ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------000------------------
NGUYỄN VĂN SỰ
TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY
NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ TIỀN GIANG
U N VĂN THẠC S BÁO CHÍ
Vĩnh ong – Năm 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------000--------------
NGUYỄN VĂN SỰ
TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY
NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ TIỀN GIANG
Chuyên ngành: Báo chí học
U N VĂN THẠC S BÁO CHÍ
Mã số: 8320101.01 (UD)
Chủ tịch Hội đồng chấm luận văn Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Thạc sĩ báo chí
PGS.TS. VŨ VĂN HÀ TS. Ê THỊ NHÃ
Vĩnh ong – Năm 2020
ỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Nhã. Các số liệu thống kê, kết quả nghiên
cứu, phát hiện mới là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Luận văn có sử dụng, phát triển, kế
thừa một số tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài
liệu… liên quan đến nội dung đề tài.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Sự
1
ỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn Cao học, tôi đã nhận
được rất nhiều sự chỉ dẫn nhiệt tình của các thầy, cô giáo ở Viện Đào tạo Báo
chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(ĐHQGHN) và Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tôi vô cùng quý trọng,
biết ơn sự chỉ bảo đó và xin được chân thành gửi lời tri ân đến toàn thể các
thầy, cô giáo. Đặc biệt, tôi xin ngỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Lê Thị
Nhã – người cô đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ dạy, giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn. Và hơn hết, trong quá trình làm luận văn, tôi đã học tập ở cô một tinh
thần nghiên cứu khoa học nghiêm túc, cẩn thận, tỉ mỉ và một thái độ làm việc
hết mình. Xin được gửi đến cô sự biết ơn và lòng kính trọng chân thành nhất.
Cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp đang công tác tại Báo Ấp Bắc, Báo
Nhân Dân…là những người luôn sẵn sàng giúp đỡ tôi, tạo điều kiện để tôi
tham gia hoàn thành chương trình đào tạo sau đại học, đồng thời cung cấp
những tư liệu cho tôi trong quá trình viết luận văn. Cảm ơn gia đình và những
người thân yêu đã luôn tin tưởng, động viên và ủng hộ tôi.
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn chắc chắn không tránh khỏi
những hạn chế nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp chân
thành của Hội đồng khoa học, của quý thầy, cô giáo, cùng với sự góp ý của
bạn bè, đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện có chất lượng tốt hơn.
Tiền Giang, tháng 10 năm 2020
Nguyễn Văn Sự
2
MỤC ỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 4 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................................................... 5 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 12 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 12 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 13 6. ngh a lý luận và giá trị thực ti n của đề tài .................................................................. 13 7. Cấu trúc của luận văn: ..................................................................................................... 14 Chƣơng 1: CƠ SỞ Ý U N VỀ TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ. ........................................................................ 16 1.1. Khái niệm về truyền thông quảng bá ............................................................................ 16 1.2. Khái niệm, đặc điểm về nông sản ................................................................................. 20 1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về nông sản ................................................. 24 1.4. Vấn đề đặt ra cho công tác truyền thông quảng bá nông sản .............................................. 28 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ TIỀN GIANG ..................................................................... 33 2.1. Khái quát Báo chí Tiền Giang. ..................................................................................... 33 2.2. Thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang ................................................................................................... 37 2.3. Đánh giá thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ ........................ 57 Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TIỀN GIANG TRONG VIỆC TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ ........................................................... 63 3.1. Những vấn đề đặt ra về truyền thông quảng bá nông sản của các tờ báo ở Việt Nam nói chung và Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang nói riêng .......................................... 63 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác truyền thông quảng bá nông sản trên báo chí Tiền Giang hiện nay ......................................................................................... 66 3.3. Khuyến nghị: ................................................................................................................. 75 KẾT U N ......................................................................................................................... 83 TÀI IỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 86 PHỤ ỤC ............................................................................................................................ 90
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. ý do chọn đề tài
Miền Tây Nam Bộ được mệnh danh là vựa lúa, vựa trái cây, vựa thủy
sản của quốc gia. Theo số liệu thống kê của Tổng Cục thống kê, hàng năm,
vùng này đóng góp 40% giá trị sản xuất nông nghiệp, trên 50% sản lượng lúa,
90% sản lượng gạo xuất khẩu, 70% sản lượng trái cây, 30% diện tích rau
màu, chiếm 18% GDP cả nước và thu ngoại tệ hàng năm khoảng 3 tỉ USD.
Nhiều loại nông sản của miền Tây Nam Bộ xây dựng được thương hiệu và
người tiêu dùng đón nhận như: xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn V nh Kim,
thanh long Chợ Gạo, khóm Tân Phước, bưởi Năm Roi, quýt hồng Lai Vung…
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước luôn có những chủ
trương, chính sách nhằm phát triển mạnh mẽ các mặt hàng nông sản; ngành
chuyên môn tăng cường xúc tiến thương mại nhằm đưa thương hiệu nông sản
của miền Tây Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung đến gần hơn với người
tiêu dùng trong, ngoài nước. Tuy nhiên, trước bối cảnh kinh tế thị trường,
nước ta hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng. Vì vậy, việc cạnh
tranh các loại nông sản trên thị trường ngày càng khốc liệt hơn. Trong khi,
thực tế hiện nay, nhiều sản phẩm nông sản của chúng ta chưa tham gia chuỗi
giá trị quốc tế, chưa có hợp đồng dài hạn. Mặc dù, sản lượng xuất khẩu với số
lượng lớn nhưng rất bấp bênh và phụ thuộc quá nhiều vào sự may rủi của thị
trường nhập khẩu. Sản xuất và xuất khẩu nông sản không theo nhu cầu thị
trường, chạy theo số lượng, không coi trọng chất lượng, sản xuất không kết nối
với thị trường… Đây là hậu quả của quá trình canh tác nhỏ lẻ, mang tính tự
phát, chưa giải quyết được việc sản xuất và nhu cầu thị trường. Từ đó, nông
dân liên tục gặp phải điệp khúc “được mùa - mất giá; được giá - mất mùa”.
Cùng với sự nỗ lực của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và các địa
phương trong việc xây dựng và tạo nên thế mạnh cho các mặt hàng nông sản
4
của chúng ta, trong những năm qua, báo chí cả nước nói chung và báo chí
Tiền Giang nói riêng đã có những đóng góp quan trọng trong việc truyền
thông quảng bá nông sản đến với các doanh nghiệp, người dân trong và ngoài
nước. Nhiều tác phẩm báo chí đã giúp cho chúng ta có thêm kinh nghiệm hiểu
biết, nâng cao được nhận thức về tầm quan trọng của mặt hàng nông sản trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy vậy, công tác truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ
trên báo chí Tiền Giang còn nhiều vấn đề đặt ra khi mà doanh nghiệp và
người dân chưa thật sự quan tâm đến vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi cho rằng
việc nghiên cứu truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ hiện nay
là cần thiết nhằm giúp cho báo chí Tiền Giang hiểu và đáp ứng đầy đủ nhu
cầu thông tin đến công chúng cũng như tìm ra một giải pháp phù hợp để công
chúng tiếp nhận các sản phẩm nông sản của địa phương sản xuất ra một cách
tốt nhất, góp phần tăng cường tiêu thụ sản phẩm, tạo đầu ra phát triển bền
vững cho nông sản miền Tây Nam Bộ.
Xuất phát từ những yêu cầu đặt ra, tác giả lựa chọn đề tài: “Truyền
thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên báo chí Tiền Giang (Khảo
sát Báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang; Năm 2018)” làm luận
văn thạc s chuyên ngành Báo chí học – Định hướng ứng dụng.
2. T nh h nh nghi n c u li n quan đ n đề tài
Việt Nam xuất phát điểm là một nước nông nghiệp. Nội dung trọng điểm
của công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cũng từ nền móng của
công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân. Trong đó, vùng đất
Tây Nam Bộ là điểm của nền nông nghiệp cả nước, là nơi quy tụ nhiều loại
nông sản đặc trưng của cả nước, với số lượng rất lớn.
Chính những lợi thế đó đã gợi mở cho các nhà khoa học, nhà quản lý đi
sâu vào nghiên cứu. Ngoài ra, nhiều đề tài luận văn cũng đã đề cập đến nền
5
nông nghiệp của vùng đất này. Các đề tài này nghiên cứu chung chung về vấn
đề nông nghiệp Tây Nam Bộ, các chính sách đầu tư vào nông nghiệp khu vực
Tây Nam Bộ. Theo người viết tìm hiểu thì chưa có luận văn nào nghiên cứu
toàn diện, sâu sắc về vai trò và những tác động trong công tác truyền thông
quảng bá nông sản địa phương trên báo chí miền Tây Nam Bộ. Tuy vậy, có
thể điểm qua các công trình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề sau:
* Những vấn đề nghiên cứu chung:
1. Nguy n Uyển (2001), “Nông nghiệp, nông dân và nông thôn-Nguồn
đề tài phong phú của báo chí” trong cuốn “xử lý thông tin-việc của nhà báo”,
NXB Văn hóa - Thông tin, đã đề cập vai trò, trách nhiệm của báo chí trong
việc phản ánh, cung cấp thông tin đặc biệt là những vấn đề về tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp, ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế…
2. TS. Nguy n Từ chủ biên (2008), “Tác động của hội nhập kinh tế đối
với phát triển nông nghiệp Việt Nam” đề cập đến vấn đề hội nhập WTO có
những tác động tích cực và tiêu cực đối với nền nông nghiệp Việt Nam, trong
đó liên quan nhiều tới sản xuất và tiêu thụ nông sản…
3. GS-TS Trần Thượng Tuấn (1994), Cây ăn trái Đồng bằng sông Cửu
Long, Sở Khoa học – Công nghệ & Môi trường An Giang, tại xí nghiệp in An
Giang khẳng định cây lúa ở vùng Tây Nam Bộ vẫn là loại nông sản chủ lực.
Tuy nhiên, nhà nước không nên chú trọng vào diện tích mà cần phải nâng cao
chất lượng hạt gạo, tính đến giá trị xuất khẩu. Ngoài ra, nội dung sách cũng đề
cập đến việc đa dạng hóa các loại cây trồng bằng việc chuyển đổi diện tích lúa
kém chất lượng sang trồng một số loại cây ăn trái, rau màu có giá trị kinh tế
cao hơn.
4. Trần Hữu Hiệp (2014), Tái cơ cấu nông nghiệp-Góc nhìn từ vựa lúa
Quốc gia, NXB Thông tấn, đã khái quát những trăn trở từ vựa lúa Quốc gia,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hạt gạo bị cắn làm tám, “chiếc bánh” nông sản
6
thời hội nhập, dán nhãn trách nhiệm, “quả táo cắn dở” của Mỹ và trái cây
Việt, nước mắt của cây, tầm nhìn dài hạn cho đồng bằng sông Cửu Long: an
toàn, phú trú và bền vững.
5. PGS.TS Nguy n Minh Châu: Người nặng lòng với sự phát triển cây
ăn quả. Cuốn kỷ yếu này đã nêu PGS.TS Nguy n Minh Châu, Nguyên Viện
trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam đặt nền móng cho ngành cây ăn quả hiện
đại, kịp đà phát triển của thế giới thông qua các mối quan hệ hợp tác quốc tế.
PGS.TS đã có đóng góp rất lớn cho việc phát triển của ngành Nông nghiệp
nói chung và cây ăn trái nói riêng như: giúp sản xuất nề nếp hơn, xuất khẩu
rau quả luôn tăng theo từng năm. PGS.TS đã đào tạo một đội ngũ cán bộ
nghiên cứu có tay nghề tốt, yêu nghề, tâm huyết và gắn bó nghề với bà con
nông dân.
6. Tập thể tác giả, Đặng Đức Thành (chủ biên), (2009), “Nông dân dựa
vào đâu?”, NXB Chính trị Quốc gia. Cuốn sách đã đề cập khá cụ thể những
vấn đề thiết thực đối với sự phát triển nông nghiệp và nâng cao đời sống của
nông dân, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, nhiều nội
dung phân tích nguyên nhân giá đầu vào của nông sản phẩm luôn tăng cao -
các biện pháp hạn chế, giải quyết vấn đề chủ động “tiền” cho người nông dân,
liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp đồng bằng sông Cửu Long để đương
đầu với những thử thách khi gia nhập WTO, nông nghiệp trụ đỡ nền kinh tế
trong suy thoái; để nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long phát triển, nông
thôn tiến bộ, nông dân khá giả trong cuộc phát triển bền vững ở nước ta.
7. Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và báo thương mại (2007),
“Vai trò của doanh nghiệp xuất khẩu trong tiến trình Việt Nam hội nhập kinh
tế quốc tế”, đã có những bài viết chuyên sâu về những nguyên tắc, khó khăn,
thuận lợi cho doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra nước ngoài,
trong đó có nông sản…
7
8. Nguy n Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ
đổi mới, NXB Thống kê. Cuốn sách đã cung cấp cho chúng ta hệ thống tư liệu
về phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như là một Niên giám thống kê
nông nghiệp thu nhỏ; chỉ ra những vấn đề đầu tư, vấn đề phân hóa giàu
nghèo, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu nông sản.
* Về các công trình nghiên cứu có liên quan:
1. Tác giả Nguy n Văn Giang có đề tài nghiên cứu: “Truyền thông về vệ
sinh an toàn thực phẩm nông sản tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn” trong luận văn thạc s , chuyên ngành quan hệ công chúng năm 2013
của Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Luận văn đã hệ thống hóa những vấn
đề lý luận và thực ti n về hoạt động truyền thông nói chung và về vấn đề vệ
sinh an toàn thực phẩm nông sản nói riêng; khảo sát, phân tích và đánh giá
thực trạng hoạt động truyền thông về vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản tại
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với những ưu điểm cần được phát
huy, những hạn chế cần khắc phục và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế
đó; chỉ ra những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động truyền
thông về vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản tại Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tác giả Thái Thu Quyên có đề tài nghiên cứu: “Quảng bá du lịch Hàn
Quốc thông qua các chiến dịch truyền thông: thực tiễn và những bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam hiện nay”, trong luận văn thạc s , chuyên ngành
Quan hệ công chúng của Học viện Báo chí và Tuyên truyền năm 2015. Tác
giả của luận văn này đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quảng bá du
lịch quốc gia thông qua các chiến dịch truyền thông; khảo sát thực trạng
quảng bá du lịch Hàn Quốc và đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả trong việc truyền thông quảng bá hình ảnh du lịch tại Việt Nam.
8
3. Tác giả Lê Thị Huê có đề tài nghiên cứu: “Nhu cầu sử dụng thông tin
nông nghiệp nông thôn của nông dân” trong luận văn thạc s , chuyên ngành
xã hội học năm 2011, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Luận văn nêu thực trạng tiếp cận thông tin nông nghiệp
nông thôn của nông dân với đúc kết: nông dân rất quan tâm các thông tin
phục vụ sản xuất nông nghiệp, thị trường nông sản và xa lạ các thông tin
chính sách. Các kênh tiếp nhận thông tin, thời gian thích hợp theo dõi… của
nông dân cũng được nghiên cứu và đi đến kết luận: nông dân rất mong muốn
tìm kiếm thông tin nông nghiệp.
4. Tác giả Lê Thị Thanh Hương cũng có đề tài luận văn thạc s : “Xây
dựng mô hình tổ liên kết sản xuất để chuyển giao kết quả nghiên cứu nuôi
thủy sản cho nông dân vùng Đồng Tháp Mười tỉnh Long An”, chuyên ngành
Quản lí Khoa học và công nghệ, trường Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã chỉ ra rằng, Tổ liên kết sản
xuất trong nông nghiệp, nông thôn là những hình thức phổ biến trong thành
phần kinh tế tập thể. Nó phù hợp với yêu cầu của sản xuất kinh doanh, phù
hợp với đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần với sự sở
hữu khác nhau. Đây là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất
hàng hoá càng phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường càng gay gắt
thì những người lao động riêng lẻ, các hộ cá thể càng có yêu cầu phải liên kết
hợp tác với nhau, nếu không khó có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên ở luận
văn này, chưa nhìn thấy được sự tác động của báo chí truyền thông trong “xây
dựng mô hình”, bởi đó là kênh thông tin hiệu quả nhằm phát hiện, đánh giá và
nhân rộng các mô hình. Để giải quyết những tồn tại trong sản xuất tập thể
không mấy tích cực đối với nông dân trước đây và thực tế nhu cầu sản xuất
hàng hóa lớn – nông dân cần liên kết tạo thành sức mạnh, thì vai trò lý giải,
thuyết phục của báo chí là vô cùng lớn.
9
5. Tác giả Lê Thái Hà với đề tài luận văn thạc s : “Vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn trên báo in hiện nay”, chuyên ngành báo chí học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, do
PGS.TS Đinh Văn Hường hướng dẫn khoa học. Luận văn cung cấp một số
vấn đề lí luận về nội dung “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X); bổ sung và làm rõ hơn hệ thống lí luận về
vai trò, chức năng của báo chí trong điều kiện mới và nhiệm vụ tuyên truyền
đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống trên báo in. Cách thức tổ chức tác
phẩm, biện pháp tuyên truyền trên báo in đạt hiệu quả. Luận văn góp phần
làm rõ nội dung nhận thức về Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn Việt Nam
và vị trí của “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” trong sự nghiệp đổi mới,
phát triển đất nước thông qua hoạt động báo chí truyền thông. Qua đó khẳng
định những đóng góp của báo in trong việc tuyên truyền đưa nghị quyết của
Đảng vào cuộc sống và trách nhiệm nâng cao chất lượng tuyên truyền về
“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” trên báo in, chỉ ra những biện pháp khả
thi cho quá trình này.
6. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiếp cận được luận văn thạc s
của Bùi Thị Hồng Vân, năm 2011, do PGS.TS Vũ Quang Hào hướng dẫn với
đề tài: “Vấn đề chỉ dẫn – tư vấn khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân
trên báo chí Việt Nam”. Luận văn phân tích thực trạng chỉ dẫn – tư vấn Khoa
học k thuật nông nghiệp cho nông dân trên báo chí Việt Nam , những mặt
được và chưa được. Từ đó, đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả chỉ dẫn
– tư vấn Khoa học k thuật nông nghiệp cho nông dân trên báo chí Việt Nam.
Có tính ứng dụng thực ti n cao cho các phương tiện truyền thông về chỉ dẫn –
tư vấn KHKT nông nghiệp cho nông dân ở Việt Nam và trong luận văn này
chúng tôi tham khảo một số tư liệu.
10
7. Tác giả Trần An Phước nghiên cứu Báo in địa phương với việc phát
triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong Luận văn Thạc s
Báo chí học năm 2012 do PGS.TS Đinh Văn Hường hướng dẫn. Luận văn đã
làm sáng tỏ sự tác động của báo in địa phương, chỉ ra được hiệu quả của nó
với việc phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long. Nêu được ưu
điểm, cũng như khuyết điểm, hạn chế của báo in với phát triển nông nghiệp
đồng bằng sông Cửu Long. Nhận diện công chúng báo in đồng bằng sông
Cửu Long. Rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả truyền thông của báo in đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó
phục vụ ngày càng thiết thực cho bà con nông dân, đóng góp tích cực vào sự
phát triển bền vững của nền nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long. Luận
văn của Trần An Phước khá tương đồng với đề tài nghiên cứu nên có một số
tư liệu chúng tôi sử dụng tham khảo.
8. Tác giả Lê Minh Tuấn có đề tài nghiên cứu Báo chí Đồng bằng sông
Cửu Long với vấn đề truyền thông, quảng bá sản phẩm nông nghiệp địa
phương do PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng hướng dẫn vào năm 2015. Đề tài đã hệ
thống hóa lý thuyết và cơ sở thực ti n của vấn đề báo chí truyền thông, quảng
bá sản phẩm nông nghiệp, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của
các sản phẩm báo chí thuộc diện khảo sát trong việc truyền thông, quảng bá
sản phẩm nông nghiệp của địa phương hiện nay, đề xuất giải pháp đổi mới
phương thức truyền thông, quảng bá sản phẩm nông nghiệp địa phương trên
báo chí Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu đề tài khoa học về vùng đất Tây
Nam Bộ khá nhiều. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu về nông nghiệp rất ít, vai trò
và tác động trong việc truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ
trên báo chí địa phương lại càng không có. Chính điều này, người thực hiện
mong muốn đây là một trong những đề tài tạo nên bước đột phá lớn cho công
11
tác truyền thông của Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang nói riêng và
báo, đài cả nước nói chung trong thời gian tới.
3. M c đích nhiệm v nghi n c u
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hình thành khung lý thuyết về truyền thông quảng bá nông
sản miền Tây Nam Bộ, luận văn khảo sát, phân tích thực tế và đánh giá thực
trạng trong công tác truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên
báo chí Tiền Giang. Luận văn cũng hướng tới mục đích tìm kiếm những
khuyến nghị khoa học nhằm tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả tác động
của báo chí đối với quá trình phát triển của kinh tế nông nghiệp nói chung và
nông sản miền Tây Nam Bộ nói riêng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên, luận văn có những nhiệm
vụ sau:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về truyền thông, quảng bá, nông sản;
chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước, tức là làm rõ những khái niệm
cơ bản của đề tài nghiên cứu.
Thu thập và phân tích những kết quả khảo sát, nghiên cứu thực trạng đối
với công tác truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên Báo Ấp
Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang.
Qua kết quả khảo sát và phân tích, luận văn đưa ra một số khuyến nghị,
giải pháp nâng cao hoạt động thông tin báo chí về truyền thông quảng bá
nông sản trên báo chí Tiền Giang.
4. Đối tƣ ng phạm vi nghi n c u
- Đối tư ng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là truyền thông quảng bá nông sản
miền Tây Nam Bộ trên báo chí Tiền Giang.
12
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây
Nam Bộ trên Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang; năm 2018.
5. Phƣơng pháp nghi n c u
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ ngh a Mác – Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với hệ thống các quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phát triển nông
nghiệp nói chung, nông sản nói riêng.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tiếp cận các giáo trình, các tài liệu và
các công trình nghiên cứu của những người đi trước, từ đó rút ra những vấn
đề lý luận cần thiết .
Phương pháp phân tích nội dung: Từ các tác phẩm được đăng trên Báo
Ấp Bắc điện tử và phát trên Đài PT – TH Tiền Giang, chúng tôi tiến hành tìm
kiếm dữ liệu cho việc mô tả và phân tích thực trạng, ưu điểm, hạn chế của
hoạt động truyền thông quảng bá nông sản các địa phương ở miền Tây Nam
Bộ trên các sản phẩm báo chí thuộc diện khảo sát.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Chúng tôi sẽ thực hiện khảo sát bằng
phỏng vấn trực tiếp tổng biên tập (hoặc phó tổng biên tập) báo, Giám đốc
(hoặc Phó Giám đốc đài); các phóng viên chuyên trách viết về đề tài nông
sản, biên tập viên phụ trách biên tập l nh vực kinh tế nông nghiệp của Báo Ấp
Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang. Mục đích của phương pháp này là thu
thập dữ liệu định tính phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài
- ngh a l luận
13
Luận văn nghiên cứu mong muốn làm rõ vai trò truyền thông trong mối
tương quan với l nh vực nông sản. Quan điểm của báo chí Tiền Giang muốn
hướng đến độc giả là đẩy mạnh tuyên truyền các nội dung có liên quan đến
vấn đề nông nghiệp nói chung, vấn đề nông sản nói riêng. Luận văn dựa trên
những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về l nh vực nông nghiệp
như: các kỳ Đại hội của Đảng (từ Đại hội V đến sau Đại hội VIII) và giai
đoạn hiện nay; Nghị quyết 26-NĐ/TW của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị định
98/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến khích liên kết, hợp tác trong sản xuất,
trong đó quy định rất cụ thể liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản; Nghị
định 116/2018/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nội dung của
Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ với nhiều chính sách khuyến khích
sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao, các mô hình liên
kết sản xuất theo chuỗi giá trị...
