ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
VŨ ĐỨC HẠNH VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
VŨ ĐỨC HẠNH VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG
THÁI NGUYÊN - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này là do tôi tự tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn
thiện dưới sự hướng dẫn của Phó giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Hằng Phương. Kết
quả của luận văn này chưa được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Hòa Bình, ngày 9 tháng 11 năm 2015
Tác giả luận văn
Vũ Đức Hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc nhất của mình tới PGS. TS. Nguyễn Hằng Phương, người đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Ban giám hiệu;
Khoa sau đại học; Ban chủ nhiệm; quý thầy cô trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ
trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu khoa học.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các nghệ nhân dân gian, các già làng
trưởng bản thuộc huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình đã nhiệt tình giúp đỡ, cung
cấp tư liệu trong quá trình sưu tầm tài liệu để hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các đồng nghiệp thuộc
ngành Giáo dục huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
giúp đỡ, động viên tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Mai Châu, ngày 9 tháng 11 năm 2015
Tác giả
Vũ Đức Hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8
7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 8
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ, VĂN HÓA
DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU ....................................................................... 9
1.1. Sơ lược về quá trình di cư và lập đất của dân tộc Thái ở Mai Châu ............ 9
1.2. Khái quát về văn hóa của người Thái ở Mai Châu ..................................... 11
1.2.1. Văn nghê ̣ dân gian ................................................................................... 11
1.2.2. Lễ hô ̣i Xên Bản, Xên Mườ ng .................................................................. 12 1.2.3. Mô ̣t số phong tu ̣c tâ ̣p quán khác .............................................................. 13 1.3. Vài nét về văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu .............................. 14
Chương 2. TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ TRUYỆN CƯỜI
DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU ..................................................................... 16
2.1. Truyền thuyết .............................................................................................. 16
2.1.1. Phân loại truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu ............................ 17
2.1.2. Nội dung truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu ............................ 17
2.1.3. Nghệ thuật của truyền thuyết dân tộc Thái ở Mai Châu ......................... 23
2.2. Truyện cổ tích ............................................................................................. 24
2.2.1. Phân loại truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu ........................... 25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii
2.2.2. Nội dung truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu .................................. 27
2.2.3. Nghệ thuật truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu ............................... 36
2.3. Truyện cười ................................................................................................. 39
2.3.1. Phân loại truyện cười của dân tộc Thái ở Mai Châu ............................... 40
2.3.2. Nội dung truyện cười dân tộc Thái Mai Châu ......................................... 40
2.3.3. Nghệ thuật truyện cười dân tộc Thái Mai Châu ...................................... 45
Chương 3. KHẮP VÀ TỤC NGỮ DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU ......... 50
3.1. Khắp ............................................................................................................ 50
3.1.1. Phân loại khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu .......................................... 51
3.1.2. Nội dung khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu .......................................... 52
3.1.3. Phương thức diễn xướng và nghệ thuật khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu .... 75
3.2. Tục ngữ ....................................................................................................... 81
3.2.1. Phân loại tục ngữ của dân tộc Thái ở Mai Châu ..................................... 82
3.2.2. Nội dung tục ngữ dân tộc Thái ở Mai Châu ............................................ 82
3.2.3. Nghệ thuật tục ngữ dân tộc Thái ở Mai Châu ......................................... 86
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 93
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia bao gồm nhiều dân tộc. Bên cạnh dân tộc Kinh còn
có 53 dân tộc thiểu số khác sống rải rác trên mọi miền đất nước. Thành phần các dân
tộc có khác nhau, nhưng đều chung nguồn gốc Bách Việt. Từ buổi đầu dựng nước
đến nay, các dân tộc thiểu số đã có sự tham gia tích cực trong việc xây dựng và bảo
vệ đất nước, xây dựng những truyền thống lịch sử, văn hóa của đại gia đình các dân
tộc Việt Nam.
Văn học dân gian các dân tộc thiểu số có những thành tựu độc đáo với những
sắc thái riêng biệt. Diện mạo của nền văn học dân gian Việt Nam sẽ được nhìn nhận
đầy đủ, chính xác hơn trên mối quan hệ tổng thể văn học dân gian các dân tộc. Văn
học dân gian dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số có mối quan hệ gắn bó, mật thiết, có sự
giao lưu và chuyển hóa lẫn nhau đến mức có những trường hợp không thể tách rời.
Việc nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số là rất cần thiết. Do đó, văn
kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa
VIII đã nêu rõ: “coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và phát
triển những giá trị mới về văn hóa, văn học nghệ thuật của các dân tộc thiểu số là
nhiệm vụ vô cùng cấp bách” [40].
Sinh ra và lớn lên trên quê hương Mai Châu - Hòa Bình, nơi được coi là cửa
ngõ lên miền Tây Bắc của đất nước, cũng là một trong những khu vực cư trú tập
trung của đồng bào dân tộc Thái ở Việt Nam, tôi đã sớm được tiếp xúc với một nền
văn hóa Thái phong phú và rất đậm bản sắc riêng. Đó là các lễ hội như Xên Bản, xên
mường; là các phong tục tập tập quán như tết cơm mới, ma chay, cưới xin... Đồng
thời tôi cũng được tiếp xúc với những tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Thái
qua lời kể, các điệu khắp của các ông mo, các già bản, các chàng trai cô gái Thái, tôi
nhận thấy rằng dân tộc Thái ở huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình có một kho tàng văn
học dân gian khá phong phú về số lượng văn bản và thể loại, khá sâu sắc về nội dung
ý nghĩa. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu để giúp cho việc sưu tầm, nghiên
cứu và sử dụng kho tàng ấy một cách hiệu quả. Chính vì vậy, hiện tại việc thực hiện
nội dung Ngữ văn địa phương ở các trường Trung học cơ sở trong huyện rất khó khăn
do thiếu tư liệu và cơ sở để biên soạn các tiết dạy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 1
Từ những lí do trên, tôi chọn: "Văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu"
làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Mong rằng qua công trình này, tôi sẽ
góp được một phần công sức bé nhỏ vào việc giới thiệu, gìn giữ, bảo tồn và quảng bá
cho nền văn học dân gian của dân tộc Thái huyện Mai Châu; đồng thời tạo thêm một
cơ sở, một nguồn tư liệu về văn học dân gian để giúp các giáo viên Ngữ văn ở huyện
Mai Châu có thể thực hiện các tiết dạy Ngữ văn địa phương một cách thuận lợi hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc thù riêng, những giá trị văn hóa
đậm bản sắc đó đã tạo thành nền văn hóa thống nhất và đa dạng của đại gia đình 54
dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu văn học dân gian dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình là nhằm giữ gìn và phát huy các giá tri văn hóa của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam; đồng thời ứng dụng vào các công việc có giá trị thiết thực ở địa phương.
Từ trước đến nay, tuy chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn học
song nền văn hóa dân tộc Thái nói chung và văn học dân tộc Thái ở huyện Mai Châu,
Hòa Bình nói riêng đã được một số tác giả đề câ ̣p đến, cụ thể như sau:
Năm 1977, giáo sư Đặng Nghiêm Vạn công bố cuốn "Tư liệu về lịch sử và xã
hội dân tộc Thái" do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành. Trong công trình này có
phần nói về người Thái Mai Châu, Hoà Bình với tư liệu là cuốn gia phả của dòng họ
Hà Công (Xóm Chiềng Hạ, xã Mai Hạ, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) được các thế
hệ của dòng họ này ghi chép liên tục từ ngày đến mở đất sinh cư (khoảng cuối thế kỷ
XIII, đầu thế kỷ XIV) và dừng lại vào Cách mạng tháng 8 năm 1945.
Năm 1978, cuốn “Các dân tộc ít người ở Việt Nam” đã giới thiệu khá chi tiết
về đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của các dân tô ̣c, trong đó có dân tộc Thái ở Việt Nam, đây là cơ sở quan tro ̣ng cho việc tìm hiểu về nguồn gốc và các đặc điểm cơ bản
của dân tộc Thái.
Cuốn “Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam” (trước Cách mạng tháng 8 năm
1945) của tác giả Phan Đăng Nhật được Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1981 là
công trình chủ yếu nghiên cứu về văn học dân gian các dân tộc thiểu số ở nước ta,
trong đó có phần quan trọng về văn học dân gian dân tộc Thái.
Đặc biệt, trong thời gian gần đây, trước xu thế hội nhập văn hóa giữa các dân
tộc, các nhà nghiên cứu trẻ đã có nhiều công trình tìm hiểu chi tiết hơn về nền văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2
hóa Thái nói chung và nền văn học dân tộc Thái nói riêng. Như chúng ta đã biết, dân
tộc Thái cư trú nhiều ở vùng Tây Bắc và một số tỉnh khác như Thanh Hóa, Nghệ
An... Mặc dù có địa bàn cư trú rộng nhưng những đặc điểm cơ bản về lối sống, về văn
hóa là khá đồng nhất. Tác giả Nguyễn Văn Phượng - Giảng viên Khoa Triết & Chủ
nghĩa xã hội khoa học có bài viết đăng trên trang web của trường chính trị tỉnh Nghệ
An “Tiếp cận những khía cạnh cơ bản văn hoá dân tộc Thái từ góc độ triết học”. Về
văn hóa vật chất, ông khẳng định: Không gian cư trú là các bản làng ven các nguồn
nước; bản Thái không lấy vườn tược, đồi nương và đường đi lối lại để quy định vị trí
mà lấy thế đất làm điểm trung tâm cho việc khai mở.
Về kiến trúc, người Thái chủ yếu là ở trong nhà sàn, loại nhà được kiến thiết
bằng những chất liệu từ thiên nhiên, gần gũi với nơi họ sinh sống. Về trang phục, người
Thái có truyền thống dệt vải lâu đời. Giới nam của dân tộc Thái mang trang phục rất
đơn giản, ít giữ bản sắc. Đặc biệt, ngày nay với sự thâm nhập của người Kinh, thì nam
giới Thái đã mang trang phục như miền xuôi. Phụ nữ xính trang sức đã làm tăng thêm
nét duyên dáng và tươi đẹp của họ. Việc mặc váy đã tôn lên được thân hình mảnh dẻ,
điệu đà của họ, nhân lên phong cách Á Đông của người phụ nữ Việt Nam.
Về lĩnh vực văn hóa tinh thần của dân tộc Thái, tác giả Nguyễn Văn Phượng
cho rằng tín ngưỡng dân gian của người Thái là biểu hiện nhận thức, tâm lý, tình cảm
của họ về các hiện tượng xung quanh tự nhiên và xã hội. Trong quan niệm về vũ trụ,
người Thái chia vũ trụ làm ba phần: Thứ nhất là Mường Phạ - mường của các vị
Then; thứ hai là Mường Lùm (Mường người); thứ ba là Mường Boọc Đai (Mường
trong lòng đất). Với người Thái xưa coi đấng siêu nhiên, toàn năng là "Phi". "Phi"
bao gồm linh hồn người sống (Phi vẳn); linh hồn người chết (Phi hương); tổ sư nghề
mo (Phi ôn, Phi một); các loại ma quỷ trong tự nhiên (Phi Pu, Phi Pả). Người Thái có
quan niệm duy linh về con người. Họ cho rằng, con cái được sinh ra là quà ban
thưởng của trời đất cho họ. Mỗi đứa trẻ sinh ra được gửi gắm rất nhiều hi vọng.
Tác giả Nguyễn Văn Phượng cũng cho rằng đời sống tinh thần của dân tộc
Thái là vô cùng phong phú với rất nhiều nghi lễ như lễ hội Xên Mường, lễ hội Xăng
Khan, tết cơm mới, nghi lễ tang ma, nghi lễ cưới xin… Đặc biệt Người Thái có vốn
văn nghệ dân gian rất phong phú và đặc sắc, đó là cả kho tàng văn hóa của một tộc
người có lịch sử hàng ngàn năm sinh tụ ổn định trên một địa bàn tương đối rộng. Đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 3
là chưa kể dọc đường hành trình của họ, họ đã từng gặp gỡ tiếp xúc các cư dân Việt-
Mường, những cư dân Môn- Khơme, cư dân Lào... làm cho vốn văn nghệ dân gian
Thái mang thêm nhiều màu sắc của nhiều dân tộc.
