hữu ích với người tiêu dùng,

giúp họ hiểu hơn về các chủng loại nông sản có ở miền Tây Nam Bộ.

Tuy nhiên, công tác truyền thông quảng bá sản phẩm chưa được đầu tư

nhiều về chất lượng nội dung. Một hạn chế trong việc truyền thông quảng bá

sản phẩm nông sản trên báo chí Tiền Giang là chưa tuyên truyền đậm nét để

giúp người tiêu dùng nhận biết và phân biệt được sản phẩm nào an toàn và

sản phẩm nào không an toàn. Chưa kể, chính công tác truyền thông hạn chế

nên người tiêu dùng hiện nay rất khó phân biệt được nông sản có nguồn gốc

tại Việt Nam và nông sản cùng loại được nhập từ nước ngoài; đặc biệt là một

số loại nông sản có xuất xứ từ Trung Quốc cạnh tranh trực tiếp với ta.

51

Xây dựng chuyên trang, chuyên mục

Cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông, nhất là sự bùng

nổ của mạng xã hội, những năm gần đây, báo chí Tiền Giang cũng đã có những

bước phát triển mới, góp phần không nhỏ trong công tác tuyên truyền chủ

trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như đáp ứng ngày

càng tốt hơn nhu cầu thông tin, giáo dục, định hướng cho các tầng lớp nhân dân

về chủ trương phát triển nông sản của các tỉnh, thành miền Tây Nam Bộ.

Để thu hút người xem và bạn đọc, ngoài việc thông tin nhanh, kịp thời

các vấn đề thời sự, báo chí Tiền Giang đã quan tâm chuyển tải những thông

tin về nông sản mang tính chuyên sâu thông qua chuyên trang, chuyên mục để

phù hợp hơn với sự phát triển, hướng đến đối tượng độc giả cụ thể. Tổ chức

chuyên trang, chuyên mục là hệ thống biên tập, tổ chức các tin, bài trong

chuyên trang, chuyên mục báo chí để đem đến cho bạn đọc tính chuyên sâu về

một vấn đề, chủ đề nào đó. Ngoài ra, nó cần phải đem đến cho bạn đọc những

thông tin luôn mới, phong phú và tạo thành dư luận xã hội lành mạnh. Việc tổ

chức hệ thống chuyên trang, chuyên mục sẽ là điểm nhất cho toàn bộ hoạt

động nội dung, định hướng của báo chí.

Hoạt động tổ chức chuyên trang, chuyên mục trên báo chí Tiền Giang

gồm các yếu tố: Tổ chức phân công nhiệm vụ cho nhân sự và tổ chức sản xuất

nội dung các chuyên trang, chuyên mục; cũng như mọi quá trình sản xuất tạo

ra sản phẩm khác, việc tạo ra một chuyên trang, chuyên mục về nông sản trên

báo chí đòi hỏi phải có yếu tố đầu vào, đầu ra, các trang thiết bị, công nghệ và

nhân sự được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm.

Thông tin các tác phẩm trên báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền

Giang về nông sản đều thể hiện ở những nội dung nghiên cứu, tổng kết, đánh

giá mà hình thức thể hiện ở các thể loại bài viết chuyên sâu, phóng sự, phỏng

52

vấn. Cùng với các yếu tố trên, ngôn ngữ cũng là yếu tố quan trọng tạo nên sự

đa dạng về nội dung thông tin cho báo chí.

Với nhiều nội dung chuyên trang, chuyên mục viết về nông sản đã đạt

được những thành công nhất định khi khai thác, bám sát và có thông tin kịp

thời về những vấn đề quan trọng, vừa nảy sinh với bà con nông dân, trong đó

có những vấn đề được rất nhiều người nông dân quan tâm như đầu ra cho

nông sản, chính sách hỗ trợ… Cụ thể, thanh long rớt giá và khó tiêu thụ, sau

các bài phản ánh về thực trạng trên, báo chí Tiền Giang đi sâu vào tuyên

truyền những khu, cụm công nghiệp; doanh nghiệp có nhu câu thu mua thanh

long cho bữa ăn tráng miệng của công nhân, siêu thị Coopmart có đến khảo

sát và ký hợp động với các hợp tác xã thu mua trên 100 tấn thanh long. Từ các

thông tin này, người dân rất vui mừng và yên tâm vì bán được hàng hóa. Hoặc

trong các đợt hạn, mặn, nông sản miền Tây Nam Bộ bị ảnh hưởng khá nhiều.

Đa số các địa phương ven biển đều bị thiệt hại nặng nề. Báo chí Tiền Giang

đã tuyên truyền một số Nghị định của Chính phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ

sản xuất nông nghiệp để khôi phục lại sản xuất như: Nghị định số

02/2017/NĐ-CP của Chính phủ.

Tổ chức tuyến bài nhiều kỳ tại cơ quan báo chí Tiền Giang đang là xu

hướng tất yếu trong cuộc cạnh tranh gay gắt với các loại hình báo chí-truyền

thông mới hiện nay. Tuy nhiên, nó cần phải thay đổi để đáp ứng đòi hỏi ngày

càng cao của công chúng về thông tin nông sản có chiều sâu, có phân tích để

chạm đến bản chất của vấn đề. Đó chính là những sản phẩm báo chí chất

lượng cao, được đầu tư thực hiện công phu và trình bày hấp dẫn, lôi cuốn.

Sử dụng nhiều thể loại báo chí

Qua khảo sát năm 2018, báo chí Tiền Giang đã tuyên truyền khá bao

quát các nội dung về truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản, thông qua

việc sử dụng các thể loại báo chí khác nhau. Nghiên cứu, khảo sát các chương

53

trình, các chuyên trang cho thấy những thể loại được sử dụng nhiều là thể loại

tin, phản ánh, phóng sự. Phỏng vấn chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Với tất cả các chuyên

trang, chuyên mục của Báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang, trong

năm 2018 có 490 tác phẩm báo chí, trong đó, thể loại tin tức chiếm đa số với

402 tin, 44 phóng sự, 34 bài phản ánh, 10 tác phẩm phỏng vấn.

Về cơ bản, đặc trưng của thể loại đã được thể hiện rõ nét. Mỗi thể loại

đều phát huy được thế mạnh của mình, bảo đảm tính thời sự cao, có tính

chính luận và định hướng nhờ có sự phân tích, đánh giá có chiều sâu về

những về đề quảng bá sản phẩm nông nghiệp hiện nay.

Tin là thể loại chiếm ưu thế và có số lượng nhiều trong việc truyền thông

quảng bá sản phẩm nông sản. Theo tính chất thông tin, có các dạng tin cơ bản:

tin ngắn, tin sâu, tin tường thuật, tin tổng hợp. Theo hình thức thể hiện có tin

hình, tin ảnh, tin báo in.

Nhìn chung, các chương trình và trang báo được khảo sát thường là tin

vắn, tin ngắn, tin tổng hợp gắn liền với các hoạt động của địa phương, các

doanh nghiệp trong khu vực và trên cả nước; các hội nghị, hội thảo về tìm đầu

ra cho nông sản, các sản phẩm nông sản tiêu biểu của vùng, với những con số

thống kê cụ thể. Có thể điểm qua như: Hơn 40 tấn vú sữa đư c xuất khẩu

sang Mỹ (Chương trình thời sự - Đài PT-TH Tiền Giang ngày 7-5), đưa xoài

cát Hòa Lộc phục vụ trên các chuyến bay Việt Nam Airlines (Báo Ấp Bắc

điện tử ngày 14-2)…

Thể loại được sử dụng nhiều thứ hai là phóng sự. Với nhiều đặc điểm

các chương trình khảo sát là các chuyên mục, chuyên trang. Các bản tin ngắn

trong các chuyên trang, chuyên mục cung cấp cho khán giả và độc giả những

thông tin ngắn gọn, kịp thời thì trong các chuyên trang, chuyên mục này luôn

có sự hiện diện đầy đủ của các loại phóng sự: phóng sự sự kiện, phóng sự vấn

đề, phóng sự điều tra, phóng sự chân dung…

54

Phóng sự là thể loại báo chí có khả năng chuyển tải một khối lượng

thông tin phong phú và trình bày hiện thực trong quá trình phát sinh phát

triển. Nó đem đến cho công chúng một bức tranh xác thực, vừa chi tiết, vừa

cụ thể. Trong các chương trình truyền hình và báo in, phóng sự luôn là thể

loại để lại dấu ấn mạnh mẽ trong công chúng khán giá và bạn đọc. Thể loại

này dùng để phản ánh, phân tích những sự kiện, những vấn đề xây dựng,

quảng bá các sản phẩm nông sản, những bất cập trong quá trình xây dựng và

bảo vệ thương hiệu nông sản hiện nay. Phần lớn các phóng sự được kết cấu

theo phương pháp quy nạp, rất phù hợp với thể loại báo chí. Ví dụ trong

phóng sự: Được gì khi trồng lúa theo công nghệ cao được đăng trong mục

kinh tế Báo Ấp Bắc điện tử, ngày 14-9-2018. Bài viết phản ánh khá sinh động

việc nông dân trồng lúa theo công nghệ cao nhưng không được hưởng lợi ích

nhiều từ mô hình này. Bài viết có nêu nhân vật cụ thể và để nhân vật trả lời

phỏng vấn:

Nông dân Nguy n Văn Tơn, ấp Hiệp Trị, xã Phước Trung (huyện Gò

Công Đông) bày tỏ: Diện tích trồng lúa ở vùng đất Gò Công nhỏ và mặt

ruộng giữa các nơi không đồng đều, nếu sử dụng công nghệ tưới ngập khô

xen kẻ thì sẽ có nơi nước nhiều, có nơi bị thiếu nước…Cùng quan điểm với

ông Tơn, ông Bùi Thanh Diệp, ấp Ngh a Chí, xã Phước Trung (huyện Gò

Công Đông) đặt vấn đề, sau khi tham gia dự án, nông dân đư c hưởng l i gì,

đơn vị nào bao tiêu sản phẩm, l i nhuận của người trồng lúa trong dự án có

cao hơn so với người sản xuất lúa theo kiểu truyền thống?...

Nhiều phóng sự xuất hiện phóng viên dẫn hiện trường đã làm tăng thêm

phần sinh động cho các phóng sự, gia tăng tính thuyết phục của phóng sự

trong vấn đề cần phản ánh đến khán giả xem truyền hình.

Thể loại phỏng vấn cũng được sử dụng trong các chương trình truyền

hình và báo in để tuyên truyền quảng bá sản phẩm nông sản. Đây là một trong

55

những thể loại rất d nhận biết trong các thể loại báo chí nhờ hình thức hỏi-

đáp. Đối tượng được phỏng vấn thường là những cán bộ lãnh đạo, chuyên gia,

nhà nghiên cứu, người nông dân…Thông qua những bài phỏng vấn đã cung

cấp cho công chúng một hàm lượng thông tin cao, hiệu quả và đảm bảo tính

khoa học. Song ở thể loại này, các chương trình truyền hình ít sử dụng tới

nhưng đối với báo điện tử có sử dụng nhưng với tuần suất ít hơn thể loại tin

phóng sự.