- Giá trị thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu thực ti n trên báo chí Tiền Giang về vấn đề
truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ, luận văn mang đến một
cái nhìn sâu hơn về vai trò của báo chí đối với việc quảng bá nông sản địa
phương hiện nay. Qua đó, các cơ quan báo chí có thể nhận thức và có hướng
đi đúng trong việc lựa chọn phương thức để truyền thông quảng bá nông sản
cho địa phương mình.
7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về truyền thông quảng bá nông sản miền Tây
Nam Bộ trên báo chí.
14
Chương 2: Thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam
Bộ trên báo chí Tiền Giang.
Chương 3: Một số vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của báo chí Tiền Giang trong việc truyền thông quảng bá nông sản miền Tây
Nam Bộ.
15
Chƣơng 1: CƠ SỞ Ý U N VỀ TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ
NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ.
1.1. Khái niệm về truyền thông quảng bá
- Khái niệm truyền thông
Truyền thông là một dạng căn bản của hành vi con người trong xã hội.
“Đó là cơ chế để các liên hệ của con người tồn tại và phát triển”. Khái niệm
truyền thông được sử dụng ở nhiều l nh vực. Theo ngh a rộng nhất, nó là sự
tạo ra mối liên hệ giữa các đối tượng có thể mang bản chất sự sống hay
không. Khái niệm này không chỉ ứng dụng cho các quy trình hóa học, các
trường lực vật lý, các quá trình tâm lý mà còn cho các phương thức, hành vi
trong xã hội.
Quá trình truyền thông nhằm thực hiện sự trao đổi qua lại về kinh
nghiệm, tri thức, tư tưởng, ý kiến, tình cảm. Người ta có thể sử dụng các hệ
thống ký hiệu khác nhau theo dạng phi ngôn từ hoặc ngôn từ để thông báo.
“Truyền thông là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin,
tình cảm, k năng... nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong
hành vi và nhận thức” [45,tr.13].
Còn theo Nguy n Văn Dững và Đỗ Thị Thu Hằng trong tác phẩm
“Truyền thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản” (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
2012) thì: “Truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình
cảm... chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tang
cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và
thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân/nhóm/cộng đồng/xã hội”
[41, tr.125].
Về phương diện lý thuyết, truyền thông là một trong những khái niệm cơ
bản, chiếm vị trí trung tâm, nền tảng trong hệ thống lý luận báo chí - truyền
thông nói chung. Trên phương diện thực ti n, truyền thông đang là một bộ
16
phận xã hội rất quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề chính trị - kinh tế -
văn hóa - xã hội hàng ngày trên phạm vi quốc gia, phạm vi quốc tế, khu vực
hay trong khuôn khổ gia đình.
Theo PGS.TS Nguy n Văn Dững, truyền thông ở bình diện tổng quát
được hiểu là quá trình liên tục trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, chia sẻ
kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm góp phần nâng cao
(thay đổi) nhận thức, mở rộng hiểu biết, tiến tới thay đổi thái độ và hành vi
của công chúng. Bản chất xã hội của truyền thông là tương tác và chia sẻ,
thực hiện những cuộc vận động xã hội trên cơ sở tương tác bình đẳng giữa
chủ thể và khách thể nhằm hướng tới mục tiêu chung vì lợi ích cộng đồng [4,
tr.32]. Truyền thông là một trong những kênh quan trọng nhất, thể hiện rõ
nhất tính công khai, dân chủ hóa đời sống xã hội. Các kênh truyền thông rất
đa dạng, nhưng về cơ bản có các dạng thức như: truyền thông cá nhân, truyền
thông nhóm và truyền thông đại chúng [4, tr.33].
Có thể nói, yêu cầu quan trọng nhất của hoạt động truyền thông chính là
góp phần làm thay đổi nhận thức của công chúng xã hội, làm cho nhận thức
của nhân dân từ chưa đúng đến đúng đắn hơn, từ nông đến sâu, từ nhiều khác
biệt đến nhiều tương đồng hơn. Và cuối cùng là thống nhất nhận thức, tạo ra
đồng thuận để hình thành thái độ chung, niềm tin, ý chí làm cơ sở cho hành
động của đông đảo quần chúng tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra trong
quá trình phát triển; tạo lập, gây dựng niềm tin và ý chí cho hàng triệu người là
mục tiêu quan trọng nhất của công tác truyền thông. Trước hết, truyền thông là
làm cho công chúng tin cậy vào báo chí thông qua việc cung cấp thông tin nóng
hổi, chân thực, nhiều chiều và hoạt động công chúng một cách chuyên nghiệp.
Hiệu quả tác động của báo chí qua đó cũng chịu sự chi phối, phụ thuộc của
nhiều yếu tố, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và từ chủ quan đến khách
quan... thể hiện theo các bình diện như: Giao diện, tần suất, cường độ giao tiếp
17
của công chúng với các sản phẩm báo chí - truyền thông; năng lực tác động,
khả năng chi phối của các ấn phẩm báo chí đối với cộng đồng thông qua việc
khơi nguồn, thể hiện - truyền dẫn, định hướng và điều hòa dư luận xã hội; mối
quan hệ tác động phản hồi - quan hệ ngược (feedback) của công chúng đối với
các ấn phẩm báo chí cũng như thông điệp truyền thông; vai trò của báo chí -
truyền thông trong việc xã hội hóa cá nhân, trong việc hình thành, thể hiện diện
mạo của văn hóa cộng đồng cũng như góp phần hoàn thiện nhân cách của mỗi
con người; khả năng thuyết phục, tập hợp và tổ chức công chúng tham gia giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đang đặt ra.
- Khái niệm về quảng bá
Quảng bá có ngh a là phổ biến rộng khắp cho mọi người đều biết thông
qua các phương tiện tuyên truyền, báo chí và truyền thông.
Từ quảng bá ở đây có thể được được hiểu như một chiến dịch quảng bá
rầm rộ nhằm giới thiệu một sản phẩm hay dịch vụ nào đó của doanh nghiệp,
người nông dân đến quảng đại công chúng. Quảng bá là quảng cáo và truyền
bá. Quảng bá là để giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhằm thu hút được
nhiều khách hàng tham gia vào chương trình hay chiến dịch quảng cáo đó [42,
tr.15].
Quảng bá là để tạo sức mạnh cho thương hiệu, sức mạnh từ sự thực hiện
tốt được các chức năng, sức mạnh từ sự nhận biết của khách hàng và công
chúng về sản phẩm nông nghiệp thông qua thương hiệu, nhãn hiệu. Quảng bá
bao gồm các hoạt động chính là: quảng cáo, khuyến mại, chào hàng và giao tế
(quan hệ công chúng). Các nội dung này có thể được sử dụng riêng hoặc phối
hợp với nhau và chúng được thực hiện dựa trên những quy tắc nhất định của
một quá trình truyền thông giao tiếp.
18
Còn từ điển tiếng Việt, quảng bá có ngh a là phổ biến rộng khắp cho mọi
người đều biết thông qua các phương tiện tuyên truyền, báo chí và truyền
thông [42, tr15].
Theo PGS.TS Lê Thanh Bình trong cuốn Báo chí truyền thông và kinh tế
văn hóa xã hội, quảng bá là để giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhằm
thu hút được nhiều khách hàng tham quan vào chương trình hay chiến dịch
quảng cáo đó [43, tr.9-10].
Như vậy, quảng bá ở đây được hiểu là hoạt động truyền bá thông qua các
phương tiện báo chí truyền thông. Mục đích để đưa ra các sản phẩm đến được
với công chúng cảm nhận về sản phẩm và giá trị tiêu dùng của từng sản phẩm
đó. Hoạt động truyền thông quảng bá chỉ có ý ngh a khi nó kích thích được
lợi ích của đối tượng tiếp nhận, thuyết phục họ về mặt nhận thức, tạo cho họ
hành động chung. Từ ý ngh a đó, người ta nhận thấy khả năng truyền bá rộng
lớn của hoạt động truyền thông, đặc biệt là các phương tiện truyền thông đại
chúng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển, trong đó có cả vấn đề
truyền thông quảng bá nông sản.
Các phân tích về cơ chế từ tác động truyền thông đối với hành động của
con người cho thấy: bằng việc cung cấp thông tin, kiến thức thông qua các
kênh, hay một con đường nào đó đến với đối tượng tiếp cận, đối tượng tiếp
nhận hiểu và có khả năng làm theo sự chỉ dẫn của thông tin đã tạo nên hành
động của các cá nhân và các tập đoàn người.
Sự quảng bá thông tin được thực hiện trong quá trình truyền thông luôn
luôn gắn liền với các điều kiện xã hội cụ thể, trong đó di n ra các hoạt động
sống với các phương thức sinh hoạt gắn liền với quá trình phát triển của xã
hội, đóng vai trò quan trọng, góp phần làm cho con người tự nhiên trở thành
con người xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng.
19
1.2. Khái niệm đặc điểm về nông sản
- Khái niệm về nông sản
Nông sản là một trong những hàng hóa thiết yếu, không thể thiếu đối với
sản xuất và tiêu dùng của người dân ở mỗi quốc gia, có nhiều quan điểm khác
nhau về nông sản, cụ thể như sau:
Theo quan điểm của liên minh châu Âu: Mặc dù không đề cập đến một
định ngh a cụ thể nào về nông sản, nhưng đã đưa ra một danh sách các mặt
hàng được coi là nông sản bao gồm: động vật sống, thịt và phụ phẩm dạng thịt
ăn được sau khi giết mổ, sản phẩm từ sữa, các sản phẩm có nguồn gốc từ
động vật, cây sống và các loại cây trồng khác, rau, thâm, củ và quả có thể ăn
được; cà phê, chè, phụ gia và các loại gia vị; ngũ cốc, các sản phẩm xay xát,
hạt và quả có dầu; nhựa cánh kiến đỏ, gôm, nhựa cây và các chất nhựa các
loại rau khác; mỡ, dầu động vật hoặc thực vật; các chế phẩm từ thịt; đường và
các loại kẹo đường; ca cao và các chế phẩm từ ca cao; các chế phẩm từ ngũ
cốc, tinh bột, bột; các chế phẩm từ rau, hoa quả và thực vật; các phụ gia có thể
ăn được hỗn tạp; đồ uống, rượu mạnh và giấm; thuốc lá và các sản phẩm
tương tự. Từ danh mục các mặt hàng trên cho thấy, quan điểm của EU về cơ
bản có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của WTO, tuy nhiên, nếu so
sánh với quan điểm nông sản của FAO thì quan điểm về nông sản theo WTO
có điểm khác biệt là có tính cho một số mặt hàng chế biến.
Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, nông sản bao gồm các sản phẩm từ hàng
hóa chưa chế biến như đỗ tương, ngũ cốc, lúa mỳ, gạo và bông thô đến các
thực phẩm và đồ uống đã được chế biến có giá trị cao như: xúc xích, bánh, bia
rượu, các đồ gia vị được bán lẻ trong các cửa hàng, tiệm ăn.
Theo Tổ chức nông lương thế giới, nông sản phẩm/sản phẩm có nguồn
gốc nông nghiệp là bất kỳ sản phẩm hay hàng hóa nào, dù là thô hay đã chế
20
biến, được trao đổi trên thị trường cho mục đích tiêu dùng của con người
(không kể nước, muối và các chất phụ gia) hay thức ăn cho động vật.
Trong từ điển tiếng Việt, nông sản được định ngh a là những sản phẩm
hoặc bán thành phẩm của ngành sản xuất hàng hóa thông qua gây trồng và
phát triển của cây trồng. Sản phẩm nông nghiệp bao gồm nhiều nhóm hàng
thực phẩm, tơ sợi, nhiên liệu, nhiên vật liệu, dược phẩm và ma túy bất hợp
pháp (thuốc lá, cần sa), các sản phẩm độc đáo, đặc thù. Ngày nay, nông sản
còn hàm ngh a những sản phẩm từ hoạt động làm vườn và thực tế nông sản
thường được hiểu là những sản phẩm hàng hóa được làm ra từ tư liệu sản xuất
là đất.
Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguy n Như chủ biên, nông sản (nông
phẩm) là sản vật, sản phẩm nông nghiệp nói chung [50,tr.14].
Theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP của Chính phủ về cơ chế, chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thì nông sản là
sản phẩm của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp.
Trong thực ti n thương mại thế giới, nông sản thường được chia thành
hai nhóm: nông sản nhiệt đới và còn lại. Cho đến nay, chúng ta chưa có định
ngh a thống nhất thế nào là nông sản nhiệt đới nhưng những loại nguyên liệu
đồ uống (như chè, cà phê, ca cao), bông và nhóm có sợi khác (đay, lanh),
những loại trái cây (chuối, xoài, ổi và một số loại khác) được xếp vào nhóm
nông sản nhiệt đới. Trên thực tế, nông sản nhiệt đới được sản xuất chủ yếu
bởi các nước đang phát triển.
Theo Viện Cây ăn quả miền Nam (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn), nông sản chính là các sản phẩm từ ngành nông nghiệp. Do đó, muốn
tìm hiểu về nông sản, chúng ta có thể xuất phát từ nông nghiệp. Vì vậy, nông
nghiệp theo ngh a hẹp bao gồm hai ngành trồng trọt và chăn nuôi, song theo
ngh a rộng bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp. Tương tự như vậy,
21
sản phẩm nông nghiệp nếu hiểu theo ngh a hẹp chỉ gồm sản phẩm của hai
ngành trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng nếu hiểu theo ngh a rộng gồm cả sản
phẩm ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Tổng hợp từ các quan điểm trên cho thấy: nông sản là sản phẩm của hoạt
động sản xuất nông nghiệp, bao gồm thành phẩm hay bán thành phẩm thu
được từ cây trồng, vật nuôi hoặc sự phát triển của cây trồng, vật nuôi. Đây là
khái niệm rộng và tương đối phức tạp, vì thể để phù hợp với nội dung nghiên
cứu, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu một số loại nông sản có thế mạnh của
miền Tây Nam Bộ và được tuyên truyền trên báo chí Tiền Giang.
- Đặc điểm về nông sản miền Tây Nam Bộ
Miền Tây Nam Bộ là một trong bảy vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Vùng này có diện tích tự nhiên 39,713 km2 (chiếm 12% diện tích của quốc
gia), dân số chiếm trên 21%. Miền Tây Nam Bộ có 12 tỉnh và 1 thành phố:
Long An, Tiền Giang, V nh Long, Bến Tre, Đồng Tháp, Trà Vinh, An Giang,
Hậu Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau và TP. Cần Thơ.
Kinh tế của khu vực miền Tây Nam Bộ chủ yếu dựa vào nông nghiệp và
thủy sản. Thật vậy, vùng đất này là vựa lúa của quốc gia và cũng là nơi sản
xuất thủy sản lớn nhất Việt Nam. Các ngành hàng chủ lực vùng đất miền Tây
Nam Bộ bao gồm: lúa-gạo, trái cây, cá tra, tôm và rau màu. Cụ thể, năm 2017,
diện tích trồng lúa toàn vùng khoảng 4,3 triệu ha (chiếm 55,1% diện tích trồng
lúa cả nước), với sản lượng 24,2 triệu tấn (chiếm 55,5 sản lượng lúa quốc gia)
và kim ngạch xuất khẩu gạo cả nước đạt 2,2 tỷ USD (trong đó, Tây Nam Bộ
chiếm 91,5%) qua 45 quốc gia. Riêng trái cây, năm 2017, diện tích có khoảng
300.000 ha (chiếm 36,6% diện tích cây ăn trái của cả nước), sản lượng đạt gần
4 triệu tấn (chiếm 42,4% sản lượng trái cây quốc gia); trong đó có trên 185.000
ha diện tích trái cây đặc sản (chiếm 64,6% diện tích cây ăn trái đặc sản của khu
vực Nam Bộ), với 13 chủng loại trái cây trong “Top 50” loại trái cây đặc sản
22
của Việt Nam bao gồm: thanh long, xoài, chôm chôm, sầu riêng, vú sữa, bưởi,
nhãn, chuối, khóm (dứa), cam, mãng cầu, sapôchê (hồng xiêm), quýt... Kim
ngạch xuất khẩu rau quả cả nước năm 2017 đạt khoảng 3 tỷ USD qua hơn 76
quốc gia. Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho biết, đây là tín hiệu tích cực để toàn
ngành tiến tới mục tiêu 3,5 tỷ USD trong năm 2018.
Đơn vị tính: 1.000 ha
Cây trồng
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
21,1
39,5 30,8 38,9 32,1 24,8 13,8 10,2 26,0 9,5
211,6
41,1 35,7 39,1 29,7 26,4 11,9 3,5 22,7 8,1 218,1
41,0 34,5 38,4 27,8 26,4 12,6 4,3 23,5 8,9 217,4
39,8 33,4 39,4 29,5 25,4 12,6 6,2 23,9 8,7 219,0 211,8
39,0 28,2 39,7 31,1 25,6 14,9 12,4 24,7 9,9 210,6
41,4 27,4 39,5 32,6 27,4 14,9 13,4 25,5 9,9 232
44,3 27,8 39,5 35,9 28,5 15,1 16,3 27,2 10,1 244,8
45,1 24,9 40,8 38,2 30,8 18,8 20,7 27,4 9,5 256,1
45,0 1. Xoài 33,8 2. Nhãn 35,5 3. Chuối 36,3 4. Cam 27,7 5. Bưởi 6. Sầu riêng 4,8 7. Thanh Long 0,9 8. Dứa 9. Chôm chôm 6,5 Tổng cộng
Bảng 1: Diện tích cây ăn quả chủ lực vùng đồng bằng sông Cửu ong từ
2010 đ n 2018.
Nông sản miền Tây Nam Bộ có một số đặc điểm cụ thể như:
Tính thời vụ:
Qúa trình sản xuất, thu hoạch và tiêu thụ nông sản luôn mang tính thời
vụ bởi các loại cây trồng sinh trưởng và phát triển theo quy luật sinh vật nhất
định. Mặc khác, do sự biến thiên về điều kiện tự nhiên khí hậu làm cho mỗi
loại cây trồng có sự thích ứng riêng, tạo nên những mùa vụ khác nhau trong
sản xuất. Vào khoảng thời gian chính vụ, nông sản thường dồi dào, phong phú
về chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá rẻ; ngược lại khi trái vụ thì
nông sản khan hiếm, chất lượng không đều nhau và giá bán thường cao.
23
Nông sản phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên:
Nông sản chịu tác động lớn từ điều kiện tự nhiên, đặc biệt là các điều
kiện về đất đai, khí hậu và thời tiết. Đa số các nông sản đều rất nhạy cảm với
các nhân tố ngoại cảnh, do vậy, mọi sự thay đổi về điều kiện tự nhiên về tác
động trực tiếp tới sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
Chất lượng nông sản ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người tiêu dùng
Chất lượng nông sản luôn là tiêu chí đầu tiên được người tiêu dùng quan
tâm khi quyết định mua hàng. Tại các quốc gia phát triển, đối với hoạt động
nhập khẩu nông sản, ngày càng có nhiều yêu cầu khắt khe đặt ra về chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ...của các loại hàng hóa.
Nguyên nhân chính là do chất lượng của nông sản sẽ có ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe của người sử dụng. Vì vậy, khi đời sống người dân được nâng
lên thì chất lượng nông sản cũng cần được cải thiện tương ứng.
Nông sản có tính đa dạng:
Nông sản có đặc điểm đa dạng cả về chủng loại và chất lượng, bởi nông
sản được sản xuất từ các địa phương khác nhau với các nhân tố về địa lý, tự
nhiên khác nhau, mỗi vùng, mỗi hộ dân, mỗi trang trại có phương thức sản
xuất khác nhau với các giống nông sản khác nhau cho nên chủng loại cũng
khác nhau, nông sản rất d bị hư hỏng, ẩm mốc, biến chất... Do đó, nông sản
chỉ cần để trong thời gian ngắn ở môi trường không đảm bảo về ẩm độ, nhiệt
độ, nông sản sẽ bị hư hỏng, giảm chất lượng.
1.3. Chủ trƣơng chính sách của Đảng Nhà nƣớc về nông sản
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn
mạnh vị trí đặc biệt quan trọng của sản xuất nông nghiệp và đã có nhiều chủ
trương, chính sách đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, phát huy triệt
để vai trò chủ động của nông dân, phấn đấu đưa nông nghiệp nước ta trở
thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa.
24
Đại hội VI của Đảng (12-1986) chỉ rõ: “Chính yêu cầu cấp bách về
lương thực, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của nông nghiệp”.
Thực hiện chủ trương của Đại hội VI về đổi mới kinh tế, trong đó quan
tâm hàng đầu tới đổi mới l nh vực nông nghiệp, nông thôn, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã ra nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm điều chỉnh cơ chế quản lý v mô,
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.
Trong đó, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp, tháng 4-1998 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa VI,
tháng 3-1989) đã đề ra nhiều nội dung quan trọng như: chính sách một giá
nhằm đảm bảo tự do lưu thông, tiêu thụ trên thị trường cả nước; thương mại
hóa vật tư, từng bước xác lập vai trò tự chủ của kinh tế hộ; giải quyết những
vấn đề cấp bách về ruộng đất...
Đổi mới quản lý trên l nh vực nông nghiệp đã đáp ứng đúng tâm tư,
nguyện vọng của đông đảo nông dân, khơi dậy khí thế mới, cổ vũ hàng triệu
nông dân đầu tư, phát triển sản xuất. Sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1986-1991
đã vượt qua những khó khăn và có bước phát triển mới. Sản lượng lương thực
giai đoạn 1986-1991 đã dần vượt qua những khó khăn và có bước phát triển
mới. Sản lượng lương thực năm 1986 đạt 18,3 triệu tấn, năm 1990 tăng lên
21,5 triệu tấn. Cùng với cây lương thực, diện tích và năng suất các cây trồng
khác đều tăng, nhất là cà phê, cao su, dâu tằm. Đã bước đầu hình thành các
vùng sản xuất hàng hóa gắn với xuất khẩu như: lúa gạo vùng Đồng bằng sông
Cửu Long, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ; rau, đậu ở Đồng
bằng Bắc Bộ...Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo với số lượng
1,42 triệu tấn. Cùng vơi gạo, cà phê, cao su, hải sản từng bước thâm nhập thị
trường nhiều nước. Tổng giá trị nông sản xuất khẩu năm 1989 đạt 1 tỷ USD,
năm 1990 đạt 1,14 tỷ USD, chiếm 50% tổng giá trị xuất khẩu cả nước, tăng 5
lần so với năm 1986.
25
Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong nông nghiệp được điều chỉnh một
bước rất quan trọng, từ chỗ tập thể hóa triệt để máy móc, trâu bò, nông cụ đến
thừa nhận quyền sở hữu của các hộ xã viên. Nhờ đó, nông dân đã tích cực
mua thêm máy móc, trâu bò...hoặc nhận hóa giá tư liệu sản xuất từ các hợp
tác xã.
Tại hội nghị Trung ương 5 (khóa VII), Đảng ta nêu rõ cần phải tiếp tục
đổi mới và phát triển mạnh mẽ kinh tế-xã hội nông thôn, quyết định một số
vấn đề quan trọng: Một là, đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn
theo hướng sản xuất hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu. Hai là,
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông
nghiệp và kinh tế nông thôn theo định hướng xã hội chủ ngh a. Ba là, sản xuất
gắn với thị trường, mở rộng sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ
nông sản. Bốn là, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, nâng
cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trung ương Đảng đã đề ra phương hướng, giải
pháp cụ thể như: đổi mới cơ cấu kinh tế nong nghiệp, cải tiến cơ cấu kinh tế
nông thôn; kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; thực
hiện chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ nông
dân.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) khẳng định: “Thực hiện tốt chính
sách giao đất, giao rừng; ngăn chặn và khắc phục tình trạng nông dân không
có ruộng đất sản xuất; giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, các dịch vụ cung ứng vật tư
nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm, phát triển công nghiệp chế biến và các nghề
tiểu thủ công; phát triển tín dụng nông thôn, mở rộng cho nông dân nghèo vay
vốn sản xuất, chống nạn cho vay nặng lãi, mua lúa non, buôn bán trái phép
26
ruộng đất; giúp đỡ nông dân phát triển các hình thức kinh tế hợp tác; có chính
sách bảo hộ sản xuất cho nông sản.
