ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------
PHẠM THỊ THANH MAI
TỨ THƠ VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ HỮU THỈNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------
PHẠM THỊ THANH MAI
TỨ THƠ VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ HỮU THỈNH
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng. Các nội dung nghiên
cứu và các kết quả trong đề tài này là hoàn toàn trung thực và chưa công bố
dưới bất cứ hình thức nào trước đây. Những dẫn chứng phục vụ cho việc so
sánh, phân tích được chính tác giả luận văn thu thập từ các nguồn khác nhau
có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các nhà
nghiên cứu đi trước đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội
dung luận văn của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 201
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thanh Mai
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng,
người thầy đã hướng dẫn tận tình, đưa ra những định hướng, góp ý, nhận xét
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Văn học, trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc Gia Hà Nội tham gia
giảng dạy các môn học trong chương trình đào tạo Thạc sĩ Văn học đã cung
cấp kiến thức nền tảng cho luận văn.
Xin cảm ơn sự khích lệ, động viên của đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn
thiện quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn đến các bạn học viên lớp cao học Văn học K58- 2013
đã cùng tôi trao đổi, chia sẻ các kiến thức trong quá trình cùng học tập và làm
luận văn.
. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những người thân trong gia đình đã luôn
động viên, hỗ trợ và tạo động lực cho tôi trong quá trình tham gia chương
trình học.
Dù có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn đề tài Tứ thơ và cái tôi
trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi
mong muốn nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn. Tôi hi
vọng những nghiên cứu đặt ra trong luận văn sẽ trở thành nguồn tư liệu có giá
trị đối với việc dạy học tác phẩm văn chương của Hữu Thỉnh trong nhà
trường phổ thông.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 201
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thanh Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7
5. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 8
NỘI DUNG ....................................................................................................... 9
Chƣơng 1: SÁNG TÁC THƠ VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA
HỮU THỈNH ................................................................................................... 9
1.1 Hành trình sáng tạo ..................................................................................... 9
1.2 Quan điểm nghệ thuật ............................................................................... 14
Chƣơng 2: TỨ THƠ VÀ CẤU TỨ TRONG THƠ HỮU THỈNH ............ 26
2.1 Khái lược về tứ thơ và cấu tứ trong thơ ................................................... 26
2.1.1 Tứ thơ ..................................................................................................... 26
2.1.2 Cấu tứ ..................................................................................................... 29
2.2 Loại hình tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh ...................................................... 31
2.2.1 Tứ thơ về tình cảm gia đình ................................................................... 31
2.2.2 Tứ thơ về tình yêu ................................................................................... 37
2.2.3 Tứ thơ về nỗi cô đơn ............................................................................... 40
2.3 Nghệ thuật tổ chức tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh ....................................... 44
2.3.1 Cấu tứ liên tưởng ................................................................................... 44
2.3.2 Cấu tứ gợi mở ......................................................................................... 51
2.3.3 Cấu tứ kết chuỗi ..................................................................................... 54
Chƣơng 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ HỮU THỈNH .............. 58
3.1 Khái lược về cái tôi trữ tình ...................................................................... 58
3.2 Biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh ......................................... 63
3.2.1 Cái tôi trách nhiệm với Tổ quốc ............................................................ 63
3.2.2 Cái tôi nhạy cảm, tinh tế ........................................................................ 67
3.2.3 Cái tôi đầy trăn trở suy tư giữa cuộc đời ............................................... 71
3.3 Phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh .................... 77
3.3.1 Ngôn ngữ thơ .......................................................................................... 77
3.3.2 Giọng điệu .............................................................................................. 81
3.3.3 Biểu tượng thơ ........................................................................................ 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc với chiến thắng vào ngày 30-
4-1975 đã đánh dấu một kỉ nguyên mới, lật một trang mới trong lịch sử dân
tộc. Hòa chung với khí thế chống giặc ngoại xâm, văn học đã có đóng góp
không nhỏ trong việc khích lệ, cổ động tinh thần cho cuộc kháng chiến. Đồng
thời chính cuộc đấu tranh giành độc lập này đã thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ của nền thơ ca Việt Nam với sự lớn mạnh về đội ngũ sáng tác. Chưa bao
giờ lực lượng sáng tác thơ lại tập hợp được nhiều thế hệ và nhiều phong cách,
vừa thống nhất vừa bổ sung cho nhau như thời kì này. Từ những nhà thơ xuất
hiện từ trước những năm 1975 như Tố Hữu, Tế Hanh, Xuân Diệu, … đến các
nhà thơ thời kì kháng chiến chống Pháp như Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi,
Hoàng Trung Thông, … tất cả đều có những sáng tác nổi bật và gặt hái được
nhiều thành công. Cùng với đó, thời kì này đã xuất hiện rất nhiều các nhà thơ
trẻ với sự sáng tạo độc đáo, mang lại luồng gió mới và đã sớm khẳng định tên
tuổi của chính mình như: Thanh Thảo, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm,
Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh …
Cùng với sự phát triển đông đảo của số lượng các tác giả, diện mạo và
khuynh hướng văn học cũng có một sự phát triển tương đối rõ ràng. Các tác
phẩm viết về hiện thực đặc biệt là hiện thực chiến tranh đã không còn là hiện
thực “nhìn thấy” nữa mà thay vào đó là được hồi tưởng lại trong kí ức của tác
giả. Có lẽ bởi vậy, chiến tranh không đơn giản là được nhìn nhận bởi những
gì đang diễn ra, sự khốc liệt của cuộc kháng chiến dân tộc, tinh thần đấu tranh
quật cường của nhân dân, … mà còn là những nỗi đau trĩu nặng với những vết
thương nhức nhối khó lành. Và với sự thay đổi về nhu cầu sáng tác, thể loại
trường ca đã được xuất hiện rất nhiều gắn với những tên tuổi lớn như Thanh
1
Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Tiến Duật … Những trường ca
ra đời thể hiện nhu cầu tổng kết về chiến tranh với cái nhìn tổng quát nhất,
kéo dài trong cả một cuộc kháng chiến từ những giây phút ban đầu cho tới
khi đến thời bình. Đó là một cuộc chiến đầy đau thương mất mát và cũng có
nhiều hi sinh.
Bên cạnh việc viết về chiến tranh, giai đoạn văn học này còn viết nhiều
về cái tôi cá nhân, những âu lo trong cuộc sống đời thường của mỗi con
người. Những nỗi buồn nhân sinh, sự ưu tư trước cuộc đời dần dần được bày
tỏ qua cái tôi cá nhân. Các nhà thơ ý thức được đã đến lúc tách rời cái ta
chung để đi tìm hiểu chiều sâu tâm hồn con người. Những nỗi buồn trong thời
kì này không giống như trong Thơ mới, muốn thoát ly hiện thực mà gắn liền
với hiện thực, bộc lộ những cảm xúc cá nhân trước cuộc đời, con người,
những thay đổi làm nên bi kịch mới của con người. Đất nước kết thúc chiến
tranh, con người không còn có một mục tiêu chung để ra sức chiến đấu, họ trở
về cuộc sống bình thường với muôn mặt phải âu lo. Điều đó tạo nên sự bất an,
sự khủng hoảng về niềm tin trước cuộc đời. Đồng thời, nó còn là thái độ của
con người trước hiện thực cuộc sống với những gian dối, lọc lừa, sự vô tâm
vô tình giữa con người và đặc biệt là ở đó có một nỗi niềm cô độc không còn
ai để có thể bày tỏ sẻ chia. Thơ ca lúc này cũng mang một diện mạo mới với
những tác phẩm đã để lại dấu ấn riêng cho người đọc.
Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào thơ
ca cách mạng kháng chiến chống Mỹ. Con đường thơ ca của ông cũng nằm
trong mạch chảy và xu hướng chung của thơ ca cách mạng sau những năm
1975. Những trường ca, những tác phẩm thơ của ông sáng tác về đề tài chiến
tranh đã thể hiện được hiện thực với một quy mô đáng kể, đặc biệt là thông
qua hình ảnh người lính. Ta không chỉ quan sát được con đường hành quân
đầy gian khổ của người lính trẻ mà còn thấy được những suy tư, trải nghiệm,
2
những tình cảm đồng đội, gia đình, những cảm xúc trước cuộc đời của họ :
“Chúng tôi có những kỉ niệm riêng, những bài học những điều để nghĩ”.
Chiến tranh đã qua đi nhưng nó chưa bao giờ trở thành quá khứ trong cuộc
đời của mỗi người lính khi tham gia trận mạc. Nó vẫn tồn tại, đầy kỉ niệm và
gieo những ấn tượng khó quên trong lòng mỗi người.
Kết thúc chiến tranh, Hữu Thỉnh cũng như bao người chiến sĩ khác, cởi
bỏ chiếc áo lính để trở về cuộc sống đời thường với những suy tư, trăn trở,
những cô đơn giữa cuộc đời bộn bề. Con người không còn là con người chung
của Tổ quốc, của những chiến tích hào hùng mà là con người của những mảng
khối đa chiều, đa cực. Điều đó thôi thúc nhà thơ viết nên những vần thơ xót
xa, cô độc :
Càng viết càng thấy mình yếu đuối
Đường nhân nghĩa chừng nào còn lắm bụi
Anh hiểu vì sao tôi ít lời
(Chạm cốc với Xa-in)
Trong những sự cô đơn, xót xa trước sự thay đổi của thời cuộc ấy, vẫn
ánh lên những khao khát, những ước mơ của con người về vẻ đẹp tâm hồn của
con người, hướng con người về những chuẩn mực đạo đức chứ không phải là
những ước mơ tiêu cực, muốn thoát khỏi hiện thực. Nguyễn Nguyên Tản -
một cây bút nghiên cứu phê bình văn học đã viết về Hữu Thỉnh: "Thơ Hữu
Thỉnh có một vẻ đẹp riêng: sắc sảo, tinh tế mà vẫn bình dị, chân thật mà
không kém phần hư ảo, hồn nhiên mà bay bổng, tự nhiên mà không nông cạn"
[16, 176]. Cả sự nghiệp thơ của ông đã để lại nhiều tác phẩm đi vào trong
lòng người đọc và để lại dấu ấn khó phai về sự chân tình, giản dị của một con
người hết lòng suy tư về cuộc đời, con người.
Trong thơ, cấu tứ có một vai trò vô cùng quan trọng. Nó tạo nên hồn
thơ, cái tôi riêng ấn tượng và đặc sắc cho mỗi nhà thơ. Chúng ta có thể bắt
3
gặp cùng một đề tài, một chủ đề ở vô số các tác phẩm của các tác giả khác
nhau nhưng chính tứ thơ khác biệt đã làm nên thành công cho mỗi tác phẩm,
giúp ta nhận ra chân dung của mỗi hồn thơ. Hữu Thỉnh là một nhà thơ có
những tứ thơ độc đáo với những dấu ấn riêng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa
có nhiều đề tài nghiên cứu tập trung đi sâu vào để tìm hiểu và chỉ ra được một
cách cụ thể về đặc điểm cấu tứ của thơ ông. Bởi vậy, chúng tôi quyết định lựa
chọn đề tài “Cấu tứ và cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh” để làm đề tài luận
văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Hữu Thỉnh là một cây bút đã thành danh, gây được dấu ấn trong lòng
người đọc. Bởi vậy, đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã dành nhiều tâm sức
để nghiên cứu về sự nghiệp thơ văn của ông thông qua các yếu tố nội dung,
nghệ thuật,… Tuy nhiên, thơ ca Hữu Thỉnh chỉ mới được nghiên cứu tập
trung nhiều từ những năm 1990 trở lại đây. Đa số các bài nghiên cứu, đánh
giá về thơ Hữu Thỉnh có quy mô vừa và nhỏ, giới hạn trong các bài nghiên
cứu với phạm vi cho phép, thường tập trung nghiên cứu về một khía cạnh của
nhà thơ như tính triết lý của thơ, đặc sắc của một tập thơ cụ thể.
Tác giả Vũ Nho đã có một bài nghiên cứu Thơ Hữu Thỉnh in trong cuốn
Đi giữa miền thơ năm 2001 với quy mô tương đối lớn. Tuy bài viết đã đưa ra
những nhận định thống nhất, khái quát về phong cách thơ Hữu Thỉnh nhưng
tác giả vẫn chưa khái quát được toàn bộ hệ thống các tác phẩm của nhà thơ
đặc biệt là trường ca Sức bền của đất.
Nhà nghiên cứu Trần Mạnh Hảo đã dành cho tập thơ Thư mùa đông
bài viết Thư mùa đông của Hữu Thỉnh in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số
4, năm 1996. Ông đã phát hiện và khẳng định những nét đặc sắc và sự sáng
tạo trong lời thơ Hữu Thỉnh đồng thời phát hiện ra chất dân dã, sự đan xen
4
giữa những nét hồn nhiên với những suy ngẫm đầy tính triết lý cùng nỗi cô
đơn, đau buồn trong tập thơ.
Năm 2005, nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã có bài viết Hữu Thỉnh,
một phong cách thơ sáng tạo đăng trên Tạp chí Văn học và sau này đã được
đưa lại vào trong cuốn Thơ và một số gương mặt thơ hiện đại. Trong bài viết
của mình, Lưu Khánh Thơ không những nhấn mạnh khả năng tiếp thu truyền
thống dân tộc một cách khéo léo qua cách ví von, cách tư duy, liên tưởng độc
đáo của nhà thơ mà còn chỉ ra “sự đằm thắm, đôn hậu” và “chìm lắng yêu
thương” trong hồn thơ Hữu Thỉnh.
Tác giả Lý Hoài Thu là người có nhiều bài viết nghiên cứu về thơ ca
Hữu Thỉnh nhất. Trong tạp chí Văn học số 12 năm 1999, tác giả có bài Thơ
Hữu Thỉnh, một hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc đến hiện đại. Nhà
nghiên cứu đã chỉ ra những điều tạo nên sự hấp dẫn trong thơ Hữu Thỉnh
chính là bắt nguồn từ sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, thể hiện
rõ ý thức luôn biết chủ động “khai thác cái hay cái đẹp của dân gian, của dân
tộc” và linh hoạt để tạo nên những điều mới. Chính điều này đã làm nên cá
tính và dấu ấn đặc biệt trong thơ ông.
Tác giả Nguyễn Trọng Tạo cũng đã có sự đánh giá khá sắc bén và
chính xác về thơ Hữu Thỉnh trong bài viết Hữu Thỉnh, thành phố hồn quê in
trong cuốn Văn chương cảm và luận in năm 1998. Ông viết “Hồn thơ Hữu
Thỉnh là sự sum suê của cây cối từ đất mà lên” ; “Hữu Thỉnh viết về đời sống
bằng một thứ văn hóa nhà quê thật đẹp và thật ngộ”. Ông đã đưa ra những
luận chứng để người đọc thấy rằng thơ Hữu Thỉnh dung dị, mộc mạc nhưng
lại không bị nhầm lẫn với các nhà thơ khác.
Năm 2003, Nguyễn Đăng Điệp có bài viết Hữu Thỉnh và quá trình tự
đổi mới thơ trên tạp chí Văn học số 9. Bài viết đã đưa ra những nét đổi mới
trong thơ ca của Hữu Thỉnh. Đó là việc đào sâu vào sự triết lý, suy tư để tạo
5
nên một kiểu kết tinh mới đồng thời đi sâu vào khám phá bí ẩm thẳm sâu
trong tâm hồn con người bằng những suy tư chân thật tận đáy lòng mình.
Xuân Diệu : Những suy nghĩ nhân đọc Đường tới thành phố – Báo
Văn nghệ số 19, ngày 9/5/1981.
Phan Cung Việt : Nhân đọc Trường ca biển của Hữu Thỉnh – Tạp chí
Văn nghệ quân đội số ra T4/1995.
Hoài Anh : Hữu Thỉnh – nhà thơ và phía khuất lấp cuộc đời – Tạp chí
Văn hóa văn nghệ Công an, số 4 – 1999.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều các bài viết, các nhận định về thơ Hữu
Thỉnh : Hữu Thỉnh gửi Thư mùa đông tới mùa … (Thanh Thảo), Mấy ghi
nhận về thơ người lính của Hữu Thỉnh (Phạm Quang Trung), Hữu Thỉnh –
những kỉ niệm nhỏ về đời và thơ (Nguyễn Thanh Kim), … Tất cả những
nghiên cứu đó đã góp phần hoàn thiện và xây dựng được hệ thống đánh giá
một cách toàn diện về con đường thơ của tác giả Hữu Thỉnh.
Ngoài những bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về Hữu Thỉnh,
ta còn có một số chuyên luận, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ cũng
nghiên cứu về thơ ca của ông. Năm 2003, chuyên luận Thi pháp thơ Hữu
Thỉnh của Nguyễn Nguyên Tản được ra mắt và đã đưa ra một cái nhìn tổng
thể về những chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, chỉ ra những thành công
về mặt thi pháp để thấy được Hữu Thỉnh là một người luôn tìm tòi và sáng tạo
trên con đường sáng tạo nghệ thuật thông qua việc tìm hiểu : quan niệm về
con người, không gian, thời gian nghệ thuật và phương thức thể hiện. Đồng
thời, ta còn một số khóa luận, luận văn nghiên cứu về thơ ông : Nguyễn Thị
Ngọc Linh với Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh (qua 2 tập thơ Thư mùa
đông và Thương lượng với thời gian) ; Đào Thị Mơ với Tính triết lý trong
thơ Hữu Thỉnh (qua tập thơ Thương lượng với thời gian) ; Nguyễn Minh
Phương với Những chặng đường thơ Hữu Thỉnh; Đỗ Thị Hạt với Đặc điểm
trường ca Hữu Thỉnh dưới góc nhìn thi pháp…
6
Mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ ông nhưng tất cả vẫn
tập trung đi vào những vấn đề chung về tư duy nghệ thuật chứ chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu riêng biệt về cấu tứ trong thơ ông. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu về cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh sẽ giúp chúng ta tìm hiểu
sâu hơn về tài năng, sự thành công trong việc hình thành tứ thơ để tạo nên dấu
ấn cho tác phẩm. Đồng thời cũng phần nào giúp chúng ta hiểu sâu hơn về cái
tôi trữ tình của nhà thơ.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu loại hình tứ thơ và nghệ thuật tổ chức tứ thơ Hữu Thỉnh
- Nghiên cứu biểu hiện cái tôi trữ tình và nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình
trong thơ Hữu Thỉnh
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Ở đề tài luận văn này, chúng tôi tập trung đi khai thác cách thể hiện của
cái tôi cá nhân và đặc điểm các loại hình tứ thơ cũng như nghệ thuật tổ chức
tứ thơ thông qua sự nghiệp sáng tác của ông, góp phần làm sáng tỏ những
đóng góp của Hữu Thỉnh trong sự nghiệp thơ ca.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Sự nghiệp thơ ca của Hữu Thỉnh tuy khá dài nhưng những tác phẩm
được xuất bản không quá nhiều. Với đề tài luận văn này, chúng tôi tập trung
nghiên cứu tất cả những tập thơ đã được xuất bản của Hữu Thỉnh (không bao
gồm trường ca)
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi vận dụng một cách thích hợp
những kiến thức về lý luận văn học, văn học sử và một số phương pháp chủ
yếu sau:
7
Phương pháp lịch sử - xã hội và phương pháp loại hình
Đặt đối tượng nghiên cứu trong tiến trình lịch sử và chú ý đặc trưng của
thể loại nghiên cứu để xem xét quá trình sáng tác qua các thời kì khác nhau
của Hữu Thỉnh, chỉ ra sự vận động, chuyển đổi tư tưởng cũng như quan niệm
và phương thức biểu hiện, từ đó tìm hiểu những đóng góp riêng của Hữu
Thỉnh trong việc thể hiện cái tôi cũng như thể hiện nghệ thuật tổ chức tứ thơ
của ông.
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Để tìm ra những nét chung giữa tư duy thơ của các tác giả và nét đặc
sắc riêng biệt, độc đáo trong cấu tứ thơ của Hữu Thỉnh, luận văn có sự vận
dụng so sánh, đối chiếu giữa các tập thơ của Hữu Thỉnh với một số nhà thơ
cùng thời.
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Để chỉ ra những đặc trưng và những yếu tố để làm nên thành công về
mặt nghệ thuật, góp phần làm rõ cái tôi cá nhân của Hữu Thỉnh, chúng tôi tiến
hành khảo sát 5 tập thơ của ông và dựa trên kết quả đó để phân tích và khái
quát nên đặc điểm tiêu biểu trong cái tôi của ông.
Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Luận văn vận dụng các khái niệm thi pháp học để tìm hiểu cách thức
tiếp cận, khám phá hiện thực của nhà văn để tìm ra đặc sắc nghệ thuật trong
cấu tứ, cách xây dựng tứ thơ, ngôn ngữ, biểu tượng thơ trong thơ Hữu Thỉnh
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sáng tác thơ và quan điểm nghệ thuật của Hữu Thỉnh
Chương 2: Tứ thơ và cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh
Chương 3: Cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh
8
NỘI DUNG
Chƣơng 1
SÁNG TÁC THƠ VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA
HỮU THỈNH
1.1 Hành trình sáng tạo
Hữu Thỉnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ
trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Tiếp bước những
nhà thơ lớn cùng thời kì như Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, … Hữu Thỉnh đã
gây được nhiều tiếng vang lớn với những đặc trưng thơ rất riêng. Cuộc sống
chiến đấu đầy gian khổ đã tạo cho Hữu Thỉnh những chất liệu riêng để ông
làm thơ ghi lại chính cuộc đời của mình - một chân dung người lính.
Hữu Thỉnh, tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh Vũ Hữu. Ông sinh
năm 1942 trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học ở Tam Đảo,
Vĩnh Phúc. Tuy nhiên quá trình lớn lên của ông cũng không hề bằng phẳng : 6
năm ở với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn
binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thanh Vân. Từ sau hòa bình lập lại năm
1954, ông mới được đến trường.
Năm 1963, ông tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ bộ đội tăng - thiết
giáp, trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đó, ông đã trực
tiếp tham gia chiến đấu chống Mỹ ở nhiều chiến trường và Chiến dịch Hồ
Chí Minh.
Sau khi đất nước thống nhất, Hữu Thỉnh quay trở lại học Đại học Văn
hóa và là một trong số những sinh viên khóa đầu tiên của Trường viết văn
Nguyễn Du khoá 1.
Năm 1982, ông làm cán bộ biên tập, Trưởng ban Thơ, Phó tổng biên
tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
9
Từ 1990 đến nay, ông chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam,
làm Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban Chấp hành Hội các
khoá 3, 4, 5, Uỷ viên Ban Thư ký khoá 3, Phó tổng thư ký Thường trực khoá
5, Tổng Thư ký - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khoá 6-7-8, Chủ tịch Uỷ
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam.
Đồng thời, nhà thơ Hữu Thỉnh còn kiêm nhiệm Uỷ viên Thường vụ
Đảng uỷ Khối Tư tưởng văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng uỷ Đảng bộ Cơ
quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Bí
thư Đảng đoàn Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam; Đại
biểu Quốc hội khoá X.
Trên lĩnh vực thi ca, Hữu Thỉnh là một trong những tài năng nổi bật. Từ
những biến chuyển trong cuộc đời, Hữu Thỉnh đã cho ra đời nhiều tập thơ
được rất nhiều bạn đọc đón nhận. Các tác phẩm của ông chủ yếu được chia
làm hai mảng lớn : mảng viết về chiến tranh và mảng thơ viết về cuộc sống
hòa bình.
Mảng thơ viết về đề tài chiến tranh được bắt đầu với tập thơ đầu tiên
của ông gồm những bài thơ được sáng tác từ những năm 1968 đến 1982 với
nhan đề Tiếng hát trong rừng. Đây là tập thơ viết về những năm tháng kháng
chiến của ông tại Trường Sơn và đã đạt được nhiều giải thưởng lớn. Tiếng hát
trong rừng chủ yếu ghi lại những cảm xúc của nhà thơ khi chiến đấu ở
Trường Sơn. Đây là những bài thơ ngắn như chuẩn bị cho sự phát triển của
thể loại trường ca sau này. Tiếp đó phải kể đến là giải Ba cuộc thi thơ của Báo
Văn nghệ vào các năm 1972 – 1973 với bài thơ Mùa xuân đi đón, tiếp đó là
giải A cuộc thi thơ 1975 – 1976 với các sáng tác Chuyến đò đêm giáp ranh
và trường ca Sức bền của đất. Sức bền của đất cũng là tập trường ca đầu tiên
mở đường cho Đường tới thành phố - trường ca thể hiện sự hoàn thiện, tài
năng và sự trưởng thành trong nghệ thuật thơ ca của Hữu Thỉnh. Đây cũng là
10
tác phẩm đạt giải thưởng Hội Nhà văn năm 1980. Cảm hứng chủ đạo của
những tác phẩm này là cảm hứng về đất nước, nhân dân, về cuộc chiến đấu
chống kẻ thù Mỹ ngụy. Sức bền của đất có thể coi là bước trung chuyển,
bước đệm tạo đà trên con đường hoàn thiện phong cách thơ. Đó là bước
chuyển từ những cảm xúc ngắn sang thể loại dài hơi và hoành tráng, bao quát
một phạm vi rộng lớn đời sống và tâm hồn con người – trường ca Đường tới
thành phố. Đây là cột mốc đánh dấu sự chín muồi trong ý thức về thể loại,
tập trung đầy đủ, hoàn thiện nhất những đòi hỏi mà thể loại trường ca cần
phải có của hồn thơ Hữu Thỉnh. Trường ca của ông là một bản tổng hợp của
biết bao cảnh ngộ, những hi sinh chịu đựng và suy tư trăn trở của nhân dân vĩ
đại. Tất cả mọi mảng, khối của hiện thực rộng lớn đó được liên kết với nhau
gắn liền theo một mạch liên tưởng, suy nghĩ nhịp nhàng giữa các chương, các
khúc, kéo theo đó là sự phát triển của các hình tượng. Tác giả như một người
chỉ huy tài ba điều khiển một dàn nhạc giao hưởng thơ với nhiều giọng, nhiều
bè mà vẫn mạch lạc, trôi chảy
Mảng thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh thấm nhuần tính chất sử
thi cao cả, thể hiện cái tôi sử thi của thơ ca cách mạng hiện đại. Mang đặc
điểm của một hồn thơ hồn hậu, ham giãi bày, giàu suy tư, thơ viết về chiến
tranh của Hữu Thỉnh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giọng thơ chính luận
và giọng trữ tình đằm thắm.