Trên trang web “Biên phòng Việt Nam” số ra ngày 24/4/2013 có bài viết
“Những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Thái” có những nhận định tương tự “Dân
tộc Thái có trên một triệu người sinh sống tập trung chủ yếu tại các tỉnh Lai Châu,
Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái, Nghệ An, Thanh Hóa và sinh sống rải rác ở
một số tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do di cư. Dân tộc Thái còn có những
tên gọi khác là Táy và có các nhóm Táy Đăm, Táy Khao, Táy Mười, Táy Thanh,
Hàng Tổng, Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày - Thái. Trải
qua các cuộc thiên di trong lịch sử, dân tộc Thái có mặt ở Việt Nam từ hàng trăm năm
trước, họ có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng cọn, bắc máng lấy nước
làm ruộng. Bản mường Thái thường định cư gần nguồn nước, mỗi bản có từ vài chục
đến hơn trăm nóc nhà kề bên nhau. Người Thái có quan niệm đa thần và giữ tục cúng
tổ tiên. Do đời sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp nên có tục lấy nước đêm giao
thừa, lễ hội đón tiếng sấm năm mới và một số lễ hội cầu mùa khác. Đối với người
chết, họ quan niệm là tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia vì vậy đám ma là lễ tiễn
người chết về với “mường trời”. Người Thái có nhiều họ, mỗi họ có những qui định
kiêng kỵ khác nhau, chẳng hạn: họ Lò kiêng không ăn thịt chim Táng Lò, họ Quàng
kiêng con hổ… Về văn học nghệ thuật, do người Thái có chữ viết riêng nên kho tàng
văn học dân gian như truyền thuyết, ca dao, truyện thơ, văn học, dân ca… và một số
luật lệ còn được lưu giữ và truyền lại khá nguyên vẹn qua các bản ghi chép trên giấy
bản hoặc trên lá cây. Đồng bào Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khắp. Khắp là lối
ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa
xòe, múa sạp, múa quạt rất độc đáo đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài
nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Vào dịp lễ hội, hạn khuống và ném còn là hai trò
chơi mang nét đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người Thái.
Tác giả Nguyễn Văn Hòa có công trình nghiên cứu “Dân ca Thái vùng Tây
Bắc Việt Nam” công trình đã được Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm
2011. Công trình đã sưu tầm, nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra nhiều nhận định có giá
trị về thể loại dân ca Thái vùng Tây Bắc, trong đó có dân ca Thái Hòa Bình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 4
Riêng về văn hóa dân gian dân tộc Thái ở huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình,
tác giả Nguyễn Hữu Thức - Hội văn nghệ dân gian Việt Nam - đã có công trình
nghiên cứu “Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái ở Mai Châu”. Công trình này
đã được Nhà xuất bản Lao động ấn hành. Trong công trình của mình, tác giả Nguyễn
Hữu Thức đã nghiên cứu về quá trình thiên di lập đất của người Thái ở Mai Châu, các
phong tục tập quán và sưu tầm một số tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Thái ở
Mai Châu. Ông khẳng định tính trội của văn hóa Thái Mai Châu thể hiện ở một số
biểu hiện như văn hóa ăn ở của người Thái gắn liền với nguồn nước. Bản mường
người Thái Mai Châu bám theo hai bờ dòng chảy các con suối, trong đó có hai suối
lớn là suối Mùn và suối Xia. Người Thái thành thạo trong làm ruộng nước. Đến đất
Mai Châu đã hơn sáu thế kỷ, họ đã cải tạo thung lũng thành những thửa ruộng bậc
thang, xây dựng hệ thống mương máng, đặt guồng đưa nước vào ruộng để cấy, gặt
hai vụ một năm. Người Thái có tập quán cư trú mật tập, các nhà sàn liền mái, ngõ đi
chung, ý thức cộng đồng được đề cao trong quan hệ xã hội; họ hiếu khách, trân trọng
và luôn dành những tình cảm tốt đẹp cho khách. Mọi công việc đều khởi đầu bằng
cốc rượu, uống rượu không khích bác nhau mà dành cho nhau nhưng lời nói tốt đẹp
nhất tạo sự thân thiện giữa các cá nhân với cộng đồng.
Tác giả Nguyễn Hữu Thức nhận định “Dù gian lao, vất vả, chiến tranh, giặc
giã, đói kém, dịch bệnh, mất gì thì mất chứ nhất quyết không để mất chữ. Chữ viết
người Thái là vốn vô giá của tổ tiên để lại cho con cháu. Nhờ vào chữ viết, vốn liếng
tri thức được các đời ghi chép và truyền lại cho các thế hệ tiếp thu để chăm lo sản
xuất, bảo vệ sức khỏe, đặt ra luật lệ quản lý xã hội, xây dựng bản mường” [35,tr.54].
Về văn học dân gian dân tộc Thái Mai Châu, tác giả Nguyễn Hữu Thức có sưu
tầm một số tác phẩm và sơ lược về ba thể loại có số lượng tác phẩm lớn là dân ca,
truyền thuyết và truyện cười. Ông cũng có những nhận định chính xác về văn học dân
gian Thái như “Dân ca Thái thoát thai từ lao động, không thể tách rời cơ sở kinh tế -
xã hội của thời đại sản sinh ra nó” [35,tr.124]; “... Nạn cát cứ phong kiến tranh đất,
tranh mường của nhau đã bao phen binh đao làm thân phận người dân Thái vô cùng
điêu đứng. Có biết bao truyền thuyết như một bản cáo trạng truyền đời cho con cháu
mai sau nói lên thảm họa đó” [35,tr.142]; “Tiếng cười là vũ khí của kẻ mạnh. Trước
muôn vàn khó khăn người Thái Mai Châu đã biết tìm cho mình vũ khí sắc bén ấy”
[35,tr.160].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 5
Như vậy, việc sưu tầm trên diện rộng và đi sâu tổng hợp, nghiên cứu để nêu ra
những nhận định, đánh giá mang tính chất toàn diện về những đặc điểm cơ bản của
văn học dân gian Thái Mai Châu chưa được thực hiện từ trước đến nay. Trong khuôn
khổ luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng để đáp ứng điều đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn nhằ m mục đích nghiên cứu, tìm hiểu giá trị cơ bản về nội dung và
nghệ thuật của các tác phẩm văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu - tỉnh
Hòa Bình.
- Thông qua việc sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu về văn học dân gian Thái, luận
văn nêu ra một số định hướng, biện pháp nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa nói chung và văn học dân gian Thái nói riêng của cộng đồng dân tộc Thái
ở Mai Châu - Hòa Bình.
- Một trong những mục tiêu quan trọng mà luận văn muốn hướng tới là
dùng kết quả sưu tầm, nghiên cứu để ứng dụng vào việc giảng dạy nội dung
Ngữ văn địa phương ở các đơn vị trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện
Mai Châu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích của đề tài, trước tiên cần tìm hiểu và nắm vững những
vấn đề lý luận và thực tế có liên quan đến đề tài làm nền tảng khoa học cho việc
nghiên cứu. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế
- xã hội và đời sống văn hóa của dân tộc Thái ở Mai Châu bởi đó là yếu tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển văn học dân gian của dân tộc Thái ở địa phương.
Trên cơ sở hệ thống văn bản tác phẩm đã được sưu tầm, chúng tôi khảo sát,
phân loại, tìm hiểu, phân tích để từ đó rút ra những giá trị cơ bản về nội dung và nghệ
thuật của văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các tác phẩm thuộc thể loại truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, khắp (dân ca)
và tục ngữ của dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 6
- Một số tác phẩm có nét tương đồng của dân tộc Kinh (trường hợp có tác
phẩm tương đồng).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi tư liệu nghiên cứu
Trong giới hạn của luận văn, tôi chỉ tìm hiểu về các thể loại có số lượng tương
đối phong phú, bao gồm truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, tục ngữ và phần lời của
khắp (dân ca) thuộc văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Những thể loại khác như thần thoại, sử thi... do chưa được sưu tầm một cách thực sự
đầy đủ nên xin được trình bày trong một dịp khác.
4.2.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Luận văn giới hạn chủ yếu ở việc tìm hiểu những đặc điểm nội dung, nghệ
thuật cơ bản của một số thể loại văn học dân gian tiêu biểu ở Mai Châu, Hòa Bình.
Có thể so sánh với văn học dân gian các dân tộc khác trong trường hợp cần thiết.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Trên cơ sở tìm hiểu những văn bản văn
học dân gian Thái ở Mai Châu, chúng tôi có phối hợp với một số phương pháp sử
học, dân tộc học để nghiên cứu.
- Phương pháp điền dã: Đây là phương pháp chúng tôi đã sử dụng để thu thập
tư liệu về văn học dân gian Thái ở Mai Châu. Thường vào những ngày nghỉ cuối
tuần, chúng tôi tìm đến các xóm bản để sưu tầm. Các tác phẩm đều được sưu tầm trực
tiếp từ các nghệ nhân dân gian, các già làng trưởng bản, những người am hiểu về văn
hóa và văn học dân gian Thái trên địa bàn huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình.
- Phương pháp khảo sát, phân loại: Sau khi sưu tầm tác phẩm văn học dân
gian, chúng tôi đã đọc kỹ nhằm sơ bộ tìm hiểu về các tác phẩm đó. Sau đó đối chiếu
với kiến thức văn học dân gian mà bản thân đã có để phân loại chúng vào những thể
loại cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ kết quả phân loại các tác phẩm văn học
dân gian Thái theo thể loại, chúng tôi tiến hành phân tích và đưa ra những nhận xét,
đánh giá đối với những giá trị cơ bản về nội dung, nghệ thuật của các thể loại đó
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình phân tích, tổng hợp, chúng
tôi cố gắng so sánh, đối chiếu các tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Thái ở Mai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 7
Châu với các tác phẩm văn học dân gian của các dân tộc anh em khác nhằm làm rõ
những nét tương đồng và dị biệt trong những trường hợp cần thiết.
6. Đóng góp của luận văn
Từ việc sưu tầm, phân loại, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh các văn
bản văn học dân gian dân tộc Thái Mai Châu - Hòa Bình, luận văn sẽ góp phần xây
dựng diện mạo chung của nền văn học dân gian của dân tộc Thái Mai Châu.
Luận văn cũng sẽ đề xuất một số biện pháp phát huy giá trị, góp phần bảo tồn
nền văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu.
Các kết quả nghiên cứu sẽ được tham khảo và ứng dụng vào việc giảng dạy
các tiết Ngữ văn địa phương trong các trường Trung học cơ sở thuộc huyện Mai Châu
- tỉnh Hòa Bình.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa dân tộc Thái ở
Mai Châu
Chương 2. Truyền thuyết, cổ tích và truyện cười dân tộc Thái ở Mai Châu
Chương 3. Khắp và tục ngữ của dân tộc Thái ở Mai Châu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 8
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ, VĂN HÓA
DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU
Mai Châu là một huyện vùng cao, nằm ở phía tây bắc tỉnh Hoà Bình, có tọa độ
địa lý 20o24’ - 20o45’ vĩ bắc và 104o31’ - 105o16’ kinh đông; phía đông giáp huyện
Đà Bắc và huyện Tân Lạc (Hòa Bình), phía tây và phía nam giáp huyện Quan Hóa
(Thanh Hóa), phía bắc giáp huyện Mộc Châu (Sơn La). Toàn huyện có 23 xã và thị
trấn với diện tích là 564,54 km², dân số tính đến năm 2014 là 53.944 người; trong đó
dân tộc Thái chiếm đa số với 60,2%; dân tộc Mường chiếm 15,1%; dân tộc Kinh
chiếm 15,6%; dân tộc Mông chiếm 7,0%; dân tộc Dao chiếm 2,1%, còn lại là đồng
bào các dân tộc khác chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Mai Châu vốn là một trong năm châu của phủ Chợ Bờ khi thành lập tỉnh
Mường, tiền thân của tỉnh Hòa Bình (năm 1886). Đến năm 1892, Mai Châu là một
trong năm châu của Hòa Bình. Trong kháng chiến chống Pháp, Mai Châu thuộc phần
phía nam sông Đà của huyện Mai Đà, thuộc Liên khu Việt Bắc. Ngày 21 tháng 9 năm
1956, huyện Mai Đà chia làm hai huyện Đà Bắc và Mai Châu.
Mai Châu có địa hình khá phức tạp với hai vùng cơ bản, vùng cao giống như
một vành đai bao quanh vùng thấp, có nhiều dãy núi cao và hiểm trở. Hệ thống sông,
suối khá dày đặc với hai con sông lớn chảy qua là sông Đà và sông Mã cùng nhiều
suối lớn là nguồn cung cấp nước phong phú phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân
dân. Được thiên nhiên ưu đãi, cảnh quan môi trường ở Mai Châu rất đẹp, với núi non
hùng vĩ, thảm rừng được bảo vệ luôn giữ màu xanh tươi. Mai Châu từ lâu đã nổi tiếng
với những di tích, danh thắng là điểm thu hút đông đảo khách du lịch như hang
Chiều, hang Khoài, bản Lác (xã Chiềng Châu), bản Bước (xã Xăm Khoè), xóm Hang
Kia (xã Hang Kia)...