Sau Đại hội VIII, Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra chủ trương, chính
sách khuyến khích phát triển hợp tác xã; ban hành quy chế quản lý và sử dụng
vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước cho các dự án đóng mới tàu đánh
bắt cá; đẩy mạnh hoàn thành việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nông nghiệp. Nghị quyết Trung ương VI (lần 1) khóa VIII chỉ rõ:
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tích tựu và tập trung đất đai là hiện
tượng sẽ di n ra trong quá trình phát triển nông nghiệp lên sản xuất hàng hóa
lớn. Việc tích tựu và tập trung phải được kiểm soát, quản lý chặt chẽ của Nhà
nước, không để quá trình này di n ra tự phát làm cho người nông dân mất
ruộng đất mà không có việc làm; tăng thời điểm giao đất nông nghiệp cho hộ
gia đình, cá nhân để nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất...
Bước sang thế kỷ XXI, nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển theo
hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2001
tăng 4,1%, năm 2002 tăng 5,4. Sản lượng lương thực năm 2001 đạt 34 triệu
tấn, năm 2002 đạt 36,67 triệu tấn. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển
dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông
nghiệp.
Ngày 3-1-2003, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cùng
Hội Nông dân Việt Nam, Tổng Liên doàn Lao động Việt Nam, Liên Hiệp các
hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký kết
cam kết liên tịch nhằm phối hợp để phục vụ sản xuất của nông dân, gọi tắt là
liên kết “4 nhà” (Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, nông dân).
Hội nghị Trung ương VII (khóa IX) của Đảng chỉ rõ: “Nhà nước có
những điều tiết, hỗ trợ, tổ chức tốt việc tiêu thụ nông sản cho nông dân; đưa
công nghệ sản xuất tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn; có chính sách điều
27
chỉnh hợp lý việc sử dụng quỹ đất, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa thúc
đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; nâng cao hiệu quả ử dụng đất; có
chính sách khuyến khích nông dân chuyển sang các nghề phi nông nghiệp;
thúc đẩy khôi phục làng nghề, phát triển ngành nghề mới ở nông thôn; mở
rộng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với nông dân hết tuổi lao động;
mở rộng các loại hình đào tạo, chuyển giao khoa học kỹ thuật và công nghệ
thông qua các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, các trung
tâm học tập cộng đồng và các điển hình nông dân sản xuất kinh doanh giỏi”.
1.4. Vấn đề đặt ra cho công tác truyền thông quảng bá nông sản
- ngh a của công tác truyền thông quảng bá
Truyền thông có vai trò quan trọng và đóng góp vào sự phát triển của
kinh tế-xã hội. Trong những năm qua, xuất khẩu nông sản của nước ta đã tăng
cả về số lượng lẫn giá trị, là ngành duy nhất có đóng góp giá trị thặng dư cho
cán cân thương mại nước nhà. Trong đó, vai trò của báo chí đóng góp là
không nhỏ trong việc tuyên truyền, đẩy mạnh các chủ trương, đường lối của
Đảng; quan điểm của các địa phương và thực trạng còn tồn tại của các mặt
hàng nông sản hiện nay.
Trong thời gian qua, báo chí cả nước nói chung và báo chí Tiền Giang
nói riêng đã tập trung tuyên truyền đậm nét về việc quy hoạch sản xuất, chú
trọng nông sản chủ lực; thông tin về cơ chế tích tựu ruộng đất để khuyến
khích doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn đầu tư, liên kết với nông
dân trong chuỗi giá trị nông sản chủ lực trồng tập trung từ sản xuất đến thu
mua, bảo quản, chế biến, xuất khẩu; phản ánh vấn đề giống cây trồng, kỹ
thuật canh tác; làm bật nổi các vấn đề có liên quan đến công nghệ sau thu
hoạch nhằm khuyến khích doanh nghiệp tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị,
dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại và đồng bộ. Đa dạng hóa sản phẩm
28
chế biến từ nông sản, tăng cường chế biến sâu như: quả đông lạnh, đóng hộp,
chiên, sấy, nước quả tự nhiên, nước quả cô đặc, đông lạnh.
Bên cạnh đó, báo chí cũng tuyên truyền quảng bá lợi ích, công dụng tốt
của trái cây đối với sức khỏe con người nhằm kích thích thị hiếu tiêu dùng,
tăng dung lượng, phát triển mở rộng thị trường; kiến nghị, đề xuất thông qua
những bài viết của mình về việc xây dựng chương trình xúc tiến thương mại,
xúc tiến xuất khẩu thiết thực, hiệu quả, phù hợp với định hướng và nhu cầu
thị trường; vận động doanh nghiệp tích cực tham gia cùng các địa phương tiếp
tục quan tâm hoạch định, tổ chức các chương trình quảng bá và xúc tiến
thương mại các mặt hàng nông sản; quan tâm, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp xuất khẩu nông sản tham gia các chương trình xúc tiến thương mại
trọng điểm của quốc gia, của các tỉnh. Tiếp nhận, đăng tải thông tin về hàng
rào kỹ thuật trong thương mại, chọn lọc, chuyển ngữ những thông báo hàng
rào kỹ thuật trong thương mại liên quan đến sản phẩm, thị trường xuất khẩu
nông sản… nhằm giúp cho các doanh nghiệp có thêm thông tin.
- Yêu cầu quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ
Báo chí cần quảng bá thương hiệu nông sản
Thương hiệu hiện được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau. Theo Hiệp
định các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
(TRIPS) của WTO, thương hiệu là bất cứ dấu hiệu nào hoặc dịch vụ của một
doanh nghiệp với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác,
chẳng hạn từ ngữ, kể cả tên cá nhân, chữ, số, hính vẽ và sự kết hợp các màu
sắc cũng như bất kỳ sự kết hợp nào của các yếu tố đó [35, tr.16 và 17].
Theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, thương hiệu là cái tên, một từ ngữ, một
dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hay tổng hợp tất cả yếu tố kể trên để
phân biệt một sản phẩm đó với sản phẩm (dịch vụ) của các đối thủ cạnh tranh.
29
Cũng có quan điểm cho rằng: Thương hiệu là một thuật ngữ để chỉ
chung cho các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ như nhãn hiệu hàng
hóa, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ. Trong cuốn Quản trị
thương hiệu, Fatricia F.Nicolino định ngh a về thương hiệu rất ngắn gọn:
“Thương hiệu là một thực thể xác định, tạo ra những cam kết nhất định về giá
trị” [35, tr.17].
Có thể khẳng định: Truyền thông có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
các mặt hàng nông sản. Sản phẩm đó có khẳng định được thương hiệu, có chỗ
đứng trên thị trường hay không sẽ phụ thuộc rất lớn vào quá trình truyền
thông quảng bá. Ngoài ra, nông dân, nhà khoa học, doanh nghiệp và cả nhà
nước rất cần nhu cầu về thị trường của các loại nông sản. Sản xuất cái gì?
Chất lượng ra sao? Số lượng bao nhiêu? Giá cả? Những vấn đề này, truyền
thông làm tốt sẽ giải quyết được những câu hỏi nói trên...
Thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức về nông sản:
Báo chí cần tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức trong hệ thống
chính trị và người dân về tính tất yếu trong việc phát triển các loại nông sản; xu
hướng tiêu dùng sạch, đảm bảo an toàn thực phẩm, chất lượng cao để tạo sự
chuyển biến về nhận thức và hành động; thay đổi tư duy trong sản xuất nông
nghiệp, chuyển từ phát triển theo số lượng sang phát triển về chất lượng; từng
bước điều chỉnh hành vi tiêu dùng của người dân theo hướng ưu tiên sử dụng các
sản phẩm nông sản có chứng nhận chất lượng, thân thiện với môi trường.
Tuyên truyền để các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục vận động, mời gọi
doanh nghiệp, nông dân tham gia xây dựng và hoàn chỉnh các chuỗi giá trị
sản phẩm nông nghiệp (chuỗi này có sự liên kết giữa nông dân và doanh
nghiệp, từ sản xuất cho đến đầu ra). Từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất
kinh doanh giữa nông dân và doanh nghiệp theo hướng chủ động, tự giác hợp
tác. Liên kết kinh doanh giữa nông dân và doanh nghiệp theo hướng chủ
30
động, tự giác hợp tác liên kết kinh doanh nhằm không ngừng nâng cao khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện đồng bộ các thông tin, truyền thông quảng bá về các sản phẩm
nông nghiệp sản xuất gắn với nâng cao nhận thức của nông dân về hợp tác xã
kiểu mới, về liên kết kinh doanh theo chuỗi; kết hợp giữa du lịch và tham
quan vườn cây ăn trái tuyên truyền, quảng bá chất lượng trái cây miền Tây
Nam Bộ đến với du khách trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh tuyên truyền về tổ chức, quản lý và điều hành lại sản xuất
Báo chí cần tập trung tuyên truyền cho việc quy hoạch và thực hiện tốt
quy hoạch vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung, trên cơ sở lợi thế điều
kiện tự nhiên, thị trường, gắn với quản lý và phát triển nguồn giống; tránh
phát triển chạy theo phong trào dẫn đến tình trạng: “trồng, chặt” gây tốn kém
công sức, chi phí, cũng như hiệu quả sản xuất, chế biến.
Tuyên truyền sâu đậm nhằm giúp cho cơ quan nhà nước thấy được vai
trò quan trọng trong việc phát triển các chủng loại và giống nông sản đặc sản,
chủ lực có lợi thế cạnh tranh và thị trường tiêu thụ ổn định, đồng thời chú
trọng phát triển các chủng loại nông sản có lợi thế phục vụ tiêu thụ nội địa,
góp phần giảm nhập khẩu. Đổi mới toàn diện phương thức phát triển sản xuất
nông sản theo chuỗi ngành hàng, trong đó các doanh nghiệp đóng vai trò chủ
đạo, hình thành và phát triển ổn định các vùng nguyên liệu trọng điểm. Tăng
cường năng lực chế biến, đa dạng hóa sản phẩm, nhất là sản phẩm chế biến
sâu. Áp dụng rộng rãi tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, kịp thời ứng phó điều
kiện thời tiết do biến đổi khí hậu, đảm bảo năng suất, chất lượng và an toàn
vệ sinh thực phẩm; tổ chức thực hiện tốt sản xuất nông sản rải vụ thu hoạch
nhằm giảm thiểu tình trạng “được mùa, mất giá”, “dội chợ”, tạo lợi thế
cạnh tranh. Cải tiến mạnh mẽ và triệt để công tác chỉ đạo kỹ thuật trong sản
xuất theo hướng tập hợp thành các gói công nghệ đồng bộ, có phân cấp độ
31
ứng dụng phù hợp với điều kiện từng vùng và gắn các tổ chức, đơn vị nghiên
cứu khoa học vào chuỗi sản xuất. Củng cố, phát triển thị trường tiêu thụ nội
địa; tăng cường các hoạt động tìm kiếm, quảng bá, xúc tiến xuất khẩu trái cây,
giữ vững và phát triển các thị trường truyền thống; đồng thời mở rộng thị
trường mới, đặc biệt là các thị trường lớn, khó tính.
Truyền thông nhằm giúp các Bộ, ngành, địa phương quan tâm, vào cuộc
quyết liệt để xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các cơ chế chính sách
vào thực tế, kịp thời hỗ trợ thúc đẩy sản xuất.
Tiểu k t chƣơng 1:
Trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập như hiện nay, việc
quảng bá nông sản đến với người tiêu dùng thông qua kênh báo chí là rất cần
thiết nhằm truyền tải thông tin đến với người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Để các mặt hàng nông sản miền Tây Nam Bộ có chỗ đứng vững chắc trên thị
trường thì cần thiết phải xây dựng, tạo dựng được giá trị thương hiệu của nó.
Trong chương 1, tác giả đã kế thừa và phát triển thêm khái niệm về
truyền thông quảng bá nông sản. Đồng thời, tác giả cũng nêu bật những đặc
điểm của nông sản miền Tây Nam Bộ, vai trò và ý ngh a của việc truyền
thông quảng bá đối với nông sản.
Trong chương này, tác giả cũng phân tích vai trò, thế mạnh của báo chí
địa phương trong việc truyền thông, quảng bá nông sản. Trên cơ sở lý luận và
thực ti n, tác giả đã đưa ra những nội dung và phương thức truyền thông trên
báo điện tử và truyền hình của địa phương. Tuy nhiên, việc truyền thông
quảng bá nông sản cũng còn nhiều hạn chế. Vậy, báo chí Tiền Giang đã và
đang làm gì để phát huy vai trò, tác động hiệu quả vào việc quảng bá nông sản
miền Tây Nam Bộ?
32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN
MIỀN TÂY NAM BỘ TRÊN BÁO CHÍ TIỀN GIANG
2.1. Khái quát Báo chí Tiền Giang.
Trên địa bàn tỉnh Tiền Giang hiện có đủ các loại hình báo chí, bao gồm
báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử. Toàn tỉnh có 99 phóng viên, biên
tập viên đủ điều kiện được cấp thẻ nhà báo. Về báo in, Tiền Giang hiện có 1
tờ báo và 2 tạp chí chuyên ngành: Báo Ấp Bắc, cơ quan ngôn luận của Đảng
bộ tỉnh, xuất bản 3 số/tuần; Tạp chí Văn nghệ Tiền Giang của Hội Văn học -
Nghệ thuật tỉnh, ra định kỳ hàng tháng với những nội dung chuyên sâu về văn
học - nghệ thuật trên địa bàn tỉnh; tạp chí Khoa học của Trường Đại học Tiền
Giang, xuất bản định kỳ 2 số/năm, chuyển tải những nội dung chuyên sâu về
l nh vực nghiên cứu khoa học của trường.
Về phát thanh, toàn tỉnh hiện có 1 đài phát thanh cấp tỉnh (thuộc Đài PT-
TH tỉnh Tiền Giang), 11 đài truyền thanh cấp huyện (thuộc Đài Truyền thanh
– Truyền hình huyện), 172 đài truyền thanh cấp xã và trên 720 trạm truyền
thanh ấp, liên ấp. Về báo hình, tỉnh Tiền Giang có 1 Đài PT-TH và 11 Đài
Truyền thanh - Truyền hình cấp huyện. Các đài truyền thanh - truyền hình cấp
huyện hoạt động ổn định với sóng FM có công suất từ 300W đến 500W để
truyền tải thông tin, trong đó có 8/11 đài thu, phát sóng chương trình hàng
ngày bằng máy vi tính.
Về báo điện tử, trên địa bàn tỉnh có Báo Ấp Bắc điện tử và 4 trang thông
tin điện tử của tỉnh (Hội Văn học - Nghệ thuật, Hội Nhà báo, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Điện lực Tiền Giang) đều được cấp giấy phép hoạt
động, góp phần quan trọng trong việc cung cấp thông tin tuyên truyền, phổ
biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
các hoạt động chuyên ngành được triển khai thực hiện trên đia bàn.
33
Theo Báo cáo của Sở Thông tin – Truyền thông năm 2018: “Báo Ấp Bắc,
Đài PT-TH Tiền Giang, Đài Truyền thanh - Truyền hình các huyện, Thị xã Gò
Công và thành phố Mỹ Tho hoạt động ổn định, bám sát tuyên truyền nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng tại địa phương”.
- Báo Ấp Bắc điện tử
Báo Ấp Bắc điện tử đi vào hoạt động kể từ đầu tháng 5-2012. Tên phần
mềm truy cập http://baoapbac.vn hoặc http://baotiengiang.vn. Báo Ấp Bắc có
trang tiếng Việt và trang tiếng Anh. Mỗi ngày, báo có lượng truy cập 10.000-
20.000 lượt.
Báo Ấp Bắc điện tử có chức năng thông tin, tuyên truyền trung thực,
khách quan, chính xác về mọi mặt tình hình địa phương, trong nước và quốc
tế, đảm bảo lợi ích đất nước, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân.
Phát hiện, phản ánh, biểu dương điển hình, nhân tố mới, tham gia đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, các hành vi vi phạm pháp luật, góp
phần nhân rộng cái tốt, ngăn ngừa xóa bỏ cái xấu; xây dựng xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Khai thác thông tin lành mạnh, bổ ích, góp phần thỏa mãn nhu cầu giải
trí, nâng cao kiến thức trong nhân dân, mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau trong
nhân dân ở địa phương và cộng đồng các dân tộc trong nước và quốc tế.
Tổ chức, tham gia tổ chức các hoạt động xã hội từ thiện, thể dục thể thao
và các hoạt động khác nhằm nâng cao uy tín của báo và góp phần thúc đẩy các
hoạt động xã hội.
Báo Ấp Bắc có quyền khước từ thực hiện các hoạt động không phù hợp,
trái với pháp luật, vi phạm Luật Báo chí, vi phạm quy định về đạo đức nghề
nghiệp trong hoạt động báo chí.
Giao diện Báo Ấp Bắc điện tử được đông đảo bạn đọc đánh giá là thân
thiện với người dùng, d dàng theo dõi cập nhật tin tức trên nhiều l nh vực,
34
màu sắc hài hòa. Báo có 11 chuyên mục như: chính trị, xã hội, kinh tế, pháp
luật, văn hóa-nghệ thuật, thể thao, giáo dục, đối ngoại, quốc tế, khoa học, sức
khỏe-đời sống. Ngoài ra, báo điện tử còn có những mục nội dung, tiện ích cung
cấp độc giả những thông tin hữu ích, tăng cường tương tác đa chiều như: mục
học tập và làm theo tấm gương đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, bạn đọc, sự
kiện-bình luận, đất nước con người, cải cách hành chính, phóng sự-ký sự, tin
nổi bật, liên hệ tòa soạn. Bên cạnh đó, Báo Ấp Bắc điện tử còn phát truyền hình
trực tuyến với kênh khám phá Tiền Giang, video clip-khoảnh khắc.
Tin tức trên Báo Ấp Bắc điện tử được cập nhật thường xuyên, liên tục
không kể ngày nghỉ, ngày l , tết. Tất cả những nội dung này sẽ đem đến cho
độc giả thông tin thời sự trên địa bàn tỉnh Tiền Giang và thông tin tình hình
kinh tế-chính trị trong nước và quốc tế.
Báo đã trở thành một kênh thông tin chính thống và uy tín trong việc
cung cấp thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tuyên
truyền phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
đến đông đảo độc giả trong và ngoài nước.
- Đài PT-TH Tiền Giang
Đài PT-TH Tiền Giang cũng là một trong hai kênh thông tin có vai trò to
lớn trong việc phục vụ công tác quản lý, lãnh đạo của tỉnh trong công cuộc
đổi mới kinh tế - đổi mới chính trị ở địa phương. Khác với Báo Ấp Bắc, Đài
PT-TH Tiền Giang ra đời hơi muộn nhưng cũng đã đóng góp những thành tựu
rất to lớn trong sự nghiệp phát triển của tỉnh Tiền Giang.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc phát triển hệ thống phát
thanh được xúc tiến khẩn trương. Năm 1978, Tiền Giang được Trung ương
điều động cho một máy phát thanh AM 1kw. Sau một thời gian chuẩn bị, đầu
năm 1979 tiến hành phát thử nghiệm và đến ngày 16/9/1979 chính thức phát
sóng phục vụ nhân dân tỉnh nhà. Trụ sở làm việc của đài được bố trí tại ngôi
35
nhà số 125 Lê Thị Hồng Gấm, TP. Mỹ Tho. Bấy giờ do cơ sở vật chất còn rất
thiếu thốn, phòng ốc tạm bợ, máy móc lạc hậu nên thời lượng phát sóng chỉ
có 2 giờ/ngày chủ yếu chuyển tải những thông tin cần thiết phục vụ đời sống
người dân như dự báo thời tiết, phòng chống thiên tai bão lụt, diệt trừ sâu rầy
phá hoại mùa màng, khuyến khích nông dân sản xuất, nuôi trồng thủy sản, cải
tạo vườn tạp…
Năm 1994, Ban Giám đốc Đài PT-TH Tiền Giang đã xin chủ trương và
được Tỉnh ủy, UBND tỉnh cho phép lập dự án đầu tư xây dựng Đài PT-TH Tiền
Giang hoàn chỉnh từ khâu sản xuất chương trình đến truyền dẫn phát sóng truyền
hình song song với sóng phát thanh hiện có. Tối ngày 19/12/1996, Đài PT-TH
Tiền Giang đã có buổi phát sóng truyền hình đầu tiên.
Sóng Đài PT-TH Tiền Giang đã phát trên vệ tinh Vinasat, truyền hình
cáp HVTV, SCTV, cáp Đà Lạt, Cáp Sông Thu - Đà Nẵng, cáp Tây Đô - Cần
Thơ, VOV và truyền hình Internet (MyTV,Viettel, FPT). Để mở rộng phủ
sóng, Đài đã đưa sóng truyền hình lên 2 mạng truyền hình cáp có số thuê bao
lớn nhất của cả nước, đó là HCTV và SCTV. Ngoài ra, Đài cũng đã hòa
mạng cáp của Đài Truyền hình V nh Long và cáp của mạng MyTV. Hiện
nay, phần lớn từ khâu sản xuất chương trình đến phát sóng đều được vi tính
hóa. Ngoài ra, Đài PT-TH Tiền Giang cũng đã tổ chức sản xuất một số
chương trình mới như “Cây lành trái ngọt”, “Bạn nhà nông”, giải thể thao
gắn với tên gọi Cúp truyền hình Tiền Giang...
Đài PT-TH Tiền Giang là cơ quan báo chí trực thuộc UBND tỉnh Tiền
Giang; là công cụ lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền địa phương và là
di n đàn của nhân dân. Đài PT-TH Tiền Giang là đơn vị sự nghiệp có thu, có
chức năng thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, các chương trình giáo dục, giải trí phục vụ nhu cầu
36
thông tin và giải trí của nhân dân; tham mưu giúp UBND tỉnh Tiền Giang quản
lý nhà nước về l nh vực phát thanh - truyền hình trên địa bàn tỉnh.
2.2. Thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ
tr n Báo Ấp Bắc điện tử Đài PT-TH Tiền Giang
- Số lư ng, tần suất xuất hiện
Báo chí truyền tải thông tin thường xuyên, cố định và thời sự sẽ đáp ứng
được nhu cầu tiếp nhận của công chúng. Trong thời gian quan, báo chí Tiền
Giang đã sắp xếp và tổ chức được các chuyên trang, chuyên mục ổn định, phù
hợp với tôn chỉ mục đích và đối tượng công chúng mà tờ báo hay cơ quan báo
chí đó muốn hướng tới. Trên Báo Ấp Bắc điện tử có trang ổn định tuyên
truyền quảng bá sản phẩm nông sản như trang kinh tế, nông nghiệp-nông dân-
nông thôn. Đối với Đài PT-TH Tiền Giang có chuyên đề, chuyên mục: cây
lành trái ngọt, bạn nhà nông, bản tin thị trường, nông nghiệp và phát triển
nông thôn…
Qua khảo sát, trong năm 2018, Báo Ấp Bắc điện tử đã đăng tải 19 tin,
bài có liên quan đến cây ăn trái, 10 đề tài có liên quan đến rau màu và 23
thông tin nói về tình hình lúa gạo khu vực miền Tây Nam Bộ. Như vậy, trong
năm 2018, Báo Ấp Bắc điện tử đã đăng tải 52 tin, bài về nông sản.
