ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐỖ THỊ NGỌC ĐIỆP

“TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN” TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH, TRUYỆN

TRUYỀN KỲ VÀ TRUYỆN THƠ NÔM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐỖ THỊ NGỌC ĐIỆP

“TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN” TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH, TRUYỆN

TRUYỀN KỲ VÀ TRUYỆN THƠ NÔM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thanh

Thái Nguyên - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng năm 2019

Tác giả luận văn

Đỗ Thị Ngọc Điệp

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban

Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và văn học, Trường

Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng

dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Vũ

Thanh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và

hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng năm 2019

Tác giả luận văn

Đỗ Thị Ngọc Điệp

iii

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 2

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .................................................................. 9

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 9

5. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 10

6. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................ 11

7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 12

NỘI DUNG ......................................................................................................... 13

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA SỰ TÍCH ĐỘNG TỪ THỨC, TỪ

THỨC LẤY VỢ TIÊN VÀ TỪ THỨC TÂN TRUYỆN ......................................... 13

1.1. Sơ lược về vấn đề thể loại truyện cổ tích thần kỳ và truyện kể địa danh

của Sự tích động Từ Thức .................................................................................. 13

1.1.1. Tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ ............................................................... 13

1.1.2. Truyện kể địa danh .................................................................................... 14

1.1.3. Truyện Sự tích động Từ Thức .................................................................. 15

1.2. Sơ lược về thể loại truyện truyền kỳ và truyện Từ Thức lấy vợ tiên………18

1.2.1. Sơ lược về thể loại truyện truyền kỳ ........................................................ 18

1.2.2. Nguyễn Dữ và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên ............................... 20

1.3. Vấn đề tác giả và thể loại truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện .................. 28

1.3.1. Sơ lược về thể loại truyện thơ Nôm .......................................................... 28

1.3.2. Về đặc điểm truyện thơ Nôm bình dân ..................................................... 30

1.3.3. Về truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện. ................................................... 34

Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................... 37

Chương 2: SỰ KẾ THỪA, BIẾN ĐỔI NỘI DUNG TƯ TƯỞNG VÀ GIÁ TRỊ

NHÂN VĂN QUA BA TÁC PHẨM .................................................................. 38

iv

2.1. Tương quan tam giáo từ truyện cổ tích đến truyền kỳ và truyện thơ

Nôm ..................................................................................................................... 38

2.1.1. Điểm chung trong tư tưởng của ba tác phẩm ............................................ 38

2.1.2. Những biến đổi tương quan tam giáo từ truyện cổ tích, đến truyện truyền

kỳ và truyện thơ Nôm .......................................................................................... 44

2.2. Sự bế tắc trong tư tưởng và lối sống của nho sĩ trong xã hội phong kiến ... 50

2.3. Khát vọng tự do và cảm xúc tình yêu trong Sự tích động Từ Thức, Từ

Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện .............................................................. 55

2.3.1. Khát vọng tự do và tình yêu tự do ............................................................. 55

2.3.2. Cảm xúc tình yêu và yếu tố tính dục trong truyện truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện. ........................................... 62

Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................... 70

Chương 3: SỰ KẾ THỪA VÀ BIẾN ĐỔI TRÊN MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN

NGHỆ THUẬT QUA BA TÁC PHẨM ............................................................. 71

3.1. Sự kế thừa một số phương diện nghệ thuật từ Sự tích động Từ Thức đến

Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện ......................................................... 71

3.1.1. Kế thừa mô hình kết cấu cốt truyện ......................................................... 71

3.1.2. Kế thừa môtip truyện ................................................................................ 73

3.1.3. Kế thừa yếu tố thần kỳ và ngẫu nhiên ....................................................... 75

3.1.4. Kế thừa hệ thống nhân vật và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật 76

3.2. Sự biến đổi một số phương diện nghệ thuật từ Sự tích động Từ Thức đến Từ

Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện .............................................................. 78

3.2.1. Biến đổi về kết cấu cốt truyện .................................................................. 78

3.2.2. Biến đổi về nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật ................... 92

3.2.3. Biến đổi về ngôn ngữ nghệ thuật .............................................................. 99

Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................... 104

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 105

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 109

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Trong tiến trình phát triển lịch sử văn học dân tộc, văn học dân gian

luôn có mối quan hệ bền chặt, hữu cơ với văn học viết, nhất là giai đoạn từ thế kỷ

XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX – thời kỳ văn học phát triển rực rỡ, kết tinh nhiều

thành tựu và tạo ra nền móng cho những giai đoạn phát triển thịnh vượng trong

đời sống văn hóa, văn học sau này. Đáng chú ý hơn, đây cũng là thời điểm chứng

kiến sự ra đời của những tác phẩm văn học mang ý nghĩa nhân văn lớn, khẳng

định khát vọng của con người về tự do, tình yêu, hạnh phúc, sự công bằng, thoát

khỏi những ràng buộc hà khắc của lễ giáo phong kiến. Truyện cổ tích Sự tích

động Từ Thức, Truyện Từ Thức lấy vợ tiên trích từ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn

Dữ và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện là những tác phẩm thể hiện sâu sắc

những nội dung đó. Việc tìm hiểu ba tác phẩm thực sự là một việc làm có ý nghĩa

và hấp dẫn đối với người viết, giúp chúng ta hiểu rõ và đánh giá chính xác hơn sự

phát triển và những thành tựu của các giai đoạn văn học này.

1.2. Sức ảnh hưởng của truyện cổ tích nói riêng, văn hoá, văn học dân

gian nói chung đến truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm ở thời kỳ này cũng hết

sức sâu sắc. Các tác giả truyện truyền kỳ thường mượn các tích dân gian để viết

nên tác phẩm của mình. Trong khi đó truyện thơ Nôm lại thường diễn lại tích

truyện cổ tích, truyện truyền kỳ, truyện chích quái, hay những câu chuyện có

thật ở đời sống. Có những sáng tác sau khi được viết lại như thế đã đạt đến

thành công xuất sắc, xóa mờ kí ức về văn bản vay mượn như trường hợp tác

phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, hay các truyện thơ Nôm bình dân

như: Thạch Sanh - Lý Thông, Phạm Công - Cúc Hoa... Nghiên cứu đề tài: “Từ

Thức lấy vợ tiên” trong truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ

Nôm, chúng tôi muốn đem đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về quy

luật hình thành, phát triển của ba thể loại trên, và sự tương tác giữa ba thể loại từ

góc độ tiếp cận của mình.

2

1.3. Trên thực tế truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm đã có

nhiều tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông và đại học, cao

đẳng. Ở phổ thông có các tác phẩm như: truyện cổ tích Tấm Cám, truyện truyền

kỳ: Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

(trích: Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ), truyện thơ Nôm: Đoạn trường tân

thanh của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu…. Vì vậy, nghiên

cứu các tác phẩm Sự tích động Từ Thức, Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân

truyện sẽ góp phần bổ trợ kiến thức cho giáo viên dạy ở phổ thông để đối chiếu,

so sánh với những tác phẩm cùng thể loại. Đối với các trường đại học, cao đẳng,

đề tài cũng rất hữu ích cho quá trình nghiên cứu, học tập của sinh viên, học viên.

Sự tích động Từ Thức, Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện là

những tác phẩm độc đáo bởi nó vừa có giá trị văn học vừa có ý nghĩa văn hóa

sâu sắc (đặc biệt là về triết học, tôn giáo: tư tưởng tam giáo, tín ngưỡng dân

gian…). Việc nghiên cứu văn học trong mối quan hệ so sánh ba tác phẩm có

cùng cốt truyện ở ba thể loại và thời điểm ra đời khác nhau sẽ giúp chúng ta hiểu

rõ hơn về hiện tượng văn hóa lý thú này. Đồng thời, giúp chúng ta có một cái

nhìn đúng đắn hơn về truyền thống và tôn giáo, tín ngưỡng văn hóa dân gian, tư

tưởng thời đại của cả ba tác phẩm.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức

Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức thuộc tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ

- truyện cổ tích giải thích tên địa danh động Từ Thức, là câu chuyện được lưu

truyền rộng rãi trong dân gian.

Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức là câu chuyện thứ 130 được ghi chép

lại trong Kho tàng truyện Cổ tích Việt Nam của tác giả Nguyễn Đổng Chi, Nxb

Giáo dục, năm 2000. Từ khi ra đời truyện đã được chuyển thể thành các tích

chèo và sau này là phim truyền hình. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của chúng

tôi thì chưa có công trình nghiên cứu liên văn bản về câu chuyện Từ Thức lấy vợ

tiên trong cả ba thể loại truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm

3

mang tính chất quy mô, mà chỉ có những bài nghiên cứu ở cấp độ hai thể loại từ

truyện cổ tích đến truyện truyền kỳ, hay từ truyện truyền kỳ đến truyện thơ Nôm

trên một số tạp chí đăng và trang mạng.

Trong bài viết : Sự tương đồng và khác biệt về không gian trong truyện cổ

tích thần kỳ của người Việt và người Hàn của Lưu Thị Hồng Việt, đăng trên

“Tạp chí Khoa học” Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Số 60 năm

2014 đã chỉ ra sự tương đồng về không gian kỳ lạ trong các truyện cổ tích của

người Việt và người Hàn: “Không gian cõi tiên có mối liên hệ gần gũi với không

gian hạ giới, âm giới... Sự liên hệ giữa các không gian này không khó khăn,

không phức tạp. Các nhân vật có thể từ cõi trần lên cõi tiên, từ cõi tiên xuống hạ

giới một cách dễ dàng như một sự đi lại bình thường nhờ các phương tiện dịch

chuyển thần kỳ như cỗ xe mây,...” [82]. Tác giả Lưu Thị Hồng Việt chỉ rõ ở

truyện Sự tích động Từ Thức của người Việt có miêu tả hành động Từ Thức đi

lên một ngọn núi cao nhìn ra giữa cửa Thần Phù và trước mắt chàng hiện lên

một hòn đảo trông như một đóa hoa sen giữa vùng biển cả. Trước cảnh vật đẹp

lạ kỳ, Từ Thức đã di chuyển ra khơi đến hòn đảo bằng chiếc thuyền. Không gian

Từ Thức đến là một không gian thần kỳ trong những ngọn núi: “Chẳng bao lâu

thuyền đã ghé đảo. Đang mê mải nhìn, chàng bỗng thấy ở sườn núi đá gần đó

có một cửa hang khá rộng. Bèn vịn cây rẽ cỏ tìm đến tận nơi.”[8, tr 947, 948].

Từ Thức đi vào hang được một đoạn thì cửa hang đóng sập lại. Ban đầu Từ

Thức đi trong hang tối, nhưng càng đi thì càng nhiều cảnh bất ngờ hiện ra trước

mắt: “Khi leo lên đến đỉnh thì Từ Thức bỗng thấy cả một tòa nhà lộng lẫy hiện

ra trước mắt (...) đó không phải là cảnh vật của trần gian mà là tiên cảnh. Từ

Thức đã đến được không gian tiên giới, được các tiên nữ đón tiếp chu đáo: “Lập

tức đêm hôm ấy trong bữa tiệc tưng bừng có quần tiên tụ hội, hai người chính

thức làm lễ giao bôi. Khách tiên từ các động vui vẻ cạn chén chào mừng chàng

rể mới đến nhập tịch làng tiên ...” [8, tr 948, 949]. Tác giả bài viết cũng chứng

minh rằng không gian núi trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên cũng mang ý nghĩa

“biểu tượng của cái siêu tại, siêu phàm với tính cách là trung tâm của những

4

hiện tượng hiển linh trong khí quyển và rất nhiều sự tích thần hiện. (...) Núi là

nơi trời và đất gặp nhau, là nơi của thánh thần và là điểm cuối của con đường

đi lên của con người” [ 6, tr 699].

Chi tiết Từ Thức gặp tiên và có thời gian hạnh phúc nồng nàn bên nàng

tiên Giáng Hương đã chứng tỏ sự tương đồng trong quan niệm về “núi” - một

trong những biểu tượng không gian thiêng mang nhiều điểm tương đồng với

quan niệm của nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Sự dịch chuyển không gian

của nhân vật Từ Thức đã giúp chàng khám phá những vẻ đẹp thần bí, đến với

tình yêu tiên giới mặc dù không toại nguyện và cuối cùng chàng đành trở về cõi

tục, thấm thía hơn bao giờ hết về số phận của mình trên thế gian trong sự lạc

lõng, hoàn toàn xa lạ với thế gian.

Tác giả Nam Minh trong bài viết: “Từ Thức gặp tiên, truyện cổ tích Việt

Nam hay một hiện tượng khoa học?” cho rằng: Rất nhiều sự kiện lịch sử có thật,

theo năm tháng dài đằng đẵng của lịch sử mà dần dần trở thành truyền thuyết,

thần thoại. Từ đó, tác giả Nam Minh đưa ra giả thiết Từ Thức gặp tiên, truyện cổ

tích hay một hiện tượng khoa học? Vì xem xét truyện Từ Thức gặp tiên, ta thấy

có yếu tố kỳ ảo góp phần khiến câu chuyện bị cho là hư cấu đó là việc Từ Thức

đến thế giới của địa tiên núi Nam Nhạc một năm, nhưng trở về nhân gian thì đã

hai trăm năm trôi qua. Tác giả bài viết đã khảo sát các dẫn chứng trên thế giới

như Rudolph Fentz là một trong những trường hợp “du hành vượt thời gian” nổi

tiếng lịch sử, trường hợp Chuyến bay thương mại Santiago 513 khởi hành từ

Đức vào ngày 4/9/1954 và biến mất ở một nơi nào đó trên Đại Tây Dương…

Sau đó tái xuất hiện sau 35 năm, lượn quanh sân bay và hạ cánh tại Porto

Alegre, Brazil. Hôm đó là ngày 12/10/1989. Hay trường hợp một chiếc du

thuyền của Anh mang tên “Sea Breeze” tháng 8/1981 cùng 6 người trên boong

đột nhiên biến mất tại vùng tam giác quỷ Bermuda. 8 năm sau, chiếc du thuyền

xuất hiện trở lại một cách kỳ lạ tại đúng vị trí mất tích, 6 người trên thuyền vẫn

bình an vô sự. Một điều đặc biệt mà cả 6 người trên du thuyền đều nhận thức

được là, dường như bản thân mất đi cảm giác và họ hoàn toàn không biết được

5

rằng ở ngoài kia 8 năm đã trôi qua. Ấy vậy mà họ chỉ cảm giác như một vài giây

đã trôi qua mà hầu như chưa làm được một việc gì….Từ đó tác giả Nam Minh

khẳng định: “Vì thế câu chuyện Từ Thức gặp tiên rất có thể không phải là truyện

cổ tích như ta vẫn thường nghĩ mà nó hé mở bí mật về Thời – Không” [45].

Cũng trong bài viết này theo tác giả Nam Minh: Lý thuyết mới về đa thế

giới có thể giải thích rất nhiều phát hiện kỳ lạ trong cơ học lượng tử. Trong đó

có thể giải thích sự hiện diện của Thiên đường. Tại sao người thường trong điều

kiện thông thường không thể tiếp xúc được thế giới này. Điều này được lý giải

trong lý thuyết về “Đa thế giới tương tác”…. một số trường hợp đặc thù như

người tu luyện đã cải biến hoàn toàn thân thể thành vật chất không gian khác,

hoặc một người có cơ duyên đặc biệt mới có thể tiến nhập vào không gian khác,

mà câu chuyện Từ Thức lấy vợ tiên là một ví dụ.

Như vậy, trên thực tế truyện cổ tích Sự tích Từ thức cũng đã được giới

nghiên cứu chú ý. Sức hấp dẫn của câu chuyện không chỉ do câu chuyện tình

yêu đẹp của chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương, hay những vẻ đẹp kỳ

thú của thiên nhiên đất nước qua một địa danh cụ thể là hang động Từ Thức ở

xứ Thanh gắn với tín ngưỡng, văn hoá của người Việt, mà còn còn là những vẻ

đẹp tiềm ẩn chưa khám phá hết của câu chuyện.

2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện Từ Thức lấy vợ tiên trong Truyền kỳ mạn lục

của Nguyễn Dữ

Về Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, từ trước thế kỷ XX đã nhận được

sự quan tâm, ưu ái của nhiều học giả như: Vũ Khâm Lân trong Bạch Vân Am cư

sĩ phả ký coi Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một “thiên cổ kỳ bút”, Lê

Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục ca ngợi Truyền kỳ mạn lục là “lời lẽ thanh tao,

tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”, Phan Huy Chú khen rằng Truyền kỳ

mạn lục là “áng văn hay của bậc đại gia”.

Từ đầu thế kỷ XX đến nay, thể loại truyền kỳ càng nhận được nhiều sự

quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học. Đặc biệt, tác phẩm Truyền

kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước chọn

6

làm đối tượng nghiên cứu trong nhiều bài viết, công trình khoa học như: Bùi

Văn Nguyên (1968), Bàn về yếu tố dân gian trong Truyền kỳ mạn lục của

Nguyễn Dữ, Tạp chí văn học số 11; Nguyễn Đăng Na (1978), Sự phát triển văn

xuôi Hán – Việt từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX qua một số tác

phẩm tiêu biểu, Luận án tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội; Nguyễn Phạm Hùng

(1987), Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn

Dữ, Tạp chí văn học số 7; Bùi Duy Tân (2001), Truyền kỳ mạn lục - một thành

tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán, Văn học Việt Nam từ thế kỷ X

đến nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục; Lại Văn Hùng (2002), Bàn thêm về

tác giả, tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, Tạp chí văn học số 10; Nguyễn Đăng Na

(2006), Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ so sánh văn học, Con đường giải mã văn

học trung đại, Nxb Giáo dục; Vũ Thanh (tháng 10, 2006), Đóng góp của Nguyễn

Dữ cho thể loại Truyền kỳ Đông Á, Trang điện tử của Viện văn học; Lê Văn

Hùng (2007), Bước tiến của thể loại truyện ngắn Truyền kỳ Việt Nam qua

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Cao

đẳng sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu; Nguyễn Hữu Sơn (tháng 6, 2009), Tương

đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo trong Truyền kỳ mạn lục,

Trang điện tử trường Đại học khoa học xã hội nhân văn, Khoa Văn học và Ngôn

ngữ; Đoàn Lê Giang (tháng 01, 2010), Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Trang điện tử trường Đại học khoa học xã

hội nhân văn, Khoa Văn học và Ngôn ngữ; Phạm Tuấn Vũ (tháng 12, 2011),

Bàn góp về tiếp thu và đổi mới trong truyền kỳ mạn lục, Trang điện tử Khoa

Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; …

Đặc biệt, ở bài viết: Nguyễn Dữ và Tiên thoại Trung Quốc qua truyện Từ

Thức lấy vợ tiên đăng trên Tạp chí Văn học, số 5, 2000, tác giả Trần Đình Sử đã

nghiên cứu cụ thể truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ trong mối quan hệ

so sánh với Tiên thoại Trung Quốc. Trong bài viết này, tác giả đã chứng minh và

khẳng định: “Tất cả các môtip, chi tiết miêu tả, đồ vật và điển cố nêu trên, dù

chưa chứng thực con đường tiếp thu cụ thể, song đều chứng tỏ khi viết truyện Từ

7

Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ đã tỏ ra hết sức thông thuộc các sự tích tiên thoại

của Trung Quốc”. Đồng thời cho rằng: “Truyện Từ Thức lấy vợ tiên là một sáng

tác mới mang nội dung lịch sử sâu sắc… Có thể nói Từ Thức kết tinh bao nhiêu

hình bóng và tâm sự kẻ sĩ Việt Nam vào thời chính sự thối nát. Từ Thức lấy vợ

tiên có cảm hứng siêu thoát, nhưng chỉ là siêu thoát chính sự, không phải siêu

thoát cuộc đời” [64]. Bài viết này của Trần Đình Sử là một gợi ý tốt để chúng

tôi tiếp cận với đề tài luận văn của mình.

Nhìn chung, qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy những công trình nghiên

cứu, những bài báo, những luận án thạc sĩ, tiến sĩ kể trên mới chủ yếu xem xét,

đánh giá chung sự đóng góp của Truyền kỳ mạn lục đối với sự phát triển của thể

loại, bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam qua Truyền kỳ mạn

lục, ảnh hưởng của văn hóa, văn học dân gian trong và ngoài nước đến tác phẩm

truyền kỳ, hay mối quan hệ của Từ Thức lấy vợ tiên với Tiên thoại Trung Quốc

chứ chưa có bài nghiên cứu cụ thể nào về truyện Từ Thức lấy vợ tiên trong mối

quan hệ kế thừa truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức và sự phát triển thành

truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện.

2.3. Lịch sử nghiên cứu truyện thơ Nôm và truyện thơ Nôm khuyết danh

Từ Thức tân truyện

Truyện thơ Nôm là thể loại tự sự - trữ tình nở rộ và có thành tựu vào thế

kỷ XVII, XVIII ở Việt Nam. Truyện được viết bằng thể thơ lục bát dân tộc. Đây

là một trong những thể loại văn học mang vẻ đẹp bản sắc dân tộc được nhiều

nhà nghiên cứu văn học quan tâm.

Trong Việt Nam văn học sử yếu (1941) – tác giả Dương Quảng Hàm đã

đánh giá truyện thơ Nôm “là tiểu thuyết bằng văn vần”. Sau đó trong vòng hơn

chục năm, từ 1942 đến 1953 đã xuất hiện rất nhiều công trình nghiên cứu khác

như: Việt Nam cổ văn học sử (1942) của Nguyễn Đổng Chi, tác giả đã khái quát

đặc điểm của nhiều thể loại văn học, trong đó đưa ra những nhận xét xác đáng

về thể loại truyện thơ Nôm. Đào Duy Anh, trong cuốn Khảo luận về Kim – Vân

– Kiều (1943) đã chỉ ra sự sáng tạo độc đáo của tác giả Nguyễn Du và sự độc

8

đáo của thể loại truyện thơ Nôm của dân tộc qua việc so sánh tiểu thuyết Kim

Vân Kiều truyện của tác giả Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) và Truyện Kiều

của Nguyễn Du. Tác giả Văn Tân có chuyên luận : Thử tìm ý nghĩa giá trị “Nhị

Độ Mai”, tác giả Nguyễn Bách Khoa có chuyên luận “Nguyễn Du và Truyện

Kiều” (1951), Hoa Bằng có Khảo luận về Truyện Thạch Sanh – tập san, số 16,

năm 1956; tác giả Lê Hoài Nam có bài viết “Phạm Tải - Ngọc Hoa”, một truyện

thơ Nôm khuyết danh có giá trị, Nghiên cứu văn học số 8, 1960; tác giả Ninh

Viết Giao với bài Nguyễn Cảnh và “Truyện Phương Hoa”, Nghiên cứu văn học,

số 11, 1961…

Không chỉ đề cập đến các tác phẩm truyện thơ Nôm cụ thể, các công trình

nghiên cứu của các tác giả ngày càng mở rộng phạm vi nghiên cứu như đề cập

đến các vấn đề chung, vấn đề lịch sử thể loại, vấn đề thi pháp… Cụ thể như tác

giả Đặng Thanh Lê có Nhân vật phụ nữ qua một số truyện thơ Nôm, Tạp chí văn

học, số 1+2, 1968; tác giả Nguyễn Lộc in trên Tạp chí văn học, số 4, 1969 bài

Những vấn đề xã hội trong truyện thơ Nôm bình dân… Càng về sau, các công

trình nghiên cứu tác phẩm truyện thơ Nôm càng được các tác giả quan tâm hơn.

Truyện thơ Nôm còn là đối tượng nghiên cứu không thể thiếu trong các công

trình nghiên cứu văn học sử của tác giả Lê Trí Viễn và Lê Hoài Nam trong cuốn

Lịch sử văn học Việt Nam, (Hà Nội, 1965); hay trong cuốn Văn học Việt Nam

nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, tập II (Hà Nội, 1978) của tác giả

Nguyễn Lộc. Năm 1979 có chuyên luận Truyện Kiều và thể loại truyện thơ Nôm

của Đặng Thanh Lê; năm 1992 và 1996 tác giả Kiều Thu Hoạch cho ra đời hai

chuyên luận là Truyện thơ Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại và Truyện thơ

Nôm bình dân của người Việt – Lịch sử hình thành và bản chất thể loại; tác giả

Trần Đình Sử với hai công trình nghiên cứu Mấy vấn đề thi pháp văn học Việt

Nam trung đại (1999) và Thi pháp Truyện Kiều (2003); Nguyễn Thị Nhàn

(2009), Thi pháp cốt truyện truyện thơ Nôm và Truyện Kiều, Nxb Đại học sư

phạm, Hà Nội… đã góp phần khẳng định bản chất thể loại của truyện thơ Nôm.

9

Gần đây nhất, trong nhiều luận văn thạc sĩ, nhiều bài viết trên các tạp chí

Văn học nghệ thuật, các tác giả đã cụ thể đi vào nghiên cứu mối quan hệ ảnh

hưởng của truyện thơ Nôm với văn học dân gian, hay ảnh hưởng của truyện thơ

Nôm với truyện truyền kỳ như: Đặc điểm truyện thơ Nôm bình dân qua một số

tác phẩm có nguồn gốc từ văn học dân gian (Luận án thạc sĩ của Bùi Thị Tuyết

Mai, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2015); “Cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở Bích Câu”

từ truyện truyền kỳ đến truyện thơ Nôm (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hoa,

Trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2016); Truyện Nôm Từ Thức dưới góc nhìn

liên văn bản (Bài viết của Nguyễn Hồng Quân, in trong Tạp chí Văn học nghệ

thuật số 408, tháng 6 – 2018), …

Như vậy, trên thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thể loại

truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm, hay là mối quan hệ mang

tính chất kế thừa và phát triển từ thể loại cổ tích đến truyền kỳ, từ thể loại

truyền kỳ đến truyện thơ Nôm, hay ảnh hưởng của thể loại văn học dân gian đến

truyện thơ Nôm. Nhưng chưa có một công trình nghiên cứu nào về mối quan hệ

kế thừa và phát triển từ truyện dân gian đến truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm.

Đây là một trong những nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài: “Từ Thức

lấy vợ tiên” trong truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm làm

đề tài cho luận văn cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam của mình.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu sự kế thừa và biến đổi của

cốt truyện “Từ Thức lấy vợ tiên” trong truyện cổ tích, truyền kỳ và truyện

thơ Nôm được thể hiện trên các phương diện nội dung và nghệ thuật mang tính

đặc trưng của từng thể loại.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

- Việc tìm hiểu ba tác phẩm nhằm khẳng định những đóng góp về mặt nội

dung, nghệ thuật và tư tưởng của từng thể loại trên cơ sở của ba tác phẩm cùng

chung cốt truyện.

10

- Qua đó góp phần làm rõ hơn những nét độc đáo trong phong cách nghệ

thuật tư tưởng của ba tác phẩm trong thời kỳ văn học Việt Nam trung đại.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau:

- Tìm hiểu những nét cơ bản về nội dung, nghệ thuật, tư tưởng trong ba

tác phẩm cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện

thơ Nôm Từ Thức tân truyện.

- Xác định những giá trị về nội dung, nghệ thuật, tư tưởng của ba tác

phẩm để qua đó thấy được ý nghĩa của chúng đối với văn học Việt Nam thế kỷ

XVI- XVIII.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện thành công luận văn, chúng tôi sử dụng kết hợp những

phương pháp sau:

4.2.1. Phương pháp so sánh - loại hình

Đây là phương pháp quan trọng giúp người viết so sánh, đối chiếu ba tác

phẩm trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật, đồng thời áp dụng những

kiến thức lý luận về đặc trưng thể loại, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ… Từ đó

chúng tôi rút ra được những điểm gặp gỡ, kế thừa và cả những nét riêng không

lặp lại trong phong cách sáng tác và giá trị của ba tác phẩm, chỉ ra dấu ấn của

văn học dân gian qua truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức và những đặc điểm

mới của văn học thành văn trong truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện

thơ Nôm Từ Thức tân truyện.

4.2.2. Phương pháp liên ngành

Đây là phương pháp giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quan trong quá trình

nghiên cứu. Trong đó, chúng tôi sử dụng cơ bản là phương pháp văn hoá học. Vì

vậy, đề tài “Từ Thức lấy vợ tiên” trong truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và

truyện thơ Nôm được đặt trong cái nhìn biến đổi trong tương quan về đặc trưng

11

thể loại, diễn biến nội dung, tư tưởng thời đại từ truyện cổ tích đến truyền kỳ và

truyện thơ Nôm.

4.2.3. Phương pháp nghiên cứu văn học dưới góc độ thi pháp học

Phương pháp này giúp người viết tìm hiểu các vấn đề thi pháp học như:

không - thời gian nghệ thuật, nhân vật, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật… Từ đó

giúp người viết thấy được sự kế thừa và sáng tạo trong nghệ thuật thể hiện từ

truyện cổ tích đến truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm.

Ngoài ra trong luận văn chúng tôi còn sử dụng kết hợp với các phương

pháp khác như: lịch sử, hệ thống và các thao tác nghiên cứu như: phân tích -

tổng hợp, phân loại…

5. Phạm vi nghiên cứu

5.1 Phạm vi nội dung

Phạm vi nghiên cứu nội dung các văn bản: khai thác cuộc gặp gỡ và nên

duyên của Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương trong ba văn bản: Truyện cổ tích

Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ và

truyện thơ Nôm khuyết danh Từ Thức tân truyện. Từ việc tìm hiểu ba tác phẩm

này, luận văn tập trung phát hiện những nét độc đáo về văn hóa, lịch sử, ý nghĩa

tư tưởng nhân văn mà các tác giả gửi gắm qua các tác phẩm, sự tương quan kế

thừa và phát huy của mỗi thể loại gắn với mỗi giai đoạn phát triển của văn học.

5.2. Phạm vi tư liệu

Chúng tôi chọn tài liệu tham khảo chính là :

- Văn bản truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức trong Kho tàng truyện

cổ tích Việt Nam, tác giả Nguyễn Đổng Chi, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam

năm 2000.

- Văn bản truyện Từ Thức lấy vợ tiên in trong Cù Hựu - Tiễn đăng tân thoại,

Nguyễn Dữ - Truyền kỳ mạn lục, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, Trần Thị

Băng Thanh giới thiệu và chỉnh lý, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội năm 1999.

- Văn bản truyện thơ Nôm in trong Từ Thức tân truyện, Từ Thức tiên hôn,

Mai Thị Ngọc Chức sưu tầm giới thiệu, Nxb Thanh Hoá năm 1987.

12

Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những văn bản, các cuốn sách và các

bài báo có liên quan đến ba tác phẩm để phục vụ quá trình nghiên cứu.

6. Đóng góp mới của luận văn

- Bước đầu nghiên cứu truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện

truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện trong sự so

sánh một cách toàn diện từ thể loại, nội dung đến nghệ thuật để qua đó góp phần

làm rõ quy luật hình thành, phát triển của truyện truyền kỳ, truyện thơ Nôm và

sự tương tác giữa ba thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc.

- Bước đầu phát hiện và lý giải tương quan tam giáo và những sự ảnh

hưởng của chúng trong cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện để giúp người đọc hiểu rõ hơn

về những nét đẹp văn hóa, văn học, tín ngưỡng của dân tộc tại thời điểm ra đời

của mỗi tác phẩm.

- Đề tài có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo tại nhà trường các cấp cho

giáo viên và tư liệu nghiên cứu cho sinh viên, học viên.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung của sự tích Động Từ Thức, Từ Thức lấy

vợ tiên và Từ Thức tân truyện

Chương 2: Sự kế thừa, biến đổi nội dung tư tưởng và giá trị nhân văn qua

ba tác phẩm.

Chương 3: Sự kế thừa và biến đổi một số phương diện nghệ thuật qua ba

tác phẩm

13

NỘI DUNG

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA SỰ TÍCH ĐỘNG TỪ THỨC, TỪ THỨC

LẤY VỢ TIÊN VÀ TỪ THỨC TÂN TRUYỆN

1.1. Sơ lược về vấn đề thể loại truyện cổ tích thần kỳ và truyện kể địa danh

của Sự tích động Từ Thức

1.1.1. Tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ

Theo cách phân loại của các nhà folklore Việt Nam hiện nay thì thể loại

truyện cổ tích gồm ba tiểu loại: Truyện cổ tích loài vật, Truyện cổ tích thần kỳ

và Truyện cổ tích sinh hoạt.

Truyện cổ tích thần kỳ là một trong ba tiểu loại của truyện cổ tích, mang

những đặc trưng nổi bật của thể loại truyện cổ tích, như: Phản ánh mơ ước,

nguyện vọng, lý tưởng xã hội của nhân dân thông qua chiến thắng tất yếu của

cái thiện, cái đẹp bằng hình thức kỳ ảo.

Truyện cổ tích thần kỳ hấp dẫn người đọc nhờ có sự xuất hiện của lực

lượng thần kỳ (yếu tố kỳ ảo) như: ông bụt, bà tiên, mụ phù thuỷ, con yêu tinh,

những con vật, đồ vật thần kỳ, những phép màu biến hoá... Yếu tố thần kỳ đã

tham gia như một phần không thể thiếu trong cốt truyện, làm cho truyện thêm

hấp dẫn, không có yếu tố này cốt truyện sẽ không phát triển được hoặc phát triển

theo cách khác và tác phẩm sẽ không còn là một câu chuyện cổ tích thần kỳ.

Đồng thời sự xuất hiện của yếu tố thần kỳ đã giúp nhân dân lao động thực hiện

những giấc mơ đẹp, biến những khát vọng, mơ ước của mình thành hiện thực

trong tác phẩm. Yếu tố thần kỳ chính là nét đặc trưng không thể thiếu của truyện

cổ tích thần kỳ, góp phần quan trọng tạo nên một thế giới cổ tích lấp lánh, mang

vẻ đẹp kỳ diệu và sức hấp dẫn kỳ lạ đối với con người.

Truyện cổ tích thần kỳ có đối tượng miêu tả chính là con người. Con

người trong truyện cổ tích thần kỳ thường rơi vào tình trạng bế tắc, bất lực trước

những khó khăn, khi đó lực lượng thần kỳ xuất hiện trợ giúp cho nhân vật vượt

qua những khó khăn và xung đột của truyện sẽ được giải quyết, câu chuyện sẽ

14

được phát triển tiếp tục. Hầu hết các vấn đề được nêu lên trong truyện cổ tích

thần kỳ đều được giải quyết trực tiếp hay gián tiếp bằng lực lượng thần kỳ.

Nội dung phản ánh trong truyện cổ tích thần kỳ thường là phản ánh mâu

thuẫn xã hội ở thời kỳ đã có sự phân hóa giai cấp, phân biệt giàu nghèo bằng

cách thông qua những xung đột, mâu thuẫn của gia đình nhỏ … Đồng thời là sự

phản ánh về số phận của những đứa trẻ mồ côi, người con riêng, người em út và

về những nhân vật bất hạnh - sản phẩm của sự chuyển giao từ chế độ mẫu quyền

sang phụ quyền, từ xã hội chưa có giai cấp đến xã hội giai cấp, …

Kết cấu truyền thống của truyện cổ tích thần kỳ là kết thúc có hậu, cũng

có trường hợp kết thúc không có hậu.Những truyện cổ tích có kết thúc không có

hậu thường xuất hiện ở giai đoạn sau, khi yếu tố thần kỳ đã nhạt dần và yếu tố

hiện thực trong đời sống tăng dần.Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức là một ví

dụ tiêu biểu.

1.1.2. Truyện kể địa danh

Truyện kể địa danh là nhóm những câu chuyện“lấy nguồn gốc tên gọi

của những sự vật tự nhiên hoặc những điểm dân cư làm đối tượng phản ánh rất

phong phú, nhiều vẻ.(…) tạm gọi những truyện kể như vậy là truyện kể địa

danh” [18]. Năm 2000, tác giả Trần Tùng Chinh, trong luận văn thạc sĩ viết về

đề tài: Bước đầu tìm hiểu truyện kể dân gian về các địa danh ở Nam Bộ cũng

cho rằng:“Các truyện kể đi vào giải thích nguồn gốc tên đất, tên làng, tên sông,

tên núi, tên những vị trí địa lý, địa hình của đất (…) là những truyện kể dân gian

về địa danh (…) gọi tắt là truyện kể địa danh” [10]. Gần đây nhất trong luận văn

thạc sĩ với đề tài: Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, tác giả

Nguyễn Thị Mai Quyên cũng đã khẳng định: “Bất cứ câu chuyện dân gian nào

cho ta biết (một cách trực tiếp hay gián tiếp) vì sao ngọn núi, con sông, vùng

đất, thôn làng… ấy có tên gọi như vậy đều có thể coi là truyện kể địa danh. Kết

quả giải thích địa danh phải là căn cư để xác định đối tượng, không thể vì

truyện không lấy việc giải thích địa danh làm mục đích mà gạt bỏ ý nghĩa giải

thích địa danh của chúng” [60]. Như vậy, có thể nói những kết luận được nói

15

đến trong các luận văn nghiên cứu của các tác giả nói trên đã cho ta một cách

hiểu khá đầy đủ về thể loại truyện kể dân gian giải thích tên địa danh.

Sự tích động Từ Thức là một truyện thuộc tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ,

kể về chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương gặp nhau và nên duyên chồng

vợ. Đồng thời Sự tích động Từ Thức cũng lại là một truyện mang dấu ấn của

truyện kể địa danh, khi nội dung của truyện kể về một hang động, nơi Từ Thức

đã sống cùng Giáng Hương quãng thời gian một năm ở Tiên giới bằng 300 năm

ở cõi trần. Truyện hướng tới việc giải thích địa danh hang Từ Thức. Về sau

chính hang động này đã mang tên gọi là động Từ Thức - một địa danh kỳ thú đã

lưu giữ chuyện tình huyền thoại Từ Thức và Giáng Hương.

Do vậy, nghiên cứu về truyện Sự tích động Từ Thức trong dân gian chúng

tôi một mặt quan tâm tới đặc trưng của tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ, mặt khác

cũng chú ý và không bỏ qua nội dung hướng tới việc giải thích địa danh của

truyện.

1.1.3. Truyện Sự tích động Từ Thức

Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức là câu chuyện cổ tích thần kỳ có

nhiều bản kể khác nhau như:

- Tích hang ông Từ Thức, in trong Chuyện người xưa, bản kể của Trương

Vĩnh Ký. Nxb Sài Gòn, xuất bản lần đầu 1886, tái bản 1974 [37].

- Từ Thức, in trong Truyện cổ Việt Nam, bản kể của Vũ Ngọc Phan, Nxb

Văn - sử - địa, Hà Nội, in lần thứ ba năm 1957 [55].

- Từ Thức gặp tiên, in trong Chuyện cổ tích, bản kể của Tô Nguyệt Đình,

Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1963 [15].

- Sự tích động Từ Thức, in trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, bản

kể của Nguyễn Đổng Chi, Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 2000.[8]

- Từ Thức in trong Nam Hải dị nhân liệt truyện, bản kể của Phan Kế

Bính, Nxb Trẻ tái bản năm 2001. [5]

Bản kể Sự tích động Từ Thức của Nguyễn Đổng Chi có thể tóm tắt như

sau: Đời nhà Trần ở châu Ái, có người làm tri huyện Tiên Du, tên là Từ Thức.

16

Cạnh huyện đường, có một ngôi chùa danh tiếng. Trong chùa trồng toàn một

loại cây mẫu đơn, đến kỳ hoa nở, người đến xem đông như hội. Một năm vào kỳ

hội xem hoa, có người con gái xinh đẹp, do không biết lệ chùa, rón tay ngắt một

bông hoa, bị người coi hoa bắt giữ. Động lòng thương, Từ Thức cởi áo ngoài

chuộc lỗi cho người con gái ấy. Tuy làm quan nhưng không thích cuộc sống bị

ràng buộc bởi khuôn phép, nịnh trên, nạt dưới, chỉ thích uống rượu, ngâm thơ,

thích đàn hát và vui thú non sông, Từ Thức bèn trả ấn tín, bá quan rồi về quê sau

đó chu du khắp nơi. Từ Thức vào một hang động, lạc tới cõi tiên ở cửa Thần

Phù. Chàng được bà tiên gả vợ cho. Đó chính là tiên nữ Giáng Hương, người

con gái được chàng cứu trong hội xem hoa ngày ấy và đang cất công đi tìm. Ở

cõi tiên chừng ba năm, Từ Thức nhớ quê nên xin về thăm một chuyến. Giáng

Hương rất buồn nhưng cũng đành phải thuận lòng. Thoắt chốc, Từ đã về đến nhà

nhưng từ ngày chàng lên cõi tiên đã gần 300 năm nên không ai biết chàng cả.

Buồn rầu vô hạn, Từ Thức muốn lên xe mây đi nhưng xe đã biến mất, chàng lại

khăn gói lần mò đến cửa Thần Phù, tìm lại hang cũ dẫn đến động tiên nhưng mịt

mù cây đá kín lối không thể tìm ra được nữa. Chàng bỏ đi, về sau không biết là

đi đâu. Từ đấy người ta gọi hang núi ở chỗ này là động Từ Thức.

Sự tích động Từ Thức có kết cấu hai phần: Từ Thức gặp tiên và bi kịch Từ

Thức. Nhân vật chính là Từ Thức và Giáng Hương, một số nhân vật phụ lướt

qua là hai cô tiên áo xanh, bà tiên áo trắng… Các tình tiết, sự việc về cơ bản đều

phát triển theo trật tự: giới thiệu về Từ Thức, Từ Thức cứu Giáng Hương ở hội

xem hoa, Từ Thức lạc vào động tiên, được bà tiên gả vợ, Từ Thức nhớ nhà trở

lại trần gian, Từ Thức không bao giờ trở lại cõi tiên được nữa. Sự tích động Từ

Thức là loại truyện cổ tích thần kỳ đậm chất kỳ ảo, hoang đường vì người trần

đến được cõi tiên, lấy vợ tiên, sống cùng tiên.

Là một truyện kể dân gian, được lưu truyền từ đời này sang đời khác,

mang đặc trưng cơ bản của tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ, truyện Sự tích động

Từ Thức đồng thời còn mang tính chất là một truyện kể địa danh. Truyện không

chỉ kể về mối lương duyên giữa một bên là người trần thế (Từ Thức) và một bên

là Tiên (Giáng Hương) - đây là một chủ đề về hôn nhân “Người - Tiên” rất phổ

17

biến trong truyện cổ tích thần kỳ - mà truyện còn nhằm giải thích tên một hang

động của xứ Thanh: “Động Từ Thức nằm trong rặng Tam Điệp hùng vĩ trấn giữ

mặt bắc của xứ Thanh. Cấu trúc địa tầng đá vôi đã ban tặng cho khu vực miền

Trung trở ra của Việt Nam rất nhiều hang động kỳ thú: Tam Thanh, Nhị Thanh

của Lạng Sơn, Hương Tích của Hà Tây, Tam Cốc - Bích Động của Ninh Bình,

Phong Nha - Kẻ Bàng của Quảng Bình v.v... và động Từ Thức của xứ Thanh viết

nên một huyền thoại giàu tính triết học nhân sinh, truyện Từ Thức gặp tiên” [

78].

Động Từ Thức ngày nay vẫn còn dấu tích của nàng Giáng Hương, bàn cờ

tiên, suối tiên, kho vàng, kho bạc, cổng trời, v.v... Đến động Từ Thức, đứng

trước cửa hang, phóng tầm mắt bao quát cả một vùng cảnh quan, du khách

không khỏi chạnh lòng ngẫm về câu chuyện cổ. Chính nơi này đây, chàng Từ

Thức đã gặp tiên và câu chuyện tình chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương,

câu chuyện người trần lấy tiên ấy đã trộn lẫn bao vui buồn khắc khoải này vẫn

luôn là một bí ẩn trong tiềm thức muôn đời.

Dãy Tam Điệp giống như con rồng đá hùng vĩ kéo từ tây sang đông, đầu

cất cao hướng ra biển Đông. Thời ấy, biển còn ăn sâu trong đất liền, cửa Thần

Phù nổi tiếng linh thiêng, kỳ thoại:

Lênh đênh qua cửa Thần Phù

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”

(ca dao)

Nguyễn Trãi từng cảm thán bằng thơ khi đứng trước cửa Thần Phù trong

một lần dẫn quân đi thị sát vùng cửa biển rằng:

Nguyên tác: 神符海口 (Thần Phù hải khẩu)

鯨噴浪吼雷南北,

槊擁山連玉後前。

Phiên âm:

Kình phun lãng hống lôi nam bắc,

18

Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền.