1.1. Sơ lược về quá trình di cư và lập đất của dân tộc Thái ở Mai Châu
Người Thái Việt Nam nằm trong cộng đồng ngôn ngữ dòng Nam Á, bao
gồm nhiều ngành, mỗi ngành lại chia thành nhiều nhóm, với những tên gọi khác
nhau tuỳ theo từng địa phương. Tuy vậy, rõ rệt và quen thuộc hơn cả là cách gọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 9
theo sự phân chia của chính người Thái, đó là hai ngành: Thái trắng và Thái đen
(Tày Đón và Tày Đăm).
Những ngành Thái ở Việt Nam đều chung một gốc với các nhóm Thái ở nam
Trung Hoa, Lào, Thái Lan và Miến Điện. Có thể nói rằng tổ tiên người Thái xưa bắt
nguồn từ nhóm Thái Bách Việt, trong khối ngôn ngữ tiền Thái, sinh tụ ở miền đông
nam Trung Hoa và đông bắc Việt Nam. Ở đây, họ đã tiếp thu được việc thuần dưỡng
lúa từ tổ tiên người Tạng - Miến, đưa cây lúa thành cây lương thực chính và tạo nên
một nền văn minh lúa nước độc đáo trong vùng.
Đến thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên, do bị sức ép của các thế lực chính
trị người Hán, một bộ phận tổ tiên người Thái cổ tách rời khỏi đồng tộc của mình
phía đông, thiên di nhiều đợt theo hướng tây nam và nam, vào miền nam tỉnh Vân
Nam và miền tây Đông Dương, dọc theo các con sông lớn và các chi nhánh của nó đổ
xuống châu thổ miền Đông Nam Á.
Đến những thế kỷ đầu của thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, người Thái
cũng đã lập được một loạt các tiểu quốc ở miền thượng Đông Dương, thượng Lào và
Tây Bắc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu sử, dân tộc học đã khẳng định, từ đời
Đường, tổ tiên người Thái ngành phía tây, trong đó có Tây Bắc Việt Nam, đã đến cư
trú ở vùng này. Điều đó được chứng minh từ chính sử Trung Quốc, từ sự hỗ trợ của
các nguồn tài liệu biên niên sử chép tay; các truyền thuyết lưu hành trong nhân dân ở
Tây Bắc Việt Nam, Lào, Mianma, Thái Lan...
Ở Việt Nam, sau đợt thiên di này, cư dân người Thái chưa nhiều... Phải đến
những thế kỷ của cuối thiên niên kỷ I hay đầu thiên niên kỷ II sau Công nguyên, các
nhóm Thái ở Vân Nam mới lớn mạnh lên và bắt đầu những cuộc thiên di lớn xuống
phía nam. Chúa đất Thái đen là Lạng Chượng, từ mường Lò (nay thuộc Nghĩa Lộ -
Yên Bái), tràn ra đánh chiếm toàn bộ miền Tây Bắc Việt Nam. Khi Lạng Chượng đến
các vùng đã gặp các tù trưởng Thái Trắng có mặt sớm hơn.
Quá trình thiên di và định cư của người Thái ở Mai Châu - Hòa Bình được ghi
chép lại trong một cuốn sử biên niên tìm thấy ở Chiềng Hạ (xã Mai Hạ - huyện Mai
Châu - tỉnh Hòa Bình). Đây là một cuốn gia phả của dòng họ Hà Công được các thế
hệ ghi chép liên tục từ ngày đến mở đất sinh cư (khoảng cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ
XIV) và dừng lại năm 1945 khi xảy ra Cách mạng tháng tám năm 1945. Cuốn gia phả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 10
này được giáo sư Đặng Nghiêm Vạn công bố trong cuốn "Tư liệu về lịch sử và xã hội
dân tộc Thái" do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1977.
Kết hợp với những thông tin ít ỏi trong sử liệu Việt Nam, ta thấy được tổ tiên
của người Thái ở Mai Châu từ miền đầu nguồn sông Hồng, vùng đất Mường Hước,
Pước Khà (bây giờ thuộc huyện Bắc Hà - tỉnh Lào Cai) thiên di dọc sông Hồng, đến
ngã ba Hồ ng Đà thì rẽ sang sông Đà rồi tới lập nghiệp ở Mường Xang (bây giờ thuộc
huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La), Mường Khoòng (bây giờ thuộc huyện Bá Thước -
tỉnh Thanh Hoá) và Mường Mùn (bây giờ thuộc huyện Mai Châu - tỉnh Hoà Bình) từ
cách ngày nay ngót 700 năm. Cuộc thiên di của người Thái đến Mai Châu và quan hệ
giữa ba nhóm Thái Mai Châu, Mộc Châu, Bá Thước còn được truyền thuyết hoá lưu
truyền trong dân gian, không những ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Sơn La… mà còn
phổ biến ở vùng Lào Cai.
Theo biên niên sử của dòng họ Hà Công, người Thái đến Mường Mùn phải
gian nan vất vả khai khẩn đất đai, một quá trình kéo dài hàng chục đời người mới xây
đắp nên ruộng đồng, mường bản để lại cho con cháu cho đến ngày nay. Cũng như các
bộ phận Thái khác, các chúa đất Thái ở Mai Châu đến lập nghiệp cho đến tận ngày
nay đều thần phục triều đình và đã cùng các tộc người khác tham gia vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ quê hương. Đến đầu thời Lê, mường Mai đươ ̣c triều đình đặt tên
là Châu Mai và là một trung tâm chính tri ̣ trong vùng, ngườ i đứ ng đầu mườ ng đươ ̣c
giao cai quản ngườ i Thái ở một vù ng rộng lớ n gồ m Sơn La, Hò a Bình, Thanh Hó a.
Có thể nó i rằ ng: dân tô ̣c Thái Mai Châu đã có những đó ng gó p quan tro ̣ng trong việc
khai phá, mở mang đất đai, xây dựng mô ̣t quê hương Mai Châu giàu đe ̣p ngày nay.
1.2. Khái quát về văn hóa của người Thái ở Mai Châu
1.2.1. Văn nghê ̣ dân gian
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình, đồng bào Thái ở Mai Châu
- Hòa Bình nói riêng và ở Tây Bắc nói chung đã sáng tạo ra nền văn hoá văn nghệ
dân gian đa dạng phong phú đậm đà bản sắc dân tộc, tiêu biểu là các giá trị văn hóa
nghệ thuật. Chúng ta không thể không nói đến “Xển mo”, “Khắp một lao”, “Khắp
sư”, “Khắp báo sao” và các làn điệu múa dân gian. “Khắp sư”, “Khắp báo sao” có
nghĩa là đọc, là ngâm, là hát những bài hát dân gian của dân tộc. Trong sản xuất, đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 11
sống sinh hoạt, hát (người Thái gọi là khắp) đối với họ không thể thiếu được. Người
ta tự hát một mình hoặc hát cho mọi người nghe một cách say sưa. Trước đây đã có
những cuộc hát kéo dài hai, ba ngày đêm. Qua hát người ta không những thưởng thức
thi vị của ý thơ mà còn gửi gắm tâm tư, tình cảm vào những âm thanh trầm bổng
của giọng hát. Hễ có thơ là người ta có thể hát ngay theo một lối hát cho hợp với thể
loại. Đó chính là các làn điệu khắp biểu hiện bằng lối hát thơ thích hợp của từng
vùng. Cũng là truyện thơ, nhưng khi hát làn điệu khác nhau hoàn toàn. Không bao
giờ hát sử thi “Táy pú xắc” như hát anh hùng ca “Chương Han”; người ta cũng
không hát “Phanh mương” (Kể chuyện dựng bản mường) như hát truyện thơ
“Chàng Lú, Nàng Ủ a”. Lại cũng có thể có hai lối hát cho cùng một tác phẩm thơ.
Truyện thơ “Sống chụ xon sao” khi nhàn rỗi ngâm nga thì phải theo làn điệu “Khắp
sư”, khi hát ở các bữa tiệc cưới thì phải theo làn điệu “Khắp báo sao”. Hát có kèm
theo nhạc khí, chiêng trống tăng thêm không khí rạo rực, sôi nổi hoặc lâm ly thống
thiết... Có thể nói, những giá trị văn hoá tinh thần phong phú đa dạng của dân tộc
Thái tràn đầy sức sống.
1.2.2. Lễ hội Xên Bả n, Xên Mườ ng
Đã từ lâu, các lễ hội Xên Bản, Xên Mường trở thành một hình thức sinh hoạt
văn hóa, tín ngưỡng rất quan trọng trong đời sống tinh thần của ngườ i Thái Mai Châu - Hò a Bình.
Theo sử sách của người Thái cổ và truyền thuyết còn lưu đến ngày nay, lễ hội
Xên Mường là tổ chức cho cả huyện, Xên Bản tổ chức ở làng xã. Lễ hội thể hiện tấm
lòng tôn kính tri ân của nhân dân tưởng nhớ công lao to lớn của các vị nhân thần tiền
bối và cầu cho quốc thái, dân an, bản mường no ấm, quanh năm mưa thuận gió hòa,
mùa màng bội thu, gia đình hạnh phúc, đất nước vinh hoa phồn thịnh… Cỗ cúng
thường gồm ba mâm nhưng phải đảm bảo có thịt trâu chín, gạo và rượu. Ông mo
khấn bảy lần, mời các vị thần, tổ tiên về dự lễ và phù hộ cho dân bản được ấm no,
sung túc, cuộc sống an vui. Trong những ngày lễ hội đồng bào có phong tục kiêng
không được giã gạo, làm nhà, xẻ gỗ, vào rừng lấy củi, săn bắt, hái lượm...
Ở Mai Châu, lễ hội Xên Mường được tổ chức tại xã Chiềng Châu - nơi được
coi là thủ phủ, điểm phát tích của người Thái di cư từ Bắc Hà về vào khoảng thế kỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 12
thứ XIII. Trải qua bao biến cố lịch sử, các thế hệ chúa đất người Thái đã có công lao
to lớn trong việc cùng với muôn dân khai khẩn đất đai lập nên bản, nên mường, trở
thành mảnh đất trù phú như ngày nay…
1.2.3. Một số phong tục tập quá n khá c
Cùng với những tinh hoa văn hoá độc đáo thể hiện đời sống tình cảm đằm
thắm thiết tha của cộng đồng dân tộc, đồng bào Thái còn có nhiều phong tục tập quán
tốt đẹp như: lễ mừng thọ, lễ mừng cơm mới, mừng nhà mới, hội ném còn, hạn
khuống... Ngoài ra, đồng bào Thái còn có các tập tục truyền thống lâu đời như: ma
chay, cưới xin, cúng bản... Mỗi phong tục tập quán có một sắc thái riêng, nhưng tựu
trung lại là thể hiện sự phong phú của đời sống tình cảm, nếp tư duy của cộng đồng
dân tộc đã phát triển đạt đến trình độ cao.
Về cưới xin, người Thái có xu hướng hiện đại hơn nhiều dân tộc khác trong
cộng đồng người Việt. Mọi người khuyến khích trai gái tự do tìm hiểu, yêu đương.
Khi tâm đầu ý hợp, họ hẹn hò nhau ở nương rẫy, ở chợ phiên, ở các lễ hội… Sau khi
được gia đình nhà gái đồng ý, chàng trai đến ở rể và chung sống với gia đình cô gái.
Khi nào tình yêu thực sự chín muồi, họ mới làm lễ cưới.
Về tang lễ, người Thái coi sự ra đi của mỗi cá nhân trong cộng đồng là một sự
kiện lớn. Việc tổ chức tang lễ được tiến hành một cách cẩn trọng. Mọi người thân
trong dòng tộc và cộng đồng trong làng xóm đều tham gia. Mỗi người đến viếng đều
mang theo gạo, rượu, thịt… tùy theo quan hệ với người đã mất. Họ ở lại cùng tổ chức
đám ma với rất nhiều nghi lễ cúng bái như lễ tắm xác, lễ nhập quan, lễ dẫn hồn, lễ
đưa tang, lễ chôn cất, lễ gọi hồn… Một đám ma thường kéo dài trung bình khoảng ba,
bốn ngày và luôn thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong đời sống cộng đồng của người
Thái.
Về lễ tết, trước đây, người Thái không tổ chức Tết nguyên đán. Tết lớn nhất
trong năm là tết cơm mới được tổ chức hai lần trong năm. Sau khi gặt hái xong vụ
chiêm hoặc vụ mùa, mỗi gia đình thường làm mâm cơm nấu gạo mới cúng tổ tiên
nhằm báo cáo và tỏ lòng biết ơn tổ tiên đã phù hộ trong cả một mùa trồng cấy. Trong
tết cơm mới nhất thiết phải có cá và người Thái kiêng ăn thịt gà trong ngày này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 13
Song song với viê ̣c giữ đươ ̣c những nét văn hó a đă ̣c trưng củ a ngườ i Thái cổ , trong quá trình sinh tồn của mình, ngườ i Thái Mai Châu đã có sự tiếp xú c liên tu ̣c về văn hó a vớ i các dân tô ̣c phổ biến trong vù ng, nhất là văn hóa dân tô ̣c Mườ ng. Vì vâ ̣y, văn hóa Thái Mai Châu chịu nhiều ảnh hưở ng củ a các yếu tố văn hó a Mường. Điều
này thể hiện rõ ở cách thiết kế nhà, trang phu ̣c… có nhiều nét gần vớ i ngườ i Mườ ng
Bi (huyện Tân Lạc - tỉnh Hòa Bình).