37
Riêng Đài PT-TH Tiền Giang có chuyên mục cây lành trái ngọt được
phát 2 kỳ/tháng, vào tuần đầu và tuần cận cuối của tháng; chương trình tọa
đàm truyền hình trực tiếp bạn nhà nông cũng được phát 2 kỳ/tháng, vào tuần
cận giữa và tuần cuối của tháng; bản tin thị trường thông báo và dự báo giá cả
nông sản được phát hàng ngày; chương trình thời sự phát 23 tin, bài; phóng sự
21 bài. Như vậy, năm 2018, Đài PT-TH Tiền Giang đã phát 24 chuyên mục
cây lành trái ngọt, 24 chương trình tọa đàm truyền hình trực tiếp bạn nhà
nông, 365 bản tin thị trường; thời sự có 23 tin, bài; phóng sự 21 bài.
Báo Ấp Bắc điện tử không giới hạn nội dung và hình ảnh. Tuy nhiên, tần
suất xuất hiện các vấn đề về nông sản rất ít, thời gian đăng tải cũng rời rạc và
cách xa. Tháng 1 đăng 5 bài, tháng 2 đăng 3 bài, tháng 3 đăng 7 bài, tháng 4
đăng 5 bài, tháng 5 đăng 3 bài, tháng 6 đăng 3 bài, tháng 7 đăng 5 bài, tháng 8
đăng 3 bài, tháng 9 đăng 2 bài, tháng 10 đăng 5 bài, tháng 11 đăng 4 bài và
tháng 12 đăng 4 bài.
38
Nếu nhìn vào bảng đồ hình cột, chúng ta d dàng nhận ra số lượng bài
các tháng trong năm của Báo Ấp Bắc điện tử quá ít và không đều nhau. Ngày
5-1-2018, báo đăng bài: Thực phẩm “sạch” còn chờ tâm lý người tiêu dùng thì
đến tận ngày 15-1-2018 mới tiếp tục có bài huyện Tân Phước chú trọng phát
triển cây trồng chủ lực. Hay ngày 28-3-2018 có bài làm giàu từ trồng cây ăn
trái để làm tốt công tác xã hội thì đến ngày 26-4-2018 mới tiếp tục đăng bài
có nên tăng nhanh diện tích trồng thanh long?. Việc, các tin, bài xuất hiện quá
ít và cách xa nhau đã không làm truyền thông liên tục, không gây ấn tượng
cho người xem.
Đối với Đài PT-TH Tiền Giang, chuyên mục cây lành trái ngọt được
phát cũng khá rời rạc. Mặc dù, Ban Giám đốc Đài cho phát 2 kỳ/tháng nhưng
số lượng như vậy là quá ít và một số chủ đề cũng chưa liên quan đến vấn đề
nông sản. Cụ thể, chuyên mục Cây lành trái ngọt phát ngày 20-12-2018 có nội
dung mô hình trồng cây kiểng. Chương trình tọa đàm truyền hình trực tiếp
bạn nhà nông cũng xuất hiện đều 2 kỳ/tháng. Song, nội dung chương trình
cũng chưa được người xem đón nhận nhiều do các đơn vị tài trợ tập trung
quảng bá nhiều hình ảnh về sản phẩm phân, thuốc của mình mà chưa tập
trung vào trồng cây gì? Kỹ thuật ra sao? Bán cho ai? Giá cả bao nhiêu? Lợi
39
nhuận thu được của nông dân sau khi bán sản phẩm? Bản tin dự báo thị
trường xuất hiện đều đặn mỗi ngày nhưng nhiều bản tin dự báo chưa chính
xác hoặc chưa xác với thực tế khiến cho người xem tham khảo là chính.
- Những nội dung truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ
trên Báo Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang
+ Giới thiệu các loại sản phẩm nông sản miền Tây Nam Bộ
Lúa, gạo:
Lúa là cây trồng bản địa của Việt Nam. Cây lúa có thể sinh sống và chịu
được nhiều điều kiện môi trường khắc nghiệt mà đa số các cây lương thực,
cây thực phẩm khác không thể chịu đựng được như đất ngập nước liên tục
trong nhiều tháng, đất nhi m mặn, phèn, chua…Vì vậy, lúa là cây tiên phong
trong khai khẩn đất hoang trên thế giới. Vào mùa mưa ở những vùng có khí
hậu nhiệt đới gió mùa, ngoài cây lúa có lẽ không một cây nào khác có thể
sống trong nước để cung cấp đủ lương thực cho những vùng dân cư đông đúc
ở châu Á. Đặc biệt hơn, lúa là cây trồng duy nhất có thể trồng liên tục hang
vạn năm trên cùng một thửa ruộng mà năng suất không giảm sút nhờ những
biến đổi sinh hóa của đất ngập nước bao đời nay.
Năm 2018, diện tích trồng lúa toàn vùng miền Tây Nam Bộ khoảng 4,3
triệu ha (chiếm 55,1% diện tích trồng lúa cả nước), với sản lượng 24,2 triệu
tấn (chiếm 55,5 sản lượng lúa quốc gia) và kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 2,7
tỷ USD qua 45 quốc gia, một số thị trường chính là: Trung Quốc, Philippines,
Singapore, Gana... Vùng này có 558 doanh nghiệp xay xát và chế biến gạo
quy mô công nghiệp, chiếm gần 96% so với cả nước; cơ sở có công suất dưới
10.000 tấn lúa/năm, chiếm khoảng 38,5%; cơ sở có công suất trên 10.000 tấn
lúa/năm, chiếm khoảng 61,5%.
Báo Ấp Bắc điện tử trong năm 2018 đã tuyên truyền 23 tin, bài có liên
quan đến vấn đề lúa gạo. Trong đó, nhiều tin, bài đã tạo được điểm nhấn quan
40
trọng, giúp công tác truyền thông quảng bá lúa gạo tạo được hiệu ứng mạnh
mã. Cũ thể, ngày 19-12-2018 có bài: “Logo thương hiệu gạo Việt Nam: Cơ
hội cho người làm ra hạt gạo?” Trong đó, tác giả có nói: “Lễ công bố thương
hiệu gạo Việt Nam đư c tổ chức nằm trong khuôn khổ Festival lúa gạo lần
thứ III tại tỉnh Long An, khai mạc vào tối 18-12 và kéo dài đến hết ngày 24-
12. Đây đư c xem là sự kiện mang lại nhiều ngh a nhất đối với người làm
ra hạt gạo của Đồng bằng sông Cửu Long. Logo thương hiệu gạo Việt Nam
mở ra một chương mới cho hành trình thực hiện chiến lư c của ngành Nông
nghiệp nói chung và lúa-gạo nước ta nói riêng trên con đường khẳng định giá
trị thương hiệu gạo Việt Nam đối với các nước có thế mạnh về nông nghiệp
lúa-gạo trong khu vực và trên thế giới”.
Nội dung bài viết một lần nữa khẳng định: logo thương hiệu gạo Việt
Nam là một tín hiệu sáng để mở ra một chặng đường mới. Điều này cũng đã
hiện thực hóa Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với mong
muốn hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong sản xuất, thương mại hóa lúa-gạo.
Trong năm 2018, Đài PT-TH Tiền Giang có 47 tin, bài phát về đề tài lúa gạo.
Cụ thể, ngày 23-2-2018 có nội dung: Khởi sắc vụ đông xuân. Nội dung có
đoạn: “Sau tết thật vui! Tôi vừa thu hoạch 5 công lúa đông xuân trồng giống
lúa thơm, đư c thương lái mua 7.200 đồng/kg. Đây là mức giá cao nhất tôi
bán đư c trong nhiều năm qua khi làm lúa đông xuân”-chị Sáu Bảnh, phường
V nh Tường, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang tươi cười cho biết.
Từ những yếu tố trên, lúa gạo có vai trò rất lớn đối với mỗi con người
chúng ta. Một thời gian dài, hệ thống chính trị của nước ta rất tâm huyết trong
việc xây dựng thương hiệu gạo của Việt Nam nhằm khẳng định được vị thế
của mình trên thương trường xuất khẩu gạo của thế giới. Nhiều loại gạo đã có
được thương hiệu như: gạo nàng thơm chợ Đào, gạo đặc sản Hạt Ngọc Trời,
41
gạo ST 25 Sóc Trăng. Tuy nhiên, hầu hết các thương hiệu gạo này đều do
doanh nghiệp tự xây dựng và làm công tác truyền thông để khẳng định thương
hiệu của mình. Song, thương hiệu gạo ấy chỉ có chỗ đứng trên thị trường Việt
Nam. Đến nay, hạt gạo xuất khẩu của Việt Nam được thế giới biết đến chỉ là
loại gạo trắng bình thường.
Có thể nói, miền Tây Nam Bộ là vựa lúa của cả nước, hàng năm đóng
góp trên 50% sản lượng lúa và trên 90% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả
nước. Cây lúa hiện nay và trong vài thập niên tới vẫn là cây trồng chủ lực ở
miền Tây Nam Bộ ví nó là cây trồng truyền thống, rất phù hợp với điều kiện
tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng và chính sách bảo đảm an ninh lương thực
của Việt Nam.
Cây ăn quả:
Miền Tây Nam Bộ được mệnh danh là thủ phủ cây ăn quả của cả nước.
Bởi, diện tích đạt tới 307.000 ha, chiếm gần 40% diện tích của cả nước. Hàng
năm, vùng này cung cấp cho thị trường khoảng 5 triệu tấn trái. Các tỉnh, thành
có diện tích vườn cây ăn trái nhiều là: Tiền Giang, V nh Long, Bến Tre, Cần
Thơ, Hậu Giang… Các giống cây trồng đặc sản đã có thương hiệu trên thị
trường như: xoài cát Hòa Lộc, vú sữa lò rèn V nh Kim, sầu riêng Chín Hóa,
quýt hồng Đồng Tháp…
Trong thời gian gần đây, miền Tây Nam Bộ không chỉ là vùng trồng cây
ăn trái chủ lực mà còn đóng góp vai trò quan trọng trong cung cấp trái cây
nguyên liệu cho xuất khẩu tươi và chế biến. Các loại cây ăn trái như xoài,
nhãn, thanh long, bưởi, chuối, khóm…được thị trường ưa chuộng, kể cả xuất
khẩu. Trái xoài (trong đó có xoài cát Hòa Lộc, cát Chu) được thị trường Nhật
Bản, Hàn Quốc ưa thích; thanh long, nhãn, vú sữa, chôm chôm đã xuất khẩu
sang Hoa Kỳ với sản lượng gia tăng hàng năm; bưởi da xanh, bưởi 5 Roi
được thị trường châu Á có nhu cầu nhập khẩu dạng tươi. Riêng thanh long là
42
mặt hàng trái xuất khẩu chủ lực, với khoảng 1,1 triệu USD năm 2018. Trong
năm 2018, 13 thị trường xuất khẩu lớn, có giá trị trên 25 triệu USD, Trung
Quốc là thị trường lớn nhất, chiếm 73,1% thị phần; còn lại là Mỹ, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Hà Lan, Malaisia, Úc, UAE.
Năm 2018, Đài PT-TH Tiền Giang đã phát sóng 34 tin, bài có liên quan
đến vấn đề cây ăn quả. Trong đó, chuyên mục kinh tế trên Đài PT-TH Tiền
Giang phát ngày 12-3-2018 với chủ đề: “ĐBSCL chuyển đổi 118.290 ha cây
trồng trên đất lúa”. Trong đó, nội dung được chú ý: “Trong năm 2018, ngành
Nông nghiệp đề ra kế hoạch chuyển đổi 118.290 ha đất trồng lúa kém hiệu
quả chuyển sang trồng cây ăn trái và rau màu đặc sản. Bởi, bưởi Năm Roi
đạt hơn 667 triệu đồng/ha/năm, nhãn lãi 646 triệu đồng/ha/năm, xoài lãi 445
triệu đồng/ha/năm…cao gấp nhiều lần trồng lúa”.
Còn Báo Ấp Bắc điện tử đã có 19 tin, bài viết về cây ăn quả. Trong đó,
nhiều bài mang tầm khu vực và có tầm ảnh hưởng lớn đến việc truyền thông
quảng bá nông sản miền Tây. Cụ thể, ngày 7-10-2018 có đề tài: Chuẩn bị thật
kỹ cho trái vú sữa xuất đi Hoa Kỳ. Trong bài này có nội dùng: “Rút kinh
nghiệm năm đầu tiên xuất khẩu vú sữa đi Hoa Kỳ, năm nay, UBND tỉnh Tiền
Giang đặc biệt quan tâm đến vấn đề này nhằm tạo thương hiệu cho trái vú
sữa…Lãnh đạo tỉnh và ngành chuyên môn thường xuyên khảo sát vùng trồng
đư c cấp mà code xuất khẩu, công tác chuẩn bị của nhà vườn và kế hoạch
của các doanh nghiệp thu mua”.
Như vậy, miền Tây Nam Bộ là nơi có truyền thống lâu đời về trồng cây
ăn trái, có điều kiện thuận lợi về tài nguyên và nước, cơ cấu chủng loại trái
cây chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hóa, diện tích các loại cây chủ lực
đều tăng, việc áp dụng tiến bộ khoc học kỹ thuật trong sản xuất, chế biến, bảo
quản ngày càng cao. Nhiều loại cây đã có thương hiệu và khẳng định được vị
thế của mình trên thị trường trong và ngoài nước như: xoài cát Hòa Lộc, vú
43
sữa Lò rèn V nh Kim, khóm Tân Phước, thanh long Chợ Gạo, sầu riêng Ngũ
Hiệp, sầu riêng Cai Lậy, sơ ri Gò Công, mãng cầu xiêm Tân Phú Đông, bưởi
long Cổ Cò, trong đó, thanh long Chợ Gạo, khóm Tân Phước, sầu riêng Ngũ
Hiệp và sầu riêng Cai Lậy có vùng chuyên canh, với diện tích và sản lượng
lớn, có khả năng cung ứng hàng hóa với số lượng lớn cho tiêu thụ tươi, chế
biến và xuất khẩu. Việc áp dụng quy trình thực hành nông nghiệp tốt (GAP)
đã và đang được áp dụng trong sản xuất thanh long Chợ Gạo, khóm Tân
Phước, xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò rèn V nh Kim…
Rau màu:
Rau màu là một trong những cây trồng hàng hóa của các tỉnh, thành
miền Tây Nam Bộ. Hiện, diện tích đạt khoảng 246.000 ha, sản lượng đạt trên
4 triệu tấn, chiếm 30% diện tích trồng rau của cả nước. Một số địa phương có
diện tích trồng rau màu lớn là: Tiền Giang khoảng 50.000 ha, Sóc Trăng gần
38.000 ha, An Giang khoảng 37.400 ha…
Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành của khu vực này đều có dự án xây dựng
các phương tiện phục vụ sản xuất theo hướng nông nghiệp công nghệ cao
như: sản xuất trong nhà lưới chống côn trùng, mái lưới che hạn chế tác hại
của các yếu tố thời tiết bất lợi, trồng rau không cần đất, đầu tư hệ thống
tưới…Hướng sản phẩm đầu ra đều được chứng nhận và cấp chứng chỉ đảm
bảo đạt tiêu chuẩn an toàn theo quy định của VietGAP. Tuy nhiên, hiện nay,
đầu ra của sản phẩm rau an toàn gặp khó do chứng nhận còn chung chung,
chứ chưa thiết lập nhãn hiệu (logo) gắn liền với sản phẩm khi được tiêu thụ
trên thị trường. Riêng về mặt hình dạng nhận diện sản phẩm rau an toàn
VietGAP cũng tương tự như những sản phẩm rau khác trên thị trường nên
chưa có cơ sở để chứng minh với người tiêu dùng tin tưởng vào rau an toàn.
Do đó , người sản xuất rau an toàn còn chịu cảnh bán với giá như các loại rau
sản xuất theo kiểu truyền thống.
44
Năm 2018, Báo Ấp Bắc điện tử có 10 tin, bài viết về rau màu. Cụ thể,
ngày 25-4-2018 ở mục kinh tế có bài: Đẩy mạnh chuyển đổi cây trồng phù hợp
theo từng vùng. Trong đó, tác giả có viết: “Hiện tại, các ngành chức năng
huyện Gò Công Tây đang chú trọng phát triển các loại rau màu trên nền đất
lúa. Trong quá trình canh tác, cán bộ kỹ thuật thường xuyên tập huấn, hướng
dẫn nông dân canh tác theo quy trình an toàn và hỗ tr tìm kiếm thị trường để
người dân trồng rau màu có đầu ra ổn định”.
Đài PT-TH Tiền Giang đã phát 14 tin, bài có liên quan đến vấn đề rau
màu. Cụ thể, chuyên mục kinh tế trên Đài PT-TH Tiền Giang phát ngày 6-2-
2018 có chủ đề: Tiền Giang xuống giống gần 9.500 ha rau màu sau Tết. Tác
giả bài viết đề cập: “Sau khi thu hoạch thắng l i vụ rau màu phục vụ Tết
Nguyên đán Mậu Tuất 2018, từ đầu tháng giêng âm lịch đến nay, nông dân
tỉnh Tiền Giang tiếp tục xuống giống vụ rau màu mới nhằm phục vụ nhu cầu
người tiêu dùng. Một số loại rau màu đư c trồng để tiêu thụ trong mùa nắng
nóng như: dưa leo, cà chua, đậu que, khổ qua…”.
Để đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ rau của người dân ngày càng tăng,
ngành chức năng của các tỉnh, thành miền Tây Nam Bộ đã quan tâm nhiều
hơn, đầu tư phát triển và hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung,
chuyên canh với mô hình liên kết, tổ chức lại sản xuất theo chuỗi từ canh tác,
sơ chế, chế biến đến tiêu thụ đối với hàng hóa nông sản. Hình thành và phát
triển các mô hình kinh tế tập thể như: tổ hợp tác, hợp tác xã đảm bảo hiệu quả
và phát triển bền vững để liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ trên cơ
sở phát huy thế mạnh từng vùng kinh tế, tạo động lực phát triển bền vững,
liên kết phát triển kinh tế-đô thị của mỗi vùng gắn với mục tiêu, định hướng
phát triển kinh tế-xã hội chung của tỉnh.
45
+ Thông tin, dự báo thị trường nông sản
Việt Nam là quốc gia có lợi thế trong việc xuất khẩu các mặt hàng nông
sản như: lúa gạo, trái cây, rau màu… Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, việc dự
báo thị trường rất quan trọng và có ý ngh a rất lớn đối với các doanh nghiệp
và nông dân trong việc hoạch định, điều chỉnh các chiến lược phát triển sản
xuất, kinh doanh. Thực tế cho thấy, khâu đầu tiên cho công tác phát triển
thương mại là thông tin thị trường, đặc biệt là dự báo.
Đài PT-TH Tiền Giang ngày 23-5-2018 có phát phóng sự: Cảnh báo phát
triển nhanh diện tích trồng mít. Trong đó, tác giả có dự báo: “Hiện nay, các
địa phương khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như: Tiền Giang, V nh Long,
Cần Thơ, Hậu Giang đã phát triển rất nhanh về diện tích trồng mít. Trong đó,
nhiều diện tích chuyển đổi tự phát trên nền đất lúa. Việc, phát triển quá
nhanh về số lư ng và sản lư ng có nguy cơ cung vư t cầu, có nguy cơ xảy ra
tình trạng “dội ch ” khi thị trường nhập khẩu hạn chế thu mua”.
Để vận hành nền kinh tế trong cơ chế thị trường, đối với cấp quản lý nhà
nước, thông tin dự báo giúp cho việc hình thành một chiến lược đầu tư hiệu
quả cho công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở hạ tầng, tổ chức sản
xuất, giúp hình thành các chính sách thích hợp để bảo vệ, hỗ trợ sản xuất
trong nước. Đối với người sản xuất, kinh doanh, dự báo thị trường giúp đưa ra
quyết định hợp lý về đầu tư tổ chức sản xuất, kinh doanh, chọn lựa thị trường.
Báo Ấp Bắc ngày 26-4-2018 có dự báo trong bài: Có nên tăng nhanh
diện tích trồng thanh long. Trong đó, tác giả đã làm bật nổi vấn đề: “Khuyến
cáo không nên tăng nhanh diện tích thanh long do yếu tố thị trường tới đây sẽ
bất ổn vì phía Trung Quốc, nơi nhập khẩu chính sẽ hạn chế nhập khẩu thanh
long Việt Nam đến mức thấp nhất. Mặt khác, thanh long xuất sang thị trường
mới như Ấn Độ và các thị trường khó tính Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Hoa
46
Kỳ…cũng như tiêu dùng trong nước và công nghiệp chế biến tăng trưởng
không cao”.
Quả thật, với diện tích tăng nhanh trong thời gian qua tại các tỉnh, thành
khu vực miền Tây Nam Bộ đã khiến dội hàng, rớt giá. Cung vượt cầu đã
khiến trái thanh long phải bán tràn lan ngoài các tuyến đường.
+ Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sản xuất nông sản theo tiêu
chuẩn quốc gia, quốc tế
Khoa học kỹ thuật là chìa khóa để tăng năng suất, chất lượng và giá trị
nông sản. Điều đó càng ý ngh a hơn khi nước ta hội nhập thị trường quốc tế,
sự cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu trở nên khốc liệt hơn. Chính vì vậy,
việc tuyên truyền của các cơ quan truyền thông giúp cho Nhà nước, nhà khoa
học, nhà doanh nghiệp và nông dân nhận thức được việc đưa khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, áp dụng quy trình theo tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế như
VietGAP, GlobalGAP có ý ngh a “sống còn” với từng loại nông sản.
Chuyên mục Cây lành trái ngọt phát ngày 28-2-2018 của Đài PT-TH
Tiền Giang có chủ đề: Vú sữa Hữu Đạo. Trong đó, tác giả Văn Phấn có nói:
“Tỉnh Tiền Giang bên cạnh chú trọng phát triển nhanh về diện tích và sản
lư ng thì việc tập trung đầu tư khoa học kỹ thuật cho nông sản thông qua quy
trình VietGAP, GlobalGAP, cải thiện chất lư ng giống, nâng cao năng suất,
tăng thu nhập cho nông dân. Trong đó, trái vú sữa đư c tập trung đầu tư, bởi,
trái vú sữa đã xuất khẩu vào thị trường khó tính như Hoa Kỳ”.
Trong giai đoạn hội nhập, chất lượng được đặt lên hàng đầu. Việc trái vú
sữa có mặt tại thị trường Hoa Kỳ như đã chứng minh cho việc áp dụng quy
trình kỹ thuật tiên tiến vào quá trình thâm canh sản xuất.
Báo Ấp Bắc điện tử có bài: “Hướng đến vùng chuyên canh nông sản an
toàn” đăng ngày 20-4-2018 có nói: “Toàn tỉnh Tiền Giang có trên 5.000 ha
thanh long, sản lư ng gần 60.000 tấn/năm và tập trung tại 4 huyện: Ch Gạo,
47
Gò Công Tây, Gò Công Đông, Tân Phước. Năm 2017, UBND tỉnh phê duyệt về
việc đăng k sản xuất thanh long theo hướng bền vững (GAP) và ngành Nông
nghiệp của tỉnh đã hỗ tr cho 5 tổ h p tác, h p tác xã đư c chứng nhận
VietGAP, với diện tích trên 60 ha, nâng tổng diện tích đư c chứng nhận GAP
trên 315 ha. Tiền Giang đang phấn đấu đến năm 2025, diện tích trồng thanh
long đạt trên 10.000 ha, trong đó có 4.000 ha đạt tiêu chuẩn GAP”.