Mảng thơ thứ hai đó là mảng thơ viết về cuộc sống trong thời bình. Ở
giai đoạn trước năm 1980, tâm thức cộng đồng chiếm ưu thế, con người toàn
tâm toàn ý vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, số phận cá nhân luôn đặt trong số
phận của đất nước, cá nhân không có ý nghĩa độc lập tự thân mà có ý nghĩa
trong sự hi sinh cống hiến cho dân tộc. Từ đầu năm 80 trở lại đây, những biến
đổi to lớn trong đời sống xã hội đã đi đến sự đổi thay các chuẩn mực khi đánh
giá về các giá trị của cuộc sống và cả văn học nghệ thuật. Sự thức tỉnh về ý
11
thức cá nhân, sự quan tâm nhiều hơn đến con người trong tính cụ thể, cá biệt,
với nhu cầu trong thời bình là bước chuyển tất yếu của xã hội. Con người
được miêu tả trong tất cả tính đa dạng của nó đã tạo thành nét chính trong sự
định hướng về giá trị văn học của công chúng hôm nay. Nói khác đi, tinh thần
dân chủ và cảm hứng nhân bản là đặc điểm nổi bật của thời kỳ đổi mới. Sự
thay đổi này dĩ nhiên sẽ dẫn đến những thay đổi về đề tài, chủ đề, nhân vật và
thể loại, phương thức trần thuật và cách biểu hiện trữ tình.
Sự nghiệp thơ ca của ông được tiếp tục gặt hái được thành công sau khi
đất nước quay lại thời kì hòa bình với giải Nhất trong cuộc thi thơ viết về Nhà
trường, thầy cô do Bộ ĐH&THCN cùng Trung ương Đoàn TNCSHCM tổ
chức với bài thơ Thưa thầy. Năm 1995, tập thơ Thư mùa đông đã mang lại
cho ông giải A của Hội Nhà văn Việt Nam và giải thơ ASEAN năm 1999.
Một trường ca nữa lại tiếp tục ra đời và khẳng định chỗ đứng vững chắc của
Hữu Thỉnh trong thể loại trường ca: Trường ca biển. Tập thơ này được viết
vào giai đoạn cuối thời kì bao cấp và giai đoạn đầu của thời “mở cửa”, đổi
mới và phát triển đất nước. Trường ca biển vẫn còn là tia hồi quang quá khứ
vinh quang của người lính khi được tái hiện trong hành trình “đi tới biển”.
Trường ca này được Bộ Quốc phòng tặng thưởng giải xuất sắc. Tuy nhiên, số
phận cá nhân của người lính cách mạng trong tác phẩm này đã có sự khác
biệt. Không giống như trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, giờ đây họ sống
gian lao, vất vả và cuộc sống không hề thanh thản. Họ phải gồng mình lên để
cố lấp đi cái khoảng trống trong tâm hồn, nỗi đắn đo giữa được và mất, cống
hiến hay hưởng thụ. Điều này ta có thể gặp trong tác phẩm văn xuôi khá nổi
tiếng : Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh). Và gần đây nhất, tập thơ Thương
lượng với thời gian đã thể hiện một màu sắc khác trong các tác phẩm thơ của
ông, đậm chất triết lý, suy tư, rung cảm với cuộc đời. Đây là tập thơ bao gồm
12
56 bài thơ đa số là ngắn – tập hợp những sáng tác trong khoảng 10 năm trở lại
đây của nhà thơ. Một tập thơ với những gom nhặt của tác giả trong gần mười
năm với những bài thơ mang tính thế sự, trong một hành trình đi “tìm người”.
Và sự tìm kiếm đó là sự đan xen giữa thất vọng và hi vọng trước hiện thực
cuộc sống, của xã hội ngập tràn tiêu cực và xô bồ đang đem lại. Tập thơ đã
giành giải thưởng của Hội nhà văn năm 2006, cùng với tác phẩm Cánh đồng
bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Cảm hứng chính của mảng thơ viết về thời bình là cảm hứng đời tư thế
sự mang theo cay đắng, niềm bâng khuâng trước sự thay đổi, nỗi cô đơn, trăn
trở trước số phận con người mà chưa tìm thấy tri âm tri kỉ. Giọng điệu chủ
đạo là buồn, mang sự suy tư, triết lý.
Đây là các tập thơ được viết trong thời kì đất nước đang trên đà đổi
mới. Sau chiến tranh, cả đất nước đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, cơ
chế bao cấp kéo dài làm hạn chế nhiều mặt về kinh tế, chính trị, xã hội. Cũng
bởi điều đó mà xuất hiện những luồng tư tưởng mới, cách suy nghĩ mới chưa
hề có trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Những biến động trong đời sống
chính trị (sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991) cùng những bức xúc chung
quanh việc quản lý lãnh đạo xã hội và văn nghệ, sự mở cửa về mặt kinh tế cho
phép người dân có những cách làm ăn mới, suy nghĩ mới làm thay đổi nhiều
quan niệm về những giá trị cũ được hình thành trong suốt thời kì kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của văn nghệ sĩ.
Các sáng tác của Hữu Thỉnh tương đối liền mạch và tiêu biểu cho quá
trình vận động của thơ ca cách mạng Việt Nam trong khoảng 25 năm cuối thế
kỉ XX. Nó cũng là hành trình của người chiến sĩ trên con đường đấu tranh
chống ngoại xâm cho đến đấu tranh cho lẽ phải, cho đạo đức, những phẩm
chất cao cả của thời đại.
13
1.2 Quan điểm nghệ thuật
Sau chiến thắng vĩ đại của lịch sử, nền văn học Việt Nam vẫn tiếp nối
mạch chảy của văn học dân tộc là miêu tả cuộc chiến tranh giành độc lập, tự
do cũng như công cuộc xây dựng đất nước trong thời bình. Thơ trữ tình thời
kì này có sự phát triển mạnh, phong phú và đa dạng với nhiều cung bậc, từ
lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, ý chí dũng cảm chiến đấu hi sinh cho tới
những vui buồn, trăn trở, lo toan trong cuộc sống hàng ngày, thể hiện tình yêu
trong quan hệ của con người với cộng đồng, con người với con người. Nếu
như trước đây trong những năm kháng chiến của dân tộc, các nhà văn, nhà thơ
được coi là chiến sĩ trên mặt trận, dùng vũ khí là nghệ thuật để hoàn thảnh
nhiệm vụ của mình thì sau những năm tháng hòa bình, quan niệm đó đã có
phần thay đổi. “Văn học, nghệ thuật là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn
hóa, thể hiện khát vọng của con người về chân, thiện, mĩ, có tác dụng bồi
dưỡng tình cảm tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây
dựng môi trường đạo đức trong xã hội, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa” [9,72]. Ở giai đoạn này, hiện thực đời sống lịch sử xã hội và tâm hồn
tư tưởng con người được hiện lên một cách đầy đủ, nhiều mặt và phong phú
hơn giai đoạn trước. Chiến tranh được phản ánh trong thơ không chỉ hùng
tráng, ca ngợi những chiến công mang đầy tính sử thi mà nó còn nêu lên bao
tổn thất, đau đớn, những bi kịch của cuộc đời. Thậm chí đến Tố Hữu, người
vốn luôn gắn cuộc đời mình với cách mạng, với sự nhiệt huyết và tâm hồn của
Đảng cũng có lúc viết lên những vần thơ đầy tâm trạng về nỗi cô đơn trong
Một tiếng đờn buồn: “Mới bình minh đó đã hoàng hôn… Khuấy động lòng ta
biết mấy buồn” và “Trái tim tự xát muối cô đơn”.
Trong sự nghiệp của mình, Hữu Thỉnh không phải một nhà thơ có
nhiều tuyên ngôn về nghệ thuật. Thế nhưng với vai trò vừa là một nhà thơ,
vừa tham gia giảng dạy ở các trường viết văn, trường đại học, ông đã phần
14
nào bộc lộ được quan điểm sáng tác của mình thông qua những chia sẻ rất
chân thành, những bài giảng với các thế hệ học trò. Qua những gì ông đã thể
hiện qua sự nghiệp văn chương của mình, ta có thể thấy, với ông, thơ ca chính
là nơi để ghi lại hiện thực cuộc sống. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, đã có rất
nhiều các nhà thơ hăm hở lên đường, mang theo nhiệt huyết mạnh mẽ với một
niềm tin lớn lao về cuộc kháng chiến thắng lợi của dân tộc như Phạm Tiến
Duật, Thanh Thảo, … Họ đều là những người lính trực tiếp tham gia vào cuộc
kháng chiến đầy máu lửa của dân tộc, có cùng một chí hướng và đồng thời
cũng gần gũi với nhau về quan niệm sáng tác. Với Hữu Thỉnh, thơ ca là
phương tiện giúp ông ghi lại cuộc đời mình, ghi lại những âm thanh, màu sắc,
những gì tươi đẹp, thậm chí là khốc liệt của cuộc đời. Cũng chính vì vậy,
người đọc có thể dễ dàng nhận ra thơ ông là tấm gương phản ánh chân thực
cuộc đời, là cuốn sách sử bằng thơ, là người họa sĩ chân dung ghi lại cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là những chân dung của những người dân
bình dị quen thuộc:
Mưa choang choang như đá đập trên đầu
Đất đẫm ướt gian nan không định trước
Rừng cảm thấy điều gì không nói ra không được
Ta nóng lòng ôm súng ngóng ngày lên
(Đêm chuẩn bị)
Ở Hữu Thỉnh, thơ chính là chân dung chân thực về cuộc đời, đây chính
là hệ tư tưởng lúc trước giai đoạn 1980. Đọc thơ Hữu Thỉnh, người ta nhận ra
ở Hữu Thỉnh một hồn thơ khỏe khoắn, chân thành, miêu tả một cuộc sống rất
chân thực về chiến trường Trường Sơn khốc liệt nhưng không hề bi lụy ở
trường ca Đường tới thành phố:
Núi cao cho thác đổ hồi
Trường Sơn dài rộng cho tôi mặn mà
15
Xe thồ vành hỏng tháo ra
Còn lăn theo suốt đời ta đời mình
Trực tiếp tham gia kháng chiến, trực tiếp quan sát và trải nghiệm cuộc
sống gian khổ nơi đầu bom mũi đạn, các nhà thơ này thấm thía hơn ai hết và
hiểu hơn ai hết về chiến tranh. Hữu Thỉnh cũng như vậy, và ông đã nhận ra để
góp phần làm nên sức mạnh của cả quân đội, của cả dân tộc bấy giờ, không gì
hơn là thơ ca. Thơ ca chia sẻ những nỗi mất mát hi sinh, thơ ca nâng bước, cổ
động tinh thần cho những người chiến sĩ đang trên đường hành quân. Những
vần thơ của ông mang một sức mạnh khỏe khoắn, đầy nhiệt huyết nhưng cũng
rất tình cảm:
Thơ hãy đến góp một vài que củi
Cho em nhận ra anh, đồng đội nhận ra mình
Đó là “que củi nhỏ nhoi” nhưng lại tỏa sáng giữa đêm tối mịt mù, giữa
những hi sinh mất mát nơi chiến trường u ám. Thơ ca với ông chính là sức
mạnh, ông miêu tả lại hiện thực không đơn giản chỉ là miêu tả một cuộc chiến
tranh tàn khốc mà gửi vào đó những ước mơ, tình yêu thương mạnh mẽ.
Giống như Phạm Tiến Duật, hiện thực chiến tranh có thể là “những chiếc xe
không kính”, có thể là “bụi phun tóc trắng như người già”,.. thế nhưng họ sẵn
sàng bắt tay nhau qua cửa kính vỡ, nở nụ cười lạc quan “nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha”. Hữu Thỉnh cũng đã đưa tinh thần lạc quan và những khao khát
say mê rất đời thường của những người lính trẻ vào trong thơ ca. Ở đó có biết
bao chàng trai đang độ tuổi thanh xuân, đang say sưa trên con đường học tập,
và họ thèm “sách vở”, nỗi thèm khát đơn giản nhưng lại khó khăn.
Không có sách chúng tôi làm ra sách
Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình
Nhà thơ đã làm sáng lên những phẩm chất, tinh thần lạc quan yêu đời,
niềm tin chiến thắng của những người chiến sĩ. Họ ra đi không tiếc đời mình
16
và cũng lưu lại trong tim những gì đơn giản mà lãng mạn nhất. Thế nhưng,
thực tế vẫn luôn không cho phép những người lính có nhiều thời gian để dành
cho sự lãng mạn. Họ sống trong hiện thực và phải chọn lựa những điều cần
nhất cho chiến tranh:
Mỗi quyển sách nặng bằng năm viên đạn
Chúng tôi đành mang đạn trước tiên
….
Chúng tôi còn biết xoay xở ra sao
Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng
Còn mang thuốc
Còn mang nhau
Trong những cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, những nhà văn luôn
đóng vai trò vừa là người chiến sĩ mô tả lại hiện thực khốc liệt của cuộc
kháng chiến vừa phải viết những vần thơ hô hào, cổ vũ tinh thần chiến đấu
của những người lính ngoài mặt trận. Nhà thơ lấy nghệ thuật phục vụ trực tiếp
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng:
Xin cám ơn câu thơ các anh đã đến cùng ngọn lửa
Mấy đứa nhớ nhà ngắt ngọn tàu bay
Đường chẳng còn dài như nó vốn từng dài
Suối cứ đổ trong bình minh nõn chuối
Đó là hiện thực nơi chiến trường xa xôi, nơi điều kiện của con người vô
cùng thiếu thốn trong Thư mùa đông:
Thư viết cho em nhòe nét mực
Phên thưa sương muối cứ bay vào
Núi rét đêm qua chừng mất ngủ
Sáng ra thêm bạc một nhành lau.
17
Thế nhưng trong hoàn cảnh khó khăn ấy, người lính vẫn mang một tâm
hồn lãng mạn. Mơ về người con gái nơi xa, những bóng hồng nơi lưu giữ tình
cảm của anh nơi quê nhà. Viết về cảm xúc của người lính, ông không hề có sự
ủy mị, ướt át mà thay vào đó là sự ấm áp, những cảm xúc làm tan đi cái giá
lạnh mùa đông, sưởi ấm con người. Có lẽ, ở nơi xa, người con gái ấy chính là
động lực cho người chiến sĩ chiến đấu quên đêm ngày:
Bao năm không thấy màu con gái
Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em...
Mây đến thường rủ anh mơ mộng
Biết vậy, khuya em đỏ ánh đèn
Cũng như bao nhà thơ yêu nước khác, viết về chiến tranh, ông viết về
đất nước về nhân dân với hình ảnh của người lính, người mẹ, người vợ, những
gốc cây cằn, …Điều đó tưởng chừng như đơn giản nhưng lại chính là những
yếu tố góp phần nên những chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Đất nước trong thơ
ông là một đất nước kiên cường bất khuất, nhân dân là những con người thầm
lặng và biết hi sinh.
Hữu Thỉnh đã đưa ra một quan niệm trong thơ của mình“ Nhưng đừng
viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn/ xin hãy viết như dòng sông
chảy xiết”. Viết về cuộc đời người lính, người ta không chỉ mô tả đơn thuần
như tô vẽ một bức tranh, mà hơn thế nữa, bức tranh ấy phải làm nổi bật rõ
từng chân dung con người. Đó là chân dung con người với cảm xúc, có sự
thay đổi với sức mạnh lan tỏa. Hữu Thỉnh đã xây dựng nên những chân dung
người lính không hề khô khan, lúc nào cũng hướng đến cuộc chiến tranh, luôn
hô hào về niềm tin, chiến thắng mà còn đan xen sự mộc mạc, dịu dàng của
những cái gì đó rất người, rất lãng mạn trong tâm hồn mỗi người. Thơ đến
trong lòng người, trong cảm xúc xuyến sang của một buổi chiều mưa “Thơ cứ
đến và mưa chiều mau ngớt” (Đường tới thành phố)
18
Người lính ghi lại chân thực cuộc chiến khốc liệt, sự tàn khốc nơi chiến
trường. Sự vất vả gian lao của người lính, sự chân tình của những mẹ, những
chị, những con người hậu phương, sự biến chuyển của nhân dân đất nước.
Nghệ thuật trong thời kì này có vai trò như những người bạn đồng hành của
người lính, nó thôi thúc, giục giã, là sức mạnh tinh thần cho những người
chiến sĩ thêm mạnh mẽ, vững vàng cầm cây súng để bảo vệ Tổ quốc. Đó là
niềm lạc quan, vất vả gian lao nhưng tràn ngập mục tiêu, vì lý tưởng cách
mạng. Ở đó có hình ảnh của biết bao con người, những cô gái thanh niên xung
phong vô danh nhưng lại làm nên chiến thắng được tái hiện trong Đường tới
thành phố:
Tôi đã nghe bài hát xốn xang lòng
Các cô gái làm đường đi đào củ chụp
Hố thì sâu mà tay em gầy guộc
Mưa miền Đông ướt áo các em rồi
Đó là người mẹ anh hùng đã nuốt nước mắt vào trong tim để ba đứa
con cùng ra trận. Một mình mẹ gánh chịu niềm lo lắng, nỗi đau khi các cuộc
chiến cứ lần lượt kéo đến. Người mẹ ấy cũng như bao người mẹ trong những
cuộc chiến tranh gian khổ, luôn cầu mong cho đứa con của mẹ trở về bình an:
Ba đứa con có mặt trong này
Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh một lúc
Chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt
Nếu một đứa con của mẹ không về
Miêu tả hiện thực chiến tranh còn đồng thời là miêu tả về cuộc đời con
người. Đó là những người chị sống cuộc sống tảo tần vất vả, hi sinh cho gia
đình:
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế
19
Và chị buồn như bông điệp xé đôi
Bằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại
Đó là chân dung của biết bao người phụ nữ, những con người sống
cuộc sống bơ vơ đơn độc, hi sinh hạnh phúc gia đình nhỏ bé để người chồng
yên tâm chiến đấu nơi tiền tuyến. Số phận bất hạnh của con người trong chiến
tranh đã được Hữu Thỉnh nhìn nhận và nói lên. Người con gái ấy xinh đẹp,
duyên dáng, vẫn còn đang còn tuổi trẻ, vẫn còn nét duyên ngầm nơi má lúm
đồng tiền nhưng dường như đôi má lúm ấy lại để chứa đựng những nỗi buồn.
Còn gì buồn đau hơn nỗi buồn xa cách mà người ở nơi xa không biết có ngày
nào hẹn trở lại.
Cảm hứng về những năm tháng bom rơi lửa đạn dữ dội kia đặc biệt là
trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử đã là cảm hứng không chỉ cho riêng
Hữu Thỉnh mà cho hàng loạt các nhà thơ cùng thời Phạm Tiến Duật, Nguyễn
Khoa Điềm, Chính Hữu,…
Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao
Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá
Tiếng hát đi rồi căn hầm còn đó
Thành chiếc hộp đàn giữa lòng đất âm sâu
(Tiếng hát trong rừng)
Có một quan niệm nghệ thuật chung và đẹp đẽ của các nhà văn Việt
Nam trong thời kỳ kháng chiến, trong đó có Hữu Thỉnh, coi người nghệ sĩ là
chiến sĩ, lấy nghệ thuật phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Nếu những ngày trước, trong chiến tranh, văn
chương dùng để hô hào, tuyên truyền các chủ trương và trực tiếp cổ vũ tinh
thần chiến đấu của chiến sĩ với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước /
Mà lòng phơi phới dậy tương lai” … Họ cổ vũ cho sự nghiệp chiến đấu của
nước nhà, tạo niềm tin cho nhân dân, đồng thời cũng thể hiện tình yêu, ý chí
20
quyết tâm đánh giặc của chính tác giả. Thế nhưng khi xã hội thay đổi, nhà văn
cũng có sự thay đổi. Trước đây, nhà văn luôn để bản thân làm khách thể, là
người quan sát, mô tả lại cuộc chiến, những diễn biến của đời người. Nhưng
bây giờ, nhà thơ phải đối thoại, tự bộc lộc và khai thác chính kinh nghiệm
sống của chính mình. Từ đó đã tạo ra một sự thay đổi lớn. Nếu trước đây, thơ
Hữu Thỉnh được viết trực tiếp từ một đêm trước chiến dịch, một trưa Phan
Thiết, một chiều ở biển thì bây giờ đề tài bộc phát từ bên trong. Nếu trước
đây, thơ Hữu Thỉnh đầy những hoa sim cằn, bậc đá bến sông, tiếng cuốc,…
một hiện thực sinh động nhưng bề bộn làm nặng thơ thì bây giờ ông ưu tiên
cho những kết quả của sự suy lý.
Nhà thơ viết về những năm tháng đã qua với cái nhìn hồi tưởng lại quá
khứ, bởi vậy nó vẫn có rất nhiều bài học giá trị. Đó là sự kết tinh của nhân
dân vào đất nước, nhân dân với từng cá thể đã hòa quyện để tạo nên hình ảnh
của cả một cộng đồng dân tộc
Cùng với sự thay đổi về quan điểm sáng tác, viết về chiến tranh không
chỉ là những sự ca ngợi nữa mà nó còn là nỗi niềm đau xót khôn nguôi, tiếng
thét đầy uất ước trước chiến tranh:
Hãy vạch mặt những thằng bắn lén
Sóng đang gầm ngoài vịnh Văn Phong
Hãy vạch mặt những thằng bắn lén
Cánh cò bay sấp ngửa trên đồng
(Đường tới thành phố)
Đó còn là hiện thực của cuộc đời người lính khi chiến tranh đã qua đi,
người lính đáng lẽ phải được trở về với vinh quang, được trả những điều mình
xứng đáng. Thế nhưng không, họ lại phải gánh chịu bao thiệt thòi, mất mát
Chưa kịp đặt ba lô
Chúng tôi cùng nhau bới cát
21
Dọn một chỗ nằm cho đồng chí hi sinh
Hôm đó đảo có thêm gạo mới
Chúng tôi đều bỏ cơm
Hôm đó đất liền ra thư
Chúng tôi bỏ thư ôm nhau khóc
Gạo chiều nay thành cơm cúng đưa tang
Thư chiều nay viết thêm vào lời điếu
(Trường ca biển)
Những số phận con người, đó là chân dung chiến tranh được vẽ nên
qua kí ức toàn vẹn của tác giả. Cuộc chiến ấy có những vinh quang, chiến
thắng nhưng bên cạnh đó là những thương đau mất mát không kể xiết. Chúng
làm cho những gia đình mất đi người thân, những người lính mất đi bạn bè –
những người đã sát cánh bên nhau vào sinh ra tử.
Hữu Thỉnh luôn quan niệm làm thơ không chỉ để “ghi lại cuộc đời mình”
mà đó còn là quá trình không ngừng sáng tạo, không ngừng đổi mới vì sự
phát triển của xã hội.
Với ông, thơ chính là kinh nghiệm sống. Ông luôn đưa những cảm xúc,
những cái nhìn, sự trải nghiệm của mình vào trong những tác phẩm thơ để tự
rút ra những bài học, để người đọc cùng cảm nhận và chia sẻ.
Đất nước về với thời kì hòa bình, những người lính trút bỏ tấm áo xanh,
thay vào đó là cảm nhận cuộc sống đời thường với những bôn ba, suy tính.
Những con người vào sinh ra tử ấy trở nên lạc lõng giữa cuộc đời, cô đơn
giữa cuộc sống bon chen. Đôi khi, ở nhà thơ còn là sự bình thản trước cuộc
đời, sự chấp nhận cuộc sống với những xuôi ngược nhưng cũng có lúc, cái tôi
trữ tình lại chính là nhà đạo đức, tự cảm thán, soi tỏ thế giới để rồi khuyên
con người những bài học về cách sống.