1.3. Vài nét về văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu
Là một huyện nhỏ nằm ở cửa ngõ lên vùng Tây Bắc, dù chỉ có khoảng 54
nghìn dân nhưng huyện Mai Châu lại có tới 7 dân tộc anh em cùng chung sống gồm
Thái, Mường, Dao, H’Mông, Tày, Hoa và Kinh; trong đó dân tộc Thái chiếm đa số
(trên 60%). Các dân tộc đều có nền văn hóa riêng phong phú, đa sắc màu. Thêm nữa,
do đã chung sống từ lâu đời nên còn có hiện tượng giao thoa văn hóa, khiến cho các
sinh hoạt văn hóa của mỗi dân tộc càng trở nên đa dạng.
Người Thái có lợi thế là đã có chữ viết từ lâu đời, chữ Thái có nguồn gốc từ
chữ Phạn. Từ nhiều thế kỷ trước, chữ Thái cổ đã được dùng để sáng tác văn học, ghi
chép văn học dân gian. Chính vì vậy, kho tàng văn học dân gian của dân tộc Thái
huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình khá phong phú, đa dạng và độc đáo với đủ các thể
loại: Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, sử
thi, khắp, tục ngữ, thành ngữ… Tuy nhiên, do chưa có điều kiện để tìm hiểu hết các
thể loại nên ở đề tài này chỉ xin đề cập đến một số thể loại có số lượng lớn hơn. Đó là
truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, khắp và tục ngữ.
Trong kho tàng văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu, rất nhiều
truyền thuyết có giá trị nội dung khá sâu sắc, đó là những truyền thuyết thể hiện mối
quan hệ khăng khít giữa người Kinh và người Thái, truyền thống hiếu học và lòng
biết ơn những người đã xây dựng bản mường giàu mạnh của người Thái…. Trong khi
đó, truyện cổ tích và truyện cười thể hiện các vấn đề đấu tranh giữa thiện - ác, giàu -
nghèo, mạnh - yếu, thông minh - ngu dốt… Đặc biệt, thể loại khắp Thái rất phong
phú, được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống lao động và trong các phong tục, tập
quán của người Thái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 14
* Tiểu kết
Mai Châu được biết đến không chỉ bởi cảnh đẹp thiên nhiên mà còn là nơi lưu
giữ nhiều nét văn hoá đặc trưng của cộng đồng dân tộc Thái. Vốn là dân tộc có lịch
sử phát triển lâu đời, người Thái nơi đây tự hào là một tộc người có bản sắc riêng,
phong phú, đa dạng, vừa mang những nét văn hóa truyền thống, vừa có sự hòa nhập
văn hóa khu vực. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa, thấm đẫm tới từng cá nhân trong
cộng đồng người Thái, góp phần làm phong phú thêm giá trị cho nền văn hóa đa dân
tộc ở miền đất Mai Châu. Nổi bật lên trong nền văn hóa ấy chính là văn học dân gian
Thái, chính văn học dân gian Thái đã góp một phần quan trọng vào việc làm sống lại
cả một thời thời kì thăng trầm đầy bi tráng của dân tộc Thái ở Mai Châu. Suốt gần
bảy trăm năm lịch sử, văn học dân gian Thái là một tư liệu quý báu, giúp chúng ta
dựng lại một cách khái quát từng chặng đường lịch sử dân tộc Thái trên đất Mai
Châu. Vì vậy, vấn đề sưu tầm, nghiên cứu và lưu giữ văn học dân gian Thái Mai
Châu là hết sức cần thiết trong thời điểm hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 15
Chương 2
TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ
TRUYỆN CƯỜI DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU
2.1. Truyền thuyết
Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian kế tiếp thần thoại, được nhân
dân sáng tạo ra từ khi con người có ý thức về lịch sử. Bắt nguồn từ cảm hứng tự hào
và ngợi ca những anh hùng kiệt xuất có nhiều công trạng với nhân dân, với đất nước.
Truyền thuyết là một cách nhận thức và lý giải những sự kiện lịch sử trọng đại của
quốc gia, dân tộc theo quan điểm của nhân dân thuộc về hệ tâm lý xã hội trong ý thức
dân gian.
Không có lịch sử thì không có truyền thuyết, và trên thực tế đã có nhiều truyền
thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo, chẳng những thỏa mãn nhu cầu kể sử
truyền đời của quần chúng nhân dân lao động mà trong nhiều trường hợp còn có tác
dụng bổ sung vào chính sử. Nhưng truyền thuyết không phải là lịch sử, con đường
hình thành và phát triển của nó là sự chuyển hóa từ ý tưởng lịch sử hóa huyền thoại
hư cấu đến lịch sử đích thực được hư cấu có tính quy luật theo quan điểm thẩm mỹ
dân gian.
Theo giáo sư Lê Chí Quế trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam do nhà
xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội ấn hành năm 1999 thì “Truyền thuyết là một thể
loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử hay di
tích cảnh vật địa phương thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kỳ” [30,tr.49].
Sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng có ý kiến rất có giá trị về truyền
thuyết “Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà
nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của
mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân
gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con người ưa thích” (Trích “Nhân
ngày giỗ tổ Hùng Vương” của Phạm Văn Đồng – Báo Nhân dân ngày 24/9/1969).
Về truyền thuyết dân gian của dân tộc Thái ở Mai Châu, do quá trình thiên di
đến sinh sống trên địa bàn Mai Châu khá muộn (từ khoảng thế kỳ XIV) nên trong văn
học dân gian Thái ở đây không có các truyền thuyết thời sơ khai, thời chuyển từ thần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 16
thoại sang truyền thuyết; không có các tác phẩm đánh dấu thời kỳ con người chuyển
từ thời kỳ hoang sơ sang thời kỳ văn minh đồ đồng, đồ sắt. Truyền thuyết của dân tộc
Thái ở Mai Châu chủ yếu có nội dung kể về các nhân vật anh hùng lịch sử - những
người đã có công khai phá, giữ gìn và mở mang đất đai - và giải thích cách đặt tên, sự
tồn tại của những địa danh trên địa bàn huyện Mai Châu, nơi dân tộc Thái sinh sống.
2.1.1. Phân loại truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu
2.1.1.1. Truyền thuyết về nhân vật anh hùng lịch sử
Người Thái thường kể cho nhau nghe truyện về những người anh hùng và
những cuộc chiến tranh tìm đất, giữ đất của các tộc trưởng… Họ là những nhân vật
anh hùng lịch sử của dân tộc Thái ở Mai Châu, những người đã có công lớn trong
việc khai phá, giữ gìn và mở mang đất đai; những người đã có công dẹp yên các mâu
thuẫn nội bộ, giúp mang lại sự yên bình cho bản mường hoặc là những người có công
giúp vua dẹp loạn, đánh giặc bảo vệ đất nước.
Tiêu biểu cho nhóm các truyền thuyết này có các tác phẩm “Truyền thuyết ông
Bá Hộ”, “Truyền thuyết Vua Quán - Hoàng Ngoài”…
2.1.1.2. Truyền thuyết về các địa danh, các miền đất
Đây là nhóm các truyền thuyết kể về các sự kiện liên quan làm nảy sinh các
tên gọi của các vùng đất, các miền đất, các thôn xóm… trên địa bàn huyện Mai
Châu. Có những tên gọi đến nay đã thay đổi, nhưng còn nhiều địa phương đến nay
vẫn dùng những tên gọi ban đầu, hoặc chỉ lái đi đôi chút do đặc điểm phiên âm
sang tiếng Việt.
Tiêu biểu cho nhóm các truyền thuyết này có “Truyền thuyết về thuyền đồng,
thuyền da”, “Đền ông Chín Mường”…
2.1.2. Nội dung truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu
2.1.2.1. Ca ngợi công lao của những người anh hùng có công khai phá, giữ gìn và mở
mang địa bàn sinh sống
Trước hết, cần phải khẳng định lại một vài đặc điểm rất cơ bản của truyền
thuyết, giáo sư Lê Chí Quế trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam có viết
“Truyền thuyết dân gian được xây dựng trên cơ sở một cốt lõi lịch sử và được chắp
thêm đôi cánh “thơ và mộng”, nghĩa là sự hư cấu hoang đường” [30,tr.62]. Truyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 17
thuyết là một thể tài văn học dân gian chứ không phải là một thể tài sử học. Trong
truyền thuyết có những sự kiện lịch sử nhưng chúng không phải những sự kiện lịch sử
đích thực mà chỉ là “những ánh hào quang, những tia khúc xạ” của lịch sử. Truyền
thuyết không chú ý đến việc đảm bảo tính đầy đủ và tuần tự theo thời gian của các sự
kiện lịch sử. Không phải bất cứ nhân vật và sự kiện lịch sử nào cũng trở thành trung
tâm phản ánh của truyền thuyết. Truyền thuyết có thể ghi lại những sự kiện lịch sử
của thời khuyết sử hoặc chọn lọc những sự kiện theo quan niệm của nhân dân.
Từ đó, chúng ta thấy rằng: Các truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu không phải là lịch sử nhưng trong nó có chứa một phần lõi lịch sử, nó phản ánh quá
trình phát triển đẫm máu của những người dân lao động. Điều này được thể hiê ̣n rõ qua cuốn “Lai lịch dòng họ Hà Công” mà giáo sư Đă ̣ng Nghiêm Va ̣n đã sưu tầm được: không kể hàng chục lần ta ̣o Ha ̣ và ta ̣o Thươ ̣ng đem quân đánh nhau, có lần chết đến 63 ngườ i, thì cò n nhiều lần giă ̣c từ các vù ng khác xông vào cướ p bó c, giết chó c kinh hoàng. Vì thế, người nông dân Thái hiểu rõ cái giá mà ho ̣ phải trả cho na ̣n cát cứ , tranh chấp, giă ̣c giã… Ho ̣ mong muốn mô ̣t cuô ̣c số ng yên lành, yêu thương, đù m bo ̣c lẫn nhau để cù ng chung số ng trong hò a bình.
Là một trong ít các dân tộc ở Việt Nam có kinh nghiệm làm lúa nước từ lâu
đời, dân tộc Thái rất hiểu giá trị của các nguồn nước và những vùng đất đai màu mỡ.
Chính vì vậy, khi một miền quê vì một lý do nào đó bị trở nên quá khô cằn, không thể
trồng lúa được nữa thì đó là lúc người Thái phải ra đi, tìm và khai phá những miền
đất mới. Truyền thuyết “Thuyền đồng, thuyền da” nói về quá trình thiên di của người
Thái từ Mường Hước - Pước Khà (Bắc Hà - Lào Cai) đến Mai Châu. Đó là một
chuyến đi đầy vất vả, nhọc nhằn nhằm mục đích tìm ra một nơi định cư mới cho dòng
họ Thái Hà Công. Người dân Thái nhớ ơn những người đã dũng cảm từ bỏ miền đất
toàn cỏ gianh để đến với đất Mai Châu màu mỡ nên đã kể khá chi tiết về hành trình
này: từ Mường Hước - Pước Khà họ đã đi thuyền đến ngã ba sông - điểm sông Đà
gặp sông Hồng - đoàn người đã đi ngược lên đầu nguồn sông Đà rồi rẽ vào đất Mai
Châu. Trên đường đi đã có những người phải nằm xuống vì ốm đau, vì đói rét; nhưng
đó mới chỉ là khởi đầu của quá trình mở đất. Vì khi đến Mai Châu thì ở đó đã có tộc
người Xá ở từ trước, do đó những người dân Thái sau rất nhiều tranh chấp, đổ máu đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 18
dùng mẹo bắn tên cắm dính vào vách đá để đẩy người Xá đi khỏi vùng đất. Từ đó, họ
toàn quyền khai khẩn và canh tác trên đất Mai Châu.
Truyền thuyết “Thuyền đồng, thuyền da” đã ca ngợi những thủ lĩnh dũng
cảm, thông minh của dân tộc Thái đã có công khai phá vùng đất Mai Châu, những
người đã đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân Thái. Đối với dòng họ
Hà Công nói riêng và các dòng họ Thái ở Mai Châu nói chung, những người như
Lăng Bôn, Lăng Bắp… thực sự là những người anh hùng, đáng được lưu danh trong
truyền thuyết.
Thông qua việc kể lại những câu chuyện gắn liền với các miền đất và con
người Mai Châu, các truyền thuyết ca ngợi ý chí, nghị lực và trí tuê ̣; đồng thời thể hiện lòng biết ơn của dân tộc Thái đối với những người đi lập đất, khai khẩn, phát
triển địa bàn để xây dựng mô ̣t vù ng quê hương rộng lớn, trù phú và thi ̣nh vươ ̣ng.