Dịch nghĩa:

Sóng tung như cá kình, sấm dậy ở phía nam cũng như phía bắc,

Núi liên tiếp như giáo ngọc dựng trước lẫn sau.

Dịch thơ:

Sóng dậy sấm gầm nam lẫn bắc

Núi liền giáo dựng trước cùng sau.

(Dịch thơ: Lê Cao Phan)

“Thần Phù một hải khẩu tại huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá.Theo sách

Đại Nam nhất thống chí, xưa đoàn chiến thuyền của vua Hùng Vương qua đây

bị gió chướng, nhờ một đạo sĩ tên là La Viên dùng phép làm biển lặng giúp vượt

qua. Khi trở về không thấy ân nhân nữa, vua bèn phong cho Người là Áp Lăng

Chân Nhân (vị chân nhân dằn được sóng) và lập đền thờ bên bờ cửa khẩu. Vua

Lê Thánh Tông về sau khi qua cửa Thần Phù cũng đã làm thơ lưu lại”[84].

Trong tưởng tượng của người xưa, động Từ Thức nằm giữa chốn mây trời

hùng vĩ, nếu gặp lúc bình minh thì nơi ấy chính là chốn Bồng Lai, chàng Từ

Thức đến đó như lạc vào cõi tiên. Vì vậy thật dễ hiểu tại sao người xưa đã tưởng

tượng ra nơi đó chính là chốn quần tiên hội ngộ, là hang động thứ sáu trong ba

mươi sáu hang động của Phù Lai.

1.2. Sơ lược về thể loại truyện truyền kỳ và truyện Từ Thức lấy vợ tiên

1.2.1. Sơ lược về thể loại truyện truyền kỳ

Theo tác giả Hoàng Phê, truyện truyền kỳ “có tính chất những truyện kỳ

lạ được lưu truyền lại” [56, tr 1087]. Các tác giả cuốn Giáo trình Văn học trung

đại Việt Nam đã khẳng định “Truyện truyền kỳ Việt Nam vốn có nguồn gốc từ

truyện truyền kỳ Trung Quốc nhưng lại có một quá trình hình thành và phát

triển nội sinh gắn liền với nền văn hoá và văn học dân tộc, đặc biệt là văn hoá,

văn học dân gian và văn xuôi lịch sử. Văn hoá dân tộc như cái nôi nuôi dưỡng

truyện truyền kỳ Việt Nam trong suốt quá trình hình thành, phát triển” [75, tr

189]. Truyện ban đầu được các nhà nho ghi chép lại sau đó nâng lên thành một

19

thể loại văn học bác học. Thể loại truyện này xuất hiện lần đầu ở Việt Nam vào

thế kỷ XIII, nhưng phải sang thế kỷ XVI, với sự có mặt của truyện Truyền kỳ

mạn lục của Nguyễn Dữ, thể loại truyền kỳ Việt Nam mới thực sự được khẳng

vị thế và mang một vị trí quan trọng trong văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung

đại, tiếp đến là Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm và Tân truyền kỳ lục của

Phạm Quý Thích. Tuy có nguồn gốc, ảnh hưởng từ truyện truyền kỳ Trung Quốc

đời Đường nhưng truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam vẫn có một quá trình

hình thành và phát triển riêng, mang vẻ đẹp bản sắc văn hoá, văn học dân tộc,

đặc biệt là vẻ đẹp riêng của văn học dân gian và văn tự sự trung đại Việt Nam.

Truyện truyền kỳ là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn

xuôi trung đại Việt Nam “những thành tựu nghệ thuật của thể truyện này đã góp

phần làm nên diện mạo cơ bản của bộ phận văn xuôi tự sự” [75, tr 186]. Truyện

cũng là “một thể loại văn xuôi nghệ thuật độc đáo, kể về những chuyện kỳ lạ

được truyền tụng; nhân vật chủ yếu là người, ma quỷ; chủ đề chính là tình yêu

nam nữ… Một trong những tiêu chí bắt buộc của các tác phẩm thuộc thể loại

này là yếu tố kỳ ảo phải trở thành đối tượng phản ánh của truyện” [75, tr 186].

Thể loại truyện truyền kỳ luôn hấp dẫn độc giả bởi sự có mặt của hai yếu

tố kỳ và thực cùng một thế giới nhân vật rất phong phú, có khi là người, có khi là

ma, quỷ… Để làm nên tính chất kỳ lạ trong truyện truyền kỳ, tiêu chí đầu tiên

không thể thiếu chính là yếu tố kỳ ảo, đây là đối tượng phản ánh chính của

truyện. Cho dù càng về sau này, do những thay đổi của hoàn cảnh lịch sử, xã hội

mà yếu tố kỳ ảo mờ nhạt hơn nhưng không thể mất đi vì nếu thiếu cái kỳ, truyện

dễ trở thành truyện ký và nếu thiếu cái thực truyện không thể vượt thoát khỏi

giới hạn của chí quái.

Chủ đề chính của truyện truyền kỳ là tình yêu nam nữ, ngoài ra cũng thể

hiện tình yêu nước, hay sự quan tâm đến số phận con người,… Đồng thời,

truyền kỳ cũng là một thể loại văn học nghệ thuật có sự kết hợp nhiều thể loại văn

chương: văn xuôi, văn vần, thơ, từ, phú, lục… Với đặc trưng này, nhà nghiên cứu

Trần Đình Sử đã khái quát: “Truyện truyền kỳ dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả

20

cảnh, tả tình thì dùng văn biền ngẫu, khi nhân vật bộc lộ cảm xúc thì thường làm

thơ” [65, tr 294].

Loại truyện truyền kỳ có dung lượng tương đương một truyện ngắn, kết

cấu mỗi truyện thường chia thành ba phần: phần mở đầu - giới thiệu danh tính,

nguồn gốc nhân vật; phần nội dung - kể lại hành trạng, cuộc đời nhân vật; phần

kết thúc - khẳng định tính chân thực của câu chuyện, đặc biệt phần lời bình nằm

cuối mỗi truyện cũng được xem là một bộ phận hữu cơ trong kết cấu chỉnh thể

của thể loại. Trong mỗi truyện truyền kỳ, tác giả đều gửi gắm tiếng lòng của

tầng lớp nho sĩ đương thời về việc khẳng định, bảo vệ đạo đức phong kiến, thể

hiện niềm khao khát một xã hội thịnh trị.

1.2.2. Nguyễn Dữ và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên

1.2.2.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Dữ và tập truyện Truyền kỳ mạn lục

Nguyễn Dữ người huyện Gia Phúc, Hồng Châu, nay là xã Đoàn Tùng,

huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Cụ thân sinh ra ông là Tiến sĩ, Thượng thư

Nguyễn Tường Phiêu, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1546) đời vua Lê Thánh

Tông. Trong bài “Tựa” cuốn Truyền kỳ mạn lục in năm 1547, tác giả Hà Thiện

Hán viết rằng: “Nguyễn Dữ lúc nhỏ rất chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm

ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau thi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ

thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức Tri huyện Thanh Tuyền

(nay là Bình Xuyên, Phú Thọ), nhưng chỉ được một năm thì xin từ quan về

phụng dưỡng mẹ già. Trải qua mấy năm dư không hề đặt chân đến chốn thị

thành, thế rồi ông viết ra tập Truyền kỳ mạn lục để “ngụ ý” cảm thán về thời

cuộc” [75, tr 197]. Trong cuốn sách Kiến văn tiểu lục, tác giả Lê Quý Đôn còn

cho biết thêm: “Vì ngụy Mạc cướp ngôi, ông thề không ra làm quan, ở thôn quê

dạy học trò, không bao giờ đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền kỳ mạn

lục” [75, tr 197]

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Dữ gắn liền với tác phẩm được cho là duy

nhất và độc đáo nhất là Truyền kỳ mạn lục. Mặc dù Nguyễn Dữ chỉ xem đây là

những ghi chép theo cảm hứng của ngòi bút “mạn lục” không coi đó là một sáng

21

tác văn học thực thụ, nhưng thực tế tác phẩm chính là áng văn xuất sắc thời

trung đại Việt Nam, bởi nó đã được độc giả mọi thời đón nhận như một tác

phẩm văn học bác học thực sự. Điều này đã minh chứng cho tài năng và nhân

cách lớn Nguyễn Dữ.

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là tập truyện gồm 20 truyện được chia

thành 4 tập, mỗi tập 5 truyện. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng

“Nguyễn Dữ làm quan và cáo quan về ở ẩn rồi viết Truyền kỳ mạn lục trong

khoảng thời gian trước năm 1527, dưới thời Lê” [28, tr 123, 134]. Ngay từ khi

ra đời, tác phẩm đã được đón nhận, sau này trở thành đối tượng nghiên cứu đầy

hứng thú đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn

Quốc, Nhật Bản.

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có mối quan hệ khá mật thiết với văn

học dân gian, văn xuôi lịch sử và những ảnh hưởng của văn học nước ngoài.

Một số cốt truyện trong Truyền kỳ mạn lục chủ yếu được bắt nguồn từ những

câu chuyện lưu truyền trong dân gian song bản chất của nó vẫn có những ảnh

hưởng rộng lớn tới đời sống xã hội. Tác phẩm này được đánh giá là một viên

ngọc lung linh của thể loại văn xuôi trung đại Việt Nam. Sự có mặt của nó đã

khẳng định sự trưởng thành của văn xuôi trung đại dân tộc từ văn xuôi mang

nặng tính chức năng “văn dĩ tải đạo” sang văn xuôi giàu tính nghệ thuật. Ra đời

vào giai đoạn văn, sử, triết bất phân, bản chất của quá trình sáng tạo văn học

không phải là hành trình đi tìm cái mới, sáng tạo ra hình thức mới để tái hiện

thực tế mà là sự thể nghiệm về đạo, hướng về đạo và đề cao đạo lý. Truyền kỳ

mạn lục đã cho thấy bước chuyển mình thoát khỏi những ảnh hưởng đậm nét

của văn học dân gian và văn xuôi lịch sử để chuyển sang văn xuôi tự sự. Tác giả

Nguyễn Đăng Na trong: Văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam, tập 1, truyện ngắn,

Nxb Giáo dục năm 2000, đã khẳng định: “Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ đã

phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ thuật: văn học lấy

con người làm đối tượng và trung tâm phản ánh” [47, tr 19].

22

Thế kỷ XVI, ngay sau khi ra đời, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã

được Nguyễn Thế Nghi dịch sang chữ Nôm để độc giả có thể thuận tiện trong

việc tìm đọc. Nguyễn Dữ đã mạnh dạn đặt bên cạnh những khuôn mẫu đạo đức

vốn được coi là “khuôn vàng thước ngọc” của xã hội phong kiến một luồng tư

tưởng mới mang theo khát khao bản năng của con người. Nhiều vấn đề mang

tính chất cá nhân, riêng tư, được đề cập như: số phận con người, tình yêu tự do,

vấn đề tình dục trong tình yêu…, vì đây là thời kỳ đầy biến động của xã hội

phong kiến Việt Nam, đặc biệt là cuộc nội chiến Lê – Mạc đã làm cho lòng

người hoang mang, thất vọng. Với Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, người

đọc có thể nhận ra chủ trương tìm một giải pháp cho xã hội nên đặt ra vấn đề

thân phận bi kịch của con người. Nhưng vì nhiều lý do chủ quan và khách quan

mà cuộc tìm kiếm của ông đã rơi vào bế tắc.

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, hầu hết các truyện được viết bằng văn

xuôi Hán có xen những bài thơ, ca từ, biền văn. Cuối mỗi truyện đều có lời bình

của tác giả trước những sự việc và nhân vật để thể hiện thái độ, chính kiến và tình

cảm của nhà văn. Duy chỉ có Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (truyện 19) là

không có lời bình. Không gian, thời gian nghệ thuật trong hầu hết các truyện

truyền kỳ đều lấy ở các thời Lý- Trần, Hồ, Minh, Lê sơ trên địa bàn Nghệ An trở

ra Bắc. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện trong dân gian, cũng có

trường hợp là những truyền thuyết về các vị thần. Thế giới nhân vật của Truyền

kỳ mạn lục rất phong phú: thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ… Tác giả

truyện truyền kỳ thường thông qua thế giới nhân vật này để gửi gắm thái độ phê

phán sự nhiễu nhương, rối loạn của nền chính trị đương thời – một xã hội hắc

ám, đạo đức băng hoại, xuống cấp: vua chúa bù nhìn, dâm loạn; bề tôi thoán

đoạt; bọn quan lại ỷ quyền cao chức trọng thoả sức vơ vét, nhiễu sách dân

lành,…; tệ nạn nảy sinh đến mức sư sãi cũng đắm chìm trong sắc dục, thánh

thần thay vì hiển linh giúp dân cũng trở thành yêu quái hại dân khiến cho muôn

dân rơi vào cảnh khốn cùng. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ không chỉ tái

hiện lại một xã hội thối nát, nhiễu nhương, không chỉ chú trọng vào việc lên án,

23

phê phán mà trong mỗi trang viết của ông luôn thấm đẫm tinh thần nhân đạo,

nhân văn sâu sắc, nhất là khi viết về những người phụ nữ có số phận bé nhỏ, bất

hạnh, chịu nhiều khổ đau hay còn là những người trí thức (nho sĩ) đương thời.

Ông luôn dành cho họ sự trân trọng, ngợi ca nhân cách cứng cỏi, thanh cao, mặc

dù không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, phải sống “ẩn dật” song

về bản chất vẫn là sự gắn bó chặt chẽ với cuộc đời. Phải chăng, đây là loại hình

nhân vật mang hình bóng và tâm sự của chính Nguyễn Dữ. Tác giả Bùi Duy Tân

trong bài viết “Truyền kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học viết

bằng chữ Hán”, in trong Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ

XVIII, Tập II, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, đã khẳng định:

“Truyền kỳ mạn lục tuy có vẻ là những “truyện kỳ lạ” xảy ra hàng trăm năm về

trước, nhưng về thực chất lại phản ánh được những phần sâu sắc của xã hội

đương thời. Và trên thực tế thì đằng sau thái độ dè dặt, khiêm tốn, Nguyễn Dữ

rất tự hào về tác phẩm của mình, tác phẩm mà qua đó ông đã bộc lộ tâm tư, thể

hiện hoài bão, phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm về những vấn đề lớn của

xã hội, của con người trong khi xã hội phong kiến đang suy thoái” [67, tr 242].

Theo dòng thời gian, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ luôn đón nhận

được sự quan tâm và đánh giá rất cao từ phía độc giả và giới nghiên cứu bởi giá

trị đích thực của nó. Ẩn sau lớp vỏ hình thức kỳ ảo lại là những vấn đề nhân

sinh, những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn được tác giải cô nén thông qua số

phận các nhân vật trong truyện. Vì vậy, từ mỗi câu chuyện truyền kỳ, Nguyễn

Dữ đã tái hiện lại hiện thực cuộc sống của một giai đoạn lịch sử đầy bi thương

của dân tộc Việt Nam thế kỷ XVI.

1.2.2.2. Truyện Từ Thức lấy vợ tiên trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ

Truyện Từ Thức lấy vợ tiên, là câu chuyện thứ 9 trong Truyền kỳ mạn lục

của Nguyễn Dữ. Câu chuyện về chàng Từ Thức sống vào đời nhà Trần, niên

hiệu Trần Thuận Tông (1388-1389), người Hóa Châu (Thanh Hoá ngày nay), vì

có phụ ấm được bổ làm quan Tri huyện Tiên Du (Tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Bên

cạnh huyện đường có một tòa chùa danh tiếng. Trong chùa có một cây mẫu đơn,

24

đến kỳ hoa nở, người đến xem đông như hội. Tháng 2 Bính Tý (1396) người ta

thấy có người con gái xinh đẹp tuyệt vời đến xem hội, vin vào cành hoa không

may làm gãy, bị người coi hoa bắt giữ. Động lòng thương, Từ Thức cởi áo cừu

gấm trắng chuộc lỗi cho người con gái ấy. Mọi người khen quan huyện là một

người hiền đức. Tuy làm quan nhưng không mẫn cán, Từ Thức thường bị quan

trên quở trách. Lại thêm tính hay rượu, thích đàn, ham thơ, mến cảnh, Từ Thức

bèn trả ấn tín, từ quan bỏ về.

Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống Sơn (Thanh Hóa ngày nay), nên

Từ Thức đã dựng lều cỏ để ở. Ngao du ở đâu cũng mang theo một bầu rượu, một

cây đàn, mấy quyển thơ của Đào Uyên Minh, (là thi gia đời Đông Tấn. Từng

làm Huyện lệnh Bành Trạch, sau vì không chịu luồn cúi nên treo ấn từ quan) hễ

gặp chỗ nào thích ý như núi Chích Trợ, động Lục Vân, sông Lãi, cửa Nga

(những thắng cảnh của Thanh Hóa) thì ngả rượu ra uống và đều có thơ đề vịnh.

Một hôm Từ Thức dậy sớm trông ra bể Thần Phù (cửa sông ra bể, thuộc huyện

Nga Sơn, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa) ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám

mây ngũ sắc đùn đùn kết lại như một đóa hoa sen mọc lên, vội chèo thuyền ra

thì thấy một trái núi rất đẹp. Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao

vút nghìn trượng, sừng sững đứng thẳng. Chợt thấy ở trên vách đá bỗng nứt toác

ra một cái hang. Từ vén áo đi vào, đi mò độ hơn một dặm thì thấy có đường đi

ngoi lên. Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng sủa. Chung quanh toàn là những lâu

đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ, nở đầy trước cửa.

Từ Thức nghĩ nếu không phải là chỗ đền đài thờ phụng, tất là cái xóm của

những bậc lánh đời, như những nơi núi Thứu nguồn Đào (nơi ẩn dật, hay cõi

tiên). Từ đi theo hai cô tiên áo xanh đến gặp bà tiên áo trắng và được biết nơi

đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ 6 trong 36 động, bồng bềnh ở ngoài bể cả,

dưới không có bám bíu, như hai núi La Phù tan hợp theo với sóng rợn. Bà tiên

chính là địa tiên ở Nam nhạc, là Ngụy phu nhân, bà có con gái tên là Giáng

Hương, ngày trước gặp phải cái nạn trong khi đi xem hoa, nhờ chàng cứu giúp,

25

ơn ấy không quên, nay muốn cho nó kết duyên để báo đền ơn trước. Ngay đêm

ấy tiệc cưới diễn ra linh đình có quần tiên đến dự tiệc.

Từ Thức ở cõi tiên thấm thoắt đã một năm. Một hôm, Từ nói với Giáng

Hương: Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo

hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về? Giáng Hương bùi ngùi không nỡ

dứt, nàng khóc mà nói: Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng

quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng

về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước

nữa. Khi chia biệt nàng đưa cho chàng một bức thư viết lụa. Chàng đi chỉ thoắt

chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều

không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc

mầu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy

có người nói: Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như

ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên

Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi. Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi

ngùi, muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim loan mà

bay mất. Mở thư ra đọc mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những

lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi

sau không không biết đi đâu mất.

Truyện Từ Thức lấy vợ tiên trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là

một trong những câu chuyện lấy cốt truyện từ truyện cổ tích thần kỳ Sự tích

động Từ Thức. Nhưng không đơn thuần chỉ là câu chuyện tình yêu đẹp giữa

người trần tục (Từ Thức) với một nàng tiên (Giáng Hương), hay chỉ để giải thích

tên một hang động là Động Từ Thức hay còn gọi là Động Bích Đào như đã nói ở

phần trên, mà còn phản ánh những vấn đề của cuộc sống nhân sinh. Người đọc

có thể dễ dàng nhận thấy sự mượn có ý thức không hề thụ động của Nguyễn Dữ

đối với những cốt truyện có nguồn gốc từ văn học dân gian nói chung và truyện

cổ tích thần kỳ Sự tích động Từ Thức nói riêng. Không chỉ đơn thuần phản ánh

quan niệm về hạnh phúc của con người trần tục, truyện còn đề cập đến tình yêu,

26

hạnh phúc hay sầu muộn, khổ đau của tiên nữ Giáng Hương: được gặp lại người

mình yêu vẻ mặt nàng hồng hào, tươi tắn, khi phải từ biệt chồng, duyên tình chia

cắt nàng cũng đau khổ, ngậm ngùi. Tiên nữ Giáng Hương cũng có tình yêu,

cũng có nỗi buồn đau của con người trần thế. Trái tim nàng cũng mang những

khát khao yêu đương, khát khao hạnh phúc hay những đau khổ nhớ nhung.

Giáng Hương phải chăng cũng chính là biểu tượng của vẻ đẹp tâm hồn, của khát

vọng tình yêu tự do, hạnh phúc trọn vẹn và số phận của người phụ nữ mọi thời.

Ngoài ra, truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ còn đề cập đến cuộc

đời của kiểu nhân vật dật sĩ (người ẩn dật). Thể hiện khá rõ thái độ bất hợp tác

với triều chính, phê phán triều đình không biết dùng người hiền để mang lại ấm

no, hạnh phúc cho dân, cho nước… họ thường tìm cách sống lánh đời, hòa nhập

trong thiên nhiên, chọn cách sống làm bầu bạn với cỏ cây, mây nước, chim

muông,… một không gian thiên nhiên tĩnh lặng, trong sạch, thanh bình. Người

dật sĩ đã chọn cách sống hoà mình trong không gian ấy để chối bỏ lợi danh, để

được sống ung dung, tự tại, được sống là chính mình: trong trắng, liêm khiết,

đạo cao, đức trọng. Câu chuyện của chàng Từ Thức không chịu “buộc mình

trong áng lợi danh” đi theo tiếng gọi của thiên nhiên, trăng nước, mây trời... Sau

đó nhờ thiên duyên với Giáng Hương mà được lên cõi tiên và sống cuộc sống

nơi tiên giới, giống như một thể nghiệm về một cuộc sống khác của ẩn sĩ lánh

đời lúc bấy giờ.

Từ Thức tuy đã tìm thấy hạnh phúc nơi tiên đảo cùng tiên nữ Giáng

Hương, nhưng dù tấm thân có sống nơi tiên cảnh thì tấm lòng vẫn không thôi

ngóng về cuộc sống trần gian. Vì vậy, chàng đã quyết quay trở về cõi trần để

thoả nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân và hẹn ngày tái ngộ, sum vầy cùng

Giáng Hương nơi tiên cảnh, ai ngờ lần ra đi này cũng là lần cách biệt, không thể

quay trở lại của chàng. Một năm trên trời bằng trăm năm dưới trần gian, về tới

quê hương nhưng cảnh vật, làng quê cũng như con người đều đổi khác. Phải

chăng, thể hiện hình tượng nhân vật như vậy, Nguyễn Dữ đã bộc lộ sự lúng túng

trong việc tìm kiếm một cách sống cho dật sĩ cũng như cho chính ông đương

27

thời. Chàng Từ Thức mang hình bóng và tâm sự của Nguyễn Dữ có thể cộng tác

với triều chính song lựa chọn con đường thoái ẩn lại là một lựa chọn tốt hơn với

bản thân trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Từ Thức có lên cõi tiên rồi cuối

cùng cũng trở về với trần tục. Như vậy, trong sâu thẳm khát vọng của dật sĩ, họ

vẫn ngóng trông về thế tục - đó mới là nơi họ cháy hết mình cho khát vọng và lý

tưởng sống. Song do hoàn cảnh xã hội mà họ không thể tiếp tục cộng tác. Thái

độ từ quan - quy ẩn của Nguyễn Dữ có thể nói là sự kết tinh hình bóng và tâm sự

của kẻ sĩ Việt Nam trước ông, sau ông và đương thời.

Truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ đã vay mượn cốt truyện của

truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức. Tuy nhiên, tác giả truyện truyền kỳ này đã

thể hiện rõ sự sáng tạo khi mở rộng chủ đề và đề cập đến vấn đề thân phận của

người trí thức trong xã hội phong kiến chuyên quyền đương thời trong truyện, ở

đó họ không có chỗ dung thân và ở đó họ không thể tự do thực hiện được lý

tưởng của mình. Đúng là “Dưới ngòi bút của nhà văn họ Nguyễn, cái thần kỳ,

cổ tích đã được nhào nặn để thành chất liệu hiện thực, gắn liền với đời thường”

[75, tr 201].

Tựu chung lại, chúng ta có thể nói lần đầu tiên trong văn học Việt Nam,

một phương thức nghệ thuật mới thể hiện một nội dung thời đại đã được khẳng

định ở Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Ở tác phẩm này, nội dung phản ánh

thời đại ra đời dưới phương thức kỳ ảo như là một yếu tố nghệ thuật phục phụ

đắc lực cho tư tưởng tác giả. Điều đặc biệt quan trọng là chủ nghĩa nhân văn vốn

đã manh nha trong văn học giai đoạn trước, đến giai đoạn này Nguyễn Dữ đã kế

thừa và tiếp thu một cách tích cực. Kế thừa và sáng tạo từ kết cấu cốt truyện, đề

tài, môtip của văn học dân gian, nhà văn đã chứng minh được vị trí và vai trò,

sức mạnh, tầm quan trọng của con người trong vũ trụ. Ông cũng là một trong

những nhà văn đầu tiên đặt vấn đề tình yêu nam nữ tự do, khát vọng hạnh phúc

tự do, khát vọng sống tự do vượt ra ngoài khuôn khổ của lễ giáo phong kiến.

Với những thành công về nhiều phương diện kể trên, Truyền kỳ mạn lục của

Nguyễn Dữ luôn là đối tượng thú vị và hấp dẫn trong các đề tài nghiên cứu.

28

1.3. Vấn đề tác giả và thể loại truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện

1.3.1. Sơ lược về thể loại truyện thơ Nôm

Ở Việt Nam, truyện thơ Nôm có hình thức đầu tiên là những bài hát tự sự

của các nghệ nhân hát rong, những bài hát tự sự này phần lớn do các nghệ nhân

sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc rút ra từ một truyện

thơ Nôm đã có trước. Càng về sau, những bài hát này càng được bồi bổ thêm về

mặt nội dung cũng như nghệ thuật và đến một lúc nào đó bài hát đã được ghi

vào trong sách, từ đó chính thức trở thành một truyện thơ Nôm. Ðể tuyên truyền

đạo Phật cho các tín đồ mà phần đông là không biết chữ, một số nhà sư có học

đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh Phật, hình thức này ngày

càng phát triển và nhiều truyện thơ Nôm đã xuất hiện theo con đường này. Tuy

nhiên, giai đoạn đầu truyện thơ Nôm truyền khẩu và truyện thơ Nôm viết cùng

tồn tại song song. Cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định được truyện thơ

Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào trong lịch sử văn học vì hầu hết các truyện

thơ Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng tác (Từ Thức tân

truyện là một ví dụ). Nguyên nhân là do tâm lý coi thường các sáng tác bằng chữ

Nôm, xem đây là loại văn học nhảm nhí, nôm na, mách qué, cho nên khi các

sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác giả của chúng không được chú ý đến và dần

dần bị quên lãng, hoặc do sự cấm đoán, thái độ thù địch của giai cấp thống trị

nên nhiều tác giả đã không dám lưu danh trong sáng tác, hoặc do chính nguyên

nhân phát triển văn học, do trước khi được ghi chép bằng chữ quốc ngữ, truyện

thơ Nôm đã được lưu hành trong nhân dân chủ yếu là bằng miệng, qua một thời

gian dài lưu hành từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác

nhiều truyện thơ Nôm dần dần mất tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm

khuyết danh, có truyện đã trở nên rất gần gũi với các truyện cổ dân gian như Từ

Thức tân truyện.

Là loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương

đối rộng, được sáng tác bằng chữ Nôm, hầu hết các tác phẩm được viết theo thể

lục bát- thể thơ dân tộc, cũng có một số ít tác phẩm viết theo thể thất ngôn bát cú

29

(thơ Ðường luật). Khoảng thế kỷ XV bộ phận văn học Nôm ra đời và phát triển

cực thịnh vào thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Theo khảo sát truyện thơ Nôm lục

bát của Phùng Khắc Khoan được viết từ thế kỷ XVI, được nhắc đến nhiều là tác

phẩm Lâm tuyền vãn, gồm 185 câu, gắn với thời gian tác giả bị lưu đày. Đến thế

kỷ XVII, xuất hiện nhiều hơn các tác phẩm truyện thơ Nôm lịch sử và diễn ca

tôn giáo như các sự tích về Phật Bà, Phật Mẫu, Phật Bà Quan Âm Thị Kính…,

Đặc biệt là sự xuất hiện của những truyện thơ Nôm về đề tài xã hội như Thoại

Khanh – Châu Tuấn, Tống Trân – Cúc Hoa… Phần lớn các truyện thơ Nôm lưu

hành hiện nay cũng ra đời trong hai thế kỷ XVIII - XIX. Sự xuất hiện và chiếm

lĩnh vị thế cao của thể loại truyện thơ Nôm là minh chứng sống chứng minh cho

thể thơ lục bát của dân tộc đã phát huy được ưu thế của nó trong việc thuật, kể

lại các sự kiện về cuộc đời nhân vật và tỏ ra rất thích hợp để dễ dàng lưu truyền.

Có thể nói đây là hai thế kỷ tạo dấu ấn rực rỡ nhất của thể loại truyện thơ Nôm.

Những truyện thơ Nôm có tên tác giả như Truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự,

truyện Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm

Thái… cũng được đón nhận và lưu truyền mạnh mẽ. Đây là lúc những vấn đề về

thực trạng xã hội hay những vấn đề về số phận con người được ký thác nhiều

nhất trong các sáng tác truyện thơ Nôm. Đến cuối thế kỷ XIX, sang đầu thế kỷ

XX việc sáng tác truyện thơ Nôm dần dần chấm dứt “Truyện thơ Nôm từ giã

văn đàn, kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình” [50; tr 117], vì thể loại văn xuôi

mới ra đời đã đủ sức thay thế nó.

Về việc phân loại truyện thơ Nôm cũng có nhiều tiêu chí khác nhau: dựa

vào nguồn gốc, đề tài của truyện hay dựa vào nội dung và hình thức của truyện.

Loại truyện có đề tài, cốt truyện từ các truyện cổ dân gian có các truyện như

Trương Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh… Loại truyện lấy đề tài, cốt truyện từ văn

học Trung Quốc có các truyện như Truyện Hoa Tiên, Nhị độ mai, Phan Trần…

Loại truyện lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích

có thật ở Việt Nam có các truyện như Tống Trân - Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ...

Dựa vào nội dung và hình thức, có hai loại là truyện thơ Nôm bình dân do các

30

nho sĩ bình dân sáng tác và truyện thơ Nôm bác học do các nhà nho thuộc tầng

lớp trên sáng tác. Loại truyện thơ Nôm bình dân có nội dung mang đậm tính

chất quần chúng, với nghệ thuật mộc mạc, giản dị; loại truyện thơ Nôm bác học

có phần phức tạp hơn truyện thơ Nôm bình dân, nghệ thuật điêu luyện hơn

truyện thơ Nôm bình dân. Truyện thơ Nôm hữu danh (còn tên tác giả) ví như

Truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, loại này còn lại không nhiều. Truyện thơ

Nôm hữu danh phần lớn là truyện thơ Nôm bác học. Truyện thơ Nôm khuyết

danh (không còn tên tác giả). Phần lớn các truyện thơ Nôm khuyết danh là

truyện thơ Nôm bình dân.

1.3.2. Về đặc điểm truyện thơ Nôm bình dân

1.3.2.1. Đặc điểm nội dung

Truyện thơ Nôm bình dân có một phong cách gần giống với truyện cổ dân

gian, nhất là cổ tích thần kỳ. Phần lớn các truyện thơ Nôm bình dân đều mượn

kết cấu, cốt truyện của truyện cổ tích thần kỳ và bảo lưu khuôn dạng của truyện

cổ. Cơ sở cốt truyện là xung đột xã hội, xung đột giữa thiện, ác nhưng các

truyện thơ Nôm bình dân chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc,

chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến, có kết cấu theo đường thẳng và

kết thúc có hậu, tình tiết phát triển theo sự phát triển của nhân vật chính. Cũng

như truyện cổ tích, truyện thơ Nôm được nâng đỡ bằng đôi cánh của sự tưởng

tượng, của sức lãng mạn bay bổng, kỳ ảo. Yếu tố kỳ ảo trong truyện thơ Nôm

cũng chính là vũ khí đấu tranh bằng tinh thần của con người trong những hoàn

cảnh nghiệt ngã nhất.

Việc vay mượn cốt truyện của truyện thơ Nôm rất phong phú, có khi vay

mượn từ những tích cũ, truyện cũ được lưu truyền trong dân gian như truyện

Thạch Sanh, Trương Chi… Có khi vay mượn cốt truyện trong kho tàng tiểu

thuyết cổ điển Trung Quốc như Song Tinh, Hoa Tiên, Nhị độ mai, Đoạn trường

tân thanh… Hay từ các truyện chí quái, truyền kỳ Việt Nam như Truyện Từ

Thức, Bích Câu kỳ ngộ… Hiện tượng vay mượn này là không tránh khỏi bởi do

quá trình phát triển và giao lưu với văn hoá, văn học khu vực. Đặc biệt có những

31

truyện thơ Nôm được ra đời từ chính sự hư cấu cảnh ngộ cuộc đời tác giả, hay từ

chính thực trạng xã hội tác giả đang sống như truyện Chàng Lýa, Lục Vân

Tiên,… Đây là một trong những nguyên nhân làm nên sự phong phú, đa dạng về

phương diện nội dung của truyện thơ Nôm.

Truyện thơ Nôm bình dân đặt ra các vấn đề trung tâm để phán ánh là cuộc

đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh của những người bị áp bức chống cường

quyền bạo chúa, tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến trên bước

đường suy vong của nó, bảo vệ tình yêu thủy chung, bảo vệ hạnh phúc gia đình,

bảo vệ nhân phẩm, đề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động… Ngoài

ra các tác giả truyện thơ Nôm bình dân cũng thường đưa ra những cách giải

quyết tích cực, tiến bộ các vấn đề xã hội… Đây là những đặc điểm chính về nội

dung của truyện thơ Nôm bình dân, những đặc điểm này cũng đã nói lên rằng

truyện thơ Nôm bình dân có một nội dung gần gũi với quan niệm đạo đức, thẩm

mỹ của quần chúng lao động.

Nhằm mục đích tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, vạch rõ bản chất của

xã hội phong kiến, nói lên những nỗi thống khổ của quần chúng lao động, tác

giả của truyện thơ Nôm bình dân đã phơi bày chân dung thực vốn nhơ bẩn của

giai cấp thống trị. Có thể nói, cùng với bộ phận văn học dân gian, truyện thơ

Nôm bình dân đã giúp chúng ta tìm hiểu thêm được nhiều mặt thuộc về bản chất

của xã hội phong kiến. Vì lẽ đó những truyện thơ Nôm khuyết danh đã xây dựng

được một hệ thống nhân vật phản diện từ vua chúa, quan lại, bọn nhà giàu ở

nông thôn cho đến cả thần thánh (những thần thánh tàn ác). Qua hệ thống nhân

vật phản diện này các tác giả đã tố cáo và vạch trần bản chất xấu xa của giai cấp

bóc lột, áp bức đồng thời nói lên tình trạng thống khổ của các tầng lớp nhân dân

với một thái độ đồng tình sâu sắc.

Nếu truyện thơ Nôm bác học thường coi vua chúa như những thần tượng

thiêng liêng tôn quý, thì truyện thơ Nôm bình dân lại coi vua chúa chỉ là những

tên hôn quân, bạo chúa, chúng sẵn sàng ép duyên trắng trợn, chúng đã ép các tân

khoa trạng nguyên phải bỏ vợ để lấy con gái mình, hay những người con gái đẹp

32

như Ngọc Hoa bị ép phải bỏ chồng để lấy vua (Phạm Tải – Ngọc Hoa). Quan lại

trong truyện thơ Nôm bình dân hiện lên chỉ là những kẻ bất tài, vô dụng, chỉ giỏi

việc xu nịnh vua, giỏi ức hiếp dân lành (truyện Phương Hoa). Bọn nhà giàu ở

nông thôn như bọn phú ông, trưởng giả với tâm lý tham tiền chúng có thể làm

tất cả, coi con gái như một món hàng gả bán (truyện Tống Trân - Cúc Hoa).

Ðồng thời tác giả của bộ phận văn học này đã nói lên được nỗi thống khổ của

quần chúng lao động khi hạnh phúc tan vỡ, tính mạng bị đe dọa với một thái độ

đồng tình sâu sắc.

Ðề cao những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động, truyện thơ

Nôm bình dân đã xây dựng các nhân vật chính là những người sẵn lòng yêu

thương, cưu mang những con người sa cơ, lỡ vận, có tấm lòng chí hiếu đối với

mẹ chồng, nổi bật nhất vẫn là tình cảm, tình yêu của những cặp vợ chồng, họ

yêu thương thắm thiết và chung thủy hết mực với nhau. Sự chung thủy của cặp

vợ chồng Phạm Công - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa đã giúp họ vượt qua mọi

thử thách, mọi cảnh ngộ éo le mà xã hội phong kiến đã bày ra, giúp họ vượt lên

trên sự cám dỗ của giàu sang, phú quý và luôn đứng vững trước sự đe dọa của

cường quyền, bạo lực.

Ðề cao quần chúng lao động, bộ phận văn học này đặc biệt chú ý vào

việc đề cao vẻ đẹp ngoại hình, vẻ đẹp phẩm hạnh… của người phụ nữ. Các nhân

vật phụ nữ xuất hiện trong các truyện thơ Nôm bình dân với một tư thế của

người vươn lên làm chủ vận mệnh. Cúc Hoa, Ngọc Hoa đã cương quyết lấy

người con trai mình yêu, đến với họ bằng tấm lòng yêu thương và thông cảm

cho dù chàng trai đó là kẻ ăn mày nghèo khổ, bần hàn. Một số nhân vật nữ

không chỉ dám chủ động xây dựng hạnh phúc mà còn tích cực đấu tranh để bảo

vệ hạnh phúc và tình yêu đẹp của mình.

Tác giả của những truyện thơ Nôm bình dân có thể là tầng lớp nhà nho

bình dân, hoặc những nho sĩ ẩn dật, lánh đồi. Họ có cuộc sống khá gần gũi với

quần chúng nhân dân nên rất hiểu người dân. Bởi vậy bên cạnh việc phản ánh

nỗi thống khổ của quần chúng lao động họ luôn tìm hướng giải quyết tích cực để

33

những người lương thiện luôn chiến thắng các thế lực bạo tàn, đồng thời phản

ánh những ước mơ đẹp, tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt của nhân dân vào

sự chiến thắng của chính nghĩa đối với hung tàn, của cái thiện đối với cái ác.

Đặc biệt trong các sáng tác của mình họ luôn tiếp thêm niềm tin vào sự sống cho

những người lao động trong xã hộ xưa, tìm đến những sáng tạo nghệ thuật này

một phần cũng vì lý do trên.

Tuy nhiên so với văn học dân gian, truyện thơ Nôm bình dân cũng có một

số nét khác biệt, sự khác biệt đã thể hiện ở phạm vi phản ánh rộng hơn các câu

chuyện cổ. Tác giả truyện thơ Nôm bình dân đã chú ý mô tả một số cảnh sinh

hoạt xã hội và con người, yếu tố trữ tình ít nhiều đã có vị trí đáng kể, thỉnh

thoảng có tác giả đã chú ý miêu tả tâm trạng của nhân vật. Tác giả truyện thơ

Nôm bình dân không còn dùng những lời bình luận, triết lý về cuộc đời của tác

giả ở đầu hay cuối truyện như truyền kỳ.

1.3.2.2. Đặc điểm nghệ thuật

Kết cấu truyện thơ Nôm bình dân cũng như kết cấu truyện thơ Nôm bác

học, được xây dựng theo mô hình ổn định: Gặp gỡ - tai biến – đoàn tụ. Nhân vật

xuất hiện số lượng nhiều hay ít tuỳ theo phạm vi hiện thực, cuộc sống được tác

giả phản ánh trong tác phẩm. Vì vậy có những tác phẩm có tới 50 nhân vật như

Phạm Công – Cúc Hoa, cũng có tác phẩm chỉ có 3 nhân vật như Bích Câu kỳ

ngộ. Hầu hết nhân vật trong truyện thơ Nôm được chia ra thành hai tuyến Thiện

– Ác, cũng có những tác phẩm chỉ có nhân vật chính diện, không có nhân vật

phản diện như: Phan Trần, Bích Câu kỳ ngộ, Từ Thức…

Trong Truyện thơ Nôm, các nhân vật nam thường ít được chú trọng trong

miêu tả ngoại hình, nhưng thường là người có học thức, thành đạt, nhân vật nữ

thường được chú trọng miêu tả kĩ về ngoại hình theo lối ước lệ, công thức và

mang tính quy phạm, nhân vật nữ trong truyện thơ Nôm không chỉ đẹp người

mà còn đẹp nết, rất thuỷ chung và sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để

đạt được hạnh phúc. Tính cách của nhân vật truyện thơ Nôm được thể hiện qua

34

ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật. Do đó, ngôn ngữ độc thoại, đặc biệt là đối thoại

của nhân vật chiếm số lượng rất nhiều trong tác phẩm truyện thơ Nôm.

Về ngôn ngữ truyện thơ Nôm, hầu hết mỗi tác phẩm đều cùng tồn tại song

song hai hệ thống ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Cũng có những tác

phẩm ngôn ngữ nghệ thuật đạt đến độ chính xác, tinh vi như tác phẩm Đoạn

trường tân thanh của đại thi hào Nguyễn Du.

Nhìn chung, do những hạn chế của lịch sử cho nên các tác giả truyện thơ

Nôm bình dân chưa nhìn thấy ở hiện thực động lực để giải quyết các vấn đề thời

đại đặt ra, cho nên trong đấu tranh họ phải nhờ đến những lực lượng siêu hình

như thần Phật giúp đỡ. Nhưng thần Phật cũng chỉ có mặt để cho con người chiến

đấu hết mình với hoàn cảnh. Tuy còn có một số hạn chế nhất định nhưng truyện

thơ Nôm bình dân vẫn là một bộ phận văn học có giá trị, là vốn quý trong gia tài

văn hóa chung của dân tộc. Bộ phận văn học này đã đóng góp tiếng nói vào loại

hình tự sự của nền văn học nước nhà. Cùng với các bộ phận truyện thơ Nôm

khác, bộ phận truyện thơ Nôm khuyết danh đã tạo nền để trên cơ sở đó xuất hiện

kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.

1.3.3. Về truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện.

Văn bản về chuyện Từ Thức hiện có:

- Từ Thức tân truyện, Quan Văn Đường tàng bản, khắc in năm Duy Tân

Nhâm Tí (1912), tại Thư viện Khoa học Trung ương, ký hiệu AN. 216. Truyện

dài 608 câu lục bát.

- Từ Thức tân truyện (quốc ngữ), do Nguyễn Ngọc Xuân phiên âm, (nhà

in Văn Minh, Hà Nội xuất bản năm 1919).

- Truyện Từ Thức (quốc ngữ), nhà xuất bản Văn học in năm 1963, do Vũ

Ngọc Khánh soạn.

- Từ Thức tiên hôn, Tác phẩm xuất bản bằng quốc ngữ sau năm 1920, do

Lê Khắc Khuyến, hiệu Nguyệt Đình, người xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hoá,

Thanh Hoá soạn.

35

- Truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện in trong Từ Thức tân truyện, Từ

Thức tiên hôn, do Mai Thị Ngọc Chức sưu tầm giới thiệu đã khẳng định: “Đây

là một tác phẩm khuyết danh, chưa biết tác giả là ai và viết vào thời kỳ nào,

song chắc chắn là khoảng thế kỷ XIX về sau (vì có một số câu ảnh hưởng Truyện

Kiều, nội dung khác với truyện kể dân gian” [11, tr 6].

Truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện gồm 608 câu thơ lục bát. Về cơ bản

tác phẩm vẫn giữ lại cốt truyện cổ dân gian và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ

tiên của Nguyễn Dữ với các tình tiết cơ bản: Từ thức làm quan huyện Tiên Du;

Đi chơi hội chùa; Cứu nạn Giáng Hương; Chán ghét cuộc sống quan trường

nên từ quan bỏ đi du ngoạn khắp nơi; Đặt chân đến cửa Thần Phù, lạc vào hang

động Bích Đào, hội ngộ cùng tiên, kết hôn với tiên chung sống một năm trên cõi

tiên ; Từ Thức nhớ trần gian, nhớ nhà xin được trở về trần gian.