22
Kinh nghiệm sống của ông được thể hiện qua những thành công và
những thất bại của cuộc đời. Đó là lời khuyên của người mẹ đối với con trai
giữa cuộc đời:
Hãy yêu lấy con người
Dù trăm nghìn cay đắng
Đến với ai gặp nạn
Xong rồi chơi với cây
(Lời mẹ)
Sự trải nghiệm của nhà thơ trước cuộc đời đó chính là sự yêu thương, vị
tha. Con người cho dù trải qua muôn nghìn cay đắng nhưng vẫn giữ trong
mình những phẩm chất tốt đẹp. Đó cũng là tuyên ngôn về lẽ sống, tinh thần
của con người, đặc biệt là người lính năm xưa khi đi vào cuộc đời mới:
Lấy khoan dung làm chiếc phao bơi
Khiến cay đắng cũng nhuốm màu tha thứ
(Gửi người bộ hành lặng lẽ)
Người lính với những lý tưởng, phẩm chất tốt đẹp muốn bước vào cuộc
đời thế nhưng hiện thực lại hoàn toàn không cho phép. Nó khiến cho họ hụt
hẫng, cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời. Thế nhưng, họ vẫn mang một sự quyết
tâm, khẳng định chân lý
Ngày nào cũng là ngày đầu tiên, lần nào cũng là lần đầu tiên
Lòng kiên nhẫn cho người thêm mắt lưới
(Chiếc vó bè)
Có lẽ, những bài học, những chiêm nghiệm lớn nhất của ông đó chính là
những bài học về lẽ sống, về cách cư xử, cách sống của con người giữa cuộc
đời, có mất mát, có đắng cay,… Đó là kinh nghiệm của một người lính như
bao người lính khác sau cuộc chiến tranh, họ về lại sâu trong tâm hồn, đối mặt
với nỗi cô độc, lạc lõng. Có thể nói, “Những cung bậc tình cảm của nhà thơ
23
dù là một niềm vui hồ hởi hay một nỗi buồn sâu lắng thiết tha, dù kéo dài
triền miên trĩu nặng tâm hồn hay thoáng qua trong giây lát đều gắn liền với
một cái gì của đời sống bên ngoài, nhưng sâu xa hơn là tiếng nói thầm kín của
trái tim và tâm hồn của người nghệ sĩ”[7,75].
24
Tiểu kết chƣơng 1
Cuộc đời Hữu Thỉnh đã trải qua những năm tháng chiến tranh. Với một
tâm hồn đa cảm, mỗi ngày sống là lại thêm bao thương nhớ ngổn ngang, và
nó trở thành thơ anh. Nhìn nhận về Hữu Thỉnh trong cuộc đời như thế, mới
hiểu rằng, chính con đường số phận anh đã làm cái việc đưa anh dấn bước
trên con đường thơ của mình. PGS.TS Lý Hoài Thu đã từng nhận xét “Hữu
Thỉnh là một hồn thơ rất khỏe khoắn và rất giàu nội tâm”, ông luôn “tìm tòi
và sáng tạo từ truyền thống tới hiện đại”. Bắt đầu sự nghiệp thơ văn từ những
con đường Trường Sơn bom đạn, tất cả đã vun đắp cho nhà thơ cảm hứng về
Tổ quốc, nhân dân anh hùng với ý chí khát vọng về nền độc lập. Dù viết về đề
tài Tổ quốc hay những số phận con người trong cõi trần thế thì thơ Hữu Thỉnh
vẫn thấm đẫm sắc vị dân gian và tạo nên những vần thơ mang màu sắc của
riêng mình.
25
Chƣơng 2
TỨ THƠ VÀ CẤU TỨ TRONG THƠ HỮU THỈNH
2.1 Khái lƣợc về tứ thơ và cấu tứ trong thơ
2.1.1 Tứ thơ
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của phân tích thơ đó chính là tìm
hiểu tứ thơ, và để có thể xác định được tứ thơ, ta hoàn toàn phải dựa vào toàn
bộ tác phẩm. Chúng ta không chỉ dựa vào một từ, một dòng, một đoạn mà cần
phải dựa trên tất cả các yếu tố hình thức tạo nên chúng.
Cho tới giờ, tứ thơ vẫn là một quan niệm được nhiều nhà nghiên cứu
văn học tìm hiểu và đưa ra những ý kiến khác nhau. Trong mấy chục năm gần
đây, trên các sách báo ở nước ta xuất hiện khá nhiều bài nghiên cứu về tứ thơ
của các tác giả : Trầm Nhân Khang, Hoàng Bội Ngọc, Xuân Diệu, Hà Minh
Đức, Nguyễn Xuân Nam, Bùi Công Hùng, Mã Giang Lân,… Mỗi bài có một
điểm nhấn riêng nhưng về cơ bản quan niệm tứ thơ của các tác giả khá thống
nhất với nhau.
Theo Xuân Diệu, đầu tiên, ta phải có sự phân biệt giữa ý thơ và tứ thơ.
Xuân Diệu đã từng viết “ý là khái niệm và suy nghĩ từ cuộc sống mà toát ra ý,
ý ấy muốn trở về tác động trở lại vào cuộc sống mà tác động bằng phương
thức thơ thì ý ấy nên “đầu thai” thành xúc cảm, ý ấy nên trở thành tứ … ý là
của chung mọi người, tứ mới là của riêng mỗi một thi sĩ”.
Theo Chế Lan Viên: “gọi nó là tứ để phân biệt với ý. Chữ Tứ chẳng
qua là ý lớn toàn bài vậy”. Ngược lại, theo Nguyễn Xuân Nam: “tứ trong toàn
bài là hình tượng xuyên suốt cả bài thơ.”
Nguyễn Hưng Quốc lại cho rằng : Tứ là những suy nghĩ của trái tim
trước cuộc đời.Tứ là cái gì rất riêng tây ở mỗi nhà thơ, ở mỗi bài thơ. Tứ là
thế giới tinh khôi lần đầu tiên được nhà thơ tạo dựng trong cơn say ngây ngất
26
của cái người ta quen gọi là cảm hứng. Tìm tứ cũng là một quá trình tổng
hợp: nhà thơ phải vận động cùng lúc ba khả năng: suy nghĩ, tưởng tượng và
cảm xúc. Tìm tứ là quá trình phát hiện cái bất bình thường từ những cái vẫn
rất mực bình thường. Tìm tứ là quá trình khôi phục sự hồn nhiên bỡ ngỡ cho
đôi mắt và cho trái tim. Tứ thơ có thể bắt nguồn từ những điều bình thường
giản dị xảy ra hằng ngày đến mức chúng ta không ngờ đến. Nhưng rồi bỗng
một ngày, khi những cảm xúc và suy nghĩ của chúng ta đã ngập tràn, chúng ta
gặp được những cảnh vật quen thuộc đó, những ý tưởng, cảm hứng bất chợt
ùa ra để từ đó tứ thơ được hình thành.
Theo Mã Giang Lân, tứ thơ là hình dạng của ý thơ. Khi nhà thơ có ý
rồi, nhà thơ phải lựa chọn cách thể hiện các ý ấy sao cho truyền cảm và làm
nổi bật lên ý thơ bằng các yếu tố hình ảnh, ngôn ngữ, thể thơ. “Tứ thơ không
phải là hình tượng thơ, nhưng tứ thơ chỉ đạo trực tiếp và tạo nên sự vận động
của hình tượng thơ. Nó dẫn dắt cảm xúc, suy nghĩ để đưa đến chiều cao khái
quát. Nó làm cho ý lộ ra dáng vẻ riêng cụ thể, nó làm cho ý tránh được sự khô
khan trừu tượng” [20,116] Tứ thơ vốn không ở trạng thái tĩnh mà nó luôn ở
thể động. Nó chi phối cả bài, quy định những điểm mở đầu và kết thúc của
mỗi bài thơ, định hình cho bài thơ để các câu thơ được phát triển theo đúng
mục đích sáng tác của tác giả. Một chủ đề, một ý có thể được lặp đi lặp lại rất
nhiều lần nhưng điều quan trọng và làm nên thành công của nhà thơ đó là việc
thể hiện cái chủ đề đó bằng hình dáng mới, một cấu tứ mới đẹp đẽ, khác lạ.
Theo Phạm Quốc Ca: tứ thơ là cách liên kết, cấu trúc các ý thơ và sắp
xếp mọi yếu tố cấu thành của bài thơ nhằm tập trung thể hiện có hiệu quả nhất
chủ đề trữ tình. Tứ thơ có thể xem như một cái khung kết cấu trong đó mạch
thơ vận động: có khởi đầu, phát triển và kết thúc. Khởi đầu giống như khơi
đúng mạch ngầm để lời thơ tuôn chảy. Tứ thơ sẽ dẫn dắt mạch trữ tình nhắm
đến chủ đích nghệ thuật. Nếu không có tứ thơ chỉ đạo, dẫn dắt, ý thơ sẽ tản
27
mạn. Kết thúc các bài thơ hay thường bất ngờ, nâng bài thơ lên một tầm cao
mới về ý nghĩa khái quát cũng như hiệu quả thẩm mỹ.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Tứ thơ hay chính là cảm xúc của thơ
hoặc ý nghĩa hình ảnh thơ. Thơ là cảm xúc thẩm mĩ, thi vị, không giống với
cảm xúc sinh hoạt thực dụng hàng ngày. Làm thơ phải bắt đầu từ cảm xúc
thơ, tức là thi tứ, phải có “tứ thơ”. Tìm “tứ” là xác định cảm xúc và hình ảnh
thơ. “Cấu tứ” là tạo được hình tượng có khả năng khơi gợi được cảm xúc
nhân văn của tâm hồn con người. Đó là sự kết hợp giữa hình ảnh sống động
và ý nghĩa thơ, sao cho sự sống của hình ảnh càng triển khai ra, càng khơi sâu
thêm nhiều ý nghĩa của bài thơ.”
Rất nhiều vấn đề chung quanh tứ thơ đã được đề cập và được lý giải
thấu đáo. Đặc biệt, nhiều người đã quan tâm phân biệt khái niệm tứ với khái
niệm ý để thấy rằng từ cái ý trừu tượng, khái quát và phần nào phi cá tính đến
cái tứ thơ mang đậm bản sắc sáng tạo cá nhân và có sự hòa quyện máu thịt
giữa suy nghĩ và cảm xúc, giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Qua các ý kiến của các nhà nghiên cứu, ta có thể thấy hiện nay vấn đề
về tứ thơ vẫn còn có rất nhiều tranh cãi. Và người viết với sự nghiên cứu của
mình đồng quan điểm với nhà nghiên cứu Mã Giang Lân. Ta có thể khẳng
định, tứ thơ là hình dạng của ý thơ. Tứ thơ là ý chính, ý lớn bao quát toàn bộ
bài thơ. Đó không phải là ý tưởng trừu tượng mà là những gì cụ thể của đời
sống : một hình ảnh, một suy nghĩ, một tâm trạng, … làm điểm tựa vận động
cho cả bài thơ. Tứ thơ là hiện thực hóa của những suy nghĩ, những ý niệm
trong suy nghĩ của tác giả. Tứ thơ được xây dựng từ các ý và tứ thơ thể hiện
cái tôi của chính nhà thơ, thể hiện được cái riêng biệt so với những nhà thơ
khác.
Tứ thơ chính là hạt nhân kết cấu hình tượng thơ trữ tình. Nó đứng ở vị
trí trung tâm của quá trình sáng tạo thơ ca, chi phối sự liên kết tất cả các yếu
28
tố của bài thơ lại thành một chỉnh thể thống nhất. Nó cấp cho cái “hỗn mang”
của những rung động hay những “nỗi niềm tình vận” (chữ dùng của Huy Cận)
một trật tự, khiến chúng hoàn toàn có thể được phô bày bằng các phương tiện
ngôn từ diễn ra trong thời gian, để thực sự trở thành những rung động thơ, nỗi
niềm thơ. Tứ thơ quy định tính sáng tạo của hình tượng thơ, phân biệt hình
tượng thơ mang tính cô đọng, khái quát, thấm đẫm cảm xúc và dồn nén suy
nghĩ với những hình ảnh rời rạc, cá biệt của hiện thực khách quan. Ngoài ra tứ
thơ cũng giống như hình tượng thơ, cũng tồn tại ở nhiều cấp độ, tương ứng
với các cấp độ hình tượng. Có tứ lớn ở toàn bài, có tứ nhỏ ở từng đoạn, từng
khổ. Và thông qua việc sáng tạo tứ thơ, tài năng của nhà thơ được bộc lộ rõ
nét nhất “Thông qua tứ thơ có thể thấy quá trình sáng tạo của thơ ca, cách
khám phá hiện thực, chiếm lĩnh hiện thực của chủ thể sáng tạo, khả năng khái
quát, quan điểm chính trị, đặc biệt là quan điểm thị hiếu của nhà thơ”
[20,110].
2.1.2 Cấu tứ
Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã nhận xét “Thơ phải có tình. Tình cảm
là đơn vị cấu tạo chủ yếu của hình tượng thơ. Nhưng nếu không có tứ thì tình
cảm không được tổ chức lại một cách chặt chẽ và không phục vụ được cho
chủ đề chung của bài thơ, tình cảm sẽ bị phân tán, những ý tưởng cũng không
được liên kết lại trong một cấu tạo chung chặt chẽ và phát triển của hình
tượng thơ”[7,162]. Từ cái tứ ban đầu cho tới việc lập ý, phát triển cảm xúc,
xây dựng hình ảnh cụ thể là một quá trình phức tạp. “Cấu tứ là một vấn đề
thuộc về suy tưởng và xúc động của tâm hồn thơ”. Tứ thơ chỉ đạo trực tiếp
hướng vận động, phát triển của cảm xúc, suy nghĩ và xây dựng hình ảnh. “Tứ
thơ là ý tưởng của bài thơ trong vóc dáng cụ thể của nó”. Tứ thơ là một ý trừu
tượng khái quát nhưng được thể hiện bởi một dáng hình cụ thể.
29
Có thể nói, tứ thơ là những suy nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu, gợi
nên cảm hứng cho nhà thơ và sau đó định hướng cho hình tượng thơ phát
triển. Còn cấu tứ là việc chọn lựa một hình thức sao cho phù hợp để thể hiện
cái ý đó. “Các tứ thơ thường xuất hiện từ một ấn tượng, từ một cảm giác thực
rút ra từ cuộc sống được bồi đắp bằng những hình ảnh cụ thể, những suy nghĩ
chân thành, những nhận thức đúng đắn vươn lên theo hướng lý tưởng thẩm
mỹ của thời đại” [20,124].
“Xây dựng tứ thơ là một quá trình định hình định dạng cho ý thơ. Nó
thể hiện trực tiếp tầm suy nghĩ và tài năng của nhà thơ. Nhưng những suy
nghĩ và tài năng ấy được hình thành và phụ thuộc rất nhiều vào bản thân cuộc
sống, vào thái độ sống của nhà thơ. Cuộc sống phong phú và luôn phát triển
với bao nhiêu con người, cảnh ngộ,… đã gợi ý cho sự hình thành tứ thơ”
[20,123].
Tứ đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng tạo thơ, tuy hầu hết tất
cả các bài thơ đều có tứ, đòi hỏi ta phải tìm hiểu và nhận dạng được thì bên
cạnh đó cũng có những bài không rõ tứ hoặc không có tứ. Việc tìm tứ cho thơ
hầu như được trải qua ba giai đoạn. Trước hết, phải có một cảnh vật, một sự
kiện cụ thể có khả năng gây ấn tượng mạnh và sắc. Thứ hai, ấn tượng ấy cứ
âm vang mãi trong hồn người, tạo nên những niềm cảm xúc sâu đậm. Và thứ
ba, từ ấn tượng và cảm xúc ấy, nhà thơ phải vận dụng khả năng liên tưởng,
tưởng tượng, tư duy để tìm ý, tìm chất liệu để khai triển thành một bài thơ
hoàn chỉnh.
Do tính chất phát hiện, tứ thơ đóng vai trò quy định âm hưởng, màu sắc
cụ thể, độ dài của bài thơ và đôi khi cả thể thơ được tác giả lựa chọn. Sự phát
triển của tứ thơ bao giờ cũng được nảy sinh trên một nền tảng cảm xúc nhất
định và nó có chức năng làm sáng tỏ trở lại nền tảng cảm xúc ấy. Do vậy, nó
mang đầy tính chủ quan, có khi quy về trong một mối những hình ảnh, sự vật
30
không có liên hệ tất yếu với nhau. Chẳng hạn như giữa hình ảnh rặng liễu vào
thu với hình ảnh cô gái xõa mái tóc buồn chẳng hề có một mối liên hệ nào với
nhau, nhưng trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, với tứ thơ về sự
chuyển vần đáng giật mình của thời gian qua bước chân mùa thu đẹp, mối liên
hệ ấy lại trở nên tất yếu, và chính nó làm cho âm hưởng của bài thơ trở nên
xôn xao buồn bã, hay là buồn bã trong nỗi xôn xao. Rõ ràng lúc này, tứ thơ đã
quy định chiều hướng cảm xúc, âm hưởng, màu sắc của bài thơ.
Nghệ thuật tổ chức tứ thơ được coi là một phương tiện nữa hỗ trợ đắc
lực và gắn liền với tứ thơ. Nó giống như một cái khung vững chắc cho một
căn nhà, giúp cho nhà thơ truyền tải được cái tứ của mình.
Hữu Thỉnh là một nhà thơ có nhiều tứ thơ hay, có nhiều tứ thơ cũng rất
chung, nhưng ông đã có sự sáng tạo khác nhau về phương diện tứ để từ đó
mỗi bài thơ sẽ mang một sắc thái tình cảm khác nhau, phù hợp với từng hoàn
cảnh cụ thể.
2.2 Loại hình tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh
2.2.1 Tứ thơ về tình cảm gia đình
Hữu Thỉnh là nhà thơ viết nhiều về chiến tranh, về cuộc sống nhưng ở
đó luôn nổi bật hình ảnh những con người gần gũi và thân yêu. Nếu với Xuân
Quỳnh, Bằng Việt, ta bắt gặp hình ảnh của người bà quen thuộc với “ổ rơm
hồng những trứng”, với mùi khói bếp lam lũ,.. thì với Hữu Thỉnh, ta lại gặp
được hình ảnh của người mẹ. Hình tượng người mẹ là một trong nhưng biểu
trưng đẹp nhất, sáng chói nhất, tượng trưng sâu sắc nhất về hình tượng Tổ
quốc. Người mẹ, một hình tượng có khả năng khái quát được tầm vóc, phẩm
chất của Tổ quốc Việt Nam thầm lặng mà mãnh liệt, dịu dàng, thủy chung mà
anh dũng, kiên trung, giản dị, đau thương, vất vả mà đôn hậu, hào hùng và
tươi thắm vô ngần.
31
Người mẹ hiện lên trong thơ là những người mẹ quê hiền lành tảo tần
như hàng ngàn bà mẹ khác trên khắp miền đất nước:
Mẹ tôi dòng dõi nhà quê
trầu cau từ thuở chưa về làm dâu
áo sồi nâu, mấn bùn nâu
trắng trong dải yếm bắc cầu nên duyên
(Con đường của những vì sao - Nguyễn Trọng Tạo)
Trong thơ Hữu Thỉnh, người mẹ là người phụ nữ chịu đầy vất vả lam lũ
và khổ cực “Mẹ một mình đi cấy cánh đồng xa/ Mẹ đã đi hết con đường của
mẹ” , “Mẹ nhờ khói bếp/ Trời ngắt khói đem đi”, “Ai chèo đò như dáng mẹ ta
khom” “Đồng quang bóng mẹ nắng nôi một mình....” Những người mẹ tuy
lam lũ, khổ cực như vậy nhưng lại mang một sức mạng tinh thần vô cùng lớn.
Đó là những người mẹ anh hùng, khi đất nước cần, sẵn sàng để cho những
người con của mình ra trận. Họ nuốt nước mắt vào trong mong con ra trận
đánh giành được bình yên của Tổ quốc. Đó là một hình ảnh vô cùng tuyệt vời
của những người mẹ Việt Nam.
Khắp ngả đường của những người chiến sĩ đi qua đều có hình bóng của
mẹ. Nơi tiền phương, phía trước mặt biết bao chông gai thử thách nhưng
người chiến sĩ đã có một niềm tin vô bờ bởi trong trái tim họ, có người mẹ
như ngọn lửa cháy mãi luôn soi sáng, dẫn đường. Tình yêu thương của người
mẹ đã hòa vào tình dân tộc, tình quê hương. Mẹ đã trở thành người mẹ Đất
nước, người mẹ Dân tộc che chở và đùm bọc cho những đứa con đang ngày
đêm đối diện với giặc thù. Phía sau lưng, nơi quê nhà yêu dấu, mẹ là hậu
phương vững chắc nâng bước chân cho người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao.
Có sức mạnh nào lớn hơn lòng mẹ, có tình yêu thương nào trải khắp các vùng
đạn bom như tình yêu thương của mẹ. Người chiến sĩ trong những lúc gian
nguy nhất, đau đớn nhất lại tìm được điểm tựa vững chắc về tinh thần. Họ
32
như quên đi những thương tích trên cơ thể khi nhớ về mẹ, nhớ về ngôi nhà
xưa của mẹ, về dáng hình người mẹ già đang ngày đêm ngồi dõi theo mỗi
bước đi của những đứa con:
Mẹ là người chúng con nhớ nhất
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía sau
(Sức bền của đất - Hữu Thỉnh)
Với người lính, người mẹ chính là hình ảnh của quê nhà, của những gì
thân thương gần gũi nhất. Bởi vậy, họ dành cho mẹ những tình cảm nồng ấm
và chứa chan. Trong bài thơ Ngôi nhà của mẹ, tứ thơ được chọn làm điểm
tựa cho sự vận động của cả bài đó là hình ảnh ngôi nhà. Ngôi nhà là hình ảnh
gợi cảm hứng, điểm bắt đầu cho toàn bộ tác phẩm. Người lính trên đường
hành quân xa luôn mang trong mình nỗi nhớ thương không nguôi về mẹ, về
quê hương. Nỗi nhớ ấy luôn đau đáu trong lòng và cuối cùng đã vỡ òa, trở
thành cám hứng để sáng tác khi nhà thơ quay trở lại với ngôi nhà thân thuộc
của mình, nơi đầy ắp bóng hình của mẹ :
Xin mẹ lại cho con bắt đầu đi gánh nước
gánh bao nhiêu trong mát để dành
xin mẹ lại cho con nấu bữa cơm mà không cần giấu khói
để con được cảm ơn ngọn lửa nhà ta
ngọn lửa biết thay con tìm lời an ủi mẹ.
Người mẹ là “chiếc hầm trú ẩn”, là “bến đỗ yên bình” cho những người
con xa quê hương. Sống trong chiến tranh, đến bữa cơm cũng phải nấu trong
sự giấu giếm, phải dùng bếp Hoàng Cầm để che giấu làn khói trước quân
địch, người con lúc này lại cảm thấy hạnh phúc làm sao khi được về với mẹ,
về với ngọn lửa của gia đình, của sự bình yên. Và chính những điều hạnh
33
phúc ấy, những mơ ước mong mỏi khi được về đoàn tụ với gia đình đã làm
cho người con cầm vững tay súng chiến đấu, để tới một ngày hòa bình lập lại,
người con sẽ trở về với cuộc sống bình yên bên gia đình:
Nhưng với một người lính như con
Muốn gặp mẹ phải vượt lên phía trước
Phải lách qua từng bước hiểm nghèo
……..
Ngôi nhà mẹ là chiếc ga bé nhỏ
Chúng con đến và đi trong suốt cuộc đời mình.
Ngôi nhà hay chính là người mẹ nơi bình yên và vững chắc nhất, là nơi
sân ga yên bình luôn chờ đón những người con trong suốt cuộc đời. Đó là một
sự hi sinh cao cả của cuộc đời mẹ, dành tuổi xuân để chăm sóc những người
con, dành những năm tháng mòn mỏi nửa đời còn lại để mong ngóng những
đứa con bình an trở về qua mỗi chuyến đi xa.
Một tứ thơ nổi bật khác của Hữu Thỉnh khi viết về mẹ là bài thơ Ngọn
khói. Đây là một cách viết quen thuộc ta đã gặp trong bài Tiếng gà trưa, âm
thanh tiếng gà chính là tứ thơ vang vọng sắp cả bài, gợi lên cả thời quá khứ
bình yên đẹp đẽ, tình yêu thương của người bà dành cho cháu đầy giản dị,
chân thành. Ở bài thơ Ngọn khói, hình ảnh trở đi trở lại và xuyên suốt tác
phẩm, gợi cảm hứng cho sáng tác của nhà thơ chính là những ngọn khói. Đó
là khói của bữa cơm chiều tỏa lên từ những mái nhà tranh, đó là mùi khói của
rơm rạ đặc trưng cho những làng quê, của mỗi căn bếp rơm do những người
mẹ người bà đốt lên đầy mùi bùn đất cỏ cháy:
Sao tôi cứ lan man cùng khói ấy
Mẹ nhóm lên nghi ngút mé đồi
Bùn đất, cỏ khô ngùn ngụt cháy
Cả mùa đông tìm đến sưởi cùng tôi
34
Ngọn khói ấy hiện lên trong tâm trí của nhà thơ với một nỗi nhớ nhung
tràn ngập. Ngọn khói ấy gắn vương vấn gắn với cuộc đời của nhà thơ, với
hình ảnh người mẹ tần tảo được lặp đi lặp lại bên mé đồi cỏ cháy, với những
đắng cay trong suốt cuộc đời đã phải trải qua. Ngọn khói như từ miền kí ức xa
xưa bỗng xuyên qua thời gian để bây giờ hiện hữu vấn vương trong tâm trí
của tác giả, đề rồi bồi hồi nhớ về những năm tháng bên làng quê nghèo. Bài
thơ mang đậm nỗi buồn, sự cô đơn, chơi vơi của tâm hồn trước những ngày
tháng quá khứ đã xa, với những gì yêu thương nhất đặc biệt là với người mẹ.