2.1.2.2. Ca ngợi công lao các anh hùng có công thống nhất các bộ tộc, dẹp giặc
ngoại xâm
Dân tộc ta đã trải qua nhiều nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, làm ăn
và đánh giặc, sản xuất và chiến đấu. Nhìn vào chính sử sẽ thấy các truyền thuyết dân
gian Thái có đề cập đến các thời kỳ, các giai đoạn, các thời điểm cụ thể của lịch sử.
Tuy nhiên, như chúng ta biết, truyền thuyết không phải là lịch sử. Do đó, truyền
thuyết về các nhân vật lịch sử của dân tộc Thái ở Mai Châu có nói về thời nhà Mạc
(Vua Quán Hoàng Ngoài) hoặc quân Cờ Vàng (Truyền thuyết ông Bá Hộ) nhưng các
chi tiết về các nhân vật cụ thể không phải là những ghi chép trong chính sử mà chỉ là
những hành động, suy nghĩ… của nhân vật truyền thuyết. Hoặc nói một cách khác, đó
là những hình tượng được xây đắp từ haỉ phía: trước hết đó là những nhân vật có
nguyên mẫu từ những con người có thật, đã từng lãnh đạo nhân dân chiến đấu và đã
lập nên những chiến công hiển hách, góp phần bảo vệ quê hương, đất nước; mặt khác
đó là anh hùng do cộng đồng sáng tạo ra để khắc họa một biểu tượng cao cả, đại diện
cho ý chí chiến đấu và chiến thắng các lực lượng thù địch của quân và dân dân tộc
Thái ở Mai Châu.
Truyền thuyết “Vua Quán Hoàng Ngoài” có những chi tiết dường như rất thật,
đó là mâu thuẫn giữa hai anh em tạo mường Hạ và tạo mường Thượng. Mưu kế của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 19
tạo mường Thượng đã khiến người em là tạo mường Hạ cùng quẫn tự vẫn, dân phải
giấu bà vợ đang có mang của tạo vào hang để trốn… Bên cạnh đó cũng có những chi
tiết ly kỳ đặc trưng của truyện cổ dân gian như việc Xà Chúm, Xà Chướng mổ bụng
người vợ đã chết của tạo mường Hạ để cứu sống đứa trẻ, nuôi nấng nó rồi cho về ăn
học ở triều đình… Sau đó đứa trẻ trở về đóng góp nhiều công lao trong việc thống
nhất các bộ tộc, các mường Thái, để mọi người cùng chung sức xây dựng vùng đất
Mai Châu yên vui, no ấm, hạnh phúc.
“Truyền thuyết ông Bá Hộ” kể về một anh hùng trong lĩnh vực chống giặc
ngoại xâm. Chiến công nổi bật của ông tập trung ở hai trận đánh. Có trận đánh các
tác giả dân gian Thái kể rằng đó là trận ông Bá Hộ chống giặc Cờ Vàng, nhưng
cũng có trận đánh chỉ kể chung chung là ông đánh giặc ở phía tây bắc kéo xuống
chứ không nói rõ là giặc gì. Tuy nhiên chúng ta cũng khẳng định đây khó có thể là
một nhân vật của chính sử. Có thể trong hoàn cảnh bị ngoại bang xâm lấn, đáp ứng
nguyện vọng của cộng đồng, thực tế đã có một con người bằng xương, bằng thịt, có
đức, có tài đã lãnh đạo tập thể đứng lên đánh giặc, mở ra một trang sử với những
chiến công oanh liệt của con em nhân dân lao động. Và từ đó, người dân Thái đã
hoà nhập chân dung người anh hùng văn hóa với chân dung người anh hùng lịch sử
để hoàn thiện một biểu tượng đủ sức đáp ứng nguyện vọng sinh tồn của cộng đồng
trước những thử thách thường xuyên do ngoại cảnh đem lại. Hoặc cũng có thể nghĩ
rằng, ông Bá Hộ là hiện thân cho những con người thật, có nhiều công lao trong
việc bảo vệ những quyền lợi của cộng đồng nên đã được các tác giả dân gian truyền
thuyết hoá thành người anh hùng, trở thành thiên tráng ca về trí tuệ, sức mạnh và
tính cách của người dân Thái.
2.1.2.3. Giải thích lịch sử tên gọi của những vùng đất, miền đất trên địa bàn
Truyền thuyết dân gian Thái thể hiện dấu ấn về thời kỳ khai phá và hình ảnh
những con người tiên phong trong công cuộc chinh phục, cải tạo những miền đất mới.
Với mọi dân tộc nói chung và với dân tộc Thái nói riêng thì đất đai có giá trị lớn cả
về mặt vật chất lẫn tinh thần. Đối với các di dân thì đất đai càng bội phần quý báu,
thiêng liêng. Những đoàn người ly hương đi lên vùng cửa ngõ Tây Bắc với một hành
trình đầy gian nan, gian khổ nhằm mục đích đi tìm đất mới. Với những con người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 20
cùng khổ, không thể mưu sinh ở mảnh đất quê nhà thì một miền đất mới màu mỡ trở
thành một lý tưởng và khát vọng lớn lao, khẩn thiết và cháy bỏng. Vì vậy, quá trình
mở đất của họ đã được các truyền thuyết trân trọng kể lại khá chi tiết, nhiều trường
đoạn giống như dã sử, huyền sử hoặc mang dáng dấp của lịch sử: …“Đuổi được
người Xá, Tạo Lang Bôn cùng dân khai phá xuống đến bản Củm, bản Bước, bản
Ngõa… Tạo lấy con gái trong Mường sinh được con trai là Lạng Thượng. Lạng
Thượng lập chiềng ở bản Uống và lấy con gái quan Pưng Mường sinh ra tạo Lang
Uôn. Tạo Lang Bôn cũng lấy con gái con quan Cuông sinh ra tạo Lang Thanh. Lang
Thanh lấy nàng Mường Dón Pi sinh ra tạo Lang Tông. Lang Tông lấy nàng Mường
Khời, sinh ra tạo Khà Bằng. Tạo cùng dân khai phá những đất đai bỏ hoang, mở
mang đến bản Pùng, bản Pheo, Nà Nóc… Tạo lấy nàng Ngăm sinh ra tạo Lang Sôm.
Lang Sôm lấy nàng Mường Khến sinh được ba con trai, con cả là Khằm Pông, con
thứ là Khằm Piềng, con út là Khằm Pành. Ba anh em cùng với dân khai phá đất đai
và chia nhau các vùng đất. Ông Khằm Pông ăn đất Mường Hạ, được coi giữ gốc
Mường. Ông lấy bản Uống, bản Lầu, bản Lốm, bản Nghẹ làm đất Mường. Ông Khằm
Piềng ăn đất Mường Thượng. Còn ông Khằm Pành không có đất nên ba anh em mới
sai dân xuống xem xét đất đai ở Mường Khoòng, thấy đất tốt, bằng phẳng, người ta
bảo “khừ lâu co” nên mới có tên là bản Lầu. Khằm Pành và một số dân được chia
xuống bản này. Ba anh em mổ một con bò sừng bọc đồng chạm trổ để làm tiệc chia
tay. Về sau thỉnh thoảng người ta lại lấy chiếc sừng bọc đồng ấy ở bản Nghẹ, nó
được làm thành chiếc tù và, người ta gọi đó là “khau ngùa tòng”. Sau khi chia đất
cho ba con, tạo lang Sôm không ở với người con cả ở Chiềng Uống mà lên ở với
người con thứ hai ở Nà Pướt và lập nên Chu Mùn. Trước khi chết, ông giao quyền
Tạo Chu cho Khằm Piềng ở Nà Pướt”… (Truyền thuyết “Thuyền đồng, thuyền da”).
Trong nhóm truyền thuyết địa danh của dân tộc Thái, những tên gọi địa danh
thường gắn với dấu tích về người đầu tiên đặt chân lên vùng đất với ý nghĩa ngợi ca,
tôn vinh nhằm nhắc nhở những thế hệ sau nhớ đến công lao của những người có công
đầu trong quá trình mở đất. Trong truyền thuyết “Thuyền đồng, thuyền da” thì con
suối mà đoàn người đi khai khẩn ngồi nghỉ ăn sáng gọi là suối “Kin Lành” (ăn sáng);
mỏ nước mà người thủ lĩnh đánh rơi mất mũi giáo đồng là “bó cháo tòng” (mỏ “Giáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 21
đồng”), sau này khi làng bản phát triển lên ở đây cũng gọi là bản Tòng; vách núi nơi
người Thái đã chiến thắng người Xá trong việc giành đất bằng lời thách đấu bắn tên
cắm vào vách đá thông qua bí quyết phết sáp ong vào đầu mũi tên được đặt tên là
“Pha khí sút” (vách đá sáp ong)… Tương tự, trong truyện “Vua Quán - Hoàng
Ngoài” có hang Giấu, “pom tền pua” (núi tên vua), mái Đá Bừa… đều là những tên
địa danh liên quan đến các sự kiện, các hành động… của các tiền nhân thời mở đất.
Như vậy, chúng ta thấy rằng trong truyền thuyết dân gian Thái hầu như không
có truyện gắn trực tiếp tên nhân vật với tên gọi địa điểm mà chỉ có hình thức giải
thích địa danh do liên quan đến hành động, tình tiết, sự kiện... mà các nhân vật trong
truyện tạo ra. Truyện mang đậm yếu tố hiện thực, các yếu tố thần kỳ, hoang đường,
kỳ diệu, huyền ảo nhìn chung không có hoặc khá mờ nhạt. Trong các truyện kể, quan
hệ và xung đột được thể hiện chủ yếu là giữa con người với con người, hầu như
không có các tình tiết đấu tranh giữa con người với thiên nhiên như đánh đuổi thú dữ,
ngăn sông, đắp núi…
Cũng như truyền thuyết dân gian của nhiều dân tộc khác, truyền thuyết Thái có
đề cập đến việc đặt tên địa danh gắn liền với chuỗi sự kiện tiếp theo như lập mộ bia,
xây dựng đền miếu. Việc này có ý nghĩa ghi ơn, tôn vinh, bất tử hóa công tích của
những bậc tiền bối trong công cuộc khai khẩn và đem lại ấm no, hạnh phúc cho cộng
đồng. Truyện “Đền ông Chín Mường” có kể về việc dân đã lập đền thờ ông Chín
Mường ở Sộp Páo để hằng năm cúng lễ tưởng nhớ đến công đức của ông. Tương tự,
trong “Truyền thuyết ông Bá Hộ”, vì những công lao đánh đuổi giặc giã, đem lại sự
yên bình cho nhân dân nên sau khi qua đời, ông Bá Hộ được dân bản lập miếu ở bản
Củm quê nhà để thờ cúng, tri ân hàng năm.
Về tổng thể, nhóm truyền thuyết địa danh của dân tộc Thái ở Mai Châu đã
phản ánh quá trình khai khẩn, thích nghi, hòa hợp, cải tạo thiên nhiên và đấu tranh xã
hội của cư dân Thái ở địa phương. Đây là sản phẩm tinh thần của nhân dân lao động
Thái được kết tinh, chắt lọc từ thực tại trong hành trình mở đất, thực hiện khát vọng
của người dân Thái về một miền đất trù phú để có thể sinh tồn lâu dài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 22
2.1.3. Nghệ thuật của truyền thuyết dân tộc Thái ở Mai Châu
2.1.3.1. Nghệ thuật tạo dựng cốt truyện
Truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu vừa hướng người nghe về cõi
thiêng bằng cách tạo ra được niềm tin trong đời sống tâm linh, vừa tỉnh táo đặt ra và
lý giải những vấn đề trọng đại đối với lịch sử phát triển của miền đất, của tộc người.
Vì vậy, truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu thường gắn bó rất chặt chẽ với
những lễ hội dân gian được tổ chức thường xuyên trên địa bàn huyện, đồng thời có
mối liên hệ đặc biệt tự nhiên với tín ngưỡng trong dân gian. Dù có thể chỉ là huyền sử
nhưng những chi tiết trong truyền thuyết thường được coi là có thật, được sắp xếp
trong một thời gian cụ thể và trong một không gian xác định: từ hoàn cảnh ra đời, các
đặc điểm khác thường đến những chiến công phi thường của nhân vật, và cuối cùng
là việc nhân vật được tôn xưng thế nào, được thờ tự ra sao.