Có thể nói, việc thông tin tuyên truyền của bái báo nói trên đã giúp cho
bạn đọc tiếp nhận một lượng thông tin khá lớn về vùng thanh long ở Tiền
Giang. UBND tỉnh Tiền Giang cùng với ngành Nông nghiệp của tỉnh này
đang rất quyết tâm đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhân rộng mô hình
trồng theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế.
+ Phát hiện và nhân rộng mô hình sản xuất tiên tiến
Báo Ấp Bắc ngày 21-10-2018 có bài xã Song Bình: Nhiều mô hình sản
xuất hiệu quả. Trong bài có nói: “Ông Phạm Hoàng Minh, ấp Bình An đã mạnh dạn chuyển đổi 5.000 m2 đất trồng lúa sang trồng 470 gốc bưởi da
xanh. Sau 2 năm trồng, vườn bưởi của ông bắt đầu cho trái, thu hoạch định
kỳ mỗi tháng/lần. Sau khi trừ chi phí, l i nhuận thu về khoảng 500 triệu
đồng/năm. Nhận thấy hiệu quả tăng cao, nhiều nông dân trong vùng đến học
tập để áp dụng, chuyển đổi theo mô hình để nâng cao hiệu quả canh tác. Đến
nay, trên địa bàn xã có hơn 250 ha trồng bưởi da xanh, từ đó góp phần giúp
nhiều hộ dân cải thiện cuộc sống”.
Có thể nói, đây là câu chuyện điển hình của nông dân trong việc mạnh
dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Nông dân dám ngh , dám làm.
Thực tế, trồng cây ăn trái hiện nay đã cho thu nhập cao rất nhiều lần so với
trồng lúa. Đây là việc làm tạo nên phong trào cho người dân trong việc
chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng có lợi nhuận hơn.
48
Chương trình Cây lành trái ngọt của Đài PT-TH Tiền Giang phát ngày
18-01-2018 có bài phóng sự: “Bí nghệ Long An”. Trong bài, tác giả cho rằng:
“Mô hình này là một điểm nhấn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng
cao thu nhập cho người dân. Bởi, canh tác lúa chỉ có 3 vụ trong năm còn luân
canh màu đư c khoảng 5-7 vụ/năm. L i nhuận cao gấp 10 lần trồng lúa”.
Việc chuyển đổi sang mô hình phù hợp với kinh tế thị trường sẽ là
hướng đi tốt nhất cho người nông dân. Rất nhiều người đã mạnh dạn chuyển
sang trồng các loại rau màu, cây ăn trái có lợi nhuận cao, nâng cao thu nhập
cho người dân, từng bước thay đổi diện mạo nông thôn.
+ Phản ánh về việc quy hoạch vùng sản xuất
Truyền thông quảng bá trong việc quy hoạch sản xuất vùng nông sản
nhằm phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa
lớn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh; áp dụng khoa học công nghệ để tăng
năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững
chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài, đáp ứng nhu cầu đa
dạng trong nước và xuất khẩu; nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, nguồn
nước, lao động và nguồn vốn; nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân.
Trong bài: “Hướng tới vùng chuyên canh nông sản an toàn” đăng ngày
20-4-2018 trên báo Ấp Bắc có nói: “Vùng chuyên canh rau màu của tỉnh
đang đư c trồng tập trung tại các huyện Ch Gạo, Châu Thành, Gò Công
Đông và TX. Gò Công. Hiện nay, diện tích rau màu có trên 55,3 ngàn ha,
cung cấp sản lư ng trên 1 triệu tấn, với nhiều chủng loại khác nhau như: rau
ăn lá, ăn củ và rau gia vị. Ngoài ra, tỉnh Tiền Giang cũng có trên 5.000 ha
thanh long, sản lư ng gần 60 ngàn tấn/năm và tập trung tại 4 huyện: Ch
Gạo, Gò Công Tây, Gò Công Đông và Tân Phước”.
Bài báo nói trên đã thông tin nhiều chi tiết để người tiêu dùng biết được
tỉnh Tiền Giang hiện nay có được vùng trồng rau màu chuyên canh, tập trung
49
tại một số địa phương và nhiều chủng loại rau được tiêu thụ nhiều trên thị
trường. Ngoài ra, vùng thanh long cũng được trồng chuyên canh, được tỉnh
Tiền Giang quy hoạch rất cụ thể, sản lượng cung ứng ra thị trường.
Trong chuyên mục “Cây lành trái ngọt” ngày 5-7-2018 của Đài PT-TH
Tiền Giang có phát đề tài Hợp tác xã bưởi da xanh ở Giồng Trôm – Bến Tre
có đoạn: “Tỉnh Bến Tre có nhiều loại cây ăn trái. Hiện nay, trước xu thế hội
nhập thế giới, nhiều loại nông sản đặc trưng phải lận đận, lao đao trước làn
sóng giá cả. Để nâng cao thu nhập cho người dân, chính quyền đã có chủ
trương quy hoạch và phát triển nhanh diện tích bưởi da xanh xen trong vườn
dừa ở huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Diện tích hiện có khoảng 6.500 ha
bưởi da xanh, với sản lư ng 100 ngàn tấn trái/năm. Đầu năm 2018, Cục Sở
hữu Trí tuệ đã cấp chỉ dẫn địa l cho bưởi da xanh Bến Tre”.
Nội dung đã thể hiện tính linh hoạt của nhà nước và nông dân trong việc
chọn lựa cây ăn quả thích ứng với thị trường, giúp nông sản có đầu ra ổn định,
giá cả đảm bảo cho nông dân có lãi, người trồng tăng thu nhập. Bên cạnh đó,
nhà nước cũng đã quy hoạch vùng trồng tập trung nhiều tại huyện Giồng
Trôm nhằm hỗ trợ kỹ thuật, quản lý dịch bệnh, đáp ứng đủ số lượng cho thị
trường trong và ngoài nước.
- Truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên Báo Ấp Bắc
điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang
Mở chiến dịch truyền thông quảng bá nông sản
Trong những năm gần đây, các vùng sản xuất và chế biến nông sản của
miền Tây Nam Bộ đã rất chú trọng tăng cường công tác truyền thông quảng
bá sản phẩm của mình. Các l hội nông sản được tổ chức đều đặn hàng năm,
với phạm vi và quy mô liên tục được mở rộng. Thông qua số lượng các bài
viết, trang báo đưa tin về sự kiện, công chúng và người tiêu dùng cũng nâng
cao được khả năng nhận thức về nhiều loại nông sản của Việt Nam. Trong đó,
50
báo chí Tiền Giang đã đăng phát nhiều thông tin trước, trong và sau sự kiện
lớn về nông sản.
Cụ thể, sự kiện trái vú sữa Việt Nam cho phép nhập khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ. Đây là vấn đề được rất nhiều người dân trồng vú sữa ở Tiền Giang
nói riêng và miền Tây Nam Bộ nói chung mong đợi. Tiền Giang được chọn là
nơi xuất khẩu lô hàng vú sữa Lò Rèn V nh Kim đầu tiên sang Hoa Kỳ. Trước
buổi l xuất khẩu lô vú sữa này, báo chí Tiền Giang đã có 11 tin, bài tuyên
truyền xung quanh sự kiện. Trong đó, một số bài nổi trội như: Nông dân tất
bật chuẩn bị vú sữa đi Hoa Kỳ, kiểm tra các vườn vú sữa, Chủ tịch UBND
tỉnh Tiền Giang tiếp xúc với người trồng vú sữa, trao đổi với các doanh
nghiệp xuất khẩu vú sữa, kỳ vọng vú sữa xuất đi Hoa Kỳ, vú sữa đi Hoa Kỳ
tạo nên bước ngoặc mới cho nông sản Việt Nam…
Việc truyền thông liên tục và theo chuỗi vấn đề đã góp phần xây dựng
hình ảnh thương hiệu nông sản của Việt Nam nói chung và của miền Tây
Nam Bộ nói riêng đến gần hơn với công chúng. Nội dung thông tin được lựa
chọn để truyền thông chủ yếu tập trung vào những điểm nổi bật của sản phẩm
như: kiểu dáng, hương vị, công dụng, lợi ích kinh tế, nguồn gốc xuất xứ, cách
thức canh tác sản xuất. Đây là những thông tin hữu ích với người tiêu dùng,
giúp họ hiểu hơn về các chủng loại nông sản có ở miền Tây Nam Bộ.
Tuy nhiên, công tác truyền thông quảng bá sản phẩm chưa được đầu tư
nhiều về chất lượng nội dung. Một hạn chế trong việc truyền thông quảng bá
sản phẩm nông sản trên báo chí Tiền Giang là chưa tuyên truyền đậm nét để
giúp người tiêu dùng nhận biết và phân biệt được sản phẩm nào an toàn và
sản phẩm nào không an toàn. Chưa kể, chính công tác truyền thông hạn chế
nên người tiêu dùng hiện nay rất khó phân biệt được nông sản có nguồn gốc
tại Việt Nam và nông sản cùng loại được nhập từ nước ngoài; đặc biệt là một
số loại nông sản có xuất xứ từ Trung Quốc cạnh tranh trực tiếp với ta.
51
Xây dựng chuyên trang, chuyên mục
Cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông, nhất là sự bùng
nổ của mạng xã hội, những năm gần đây, báo chí Tiền Giang cũng đã có những
bước phát triển mới, góp phần không nhỏ trong công tác tuyên truyền chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu thông tin, giáo dục, định hướng cho các tầng lớp nhân dân
về chủ trương phát triển nông sản của các tỉnh, thành miền Tây Nam Bộ.
Để thu hút người xem và bạn đọc, ngoài việc thông tin nhanh, kịp thời
các vấn đề thời sự, báo chí Tiền Giang đã quan tâm chuyển tải những thông
tin về nông sản mang tính chuyên sâu thông qua chuyên trang, chuyên mục để
phù hợp hơn với sự phát triển, hướng đến đối tượng độc giả cụ thể. Tổ chức
chuyên trang, chuyên mục là hệ thống biên tập, tổ chức các tin, bài trong
chuyên trang, chuyên mục báo chí để đem đến cho bạn đọc tính chuyên sâu về
một vấn đề, chủ đề nào đó. Ngoài ra, nó cần phải đem đến cho bạn đọc những
thông tin luôn mới, phong phú và tạo thành dư luận xã hội lành mạnh. Việc tổ
chức hệ thống chuyên trang, chuyên mục sẽ là điểm nhất cho toàn bộ hoạt
động nội dung, định hướng của báo chí.
Hoạt động tổ chức chuyên trang, chuyên mục trên báo chí Tiền Giang
gồm các yếu tố: Tổ chức phân công nhiệm vụ cho nhân sự và tổ chức sản xuất
nội dung các chuyên trang, chuyên mục; cũng như mọi quá trình sản xuất tạo
ra sản phẩm khác, việc tạo ra một chuyên trang, chuyên mục về nông sản trên
báo chí đòi hỏi phải có yếu tố đầu vào, đầu ra, các trang thiết bị, công nghệ và
nhân sự được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm.
Thông tin các tác phẩm trên báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền
Giang về nông sản đều thể hiện ở những nội dung nghiên cứu, tổng kết, đánh
giá mà hình thức thể hiện ở các thể loại bài viết chuyên sâu, phóng sự, phỏng
52
vấn. Cùng với các yếu tố trên, ngôn ngữ cũng là yếu tố quan trọng tạo nên sự
đa dạng về nội dung thông tin cho báo chí.
Với nhiều nội dung chuyên trang, chuyên mục viết về nông sản đã đạt
được những thành công nhất định khi khai thác, bám sát và có thông tin kịp
thời về những vấn đề quan trọng, vừa nảy sinh với bà con nông dân, trong đó
có những vấn đề được rất nhiều người nông dân quan tâm như đầu ra cho
nông sản, chính sách hỗ trợ… Cụ thể, thanh long rớt giá và khó tiêu thụ, sau
các bài phản ánh về thực trạng trên, báo chí Tiền Giang đi sâu vào tuyên
truyền những khu, cụm công nghiệp; doanh nghiệp có nhu câu thu mua thanh
long cho bữa ăn tráng miệng của công nhân, siêu thị Coopmart có đến khảo
sát và ký hợp động với các hợp tác xã thu mua trên 100 tấn thanh long. Từ các
thông tin này, người dân rất vui mừng và yên tâm vì bán được hàng hóa. Hoặc
trong các đợt hạn, mặn, nông sản miền Tây Nam Bộ bị ảnh hưởng khá nhiều.
Đa số các địa phương ven biển đều bị thiệt hại nặng nề. Báo chí Tiền Giang
đã tuyên truyền một số Nghị định của Chính phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ
sản xuất nông nghiệp để khôi phục lại sản xuất như: Nghị định số
02/2017/NĐ-CP của Chính phủ.
Tổ chức tuyến bài nhiều kỳ tại cơ quan báo chí Tiền Giang đang là xu
hướng tất yếu trong cuộc cạnh tranh gay gắt với các loại hình báo chí-truyền
thông mới hiện nay. Tuy nhiên, nó cần phải thay đổi để đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao của công chúng về thông tin nông sản có chiều sâu, có phân tích để
chạm đến bản chất của vấn đề. Đó chính là những sản phẩm báo chí chất
lượng cao, được đầu tư thực hiện công phu và trình bày hấp dẫn, lôi cuốn.
Sử dụng nhiều thể loại báo chí
Qua khảo sát năm 2018, báo chí Tiền Giang đã tuyên truyền khá bao
quát các nội dung về truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản, thông qua
việc sử dụng các thể loại báo chí khác nhau. Nghiên cứu, khảo sát các chương
53
trình, các chuyên trang cho thấy những thể loại được sử dụng nhiều là thể loại
tin, phản ánh, phóng sự. Phỏng vấn chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Với tất cả các chuyên
trang, chuyên mục của Báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang, trong
năm 2018 có 490 tác phẩm báo chí, trong đó, thể loại tin tức chiếm đa số với
402 tin, 44 phóng sự, 34 bài phản ánh, 10 tác phẩm phỏng vấn.
Về cơ bản, đặc trưng của thể loại đã được thể hiện rõ nét. Mỗi thể loại
đều phát huy được thế mạnh của mình, bảo đảm tính thời sự cao, có tính
chính luận và định hướng nhờ có sự phân tích, đánh giá có chiều sâu về
những về đề quảng bá sản phẩm nông nghiệp hiện nay.
Tin là thể loại chiếm ưu thế và có số lượng nhiều trong việc truyền thông
quảng bá sản phẩm nông sản. Theo tính chất thông tin, có các dạng tin cơ bản:
tin ngắn, tin sâu, tin tường thuật, tin tổng hợp. Theo hình thức thể hiện có tin
hình, tin ảnh, tin báo in.
Nhìn chung, các chương trình và trang báo được khảo sát thường là tin
vắn, tin ngắn, tin tổng hợp gắn liền với các hoạt động của địa phương, các
doanh nghiệp trong khu vực và trên cả nước; các hội nghị, hội thảo về tìm đầu
ra cho nông sản, các sản phẩm nông sản tiêu biểu của vùng, với những con số
thống kê cụ thể. Có thể điểm qua như: Hơn 40 tấn vú sữa đư c xuất khẩu
sang Mỹ (Chương trình thời sự - Đài PT-TH Tiền Giang ngày 7-5), đưa xoài
cát Hòa Lộc phục vụ trên các chuyến bay Việt Nam Airlines (Báo Ấp Bắc
điện tử ngày 14-2)…
Thể loại được sử dụng nhiều thứ hai là phóng sự. Với nhiều đặc điểm
các chương trình khảo sát là các chuyên mục, chuyên trang. Các bản tin ngắn
trong các chuyên trang, chuyên mục cung cấp cho khán giả và độc giả những
thông tin ngắn gọn, kịp thời thì trong các chuyên trang, chuyên mục này luôn
có sự hiện diện đầy đủ của các loại phóng sự: phóng sự sự kiện, phóng sự vấn
đề, phóng sự điều tra, phóng sự chân dung…
54
Phóng sự là thể loại báo chí có khả năng chuyển tải một khối lượng
thông tin phong phú và trình bày hiện thực trong quá trình phát sinh phát
triển. Nó đem đến cho công chúng một bức tranh xác thực, vừa chi tiết, vừa
cụ thể. Trong các chương trình truyền hình và báo in, phóng sự luôn là thể
loại để lại dấu ấn mạnh mẽ trong công chúng khán giá và bạn đọc. Thể loại
này dùng để phản ánh, phân tích những sự kiện, những vấn đề xây dựng,
quảng bá các sản phẩm nông sản, những bất cập trong quá trình xây dựng và
bảo vệ thương hiệu nông sản hiện nay. Phần lớn các phóng sự được kết cấu
theo phương pháp quy nạp, rất phù hợp với thể loại báo chí. Ví dụ trong
phóng sự: Được gì khi trồng lúa theo công nghệ cao được đăng trong mục
kinh tế Báo Ấp Bắc điện tử, ngày 14-9-2018. Bài viết phản ánh khá sinh động
việc nông dân trồng lúa theo công nghệ cao nhưng không được hưởng lợi ích
nhiều từ mô hình này. Bài viết có nêu nhân vật cụ thể và để nhân vật trả lời
phỏng vấn:
Nông dân Nguy n Văn Tơn, ấp Hiệp Trị, xã Phước Trung (huyện Gò
Công Đông) bày tỏ: Diện tích trồng lúa ở vùng đất Gò Công nhỏ và mặt
ruộng giữa các nơi không đồng đều, nếu sử dụng công nghệ tưới ngập khô
xen kẻ thì sẽ có nơi nước nhiều, có nơi bị thiếu nước…Cùng quan điểm với
ông Tơn, ông Bùi Thanh Diệp, ấp Ngh a Chí, xã Phước Trung (huyện Gò
Công Đông) đặt vấn đề, sau khi tham gia dự án, nông dân đư c hưởng l i gì,
đơn vị nào bao tiêu sản phẩm, l i nhuận của người trồng lúa trong dự án có
cao hơn so với người sản xuất lúa theo kiểu truyền thống?...
Nhiều phóng sự xuất hiện phóng viên dẫn hiện trường đã làm tăng thêm
phần sinh động cho các phóng sự, gia tăng tính thuyết phục của phóng sự
trong vấn đề cần phản ánh đến khán giả xem truyền hình.
Thể loại phỏng vấn cũng được sử dụng trong các chương trình truyền
hình và báo in để tuyên truyền quảng bá sản phẩm nông sản. Đây là một trong
55
những thể loại rất d nhận biết trong các thể loại báo chí nhờ hình thức hỏi-
đáp. Đối tượng được phỏng vấn thường là những cán bộ lãnh đạo, chuyên gia,
nhà nghiên cứu, người nông dân…Thông qua những bài phỏng vấn đã cung
cấp cho công chúng một hàm lượng thông tin cao, hiệu quả và đảm bảo tính
khoa học. Song ở thể loại này, các chương trình truyền hình ít sử dụng tới
nhưng đối với báo điện tử có sử dụng nhưng với tuần suất ít hơn thể loại tin
phóng sự.
Nhìn chung thể loại tác phẩm báo chí viết gề vấn đề truyền thông quảng
bá sản phẩm nông sản của báo chí Tiền Giang hiện nay rất da dạng. Việc sử
dụng thể loại nào nhiều hay ít tùy thuộc vào nội dung phản ánh, đồng thời nó
được quy định bởi đặc trưng hay thế mạnh của từng loại báo, đài.
- Sử dụng các yếu tố đa phương tiện
Trong kỷ nguyên số, truyền thông đa phương tiện đối với một cơ quan
báo chí là rất cần thiết. Trước những lợi ích mà cách mạng công nghiệp 4.0
mang lại, báo chí đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới để thay đổi và
thích ứng. Báo chí Tiền Giang cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Có thể khẳng định: không gian đa phương tiện đã được xây dựng, đáp
ứng được yêu cầu làm việc linh hoạt, năng động. Bên cạnh đó, các nhà báo đa
phương tiện cũng được từng bước xây dựng, các nhà báo không chỉ chuyên
nghiệp, giỏi nghề mà còn thạo ngoại ngữ, làm chủ công nghệ; tích hợp được
kỹ năng đa phương tiện nhằm sáng tạo ra sản phẩm báo chí đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của công chúng. Yếu tố quản lý đa phương tiện cũng đã được
áp dụng thông qua quy trình xuất bản thống nhất và từng bước được số hóa
trên cơ sở phân cấp, phân quyền mạnh mẽ.
Hiện nay, báo Ấp Bắc điện tử vừa truyền tải thông tin về nông sản trên
mục kinh tế, nông nghiệp-nông dân-nông thôn, mục thời sự. Ngoài ra, báo
còn sử dụng video clip để phát các phóng sự chuyên sâu nhằm quảng bá hình
56
ảnh nông sản của miền Tây Nam Bộ. Ngoài phát trên sóng phát thanh và
truyền hình, Đài PT-TH Tiền Giang còn mở trang thông tin điện tử tuyên
truyền để tuyên truyền tổng quan các vấn đề, trong đó có nông sản. Ấn tượng
nhất là trang kinh tế cập nhật liên tục các vấn đề có liên quan đến nông sản
trên cả nước nói chung và của miền Tây Nam Bộ nói riêng.
2.3. Đánh giá thực trạng truyền thông quảng bá nông sản miền Tây
Nam Bộ
Qua phân tích về nội dung các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề và
hình thức truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên báo chí Tiền
Giang cho thấy, nội dung truyền thông tương đối đa dạng, phong phú, nêu bật
được tầm quan trọng của quảng bá sản phẩm nông sản trong quá trình hội
nhập hiện nay; bám sát thực ti n và phản ánh các nội dung có tính thời sự cao.
Các nội dung đã nêu được mục đích của thông điệp cần truyền tải đến công
chúng. Mặc khác, các chương trình đã phản ánh sinh động cuộc sống, cung
cấp cho công chúng, người tiêu dùng những kiến thức về sản phẩm nông
nghiệp, giá trị của từng sản phẩm, kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh và
xây dựng thương hiệu nông sản, cảnh báo kịp thời cho doanh nghiệp, nông
dân trong quá trình sản xuất, tạo dựng thương hiệu nông sản.
Nội dung truyền thông đã quảng bá được thương hiệu nông sản miền
Tây Nam Bộ đến với người tiêu dùng trong và ngoài nước, góp phần định vị
được thương hiệu nông sản miền Tây Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung
trong lòng công chúng.
Qua phỏng vấn lãnh đạo nhà nước, doanh nghiệp và nông dân, ba ý kiến
cho rằng: nội dung và hình thức truyền tải thông tin của Báo Ấp Bắc điện tử và
Đài PT-TH Tiền Giang tương đối đa dạng về nội dung nông sản, hình thức
phong phú; nhiều nội dung đã bám sát vào chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Song, cũng có hai ý kiến cho rằng: nội dung còn khô khan, báo cáo
57
nhiều và chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin của doanh nghiệp cũng như của
người dân.
- Thành công
Qua khảo sát 509 tin, bài có liên quan đến nông sản trên báo chí Tiền
Giang, chúng tôi thấy rằng nội dung tuyên truyền đa dạng, sinh động; cung
cấp cho công chúng, người nông dân nhiều kinh nghiệm trong xây dựng
thương hiệu và tiêu thụ nông sản. Nội dung tuyên truyền trong các chương
trình của Đài PT-TH Tiền Giang, chuyên mục kinh tế của Báo Ấp Bắc điện tử
đã quảng bá khá hữu hiệu hình ảnh thương hiệu nông sản, góp phần định vị
thương hiệu nông sản của khu vực miền Tây Nam Bộ trong lòng công chúng
và độc giả; đưa thương hiệu nông sản khu vực đến với thị trường trong và
ngoài nước. Việc tuyên truyền này còn kích thích người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam. Từ đó, các sản phẩm nông sản đến gần hơn với người
tiêu dùng từ thành thị đến nông thôn. Cụ thể, mỗi khi nông dân được mùa,
mất giá; sản phẩm khó tiêu thụ thì báo chí tuyên truyền đậm nét về những khó
khăn, vất vả của nông dân; ngành chức năng vào cuộc và người dân hưởng
ứng cuộc giải cứu này một cách mạnh mẽ. Đầu năm 2018, thanh long tại tỉnh
Tiền Giang và Long An rớt giá thuê thảm, không có đầu ra, báo chí Tiền
Giang đã tuyên truyền 7 bài về thực trạng này, chính quyền địa phương phối
hợp với các doanh nghiệp tiến hành giải cứu cho nông dân. Tại Tiền Giang,
chỉ trong vòng 1 tháng, thanh long của nông dân đã được các doanh nghiệp
mua cho khoảng 80 tấn.