Hình ảnh người mẹ hiện lên xuyên suốt trong các tác phẩm của ông đều
mang những nét truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Câu ca, lời ru ngọt
ngào mà êm đềm cất lên từ làn môi mẹ, những đứa con lớn lên từ đó. Để rồi,
khi đất nước có chiến tranh, mẹ không tiếc những “khúc ruột mềm”, sẵn sàng
động viên những đứa con đi ra tiền tuyến đánh giặc. Nhiều người mẹ đã hi
sinh đứa con của mình, tất cả vì Tổ quốc, để những người mẹ đó trở thành
người mẹ của nhân dân, của đất nước:
Chúng tôi biết ơn bà mẹ nghèo làng Gióng
Đã nuôi con lam lũ nhọc nhằn
...Mẹ ngồi đó đêm mưa ngày nắng
Mẹ ngồi đó một thời bom đạn
(Trường ca sư đoàn - Nguyễn Đức Mậu)
Người mẹ trong thơ của Hữu Thỉnh là người mẹ nghèo khắc khổ nhưng
cũng là người mẹ anh dũng kháng chiến. Cả cuộc đời người mẹ dành trọn cho
các con, cho cách mạng. Năm tháng cứ dần trôi qua, bao lớp bom đạn rơi
xuống những vùng đất quê hương, người mẹ cứ dần già đi mang theo bao nỗi
đau về thể xác và tinh thần, thế nhưng người mẹ vẫn luôn tần tảo, làm hậu
phương vững chắc cho con.
35
Bên cạnh tình cảm về mẹ, tình cảm yêu thương còn là những tình cảm
chân thành, sự gắn bó máu thịt với người chị, người em, người anh những con
người ở hậu phương, ngày đêm lặng lẽ theo sát, ủng hộ người lính trên con
đường hành quân. Người mẹ ruột thịt chờ mong tin con ở nơi phương xa,
người mẹ nơi dừng chân bên đường cưu mang từng bữa ăn giấc ngủ. Tình
cảm thương yêu ấy chính là tình cảm gắn bó của người lính với nhân dân, với
đất nước:
Mẹ ta ốm, húp bát canh rau dệu
Chị ta hay ngồi khóc dưới bếp một mình
Em ta ngủ hầm, sinh thấp khớp
(Đêm chuẩn bị)
Viết về người anh, Hữu Thỉnh đã dành cho người anh của mình những
vần thơ đầy cảm động trong Phan Thiết có anh tôi. Bài thơ nổi bật lên tứ thơ
là hình ảnh người anh với một tâm trạng tiếc thương đau đớn. Sự hi sinh của
người anh là nỗi đau nhức nhối trong lòng nhà thơ và cũng chính là điểm tựa
để nhà thơ viết nên bài thơ này. Hình ảnh người anh xuyên suốt toàn bộ tác
phẩm tạo một cảm giác nhức nhối, ám ảnh đối với tác giả:
Những người lính mở đường đi lấy nước
Họ lách qua những cánh đồi tháng chạp
Trong đoàn người dò dẫm có anh tôi
Trong chiến tranh, biết bao gia đình có người là chiến sĩ. Người anh
của tác giả cũng là một người lính, tham gia chiến đấu và hi sinh anh dũng.
Đây là một nỗi đau biết bao gia đình đã phải chịu đựng. Cuộc chiến tàn khốc
không buông tha cho số phận của bất cứ ai. Người anh tham gia làm nhiệm vụ
đã ngã xuống anh dũng ở vùng đất Phan Thiết. Người em đau đớn xót xa bất
ngờ trước sự hi sinh của người anh. Họ đã từng trải qua trên cùng một con
đường, đã gặp phải những khó khăn như bao người lính khác. Nhưng giờ đây
người anh đã không còn nữa:
36
Em đã qua những cơn sốt anh qua
Em đã gặp trận mưa rừng anh gặp
Vẫn không ngờ có một trưa Phan Thiết
Em một mình đứng khóc ở sau xe
Hình ảnh người anh có lẽ cũng là hình ảnh của vô số những người lính
khác. Họ đón nhận cái chết một cách thật bất ngờ, họ hi sinh nơi mặt trận, và
nơi họ nằm xuống chính là nhà. Từng vùng đất của Tổ quốc trở thành máu
thịt, chia sẻ nỗi đau, ôm trọn những người con anh dũng ấy vào lòng.
2.2.2 Tứ thơ về tình yêu
Tình yêu luôn là một đề tài muôn thuở của thi ca. Từ cổ chí kim, đã có
biết bao thi nhân lựa chọn đề tài tình yêu với biết bao cung bậc cảm xúc khác
nhau. Ta chìm đắm trong những vần thơ đầy say mê của Xuân Diệu, một trái
tim rạo rực tha thiết của Xuân Quỳnh hay bình dị mà chân thành như của
Nguyễn Bính. Nhưng với Hữu Thỉnh, tình yêu của ông lại mang một màu sắc
khác. Ở đó có cảm xúc bâng khuâng e ấp của những ngày tình yêu chớm nở,
có những nhớ nhung quanh quẩn trong tâm trí và những nỗi buồn xa cách
ngập trong tim.
Tình yêu trong thơ của Hữu Thỉnh mang một dư vị đằm thắm, dịu dàng
mà trong trẻo của buổi ban đầu. Câu chuyện tình yêu thật giản dị mà cũng thật
đáng yêu của đôi trai gái được thể hiện qua bài thơ Hai nhà:
Hai nhà lưng dựa vào nhau
Cành xoan bên ấy ngả đầu sang đây
Lá sả đấy gội đây say
Ru em bên ấy bên này thiu thiu
Những lời thơ “bên ấy – bên này” làm ta nhớ đến những vần thơ mộc
mạc chân thành của Nguyễn Bính viết về tình yêu:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
37
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
(Người hàng xóm)
Hay là bài thơ Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn với tâm sự của
đôi tình nhân còn đang trong những ngày còn e ấp:
Khung cửa sổ hai nhà cuối phố
Chẳng hiểu vì sao không khép bao giờ
Tình yêu trong thơ Hữu Thỉnh rất chân thực mà cũng rất giản dị, hồn
hậu. Tình yêu đôi lứa gắn với những câu thơ Kiều đã in sâu vào tâm thức
người Việt. Những câu thơ đầy mộc mạc, bình dị ấy trong con tim đang đập
những nhịp rộn ràng của đôi lứa lại trở thành nguồn cảm hứng bất tận làm cho
chàng trai si tình phải quên đi thời gian của tạo hóa
Mải nghe chênh chếch trăng tà
Đầu hồi bên ấy ngả qua bên này
Và trong trái tim của người đang yêu, đó là khao khát hạnh phúc,
được bày tỏ tình cảm chân thành với người con gái đặc biệt là thông qua
hình tượng ẩn dụ
Sáng ra nặng trĩu cành cây
Mái lá bên này choàng cả bên kia
Bài thơ như một lời tỏ tình đầy ngọt ngào cho dù còn nhiều ngại ngùng
e ấp của thuở ban đầu. Tứ thơ bắt đầu cho cả bài thơ chính là hình ảnh của hai
ngôi nhà “lưng dựa vào nhau”. Một hình ảnh rất đời thường, bình dị nhưng nó
lại tràn đầy cảm xúc. Từ câu chuyện về hai ngôi nhà, nhà thơ đã viết về tình
cảm của chàng trai với nỗi tương tư âm thầm, chân thành và giản dị nhất. Có
lẽ phải mang trong mình một trái tim đầy nhạy cảm và lãng mạn, Hữu Thỉnh
mới có thể viết nên những vần thơ như vậy.
Không chỉ là những giây phút ngập ngừng buổi ban đầu, tình yêu trong
thơ ông còn mang theo sự say đắm của tiếng sét ái tình:
38
Anh đã một lần chạm phải mắt em
Chỉ lần ấy mà không sao gỡ nổi
Anh như một đôi cánh chuồn chuồn
Bị chấm nhựa trong ngày tươi sáng ấy
(Một lần)
Tình yêu đôi khi bắt đầu từ “tiếng sét ái tình”. Đó là khi anh vô tình gặp
phải đôi mắt em. Thế nhưng sự vô tình ấy đã ám ảnh mãi trong tâm tưởng của
anh, của chàng trai đang yêu. Và chính hình ảnh ánh mắt của em ấy đã tạo
nên cảm hứng cho toàn bộ tác phẩm. Ánh mắt ấy đã làm bừng lên trong lòng
nhà thơ một cảm xúc mãnh liệt “không sao gỡ nổi”. Tứ thơ ấy đã làm nên
mạch cảm xúc của cả bài, để từ đó chảng trai cảm thấy bản thân trở nên mạnh
mẽ đến phi thường. Nơi chiến trường, nơi tưởng chừng chỉ có tiếng súng tiếng
bom và cái chết đang rình rập, trái tim của anh vì ánh mắt của em mà ngập
tràn hạnh phúc. Đó là một điều lãng mạn nhỏ nhoi giữa cuộc chiến tranh khốc
liệt và chính nó đã giúp cho chàng trai “bỗng thấy mình mạnh mẽ lớn lao” và
tiếp thêm sức mạnh cho ngọn lửa hi vọng:
Trời thấy vậy cho mùa xuân trở lại
Từ dạo ấy những ngôi sao tình ái
Cứ tìm mình dưới đáy biển đêm đêm
(Một lần)
“Đêm đêm” là khoảnh khắc thời gian của bóng tối nhưng những ngôi
sao tình ái kia vẫn tỏa sáng. Hình ảnh này cho ta thấy ẩn sâu sau bóng tối, sự
tuyệt vọng vẫn là ánh sáng của niềm tin, của hi vọng vẫn luôn nhen nhóm để
chiếu sáng.
Tình yêu trong thơ của ông còn mang theo nỗi buồn cô độc và sự chia
xa. Bao nhiêu thiết tha, bao nhiêu nỗi cô đơn đã bày tỏ cùng năm tháng nhưng
39
hình ảnh của người xưa thì mãi không trở về. Chàng trai trẻ chợt nhận ra trái
tim mình đang tìm tòi một điều gì nhưng mà “xa vắng” lắm :
Xa vắng quá bồn chồn đi hỏi cát
Đường đông người, đâu nhỏ dấu chân em
Xa vắng quá một mình đi hỏi bến
Người sang đò có dặn sống gì thêm ?
Xa vắng quá tần ngần đi hỏi chợ
Người mua gương dạo ấy có hay về ?
(Xa vắng)
Xa vắng, nhớ nhung dẫn người con trai đi tìm lại hình ảnh người con
gái của mình. Anh đi tìm cát, tìm bến, tìm chợ để mong thắp lên được một tia
hi vọng về một con đường nào đó đặt “dấu chân em”. Anh lại một mình đi tìm
bến với hi vọng “người sang đò” có hẹn ngày đò trở lại. Câu thơ mở ra với
biết bao suy tư về không gian, thời gian vô tận. Con “sóng” kia cứ mãi xô đi
tìm nhưng “người chèo đò” thì chẳng hẹn ngày về. Mệt mỏi, bi quan, con
sống nhỏ “tần ngần” đi hỏi chợ, cũng chỉ mong tìm được người con gái đã
mua gương thuở nào. Thời gian đã làm cho nỗi nhớ nhung xa cách hao mòn,
héo hon cùng năm tháng, để rồi không còn “bồn chồn” và có đủ nghị lực “một
mình” đi tìm mà giờ đây tâm trạng đã gần như tuyệt vọng, chỉ còn một tia ánh
sáng héo hon của hi vọng được hắt lên yếu ớt trong nỗi lòng người trai trẻ.
Câu thơ kết thúc và một lời tự hỏi, day dứt cũng đồng thời kết thúc tứ thơ của
cả bài. Từ đầu đến cuối tác phẩm, tứ thơ bao trùm lên tất cả chính là nỗi cô
đơn, cảm giác trống vắng, day dứt trong tình yêu. 2.2.3 Tứ thơ về nỗi cô đơn
Sau năm 1975, những sáng tác của các nhà thơ đều chứa đựng những
tâm tư, tình cảm đa chiều của nhiều “bi kịch cá nhân”. Vì vậy, âm hưởng
40
chung của nó là nỗi buồn, sự cô đơn. Thế hệ các nhà thơ chống Mỹ bước vào
cuộc sống đời thường thấy băn khoăn, mất đi niềm tin:
Nhưng lòng tin, tôi có lúc đói lòng tin.
Hay như Lưu Quang Vũ, trực tiếp bày tỏ nỗi cô đơn:
Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ
Thằng bé lẻ loi giữa lớp học ồn ào
(Thơ gửi người tình cuối cùng)
Cảm giác cô đơn là trạng thái luôn luôn thường trực của cái tôi trữ
tình ngay cả khi nó ở giữa cuộc sống ồn ào, bề bộn. Cô đơn không phải là
không có bạn bè, không có ai xung quanh mà ở đây, đó là cảm giác không
có sự đồng cảm, tiếng nói chung giữa con người, khiến chủ thể trữ tình cảm
thấy lạc lõng.
Các tác phẩm thơ của Hữu Thỉnh cũng hòa chung vào xu hướng sáng
tác ấy. Những người lính đã sống cả tuổi thanh xuân của mình trong cuộc
kháng chiến, đã chứng kiến bao cái chết, sự ra đi của đồng đội, sự tàn khốc
của chiến tranh. Họ sống tất cả đều vì một mục đích, chung một lý tưởng với
tinh thần chiến đấu “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – mà lòng phơi phới dậy
tương lai”. Bởi vậy, khi trở về với cuộc sống đời thường, họ dường như trở
nên lạc lõng, xa lạ với cuộc đời. Nếu màu sắc nơi chiến trường chính là một
gam màu đồng nhất thì cuộc sống đời thường lại đa sắc đa thanh. Họ đôi khi
lại trở thành người thừa, không thể hòa nhập cùng xã hội. Không ít người lãng
quên họ, và sự cô đơn dâng lên trong nỗi niềm của người thi sĩ. Điều đó gần
như trở thành sự ám ảnh và ngập tràn trong thơ của ông đặc biệt là trong tập
thơ Thương lượng với thời gian và Thư mùa đông
Bài thơ Trước tượng Bay-on có lẽ là bài thơ thể hiện tứ thơ về nỗi cô
đơn rõ nhất. Tứ thơ được hiện lên bắt đầu từ hình ảnh đất trời bao la rợn ngợp
ở Bay-on. Giữa khung cảnh đất trời hoang sơ rộng lớn ấy, con người cảm thấy
41
cô đơn, bé nhỏ. Nỗi cô đơn ấy vẫn luôn thường trực trong tâm hồn tác giả,
cảm giác bị bỏ quên, tuyệt vọng đã ngấm vào vạn vật, mang một cảm giác
lạnh lẽo, cô liêu:
Ở đây Trời bị bỏ quên
Hoa biếng nở, đá đá chen hết người
Đá đang rợn ngợp trước tôi
Cánh tay đeo ngấn bao đời còn say
Con người cũng như sự vật cô đơn giữa không gian bao la rợn ngợp,
không có lấy một tri kỷ giữa cuộc đời hỗn loạn xô bồ.
Tự mình là cả núi non
Vẫn không thoát khỏi cô đơn giữa trời
(Trước tượng Bay-on)
Đến thiên nhiên bao la hùng vĩ cũng thấy cô đơn giữa đất trời, huống
chi con người còn nhỏ bé trước thiên nhiên. Nỗi cô đơn ấy không chỉ riêng ai,
đặc biệt là với những người có tâm hồn nhạy cảm như ông. Người ta nói Hữu
Thỉnh là nhà thơ của niềm cô đơn. Có lẽ đúng như vậy !
Nỗi niềm cô đơn ấy còn xuất hiện trong tình yêu. Tình yêu của Hữu
Thỉnh cũng rất lạ, nó không có những giây phút hạnh phúc ngập tràn hay trọn
vẹn nhiều, thay vào đó nó là những nỗi buồn cô độ. Điều đó được thể hiện
trong bài thơ Sắm Tết. Nhắc đến Tết, nhắc đến mùa xuân, trong thơ ca chắc
chắn sẽ là những hình ảnh mùa xuân với sức sống ngập tràn, muôn hoa khoe
sắc, khắp nơi tràn ngập âm thanh cười vui hạnh phúc. Thế nhưng với Hữu
Thỉnh, đó lại là nỗi buồn xa cách:
Biết sắm Tết gì đây
Cho người đang xa cách
Mua gì cho đỡ rét
Bán gì vơi cô đơn
42
Tứ thơ được bắt đầu với hình ảnh mùa xuân đến nhưng lại thể hiện một
sự đối lập của con người. Chàng trai đi sắm Tết – một công việc vui vẻ, hào
hứng nhưng lại mang một tâm trạng cô đơn. Có lẽ, chàng trai cảm thấy quá cô
độc giữa những người xung quanh, giữa những niềm vui hạnh phúc không
thuộc về mình bởi vì mùa xuân này của anh không có em. Sự xa cách đã làm
mùa xuân trở nên cô đơn và vô vị. Có lẽ chẳng có cái giá nào trả cho đủ thời
gian “xa cách” “chia phôi”, chẳng có gì có thể làm cho lòng anh được sưởi ấm
và vơi đi nỗi cô đơn khi anh đã xa vắng em. Không gian, thời gian như một
bức màn vô hình ngăn cách cho tình yêu của đôi lứa. Và chính sự xa cách ấy
làm toát lên nỗi cô đơn, cô độc trong trái tim con người.
Nỗi buồn, sự chia lìa còn dẫn đến đỉnh điểm với những vần thơ
Mùa thu cũng bỏ trời
Đi về miền tiếc nuối
Có con tàu mệt mỏi
Thét còi trong tim anh
(Ước)
Mùa thu từ trước đến nay luôn là biểu tượng gắn liền với nỗi buồn, sự
cô đơn. Người ta nói người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, với một tâm hồn
tổn thương đầy mất mát, mùa thu dường như cũng rã từ trời đất để đi tới một
miền nào đó xa lắm, để lại cho ta sự tiếc nuối vô hạn. Chiếc tàu căng buồm
tràn ngập sức mạnh tình yêu giờ cũng đã mệt mỏi muốn ngừng. Đó là một sự
bất lực, đau đớn đến tột cùng của tình yêu, chàng trai mệt mỏi muốn buông
tay để về với cuộc sống cô đơn.
Nỗi buồn vốn xuất hiện trong thơ ca từ rất lâu, thế nhưng đến với Hữu
Thỉnh, nỗi buồn không phải là một điều gượng gạo, là điều mà nhà thơ phải
gắng gượng để tạo ra mà là nỗi buồn thấm từ trong cõi lòng của một con
43
người đầy suy ngẫm. Nỗi buồn trong thơ ông luôn song hành cùng với nỗi cô
đơn. Có lẽ đó, các vần thơ của ông luôn khiến người đọc rung động sâu sắc.
2.3 Nghệ thuật tổ chức tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh
2.3.1 Cấu tứ liên tưởng
Tứ thơ luôn có một sự gắn bó chặt chẽ với hình tượng thơ và sự liên
tưởng. Từ những hình ảnh cụ thể của bài thơ, qua quá trình vận động nó trở
thành hình tượng trung tâm. Tứ thơ phát triển bằng những liên kết, so sánh, ẩn
dụ, … Liên tưởng là mạch ngầm, là sợi dây quan trọng nối liền cảm xúc, hình
ảnh, chi tiết cụ thể thành một khối thống nhất.
Trong số các sáng tác của Hữu Thỉnh, các bài thơ theo cấu tứ này
chiếm số lượng rất lớn. Tiêu biểu và nổi bật nhất đó chính là bài thơ Sang
thu. Bài thơ được viết vào thời điểm năm 1977, khi cuộc chiến tranh khốc liệt
vừa khép lại và cuộc sống yên bình bắt đầu. Bài thơ được lấy cảm hứng một
cách rất tình cờ, đó là khi nhà thơ trèo lên một cây ổi chín vàng trong vườn ổi.
Và với sự xúc động trong tâm hồn, sự quan sát tinh tế và kinh nghiệm của bản
thân, Hữu Thỉnh đã tạo nên một tứ thơ giản dị mà qua đó nói lên cả một triết
lý sống.
Trong những câu thơ mở đầu, tác giả tập trung miêu tả thiên nhiên của
những ngày đầu thu với cảm xúc về những tín hiệu biến đổi một cách tinh vi
của vạn vật:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã nói : “Mùa thu biểu hiện rất nhiều hình ảnh khi
chuyển mùa. Và tất cả những hình ảnh đẹp cũng đã được các nhà thơ cổ khai
thác hết cả rồi. Tôi không muốn lặp lại nữa nên giữa trời đất mênh mang, giữa
44
cái khoảnh khắc giao mùa kỳ lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động,
phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều
người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ
đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi,
những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi
chín ven sông... Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con trẻ... Hương ổi tự nó xộc
thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta. Mùi hương
đơn sơ ấy lại trở thành quý giá vì nó đã trở thành chiếc chìa khóa vàng mở
thẳng vào tâm hồn mỗi người, có khi là cả một thế hệ...”.[19] Mùi hương ổi
là mùi hương đầu tiên trong bức tranh mùa thu làng quê Việt quen thuộc,
dân dã.
Cùng với đó là những hình ảnh của mây, của sóng, của chim, … không
đơn giản chỉ là để miêu tả mà còn hàm chứa những quan sát tinh tế, những
trải nghiệm đầy thăng trầm trong cuộc đời con người. Từng hình ảnh đều
mang ý nghĩa liên tưởng đến những biến động trong cuộc đời của con người
khi đã bước vào giai đoạn nửa kia của dốc cuộc đời. Hình ảnh hương ổi phả
vào trong gió có phải chăng là tiếng thở dài của con người khi đã trải qua
những năm tháng tuổi trẻ. Làn sương chùng chình có thể khiến ta liên tưởng
đến những bước chuyển mình chậm rãi của con người để bỏ lại sau lưng
những lo toan vội vã, bước qua cái mốc của cuộc đời để đến với một cuộc
sống khác. Những đám mây mùa hạ chứa nhiều màu sắc, thậm chí đầy giông
bão tựa hồ những ước mơ khao khát của tuổi trẻ. Và trên con đường biến
những ước mơ thành hiện thực ấy lại gặp không ít gian nan, thử thách. Chính
những điều đó đôi khi lại khiến cho mỗi người không thể hoàn thành được lý
tưởng sống của mình. Sự dang dở, sự mất mát là một hiện thực chúng ta buộc
phải chấp nhận trong cuộc sống. Phải chăng, Hữu Thỉnh đang muốn nói đến
những người lính, những người đã hi sinh ngoài mặt trận khi tuổi đời còn rất
45
trẻ. Họ ra đi trong khi còn nhiều tiếc nuối, còn nhiều ước mơ chưa đạt được.
Những liên tưởng được gợi lên như các lớp sóng liên tiếp giao hòa vào nhau
và kết tụ lại ở vần thơ cuối:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Những vần thơ được kết tinh ở khổ thơ cuối, từ hình ảnh những hàng
cây cổ thụ đứng vững theo thời gian bất chấp mưa gió, nó là biểu tượng để từ
đó người đọc liên tưởng tới sự trải nghiệm của mỗi con người. Cuộc đời con
người khi đã bắt đầu ở phía bên kia dốc, người ta vẫn còn mang trong mình
nhiều nhiệt huyết và đắm say, khao khát hiến dâng cho đời. Bên cạnh đó,
những nông nổi, bồng bột đã dần dần vơi đi bởi kinh nghiệm sống của con
người theo năm tháng. Để rồi với những trải nghiệm ấy, con người ta không
còn lo lắng mà bình tĩnh đối mặt với mọi sự thử thách. Chúng ta còn có một
cách lý giải khác khi gắn với cuộc chiến tranh năm 1977, đó chính là khao
khát của con người về cuộc sống hòa bình. Hình ảnh của sấm có thể được coi
là biểu tượng cho bom đạn, cho những trận tập kích bất ngờ không phút nào
yên của giặc đối với nhân dân ta. Và khi “tiếng sấm” đã không còn nữa, đất
nước trở nên hòa bình, đó là một điều mà những người lính như ông luôn tự
hào và coi trọng.