Nhưng phần kết của truyện thơ Nôm đã có sự thay đổi so với truyện

truyền kỳ và truyện cổ tích. Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức kể thúc: “Sau

cùng Từ Thức trở lại chỗ xe mây, thì không ngờ xe đã biến mất từ lúc nào. Buồn

rầu vô hạn, chàng lại khăn gói lần mò đến cửa Thần Phù, định bụng tìm lại

hang cũ dẫn đến động tiên nhưng mịt mù cây đá kín lối không thể tìm ra được

nữa. Chàng đi, đi mãi, về sau không biết là đi đâu. Từ đấy người ta gọi hang núi

ở chỗ này là động Từ Thức.”

Truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên kết thúc: “Chàng bấy giờ mới hậm

hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng xe đã hóa làm một con chim

loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết lứa phượng ở trong mây,

duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn đâu!" mới biết là Giáng

Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội

nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.

Truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã thêm vào phần kết có hậu. Sau

khi về trần gian, không tìm thấy họ hàng nhà cửa, ở dưới trần gian chàng vô

cùng hối hận, buồn rầu vì nhớ vợ, nhớ chốn thần tiên. Trên cõi tiên, nàng Giáng

Hương cũng thân héo dạ sầu càng ngày càng nhớ thương chồng, nên xin với bà

36

Kim Tiên cho đón Từ Thức lên tiên giới để gia đình tái hợp. Từ Thức được trở

lại cõi tiên, sống vui vầy hạnh phúc

Uyên ương tái hợp trướng đào

Thẹn đều thẹn cả, mừng đều mừng chung.

Từ Thức tân truyện gắn bó với chủ đề tình yêu, truyện đã lý tưởng hoá

một thế giới tình yêu cùng những người tha thiết yêu đương không gì có thể

ngăn cách nổi.

Từ Thức tân truyện là truyện thơ Nôm lấy tích từ truyện cổ tích Sự tích

động Từ Thức. Nội dung truyện không thay đổi nhiều so với cốt truyện cũ nhưng

sự thay đổi về hình thức thể loại, với những đặc trưng của thể loại truyện thơ

cũng đã tạo nên sự khác biệt đáng kể trong cách triển khai cốt truyện, xây dựng

hình tượng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật,.. Đặc biệt nhận thấy giá trị lớn nhất

của tác phẩm là đã đề cập đến những vấn đề về khát vọng hạnh phúc, về hôn

nhân tự do, về lối thoát cho con người đạt đến hạnh phúc vĩnh hằng.

Tóm lại, câu chuyện “Từ Thức lấy vợ tiên” dù là truyện dân gian, truyện

truyền kỳ hay truyện thơ Nôm, dù cách trình bày phần kết luận có chỗ khác nhau

thì cốt truyện vẫn thống nhất ở ba điểm cơ bản: đó là ngợi ca phong cảnh kỳ thú

là động Bích Đào xinh đẹp – một thắng tích xứ Thanh; ca ngợi một mối duyên

tiên – trần đẹp đẽ trong không gian tiên cảnh huyền ảo, mơ màng khác với

những trò danh lợi bon chen ở trần thế; ca ngợi người trí thức đương thời thông

qua hình tượng Từ Thức dù bất bình với xã hội để tìm đến một tình yêu lý tưởng

nhưng vẫn luôn dồi dào tình yêu sự gắn bó với làng xóm, quê hương.

37

Tiểu kết Chương 1

Trong toàn bộ Chương 1, người viết đã tập trung khái quát cơ sở lý luận

và những vấn đề chung của đề tài luận văn. Tìm hiểu các vấn đề tác giả Nguyễn

Dữ cũng như vấn đề thể loại: tìm hiểu sơ lược về truyện cổ tích thần kỳ và

truyện cổ tích thần kỳ giải thích tên địa danh, truyện truyền kỳ và truyện thơ

Nôm trong văn xuôi trung đại Việt Nam. Qúa trình tìm hiểu này đã góp phần

đem lại cái nhìn toàn cảnh không gian văn hoá, làm nền tảng cho việc nghiên

cứu những vấn đề cụ thể của đề tài trong ba tác phẩm truyện cổ tích Sự tích

Động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ

Thức tân truyện. Đây sẽ là những vấn đề cơ bản đưa chúng tôi tiệm cận gần hơn

với đối tượng nghiên cứu, là cơ sở thuận lợi cho việc triển khai các vấn đề cụ thể

của luận văn ở các chương sau.

38

Chương 2

SỰ KẾ THỪA, BIẾN ĐỔI NỘI DUNG TƯ TƯỞNG

VÀ GIÁ TRỊ NHÂN VĂN QUA BA TÁC PHẨM

2.1. Tương quan tam giáo từ truyện cổ tích đến truyền kỳ và truyện thơ Nôm

Văn học chính là tấm gương phản chiếu chân thực và sinh động nhất

muôn mặt của cuộc sống, xã hội, thời đại… Vì thế, qua văn học ta có thể tiếp

nhận mọi cái đẹp về cuộc sống thông qua cảm quan thẩm mỹ của nhân dân, của

tác giả cũng như tôn giáo nói chung. Đồng thời qua văn học người ta có thể tìm

thấy tất cả đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người ở các giai đoạn

lịch sử khác nhau, cũng như những biến đổi trong tương quan tam giáo qua mỗi

giai đoạn văn học, mỗi thể loại văn học.

Tôn giáo vốn là một thế giới tinh thần thiêng liêng để con người gửi gắm

đức tin. Khi đạo Phật được du nhập vào Việt Nam, thuyết luân hồi của đạo Phật

đã trở thành chỗ dựa giúp cho tác giả dân gian thực hiện ước mơ công bằng xã

hội. Trong quá trình giao lưu văn hóa, nhân dân ta đã tiếp nhận những tư tưởng

triết học, tôn giáo đan xen nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Nên nội dung văn học ảnh

hưởng tôn giáo cũng mang nhiều yếu tố khác nhau, khi thì mang yếu tố của tôn

giáo này, lúc lại chứa yếu tố của tôn giáo khác, cũng có khi là sự tồn tại đan xen

của tam giáo. Đặc biệt, triết lý của đạo Nho với thuyết thiên mệnh và Đạo giáo

với cõi đời tốt đẹp của cảnh Tiên đã góp phần bổ sung nhiều hơn cho tín ngưỡng

của người Việt về Vũ trụ quan và Nhân sinh quan. Vì vậy nhân sinh quan tự

nhiên và lành mạnh của dân chúng trong các truyện cổ tích hoang đường, truyện

truyền kỳ, truyện thơ Nôm đã trộn lẫn với tư tưởng quả báo, luân hồi của Phật

giáo, tinh thần thoát tục của Đạo giáo và thuyết định mệnh của Nho giáo.

2.1.1. Điểm chung trong tư tưởng của ba tác phẩm

Điểm gặp gỡ chung trong tư tưởng của truyện cổ tích Sự tích động Từ

Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện trước hết là ảnh hưởng của Đạo giáo đã chi phối tư tưởng của ba tác

phẩm khá rõ rệt. Xu hướng từ bỏ Đạo Nho hướng về Đạo giáo thể hiện khá rõ

39

nét trong ba tác phẩm. Nhân vật trung tâm của truyện – Từ Thức vốn dòng dõi

Nho gia, được hưởng phúc ấm tổ tiên nên học rộng tài cao đi thi đỗ đạt. Ông ra

nhận chức quan huyện Tiên Du, nhưng lại bất mãn với lối sống quan trường

khuôn phép, tù túng trong vòng cương toả của xã hội phong kiến đương thời nên

Từ Thức đã sớm từ bỏ cuộc sống ở chốn hoạn đồ để tìm cho mình một cuộc

sống tự do. Hành động dứt khoát của chàng Từ Thức đã phản ánh tư tưởng khá

phổ biến của giới trí thức khác bấy giờ. Đồng thời dấu vết của Đạo giáo cũng dễ

dàng nhận thấy qua các nhân vật thần tiên, không gian thần tiên... Nói về ảnh

hưởng của Đạo giáo với văn học thì người đọc nhận thấy ở hầu hết các tác phẩm

cổ tích thần kỳ, truyện truyền kỳ, truyện thơ Nôm đều chịu ảnh hưởng như:

truyện cổ tích thần kỳ và những truyện mang yếu tố kỳ ảo (Việt điện u linh tập

của Lý Tế Xuyên, Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, Lĩnh Nam chích

quái của Trần Thế Pháp, Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Bích Câu kỳ

ngộ kí của Đặng Trần Côn… và nhiều truyện thơ Nôm như Bích Câu kỳ ngộ,

Mai Đình mộng kí… )

Văn học là bức tranh phản ánh trung thành thời đại, thời đại nào thì văn

học ấy cho nên thực trạng xã hội dù ít nhiều đều được thể hiện qua ngòi bút và

cảm quan của người nghệ sĩ, nhất là những tác phẩm được sáng tác bởi đội ngũ

trí thức sống trong hoàn cảnh xã hội đương thời nhiều nhiễu nhương, thối nát,

thật giả, trắng đen lẫn lộn, giá trị đạo đức băng hoại. Người ta tìm thấy những

hạt nhân cơ bản của triết lý Đạo giáo được bộc lộ rõ trong những sáng tác được

viết ở những thế kỷ từ XVI đến XIX. Theo lẽ thông thường, khi chính trị rối

loạn, đạo Nhobất lực trong việc trị thế, quan hệ tam cương ngũ thường không

còn giữ vị trí độc tôn như trước, tư tưởng Nho gia chỉ còn là khuôn mẫu cứng

nhắc không che đậy được sự mục ruỗng bên trong. Đây chính là cơ hội để các

tôn giáo khác như Đạo Phật, hay Đạo giáo có cơ hội trỗi dậy.

Xu hướng từ bỏ đạo Nho hướng đến Đạo Lão - Trang là khá phổ biến

trong những sáng tác truyền kỳ và truyện thơ Nôm. Các tác giả truyện truyền kỳ,

truyện thơ Nôm đều cấu trúc truyện hướng con người đến sự thức tỉnh về Đạo,

40

bắt đầu từ việc con người ý thức được những nghịch cảnh của việc thiếu thốn,

khiếm khuyết một cái gì đó về vật chất hoặc về tinh thần. Sau đó con người tìm

đến với việc tự thân rèn luyện gian khổ thì đạt được sở nguyện. Nhưng rồi hạnh

phúc bị tuột mất, con người rơi vào trạng thái khổ đau mới ý thức ra rằng chỉ tìm

lại được hạnh phúc nếu con người giác ngộ về Đạo.

Các nhân vật thần tiên xuất hiện trong truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và

truyện thơ Nôm đều mang hai đặc điểm của truyền thuyết Đạo giáo là trường

sinh bất tử và thần thông quảng đại, phép thuật cao cường ... Trong ba tác phẩm:

truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và

truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện ta đều thấy sự hiện diện của thế giới thần

tiên (đảo tiên), nơi đây có cảnh tiên, người tiên và cuộc sống thần tiên. Nhân vật

Từ Thức trong ba tác phẩm đều lạc vào động tiên, nói chuyện với tiên, lấy tiên

làm vợ, sống cùng tiên… Các nhân vật trong truyện cũng thể hiện quan niệm

duyên nợ hay sống chết của Đạo giáo, cuộc gặp gỡ định mệnh của Từ Thức và

Giáng Hương cũng thể hiện rõ quan niệm về tiên duyên trời định của Đạo giáo.

Có thể nói, ba tác phẩm truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện

truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã có sự

tương đồng về tư tưởng, đều thể hiện khao khát về một cuộc sống tự do ngoài

vòng cương toả của xã hội phong kiến đương thời, ước mơ muốn thoát ly cuộc

sống thực tại để lên tiên và tìm hạnh phúc ở cõi tiên. Đúng là tư tưởng của Đạo

giáo đã kích thích trí tưởng tượng của tác giả trên con đường đi tìm cái đẹp cho

cuộc sống con người, làm cho con người ngày càng hướng đến sự hoàn thiện.

Tuy ba tác phẩm là ba thể loại khác nhau, ra đời ở ba thời đại khác nhau nhưng

điểm chung của các tác giả là họ đều cảm nhận thấy sự ngột ngạt, bế tắc của bầu

không khí chuyên chế. Họ nhận thấy rõ sự tù túng, quẫn bách, thấy bi kịch

không lối thoát của mình. Họ đã tìm cách ứng phó thụ động bằng cách thoát thân

vào thế giới thần tiên, đây chỉ là một lối thoát không tưởng nhưng ít nhiều đã

cho thấy một hình thức đấu tranh tự phát với thực tại, sự phản ứng gay gắt với

thực tại và ước muốn thoát khỏi thực tại của những đại diện trí thức thời bấy

41

giờ. Vì vậy các tác giả truyện Sự tích động Từ Thức, Từ Thức lấy vợ tiên và Từ

Thức tân truyện đã đi ra ngoài những nỗi đau khổ và bi kịch có tính cá nhân để

đau nỗi đau chung của con người thời đại mình. Họ đã gặp gỡ nhau ở niềm hứng

thú chung: sẵn sàng từ quan, cởi bỏ mũ áo trả lại triều đình, chọn lối sống tự do

ngao du sơn thuỷ, là bầu bạn với thiên nhiên, cầm thú, hay tư tưởng thoát tục lên

tiên để thay đổi môi trường sống, hướng đến một môi trường sống tốt đẹp hơn

bởi họ cùng nhận thấy rằng chốn trần gian chỉ đầy hư ảo và trần tục. Họ cùng

hứng thú chung với việc Từ Thức lên tiên, lấy vợ tiên cũng là điều dễ hiểu. Con

người muốn hưởng thụ tinh thần và mãi mãi an lạc thì chỉ còn có cách là lên

tiên. Vì vậy đứa con tinh thần chung của họ được yêu mến và lưu truyền cũng là

điều dễ hiểu. Đúng là tinh thần thời đại thực sự đã kết tinh và tạo nên sức sống

lâu bền cho các tác phẩm ấy. Tư tưởng Lão - Trang thực sự đã trở thành căn cứ

để các tác giả lý giải hình thức nghệ thuật của tác phẩm: “Hình thức truyện kết

cấu đơn sơ. Không có một trường thi, một triều đình để người ta tranh giành

danh vị mà vỗ ngực tự hào. Tất cả nhẹ nhàng thanh tú, đầy thi vị Lão – Trang.”

[51, tr 311]

Trên thực tế, những triết lý của Đạo giáo đã ảnh hưởng khá sâu sắc đến

văn chương. Tuy nhiên, văn học Việt Nam từ thế kỷ XVI đến XIX cũng chịu sự

ảnh hưởng không nhỏ của tư tưởng Phật giáo. Đặc biệt là sự ảnh hưởng về nội

dung tín ngưỡng cũng như hình thức ngoại cảnh. Văn học thời kỳ này có nhiều

tác phẩm mang đậm tín ngưỡng Phật giáo như chuyện Quan Âm Thị Kính, Vu

Lan bồn, hay Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều… Các tác phẩm này đều

để kể về sự tích nhà Phật và chứa đựng những học thuyết nhà Phật. Những tác

phẩm Sự tích động Từ Thức, Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện cũng

mang đậm màu sắc Phật giáo. Trong cả ba truyện này, dấu tích Phật giáo đã thể

hiện khá rõ khi nói đến một ngôi chùa lớn gần nơi Từ Thức nhậm chức, hàng

năm nhà chùa mở lễ hội hoa mẫu đơn, các thiện nam tín nữ các nơi đua nhau về

chùa lễ Phật và ngắm hoa. Cuộc gặp gỡ định mệnh của Từ Thức và Giáng

Hương ở chốn Thiền môn, lại vào đúng ngày hội xem hoa mẫu đơn. Đặc biệt

42

không gian Thiền môn chính là bối cảnh cho duyên gặp gỡ giữa chàng Từ Thức

và nàng tiên Giáng Hương. Hành động cởi áo gấm trắng chuộc lỗi cứu người

đẹp, rồi hỏi han quê quán của Từ Thức và Giáng Hương cũng được bao bọc

trong không khí Thiền môn. Trong truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, tác giả

dân gian viết: “Ở gần vùng Từ Thức nhậm chức có một ngôi chùa lớn. Trước

sân và xung quanh vườn trồng toàn một loại cây mẫu đơn. Mỗi năm vào khoảng

tháng giêng là mùa hoa nở rộ, cũng là kỳ cúng Phật. Nhân dịp đó, các thiện

nam tín nữ các nơi đua nhau về chùa lễ Phật và ngắm hoa … Ngày hôm ấy có

một cô gái đi xem hội vô tình không biết lệ nhà chùa, thấy có hoa đẹp ở cạnh lối

đi, bèn rón tay ngắt một bông … bọn thủ hộ liền sai trói cô gái vào cột chùa …

Từ Thức cởi phăng chiếc áo ngoài vứt cho bọn thủ hộ để chúng trả tự do cho cô

gái…”. Đến truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, không gian Thiền môn vẫn là

bối cảnh chính của lần đầu gặp gỡ giữa Từ Thức và Giáng Hương “Bên cạnh

huyện có một toà chùa danh tiếng, trong chùa trồng một cây mẫu đơn, đến kỳ

hoa nở thì người các nơi đến xem đông rộn rịp … Cô gái vin một cành hoa,

không may cành giòn mà gãy khấc, bị người coi hoa bắt giữ lại … Từ Thức cũng

có mặt ở đám hội, … nhân cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa vào tăng phòng để

chuộc lỗi cho người con gái ấy”. Đặc biệt ở truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện, tác giả tái hiện không gian gặp gỡ của Từ Thức và Giáng Hương trong

không khí Thiền môn bằng những câu thơ lục bát đậm chất trữ tình:

Huyên hoà vừa tiết xuân sang,

Dũ hiên tơ liễu, đưa tường thoi oanh.

Gần miền một áng Thiền quynh,

Nức nô cảnh Phật, linh đình hội xuân.

Thắm vàng là lượt chen chân,

Cuộc vui mã tích, xa trần thiếu ai.

Yến cư thong thả ngày dài,

Khiến lòng quan khách say mùi thuyền gia.

Vó câu lãng đãng đường hoa,

43

Một vài tiểu lại, dăm ba hề đồng.

Trải xem phạm vũ mấy trùng,

Ao sen rủ biếc, sân tùng tán xanh.

Tiếng tiu, tiếng cảnh rập rình,

Cầu phan phổ độ, quyển kinh sấm cầu.

Các tác giả cũng chú ý nhiều đến tư tưởng nhân duyên khi nhắc đến mối

tình giữa Từ Thức và Giáng Hương. Trong truyện cổ tích khi được Kim tiên cho

gặp người quen cũ, chàng Từ Thức không ngờ lại là người con gái chàng cứu

nạn trong hội hoa mẫu đơn, chàng lấy làm vui mừng nói: Ô hay tôi đi tìm nàng

khắp nơi mà không thấy, không ngờ lại gặp ở đây! và Giáng Hương đã khẳng

định: Âu đó cũng là duyên trời. Chàng đã có lòng cất công đi tìm, nay đến gặp

nhau. Ở truyện truyền kỳ, tác giả Nguyễn Dữ cũng mượn lời bà tiên là Ngụy

phu nhân để nói về mối nhân duyên trời định này: “Đứa con tôi đây tên là

Giáng Hương, ngày trước gặp phải cái nạn trong khi đi xem hoa, nhờ chàng

cứu gỡ, ơn ấy khôn quên, nay muốn cho nó kết duyên để báo đền ơn trước”. Và

ở truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện tác giả cũng nói về mối nhân duyên tiền

định này khi Từ Thức lạc vào động tiên:

Giáng Hương nàng ấy vốn chầu chực đây.

Tương tư chút đã lâu ngày,

Lòng ta cũng thắc mắc thay sự nàng.

Bây giờ may gặp lại chàng,

Cơ duyên cũng rắp vẹn đường thuỷ chung.

Lọ là nguyệt sứ băng môi,

Phận này duyên ấy ắt thời trong tay.

Ảnh hưởng của đạo Nho cũng chi phối tư tưởng của ba tác phẩm khi các

tác giả vẫn xây dựng nhân vật trung tâm của truyện là chàng Từ Thức có dòng

dõi Nho gia, chàng cũng học hành thi cử đàng hoàng và đỗ đạt làm quan huyện

44

Tiên Du. Tuy nhiên sự chi phối của tư tưởng đạo Nho ở ba tác phẩm đã có phần

mờ nhạt. Chúng tôi sẽ nói kỹ điều này ở phần sau.

Như vậy, tư tưởng Tam giáo đồng nguyên đã cùng xuất hiện trong cả ba

tác phẩm truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ

tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức Tân Truyện. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của tư

tưởng Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo thể hiện rõ nhất ở truyện cổ tích và truyện

truyền kỳ. Đặc biệt, trong truyện thơ Nôm Từ Thức Tân Truyện tư tưởng Đạo

giáo đã có phần lấn át tư tưởng Nho giáo và Phật giáo.

2.1.2. Những biến đổi tương quan tam giáo từ truyện cổ tích, đến truyện

truyền kỳ và truyện thơ Nôm

Bàn về những biến đổi trong tương quan tam giáo từ truyện cổ tích Sự

tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ

Thức tân truyện không phải chỉ gói gọn trong vài ba dòng chữ, bởi đây là vấn đề

khá rộng, hơn thế ranh giới giữa các luồng tư tưởng cũng rất mong manh. Tuy

nhiên, người viết xin căn cứ vào mức độ ảnh hưởng đậm nhạt khác nhau của các

luồng tư tưởng ấy đối với từng tác giả để chỉ ra sự biến đổi trong tương quan

tam giáo ở ba tác phẩm này.

Tác giả dân gian trong truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức và Nguyễn Dữ

trong truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên chịu ảnh hưởng của Nho giáo nhiều

hơn tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện. Chính sự ảnh hưởng đó đã chi

phối hướng giải thoát cuộc đời nhân vật, việc xây dựng kết cấu truyện và khắc

hoạ hình tượng nhân vật.

Không thể khép mình trong lối ứng xử mực thước của Nho gia nên ý

tưởng phê phán những cái phi Nho đã thể hiện khá rõ trong nhiều sáng tác của

Nguyễn Dữ. Chán ghét con đường công danh, khoa bảng, tìm cách giải toả sinh

lực của những kẻ hào hoa bằng những câu chuyện tình yêu tự do, lãng mạn hay

ma quái ly kỳ vượt ra ngoài khuôn thước của lễ giáo phong kiến. Tâm hồn

phóng khoáng của Nguyễn Dữ đã kịp đón nhận luồng gió của tư tưởng nhân văn

thời đại đang thổi tới để nhân danh tiếng nói về quyền con người đi tìm một lối

45

thoát cho hạnh phúc. Mượn hình ảnh chàng Từ Thức đi tìm hạnh phúc cho mình

nơi tiên giới mang đậm màu sắc Đạo giáo, Nguyễn Dữ như muốn thử nghiệm về

một lối thoát của nhân sinh. Nhân vật Từ Thức và Giáng Hương trong truyện Từ

Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ cũng có khát vọng về hạnh phúc. Nhưng hạnh

phúc của Từ Thức dẫu có đạt được cũng phải trải qua biết bao khó khăn, thử

thách, đến khi tìm thấy hạnh phúc cho riêng mình thì Từ Thức lại rơi vào nỗi

buồn nhớ quê hương, khi quyết trở lại trần gian lại rơi vào bi kịch cô đơn trên

chính quê hương mình, muốn quay trở lại động tiên thì động tiên cũng khép kín.

Hình ảnh cuối cùng của Từ Thức là “mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn đi vào

Hoành Sơn rồi sau không biết đi đâu mất”. Như vậy kết thúc câu chuyện với

việc trở về điểm xuất phát ban đầu của nhân vật. Đúng là cách phủ nhận thế tục

của Nguyễn Dữ là chưa triệt để, tác giả cũng đã đề xuất một lối thoát cho nhân

vật, nhưng cuối cùng vẫn dẫn đến ngõ cụt nhuốm màu bi kịch, thể hiện sự loay

hoay trong bế tắc của ông khi không giải quyết trọn vẹn câu trả lời về bi kịch

của đời người. Hay phải chăng bằng cách nhìn đa chiều của một trí thức bậc cao

như Nguyễn Dữ đã khiến ông không thể đưa ra một cái kết ảo tưởng về hạnh

phúc trọn vẹn cho nhân vật của mình. Bởi trên thực tế, bi kịch của người trí thức

là không dễ dàng giải quyết, họ có thể chọn cách học đạo, tu tiên, lánh mình vào

tiên giới như cách Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Huy Hổ,... rũ bỏ

việc đời nhưng thực tế thì chưa thấy ai ngoảnh mặt làm ngơ trước thói đời.

Nguyễn Dữ cũng vậy, ông mang tư tưởng của một nhà nho - ẩn sĩ, thân nhàn mà

tâm không nhàn, luôn chịu sự chi phối của hệ tư tưởng Nho giáo nên việc tìm ra

một lối thoát trọn vẹn cho nhân vật là khó có thể thực hiện được. Vừa là lý do

hoàn cảnh khách quan vừa là lý do chủ quan và Nguyễn Dữ là người hiểu sâu

sắc hơn ai hết những bế tắc của giai cấp mình.

Lánh đục tìm trong để an dưỡng tâm hồn trong sạch đó là một biểu hiện

của tư tưởng Đạo giáo đã ăn sâu vào tiềm thức của bộ phận nhà nho yếm thế.

Những nhà nho chán ghét thực tại thường tìm cách quay lưng lại với thực tại

đương thời bằng hình thức ở ẩn hay tu tiên. Chàng Từ Thức trong cả ba tác

46

phẩm truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm đều cởi bỏ ấn tín, từ

quan để đến với sống cuộc sống tự do chốn thâm sơn cùng cốc, cùng tìm thấy

hạnh phúc cho mình ở thế giới thần tiên, nhưng niềm hạnh phúc ấy không phải

là vĩnh viễn, nỗi nhớ quê hương đã xui khiến chàng quyết định rời bỏ cõi tiên trở

về cõi trần. Khi đó chàng lại rơi vào bi kịch trở thành người khách lạ ngay trên

chính quê hương mình, chàng hối hận muốn tìm đường lên tiên nhưng động tiên

đã khép lại, điều này cho thấy giấc mơ hạnh phúc lâu dài của một người trần

gian là rất khó khăn.

Tuy nhiên, sang thế kỷ XIX, khi truyện thơ Nôm đã khẳng định được vị

thế trên văn đàn văn học trung đại, diễn Nôm lại truyện Từ Thức lấy vợ tiên,

truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã mở ra một hướng khác. Từ Thức khi trở

về trần gian không gặp lại người thân được nữa vì đã gần trăm năm trôi qua, mọi

sự đã đổi thay. Chàng tự trách mình khi ngộ ra sự hữu hạn của đời người nơi

trần thế, chàng nhận ra bi kịch của của chính mình: chữ hiếu với cha mẹ không

trọn vẹn, chữ tình thì dở dang

Chốn hoang tịch bước vào thăm,

Ngùi ngùi thấy cảnh, đăm đăm theo phiền.

Cháu xa mấy lớp tầng huyền,

Đã khơi đốt sắn, khôn nhìn dây dưa.

Bụi cây, dấy cũ nên bờ,

Mắt tin cuộc đổi, lòng ngờ giấc say.

Nguồn cơn biết ngỏ ai hay,

Giận cơ tang hải, trách ngày thiếu niên

Bởi ta niềm tục hãy còn đa mang.

Bây giờ trót đã dở dang,

Duyên xưa nỡ để quải quàng cả hai

Tiên trần diệu vợi đôi nơi,

Nghìn vàng đổi được trận cười nữa chăng.

47

Hải môn song nước khơi chừng,

Chân mây mặt đất biết rằng hỏi ai.

Kiếp này lỗi hẹn thời thôi,

Lưu lang dễ tới Thiên Thai mấy lần.

Giận duyên nghĩ ngợi tần ngần,

Xa xôi bao lại được gần cận nhau.

Đường mai tuyết nhặt mưa mau,

Mối riêng những chạnh, mạch sầu khôn trao.

Biết phương nào, biết chốn nào,

Có chăng còn một chiêm bao thấy nàng.

Vì vậy, để sống nốt quãng đời còn lại của mình Từ Thức đã tìm đến Hoàng

Sơn – một thắng cảnh ở huyện Nông Cống, Thanh Hoá dựng lều cỏ sống ẩn mình,

tháng ngày vui với muôn thú, ngàn hoa, bầu rượu túi thơ, tránh xa danh lợi:

Một bầu sơn thuỷ cheo leo,

Trời đành lập để trao theo cho chàng.

Tiện nghi xem được sẵn sàng,

Vắng bên danh lợi, xa đường oán tranh.

..…

Đìu hiu lều cỏ vài gian,

Xuân hoa tươi đậm, thu sương thâu màn.

Thừa hư thông hát suối đàn,

Văn chương đại khối, thanh nhàn hoá công.

Lại nói đến nàng Giáng Hương, kể từ khi chia biệt với chồng, không giờ

phút nào nỗi lòng nàng nguôi nhớ nhung. Nỗi nhớ thương vương vấn luôn

thường trực cả trong tiềm thức lẫn vô thức: “Giấc hoa thường lẩn quất niềm

Hoàng Sơn”. Mặc dù tiên – trần cách biệt nhưng nàng vẫn dõi theo cuộc sống

dưới hạ giới của chồng, nàng còn biết được Từ Thức đã: “Vui lòng tuyền thạch,

lánh thân thị thành”. Nàng thấy thương chồng lẻ bóng một mình ở cõi trần gian,

đang phải đem thân sống với núi rừng thiên nhiên nên đã phân trần với Kim

48

Tiên về sự tình của Từ Thức và nỗi lòng nhớ nhung của mình, mong vợ chồng

được tái hợp:

Thiếp nay bèo bọt phận hèn,

Phước dư may được sánh chen cửa rồng.

Tấc mây để bận hương trong,

Pha phôi tuổi hạc, thẹn thùng bóng loan.

Những ngờ vẹn nghĩa keo sơn,

Đương vui bỗng đứt dây đàn biết sao.

Khách thơ tình phụ má đào,

Ngẫm nhân duyên ấy lẽ nào còn nên.

Song từ cách trở mấy phen,

Lòng Từ lang hẳn chưa quên chốn này.

Cùng tôi trong lúc chia tay,

Quê chàng nghe đã nước mây đổi đời.

Sa cơ sẩy bước nhỡ vời,

Bể xuân chi nỡ hẹp hòi chẳng thương.

Dám xin thấu hết đoạn trường,

Đổi duyên ngâu kẻo lỡ đường bơ vơ.

Kim Tiên sau khi nghe những lời phân trần của Giáng Hương đã động

lòng thương:

Thương nàng bồ liễu ngây thơ,

Mà chàng chếch bóng ngẩn ngơ cõi trần.

Nên đã cho sắm sửa xe mây đi đón Từ Thức từ cõi trần lên tiên đoàn tụ

cùng Giáng Hương. Việc tác giả truyện thơ Nôm sáng tạo thêm một kết thúc

truyện như vậy đã chuyển tải đến bạn đọc khá nhiều thông điệp: vì những lẽ

khác nhau mà thần tiên – trần thế vẫn giao kết, việc chàng Từ Thức đi đường

mây lên tiên để tái hợp cùng Giáng Hương sống cuộc sống hạnh phúc ở cõi tiên

là minh chứng về một cõi đáng sống để ước mơ. Chọn cách kết thúc có hậu này

tác giả truyện thơ Nôm rõ ràng đã phủ nhận thực tế một cách triệt để. Có lẽ đối

49

với tác giả truyện thơ Nôm, ảnh hưởng của Đạo giáo đã chi phối khá sâu sắc

cách giải quyết lối thoát của nhân vật trước những khó khăn do đời sống đưa lại.

Bởi vậy kết thúc truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện là cảnh đoàn tụ, hạnh phúc

của vợ chồng Từ Thức ở tiên giới. Phải chăng tác giả truyện thơ Nôm muốn gửi

gắm tới bạn đọc lời nhắn nhủ rằng sự giải thoát của con người trong cõi đời chỉ

thực sự trọn vẹn khi họ không còn vướng bận chuyện đời, nếu họ vẫn còn vướng

bận chuyện đời thì vẫn là rước thêm phiền lụy, bực bội và cô đơn mà thôi. Chính

những ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Đạo giáo đã khiến tác giả truyện thơ

Nôm này chọn lối kết thúc có hậu. Cái nhìn của tác giả truyện thơ Nôm dường

như có phần ảo tưởng hơn, tác giả chưa thấy được những mâu thuẫn đa chiều,

phức tạp không dễ giải quyết của đời sống trong xã hội đương thời.

Thoát ly khỏi xã hội thực để vào cõi tiên mộng là một xu hướng của các

nhà nho, nhất là ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Ta có thể

thấy xu hướng này cũng được thể hiện trong Bích Câu kỳ ngộ ký của Đặng Trần

Côn, hay Mai Đình mộng ký của Nguyễn Huy Hổ. Trong Bích Câu kỳ ngộ ký

của Đặng Trần Côn, viết về câu chuyện tình yêu của chàng Tú Uyên và nàng

Giáng Kiều, tác giả cũng cho ta thấy họ là cặp đôi có mối duyên tiền định nên

ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, chàng Tú Uyên đã không thôi nhớ nhung, tương tư

và khát vọng mãnh liệt về hạnh phúc trọn vẹn. Thế nhưng hạnh phúc của con

người trần thế dẫu có đạt được cũng phải trải qua bao khó khăn, thử thách. Khi

đã có được hạnh phúc, Tú Uyên đã phạm phải những sai lầm khiến nàng Giáng

Kiều phải bỏ đi. Sau khi nàng Giáng Kiều bỏ đi, Tú Uyên ngày đêm không

nguôi nỗi nhớ vợ, chàng rơi vào trạng thái tuyệt vọng không thiết sống. Cuối

cùng chàng đã đến đền Bạch Mã sám hối và cầu đảo thần mong thần chứng

giám cho tấm lòng thành khẩn của chàng, quả thực việc cầu đảo đã linh ứng,

nhờ việc cầu thần mà Giáng Kiều đã hiểu được thiện tình của chàng, chấp nhận

quay trở lại và sống hạnh phúc với Tú Uyên. Song cả hai đã nhận ra rằng đời

người trần thế là hữu hạn, để biến giấc mơ hạnh phúc vĩnh viễn thành hiện thực

họ đã học phép tu tiên rồi cùng thoát lên tiên.

50

Hệ tư tưởng Nho giáo cũng đã chi phối khá rõ nét trong truyện cổ tích Sự

tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ

Thức tân truyện, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng đậm nhạt là khác nhau. Tư tưởng

Nho giáo đã chi phối trực tiếp trong cách xây thức dựng nhân vật. Nhân vật

trong truyện cổ tích và truyện thơ Nôm vẫn hiện lên với vẻ đẹp của những văn

nhân mực thước, thiếu nữ đoan trang cố khép mình theo những khuôn phép. Còn

nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Dữ là kiểu nhà Nho phóng túng, mang một

khát vọng tự do lớn lao, cố gắng bứt phá khỏi tính quy phạm chuẩn mực của

Nho gia. Chính điều này đã chi phối ít nhiều đến quan niệm về tự do, tình yêu,

hạnh phúc, và cái nhìn hiện thực của mỗi tác giả.

Tư tưởng Phật giáo ít nhiều cũng ảnh hưởng đến cả ba tác phẩm Sự tích

động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức

tân truyện. Sự khác biệt trong việc tiếp nhận tư tưởng Phật giáo ở các tác giả dân

gian, truyền kỳ và truyện thơ Nôm là không nhiều. Đạo Phật chỉ giữ vai trò cơ

sở cho việc tiếp nhận các luồng tư tưởng của Đạo giáo và Nho giáo thuận lợi

hơn mà thôi.

Nhìn chung, người đọc có thể nhận thấy thế giới quan và nhân sinh quan

của truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên

và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đều hướng đến tạo lập một cái nhìn hài

hoà giữa con người với vũ trụ, với con người, với tín ngưỡng. Đó là ước vọng về

một cuộc sống tự do, một hạnh phúc viên mãn, một sự hài hoà cõi tiên và cõi

trần, ... Ba tác phẩm đã thể hiện hướng nhìn ít nhiều có điểm khác nhau, đó là

hướng nhìn cuộc đời mơ về tiên giới và hướng nhìn tiên giới mơ về cuộc đời. Sở

dĩ làm nên sự khác biệt này là do yếu tố thời đại. Trong thời kỳ Nho giáo đã có

biểu hiện rõ rệt của sự rạn nứt, suy đồi, con người đã phải tìm đến niềm tin trong

Phật giáo và Đạo giáo.

2.2. Sự bế tắc trong tư tưởng và lối sống của nho sĩ trong xã hội phong kiến

Văn học trung đại hình thành và phát triển chịu sự ảnh hưởng của nhiều

hệ tư tưởng khác nhau như Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Trong đó hệ tư

51

tưởng Nho giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Nhân vật nho sĩ chính là hình

tượng nhân vật trung tâm trong các sáng tác văn học trung đại Việt Nam từ thế

kỷ X – XIX. Họ được xem là tầng lớp trí thức tiêu biểu nhất trong xã hội phong

kiến, họ xuất hiện trong tác phẩm với tư cách là người trí thức thể hiện cho thái

độ, quan điểm, tư tưởng của tác giả. Họ được đào tạo bài bản nơi cửa Khổng sân

Trình nên thấm nhuần tư tưởng thánh hiền và được coi là trí thức Nho học. Khi

lịch sử xã hội phát triển với những bước thăng trầm đã có những tác động mạnh

mẽ đến tầng lớp nho sĩ này. Những nhà nho được học hành, qua thi cử đỗ đạt rồi

ra làm quan, họ trực tiếp thực hiện các giáo điều đã học từ sách vở của Nho giáo

và được gọi là nhà nho xuất chính. Còn những nhà nho có trình độ, tài năng

nhưng không ra làm quan, không thích bon chen danh lợi và luôn tỏ ra bất bình

với chế độ đương thời, họ tìm đến với cuộc sống ẩn dật, vui thú với chốn sơn

lâm hay nơi thôn dã, sống cuộc sống đạm mà thanh, họ được gọi là nhà nho ở ẩn

- hàn nho, kiểu như Nguyễn Dữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm,…

Từ thời Lê Cảnh Hưng chiến tranh xảy ra liên miên, cảnh nhà nhà chia ly,

đâu đâu cũng thấy ai oán tiếng khóc của vợ trẻ tiễn chồng ra trận… Đạo Nho

thời kỳ này thực sự đã mất đi vai trò trở thành rường cột, mất đi vai trò làm nền

móng trong việc chấn hưng đạo đức, văn hoá, chính trị xã hội. Mượn cốt truyện

dân gian người lạc vào cõi tiên để phản ánh những vấn đề nhân sinh trong thời

đại của mình qua nhân vật Từ Thức trong truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên

và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện, hai tác phẩm đã đem lại giá trị tư tưởng

mang ý nghĩa nhân sinh cao đẹp về cảm hứng thoát ly hiện thực và bi kịch của

kẻ sĩ. Có lẽ vì vậy mà cả Nguyễn Dữ cũng như tác giả giấu tên của truyện thơ

Nôm Từ Thức tân truyện đều không thể bám víu vào luồng tư tưởng mà họ đã

không tìm thấy chỗ dựa nữa. Trong sự bế tắc ấy họ đã tìm đến với Đạo giáo để

tìm đến một lối thoát khỏi những ràng buộc của công danh thi cử. Hầu hết

những nho sĩ thời này có khao khát được sống một cuộc sống tự do, một cuộc

sống hạnh phúc dài lâu, vĩnh viễn. Vì vậy trong truyện Truyền kỳ Từ Thức lấy

vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện, hình tượng nho sĩ được xây dựng

52

mang tư tưởng phê phán những hạn chế của Nho giáo trong xã hội đương thời

khá rõ nét. Bởi các nho sinh ngay từ những ngày đầu bước chân đến “cửa Khổng

sân Trình” đã được giáo huấn thấm nhuần tư tưởng Nho gia: “tu thân, tề gia, trị

quốc, bình thiên hạ”. Nhưng chàng Từ Thức không thực hiện được điều đó.

Thời tuổi trẻ, nếu chàng Từ Thức có hội tụ đầy đủ những phẩm chất của một

nho sinh lý tưởng:

Tống Sơn cầu khí thần đồng,

Họ Từ tên Thức vốn dòng thư hương.

Tràng thu, cướp giải văn chương,

Tuổi xanh nức tiếng, đền vàng biết tên.

Móc mưa nhuần đội ơn trên,

Xuất thân huyện tể, nhiệm miền Tiên Du.

Thì ngay sau đó, Từ Thức đã sớm nhận ra sự ràng buộc bởi những khuôn

phép quá đáng, hay những trò nịnh trên, nạt dưới thị oai, nhiễu sách chốn quan

trường thời bấy giờ mà sớm từ quan, chọn cuộc sống tự do ngao du sơn thuỷ nơi

sơn cùng thủy tận làm vui. Đây là bước đầu sự phá sản bởi ý thức Nho gia trong

con người họ, bởi nho sĩ vốn học cao thi đỗ là để ra làm quan phụng sự cho đất

nước. Vậy mà chàng Từ Thức không do dự khi cởi bỏ áo quan, từ chức trở về

với cuộc sống ẩn dật. Xây dựng một nhân vật Từ Thức như vậy các tác giả

truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm muốn vẽ ra bức chân dung

cuộc sống của nho sĩ thời đó: họ chán nản bế tắc trong công danh, không tìm

thấy niềm tin, niềm vui sống trên con đường lý tưởng họ đã chọn lựa. Cuối cùng

Từ Thức phải từ bỏ hoàn toàn lý tưởng ban đầu chàng theo đuổi.

Tiếp thu truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức của tác giả dân gian,

Nguyễn Dữ cũng như tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện cũng nhận

thấy rõ bi kịch của tầng lớp trí thức thời đó. Tuy nhiên ở Nguyễn Dữ, con người

Nho giáo vẫn có sức ảnh hưởng đậm nét chi phối cách ông xây dựng nhân vật

của mình. Hành động Từ Thức vào cõi tiên đã cụ thể hoá giấc mơ thoát ly hiện

thực, chán nản với những cảnh sống ô trọc đang diễn ra trong cuộc đời thực tại

53

đương thời. Người nho sĩ khi sống cuộc sống bế tắc chốn trần gian, họ mong

muốn thoát ly hiện thực bằng cách ở ẩn, học đạo tu tiên hay ước mơ một thế giới

Bồng Lai. Nhưng khi được sống trong thế giới mơ họ đã ngộ ra rằng ước mơ đó

khó có thể thực hiện được. Chàng Từ Thức phải chia biệt với thế giới tiên để trở

về cõi trần, nhưng sự trở về này cũng chính là sự trở về với thực tế đau thương.

“Hình ảnh Từ Thức quay về trần giới, chìm trong dâu bể đổi thay, chính là thể

hiện sự bế tắc, cả cõi tiên nữa, cõi tiên đẹp trong tưởng tượng, nhưng không

phải đầy đủ hạnh phúc như người đời nghĩ, mà cũng chứa đầy rằn vặt, ngổn

ngang. Lê Quý Đôn đã rất tinh tế khi nhận xét:

Thế gian khổ tác Thiên Thai mộng

Thuỳ thức Thiên Thai diệc hí trường!

(Thiên Thai bao kẻ từng xây mộng

Nào biết Thiên Thai cũng hí trường)” [58, tr 236].

Dù được viết bằng văn xuôi hay diễn Nôm thì trong từng trang viết người

đọc vẫn thấy một mạch ngầm cuộc đời đang âm ỷ hay cái dòng đời đang cuộn

chảy. Chuyện về chàng Từ Thức, hiện thực dù có bị né tránh nhưng để ý kĩ ta

vẫn có thể nhận ra cảm quan của người nghệ sĩ về cuộc đời đa sự. Hiện thực

không được đề cập nhiều trong tác phẩm vì truyện chỉ xoay quanh mối tình của

chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương nhưng qua hành động Từ Thức từ

quan bỏ về quê rồi ngao du sơn thuỷ, không chấp nhận cuộc sống cá chậu chim

lồng chật chội chốn trần gian ta thấy cả hình ảnh thời đại Từ Thức và thái độ của

chàng:

Ấn treo thiên khuyết, sắc niêm huyện tào.