Ngoài ra, công tác truyền thông quảng bá còn cung cấp cho người dân và
người tiêu dùng những kiến thức cơ bản về sản phẩm nông nghiệp ở các địa
phương trong khu vực miền Tây Nam Bộ. Từ đó, người tiêu dùng biết được
địa chỉ và chọn lựa cho mình những sản phẩm nông sản an toàn, chất lượng
và giá cả hợp lý.
58
Qua phỏng vấn sâu, hầu hết ý kiến cho rằng kênh truyền hình quảng bá
sản phẩm nông sản hiệu quả hơn so với các loại hình báo chí khác. Bởi, hình
thức truyền thông của truyền hình đa dạng về thể loại. Các tác phẩm báo chí
của truyền hình sử dụng lời bình ngắn gọn, hình ảnh truyền đạt mang tính
biểu cảm cao, mang đậm chất ngôn ngữ truyền hình. Việc sử dụng tiếng động
hiện trường, sử dụng phát biểu hợp lý cùng với dẫn hiện trường của phóng
viên đã làm tăng thêm hiệu quả của truyền thông, mục đích truyền thông của
tác phẩm đến với công chúng khán giả, giúp khán giả hiểu rõ về quảng bá sản
phẩm nông sản hiện nay.
- Hạn chế
Nông sản miền Tây Nam Bộ là một tổng thể, có mối quan hệ tương hỗ
nhau nhưng báo chí Tiền Giang đa số đều khai thác thông tin của địa phương
nên rất khó tìm ra cái nhìn toàn diện. Hai cơ quan mà chúng tôi khảo sát chỉ
có Đài PT-TH Tiền Giang là thường khai thác thông tin của khu vực, còn Báo
Ấp Bắc điện tử cũng có khai thác thông tin của khu vực và cả nước nhưng đa
số đều chia sẻ nguồn từ các báo, đài bạn. Điều này d dàng nhận thấy qua
hàm lượng thông tin trong nhiều tin, bài trên báo Ấp Bắc điện tử không nhiều,
khiến những lý giải, phân tích thiếu thuyết phục do không có cái nhìn bao
quát toàn vấn đề, không có ý kiến nhà chuyên môn, mà chỉ nhận định chủ
quan của phóng viên. Báo chí Tiền Giang vẫn nặng thông tin báo cáo, mô
hình, mà chưa khái quát thành những vấn đề lớn có tính tổng kết, rút ra bài
học kinh nghiệm thực ti n.
Nội dung trên báo chí Tiền Giang vẫn còn đơn điệu, theo khuôn mẫu, ít
có sự sáng tạo. Cụ thể, Báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang vẫn
chưa thoát khỏi tình trạng chung là bài viết quá khô khan, số liệu báo cáo,
chưa mang tính báo chí. Điều này thể hiện rõ nhất trên Báo Ấp Bắc điện tử
khi tin, bài chưa có nhiều phát hiện, chuyên sâu mà các bài báo không khác gì
59
bài báo cáo thành tích. Ví dụ, trong quá trình khảo sát, chúng tôi thường phát
hiện có những bài viết dài dòng, liệt kê như: Báo Ấp Bắc điện tử ra ngày 24-
12-2018 có đoạn: “Tại Hội nghị phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu
Long đư c tổ chức gần đây, Ths. Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về
sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng, nếu tính theo kịch bản quốc
gia về biến đổi khí hậu năm 2016, đối với kịch bản trung bình, đến năm 2100, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhiệt độ trung bình có thể tăng 1,7-1,9oc,
mưa có thể tăng 5-15% và nước biển dân từ 32-78 cm. Hậu quả là Đồng bằng
sông Cửu Long có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn lúa/năm, tương đương với hơn
40% tổng sản lư ng lúa của cả vùng. Nếu tính theo kịch bản trung bình về
biến đổi khí hậu, năng suất lúa đông xuân giảm khoảng 405 kg/ha, vào năm
2030 và hơn 716 kg/ha vào năm 2050. Nếu mực nước dân cao 1m sẽ có
khoảng gần 39% diện tích vùng Đồng bằng sông Cửu Long, khoảng 10-12%
dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất 10% GDP”.
Ngoài ra, bài báo không rõ cách thể hiện, không có sa pô, tít phụ. Trong
nhiều trường hợp, độc giả Báo Ấp Bắc điện tử như bị đánh đố đâu là tin, đâu
là bài vì có nhiều bài viết ngắn như tin, nhiều tin lại viết dài như bài.
Bên cạnh đó, cách đặt tít cũng chưa được chú trọng. Hầu hết báo chí
Tiền Giang đều có cách đặt tít chung chung như: cơ hội cho người làm ra hạt
gạo?, tích cực tìm giải pháp để tiêu thụ lúa cho nông dân, lại nói về câu
chuyện lúa-gạo, thúc đẩy “mặt trận” nông nghiệp, tìm cách gỡ “nút thắt”
chế biến nông sản…Tít bài chung chung có thể đặt cho nhiều bài báo trong
nhiều thời điểm vẫn còn xuất hiện rất nhiều trên báo chí Tiền Giang.
Những tít bài như thế cho thấy sự d dãi và thiếu trách nhiệm đối với các
bài báo của người làm báo. Mặt khác, nhiều tác phẩm viết câu quá dài, có
những bài viết câu vừa dài vừa sai làm người đọc không thể nào hiểu được
60
tác giả bài viết muốn nói điều gì. Lỗi này không chỉ thuộc về người viết mà
cả lỗi của biên tập.
Đây là trăn trở lớn nhất của chúng tôi trong quá trình khảo sát thực hiện
đề tài này. Mặc dù, theo lãnh đạo báo, đài, Ban Biên tập và Ban Giám đốc
luôn khuyến khích phóng viên tìm tòi, đầu tư những đề tài chuyên sâu mang
tầm cỡ khu vực nhưng kết quả chưa như mong muốn. Đài PT-TH Tiền Giang
thường có những bài có nội dung mang tầm khu vực, nói lên những nội dung
được dư luận quan tâm về nông sản. Báo Ấp Bắc điện tử thường xuyên có
những loạt bài, tuyến bài chuyên sâu về đề tài nông sản nhưng đa số đều
mang tính địa phương Tiền Giang, phạm vi tác động hẹp nên những bài viết
chưa gây được tác động mạnh. Hơn nữa, phóng viên của Đài PT-TH Tiền
Giang viết bài có tâm lý chạy số lượng nên nhiều loạt bài bị kéo quá nhiều kỳ
nhưng lại không có nhiều thông tin, không giải quyết được vấn đề.
Tiểu k t chƣơng 2
Khi xây dựng một hoạt động truyền thông, ngoài lập ra những tiêu chí
cho phần nội dung, việc sử dụng thể loại, ngôn ngữ, kết cấu thể loại qua tác
phẩm báo chí là rất quan trọng trong quá trình truyền tải thông điệp đến công
chúng. Khi khảo sát những tác phẩm báo chí ở các chuyên trang, chuyên đề,
chuyên mục, chúng tôi tiến hành phân chia thể loại các tác phẩm. Điều d
nhận thấy là số lượng những bài báo dưới hình thức nghiên cứu trao đổi
chiếm nội dung khá lớn. Còn những bài viết mang tính chính luận, nhận định
nhằm đưa ra giải pháp khả thi cho vấn đề truyền thông quảng bá sản phẩm
nông dân gần như rất ít.
Ngoài những thể loại tin, bài phản ánh, trên báo chí báo khảo sát còn
xuất hiện khá nhiều dạng bài nghiên cứu, trao đổi…những bài viết dạng này
nhằm góp phần nâng cao nhận thức của người nông dân, cộng đồng doanh
nghiệp trong l nh vực truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản. Rất ít bài
61
nghiên cứu về xu thế, phương hướng truyền thông và quảng bá sản phẩm
nông sản trong tương lai, thiếu những định hướng, giải pháp cho vấn đề
truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản miền Tây Nam Bộ hiện nay.
Bên cạnh tính khách quan, chính xác, các tác phẩm viết về vấn đề truyền
thông quảng bá sản phẩm nông sản không thể thiếu tính biểu cảm. Chính tính
biểu cảm vốn là hiện thân của cái hay, cái hấp dẫn mới là nhân tố tác động
mạnh mẽ tới tâm hồn của người nghe, người đọc. Việc xác định đối tượng
công chúng là rất cần thiết khi lên kế hoạch xây dựng nội dung và chọn
phương thức truyền tải thông điệp trong tác phẩm báo chí sao cho phù hợp
với từng tác phẩm, từng thể loại, chuyên trang, chuyên mục, từng số báo. Với
tầm ảnh hưởng và sức tác động rộng lớn của báo chí trong việc thay đổi nhận
thức, hành vi, thái độ của công chúng đối với những vấn đề thời sự, sự kiện
nóng hổi. Báo chí cần phải có cách thể hiện ngôn từ sao công chúng tiếp nhận
thông tin từ báo chí cảm thấy rằng đó là điều đúng, là cái lợi cho bản thân
mình, đó là việc mình nên làm và cần phải suy ngh …
62
Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TIỀN GIANG TRONG VIỆC
TRUYỀN THÔNG QUẢNG BÁ NÔNG SẢN MIỀN TÂY NAM BỘ
3.1. Những vấn đề đặt ra về truyền thông quảng bá nông sản của các
tờ báo ở Việt Nam nói chung và Báo Ấp Bắc điện tử Đài PT-TH Tiền
Giang nói riêng
- Quảng bá nhằm nâng cao nhận thức về sản xuất theo chuỗi giá trị
Tổ chức tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức trong hệ thống
chính trị và nhân dân về tính tất yếu phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông
nghiệp. Xu hướng tiêu dùng sạch, đảm bảo an toàn thực phẩm, chất lượng cao
để tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động; thay đổi tư duy trong sản
xuất nông sản, chuyển từ phát triển theo số lượng sang phát triển về chất
lượng; từng bước điều chỉnh hành vi tiêu dùng của người dân theo hướng ưu
tiên sử dụng các sản phẩm nông sản có chứng nhận chất lượng, thân thiện môi
trường và có tham gia vào chuỗi giá trị.
Đồng chí Phạm Văn Sơn, Phó Tổng Biên tập Báo Ấp Bắc:
“Báo chí cần đẩy mạnh công tác truyền thông sâu rộng, tuyên truyền,
vận động và phổ biến cho nhà vườn ngh a của việc sản xuất theo quy trình,
liên kết sản xuất để phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu; sản
xuất theo hướng an toàn để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và phục vụ
xuất khẩu…”.
Truyền thông nhằm vận động, mời gọi doanh nghiệp, nông dân tham gia
xây dựng và hoàn chỉnh các chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp; từng bước
điều chỉnh quan hệ sản xuất-kinh doanh giữa nông dân và doanh nghiệp theo
hướng chủ động và tự giác hợp tác liên kết kinh doanh nhằm không ngừng
nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế.
63
Đồng chí Nguy n Văn Phấn, Phó Giám đốc Đài PT-TH Tiền Giang nói:
“Nếu có kinh phí hỗ tr từ phía cơ quan chức năng, doanh nghiệp và nội
dung do Ban Giám đốc quyết định, chúng tôi sẽ bố trí thêm phóng viên để tập
trung khai thác những vấn đề về nông sản nhiều hơn, chuyên sâu hơn. Có
đư c nhiều bài viết, chúng tôi sẽ tập trung nâng chất lư ng nội dung và cách
thể hiện, trình bày cũng sẽ hấp dẫn hơn”.
Triển khai đồng bộ các hoạt động thông tin, truyền thông, quảng bá về
các sản phẩm nông sản gắn với nâng cao nhận thức của người nông dân về
hợp tác xã kiểu mới, về liên kết kinh doanh theo chuỗi; đẩy mạnh phát triển
du lịch gắn với nông sản nhằm nâng cao hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh
tranh trong từng khâu sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Đồng chí Phạm Văn Sơn cho biết thêm:
“Theo chúng tôi, ngoài công tác truyền thông quảng bá của cơ quan báo
chí, nhà nước cần xây dựng chuyên canh vùng canh tác nông sản, đủ số
lư ng và chất lư ng; đẩy mạnh sản xuất rải vụ để tránh cung vư t cầu,
“đư c mùa mất giá”, doanh nghiệp cần cải thiện khâu sơ chế, chế biến, bảo
quản, vận chuyển; xây dựng chuỗi giá trị trong sản xuất và kinh doanh; nâng
cao năng lực của các tổ h p tác, h p tác xã để tổ chức sản xuất, tạo ra sản
phẩm có số lư ng lớn, chất lư ng đáp ứng đư c yêu cầu…”.
- Tuyên truyền cho việc tổ chức, quản l và điều hành sản xuất
Rà soát, cập nhật, bổ sung kịp thời các quy hoạch sản xuất nông sản, vùng
nguyên liệu các sản phẩm xây dựng chuỗi; tăng cường sản xuất theo tiêu chuẩn
hữu cơ, tiêu chuẩn GAP gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm; đẩy mạnh việc
ứng dụng và áp dụng có hiệu quả công nghệ bảo quản sau thu hoạch.
Nông dân Nguy n Văn Minh, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang:
“Vấn đề này, chúng tôi đã đư c tập huấn kỹ thuật trồng và phương pháp
chăm sóc. Thương hiệu sầu riêng Cai Lậy đã có từ mấy năm nay. Nhưng
64
chúng tôi thấy giá bán cũng như người sản xuất truyền thống. Việc tiêu thụ,
chúng tôi thường nghe nói thương lái thu mua rồi bán cho các doanh nghiệp
xuất sang Trung Quốc”.
Đánh giá toàn diện, đầy đủ vai trò của các tác nhân tham gia chuỗi giá trị
từ sản xuất-bảo quản-thu mua-sơ chế-chế biến-phân phối đến tiêu thụ sản
phẩm; quan tâm hỗ trợ, hướng dẫn các tác nhân thực hiện tốt mối liên kết
trong chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa, hợp lý lợi ích giữa các tác nhân tham gia.
Xây dựng và nhân rộng các mô hình hợp tác, hợp tác xã kiểu mới hoạt
động có hiệu quả trong nông nghiệp; ưu tiên phát triển các hợp tác xã nông
nghiệp có liên kết kinh doanh đầu vào, đầu ra.
Khuyến khích, hỗ trợ hình thành các liên kết kinh doanh giữa doanh
nghiệp, cơ sở kinh doanh…
Như vậy, báo chí Tiền Giang cần phối hợp với các cơ quan chuyên môn,
doanh nghiệp đẩy mạnh công tác truyền thông sâu rộng, tuyên truyền, vận động
và phổ biến cho nhà vườn ý ngh a của việc sản xuất theo quy hoạch, liên kết
sản xuất để phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu; sản xuất theo
hướng an toàn để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và phục vụ xuất khẩu.
Tuyên truyền giúp nông dân nắm bắt, ứng dụng các đề tài đã được nghiên cứu,
các kỹ thuật mới trong sản xuất; nhân rộng các mô hình sản xuất theo hướng an
toàn, theo tiêu chuẩn GAP; hình thành các vùng chuyên canh cây ăn trái, tạo
tiền đề phát triển công nghiệp chế biến trái cây phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.
Nghiên cứu cải thiện độ phì của đất liếp trồng cây ăn trái lâu năm và nghiên
cứu vật liệu sản xuất tại địa phương. Xây dựng mối liên kết trong sản xuất kinh
doanh giữa doanh nghiệp và nhà vườn; xây dựng vùng nguyên liệu, thực hiện
mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ trái cây dựa trên các mô hình sẵn có; hỗ
trợ tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ hợp tác, hợp tác xã trong sản xuất và tiêu
thụ. Ngoài ra, báo chí Tiền Giang còn phải tăng cường quảng bá thương hiệu
65
sản phẩm, giúp nhà nước tìm kiếm thị trường tiêu thụ; xây dựng chương trình
tiếp thị cho sản phẩm nông sản. Ngành chuyên môn tích cực tham gia hội chợ
trong nước và tổ chức quốc tế tại Việt Nam, thiết kế hồ sơ ngành hàng đầy đủ
để giới thiệu sản phẩm, mở các gian hàng giới thiệu trái cây tại các thành phố
lớn. Các địa phương cũng cần vận dụng và triển khai thực hiện có hiệu quả các
chính sách hỗ trợ của Chính phủ, bộ, ngành; tạo điều kiện thuận lợi để doanh
nghiệp đầu tư các nhà máy sơ chế, đóng gói, chế biến sản phẩm trên địa bàn;
nâng cao năng lực sơ chế, đóng gói, bảo quản và vận chuyển, tạo ra bước đột
phá mạnh mẽ trong việc giảm thất thoát sau thu hoạch nhằm tăng thị phần của
nông sản ở trong và ngoài nước.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác truyền thông
quảng bá nông sản tr n báo chí Tiền Giang hiện nay
- Khai thác những vấn đề bức xúc của nông sản
Phản ánh việc các doanh nghiệp chưa chủ động được nguồn cung
nguyên liệu nông sản đảm bảo về số lượng và chất lượng, khả năng chế biến
đối với một số ngành hàng còn yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là vào
cao điểm mùa vụ như: rau, quả, gây tổn thất sau thu hoạch.
Tỷ lệ nông sản chế biến xuất khẩu có thương hiệu còn rất ít, mẫu mã các
bao bì các sản phẩm còn đơn điệu, ngay cả với những sản phẩm có thế mạnh.
Chất lượng sản phẩm chưa ổn định, con tiềm ẩn nguy cơ mất vệ sinh an toàn
thực phẩm.
Trình độ công nghệ chế biến nhìn chung ở mức độ trung bình của thế
giới, nhiều cơ sở chế biến của một số ngành hàng có tuổi đời cao, với thiết bị
cũ, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp. Tổn thất sau thu hoạch còn lớn (10-
20%) do thiếu cơ sở vật chất bảo quản đủ chất lượng.
Sản phẩm chế biến chủ yếu vẫn là cơ chế có giá trị gia tăng thấp (chiếm
70-85%), sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao chiếm khoảng 15-30%.
66
Hệ thống Logistics phục vụ nông nghiệp mới phát triển nên còn nhiều
hạn chế như: chuỗi cung ứng lạnh còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng các ngành
hàng và các thị trường khác nhau, các thiết bị đầu tư các doanh nghiệp
logistics thiếu đồng bộ; thiếu kho bãi tại vùng sản xuất, cửa khẩu.
Cơ chế chính sách của Nhà nước chưa đủ hấp dẫn để doanh nghiệp đâu
tư và chế biến nông sản; một số chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng,
khoa học, công nghệ…chưa theo kịp yêu cầu thực ti n sản xuất kinh doanh.
Nguồn lực để triển khai các chính sách đã ban hành (Nghị định số
57/2018/NĐ-CP và Nghị định số 98/2018/NĐ-CP) cò hạn chế nên hiệu quả
chính sách không cao.
- Cần hạn chế thuật ngữ phức tạp, khó hiểu và nên đi thẳng vào vấn đề
cụ thể
Giảm bớt lượng chữ và tăng yếu tố phi văn tự (hình ảnh, biểu ngữ, hộp
dữ liệu). Các bài trên báo chí Tiền Giang cần đi vào thực ti n sản xuất của
người nông dân, phản ánh ý kiến nông dân, phát hiện những bất cập để kịp
thời đề xuất, tham mưu cho lãnh đạo địa phương. Bài viết phải nêu được thực
trạng, nhưng cũng rất cần có những giải pháp thể hiện chính kiến của người
viết, cơ quan báo chí với những vấn đề cấp bách trong nông sản. Tránh những
bài viết khuôn sáo, đánh giá chung chung kiểu báo cáo tổng kết, minh họa cho
chủ trương, chính sách ở địa phương.
Chương trình Cây lành trái ngọt được Đài PT-TH Tiền Giang xác định
bạn xem đài chủ yếu là nông dân. Tuy nhiên, trong các chương trình, rất
nhiều từ ngữ chuyên môn, thuật ngữ chuyên sâu về khoa học kỹ thuật khiến
cho người xem là nông dân không định hình được nội dung muốn nói gì. Cụ
thể, trong chương trình cây lành trái ngọt phát ngày 16-8-2018 có tên: Kỳ
vọng tiềm năng trái cây Tiền Giang sau hội nghị xúc tiến đầu tư. Trong đó,
phóng viên có phỏng vấn đồng chí Trần Thanh Đức, Phó Chủ tịch UBND tỉnh
67
Tiền Giang. Đồng chí Đức cho biết: “Tới đây, Tiền Giang tập trung vào quy
trình, công nghệ, rồi hướng đến nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp cao”.
Những từ ngữ này có tính chuyên môn cao. Nội dung như thế chỉ có những
người đã học qua, các nhà khoa học trên l nh vực nông nghiệp và những
người có học thức mới l nh hội và hình dung được vấn đề mà người nói muốn
truyền tải thông tin.
Thật vậy, với nội dung như trên, chúng tôi ngh rằng: phóng viên cần đi
thẳng vào vấn đề, sau hội nghị xúc tiến đầu tư, những doanh nghiệp được trao
giấy đầu tư khi nào đi vào hoạt động, giải quyết đầu ra cho nông dân như thế
nào? Số lượng bao nhiêu? Chủng loại gì? Sản phẩm như thế nào? Giá cả ra
sao? Lợi nhuận của nông dân thu được sau mỗi mùa vụ?...Việc thông tin như
vậy mới có giá trị và khiến người xem là nông dân mới thấy thỏa đáng sau khi
xem nội dung trên.
Báo Ấp Bắc điện tử ngày 21-11-2018 có đăng bài: Ngh về “kịch bản”
mới cho cây ăn trái. Trong đó, tác giả đã sử dụng quá nhiều thuật ngữ phức
tạp như: “nút thắt”, giá trị gia tăng, tìm lời giải, xốc vào mặt trận, “bắt
tay”…Những từ ngữ này, khi người đọc nhìn vào sẽ nhận thấy phóng viên
đang sử dụng từ “đao to, búa lớn”, không phù hợp với báo chí truyền thông
thông tin trên mặt báo.
Mặc dù, bài báo đã nêu rất nhiều thực trạng hiện nay là đầu ra khó khăn,
người dân luôn gặp cảnh được mùa mất giá, được giá mất mùa. Song, tác giả
đã sử dụng nhiều từ ngữ phức tạp khiến cho người đọc cảm thấy buồn chán.
Nội dung cũng chưa đưa ra được giải pháp hữu hiệu nào cho ngành chuyên
môn thấy được đâu là hướng đi tốt nhất để giải quyết được vấn đề đầu ra cho
nông sản đang gặp khó hiện nay.
68
- Cần sáng tạo hơn trong thể hiện nội dung, hình thức
Một yêu cầu chung nhất đối với thông tin báo chí là phải đảm bảo tính tư
tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng, có trách
nhiệm hình thành dư luận xã hội lành mạnh góp phần tăng cường sự đoàn kết,
nhất trí về tư tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân dân.