2.1.3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật trong truyền thuyết của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu thường được
xây dựng với những nét đời thường bình dị, thế tục; ít yếu tố kỳ ảo, phi thường. Các
hành động của nhân vật và công trạng của họ trong truyền thuyết có thể có thật, cũng
có thể là do người dân quá yêu mến những nhân vật đó nên kể về họ với những hư
cấu lịch sử. Trong truyền thuyết dân gian dân tộc Thái, các vị ấy hiện ra với tư cách
là một hình tượng nghệ thuật. Do đó, việc phản ánh những vấn đề lịch sử hay sử dụng
những chi tiết, sự kiện lịch sử trong truyền thuyết dân gian dân tộc Thái cần được
xem là một biện pháp nghệ thuật, được chi phối bởi các quy luật sáng tạo nghệ thuật.
Đó là quan niệm nghệ thuật về con người, và mọi cách thức chọn lựa các phương tiện
chất liệu để xây dựng hình tượng đều thuộc về quan điểm lịch sử - thẩm mỹ của nhân
dân. Khác với chính sử, nhân vật lịch sử trong truyền thuyết dân gian dân tộc Thái rất
gần gũi với quần chúng nhân dân lao động. Vì vậy mà hành động, tính cách của họ
giàu tính hiện thực đời thường. Các yếu tố kỳ diệu chỉ là kết quả của sự hư cấu kỳ ảo
có chủ tâm được vay mượn trong thế giới của truyện cổ dân gian.
Sự lý giải của dân tộc Thái về sức mạnh thể chất, ý chí, trí tuệ… của nhân vật
thường là do sức mạnh tự thân mang tính thế tục nhờ nghị lực phi thường của nhân
vật. Điều này cũng khác so với truyền thuyết của nhiều dân tộc khác là sức mạnh của
nhân vật thường do tự thân nhân vật kết hợp với sự góp sức của các yếu tố thần linh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 23
kỳ ảo. Mặc dù là do tự thân nhưng sức mạnh của nhân vật trong truyền thuyết của dân
tộc Thái xét cho cùng vẫn có ý nghĩa biểu tượng thấm nhuần tinh thần và bản sắc dân
tộc: sức mạnh đó chính là sức mạnh được hun đúc, được tổng hợp từ linh khí của dân
tộc, từ sức mạnh đoàn kết của người dân trên địa bàn.
Cũng khác với nhiều truyền thuyết của các dân tộc khác là truyền thuyết của
dân tộc Thái hầu như không có chi tiết hóa thân, hiển linh… Các nhân vật khi chết đi
không bay về trời, không hóa thành thánh thần… nhưng luôn được nhân dân kính
trọng, ghi ơn và lập nơi thờ cúng.
2.2. Truyện cổ tích
Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam do giáo sư Đinh Gia Khánh
chủ biên thì “… truyện cổ tích là bộ phận quan trọng nhất trong các thể loại tự sự
dân gian” [12,tr.294], “truyện cổ tích xuất hiện phần lớn khi công xã thị tộc tan
rã” [12,tr.296], “truyện cổ tích một mặt phản ánh sự đấu tranh của nhân dân
chống giai cấp thống trị nhưng một mặt vẫn chịu ảnh hưởng ý thức hệ chính trị
của thời đại” [12,tr.296].
Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả ít khi đưa ra định nghĩa về thể
loại cổ tích. Ngay cả các giáo sư Đinh Gia Khánh, Lê Chí Quế cũng không đưa ra
khái niệm về về thể loại này trong các giáo trình của mình mà chỉ nêu lên những đặc
trưng chung để xác định thể loại. Có thể tựu trung lại một cách khái quát thì truyện cổ
tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng yếu tố nghệ thuật kỳ
ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời sống, bộc lộ quan niệm về đạo
đức cũng như về công lý xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân
dân lao động.
Trong khi thần thoại của người Thái ra đời từ thời xa xưa và thường gắn liền
với các nghi lễ thì cổ tích ra đời khi xã hội đã phát triển, đã hình thành quan hệ giai
cấp. Khi đó dân tộc Thái Mai Châu phải đối mặt với chính mình, nhất là đối với
những thói hư tật xấu của con người đã mang tính giai cấp. Cuộc đấu tranh chống lại
cái xấu ngày càng trở nên gay gắt hơn và trực tiếp được phản ánh trong cổ tích của
dân tộc Thái Mai Châu. Thể loại này ra đời với chức năng chống lại cái xấu, bênh
vực cái tốt, giáo dục con người hướng thiện. Người Thái Mai Châu xưa đã sử dụng cổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 24
tích như một công cụ đấu tranh. Trong sáng tác của mình, họ đã sử dụng hư cấu, nhất
là yếu tố kỳ diệu để tạo ra một thế giới cổ tích, khiến cho cổ tích trở thành những sản
phẩm nghệ thuật hấp dẫn. Các tác giả dân gian Thái Mai Châu đã khéo léo tạo ra một
thế giới không có trong thực tại nhưng lại tương đồng với thế giới thực tại, nhằm tạo ra
một trục liên tưởng cho người nghe để họ cảm xúc trước những điều xảy ra trong cổ
tích; làm cho họ yêu cái tốt, ghét cái xấu và ra sức đấu tranh chống lại cái xấu. Cổ tích
Thái Mai Châu thật sự là những sáng tạo nghệ thuật và đó là nghệ thuật có chủ tâm.
2.2.1. Phân loại truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu
Về cơ bản thì truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu có hai dòng phát triển
song song: truyện kể về loài vật và truyện kể về loài người. Càng về sau dòng truyện
kể về vật càng hẹp lại, truyện kể về người càng ngày càng phong phú, song song với
sự phát triển mọi mặt của xã hội con người. Truyện cổ tích thần kỳ hình thành và phát
triển trong thời kỳ đầu của truyện cổ tích, còn truyện cổ tích sinh hoạt chủ yếu phát
triển ở thời kỳ sau.
Chúng ta có thể phân loại truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu thành
truyện cổ tích về loài vật, truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt.
2.2.1.1. Truyện cổ tích loài vật
Truyện cổ tích về loài vật là một bộ phận quan trọng của truyện cổ tích dân tộc
Thái Mai Châu. Chúng có những giao thoa nhất định với truyện ngụ ngôn dựa trên
những yếu tố nghệ thuật và nội dung. Tuy nhiên những con vật ở truyện cổ tích loài
vật là những loài vật của thế giới tự nhiên, truyện có thể có nội dung giáo huấn song
đó không phải là mục đích chủ yếu của tiểu loại này mà điều cốt lõi là mỗi câu
chuyện là một sự nhận thức và lý giải đặc điểm của loài vật.
Nhân vật chính của truyện cổ tích về loài vật của người Thái ở Mai Châu là thế
giới loài vật phong phú và đa dạng, đó là những con khỉ ranh mãnh, con hổ hung bạo
nhưng dốt nát, con rùa thông thái, con cóc gan dạ… Các nhân vật chính là thế giới
sinh động, ngộ nghĩnh của loài vật trong tự nhiên, nhiều chuyện lý giải những đặc
điểm nổi bật của sinh vật trong tự nhiên: tại sao ve sầu không có ruột, tại sao lông hổ
lại vằn vện, tại sao có loại ốc suối đít bằng…
Khác với truyện cổ tích về loài vật của dân tộc Kinh, truyện cổ tích về loài vật của
người Thái Mai Châu có nhiều nhân vật là các loài thú sống ở trên rừng, điều này cho
thấy đặc điểm sinh sống của dân tộc Thái là luôn sống gần gũi, gắn bó với rừng núi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 25
Tiêu biểu cho các truyện cổ tích về loài vật của dân tộc Thái Mai Châu có
“Khỉ và Cào Cào”, “Án Nhà Khàm Khạc”, “Rùa khóc Then”, “Khỉ và Hổ”, “Mành
Khẳm không có ruột”...
2.2.1.2.Truyện cổ tích thần kỳ
Truyện cổ tích thần kỳ là một tiểu loại của truyện cổ tích, nó có những đặc
điểm riêng về nhiều mặt, phân biệt nó với những tiểu loại truyện cổ tích khác như
truyện cổ tích loài vật hay truyện cổ tích sinh hoạt; thể hiện ở cách xây dựng nhân
vật, xây dựng cốt truyện, phương pháp phản ánh thực tại… Trong đó tiêu chí cơ bản
phân biệt các tiểu loại với nhau là vai trò quan trọng của yếu tố thần kỳ trong việc chi
phối quá trình phát triển hệ thống tình tiết của cốt truyện. Ở truyện cổ tích thần kỳ,
yếu tố thần kỳ ngoài việc đóng vai trò quan trọng trong kết cấu của quá trình dẫn dắt
câu chuyện, nó còn là phương tiện hỗ trợ cho hoạt động của con người. Đối tượng
miêu tả của truyện cổ tích thần kỳ là con người. Nhưng con người đôi khi bất lực
trước những khó khăn và khi đó lực lượng thần kỳ xuất hiện giúp cho nhân vật vượt
qua những khó khăn và xung đột của truyện sẽ được giải quyết, câu chuyện sẽ được
phát triển tiếp tục. Hầu hết các vấn đề nêu lên trong truyện cổ tích thần kỳ đều được
giải quyết trực tiếp hay gián tiếp bằng lực lượng thần kỳ. Đó là những truyện cổ tích
phản ánh bi kịch gia đình đi từ quần hôn đến hôn nhân một vợ một chồng, từ chế độ
mẫu hệ sang phụ quyền, từ chế độ chưa có giai cấp sang chế độ phân chia giai cấp…
Kết cấu truyền thống của truyện cổ tích thần kỳ thường là kết thúc có hậu. Theo quan
điểm của Chu Xuân Diên, ông cho rằng trong truyện cổ tích thần kỳ cũng có nhiều
yếu tố cổ xưa có liên quan đến những quan niệm thần thoại và tín ngưỡng của con
người thời thị tộc bộ lạc.
Truyện cổ tích thần kỳ là bộ phận phong phú nhất của truyện cổ tích dân tộc
Thái ở Mai Châu. Đó là những truyện cổ tích về đứa trẻ mồ côi, về người con riêng,
về người con út, về những nhân vật bất hạnh… Tiêu biểu cho tiểu loại truyện cổ tích
thần kỳ của người Thái ở Mai Châu có các truyện “Chàng Voi nhỏ và ông Xù Xì bốn
mắt năm mồm”, “Người hóa khỉ”, “Cô gái chăn vịt”, “Biến thành thuồng luồng”, “Bờ
ruộng và trụ cột đá bên bờ”, “Phi Càng Cói”, “Càng Cói xin váy”, “Lấy nhầm chồng
sâu”, “Người hóa khỉ”, “Người hóa hổ”, “Nàng Trăng - nàng Sao”, “U Thền”, “Bỏ
quên bướu”…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 26
2.2.1.3. Truyện cổ tích sinh hoạt
Hệ thống những truyện cổ tích sinh hoạt của người Thái ở Mai Châu bao gồm
các cốt truyện kể về những sinh hoạt gia đình như quan hệ vợ chồng, bố mẹ, anh em,
con cái và các quan hệ xã hội như quan hệ chủ tớ, quan hệ giữa người làm thuê và
ông chủ, giữa người nông dân và kẻ trọc phú… Bên cạnh đó là những truyện cổ tích
về những nhân vật thông minh hóm hỉnh cũng như những truyện cổ tích về những
chàng ngốc, những chàng rể và những ông bố vợ…
Phần lớn truyện cổ tích sinh hoạt của người Thái ở Mai Châu thể hiện những
vấn đề đạo đức, ứng xử, cách sống của người dân Thái trên địa bàn. Sức hấp dẫn của
tiểu loại này không nằm trong yếu tố kỳ ảo, hoang đường, ly kỳ, phức tạp… mà nằm
trong những tình huống sinh hoạt thường ngày. Tình huống diễn ra rất sinh động,
phong phú và con người không phải lúc nào cũng ứng xử đúng đắn. Vì vậy, tiểu loại
này là cái nhìn có thiên hướng phê phán của người Thái Mai Châu về những lệch lạc
trong quan niệm về đạo đức, về ứng xử trong cuộc sống; vì thế tính giáo huấn của nó
rất cao, nó hướng tới những chuẩn mực đạo đức, bảo vệ những giá trị đạo đức trong
gia đình và xã hội.
Tiêu biểu cho tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt của người Thái Mai Châu có
“Kế của mẹ vợ”, “Kẻ trộm”, “Chàng Thoi mường Trời và chàng Thoi hạ giới”,
“Thành cứt con trăn”, “Ma đười ươi”, “Lổm Luông”, “Sự tích loài ốc đít bằng”,
“Tiếng dơ dớ của người rót rượu cần”, “Chó cắn tai”, “Chỉ bạn bè lúc biết có thịt
nai”, “Con ông thợ săn”…
2.2.2. Nội dung truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu
Truyện cổ tích dân tộc Thái Mai Châu là kết quả của sáng tác tập thể nên nó
phản ánh tâm lý tập thể, tâm lý phổ biến và nguyện vọng chung của người dân Thái ở
miền đất này. Chúng ta có thể điểm qua một số nội dung cơ bản như sau.