Gánh vũ trụ, túi càn khôn,

Tháng ngày phong nguyệt, nước non yên hà

Hàng động của Từ Thức chính là biểu hiện quay lưng lại với xã hội đen

tối đương thời, biểu hiện cao nhất của tư tưởng thoát ly xã hội thực tại. Trong

hoàn cảnh rối ren, tàn khốc của chế độ phong kiến đương thời, lý tưởng sống

“tu, tề, trị, bình” của kẻ sĩ không còn phù hợp. Lập nghiệp, lập danh để lại tiếng

54

thơm muôn thuở không còn là cách lựa chọn duy nhất của kẻ sĩ nữa. Nói như

Nguyễn Thị Nhàn “Con người lấy cuộc sống khuôn mẫu để làm bình phong cho

một cuộc sống tự do phóng khoáng” [54, tr 86]. Trong suốt câu chuyện ta chỉ

thấy sự xuất hiện chóng vánh của không gian huyện đường Tiên Du nơi Từ

Thức làm quan qua lời kể của tác giả, không thấy một triều đình đông đúc với

những thi thố, với những bon chen, tranh giành danh vị, bổng lộc, mà chỉ thấy

một không gian sơn thuỷ hữu tình, một mối tình đẹp ở cõi tiên đáng sống. Đó là

lý do tại sao chàng Từ Thức trả ấn từ quan. Nhân vật Từ Thức đã tỏ ra bất mãn

đến nỗi quay lại chống đối chính cái lý tưởng mà chàng đã từng tôn sùng. Mâu

thuẫn trong tư tưởng của nhân vật này phải chăng cũng chính là mâu thuẫn của

tác giả truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức cũng như truyện truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện. Các tác giả đã thông qua

cách hành xử của chàng Từ Thức mà chỉ ra những hạn chế, suy yếu của đạo

Nho. Đằng sau thái độ phê phán ấy cũng chính là những ước vọng thầm kín của

họ về một xã hội được đổi thay để những nho sĩ như chàng Tú Uyên trong Bích

Câu kỳ ngộ của Đặng Trần Côn, chàng Từ Thức trong truyện cổ tích, truyện

truyền kỳ và truyện thơ Nôm không bị lâm vào cảnh chán ghét thực tại. Vì cả

chàng Từ Thức và chàng Tú Uyên đều chán ghét thực tại đến nỗi phải tìm một

lối thoát sang Đạo giáo. Họ tự giải thoát mình ra khỏi vòng cương toả của xã hội

phong kiến đương thời bằng nhận thức: “dù có xe đẹp, ngựa tốt, có thể dùng

mãi trong cảnh giới ngắn ngủi của đời người được không? Không gì bằng bỏ

đứt bảy tình, tẩy trừ sáu dục, sớm chơi nơi ba Bồng đảo, chiều lên chỗ chín tầng

trời (…) Trời đất xuân không lão, vui sướng chừng nào” [23, tr 116]. Như vậy,

khi xã hội thối nát, con đường công danh bế tắc, những nho sĩ như chàng Từ

Thức, chàng Tú Uyên chỉ biết lánh mình trong cõi tình ái, cõi tiên mộng. Xây

dựng những nhân vật như Từ Thức hay Tú Uyên, các tác giả truyện truyền kỳ và

truyện thơ Nôm muốn vẽ ra chân dung cuộc sống của lớp nho sỹ đương thời. Xu

hướng bỏ đạo Nho tìm đến Đạo giáo thể hiện ở việc xây dựng hình tượng “con

người tự do”, “con người tình ái” lấn át “con người khoa cử”, “con người công

55

danh” đã cho thấy khát vọng tự do, khát vọng tình yêu được xem trọng hơn khát

vọng học hành đỗ đạt ra làm quan để phụng sự cho nhà nước phong kiến đương

thời. Tác giả truyện cổ tích, truyện truyền kỳ, truyện thơ Nôm đều tìm đến Đạo

giáo bằng thái độ của một nghệ sĩ phong dao. Bởi chàng Từ Thức trong cả ba tác

phẩm là người yêu thiên nhiên, thích du ngoạn thắng cảnh. Từ Thức sẵn sàng từ

bỏ chuyện công danh sự nghiệp để sống bầu bạn với vạn vật, cỏ cây và coi đó

như lối thoát của tầng lớp nho sĩ. Dù phải bỏ đi không biết là đi đâu như chàng

Từ Thức trong truyện cổ tích và truyện truyền kỳ, hay phải từ bỏ chốn trần gian

để tìm hạnh phúc viên mãn nơi tiên đảo như chàng Từ Thức trong truyện thơ

Nôm thì những bế tắc trong tâm hồn nhân vật Từ Thức cũng phần nào phản

chiếu những bế tắc trong tâm hồn nhà nho Nguyễn Dữ và nhà nho khuyết danh

trong Từ Thức tân truyện.

2.3. Khát vọng tự do và cảm xúc tình yêu trong Sự tích động Từ Thức, Từ

Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện

2.3.1. Khát vọng tự do và tình yêu tự do

Thời đại của truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm lên ngôi là khi mà hệ tư

tưởng chính thống mất dần địa vị độc tôn, xã hội xuất hiện nhiều hệ tư tưởng

mới mẻ, chính điều này đã giúp con người sống thật với lòng mình. Con người

đã dần thoát khỏi việc nói về những giáo điều lý thuyết khô khan và mạnh dạn

quan tâm nhiều hơn đến việc thể hiện những cảm xúc cá nhân riêng tư. Trong

nền văn học trung đại, trước thế kỷ XVI, chủ đề tình yêu còn mờ nhạt. Nhưng từ

thế kỷ XVI về sau chủ đề tình yêu đã trở thành chủ đề của nhiều thể loại văn

học. Ở thể loại truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm có sự hiện diện của ngôn

ngữ nhân vật và âm vang những tư tưởng mới của thời đại. Tiếng nói say mê về

tình yêu đã được thể hiện ở nhiều dạng ngôn ngữ khác nhau của nhân vật. Mượn

cốt truyện “người lạc vào cõi tiên” trong truyện cổ tích Sự tích Động Từ Thức,

ở truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện

các tác giả đã thổi vào đó một nội dung mới mang hơi thở của thời đại mình,

56

mang tính triết lý về bi kịch hạnh phúc, từ đó thể hiện khát vọng tự do và tình

yêu tự do của con người trong xã hội đương thời.

Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ

tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện ra đời trong bối cảnh xã hội phong

kiến đầy biến động, nên ngoài mục đích phản ánh hiện thực đương thời nó còn

thể hiện tính nhân văn cao cả, nhất là khi đề cập đến khát vọng giải phóng con

người, khát vọng tình yêu tự do, hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn. Nhưng niềm hạnh

phúc ấy không thể thực hiện được ở cõi trần thì Từ Thức tìm đến một thế giới

khác (cõi tiên). Thể hiện một cách trực tiếp khát vọng tự do và tình yêu tự do

được xem như một thành tựu của văn học trung đại nói chung từ thế kỷ XVI đến

cuối thế kỷ XIX. Từ thế kỷ XVI chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu bộc lộ

những dấu hiệu khủng hoảng, càng đến những thế kỷ sau càng gay gắt hơn.

Những mâu thuẫn, tranh chấp giữa các tập đoàn phong kiến ngày càng sâu sắc.

Trong hoàn cảnh xã hội ấy, các nhà văn, nhà thơ không còn phải chịu quá nhiều

sức ép từ tư tưởng Nho giáo chính thống nữa mà đã có sự cởi mở trong giải

phóng tình cảm của con người. Con người đã sống thật với lòng mình, đã quan

tâm nhiều hơn đến cảm xúc cá nhân riêng tư mà ít nói về những lý thuyết giáo

điều, chính điều này đã tác động mạnh mẽ đến lực lượng sáng tác, họ đã táo bạo

hơn trong việc thể hiện khát vọng tự do trong cuộc sống, trong tình yêu hôn

nhân vượt ra khỏi những ngăn cấm và rào cản của xã hội đương thời. Tình yêu

với những cung bậc cảm xúc xác thịt, tâm hồn, đặc biệt là tính dục cũng bắt đầu

xuất hiện trong văn chương.

Trong truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện Từ Thức lấy vợ tiên

của Nguyễn Dữ và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện - những tác phẩm ra đời

vào giai đoạn đầy biến động của xã hội phong kiến các tác giả không chỉ phản

ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ mà còn thể hiện sâu sắc tính nhân văn khi đề

cao khát vọng giải phóng con người, đặc biệt là khát vọng giải phóng tình yêu

lứa đôi, khát vọng hạnh phúc lứa đôi ra khỏi khuôn khổ hạn hẹp của lễ giáo

phong kiến. Các tác giả truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm đều

57

thể hiện sự đồng cảm với khát vọng về hạnh phúc của Từ Thức và Giáng

Hương, đặc biệt khi nói lên ước muốn thầm kín về hạnh phúc lứa đôi của họ.

Chẳng thế mà khi Từ Thức gặp lại Giáng Hương ở động tiên và được Kim Tiên

tác hợp thành đôi, chàng vô cùng sung sướng và hạnh phúc vì được kết duyên

với người con gái mà lòng chàng đã thầm yêu trộm nhớ ngay lần đầu gặp gỡ và

cứu nạn, từ lâu chàng vẫn cất công đi tìm nay lại gặp ở chốn đảo tiên: “Từ Thức

thấy không gì đẹp lòng hơn thế nữa”, còn Giáng Hương cũng tỏ rõ niềm hạnh

phúc trên vẻ mặt hồng hào, xinh đẹp chứ “không khô gầy như trước nữa”. Tình

yêu, hạnh phúc của chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương dù được bao bọc

trong không khí thần tiên hư ảo song vẫn đầy đủ hương vị hỉ, nộ, ái, ố của thế giới

trần gian. Có niềm vui hạnh ngộ, có nỗi buồn nhớ quê, có nước mắt chia ly… Có

thể nhận thấy, từ tác giả dân gian, đến Nguyễn Dữ và tác giả truyện thơ Nôm về

sau này, khi xây dựng mối tình huyền thoại Từ Thức và Giáng Hương họ đều

muốn gửi gắm vào đấy một khát vọng mãnh liệt của muôn đời đó là khát vọng

tình yêu tự do, hạnh phúc lứa đôi trong tự do tự tại, vượt ra khỏi vòng cương toả

của xã hội phong kiến đương thời. Ra đời trong một thời kỳ đặc biệt của lịch sử

như vậy, câu chuyện về chàng Từ Thức lấy tiên trong cả truyện cổ tích, truyện

truyền kỳ, truyện thơ Nôm đều thể hiện một cách hành xử của kẻ sĩ trong thời

buổi ý thức Nho giáo đang mất dần vị thế độc tôn. Con người tìm đến cõi mộng,

cõi tiên như một cách giải thoát “giấc mộng giải thoát mà tư tưởng Lão - Trang

đem lại cho tác giả trong một hoàn cảnh xã hội thích hợp” [51, tr 387].

Có thể nói, nếu trong truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, khát

vọng tự do và tình yêu tự do đã được đề cập đến, tuy nhiên nó chưa ở mức công

khai, trực tiếp mà phần lớn phải giấu mình trong những chuyện thần tiên hay ma

quái, con người yêu nhau là do bị yêu ma mê hoặc, ví như Chuyện Cây gạo,

Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây,… thì đến thời đại của truyện thơ Nôm, khi hệ tư

tưởng chính thống - Nho giáo đã suy yếu hơn nhiều so với những thế kỷ trước,

xã hội đã xuất hiện nhiều tư tưởng dân chủ mới mẻ, chủ đề tự do, tình yêu đã trở

thành chủ đề được quan tâm hàng đầu của nhiều thể loại khác nhau như: Truyền

58

kỳ, Khúc ngâm, hát nói, văn tế, truyện thơ Nôm. Các tác giả của các thể loại này

đã phản ánh một cách phong phú, đa dạng những tình cảm, cảm xúc trong thế

giới tâm hồn nhân vật của mình trên mỗi trang viết. Đặc biệt là thể loại truyện

thơ Nôm - loại truyện có mặt cùng với luồng tư tưởng mới mẻ của thời đại đã

tạo nên bước phát triển mới trong cách thể hiện những khát vọng về tình yêu tự

do chân chính. Nhân vật trong truyện thơ Nôm có bước tiến vượt bậc trong cách

thể hiện tình cảm, cảm xúc so với nhân vật truyện cổ tích và truyện truyền kỳ.

Đáng lưu ý nhất là với sự hiện diện của ngôn ngữ nhân vật, ở truyện thơ Nôm

các nhân vật đã say mê thể hiện khát vọng yêu đương, luyến ái…bằng thứ ngôn

ngữ của chính mình. Những tiếng nói say mê về tình yêu không chỉ được thể

hiện qua những đối thoại mà còn được thể hiện bằng ngôn ngữ độc thoại của

chính nhân vật. Trong truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện tác giả đã diễn tả rất

rõ nỗi lòng của Từ Thức và Giáng Hương khi gặp lại nhau ở đảo tiên:

Bảnh bao xuyến ngọc trâm hoa,

Phất phơ áo mũ, rườm rà xiêm nghê.

Dường còn khép nép rụt rè,

Mai e tiết sớm, liễu e gió chiều.

Phù dung chum chím nhị điều,

Điểm trang chẳng lọ là nhiều mới xuân.

Mùi lê gió thoảng đưa gần,

Từ lang lòng đã mười phần thiết tha.

Các tác giả từ truyện cổ tích, đến truyền kỳ và truyện thơ Nôm đều đã ấp

ủ một mong muốn như thế. Từ Thức và Giáng Hương gặp nhau trong mối duyên

được lý giải bằng nguyên cớ tiền định và mối tình trần – tiên này đã được các

thế hệ tác giả ca tụng như một biểu hiện đẹp của tinh thần giải phóng mang ý

nghĩ nhân văn cao đẹp của thời đại mình.

Tuy nhiên, các tác giả để chàng Từ Thức gửi gắm khá nhiều kỳ vọng vào

cuộc sống tự do, tình yêu tự do của mình nên khi đã đạt được mối duyên như ý,

cuộc sống như ý, vì sung sướng quá mức mà hân hoan ca tụng nên quên mất

59

mình từng được rèn giũa bằng đạo lý thánh hiền cần phải tu thân, tề gia, trị

quốc… “Trai thời lấy hiếu làm đầu” nên đã xảy ra bi kịch. Từ Thức sống trong

niềm sung sướng của cuộc sống giàu sang và người vợ tiên xinh đẹp nhưng

không thể quên được nỗi nhớ cha mẹ già, nỗi nhớ quê hương. Chàng Từ Thức rõ

ràng là một nho sĩ bội đạo, li kinh, cố tình đi chệch khỏi quỹ đạo của những nhà

Nho chính thống. Cái công thức con người công danh, sự nghiệp, tiếng thơm đã

phai nhạt dần để nhường chỗ cho con người tình ái. Chính biểu hiện này đã phản

ánh phần nào thực trạng xã hội đương thời: Con người thời bấy giờ đã coi cuộc

sống khuôn mẫu chỉ là bình phong cho cuộc sống tự do phóng khoáng. Chứng tỏ

nhu cầu giải phóng cá nhân của con người đã phát triển mạnh mẽ và sự thất thế

của tư tưởng Nho gia. Từ Thức thực sự là một kiểu nhân vật nổi loạn: dám nghĩ,

dám làm, dám sống cuộc sống của chính mình trong cái xã hội đầy rẫy những

bất công, gò bó, chật hẹp. Xây dựng một hình tượng Từ Thức tài năng, phóng

túng, không ham danh lợi, chán ghét cuộc sống tù túng chật hẹp trong vòng

cương toả của xã hội phong kiến chứng tỏ các tác giả truyện cổ tích, truyện

truyền kỳ, truyện thơ Nôm đều mong muốn thể hiện mạnh mẽ khát vọng về một

cuộc sống tự do và tình yêu tự do.

Câu chuyện tình yêu Từ Thức - Giáng Hương mãi mãi vẫn là câu chuyện

tình yêu đẹp giữa người và tiên. Nó là biểu tượng cho những khát khao tự do

trong tình yêu của con người. Đây là một câu chuyện tình yêu vượt ra ngoài

những chuẩn mực đạo đức, lễ giáo, luân lý đạo Nho. Dưới ngòi bút của tác giả

dân gian, tác giả Nguyễn Dữ và tác giả truyện thơ Nôm, câu chuyện tình yêu

lãng mạn giữa Từ Thức - Giáng Hương không phải chịu bất cứ sự ràng buộc nào

của lễ giáo phong kiến. Tuy nhiên các tác giả đều phải để tình yêu ấy tồn tại

trong một thế giới khác – một thế giới với những thần tiên không có thực.

Nhưng câu chuyện tình yêu của họ vẫn phản ánh khát vọng sống, khát vọng tình

yêu lứa đôi mạnh mẽ của con người. Sự đồng cảm với những khát vọng tự do

trong tình yêu, hôn nhân của Nguyễn Dữ là sự tiếp nối những khát vọng của

người xưa gửi gắm trong câu chuyện cổ tích về chàng Từ Thức thích ngao du

60

sơn thuỷ rồi một ngày kia lạc vào động tiên và lấy vợ tiên. Qua cuộc đối thoại

giữa các chư tiên về câu chuyện tình yêu xưa nay cho thấy đây đều là lẽ thường

như: “Chuyện Ngưu Tăng Nhụ đời Đường gặp các nàng tiên ở đền Bạc thái

hậu; Chuyện Sở Vương chơi ở quán Cao Đường, gặp một nàng thần nữ, cùng

chung chăn gối; Chuyện Thần nữ ở Lạc Phố tên là Bật Phi, con gái vua Phục

Hy. Lý Quần Ngọc có chép chuyện Trần Tư Vương gặp thần nữ ở Lạc Phố;

Chuyện nàng tiên Giáng Phi chơi ở bên sông gặp Trịnh Giao Phủ, cởi ngọc

minh châu mà tặng cho. Trịnh nhận được ngọc đi được mấy chục bước thì ngọc

không còn nữa mà những nàng kia cũng biến mất; Chuyện Chàng Tiêu Sử giỏi

thổi ống tiêu, vua Tần Mục Công đem con gái là Lộng Ngọc gả cho. Chàng dạy

nàng thổi tiêu, chim phượng hoàng nghe tiếng bay đến. Sau vợ chồng cùng cưỡi

phượng mà bay lên trời; Chàng Văn Tiêu gặp nàng tiên Thái Loan ở núi Tây tại

đất Chung Lăng, hai người lấy nhau. Ngọc nữ Đỗ Lan Hương lấy Trương Thạc.

Sau nàng về trời, Trương Thạc rất thương nhớ…”. Nên Từ Thức nói với Giáng

Hương: “Thì ra tất cả các cõi trời đều có chuyện phối ngẫu cả.”

Sợi tơ gắn kết tình yêu là chữ “Duyên” trong “Duyên phận”. Câu chuyện

về chàng Từ Thức lấy vợ tiên là bởi có duyên trời định. Nói đến chữ “Duyên” là

nói đến các mối quan hệ và ảnh hưởng qua lại của sự vật, khái niệm này được

bắt nguồn từ quan niệm của đạo Phật: “Duyên là những mối quan hệ nương tựa

lẫn nhau mà tồn tại của các hiện tượng. Các hiện tượng ở thế gian là vô thường,

thường sinh thường diệt. Nhưng sự biến hoá của chúng là có quy luật” [80, tr.

294]. Chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương từ lần gặp gỡ, cứu nạn tình cờ

ở hội xem hoa mẫu đơn rồi sau đó lại không hẹn mà gặp lại ở tiên đảo là do có

duyên với nhau từ kiếp trước. Chữ duyên là điểm tựa vô hình, là động lực của

tình yêu để họ tìm đến nhau và nên duyên chồng vợ. Mặc dù ca ngợi tình yêu tự

do vượt lễ giáo nhưng tác giả lại không nhấn mạnh vào việc giải phóng tự do

hoan lạc, những khát vọng bản năng của con người. Chàng Từ Thức trong mọi

hành động lời nói của mình đều được khắc hoạ một cách nho nhã, thanh lịch,

hào hoa. Vì vậy mối tình Từ Thức - Giáng Hương không có nhiều yếu tố ly kỳ,

61

ma quái mà gần với những mối tình của những tài tử giai nhân khác. Cho nên dù

viết lại cốt truyện cổ tích, cốt truyện truyền kỳ thì truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện vẫn mang đặc trưng của kiểu truyện giai nhân tài tử.

Nhóm tác giả Lê Văn Quán, Kiều Thu Hoạch, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn

Thanh Xuân trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 14B, trang 236 có viết:

“Riêng Từ Thức tân truyện của tác giả khuyết danh… tác phẩm gợi ra một

khuynh hướng hoàn toàn trữ tình, gác bỏ mọi ý nghĩa khách quan, không chú ý

đến những tư tưởng thoát ly yếm thế, những màu sắc tiên phật hoang đường, mà

hoàn toàn là câu chuyện tình duyên trọn vẹn. Ba nhân vật chính trong truyện

(Từ Thức, Giáng Hương và Kim Tiên) đều là những tâm hồn phong phú, tha

thiết với yêu đương. Tác giả khuyết danh đã xoay hẳn chủ đề quen thuộc của cổ

tích trong Truyền kỳ mạn lục”. Ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII - XIX, thời kỳ

phong kiến suy tàn, truyện thơ Nôm nói chung đều hướng về cuộc sống thực của

những con người bình dân với những vui buồn trần thế, những khát khao hạnh

phúc rất giản dị, đời thường. Mặt khác, khi hệ tư tưởng chính thống vốn ràng

buộc con người bị lỏng lẻo thì người ta cũng mong muốn phá tan thật nhanh cái

gông xiềng đã trói buộc tự do đối với con người đã mấy thế kỷ nay. Đây là lúc

khát vọng sống tự do, khát vọng tình yêu tự do cất lên mạnh mẽ như một nhu

cầu tất yếu của con người. Theo nhà nghiên cứu Lại Hữu Ân, trong “Loại hình

tác giả văn học và vấn đề phương pháp luận nghiên cứu”, Tạp chí văn học, số 2,

(1996): “Trong khi số nhiều truyện thơ Nôm nhất là những tác phẩm được gọi

là truyện “Nôm khuyết danh”, “truyện thơ Nôm bình dân” thể hiện tình yêu và

hôn nhân chung thuỷ như một phẩm chất đạo đức,…”

Có thể nói, đến truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm

Từ Thức tân truyện, mối tình Từ Thức - Giáng Hương là một tình yêu tự do,

phóng khoáng, chủ động, là niềm tin của con người vào duyên phận. Vì vậy,

phản ánh và đề cao tình yêu tự do chính là khía cạnh rất nhân văn trong hai tác

phẩm Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện.

62

2.3.2. Cảm xúc tình yêu và yếu tố tính dục trong truyện truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện.

Một trong những đề tài lớn của văn học Việt Nam từ thế kỷ XVI đến nửa

đầu thế kỷ XIX là đề tài tình yêu tự do, phóng túng, vượt ra ngoài vòng cương

toả của lễ giáo phong kiến. Truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ

Nôm Từ Thức tân truyện đã kế thừa có sáng tạo về nội dung phản ánh cảm xúc

tình yêu và yếu tố tính dục từ truyện cổ tích Sự tích Động Từ Thức. Cảm xúc

tình yêu và yếu tố tính dục là một trong những nội dung mới trong văn học từ

thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Tác giả Phạm Văn Hưng trong bài nghiên cứu

“Tính dục trong văn học Việt Nam trung đại thế kỷ XVI - XIX” cho rằng “Nhìn

lại dòng chảy của những “tiếng dâm” trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại

thế kỉ XVI - XIX cũng là nhìn lại một phần diện mạo tinh thần của người xưa

trong đời sống tình dục, để thấy những chuẩn mực tính dục đã được thiết lập và

bị vượt qua như thế nào trong thực tế, dù đó chỉ là thực tế của văn bản, con chữ

và tư tưởng” [31].

Tính dục mang trong nó nhiều ý nghĩa về giá trị con người, trong khi đó

tình dục chỉ thể hiện duy nhất một khía cạnh thuộc về bản năng cốt lõi là những

khao khát được giao cảm, giao tình của con người. Tính dục không gợi lên ở

người đọc khao khát nhục cảm tầm thường mà nó chuyển tải những ý nghĩa

quan trọng về nhân sinh, về con người, về xã hội. Tính dục trong văn học Việt

Nam trung đại thế kỷ XVI – XIX đã thể hiện những tư tưởng tiến bộ, dân chủ

lần đầu tiên vang lên một cách ào ạt, vũ bão trong suốt tiến trình phát triển của

văn học Việt Nam. Bởi vậy, nội dung mà chúng tôi muốn thể hiện ở đây là

những giá trị về con người, những khát vọng tình yêu, hạnh phúc chân chính

như một nhu cầu thiết yếu của con người mà truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ

tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện có đề cập đến.

Thế kỷ XVI, trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, đề tài về

tình yêu vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến và yếu tố tính dục đã được đề cập đến

như những câu chuyện tình yêu có ân ái xác thịt của Trung Ngộ với hồn ma Nhị

63

Khanh, hay của Hà Nhân với các hồn hoa trong trại Tây... Tuy nhiên nó chỉ giấu

mình trong những câu chuyện thần tiên, ma quái, kiểu tình yêu bị yêu ma mê

hoặc (Chuyện cây gạo, Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây…), thì đến giai đoạn nửa cuối

thế kỷ XVIII sang đầu thế kỷ XIX khi bản ngã con người được khẳng định, con

người đã làm chủ ý thức của chính mình, cảm xúc yêu đương say đắm không

còn phải giấu mình trong những câu chuyện thần tiên, ma quái nữa mà nó đã

được đề cậu một cách công khai trực tiếp. Hoặc nếu có mượn một câu chuyện

thần tiên để nói về tình yêu, thì lời của nhân vật được phát huy tối đa, ngôn ngữ

đối thoại, hay độc thoại của nhân vật đã nói lên những xúc cảm cá nhân mãnh

liệt, trái tim yêu của con người đã thực sự được rung lên với những nhịp đập của

nó như câu chuyện khuyết danh Nữ tú tài, Bích Câu kỳ ngộ của Vũ Quốc Trân,

hay Mai Đình mộng ký của Nguyễn Huy Hổ… Những truyện thơ Nôm ở giai

đoạn văn học này đã thể hiện sâu sắc cảm xúc yêu đương mãnh liệt và mang đầy

yếu tố tính dục. Trong số đó, truyện thơ Nôm khuyết danh Từ Thức tân truyện

chưa phải là câu chuyện tiêu biểu nhất cho chủ đề này xong cũng là một minh

chứng. Sau gặp gỡ, cứu nạn rồi chia tay, song cả hai - nàng tiên Giáng Hương và

ông quan trẻ Từ Thức đều thấy ngẩn ngơ cõi lòng. Trong Từ Thức lấy vợ tiên,

tác giả Nguyễn Dữ không nói nhiều đến nỗi lòng tương tư của Từ Thức sau lần

đầu gặp gỡ, cứu nạn Giáng Hương. Nhưng trong truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện, có thể thấy lửa tình đã bén ngay từ cái nhìn đầu tiên:

Từ lang khấp khởi lòng mừng,

Hoa may dun dủi, Các Đằng gặp nhau.

Lần tơ tay gỡ mối sầu,

Đỡ hoa trận gió, nâng châu bóng dầm.

Vén mây mở mặt trăng rằm,

Vành đan quế đã tối sầm, lại trong.

Ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên ấy, trước sự “dịu dàng” và “tiếng nói vẻ

thanh” của Giáng Hương đã khiến chàng Từ Thức “vẩn quanh tấc niềm”. Tình

yêu của chàng Từ Thức đã được thể hiện không ngần ngại:

64

Đã yêu nhau dám tiếc lời,

Miễn là khỏi lụy đến người hồng nhan.

Há rằng đâu dám làm ơn,

Xét lòng cho, ấy là hơn đền bồi.

Nay đà giáp mặt rõ mười,

Lượng xuân xin đoái đến người tấc công.

Để cùng nguyện trước cửa không,

Tạc ghi hai chữ: tâm đồng nên chăng?

Cảm động trước tình cảm chân thành của Từ Thức, nàng tiên Giáng

Hương cũng không ngần ngại trút tỏ nỗi niềm:

Niềm ân ái ấy, đãi đằng xiết đâu.

Lọ là thề trọng nguyền sâu,

Thiếp vâng minh khắc, dám đâu quên lòng.

Bây giờ chưa tiện gạn gùng,

Dám xin nghĩa ấy để lòng mà thôi.

Từ Thức và Giáng Hương nhờ vào ngày hội xem hoa mẫu đơn mà gặp gỡ,

họ gặp nhau một cách trực tiếp mà không cần đến vai trò của một cá nhân nào

mai mối. Tất cả chỉ là ngẫu nhiên, tình cờ. Nàng tiên Giáng Hương trốn xuống

trần gian để xem hội hoa, còn chàng quan trẻ Từ Thức vì ham thích cảnh đẹp

quê hương, đất nước mà rảo bước đó đây. Họ đều có điểm chung là yêu hoa,

mến cảnh và không gian hội hoa tưng bừng sức sống, đầy vẻ tươi vui thi vị của

đất trời lại chính là không gian gặp gỡ của đôi tình nhân đang ở độ tuổi rạo rực

khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Mượn yếu tố ngẫu nhiên thần kỳ như một thao tác

kỹ thuật để tạo điểm tựa khởi đầu cho một tình yêu tự do vượt ngoài vòng cương

toả cũng chính là ngụ ý nghệ thuật của tác giả dân gian, tác giả Nguyễn Dữ và

tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện.

Nếu ở truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, nàng tiên Giáng

Hương sau lần gặp gỡ người cứu nạn mình trong hội xem hoa mẫu đơn năm ấy,

trong lòng đã tương tư tưởng nhớ khiến cho thân xác hao gầy. Vì vậy, khi gặp

65

lại người mình thầm yêu trộm nhớ, được Kim Tiên tác hợp nhân duyên nàng đã

không ngại ngần gì khi tỏ bày nỗi niềm cùng Từ Thức: “không như thiếp bảy

tình chưa sạch, trăm cảnh dễ sinh, hình ở phủ tía nhưng lụy vướng duyên trần,

thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục”. Cũng như lời của một vị tiên nhận xét

về Giáng Hương khi nàng được làm lễ giao bái cùng người mình thầm yêu trộm

nhớ bấy nay: “Nương tử hôm nay màu da hồng hào, chứ không khô gầy như

trước nữa. Người ta bảo ngọc nữ không chồng, câu ấy hỏi có tin được không?”.

Hay về sau, trong số những bài thơ Từ Thức đề trên bức bình phong trắng, ngoài

những bài hoạ cảnh đẹp chốn thần tiên cũng có bài chàng cũng đã dùng những

hình ảnh ước lệ để nói về cảnh chăn gối, ân ái của hai vợ chồng như:

Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng,

Khiếp đối suy nhan bả kính dung.

Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng,

Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.

Dịch:

Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung,

Gương võ vàng soi luống thẹn thùng.

Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp,

Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.

Có thể nói, trong truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ tuy

còn dè dặt khi đề cập đến cảnh phòng the, cảnh ái ân của đôi vợ chồng trẻ nhưng

qua những biểu hiện về sự đổi sắc của vẻ mặt, màu da của nàng Giáng Hương và

cách sử dụng những hình ảnh ước lệ nói về cảnh chăn gối vợ chồng trong những

câu thơ của Từ Thức đề trên bức bình phong cũng đã ít nhiều cho thấy yếu tố

của tính dục được nói đến trong câu chuyện.

Đến truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện, tác giả đã mạnh dạn hơn trong

cách thể hiện cảm xúc yêu đương và yếu tố tính dục. Lại nói đến cảnh chia tay

của buổi đầu gặp gỡ của đôi uyên ương Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương.

Chàng Từ Thức kể từ bữa đó đã mang nặng nỗi niềm tương tư, lúc nào cũng tơ

66

tưởng đến hình bóng người con gái mình đã cứu nạn, không biết còn có gặp lại

hay không?

Dặm mây đường liễu chia hai,

Người tiên còn chút tình rơi cõi trần.

Để cho lòng khách nhọc nhằn,

Ngày mong tin thước, đêm lần gối uyên.

Biết ai mà hỏi sự duyên,

Khi buồn thì lại trông miền cựu du.

Vườn xuân hoa nở tranh đua,

Am mây còn tưởng non Vu những ngày.

Còn trời còn nước còn mây,

Mà người tri kỷ vắng rầy biết sao.

Ái tình không chọn người mà đến. Bệnh tương tư là căn bệnh mấy ai chữa

được xưa nay, chỉ trừ khi người mang bệnh được đáp trả bằng tình yêu của

người mình yêu. Bởi vậy, khi tương tư người con gái gặp mặt ở hội hoa mẫu

đơn, chàng Từ Thức ngày đêm tưởng nhớ tới nàng đến nỗi biếng ăn, biếng việc,

thân xác hao gầy:

Giấc nào là chẳng chiêm bao,

Bữa nào là chẳng khát khao âm thầm.

Sầu dường bể, khắc dường năm,

Câu thơ biếng nghĩ, khúc cầm biếng khêu

Tiếng mây, tiếng gió, tiếng triều,

Đàn khuya tiếng dế, mõ chiều tiếng quyên.

Người buồn gặp cảnh thêm phiền,

Tiếc người nhớ cảnh đôi phen trạnh lòng.

Cảm xúc yêu đương mãnh liệt trào dâng trong cả tiềm thức lẫn vô thức,

nỗi niềm khát khao yêu đương, khát khao hạnh phúc lứa đôi luôn thường trực cả

khi thức lẫn khi ngủ. Chàng Từ Thức kể từ khi gặp nàng tiên Giáng Hương,

không chỉ lơ đãng chuyện công danh đèn sách mà còn sẵn sàng từ bỏ cả con

67

đường hoạn lộ mà trước đây mình đã lựa chọn, thậm chí để ngoài tai những lời

quở trách, chê bai, quyết treo ấn từ quan quyết bỏ đi du ngoạn muôn nơi chân

trời góc bể để tìm cảm giác sống tự do hay cũng chính là niềm mong có ngày

gặp lại người tri kỷ:

Những là mơ tưởng chốc mòng,

Chữ cần chểnh mảng, chữ công ơ hờ.

Gác văn pháp, bỏ án từ,

Nha đình nhãng việc, thai tư trọng lời.

Giàu sang gác để một bên,

Ấn treo thiên khuyết, sắc niêm huyện tào.

Nhân vật Từ Thức trong truyện thơ Nôm đã đi chệch khỏi quỹ đạo chính

thống của lý tưởng công danh. Cảm xúc yêu đương say đắm mà chàng dành cho

Giáng Hương qua nỗi niềm tương tư sau lần gặp mặt và cứu nạn ở hội xem hoa

mẫu đơn ấy đã là cú hích lớn, làm cho điểm xuất phát ban đầu của người nho sĩ

bị chệch hướng, nhường chỗ cho con người tình ái mãnh liệt sôi nổi. Chàng Từ

Thức trong truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đúng là đã có sự khác biệt rất

nhiều so với chàng Từ Thức trong truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên của

Nguyễn Dữ trong cảm xúc tình yêu và khát khao hạnh phúc. Điều dễ hiểu là

truyện thơ Nôm bình dân ra đời và phát triển cực thịnh vào khoảng thế kỷ

XVIII, đầu thế kỷ XIX, khi tư tưởng chính thống bị khủng hoảng, trào lưu tư

tưởng dân chủ lớn mạnh, lối sống thị dân ít nhiều đã tác động tới tâm thế ứng xử

của con người, con người cá nhân, ái tình được đề cao. Nó gắn với nhu cầu đòi

quyền sống, khát khao giải phóng con người cá nhân, giải phóng tình yêu, đề

cao yếu tố tính dục. Bởi vậy kiểu nhân vật Từ Thức trong truyện thơ Nôm Từ

Thức tân truyện ít nhiều mang hơi thở thời đại.

Quan niệm trong tình yêu, tình dục là cội nguồn của hạnh phúc, là một

trong những phương diện thể hiện rõ nhất sự tự do của bản ngã. Đây cũng là

quan niệm sống đúng với bản năng tự nhiên của con người. Các tác giả Nguyễn

68

Hữu Sơn, Trần Đình Sử trong cuốn “Về con người cá nhân trong văn học cổ

Việt Nam”, đã khẳng định: “Thỏa mãn cuộc sống bản năng cũng là một khát

vọng chính đáng của con người giống như bất cứ một khát vọng chính đáng

nào” [62, tr 171]. Vì vậy, trong hầu hết các truyện thơ Nôm, kể cả truyện thơ

Nôm bình dân hay truyện thơ Nôm bác học từ thế kỷ XVIII đến XIX, cảm xúc

yêu đương và yếu tố tính dục đều được thể hiện rõ nét. Trong truyện thơ Nôm

khuyết danh Nữ tú tài, tác giả đã kể về đêm thành thân của Phi Nga và Tử Trung

thật say đắm:

Vui vầy bể ái nguồn ân,

Mưa tuôn đỉnh Sở, mây vần ngàn Tương.

Khắc giờ hơn nợ nghìn vàng,

Say sưa vẻ nguyệt, mơ màng giấc mai.

Hay trong Bích Câu kỳ ngộ của Vũ Quốc Trân, những cảnh đắm say trong

hoan lạc của tiên nữ Giáng Kiều và chàng Tú Uyên cũng được miêu tả bằng

những hình ảnh thơ ý nhị đầy tính ước lệ:

Tả tơi mấy lũ hoa hoàn,

Giải chăn phỉ thúy buông màn phù dung,

Phòng tiên dìu dặt chén đồng,

Rèm tương rủ thấp, đuốc hồng điểm cao.

Buồm ngư đóng cửa động đào,

Mây tuôn bể ái, mưa dào sông ân.

Mấy vàng giá được khắc xuân,

Xưa nay tài tử giai nhân lạ gì.

Trong truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện, tác giả khuyết danh cũng đã

miêu tả cảnh ân ái vợ chồng của chàng Từ Thức với nàng Giáng Hương khi

chàng còn sống ở động tiên bằng những câu thơ thật ấn tượng:

Mộng hồn say giấc mây mưa,

Đá Vu Sơn tạc tiếng dư Cao Đường.

Mấy thu chăn chiếu hồ sàng,

69

Bụi Chiêu Quân lấp gối chàng Ngưu Sinh.

Như vậy, những cảm xúc tình yêu tự do, quyền tự do trong tình cảm,

trong khát khao giao cảm đầy bản tính người mang yếu tố tính dục đã được

cất lên không kém phần mạnh mẽ, nhất là trong những tác phẩm truyện thơ

Nôm ở cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX và truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện cũng góp phần trong tiếng nói chung ấy.

70

Tiểu kết Chương 2

Truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ

tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện không chỉ là câu chuyện tình yêu

huyền thoại mang màu sắc hoang đường của một văn nhân và tiên nữ, hay một

câu chuyện nhằm giải thích tên địa danh mà còn là câu chuyện của vấn đề nhân

sinh. Truyện phản ánh sự tương quan của tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo

giáo, phản ánh sự bế tắc trong tư tưởng và lối sống của nho sĩ trong xã hội

phong kiến cùng xu hướng muốn rời bỏ Nho giáo để tìm đến Đạo giáo của một

bộ phận nho sĩ trong xã hội Việt Nam thời phong kiến, nhất là từ thế kỷ XVI đến

thế kỷ XIX.

Hơn thế, từ việc mượn cốt truyện dân gian để sáng tác thành một tác

phẩm văn học viết mang đậm dấu ấn tác giả, các tác phẩm truyện truyền kỳ Từ

Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện không chỉ khẳng định

tài năng của lớp trí thức Việt trong xã hội đương thời, mà thông qua câu chuyện

tình giữa Từ Thức và Giáng Hương, các tác giả cũng đã nói lên những khát vọng

về cuộc sống tự do, tình yêu tự do vượt ra khỏi vòng cương toả của lễ giáo

phong kiến của tầng lớp nho sĩ đương thời.

Đặc biệt, với tư tưởng nhân văn tiến bộ, tiếng nói của cảm xúc tình yêu và

yếu tố tính dục cũng đã được khẳng định trong truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ

tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện. Nội dung này đã góp phần khẳng

định bước tiến mới của thể loại truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm nói chung

trong văn học trung đại Việt Nam.

71

Chương 3

SỰ KẾ THỪA VÀ BIẾN ĐỔI TRÊN MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN

NGHỆ THUẬT QUA BA TÁC PHẨM

3.1. Sự kế thừa một số phương diện nghệ thuật từ Sự tích động Từ Thức đến

Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện

3.1.1. Kế thừa mô hình kết cấu cốt truyện

Trong quá trình hình thành một tác phẩm tự sự, kết cấu cốt truyện đóng

vai trò rất quan trọng. Có thể nói, để tạo ra sức hấp dẫn cho tác phẩm nghệ thuật

của mình, mỗi nhà văn phải có ý thức ngay từ khâu thực hiện việc tạo dựng kết

cấu cốt truyện.

Khái niệm kết cấu cốt truyện được hiểu theo nghĩa rộng, nó bao gồm cả

bố cục tác phẩm, tổ chức hệ thống tính cách nhân vật, tổ chức thời gian và

không gian nghệ thuật, nghệ thuật trình bày các yếu tố cốt truyện… Nói một

cách ngắn gọn kết cấu cốt truyện là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của

tác phẩm. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Nhàn “Kết cấu cốt truyện chính là

cách tổ chức, sắp xếp, gắn kết hệ thống chi tiết, sự kiện xảy ra đối với nhân vật

theo một trật tự nhất định, theo yêu cầu tư tưởng của người nghệ sĩ” [53, tr 67].

Như vậy, kết cấu cốt truyện chính là việc sắp xếp hợp lý, theo trật tự

logic hệ thống các sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự, thể hiện

mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định để

làm rõ chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Trong thực tế sáng tác, một tác phẩm nghệ thuật - đứa con tinh thần của

nhà văn, dù ngắn hay dài về dung lượng, khi muốn trở thành một tác phẩm hoàn

hảo để ra mắt bạn đọc, để chiếm được tình yêu quý từ bạn đọc thì việc cần thiết

đầu tiên là nhà văn đó phải tạo nên một kết cấu truyện mạch lạc và hấp dẫn. Dù

thế nào thì kết cấu tác phẩm cũng phải gắn bó chặt chẽ với nội dung cuộc sống

và tư tưởng trong tác phẩm.

Truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện là hai tác phẩm của văn học viết thế kỷ XVI và thế kỷ XIX. Tuy là hai tác

72

phẩm thuộc hai thể loại văn học có mặt sau truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức

nhưng cả hai tác phẩm này đều kế thừa kết cấu cốt truyện, hệ thống nhân vật, sự

phát triển các tình tiết sự kiện chính, yếu tố hoang đường kỳ ảo, môtip không

gian, thời gian xuất hiện trong truyện cổ dân gian. Dựa trên cơ sở truyền thống

tự sự dân gian tác giả Nguyễn Dữ cũng như tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện đã tạo nên những tác phẩm mang dấu ấn riêng dựa trên cái nền văn học

dân gian. Qua việc tìm hiểu sự kế thừa và thay đổi kết cấu cốt truyện từ Sự tích

động Từ Thức đến Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện ta sẽ nhận thấy

những đóng góp to lớn của tác giả Nguyễn Dữ cũng như tác giả của truyện thơ

Nôm khuyết danh Từ Thức tân truyện đối với nền văn học nước nhà.

Truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện đã kế thừa mô hình kết cấu cốt truyện Sự tích động Từ Thức gồm hai

phần. Phần một: Từ Thức gặp tiên, phần hai: bi kịch Từ Thức, hay nói theo cách

khác là kết cấu theo môtip: Gặp gỡ - kết duyên – chia ly. Hai tác phẩm này cũng

đã kế thừa mô hình xây dựng kết cấu cốt truyện theo ba sự kiện cơ bản: Phần mở

đầu là giới thiệu thời gian và sự xuất hiện của nhân vật chính cùng tên tuổi, gốc

gác và phẩm chất nhân vật. Phần nội dung chính kể lại diễn biến câu chuyện với

các sự kiện, tình tiết nối tiếp nhau diễn ra theo một trình tự thời gian. Ở phần

này, với điểm nhìn toàn tri người kể chuyện tái hiện lại diễn biến cuộc đời của

nhân vật Từ Thức. Chàng Từ Thức từ khi bỏ chức quan huyện Tiên Du đi du

ngoạn khắp nơi cho tới khi lạc vào động tiên, kết hôn với nàng tiên xinh đẹp

Giáng Hương rồi sống cùng nàng một năm trên tiên giới, nhớ quê hương về

thăm quê nhưng không thể gặp lại người thân được nữa vì thời gian ở cõi trần đã

trải qua 80 năm. Kết thúc truyện là câu trả lời cho số phận nhân vật chính. Với

lối kết cấu cốt truyện theo trình tự thời gian này, người đọc dễ dàng trong việc

theo dõi tiến trình phát triển của cốt truyện.