Nhìn chung thể loại tác phẩm báo chí viết gề vấn đề truyền thông quảng

bá sản phẩm nông sản của báo chí Tiền Giang hiện nay rất da dạng. Việc sử

dụng thể loại nào nhiều hay ít tùy thuộc vào nội dung phản ánh, đồng thời nó

được quy định bởi đặc trưng hay thế mạnh của từng loại báo, đài.

- Sử dụng các yếu tố đa phương tiện

Trong kỷ nguyên số, truyền thông đa phương tiện đối với một cơ quan

báo chí là rất cần thiết. Trước những lợi ích mà cách mạng công nghiệp 4.0

mang lại, báo chí đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới để thay đổi và

thích ứng. Báo chí Tiền Giang cũng không nằm ngoài xu hướng đó.

Có thể khẳng định: không gian đa phương tiện đã được xây dựng, đáp

ứng được yêu cầu làm việc linh hoạt, năng động. Bên cạnh đó, các nhà báo đa

phương tiện cũng được từng bước xây dựng, các nhà báo không chỉ chuyên

nghiệp, giỏi nghề mà còn thạo ngoại ngữ, làm chủ công nghệ; tích hợp được

kỹ năng đa phương tiện nhằm sáng tạo ra sản phẩm báo chí đáp ứng yêu cầu

ngày càng cao của công chúng. Yếu tố quản lý đa phương tiện cũng đã được

áp dụng thông qua quy trình xuất bản thống nhất và từng bước được số hóa

trên cơ sở phân cấp, phân quyền mạnh mẽ.

Hiện nay, báo Ấp Bắc điện tử vừa truyền tải thông tin về nông sản trên

mục kinh tế, nông nghiệp-nông dân-nông thôn, mục thời sự. Ngoài ra, báo

còn sử dụng video clip để phát các phóng sự chuyên sâu nhằm quảng bá hình

56

ảnh nông sản của miền Tây Nam Bộ. Ngoài phát trên sóng phát thanh và

truyền hình, Đài PT-TH Tiền Giang còn mở trang thông tin điện tử tuyên

truyền để tuyên truyền tổng quan các vấn đề, trong đó có nông sản. Ấn tượng

nhất là trang kinh tế cập nhật liên tục các vấn đề có liên quan đến nông sản

trên cả nước nói chung và của miền Tây Nam Bộ nói riêng.

2.3. Đánh giá thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây

Nam Bộ

Qua phân tích về nội dung các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề và

hình thức truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên báo chí Tiền

Giang cho thấy, nội dung truyền thông tương đối đa dạng, phong phú, nêu bật

được tầm quan trọng của quảng bá sản phẩm nông sản trong quá trình hội

nhập hiện nay; bám sát thực ti n và phản ánh các nội dung có tính thời sự cao.

Các nội dung đã nêu được mục đích của thông điệp cần truyền tải đến công

chúng. Mặc khác, các chương trình đã phản ánh sinh động cuộc sống, cung

cấp cho công chúng, người tiêu dùng những kiến thức về sản phẩm nông

nghiệp, giá trị của từng sản phẩm, kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh và

xây dựng thương hiệu nông sản, cảnh báo kịp thời cho doanh nghiệp, nông

dân trong quá trình sản xuất, tạo dựng thương hiệu nông sản.

Nội dung truyền thông đã quảng bá được thương hiệu nông sản miền

Tây Nam Bộ đến với người tiêu dùng trong và ngoài nước, góp phần định vị

được thương hiệu nông sản miền Tây Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung

trong lòng công chúng.

Qua phỏng vấn lãnh đạo nhà nước, doanh nghiệp và nông dân, ba ý kiến

cho rằng: nội dung và hình thức truyền tải thông tin của Báo Ấp Bắc điện tử và

Đài PT-TH Tiền Giang tương đối đa dạng về nội dung nông sản, hình thức

phong phú; nhiều nội dung đã bám sát vào chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước. Song, cũng có hai ý kiến cho rằng: nội dung còn khô khan, báo cáo

57

nhiều và chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin của doanh nghiệp cũng như của

người dân.

- Thành công

Qua khảo sát 509 tin, bài có liên quan đến nông sản trên báo chí Tiền

Giang, chúng tôi thấy rằng nội dung tuyên truyền đa dạng, sinh động; cung

cấp cho công chúng, người nông dân nhiều kinh nghiệm trong xây dựng

thương hiệu và tiêu thụ nông sản. Nội dung tuyên truyền trong các chương

trình của Đài PT-TH Tiền Giang, chuyên mục kinh tế của Báo Ấp Bắc điện tử

đã quảng bá khá hữu hiệu hình ảnh thương hiệu nông sản, góp phần định vị

thương hiệu nông sản của khu vực miền Tây Nam Bộ trong lòng công chúng

và độc giả; đưa thương hiệu nông sản khu vực đến với thị trường trong và

ngoài nước. Việc tuyên truyền này còn kích thích người Việt Nam ưu tiên

dùng hàng Việt Nam. Từ đó, các sản phẩm nông sản đến gần hơn với người

tiêu dùng từ thành thị đến nông thôn. Cụ thể, mỗi khi nông dân được mùa,

mất giá; sản phẩm khó tiêu thụ thì báo chí tuyên truyền đậm nét về những khó

khăn, vất vả của nông dân; ngành chức năng vào cuộc và người dân hưởng

ứng cuộc giải cứu này một cách mạnh mẽ. Đầu năm 2018, thanh long tại tỉnh

Tiền Giang và Long An rớt giá thuê thảm, không có đầu ra, báo chí Tiền

Giang đã tuyên truyền 7 bài về thực trạng này, chính quyền địa phương phối

hợp với các doanh nghiệp tiến hành giải cứu cho nông dân. Tại Tiền Giang,

chỉ trong vòng 1 tháng, thanh long của nông dân đã được các doanh nghiệp

mua cho khoảng 80 tấn.

Ngoài ra, công tác truyền thông quảng bá còn cung cấp cho người dân và

người tiêu dùng những kiến thức cơ bản về sản phẩm nông nghiệp ở các địa

phương trong khu vực miền Tây Nam Bộ. Từ đó, người tiêu dùng biết được

địa chỉ và chọn lựa cho mình những sản phẩm nông sản an toàn, chất lượng

và giá cả hợp lý.

58

Qua phỏng vấn sâu, hầu hết ý kiến cho rằng kênh truyền hình quảng bá

sản phẩm nông sản hiệu quả hơn so với các loại hình báo chí khác. Bởi, hình

thức truyền thông của truyền hình đa dạng về thể loại. Các tác phẩm báo chí

của truyền hình sử dụng lời bình ngắn gọn, hình ảnh truyền đạt mang tính

biểu cảm cao, mang đậm chất ngôn ngữ truyền hình. Việc sử dụng tiếng động

hiện trường, sử dụng phát biểu hợp lý cùng với dẫn hiện trường của phóng

viên đã làm tăng thêm hiệu quả của truyền thông, mục đích truyền thông của

tác phẩm đến với công chúng khán giả, giúp khán giả hiểu rõ về quảng bá sản

phẩm nông sản hiện nay.

- Hạn chế

Nông sản miền Tây Nam Bộ là một tổng thể, có mối quan hệ tương hỗ

nhau nhưng báo chí Tiền Giang đa số đều khai thác thông tin của địa phương

nên rất khó tìm ra cái nhìn toàn diện. Hai cơ quan mà chúng tôi khảo sát chỉ

có Đài PT-TH Tiền Giang là thường khai thác thông tin của khu vực, còn Báo

Ấp Bắc điện tử cũng có khai thác thông tin của khu vực và cả nước nhưng đa

số đều chia sẻ nguồn từ các báo, đài bạn. Điều này d dàng nhận thấy qua

hàm lượng thông tin trong nhiều tin, bài trên báo Ấp Bắc điện tử không nhiều,

khiến những lý giải, phân tích thiếu thuyết phục do không có cái nhìn bao

quát toàn vấn đề, không có ý kiến nhà chuyên môn, mà chỉ nhận định chủ

quan của phóng viên. Báo chí Tiền Giang vẫn nặng thông tin báo cáo, mô

hình, mà chưa khái quát thành những vấn đề lớn có tính tổng kết, rút ra bài

học kinh nghiệm thực ti n.

Nội dung trên báo chí Tiền Giang vẫn còn đơn điệu, theo khuôn mẫu, ít

có sự sáng tạo. Cụ thể, Báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang vẫn

chưa thoát khỏi tình trạng chung là bài viết quá khô khan, số liệu báo cáo,

chưa mang tính báo chí. Điều này thể hiện rõ nhất trên Báo Ấp Bắc điện tử

khi tin, bài chưa có nhiều phát hiện, chuyên sâu mà các bài báo không khác gì

59

bài báo cáo thành tích. Ví dụ, trong quá trình khảo sát, chúng tôi thường phát

hiện có những bài viết dài dòng, liệt kê như: Báo Ấp Bắc điện tử ra ngày 24-

12-2018 có đoạn: “Tại Hội nghị phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu

Long đư c tổ chức gần đây, Ths. Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về

sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng, nếu tính theo kịch bản quốc

gia về biến đổi khí hậu năm 2016, đối với kịch bản trung bình, đến năm 2100, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhiệt độ trung bình có thể tăng 1,7-1,9oc,

mưa có thể tăng 5-15% và nước biển dân từ 32-78 cm. Hậu quả là Đồng bằng

sông Cửu Long có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn lúa/năm, tương đương với hơn

40% tổng sản lư ng lúa của cả vùng. Nếu tính theo kịch bản trung bình về

biến đổi khí hậu, năng suất lúa đông xuân giảm khoảng 405 kg/ha, vào năm

2030 và hơn 716 kg/ha vào năm 2050. Nếu mực nước dân cao 1m sẽ có

khoảng gần 39% diện tích vùng Đồng bằng sông Cửu Long, khoảng 10-12%

dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất 10% GDP”.

Ngoài ra, bài báo không rõ cách thể hiện, không có sa pô, tít phụ. Trong

nhiều trường hợp, độc giả Báo Ấp Bắc điện tử như bị đánh đố đâu là tin, đâu

là bài vì có nhiều bài viết ngắn như tin, nhiều tin lại viết dài như bài.

Bên cạnh đó, cách đặt tít cũng chưa được chú trọng. Hầu hết báo chí

Tiền Giang đều có cách đặt tít chung chung như: cơ hội cho người làm ra hạt

gạo?, tích cực tìm giải pháp để tiêu thụ lúa cho nông dân, lại nói về câu

chuyện lúa-gạo, thúc đẩy “mặt trận” nông nghiệp, tìm cách gỡ “nút thắt”

chế biến nông sản…Tít bài chung chung có thể đặt cho nhiều bài báo trong

nhiều thời điểm vẫn còn xuất hiện rất nhiều trên báo chí Tiền Giang.