Cấu tứ liên tưởng còn được thể hiện trong bài thơ Trông ra bờ ruộng
với kiểu vận động theo liên tưởng hồi ức:
Trông ra bờ ruộng năm nào
Mưa bay trắng cỏ, cào cào cánh sen
Mẹ tôi nón lá bước lên
Mạ non đầu hạ trăng liềm cuối thu
46
Hai câu thơ mở đầu đưa ta về không gian của ký ức quen thuộc với
“bờ ruộng năm nào”, “mưa bay”, “cào cào cánh sen”. Không gian mở ra với
những hình ảnh bình dị, quen thuộc trong đời sống của người nông thôn. Có
lẽ, tác giả đã nhìn thấy khung cảnh như thế này ở khắp đường hành quân, nó
không hề xa lạ. Thế nhưng tình cảm dành cho mẹ, nỗi nhớ về người mẹ vốn
luôn có sẵn, ăn sâu trong tiềm thức tác giả khi vô tình nhìn thấy những khung
cảnh ấy mới khiến nỗi thương nhớ người mẹ trở nên da diết, sâu đậm. Nhà
thơ từ khung cảnh đó mới liên tưởng tới hình ảnh người mẹ trong quá khứ.
Đó là người mẹ lam lũ bước lên từ dưới màn mưa trắng trời trắng đất, mặc
cho năm tháng cứ trôi qua.
Quanh quanh vẫn một mảnh bờ
Bấy nhiêu toan tính đến giờ chưa yên
Cả cuộc đời mẹ vất vả quanh nhà cửa ruộng đồng, mẹ hy sinh cả tuổi
trẻ dành cho con. Có người mẹ nào không suốt đời toan tính, lo âu cho con,
nhất là đối với những người con đi lính. Người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh là
người mẹ đầy vất vả, lo toan giữa bộn bề cuộc sống:
Cỏ dày, cây lúa phải chen nhọc nhằn
Xòe tay tính tháng tính năm
Tính người? Nào biết xa xăm cõi người
Hình ảnh chen lấn giữa cỏ và lúa phải chăng là sự liên tưởng tới cuộc
sống của mẹ, lăn lộn, nhọc nhằn trước những khó khăn bôn ba của cuộc sống.
Thế nhưng người mẹ vẫn tần tảo, hi sinh nhưng cũng không hề yếu mềm
khuất phục. Thế nhưng, người mẹ vẫn cứ vất vả và cô độc trước xa xăm cõi
người. Ở đó, còn mang theo một sự xót xa, hối hận của người con đối với mẹ.
Từ chính hình ảnh của những cảnh vật quen thuộc, Hữu Thỉnh đã viết nên
một tứ thơ mang đầy cảm xúc về mẹ.
47
Một trong những bài thơ thể hiện khá rõ cấu tứ liên tưởng là Những kẻ
chặt cây. Từ một câu chuyện về những cái cây bị chặt, tác giả đã liên tưởng
đến cách sống của con người. Nhà thơ muốn có một hình tượng để từ đó có
thể so sánh, làm nổi bật cái tứ của mình.
Những hàng cây lặng lẽ bảo vệ mình
Bằng chính búp của thói quen đem tặng
Trời bỗng gần hơn mây bớt vắng
Cây gày gò bừng thức có tình sao
Hàng cây lặng lẽ với những búp non trong bài thơ này không chỉ đơn
giản chỉ thực tế mà nó còn mang sự liên tưởng về con người. Những con
người sống trong xã hội luôn lặng lẽ, tự bao bọc và bảo vệ mình như một thói
quen. Đó là một cách sống cá nhân và hèn nhát. Thế nhưng khi cuộc đời có
những biến chuyển đổi thay, những cái cây ấy đã bừng tỉnh giấc, thoát khỏi
lớp bảo bọc đã che chở bản thân bấy lâu nay:
Cùng lúc đó một tên dậy sớm
Đi tìm dao như mọi sáng đi tìm
Và nó chặt
Và tiếng chim tan vỡ…
Mạch thơ lại tiếp tục với một hình ảnh cụ thể hơn, đó chính là kẻ chặt
cây. Mang trên tay con dao sắc nhọn, như một thói quen vào mỗi sáng, đi tìm
những hàng cây để chặt. Đây chính là hình ảnh của những con người bị tha
hóa, độc ác và tàn nhẫn. Họ sẵn sàng buông tha mọi giá trị đạo đức, đẩy
những con người tốt vào những thứ tiêu cực, những hãm hại bon chen xấu xa.
Cây cối, thiên nhiên và con người vốn luôn có sự gắn kết hài hòa, chúng vốn
được gắn kết với nhau để yêu thương, để mang lại những điều tốt đẹp cho
cuộc đời. Nhưng đến giờ, khi những cái ác, cái tiêu cực đã trở nên quá mạnh
mẽ, lấn át tất cả và không có cách nào ngăn cản được, con người trở thành nỗi
sợ hãi ám ảnh:
48
Không hiểu vì sao bóng mát bị trả thù
Bị xua đuổi tội tình đến vậy
Tôi thành kẻ bị lột trần trơ trẽn
Cả lũ nhìn nhau côi cút dưới bầu trời.
Câu chuyện chặt cây tưởng chừng như đơn giản nhưng nó lại làm ta
liên tưởng đến những giá trị và hiện thực tàn khốc của cuộc sống. Đôi khi ta
sống hoàn toàn đúng với bản thân, với những điều mình cho là đúng, là tốt
nhưng nó lại khiến cho những người ích kỉ, tàn nhẫn đố kị, ghen ghét và tìm
cách phá hoại. Và chính chúng ta cũng bất lực, không thể phản kháng được
trước những thế lực đó. Và quan trọng hơn, nó còn là mối quan hệ giữa con
người với con người. Một sự đáng lên án về cách sống, cách đối xử với nhau
trong cộng đồng xã hội, sự vô cảm, lạnh lùng, vụ lợi.
Bài thơ Chợ chim sử dụng cấu tứ liên tưởng khá rõ ràng. Với việc sử
dụng một thể thơ dân gian truyền thống và việc miêu tả một chợ chim ồn ào,
điều này làm ta liên tưởng ngay đến những hạng người trong xã hội. Đây là
một kiểu tứ khá quen thuộc giống với bài ca dao “Con cò chết rũ trên cây/ Cò
con mở lịch xem ngày làm ma ….”. Chợ chim ở đây được xây dựng vô cùng
đa dạng với mỗi loài chim mang một đặc trưng khác nhau :
Bồ quân bên suối chín vàng
Biến thành chợ của họ hàng nhà chim
Hóa ra, đây chính là nguyên nhân khiến cho họ hàng nhà chim tụ tập,
để rồi mỗi loài lại thể hiện một tính cách. Tu hú là loài vật nhanh nhất, biết
được đầu tiên và báo tin cho mọi người, rồi đến sẻ giục giã, chào mào say
sưa, chim sâu lề mề, quạ đen khoe mẽ, chèo bẻo chua ngoa, … Chợ chim
cũng như chợ người, cũng đủ các cảnh mua bán lộm nhộm, lẫn lộn kẻ ngay
người gian. Mỗi loài chim làm ta liên tưởng tới một kiểu người trong xã hội,
giữa cái chợ chim hay chính là chợ công danh buôn bán ồn ào “Người bán thì
49
một kẻ mua thì mười”. Và giữa những loài chim tranh nhau mối lợi ấy, vẫn
nổi bật lên hình ảnh của bồ quân – một loại người vẫn còn giữa trong mình
những phẩm chất tốt đẹp. Thay vì tranh giành, nghĩ đến cái lợi, chúng nghĩ
đến tương lai:
Bồ quân được nết được người
Bán thì bán đấy chẳng đòi công đâu
Chỉ xin cái hạt về sau
Nhân ra ngàn quả làm giàu cho chim.
Bài thơ Hỏi cũng mang cấu tứ liên tưởng khá rõ. Tứ thơ tạo dựng từ sự
liên tưởng, đối chiếu ; liên tưởng từ các hiện tượng tự nhiên cho đến nhân
sinh con người. Thiên hiên được nội tâm hóa, mang tầm vóc triết học, nhìn
qua lăng kính ưu tư nhân thế đầy tinh vi:
Tôi hỏi đất :
- Đất sống với đất như thế nào ?
- Chúng tôi tôn cao nhau
Tôi hỏi nước :
- Nước sống với nước như thế nào ?
- Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ :
- Cỏ sống với cỏ như thế nào ?
- Chúng tôi đan vào nhau
Làm nền những chân trời
Với ba khổ thơ đầu tương ứng với ba câu hỏi mang hình thức đối thoại
giữa con người với thiên nhiên : đất, nước, cỏ. Chủ thể trữ tình là người hỏi,
hướng tới đối tượng khác và cuối cùng là tự hỏi chính mình bằng ngôn ngữ
độc thoại. Những nhân vật thiên nhiên mang ý nghĩa ẩn dụ. Những câu hỏi
như những hồi chuông lặp đi lặp lại, ngân dài mãi : những sự vật ấy sống với
50
nhau như thế nào. Từng sự vật đưa ra câu trả lời trực tiếp dưới hình thức vấn
đáp mà không phải gián tiếp qua lời thuật lại của tác giả. Đất tôn cao nhau,
nước làm đầy nhau, cỏ đan vào nhau để mở rộng không gian đến tận chân
trời. Hình ảnh bên ngoài ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa bên trong, từng sự vật
đều có cách sống riêng làm ẩn dụ cho nhân thế, có tiếng nói riêng mang hồn
cốt thâm hậu. Hữu Thỉnh đã khám phá ra ý nghĩa nhân sinh “tôn cao nhau”.
Con người sống với nhau cần có sự nâng đỡ, coi trọng lẫn nhau. Tôn cao nhau
là sự giúp đỡ nhau để có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách khắc nghiệt của
cuộc đời. Hữu Thỉnh tiếp tục đưa cái tứ của mình vào những cuộc đối thoại
với nước. Nước làm đầy nhau là để bổ sung cho nhau, giúp nhau trở nên hoàn
thiện. Cỏ đan vào nhau cũng như con người trở nên đoàn kết khăng khít để
cùng nhau phát trển. Đó mới chính là điều con người nên sống. Cả bài thơ
được xây dựng theo hình thức đối thoại giữa con người và sự vật. Kết cấu thơ
liên tưởng vừa sâu sắc, vừa khát quát. Quan sát thiên nhiên với cái nhìn đầy tư
duy, Hữu Thỉnh đã nhận ra được bản chất, mối quan hệ của chúng, mỗi sự
vật vận động đều có những cách sống riêng làm ẩn dụ cho nhân thế. Và từ
đó những khám phá đó, nhà thơ tạo nên ý nghĩa biểu tượng và nhận ra triết
lý nhân sinh và nhắc nhở bài học cho con người. Con người phải sống sao
cho thật là mình, sống cho đúng bản ngã của mình, sống sao cho đúng với
“làm người”
2.3.2 Cấu tứ gợi mở
Với kiểu cấu tứ gợi mở, cả bài thơ có tứ chính được giấu kín cho đến
câu cuối cùng, dồn lại một điểm và được thể hiện toàn bộ tứ của bài một cách
sáng rõ nhất. Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên chính là một ví dụ. Nếu như
cả một quá trình sáng tác, các câu thơ liên tiếp nói về cuộc đời của ông đồ với
những chuyển biến của thời gian thì ở những câu thơ cuối, thay vì sự cảm
thán về số phận ông đồ thì nhà thơ lại làm sáng lên cái tứ của cả bài thông qua
câu thơ cuối. Đó là niềm tiếc thương cho những nét đẹp truyền thống đã bị
51
lãng quên theo thời gian. Trong thơ Hữu Thỉnh, ta cũng có thể bắt gặp được
một số bài thơ như vậy. Bài thơ Một thoáng làm người được mở ra như một
câu chuyện tưởng tượng:
Chừng như cây chồn gốc
Muốn đổi bóng cho tôi
Để cây được làm người
Làm người trong chốc lát
Mới một thoáng làm người
Cây bỗng đòi bóng lại
Các câu thơ nối tiếp nhau như đang thủ thỉ kể chuyện, một câu chuyện
giữa con người và loài cây. Những loài cây vô tri vô giác muốn được thử làm
người, muốn sống thử cuộc sống của con người dù là chỉ trong chốc lát. Điều
đó có lẽ cũng không có gì cho tới khi vừa thỏa ước nguyện, cái cây liền đòi
trở lại làm người. Bài thơ tưởng chừng chỉ đơn giản như vậy và sẽ kết thúc
với một câu thơ thể hiện thái độ của con người. Thế nhưng không, cả tứ của
bài thơ lại sáng lên với hai câu thơ cuối, nó làm nổi bật và sáng lên cả bài thơ,
làm cho người đọc tự suy ngẫm ra những bài học cho chính mình.
- Bão trời ta coi khinh
Bão người không chịu nổi.
Những loài cây sống giữa thiên nhiên luôn phải đối mặt với bão tố. Đó
là những cơn mưa to, gió giật, cành cây có thể giập nát, gốc rễ có thể bị bật,
những loài cây vẫn coi nhẹ. Thế nhưng, trước bão tố của cuộc đời, của con
người, nó đã không thể nào chịu được. Không chịu được trước những xô bồ
của cuộc sống, không chịu được trước sự tha hóa, đối xử với nhau một cách
bội bạc, tàn nhẫn. Đó cũng giống như một tiếng thở dài buồn của tác giả trước
cách sống của con người. Ở bài thơ này, tứ thơ đã được tích lại, dồn nén và
52
truyền đạt tất cả thông qua những câu thơ cuối cùng. Chỉ với hai câu thơ đã
làm bất ngờ cho người đọc đồng thời làm sáng lên cả tứ của bài thơ
Bài thơ Thương lượng với thời gian cũng có một cấu tạo thơ như vậy,
viết về vấn đề triết lý về con người. Tứ thơ vận động với hình ảnh của một
con người lầm lụi.
Buổi sáng lo kiếm sống
Buổi chiều tìm công danh
Buổi tối đem trí khôn ra mài rũa
Đó là cuộc sống của biết bao con người trí thức ngày nay, đơn giản,
đơn điệu. Họ bận rộn với hiện thực cơm áo gạo tiền lẫn lộn chi phối. Họ xoay
vòng trong cuộc sống nhân sinh, đi kiếm tiền, đi tìm công danh. Và tối đến,
khi đáng nhẽ có một sự thanh thản, sự nghỉ ngơi trong tâm hồn thì họ lại bận
rộn “đem trí khôn ra mài rũa”. Họ phải cố gắng nỗ lực hết sức mình để bươn
chải, vật lộn. Ở đâu đó, ta thấy cái tôi mang đầy sự khó khăn, vất vả, một
tiếng thở dài u ám
Tỉnh thức
Những hàng cây bật khóc
Những hàng cây là hình ảnh ẩn dụ cho nhà thơ, cho biết bao số phận
con người, những người ý thức được cuộc đời mình. Họ đang sống trong cuộc
sống tù túng, không hề có khao khát, ước mơ, thậm chí là tự do. Họ đang bị
xoay vòng trong cuộc sống tiền bạc công danh, những điều dù họ có chống cự
nhưng vẫn bị cuốn theo không cách nào dứt ra được. Và trong giây phút giật
mình thức tỉnh và nhìn lại mình, họ đã nhận ra bản thân sống thất bại như thế
nào. Có thể họ đã quên đi những gì mình đã từng trải qua, những lý tưởng mà
cuộc đời mình từng vươn tới. Hai câu thơ cuối đã làm người đọc ngỡ ngàng
nhận ra hình ảnh của chính mình, đánh thức chính bản thân về cách sống.
53
Với kiểu cấu tứ gợi mở này, dung lượng bài thơ không thể quá dài. Nó
thường ngắn gọn, xúc tích và dồn nén mọi ý và kết tinh của toàn bài vào
những câu thơ cuối, từ đó làm người đọc nhận ra những bài học mà tác giả
muốn nhắn nhủ.
2.3.3 Cấu tứ kết chuỗi
Cấu tứ kết chuỗi là kiểu cấu tứ theo kiểu kể chuyện. Trong các sáng tác
của các nhà thơ Việt Nam, đã có nhiều bài thơ viết theo kiểu cấu tứ này và rất
nhiều tác phẩm đã gặt hái được nhiều thành công, tạo những dấu ấn riêng
trong lòng người đọc.
Bài thơ Tiếng hát trong rừng của Hữu Thỉnh là một trong những bài
thơ được xây dựng theo kiểu cấu tứ này. Tiếng hát xuyên suốt toàn bộ tác
phẩm chính là ẩn dụ cho nỗi nhớ. Hữu Thỉnh đã lấy tiếng hát làm ẩn dụ, làm
biểu tượng cho nỗi nhớ cồn cào của những người lính về những năm tháng
chiến đấu oanh liệt thời kì kháng chiến chống Mỹ. Trong bài thơ, cái tứ “tiếng
hát” như kết thành một chuỗi và đan xen với lời kể chuyện trong suốt tuyến.
Ngay từ những câu thơ đầu, âm điệu và giọng hát của cô gái đã vang lên mộc
mạc, giản dị mà trong trẻo:
Nhạc làm trong rừng em hát giữa Trường Sơn
Người sốt rét hát cho người sốt rét
Đường ngổn ngang đường đất còn cháy khét
Cây mát cho người người mát cho nhau
Giữa Trường Sơn bom đạn, tiếng hát em cất lên giữa không gian u ám,
luôn có nguy hiểm cận kề, nơi có những con đường còn đang cháy khét vì
trận bom của giặc. Tiếng hát ấy như xoa dịu mọi đau thương, xóa đi mọi dấu
vết chiến tranh, làm cho tâm hồn con người thanh thản và bình yên. Nơi có
tiếng hát em là nơi có cảm thông chia sẻ, nơi có gắn kết yêu thương, để
“người mát cho nhau”. Tiếng hát của người con gái xưng “em” ấy trong
54
khoảnh khắc chiến tranh bom đạn mù trời, cái sống và cái chết chỉ cách nhau
gang tấc thì một chút kỷ niệm ngọt ngào, đôi khi chỉ là một thoáng ánh mắt,
chợt nhìn nhau rồi lại chợt quay đi cũng đủ dệt nên nỗi nhớ đến xôn xao: Tay
vẫy tay mình mà tưởng nắm tay ai. Tiếng hát mang theo một sức mạnh kì
diệu, hồn nhiên, mộc mạc, chạm tới tâm hồn của những người lính trẻ, những
con người hàng ngày sống đối mặt với hiểm nguy tưởng như đã chai sạn:
Anh bỗng quên vừa qua cơn sốt
Rừng bỗng quên vừa trận bom đau
Không những thế, tiếng hát em còn cho các anh thêm sức mạnh, thêm
nghị lực để vượt qua mọi gian lao thử thách, vượt qua cái chết để trở về:
Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao
Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá
Tiếng hát đi rồi căn hầm còn đó
Thành chiếc hộp đàn giữa lòng đất âm sâu.
Tiếng hát là âm điệu vang vọng, quấn quýt khắp bài thơ. Tiếng hát ấy
mang theo bao hi vọng, tình người, niềm tin vào tương lại, cuốn đi mọi gian
khổ khó nhọc, những mệt mỏi tinh thần, nỗi sợ hãi và làm rung động trái tim
của bao người lính. Bài thơ có tứ vừa độc đáo, vừa lãng mạn và đặc trưng cho
kiểu cấu tứ kết chuỗi.
Với bài thơ Thư mùa đông, toàn bài thơ không hề thể hiện nỗi nhớ.
Người đọc chỉ thấy những dòng thơ giống như những dòng thư kể về cuộc
sống của chàng trai cho người con gái. Và đến với câu thơ “Bao năm không
thấy màu con gái/ Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em”, nỗi nhớ mới bắt đầu
hiện hữu lên rõ rệt. Không còn là lớp sương mờ quanh quẩn bên chàng lính,
niềm nhớ nhung, khao khát bóng hình người yêu đã hiện lên rõ rệt, tràn ngập
cả bài thơ.
55
Bài thơ Gửi bạn triền sông là câu chuyện về một người bạn. Cả bài thơ
nổi bật lên hình ảnh người bạn của tác giả, một người lính như bao người lính
khác. Nhân vật trữ tình hiện lên theo trình tự thời gian, và đó là cái nhìn rất
chân thực của tác giả về cuộc đời của những người lính. Chiến tranh ngừng
lại, họ trở về hòa mình vào cuộc sống đời thường. Với một mạch lời kể rất
giản dị, đời thường, ta thấy được bóng dáng ở đây đó của người lính xưa.
Người lính những ngày xưa ấy lăn lộn trong khó khăn chiến đấu, giờ lại đang
bỡ ngỡ trong cuộc sống đời thường “Hạt lúa ta trồng mà mừng như bắt được/
Những quả duối chín mòng trẻ lại ríu chân lên” Chiến tranh qua đi để lại cho
người lính những ngỡ ngàng, những lo toan đời thường. Vẫn là tấm áo lính đã
sờn, là chiếc mũ cối bạc, những vật dụng vốn gắn với chiến đấu giờ lại gắn
với đời thường. Một cái mạch kết chuỗi mở rộng khiến ta cảm nhận được
những điều dung dị, để thấy được sự đổi thay của một con người nhưng cũng
là một thế hệ những người lính
Tất cả vẫn như xưa, tất cả lại bắt đầu
Đồng sau vụ đi đường cày thứ nhất
Bạn đã tập đi nghiêm, bạn đã tập đi đều và tập hát
Và bây giờ âu yếm giục trâu đi
56
Tiểu kết chƣơng 2
Tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh vận động với nhiều mạch cảm xúc cũng
như cách xây dựng tứ rất độc đáo. Với mỗi nhà thơ, việc xây dựng được một
tứ thơ hay chính là làm nên thành công của một tác phẩm. Và Hữu Thỉnh đã
làm được điều đó. Nhà thơ đã tạo nên những cảm xúc, những ấn tượng đặc
biệt, một cái tôi rất riêng thông qua việc sáng tạo tứ thơ. Có rất nhiều sáng tác
của ông có cùng một đề tài nhưng lại được thể hiện với cách xây dựng cấu tứ
khác nhau. Điều đó đã làm cho ta càng cảm thấy sự hiểu biết, kinh nghiệm
sống và một tư duy thơ vô cùng sắc sảo của ông.
57
Chƣơng 3
CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ HỮU THỈNH
3.1 Khái lƣợc về cái tôi trữ tình
Cái tôi là một trong những khái niệm triết học cổ nhất đánh dấu ý thức
đầu tiên của con người về bản thể tồn tại của mình, từ đó nhận ra mình là một
con người khác với tự nhiên, là một cá thể độc lập, khác với người khác. Khái
niệm cái tôi được xác định với rất nhiều ý kiến.
Với triết học duy tâm: R. Đề các (1596 – 1650) cho rằng cái tôi thể
hiện ra như một cái nhìn thuộc về thực thể biết tư duy như căn nguyên của
nhận thức duy lý, do đó cái tôi thể hiện tính độc lập của mình bằng định nghĩa
“Tôi tư duy tức là tôi tồn tại”.
Kant (1724 – 1804) quan niệm cái tôi bao gồm hai phương diện :
Cái tôi với tư cách chủ thể tư duy nhận thức thế giới và cái tôi với tư
cách là khách thể của chính nhận thức. Đồng thời Kant cũng nhấn mạnh tuyệt
đối khả năng nhận thức của cái tôi, tính thống nhất của tự nhiên không phải ở
trong tính vật chất của nó mà trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức cái
tôi. Hêghen (1770 – 1831) một mặt xem “Cái tôi như là sự tha hóa của ý thức
tuyệt đối”, một mặt nhấn mạnh vai trò to lớn của cái tôi. Cái tôi như là trung
tâm của sự tồn tại có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện mình trong
hiện thực.
BecXông (1858 – 1941) đã chú ý đến cái tôi thuần túy trong ý thức khi
nhấn mạnh đến đời sống bên trong cá nhân. Theo ông, con người có hai cái
tôi đó là cái tôi bề mặt và cái tôi bề sâu. Cái tôi bề mặt là các quan hệ của con
người đối với xã hội còn cái tôi bề sâu là phần sâu thẳm của ý thức trở lên.
Các quan điểm duy tâm đã khẳng định cái tôi là phương diện trung tâm của
58
tinh thần con người, là cốt lõi của ý thức, là khả năng chi phối hành động và
là sự khẳng định nhân cách con người trong thế giới.
Với bản chất tâm lý xã hội của mình, cái tôi là cơ sở của cái tôi trữ tình
trong thơ. Cái tôi ấy có thể trở thành cái tôi nghệ thuật khi nó có nhu cầu tự
biểu hiện, nhu cầu được giao tiếp để tìm sự đồng cảm và nó được bộc lộ bằng
ngôn ngữ nghệ thuật. Thông qua một trạng thái cảm xúc đích thực của cái tôi
trữ tình, người đọc không chỉ gặp riêng cái tôi của nhà thơ mà cả một thế giới
hiện thực với những mảng sáng tối, hạnh phúc và nỗi đau, niềm tin và sự đổ
vỡ, …
Xuân Diệu đã từng quan niệm về thơ: “Thơ phải làm cho người ta xúc
động, phải truyền cảm, phải làm cho tâm hồn người ta bay bổng như được
chắp cánh.”. Thơ ca nếu muốn lay động được người đọc thì phải làm cho
người ta đồng cảm và xúc động “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã
thật đầy” (Ngô Thì Nhậm). “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của
tâm hồn khi đụng chạm đến cuộc sống. Tóe lên ở những nơi giao nhau của
tâm hồn với ngoại vật, trước hết là những xúc cảm. Cảm xúc là phần thịt
xương hơn cả của đời sống tâm hồn” (Nguyễn Đình Thi). Và nhắc đến thơ ca
thì khái niệm cái tôi trữ tình cần được xem là khái niệm trung tâm, có khả
năng cắt nghĩa được chiều sâu quan niệm của chủ thể về chính mình, tức là
cái có ý nghĩa chi phối tính đặc thù của nội dung và hình thức thơ trữ tình
cùng các hình thái phát triển của nó trong lịch sử.