Đối chiếu kết cấu nội dung của truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và

truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện với truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức ta

thấy sự khác biệt không nhiều, có thể tóm tắt như sau:

73

- Từ Thức là người Hoá Châu, làm tri huyện Tiên Du, từng cởi áo gấm

chuộc lỗi cho một cô gái bị bắt giữ vì lỡ tay làm gẫy cành hoa mẫu đơn.

- Tính tình phóng khoáng, không thích cảnh sống nịnh trên, nạt dưới, từ

quan đi ngao du sơn thuỷ.

- Từ Thức lạc vào thế giới tiên, lấy vợ tiên.

- Một năm sau, Từ Thức nhớ quê, về trần gian mọi thứ đã khác xưa vì một

năm trên cõi tiên bằng trăm năm dưới trần gian.

Như vậy, về cơ bản mô hình kết cấu nội dung ở truyện truyền kỳ Từ

Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện vẫn được bảo lưu trọn

vẹn. Tuy nhiên, ở mỗi tác giả truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm, bên cạnh

những kế thừa về kết cấu cốt truyện dân gian Sự tích động Từ Thức, họ cũng đã

bổ sung thêm những sự kiện, những tình tiết mới để làm phong phú hơn cho

tác phẩm của mình. Sự biến đổi về kết cấu cốt truyện trong truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện sẽ được chúng tôi nói rõ ở

phần sau.

3.1.2. Kế thừa môtip truyện

Môtip là đơn vị tham gia cấu tạo cốt truyện được hình thành ổn định bền

vững, được sử dụng phổ biến và lặp đi lặp lại trong các sáng tác văn học để

nhằm thể hiện một quan niệm nào đó của tác giả. Trong văn học, môtip “người

trần kết duyên cùng tiên nữ”, “Tình yêu và hôn nhân kỳ dị” và “Người lạc vào

thế giới khác”… không phải chỉ có duy nhất trong văn học dân gian truyền

miệng mà trong những tác phẩm văn học viết như truyện truyền kỳ, truyện thơ

Nôm cũng xuất hiện. Trong tâm thức người đọc, loại môtip này xuất hiện có ý

nghĩa ban thưởng hay đền bù cho những người có số phận bất hạnh nhưng lại có

những hành động và tấm lòng cao đẹp.

Ở những truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm bình dân có cốt truyện từ

văn học dân gian, việc sử dụng các môtip của văn hoc dân gian đã trở nên quen

thuộc, các môtip có nguồn gốc từ văn hoc dân gian được sử dụng như một

phương tiện nghệ thuật để bộc lộ nội dung tư tưởng cho tác phẩm. Thực chất của

74

việc sử dụng môtip trong tác phẩm văn học là không phụ thuộc vào dung lượng

tác phẩm mà chủ yếu phụ thuộc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả và nội dung của

tác phẩm. Vì vậy mỗi môtip trong một tác phẩm mang một ý nghĩa nhất định về

mặt nội dung, do đó trong tác phẩm của mình, tác giả sử dụng môtip rất linh

hoạt và phù hợp.

Truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ và truyện thơ Nôm khuyết

danh Từ Thức tân truyện đã bảo lưu trọn vẹn các môtip: Người trần kết duyên

cùng tiên nữ, đi lễ chùa, lên cõi tiên, hồi hương,… của truyện cổ tích Sự tích

động Từ Thức. Cả hai tác giả truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm đều sử dụng

các môtip này của truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức như một phương tiện

nghệ thuật để bộc lộ nội dung tư tưởng trong sáng tác của mình. Nếu trong

truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, tác giả dân gian sử dựng môtip này chủ yếu

nhằm mục đích lý giải cho một tình yêu huyền thoại, một hiện tượng ly kỳ, một

địa danh kỳ thú mà ít nhấn mạnh vào hành vi từ quan, chán ghét cuộc sống chốn

quan trường, thì đến truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ

Thức tân truyện, tác giả Nguyễn Dữ và tác giả truyện thơ Nôm khi kế thừa các

môtip trên của truyện cổ tích đã chú trọng đến hành động treo mũ từ quan, thể

hiện một thái độ bất hợp tác, đối nghịch với thể chế đương thời. Thoát tục lên

tiên là cái cách con người ta trốn chạy thực tại thối nát, xấu xa, là ẩn ý phê phán

xã hội. Con người khi không thể tìm thấy niềm vui, hạnh phúc thực sự ở cõi trần

gian thì phải tìm đến chốn tiên cảnh. Nội dung này chúng tôi sẽ trình bày chi tiết

ở phần sau.

Khá đa dạng về số lượng môtip cùng với giá trị nội dung biểu đạt phong

phú, các môtip trong truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức đã được truyện truyền

kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện sử dụng và phát

huy thành công những nội dung biểu đạt mà các môtip đem lại.

3.1.3. Kế thừa yếu tố thần kỳ và ngẫu nhiên

Yếu tố thần kỳ và ngẫu nhiên là hai yếu tố quan trọng tham gia vào nội

dung cốt truyện, giúp nội dung cốt truyện phát triển. Trong truyện truyền kỳ Từ

75

Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ và truyện thơ Nôm khuyết danh Từ Thức tân

truyện, nhân vật Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương đều gặp gỡ nhau trong

những tình huống được xây dựng nhờ yếu tố thần kỳ hoặc ngẫu nhiên. Biểu hiện

của yếu tố thần kỳ trong các truyện này là Ngụy phu nhân (Kim tiên) – nhân vật

có khả năng siêu việt, nhân vật tạo ra tình huống thuận lợi cho Từ Thức và

Giáng Hương kết hôn với nhau trong truyện cổ tích, truyện truyền kỳ và truyện

thơ Nôm, thậm chí còn giúp Từ Thức và Giáng Hương trong truyện thơ Nôm Từ

Thức tân truyện sau bao tháng năm cách biệt, nhớ nhung đã được tái hợp, đoàn

tụ trong niềm vui mừng khôn xiết:

Uyên ương lại hợp trướng đào,

Thẹn đều thẹn cả, mừng đều mừng chung.

Yếu tố thần kỳ là đặc trưng nghệ thuật cơ bản của truyện cổ tích thần kỳ nói

chung và của truyện Sự tích động Từ Thức nói riêng. Truyện truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ và truyện thơ Nôm khuyết danh Từ Thức tân truyện

đã bảo lưu yếu tố thần kỳ để hoá giải những khó khăn, giải mã những nút thắt

của các sự kiện trong tác phẩm. Khi tham gia vào truyện truyền kỳ hay truyện

thơ Nôm nói trên, cũng giống như truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, yếu tố

thần kỳ có tác dụng rút ngắn hay kéo dài cốt truyện theo mong muốn của người

kể chuyện mà không theo logic thực tế. Yếu tố thần kỳ đóng vai trò rất quan

trọng trong cốt truyện. Nếu không có yếu tố thần kỳ thì chàng Từ Thức là người

cõi trần không thể đến được cõi tiên, không thể kết hôn với nàng tiên Giáng

Hương - cô gái chàng đã từng cứu giúp trong hội xem hoa ngày trước, không thể

trở về trần gian hay không thể tái hợp với nàng tiên Giáng Hương và sống hạnh

phúc trên tiên giới như trong truyện thơ Nôm khuyết danh Từ Thức tân truyện.

Yếu tố thần kỳ đã phát huy tác dụng khi thực hiện nguyện vọng của nhân

dân, của nhân vật thuộc phe thiện. Những gì không thực hiện được ở ngoài đời, nhờ

yếu tố thần kỳ đều thực hiện được trong tác phẩm văn học một cách hoàn hảo.

Cùng với yếu tố thần kỳ, yếu tố ngẫu nhiên cũng được bảo lưu từ truyện

cổ tích Sự tích động Từ Thức đến truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên của

76

Nguyễn Dữ và truyện thơ Nôm khuyết danh Từ Thức tân truyện. Kế thừa yếu tố

ngẫu nhiên từ truyện cổ tích: chàng Từ Thức vô tình gặp gỡ và cứu nạn nàng

Giáng Hương ở hội xem hoa, rồi chàng được Ngụy phu nhân (Kim tiên) cho gặp

mặt một người quen cũ lại chính là nàng Giáng Hương – người đã được Từ

Thức cứu nạn, bất ngờ hơn là chàng được bà tiên gả con gái cho và rồi chàng

được sống cuộc sống sung sướng nơi tiên giới cùng người vợ tiên hiền thục…

Yếu tố ngẫu nhiên được truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm

Từ Thức tân truyện kế thừa từ truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức đều nhằm

mục đích tạo dựng tình huống truyện bất ngờ, nối dài sự kiện và kéo dài cốt

truyện, để nhằm đảm bảo cho tác phẩm phát triển theo đúng định hướng tư

tưởng của các tác giả.

Như vậy, những yếu tố thần kỳ và ngẫu nhiên đã được tác giả truyện Từ

Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện tiếp thu, bảo lưu trong

tác phẩm của mình để tạo thành sợi dây liên kết nội dung các phần của tác phẩm

theo một mạch logic nhất định. Do đó yếu tố thần kỳ và ngẫu nhiên luôn có ý

nghĩa quan trọng trong việc xây dựng nội dung của một tác phẩm. Có thể khẳng

định rằng cùng với môtip: “Người lấy vợ tiên”, yếu tố thần kỳ và yếu tố ngẫu

nhiên đã góp phần làm phong phú và hấp dẫn hơn cho nội dung truyện Từ Thức

lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện. Đồng thời góp phần tạo dấu

ấn cho hai tác phẩm này trong từng thể loại truyền kỳ và truyện thơ Nôm.

3.1.4. Kế thừa hệ thống nhân vật và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật

Nhân vật trong tác phẩm văn học luôn đảm nhiệm một chức năng quan

trọng là khái quát tính cách con người. Trong thực tế, tính cách con người lại là

một hiện tượng xã hội lịch sử nên chức năng khái quát tính cách của con người

cũng mang tính lịch sử, ở các môi trường khác nhau của đời sống, tính cách biểu

hiện khác nhau. Trong mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật, nhân vật luôn có vai

trò thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con

người thông qua các biến cố, sự kiện, xung đột, mâu thuẫn và chi tiết, khác nhau

cơ bản so với nhân vật trong các bộ môn nghệ thuật hội hoạ, điêu khắc. Nhân

77

vật trong sáng tác văn học chính là một chỉnh thể vận động, tính cách của nhân

vật trong tác phẩm bộc lộ dần trong không gian, thời gian nghệ thuật xuất hiện

trong tác phẩm văn học. Ở truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ

Nôm Từ Thức tân truyện, các tác giả truyền kỳ và truyện Nôm đều đã bảo lưu hệ

thống nhân vật chính, phụ và kế thừa nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật từ

văn học dân gian.

Về nhân vật, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ

Thức tân truyện vẫn có hai nhân vật chính là Từ Thức và Giáng Hương, các nhân

vật phụ là hai cô tiên áo xanh, bà tiên áo trắng, các chư tiên… Đặc biệt ở ba

truyện đều không có sự xuất hiện của loại nhân vật phản diện. Chính việc giữ lại

hầu hết nhân vật trong truyện cổ tích khiến các sự kiện liên quan đến các biến cố

của cuộc đời nhân vật đều được tác giả ghi lại khá giống nhau: từ việc chàng Từ

Thức gặp và cứu nạn Giáng Hương khi đi xem hội mẫu đơn, cho đến việc Từ

Thức chán ghét cảnh làm quan nịnh trên nạt dưới mà bỏ đi ngao du sơn thuỷ, lạc

vào động tiên, gặp lại và kết duyên cùng tiên nữ Giáng Hương, sau một năm

chung sống ở cõi tiên, chàng Từ Thức thấy nhớ quê hương, quyết định trở về trần

gian… Thời gian gặp gỡ, rồi các địa danh mà nhân vật đi qua hầu hết cũng vậy.

Về nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật: Các nhân vật chính trong cả

ba tác phẩm truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện truyền kỳ Từ Thức lấy

vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đều được xây dựng theo khuynh

hướng lý tưởng hoá. Nhân vật được xây dựng theo cách này có đặc điểm thống

nhất từ đầu đến cuối về mặt tính cách. Nhân vật xuất hiện với tính cách nào thì

kết thúc tác phẩm vẫn tồn tại với tính cách đó. Nhân vật được xây dựng theo ý

đồ của tác giả, phù hợp với tâm lý của thời đại và không theo quy luật phát triển

thông thường. Các tác giả đều xây dựng nhân vật Từ Thức, Giáng Hương với ý

niệm những người tài, sắc, tốt bụng, có phẩm chất tốt đẹp như chàng Từ Thức

và nàng tiên Giáng Hương trong truyện cổ tích. Tuy không chú trọng vào việc

miêu tả ngoại hình các nhân vật này, nhưng bằng nhiều cách khác nhau, tác giả

Nguyễn Dữ và tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã khéo léo bộc lộ vẻ

78

đẹp ngoại hình của chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương qua những lời

nói, cử chỉ, hành động cụ thể, hay qua cách miêu tả ước lệ. Ở truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên, Giáng Hương được miêu tả là một “cô con gái, tuổi độ 15,16 phấn

son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời”, còn ở truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện được miêu tả:

Nữ đằng vấn vít chồi mai

Mắt ngừng lệ ngọc, má thôi thức đào

Hoa buồn lệ ủ trăm chiều

Nhường đau Tây tử, nhường liều Duyên châu.

Vẻ đẹp kiều diễm của nàng tiên Giáng Hương đã khiến trái tim chàng

quan trẻ Từ Thức không thôi thổn thức ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên:

Tuy chưa giáp mặt bày tình,

Vì say vẻ phượng, dễ khuynh tơ lòng.

Nhân vật trong cả ba tác phẩm: truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức,

truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đều

được xây dựng với vẻ đẹp lý tưởng theo quan niệm thẩm mỹ của người Phương

Đông: người tốt là phải đẹp, vả đẹp ngoại hình song hành cùng vẻ đẹp đạo đức,

tâm hồn. Nghệ thuật lý tưởng hoá nhân vật giúp người nghệ sĩ khái quát được

một tầng lớp hay một kiểu người trong xã hội, tuy nhiên mặt hạn chế là nhân vật

sẽ không tạo được dấu ấn riêng.

3.2. Sự biến đổi một số phương diện nghệ thuật từ Sự tích động Từ Thức

đến Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện

3.2.1. Biến đổi về kết cấu cốt truyện

3.2.1.1. Biến đổi về kết cấu cốt truyện ở truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên

Truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, bên cạnh những kế thừa về kết cấu cốt

truyện, ta vẫn nhận thấy những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Dữ khi so sánh với Sự

tích động Từ Thức. Nếu ở loại hình tự sự dân gian, kết cấu cốt truyện thường đơn

giản và sơ lược thì khi phát triển thành văn học viết, kết cấu cốt truyện đã phức tạp

hơn nhiều. Dù có kế thừa kết cấu cốt truyện dân gian nhưng Nguyễn Dữ không sao

79

chép một cách thụ động, máy móc kết cấu cốt truyện này mà đã sáng tạo thêm

nhiều tình tiết, sự kiện mới cho tác phẩm của mình, để tác phẩm thực sự mang dấu

ấn cá nhân và tinh thần dân tộc. Như vậy, Nguyễn Dữ đã có công trong việc kế

thừa và làm mới một tác phẩm truyện kể dân gian thành một tác phẩm văn học viết

có khả năng phản ánh nhiều vấn đề quan trọng của đời sống hiện thực và có ảnh

hưởng lớn đến sự phát triển văn học viết ở giai đoạn tiếp theo.

Không chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận thể loại tự sự dân gian, Nguễn Dữ còn

mạnh dạn phá bỏ những ràng buộc của thể loại truyện cũ và sáng tạo truyện của

mình theo một kiểu mới. Vì vậy truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn

Dữ không đi theo con đường kể lại chủ đề của câu chuyện cổ tích mà có sự đan xen

nhiều chủ đề, tạo nên cốt truyện lồng trong truyện nhằm mang đến nội dung mới và

cảm hứng mới cho người đọc. Việc tác giả xây dựng thêm các tình tiết, sự kiện

mới, tăng thêm yếu tố tự sự và trữ tình để nối dài cốt truyện đã làm cho dung lượng

tác phẩm mới hoàn toàn khác so với dung lượng truyện cổ tích. Sự khác biệt căn

bản nhất ở truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên so với truyện cổ tích Sự tích động

Từ Thức là ở lối diễn văn gồm cả văn xuôi và thơ, nếu văn xuôi được dùng với mục

đích kể chuyện, thì thơ dùng cho nhân vật tả tình hoặc tả cảnh, phô diễn tài năng

văn chương của mình.

Truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ không chỉ đơn thuần kể về một

mối tình trần – tiên kỳ lạ, hay giải thích tên một địa danh – một hang động có thật ở

Thanh Hoá là động Từ Thức như câu chuyện dân gian Sự tích động Từ Thức được

truyền miệng với nhiều dị bản, mà nó đã trở thành một tác phẩm văn xuôi trung đại

thực thụ, một sáng tác nghệ thuật có giá trị cao của một tài năng, một trí tuệ uyên

thâm sống vào khoảng thế kỷ XVI. Tác phẩm đã chứa đựng nhiều khía cạnh, nhiều

vấn đề của hiện thực đương thời như đạo đức, văn hoá, tôn giáo…

Truyện Từ Thức lấy vợ tiên cũng đã kế thừa có sáng tạo về nghệ thuật xây

dựng nhân vật. Có thể nói, tác giả Nguyễn Dữ đã xây dựng lại nhân vật Từ Thức

theo kiểu nhân vật của thời đại mình. Sự biến đổi về kết cấu cốt truyện còn giúp

cho việc thể hiện nhân vật của tác giả truyền kỳ mang nhiều nét giống với văn

học hiện đại. Nhân vật Từ Thức trong truyện truyền kỳ không đơn thuần chỉ

80

được quan tâm mô tả ở quan hệ lứa đôi và những diễn biến của câu chuyện tình

yêu lãng mạn với nàng tiên Giáng Hương, mà trở thành câu chuyện về nỗi niềm

nhớ quê hương của người xa xứ, câu chuyện về cách lựa chọn lẽ sống ở đời ...

Nhân vật Từ Thức của Nguyễn Dữ đã mang trong mình tư tưởng của thời đại,

chàng đã ý thức rất rõ sự mục ruỗng thối nát của xã hội mình đang sống nên đã

lựa chọn cho mình một cách ứng xử của đấng quân tử: “Ta không thể vì số lương

năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh”, chàng sẵn sàng từ bỏ cuộc

sống danh lợi, bon chen, tự nguyện chọn lối sống tự do, coi thiên nhiên là bạn:

“Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy!”.

Không chỉ đơn thuần là câu chuyện tình yêu đẹp giữa Từ Thức với một nàng

tiên Giáng Hương, truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ còn là một câu

chuyện đa chủ đề. Bởi thông qua một câu chuyện tình yêu, đặc biệt là những cung

bậc cảm xúc tương tư, nhớ nhung, sầu muộn, rất trần gian của nàng tiên Giáng

Hương với Từ Thức: khi chưa gặp lại người mình thầm yêu trộm nhớ thì nỗi lòng

nàng Giáng Hương sầu muộn héo hon, khi gặp lại được người trong mộng thì rạng

ngời hạnh phúc, khi phải chia biệt thì nàng chỉ còn lại nỗi buồn đau, nhớ thương vô

vọng về tất cả những gì đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất đã qua đi… Nét tâm trạng ấy

của nàng tiên Giáng Hương có khác gì con người trần thế, cũng có những cung bậc

cảm xúc rất thường tình của người trần gian. Bởi vậy hình ảnh nàng tiên Giáng

Hương cùng với những cung bậc cảm xúc nói trên chính là biểu tượng cho số phận,

tâm hồn và những biểu hiện cảm xúc của người phụ nữ mọi thời đại.

Truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ không dài dòng trong cách kể,

nhà văn đã sáng tạo thêm những chi tiết phù hợp với thời đại, tâm lý, tính cách

nhân vật thời đại mình. Nhà văn tuy không nói nhiều về các tình tiết diễn ra xung

quanh việc Từ Thức cứu nàng tiên Giáng Hương ở hội xem hoa, nhưng nhà văn đã

giúp người đọc nhận thức rõ vẻ đẹp nhân cách của ông quan huyện trẻ Từ Thức qua

một câu văn ngắn “Mọi người đều khen quan huyện là một người hiền đức”. Lời

văn không chỉ để khen ngợi tấm lòng hiền đức của Từ Thức mà thông qua hành

động cao đẹp đó để khắc hoạ vẻ đẹp nhân cách người quân tử.

81

Hơn thế, đồng hành cùng bước chân chàng Từ Thức, tác giả còn đưa người

đọc đến với những cảnh đẹp kỳ thú của thiên nhiên đất Việt:

“Phàm những nơi nước tú non kỳ như núi Chích Trợ, động Lục Vân, sông

Lãi, cửa Nga, không đâu không từng có những thơ đề vịnh. Một hôm Từ Thức dậy

sớm trông ra bể Thần Phù ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ sắc

đùn đùn kết lại như một đóa hoa sen mọc lên, vội chèo thuyền ra thì thấy một trái

núi rất đẹp. Từ kinh ngạc bảo lái thuyền rằng: Ta đã từng lênh đênh trên áng giang

hồ, các thắng cảnh miền đông nam, không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước

mắt, ý giả là non tiên rụng xuống, vết thần hiện ra đây chăng? Sao trước không mà

nay lại có? Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao vút nghìn trượng,

sừng sững đứng thẳng, nếu không có cánh thì vị tất đã trèo lên thăm cảnh đó được.

Nhân đề một luật thơ rằng:

Dịch

Thiên chương bích thụ quải triêu đôn, Triêu dương bóng rải khắp ngày xanh,

Hoa thảo nghênh nhân nhập động môn. Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.

Nhiễu giản dĩ vô tăng thái dược, Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,

Duyên lưu thặng hữu khách tầm nguyên. Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.

Lữ du tư vị cầm tam lộng, Lang thang đất lạ đàn ba khúc,

Điếu đĩnh sinh nhai tửu nhất tôn. Nênh nổi thuyền câu rượu một bình.

Nghĩ hướng Vũ Lăng ngư tử vấn, Bến Vũ chàng ngư, tìm thử hỏi,

Tiền lai viễn cận chủng đào thôn. Thôn Đào chỉ hộ lối loanh quanh.

Truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên là một tác phẩm nghệ thuật mang

đậm dấu ấn cá nhân của một nho sĩ tài năng. Vì vậy, nếu Sự tích động Từ Thức

chỉ đơn thuần là một tác phẩm tự sự dân gian, được thể hiện bằng hình thức văn

xuôi thuần tuý thì truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên lại có sự xuất hiện đan

xen của 11 bài thơ chữ Hán để thể hiện trực tiếp tâm trạng của nhân vật Từ Thức

trước những buồn vui của cuộc sống. Có những bài thơ thể hiện sâu sắc niềm

vui sướng tột độ của Từ Thức khi được thăm thú cảnh đẹp cõi tiên, cảnh thiên

82

nhiên theo bước chân du ngoạn của chàng Từ Thức cũng mang đậm không khí

thần tiên thoát phàm như:

I. Dịch

Nhãn để yên hà cước để vân, Khói rợp mây che khắp bốn trời,

Thanh quang sái sái bức Tam Thần. Non Thần trong sáng đó là nơi.

Tùng hoa bán lão hương phong động, Hoa thông theo gió đưa hương ngát

Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân. Dắt dẫn thuyền câu khách một người.

Dịch II

Thu phong nhất dạ nguyệt man san Một đêm gió thổi nguyệt đầy non,

Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan. Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son.

Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ, Rượu mệt mê say người nặng trĩu,

Ngâm hào túy các bích lang can Mượn đem bút trúc gửi thi hồn

IV Dịch

Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu, Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu,

Sáp hán cung tường tỏa tịch liệu, Cung tường cao vút vắng teo teo,

Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác, Trăng sao dường mọc quanh bên mái,

Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu Tần nữ đêm dài học thổi tiêu.

Nhưng cũng có những bài thơ được Từ Thức viết ra để giãi bày nỗi nhớ

nhà, nhớ quê hương da diết của lòng mình như:

VII Dịch

Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê, Khí lành quanh quất phủ buồng xuân,

Phương trượng huề nam Nhược thủy tê. Phương trượng non xa, Nhược thủy gần

Xướng bãi đà canh thiên dục thự, Dứt tiếng canh đà trời sắp sáng,

Hương tâm hà xứ nhất thanh kê. Lòng quê theo rõi áng mây Tần.

83

VIII Dịch

Yên lam như kế liễu như điền, Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài,

Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền. Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài.

Vũ khách khứ thời vô xứ mịch, Đạo sĩ một đi tìm khó thấy,

Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên Trong không tản mác tiếng ngân dài.

Sự có mặt của những bài thơ chữ Hán trong tác phẩm truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ đã khẳng định dấu ấn tài hoa, uyên bác của một nho

sĩ. Qua hình ảnh một chàng Từ Thức tài cao, đức trọng, chán ghét cuộc sống lợi

danh tù túng cùng với những sở thích, thú vui tao nhã, tác giả không chỉ cho

người đọc nhận thấy tài năng, nhân cách cao đẹp của Từ Thức mà tác giả còn

cho người đọc thấy hình ảnh của chính mình trong nhân vật Từ Thức.

Truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên còn thể hiện rõ nét đặc điểm tự sự

của thể loại truyền kỳ. So với truyện dân gian thì Nguyễn Dữ đã sử dụng hiệu

quả những câu văn tự sự, miêu tả nhất là khi miêu tả cảnh đám cưới của Từ

Thức và nàng tiên Giáng Hương nơi tiên giới đông vui, sang trọng và giàu có:

“Bèn ngay đêm ấy đốt đèn mỡ phượng, rải đệm vằn rồng để hai người

làm lễ giao bái. Ngày hôm sau quần tiên đến mừng, có người mặc áo gấm cưỡi

con ly từ đàng Bắc xuống, có người bận xiêm lụa cưỡi con rồng từ phía Nam

lên, có người đi kiệu ngọc, có người cưỡi xe gió, đồng thời lại họp. Tiệc yến đặt

ở tầng thượng trên gác Dao Quang, buông rèm câu ngọc, rủ trướng móc vàng,

phía trước đặt một cái ghế bành bằng ngọc lưu ly mà để không. Quần tiên vái

chào nhau cùng ngồi ở những ghế bên tả, Từ Thức thì ngồi ở cái giường bên

hữu. Ngồi xong, có tiếng truyền hô là Kim Tiên đã đến, mọi người đều bước

xuống đón cúi lạy chào. Đoạn rồi lên gác tấu nhạc. Tiệc bày mâm bằng mã não,

đĩa bằng ngọc thạch, các món ăn đều rất kỳ lạ, lại có những thứ rượu kim

tương, ngọc lễ, mùi hương đưa lên thơm nức, dưới trần không bao giờ có được

cái của quý như vậy”

84

Hay khi nói về tâm trạng nhớ quê hương của chàng Từ Thức trong câu

chuyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, tác giả dân gian chỉ khái quát một cách

chung chung nỗi buồn và nhớ: “Ngày lại ngày nối nhau trôi qua, Từ Thức làm

rể cõi tiên bấm đốt ngón tay đã được ba năm. Cuộc đời mới hoàn toàn khác với

cảnh sống trần gian ngày trước. Cơm ăn áo mặc và mọi vật dụng cần thiết,

chàng đều có sẵn, không thiếu một thứ gì. Sắc đẹp tuyệt vời, tính nết hiền dịu

của Giáng Hương luôn luôn làm cho chàng thỏa dạ. Chàng lại được đi ngao du

các động tiên, thơ ngâm vịnh làm ra thao thao bất tuyệt. Tuy nhiên, lâu dần, Từ

Thức lại thấy như thiếu một cái gì”. Nhưng trong câu chuyện truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên, nhà văn Nguyễn Dữ đã dày công miêu tả kĩ lưỡng hơn từ những biểu

hiện nỗi buồn nhớ quê hương của chàng Từ Thức tác giả truyện truyền kỳ đã

khắc tả những diễn biến tâm lý bên trong của chàng:“…từ khi bỏ nhà đi thấm

thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay màu biếc. Những đêm gió thổi,

những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe

vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu

khiến không sao ngủ được. Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng: Tôi bước

khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể

tình mà cho được tạm về”. Điều này khẳng định: Trong truyện Từ Thức lấy vợ

tiên của Nguyễn Dữ, các sự kiện, tình tiết đã được tác giả miêu tả, khắc hoạ cụ

thể hơn, những biểu hiện của sự việc mang tính cá nhân rõ nét hơn nhiều so với

truyện dân gian, góp phần tạo nên dấu ấn của nhà văn trong tác phẩm thành văn.

Đặc biệt, ở truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, tác giả dân gian không sử

dụng điển tích, điển cố mà chỉ dùng lối kể dân gian với ngôn từ dân dã dễ hiểu,

thì ở truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ đã sử dụng khá nhiều

điển tích, điển cố. Điều này đã khẳng định tài năng uyên bác của tác giả được

thể hiện trong tác phẩm.

Trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ đã gắn câu chuyện vào

những thời điểm lịch sử cụ thể, địa danh sinh hoạt cụ thể để làm tăng tính chân

thực và sinh động của câu chuyện. Những yếu tố lịch sử xuất hiện tương đối dày

85

đặc bên cạnh yếu tố kỳ ảo về thế giới thần tiên đã làm tăng sức thuyết phục cho

câu chuyện. Giai thoại về mối tình đẹp Từ Thức – Giáng Hương như được tăng

thêm mức độ chân thực khi được xác định bằng mốc thời gian, không gian, địa

điểm cụ thể, để người đọc có thể thấy bối cảnh của câu chuyện chính là hiện

thực xã hội thời Trần. Hay các sự việc trong truyện cũng diễn ra gắn với mốc

thời gian, không gian xác định rõ ràng, làm cho các sự việc trở nên chân thực

hơn: Trong năm Quang Thái (niên hiệu Trần Thuận Tông, từ 1388-1398.) đời

nhà Trần, người ở Hóa Châu (Thanh Hóa ngày nay, theo nguyên chú Hóa Châu

là châu Thanh Hóa cổ) tên là Từ Thức, vì có phụ ấm được bổ làm Tri huyện

Tiên Du (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Bên cạnh huyện có một tòa chùa danh tiếng,

trong chùa trồng một cây mẫu đơn, đến kỳ hoa nở thì người các nơi đến xem

đông rộn rịp, thành một đám hội xem hoa tưng bừng lắm. Tháng 2 Bính Tý

(dưới thời Thuận Tông là năm 1396), người ta thấy có cô con gái, tuổi độ 15, 16

phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, đến hội ấy xem hoa”. Trong

khi đó sự việc diễn ra trong truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức lại gắn với

không gian, thời gian phiếm định, chung chung không cụ thể kiểu như: “Vào đời

nhà Trần ở châu Ái có một chàng trẻ tuổi tên là Từ Thức. Chàng vốn con nhà

quan. Năm 20 tuổi nhờ học giỏi thi đỗ cao, chàng được bổ một chân tri huyện ở

một huyện vùng Bắc…. Ở gần vùng Từ Thức trị nhậm có một ngôi chùa lớn.

Trước sân và xung quanh vườn trồng toàn một loại cây mẫu đơn. Mỗi năm vào

khoảng tháng giêng là mùa hoa nở rộ, cũng là kỳ cúng Phật”. Như vậy, sự xuất

hiện của những sự việc gắn với các mốc thời gian cụ thể, không gian xác định đã

tạo sức hấp dẫn, thuyết phục, đặc biệt là tính chân thực của câu chuyện truyền

kỳ của Nguyễn Dữ.

Đồng thời, truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ cũng đã chọn một

lối kết thúc khác cho số phận nhân vật Từ Thức. Truyện kết thúc bằng hình ảnh:

“Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau

không biết đi đâu mất”. Nếu ở truyện cổ tích, kết thúc truyện cũng là cách lựa

chọn sự ra đi của chàng Từ Thức nhưng cho thấy tính thân phận của nhân vật cổ

86

tích còn mờ nhạt thì ở truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên tác giả Nguyễn Dữ

đã nâng nhân vật Từ Thức lên thành một hình tượng nghệ thuật cụ thể hơn, rõ

nét hơn, là biểu tượng cho thân phận của những nhà nho ẩn dật trong xã hội

chuyên chế. Kết thúc của truyện là cái kết cục vô định của cuộc đời nhân vật Từ

Thức cũng như nhiều nho sĩ đương thời. Đấy cũng chính là sự bế tắc của thời

đại Nguyễn Dữ - Thế kỷ XVI với nền chính trị rối ren, tệ nạn nảy sinh, sống

trong xã hội đó nhà văn đặc biệt chú trọng hướng ngòi bút của mình đến người

trí thức, ông trân trọng và ngợi ca nhân cách thanh cao, cứng cỏi, đề cao đạo đức

phong kiến xuất phát từ khuynh hướng “ẩn dật” do không tìm được lối thoát trên

con đường hành đạo, song về cơ bản vẫn là sự gắn bó chặt chẽ với cuộc đời.

Chàng Từ Thức từ bỏ cõi trần tìm đến không gian cõi tiên và kết hôn cùng tiên

để tự tìm cho mình một hạnh phúc trọn vẹn. Tìm đến cõi tiên có nghĩa là chàng

muốn thoát ly xã hội suy đồi, trốn tránh cõi trần nhỏ hẹp, kiếp đời ngắn ngủi.

Cõi tiên chính là thế giới Từ Thức đã thực hiện được những khát vọng mà nơi

trần thế chàng không thể thực hiện được. Từ Thức có được cuộc sống toại

nguyện bên người vợ tiên Giáng Hương. Nhưng dù có cuộc sống sung sướng, đủ

đầy nơi tiên cảnh tráng lệ, nguy nga, bên vợ tiên xinh đẹp luôn yêu chiều nhưng

chàng vẫn thấy thiếu thốn tình cha nghĩa mẹ, thiếu tình quê hương, băn khoăn về

lẽ hưng thịnh của thời thế theo tinh thần của kẻ sĩ. Chàng đã lâm vào bi kịch – bi

kịch của một kiếp người không thể chối từ tình thân, chối từ nguồn gốc, chối từ

nghĩa vụ của kẻ nam nhi. Chàng buộc phải tạm biệt cõi tiên để trở về hạ giới tìm

lại gia đình, người thân nhưng tất cả đã thay đổi: “vật đổi sao dời, thành quách

nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa… Bèn đem tên họ mình hỏi thăm

những người già cả thì thấy có người nói: Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại

nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay

đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi”.

Muốn quay trở lại cõi tiên cũng không được nữa, Từ Thức lại rơi vào bi kịch cô

đơn trên chính quê hương mình, khiến chàng phải “mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá

ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi không biết đi đâu mất”. Đó là một kết thúc không

87

có hậu như ở thế giới cổ tích nữa. Tác giả đã tiến hành giải một phép toán cho

thời đại của mình bằng cách đi tìm hạnh phúc cho nhân vật ở thế giới tiên, nhưng

cuối cùng chàng Từ Thức vẫn không tìm thấy hạnh phúc ở đây vì nỗi nhớ gia

đình, quê hương dày vò. Để rồi sự quyết tâm trở về trần gian của Từ Thức lại

thêm một lần nữa rơi vào trạng thái lạc lõng và bế tắc. Chàng quyết định quay lại

cõi tiên thì động tiên đã vĩnh viễn khép lại. Như vậy cuộc sống vẫn tồn tại với đầy

những giới hạn muôn đời của nó. Trong thời đại của mình, Nguyễn Dữ cũng như

nhiều nhà nho cùng thời đã nhận ra sự bế tắc trên con đường đi tìm hạnh phúc,

khát vọng về một thế giới trường sinh bất tử mãi chỉ là mơ ước mà thôi.

Ở truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ đã kế thừa môtip

“Người lên cõi tiên” trong câu chuyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, nhưng

hướng đến một mục đích khác so với mục đích của tác giả dân gian. Nếu tác

truyện cổ dân gian sử dụng môtip “Người lên cõi tiên” vào mục đích thực hiện

ước mơ về hạnh phúc lý tưởng thì tác giả truyện truyền kỳ đã sử dụng môtip này

vào việc lên án cái xã hội vô nghĩa lý đương thời, xã hội thối nát đã đẩy con

người vào chỗ không điểm tựa bấu víu trên trần gian nên đành gửi hồn mình vào

giấc mộng hạnh phúc hư vô nơi tiên giới. Bởi vậy nhân vật Từ Thức trong

truyện truyền kỳ đã kết tinh bao hình bóng, tâm sự bi kịch của những kẻ sĩ

không chốn nương thân, của kẻ sĩ Việt Nam trong xã hội đương thời.

Truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ có thêm lời bình giàu ý nghĩa

ở cuối truyện nhằm thể hiện thái độ, chính kiến và tình cảm của nhà văn đối với

những sự việc và nhân vật trong tác phẩm: “Than ôi, nói chuyện quái sợ loạn

chuyện thường, cho nên thánh hiền không nói. Nhưng việc Từ Thức lấy vợ tiên,

cho là thực không ư? Chưa hẳn là không; Cho là thực có ư? Chưa hẳn là có. Có

không lờ mờ, câu chuyện tựa hồ quái đản. Nhưng có âm đức thì tất có dương

báo, cũng là lẽ thường. Những bậc quân tử sau này khi để mắt đến sẽ liệu mà

thêm bớt, bỏ chỗ quái mà để chỗ thường thì phỏng có gì là hại”. Lời bình cuối

truyện chính là sự trăn trở của Nguyễn Dữ về nhân vật, sự việc, về hiện thực

đương thời. Với hình thức một câu hỏi tu từ mang tính chất lời ngỏ, xuất hiện ở

88

cuối tác phẩm cũng đã thể hiện sự khác biệt trong kết cấu truyện truyền so với

kết cấu truyện cổ tích. Thông qua lời bình ở hình thức một câu hỏi mở, Nguyễn

Dữ đã để cho người đọc tự thể hiện chính kiến, quan điểm của mình hay tiếp tục

suy ngẫm, đánh giá..

Như vậy, chính những thay đổi về kết cấu cốt truyện trong truyện truyền

kỳ Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ đã góp phần khẳng định dấu ấn cá nhân

của nhà văn đối với thể loại truyền kỳ trong nền văn học trung đại Việt Nam.

3.2.1.2. Biến đổi về kết cấu cốt truyện ở truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện

Truyện Nôm Từ Thức tân truyện bên cạnh những kế thừa về kết cấu cốt

truyện từ truyện dân gian Sự tích động Từ Thức, tác phẩm này cũng đã thể hiện

rõ nét những thay đổi, sáng tạo về kết cấu cốt truyện. Tiếp thu những thế mạnh

của tự sự truyền thống, tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã xây dựng

thêm các tình tiết, sự kiện nhằm nối dài cốt truyện, tăng yếu tố tự sự và trữ tình,

làm cho dung lượng tác phẩm hoàn toàn khác do với dung lượng truyện cổ tích

Sự tích động Từ Thức và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên. Đặc biệt là chọn

lối kết thức có hậu cho cuộc đời nhân vật Từ Thức. Tuy nhiên, sự khác biệt căn

bản nhất ở truyện Nôm này là hình thức diễn Nôm cốt truyện bằng thơ, điều này

đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm Từ Thức tân truyện.

Kết cấu cốt truyện Nôm Từ Thức tân truyện, nhìn chung đã hướng tới sự

phát triển đa dạng và phong phú. Kế thừa thế mạnh của thể loại tự sự truyền

thống, tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã dụng công nhiều hơn trong

việc xây dựng các tình tiết, sự kiện nhằm nối dài cốt truyện, đặc biệt là tăng

cường nhiều hơn yếu tố tự sự và trữ tình. Đây là nguyên nhân chính của việc tạo

độ dài về dung lượng của tác phẩm truyện thơ Nôm nói chung so với truyện cổ

dân gian và truyện truyền kỳ.

Ngoài khả năng sáng tạo thêm chi tiết, sự kiện, truyện thơ Nôm Từ Thức

tân truyện đã kết hợp với phương thức miêu tả để tăng yếu tố tự sự và trữ tình.

Do nội dung cốt truyện này có sự tham gia của nhân vật người kể chuyện –

người kể chuyện toàn tri, người hiểu rõ suy nghĩ của nhân vật nên nhịp độ kể

89

chuyện lúc nhanh, lúc chậm, thậm chí có những đoạn miêu tả cảnh vật hay cảnh

hoạt động của con người, người kể chuyện thường chủ tâm dừng lại để nhấn

nhá. Ví như cách người kể dừng lại ở một đoạn thơ dài 18 câu lục bát để miêu tả

trạng thái tương tư, mơ tưởng của Từ Thức về người con gái mình đã cứu trong

hội xem hoa mẫu đơn:

Dặm mây đường liễu chia hai,

Người tiên còn chút tình rơi cõi trần.

Để cho lòng khách nhọc nhằn,

Ngày mong tin thước, đêm lần gối uyên.

Biết ai mà hỏi sự duyên,

Khi buồn thì lại trông niềm cựu du.

Vườn xuân hoa nở tranh đua,

Am mây còn tưởng non Vu những ngày.

Còn trời còn nước còn mây,

Mà người tri kỉ vắng rầy biết sao.

Giấc nào là chẳng chiêm bao,

Bữa nào là chẳng khát khao âm thầm.

Sầu dường bể, khắc dường năm,

Câu thơ biếng nghĩ, khúc cầm biếng khêu.

Tiếng mây, tiếng gió, tiếng triều,

Đàn khuya tiếng dế, mõ chiều tiếng quyên.

Người buồn gặp cảnh thêm phiền,

Tiếc người nhớ cảnh đôi phen trạnh lòng.

Hay cách tả cảnh sinh hoạt xã hội như cảnh lễ hội hoa mẫu đơn đã tạo

nên không gian văn hoá, tín ngưỡng vô cùng đặc sắc và sinh động:

Huyên hoà vừa tiết xuân sang,

Dũ hiên tơ liễu, đưa tường thoi oanh.

Gần miền một áng thiền quynh,

Nức nô cảnh Phật, linh đình hội xuân.

90

Thắm vàng là lượt chen chân,

Cuộc vui mã tích, xa trần thiếu ai.

Truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện cũng dành nhiều câu thơ để miêu tả

cảnh vật thiên nhiên, có những cảnh đẹp, vui, nhưng cũng có những cảnh buồn

nhuốm màu tâm trạng, đó là cảnh quê hương thay đổi khi Từ Thức trở về:

Phong trần cõi cũ dấu xưa,

Mai già một khóm, liễu thơ hai hàng.

Rêu rải ngõ, phấn trôi tường,

Cô đình đứng gió, thảo đường ngăn mưa.

Lều gianh tường đất lơ thơ,

Điền gia đổi phú, thôn cư đổi người.

Đúng là những bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống sinh hoạt, lễ

hội đã hiện lên thật sinh động và sống động.

Cùng với khả năng sử dụng ngôn ngữ miêu tả hấp dẫn và khả năng sáng

tạo thêm những chi tiết, sự kiện cho tác phẩm của mình, tác giả truyện thơ Nôm

Từ Thức tân truyện đã tạo nên một nội dung cốt truyện phong phú, đa dạng hơn

hẳn so với truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy

vợ tiên. Đặc biệt hơn ở truyện thơ Nôm này là bằng phương thức miêu tả, tác giả

đã làm cho không gian hiện thực của truyện luôn ở trạng thái mở, đã tạo nên

những thành công nhất định cho tác phẩm.

Là tác phẩm viết về đề tài tình yêu nên về cơ bản truyện thơ Nôm Từ

Thức tân truyện đã sử dụng mô hình kết cấu cốt truyện truyền thống gồm ba

phần: Gặp gỡ - Tai biến – Đoàn tụ. Khác truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức và

truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, truyện Nôm Từ Thức tân truyện có kết

thúc có hậu. Tác giả truyện Nôm Từ Thức tân truyện đã thay đổi kết thúc bằng

một sự kiện khác với truyện cổ tích và truyện truyền kỳ là sự kiện Từ Thức được

trở lại cõi tiên, vợ chồng Từ Thức, Giáng Hương được tái hợp trong niềm vui

mừng khôn xiết. Đây là kết thúc truyện mang hơi thở của những câu chuyện cổ

dân gian xưa về một ước mơ hạnh phúc lý tưởng. Tác giả truyện Nôm đã dành

91

61 câu thơ lục bát để miêu tả cảnh Từ Thức trở lại cõi tiên. Trong đó có 8 câu

tác giả đã miêu tả rất cảm động về cuộc hạnh ngộ, đoàn viên của hai vợ chồng

Từ Thức và Giáng Hương sau bao xa cách:

Uyên ương lại hợp trướng đào,

Thẹn đều thẹn cả, mừng đều mừng chung.