Báo chí Tiền Giang cần tăng cường thông tin, đổi mới nội dung, hình
thức, trong đó phát hiện, cổ vũ, nhân rộng những điển hình tiên tiến trong
phong trào thi đua, động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế
tích cực thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo,
làm giàu chính đáng, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống mọi mặt
của nhân dân. Thẳng thắn chỉ ra những trì trệ, ách tắc, thiếu trách nhiệm trong
phương pháp làm việc tập thể, cá nhân, thúc đẩy quá trình lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội, thúc đẩy tính tích cực xã hội.
Cần thông tin toàn diện cả chiều sâu và bề rộng các vùng, các khu vực
của miền Tây Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung; lựa chọn những thông
tin thiết thực mà đông đảo bạn đọc đón đợi. Tăng cường các tác phẩm báo chí
phản ánh phong trào thi đua ở các vùng sâu, vùng xa; gương điển hình, kinh
nghiệm làm ăn giỏi của nông dân. Giảm thiểu thông tin hội nghị giản đơn,
chọn cách đưa tin sinh động, gần gũi d hiểu đối với nông dân; tránh sử dụng
những thuật ngữ khoa học, tên nước ngoài viết tắt, khó hiểu, khi cần thiết cần
phải chú thích đầy đủ, kỹ càng. Những tác phẩm viết về nông sản, các l nh
vực kinh tế v mô cần kết hợp nhiều thông tin phân tích bình giải rõ ràng, giúp
nông dân hiểu đúng và làm đúng. Không nên đăng tải những kết quả nghiên
cứu khoa học về những vấn đề ngoài tầm cuộc sống thường nhật của dân cư
nông nghiệp. Giảm thiểu dung lượng chữ trong một bài viết, gia tăng kênh đồ
hình, ngôn ngữ phi văn tự.
69
Phát huy thế mạnh của việc tuyên truyền thành “vệt” đậm, tổ chức tốt
các loạt bài về những vấn đề lớn, bức xúc trong vấn đề nông sản. Đẩy mạnh
công tác bạn đọc, thu thập thông tin phản hồi. Các cơ quan báo chí nên tăng
cường hình thức tọa đàm, trao đổi với bạn đọc ở cơ sở để nắm bắt nhu cầu,
nguyện vọng của bạn đọc về thông tin báo chí; thường xuyên tổng kết, tổ
chức khảo sát, nghiên cứu khoa học để đánh giá chất lượng, hiệu quả tuyên
truyền để từ đó điều chỉnh hợp lý thủ pháp tuyên truyền.
Trong hầu hết các chương trình Cây lành trái ngọt được chúng tôi khảo
sát năm 2018 của Đài PT-TH Tiền Giang, phóng viên nhận thấy rằng: Người
dẫn chương trình chưa phù hợp với trang phục của chương trình. Tất cả các
cuộc gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn người dân, người dẫn chương trình ăn mặc
khá sang trọng, đặt ra những câu hỏi chưa gần gũi với nông dân…
- Nâng cao chất lư ng đội ngũ làm báo viết về nông sản
Nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên viết về nông sản,
bởi đây là l nh vực đặc thù, nếu không nắm vững chuyên môn thì sản phẩm
làm ra rất khó thuyết phục khán giả. Vì vậy, mỗi phóng viên, biên tập viên
cần phải nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ cũng như kiến thức viết về
nông sản. Có như vậy, phóng viên mới bám sát vào chủ đề mà mình được cơ
quan giao nhiệm vụ. Lãnh đạo cơ quan báo chí Tiền Giang cũng như các
phòng/ban chuyên môn cần chủ động lập kế hoạch đào tạo, đề xuất các biện
pháp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và chuyên môn về nông sản cho lực
lượng phóng viên phụ trách. Qua đó góp phần nâng cao năng lực sáng tạo của
mỗi phóng viên trong hoạt động thu thập và xử lý thông tin.
Phóng viên Kim Nữ, Đài PT-TH Tiền Giang:
“Là phóng viên chuyên viết về mảng đề tài nông nghiệp, trong đó có viết
về đề tài truyền thông quảng bá nông sản. Thuận l i là Tiền Giang có nguồn
nông sản dồi dào, nhiều chủng loại; doanh nghiệp, tổ h p tác, h p tác xã thu
70
mua nhiều; Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công thương
chủ động cung cấp thông tin. Khó khăn khi viết về đề tài này là phóng viên
phải tự tìm hiểu quy định về thương hiệu, về nông sản, tự cập nhật thông
tin và các quy định liên quan đến pháp l . Kiến thức viết về nông sản chủ
yếu do phóng viên tự học hỏi, tìm tòi. Chưa có một lớp đào tạo, tập huấn
viết về l nh vực này”.
Ngoài ra, phóng viên và biên tập viên phải thấu hiểu tình hình sản xuất
nông nghiệp ở địa phương, thì những sản phẩm báo chí về nông nghiệp mới
có thể phục vụ, đem lại lợi ích nhiều nhất cho nông dân. Nhà báo phải yêu
nghề, yêu l nh vực mình phụ trách. Một điều không thể thiếu là nghiệp vụ
người làm báo, họ cần được trao dồi kỹ năng, nghiệp vụ báo chí, cần phải có
chuyên môn vững vàng; biết ử dụng và khai thác lợi thế của từng thể loại,
từng loại hình báo chí và đặc biệt có khả năng sáng tạo trong từng đề tài, nội
dung thông tin để có cách thể hiện phù hợp, đạt hiệu quả truyền đạt cao.
- Cần tăng số lư ng bài, rút ngắn thời gian đăng tải thông tin
Hiện nay, báo chí Tiền Giang có thể đăng tải nội dung về quảng bá nông
sản mọi lúc, mọi nơi và không giới hạn số lượng. Tuy nhiên, kinh phí còn hạn
hẹp, chuyên môn của phóng viên bị hạn chế và tầm nhìn của lãnh đạo chưa
sâu, chưa sát nên vấn đề tuyên truyền quảng bá cho nông sản còn hạn chế. Vì
thế, việc tăng số lượng bài, rút ngắn thời gian đăng tải thông tin, đáp ứng
thông tin nhanh, kịp thời; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
những người làm báo là cần thiết. Có như vậy, thông tin về nông sản mới liên
tục, tác động mạnh đến bạn đọc và người xem.
- Cần quảng bá rộng rãi với công chúng nông thôn
Nghiên cứu nhu cầu của công chúng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về
số lượng và chất lượng của các phương tiện truyền thông, nhu cầu được tiếp
nhận thông tin của công chúng cũng được nhân lên.
71
Nông dân Nguy n Văn Minh thì cho rằng:
“Hiện nay, người dân có nhiều nguồn cung cấp thông tin. Tuy nhiên,
thông tin chúng tôi thường có đư c là nghe ngóng từ các nhà vườn bán trước
đó, điện thoại hỏi trực tiếp các thương lái, rất ít xem thông tin giá cả thị
trường trên mạng và trên truyền hình”.
Việc nghiên cứu công chúng báo chí cũng cần phải được tiến hành
thường xuyên, có tổ chức, có hệ thống và được coi là công việc không thể
thiếu trong hoạt động báo chí.
- Tổ chức những kênh tương tác
Trước sự phát triển quá nhanh của mạng xã hội, nhiều cơ quan báo chí
đã phải theo đuôi thông tin của các trang mạng này. Tuy vậy, việc tận dụng
tính lan tỏa của mạng xã hội đã được các cơ quan báo chí tính đến. Một mặt,
những cơ quan báo chí này mong muốn đưa được thông tin nhanh, rộng khắp
đến mọi tầng lớn nhân dân; mặt khác, báo chí muốn tạo tính tương tác nhằm
bổ sung thêm thông tin cho vấn đề này.
Ngoài việc thu hút lượng độc giả, các cơ quan báo chí còn lợi dụng
truyền thông xã hội để thực hiện sự tương tác, tốt hơn với công chúng. Sự
tương tác này vừa thể hiện ở sự lắng nghe những lời bình luận của công
chúng, đồng thời cũng thúc đẩy công chúng tham gia vào quá trình sản xuất,
truyền phát thông tin. Công chúng có thể đưa ra bình luận tức thời về tác
phẩm báo chí, chỉ cần có thiết bị di động thông minh có kết nối Internet.
Trong những trường hợp, những ý kiến quý báo của công chúng giúp nhà báo
có thể mở rộng đề tài và gốc nhìn, tổ chức những tuyến bài mới có chiều sâu,
tăng tính thuyết phục cho bài báo.
Tuy vậy, nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đó là việc, Ban Biên tập của báo
hay Ban Giám đốc của Đài khó có thể kiểm soát được hết tất cả các bình luận,
ý kiến phản hồi của bạn đọc. Tất cả những bình luận có nội dung xấu, xuyên
72
tạc, vi phạm quy định của pháp luật, các tờ báo điện tử chỉ có thể xóa sau khi
đã được người viết xuất bản, tức là khâu hậu kiểm. Với những tờ báo có
lượng bạn đọc lớn thì công việc kiểm soát không phải lúc nào cũng bảo đảm
nguyên tắc “duyệt tức thì”, hay có khả năng bị lọt và vẫn bị lưu giữ nhiều giờ
trên trang là phổ biến.
Hiện, báo Ấp Bắc điện tử cũng đã tạo trang fanpage trên Faceboox để có
thể d dàng tương tác.
Đồng chí Phạm Văn Sơn, Phó Tổng Biên tập Báo Ấp Bắc cho biết:
“Sau khi xây dựng fanpage trên Faceboox, số lư ng truy cập vào bài
viết lớn hơn. Nhiều thông tin đư c tương tác trực tiếp trên trang này, giúp
cho báo Ấp Bắc điện tử có cách nhìn đa chiều hơn, sâu sắc hơn. Mặc dù,
chúng tôi có phân công phóng viên theo phụ trách. Song, đa số các thông tin
đư c đưa lên đều là tin về hoạt động của lãnh đạo, tin “nóng”, tin an ninh
trật tự…chiếm đa số. Bởi, những thông tin này đư c đa số cộng đồng mạng
quan tâm”.
Cùng với việc phản ánh tình hình nông sản, gương người tốt việc tốt, mô
hình kinh tế mới, báo chí Tiền Giang cũng cần tích cực hơn trong việc trao
đổi các kiến thức về nông sản, hướng dẫn bà con nông dân bằng cách cùng
bàn bạc, trao đổi với các kỹ sư, giáo sư trong l nh vực này. Các giáo sư, tiến s
hay kỹ sư…thường là những người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu sắc
về vấn đề nông sản nên việc họ hướng dẫn cho bà con nông dân về một
phương thức mới trong sản xuất sẽ rất d tạo được lòng tin tưởng, cùng sự
đồng tình, hưởng ứng của bà con nông dân.
- Báo chí cần gắn với doanh nghiệp có liên quan
Phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng xây dựng
và quảng bá thương hiệu mặt hàng nông sản là rất cần thiết cho cơ quan báo
chí và cũng có lợi cho doanh nghiệp.
73
Trong năm 2018, chuyên mục “Cây lành trái ngọt” của Đài PT-TH Tiền
Giang đã được nhãn hàng bí đao chanh Thiên Long Bảo tài trợ 30 triệu
đồng/chương trình. Tuy nhiên, doanh nghiệp này tài trợ chỉ vỏn vẹn được hơn
3 tháng (từ ngày 3-1 đến 24-4).
Vấn đề này, đồng chí Nguy n Văn Phấn, Phó Giám đốc Đài PT-TH Tiền
Giang cho biế: Doanh nghiệp và Đài PT-TH Tiền Giang không tiếp tục phối
h p do trục trặc trong h p đồng và doanh nghiệp nhận thấy chưa mang lại l i
ích nhiều trong việc truyền thông quảng bá sản phẩm của họ. Mặc dù, doanh
nghiệp tài tr nhưng nội dung do Ban Giám đốc Đài quyết định. Chính điều
này, khá nhiều doanh nghiệp tìm đến rồi lại ra đi chỉ trong một thời gian ngắn.
Chương trình tọa đàm truyền hình trực tiếp “Bạn nhà nông” phát trên
Đài PT-TH Tiền Giang được khá nhiều doanh nghiệp đăng ký tài trợ. Mỗi
chương trình có một nhà tài trợ khác nhau và chủ đề cũng khác nhau. Việc
liên kết này có lợi cho đài rất nhiều. Nhưng chưa thu hút được khán giả. Bởi,
các doanh nghiệp khi thực hiện chương trình này đều có mời các di n giả là
nhà khoa học, cơ quan nhà nước và cả Giám đốc doanh nghiệp. Tuy nhiên,
khi đi vào chương trình, hầu hết các di n giả này đều nói về ưu điểm của sản
phẩm nhà tài trợ, không nói nhiều vào vấn đề kỹ thuật, đầu ra nông sản hoặc
trồng cây gì? Bán ở đâu? Chính điều này, người xem không quan tâm đến
chương trình ngày càng nhiều.
Hiện nay, Báo Ấp Bắc điện tử chưa phối hợp được với các doanh nghiệp
để hỗ trợ chi phí tuyên truyền, cũng như chưa có ký kết thỏa thuận hợp tác
trong công tác truyền thông quảng bá các sản phẩm nông sản. Chính điều này,
Ban Biên tập báo chưa mặn mà và cũng chưa tập trung phản ánh chuyên sâu
cho vấn đề nông sản.
Đồng chí Phạm Văn Sơn, Phó Tổng Biên tập Báo Ấp Bắc nhìn nhận:
“Liên kết với doanh nghiệp không chỉ giúp báo tăng nguồn thu, bổ sung vào
74
nguồn nhuận bút, mà còn hiệu quả về mặt xã hội rất lớn. Báo có điều kiện
thực hiện chuyên mục nông sản thường ngày, cập nhật thông tin về nông sản
mới nhất để nông dân vận dụng vào quá trình sản xuất của mình. Khi đã có
kinh phí, báo thường xuyên đưa thông tin về giá cả thị trường, kỹ thuật trồng,
đầu ra sản phẩm, doanh nghiệp bao tiêu, mối liên kết giữa nông dân và
doanh nghiệp, cảnh báo dịch hại ra sao? Từ đó, tờ báo như một thông tin
không thể thiếu đối với người nông dân trong quá trình sản xuất”.
- Báo chí kết h p với các cơ quan chuyên môn
Báo chí Tiền Giang cần phối hợp với cơ quan chuyên môn tuyên truyền
về việc tăng cường năng lực nghiên cứu, dự báo và thông tin thị trường; cập
nhật thông tin về chính sách thương mại, tiêu chuẩn, quy chuẩn của từng thị
trường để xây dựng chiến lược, đề án phát triển thị trường cho các sản phẩm
nông sản chủ lực. Đa dạng hóa thị trường nhất là phát triển các thị trường
tiềm năng, thị trường “ngách”.
Tuyên truyền đậm nét cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam”. Xây dựng hình ảnh sản phẩm nông sản Việt Nam chất lượng
cao, đảm bảo an toàn thực phẩm và phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Truyền
thông mạnh mẽ về việc phát triển hạ tầng thương mại (chợ đầu mối, siêu thị,
hệ thống buôn bán, bán lẻ…), hệ thống logistics kết nối giữa người sản xuất
với nhà phân phối.
3.3. Khuy n nghị:
- Nhà nước:
Để tăng cường hiệu quả truyền thông quảng bá nông sản, vai trò quản lý
của nhà nước là rất quan trọng. Đặc biệt, vai trò này được khẳng định rõ trong
việc nhà nước liên kết cùng các đơn vị khác, giúp nông dân tiêu thụ nông sản.
Do đó, nhà nước cần phối hợp với các cơ quan báo chí tăng cường thông tin
về mối liên kết “4 nhà” (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà
75
nông) theo Quyết định 80 QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Vai trò của liên
kết “4 nhà” được đánh giá là rất quan trọng trong việc hỗ trợ nông dân biết
được sản phẩm của mình làm ra bán cho ai? Giá cả bao nhiêu? Lợi nhuận như
thế nào? Mặc dù Quyết định ra đời từ năm 2002, nhưng hiện nay, liên kết này
vẫn lỏng lẻo, nông dân sản xuất ra nhưng doanh nghiệp không thu mua hoặc
doanh nghiệp đề nghị nông dân trồng theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng khi
thu hoạch thì mua với số lượng hạn chế.
Trong mối liên kết “4 nhà” này, vai trò của nhà nước, nhà khoa học hết
sức mờ nhạt. Nhà khoa học hiện chưa góp tiếng nói thực sự giúp nông dân
trong việc tìm ra các chiến lược sản xuất phù hợp, các giống cây trồng có
năng suất cao, chất lượng tốt. Nhà nước cũng chưa đủ sức mạnh để điều tiết
các mối quan hệ này theo ý chủa quan của mình. Vì vậy, thị trường tiêu thụ
nông sản hiện nay hết sức lộn xộn, tư thương lũng đoạn, ép giá nông dân
khiến bà con sản xuất ra không có lãi hoặc thua lỗ.
Hơn nữa, nhà nước cần phải đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến
khích các cơ quan báo, đài đầu tư hơn nữa, có hiệu quả hơn nữa trong việc
thông tin, tuyên truyền về nông sản. Nhà nước cũng cần tổ chức thêm nữa hội
nghị xúc tiến đầu tư về nông sản, cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp thu
mua nông sản với nhau. Ngoài ra, nhà nước cũng là đơn vị thúc đẩy hoạt động
của các Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư, Trạm Khuyến nông - Khuyến
ngư, các hiệp hội, đoàn thể để các tổ chức này phát huy hơn nữa vai trò cung
cấp thông tin cho người nông dân.
Cuối cùng, các cơ quan quản lý nhà nước cũng tập trung nguồn lực hơn
nữa cho truyền thông về nông sản. Nhà nước hỗ trợ kinh phí, nhân lực…để
cung cấp các dịch vụ thông tin cơ bản về kỹ thuật sản xuất, cảnh báo dịch
bệnh; phòng và chống cũng như các thông tin dự báo về thị trường, giá cả,
cung cầu để hỗ trợ cho người sản xuất và doanh nghiệp.
76
- Đối với nhà khoa học:
Đây là đội ngũ vô cùng quan trọng trong việc chỉ dẫn – tư vấn khoa học
kỹ thuật cho nông dân trong việc sản xuất nông sản. Tuy nhiên, không phải
nhà khoa học nào cũng làm chỉ dẫn – tư vấn khoa học kỹ thuật tốt. Có những
nhà khoa học kiến thức rất rộng, chuyên môn rất sâu nhưng cách truyền đạt
bằng lời nói không tốt, dùng từ ngữ khó hiểu…thì nông dân không thể tiếp
thu được. Một nhà khoa học phù hợp với chỉ dẫn – tư vấn khoa học kỹ thuật
là người có cách di n đạt dân dã, d hiểu, pha chút dí dỏm và quan trọng là
kiến thức thực tế trong sản xuất nông sản phải thật rộng, phải có tính cách
thân thiện, hòa đồng với nông dân.
Do vậy, đội ngũ làm báo cần phải biết khai thác đội ngũ khoa học một cách
hợp lý. Vì nhà báo là người tổ chức sản xuất tác phẩm báo chí nên nhà báo cần
nhất thiết chú trọng đến mối quan hệ với các chuyên gia, nhà khoa học tham gia
vào việc sản xuất tác phẩm báo chí. Thứ nhất cần chọn đúng chuyên gia tư vấn,
hỗ trợ cho nông dân các quy trình canh tác nông sản nhằm giúp người dân hiểu
và làm theo một cách d dàng. Thứ hai, nhà báo cần phối hợp với chuyên gia,
nhà khoa học trong việc xây dựng kịch bản hay đề cương tác phẩm báo chí viết
về nông sản, để qua đó học có thể nắm vững nguyên tắc cũng như cách thức
truyền thông nông sản đến đông đảo mọi người hưởng thụ tốt nhất thông tin
được chuyển giao. Thứ ba, trình độ chuyên môn và tính cách của từng nhà khoa
học, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến yếu tố vùng miền. Tốt nhất là sử dụng
người địa phương. Điều này có thể giúp cho nhà khoa học và nông dân có ngay
sự gắn kết với nhau. Đó là vì nghe giọng nói được d dàng, sử dụng từ địa
phương hợp lý và nhà khoa học đó hiểu được điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí
hậu và cả bản tính của nông dân trong vùng đó…nên sẽ có cách truyền đạt về
sản xuất nông sản một cách tốt nhất. Và khi đó, nông dân sẽ tiếp thu d dàng. Họ
77
hiểu vấn đề và việc làm theo cũng trở nên thuận lợi. Có như vậy, hiệu quả mang
lại từ sự truyền đạt mới được nâng cao.
- Đối với doanh nghiệp
Cần thay đổi nhận thức theo hướng tích cực về tầm quan trọng của
quảng bá sản phẩm nông sản. Theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công
nghệ), năm 2018, cả nước có hơn 90.000 thương hiệu hàng hóa các loại được
đăng ký bảo hộ tại Việt Nam nhưng chỉ có khoảng 15% là của Việt Nam.
Qua con số nêu trên cho thấy doanh nghiệp chưa thật sự mặn mà với việc
đăng ký bảo hộ và quảng bá thương hiệu, đặc biệt là thương hiệu nông sản.
Một thực tế đang di n ra tại thị trường Việt Nam là nông dân trực tiếp làm
ra sản phẩm nông sản, doanh nghiệp là người thu mua nhưng các doanh nghiệp
này chưa liên kết chặt chẽ với nông dân, chưa hỗ trợ nông dân trong việc thực
hiện và duy trì cách thức sản xuất nông sản an toàn vì chi phí cao, sản phẩm
kém hấp dẫn về hình thức và khó bán được giá cao hơn sản xuất truyền thống,
trong khi người tiêu dùng lại cho rằng họ sẵn sàng trả giá cao nếu biết sản
phẩm mình mua thật sự là an toàn nhưng không có cách để xác minh xem sản
phẩm nào an toàn. Vì thể, để phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng an toàn tại
Việt Nam, các nhà cung cấp và chế biến thực phẩm đã, đang nhập khẩu các
thương hiệu nông sản từ các nước như: Thái Lan, Úc, Mỹ và kể cả Trung
Quốc. Theo quy luật của kinh tế thị trường, nếu muốn có khách hàng thì nhà
sản xuất đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, nếu nhà sản xuất đảm bảo an
toàn và giữ chữ tín, mới cam kết dùng thường xuyên với giá cao hơn.
Do vậy, vì quyền lợi của mình, các doanh nghiệp cần nhanh chóng xây
dựng và quảng bá thương hiệu nông sản của chính mình, của doanh nghiệp
mình. Và để không bị mất thương hiệu của sản phẩm nông sản, các doanh
nghiệp cần thay đổi nhận thức theo hướng tích cực, thấy được tầm quan trọng
của thương hiệu nông sản khi nước ta tham gia vào thị trường quốc tế, cần
78
dành kinh phí cho các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không chỉ trong
nước mà cả nước ngoài và hoạt động truyền thông quảng bá sản phẩm.
Hiện, những thương hiệu nông sản thuộc sở hữu tập thể, cộng đồng thì
chưa được quan tâm. Những thương hiệu này thường trực thuộc hội, hiệp hội
các nhà sản xuất. Muốn đăng ký, tất cả thành viên trong hiệp hội phải đồng
lòng, thấy được tầm quan trọng. Những thương hiệu này sẽ bị kiện hoặc bị
ngăn chặn xuất khẩu ngay tại cửa biên giới các nước do xâm phạm quyền
nhãn hiệu tại các nước đã được đăng ký bảo hộ.
- Đối với nông dân:
Ngày nay, thông tin và truyền thông không ngừng phát triển. Nếu không
tiếp cận kịp thời với những thông tin mới nhất về thị trường, kỹ thuật, chính
sách…bản thân nông dân sẽ là người chịu thiệt thòi nhiều nhất và trực tiếp bị
ảnh hưởng nhất. Vì thế, không ai khác, chính người nông dân sẽ là đối tượng
đầu tiên cần nâng cao nhận thức về vai trò của thông tin đối với việc phát
triển kinh tế-xã hội.