Theo triết học Mác – Lê nin: “Cái tôi là trung tâm tinh thần của con
người, của cá tính con người, có quan hệ tích cực đối với thế giới.” Cái tôi xã
hội của mỗi con người khi có nhu cầu biểu hiện và bộc lộ bản thân, nhu cầu
được biểu đạt dưới hình thức nghệ thuật thì đó chính là cái tôi nghệ thuật.
Theo PGS.TS Vũ Tuấn Anh “Cái tôi trữ tình là sự hội tụ thăng hoa theo quy
luật nghệ thuật cả ba phương diện cá nhân – xã hội – thẩm mĩ trong hình thức
59
thể loại trữ tình. Sự chiêm nghiệm đời sống của một người xuên qua lăng kính
chật hẹp của mình lại luôn phản chiếu những vấn đề chung nhất của con
người để từ đố kết tinh những giá trị nhân bản.”
Dù có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng trong quan niệm chung nhất
thì cái tôi trữ tình chính là sự thể hiện trực tiếp những xúc cảm và suy tư chủ
quan của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện thực cuộc sống. Ta
có thể hiểu đơn giản cái tôi trữ tình là sự phân thân của nhà thơ, cũng chính là
con người của nhà thơ trong đời sống đã bước vào thế giới nghệ thuật. Tuy
nhiên, cái tôi trữ tình đó không hoàn toàn đồng nhất với con người nhà thơ
trong hiện thực mà nó là “cái tôi tác giả được nghệ thuật hóa, lý tưởng hóa,
điển hình hóa” (Hà Minh Đức).
Bản chất của cái tôi trữ tình là một khái niệm tổng hòa nhiều yếu tố hội
tụ theo quy luật nghệ thuật bao gồm cả ba phương tiện : Bản chất chủ quan cá
nhân, đây là mối liên hệ giữa tác giả với cái tôi trữ tình được thể hiện trong
tác phẩm; bản chất xã hội của cái tôi trữ tình là mối quan hệ của cái tôi trữ
tình và cái ta cộng đồng; Bản chất thẩm mỹ của cái tôi trữ tình là trung tâm
sáng tạo và tổ chức văn bản. Cả ba phương tiện : Cá nhân, xã hội, thẩm mỹ
đều nằm trong hình thức thể loại trữ tình
Người nghệ sĩ dựng lên cho mình hình tượng cái tôi trữ tình để tìm đến
Sự đồng vọng trong trái tim mọi người, tìm đến tiếng nói tri âm để khẳng định
bản chất tinh thần và vượt qua giới hạn của thể xác tầm thường. Nhà thơ luôn
cố gắng để tạo cho mình một thế giới giá trị thẩm mĩ để nhận thúc về lẽ tồn tại
“Ta là ai” trong cuộc đời. Trong thơ trữ tình, cái tôi bộc lộ thái độ trực tiếp
trước hiện thực, nó vừa là chủ thể lại vừa là khách thể.
Cùng với sự vận động của cuộc sống và sự thay đổi của lịch sử, cái tôi
trữ tình luôn vận động để làm mới mình, để theo kịp nhu cầu bộc lộ của bản
thân và nhu cầu thẩm mĩ của thời đại … Bởi thế nên ở mỗi thời đại, thi ca lại
60
có một kiểu cái tôi trữ tình đóng vai trò chủ đạo, thể hiện sự tập trung cao độ
tinh thần của thời đại.
Trong văn học trung đại, nếu mục đích của thơ ca luôn là “thi dĩ ngôn
chí”, “văn dĩ tải đạo” thì sang thời kì văn học hiện đại, cái tôi cá nhân thực sự
đã được khẳng định và đề cao. Đó là sự thay đổi to lớn về ý thức hệ đã làm
cho những nhà thơ có sự thay đổi lớn về tư tưởng, và tiêu biểu cho sự chuyển
mình đó chính là sự ra đời của thơ lãng mạn. Cái “tôi” đã mang “màu sắc cá
thể hóa rõ rệt”, bộc lộ những khao khát được giải phóng tình cảm, phát huy
bản ngã và tự do cá nhân. Cá nhân tự ý thức là một biểu thị rõ rệt của tâm
thức thời đại tạo nên nét mới trong cảm hứng sáng tác, thúc đẩy thơ ca Việt
Nam phát triển theo chiều hướng hiện đại.
Thời kì đất nước có sự thay đổi, sự bùng nổ ý thức cá nhân và tinh thần
dân chủ cho phép nhà thơ dễ dàng thể hiện những tình cảm, tâm sự riêng tư
trong những vần thơ thế sự rất thật và rất mới so với văn học trước đó. Cái tôi
trở thành trung tâm phản ánh của thơ ca. Nhận xét về cảm hứng chủ đạo của
thơ trữ tình sau năm 1975, Vũ Văn Sĩ viết “nó hướng tới các mối quan hệ thế
sự, hướng tới số phận riêng lẻ. Các nhà thơ đã đặt lên hàng đầu cái thế giới
nội cảm và những kinh nghiệm sống của mình như một kiểu tư duy và đạt tới
sức mạnh cảm hứng” [22, 121]
Cái tôi trữ tình được bộc lộ trong thơ với nhiều cách thức khác nhau.
Có những cách thức trực tiếp bộc lộ tình cảm sâu kín qua câu chuyện hoặc sự
việc gắn liền với cuộc đời riêng của mỗi người. Trong những trường hợp ấy,
cái tôi trữ tình gần như đồng nhất với cái tôi của tác giả và nhà thơ sử dụng
cách bộc lộ trực tiếp qua chữ “tôi” hoặc “ta”. Ta có thể thấy điều đó ở tác giả
Tố Hữu, cả cuộc đời của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng và cũng đồng
thời gắn liền với cả con đường thơ. Những sự kiện lịch sử trọng đại của đất
nước đã tác động và làm thay đổi thế giới quan của ông, điển hình là bài thơ
61
Từ ấy, khi nhà thơ được giác ngộ cách mạng. Tuy nhiên, cũng không thể hoàn
toàn đồng nhất cái tôi của nhà thơ trong đời sống với cái tôi trữ tình trong tác
phẩm. “Nhà thơ không đồng nhất với cái tôi trữ tình nhưng hoàn toàn thống
nhất” [20,87].
Trường hợp tiếp theo là khi sự việc trong thơ không phải cảnh ngộ
riêng của tác giả. “Nhà thơ nói lên cảm nghĩ về những sự kiện mà mình đã
có dịp trải qua hoặc chứng kiến như một kỉ niệm, một quan sát… Ở đây, cái
tôi trữ tình là nhân vật chủ yếu của sáng tác” [7, 89] Trường hợp thứ ba là
những bài thơ trữ tình viết về nhân vật nào đó có thể có thực ở ngoài đời. Đó
là những nhân vật trữ tình của sáng tác tổn tại bên cạnh cái tôi trữ tình của
nhà thơ.
Và nhắc đến cái tôi cá nhân, có lẽ ta không thể không nhắc đến Xuân
Diệu, một nhà thơ với cái cái tôi vô cùng độc đáo tiêu biểu cho phong trào
Thơ mới. Theo PGS. TS Lý Hoài Thu: “Với Xuân Diệu, sự tồn tại của cái tôi
đã được đẩy lên với ý nghĩa tuyệt đối của nó cùng với sự nảy nở ý thức phát
huy bản ngã, phát huy tự do và tình cảm cá nhân, Xuân Diệu không ngần ngại
phô bày cái tôi của mình. Thơ ông tràn ngập chữ “tôi”. Có thể nói nếu như
trong các tập thơ của mình, chữ tôi xuất hiện rất nhiều và tự mô tả lại bức
chân dung với những cá tính khác nhau thì với Hữu Thỉnh lại trầm lắng ơn.
Ông ẩn mình dưới những câu chuyện, qua lớp tâm trạng chứ không liên tiếp
khẳng định mình. Thực ra, dù trực tiếp viết về tình cảm của chủ thể, thơ trữ
tình không nhất thiết bắt buộc người viết phải luôn xưng tôi trong tác phẩm.
“Cái tôi” của nhà thơ có thể hóa thành những nhân vật trữ tình trong thơ tình
yêu hoặc ẩn mình vào lá hoa cây cỏ trong thơ viết về thiên nhiên. Cái tôi của
Hữu Thỉnh được hình thành từ sự trải nghiệm. Những buồn đau thất vọng,
cảm xúc chia lìa tất cả đều được ông chân thực bộc lộ trong thơ và từ đó rút ra
những chiêm nghiệm của mình.
62
3.2 Biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh
3.2.1 Cái tôi trách nhiệm với Tổ quốc
Hữu Thỉnh sinh ra và lớn lên trong những ngày tháng đất nước là chiến
tranh bom đạn. Bởi thế, cũng như muôn vàn những người thanh niên khác
cùng thời, ông đã sớm tham gia vào hàng ngũ những người lính chiến đấu cho
Tổ quốc. Từ những năm tháng gian khổ, trải qua những bom đạn hy sinh,
người chiến sĩ làm thơ tìm đến với cảm hứng về Tổ quốc và nhân dân. Đất
nước, dân tộc trong thơ Hữu Thỉnh là một hình ảnh anh dũng, kiên cường.
Nhân dân trong thơ ông là những con người giản dị đầy sự hi sinh. Những vần
thơ của ông viết về thời kì này mang cảm hứng chung của thời kì cách mạng,
tất cả vì tiền tuyến, khích lệ ý chí và tinh thần yêu nước của nhân dân để chiến
đấu giành lấy độc lập tự do. Lợi ích của cái tôi cá nhân và lợi ích của dân tộc
được hòa thành một khối toàn vẹn.
Những con người sống trong những năm tháng chiến tranh là những
người lính giản dị, mộc mạc nhưng lại biết bao ân tình. Đó là tình cảm chân
thành, chia sẻ và cảm thông cùng với những niềm lạc quan, yêu đời, yêu
người tha thiết.
Cái tôi của Hữu Thỉnh được thể hiện ở tinh thần quyết tâm đánh giặc,
niềm tin và lạc quan vào tương lai, với những người đồng đội luôn sát cánh:
Năm anh em trên một chiếc xe tăng,
Như năm bông hoa nở cùng một cội,
Như năm ngón tay trên một bàn tay,
Ðã xung trận cả năm người như một.
(Trên chiếc xe tăng)
Những người lính đến từ những miền đất khác nhau, nhưng đã cùng
đến đây, cùng chung chiến tuyến, cùng là một đội, gắn bó khăng khít, cùng
63
hoàn thành một nhiệm vụ chung cao cả, thiêng liêng của Tổ quốc. Điều đó đã
làm nên hào khí, sự quyết tâm mạnh mẽ của người chiến sĩ. Ở họ không có sự
lo lắng về cái chết, không có nỗi buồn nhớ về hậu phương mà là những trái
tim hòa nhịp tràn đầy trách nhiệm:
Một ý chí bay ra đầu ngọn súng,
Một niềm tin nghiến nát mọi quân thù
Trách nhiệm của họ chính là tiêu diệt quân thù, là tấm lá cờ đỏ thắm
treo trên tháp, niềm tự hào dân tộc, bất chấp hiểm nguy mà hi sinh đời mình.
Vì ở bên họ còn có muôn vàn những người đồng đội, những người đứng sát
bên chiến đấu cùng họ. Chúng ta lại bất giác nhớ đến những vần thơ của
Thanh Thảo “ Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/… nhưng ai cũng tiếc tuổi
hai mươi thì còn chi Tổ quốc”. Đó là tâm thế chung của những người lính thời
kì kháng chiến.
Tinh thần lạc quan của người lính, cái tôi vượt mọi khó khăn nhờ tinh
thần lạc quan, khát khao cống hiến còn được thể hiện một cách rất giản dị,
mộc mạc nhưng cũng rất thật thà:
Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao
Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá
(Tiếng hát trong rừng)
Cái tôi chung của những năm tháng kháng chiến còn gắn liền với cái ta
chung của Tổ quốc, nhân dân. Bởi vậy mà trong chính cuộc sống riêng tư,
tình yêu của mình, cái tôi ấy cũng hòa mình vào nhịp chung của dân tộc.
Người lính có tình yêu của mình, nhưng tình yêu ấy, tình yêu với nhân
vật em cũng gắn liền với những năm tháng chiến trận gian nan:
Con đường chỉ một con đường thôi
Anh không ngại phong thư có những dòng dang dở
Anh không ngại đỉnh đèo những thân cây gục đổ
64
Anh không ngại nghìn hôm chẳng được thấy em
Trong cuộc chiến tranh này
Đừng để ngượng với nhau khi gặp mặt...
(Ý nghĩ không vần)
Tình yêu ấy cũng đã hòa mình vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Người
con trai “trước em, anh vụng về” nhưng khi đứng trên chiến trường “lại thành
ra khôn khéo”. Cuộc chiến tranh khốc liệt đã đem lại sự trưởng thành cho mỗi
người lính. Họ để lại những sự trẻ con của mình, để lại những hạnh phúc
riêng tư để gánh lên mình phần trách nhiệm nặng nề Tổ quốc giao cho. Tuy
nhiên, không phải người lính gạt bỏ những tình cảm riêng tư ấy khỏi bản thân
mà thay vào đó, họ đưa những tình cảm thiêng liêng ấy thành sức mạnh để
càng thêm vững chãi trên con đường chiến đấu gian lao.
Có thể nói, sự gần gũi và hấp dẫn của thơ Hữu Thỉnh thời chiến là “sự
hòa quyện giữa cái tôi, cái ta và đồng đội, giữa khung cảnh chiến trường, thao
trường và lý tưởng chiến đấu, giữa những tình cảm đời thường và chất cao cả
của người lính cụ Hồ” [24, 42]
Hòa bình lập lại, những người lính trở lại sau những năm tháng gắn bó
với “những khu rừng và bom đạn”, bây giờ trở về với “căn nhà đất, ánh đèn
cuối xóm”. Người lính sau những năm tháng chiến đấu hào hùng, gian khổ
bây giờ trở về với cuộc sống đời thường, vật lộn với những ngày tháng mưu
sinh. Thời gian của quá khứ hào hùng đã khép lại, mở ra một chân trời mới
cho cuộc sống của người lính:
Bạn đã tập đi nghiêm, bạn đã tập đi đều
Và tập hát
Và bây giờ âu yếm giục trâu đi
(Gửi bạn triền sông)
65
Hình ảnh người lính không chỉ là những con người cầm chắc trên tay
khẩu súng mà còn là một màu xanh của con người lao động. Đó là hình ảnh
“phút giải lao của đồng chí gỡ mìn”, một anh bộ đội công binh nghỉ ngơi sau
những phút giây chiến đấu giữa ranh giới của sự sống và cái chết chỉ “nằm
dưới đầu kim hỏa mỏng như hơi”. Anh phải chiến đấu với những quả mìn
luôn luôn thường trực “ném đi những bức điện màu đen”. Phút giải lao của
người lính ấy thật ngắn ngủi nhưng cũng thật bình yên và vinh quang. Họ vẫn
đang thực hiện nghĩa vụ của mình, một công việc cao cả, nhưng thay bảo vệ
Tổ quốc trước bóng quân thù xâm lược, họ bảo vệ cho cuộc sống an bình của
nhân dân trong chính sinh hoạt hàng ngày. Đó là “cánh én cho mùa xuân”, là
nhũng gì đẹp đẽ và đáng trân trọng nhất:
Đất mới thật là đất sau lưng anh
Cỏ mới thật là cỏ sau lưng anh
Anh dọn bữa tiệc xanh
Gọi đàn bê tung vó
Đất cứ thế tự do, cứ vì người chăm bẵm
Trong âm âm điệp khúc máy cày
(Phút giải lao của đồng chí gỡ mìn)
Bên cạnh màu áo xanh của người lính gỡ mìn, còn là hình ảnh của
người lính thủy. Người lính giữa thời bình, mang trên mình vũ khí là “bộ đồ
lặn tám mươi cân”, “chiếc bình hơi” để đối chọi với kẻ thù có sức mạnh vô
biên, đó là “xoáy lũ sông Hồng – Đám bùn nhão dưới năm mươi thước nước”.
Người lính phải từng giây từng phút chiến đấu với sự bủa vây của địch, với
cái chết luôn nhăm nhe cận kề:
Dưới năm mươi thước nước sông Hồng
Sóng nặng trĩu thét gào trên mạch máu
Huyết áp tăng
66
Trí nhớ bồng bềnh
Anh tĩnh trí giữa bao nhiêu hỗn loạn
Sông đặc quánh mỗi lần anh lặn xuống
Những trận thác rừng vỡ ngủ bồng bềnh sôi
(Thợ lặn cầu Thăng Long)
Cho dù là giữa thời bình hay thời chiến, đã khoác trên mình màu áo
lính, người lính luôn mang trên mình trách nhiệm và cả sự nguy hiểm. Ranh
giới giữa sự sống và cái chết luôn mỏng manh, chỉ cần một chút lơ là, ranh
giới ấy sẽ hoàn toàn bị phá vỡ.
Đối với những nhà thơ đã từng trải qua chiến tranh như Hữu Thỉnh,
cái tôi người lính có lẽ là một điều không thể thiếu. Đó là một thời kì đáng
nhớ của dân tộc, nơi mọi con người có cùng chung ý chí, sôi sục quyết tâm
hướng về Tổ quốc. Và cho tới khi đất nước hòa bình, cái tôi trách nhiệm ấy
vẫn còn tồn tại như một phần máu thịt trong mỗi con người.
3.2.2 Cái tôi nhạy cảm, tinh tế
“Một cái tôi trữ tình phong phú là hòn đá nam châm nhạy bén luôn biết
hút về phía mình sự giàu có của cuộc đời, là một viên kim cương nhiều mặt,
mỗi mặt đều ánh lên màu sắc. Một cái tôi trữ tình phong phú cũng là một cái
tôi luôn biết hồi sinh, chín lại trên mỗi chặng đường” [20,112] Là một nhà
thơ từng trải qua biết bao biến động của xã hội, chiêm nghiệm biết bao triết lý
của cuộc sống, cái tôi của Hữu Thỉnh hiện lên trong thơ là một cái tôi nhạy
cảm, tinh tế, biết rung động trước những biến chuyển của cuộc đời, đặc biệt là
mạnh về trực giác.
Đến với mùa thu, các nhà thơ hay nói tới những cơn gió heo may,
những hàng liễu rủ buồn, … còn với Hữu Thỉnh, trong Sang thu, ông lại phát
hiện ra một mùi hương quen thuộc với những vùng đất nông thôn: hương ổi.
67
Không chỉ vậy, đó còn là những sự vật vẫn còn mờ nhạt, mơ hồ: đám mây,
dòng sông, … Có lẽ, phải có một cảm xúc tinh tế, nhạy cảm, sự quan sát tinh
tường, nhà thơ mới viết được những dòng thơ như vậy.
Thiên nhiên dưới con mắt của nhà thơ luôn có môt sự chuyển biến, một
cảm nhận rất riêng:
Gió thổi dài ẩm ướt về khuya
Con sóng nói nhịp chèo cũng nói
Đêm giáp ranh có cái gì đầm đậm
Ở đầu môi, ở trong tóc, khắp làn da
….
Chúng tôi đi còn tần ngần, ngoái lại
Chỉ thấy vầng trăng cuối tháng mới quăng lên
Chúng tôi đi với một niềm tin
Vầng trăng ấy chở chúng tôi cập bến.
(Chuyến đò đêm giáp ranh).
Những câu thơ mang theo một sự lãng mạn, một tâm hồn rung động
của những người lính thanh niên trẻ trung, yêu đời nhưng không hề bi lụy mà
tràn ngập niềm tin hướng tới tương lai. Họ ở đó trong đêm, kề cận với hiểm
nguy luôn rình rập nhưng trong lòng vẫn mãi bùng cháy niềm tin về Tổ quốc,
tương lai. Vầng trăng đẹp đẽ kia sẽ đưa họ đến bến, đến với bến bờ lý tưởng,
tới nơi bên bờ của cuộc đấu tranh. Đó có thể là vầng trăng hòa bình, trọn vẹn
Đó là những phút giây nhạy cảm, rung động khi nghe tiếng hát trong
rừng Trường Sơn giữa lúc "ngổn ngang đường đất còn cháy khét":
Nhạc ở trong đàn, đàn có gì đâu
Rừng bỗng chao nghiêng trước sợi dây mỏng manh
Người bỗng bồn chồn tốt tươi náo động
Tay vẫn tay mình mà tưởng nắm tay ai
(Tiếng hát trong rừng)
68
Tưởng chừng như bom đạn chiến tranh sẽ làm cho con người trở nên
chai sạn, khô cằn trong tâm hồn. Nhưng với những người lính như Hữu Thỉnh
thì không như vậy. Ông cảm động trước tiếng hát giữa rừng già, tiếng hát
vang lên mỏng manh nhưng đầy rung động. Đó là cảm xúc có lẽ chỉ những
người yêu nghệ thuật, có tâm hồn khát khao nghệ thuật mới có thể cảm nhận
được một cách tinh tế đến vậy. Để trái tim người nghệ sĩ luôn sẵn sàng rung
lên, làm cho cuộc chiến tranh bớt đi phần tàn khốc:
Mưa bão liên miên, giặc giã cũng liên miên
Ta nhạy cảm với trái tim chiến sĩ
Cuộc chiến đấu nên thơ mà cũng khe khắt thế
Để sống một nghìn năm, ta gắng vượt một ngày
(Đêm chuẩn bị)
Cái tôi mang cảm xúc tinh tế ấy còn được thể hiện trong cảm nhận về
thời gian:
Gió sao là lạ. Mây khang khác
Không hiểu. Hay là nhịp cuối năm
Hôm qua thì tiếc. Mai thì sợ
Tuột cương trăng cũ lại sang rằm
(Năm đi)
Cảm nhận về sự chảy trôi của thời gian có lẽ không có gì là mới mẻ.
Biết bao nhiêu nhà thơ đã có cảm nhận về thời gian với sự tiếc nuối từ đó khát
khao mãnh liệt như Xuân Diệu:"Ta bấu răng vào da thịt của đời/ Ngoàm sự
sống để làm êm đói khát", hay như Xuân Quỳnh: “Cuộc đời tuy dài thế. Năm
tháng vẫn đi qua.” Với Hữu Thỉnh, ông cảm nhận từ sự biến chuyển tinh tế
của đất trời. Nếu không có óc quan sát, sự chú ý để tâm đến vạn vật, liệu
những dấu hiệu chuyển đổi thời tiết mơ hồ kia sao có thể được nhìn thấy.
Nhận ra sự thay đổi đó, nhà thơ đã mang trong mình một cảm giác ngỡ ngàng
69
nhưng đầy khó hiểu trong nội tâm. Thời gian thì cứ trôi, con người vẫn luôn
nuối tiếc quá khứ và lo sợ trước tương lai. Nhưng cho dù con người có mãi
trong vòng luẩn quẩn ấy thì thời gian vẫn “tuột cương” để tiếp tục ra đi không
dừng lại.
Qua từng sự cảm nhận tinh tế về sự vật, Hữu Thỉnh còn bộc lộ một tâm
hồn : dễ xúc động, dễ mủi lòng, yêu người, thương người chân thành. Tất cả
nói lên một trái tim hồn hậu, một tấm lòng từ ái:
Hãy yêu lấy con người
Dù trăm cay nghìn đắng
(Lời mẹ)
Với tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc, Hữu Thỉnh đã thể hiện sự tự
trách trước sự đa tình của mình:
Cũng tại tôi đa tình
Nên bây giờ em khổ
Đã biết em cách trở
Cớ gì còn đa mang
(Chiếc vó bè)
Tâm hồn người nghệ sĩ tự cảm nhận được những cảm xúc trong tâm
hồn với một trái tim đa sầu đa cảm. Cái “tôi” trữ tình ấy vì nhận ra bi kịch của
mình mà đau đớn, tự trách mình.
Nhà thơ còn dành những tình cảm tinh tế của mình khi viết về mẹ. Nhà
thơ viết về mẹ với cuộc sống cơ cực đầy khó nhọc. Ở đó, nhà thơ dành cho
mẹ những tình cảm chân thành, sự rung động không kì diệu mà không phải au
cũng thấy được. Đó là tình cảm của một người con biết yêu thương, biết lo
nghĩ và hướng về mẹ:
Mẹ tôi hát nghìn câu có một câu chưa hát
Cha tôi gặp trăm điều có một điều chưa gặp
Hạnh phúc
(Hạnh phúc)
70
Nhà thơ như đã hòa mình và đồng cảm với mẹ, chia sẻ những khao khát
thầm kín của người phụ nữ muôn đời vất vả : khát khao hạnh phúc.