Ba sinh phận đẹp cõi rồng,

Thước Kiều vẫn dịp, loan phòng sẵn duyên.

Tiếng cầm tiếng sắt đưa chen,

Tơ tình ấm lạnh kết nguyền non sông.

Sánh bày phượng lữ song song,

Tuổi chung giai lão năm cùng tràng xuân.

Việc tác giả truyện Nôm chọn lối kết thúc có hậu cho cuộc đời nhân vật

Từ Thức và xem đây là tôn chỉ cho sáng tác của mình đã chứng tỏ một cách đề

cao ước mơ và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thể hiện tinh thần lạc

quan và niềm tin vào cuộc sống. Người tốt xứng đáng được hưởng hạnh phúc,

vẻ đẹp đầy tính nhân văn ấy trong văn học dân gian tiếp tục được truyện thơ

Nôm khẳng định. Đặc biệt ở truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện, tác giả truyện

Nôm đã chọn không gian tiên giới là nơi đoàn tụ, nơi vợ chồng Từ Thức và

Giáng Hương sẽ sống cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, cách lựa chọn không gian

tiên giới là điểm dừng chân để tận hưởng hạnh phúc vừa là cách tác giả truyện

Nôm mở rộng không gian nghệ thuật cho tác phẩm của mình, vừa là cách kết

thúc theo hướng mở để gửi gắm tư tưởng thoát ly một không gian không đáng

sống sang một không gian đáng sống – xu hướng thoát ly xã hội hiện tại thối

nát, bế tắc sang một thế giới khác đáng sống hơn. Chính những thay đổi nêu trên

về kết cấu cốt truyện của truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện so với truyện cổ

tích Sự tích động Từ Thức và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên đã góp phần

khẳng định bên cạnh những kế thừa, Truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện cũng

đã có những biến đổi đáng kể, đánh dấu sự phát triển nhất định của thể loại

truyện thơ trong văn học trung đại Việt Nam.

92

Như vậy, về cơ bản kết cấu cốt truyện truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ

tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện vẫn mang dáng dấp của truyện cổ

dân gian về hình thức. Tuy nhiên, bằng tài năng của mình, tác giả truyện truyền

kỳ và tác giả truyện thơ Nôm đã phá vỡ kết cấu thông thường của tự sự dân gian

dẫn đến phá vỡ tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Sáng tạo của tác giả truyện truyền

kỳ và tác giả truyện thơ Nôm không chỉ ở việc dùng một số yếu tố của hình thức

cũ để truyền tải một nội dung mới mà còn là sự chọn lọc và phát triển, triển khai

các môtip, các tình tiết cốt truyện khiến cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn

người đọc. Đặc biệt ở cốt truyện truyền kỳ, truyện thơ Nôm còn được ghép nối

bởi những bài thơ, những đoạn tả cảnh khiến cho câu chuyện không chỉ là những

mảng sự kiện, hành động thuần tuý mà còn là những tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn

người đọc. Người viết xin mượn lời nhận xét của nhà nghiên cứu nước ngoài là

B.A.Gripxôp để thay lời kết luận rằng các “Nhà văn trung cổ không sáng tạo ra

những cốt truyện mà dường như chỉ kể lại và kết hợp lại những môtip xa xưa khi

thì bằng văn xuôi, khi thì bằng thơ” [57, tr 115].

3.2.2. Biến đổi về nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật

Trong tác phẩm nghệ thuật, dù ở thể loại nào truyện, thơ, kịch… nhân vật

đều được đánh giá là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng. Để thấy được sự biến

đổi trong nghệ thuật xây dựng nhân vật mà đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lý

nhân vật, ta cần xét đến điểm nhìn trần thuật trong hai tác phẩm. Khi vận dụng

lý thuyết điểm nhìn trong tự sự học để nghiên cứu truyện truyền kỳ Từ Thức lấy

vợ tiên của Nguyễn Dữ và truyện thơ Nôm khuyết danh Từ Thức tân truyện ta

nhận thấy truyện truyền kỳ có điểm nhìn bên ngoài còn truyện thơ Nôm vừa có

điểm nhìn bên ngoài, vừa có điểm nhìn bên trong. Tác giả truyện thơ Nôm này

khác với tác giả truyện cổ tích, truyện truyền kỳ là không chỉ miêu tả con người

bên ngoài mà còn miêu tả con người bên trong, miêu tả diễn biến tâm lý, nội tâm

nhân vật, phát triển ngôn ngữ đối thoại và nhất là ngôn ngữ độc thoại ở nhân vật

truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện. Vì vậy, ở truyện thơ Nôm này so với truyện

cổ tích Sự tích động Từ Thức và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, nhân vật

93

là nhân vật cảm nghĩ, nói năng có nhu cầu tự biểu hiện và được nói nhiều hơn

nhân vật cổ tích và nhân vật truyện truyền kỳ.

Truyện Từ Thức lấy vợ tiên cũng giống như truyện cổ tích Sự tích động

Từ Thức, tác giả không chú trọng việc miêu tả ngoại hình nhân vật. Chàng Từ

Thức về cơ bản vẫn kế thừa tính chất của nhân vật lý tưởng hoá, tính cách nhân

vật chủ yếu thông qua cử chỉ, ngôn ngữ. Vì vậy, tuy người đọc không dễ quên

một chàng Từ Thức hiền đức sẵn sàng cởi bỏ áo gấm để chuộc lỗi cho một cô

gái không quen biết. Song, điều làm nên sự thành công về phương diện nghệ

thuật ở tác phẩm này chính là nghệ thuật khắc hoạ, miêu tả tâm lý nhân vật. Khi

so sánh với truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức ta dễ dàng nhận thấy nhân vật

Từ Thức trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên đã được tác giả Nguyễn Dữ chú trọng

trong việc khắc hoạ và miêu tả thế giới nội tâm bằng lối hành văn hướng nội,

đặc biệt bằng sự kết hợp rất tự nhiên giữa văn xuôi và những bài thơ chữ Hán,

những bài thơ thể hiện trực tiếp nỗi lòng, tâm trạng nhân vật Từ Thức trong

những không gian, hoàn cảnh, thời gian khác nhau. Điều đó đã góp phần thể

hiện sâu sắc và rõ nét hơn thế giới nội tâm của nhân vật mà trong truyện cổ tích

Sự tích động Từ Thức không có. Đặc biệt, việc dùng thơ đan xen trong tác phẩm

tự sự không chỉ kí thác hoài bão, tâm sự của tác giả trước thời cuộc mà còn giúp

cho việc thể hiện tinh tế hơn những uẩn khúc trong lòng người.

Biểu hiện rõ nét sự xuất sắc của ngòi bút miêu tả tâm lý, miêu tả đời sống

nội tâm nhân vật Từ Thức trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ bắt

đầu từ khi chàng Từ Thức lạc vào cõi tiên, lấy vợ tiên, sống cuộc sống sung

sướng nơi tiên giới nhưng lòng trần vẫn không nguôi ngoai nỗi nhớ cha mẹ, nhớ

quê hương, rồi chàng quyết định từ biệt cõi tiên trở về cõi trần, nhưng éo le thay,

về đến trần gian, chàng lại trở thành lạc lõng, cô đơn chính nơi mình từng sinh

ra và lớn lên. Đời sống nội tâm của Từ Thức thực sự biến đổi dữ dội theo một

trật tự logic của tâm lý con người, theo thời gian. Từ nét tâm lý ngỡ ngàng trước

cảnh đẹp nơi chốn thần tiên, đến nét tâm lý hạnh phúc vô cùng khi được kết hôn

với nàng tiên Giáng Hương xinh đẹp, hiền thục và được sống cuộc sống không

94

phải lo toan về vật chất, không phải bận tâm đến lẽ sinh tử của tạo hoá, đúng là

chàng Từ Thức đã có một cuộc sống vô cùng viên mãn, lý tưởng ở chốn thần

tiên. Thế nhưng, sau một năm sống cuộc sống viên mãn chốn thần tiên, những

háo hức, vui vẻ của những buổi ban đầu dần phai nhạt, thay vào đó là nét tâm

trạng sầu nhớ quê hương “lòng quê bịn rịn”, “ lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo

hon”. Tâm trạng nhớ cha mẹ, quê hương theo bản năng trỗi dậy ở chàng Từ

Thức, đó là nét tâm trạng phù hợp với quy luật tình cảm của con người đã được

Nguyễn Dữ thể hiện khá sâu sắc. Đặc biệt hơn nữa là nét tâm trạng đầy bế tắc,

ngán ngẩm của chàng Từ Thức trong lần trở về trần gian, trạng thái lạc lõng, bơ

vơ ở chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình của chàng cũng là nét tâm trạng hoàn

toàn phù hợp với lẽ tự nhiên trong dòng tâm trạng nhân vật. Nét tâm trạng của

chàng Từ Thức trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ đã bao quát

cho cả thời đại của chàng. Bằng ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật rất đặc sắc và

tài tình của mình, tác giả không chỉ khắc hoạ thành công thế giới nội tâm của

nhân vật mà còn khiến cho nhân vật có những tình cảm, khát vọng hạnh phúc

đời thường của con người, làm cho nhân vật càng trở nên gần gũi và chân thật

hơn với con người thực ngoài đời. Sự thành công nhất định của nghệ thuật miêu

tả tâm lý, khắc hoạ đời sống nội tâm của nhân vật Từ Thức trong truyện Từ

Thức lấy vợ tiên của tác giả Nguyễn Dữ so với truyện cổ tích Sự tích động Từ

Thức đã góp phần khẳng định sự thành công trên con đường cách tân, sáng tạo

về phương diện nghệ thuật của tác giả trong nền văn học dân tộc.

Ở truyện thơ Nôm khuyết danh Từ Thức tân truyện, tác giả cũng không

chú trọng vào việc miêu tả ngoại hình nhân vật, mà chỉ dừng lại ở dạng tín hiệu

chưa đạt tới trình độ nghệ thuật cao. Nàng Giáng Hương đã được tác giả sử dụng

nghệ thuật ước lệ, tượng trưng khi miêu tả ngoại hình, giọt nước mắt (lệ ngọc),

khuôn mặt (hoa, trăng), lông mày (mây Tần)...

Nữ đằng vấn vít chồi mai,

Mắt ngừng lệ ngọc, má thôi thúc đào.

Hoa buồn, lệ ủ trăm chiều,

Nhường đau Tây tử, nhường liều Lục Châu.

95

Cành lê như khuất bóng lầu,

Mây lần lệch mái, trăng thâu chênh vành.

Nhân vật trong truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện là loại nhân vật hành

động: “Nhân vật truyện thơ Nôm bình dân được thể hiện chủ yếu thông qua

hành động, qua sự việc, qua đối thoại, chứ không phải qua miêu tả ngoại hình

hay miêu tả nội tâm, phân tích tâm lý” [25, tr.199]. Thông qua miêu tả hành

động của chàng Từ Thức, tác giả truyện thơ Nôm này đã hoàn thiện tính cách,

tâm lý và số phận nhân vật. Với hành động dứt khoát cởi áo gấm trắng chuộc lỗi

cho cô gái mắc nạn đã thể hiện nghĩa khí của một đấng nam nhi.

Khách xin làm lễ tạ vay,

Cởi trao cẩm bạch, đổi thay xuyến vàng.

Hay hành động dứt khoát từ quan, không vì được năm đấu gạo mà phải

luồn cúi, quyết trả ấn tín và bằng sắc, chọn lối sống theo thú ẩn dật là hơn ta lại

thấy được phẩm chất tốt đẹp của một nhà nho trọng nghĩa khinh lợi:

Vẻ chi năm đấu gạo vàng,

Uốn lưng co gối cho càng tổn hơi.

Hoạn đồ càng rậm chông gai,

Quận Bành Trạch, quyết cởi đai Đào Tiềm.

Giàu sang gác để một bên,

Ấn treo thiên khuyết, sắc niêm huyện tào.

Tính tình di dưỡng là cao,

Thà ra tịch cảnh hơn vào quyền môn.

Gánh vũ trụ, túi càn khôn,

Tháng ngày phong nguyệt, nước non yên hà.

Đặc biệt, trong truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện phát ngôn của nhân

vật rất được chú trọng. Ngôn ngữ nhân vật đã được tác giả truyện thơ Nôm này

bộc lộ qua hai dạng là đối thoại và độc thoại. Trong 608 câu thơ lục bát, có tới

181 câu thơ là lời đối thoại. Trong đó có 22 câu thơ là lời đối thoại giữa Từ

Thức và chú tiểu; 72 câu thơ là lời đối thoại giữa Từ Thức và Giáng Hương; 60

câu thơ là lời đối thoại giữa Kim Tiên và Từ Thức; 26 câu thơ là lời đối thoại

96

giữa Kim Tiên và Giáng Hương. Tuy ngôn ngữ độc thoại có ít hơn, chỉ có 44

câu thơ lục bát là lời độc thoại của chàng Từ Thức, nàng Giáng Hương nhưng

cũng đủ để khẳng định nhân vật trong tác phẩm truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện đã có nhu cầu tự thân bộc lộ tâm trạng hơn hẳn khi so sánh với truyện cổ

tích Sự tích động Từ Thức và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn

Dữ. Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm nói chung, truyện thơ Nôm Từ

Thức tân truyện nói riêng đã góp phần phản ánh trình độ nghệ thuật và khả năng

sáng tạo của tác giả truyện thơ Nôm. Ngôn ngữ nhân vật chính là phương tiện để

bộc lộ tính cách nhân vật. Thông qua ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật

trong truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện, tác giả truyện thơ Nôm này đã tạo

nên diện mạo và hoàn thành tính cách, số phận của nhân vật Từ Thức, đây là

điểm sáng tạo hơn hẳn của truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện.

Từ lần đầu gặp gỡ để rồi tương tư, sau bao tháng ngày xa cách nay được

gặp lại, nàng Giáng Hương lại mang dáng vẻ e thẹn, nữ tính và một tâm trạng

mừng vui khôn tả:

Dường như khép nép rụt rè,

Mai e tuyết sớm, liễu e gió chiều.

Phù dung chúm chím nhị điều,

Điểm trang chẳng lọ là nhiều mới xuân.

Không chỉ khẳng định bước tiến mới trong nghệ thuật miêu tả hành động,

ngôn ngữ, ở truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện người đọc còn nhận thấy sự

thành công bước đầu của thể loại truyện thơ Nôm bình dân nói chung ở phương

diện quan tâm đến việc khám phá con người bên trong của nhân vật thông qua

miêu tả diễn biến nội tâm, đặc biệt ở hình thức tự sự - trữ tình. Những biểu hiện

trong suy nghĩ của chàng Từ Thức và nàng Giáng Hương đã được tác giả truyện

thơ Nôm này khai thác từ những biểu hiện nhỏ nhất. Đó là tâm trạng vui mừng

hạnh phúc của nàng Giáng Hương khi được kết hôn với chàng Từ Thức, người

mà nàng đã tương tư ngay sau lần gặp gỡ đầy ân huệ đầu tiên:

97

Đấy đây từ bén duyên lành,

Khát khao bõ lúc Phật đình thẳng qua.

Đầu xanh vẹn ước tuổi già,

Cháu con chung vũ, của nhà đào yên.

Lan vàng hai chữ sương siu,

Tơ xe bạch phát, gấm thêu đan tình.

Nhưng sau một năm chung sống hạnh phúc bên người vợ tiên xinh đẹp,

hiền thục, Từ Thức đã rơi vào bi kịch của sự giằng xé tâm can giữa một bên là

tình nghĩa phu thê với một bên là hiếu nghĩa với mẹ cha và nỗi nhớ quê nhà da

diết, buộc Từ Thức phải đau khổ vô cùng khi nói lời từ biệt :

Dù ta giáo giở phụ nghì,

Đôi vừng nhật nguyệt xin thì xét minh.

Khiến nàng Giáng Hương rơi vào trạng thái khổ đau khôn cùng bởi đây là

lần chia xa không bao giờ trở lại. Bởi vậy những câu lục bát tái hiện tiếng khóc

của người vợ phải xa chồng, một cuộc chia ly không có ngày tái ngộ nghe thật

đau đớn và xót xa:

Nàng nghe lăn khóc vật mình:

Than ôi! Ai nỡ dứt tình mấy ôi!

Từ đây kẻ ngược người xuôi,

Chia hai mái tóc, chia hai tấm lòng.

Từ đây thẹn phấn tủi hồng,

Lẻ loi chân thuý, lạnh lùng gối loan.

Đúng là sự giằng xé trong nỗi lòng kẻ ở, người đi đến truyện thơ Nôm đã

được miêu tả tinh tế hơn nhiều so với thể truyền kỳ. Hơn ai hết Giáng Hương rất

cảm thông với nỗi nhớ gia đình, nhớ quê của chồng và hơn ai hết nàng cũng thấu

hiểu cõi trần và cõi tiên là hai thế giới vốn khác biệt. Đây sẽ là cuộc chia ly biết

trước nguy cơ tan vỡ nhiều hơn là tái hợp. Vì vậy trong cuộc chia tay này Giáng

Hương hiện lên là một người vợ rất hiểu và cảm thông cho chồng nhưng trong

mỗi lời từ biệt của nàng chứa đựng bao tiếng lòng uất nghẹn:

98

Chàng về sao thiếp dám can,

Cẩm bào một bức, hoa hàn một phong.

Tiễn đưa cửa thiếp tạ lòng,

Biết bao giờ lại tính cùng duyên Ngâu.

Nói thôi như giục cơn sầu,

Khăn bào lệ giọt nhuốm thâu đầm đìa.

Dặm trường đôi ngả mây chia,

Hoa ngăn động khẩu, nước về nhân gian.

Tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã có bước tiến rõ ràng hơn

trong nghệ thuật xây dựng nhân vật so với tác giả truyện cổ tích Sự tích động Từ

Thức và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên. Nhân vật Từ Thức và Giáng

Hương trong truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã được tác giả chú trọng miêu

tả thế giới nội tâm, thế giới mang chiều sâu nhân bản của con người. Có thể nói,

bằng hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp, tác giả truyện thơ Nôm đã khắc họa nhân

vật Từ Thức và Giáng Hương với đời sống nội tâm thật sâu sắc. Nỗi buồn ly biệt

của đôi vợ chồng người trần – tiên đảo đã được khoả lấp bằng niềm hạnh phúc

vô bờ khi kết thúc truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện là cảnh hội ngộ của hai

vợ chồng Từ Thức và Giáng Hương ở chốn thần tiên. Sau những cách trở về

không gian, thời gian nay được đoàn tụ trong niềm vui mừng khôn xiết, tâm

trạng nàng Giáng Hương lại mang dáng vẻ và tâm trạng e ấp, nữ tính của thuở

ban đầu khi gặp lại Từ Thức.

Đúng là đời sống nội tâm của nhân vật từ truyện cổ tích Sự tích động Từ

Thức đến truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên đến truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện đã có sự thay đổi. Càng về sau các tác giả truyền kỳ và truyện thơ Nôm

càng chú trọng hơn trong việc miêu tả đời sống nội tâm nhân vật trong việc góp

phần hoàn thiện tính cách, số phận nhân vật. Đặc biệt ở truyện thơ Nôm, sự xuất

hiện của loại ngôn ngữ nhân vật nửa trực tiếp đã diễn tả sâu sắc, rõ nét hơn

những diễn biến trạng thái tâm lý nhân vật, phù hợp với tâm lý thông thường

trong đời sống tình cảm của con người. Chính điều này đã khẳng định bước tiến

99

đáng kể về nghệ thuật xây dựng nhân vật ở truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện

nói riêng và thể loại truyện thơ Nôm nói chung.

3.2.3. Biến đổi về ngôn ngữ nghệ thuật

So với truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức thì truyện truyền kỳ Từ Thức

lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện được viết bằng ngôn ngữ

nghệ thuật khá điêu luyện. Ở truyện Từ Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ đã chứng

tỏ một lối viết văn tự sự khá hấp dẫn và để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng

người đọc. Đặc biệt việc sử dụng khá nhiều những từ cổ, từ Hán - Việt, điển

tích, điển cố trong tác phẩm này đã chứng tỏ trình độ học thức của tác giả là một

người học rộng tài cao. Trong tổng số 11 bài thơ chữ Hán có mặt trong Từ Thức

lấy vợ tiên, có 01 bài thất ngôn bát cú, còn lại 10 bài thất ngôn tứ tuyệt, hầu hết

được viết ra để miêu tả tâm trạng của chàng Từ Thức chuẩn mực về niêm luật,

thanh điệu cho thấy tác giả Nguyễn Dữ là người thông hiểu về luật thơ. Ví như

những bài thơ được Từ Thức đề trên bức bình phong trắng mỗi khi trong lòng

chàng có xúc cảm vui hay buồn. Sau đây là bài thơ đầy tâm trạng của chàng khi

nỗi nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ quê hương cứ theo ngày tháng mà đầy lên

mãi, với ngôn ngữ thơ tinh tế, điêu luyện đã để lại ấn tượng khá sâu sắc:

IX Dịch:

Tứ diện ba đào nhất kế sơn, Sóng nước bao quanh núi một vùng,

Dạ lai hà xứ mộng hương quan. Mộng về quê cũ lối không thông.

Mang mang trần giới hồi đầu viễn, Mây vàng nước biếc thân nương đậu,

Thân tại hồng vân bích thủy gian. Trần giới xa coi ngút mịt mùng.

X Dịch:

Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai, Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi,

ủy địa tàn hồng bán lục đài. Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi.

Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động, Lưu Lang biệt động sao khờ mấy,

Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai. Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi.

100

Bài thơ đã nói về nỗi lòng nhớ quê da diết của Từ Thức. Bởi “từ khi bỏ

nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm

gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều

nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một nỗi buồn bâng khuâng, quấy

nhiễu khiến không sao ngủ được”. Suốt ngày đêm tưởng nhớ đến quê hương nơi

lòng cha đang héo, lòng mẹ đang sầu mong ngóng tin con, nơi gia tiên tổ đường

biết còn có ai là người hương hoả. Như vậy, việc đan xen những bài thơ lẫn văn

xuôi trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ khẳng định tài năng khá

đa dạng của tác giả trên nhiều thể loại, đặc biệt là thơ Đường. Đây là điểm khác

biệt về mặt ngôn ngữ của truyền kỳ so với cổ tích.

Đặc biệt khi diễn Nôm, tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã tỏ

ra là người khá hiểu biết về thể thơ lục bát. Sự kết hợp tài tình những phương

thức tự sự, trữ tình, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả khi viết về mối

tình thơ mộng của Từ Thức và Giáng Hương trong 608 câu thơ lục bát chứng tỏ

người diễn Nôm Từ Thức tân truyện phải là một trí thức có học thức sâu rộng.

Sự xuất hiện của từ Hán - Việt (48 từ), từ Việt cổ (27 từ), điển tích, điển cố (29)

cũng đã khẳng định điều đó. Lời kể của tác giả, lời đối thoại, độc thoại của nhân

vật đều được thể hiện bằng hình thức thơ lục bát cô đọng, súc tích, vần điệu nhịp

nhàng, uyển chuyển. Đặc biệt ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật như Từ Thức,

Giáng Hương khá nhiều, bởi vậy bước đầu tạo được dấu ấn khá sâu sắc về tính

cách nhân vật.

Việc sử dụng ngôn ngữ đối thoại để xây dựng tính cách nhân vật là bước

tiến mới của truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện khi so sánh với truyện cổ tích

Sự tích động Từ Thức và truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên. Ví như trong

đoạn đối thoại giữa Từ Thức với chú tiểu khi Từ Thức muốn chuộc lỗi cho

người con gái sơ ý làm gãy hoa bị nhà chùa bắt trói. Qua lời lẽ và cách hành xử

của Từ Thức, ta nhận ra dáng dấp của vị quan hiểu lẽ đời, hào hiệp, trượng nghĩa

và có niềm cảm thông sâu sắc với mọi người.

101

Chàng nghe tiểu nói ngậm ngùi,

Chạnh bề tiếc ngọc, ngỏ lời van lơn:

Vẻ chi một đoá mẫu đơn,

Màu hồng chưa dễ trọng hơn má hồng.

Sảy tay trót đã thẹn lòng,

Bây giờ nước đổ khôn mong vét đầy.

Khách xin làm lễ tạ vay,

Cởi trao cẩm bạch, đổi thay xuyến vàng

Gọi là chuộc lỗi cho nàng,

Thôi đừng nặng nhẹ nữa càng tủi hoa.

Hay ở đoạn Từ Thức giãi bày cùng Giáng Hương nỗi nhớ quê nhà của

mình. Từ khi bỏ nhà đi lạc đến chốn tiên thấm thoát đã được một năm, nay trông

ra cửa bể thấy có thuyền buôn đi về hướng Nam mà chạnh lòng nhớ quê hương

da diết, thân xác thì ở cõi tiên nhưng tâm hồn đang theo áng mây trắng về chốn

quê hương xa xăm cách trở, nơi cha mẹ già biết có còn hay đã mất. Không thể

kìm nén được nỗi lòng nhớ quê, Từ Thức đã giãi bày tâm sự cùng với Giáng

Hương:

Bấy lâu sum họp nhà vàng,

Tình sâu đã vậy, nghĩa càng nhặt thay.

Lòng ta như bát nước đầy,

Khăng khăng đành để dạ này dám quên.

Song còn một chút riêng phiền,

Nói ra lộ những chẳng yên lòng nàng.

Từ ta xa chốn quê hương,

Một mình nào kể họ hàng có ai.

Đường thì cách trở xa xôi,

Nhà thời đơn bạc một mùi đạm trong.

Mà người cậy được thì không,

Để nơi phần mộ tổ tông sao đành.

Xin nàng thấu hết tấc thành,

Há ta nỡ ở ra tình thắm phai.

102

Là người vợ hiền thục, sâu sắc, Giáng Hương rất thấu nỗi lòng chồng. Thế

nhưng tình chồng nghĩa vợ trong lúc hương lửa đương nồng khiến nàng không

dễ dàng chấp nhận cảnh chia xa. Dẫu hơn ai hết nàng hiểu đạo làm con đối với

cha mẹ, nghĩa làm người đối với quê hương nên nàng không thể vì tình riêng mà

cản lòng quê bịn dịn của chồng, rất cảm thông cho hoàn cảnh của chồng song

nàng Giáng Hương cũng không tránh được cách ứng xử của nữ nhi thường tình,

nàng vẫn buông những lời giận hờn, trách móc duyên phận éo le, bởi đây dễ là

cuộc chia tay khó hẹn ngày tái hợp.

Nàng nghe như mướt mồ hôi,

Trách duyên sao khéo những lời chông chênh.

Hay là cợt yến cười oanh

Đắn đo lòng đá, thử thanh tuổi vàng?

Hay là lệ phấn phiền hương,

Quạt trầm lỡ phận, loan hoàng trái khuôn.

Lời thề chưa cạn chén son,

Đào chưa phai thắm, lan còn quyến hương.

Trọng vì chút nghĩa tao khang,

Lẽ đâu thiếp dám giữ chàng ở đây.

Trót vì dan díu đến nay,

Nghìn năm chẳng kiếp một ngày cũng duyên.

Dù ta lạnh ước tan nguyền,

Thiếp đành phận cánh hoa tàn quản chi.

Khuyên chàng xin hãy rộng suy,

Cõi trần sống độ phỏng thì trăm năm.

Qua những lời hội thoại như vậy trong truyện thơ Nôm, tính cách nhân

vật được khắc họa rõ nét. Ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả đã được sử

dụng khá nhuần nhuyễn để tạo nên ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.

Chàng Từ Thức hiện lên đúng với khí chất của con nhà dòng dõi Nho gia, lời lẽ

103

ý tứ, trọng tình, trọng hiếu và luôn đề cao chữ hiếu hơn tình riêng. Nàng tiên

Giáng Hương cũng hiện lên nét duyên dáng, dịu dàng và sâu sắc.

Ngôn ngữ truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện trong sáng, mộc mạc, dễ đi

vào lòng người bởi tác giả tỏ ra là người am tường thể thơ lục, biết vận dụng tục

ngữ, ca dao mà đặc biệt là biết tiếp thu ngôn ngữ Truyện Kiều, điều này tỏ rõ sự

sáng tạo và tài năng của tác giả truyện thơ Nôm này.

Như vậy, sự phát triển ngôn ngữ từ truyện cổ tích đến truyện truyền kỳ

đến truyện thơ Nôm đã khẳng định những bước tiến đáng kể. Đến truyện thơ

Nôm bình dân, tác giả truyện thơ Nôm đã có những quan tâm đặc biệt đến

phương diện ngôn ngữ nhân vật. Nhân vật đã thoát dần ra khỏi kiểu nhân vật

chức năng của truyện cổ tích nhờ khả năng bộc lộ tính cách thông qua ngôn ngữ.

104

Tiểu kết Chương 3

Truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân

truyện đã kế thừa về mô hình kết cấu cốt truyện, nội dung cốt truyện, môtip

truyện, yếu tố thần kỳ – yếu tố ngẫu nhiên và kế thừa hệ thống nhân vật từ

truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức. Tuy nhiên, bên cạnh những kế thừa về

phương diện nghệ thuật kể trên, ta cũng nhận thấy những biến đổi khá rõ rệt trên

nhiều phương diện nghệ thuật của truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và

truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện so với truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức

như những biến đổi về kết cấu cốt truyện, biến đổi về nghệ thuật xây dựng và

miêu tả tâm lý nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật. Sự biến đổi này đã khẳng định vai

trò của chủ thể sáng tạo và khả năng sáng tạo của các tác giả với tư cách chủ sở

hữu tác phẩm nghệ thuật thuộc loại hình văn học viết của mình. Cùng một câu

chuyện về chàng Từ Thức, ở mỗi tác phẩm là truyện cổ tích, hay truyện truyền

kỳ, hay truyện thơ Nôm lại có những đặc sắc riêng trong nghệ thuật thể hiện.

Những sáng tạo và thành công về nghệ thuật của mỗi tác phẩm không chỉ góp

phần khẳng định bản chất thể loại, thể hiện qui luật của sự kế thừa và tiếp thu,

sáng tạo trong văn học mà điều hơn nhất là các tác phẩm này đã tạo ra những giá

trị nội dung riêng, phù hợp với thời đại mà tác giả của nó sinh sống.

105

KẾT LUẬN

1. Hiện tượng mượn cốt truyện để diễn lại tích truyện bằng một thể loại

khác là hiện tượng khá phổ biến trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ví như

từ cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của tác giả Thanh Tâm tài nhân, Nguyễn Du

đã diễn Nôm lại thành tác phẩm Đoạn trường tân thanh, hay tác giả Vũ Quốc

Trân đã diễn Nôm truyện Bích Câu kỳ ngộ kí của Đặng Trần Côn thành Bích

Câu kỳ ngộ… Đặc biệt là từ cốt truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, tác giả

Nguyễn Dữ đã viết lại thành truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, sau đó tác

phẩm lại được tác giả truyện thơ Nôm diễn Nôm thành Từ Thức tân truyện. Sự

khác nhau về thể loại trên cùng một cốt truyện ít nhiều cho thấy sự sáng tạo độc

đáo của tác giả truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm. Đối chiếu, so sánh ba tác

phẩm Sự tích động Từ Thức, Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện trên tất

cả các bình diện nội dung và nghệ thuật chúng ta nhận thấy nhiều vấn đề lý thú

về sự kế thừa và biến đổi của truyện.

2. Về nội dung: Ba tác phẩm Sự tích động Từ Thức, Từ Thức lấy vợ tiên

và Từ Thức tân truyện đều nói về sự tương quan ảnh hưởng của tam giáo (Nho

giáo, Phật giáo, Đạo giáo) trong tư tưởng của các trí thức đương thời. Nổi bật là

xu hướng xa dời đạo Nho hướng về Đạo giáo. Do mỗi tác phẩm đều mang hơi

thở của thời đại mình – sự ngột ngạt của xã hội phong kiến giai đoạn từ thế kỷ

XVI đến thế kỷ XIX nên ta cũng nhận thấy sự phản ánh rõ nét những bế tắc

trong tư tưởng và lối sống của nho sĩ trong xã hội phong kiến. Các nho sĩ đương

thời cảm thấy chán ghét hiện thực đời sống, chán ghét những ràng buộc của Nho

giáo, họ đã thể hiện những khát vọng giải phóng con người, đặc biệt là khát

vọng tự do và tình yêu tự do vượt ra ngoài vòng cương toả của xã hội phong

kiến. Sự khác biệt trong truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện so với truyện cổ

tích và truyện truyền kỳ có cùng cốt truyện là ở chỗ tác giả truyện thơ Nôm đã

không để cho tư tưởng Nho giáo ràng buộc, chi phối quá sâu sắc để câu chuyện

tình yêu của Từ Thức và Giáng Hương phải đi đến một kết thúc không có hậu

mà ngược lại câu chuyện tình yêu của Từ Thức và Giáng Hương trong truyện

106

thơ Nôm Từ Thức tân truyện đã trở thành biểu tượng cho khát vọng tự do trong

cảm xúc yêu đương, luyến ái. Yếu tố tính dục với những đòi hỏi bản năng của

con người cũng đã được đề cập đến trong truyện thơ Nôm, đây chính là sự tiến

bộ hơn của tác giả truyện thơ Nôm so với tác giả truyện cổ tích và truyện truyền

kỳ. Làm nên điều khác biệt này có nhiều nguyên nhân như: do sự khác biệt, do

thể loại sáng tác (truyện cổ tích - tự sự dân gian truyền miệng, truyện truyền kỳ

– tự sự của văn học viết, truyện thơ Nôm – tự sự trữ tình), hay do yếu tố tư

tưởng thời đại chi phối, đặc biệt ở truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm còn do cá

tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Chàng Từ Thức trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên

của Nguyễn Dữ mang dấu ấn của chính nhà văn và hơi thở thời đại nên dù có

chọn cách thoát ly lên tiên, sống sung sướng hạnh phúc ở cõi tiên nhưng tấm

lòng trần gian vẫn không sao chối bỏ được để rồi khi trở lại trần gian chàng phải

đối mặt bởi bi kịch cô đơn trên chính quê hương, xứ sở của mình, để cuối cùng

Từ Thức phải bỏ đi, không biết là đi đâu. Nhưng tác giả truyện thơ Nôm đã tạo

nên một kết thúc có hậu cho cuộc đời Từ Thức khi được đoàn tụ cùng nàng

Giáng Hương và sống hạnh phúc ở cõi tiên, tác giả truyện thơ Nôm cho rằng khi

con đường công danh chốn trần gian bế tắc, kẻ sĩ chỉ còn biết lánh mình tìm

hạnh phúc ở cõi tiên, cõi tiên luôn đáng sống. Thể hiện sự bế tắc trong tư tưởng

và lối sống, cả Nguyễn Dữ và tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện đều

nói đúng tâm tư của giới nho sĩ cùng thời thông qua hình tượng nhân vật Từ

Thức. Họ đều tỏ rõ sự chán ghét hiện thực đời sống, chán ghét những ràng buộc

của Nho giáo lên cuộc đời họ. Vì thế cách thoát ly khỏi hiện thực đến với thế

giới thần tiên đáng sống một cách tuyệt đối của tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức

tân truyện cho thấy con đường đi của nho sĩ trong tác phẩm này không bế tắc và

tuyệt vọng như nho sĩ trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ. Như

vậy xu hướng xa dời Nho giáo tìm đến với Đạo giáo cũng là xu hướng tất yếu

của tầng lớp nho sĩ trong thời đại của Nguyễn Dữ thế kỷ XVI và thời đại của tác

giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII - đầu thế

kỷ XIX. Song có điểm khác nhau trong tư tưởng và lối sống giữa Nguyễn Dữ và

107

tác giả Truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện là xem ra Nguyễn Dữ vẫn còn bị chi

phối khá nhiều những ảnh hưởng của đạo Nho mặc dù đã có ý thức về sự hạn

chế của nó. Còn tác giả truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện thì tỏ rõ thái độ

khước từ đạo Nho để tìm đến với tư tưởng phóng khoáng của Đạo giáo.

3. Về nghệ thuật: Từ Thức lấy vợ tiên và Từ Thức tân truyện là hai tác

phẩm của văn học viết thế kỷ XVI và cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, cả hai

tác phẩm này đều kế thừa kết cấu cốt truyện, hệ thống nhân vật, sự phát triển các

tình tiết sự kiện chính, yếu tố hoang đường kỳ ảo, môtip không gian, thời gian

xuất hiện trong truyện cổ dân gian Sự tích động Từ Thức.

Bên cạnh việc kế thừa, các tác giả truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện

thơ Nôm Từ Thức tân truyện cũng bổ sung làm mới cho tác phẩm của mình trên

nhiều phương diện nghệ thuật như: xây dựng thêm các tình tiết, sự kiện để nối

dài cốt truyện, tăng yếu tố tự sự và trữ tình làm cho dung lượng tác phẩm hoàn

toàn khác so với dung lượng truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức.

Riêng ở truyện truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên, sự xuất hiện của văn xuôi

nhằm mục đích kể chuyện, thơ dùng cho nhân vật tả tình, tả cảnh và phô diễn tài

năng văn chương của mình, tác giả còn sáng tạo kết cấu cốt truyện theo một kiểu

mới có sự đan xen nhiều chủ đề, tạo nên cốt truyện lồng trong truyện nhằm

mang đến nội dung mới và cảm hứng mới cho người đọc. Hay việc tác giả đưa

Lời bình ở hình thức một câu hỏi mở vào cuối tác phẩm để người đọc tự thể hiện

chính kiến, quan điểm của mình. Các sự kiện, tình tiết đã được tác giả miêu tả,

khắc hoạ cụ thể hơn, những biểu hiện của sự việc mang tính cá nhân rõ nét,

những điển tích, điển cố, những yếu tố lịch sử tương đối dày đặc bên cạnh yếu tố

kỳ ảo về thế giới thần tiên đã làm tăng sức thuyết phục, làm cho câu chuyện

mang đậm chất ký, việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật ở truyện Từ Thức lấy vợ

tiên được khẳng định đã chứng tỏ một lối viết văn tự sự khá hấp dẫn. Nguyễn

Dữ đã biến tác phẩm từ một truyện kể dân gian trở thành một tác phẩm văn học

viết thực sự mang dấu ấn cá nhân và tinh thần dân tộc.

108

Ở Truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện, tác giả diễn Nôm cốt truyện bằng

thơ, sáng tạo thêm chi tiết, sự kiện, kết hợp các phương thức miêu tả để tăng

cường yếu tố tự sự và trữ tình. Đặc biệt với sự tham gia của nhân vật - người kể

chuyện toàn tri, người hiểu rõ suy nghĩ của nhân vật nên nhịp độ kể chuyện lúc

nhanh, lúc chậm, thậm chí có những đoạn miêu tả cảnh vật hay cảnh hoạt động

của con người, người kể chuyện thường chủ tâm dừng lại để nhấn nhá. Do chú

trọng phương thức miêu tả, tác giả truyện thơ Nôm đã làm cho không gian hiện

thực của truyện luôn ở trạng thái mở. Kết thúc truyện có hậu mang hơi thở

truyện cổ tích dân gian, thể hiện ước mơ, khát vọng của nhân dân, đây là vẻ đẹp

mang tính nhân văn được truyện thơ Nôm kế thừa và khẳng định. Truyện thơ

Nôm không chỉ miêu tả con người bên ngoài mà còn miêu tả con người bên

trong, miêu tả diễn biến tâm lý, nội tâm nhân vật, phát triển ngôn ngữ đối thoại

và nhất là ngôn ngữ độc thoại của nhân vật. Nhân vật truyện thơ Nôm này là

nhân vật cảm nghĩ, nói năng, nhân vật hành động, thông qua miêu tả hành động

của nhân vật tác giả đã hoàn thiện tính cách, tâm lý và số phận nhân vật. Trong

truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện ngôn ngữ nhân vật chính là phương tiện để

bộc lộ tính cách nhân vật. Thông qua ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật

tác giả truyện thơ Nôm này đã tạo nên diện mạo và hoàn thành tính cách, số

phận của nhân vật. Vì vậy nhân vật đã thoát dần ra khỏi kiểu nhân vật chức năng

của truyện cổ tích nhờ khả năng bộc lộ tính cách thông qua ngôn ngữ.

Tóm lại, bước đầu nghiên cứu truyện cổ tích Sự tích động Từ Thức, truyện

truyền kỳ Từ Thức lấy vợ tiên và truyện thơ Nôm Từ Thức tân truyện trong sự so

sánh một cách toàn diện từ thể loại, nội dung đến nghệ thuật chúng tôi đã góp

phần vào việc nhận ra quy luật hình thành, phát triển của truyện truyền kỳ,

truyện thơ Nôm và sự tương tác giữa ba thể loại này trong tiến trình phát triển

của văn học dân tộc.

109

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1995), Loại hình học tác giả văn học và vấn đề phương pháp

luận nghiên cứu (nhân đọc “Loại hình học tác giả nhà Nho – nhà Nho tài tử và

văn học Việt Nam”), Nxb Giáo dục.

2. Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường (1997), Từ điển văn học Việt Nam

(Từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục.

3. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân, Truyện thơ Nôm, vài khía cạnh văn học sử. Truy cập tại

http://lainguyenan.free.fr/DLNX/TruyenNom.html

5. Phan Kế Bính (2011), Nam Hải dị nhân liệt truyện, Nxb Trẻ.

6. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế

giới, Nxb Đà Nẵng.

7. Nguyễn Đổng Chi (1958), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, quyển II, Nxb

Văn - Sử - Địa, Hà Nội.

8. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

9. Nguyễn Huệ Chi (2000), “Nắm bắt lại những vấn đề phong phú của văn học

thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học số 4, tr.3 -11.

10. Trần Tùng Chinh (2000), Bước đầu tìm hiểu truyện kể dân gian về các địa

danh ở Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Sư phạm thành phố Hồ

Chí Minh.

11. Mai Thị Ngọc Chức (1987), Từ Thức tân truyện, Từ Thức tiên hôn, Nxb

Thanh Hoá.

12. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (1999), Các triều đại phong kiến Việt Nam, Nxb

Văn hóa Hà Nội.

13. Nguyễn Văn Dân (2003), Lý luận văn học so sánh, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa

học xã hội.

110

15. Tô Nguyệt Đình (1963), Chuyện cổ tích, Nhà sách Khai Trí, Nxb Sài Gòn.

16. Đoàn Lê Giang (tháng 01, 2010), Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Trang điện tử trường Đại học Khoa học

XHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ.

17. Thạch Trung Giả (1972), Hệ thống tam giáo trong Truyền kỳ mạn lục

http://vnbet.vn/tu-tuong-so-3/5-he-thong-tam-giao-trong-truyen-ky-man-luc-

10168.html

18. Nguyễn Thị Bích Hà (1983), Tìm hiểu truyền thuyết địa danh qua những truyền

thuyết ven Hồ Tây, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học sư phạm Hà Nội.

19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

20. Minh Hải, Huyền ảo chuyện tình chàng Từ Thức với tiên nữ Giáng Hương

nơi động Bích Đào, https://baomoi.com.

21. Lương Nguyên Hiền (2013), Nửa khuya thức dậy đọc Truyền kỳ mạn lục của

Nguyễn Dữ, Đặc San Petrus Trương Vĩnh Ký, Toàn Cầu Hội Ngộ.

22. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi (chủ biên)…, (2004), Từ điển văn học bộ

mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

23. Nguyễn Thị Hoa (2016), “Cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở Bích Câu” từ truyện Truyền

kỳ đến truyện thơ Nôm, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.

24. Kiều Thu Hoạch (1992), Truyện thơ Nôm - Nguồn gốc và bản chất thể loại,

Nxb Khoa học xã hội.

25. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện thơ Nôm - Lịch sử phát triển và thi pháp thể

loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

26. Nguyễn Phạm Hùng (1987), Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền

kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Tạp chí văn học số 7.

27. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình Văn học trung đại, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội.

28. Nguyễn Phạm Hùng (2006), “Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ vào thời điểm

sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục”, Nghiên cứu văn học số 1, Hà Nội.

111

29. Lại Văn Hùng (2002), Bàn thêm về tác giả, tác phẩm Truyền kỳ mạn lục,

Tạp chí văn học số 10.