Từ chỗ ý thức được vai trò đó, người nông dân cũng biết cách sắp xếp
thời điểm xem các chương trình truyền hình phát về nông nghiệp-nông dân-
nông thôn, tham gia các buổi hội thảo do các doanh nghiệp chuyên kinh doanh
về nông sản tổ chức, đầu tư mua cơ sở vật chất như máy tính bàn kết nối
Internet để tiếp cận thông tin về nông sản một cách nhanh và chủ động hơn.
Hơn thế nữa, bản thân nông dân cũng nên chủ động, mạnh dạn trong việc
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Điều này sẽ là một
nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt, nữ
nông dân, những người còn nhiều hạn chế trong việc tiếp cận các thong tin
cần tự ý thức hơn nữa về vai trò của thông tin, chủ động tìm kiếm thông tin từ
hàng xóm, từ hội phụ nữ hay các kênh thông tin khác.
79
Ở từng ấp, từng xã có thể hình thành những câu lạc bộ nông dân. Trong
đó, những người có học vấn cao hơn có thể giúp những người khác trong việc
tiếp cận thông tin từ báo in và báo mạng. Khi những người trong nhóm có
thắc mắc gì sẽ cùng trao đồi, chia sẻ thông tin.
- Đối với báo, đài:
Để tăng cường hiệu quả của về truyền thông quảng bá nông sản, các
kênh thông tin của báo, đài trên l nh vực này cũng phải không ngừng hoàn
thiện về mặt chất lượng và số lượng. Tác giả đề xuất một số ý kiến góp phần
nâng cao hiệu quả của các kênh thông tin này:
Thứ 1, Báo Ấp Bắc điện tử cần có riêng một chuyên mục dành cho nông
sản. Trong đó, báo cần tập trung vào các địa chỉ mua-bán sản phẩm, giá cả
các loại nông sản, giá vật tư nông nghiệp; tiếp theo là những bài báo của các
nhà khoa học cung cấp thông tin định hướng cho nông dân nên trồng cây gì,
con gì, giống như thế nào, mua ở đâu, khu vực nào nên trồng… Có như vậy,
nông dân sẽ định hướng được việc sản xuất của mình, tránh tình trạng trồng
tràn lan, có cây gì trồng cây ấy, một vườn trồng 5-7 loại xen canh nhau. Từ
sản xuất đến thu hoạch cũng phải có những bài báo hướng dẫn bà con cách
thu hoạch, phơi sấy, bảo quản để giữ được chất lượng hàng hóa. Bởi, hiện
nay, giá các loại nông sản Việt Nam ngoài chất lượng giống kém thì việc thu
hoạch, bảo quản kém cũng dẫn tới tình trạng nông sản mất giá.
Thứ 2, mỗi cơ quan truyền thông, mỗi kênh thông tin là một sàn giao
dịch kết nối cung-cầu để tiêu thụ nông sản. Các cơ quan này với chức năng
của mình ngày nay không chỉ là cơ quan tuyên truyền mà còn là doanh nghiệp
với khả năng tổ chức các sự kiện, hội thảo về những vấn đề mà dư luận xã hội
đặt ra. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng của thông tin nông sản, các kênh
truyền thông đại chúng như: truyền hình, báo điện tử nên xây dựng mạng lưới
cộng tác viên là những nhà khoa học, nhà kinh tế, nhà doanh nghiệp thuộc
80
l nh vực nông nghiệp để đặt họ những bài viết chuyên sâu, có tính chuyên
môn cao trong việc đưa ra những chiến lược phát triển chung cho ngành Nông
nghiệp. Truyền hình và báo điện tử cũng có thể xây dựng mạng lưới cộng tác
viên là nông dân, đặc biệt là những nong dân sản xuất kinh doanh giỏi viết về
kinh nghiệm của mình. Có như vậy, nội dung mới phong phú, người dân d
tiếp cận với phương thức, kỹ thuật hơn.
Thứ 3, việc điều chỉnh khung giờ phát sóng của Đài PT-TH Tiền Giang
cần linh hoạt và bám sát vào thời điểm người dân mong muốn dành cho việc
tiếp cận thông tin nông sản nhiều nhất vào lúc 17 đến 20h. Hiện, Đài PT-TH
Tiền Giang có nhiều chương trình, chuyên mục về nông sản nhưng khá nhiều
người xem cho biết, họ rất ít xem chương trình của đài vào thời gian này. Bởi,
một mặt, người dân vùng nông thôn có thói quen đi ngủ ở thời điểm khoảng
20 h để chuẩn bị cho ngày đi đồng hôm sau, thời điểm phát chương trình “cây
lành trái ngọt” của Đài PT-TH Tiền Giang. Một bộ phận khác cho rằng: Thời
điểm này, nhiều chương trình của các đài khác còn hay hơn nên họ tập trung
xem phim, giải trí…trước khi đi ngủ.
Thứ 4, phải đổi mới phương thức thể hiện. Sự nhàm chán, đơn điệu về
hình thức thể hiện cũng khiến cho độc giả, khán giả lơ đ nh trong tiếp cận
thông tin. Do vậy, chính mỗi phóng viên, nhà báo phải tiền hành thường
xuyên sự đổi mới cách thức, phương thức thể hiện.
Hình ảnh là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm báo chí. Theo các
nghiên cứu, người ta tiếp cận thông tin 70% qua hình ảnh và 20% qua âm
thanh và 10% nội dung. Thật vậy, phóng sự thời sự cần khai thác nhiều hơn
những chi tiết kịch tính của sự kiện qua hình ảnh có hàm lượng thông tin cao,
lời bình xác đáng, ngắn gọn. Đổi mới cách thể hiện là cần phải tính đến tổng
hợp nhiều yếu tố trong đó như tiết tấu, thể loại, âm nhạc, đồ họa, người dẫn
dắt…cần linh động để sử dụng phù hợp.
81
Tiểu k t chƣơng 3
Tóm lại, nông sản miền Tây Nam Bộ vẫn có giá trị quan trọng trong
chiến lược an toàn lương thực quốc gia, cùng với mục tiêu lâu dài như hiện
đại hóa mọi mặt cho sản xuất, trong đó có xuất khẩu nông sản; đào tạo, nâng
cao trình độ, kỹ năng nông dân trong sản xuất, kinh doanh; từng bước cải
thiện, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của người dân sống ở
nông thôn.
Trong chương này, tác giả đã phân tích những vấn đề đặt ra hiện nay
trong việc truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản miền Tây Nam Bộ trên
báo chí Tiền Giang. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và truyền thông
số như hiện nay thì vấn đề truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản trên báo
chí được đặt ra đối với cả Nhà nước, nhà khoa học, nông dân, doanh nghiệp
và chính mỗi cơ quan báo chí, mỗi nhà báo cụ thể.
Qua phân tích ở chương 2 và những vấn đề đặt ra trong chương 3, luận
văn đã đưa ra một số giải pháp đối với các doanh nghiệp, nông dân, địa
phương, các cơ quan báo chí và chính bản thân các nhà báo để công tác
truyền thông quảng bá sản phẩm nông sản đạt hiệu quả cao hơn. Trong đó,
phương hướng truyền thông chủ yếu cần sự góp sức từ chính các doanh
nghiệp, chính các cơ quan báo chí và của mỗi nhà báo.
82
KẾT U N
Báo chí Tiền Giang đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc truyền thông
quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ cho người tiêu dùng trong và ngoài
nước. Những thông tin trên Báo Ấp Bắc điện tử và Đài PT-TH Tiền Giang có
sức mạnh và tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn đến nhận thực chung của cộng
đồng. Nó không chỉ nâng cao nhận thức của công chúng mà còn tiến tới làm
thay đổi nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, người sản xuất nói riêng và
của công chúng nói chung về tầm quan trọng của việc xây dựng, bảo vệ và
quảng bá nông sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Việc phân tích, đánh giá đúng thực trạng công tác truyền thông trên báo
chí Tiền Giang trong việc quảng bá sản phẩm nông sản để đưa ra giải pháp
hữu hiệu nhằm góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng, phát triển nông sản
Việt Nam là vấn đề hết sức quan trọng không chỉ về mặt nhận thức, lý luận
mà còn về mặt thực ti n trong điều kiện nước ta hội nhập sâu rộng và nền
kinh tế quốc tế. Xuất phát từ quan điểm này, luận văn đã tập trung nghiên cứu
và giải quyết những vấn đề sau:
Luận văn đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công
tác truyền thông quảng bá nông sản; vai trò, ý ngh a của công tác truyền thông
quảng bá nông sản. Thông qua việc tiếp thu, tìm hiểu, luận văn cũng đã đưa ra
những vấn đề về lý luận của báo điện tử, truyền hình; thế mạnh của báo điện
tử, truyền hình so với loại hình báo in trong việc truyền thông quảng bá nông
sản. Đồng thời, luận văn cũng chỉ rõ vai trò của báo điện tử, truyền hình đối
với công tác truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ để nông sản
khu vực này có sức cạnh tranh trên thương trường.
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thông qua nghiên cứu các bài
báo, phỏng vấn lãnh đạo, biên tập viên, phóng viên của Báo Ấp Bắc điện tử
và Đài PT-TH Tiền Giang, luận văn tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng
83
nội dung và hình thức truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên
báo điện tử và truyền hình hiện nay. Đồng thời, đối chiếu với những ý kiến
của doanh nghiệp, người tiêu dùng, biên tập viên, phóng viên trong quá trình
phỏng vấn sâu, từ đó, luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của báo chí
truyền hình trong việc truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ
hiện nay.
Trong xu thế phát triển của báo chí hiện đại và trong khi Việt Nam gia
nhập nền kinh tế quốc tế, với một nền kinh tế thị trường như hiện nay, luận
văn chỉ ra sự cần thiết và những giải pháp để nâng cao hiệu quả truyền thông
quảng bá nông sản trên báo điện tử và đài truyền hình.
Luận văn cũng đề cập đến 3 vấn đề từ bối cảnh kinh tế chung, từ phía
doanh nghiệp và cơ quan báo chí. Qua đó, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả truyền thông quảng bá nông sản trên báo điện tử và truyền
hình hiện nay. Trong đó, nhận thức từ phía doanh nghiệp, các địa phương
đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện, xây dựng, bảo vệ và quảng
bá nông sản miền Tây Nam Bộ. Trong đó, công tác truyền thông quảng bá đạt
hiệu quả cao trước hết phải từ phía doanh nghiệp, người sản xuất phải có ý
thức, nhận thức vấn đề, chủ động phối hợp với cơ quan báo chí trong việc
quảng bá nông sản.
Cùng với đó, luận văn cũng chỉ ra những giải pháp tối ưu dành cho Báo
Ấp Bắc điện tử, Đài PT-TH Tiền Giang đối với công tác truyền thông quảng
bá nông sản như: nội dung gần gũi, cách trình bày phải hấp dẫn, thời lượng
hợp lý hơn. Đồng thời, biên tập viên, phóng viên cần được đào tạo, nâng cao
trình độ, kiến thức chuyên ngành; hình thành đội ngũ nhà báo chuyên nghiệp,
bám sát cơ sở, đi sâu vào thực ti n để các bài viết vừa sâu sắc vừa có tính
định hướng dư luận; tận dụng kiến thức chuyên gia hợp lý, thay đổi cách thức
thể hiện tác phẩm.
84
Ngoài những giải pháp nêu trên, tác giả luận văn cũng đưa ra kiến nghị
đối với Nhà nước trong việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người sản xuất,
các cơ quan báo chí quảng bá sản phẩm nông sản.
Đây là một đề tài nghiên cứu về hoạt động truyền thông của báo chí mà
cụ thể là báo điện tử và truyền hình trong việc truyền thông quảng bá nông
sản miền Tây Nam Bộ. Do vậy, trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, tác
giả chưa có điều kiện khảo sát và có những điều tra xã hội học sâu rộng.
Do thời gian nghiên cứu còn ít, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học của
tác giả còn hạn chế nên chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót
cần khắc phục. Do vậy, rất mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của đồng
nghiệp, các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn nữa các
nội dung của luận văn.
85
TÀI IỆU THAM KHẢO
* Tài liệu báo chí - truyền thông
1. Lê Thanh Bình (2004), Quản l và phát triển báo chí xuất bản, NXB
Chính trị quốc gia Hà Nội.
2. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế văn hóa, xã
hội. NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
3. Hoàng Đình Cúc - TS. Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí
hiện đại, NXB Lý luận chính trị.
4. Nguy n Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội.
5. Nguy n Văn Dững, Cơ sở l luận báo chí, NXB Lao động.
6. Nguy n Văn Dững (2012), Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công
tác tư tưởng, l luận và quản l báo chí, Đề cương chuyên đề phục vụ
lớp thi nâng ngạch giảng viên chính, BTVC, PVC và tương đương.
7. Nguy n Văn Dững và Đỗ Thị Thu Hằng (2012), Truyền thông lý
thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
8. Nguy n Văn Dững (Chủ biên) – Ths. Đỗ Thị Thu Hằng (2006), Truyền
thông - L thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
9. Hà Minh Đức (1997), Báo chí những vấn đề l luận và thực tiễn, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở l luận báo chí đặc tính chung và phong
cách, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Nguy n Thị Thanh Huyền (sách chuyên khảo), Quan hệ công chúng –
l luận và thực tiễn. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Đỗ Thị Thu Hằng (2011), PR - Công cụ phát triển báo chí, Nhà xuất
bản Trẻ.
13. Đỗ Thị Thu Hằng (2009), Tài liệu Tổng quan về PR và kỹ năng PR.
86
14. Đinh Thị Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới và xu hướng phát triển,
NXB Thông tấn.
15. Lê Hải (2013), Xây dựng tập đoàn truyền thông giải pháp chiến lư c
trong phát triển nền báo chí Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật
Hà Nội.
16. Đào Đức Huấn, Tập chí Cộng sản (ngày 8-10-2018), Xây dựng và
phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế.
17. Nguy n Thế Kỷ, báo chí dưới góc nhìn thực tiễn, NXB Thông tin và
Truyền thông.
18. Nguy n Thành Lợi (2014), Tác nghiệp báo chí trong môi trường
truyền thông hiện đại, NXB Thông tin và Truyền thông.
19. Dương Xuân Ngọc (2012), Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia.
20. Đỗ Chí Ngh a (2012), Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận
xã hội, NXB Chính trị quốc gia.
21. Nguy n Thị Hồng Nhung (chủ biên) (2013), Xu hướng hội nhập kinh
tế quốc tế giai đoạn 2011-2020, NXB Khoa học xã hội.
22. Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học báo chí, NXB Trẻ.
23. Dương Xuân Sơn (2013), Báo chí Việt Nam thời kỳ đổi mới từ 1986
đến nay, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
24. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2003), Cơ sở l
luận báo chí truyền thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Dương Xuân Sơn-Đinh Văn Hường-Trần Quang (in lần thứ 3), cơ sở
lý luận báo chí truyền thông. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Đặng Kim Sơn (2007), Nông nhiệp-nông thôn-nông dân: hôm nay và
mai sau, NXB Chính trị quốc gia.
87
27. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) - Nguy n Tiến Hài (1995), Tác phẩm báo chí,
NXB Giáo dục.
28. Nguy n Từ chủ biên (2008) “Tác động của hội nhập kinh tế đối với
phát triển nông nghiệp Việt Nam”.
29. Nguy n Như (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
30. Nguy n Uyển (2001), “Nông nghiệp, nông dân và nông thôn-Nguồn
đề tài phong phú của báo chí”.
31. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, NXB Chính trị quốc
gia.
** Tài liệu có li n quan
32. Nguy n Hồng Anh (2018), luận văn thạc s chuyên ngành Quan hệ
công chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
33. Nguy n Văn Giang (2013), luận văn thạc s chuyên ngành Quan hệ
công chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
34. Thái Thu Quyên (2015), luận văn thạc s chuyên ngành Quan hệ công
chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
35. Lê Minh Tuấn (2015), Đồng bằng sông Cửu Long với vấn đề truyền
thông, quảng bá sản phẩm nông nghiệp địa phương, luận văn thạc s
báo chí học, TP. Hồ Chí Minh.
*** Tài liệu khác
Báo Ấp Bắc, 2018. 36.
37. Ban Kinh tế Trung ương, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Trường Đại học
Cần Thơ (2014), Tái cơ cấu nông nghiệp “Liên kết vùng đồng bằng sông
Cửu Long trong cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng”, Tài liệu phục
vụ hội thảo.
88
38. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, xúc tiến, quảng bá thương hiệu
nông sản, đặc điểm vùng miền.
39. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2019), thúc đẩy phát triển
bền vững cây ăn quả các tỉnh phía Nam, tài liệu phục vụ hội nghị.
40. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND tỉnh Tiền Giang (2017),
thúc đẩy phát triển sản xuất, xuất khẩu trái cây, Tài liệu phục vụ hội
nghị.
41. Đài PT-TH Tiền Giang, 2018.
42. Nghị quyết 26-NĐ/TW (2008) của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
43. Nghị định 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến khích liên kết,
hợp tác trong sản xuất.
44. Nghị định 116/2018/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
nội dung của Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ, với nhiều
chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp
công nghệ cao, các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.
45. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang (2017), phát
triển cây thanh long tỉnh Tiền Giang đến năm 2025, đề án.
Tạp chí Tài chính (Bộ Tài chính). 46.
Tài liệu Hội nghị toàn quốc (2018): “Thúc đẩy phát triển công nghiệp 47.
chế biến và cơ giới hóa nông nghiệp”.
Tỉnh ủy Tiền Giang (2005), Địa chí Tiền Giang (Tập II) 48.
Viện Cây ăn quả miền Nam (2009), giới thiệu các giống cây ăn quả 49.
phổ biến ở miền Nam, NXB Nông nghiệp.
89
PHỤ ỤC
Kính thưa Qu vị!
Truyền thông quảng bá có vai trò và ý ngh a rất lớn đối với việc đưa sản
phẩm nông sản từ người sản xuất đến với người tiêu dùng trong và ngoài
nước. Trong thời gian quan, nông dân làm ra nông sản luôn chịu cảnh: “được
mùa mất giá”, “được giá mất mùa”, nhà nước loay hoay tìm ra chính sách tối
ưu để hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp; phía doanh nghiệp đối mặt nhiều
khó khăn khi hàng nông sản ngoại nhập lấn nhanh vào sân nhà. Thực trạng
này có rất nhiều nguyên nhân và cũng cần có giải pháp thực tế mới dần giải
quyết được vấn đề này. Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông của chúng tôi
thực hiện đề tài: Truyền thông quảng bá nông sản miền Tây Nam Bộ trên báo
chí Tiền Giang.
Mong quý vị cộng tác với chúng tôi bằng cách trả lời đầy đủ các câu hỏi
thăm dò ý kiến này. Các câu trả lời của quý vị là những dữ liệu quan trọng, có
ý ngh a quyết định kết quả nghiên cứu và đề xuất khoa học, từ đó tư vấn cho
các cơ quan có thẩm quyền có chính sách hoạch định trong việc truyền thông
quảng bá nông sản hiện nay. Các thông tin mà quý vị cung cấp chỉ sử dụng
cho mục đích nghiên cứu khoa học và được đảm bảo tính khuy t danh khi
công bố tổng thể kết quả nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn quý vị!
A/Thông tin cá nhân
Năm sinh…………………………………………………………………
Cơ quan công tác hiện tại…………………….………………………….
Thời gian và địa điểm PV:…………………………..……………………
NỘI DUNG PHỎNG VẤN
B. Nội dung phỏng vấn sâu:
90
(Dành cho phóng viên, Biên Tập viên)
Câu 1: Anh/chị nhận thức như thế nào về vai trò của việc truyền thông
quảng bá nông sản địa phương trên báo chí Tiền Giang?
Câu 2: Trong quá trình tác nghiệp, anh/chị thấy có những thuận lợi và
khó khăn gì khi viết về đề tài quảng bá nông sản địa phương?
Câu 3: Theo anh/chị, báo chí Tiền Giang có vai trò như thế nào trong
việc truyền thông quảng bá nông sản của địa phương mình?
Câu 4: Xin anh/chị cho một vài nhận xét về những mặt được cũng như
chưa được của các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề về quảng bá nông
sản trên báo chí Tiền Giang hiện nay?
(Dành cho lãnh đạo các cơ quan báo chí, nhà quản lý)
Câu 1: Xin anh/chị đánh giá một vài vấn đề về vai trò của báo chí trong
việc truyền thông quảng bá nông sản cả nước nói chung và của Tiền Giang nói
riêng?
Câu 2: Theo anh/chị, các cơ quan báo chí cần phải làm gì để việc truyền
thông quảng bá nông sản được tốt hơn?
Câu 3: Anh/chị cho biết, vai trò của các doanh nghiệp trong việc truyền
thông quảng bá nông sản hiện nay như thế nào?
Câu 4: Theo anh/chị, trong thời gian tới, báo chí cần phải làm gì để nông
sản Tiền Giang nói riêng và cả nước nói chung được nhiều nơi biết đến?
Câu 5: Là ngành chuyên môn, anh/chị cho biết, quan điểm của mình về
vấn đề truyền thông quảng bá nông sản của báo chí hiện nay?
Câu 6: Để nông sản tỉnh Tiền Giang nói riêng và miền Tây Nam Bộ nói
chung được nhiều người biết đến và nông dân tiêu thụ được sản phẩm,
anh/chị có định hướng gì?
91
(Dành cho nông dân)
Câu 1: Thời gian qua, anh/chị trồng nông sản nhưng tiêu thụ sản phẩm
như thế nào?
Câu 2: Việc tiêu thụ như vậy, anh/chị thấy được cái gì và chưa được cái gì?
Câu 3: Khi cần những thông tin liên quan đến nông sản, bản thân
anh/chị thường tìm kiếm thông tin từ nguồn nào như: từ hệ thống truyền
miệng, truyền hình, báo in, báo mạng, điện thoại hay phát thanh?
Câu 4: Anh/chị có biết, sản phẩm mình trồng hiện nay đã có thương
hiệu hay chưa và tiêu thụ đi đâu không?
Câu 5: Để nông dân tiêu thụ được sản phẩm nông sản và giá cả hợp lý,
ngành chức năng cần phải làm gì?
(Dành cho doanh nghiệp)
Câu 1: Anh/chị có tìm hiểu và biết về nông sản của tỉnh Tiền Giang nói
riêng và các tỉnh Tây Nam Bộ nói chung?
Câu 2: Hiện nay, doanh nghiệp mình tiêu thụ sản phẩm bằng hình thức
gì và ở đâu?
Câu 3: Trong thời gian qua, cách thức truyền thông quảng bá nông sản
cho doanh nghiệp mình như thế nào?
Câu 4: Việc quảng bá như vậy đã mang lại lợi ích gì cho doanh nghiệp
cũng như nông sản của chúng ta?
Câu 5: Ngoài việc tự truyền thông quảng bá, anh/chị có nhận được phản
ánh từ đối tác về việc họ tiếp nhận thông tin về nông sản thông qua việc
truyền thông quảng bá của các cơ quan báo chí?
Câu 6: Anh/chị thường quan tâm đến phương tiện truyền thông nào trong
việc giới thiệu, quảng bá nông sản của ta đến người tiêu dùng trong và ngoài
nước?
92
Câu 7: Theo anh/chị, việc truyền thông quảng bá nông sản của các cơ
quan báo chí như vậy là được chưa? Trong thời gian tới, cơ quan báo chí cần
phải làm gì để giúp doanh nghiệp, cũng như hỗ trợ đưa thông tin nông sản đến
với người tiêu dùng khắp thế giới?