Có thể nói, cái tôi của Hữu Thỉnh là một cái tôi đầy nhạy cảm, tâm hồn
tinh tế ấy đã cảm nhận được dù là những chuyển biến nhỏ bé nhất của đời
sống. Giữa vô vàn hỗn loạn xô bồ, những cảm nhận tinh tế ấy như một điệu
nhạc trong trẻo cất lên khiến ta bất giác cảm nhận được những thứ đã vô tình
lãng quên trong cuộc đời.
3.2.3 Cái tôi đầy trăn trở suy tư giữa cuộc đời
Cái tôi triết lý – cái tôi đầy trải nghiệm là nét nổi bật trong thơ ca Hữu
Thỉnh. Trước 1975, tính triết lí còn thấp thoáng; sau 1975, nó đã hiện hữu
thành cái tôi đầy những trăn trở suy tư không thể trộn lẫn trong thơ ông. Sự
thay đổi của lịch sử kéo theo sự thay đổi của cảm hứng trữ tình. Cái tôi mang
cảm hứng trữ tình chuyển từ tự hào, ngợi ca xuống lắng đọng, suy tư. Vấn đề
thế sự, đời tư dần dần được chú ý đến. Các nhà thơ khao khát được bộc bạch,
được giãi bày cái tôi bản thể trong dòng cảm xúc phức hợp, đa chiều. Hữu
Thỉnh dành rất nhiều góc trong tâm hồn để suy tư, suy ngẫm về cuộc đời
mình. Giữa chốn phồn hoa, đô hội lắm bạn bè và người quen, nhưng nhà thơ
luôn trăn trở, suy tư làm cách nào để sống tốt giữa xã hội này:
Thêm một ngày kỉ niệm chưa bị đem bán
Thêm một ngaỳ yên tâm nhìn các con
Anh cầm đũa và vuốt tóc em
Thêm một ngày bằng bàn tay sạch
Thêm một lần đi trên gai
Thêm một ngày được làm người lương thiện
(Một ngày)
Hàng ngày, khi phải chứng kiến cuộc đời trôi qua một cách tiêu cực,
cái tôi ấy mang theo sự buồn chán, thất vọng. Và chính bởi vậy, cái tôi luôn
71
khao khát một cuộc sống được làm chính mình, giữ cho mình một chút niềm
tin. Đó là những ngày trong sạch, lương thiện, khi chưa phải sống theo cách
mà mình vốn căm ghét. Đó là một mong ước thể hiện một sự trăn trở cho biết
bao con người sống trong xã hội này, làm sao để sống tốt đẹp như mình vẫn
luôn noi theo.
Hữu Thỉnh đã dùng chính những suy tư của mình để nói đến cuộc sống
tương lai, một sự chuyển biến rõ rệt trong chính con người
Sang thế kỉ với con tàu quá rộng
Hoa hồng sang gai nhọn cũng sang
(Sang thế kỉ)
Bước sang một thế kỉ mới, con tàu chở cả nhân loại đang trên đà vận
hành. Thế nhưng con tàu đó lại quá rộng, nó giống như chiếc áo không vừa
khít trên cơ thể con người. Và bởi vậy nên khi bước sang một sự chuyển biến
mới của xã hội, con tàu ấy mang sang cả gai nhọn và hoa hồng. Đó là hai thái
cực đối lập cùng đồng hành với con người trong suốt một chặng đường dài
đại diện cho những điều tốt – xấu, tiêu cực – tích cực của con người. Hữu
Thỉnh đã có sự đánh giá nhìn nhận về cuộc đời với những suy ngẫm thế sự,
trăn trở đầy trắc nghiệm.
Từ những câu chuyện, những hình ảnh bình dị quen thuộc, nhà thơ vẫn
đưa ra những bài học để ta phải suy ngẫm, những triết lý rất đời thường.
Những triết lý của ông là bài học được đúc rút từ cuộc sống, tố cái, phơi bày
những cái xấu xa của xã hội:
Đụng một kẻ ngấm đủ mặt cái ác
Sống một ngày lội qua cả kiếp người
(Thấy)
Con người trong xã hội đang dường như dần dần mất đi sự chân thành
và họ đối xử với nhau như một sự dối trá, với khuôn mặt đóng kịch được giấu
72
sau những lớp mặt nạ hoàn hảo, Cái ác được che đậy khéo léo, và để rồi khi
chứng kiến và nhận ra sự thật ấy, ta mới thấy được một ngày trôi qua nặng nề
biết bao
Thơ ông không dừng lại ở cảm quan bề ngoài mà luôn đi sâu vào bên
trong đối tượng để khám phá, phát hiện bản chất của vấn đề, biểu lộ một hồn
thơ giàu suy tưởng và đa cảm. Chiến tranh đã lùi xa, những tháng ngày hòa
bình yên ổn đã trở về bên mỗi gia đình. Nhưng đằng sau tiếng cười vui là
những kí ức vẫn đeo bám trĩu nặng trong cõi lòng nhà thơ. Thi nhân chợt
buồn đau, cô đơn, xót xa về sự đổi thay của lòng người sau chiến tranh để rồi
đúc kết thành những triết lí:
Người than thở vì mất mùa nhân nghĩa
Câu thơ đứng giữa trời
Vó nhận cất sương rơi
(Thư mùa đông)
Nhà thơ còn cảm nhận được về cái xấu xa, những mảng tối của cuộc
đời đang ngày một công khai, không cần bất cứ sự che giấu nào
Bất hạnh của buổi sáng
Để lại dấu vết trên cửa sổ
….
Kẻ phản phúc vửa lau tay sạch dẽ
Cười súng sính
Trong bộ cánh thớ lợ
(Bất hạnh)
Niềm bất hạnh ấy đã gieo rắc khắp nơi, ung dung, không hề sỡ hãi. Nó
lưu lại những dấu vết nơi nó đi qua, làm cho người ta khiếp sợ. Dường như,
nhà thơ đã nhìn ra sự đối lập càng ngày càng tăng và phần thắng đang
nghiêng về cái ác. Nhà thơ đã nhìn ra ở những góc khuất của cuộc đời, những
73
nét đạo đức, cái đẹp đang dần dần bị che lấp mất đi, cái xấu xa đang tràn tới,
luôn luôn tạo ra sự giằng xé, đối kháng lẫn nhau. Bất hạnh ở đây đó có thể là
cách sống. Con người sống trong chiến tranh không hề có vụ lợi toan tính,
sống vì lý tưởng, không có sự ganh ghét đố kị nhưng khi sống trong hiện tại
lại khác. Đó chính là nỗi bất hạnh mà ta phải chấp nhận cận kề và sống chung
với nó.
Trăn trở giữa cuộc đời, nhà thơ tin vào chiến thắng của cái thiện, của
đạo đức, của nhân cách con người, nhưng đôi khi lại hoang mang thất vọng
Luật nhân quả
Ngủ gật
Trên bậc cửa
(Bất hạnh)
Nhà thơ còn đau đớn, thảng thốt trước thực tại. Người lính trong chiến
tranh luôn mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ, những ước mơ, hoài
bão. Họ sống với nhau dung dị, chân thành, sống vì nhau, chia sẻ cho nhau
mọi điều. Thế nhưng, khi sống cuộc sống đời thường với những bon chen,
ông đã phát hiện ra :
Tôi cứ tưởng không còn ai xấu nữa
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ
Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế
(Nghe tiếng cuốc kêu)
Tuy nhiên, cho dù viết về những sự đối lập, sự xấu xa, cô đơn thì nhà
thơ vẫn luôn hướng về một lý tưởng, về một kết quả tốt đẹp. Con người sẽ
đền gần bên nhau để chia sẻ, để cuộc sống ấm áp tình người và cái đẹp cái
thiện sẽ luôn giữ vai trò chiến thắng
Nỗi niềm suy tư của nhà thơ còn là nỗi niềm suy tư giữa tình yêu, để
rồi nhà thơ đã đúc kết ra chân lý về tình yêu. Đó hoàn toàn là một sự trải
74
nghiệm, một sự suy ngẫm và liên tưởng của một con người từng trải trước
cuộc đời:
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
(Thơ viết ở biển)
Cái tôi trữ tình nhà thơ luôn hòa nhập cùng cuộc sống, cái tôi ấy không
bao giờ là một cá nhân cách biệt mà nằm trong cấu trúc cuộc sống, để tìm sự
đồng cảm, san sẻ những nghĩ suy, chiêm nghiệm.
Thơ ông là sự trải nghiệm sau biết bao năm tháng sống giữa cuộc đời.
Bài thơ Thưa thầy cũng chính là những chiêm nghiệm sống của ông trên
đường đời - Con đường bắt đầu từ những dòng kẻ đầu tiên. Trước ngọn thước
là con đường xa tắp. Ngọn thước của thầy giáo đã chỉ ra một đường thẳng
nhưng cuộc đời vốn không đơn giản thế:
Đã vấp ngã
Thưa thầy
nhiều vấp ngã!
Chẳng ở đâu xa, ở ngay giữa con người
Em bước đi lặng lẽ nghĩ về thầy
Đời mau quá, vui buồn chưa kịp cũ
Vấp ngã ngay giữa con người là cách nhìn thẩm thấu và sâu sắc nhiều
trực cảm. Là con người sống trong xã hội có ai không có lần vấp ngã. Và
những vấp ngã ấy đâu phải do điều gì khác mà do chính con người. Con
người sống với nhau đôi khi không phải bằng tình cảm chân thành mà bằng
những tính toán lọc lừa. Bởi vậy mà con người ta trở thành cô độc, chơi vơi
75
giữa cuộc đời. Lúc đó, cái tôi trữ tình của nhà thơ nhớ về thầy giáo, người
thầy luôn bao dung lặng lẽ, che chở cho cậu học trò. Để rồi từ nỗi nhớ đó,
nhân vật tôi giật mình phát hiện về sự chảy trôi quá nhanh của cuộc đời con
người. Chỉ với vài nét chấm phá chan chứa cảm thông đã vẽ nên chân dung
người thầy giáo trong gian khó đời thường. Hai câu thơ ám ảnh nhất trong
bài: "Cây trước cửa gió ở ngoài trang vở/ Thầy một mình vật vã với văn
chương", lối nói bỏ ngỏ rất gợi của Hữu Thỉnh đã có hiệu quả tối đa chạm tới
cõi trắc ẩn của lòng người. Cây trước cửa chứ không phải ngoài cửa vẫn chịu
"Gió ngoài trang vở" có thể là cây đời cây người là cây thầy giáo gieo trồng
với tay ra là có thể chạm được rưng rưng màu xanh sự sống với bao hi vọng.
Bài học không chỉ khuôn trong trang vở; rõ ràng văn chương đích thực bao
giờ cũng hướng tới cuộc đời. Người sáng tạo vật vã đã đành, người chuyển tải
qua từng trang giáo án cũng vật vã không kém: "Thầy một mình vật vã với
văn chương".
Hành trình của Thưa thầy khép lại bằng tiếng giảng Kiều, một áng văn
bất hủ bi thương. "Giở trang Kiều thầy giảng chạnh lòng đau", đau trong day
dứt trong nhận thức để mình sống tốt hơn với niềm tin yêu của thầy giáo. Thơ
chính là kinh nghiệm sống như nhà thơ Hữu Thỉnh đã từng đúc kết.
Nếu như khuynh hướng triết luận của Chế Lan Viên và Nguyễn Khoa
Điềm là trầm mặc chiêm nghiệm một cách uyên bác, trí tuệ thì tính triết lý
trong thơ Hữu Thỉnh lại là triết lý mà không triết luận dông dài, triết lý một
cách hồn nhiên, tự nhiên.
Hữu Thỉnh là nhà thơ chiến sĩ. Những năm tháng trải qua chiến tranh
bom đạn khốc liệt cùng với cuộc sống từng trải đã khiến ông đạt đến độ chín
trong suy tưởng và tự đúc kết được những triết lý nhân sinh sâu sắc. Những
đút kết của ông đều được quan sát từ những điều rất bình thường, nhỏ bé
nhưng lại mang một bài học lớn. Điều đó lại càng thể hiện cách nhìn đầy tư
duy và trải nghiệm của nhà thơ trước cuộc đời.
76
3.3 Phƣơng thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh
3.3.1 Ngôn ngữ thơ
Thơ ca là nghệ thuật của ngôn từ. Nhà thơ đời Đường Bạch Cư Dị đã
từng nhận xét “với thơ thì gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm
thanh, quả là ý nghĩa”. Nhà thơ Xuân Diệu cũng từng khẳng định vai trò của
ngôn ngữ trong thơ “như một chất xạ mê ly hương đầy ảo thuật huyền bí”. Để
có thể tạo nên một tác phẩm hay, ngôn ngữ trong thơ phải mang đậm tính
thẩm mỹ. Nó tạo nên tính hàm xúc, chính xác, đa nghĩa, tính tạo hình và tính
biểu cảm cao, góp phần thể hiện rõ phong cách, tài năng và sự sáng tạo của
mỗi nhà thơ. “Đối với thơ, ngôn ngữ đã tìm thấy trong thơ phương tiện tối ưu
để lưu giữ, truyền đạt thông tin để bảo vệ giao tế. Nhân loại biết đến từ đó,
ngoài ngôn ngữ giao tế còn một mã nghệ thuật nữa có khả năng lưu giữ an
toàn và truyền đi không bị méo mó những tham số mà mã giao tế phải duy trì.
Điều đó giải thích vì sao không có nền văn học nào không biết đến thơ, đồng
thời cũng giải thích vì sao sinh tồn thơ ca không kém gì sinh tồn dân tộc.”
[5, 268]
Tính truyền cảm cũng là đặc trưng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm
văn chương, bởi tác phẩm văn học là sản phẩm của cảm xúc của người nghệ
sĩ trước cảnh đời, cảnh người, trước thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác
phẩm văn chương phải biểu hiện được cảm xúc của tác giả và phải truyền
được cảm xúc của tác giả đến người đọc, khơi dậy trong lòng người đọc
những cảm xúc thẩm mĩ. Tuy nhiên, do đặc trưng của thơ là tiếng nói trực tiếp
của tình cảm, trái tim nên ngôn ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt. Điều
này được thể hiện rất rõ trong những vần thơ của Hữu Thỉnh:
“Ơi cơn mưa thành một nỗi chờ mong
Hơn cả trang thu mấy mùa chưa trở lại”
(Tắm mưa)
Những câu thơ viết lên là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của
chủ thể với cuộc đời. Đó là những câu thơ mang nặng cảm xúc của bản thân,
77
như một khúc nhạc cất lên để bày tỏ nỗi lòng của con người. Đó là nỗi xót xa,
một tiếng kêu thảng thốt:
“Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế”
(Nghe tiếng cuốc kêu)
Đó là tiếng kêu của một con người đang chơ vơ giữa xã hội, giữa
những guồng quay của đời sống rồi chợt giật mình nhận ra mọi thứ đã đổi
khác. Tiếng cuốc kêu đã không còn là âm thanh của ngày xưa cũng như con
người đã có nhiều đổi thay.
Hoặc đó cũng là những lời tâm tình, lời đánh giá trực tiếp, thể hiện tâm
trạng:
“Người yêu thơ chết vì những đòn văn
Người say biển bị dập vùi trong sóng
Người khao khát ngã vì roi mơ mộng
Ta yêu mình tan nát bởi mình ơi.”
(Tự thú)
Câu thơ cất lên như một lời nhận xét từ chính cuộc sống, một sự trải
nghiệm qua những năm tháng biến động của cuộc đời và kèm theo đó là tâm
trạng giằng xé, tan nát và đau đớn. Không cần phải dùng những từ ngữ miêu
tả tâm trạng, ngôn ngữ thơ vẫn mang được tính truyền cảm sâu sắc, tác động
tới tâm hồn người đọc, khơi gợi sự đồng cảm, sẻ chia.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ của Hữu Thỉnh mang một màu sắc giản dị
với việc sử dụng từ ngữ rất quen thuộc, mộc mạc, không hề cầu kì phức tạp
tạo nên một xúc cảm quen thuộc trong tâm hồn mỗi người. Đó là những ngôn
ngữ gắn liền với đời sống con người, đặc biệt là những vùng thôn quê. Ngay
trong bài thơ Lời thưa, Hữu Thỉnh đã tự nhận mình là con người của rơm rạ
đồng quê “Tôi ấy mà, một cuống rạ bơ vơ”. Hữu Thỉnh luôn gắn liền những
vần thơ của mình với đời sống nhân dân, với bầu trời, với giàn mướp, với
78
tiếng cuốc kêu ngoài bãi, hương ổi trong vườn, …Tất cả thể hiện sự mộc mạc,
đằm thắm không kém phần duyên dáng, làm cho người đọc thích thú trước
những liên tưởng bất ngờ, độc đáo đồng thời gợi lên trong ta một tình yêu đất
nước, quê hương thật nhẹ nhàng mà thân quen.
Ngôn ngữ trong thơ ông chịu nhiều ảnh hưởng từ ca dao dân ca, các thể
thơ truyền thống bởi vậy nó mang màu sắc dân gian và giàu nhạc điệu:
Chú vẹt ăn bốc nói leo
Chèo bẻo đanh đá nói điều chanh chua
Chùm chim chùm quả đung đưa
Người bán thì một kẻ mua thì mười
(Chợ chim)
Bài thơ làm cho ta bất giác liên tưởng tới những bài vè dân gian quen
thuộc với nông thôn Việt Nam. Nhà thơ đã khéo léo lựa chọn thể thơ lục bát
quen thuộc giàu nhạc điệu với những nhịp thơ đều đặn 2/4; 2/2/4 … làm cho
bài thơ tràn ngập sức sống và đầy cảm xúc. Âm thanh, nhịp điệu trong thơ
không chỉ đơn thuần là hình thức mà là những yếu tố góp phần biểu hiện
những khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con người:
Những người đi lại phía tôi
Bao nhiêu bóng mát một lời lá bay
(Những người đi lại phía tôi)
Em mang thiên lý về thưa mẹ
Sông vẫn ba đào trúc vẫn xinh
(Cung tháng chạp)
Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ của ông còn thể hiện sự đặc sắc cấu trúc
điệp từ, ngữ và điệp cú. Chúng có tác dụng như một phương tiện kết dính các
dòng thơ lại với nhau thành một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi
cho trí nhớ vừa tạo nên vẻ đẹp trùng điệp cho ngôn ngữ thơ:
79
Thương bàn chân con gái sục bùn non
Thương tay mẹ rã rời đêm quạt muỗi
Thương tách nước chè ngắc ngư vị muối
Thương tình nhân không có chỗ hẹn hò
(Người đi mở đất)
Với lối điệp cấu trúc này, tác giả như tái hiện lại trước mắt chúng ta
những khó khăn mà những con người lao động đang phải trải qua với tình yêu
thương vô bờ. Đó là tình cảm nồng ấm, chân thành của nhà thơ với những con
người chân chất, giản dị và nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Ở những mảnh
đất mới ấy, nơi vẫn còn những khó khăn, sáng bừng lên niềm tin của con
người.
Một đặc điểm nữa trong ngôn ngữ trong thơ ông đó là sự giàu liên
tưởng, hàm súc và mang tính biểu tượng. Ngoài việc sử dụng những ngôn ngữ
tinh hoa của dân tộc, Hữu Thỉnh còn luôn cố gắng sáng tạo ra những từ ngữ
mới, khiến câu thơ có sự kết hợp độc đáo. Nó làm cho người đọc cảm thấy lôi
cuốn và ấn tượng với những hình ảnh sinh động : trăng non múi bưởi, sông
xanh màu vai áo, hi vọng bời bời, những cánh đồng sủi tăm phù sa, … Nhà
thơ đã khéo léo tạo sự kết hợp giữa thực và ảo, giữa cái hữu hình và cái vô
hình để làm câu thơ thêm phong phú, mở ra một thế giới tràn ngập tưởng
tượng cho người đọc
Bồ đề mùa lá rụng
Bay mờ trong hư vô
(Chăn – Đa em ơi)
Duyên nợ chiều má đỏ dẫn em đi
Anh đi mòn mà mảnh chai vẫn sắc
(In bóng)
Thu ơi thu ta biết nói thế nào
Sương mỏng thế ai mà bình tĩnh được
(Bầu trời trên giàn mướp)
80
Bằng khả năng làm chủ ngôn ngữ cùng những kinh nghiệm được tích
lũy trong vốn sống, Hữu Thỉnh đã mang lại cho thế giới ngôn ngữ thơ của
mình một đặc sắc riêng, một cái tôi rất riêng không bị lẫn với bất cứ nhà thơ
nào khác. Có thành công trong việc sử dụng ngôn từ, cái tôi của nhà thơ mới
hiện lên rõ ràng và thật đặc biệt giữa muôn vàn các nhà thơ khác.
3.3.2 Giọng điệu
Giọng điệu là phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của
tác phẩm văn học. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và
thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách
của nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu
nhất định nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm cho dù đã có đủ mọi tài liệu
và sắp xếp trong hệ thống nhân vật. Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của
tác phẩm văn học, nó đòi hỏi người trần thuật, kể chuyện hay nhà thơ trữ tình
phải có khẩu khí, có giọng và có điệu. Giọng điệu trong tác phẩm gắn liền với
cái giọng “trời phú” của mỗi tác giả nhưng mang nội dung khái quát nghệ
thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị
thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản, chủ đạo
chứ không đơn điệu. “Giọng điệu là thái độ tình cảm, lập trường tư tưởng đạo
đức của nhà văn đối với hiện thực được miêu tả thể hiện trong lời văn quy
định từ cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa
gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca châm biếm, ….” [33, 42]
Trong văn học Việt Nam, ta thấy có vô vàn những giọng thơ khác nhau
: Giọng châm biếm đả kích của Tú Xương, giọng trữ tình cách mạng của Tố
Hữu, giọng u sầu ảo não của Huy Cận…. Còn Hữu Thỉnh lại chọn cho mình
một giọng điệu riêng không lẫn với bất cứ ai. Nhà thơ chọn cho mình một
giọng điệu nhẹ nhàng, tình cảm nhưng cũng đậm sâu triết lý giống như những
lời thủ thỉ tâm tình.
81
Với những tác phẩm trước cách mạng, giọng thơ của ông mang một sức
mạnh, sự khỏe khoắn, niềm tự hào. Không phải hoàn toàn là những lời hô hào
cổ động mang tính khẩu hiệu mà nó mang một tinh thần quyết tâm vươn tới lý
tưởng:
Năm anh em mang năm cái tên,
Đã lên xe không còn tên riêng nữa,
Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa,
Năm quả tim một nhịp đập dồn.
(Trên một chiếc xe tăng)
Hào hùng, sảng khoái, lạc quan là âm hưởng chủ đạo của nền thơ ca
chống Mỹ. Tâm thế các nhà thơ cách mạng là tâm thế những ca sĩ cất lên
những giai điệu hào hùng, hướng về quê hương xứ sở: “Thơ ta ơi hãy cất cao
tiếng hát / Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta” (Tố Hữu). Hữu Thỉnh cũng
không nằm ngoài vòng quay đó. Từng vần thơ vang lên mang theo âm hưởng
hào sảng, vang vọng đầy quyết tâm. Chính điều đó đã tạo nên một động lực
lớn cổ vũ cho tinh thần chiến đấu quên mình của những người chiến sĩ nơi
mặt trận.
Hay đó là những tình cảm nồng thắm mà cũng rất hạnh phúc say mê
với hạnh phúc tình yêu:
Anh bỗng thấy mình mạnh mẽ lớn lao
Qua khu rừng có lời ca dẫn dắt
(Một lần)
Anh đã yêu em trên tất cả những gì nhảm nhí
Mây đến quanh ta thành đồ đạc ngày thường
(Lọc)
Nhưng đan xen vào đó vẫn có giọng điệu tâm tình, những buồn vui, sự
đồng cảm, sự chia sẻ chân thành:
82
Chuyển sang những tác phẩm về thế sự, thơ ông lại mang giọng điệu
trầm lắng, nhẹ nhàng và đầy triết lý. Những câu thơ như những lời kể chuyện
tâm tình thủ thỉ bình thản, không lên án gay gắt, không bi lụy nhưng lại khiến
ta phải suy ngẫm:
Ta đâu có đề phòng từ phía người yêu
Cây đổ về nơi không có vết rìu
Người yêu thơ chết vì những đòn văn
Người say biển bị dập vùi trong sóng
(Tự thú)
Có thể nói, giọng điệu trong thơ Hữu Thỉnh đơn giản, mộc mạc và chân
thành. Chân thành trong từng lời nói, mộc mạc trong từng vần thơ. Nhà thơ có
nỗi chua xót trước thực tại trái ngược của cuộc sống không như mong muốn,
có bất lực trước đạo đức nhân phẩm của con người đang bị xuống cấp. Thế
nhưng, ông không bao giờ đẩy giọng điệu của mình lên đến sự quá gay gắt
hay quá nồng nhiệt. Có lẽ, với một người từng trải như Hữu Thỉnh, ông biết
cách bình tĩnh, chấp nhận trước hiện thực cuộc đời, không bị ám ảnh bởi cuộc
sống hậu chiến và luôn hướng tới những điều tốt đẹp, những hi vọng về sự đổi
thay, những điều nhân nghĩa vẫn mãi còn tồn tại. Bởi lẽ đó, thơ ông dung dị,
đời thường nhưng lại thấm sâu vào trong lòng người đọc. Như lời thủ thỉ tâm
tình khẽ đánh thức tâm hồn con người, để họ tự nhận thức bản thân trước
cuộc đời.