30. Lê Văn Hùng (2007), Bước tiến của thể loại truyện ngắn Truyền kỳ Việt

Nam qua Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Báo cáo Nghiên cứu Khoa học

Trường Cao đẳng sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu.

31. Phạm Văn Hưng (2004), http://vanvn.net/van-hoc-voi-doi-song/tinh-duc-

trong-van-hoc-viet-nam-trung-dai-the-ky-xvi-xix/.

32. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo Việt Nam và Văn học Việt Nam trung cận

đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Đinh Thị Khang (1992), Ngôn ngữ đối thoại trong truyện thơ Nôm, Tạp chí

Văn hóa dân gian (4), tr.49-53.

34. Đinh Thị Khang (2003), Quan niệm về con người trong truyện thơ Nôm, Tạp

chí Văn học.

35. Đinh Gia Khánh, Nguyễn Văn Nguyên (1998), Thế giới của Truyện thơ

Nôm, Nxb Văn hóa xã hội.

36. Vũ Đăng Khoa (2007), Nghiên cứu một số môtip được Nguyễn Dữ sử dụng

để sáng tác Truyền kỳ mạn lục, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm

Hà Nội.

37. Trương Vĩnh Ký, Chuyện đời xưa (CĐX), Xb lần đầu (1886), Hoa Tiên tái

bản, Sài Gòn (1974).

38. Đặng Thanh Lê (1968), Nhân vật phụ nữ qua một số truyện thơ Nôm, Tạp

chí Văn học, số 1+2.

39. Nguyễn Lộc (1969), Những vấn đề xã hội trong truyện thơ Nôm bình dân,

Tạp chí Văn học, số 4.

40. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế

kỷ XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

41. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế

kỷ XIX, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

112

42. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIII đến hết thế kỷ

XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

43. Phương Lựu (1985), Quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

44. Bùi Thị Tuyết Mai (2015), Đặc điểm truyện thơ Nôm bình dân qua một số

tác phẩm có nguồn gốc từ văn học dân gian, Luận án thạc sĩ, Trường Đại

học sư phạm, Hà Nội.

45. Nam Minh (13/5/2018), Từ Thức gặp tiên, truyện cổ tích Việt Nam hay một hiện

tượng khoa học, https://www.dkn.tv//.

46. Nguyễn Đăng Na (1978), Sự phát triển văn xuôi Hán – Việt từ thế kỷ X đến

cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX qua một số tác phẩm tiêu biểu, Luận án tiến

sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

47. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam, tập 1, Truyện

ngắn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

48. Nguyễn Đăng Na (2006), Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ so sánh văn học,

Con đường giải mã văn học trung đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Nguyễn Đăng Na (2006), Đặc điểm Văn học trung đại Việt Nam – Những

vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội

50. Nguyễn Đăng Na (2013), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 2, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

51. Trần Nghĩa (2012), Quá trình hội nhập Nho - Phật - Lão hay sự hình thành

tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam, http://www.vanhoahoc.vn

52. Phạm Thế Ngũ (1997), Văn học Việt Nam sử giản ước tân biên, tập 2, Nxb

Đồng Tháp tái bản.

53. Bùi Văn Nguyên (1968), Bàn về yếu tố dân gian trong Truyền kỳ mạn lục

của Nguyễn Dữ, Tạp chí văn học số 11.

54. Nguyễn Thị Nhàn (2009), Thi pháp cốt truyện truyện thơ Nôm và Truyện

Kiều, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

55. Vũ Ngọc Phan (1957), Truyện cổ Việt Nam, in lần thứ ba, Nxb Văn - Sử -

Địa, Hà Nội.

113

56. Hoàng Phê (Chủ biên, 1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

57. V.I.Propp (2003), Tuyển tập V.I. Propp, nhiều người dịch, Nxb Văn hoá dân

tộc, Hà Nội.

58. Lê Văn Quán (chủ biên), Kiều Thu Hoạch, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Thanh

Xuân,(1993), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 14B, Nxb, Khoa học xã hội,

Hà Nội.

59. Nguyễn Hồng Quân (tháng 6, 2018), Truyện thơ Nôm Từ Thức dưới góc

nhìn liên văn bản, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 408.

60. Nguyễn Thị Mai Quyên (2010), Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt

Nam”, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường đại học sư phạm Thái Nguyên.

61. Nguyễn Hữu Sơn (tháng 6, 2009), Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian

và những sáng tạo trong Truyền kỳ mạn lục, Trang điện tử trường Đại học

khoa học XHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ.

62. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử (1997), Về con người cá nhân trong văn

học cổ Việt Nam, Nxb Hà Nội.

63. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

64. Trần Đình Sử (2000), Nguyễn Dữ và Tiên thoại Trung Quốc qua truyện Từ

Thức lấy vợ tiên,Tạp chí Văn học, số 5.

65. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

66. Trần Đình Sử (Chủ biên, 2012), Lý luận văn học, tập 2, Nxb Đại học sư

phạm Hà Nội.

67. Bùi Duy Tân (1979), Truyền kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn

học viết bằng chữ Hán, in trong Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu

thế kỷ XVIII, Tập II, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

68. Văn Tân, Hoài Thanh, Nguyễn Đổng Chi (1957), Sơ thảo lịch sử văn học

Việt Nam, quyển IV (thế kỷ thứ XVIII), Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.

114

69. Lê Văn Tấn (2017), Kiểu nhân vật đạo sĩ và dật sĩ trong truyện Truyền kỳ

mạn lục của Nguyễn Dữ, Tạp chí Khoa học - Trường Đại học sư phạm TP

Hồ Chí Minh, Tập 14, Số 8.

70. Vũ Thanh (1994) Những biến đổi giữa yếu tố kỳ và thực trong truyện truyền

kỳ Việt Nam, Tạp chí Văn học (6), tr.25-30

71. Vũ Thanh (tháng 10, 2006), Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại Truyền

kỳ Đông Á, Trang điện tử của Viện Văn học.

72. Vũ Thanh (2007), Thể loại truyện kỳ ảo Việt Nam trung đại, quá trình nảy

sinh và phát triển đến đỉnh điểm in trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ X-

XIX - Những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

73. Vũ Thanh (2008), Những biến đổi trong nghệ thuật tự sự trong truyện

Truyền kỳ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, in trong Tự sự văn học- Một số vấn

đề lý luận và lịch sử, phần 2, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

74. Phạm Văn Thắm (1996), Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại Truyền kỳ

viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thời kỳ trung đại, Luận án Phó tiến sĩ. Khoa

Ngữ văn, Viện Hán Nôm.

75. Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang, Vũ Thanh (2017), Giáo trình văn học trung

đại Việt Nam, tập1, Nxb Giáo dục Việt Nam.

76. Trần Nho Thìn (2007), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX,

Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

77. Trần Nho Thìn (2009), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,

Nxb Giáo dục Việt Nam.

78. Hỏa Diệu Thúy (03/09/2013), Minh triết của trí tuệ dân gian,

http://daibieunhandan.vn

79. B.L. Riptin (1974), Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của

phương Đông theo phương pháp loại hình, Tạp chí Văn học số 2, Lê Sơn dịch,

tr 115.

80. Lao Tử (Chủ biên, 2001), Từ điển Nho - Phật - Đạo, Nxb Văn học, Hà Nội.

81. Lê Trí Viễn và Lê Hoài Nam (1965), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Hà Nội.

115

82. Lưu Thị Hồng Việt (2014), Sự tương đồng và khác biệt về không gian trong

truyện cổ tích thần kỳ người Việt và người Hàn, Tạp chí khoa học số 60,

Trường Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh.

83. TS Phạm Tuấn Vũ (tháng 12, 2011), Bàn về tiếp thụ và đổi mới trong Truyền

kỳ mạn lục, Trang điện tử Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm thành

phố Hồ Chí Minh.

84. https://www.thivien.net/NguyễnTrãi/Thần-Phù-hải-khẩu.

116

PHỤ LỤC

130. SỰ TÍCH ĐỘNG TỪ THỨC

( Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam,

Nxb Giáo dục Hà Nội, 2000, tr 946 – 950)

*****

Vào đời nhà Trần ở châu Ái có một chàng trẻ tuổi tên là Từ Thức. Chàng

vốn con nhà quan. Năm 20 tuổi nhờ học giỏi thi đỗ cao, chàng được bổ một chân

tri huyện ở một huyện vùng Bắc. Khác với bọn quan lại khác, Từ Thức vốn là

người phóng khoáng, không chịu ràng buộc vào khuôn phép. Chàng lại không

thích những chuyện nịnh trên, nạt dưới, mà chỉ thích uống rượu ngâm thơ, và đi

chơi ngắm cảnh. Ở gần vùng Từ Thức trị nhậm có một ngôi chùa lớn. Trước sân

và xung quanh vườn trồng toàn một loại cây mẫu đơn. Mỗi năm vào khoảng

tháng giêng là mùa hoa nở rộ, cũng là kỳ cúng Phật. Nhân dịp đó, các thiện nam

tín nữ các nơi đua nhau về chùa lễ Phật và ngắm hoa. Vì thế người ta cũng gọi là

hội xem hoa hay là hội mẫu đơn.

Một năm vào kỳ hội xem hoa, Từ Thức cũng có cái hứng đi hành hương

ngắm cảnh. Để khỏi làm kinh động dân chúng, Từ Thức cải trang thành một

người học trò. Chàng cũng không cho mang lính hầu và cáng xá đi theo. Hồi này

các chùa chiền được triều đình vị nể, nên có những bọn sư sãi ỷ thế hoành hành.

Để bảo vệ hoa, chùa này đặt ra một cái lệ ai bẻ hoa hoặc là gãy cây sẽ bị phạt vạ

một số tiền. Nếu không có tiền thì nhà chùa sẽ bắt làm nô để đền nợ. Ngày hôm

ấy có một cô gái đi xem hội vô tình không biết lệ nhà chùa, thấy có hoa đẹp ở

cạnh lối đi bèn rón tay ngắt một bông. Thấy vậy, bọn thủ hộ trong chùa xông ra

bắt giữ lại đòi tiền vạ. Cô gái thú thực là mình đi xem hội không mang tiền theo

nên không biết lấy gì đền. Nghe nói thế, bọn thủ hộ liền sai trói cô gái vào cột

chùa cốt để làm nhục, vặn cho ra tiền chuộc.

Vừa lúc ấy Từ Thức tiến vào cổng chùa. Thấy một người con gái yếu ớt bị

bọn vũ phu lăng nhục, Từ Thức không ngăn được cơn giận dữ. Chàng sán đến

đòi cởi trói cho cô gái. Bọn thủ hộ nhất định không cho và chỉ vào mặt chàng:

117

– Này, nếu không có đủ một quan tiền chuộc thì anh chớ có động đến dây

trói mà sinh chuyện rầy rà đấy.

Nghe chúng thách thức, cơn giận của Từ Thức bừng bừng bốc lên. Đã

toan dùng đến chức vị của mình để trị bọn bất lương, nhưng rồi chàng lại kịp gạt

đi vì chẳng muốn làm to chuyện. Không nghĩ ngợi, chàng cởi phăng chiếc áo

ngoài vứt cho bọn thủ hộ để chúng trả tự do cho cô gái. Dây trói vừa cởi, cô gái

ngỏ lời cảm tạ Từ Thức. Thấy nàng xinh đẹp lại bạo dạn, Từ Thức cũng muốn

làm quen. Chàng hỏi:

– Nhà nàng ở đâu? Tôi nghe giọng nói hình như không phải là người

vùng này.

Cô gái đáp:

– Quê thiếp ở tận trong châu Ái huyện Tống Sơn…

Không ngờ người đẹp lại là người cùng quê, Từ Thức càng thêm niềm nở.

Hai người men theo lối cổng chùa, vừa đi vừa ngỏ ít lời lâm sự. Trước khi từ

giã, nàng còn không quên mời chàng đến chơi nhà nếu có dịp về thăm quê.

Vẫn không ưa cái nghề roi vọt trị dân, Từ Thức thường bị bọn quan trên

hạch tội. Một lần vì để vụ thuế chậm trễ, chàng bị viên an phủ gọi đến quở mắng

nặng lời. Chàng than:

– Ta há vì mấy bó thóc mà chịu nhục như thế này ư! Lúc trở về huyện lỵ,

lập tức chàng cởi bỏ ấn tín treo ở trước mái công đường, rồi bỏ đi biệt. Chàng đi

thẳng về quê nhà thăm bố mẹ và bà con làng nước. Ở nhà được ít lâu, nhớ đến

lời mời của cô gái trong hội xem hoa, Từ Thức liền cất công ra đi. Theo lời chỉ

dẫn, chàng lặn lội tìm kiếm, nhưng bóng chim tăm cá mịt mù. Vùng Tống sơn

có bao nhiêu cảnh đẹp, chàng đều có để lại dấu chân và những bài ca vịnh, vậy

mà chàng vẫn ân hận không gặp lại người đẹp năm xưa. Mặc dầu vậy, Từ Thức

vẫn không nản lòng.

Một hôm trên đường đi tìm, từ sáng sớm, Từ Thức đã trèo lên núi cao

nhất ra giữa cửa Thần phù. Tự nhiên trước mắt chàng hiện lên một hòn đảo

trông y như một đóa hoa sen giữa vùng biển cả. Say sưa nhìn ngắm, chàng bèn

118

dong buồm ra khơi. Chẳng bao lâu thuyền đã ghé đảo. Đang mê mải nhìn, chàng

bỗng thấy ở sườn núi đá gần đó có một cửa hang khá rộng. Bèn vin cây rẽ cỏ tìm

đến tận nơi. Vừa bước vào hang được một quãng, thì bỗng dưng cửa hang tối

sầm lại. Từ Thức vẫn cứ sờ soạng bước liều. Đi một đoạn nữa thình lình lại thấy

có ánh sáng. Trông ngược lên thấy núi cao chót vót, đá mọc lởm chởm. Khi leo

lên đến đỉnh thì Từ Thức bỗng thấy cả một tòa nhà lộng lẫy hiện ra trước mặt.

Chưa hết ngạc nhiên trước cảnh lạ, chàng bỗng thấy bóng hai người con gái nhỏ

mặc áo xanh. Một người nói:

– Chú rể mới nhà ta đã đến kia kìa!

Chàng hết sức bỡ ngỡ nhưng vẫn bạo dạn đi theo hai cô gái. Trên đường

đầy hoa thơm cỏ lạ. Đi một chốc thì đến lâu đài. Vừa bước lên thềm Từ Thức đã

thấy một người đàn bà dáng quý phái ra đón. Bà tươi cười bảo chàng:

– Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu hang động ở cõi tiên. Từ lâu ta

cai quản thế giới này. May mắn hôm nay lại được đón người trẻ tuổi phong nhã

và chí tình. Thế nào, cảnh trí ở đây có làm cho du khách ưa thích không?

Thấy Từ Thức gật đầu, người đàn bà lại nói:

– Khoan đã. Để còn cho gặp một người quen cũ.

Đoạn, ra hiệu cho người hầu gái đi gọi. Chốc sau, một cô tiên từ trong

hành lang bước ra, dáng thướt tha kiều diễm, mỉm cười chào chàng. Từ Thức

nhìn kỹ thì ra đấy là cô gái bẻ hoa mẫu đơn năm nào. Chàng mừng rỡ nói to:

– Ô hay tôi đi tìm nàng khắp nơi mà không thấy, không ngờ lại gặp ở đây!

Câu chuyện từ đấy trở nên thân mật đậm đà hơn. Bà chúa động nói:

– Em nó tên là Giáng Hương. Ngày trước đi xem hội mẫu đơn không

may gặp rủi ro, nhờ có chàng tận tình cứu giúp. Âu đó cũng là duyên trời.

Chàng đã có lòng cất công đi tìm, nay đến gặp nhau, hãy mở tiệc hoa để phỉ

lòng khao khát.

Từ Thức thấy không gì đẹp lòng hơn thế nữa. Lập tức đêm hôm ấy trong

bữa tiệc tưng bừng có quần tiên tụ hội, hai người chính thức làm lễ giao bôi.

119

Khách tiên từ các động vui vẻ cạn chén chào mừng chàng rể mới đến nhập tịch

làng tiên, và chúc tụng cuộc tình duyên tốt đẹp của hai người.

Ngày lại ngày nối nhau trôi qua, Từ Thức làm rể cõi tiên bấm đốt ngón

tay đã được ba năm. Cuộc đời mới hoàn toàn khác với cảnh sống trần gian ngày

trước. Cơm ăn áo mặc và mọi vật dụng cần thiết, chàng đều có sẵn, không thiếu

một thứ gì. Sắc đẹp tuyệt vời, tính nết hiền dịu của Giáng Hương luôn luôn làm

cho chàng thỏa dạ. Chàng lại được đi ngao du các động tiên, thơ ngâm vịnh làm

ra thao thao bất tuyệt. Tuy nhiên, lâu dần, Từ Thức lại thấy như thiếu một cái gì,

một hôm chàng tâm sự với Giáng Hương:

– Xa cha ngái mẹ đã lâu, muốn về thăm một chuyến có được chăng?

Thấy vợ ngần ngừ chàng nói thêm:

– Chỉ cho về gặp bà con xóm làng một lần chót, rồi tôi sẽ đến đây ở với

mình mãi mãi.

Giáng Hương thủ thỉ khuyên dỗ chồng hãy bỏ cái ý nghĩ trở về vì cõi tục

và cõi tiên là hai con đường cách biệt. Nhưng Giáng Hương càng khuyên bao

nhiêu thì nỗi nhớ nhà của Từ Thức càng nặng bấy nhiêu. Thấy chồng tuy không

đòi về nữa nhưng nét mặt ngày một héo hon. Giáng Hương đành phải thưa với

mẹ. Mẹ nàng thương hại:

– Không ngờ gã ấy còn lưu luyến bụi hồng đến thế!

Nói rồi cho người đẩy xe mây đến cho Từ Thức trở về. Chàng vội vã từ

giã vợ và mẹ vợ, từ giã các bạn tiên, rồi bước lên xe. Chỉ trong chớp mắt, chàng

đã thấy lại quê hương cũ. Các rặng núi, con sông, những lũy tre dưới mắt chàng

vẫn không có gì khác xưa. Xe đặt chàng xuống giữa một bến sông, nơi mà ngày

còn nhỏ chàng vẫn ra đấy tắm mát và bơi lội. Nhưng khi nhìn kỹ cảnh vật thì Từ

Thức lấy làm ngờ ngợ. Mới ba năm mà nhà cửa vườn tược làm sao đã khác. Dân

làng cũng chẳng có một người nào quen mặt. Hỏi một người đi đường, người ấy

cho biết đúng là tên của làng chôn rau cắt rốn của mình. Nhưng khi hỏi đến bố

mẹ và em gái thì ai cũng lắc đầu trả lời không biết.

120

Sau cùng, Từ Thức đem họ tên của mình hỏi thăm các cụ già trong làng,

thì một người ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:

– Từ lúc còn nhỏ, tôi có nghe truyền lại rằng các cụ tổ năm đời nhà tôi có

một cụ cũng tên họ như thế, trước làm quan huyện rồi treo ấn từ về, một hôm đi

chơi sa vào hang núi mặt tích. Từ bấy đến nay dễ đã gần ba trăm năm.

Nghe kể chuyện, Từ Thức mới thấm thía lời nói của vợ. Chàng bùi ngùi

đứng nhìn cây đa mình trồng đầu ngõ bây giờ đã thành cổ thụ, cây to hàng vầng,

cành lá rườm rà, rễ buông từng chùm chi chít. Chàng thẫn thờ trước đám đông

đang vây quanh mình. Sau cùng Từ Thức trở lại chỗ xe mây, thì không ngờ xe

đã biến mất từ lúc nào. Buồn rầu vô hạn, chàng lại khăn gói lần mò đến cửa

Thần-phù, định bụng tìm lại hang cũ dẫn đến động tiên nhưng mịt mù cây đá kín

lối không thể tìm ra được nữa. Chàng đi, đi mãi, về sau không biết là đi đâu. Từ

đấy người ta gọi hang núi ở chỗ này là động Từ Thức.

121

Chương 9: CHUYỆN TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN

(Trong cuốn “Cù Hựu Tiễn đăng tân thoại, Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục”, Nxb Văn học Hà Nội, 1999, tr 304-318)

*****

Trong năm Quang Thái(1)đời nhà Trần, người ở Hóa Châu(2) tên là Từ

Thức, vì có phụ ấm được bổ làm Tri huyện Tiên Du(3). Bên cạnh huyện có một

tòa chùa danh tiếng, trong chùa trồng một cây mẫu đơn, đến kỳ hoa nở thì người

các nơi đến xem đông rộn rịp, thành một đám hội xem hoa tưng bừng lắm.

Tháng 2 Bính Tý(4), người ta thấy có cô con gái, tuổi độ 15, 16 phấn son điểm

phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, đến hội ấy xem hoa. Cô gái vin một cành hoa,

không may cành giòn mà gãy khấc, bị người coi hoa bắt giữ lại, ngày đã sắp tối

vẫn không ai đến nhận. Từ Thức cũng có mặt ở đám hội, thấy vậy động lòng

thương, nhân cởi tấm áo cừu gấm trắng, đưa vào tăng phòng để chuộc lỗi cho

người con gái ấy. Mọi người đều khen quan huyện là một người hiền đức.

Song Từ Thức vốn tính hay rượu, thích đàn, ham thơ, mến cảnh, việc sổ

sách bỏ ùn cả lại thường bị quan trên quở trách rằng:

- Thân phụ thầy làm đến Đại thần mà thầy không làm nổi một chức Tri

huyện hay sao!

Từ than rằng:

- Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi

danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy.

Bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống

(1) Quang Thái: niên hiệu Trần Thuận Tông, từ 1388-1398. (2) Hóa châu: Thanh Hóa ngày nay (theo nguyên chú Hóa Châu là châu Thanh Hóa cổ). (3) Tiên Du: nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. (4) Năm Bính Tý: dưới thời Thuận Tông là năm 1396. (5) Huyện Tống Sơn: khoảng đời Trần là vùng đất tương đương với miền bắc huyện Nga Sơn và miền

đông bắc huyện Hà Trung; thời Lê là vùng đất huyện Hà Trung, Thanh Hóa ngày nay.

Sơn(5), nhân làm nhà tại đấy để ở. Thường dùng một thằng nhỏ đem một bầu

122

rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang mấy quyển thơ của Đào Uyên Minh(1),

hễ gặp chỗ nào thích ý thì hý hửng ngả rượu ra uống. Phàm những nơi nước tú

non kỳ như núi Chích Trợ, động Lục Vân, sông Lãi, cửa Nga(2) không đâu

không từng có những thơ đề vịnh. Một hôm Từ Thức dậy sớm trông ra bể Thần

Phù(3) ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ sắc đùn đùn kết lại

như một đóa hoa sen mọc lên, vội chèo thuyền ra thì thấy một trái núi rất đẹp.

Từ kinh ngạc bảo lái thuyền rằng:

- Ta đã từng lênh đênh trên áng giang hồ, các thắng cảnh miền đông nam,

không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước mắt, ý giả là non tiên rụng xuống,

vết thần hiện ra đây chăng? Sao trước không mà nay lại có?

Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao vút nghìn trượng,

sừng sững đứng thẳng, nếu không có cánh thì vị tất đã trèo lên thăm cảnh đó

được. Nhân đề một luật thơ rằng:

Thiên chương bích thụ quải triêu đôn,

Hoa thảo nghênh nhân nhập động môn.

Nhiễu giản dĩ vô tăng thái dược,

Duyên lưu thặng hữu khách tầm nguyên.

Lữ du tư vị cầm tam lộng,

Điếu đĩnh sinh nhai tửu nhất tôn.

Nghĩ hướng Vũ Lăng ngư tử vấn,

Tiền lai viễn cận chủng đào thôn.

Dịch:

Triêu dương bóng rải khắp ngày xanh,

(1) Đào Uyên Minh: năm sinh có ba thuyết: 365; 372; 376, mất 427, tên là Tiềm, là thi gia đời Đông Tấn. Từng làm Huyện lệnh Bành Trạch, sau vì không chịu luồn cúi nên treo ấn từ quan. Ông có câu nói nổi tiếng: "Lẽ nào vì năm đấu gạo lương mà phải khom lưng!". Thơ văn của ông giản phác mà tinh luyện, có phong cách riêng, phần lớn thể hiện tư tưởng ẩn dật.

(2) Núi Chích Trợ... cửa Nga: đều là những thắng cảnh của Thanh Hóa. (3) Thần Phù: Theo Lịch triều hiến chương loại chí, phần Dư địa chí: cửa Thần Phù là cửa sông ra bể,

thuộc huyện Nga Sơn, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.

123

Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,

Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.

Lang thang đất lạ đàn ba khúc,

Nênh nổi thuyền câu rượu một bình.

Bến Vũ(1) chàng ngư, tìm thử hỏi,

Thôn Đào(1) chỉ hộ lối loanh quanh.

Đề xong, trông ngắm thẫn thờ, như có ý chờ đợi. Chợt thấy ở trên vách đá

bỗng nứt toác ra một cái hang, hình tròn mà rộng độ một trượng. Vén áo đi vào,

vừa được mấy bước thì cửa hang đã đóng sập lại tối tăm mù mịt như sa vào cái

vực đen tối. Bụng nghĩ không còn thể nào sống được nữa, lấy tay sờ soạng lối

rêu, nhận thấy có một cái khe nhỏ, quằn quèo như cái ruột dê vậy. Đi mò độ hơn

một dặm thì thấy có đường đi ngoi lên. Bám bíu trèo lên thì mỗi bước mỗi thấy

rộng rãi. Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng sủa. Chung quanh toàn là những lâu

đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ, nở đầy trước cửa.

Sinh nghĩ nếu không phải là chỗ đền đài thờ phụng, tất là cái xóm của những bậc

lánh đời, như những nơi núi Thứu nguồn Đào(1) chẳng hạn. Rồi chợt thấy có hai

người con gái áo xanh bảo nhau rằng:

- Lang quân nhà ta đã đến!

Đoạn họ vội chạy vào báo tin, một lúc đi ra nói rằng:

- Phu nhân chúng tôi sai mời chàng vào chơi. Sinh đi theo họ vào, vòng

quanh một bức tường gấm, vào trong một khung cửa son, thấy những tòa cung

(1) Núi Thứu: xưa Tây vực có núi Thứu Lĩnh, vì núi hình chim Thứu nên thành tên. Nguồn đào: theo

Đào hoa nguyên ký của Đào Tiềm thì đời Tấn có một người đánh cá ở Vũ Lăng đi thuyền lạc vào rừng đào. Ở

đấy người đánh cá gặp một thôn xóm rất yên bình, hỏi thì là những người lánh nạn nhà Tần, họ không biết gì về

thời cuộc hiện tại. Người đánh cá ở mấy hôm rồi ra về. Câu chuyện đến tai viên quan quận, ông ta muốn người

đánh cá đưa đi, nhưng khi trở lại, người đánh cá không tìm được dấu vết gì nữa. Sau những từ Vũ Lăng, nguồn

Đào, thôn đào vừa chỉ nơi ẩn dật cũng vừa chỉ cõi tiên.

điện bằng bạc đứng sững, có những tấm biển đề: "Điện Quỳnh hư", "Gác Dao

124

quang". Trên gác có bà tiên áo trắng, ngồi trên một cái giường thất bảo bên cạnh

đặt một chiếc giường nhỏ bằng gỗ đàn hương, mời Sinh lên ngồi và bảo rằng:

- Tính hiếu kỳ của chàng đã thành chứng nghiện. Sự vui sướng trong một

chuyến đi chơi này, kể cũng đã thỏa nguyện bình sinh. Nhưng mối duyên gặp gỡ

chàng có còn nhớ gì không?

Từ thưa rằng:

- Tôi là một kẻ dật sĩ ở Tống Sơn. Một cánh buồm gió, một lá thuyền nan,

phóng lãng giang hồ thích đâu đến đấy. Nào có biết chốn này lại có Tử phủ

Thanh đô! Lần mò lên được tới đây, chẳng khác như mình đã mọc cánh mà bay

lên đến cõi tiên vậy. Song lòng trần mờ tối, chưa biết tiền đồ ra làm sao. Dám

xin chỉ bảo rõ ràng cho chúng tôi được hiểu.

Bà tiên cười bảo:

- Chàng biết sao được. Đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ 6 trong 36

động, bồng bềnh ở ngoài bể cả, dưới không có bám bíu, như hai núi La Phù tan

hợp theo với sóng rợn, mà tôi tức là địa tiên ở Nam nhạc là Ngụy phu nhân. Vì

thấy chàng là người cao nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người, nên

mới dám làm phiền mời chàng đến đây.

Bà tiên nhân đưa mắt cho con hầu để bảo gọi một cô tiên ra, Từ liếc nhìn

trộm, chính là người bẻ gãy cành hoa ngày trước. Bà tiên trỏ bảo rằng:

- Đứa con tôi đây tên là Giáng Hương, ngày trước gặp phải cái nạn trong

khi đi xem hoa, nhờ chàng cứu gỡ, ơn ấy khôn quên, nay muốn cho nó kết duyên

để báo đền ơn trước.

Bèn ngay đêm ấy đốt đèn mỡ phượng, rải đệm vàng rồng, để hai người

làm lễ giao bái. Ngày hôm sau quần tiên đến mừng, có người mặc áo gấm cưỡi

con ly từ đàng bắc xuống, có người bận xiêm lụa cưỡi rồng từ phía nam lên, có

người đi kiệu ngọc, có người cưỡi xe gió, đồng thời lại họp. Tiệc yến đặt ở từng

(1) Câu: cái móc để vén rèm, màn.

thượng trên gác Dao quang, buông rèm câu(1) ngọc, rủ trướng móc vàng, phía

125

trước đặt một cái ghế bành bằng ngọc lưu ly mà để không. Quần tiên vái chào

nhau cùng ngồi ở những ghế bên tả; Từ Thức thì ngồi ở cái giường bên hữu.

Ngồi xong, có tiếng truyền hô là Kim tiên(1) đã đến, mọi người đều bước xuống

đón cúi lạy chào. Đoạn rồi lên gác tấu nhạc. Tiệc bày mâm bằng mã não, đĩa

bằng ngọc thạch, các món ăn đều rất kỳ lạ, lại có những thứ rượu kim tương,

ngọc lễ, mùi hương đưa lên thơm nức, dưới trần không bao giờ có được cái của

quý như vậy. Người áo gấm trắng nói:

- Chúng tôi chơi ở chốn này mới tám vạn năm, mà bể Nam đã ba lần tung bụi.

Nay chàng từ xa tới đây, không vì tiên phàm mà cách trở, ba sinh hương lửa, tưởng

cũng không phụ, đừng nên cho chuyện thần tiên là câu chuyện hoang đường.

Rồi có những người trẻ nhỏ, chia ra từng lớp mà múa điệu Lăng Ba. Đoạn,

phu nhân mời tiệc. Giáng Hương rót rượu. Người bận xiêm lụa nói đùa rằng:

- Nương tử hôm nay màu da hồng hào, chứ không khô gầy như trước nữa.

Người ta bảo ngọc nữ không chồng, câu ấy hỏi có tin được không?

Quần tiên đều cười, duy người mặc áo xanh buồn rầu không vui mà nói rằng:

- Mối duyên của cô em đây, thật cũng là tốt đẹp. Song nghĩ cái giá băng

ngọc ở trên mây, mà đi kết mối tóc tơ ở cõi thế, vạn nhất tiếng tăm vỡ lở, thiên

hạ chê cười, quần tiên chúng ta e không khỏi mang tiếng lây được.

Bà Kim tiên nói:

- Ta ở trong chốn lâu thành trên trời, chầu hầu cạnh đức Thượng đế, mênh

mang trần hải, chưa từng đặt bước xuống bao giờ. Thế mà những kẻ hiếu sự họ

(1) Kim tiên: tức Tây Vương mẫu.

(2) Sách Loại tụ nói vua Chu Mục Vương ham thích thần tiên rồi gặp bà Vương mẫu ở Dao Trì.

còn bịa ra, nào bảo Dao trì hội kiến ở đời Chu(2), thanh điểu truyền tin ở đời

126

Hán,(1) ta còn thế, huống chi là lũ các nàng ư ? Song tân lang ngồi đây, ta

không nên bàn phiếm những câu chuyện khác làm rối lòng dạ người ta.

Bà phu nhân nói:

- Tôi nghe tiên khá gặp chứ khôn tìm, đạo không tu mà tự đến. Những

cuộc gặp gỡ hiếm lạ, đời nào mà không có: như đền Bạc(2) hậu như quán Cao

đường(3), như thần Lạc phố lướt sóng(4) như nàng Giang Phi cởi ngọc(5), như

Lộng Ngọc lấy Tiêu Sử(6), như Thái Loan gặp Văn Tiêu(7), như Lan Hương gặp

Trương Thạc(8). Bao nhiêu những chuyện cũ còn sờ sờ đó; nếu thế này mà bị chê

cười thì đã có những người trước ấy họ chịu đỡ tiếng cười cho mình.

Mọi người cùng phá lên cười rất vui vẻ. Rồi đó mặt trời gác núi, các

khách khứa đều giải tán cả. Từ đùa bảo Giáng Hương rằng:

- Thì ra tất cả các cõi trời đều có chuyện phối ngẫu cả. Cho nên ả Chức

Nữ lấy chàng Ngưu Lang, nàng Thượng Nguyên tìm chàng Phong Trắc,(9) Tăng

Nhụ có bài ký Chu Tần,(10) Quần Ngọc có bài thơ Hoàng lăng,(11) cảnh khác

nhưng tình cũng giống nhau, nghìn xưa vẫn như thế cả. Nay quần tiên ai về chỗ

nấy, sống trong cảnh quạnh quẽ cô liêu, đó là vì lòng vật dục không nẩy sinh,

(1) Lời chua ở sách Đường thi, nói vua Hán Vũ Đế ngồi ở điện Thừa Hoa, chợt có hai con chim xanh từ phương tây bay lại, đậu ở trước điện. Vua hỏi Đông Phương Sóc. Sóc nói: "Đó là bà Vương mẫu sắp đến chơi đấy". Một lát quả nhiên bà Vương mẫu đến, có hai người thị nữ áo xanh tức là hai con chim xanh lúc trước.

(2) Chuyện Ngưu Tăng Nhụ đời Đường gặp các nàng tiên ở đền Bạc thái hậu; xem thêm chú thích 5

Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây.

(3) Sở vương chơi ở quán Cao Đường, gặp một nàng thần nữ, cùng chung chăn gối. Xem thêm chú

thích 11 Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu.

(4) Thần nữ ở Lạc Phố tên là Bật Phi, con gái vua Phục Hy. Sách Quần ngọc có chép chuyện Trần Tư

Vương gặp thần nữ ở Lạc Phố.

(5) Hai nàng tiên Giáng Phi chơi ở bên sông gặp Trịnh Giao Phủ, cởi ngọc minh châu mà tặng cho.

Trịnh nhận được ngọc đi được mấy chục bước thì ngọc không còn nữa mà những nàng kia cũng biến mất.

(6) Chàng Tiêu Sử giỏi thổi ống tiêu, vua Tần Mục Công đem con gái là Lộng Ngọc gả cho. Chàng dạy

nàng thổi tiêu, chim phượng hoàng nghe tiếng bay đến. Sau vợ chồng cùng cưỡi phượng mà bay lên trời. (7) Chàng Văn Tiêu gặp nàng tiên Thái Loan ở núi Tây tại đất Chung Lăng, hai người lấy nhau. (8) Ngọc nữ Đỗ Lan Hương lấy Trương Thạc. Sau nàng về trời, Trương Thạc rất thương nhớ. (9) Phong Trắc đọc sách ở trong núi sâu, bà tiên Thượng Nguyên phu nhân đêm đến ve vãn (xuất ở

sách Thiên hạ dị kỷ).

(10) Chuyện Ngưu Tăng Nhu. Xem chú thích 5 Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây. (11) Lý Quần Ngọc qua miếu Nhị phi ở Sầm Dương có đề một bài thơ câu đầu là: "Hoàng Lăng miếu tiền xuân dĩ không" chợt có hai người con gái hiện lên tự xưng là hai nàng Nga Hoàng, Nữ Anh hẹn sau hai năm sẽ cùng Lý gặp gỡ.

hay là cũng có nhưng phải gượng đè nén?

127

Nàng đổi sắc mặt nói:

- Mấy người ấy là những cái khí huyền nguyên, những cái tính chân nhất,

thân hầu cửa tía, tên ghi đền vàng, ở thì ở phủ thanh hư, chơi thì chơi miền sung

mạc, không cần gạn mà lòng tự trong, không cần lấp mà đục vẫn lặng. Không

như thiếp bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh, hình ở phủ tía nhưng lụy vướng

duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục; chàng đừng nên nhân một

mình thiếp mà cho tất cả quần tiên đều thế.

Từ nói:

- Nếu thế thì em còn thua các tiên kia xa lắm.

Vợ chồng cùng vỗ tay cả cười.

Chỗ Giáng Hương có bức bình phong trắng. Từ thường đề thơ lên trên rằng:

Nhãn để yên hà cước để vân,

Thanh quang sái sái bức Tam Thần.

Tùng hoa bán lão hương phong động,

Môi dẫn Thương Lương điếu đĩnh nhân

Dịch:

Khói rợp mây che khắp bốn trời,

Non Thần trong sáng đó là nơi.

Hoa thông theo gió đưa hương ngát,

Dắt dẫn thuyền câu khách một người.

II

Thu phong nhất dạ nguyệt man san,

Liên quyển hoàng hoa nhập ỷ lan.

Tửu lực khốn nhân thi tứ khổ,

Ngâm hào túy các bích lang can.

Dịch:

Một đêm gió thổi nguyệt đầy non,

Rèm cuộn hoa vàng lọt cửa son.

Rượu mệt mê say người nặng trĩu,

128

Mượn đem bút trúc gửi thi hồn.

III

Bảo áp ngưng hàn hoán túc hương,

Biệt tài tân phổ lý nghê thường.

Từ thành bất cảm cao thanh đạo,

Kinh khởi âm lai phong vũ trường.

Dịch:

Đốt lại lò trầm nhóm lại hương,

Đắn đo đổi mới khúc nghê thường,

Bài thành không dám cất cao tiếng,

E gió mưa về ẩm một phương.

IV

Hồng Hà đối khởi Xích thành tiêu,

Sáp hán cung tường tỏa tịch liêu,

Tinh đẩu nhiễu lan thiên nhất ác,

Dạ thâm Tần nữ học xuy tiêu.

Dịch:

Ráng đỏ đùn lên tựa gấm thêu,

Cung tường cao vút vắng teo teo,

Trăng sao dường mọc quanh bên mái,

Tần nữ đêm dài học thổi tiêu(1).

V

Thương mang vân ngoại đoản trường chu,

Mân Quế kiền khôn nhật dạ phù,

Nhất điểu mộ xuân phi bất tận,

(1) Tần nữ: xem chú thích 18 cùng truyện.

Liên không đạm tảo bích du du.

129

Dịch:

Ngoài mây thấp thoáng bóng tiên châu,

Mận, Quế (1) phương trời ngút tận đâu.

Xuân muộn con chim bay lạc lõng,

Vòm không quang sạch biếc làu làu.

VI

Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng trùng,

Khiếp đối suy nhan bả kính dung.

Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng,

Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.

Dịch:

Rèm buông cản lạnh nguyệt linh lung,

Gương võ vàng soi luống thẹn thùng.

Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp,

Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.

VII

Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê,

Phương trượng huề nam Nhược thủy tê.

Xướng bãi đà canh thiên dục thự,

Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.

Dịch:

Khí lành quanh quất phủ buồng xuân,

Phương trượng(2) non xa, Nhược thủy(3) gần

(1) Mân, Quế: nguyên chú: Mân thuộc vùng đất Bách Việt giáp với Ngao Sơn biển Đông; Quế là Quế

Châu, Quảng Tây. Ngày nay Mân là tỉnh Phúc Kiến.

(2) Phương trượng: tăng phòng. Nguyên do là Vương Huyền Sách đời Đường sang sứ Tây vực, vào chỗ

ở của nhà sư Duy Ma, thấy căn buồng của sư vuông vắn, mỗi bề mười hốt, bèn gọi là phương trượng.

(3) Nhược thủy: theo Sơn hải kinh, là một dòng sông ở vùng cực tây của Trung Quốc, sức nước rất yếu,

dù một hạt cải cũng không thể nổi trên mặt nước: tương truyền là nơi tiên ở.

(4) Đà: tên một giống cá có chân, dài vài trượng, da bền có thể bưng trống được; tiếng kêu rất vang,

mỗi lần kêu rất đúng với một trống canh.

Dứt tiếng canh đà(4) trời sắp sáng,

130

Lòng quê theo rõi áng mây Tần.

VIII

Yên lam như kế liễu như điền,

Tỏa thát tình khuy hải bạc thuyền.

Vũ khách khứ thời vô xứ mịch,

Bộ hư thanh ngoại bích liên thiên.

Dịch:

Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài,

Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài.

Đạo sĩ một đi tìm khó thấy,

Trong không tản mác tiếng ngân dài.

IX

Tứ diện ba đào nhất kế sơn,

Dạ lai hà xứ mộng hương quan.

Mang mang trần giới hồi đầu viễn,

Thân tại hồng vân bích thủy gian.

Dịch:

Sóng nước bao quanh núi một vùng,

Mộng về quê cũ lối không thông.

Mây vàng nước biếc thân nương đậu,

Trần giới xa coi ngút mịt mùng.

X

Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai,

Ủy địa tàn hồng bán lục đài.

Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động,

Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.

Dịch:

Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi,

Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi.

131

Lưu Lang biệt động sao khờ mấy,

Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi.(1)

Nhưng Từ, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay

màu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa

sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn

bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy

một chiếc tàu buôn đi về phương Nam. Từ trỏ bảo Giáng Hương rằng:

- Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.

Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng:

- Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo

hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?

Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ lang nói:

- Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt

và thu xếp việc nhà cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng già ở chốn làng

mây bến nước.

Giáng Hương khóc mà nói:

- Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng quê hương của

chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e

liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.

Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân nói:

- Không ngờ chàng lại mắc mớ vì mối lòng trần như vậy.

Nhân cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng

một bức thư viết vào lụa mà nói:

- Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình ngày cũ.

(1) Bài thơ này lấy ý từ câu chuyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai. Đời Hán, Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi hái thuốc. Hai chàng đi mãi lạc vào Thiên Thai, gặp tiên nữ, lấy làm vợ. Được một thời gian, nhớ nhà đòi về, tiên nữ tiễn đưa đến cửa động. Lưu Nguyễn về đến nhà thì đã qua bảy đời, bạn bè họ hàng không còn ai, hai người muốn trở lại nơi cũ nhưng không tìm được lối xưa nữa. Nhà thơ Tào Đường (đời Đường) có năm bài thơ "kể" chuyện này rất được nhiều người ưa thích

Rồi tràn nước mắt mà chia biệt.

132

Chàng đi chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành

quách nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe

là vẫn không thay đổi sắc biếc màu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm

những người già cả thì thấy có người nói:

- Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông,

đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay đã là năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh

là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi.(1)

Chàng bấy giờ mới hậm hực bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để đi, nhưng

xe đã hóa làm một con chim loan mà bay mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: "Kết

lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết, tìm non tiên ở trên bể dịp khác còn

đâu!" mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng

bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn,(1) rồi sau không biết đi

đâu mất.

Lời bình: Than ôi, nói chuyện quái sợ loạn chuyện thường, cho nên thánh

hiền không nói. Nhưng việc Từ Thức lấy vợ tiên, cho là thực không ư ? Chưa

hẳn là không; Cho là thực có ư? Chưa hẳn là có. Có không lờ mờ, câu chuyện

tựa hồ quái đản. Nhưng có âm đức thì tất có dương báo, cũng là lẽ thường.

Những bậc quân tử sau này khi để mắt đến sẽ liệu mà thêm bớt, bỏ chỗ quái mà

(1) Năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu của Lê Nhân Tông từ 1454 đến 1459; năm

thứ 5 là: 1458.

để chỗ thường thì phỏng có gì là hại.

133

TỪ THỨC TÂN TRUYỆN

(Mai Thị Ngọc Chức, Từ Thức tân truyện, Từ Thức tiên hôn,

Nxb Thanh Hoá, 1987, tr 1-37.)

*****

Buồng văn hiu hắt canh tàn,

Đêm thu trăng lọt, cửa đan gió lò

Càng khêu đèn hạnh nhỏ to,

Giở xem lục cựu thấy pha truyện kỳ.(1)

Trần triều gặp hội thanh di, (2)

Nhân ra bốn bể, chính về trăm quan.