Những tít bài như thế cho thấy sự d dãi và thiếu trách nhiệm đối với các

bài báo của người làm báo. Mặt khác, nhiều tác phẩm viết câu quá dài, có

những bài viết câu vừa dài vừa sai làm người đọc không thể nào hiểu được

60

tác giả bài viết muốn nói điều gì. Lỗi này không chỉ thuộc về người viết mà

cả lỗi của biên tập.

Đây là trăn trở lớn nhất của chúng tôi trong quá trình khảo sát thực hiện

đề tài này. Mặc dù, theo lãnh đạo báo, đài, Ban Biên tập và Ban Giám đốc

luôn khuyến khích phóng viên tìm tòi, đầu tư những đề tài chuyên sâu mang

tầm cỡ khu vực nhưng kết quả chưa như mong muốn. Đài PT-TH Tiền Giang

thường có những bài có nội dung mang tầm khu vực, nói lên những nội dung

được dư luận quan tâm về nông sản. Báo Ấp Bắc điện tử thường xuyên có

những loạt bài, tuyến bài chuyên sâu về đề tài nông sản nhưng đa số đều

mang tính địa phương Tiền Giang, phạm vi tác động hẹp nên những bài viết

chưa gây được tác động mạnh. Hơn nữa, phóng viên của Đài PT-TH Tiền

Giang viết bài có tâm lý chạy số lượng nên nhiều loạt bài bị kéo quá nhiều kỳ

nhưng lại không có nhiều thông tin, không giải quyết được vấn đề.

Tiểu k t chƣơng 2

Khi xây dựng một hoạt động truyền thông, ngoài lập ra những tiêu chí

cho phần nội dung, việc sử dụng thể loại, ngôn ngữ, kết cấu thể loại qua tác

phẩm báo chí là rất quan trọng trong quá trình truyền tải thông điệp đến công

chúng. Khi khảo sát những tác phẩm báo chí ở các chuyên trang, chuyên đề,

chuyên mục, chúng tôi tiến hành phân chia thể loại các tác phẩm. Điều d

nhận thấy là số lượng những bài báo dưới hình thức nghiên cứu trao đổi

chiếm nội dung khá lớn. Còn những bài viết mang tính chính luận, nhận định

nhằm đưa ra giải pháp khả thi cho vấn đề truyền thông quảng bá sản phẩm

nông dân gần như rất ít.

Ngoài những thể loại tin, bài phản ánh, trên báo chí báo khảo sát còn

xuất hiện khá nhiều dạng bài nghiên cứu, trao đổi…những bài viết dạng này

nhằm góp phần nâng cao nhận thức của người nông dân, cộng đồng doanh

nghiệp trong l nh vực truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản. Rất ít bài

61

nghiên cứu về xu thế, phương hướng truyền thông và quảng bá sản phẩm

nông sản trong tương lai, thiếu những định hướng, giải pháp cho vấn đề

truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản miền Tây Nam Bộ hiện nay.

Bên cạnh tính khách quan, chính xác, các tác phẩm viết về vấn đề truyền

thông quảng bá sản phẩm nông sản không thể thiếu tính biểu cảm. Chính tính

biểu cảm vốn là hiện thân của cái hay, cái hấp dẫn mới là nhân tố tác động

mạnh mẽ tới tâm hồn của người nghe, người đọc. Việc xác định đối tượng

công chúng là rất cần thiết khi lên kế hoạch xây dựng nội dung và chọn

phương thức truyền tải thông điệp trong tác phẩm báo chí sao cho phù hợp

với từng tác phẩm, từng thể loại, chuyên trang, chuyên mục, từng số báo. Với

tầm ảnh hưởng và sức tác động rộng lớn của báo chí trong việc thay đổi nhận

thức, hành vi, thái độ của công chúng đối với những vấn đề thời sự, sự kiện

nóng hổi. Báo chí cần phải có cách thể hiện ngôn từ sao công chúng tiếp nhận

thông tin từ báo chí cảm thấy rằng đó là điều đúng, là cái lợi cho bản thân

mình, đó là việc mình nên làm và cần phải suy ngh …

62

Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TIỀN GIANG TRONG VIỆC

TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ

3.1. Những vấn đề đặt ra về truyền thông quảng bá nông sản của các

tờ báo ở Việt Nam nói chung và Báo Ấp Bắc điện tử Đài PT-TH Tiền

Giang nói riêng

- Quảng bá nhằm nâng cao nhận thức về sản xuất theo chuỗi giá trị

Tổ chức tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức trong hệ thống

chính trị và nhân dân về tính tất yếu phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông

nghiệp. Xu hướng tiêu dùng sạch, đảm bảo an toàn thực phẩm, chất lượng cao

để tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động; thay đổi tư duy trong sản

xuất nông sản, chuyển từ phát triển theo số lượng sang phát triển về chất

lượng; từng bước điều chỉnh hành vi tiêu dùng của người dân theo hướng ưu

tiên sử dụng các sản phẩm nông sản có chứng nhận chất lượng, thân thiện môi

trường và có tham gia vào chuỗi giá trị.

Đồng chí Phạm Văn Sơn, Phó Tổng Biên tập Báo Ấp Bắc:

“Báo chí cần đẩy mạnh công tác truyền thông sâu rộng, tuyên truyền,

vận động và phổ biến cho nhà vườn ngh a của việc sản xuất theo quy trình,

liên kết sản xuất để phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu; sản

xuất theo hướng an toàn để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và phục vụ

xuất khẩu…”.

Truyền thông nhằm vận động, mời gọi doanh nghiệp, nông dân tham gia

xây dựng và hoàn chỉnh các chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp; từng bước

điều chỉnh quan hệ sản xuất-kinh doanh giữa nông dân và doanh nghiệp theo

hướng chủ động và tự giác hợp tác liên kết kinh doanh nhằm không ngừng

nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong thời kỳ hội nhập kinh tế

quốc tế.

63

Đồng chí Nguy n Văn Phấn, Phó Giám đốc Đài PT-TH Tiền Giang nói:

“Nếu có kinh phí hỗ tr từ phía cơ quan chức năng, doanh nghiệp và nội

dung do Ban Giám đốc quyết định, chúng tôi sẽ bố trí thêm phóng viên để tập

trung khai thác những vấn đề về nông sản nhiều hơn, chuyên sâu hơn. Có

đư c nhiều bài viết, chúng tôi sẽ tập trung nâng chất lư ng nội dung và cách

thể hiện, trình bày cũng sẽ hấp dẫn hơn”.

Triển khai đồng bộ các hoạt động thông tin, truyền thông, quảng bá về

các sản phẩm nông sản gắn với nâng cao nhận thức của người nông dân về

hợp tác xã kiểu mới, về liên kết kinh doanh theo chuỗi; đẩy mạnh phát triển

du lịch gắn với nông sản nhằm nâng cao hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh

tranh trong từng khâu sản xuất và tiêu thụ nông sản.

Đồng chí Phạm Văn Sơn cho biết thêm:

“Theo chúng tôi, ngoài công tác truyền thông quảng bá của cơ quan báo

chí, nhà nước cần xây dựng chuyên canh vùng canh tác nông sản, đủ số

lư ng và chất lư ng; đẩy mạnh sản xuất rải vụ để tránh cung vư t cầu,

“đư c mùa mất giá”, doanh nghiệp cần cải thiện khâu sơ chế, chế biến, bảo

quản, vận chuyển; xây dựng chuỗi giá trị trong sản xuất và kinh doanh; nâng

cao năng lực của các tổ h p tác, h p tác xã để tổ chức sản xuất, tạo ra sản

phẩm có số lư ng lớn, chất lư ng đáp ứng đư c yêu cầu…”.

- Tuyên truyền cho việc tổ chức, quản l và điều hành sản xuất

Rà soát, cập nhật, bổ sung kịp thời các quy hoạch sản xuất nông sản, vùng

nguyên liệu các sản phẩm xây dựng chuỗi; tăng cường sản xuất theo tiêu chuẩn

hữu cơ, tiêu chuẩn GAP gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm; đẩy mạnh việc

ứng dụng và áp dụng có hiệu quả công nghệ bảo quản sau thu hoạch.

Nông dân Nguy n Văn Minh, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang:

“Vấn đề này, chúng tôi đã đư c tập huấn kỹ thuật trồng và phương pháp

chăm sóc. Thương hiệu sầu riêng Cai Lậy đã có từ mấy năm nay. Nhưng

64

chúng tôi thấy giá bán cũng như người sản xuất truyền thống. Việc tiêu thụ,

chúng tôi thường nghe nói thương lái thu mua rồi bán cho các doanh nghiệp

xuất sang Trung Quốc”.

Đánh giá toàn diện, đầy đủ vai trò của các tác nhân tham gia chuỗi giá trị

từ sản xuất-bảo quản-thu mua-sơ chế-chế biến-phân phối đến tiêu thụ sản

phẩm; quan tâm hỗ trợ, hướng dẫn các tác nhân thực hiện tốt mối liên kết

trong chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa, hợp lý lợi ích giữa các tác nhân tham gia.

Xây dựng và nhân rộng các mô hình hợp tác, hợp tác xã kiểu mới hoạt

động có hiệu quả trong nông nghiệp; ưu tiên phát triển các hợp tác xã nông

nghiệp có liên kết kinh doanh đầu vào, đầu ra.

Khuyến khích, hỗ trợ hình thành các liên kết kinh doanh giữa doanh

nghiệp, cơ sở kinh doanh…

Như vậy, báo chí Tiền Giang cần phối hợp với các cơ quan chuyên môn,

doanh nghiệp đẩy mạnh công tác truyền thông sâu rộng, tuyên truyền, vận động

và phổ biến cho nhà vườn ý ngh a của việc sản xuất theo quy hoạch, liên kết

sản xuất để phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu; sản xuất theo

hướng an toàn để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và phục vụ xuất khẩu.

Tuyên truyền giúp nông dân nắm bắt, ứng dụng các đề tài đã được nghiên cứu,

các kỹ thuật mới trong sản xuất; nhân rộng các mô hình sản xuất theo hướng an

toàn, theo tiêu chuẩn GAP; hình thành các vùng chuyên canh cây ăn trái, tạo

tiền đề phát triển công nghiệp chế biến trái cây phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.

Nghiên cứu cải thiện độ phì của đất liếp trồng cây ăn trái lâu năm và nghiên

cứu vật liệu sản xuất tại địa phương. Xây dựng mối liên kết trong sản xuất kinh

doanh giữa doanh nghiệp và nhà vườn; xây dựng vùng nguyên liệu, thực hiện

mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ trái cây dựa trên các mô hình sẵn có; hỗ

trợ tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ hợp tác, hợp tác xã trong sản xuất và tiêu

thụ. Ngoài ra, báo chí Tiền Giang còn phải tăng cường quảng bá thương hiệu

65

sản phẩm, giúp nhà nước tìm kiếm thị trường tiêu thụ; xây dựng chương trình

tiếp thị cho sản phẩm nông sản. Ngành chuyên môn tích cực tham gia hội chợ

trong nước và tổ chức quốc tế tại Việt Nam, thiết kế hồ sơ ngành hàng đầy đủ

để giới thiệu sản phẩm, mở các gian hàng giới thiệu trái cây tại các thành phố

lớn. Các địa phương cũng cần vận dụng và triển khai thực hiện có hiệu quả các

chính sách hỗ trợ của Chính phủ, bộ, ngành; tạo điều kiện thuận lợi để doanh

nghiệp đầu tư các nhà máy sơ chế, đóng gói, chế biến sản phẩm trên địa bàn;

nâng cao năng lực sơ chế, đóng gói, bảo quản và vận chuyển, tạo ra bước đột

phá mạnh mẽ trong việc giảm thất thoát sau thu hoạch nhằm tăng thị phần của

nông sản ở trong và ngoài nước.