3.3.3 Biểu tượng thơ
Biểu tượng là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng. Biểu tượng
được dùng rất nhiều trong thơ ca và ẩn giấu rất nhiều ý nghĩa mà nhà thơ
muốn gửi gắm. Trong thơ ca, đặc biệt là thơ ca mang tính triết lý, biểu tượng
lại càng được sử dụng nhiều để thể hiện được những bài học, xây dựng những
hình tượng về con người. Các biểu tượng càng mang ý nghĩa tượng trưng cao,
83
bài thơ càng có giá trị “Liên tưởng trong thơ càng đa dạng thì biểu tượng càng
sinh động, nhận thức càng sâu sắc, cảm xúc càng dồi dào và phong phú hơn”
[36, 60]
Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê : Biểu tượng là hình ảnh tượng
trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật
còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt.
Theo từ điển của Vũ Dũng, "Biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh
tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri
giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến
hiện tại, thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai."
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Biểu tượng là khái niệm chỉ một giai đoạn,
một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn
giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm
dứt”. [6, 23]
Theo TS Nguyễn Văn Hậu: Biểu tượng là một hình thái ngôn ngữ - ký
hiệu tượng trưng của văn hoá. Nó được sáng tạo nhờ vào năng lực “tượng
trưng hoá” của con người, theo phương thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý
nghĩa kia nhằm để nhận thức và khám phá ra một giá trị trừu tượng nào đó.
Biểu tượng được xem là “tế bào” cuả văn hóa và là hạt nhân “di truyền xã
hội” đầu tiên của nhân loại. Nó quy định mọi hành vi ứng xử và giao tiếp của
con người đồng thời liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt.
Như vậy, biểu tượng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng
của thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác
đã xảy ra trước đó, được giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh mới được
hình thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước. Biểu tượng không phải
hoàn toàn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi đã được tri
84
giác. Tuy nhiên, những hình ảnh đó cũng không hoàn toàn là kết quả chủ
quan xuất phát từ những hoạt động tâm trí của chủ thể .
Trong văn học, biểu tượng là một yếu tố không thể thiếu. Một tác phẩm
văn học muốn sống mãi với thời gian thì không thể không tạo cho mình một
thế giới biểu tượng bởi xét cho cùng, văn học cũng chính là đời sống, văn học
sẽ tái hiện lại cuộc sống bằng biểu tượng nghệ thuật và nhiệm vụ của biểu
tượng là làm cho cuộc sống hiện lên chân thực nhất. Khi nói về biểu tượng,
người ta thường quan tâm đến nghĩa đen và nghĩa bóng của nó. Theo nghĩa
đen, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học
nghệ thuật. Theo nghĩa bóng, biểu tượng là phương thức chuyển nghĩa của lời
nói hoặc một hình thức nghệ thuật nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một
tư tưởng hay một triết lý sâu sa trước cuộc đời. Trong đó, một đặc điểm nổi
bật của biểu tượng là luôn mang tính đa trị, tức là với một biểu tượng ta có thể
có hiểu theo nhiều cách khác nhau, tượng trưng cho nhiều điều khác nhau. Do
đó, trong thực tiễn sáng tác của nhà thơ luôn xuất hiện hai loại biểu tượng,
biểu tượng mang tính truyền thống thể hiện ý thức chung của xã hội và những
biểu tượng mang dấu ấn sáng tác cá nhân của tác giả.
Có thể nói, biểu tượng trong văn học là những hình ảnh cụ thể, sinh
động, gợi cảm, mang ý nghĩa quy ước của nhà văn hoặc của người đọc. Các
từ ngữ thông thường khi đi vào văn bản đều có thể trở thành biểu tượng nghệ
thuật mang nội dung cảm xúc khái quát. Biểu tượng mang tính đa nghĩa, tính
văn hóa truyền thống. Biểu tượng chịu sự chi phối của ngôn ngữ, của tâm lý,
quan niệm dân tộc và thời đại, nhiều loại biểu tượng mang dấu ấn cá nhân của
người sáng tác. Nhờ có tính biểu tượng mà ngôn ngữ văn học nói chung, ngôn
ngữ thơ ca nói riêng có khả năng biểu đạt phong phú, sâu rộng hơn so với
ngôn ngữ thông thường.
85
Hữu Thỉnh là một nhà thơ triết lý. Bởi vậy, các tác phẩm của ông
thường mang rất nhiều biểu tượng. Mỗi biểu tượng lại được tác giả sử dụng
với một ý đồ nghệ thuật riêng đồng thời phản ánh được tư tưởng nghệ thuật
của người nghệ sĩ.
Biểu tượng đầu tiên được đề cập tới đó là hình tượng về “cây – bóng
mát”. Cây xuất hiện với tần số rất nhiều trong các tác phẩm thơ ca của Hữu
Thỉnh. Nhà thơ thường sử dụng biểu tượng cây để ẩn dụ con người.
Hữu Thỉnh rất hay tự ví mình là cây:
Tôi như cây biết giấu lá vào đâu
Giữa gió bụi kiếp người
Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát
Bóng mát mà không che nổi chính tôi
(Bóng mát)
Cây là biểu tượng cho những điều lương thiện, tốt đẹp, lòng bao dung
độ lượng. Cây đã vượt qua giới hạn của những sự vật thiên nhiên thông
thường để trở thành một biểu tượng cho con người, cho phẩm chất con người.
Cây còn gắn liền với bóng mát, sự nhân nghĩa nhân đạo giữa con người với
con người.
Cây còn được coi như một đối tượng ẩn dụ cho con người, một con
người thực sự
Tỉnh thức
Những hàng cây bật khóc
(Thương lượng với thời gian)
Những con người sống trong nhịp điệu vội vã của xã hội, bị cuốn đi bởi
những cơn bão cuộc đời, khiến họ quên đi những điều tốt đẹp của bản thân.
Và cuối cùng, họ bật khóc. Họ đã từng có đời sống giống như những hàng cây
86
kia thẳng tắp, vươn lên bất chấp gió bão. Thế nhưng rồi họ cũng lại ngủ quên
đi trước cuộc rồi, và khi vội vàng nhận ra khiến bản thân họ hối hận.
Đó còn là những hàng cây cổ thụ trải qua bao năm tháng của cuộc đời,
không còn sợ hãi trước sự biến chuyển của đất trời, của năm tháng. Những
hàng cây cũng là biểu tượng của những con người đã từng trải qua một nửa
cuộc đời, không còn run sợ trước những biến động cuộc đời
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
(Sang thu)
Hay trong bài thơ Lời mẹ, lời khuyên của người mẹ hãy chơi với cây.
Hãy yêu lấy con người
Dù trăm cay nghìn đắng
Đến với ai gặp nạn
Xong rồi, chơi với cây !
Biểu tượng thứ hai đó chính là cỏ. Đây là một biểu tượng được sử dụng
mang rất nhiều ý nghĩa, bao trùm khắp không gian : đó là biểu tượng của mùa
xuân, của sự yên bình, hạnh phúc, … Với Hữu Thỉnh, cỏ không chỉ đơn giản
là một loài cây dại giữa thiên nhiên mà nó còn mang ý nghĩa để so sánh với
con người. Có xuất hiện như một cá thể sống để trò chuyện với con người, đối
lập với con người, làm nổi bật lên thái độ sống của con người giữa xã hội:
Tôi hỏi cỏ : Cỏ sống với cỏ như thế nào ?
- Chúng tôi đan vào nhau
Làm nên những chân trời
(Hỏi )
Nhắc đến cỏ là người ta nghĩ ngay đến những loài cây mềm yếu, hoang
dã nhưng ngược lại, nó lại có một sức sống vô cùng mãnh liệt, không thể nào
bị tiêu diệt. Và đó cũng được coi là một trong những biểu tượng làm nên hình
ảnh của cỏ trong thơ của Hữu Thỉnh.
87
Hình ảnh của cỏ mang đến một sự bình yên giữa cuộc đời :
Khói như cây biết sinh quả theo mùa
Thong thả chín mẹ lại bồi thêm cỏ
(Ngọn khói)
Cỏ còn là không gian yên bình gợi nỗi nhớ quê hương, gợi lại những kỉ
niệm một thời không thể nào quên:
Mượn mùa thu một buổi
Ta về thăm cỏ đồi
Tháng năm ai mài nhẵn
Mòn sỏi trẻ con chơi
(Mượn mùa thu một buổi)
Ngọn cỏ nhỏ bé, yếu ớt như vậy nhưng nó lại có thể coi làm biểu tượng
cho sự trường tồn, vĩnh viễn:
Anh ở vào đồi, anh xanh với cỏ
Cỏ ở đây thành nhang khói nhà mình
(Phan Thiết có anh tôi)
Cỏ xanh phủ lên tấm mộ như một tấm chăn ấm áp hòa cùng máu thịt
của anh. Anh nằm xuống cùng với tổ quốc với đất mẹ, để giữ gìn nền hòa
bình độc lập cho muôn đời. Anh nằm với “cỏ” nhưng “Anh không giữ cho
mình dù chỉ là ngọn cỏ”. Ngọn cỏ ấy lúc này lại tượng trưng cho những gì
nhỏ bé nhất của cuộc đời. Qua đó ca ngợi sự hi sinh cao cả của người chiến sĩ
hết lòng vì dân vì nước.
Bên cạnh biểu tượng cỏ, biểu tượng con đường cũng là một trong
những biểu tượng được nhắc đến rất nhiều trong thơ của Hữu Thỉnh. Trong
thơ ca cách mạng Việt Nam, con đường được coi là biểu tượng của sự thống
nhất giữa không gian và thời gian, con đường để con người vươn lên đến với
cách mạng.
88
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước oanh liệt, con đường chính
là con đường hành quân đầy chông gai gian khổ với bao thử thách :
“Đường ngổn ngang, đường đất còn cháy khét”
“Đường Trường Sơn khúc khuỷu”
“Những ngôi sao tìm cách sáng về khuya
Những người lính mở đường đi lấy nước”
Con đường hành quân có bao giờ bằng phẳng mà không hiểm nguy. Họ
phải đối mặt với mưa bom lửa đạn, với những căn bệnh sốt rét rừng, với con
đường khấp khểnh lầy lội đầy đất đá. Mọi thử thách đều hiện lên một cách
trực tiếp, chân thực. Thế nhưng chính trong những gian khổ ấy, con đường ra
trận lại hiện lên rạo rực, sáng ngời tinh thần chiến đấu cao đẹp, ý chí quyết
tâm giành chiến thắng, không quản ngại hi sinh:
Con đường chỉ một con đường thôi
Anh không ngại phong thư có những dòng dang dở
Anh không ngại đỉnh đèo những thân cây gục đổ
Anh không ngại nghìn hôm chẳng được thấy em
(Ý nghĩ không vần)
Trong hành trình chiến đấu gian khổ và lâu dài ấy, cho dù ở bất cứ
chiến trường nào, con đường vẫn luôn mang một niềm tự hào và kiêu hãnh
của dân tộc. Nhưng khi bước trở về cuộc sống đời thường, con đường lại là
biểu tượng cho sự nhận thức, đi tìm kiếm sự đồng cảm, chân lý cho cuộc đời
mình. Biểu tượng con đường đã bớt đi tính cụ thể, thay vào đó là tính biểu
trưng cao, gắn liền với cảm xúc của cái tôi trữ tình và tư duy của nhà thơ :
“Tôi nhớn nhác đi tìm người
Bước chân thì ngắn đường đời thì xa”
“Đường nhân nghĩa chừng nào còn lắm bụi
Anh hiểu vì sao tôi ít lời”
89
Ngoài các biểu tượng ấy, nhà thơ còn sử dụng rất nhiều các biểu
tượng thiên nhiên khác đặc biệt là thiên nhiên như gió, trăng, mùa thu, ….
Những sự vật đó vốn là những vật vô tri vô giác nhưng lại được Hữu Thỉnh
đưa vào làm thước đo, làm biểu tượng chuẩn mực cho cái đẹp. Chính điều
này đã góp phần tạo nên nét đặc sắc trong thơ Hữu Thỉnh. Nó giúp cái tôi
của nhà thơ hiện lên với những trăn trở, suy tư và đầy cảm xúc về cuộc đời
và về số phận con người.
90
Tiểu kết chƣơng 3
Cái tôi trữ tình chính là đặc điểm đặc trưng của thơ trữ tình. Thông
qua cái tôi trữ tình, Hữu Thỉnh đã bộc lộc được những cảm xúc cá nhân với
những cung bậc tình cảm khác nhau, bên cạnh đó là sự chia sẻ về những bài
học trải nghiệm đầy triết lý nhân sinh giữa cuộc đời. Hành trình cái tôi trữ
tình trong thơ ông là hành trình gắn với những biến chuyển của cả cuộc đời
mình. Nếu trước giai đoạn 1975, đó là cái tôi của người chiến sĩ hòa cùng
với cái ta, vì cái chung của đất nước của dân tộc thì sau 1975, nó lại là cái
tôi rất riêng, rất đặc trưng, giàu lòng yêu thương vị tha nhưng cũng có rất
nhiều nỗi buồn chất chứa.
Để có thể bộc lộ được cái tôi cá nhân một cách thành công nhất thì
không thể thiếu các phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình. Cái tôi đó được
thể hiện qua thế giới biểu tượng thơ đầy phong phú với những hình ảnh và
biểu tượng tưởng chừng đơn giản những lại mang rất nhiều ý nghĩa. Xuất
phát từ những rung động của bản thân luôn hướng về con người, nhân dân,
đất nước, truyền thống, Hữu Thỉnh đã biến những hình ảnh vốn có trong
cuộc sống, những hình ảnh giản dị quen thuộc thành những biểu tượng lớn
lao, mang tầm vóc cao cả. Ngôn ngữ thơ và giọng điệu thơ của ông cũng
mang màu sắc rất đặc trưng của một tâm hồn từng trải qua nhiều sóng gió
của cuộc đời nhưng vẫn luôn giữ cho mình sự bình thản và giản dị, gắn bó
truyền thống quê hương.
91
KẾT LUẬN
Hữu Thỉnh là một nhà thơ được coi là thế hệ những nhà thơ trẻ “tuổi
văn chương của họ cũng là tuổi ra trận”. Chặng đường thơ của ông kéo dài
như một chiếc cầu vắt ngang qua hai giai đoạn chống Mỹ và sau chống Mỹ.
Ông được xem như một trong những cây bút chủ lực của nền văn chương
đương đại. Đến với thơ ca Hữu Thỉnh, người đọc có thể nhận ra hình ảnh của
một người lính đầy tự hào về Tổ quốc kiên cường bất khuất, người lính đó đã
ghi lại những kỉ niệm của một thời hào hùng khi cả nước sục sôi tinh thần cứu
nước “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Họ ra đi với tinh thần “Xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Thơ ca của ông đã ghi
lại lịch sử hào hùng của những năm tháng đấu tranh oanh liệt của dân tộc.
Từng con người nhỏ bé, từng số phận con người được gắn với kháng chiến
với biết bao niềm tự hào tuy cũng rất giản dị. Khi âm thanh của bom đạn đã
rời xa, người thanh niên trẻ ấy đã giã từ màu áo lính để trở về với cuộc sống
hàng ngày, nhưng không phải vì thế mà tình yêu thơ ca thôi ngừng chảy trong
trái tim người nghệ sĩ.
Hữu Thỉnh là một nhà thơ tuy có khối lượng tác phẩm sáng tác không
được coi là nhiều, nhưng những giải thưởng mà ông đã đạt được trong sự
nghiệp sáng tác của mình thì hoàn toàn đáng được nể phục. Thơ ca của ông
được chia làm hai giai đoạn lớn là thơ ca về thời chiến và thơ ca về thời bình.
Với mỗi giai đoạn, thơ ca của ông lại được thể hiện với một nhân sinh quan,
một tư duy rất riêng rất độc đáo và vô cùng khác biệt. Với ông, thơ được viết
để ghi lại cuộc đời mình và để đúc kết những kinh nghiệm sống.
Hòa chung với xu hướng sáng tác văn học sau những năm 1975, thơ ca
của ông cũng đã có sự đổi mới và chuyển biến tích cực, nhìn nhận cuộc chiến
bằng cái nhìn tổng quát hơn, kéo dài theo cả chiều dài lịch sử dân tộc để có
92
thể thấy những góc khuất, những bất hạnh của cuộc đời thay vì tung hô khẩu
hiệu. Với thơ ca thời bình, ông đào sâu tìm hiểu cái tôi cá nhân để thể hiện
những cung bậc cảm xúc sâu trong tâm hồn mỗi người.
Tứ thơ cho đến nay vẫn là một vấn đề được đưa ra với rất nhiều quan
điểm. Tuy nhiên, hầu như tất cả đều thống nhất tứ thơ chính là hình dạng của
ý thơ. Nó là điểm tựa cụ thể để dựa vào đó chi phối, khái quát cả bài, định
hình cho bài thơ. Tứ thơ là hiện thực hóa của những suy nghĩ, những ý niệm
trong suy nghĩ của tác giả. Tứ thơ là yếu tố quan trọng nhất của bài thơ, nó
được tạo nên từ sự liên tưởng, tư duy và mạch cảm xúc của mỗi nhà thơ.
Trong thơ ca Việt Nam, có biết bao nhiêu chủ đề, các ý giống nhau: tình yêu
nước, tình yêu nam nữ, lòng căm thù giặc, khát khao hạnh phúc, … nhưng với
mỗi một nhà thơ, người ta sẽ có cách thể hiện khác nhau. Và cách thể hiện để
làm cho tác phẩm thành công, đó là dựa vào tứ thơ. Hữu Thỉnh là một nhà thơ
khá thành công trong việc xây dựng tứ thơ. Ông đã khéo léo làm nên những
bộ khung tuyệt vời để cho những bài thơ của mình trở nên đẹp đẽ và tỏa sáng.
Thông qua khảo sát, chúng tôi thấy tứ thơ của Hữu Thỉnh được xây dựng dựa
trên một số kiểu chính : cấu tứ kết chuỗi, cấu tứ liên tưởng, cấu tứ gợi mở,…
Ngoài ra, còn có rất nhiều các cấu tứ khác mà trong giới hạn cho phép chúng
tôi chưa nghiên cứu được hết. Mỗi tác phẩm của Hữu Thỉnh lại mang một cấu
tứ riêng, làm nên một hồn thơ với những dấu ấn đặc biệt trong lòng người đọc
và còn mãi với thời gian.
Thơ ca là nghệ thuật biểu hiện tâm trạng, là nơi để cái tôi của mỗi chủ
thể sáng tác bộc lộ đời sống riêng của mình. Vì thế, cái tôi trữ tình là hiện
diện của con người nhà thơ trong đời sống đi vào nghệ thuật đã được điển
hình hóa, mang những nét chung của con người thời đại. Mỗi nhà thơ đều có
một cái tôi cá nhân rất riêng và được thể hiện trong hệ thống sáng tác của
mình. Hữu Thỉnh cũng vậy, cái tôi cá nhân được thể hiện thông qua những tác
93
phẩm thơ của ông là cái tôi có trách nhiệm với Tổ quốc, cái tôi với cảm nhận
tinh tế và cái tôi đầy triết lý, suy tư trước cuộc đời. Cái tôi cá nhân của ông có
sự biến chuyển theo sự vận động của xu hướng văn học nhưng vẫn luôn giữ
được bản sắc cho riêng mình. Đó là một cái tôi tràn đầy sức sống, tinh thần
mạnh mẽ, lạc quan khi chiến đấu, là cái tôi tinh tế, đầy rung cảm giữa đời
thường với những triết lý nhân sinh.
Có thể nói, đóng góp của Hữu Thỉnh dành cho thơ ca Việt Nam trong
30 năm trở lại đây là không nhỏ. Giáo sư Trần Đình Sử đã nhận xét: “Thơ
Hữu Thỉnh luôn được độc giả đón nhận, trân trọng và yêu mến vì những sáng
tạo mới mẻ trong các trường ca và thơ trữ tình ngắn. Hữu Thỉnh thuộc vào số
các nhà thơ có nhiều câu thơ hay, tứ thơ mới lạ, xuất thần”. Hữu Thỉnh là một
trong những nhà thơ đã để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Không ít tác phẩm
thơ ca của ông đã được chuyển thành bài hát mà cứ mãi ngân vang trong lòng
người biết bao thế hệ.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (1999), “Hữu Thỉnh – nhà thơ và phía khuất lấp cuộc đời”, Văn
hóa Văn nghệ Công an (số 4), tr.24 - 25
2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ Văn học, Nhà xuất bản ĐHQG, Hà
Nội.
3. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nhà xuất bản Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
4. Xuân Diệu (9/5/1981), “Những suy nghĩ nhân đọc Đường tới thành phố”,
Báo Văn nghệ (số 19), tr.8
5. Hà Minh Đức (1993), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
6. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, Nhà xuất bản Hà Nội.
7. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
8. Hà Minh Đức – Bùi Văn Nguyên (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ”, Tạp
chí văn học (số 9), tr.19
10. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội.
11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
12. Hoàng Thị Thu Hà, “Cái tôi triết lí trong thơ Hữu Thỉnh”
http://diendan.vtcgame.vn/showthread.php?2539010-Cai-toi-triet-li-trong-tho-
Huu-Thinh-Hoang-Thi-Thu-Ha
13. Trần Mạnh Hảo (1996), “Thư mùa đông của Hữu Thỉnh”, Văn nghệ Quân
đội, số 4.
14. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ
Văn học, Nhà xuất bản ĐHQG, Hà Nội.
15. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội.
95
16. Thụy Khê (1995), Cấu trúc thơ, Tạp chí Văn nghệ.
17. Yên Khương , “Nhà thơ Hữu Thỉnh tự bạch với Sang thu”
http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha-tho-huu-thinh-tu-bach-voi-
sang-thu-n20085161322946.htm
18. Lê Đình Kỵ (1969), Đường vào thơ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
19. Nguyễn Thanh Kim (2002), “Hữu Thỉnh - Những kỷ niệm nhỏ về đời và
thơ”, Văn hoá Văn nghệ Công an (số 4), tr.16
20. Mã Giang Lân (2011), Những cấu trúc Thơ, Nhà xuất bản ĐHQG, Hà Nội.
21. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, Nhà xuất bản ĐHQG,
Hà Nội.
22. Mã Giang Lân (2004), Văn học hiện đại Việt Nam: Vấn đề - Tác giả, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (2005), Văn học Việt Nam sau 1975 –
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
24. Trường Lưu (2001), “Mấy ghi nhận về thơ người lính của Hữu Thỉnh”, Báo
Diễn đàn Văn nghệ, (số 6), tr.6.
25. Phương Lựu (1996), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
26. Thiếu Mai (1980), Hữu Thỉnh trên đường tới thành phố, Văn nghệ Quân đội
(số 3), tr.32
27. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nhà xuất bản Giáo dục.
28. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nhà xuất bản
Tác phẩm mới, Hà Nội.
29. Nguyễn Xuân Nam (1985), Thơ - tìm hiểu và thưởng thức, Nhà xuất bản Tác
phẩm mới.
30. Nhiều tác giả (1997), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội.
31. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội.
96
32. Nhiều tác giả (1996), Năm mươi năm nền văn học Việt Nam sau Cách mạng
tháng Tám, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia.
33. Trần Đình Sử (2001), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nhà xuất bản Đại học
quốc gia Hà Nội.
34. Nguyễn Nguyên Tản (2006), Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, Nhà xuất bản Hội nhà
văn, Hà Nội.
35. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nhà
xuất bản Văn học, Hà Nội.
36. Nguyễn Bá Thành – Bùi Việt Thắng (1990), Văn học Việt Nam 1965 – 1975,
Nhà xuất bản ĐH&THCN, Hà Nội.
37. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại,
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
38. Lý Hoài Thu (2006), Đồng cảm và sáng tạo, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
39. Lý Hoài Thu, “Thơ Hữu Thỉnh – một hướng tìm tòi sáng tạo từ dân tộc đến
hiện đại”
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c183/n5779/Tho-Huu-Thinh-mot-huong-
tim-toi-va-sang-tao-tu-truyen-thong-den-hien-dai.html
40. Lý Hoài Thu, “Cây như là sinh mệnh thứ hai của thơ Hữu Thỉnh”
http://vanhaiphong.com/van-hai-phong-gioi-thieu/1928-2015-06-30-14-43-
44.html
41. Hữu Thỉnh (1994), Thư mùa đông, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội.
42. Hữu Thỉnh (2005), Thương lượng với thời gian, Nhà xuất bản Hội Nhà văn,
Hà Nội.
43. Hữu Thỉnh (1998), Trường ca Sức bền của đất, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
44. Hữu Thỉnh (2000), Thơ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
45. Hữu Thỉnh (1980), Vài suy nghĩ, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 11.
46. Phan Cung Việt (1995), “Nhân đọc Trường ca biển”, Văn nghệ Quân đội,
(số 4), tr.28
97