Khang cù tiếng hát dậy vang,(3)

Chắp thơ giải uẩn phím đàn nam phong.(4)

TỪ THỨC LÀM QUAN Ở TIÊN DU

Tống sơn cấu khí thần đồng,(5)

Họ Từ tên Thức vốn dòng thư hương

Tràng thu, cướp giải văn chương,

Tuổi xanh nức tiếng, đền vàng biết tên .

Móc mưa nhuần đội trên,

Xuất thân huyện tể, nhiệm miền Tiên Du.(6)

Trung thanh hai chữ đội đầu,

(1). Lục cựu: sách ghi chuyện cũ.

(2). Thanh di: thanh bình, yên ổn.

(3). Khang cù: con đường lớn đời thái bình

(4). Ý nói đời thịnh tại, nhân dân không có điều oán giận, ca hát, vui vầy.

(5). Ở đất Tống Sơn (nay là Hà Trung), khí anh linh đúc nên người giỏi.

(6). Huyện tổ: quan cai sóc một huyện, Tiên Du nay thuộc tỉnh Hà Bắc.

(7). Ý nói Từ Thức là người giỏi sống lẫn với bọn kém cỏi (rồng ở với cá). Tài anh lớn nhưng chức vị bé (đem

dao mổ trâu mà chặt cổ gà).

Vóc rồng lẫn cá, dao trâu thí gà.(7)

134

Cam đường bóng ngả tà tà,(1)

Gió xuân quyến gọt, mưa hoà dặm khơi.

Chiếu chăn một cõi thảnh thơi,

Sửa sang cây đức, tài bồi nền nhân.

Thanh bình chưa dễ đâu hơn

Phượng vui thỏ cõi, hùm vờn nhện sông (2)

Tấc lòng giữa phép phụng công (3)

So bề phủ tự đáng nhòng tuần lương (4)

CHƠI HỘI NHÀ CHÙA

Huyên hoà vừa tiết xuân sang,(5)

Rũ hiên tơ liễu, đưa tường thoi canh,

Gần miền một áng thiên quynh,(6)

Nức nô cảnh Phật, linh đình hội xuân.

Thắm vàng là lượt chen chân,(7)

Cuội vui mã tích, xa trần thiếu ai.(8)

Yếu cư thông thả ngày dài,(9)

Khiến lòng quan khách say mùi thuyền gia

Vó câu lẵng đẵng đường hoa,

(1). Cam đường: Chữ dùng ngày xưa để chỉ các ông quan tốt được dân mến phục.

(2). Cũng là ý ca ngợi cảnh thanh bình, quan và dân hoà hợp.

(3). Làm quan biết giữ gìn phép tắc.

(4). Ý nói Từ Thức là viên quan tốt hơn bọn quan lại khác

(5). Huyên hoà: ấm áp, yên vui.

(6). Thiên quynh: vùng đất thuộc phạm vi nhà chùa.

(7). Quần áo nhiều màu sắc

(8). Mã tích: dấu chân ngựa. Xa trần: bụi xe.

(9). Yến cư: nhàn hạ, vô sự.

Một vài tiểu lại, năm ba hồ đồng.

135

Trải xem phạm vũ mấy trùng,(1)

Ao sen rủ biếc, sân tùng tán xanh.

Tiếng tiu, tiếng cảnh rập rình,(2)

Cầu phan phổ độ, quyển kinh sấm cầu.(3)

Tiệc thôi kẻ trước người sau,

Bóng hà tu đã gác đầu non tây.(4)

Một chiền, một cảnh, một thầy,

Dặm hoè vắng khách, am mây thưa người.

Góc tường gió thật nắng soi,

Lá ngan ngát rụng, chim thoi thót về.

CỨU NẠN GIÁNG HƯƠNG

Chàng con lẩn thẩn trước hè,

Dừng chân sực thấy hương khuê một người.(5)

Nữ đằng vấn vít chồi mai,(6)

Mắt ngừng lệ ngọc, má thôi thức đào.(7)

Hoa buồn, lệ ủ trăm chiều,

Nhường đau Tây tử, nhường liều Lục Châu.(8)

(1). Phạm vũ: tiếng riêng trong Phật giáo, chỉ về giới hạn, lãnh vực nhà chùa.

(2). Tiên cảnh: Những nhạc khí của phường bát âm.

(3). Ý nói đọc kinh, cúng lễ trong chùa.

(4). Hà tu: buổi chiều mặt trời gác núi trông hình như con tôm.

(5). Hương khuê: chỉ vào người con gái khuê các.

(6). Dáng người yếu ớt.

(7). Ngừng tiếng cổ, nghĩa là ứa nước mắt.

Thôi ý nói nước mắt chảy làm trôi màu hồng trên má.

(8). Tây tử, Lục châu: Hai người đẹp ngày xưa. Ý nói sắc đẹp Giáng Hương làm cho hai mỹ nhân xưa cũng phải

thua.

Cành lê như khuất bóng lầu,

136

Mây lần lệnh mái, trăng thâu chênh vành.(1)

Tuy chưa giáp mặt bày tình,

Vì say vẻ vượng, dễ khuynh tơ tầm. (2)

Giục đồng, vẫy tiểu hỏi thăm,

Ấy ai mắc bối lỗi lầm bởi sao?

Đèn từ dẫu sáng bóng cao,

Chẳng soi cho thấu, nỡ nào phấn gương.

Thấy lời gạn gục sự nàng,

Tiếc rằng khách ấy xa đường tới đây.

Mẫu đơn hoa nở đầy đầy,

Mảng lòng quyến nhị, quá tay vin cành. (3)

Vì hoa mở hội Phật đình,

Đã khi sa sẩy phải canh dám rời”.(4)

Chàng nghe tiểu nói ngậm ngùi ,

Chạnh bề tiếc ngọc, ngỏ lời van lơn

Vẻ chi một đoá mẫu đơn,

Màu hồng chưa dễ trọng hơn má hồng.

Sảy tay trót đã thẹn lòng,

Bây giờ nước đổ khôn mong vét đầy.

Khách xin làm lễ tạ vay,

Cởi trao cẩm bạch, đổi thay xuyến vàng.(5)

Gọi là chuộc lỗi cho nàng,

(1). Giáng Hương bị trói, tóc rũ tượi, mặt buồn ảo não.

(2). Ý nói Từ Thức thấy lòng mình xao xuyến.

(3). Chú tiểu cho Từ Thức biết: cô gái thấy hoa mẫu đơn đẹp, quá mê hoa nên bẻ một cành.

(4). Giáng Hương bị trói, chú tiểu phải canh gác.

(5). Từ Thức cởi áo gấm trắng của mình gán cho nhà chùa để chuộc lỗi cho cô gái.

Thôi dừng nặng nhẹ, nữa càng tủi hoa.

137

Tiểu rằng: đây cảnh chiền gia,1

Bồ đề cây cả bóng xa hẹp gì.

Khách mà còn nặng lòng vì,

Xem cho đâu giám, dạy thì phải vâng.

Từ lang khấp khởi lòng mừng,

Hoa may dun dủi, các Đằng gặp nhau.(2)

Lần tơ tay gỡ mối sầu,

Đỡ hoa trận gió, nâng châu bóng dầm.(3)

Vén mây mở mặt trăng rằm,

Vành đan quế đã tối dầm lại trong.(4)

Trước hiên đã đặt quần hồng,

Ngỏ lời, nàng mới tạ lòng Từ lang:

Thiếp nay son phấn phận thường,

Vì yêu hoa đã bẽ bàng với hoa.

Một lời vàng ngọc trao ra,

Tưởng công đức ấy, biết là để đâu.

Lấy gì trả được ơn sâu,

Thiếp đành thẹn với trên đầu xanh xanh.

Dịu dàng tiếng nói vẻ thanh,

Càng như xui khách vẩn quanh tấc niềm.

Rằng: khi lửa cháy lan thềm,

Dẫu gan sắt đá cũng mềm lọ ai.

Đã yêu nhau dám tiếc lời,

Miễn là khởi luỵ đến người hồng nhan.

(1). Chiền: nhà chùa

(2). Các đằng: Lây điển tích chỉ vào duyên may gặp gỡ.

(3). Đỡ cho hoa khỏi bị gió đánh, vớt hòn ngọc dưới nước lên.

(4). Ý nói khuôn mặt cô gái trở lại tươi tỉnh.

Há rằng đâu dám làm ơn,

138

Xét lòng cho, ấy là hơn đền bồi.

Nay đà giáp mặt rõ mười,

Lượng xuân xin đoái đến người tấc công.

Để cùng nguyện trước cửa không,

Tạc ghi hai chữ: tâm đồng nên chăng?(1)

Dứt lời nàng mới thưa rằng:

Niềm ân ái ấy, đãi đằng xiết đâu.

Lọ là thề trọng nguyền sâu,

Thiếp vâng minh khắc, dám đâu quên lòng.

Bây giờ chưa tiện gạn gùng,

Dám xin nghĩa ấy để lòng mà thôi.

Từ lang vừa sắp trả lời,

Trông ra trăng đã xế ngoài hàn khô.(2)

Nàng bèn từ tạ xin về,

Mặt đều giã mặt, ai hề biết ai.

MƠ TƯỞNG NGƯỜI TIÊN

Dặm mây đường liễu chia hai,

Người tiên còn chút tình rơi cõi trần.

Để cho lòng khách nhọc nhằn,

Ngày mong tin thước, đêm lần gối uyên.(3)

Biết ai mà hỏi sự duyên,

Khi buồn thì lại trông niềm cựu du.(4)

(1). Từ Thức nói ngay đến tình yêu. Xin cùng Giáng Hương gắn bó.

(2). Hàn khô: khe núi lạnh lẽo.

(3). Từ Thức ngày đêm chờ tin và mong được sum họp.

(4). Cựu Du: nơi đã đi chơi trước đây.

Vườn xuân hoa nở tranh đua,

139

Am mây còn tưởng non Vu những ngày.(1)

Còn trời, còn nước, còn mây,

Mà người tri kỷ vắng rầy biết sao?

Giấc nào là chẳng chiêm bao,

Bữa nào là chẳng khát khao âm thầm.

Sầu dường bể, khắc dường năm,

Câu thơ biếng nghĩ, khúc cầm biếng khêu. (2)

Tiếng mây, tiếng gió, tiếng triều (3)

Đàn khuya tiếng dế, mõ chiều tiếng quyên

Người buồn gặp cảnh thêm phiền,

Tiếc người nhớ cảnh đòi phen chạnh lòng.

BỎ QUAN ĐI DU NGOẠN

Những là mơ tưởng chốc mòng.

Chữ cầu chểnh mảng, chữ công ơ hờ.(4)

Gác văn pháp, bỏ án từ,

Nha đình nhãng việc, Thai Tư trọng lời.(5)

Chàng nghe bứt dứt thở dài,

Giật mình xu phó nên người đê ngang.(6)

Vẻ chi năm đấu gạo vàng,

(1). Lấy điển ngày xưa, nói về giấc mơ chung chăn gối với nhau.

(2). Không muốn làm thơ, không muốn gảy đàn.

(3).Tiếng triều, tiếng sóng.

(4). Câu này và câu dưới đều ý nói Từ Thức chán việc quan.

(5). Thái Tư trọng lời: cấp trên quở mắng Từ Thức nặng lời vì sự chểnh mảng.

(6). Ý nói Từ Thức dạo chơi tìm hướng làm thơ.

(7). Xu phó: cần cạnh, đề ngang: thấp cao, cả câu ý nói bị người ta coi thường.

Uốn lưng co gối cho càng tổn rơi. (7)

140

Hoạn đồ càng rậm chông gai,

Quận Bành Trạch, quyết cởi đai Đào Tiềm.(1)

Giàu sang gác để một bên,

Ấn treo thiên khuyết, sắc niêm huyện tào.(2)

Tính tình di dưỡng là cao,

Thì ra tịnh cảnh hơn vào quyền môn.(3)

Gánh vũ trụ, túi càn khôn,

Tháng ngày phong nguyệt, nước non yên hà.

Lưỡng gian đâu chẳng là nhà,(4)

Còn dài ngày tháng, chưa già nước non.

Đi về thuỷ quách, yên đồn, (5)

Sớm hang Thê Hạo, tối cồn Tiềm Giao.

Cấp thu cảnh vật dồi dào,

Động trăng ấy thú, nguồn dào ấy duyên.

Cơm hồ ma, nước cúc tuyền,(6)

Vó lừa cầu Bá, con thuyền doành thu.(7)

Một ngày trông cửa Thần Phù,(8)

Khen ai thuỷ mặc vẽ đồ hoá công.

Một trời một biển mênh mông,

(1). Làm quan chỉ được năm đấu gạo mà phải luồn cúi.

(2). Nhà thơ Đào Tiềm làm quan ở Bình Trạch đã bỏ quan về.

(3). Từ Thức đã trả lại ấn tín và bằng sắc

(4). Theo thú ẩn dật hơn là đi làm quan, lưỡng gian: trời và đất.

(5). Lấy sông nước làm chở che, lấy mây khói làm nơi trú ngụ. Ý nói Từ Thức đi dạo chơi các nơi. Thê Hạc là

Hàm Rồng, Tiềm Giao là Vực Tôm ở Yên định.

(6). Cơm hồ ma: cơm vừng. Nước cúc tuyền: suối hoa cúc.

(7). Vó lừa cầu Bá: lấy điển Trịnh Khải đời Đường cỡi lừa đi trong tuyết trên cầu Bá để tìm tứ thơ.

(8). Thần Phù: cửa biển ở huyện Nga Sơn (Thanh Hoá).

Nước tuôn trắng xoá mây lồng biếc om.

141

Viễn sơn cao ngất mấy chòm,

Sóng reo róc rách, đá vòm chênh vênh.

Cánh buồm dạt lá tàn nghiêng,

Gió chung tấm mặt, kinh riêng bốn mùa.

Chạnh lòng bắt trước chàng Tô,(1)

Quan lan một chiếc, tiểu chu rập rềnh.(2)

Gió đưa lai láng thuỷ trình,

Bé hồ Phạm Tử, nhỏ ghềnh Đông Pha.(3)

Thẳm khơi chưa tỏ đôi bờ,

Núi non đâu đã vờ vờ nổi ngang .

Hàn nhan đổ lộn yên quang,(4)

Hà y che kín, thuỷ thường buộc quanh.(5)

Dễ xui thấy cảnh xinh tình,

Buộc thuyền mỏn đá, lách mình sườn non.

Khói xây gió cuốn ùn ùn,

Hang bầy rượi lễ, suối tuôn cơm vừng.(6)

Thảnh thơi nương cát vin đằng,(7)

Thơm bay đổi quế, hơi lừng mùi sen.

Bâng khuâng mặt lạ, lòng quen,

(1). Chàng Tô: nhà thơ Tô Đông Pha đời nhà Tống, cỡi thuyền đi chơi.

(2). Quan lan: xem sóng Tiểu Chu: chiếc thuyền nhỏ.

(3). Hồ Phạm Tử: Phạm Lãi ngày xưa đi chơi năm hồ.

(4). Hán nham: đá núi dốc, lạnh lẽo, yên quan ánh sáng đẹp đẽ.

(5). Ráng trời, dòng nước như xiêm so phủ quanh, bao bọc lấy cảnh vật.

(6). Tả cảnh động Từ Thức: có những phiến đá có hình như mâm rượu, có suối chảy.

(7). Cát, đằng: hai thứ giây leo.

Người nhà gặp thú lâm tuyền thêm ưa.

142

Liền tay ngụ cảnh đề thơ,

Long xà một vẫy, châu cơ năm vần.(1)

Thơ rằng:

Nghìn hàng cây biếc một vùng son

Hoa cỏ mời người tới Động môn

Vin lạch đã không thầy hái thuốc

Theo dòng còn có khách tìm nguồn

Khúc cầm để vị dù lưu loát

Chén rượi sinh nhai đủ ngọt ngon

Mong thấy chú Ngư mà thử hỏi

Xa gần bao ná chín Đào thôn? (2)

VÀO HANG BÍCH ĐỘNG

Ngâm nga chữ cánh câu thần,

Bút đoan còn ướt, mục ngần chưa khô.

Nào hay máy nhiệm khôn đà,(3)

Vô tình trời bỗng vun cho hữu tình.

Cửa hang sực mở thênh thênh,

Nhác trông thấy, bỗng giật mình sợ sao!.

Nhẹ chân chàng thử bước vào,

Ngòi tuôn ranh rách, sóng gieo ầm ầm.

Tứ bên lạnh lẽo tối tăm,

Rêu ngồi mặn nhặt, đá nằm dọc ngang.

Quang co mấy lối dương tràng,(4)

(1). Bút thảo như rồng bay rắn lượn, viết nên bài thơ như châu ngọc.

(2). Hai câu cuối ý nói: muốn gặp ông làng chài để hỏi chốn Đào nguyên ở xa hay gần.

(3). Máy nhiệm: máy nhiệm màu của tạo hoá (ý trời)

(4). Dương tráng: ruột dê, ý nói đường đi quanh co, ngoắt ngoéo.

Biết đâu thăm hỏi khôn đường tới lui.

143

Trông ra cửa đã đóng rồi,

Núi lam hơi chướng đứng ngồi không yên.

Biết là động quỷ hang tiên?

Làm tươi tỉnh gượng sẽ men móc lần.(1)

Càng trông càng rõ dần dần,

Mây gần êm lặng, đá gần phẳng phiu.

Có chừng đường rối ra vào,

Gà eo óc gáy, chim xào xạc bay

Nắng soi độ nửa ban ngày,

Mở ngang đường rộng, ra ngay đất bằng.

Long lâu, phượng các tầng tầng,(2)

Từ Lang lòng đã chắc rằng cõi tiên.

Song phiền còn lệ chưa quen,

Nửa mừng, nửa sợ, nửa tin, nửa ngờ.

Một mình ngơ ngẩn ngẩn ngơ,

Ai là kẻ biết mà đưa tin vào.

Bóng dương xê xế hầu chiều,

Nhấp mai thay nước, nếm đào đổi cơm (3)

Hương trời thoang thoảng đưa thơm,

Tựa hoa theo liễu, sắp tìm tới nơi.

Xa trông thấp thoáng bóng người,

Tây nâng tiểu hạp ra mời Từ Lang (4)

Nhời thưa tiếng nói dịu dàng,

(1). Mem móc: tiếng cổ, có nghĩa là dò lần.

(2). Long lâu phượng các: lầu rồng, gác phượng.

(3). Nếm mơ cho đỡ khát, ăn đào cho đỡ đói.

(4). Tiểu hạp: cái tráp nhỏ.

(5). Ân chỉ: lệnh trên ban ơn cho.

Rằng: vâng ân chỉ, rước chàng vao trong (5)

144

HỘI NGỘ CÙNG TIÊN

Vội mừng, theo sứ thanh đồng,(1)

Làng tiên chốn ấy thiếu phong cảnh gìa.

Ngọc đường gấm chải màn che,

Lò hương ngũ vị, chén chè lục thanh.(2)

Chàng còn khép nép bên mành,

Hài loan nghe kịch, hậu đình bước ra.

Khoan khoan một vị tiên nga,

Chiều thanh, vẻ quý, chữ hoà ,chữ trang.(3)

Dung nghi khắc giá tầm thường,

Quần thoa vẻ nhạt, cử hoàng tiếng trong.(4)

Chàng vào thi lễ vừa xong,

Ngọc âm sang sảng cách song phán rằng (5)

Khen ai chỉ nẻo đưa đường,

Cho chàng lặn suối qua rừng bấy nay.

Hang trời thứ sáu là đây,(6)

Bốn mươi chín cảnh chất đầy Bồng Lai.

Cũng vì xui khiến lòng trời,

Không dưng ai dễ tìm tòi được ru

Nghe chàng ngày nhậm Tiên Du,

Hội xuân ai những nức nô Phạm đường.

Tầm phương có khách đài trang,

(1). Thanh đồng: người tiên.

(2). Chè và hương quý ngũ vị.

(3). Thanh lịch, cao quý, hoà nhã, trang trọng.

(4). Cử hoàng: hai thứ ngọc quý.

(5). Ngọc âm: tiếng bà Kim tiên CÁCH SONG, cách rèm che cửa sổ. (6). Truyền thuyết nói có 36 động tiên. Động Từ Thức đứng thứ sáu.

Nạn hoa, may lại gặp chàng giúp nhau.

145

Gần quanh nào phải ai đâu,

Giáng Hương này ấy vốn chầu chực đây,

Tương tư chút đã lâu ngày,

Lòng ta những thắc mắc thay sự nàng.

Bây giờ may gặp lại chàng,

Cơ duyên cũng rắp vẹn đường thuỷ chung.

Chàng nghe nói chạnh tấc lòng,

Biết là cợt, thực, có, không mà lường?

Hổ tôi bèo cánh phận thường,

Phù sinh trái nạn mấy đường công danh.

Chút lòng làm bạn cánh thanh,

Lân la nước biếc non xanh qua ngày.

Gót trần lạm bước thang mây,

Lẽ đâu đường đột thế này cho nên.

Thứ tình muộn đội ơn trên,

Dám chi kể nể tiền duyên cũ càng.

Kim Tiền mới dạy với nàng:

“Phải ra từ tạ có chàng lên đây.

Giáng Hương vội trở gót giày,

Nhởn nhơ một lũ tớ thầy bước ra,

Bảnh bao xuyến ngọc trâm hoa,

Phát phơ áo mũ, rườm rà xiêm nghê.

Dường còn khép nép rụt rè,

Mai e tuyết sớm, liễu e gió chiều.

Phù dung chúm chím nhị điều,

Điểm trang chẳng lọ là nhiều mới xuân.

Mùi Lê gió thoảng đưa gần,

Từ lang lòng đã mười phần thiết tha.

Nghĩ âu người ấy hẳn là,

146

Một mai cầm sắt thực là bén duyên.

Ba sinh đã phỉ mười nguyền,

Đỗ Lan xưa vẫn vẹn tuyền thế thôi.(1)

Lọ là nguyệt sứ băng môi,(2)

Phận này duyên ấy ắt thời trong tay.

Tình cờ rủi lại hoá may,

Lựa sao được chốn tiên này kết thân

Ca đài mở hội yến tân(3),

Sơn hương dìu dặt, khúc xuân vang lừng.

Phòng tiêu gió cuốn dây đằng,

Tiệc vui chuốc chén, rượi mừng trao tay.

Lệ thường hôn cấu đã đầy, (4)

So trong kim cổ cuộc này hẳn chưa.

Mộng hồn say giấc mây mưa,

Đá Vu Sơn tạc tiếng dư Cao dường (5)

Mấy thu chăn chiếu hồ sàng,(6)

Bụi Chiêu Quân lấp gối chàng Ngưu Sinh(7)

Đấy đây từ bán duyên lành,

Khát khao bõ lúc phật đình thẳng qua.

Đầu xanh vẹn ước tuổi già,

Cháu con chung vũ, cửa nhà đào yêu. (8)

mình cũng như thế.

(2). Ý nói không phải nhờ ông trăng làm mối lái.

(3). Ca đài: là nơi ca múa. Yến tân: mở tiệc đãi khách.

(4). Hôn cấu: kết duyên

(5). Ngày xưa Tống Ngọc làm bài phá cao đường, nói đến giấc mộng non Vu. Ý nói vui vầy duyên lứa.

(6). Hồ sàng: cái giường.

(7). Lấy sự tích Ngưu Tăng Nhụ trong giấc mơ được gặp nàng Chiêu Quân, tỉnh dậy thì lạc đường.

(8). Chung vũ, đào yêu: lấy chữ trong Kinh thi, chỉ vào việc gia cảnh vui vẻ, cháu con đông đúc.

(1). Truyền thuyết nói cô Đỗ Lan Hương là tiên, kết duyên với người trần là Trương Thạc. Giáng Hương thấy

147

Lau vàng hai chữ sương siu,

Tơ xe bạch phát, gấm thêu đan tình. (1)

TỪ THỨC NHỚ NHÀ

Thoi đưa thấm thoát tin oanh,

Sen tàn thôi lại cúc xanh thay màu.

Đốt tay lần kể bóng câu,

Gió toan trải lá, sương hầu nhuốm hoa.

Chưa gần đã hóa ra xa,

Trách chàng phụ chén tiên nga cho đành.

Tuy rằng chắp cánh liền cành,

Tuy rằng khuya sớm bên mình Giáng Hương.

Lòng trần còn chút đa mang,

Nghĩ bao giờ trạnh quê hương bấy giờ.

Ba thu rộn rã hồn cơ,

Ải nam sương cuốn lần mơ giấc hồ.(2)

Ngập ngừng nhớ cảnh phần du, (3)

Anh em bè bạn mấy thu đến giờ.

Phòng loan lẵng đẵng trúc trơ,

Đàn sao khác phím, sáo ngờ ngẩn cung.

Buồn trông cửa bể mịt mùng,

Lá buồn thương khách vẫn dòng Nam ninh. (4)

Lại càng như giục sự mình,

Nước sâu bao nả gia tình bấy nhiêu.

(1). Ý nói tình bạn bè, thắm thiết.

(2). Ý nói Từ Thức nằm mơ đến quê nhà ở phương nam mờ mịt.

(3). Phần du: quê hương, nơi cha mẹ ở.

(4). Từ Thức thấy buồm dong ngoài bể đi về hướng Nam.

Đoái trông bóng ác ban chiều,

148

Máu quyên đôi giọt rơi thể lửa hè,(1)

Lại càng như giục lòng quê,

Lòng theo mây bạc cùng về cố đô.

Nhân khi vắng vẻ chuyện trò,

Kể bày tâm sự nhỏ to với nàng:

Bấy lâu sum họp nhà vàng,

Tình sâu đã vậy, nghĩa càng mặn thay.

Lòng ta như bát nước đầy,

Khăng khăn đành để dạ này này dám quên,

Song còn một chút riêng phiền,

Nói ra lệ những chẳng yên lòng nàng.(2)

Từ ta xa chốn quê hương,

Một mình nào kẻ họ hàng có ai.

Đường thì cách trở xa xôi,

Nhà thời đơn bạc một mùi đạm trong.

Mà người cậy được thì không,

Để nơi phần mộ tổ tông sao đành.

Xin nàng thấu hết tấc thành,

Há ta nỡ ở ra tình thắm phai. (3)

Nàng nghe như mướt bồ hôi.

Trách duyên sao khéo những lời chông chênh.

Hay là cợt yến cười oanh,

Đắn đo lòng đá, thử thanh tuổi vàng

Hay là lệ phấn phiền hương, (4)

(1). Dùng điển tích: Tiếng cuốc kêu mùa hạ như nhớ nước nhớ nhà.

(2). Lệ: tiếng cổ. Cả câu ý nói : Từ Thức sợ nêu ý kiến xin về thăm quê thì Giáng Hương buồn.

(3). Ý nói: Không phải ta có ý nhạt nhẽo đối với nàng.

(4). Lệ phấn phiền hương: không còn trân trọng người đẹp nữa.

Quạt trâm lỡ phận, loan hoàng trái khuôn.

149

Lời thề chưa cạn chén con,

Đào chưa phai thắm, lan còn quyến hương.

Trọng vì chút nghĩa tao khang,(1)

Lẽ đâu thiếp dám giữ chàng ở đây.

Trót từ dan díu đến nay,

Nghìn năm chẳng kiếp, một ngày cũng duyên.

Dù ta lạnh ước tan nguyền, (2)

Thiếp đành phận cánh hoa tàn quản chi.

Khuyên chàng xin hãy rộng suy,

Cõi trần sống độ phỏng thì trăm năm?

Sức voi chịu được mấy lăm, (3)

Lá khô bèo nổi cũng cầm bằng không.

Chẳng vui thể chốn non Bồng,

Phần du xin thử nén lòng cũng nguôi (4)

Khen nàng kẽo cọt đến lời, (5)

Từ lang song đã quyết bài phân ly.

Bước lên thỉnh mệnh đan trì, (6)

Kim Tiên biết ý xin về ngán xong.

Thương nàng, giận khách văn phòng,

Dối rằng: mặt đó, dễ cùng cấm ngăn.

Bấy lâu kín miệng, chầy chân,

(1). Tao khang: nghĩa vợ chồng.

(2). Lạnh ước tan nguyền: quên lời thề.

(3). Mấy lăm: bao nhiêu.

(4). Ý nói: cố nén tình quê thì cũng sẽ nguôi dần.

(5). Kèo cọt: tiếng cổ nghĩa là mời lại, kéo lại.

(6). Đan trì: thềm son. Từ Thức đến nơi Kim Tiên để xin về.

(7). Cơ lữ: ở trọ. Tư qui: nghĩ đến việc trở về.

Tình cơ lữ, ắt bội phần tư qui. (7)

150

Nhân duyên nào phải một thì,

Ví mà bao ná, chẳng về có đâu (?)

Đạo người phải nhớ trước sau,

Lá xanh bởi cỗi, dòng sâu bởi nguồn

Ở lâu xem vậy cũng buồn,

Lấy ai coi sóc tông môn đỡ chàng.(1)

Chớ nghe nhi nữ tình thường,

Đèo bòng mãi thế nữa càng luống công.

Chàng vâng lạy trước đền rồng.

Về phòng riêng mới giã cùng Giáng Hương:

Một lời chỉ đá thề vàng,

Há còn sẻ nhớ chia thương chốn nào,

Khuyên nàng lòng chớ lông lao, (2)

Tin xuân thấm thoát hoa đào chẳng lâu.

Chữ tình hẵng ngẫm về sau,

Lời trân trọng giữ, chớ sầu muộn chi.

Dù ta giao giở phụ nghì,

Đôi vừng nhật nguyệt xin thì xét mình

Nàng nghe lăn khóc vật mình

Than ôi! Ai nỡ dứt tình mấy ôi !

Từ đây kẻ ngược người xuôi,

Chia hai mái tóc, chia đôi tấm lòng.

Từ đây thẹn phấn tủi hồng,

Lẻ loi chăn thúy, lạnh lùng gối loan.

Chàng về sao thiếp dám can,

(1). Tông môn: cửa tổ, ý nói việc thờ tổ tiên.

(2). Lông lao: tiếng cổ, nghĩa là bối rối.

Cẩm bào một bức, hoa hàn một phong.

151

Tiễn đưa cửa thiếp tạ lòng,

Biết bao giờ lại tính cùng duyên Ngâu.(1)

Nói thôi như giục cơn sầu,

Khăn bào lệ dột nhuốm thâu đầm đìa (2)

Dặm trường đôi ngả mây chia,

Hoa ngăn động khẩu, nước về nhân gian

TỪ THỨC VỀ TRẦN

Nàng thời vò võ trướng loan,

Chàng thời lặn suối tách ngàn pha phôi.

Doanh thâu một cuộc vừa rồi,

Bàng quan song đã có người Lạn Kha (3)

Chàng từ giở lại quê nhà,

Nhìn xem di chỉ biết là cố cư (4)

Phong trần cõi cũ dấu xưa,

Mai già một khóm, liễu thơ hai hàng.

Râu rải ngõ, phấn trôi tường.

Cô đình đứng gió, thảo đường ngăn mưa. (5)

Lều tranh tường đất lơ thơ,

Điền gia đổi thú, thôn cư đổi người.

Cho hay cõi tĩnh ngày dài, (6)

Mấy giây phút đã sự đời trăm năm

(1). Duyên ngâu: duyên cách trở như cảnh Ngưu lang, Chức nữ.

(2). Lệ dột: tiếng cổ, dột có nghĩa là nước mắt (không nên lầm với giọt lệ)

(3). Lan Kha: rìu nát. Xưa có người lên núi xem tiên đánh cờ, thấy cái rìu bị nát, về nhà thời đã sang đời khác.

(4). Cố cư: chỗ cư trú cũ, quê nhà.

(5). Cô đình: cái đình trơ trọi. Thảo đường: nhà tranh.

(6). Cõi tĩnh: cõi tiên. Câu này nêu ý ngày trên tiên giới dài hơn ngày dưới trần.

Chốn hoang tịch bước vào thăm,

152

Ngùi ngùi thấy cảnh, đăm đăm theo phiền.

Cháu xa mấy lớp tằng huyền,

Đã khơi đốt sắn, khôn nhìn dây dưa.(1)

Bụi cây dấu cũ nên bờ,

Mắt tin cuộc đổi, lòng ngờ giấc say.

Nguồn cơn biết ngỏ ai hay,

Giận cơ tang hải, trách ngày thiếu niên. (2)

Thà rằng đừng gặp bạn tiên,

Nhưng mà đã gặp kết duyên cho tròn.

Làm cho ruộng rẫy nước non,

Bởi ta niềm tục hãy còn đa mang.

Bây giờ trót đã dở dang,

Duyên xưa nỡ để quải quàng cả hai. (3)

Tiên trần diệu vợi đôi nơi,

Nghìn vàng đổi được trận cười nữa chăng.

Hải môn sóng nước khơi chừng,

Chân mây mặt đất biến rằng hỏi ai.

Kiếp này lỗi hẹn thời thôi,

Lưu lang dễ tới Thiên Thai mấy lần. (4)

Giận duyên, nghĩ ngợi tần ngần,

Xa xôi bao lại được gần cận nhau.

(1). Ý nói hỏi mãi không tìm ra được họ hàng.

(2). Tang hải: cuộc dâu bể.

(3). Quải quàng: tiếng cổ nghĩa là trở ngại.

(4). Bên Trung Quốc cũng có chuyện hai chàng Lưu Nguyễn vào động Thiên Thai gặp tiên.

Đường mai tuyết nhặt mưa mau,

153

Mối riêng những chạnh, mạch sầu khôn trao.

Biết phương nào, biết chốn nào,

Có chăng còn một chiêm bao thấy nàng.

Đã đành tan hợp sự thường,

Tìm nơi thanh vắng tựa nương họa là.

Hoàng sơn nẻo ấy bao xa,(1)

Nghe rằng thắng cảnh cõi nhà xứ Thanh.

Trên đỉnh thắm, dưới doành xanh,

Mây len lỏi đá, nước quanh quẩn đèo.

Một bầu sơn thủy cheo leo,

Trời đành lập để trao theo cho chàng.

Tiện nghi xem được sẵn sàng,

Vắng bên danh lợi, xa đường oán tranh.

Mặc dù di dưỡng tính tình,

Chín mươi chín đỉnh một mình chủ trương.

Đìu hiu lều cỏ vài gian,

Xuân Hoa tươi đậm, thu sương thâu màn.

Thừa hư thông hát suối đàn,

Văn chương đại khối, thanh nhàn hóa công. (2)

Sẵn sàng kho tạo của chung,

Sân cây vàng cúc, ao rồng tiền son.

Hoa tàn lá rụng quá niên,

Suy xem vạn vật, biết tin tứ thì

Có phen hàng bộ thu về, (3)

(1). Núi Hoàng Sơn thuộc huyện Nông Cống, Thanh Hoá.

(2). Ý nói mang tâm hồn phong phú của nhà thơ mà sóng an nhàn với cảnh vật của tạo hoá.

(3). Hàng bộ: nói tắt thành ngữ “nhạn hàng sương bộ”, cảnh tiêu biểu cho mùa thu.

Lôi thôi cánh nhạn, dầm dề giọt sương.

154

Nam song một gối huy hoàng,(1)

Tỉnh say Lý Bạch, mơ màng Động Tân. (2)

Có phen lăng uyển rước xuân,

Hang tan khí lạnh, cây nhuần vẻ tươi.

Tà dương một khúc lạ tai,

Cầm châu phong nguyệt, rước mồi giang sơn.

Niềm trần gió thổi bụi tan,

Tuy không vũ khách, cũng làn văn nhân. (3)

Hạ qua đông tới lần lần,

Mai che vẻ trắng, nhuốm dần tóc xanh

GIÁNG HƯƠNG NHỚ CHỒNG XIN ĐƯỢC TÁI NGỘ

Ai hay những kẻ tài tình,

Cơ duyên trời đã để dành về sau.

Từ chàng giã bạn đồng lâu,

Giáng Hương luống những thảm sầu đa mang.

Chạch niềm vả trách, vẻ thương,

Trách chàng phụ nghĩa, thương chàng lỡ duyên.

Nước non tuy cách dặm nghìn,

Giấc hoa thường lẩn quất niềm Hoàng Sơn. (4)

Nghĩ rằng: từ hội mẫu đơn,

Gặp nhau nên mới trót gian díu cùng.

Liễu đào một phút tây đông

Vì chưng chằng đã dũ xong niềm trần.

(1). Gối đầu vào cửa sổ phía nam.

(2). Lý Bạch là nhà thơ hay suy. Động Tân là một vị tiên.

(3). Vũ khách: người đại sĩ. (4). Ý nói trên trời, giáng Hương cũng mơ về nơi Từ Thức.

Rày đà tát cạn nguồn ân,

155

Vui lòng tuyền thạch, lánh thân thị thành.

Bấy lâu cách mặt xa tình,

Duyên hương lửa, để nguội tanh cũng rầu.

Ví dù lần lữa ngày thêu,

Ái ân nỡ phụ lòng nhau sao đành.

Tủi chàng vả tủi duyên mình,

Liệu lời, nàng mới lên trình Kim Tiên:

Thiếp hay bèo bọt phận hèn,

Phước dư may được sánh chen cửa rồng.

Tấc mây để bận hương trong

Pha phôi tuổi bạc, thẹn thùng bóng loan.

Những ngờ vẹn nghĩa keo sơn,

Đương vui bỗng đứt dây đàn biết sao

Khách thơ tình phụ má đào,

Ngẫm nhân duyên ấy lẽ nào còn nên.

Song từ cách trở mấy phen,

Lòng Từ lang hẳn chữa quên chốn này.

Cùng tôi trong lúc chia tay,

Quê chàng nghe đã nước mây đổi đời.

Sa cơ sẩy bước nhỡ vời,

Bể xuân chi nỡ hẹp hòi chẳng thương

Dám chi thấu hết đoạn trường,

Đổi duyên Ngâu kẻo lỡ đường bơ vơ

Thấy lời kể lể sau xưa,

Kim Tiên se sẽ ngỏ đưa tiếng vàng

Mấy thu sáng nguyệt tròn gương

(1). Ca tụ: xum họp một nhà. Phân sơ: chia lìa.

Mới ca tụ đã nên đường phân sơ.(1)

156

Thương nàng bồ liễu ngây thơ

Mà chàng chếch bóng ngẩn ngơ cõi trần,

Cũng đà rắp một hai lần,

E lòng nàng có ân cần nữa không

Bây giờ đã hẳn như lòng

Cùng nhau cho vẹn chữ đồng cũng hay.

Cát tinh lại phán chọn ngày,(1)

Truyền cho sắm sửa xe mây rước chàng

Sự sao sự mới lạ nhường,

Hoàng Sơn gặp lúc nạp lương nửa chiều.(2)

Bóng Kim ô xế nửa đèo,

Chồi sương mới hết, tiềng triều còn êm

Chàng đương lắng vượn nghe chim,

Hé song chờ gió, ôm cầm đợi trăng.

Khách đà bẻo lẻo rộn rừng,

Như đưa điều tốt, như mừng tin xa.

Bên giời chàng mới trông xa.

Mây tuôn vẻ trắng, ráng pha thức hồng.

Gấm thêu hoa dệt trùng trùng,

Hương đưa thụy khí, bóng lồng tường quang,(3)

Dừng xe, chợt thấy hai nàng,

Lời thưa êm ái tiếng trường khoan thai.

Rằng: tôi vâng mệnh tiên đài,

Phù sơn chốn ấy lại mời chàng lên.

Trùng phong một bức vân tiên,

(1). Cát tinh: ngôi sao chỉ vào ngày tốt.

(2). Nạp lương: hóng mát.

(3). Thụy khí: khí trời ấm áp, cảnh vật đẹp. Tường quang: cảnh sắc rõ ràng, điều tốt.

Để chàng lấy đấy làm tin chớ ngờ.

157

Các lời đã dẫn trong tờ,

Lên xe kịp ruổi bây giờ kẻo lâu

Mở thư xem hết gót đầu,

Chàng rằng: vầng dạy phải mau chớ chầy.

Nước non bầu bạn bấy nay,

Khách xin đề giã cảnh này một thiên.

Nói thôi giơ lấy bút nghiên

Giãi lòng từ biệt lâm tuyền mấy câu:

Một giấc phù dung trải mấy xuân

Yên hà sẻ lối hẹn ba thân

Dẫn đoàn viên hạc đi tìm bạn

Đành để giang sơn vắng chủ nhân

Để thôi non nước rầu rầu,

Đá toan đứng dậy nước hầu xô lên.

Chàng vui để cố sơn phiền,

Hoa rầu mặt ủ, chim rền tiếng kêu.

TỪ THỨC TRỞ LẠI CÕI TIÊN

Cảnh dầu bóng ngả chân đèo,

Chàng trông chừng chốn am tiên tếch ngàn.

Đằng không nghìn dặm mê man,

Đẩy xe trước gió, ngang tàng bên mây.

Mịt mù khói tỏa sương bay,

Nhác trông tiên động phút giây đã gần.

Tinh biền gác mái bạch vân,(1)

Cùng nhau thị nữ men chân bước vào.

Nhìn xem cảnh ấy cảnh nào.

(1). Tinh biền: Cỗ xe song song.

Liễu mừng thầm liễu, hoa chào mỉm hoa.

158

Còn quen thuộc chửa bao xa,

Ngại riêng vì bởi trước đà vụng toan.

Nghiêng mình đứng trước thềm đan

Hoa dung thấp thoáng hương lan ngát lừng.

Kim Tiên mới ngỏ lời rằng

Từ lang nay lại xích thằng nhiệm trao.(1)

Gia hương biến cải nhường nào,

Bấy nay ăn ở ra vào những đâu?

Hoàng Sơn tu được bao lâu,

Hãy còn đeo đẳng hương sầu nữa thôi?

Khéo léo thay khách trần ai, (2)

Cất công tìm tõi đến vời non tiên. (3)

May mà kim cải bén duyên,

Lứa đôi đường ấy phụ nguyền cho đang!

Phấn hồng để thẹn đài trang,

Trước sau trăm sự tại chàng phải chưa?”

Thoát nghe những tiến đá đưa,(4)

Toan trình bỡ ngỡ, rắp thưa ngại ngùng

Rằng tôi chút phần bình bồng,

Chở che, muôn đội tấm lòng tiên cô.

Trót từ trở lại phần du,

Bụi bay nhà lửa cát mù động mây.

(1). Xích thằng: dây tơ hồng. Ý nói bây giờ Từ Thức lại nối dây duyên lứa.

(2). Khéo léo thay: chú ý đây là câu trách chứ không phải khen. Bà Kim tiên có ý trách Từ Thức về trần là

không khôn ngoan.

(3). Tìm tõi: đúng ra là tìm tòi.

(4). Đá đưa: nặng nhẹ, chỉ lời hờn dỗi của bà Kim Tiên.

Nước nghiêng khôn vót lại đầy,

159

Bất tình cam chịu lỗi này tại tôi.(1)

Biết suy ra, sự đã rồi,

Trách mình chi dám trách người hẹp dung.

Vậy nên lánh đục tìm trong,

Chiếc thân kia với tấm lòng khoan khoan.

Mượn màu trí thủy nhân sơn.

Tiêu đao ngày tháng thanh nhàn cho qua

Mấy lời bạc trước sân hoa,

Phán tiên đồng rước chàng ra mái ngoài

Hay đâu duyên sẩy phận sui,

Khi nên chẳng lọ rậm lời mới nên.

Thế gian đâu có tục huyền,

Liên tài cũng bởi Kim Tiên có lòng.

Nghĩ chàng là đấng thư trung,

Muốn cho kháng lộ vẹn trong đạo hằng.

Vời nàng lên mới phán rằng

Đà đành hậu hội sao bằng tiền duyên.

Tiếc vì đôi lứa thiếu niên,

Tơ tần chỉ Tấn vẹn nguyền duyên xưa.

Kẻo còn mong mỏi đợi chờ,

Biết nhau há một bây giờ hay sao?

Uyên ương lại hợp trướng đào,

Thẹn đều thẹn cả, mừng đều mừng chung.

Ba sinh phận đẹp cõi rồng,

Thước Kiều vẫn dịp, loan phòng sẵn duyên.

Tiếng cầm tiếng sắt đưa chen,

(1). Bất tình: có nghĩa là vụng về.

Tơ tình ấm lạnh kết nguyền non sông.

160

Sánh bày phượng lữ song song,

Tuổi chung giai lão năm cùng tràng xuân.

Thực là tài tử giai nhân,

Thiên duyên đã định, tiên trần mà chi.

Thư nhàn mượn bút chép ghi,

Phong lưu gọi một truyện kỳ mà chơi.