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác truyền thông

quảng bá nông sản tr n báo chí Tiền Giang hiện nay

- Khai thác những vấn đề bức xúc của nông sản

Phản ánh việc các doanh nghiệp chưa chủ động được nguồn cung

nguyên liệu nông sản đảm bảo về số lượng và chất lượng, khả năng chế biến

đối với một số ngành hàng còn yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là vào

cao điểm mùa vụ như: rau, quả, gây tổn thất sau thu hoạch.

Tỷ lệ nông sản chế biến xuất khẩu có thương hiệu còn rất ít, mẫu mã các

bao bì các sản phẩm còn đơn điệu, ngay cả với những sản phẩm có thế mạnh.

Chất lượng sản phẩm chưa ổn định, con tiềm ẩn nguy cơ mất vệ sinh an toàn

thực phẩm.

Trình độ công nghệ chế biến nhìn chung ở mức độ trung bình của thế

giới, nhiều cơ sở chế biến của một số ngành hàng có tuổi đời cao, với thiết bị

cũ, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp. Tổn thất sau thu hoạch còn lớn (10-

20%) do thiếu cơ sở vật chất bảo quản đủ chất lượng.

Sản phẩm chế biến chủ yếu vẫn là cơ chế có giá trị gia tăng thấp (chiếm

70-85%), sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao chiếm khoảng 15-30%.

66

Hệ thống Logistics phục vụ nông nghiệp mới phát triển nên còn nhiều

hạn chế như: chuỗi cung ứng lạnh còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng các ngành

hàng và các thị trường khác nhau, các thiết bị đầu tư các doanh nghiệp

logistics thiếu đồng bộ; thiếu kho bãi tại vùng sản xuất, cửa khẩu.

Cơ chế chính sách của Nhà nước chưa đủ hấp dẫn để doanh nghiệp đâu

tư và chế biến nông sản; một số chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng,

khoa học, công nghệ…chưa theo kịp yêu cầu thực ti n sản xuất kinh doanh.

Nguồn lực để triển khai các chính sách đã ban hành (Nghị định số

57/2018/NĐ-CP và Nghị định số 98/2018/NĐ-CP) cò hạn chế nên hiệu quả

chính sách không cao.

- Cần hạn chế thuật ngữ phức tạp, khó hiểu và nên đi thẳng vào vấn đề

cụ thể

Giảm bớt lượng chữ và tăng yếu tố phi văn tự (hình ảnh, biểu ngữ, hộp

dữ liệu). Các bài trên báo chí Tiền Giang cần đi vào thực ti n sản xuất của

người nông dân, phản ánh ý kiến nông dân, phát hiện những bất cập để kịp

thời đề xuất, tham mưu cho lãnh đạo địa phương. Bài viết phải nêu được thực

trạng, nhưng cũng rất cần có những giải pháp thể hiện chính kiến của người

viết, cơ quan báo chí với những vấn đề cấp bách trong nông sản. Tránh những

bài viết khuôn sáo, đánh giá chung chung kiểu báo cáo tổng kết, minh họa cho

chủ trương, chính sách ở địa phương.

Chương trình Cây lành trái ngọt được Đài PT-TH Tiền Giang xác định

bạn xem đài chủ yếu là nông dân. Tuy nhiên, trong các chương trình, rất

nhiều từ ngữ chuyên môn, thuật ngữ chuyên sâu về khoa học kỹ thuật khiến

cho người xem là nông dân không định hình được nội dung muốn nói gì. Cụ

thể, trong chương trình cây lành trái ngọt phát ngày 16-8-2018 có tên: Kỳ

vọng tiềm năng trái cây Tiền Giang sau hội nghị xúc tiến đầu tư. Trong đó,

phóng viên có phỏng vấn đồng chí Trần Thanh Đức, Phó Chủ tịch UBND tỉnh

67

Tiền Giang. Đồng chí Đức cho biết: “Tới đây, Tiền Giang tập trung vào quy

trình, công nghệ, rồi hướng đến nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp cao”.

Những từ ngữ này có tính chuyên môn cao. Nội dung như thế chỉ có những

người đã học qua, các nhà khoa học trên l nh vực nông nghiệp và những

người có học thức mới l nh hội và hình dung được vấn đề mà người nói muốn

truyền tải thông tin.

Thật vậy, với nội dung như trên, chúng tôi ngh rằng: phóng viên cần đi

thẳng vào vấn đề, sau hội nghị xúc tiến đầu tư, những doanh nghiệp được trao

giấy đầu tư khi nào đi vào hoạt động, giải quyết đầu ra cho nông dân như thế

nào? Số lượng bao nhiêu? Chủng loại gì? Sản phẩm như thế nào? Giá cả ra

sao? Lợi nhuận của nông dân thu được sau mỗi mùa vụ?...Việc thông tin như

vậy mới có giá trị và khiến người xem là nông dân mới thấy thỏa đáng sau khi

xem nội dung trên.

Báo Ấp Bắc điện tử ngày 21-11-2018 có đăng bài: Ngh về “kịch bản”

mới cho cây ăn trái. Trong đó, tác giả đã sử dụng quá nhiều thuật ngữ phức

tạp như: “nút thắt”, giá trị gia tăng, tìm lời giải, xốc vào mặt trận, “bắt

tay”…Những từ ngữ này, khi người đọc nhìn vào sẽ nhận thấy phóng viên

đang sử dụng từ “đao to, búa lớn”, không phù hợp với báo chí truyền thông

thông tin trên mặt báo.

Mặc dù, bài báo đã nêu rất nhiều thực trạng hiện nay là đầu ra khó khăn,

người dân luôn gặp cảnh được mùa mất giá, được giá mất mùa. Song, tác giả

đã sử dụng nhiều từ ngữ phức tạp khiến cho người đọc cảm thấy buồn chán.

Nội dung cũng chưa đưa ra được giải pháp hữu hiệu nào cho ngành chuyên

môn thấy được đâu là hướng đi tốt nhất để giải quyết được vấn đề đầu ra cho

nông sản đang gặp khó hiện nay.

68

- Cần sáng tạo hơn trong thể hiện nội dung, hình thức

Một yêu cầu chung nhất đối với thông tin báo chí là phải đảm bảo tính tư

tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng, có trách

nhiệm hình thành dư luận xã hội lành mạnh góp phần tăng cường sự đoàn kết,

nhất trí về tư tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân dân.

Báo chí Tiền Giang cần tăng cường thông tin, đổi mới nội dung, hình

thức, trong đó phát hiện, cổ vũ, nhân rộng những điển hình tiên tiến trong

phong trào thi đua, động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế

tích cực thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo,

làm giàu chính đáng, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống mọi mặt

của nhân dân. Thẳng thắn chỉ ra những trì trệ, ách tắc, thiếu trách nhiệm trong

phương pháp làm việc tập thể, cá nhân, thúc đẩy quá trình lành mạnh hóa các

quan hệ xã hội, thúc đẩy tính tích cực xã hội.

Cần thông tin toàn diện cả chiều sâu và bề rộng các vùng, các khu vực

của miền Tây Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung; lựa chọn những thông

tin thiết thực mà đông đảo bạn đọc đón đợi. Tăng cường các tác phẩm báo chí

phản ánh phong trào thi đua ở các vùng sâu, vùng xa; gương điển hình, kinh

nghiệm làm ăn giỏi của nông dân. Giảm thiểu thông tin hội nghị giản đơn,

chọn cách đưa tin sinh động, gần gũi d hiểu đối với nông dân; tránh sử dụng

những thuật ngữ khoa học, tên nước ngoài viết tắt, khó hiểu, khi cần thiết cần

phải chú thích đầy đủ, kỹ càng. Những tác phẩm viết về nông sản, các l nh

vực kinh tế v mô cần kết hợp nhiều thông tin phân tích bình giải rõ ràng, giúp

nông dân hiểu đúng và làm đúng. Không nên đăng tải những kết quả nghiên

cứu khoa học về những vấn đề ngoài tầm cuộc sống thường nhật của dân cư

nông nghiệp. Giảm thiểu dung lượng chữ trong một bài viết, gia tăng kênh đồ

hình, ngôn ngữ phi văn tự.

69

Phát huy thế mạnh của việc tuyên truyền thành “vệt” đậm, tổ chức tốt

các loạt bài về những vấn đề lớn, bức xúc trong vấn đề nông sản. Đẩy mạnh

công tác bạn đọc, thu thập thông tin phản hồi. Các cơ quan báo chí nên tăng

cường hình thức tọa đàm, trao đổi với bạn đọc ở cơ sở để nắm bắt nhu cầu,

nguyện vọng của bạn đọc về thông tin báo chí; thường xuyên tổng kết, tổ

chức khảo sát, nghiên cứu khoa học để đánh giá chất lượng, hiệu quả tuyên

truyền để từ đó điều chỉnh hợp lý thủ pháp tuyên truyền.

Trong hầu hết các chương trình Cây lành trái ngọt được chúng tôi khảo

sát năm 2018 của Đài PT-TH Tiền Giang, phóng viên nhận thấy rằng: Người

dẫn chương trình chưa phù hợp với trang phục của chương trình. Tất cả các

cuộc gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn người dân, người dẫn chương trình ăn mặc

khá sang trọng, đặt ra những câu hỏi chưa gần gũi với nông dân…

- Nâng cao chất lư ng đội ngũ làm báo viết về nông sản

Nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên viết về nông sản,

bởi đây là l nh vực đặc thù, nếu không nắm vững chuyên môn thì sản phẩm

làm ra rất khó thuyết phục khán giả. Vì vậy, mỗi phóng viên, biên tập viên

cần phải nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ cũng như kiến thức viết về

nông sản. Có như vậy, phóng viên mới bám sát vào chủ đề mà mình được cơ

quan giao nhiệm vụ. Lãnh đạo cơ quan báo chí Tiền Giang cũng như các

phòng/ban chuyên môn cần chủ động lập kế hoạch đào tạo, đề xuất các biện

pháp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và chuyên môn về nông sản cho lực

lượng phóng viên phụ trách. Qua đó góp phần nâng cao năng lực sáng tạo của

mỗi phóng viên trong hoạt động thu thập và xử lý thông tin.