2.2.2.1. Giải thích nguồn gốc, đặc điểm, tên gọi của sự việc, sự vật, loài vật
Truyện cổ tích Thái thể hiện nội dung giải thích nguồn gốc, đặc điểm riêng của
một số sự vật, sự việc, loài vật… Các câu chuyện cho ta thấy trí tưởng tượng hồn
nhiên của tác giả dân gian Thái trong việc cố gắng lý giải những hiện tượng trong
cuộc sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 27
Trước hết, đó là sự hồn nhiên trong việc giải thích một số đặc điểm của các
loài vật. Chẳng hạn tại sao lại có loài thuồng luồng cổ hoa (Biến thành thuồng luồng),
tại sao “mành khẳm” (ve sầu) lại rỗng ruột (Mành khẳm không có ruột), tại sao lông
hổ lại đen vàng loang lổ (Rùa khóc Then), tại sao lại có loài ốc đít bằng (Sự tích loài
ốc đít bằng)…
Truyện cổ dân gian Thái cũng giải thích nguồn gốc của các sự vật, sự việc liên
quan đến con người và địa phương Mai Châu. Truyện “Bờ ruộng và trụ cột đá bên
bờ” giải thích vì sao lại có một khu ruộng bằng phẳng, rộng lớn với bốn cột đá đứng
sừng sững ở góc bên bờ sông Mã; truyện “Lổm luông” giải thích tại sao lại có một
vùng sụt lún lớn ở xã Tòng Đậu, đồng thời cũng giải thích tại sao người Thái rất
kiêng việc lấy lược chải đầu để chải lông cho chó; truyện “Phần trắng trong mắt
người” giải thích sao mắt người lại có lòng trắng, lòng đen...
Tất nhiên xét dưới góc độ khoa học thì tất cả những giải thích đã được thống
kê cũng như những giải thích tương tự trong truyện cổ tích Thái đều không chính xác.
Tuy nhiên, nhưng chi tiết nghệ thuật này thể hiện trí tưởng tượng phong phú, hồn
nhiên và ngây thơ của các tác giả dân gian Thái; đồng thời những chi tiết như vậy
cũng rất hấp dẫn người nghe - nhất là trẻ em - bởi sự thú vị của chúng.
2.2.2.2. Phản ánh cuộc đấu tranh chống lại các thế lực tàn ác và ước mơ về một xã
hội công bằng, một cuộc sống ấm no, hạnh phúc
Xuất hiện trong xã hội phân chia giai cấp, xã hội mà trong lòng nó đã chứa
đựng những bất công, những điều ngang trái; truyện cổ tích dân gian dân tộc Thái ở
Mai Châu đã xây dựng nên một xã hội ước mơ, đó là một xã hội không có cái ác, không có áp bức bóc lột, mọi người được bình đẳng. Đọc những câu chuyện phản ánh
cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa mạnh và yếu...
chú ng ta bắt gặp những giấc mơ của người dân Thái xưa về một thế giới tươi đẹp, mô ̣t thế giớ i khác hiê ̣n thực. Ở đó những kẻ ác đô ̣c luôn bi ̣ trừ ng phạt, những ngườ i hiền lành luôn được che chở và có đươ ̣c cuô ̣c sống ấm no, ha ̣nh phú c. Đó là những giấc mơ phủ nhận, phản kháng thực tại để hướng về một cuộc số ng tự do, bình đẳng trong chân, thiê ̣n, mỹ.
Trước hết xin đề cập đến loại truyện cổ có tính chất kế tiếp, gần gũi với thần
thoại, loại truyện nói về nhân vật đấu tranh chống lại các thế lực khác trong cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 28
sống. Nguyên do làm nảy sinh loại truyện này là vì môi trường sống, vì yêu cầu sinh
hoạt xã hội, vì công cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đặt ra một cách cấp bách và
thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày của người dân Thái. Họ cần chống lũ lụt,
chống hạn hán, chống thú dữ… Vì thế ra đời những câu chuyện về những con người
phi thường, kỳ tài. Tiêu biểu cho dạng này là truyện “Chàng Voi nhỏ và ông Xù Xì
bốn mắt năm mồm”. Truyện kể về một chàng trai mà ngay từ cách ra đời đã lạ lùng:
bà mẹ thụ thai do uống nước trong một vũng nước voi tắm, bà chửa ba năm ba
tháng mới sinh ra chàng trai và đặt tên là Voi con. Ngay từ nhỏ Voi con đã có sức
khỏe phi thường, chẳng ai dám thử sức với cậu. Cậu vật thắng cả người khổng lồ để
đem vàng bạc về cho bố mẹ. Bố mẹ chàng Voi nhỏ bảo con đi giết quái vật Xù Xì
để trừ hại cho dân. Trên đường đi chàng đã chiêu mộ được nhiều bạn bè tài giỏi, đó
là các chàng Lấy trán đóng cọc, chàng Lấy bàn chân cày ruộng, chàng Chèo thuyền
giữa rừng, chàng Chạy nhanh như tên… Họ đều tôn Voi nhỏ làm thủ lĩnh, nhiều
loài thú cũng xin cùng đi. Đoàn quân đã giết quỷ Chí Khè và cuối cùng đã hợp sức
giết Xù Xì, đem lại cuộc sống yên lành cho nhân dân.
Bằng cách xây dựng một nhóm anh hùng, dũng cảm, có tài năng đặc biệt, đã
hợp sức lại để chiến thắng các thế lực tàn ác; truyện “Chàng Voi nhỏ và ông Xù Xì
bốn mắt năm mồm” của người Thái Mai Châu đã ca ngợi tập thể những người lao
động giỏi, chiến đấu giỏi, dám đấu tranh và chiến thắng các thế lực tự nhiên và xã hội
để mang lại cuộc sống yên lành, hạnh phúc cho nhân dân. Truyện thể hiện trí tưởng
tượng táo bạo của dân tộc Thái, đồng thời thể hiện sự phát triển tư duy và nhận thức
của cộng đồng người Thái về cuộc sống con người. Những tập thể anh hùng mang
dáng dấp những anh hùng trong thần thoại, truyền thuyết và sử thi, nó thể hiện tư duy
nghệ thuật cao của các tác giả dân gian Thái trong cốt truyện chặt chẽ, tình tiết truyện
hợp lý, diễn biến truyện hấp dẫn. Các nhân vật hợp với nhau trong chỉnh thể không
thể chia cắt, nếu thiếu đi một nhân vật thì tập thể không thể chiến thắng.
Ý chí chiến đấu và chiến thắng những thế lực tàn ác là điều ta thườ ng gặp trong truyện cổ tích củ a dân tô ̣c Thái ở Mai Châu. Dễ dàng thấy nhân vật chính nằm
trong chuyện là những ngườ i em, người con riêng, những kẻ làm thuê, những người
nghèo khó… Họ bị ngược đãi, bị hắt hủi, bi ̣ bắt làm việc tối ngày, bị bóc lột sức lao
động một cách thậm tệ. Họ không thể làm gì được khi thân phận người lao động chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 29
là con sâu cái kiến. Vì vậy họ luôn mong ước có những thế lực siêu nhiên như thần,
Phật, bụt, tiên để giúp đỡ họ, làm cho họ đổi đời. Những thế lực này không xuất hiện
để thuyết minh cho một tôn giáo nào mà đó chính là đại diện cho cái thiện, cho lẽ
phải, cho khát vọng của người dân về sự công bằng. Sự công bằng ở đây tức là sự
chiến thắng của cái thiện trước những thế lực đen tối, độc ác. Sự xuất hiện của các thế
lực siêu nhiên chứng tỏ rằng người lao động không bao giờ chi ̣u khuất phu ̣c. Nhân
vâ ̣t nàng Hai trong truyê ̣n “Ta ̣o làng Hông và nàng Hai” suố t ngày phải làm nương nhưng chi ̣ dâu chỉ cho ăn khoai, thâ ̣m chí là vỏ khoai. Khi phát hiê ̣n nàng Hai đươ ̣c chim thần giú p đỡ, ngườ i chi ̣ dâu đã giết chim, nàng Hai gom lông chim đem chôn thì chỗ chôn mo ̣c lên mô ̣t cây rau dền, ngườ i chi ̣ dâu la ̣i chă ̣t cây rau dền để nấu ăn... rồ i số phâ ̣n run rủ i nàng Hai gă ̣p quỷ Dá Bài, suố t ngày bi ̣ nó rình râ ̣p ăn thi ̣t song nàng đã không chịu khuất phục. Bằng mưu trí củ a mình, nàng Hai đã giết chết Dá Bài, cuố i cù ng là tìm đươ ̣c ta ̣o làng Hông và gia đình ho ̣ có mô ̣t cuô ̣c số ng ha ̣nh phú c, no ấm.
Bằng những hình tượng nhân vật gần gũi với cuộc đời thực, truyện cổ tích của
dân tộc Thái ở Mai Châu trình bày lý tưởng của nhân dân về một xã hội dân chủ,
trong đó những người dân lương thiện, nghèo khổ, hiền lành, tốt bụng sẽ được hưởng
hạnh phúc xứng đáng với đạo đức và tài năng của họ… Truyện “U Thền” kể về nhân
vật U Thền khi còn nhỏ đã có phẩm chất củ a mô ̣t dũng sỹ, mă ̣c dù sinh ra trong hoàn
cảnh hết sứ c éo le: me ̣ bi ̣ đem bỏ vào trong rừ ng vớ i đôi mắt mù lò a, song U Thền đã
giúp mẹ vượt qua được những khó khăn, nguy hiểm nơi rừng sâu nướ c đô ̣c; không những thế, chàng cò n tìm cách vào tâ ̣n hang ổ củ a mườ ng quỷ, ho ̣c đươ ̣c phép thuâ ̣t của chúng, lấy đươ ̣c báu vật củ a chú ng. Chàng giết hết bo ̣n quỷ đô ̣c ác rồ i quay trở về
trần gian, tìm giết quỷ Khằ m Ca là nguyên nhân gây ra những đau khổ , cực nhục củ a
me ̣ mình và khiến cho cả mườ ng bi ̣ bê ̣nh tâ ̣t. Chàng giết Khằ m Ca, dù ng phép thuâ ̣t
làm cho mắ t me ̣ sáng la ̣i và dân mườ ng hết bê ̣nh tâ ̣t.
Ở tiểu loa ̣i truyê ̣n cổ tích về loài vâ ̣t có truyê ̣n “Khỉ và Cào Cào” phản ánh cuô ̣c đấu tranh giữa những nhân vâ ̣t bé nhỏ vớ i những kẻ to lớ n, hố ng hách. Những con khỉ đã
ngang ngược đuổ i đàn cào cào đi, không cho chú ng kiếm ăn ở nơi chú ng sinh số ng.
Những tưở ng đàn cào cào yếu ớ t sẽ phải nhẫn nhu ̣c bỏ đi song không phải như vâ ̣y, cào
cào đã dũng cảm lên tiếng bảo vê ̣ quyền lợi củ a mình bằ ng cách sẵn sàng chiến đấu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 30
Bằ ng mưu me ̣o củ a mình, đàn cào cào đã khiến cho cả lũ khỉ to xác nhưng ngu ngố c, hữu dũng vô mưu chết không cò n mô ̣t mố ng. Truyê ̣n đề cao mơ ướ c có mô ̣t cuô ̣c số ng
công bằ ng, phản đố i áp bứ c bất công trong xã hô ̣i, đồ ng thờ i đưa ra mô ̣t tuyên bố củ a những ngườ i dân nghèo thấp cổ bé ho ̣ng: có áp bứ c thì tất sẽ có đấu tranh, và cuô ̣c đấu tranh củ a ngườ i Thái sẽ là cuô ̣c đấu tranh quyết liê ̣t, không khoan nhượng.
2.2.2.3. Lý giải những xung đột cơ bản trong gia đình và ngoài xã hội
Truyện cổ tích dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu phản ánh và lý giải những
xung đột, mâu thuẫn trong gia đình. Những mâu thuẫn này thường mang tính chất
riêng tư nhưng lại phổ biến trong xã hội có giai cấp với những xung đột cơ bản như
xung đột giữa anh em trai (Con cầy biết hát), xung đột giữa chị dâu em chồng (Tạo
làng Hông và nàng Hai), xung đột giữa dì ghẻ con chồng (U Thền)…
Truyện “Con cầy biết hát” kể về hai anh em mồ côi cha mẹ sớm, người anh
tham lam chiếm hết tài sản, chỉ để cho người em một mảnh vườn nhỏ. Một hôm hai
anh em bắt được hai con cầy, người anh tranh con to để giết thịt, người em đưa con
nhỏ về nuôi. Con cầy nhỏ của người em biết hát rất hay, nhờ tài đó nó giúp người em
có một gia tài lớn. Người anh tham lam biết vậy đến mượn con cầy nhưng do đối xử
với nó không tốt nên nó không giúp anh ta. Người anh tức giận giết cầy ăn thịt, người
em đến nhặt xương cầy đem về chôn và bộ xương mọc thành hai cây luồng lại giúp
anh làm giàu, người anh lại đến đòi mượn và lại gặp tai họa, anh ta lại chặt luồng...