Phóng viên Kim Nữ, Đài PT-TH Tiền Giang:

“Là phóng viên chuyên viết về mảng đề tài nông nghiệp, trong đó có viết

về đề tài truyền thông quảng bá nông sản. Thuận l i là Tiền Giang có nguồn

nông sản dồi dào, nhiều chủng loại; doanh nghiệp, tổ h p tác, h p tác xã thu

70

mua nhiều; Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công thương

chủ động cung cấp thông tin. Khó khăn khi viết về đề tài này là phóng viên

phải tự tìm hiểu quy định về thương hiệu, về nông sản, tự cập nhật thông

tin và các quy định liên quan đến pháp l . Kiến thức viết về nông sản chủ

yếu do phóng viên tự học hỏi, tìm tòi. Chưa có một lớp đào tạo, tập huấn

viết về l nh vực này”.

Ngoài ra, phóng viên và biên tập viên phải thấu hiểu tình hình sản xuất

nông nghiệp ở địa phương, thì những sản phẩm báo chí về nông nghiệp mới

có thể phục vụ, đem lại lợi ích nhiều nhất cho nông dân. Nhà báo phải yêu

nghề, yêu l nh vực mình phụ trách. Một điều không thể thiếu là nghiệp vụ

người làm báo, họ cần được trao dồi kỹ năng, nghiệp vụ báo chí, cần phải có

chuyên môn vững vàng; biết ử dụng và khai thác lợi thế của từng thể loại,

từng loại hình báo chí và đặc biệt có khả năng sáng tạo trong từng đề tài, nội

dung thông tin để có cách thể hiện phù hợp, đạt hiệu quả truyền đạt cao.

- Cần tăng số lư ng bài, rút ngắn thời gian đăng tải thông tin

Hiện nay, báo chí Tiền Giang có thể đăng tải nội dung về quảng bá nông

sản mọi lúc, mọi nơi và không giới hạn số lượng. Tuy nhiên, kinh phí còn hạn

hẹp, chuyên môn của phóng viên bị hạn chế và tầm nhìn của lãnh đạo chưa

sâu, chưa sát nên vấn đề tuyên truyền quảng bá cho nông sản còn hạn chế. Vì

thế, việc tăng số lượng bài, rút ngắn thời gian đăng tải thông tin, đáp ứng

thông tin nhanh, kịp thời; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của

những người làm báo là cần thiết. Có như vậy, thông tin về nông sản mới liên

tục, tác động mạnh đến bạn đọc và người xem.

- Cần quảng bá rộng rãi với công chúng nông thôn

Nghiên cứu nhu cầu của công chúng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về

số lượng và chất lượng của các phương tiện truyền thông, nhu cầu được tiếp

nhận thông tin của công chúng cũng được nhân lên.

71

Nông dân Nguy n Văn Minh thì cho rằng:

“Hiện nay, người dân có nhiều nguồn cung cấp thông tin. Tuy nhiên,

thông tin chúng tôi thường có đư c là nghe ngóng từ các nhà vườn bán trước

đó, điện thoại hỏi trực tiếp các thương lái, rất ít xem thông tin giá cả thị

trường trên mạng và trên truyền hình”.

Việc nghiên cứu công chúng báo chí cũng cần phải được tiến hành

thường xuyên, có tổ chức, có hệ thống và được coi là công việc không thể

thiếu trong hoạt động báo chí.

- Tổ chức những kênh tương tác

Trước sự phát triển quá nhanh của mạng xã hội, nhiều cơ quan báo chí

đã phải theo đuôi thông tin của các trang mạng này. Tuy vậy, việc tận dụng

tính lan tỏa của mạng xã hội đã được các cơ quan báo chí tính đến. Một mặt,

những cơ quan báo chí này mong muốn đưa được thông tin nhanh, rộng khắp

đến mọi tầng lớn nhân dân; mặt khác, báo chí muốn tạo tính tương tác nhằm

bổ sung thêm thông tin cho vấn đề này.

Ngoài việc thu hút lượng độc giả, các cơ quan báo chí còn lợi dụng

truyền thông xã hội để thực hiện sự tương tác, tốt hơn với công chúng. Sự

tương tác này vừa thể hiện ở sự lắng nghe những lời bình luận của công

chúng, đồng thời cũng thúc đẩy công chúng tham gia vào quá trình sản xuất,

truyền phát thông tin. Công chúng có thể đưa ra bình luận tức thời về tác

phẩm báo chí, chỉ cần có thiết bị di động thông minh có kết nối Internet.

Trong những trường hợp, những ý kiến quý báo của công chúng giúp nhà báo

có thể mở rộng đề tài và gốc nhìn, tổ chức những tuyến bài mới có chiều sâu,

tăng tính thuyết phục cho bài báo.

Tuy vậy, nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đó là việc, Ban Biên tập của báo

hay Ban Giám đốc của Đài khó có thể kiểm soát được hết tất cả các bình luận,

ý kiến phản hồi của bạn đọc. Tất cả những bình luận có nội dung xấu, xuyên

72

tạc, vi phạm quy định của pháp luật, các tờ báo điện tử chỉ có thể xóa sau khi

đã được người viết xuất bản, tức là khâu hậu kiểm. Với những tờ báo có

lượng bạn đọc lớn thì công việc kiểm soát không phải lúc nào cũng bảo đảm

nguyên tắc “duyệt tức thì”, hay có khả năng bị lọt và vẫn bị lưu giữ nhiều giờ

trên trang là phổ biến.

Hiện, báo Ấp Bắc điện tử cũng đã tạo trang fanpage trên Faceboox để có

thể d dàng tương tác.

Đồng chí Phạm Văn Sơn, Phó Tổng Biên tập Báo Ấp Bắc cho biết:

“Sau khi xây dựng fanpage trên Faceboox, số lư ng truy cập vào bài

viết lớn hơn. Nhiều thông tin đư c tương tác trực tiếp trên trang này, giúp

cho báo Ấp Bắc điện tử có cách nhìn đa chiều hơn, sâu sắc hơn. Mặc dù,

chúng tôi có phân công phóng viên theo phụ trách. Song, đa số các thông tin

đư c đưa lên đều là tin về hoạt động của lãnh đạo, tin “nóng”, tin an ninh

trật tự…chiếm đa số. Bởi, những thông tin này đư c đa số cộng đồng mạng

quan tâm”.

Cùng với việc phản ánh tình hình nông sản, gương người tốt việc tốt, mô

hình kinh tế mới, báo chí Tiền Giang cũng cần tích cực hơn trong việc trao

đổi các kiến thức về nông sản, hướng dẫn bà con nông dân bằng cách cùng

bàn bạc, trao đổi với các kỹ sư, giáo sư trong l nh vực này. Các giáo sư, tiến s

hay kỹ sư…thường là những người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu sắc

về vấn đề nông sản nên việc họ hướng dẫn cho bà con nông dân về một

phương thức mới trong sản xuất sẽ rất d tạo được lòng tin tưởng, cùng sự

đồng tình, hưởng ứng của bà con nông dân.

- Báo chí cần gắn với doanh nghiệp có liên quan

Phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng xây dựng

và quảng bá thương hiệu mặt hàng nông sản là rất cần thiết cho cơ quan báo

chí và cũng có lợi cho doanh nghiệp.

73

Trong năm 2018, chuyên mục “Cây lành trái ngọt” của Đài PT-TH Tiền

Giang đã được nhãn hàng bí đao chanh Thiên Long Bảo tài trợ 30 triệu

đồng/chương trình. Tuy nhiên, doanh nghiệp này tài trợ chỉ vỏn vẹn được hơn

3 tháng (từ ngày 3-1 đến 24-4).

Vấn đề này, đồng chí Nguy n Văn Phấn, Phó Giám đốc Đài PT-TH Tiền

Giang cho biế: Doanh nghiệp và Đài PT-TH Tiền Giang không tiếp tục phối

h p do trục trặc trong h p đồng và doanh nghiệp nhận thấy chưa mang lại l i

ích nhiều trong việc truyền thông quảng bá sản phẩm của họ. Mặc dù, doanh

nghiệp tài tr nhưng nội dung do Ban Giám đốc Đài quyết định. Chính điều

này, khá nhiều doanh nghiệp tìm đến rồi lại ra đi chỉ trong một thời gian ngắn.

Chương trình tọa đàm truyền hình trực tiếp “Bạn nhà nông” phát trên

Đài PT-TH Tiền Giang được khá nhiều doanh nghiệp đăng ký tài trợ. Mỗi

chương trình có một nhà tài trợ khác nhau và chủ đề cũng khác nhau. Việc

liên kết này có lợi cho đài rất nhiều. Nhưng chưa thu hút được khán giả. Bởi,

các doanh nghiệp khi thực hiện chương trình này đều có mời các di n giả là

nhà khoa học, cơ quan nhà nước và cả Giám đốc doanh nghiệp. Tuy nhiên,

khi đi vào chương trình, hầu hết các di n giả này đều nói về ưu điểm của sản

phẩm nhà tài trợ, không nói nhiều vào vấn đề kỹ thuật, đầu ra nông sản hoặc

trồng cây gì? Bán ở đâu? Chính điều này, người xem không quan tâm đến

chương trình ngày càng nhiều.

Hiện nay, Báo Ấp Bắc điện tử chưa phối hợp được với các doanh nghiệp

để hỗ trợ chi phí tuyên truyền, cũng như chưa có ký kết thỏa thuận hợp tác

trong công tác truyền thông quảng bá các sản phẩm nông sản. Chính điều này,

Ban Biên tập báo chưa mặn mà và cũng chưa tập trung phản ánh chuyên sâu

cho vấn đề nông sản.

Đồng chí Phạm Văn Sơn, Phó Tổng Biên tập Báo Ấp Bắc nhìn nhận:

“Liên kết với doanh nghiệp không chỉ giúp báo tăng nguồn thu, bổ sung vào

74

nguồn nhuận bút, mà còn hiệu quả về mặt xã hội rất lớn. Báo có điều kiện

thực hiện chuyên mục nông sản thường ngày, cập nhật thông tin về nông sản

mới nhất để nông dân vận dụng vào quá trình sản xuất của mình. Khi đã có

kinh phí, báo thường xuyên đưa thông tin về giá cả thị trường, kỹ thuật trồng,

đầu ra sản phẩm, doanh nghiệp bao tiêu, mối liên kết giữa nông dân và

doanh nghiệp, cảnh báo dịch hại ra sao? Từ đó, tờ báo như một thông tin

không thể thiếu đối với người nông dân trong quá trình sản xuất”.

- Báo chí kết h p với các cơ quan chuyên môn

Báo chí Tiền Giang cần phối hợp với cơ quan chuyên môn tuyên truyền

về việc tăng cường năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường; cập

nhật thông tin về chính sách thương mại, tiêu chuẩn, quy chuẩn của từng thị

trường để xây dựng chiến lược, đề án phát triển thị trường cho các sản phẩm

nông sản chủ lực. Đa dạng hóa thị trường nhất là phát triển các thị trường

tiềm năng, thị trường “ngách”.

Tuyên truyền đậm nét cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng

hàng Việt Nam”. Xây dựng hình ảnh sản phẩm nông sản Việt Nam chất lượng

cao, đảm bảo an toàn thực phẩm và phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Truyền

thông mạnh mẽ về việc phát triển hạ tầng thương mại (chợ đầu mối, siêu thị,

hệ thống buôn bán, bán lẻ…), hệ thống logistics kết nối giữa người sản xuất

với nhà phân phối.

3.3. Khuy n nghị:

- Nhà nước:

Để tăng cường hiệu quả truyền thông quảng bá nông sản, vai trò quản lý

của nhà nước là rất quan trọng. Đặc biệt, vai trò này được khẳng định rõ trong

việc nhà nước liên kết cùng các đơn vị khác, giúp nông dân tiêu thụ nông sản.

Do đó, nhà nước cần phối hợp với các cơ quan báo chí tăng cường thông tin

về mối liên kết “4 nhà” (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà

75

nông) theo Quyết định 80 QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Vai trò của liên

kết “4 nhà” được đánh giá là rất quan trọng trong việc hỗ trợ nông dân biết

được sản phẩm của mình làm ra bán cho ai? Giá cả bao nhiêu? Lợi nhuận như

thế nào? Mặc dù Quyết định ra đời từ năm 2002, nhưng hiện nay, liên kết này

vẫn lỏng lẻo, nông dân sản xuất ra nhưng doanh nghiệp không thu mua hoặc

doanh nghiệp đề nghị nông dân trồng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng khi

thu hoạch thì mua với số lượng hạn chế.

Trong mối liên kết “4 nhà” này, vai trò của nhà nước, nhà khoa học hết

sức mờ nhạt. Nhà khoa học hiện chưa góp tiếng nói thực sự giúp nông dân

trong việc tìm ra các chiến lược sản xuất phù hợp, các giống cây trồng có

năng suất cao, chất lượng tốt. Nhà nước cũng chưa đủ sức mạnh để điều tiết

các mối quan hệ này theo ý chủa quan của mình. Vì vậy, thị trường tiêu thụ

nông sản hiện nay hết sức lộn xộn, tư thương lũng đoạn, ép giá nông dân

khiến bà con sản xuất ra không có lãi hoặc thua lỗ.

Hơn nữa, nhà nước cần phải đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến

khích các cơ quan báo, đài đầu tư hơn nữa, có hiệu quả hơn nữa trong việc

thông tin, tuyên truyền về nông sản. Nhà nước cũng cần tổ chức thêm nữa hội

nghị xúc tiến đầu tư về nông sản, cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp thu

mua nông sản với nhau. Ngoài ra, nhà nước cũng là đơn vị thúc đẩy hoạt động

của các Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư, Trạm Khuyến nông - Khuyến

ngư, các hiệp hội, đoàn thể để các tổ chức này phát huy hơn nữa vai trò cung

cấp thông tin cho người nông dân.

Cuối cùng, các cơ quan quản lý nhà nước cũng tập trung nguồn lực hơn

nữa cho truyền thông về nông sản. Nhà nước hỗ trợ kinh phí, nhân lực…để

cung cấp các dịch vụ thông tin cơ bản về kỹ thuật sản xuất, cảnh báo dịch

bệnh; phòng và chống cũng như các thông tin dự báo về thị trường, giá cả,

cung cầu để hỗ trợ cho người sản xuất và doanh nghiệp.

76

- Đối với nhà khoa học:

Đây là đội ngũ vô cùng quan trọng trong việc chỉ dẫn – tư vấn khoa học

kỹ thuật cho nông dân trong việc sản xuất nông sản. Tuy nhiên, không phải

nhà khoa học nào cũng làm chỉ dẫn – tư vấn khoa học kỹ thuật tốt. Có những

nhà khoa học kiến thức rất rộng, chuyên môn rất sâu nhưng cách truyền đạt

bằng lời nói không tốt, dùng từ ngữ khó hiểu…thì nông dân không thể tiếp

thu được. Một nhà khoa học phù hợp với chỉ dẫn – tư vấn khoa học kỹ thuật

là người có cách di n đạt dân dã, d hiểu, pha chút dí dỏm và quan trọng là

kiến thức thực tế trong sản xuất nông sản phải thật rộng, phải có tính cách

thân thiện, hòa đồng với nông dân.

Do vậy, đội ngũ làm báo cần phải biết khai thác đội ngũ khoa học một cách

hợp lý. Vì nhà báo là người tổ chức sản xuất tác phẩm báo chí nên nhà báo cần

nhất thiết chú trọng đến mối quan hệ với các chuyên gia, nhà khoa học tham gia

vào việc sản xuất tác phẩm báo chí. Thứ nhất cần chọn đúng chuyên gia tư vấn,

hỗ trợ cho nông dân các quy trình canh tác nông sản nhằm giúp người dân hiểu

và làm theo một cách d dàng. Thứ hai, nhà báo cần phối hợp với chuyên gia,

nhà khoa học trong việc xây dựng kịch bản hay đề cương tác phẩm báo chí viết

về nông sản, để qua đó học có thể nắm vững nguyên tắc cũng như cách thức

truyền thông nông sản đến đông đảo mọi người hưởng thụ tốt nhất thông tin

được chuyển giao. Thứ ba, trình độ chuyên môn và tính cách của từng nhà khoa

học, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến yếu tố vùng miền. Tốt nhất là sử dụng

người địa phương. Điều này có thể giúp cho nhà khoa học và nông dân có ngay

sự gắn kết với nhau. Đó là vì nghe giọng nói được d dàng, sử dụng từ địa

phương hợp lý và nhà khoa học đó hiểu được điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí

hậu và cả bản tính của nông dân trong vùng đó…nên sẽ có cách truyền đạt về

sản xuất nông sản một cách tốt nhất. Và khi đó, nông dân sẽ tiếp thu d dàng. Họ

77

hiểu vấn đề và việc làm theo cũng trở nên thuận lợi. Có như vậy, hiệu quả mang

lại từ sự truyền đạt mới được nâng cao.

- Đối với doanh nghiệp

Cần thay đổi nhận thức theo hướng tích cực về tầm quan trọng của

quảng bá sản phẩm nông sản. Theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công

nghệ), năm 2018, cả nước có hơn 90.000 thương hiệu hàng hóa các loại được

đăng ký bảo hộ tại Việt Nam nhưng chỉ có khoảng 15% là của Việt Nam.

Qua con số nêu trên cho thấy doanh nghiệp chưa thật sự mặn mà với việc

đăng ký bảo hộ và quảng bá thương hiệu, đặc biệt là thương hiệu nông sản.

Một thực tế đang di n ra tại thị trường Việt Nam là nông dân trực tiếp làm

ra sản phẩm nông sản, doanh nghiệp là người thu mua nhưng các doanh nghiệp

này chưa liên kết chặt chẽ với nông dân, chưa hỗ trợ nông dân trong việc thực

hiện và duy trì cách thức sản xuất nông sản an toàn vì chi phí cao, sản phẩm

kém hấp dẫn về hình thức và khó bán được giá cao hơn sản xuất truyền thống,

trong khi người tiêu dùng lại cho rằng họ sẵn sàng trả giá cao nếu biết sản

phẩm mình mua thật sự là an toàn nhưng không có cách để xác minh xem sản

phẩm nào an toàn. Vì thể, để phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng an toàn tại

Việt Nam, các nhà cung cấp và chế biến thực phẩm đã, đang nhập khẩu các

thương hiệu nông sản từ các nước như: Thái Lan, Úc, Mỹ và kể cả Trung

Quốc. Theo quy luật của kinh tế thị trường, nếu muốn có khách hàng thì nhà

sản xuất đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, nếu nhà sản xuất đảm bảo an

toàn và giữ chữ tín, mới cam kết dùng thường xuyên với giá cao hơn.

Do vậy, vì quyền lợi của mình, các doanh nghiệp cần nhanh chóng xây

dựng và quảng bá thương hiệu nông sản của chính mình, của doanh nghiệp

mình. Và để không bị mất thương hiệu của sản phẩm nông sản, các doanh

nghiệp cần thay đổi nhận thức theo hướng tích cực, thấy được tầm quan trọng

của thương hiệu nông sản khi nước ta tham gia vào thị trường quốc tế, cần

78

dành kinh phí cho các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không chỉ trong

nước mà cả nước ngoài và hoạt động truyền thông quảng bá sản phẩm.

Hiện, những thương hiệu nông sản thuộc sở hữu tập thể, cộng đồng thì

chưa được quan tâm. Những thương hiệu này thường trực thuộc hội, hiệp hội

các nhà sản xuất. Muốn đăng ký, tất cả thành viên trong hiệp hội phải đồng

lòng, thấy được tầm quan trọng. Những thương hiệu này sẽ bị kiện hoặc bị

ngăn chặn xuất khẩu ngay tại cửa biên giới các nước do xâm phạm quyền

nhãn hiệu tại các nước đã được đăng ký bảo hộ.

- Đối với nông dân:

Ngày nay, thông tin và truyền thông không ngừng phát triển. Nếu không

tiếp cận kịp thời với những thông tin mới nhất về thị trường, kỹ thuật, chính

sách…bản thân nông dân sẽ là người chịu thiệt thòi nhiều nhất và trực tiếp bị

ảnh hưởng nhất. Vì thế, không ai khác, chính người nông dân sẽ là đối tượng

đầu tiên cần nâng cao nhận thức về vai trò của thông tin đối với việc phát

triển kinh tế-xã hội.

Từ chỗ ý thức được vai trò đó, người nông dân cũng biết cách sắp xếp

thời điểm xem các chương trình truyền hình phát về nông nghiệp-nông dân-

nông thôn, tham gia các buổi hội thảo do các doanh nghiệp chuyên kinh doanh

về nông sản tổ chức, đầu tư mua cơ sở vật chất như máy tính bàn kết nối

Internet để tiếp cận thông tin về nông sản một cách nhanh và chủ động hơn.

Hơn thế nữa, bản thân nông dân cũng nên chủ động, mạnh dạn trong việc

áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Điều này sẽ là một

nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt, nữ

nông dân, những người còn nhiều hạn chế trong việc tiếp cận các thong tin

cần tự ý thức hơn nữa về vai trò của thông tin, chủ động tìm kiếm thông tin từ

hàng xóm, từ hội phụ nữ hay các kênh thông tin khác.

79

Ở từng ấp, từng xã có thể hình thành những câu lạc bộ nông dân. Trong

đó, những người có học vấn cao hơn có thể giúp những người khác trong việc

tiếp cận thông tin từ báo in và báo mạng. Khi những người trong nhóm có

thắc mắc gì sẽ cùng trao đồi, chia sẻ thông tin.

- Đối với báo, đài:

Để tăng cường hiệu quả của về truyền thông quảng bá nông sản, các

kênh thông tin của báo, đài trên l nh vực này cũng phải không ngừng hoàn

thiện về mặt chất lượng và số lượng. Tác giả đề xuất một số ý kiến góp phần

nâng cao hiệu quả của các kênh thông tin này:

Thứ 1, Báo Ấp Bắc điện tử cần có riêng một chuyên mục dành cho nông

sản. Trong đó, báo cần tập trung vào các địa chỉ mua-bán sản phẩm, giá cả

các loại nông sản, giá vật tư nông nghiệp; tiếp theo là những bài báo của các

nhà khoa học cung cấp thông tin định hướng cho nông dân nên trồng cây gì,

con gì, giống như thế nào, mua ở đâu, khu vực nào nên trồng… Có như vậy,

nông dân sẽ định hướng được việc sản xuất của mình, tránh tình trạng trồng

tràn lan, có cây gì trồng cây ấy, một vườn trồng 5-7 loại xen canh nhau. Từ

sản xuất đến thu hoạch cũng phải có những bài báo hướng dẫn bà con cách

thu hoạch, phơi sấy, bảo quản để giữ được chất lượng hàng hóa. Bởi, hiện

nay, giá các loại nông sản Việt Nam ngoài chất lượng giống kém thì việc thu

hoạch, bảo quản kém cũng dẫn tới tình trạng nông sản mất giá.

Thứ 2, mỗi cơ quan truyền thông, mỗi kênh thông tin là một sàn giao

dịch kết nối cung-cầu để tiêu thụ nông sản. Các cơ quan này với chức năng

của mình ngày nay không chỉ là cơ quan tuyên truyền mà còn là doanh nghiệp

với khả năng tổ chức các sự kiện, hội thảo về những vấn đề mà dư luận xã hội

đặt ra. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng của thông tin nông sản, các kênh

truyền thông đại chúng như: truyền hình, báo điện tử nên xây dựng mạng lưới

cộng tác viên là những nhà khoa học, nhà kinh tế, nhà doanh nghiệp thuộc

80

l nh vực nông nghiệp để đặt họ những bài viết chuyên sâu, có tính chuyên

môn cao trong việc đưa ra những chiến lược phát triển chung cho ngành Nông

nghiệp. Truyền hình và báo điện tử cũng có thể xây dựng mạng lưới cộng tác

viên là nông dân, đặc biệt là những nong dân sản xuất kinh doanh giỏi viết về

kinh nghiệm của mình. Có như vậy, nội dung mới phong phú, người dân d

tiếp cận với phương thức, kỹ thuật hơn.

Thứ 3, việc điều chỉnh khung giờ phát sóng của Đài PT-TH Tiền Giang

cần linh hoạt và bám sát vào thời điểm người dân mong muốn dành cho việc

tiếp cận thông tin nông sản nhiều nhất vào lúc 17 đến 20h. Hiện, Đài PT-TH

Tiền Giang có nhiều chương trình, chuyên mục về nông sản nhưng khá nhiều

người xem cho biết, họ rất ít xem chương trình của đài vào thời gian này. Bởi,

một mặt, người dân vùng nông thôn có thói quen đi ngủ ở thời điểm khoảng

20 h để chuẩn bị cho ngày đi đồng hôm sau, thời điểm phát chương trình “cây

lành trái ngọt” của Đài PT-TH Tiền Giang. Một bộ phận khác cho rằng: Thời

điểm này, nhiều chương trình của các đài khác còn hay hơn nên họ tập trung

xem phim, giải trí…trước khi đi ngủ.

Thứ 4, phải đổi mới phương thức thể hiện. Sự nhàm chán, đơn điệu về

hình thức thể hiện cũng khiến cho độc giả, khán giả lơ đ nh trong tiếp cận

thông tin. Do vậy, chính mỗi phóng viên, nhà báo phải tiền hành thường

xuyên sự đổi mới cách thức, phương thức thể hiện.

Hình ảnh là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm báo chí. Theo các

nghiên cứu, người ta tiếp cận thông tin 70% qua hình ảnh và 20% qua âm

thanh và 10% nội dung. Thật vậy, phóng sự thời sự cần khai thác nhiều hơn

những chi tiết kịch tính của sự kiện qua hình ảnh có hàm lượng thông tin cao,

lời bình xác đáng, ngắn gọn. Đổi mới cách thể hiện là cần phải tính đến tổng

hợp nhiều yếu tố trong đó như tiết tấu, thể loại, âm nhạc, đồ họa, người dẫn

dắt…cần linh động để sử dụng phù hợp.

81

Tiểu k t chƣơng 3

Tóm lại, nông sản miền Tây Nam Bộ vẫn có giá trị quan trọng trong

chiến lược an toàn lương thực quốc gia, cùng với mục tiêu lâu dài như hiện

đại hóa mọi mặt cho sản xuất, trong đó có xuất khẩu nông sản; đào tạo, nâng

cao trình độ, kỹ năng nông dân trong sản xuất, kinh doanh; từng bước cải

thiện, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của người dân sống ở

nông thôn.

Trong chương này, tác giả đã phân tích những vấn đề đặt ra hiện nay

trong việc truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản miền Tây Nam Bộ trên

báo chí Tiền Giang. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và truyền thông

số như hiện nay thì vấn đề truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản trên báo

chí được đặt ra đối với cả Nhà nước, nhà khoa học, nông dân, doanh nghiệp

và chính mỗi cơ quan báo chí, mỗi nhà báo cụ thể.

Qua phân tích ở chương 2 và những vấn đề đặt ra trong chương 3, luận

văn đã đưa ra một số giải pháp đối với các doanh nghiệp, nông dân, địa

phương, các cơ quan báo chí và chính bản thân các nhà báo để công tác

truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản đạt hiệu quả cao hơn. Trong đó,

phương hướng truyền thông chủ yếu cần sự góp sức từ chính các doanh

nghiệp, chính các cơ quan báo chí và của mỗi nhà báo.

82

KẾT U N

Báo chí Tiền Giang đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc truyền thông

quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ cho người tiêu dùng trong và ngoài

nước. Những thông tin trên Báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang có

sức mạnh và tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn đến nhận thực chung của cộng

đồng. Nó không chỉ nâng cao nhận thức của công chúng mà còn tiến tới làm

thay đổi nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, người sản xuất nói riêng và

của công chúng nói chung về tầm quan trọng của việc xây dựng, bảo vệ và

quảng bá nông sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Việc phân tích, đánh giá đúng thực trạng công tác truyền thông trên báo

chí Tiền Giang trong việc quảng bá sản phẩm nông sản để đưa ra giải pháp

hữu hiệu nhằm góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng, phát triển nông sản

Việt Nam là vấn đề hết sức quan trọng không chỉ về mặt nhận thức, lý luận

mà còn về mặt thực ti n trong điều kiện nước ta hội nhập sâu rộng và nền

kinh tế quốc tế. Xuất phát từ quan điểm này, luận văn đã tập trung nghiên cứu

và giải quyết những vấn đề sau:

Luận văn đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công

tác truyền thông quảng bá nông sản; vai trò, ý ngh a của công tác truyền thông

quảng bá nông sản. Thông qua việc tiếp thu, tìm hiểu, luận văn cũng đã đưa ra

những vấn đề về lý luận của báo điện tử, truyền hình; thế mạnh của báo điện

tử, truyền hình so với loại hình báo in trong việc truyền thông quảng bá nông

sản. Đồng thời, luận văn cũng chỉ rõ vai trò của báo điện tử, truyền hình đối

với công tác truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ để nông sản

khu vực này có sức cạnh tranh trên thương trường.

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thông qua nghiên cứu các bài

báo, phỏng vấn lãnh đạo, biên tập viên, phóng viên của Báo Ấp Bắc điện tử

và Đài PT-TH Tiền Giang, luận văn tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng

83

nội dung và hình thức truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên

báo điện tử và truyền hình hiện nay. Đồng thời, đối chiếu với những ý kiến

của doanh nghiệp, người tiêu dùng, biên tập viên, phóng viên trong quá trình

phỏng vấn sâu, từ đó, luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của báo chí

truyền hình trong việc truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ

hiện nay.

Trong xu thế phát triển của báo chí hiện đại và trong khi Việt Nam gia

nhập nền kinh tế quốc tế, với một nền kinh tế thị trường như hiện nay, luận

văn chỉ ra sự cần thiết và những giải pháp để nâng cao hiệu quả truyền thông

quảng bá nông sản trên báo điện tử và đài truyền hình.

Luận văn cũng đề cập đến 3 vấn đề từ bối cảnh kinh tế chung, từ phía

doanh nghiệp và cơ quan báo chí. Qua đó, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả truyền thông quảng bá nông sản trên báo điện tử và truyền

hình hiện nay. Trong đó, nhận thức từ phía doanh nghiệp, các địa phương

đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện, xây dựng, bảo vệ và quảng

bá nông sản miền Tây Nam Bộ. Trong đó, công tác truyền thông quảng bá đạt

hiệu quả cao trước hết phải từ phía doanh nghiệp, người sản xuất phải có ý

thức, nhận thức vấn đề, chủ động phối hợp với cơ quan báo chí trong việc

quảng bá nông sản.

Cùng với đó, luận văn cũng chỉ ra những giải pháp tối ưu dành cho Báo

Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang đối với công tác truyền thông quảng

bá nông sản như: nội dung gần gũi, cách trình bày phải hấp dẫn, thời lượng

hợp lý hơn. Đồng thời, biên tập viên, phóng viên cần được đào tạo, nâng cao

trình độ, kiến thức chuyên ngành; hình thành đội ngũ nhà báo chuyên nghiệp,

bám sát cơ sở, đi sâu vào thực ti n để các bài viết vừa sâu sắc vừa có tính

định hướng dư luận; tận dụng kiến thức chuyên gia hợp lý, thay đổi cách thức

thể hiện tác phẩm.

84

Ngoài những giải pháp nêu trên, tác giả luận văn cũng đưa ra kiến nghị

đối với Nhà nước trong việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người sản xuất,

các cơ quan báo chí quảng bá sản phẩm nông sản.

Đây là một đề tài nghiên cứu về hoạt động truyền thông của báo chí mà

cụ thể là báo điện tử và truyền hình trong việc truyền thông quảng bá nông

sản miền Tây Nam Bộ. Do vậy, trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, tác

giả chưa có điều kiện khảo sát và có những điều tra xã hội học sâu rộng.

Do thời gian nghiên cứu còn ít, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học của

tác giả còn hạn chế nên chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót

cần khắc phục. Do vậy, rất mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của đồng

nghiệp, các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn nữa các

nội dung của luận văn.

85

TÀI IỆU THAM KHẢO

* Tài liệu báo chí - truyền thông

1. Lê Thanh Bình (2004), Quản l và phát triển báo chí xuất bản, NXB

Chính trị quốc gia Hà Nội.

2. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế văn hóa, xã

hội. NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

3. Hoàng Đình Cúc - TS. Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí

hiện đại, NXB Lý luận chính trị.

4. Nguy n Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại, NXB Đại

học quốc gia Hà Nội.

5. Nguy n Văn Dững, Cơ sở l luận báo chí, NXB Lao động.

6. Nguy n Văn Dững (2012), Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công

tác tư tưởng, l luận và quản l báo chí, Đề cương chuyên đề phục vụ

lớp thi nâng ngạch giảng viên chính, BTVC, PVC và tương đương.

7. Nguy n Văn Dững và Đỗ Thị Thu Hằng (2012), Truyền thông lý

thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

8. Nguy n Văn Dững (Chủ biên) – Ths. Đỗ Thị Thu Hằng (2006), Truyền

thông - L thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

9. Hà Minh Đức (1997), Báo chí những vấn đề l luận và thực tiễn, NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội.

10. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở l luận báo chí đặc tính chung và phong

cách, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Nguy n Thị Thanh Huyền (sách chuyên khảo), Quan hệ công chúng –

l luận và thực tiễn. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Đỗ Thị Thu Hằng (2011), PR - Công cụ phát triển báo chí, Nhà xuất

bản Trẻ.

13. Đỗ Thị Thu Hằng (2009), Tài liệu Tổng quan về PR và kỹ năng PR.

86

14. Đinh Thị Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới và xu hướng phát triển,

NXB Thông tấn.

15. Lê Hải (2013), Xây dựng tập đoàn truyền thông giải pháp chiến lư c

trong phát triển nền báo chí Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật

Hà Nội.

16. Đào Đức Huấn, Tập chí Cộng sản (ngày 8-10-2018), Xây dựng và

phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

quốc tế.

17. Nguy n Thế Kỷ, báo chí dưới góc nhìn thực tiễn, NXB Thông tin và

Truyền thông.

18. Nguy n Thành Lợi (2014), Tác nghiệp báo chí trong môi trường

truyền thông hiện đại, NXB Thông tin và Truyền thông.

19. Dương Xuân Ngọc (2012), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới

chính trị ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia.

20. Đỗ Chí Ngh a (2012), Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận

xã hội, NXB Chính trị quốc gia.

21. Nguy n Thị Hồng Nhung (chủ biên) (2013), Xu hướng hội nhập kinh

tế quốc tế giai đoạn 2011-2020, NXB Khoa học xã hội.

22. Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học báo chí, NXB Trẻ.

23. Dương Xuân Sơn (2013), Báo chí Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986

đến nay, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

24. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2003), Cơ sở l

luận báo chí truyền thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

25. Dương Xuân Sơn-Đinh Văn Hường-Trần Quang (in lần thứ 3), cơ sở

lý luận báo chí truyền thông. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Đặng Kim Sơn (2007), Nông nhiệp-nông thôn-nông dân: hôm nay và

mai sau, NXB Chính trị quốc gia.

87

27. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) - Nguy n Tiến Hài (1995), Tác phẩm báo chí,

NXB Giáo dục.

28. Nguy n Từ chủ biên (2008) “Tác động của hội nhập kinh tế đối với

phát triển nông nghiệp Việt Nam”.

29. Nguy n Như (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

30. Nguy n Uyển (2001), “Nông nghiệp, nông dân và nông thôn-Nguồn

đề tài phong phú của báo chí”.

31. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, NXB Chính trị quốc

gia.

** Tài liệu có li n quan

32. Nguy n Hồng Anh (2018), luận văn thạc s chuyên ngành Quan hệ

công chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

33. Nguy n Văn Giang (2013), luận văn thạc s chuyên ngành Quan hệ

công chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

34. Thái Thu Quyên (2015), luận văn thạc s chuyên ngành Quan hệ công

chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

35. Lê Minh Tuấn (2015), Đồng bằng sông Cửu Long với vấn đề truyền

thông, quảng bá sản phẩm nông nghiệp địa phương, luận văn thạc s

báo chí học, TP. Hồ Chí Minh.

*** Tài liệu khác

Báo Ấp Bắc, 2018. 36.

37. Ban Kinh tế Trung ương, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Trường Đại học

Cần Thơ (2014), Tái cơ cấu nông nghiệp “Liên kết vùng đồng bằng sông

Cửu Long trong cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng”, Tài liệu phục

vụ hội thảo.

88

38. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, xúc tiến, quảng bá thương hiệu

nông sản, đặc điểm vùng miền.

39. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2019), thúc đẩy phát triển

bền vững cây ăn quả các tỉnh phía Nam, tài liệu phục vụ hội nghị.

40. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND tỉnh Tiền Giang (2017),

thúc đẩy phát triển sản xuất, xuất khẩu trái cây, Tài liệu phục vụ hội

nghị.

41. Đài PT-TH Tiền Giang, 2018.

42. Nghị quyết 26-NĐ/TW (2008) của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành

Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

43. Nghị định 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến khích liên kết,

hợp tác trong sản xuất.

44. Nghị định 116/2018/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

nội dung của Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ, với nhiều

chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp

công nghệ cao, các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.

45. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang (2017), phát

triển cây thanh long tỉnh Tiền Giang đến năm 2025, đề án.

Tạp chí Tài chính (Bộ Tài chính). 46.

Tài liệu Hội nghị toàn quốc (2018): “Thúc đẩy phát triển công nghiệp 47.

chế biến và cơ giới hóa nông nghiệp”.

Tỉnh ủy Tiền Giang (2005), Địa chí Tiền Giang (Tập II) 48.

Viện Cây ăn quả miền Nam (2009), giới thiệu các giống cây ăn quả 49.

phổ biến ở miền Nam, NXB Nông nghiệp.

89

PHỤ ỤC

Kính thưa Qu vị!

Truyền thông quảng bá có vai trò và ý ngh a rất lớn đối với việc đưa sản

phẩm nông sản từ người sản xuất đến với người tiêu dùng trong và ngoài

nước. Trong thời gian quan, nông dân làm ra nông sản luôn chịu cảnh: “được

mùa mất giá”, “được giá mất mùa”, nhà nước loay hoay tìm ra chính sách tối

ưu để hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp; phía doanh nghiệp đối mặt nhiều

khó khăn khi hàng nông sản ngoại nhập lấn nhanh vào sân nhà. Thực trạng

này có rất nhiều nguyên nhân và cũng cần có giải pháp thực tế mới dần giải

quyết được vấn đề này. Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông của chúng tôi

thực hiện đề tài: Truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên báo

chí Tiền Giang.

Mong quý vị cộng tác với chúng tôi bằng cách trả lời đầy đủ các câu hỏi

thăm dò ý kiến này. Các câu trả lời của quý vị là những dữ liệu quan trọng, có

ý ngh a quyết định kết quả nghiên cứu và đề xuất khoa học, từ đó tư vấn cho

các cơ quan có thẩm quyền có chính sách hoạch định trong việc truyền thông

quảng bá nông sản hiện nay. Các thông tin mà quý vị cung cấp chỉ sử dụng

cho mục đích nghiên cứu khoa học và được đảm bảo tính khuy t danh khi

công bố tổng thể kết quả nghiên cứu.

Xin trân trọng cảm ơn quý vị!

A/Thông tin cá nhân

Năm sinh…………………………………………………………………

Cơ quan công tác hiện tại…………………….………………………….

Thời gian và địa điểm PV:…………………………..……………………

NỘI DUNG PHỎNG VẤN

B. Nội dung phỏng vấn sâu:

90

(Dành cho phóng viên, Biên Tập viên)

Câu 1: Anh/chị nhận thức như thế nào về vai trò của việc truyền thông

quảng bá nông sản địa phương trên báo chí Tiền Giang?

Câu 2: Trong quá trình tác nghiệp, anh/chị thấy có những thuận lợi và

khó khăn gì khi viết về đề tài quảng bá nông sản địa phương?

Câu 3: Theo anh/chị, báo chí Tiền Giang có vai trò như thế nào trong

việc truyền thông quảng bá nông sản của địa phương mình?

Câu 4: Xin anh/chị cho một vài nhận xét về những mặt được cũng như

chưa được của các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề về quảng bá nông

sản trên báo chí Tiền Giang hiện nay?

(Dành cho lãnh đạo các cơ quan báo chí, nhà quản lý)

Câu 1: Xin anh/chị đánh giá một vài vấn đề về vai trò của báo chí trong

việc truyền thông quảng bá nông sản cả nước nói chung và của Tiền Giang nói

riêng?

Câu 2: Theo anh/chị, các cơ quan báo chí cần phải làm gì để việc truyền

thông quảng bá nông sản được tốt hơn?

Câu 3: Anh/chị cho biết, vai trò của các doanh nghiệp trong việc truyền

thông quảng bá nông sản hiện nay như thế nào?

Câu 4: Theo anh/chị, trong thời gian tới, báo chí cần phải làm gì để nông

sản Tiền Giang nói riêng và cả nước nói chung được nhiều nơi biết đến?

Câu 5: Là ngành chuyên môn, anh/chị cho biết, quan điểm của mình về

vấn đề truyền thông quảng bá nông sản của báo chí hiện nay?

Câu 6: Để nông sản tỉnh Tiền Giang nói riêng và miền Tây Nam Bộ nói

chung được nhiều người biết đến và nông dân tiêu thụ được sản phẩm,

anh/chị có định hướng gì?

91

(Dành cho nông dân)

Câu 1: Thời gian qua, anh/chị trồng nông sản nhưng tiêu thụ sản phẩm

như thế nào?

Câu 2: Việc tiêu thụ như vậy, anh/chị thấy được cái gì và chưa được cái gì?

Câu 3: Khi cần những thông tin liên quan đến nông sản, bản thân

anh/chị thường tìm kiếm thông tin từ nguồn nào như: từ hệ thống truyền

miệng, truyền hình, báo in, báo mạng, điện thoại hay phát thanh?

Câu 4: Anh/chị có biết, sản phẩm mình trồng hiện nay đã có thương

hiệu hay chưa và tiêu thụ đi đâu không?

Câu 5: Để nông dân tiêu thụ được sản phẩm nông sản và giá cả hợp lý,

ngành chức năng cần phải làm gì?

(Dành cho doanh nghiệp)

Câu 1: Anh/chị có tìm hiểu và biết về nông sản của tỉnh Tiền Giang nói

riêng và các tỉnh Tây Nam Bộ nói chung?

Câu 2: Hiện nay, doanh nghiệp mình tiêu thụ sản phẩm bằng hình thức

gì và ở đâu?

Câu 3: Trong thời gian qua, cách thức truyền thông quảng bá nông sản

cho doanh nghiệp mình như thế nào?

Câu 4: Việc quảng bá như vậy đã mang lại lợi ích gì cho doanh nghiệp

cũng như nông sản của chúng ta?

Câu 5: Ngoài việc tự truyền thông quảng bá, anh/chị có nhận được phản

ánh từ đối tác về việc họ tiếp nhận thông tin về nông sản thông qua việc

truyền thông quảng bá của các cơ quan báo chí?

Câu 6: Anh/chị thường quan tâm đến phương tiện truyền thông nào trong

việc giới thiệu, quảng bá nông sản của ta đến người tiêu dùng trong và ngoài

nước?

92

Câu 7: Theo anh/chị, việc truyền thông quảng bá nông sản của các cơ

quan báo chí như vậy là được chưa? Trong thời gian tới, cơ quan báo chí cần

phải làm gì để giúp doanh nghiệp, cũng như hỗ trợ đưa thông tin nông sản đến

với người tiêu dùng khắp thế giới?

93