Sau nhiều lần như vậy, người anh ốm chết.
Truyện “Con cầy biết hát” có mô-tip hơi giống truyện cổ tích “Cây khế”: cũng
hoàn cảnh hai anh em có bố mẹ mất sớm, người em hiền lành, nhường nhịn; người
anh tham lam, tranh giành... và kết quả là người anh bị trừng phạt. Đồng thời truyện
cũng có mô-tip rất gần với truyện Tấm Cám của dân tộc Kinh: qua nhiều lần tranh
cướp, người anh bị trừng phạt (chết), người em hưởng cuộc sống giàu có. Truyện cho
chúng ta thấy rằng quan niệm “ở hiền gặp lành” không phải của riêng dân tộc Kinh
mà là một quan niệm phổ biến chung của người Việt.
Ở truyện “Tạo làng Hông và nàng Hai”, những tình huống thể hiện mâu thuẫn
giữa chị dâu và em chồng tuy chưa phải là đấu tranh đến cùng mang tính chất một
mất một còn nhưng cũng đã rất rõ nét: chị dâu bắt em chồng đi làm nương hàng ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 31
nhưng chỉ cho ăn vỏ khoai, đến khi em chồng được chim thần giúp đỡ thì chị dâu giết
chim, em chồng gom lông chim về chôn rồi từ chỗ chôn lông chim mọc lên một cây
rau dền thì chị dâu lại chặt trộm cây rau dền để nấu ăn…
Mâu thuẫn dì ghẻ - con chồng là một dạng mâu thuẫn rất phổ biến mà xã hội,
dân tộc nào cũng có. Trong cổ tích Thái Mai Châu có truyện “U Thền” thể hiện mâu
thuẫn này. Khi cha là tạo mường lấy dì ghẻ, chính dì ghẻ đã xui tạo mường đẩy bà vợ
cả - khi đó đã bị dì ghẻ làm cho mù mắt - vào rừng sâu. Bà mẹ khốn khổ bụng mang
dạ chửa đã một mình sinh ra U Thền và nuôi nấng chú bé trong cảnh mù lòa. Nhưng
U Thền bằng sức khỏe và trí tuệ hiếm có của mình đã trở lại mường, rồi đã tương kế
tựu kế để được đi học các phép thuật ở mường quỷ. Chàng lập mưu giết hết bọn quỷ
rồi quay về trừng trị mụ dì ghẻ cũng vốn là một con quỷ. Sau khi cho cha mình tận
mắt nhận thấy dì ghẻ là một con quỷ trá hình, chàng đã tự tay giết nó. Cuối cùng là U
Thền dùng phép thuật để làm cho mắt mẹ mình sáng lại, cùng gia đình hưởng hạnh
phúc với bản mường.
Dù gắn với đề tài gia đình hay đề tài xã hội, ý nghĩa của truyện cổ tích dân
gian dân tộc Thái ở Mai Châu cũng rất sâu sắc. Nó phản ánh được những xung đột
giữa cái thiện và cái ác, xung đột giữa kẻ mạnh và người yếu, xung đột giữa người
giàu và người nghèo, xung đột giữa tầng lớp thống trị và người bị trị… trong một xã
hội phân chia giai cấp.
Truyện “Sự tích chàng trai Cha Long diệt muỗi chúa” kể về chuyện mẹ con
chàng dũng sỹ đã không chịu khuất phục trước con muỗi chúa hung bạo và tàn ác.
Hai người đã bàn mưu dùng khói và lửa giết chết muỗi chúa, trừ họa cho dân lành.
Truyện có mô-típ tương tự truyện “Thạch Sanh” của dân tộc Kinh, cũng có một quái
vật tàn ác chuyên bắt dân lành cống nộp người để ăn thịt, cũng có nhân vật chính
không chịu để bị ăn thịt mà đã chiến đấu và chiến thắng quái vật tàn ác, cũng có nhân
vật phụ cướp công của dũng sỹ… Tuy nhiên, kết thúc của truyện “Sự tích chàng trai
Cha Long diệt muỗi chúa” đơn giản hơn: kẻ cướp công của dũng sỹ không bị trừng
phạt, chàng trai vô tình trở thành giàu có khi tìm thấy nhiều vàng bạc trong dạ dày
của muỗi chúa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 32
Là truyện cổ tích về loài vật nhưng ra đời muộn hơn, truyện “Khỉ và Cào
Cào”, có sự giao thoa và mang dáng dấp của truyện ngụ ngôn. Trong đó những người
thấp cổ bé họng, những người bị thống trị đã dùng sức mạnh đoàn kết và sức mạnh trí
tuệ, sức mạnh chính nghĩa để chống lại những kẻ mạnh hống hách, hung hăng và bạo
ngược. Khi lũ Khỉ bắt đàn Cào Cào phải rời bỏ nơi Cào Cào đã sinh sống thì Cào Cào
đã quyết tâm chiến đấu chống lại Khỉ, dù Khỉ mạnh hơn gấp rất nhiều lần. Bằng bản
lĩnh và mưu mẹo, chính đàn Cào Cào mới là người chiến thắng, khiến lũ Khỉ chết
không còn một mống. Truyện cho ta thấy rằng: những người dân lao động Thái cũng
rất yêu quê hương, họ sẵn sàng chiến đấu chống lại bất kỳ kẻ thù hung bạo nào để bảo
vệ quê hương mình.
Truyện “Án nhà Khàm Khạc” thì hầu như giống y như truyện “Cóc kiện trời”
của dân tộc Kinh. Cũng có nhân vật chính là Cóc, các nhân vật phụ là Cáo, Hổ,
Ong… cốt truyện, tình tiết, diễn biến hầu như trùng khớp nhau. Điều này cho thấy sự
giao thoa văn hóa giữa dân tộc Thái và dân tộc Kinh là hết sức sâu sắc, chứng tỏ sự
gắn bó lâu đời về văn hóa giữa hai dân tộc anh em.
Trong truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu, mâu thuẫn trong xã hội phụ
quyền được thể hiện qua xung đột giữa nhân vật bề trên và bề dưới, đàn anh và đàn
em. Trong thực tế không phải người em, người con nào cũng tốt; người mẹ ghẻ,
người anh nào cũng xấu nhưng truyện cổ tích của người Thái Mai Châu có khuynh
hướng ca ngợi, bênh vực nhân vật “bề dưới”, “đàn em”; lên án nhân vật “bề trên”,
“đàn anh”. Điều này có nghĩa là dân tộc Thái đã thông qua truyện cổ tích để thể hiện
quan điểm chống lại cái bất công, vô lý của xã hội phụ quyền. Quay trở lại với truyện
“Con cầy biết hát”, chúng ta thấy diễn biến chung của loại chuyện này thường gồm
hoàn cảnh hai anh em (mồ côi cha mẹ); hai anh em chia gia tài (người anh chiếm đoạt
phần lớn tài sản); người em được lực lượng thần kỳ giúp đỡ; người anh gạ đổi gia tài
rồi bắt chước em lặp lại sự việc; người anh tham lam bị trừng phạt; người em được
hưởng hạnh phúc. Truyện thường đưa ra những tình thế tương phản nhằm khắc họa rõ
những nét tính cách đối lập nhằm tạo nên mâu thuẫn dẫn dắt câu chuyện một cách
hợp lý: người em nghèo nhưng lại không thiết tha đến của cải, còn người anh giàu có
thì lại tham lam vô độ. Nhằm biểu hiện những mâu thuẫn và những sự phức tạp của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 33
cuộc sống, tác giả dân gian thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật đắc dụng “nhắc lại”.
Sự nhắc lại có tác dụng nêu bật tâm lý của nhân vật này bằng cách đối chiếu tâm lý
với nhân vật khác. Đặt vào hoàn cảnh như nhau, người anh đã hành động trái ngược
hẳn với người em, một đằng thì giả dối tham lam, một đằng thì thực thà trung hậu và
cũng từ đó khiến nổi rõ tính cách, phẩm chất, đạo đức của hai nhân vật đối lập, qua
đó làm nổi bật phẩm chất của người em. Còn người anh - kẻ đã lợi dụng địa vị trong
gia đình phụ quyền để chiếm đoạt tài sản thừa kế của người em - là kẻ tham lam,
không cần cù lao động, có lòng tham vô đáy nên bị trừng phạt dẫn đến cái chết.
Nói rộng hơn, truyện cổ tích “Con cầy biết hát” của dân tộc Thái ở Mai Châu
còn là sự phản ánh tình trạng phân hoá tổ chức gia đình, xã hội; hình thành ý thức sở
hữu cá nhân, những xung đột về quyền lợi của thời kỳ đầu phân hoá giai cấp. Tình
trạng này đã khiến cho các mối quan hệ thân tình giữa những người ruột thịt và
những người cùng cộng đồng bị biến dạng, trở nên đối kháng. Các tác giả dân gian
giải quyết mâu thuẫn đó bằng phương pháp tiên nghiệm: những người nghèo, tốt,
hiền lành, lương thiện… sẽ được giàu sang; những kẻ xấu, gian ác, bất lương… sẽ bị
trừng trị.
2.2.2.4. Đề cao trí tuệ dân gian, ca ngợi cách ứng xử thông minh, khéo léo
Thông qua những việc làm, những hành động, những ứng phó… trước những
hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống của các nhân vật, truyện cổ tích của người Thái ở
Mai Châu luôn đề cao vai trò của tư duy, của trí khôn, của sự thông minh…
Trước hết là ở loạt truyện cổ tích về loài vật, các tác giả dân gian Thái đã đồ
chiếu quan hệ xã hội loài người vào quan hệ của các con vật. Đó là những truyện cổ
tích ra đời muộn hơn nên thường có xu hướng ngụ ngôn, giao thoa từ truyện cổ tích
loài vật sang truyện ngụ ngôn. Thông qua những ứng xử, những hành động của người
thông minh, rồi đem đối lập với hành động của kẻ khờ dại, các tác giả dân gian đã
dựng lên một xã hội loài vật mang tính người. Loài vật đã được nhân cách hóa một
cách hồn nhiên và dí dỏm khiến cho câu chuyện pha lẫn yếu tố hài. Tiếng cười bật ra
khi ta chứng kiến sự ngu ngốc, kẻ ngu ngốc, sự thông minh, người thông minh,
những mẹo lừa và sự mắc lừa, sự thành công và sự thất bại của hai hạng người mang
danh động vật đó. Điển hình là truyện “Khỉ và Hổ”, mặc dù bị Khỉ lừa cho hết lần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 34
này đến lần khác nhưng con Hổ to xác và ngờ nghệch vẫn dại dột mắc lừa, rồi cuối
cùng bị Khỉ xả nước dìm chết ở dưới đập nước. Câu chuyện đã ca ngợi tài ứng đối, sự
nhanh nhẹn và linh hoạt trong ứng xử của chú Khỉ thông minh.
Một truyện cổ tích loài vật khác là “Khỉ và Cào Cào” cũng có giá trị tương tự,
nhưng lần này không phải là Khỉ mà những con Cào Cào bản lĩnh mới là đối tượng
được ca ngợi. Không phải bằng sức mạnh mà bằng sự nhanh nhẹn và trí tuệ của mình,
đàn Cào Cào đã giết sạch đàn Khỉ hống hách, trịch thượng và bảo vệ vững chắc địa
bàn sinh sống của mình.
Trong truyện cổ tích thần kỳ và cổ tích sinh hoạt của dân tộc Thái Mai Châu,
chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy rất nhiều những chi tiết thể hiện trí tuệ dân gian. Đó
là chi tiết chàng dũng sỹ dùng khói lửa diệt muỗi chúa trong “Sự tích chàng trai Cha
Long diệt muỗi chúa”; là chi tiết nàng Hai đã lừa quỷ Dá Bài suốt một thời gian dài
để được sống sót, rồi cuối cùng dùng mưu trí giết chết Dá Bài trong “ Tạo làng Hông
và nàng Hai”; là chi tiết U Thền lừa cả vua quỷ để học phép thuật rồi giết cả mường
quỷ, đem lại hạnh phúc cho người dân trong “U Thền”; là cách điều binh khiển tướng
đầy bản lĩnh và trí tuệ của chàng Cóc trong “Án nhà Khàm Khạc”… Tất cả chứng
minh một điều: những truyện cổ tích dân gian của dân tộc Thái luôn đề cao, ca ngợi
sự thông minh, cách ứng xử đúng đắn… trong cuộc sống; và do vậy, dân tộc Thái là
một dân tộc rất coi trọng trí tuệ.
2.2.2.5. Minh chứng dân tộc Thái là một dân tộc trọng tình nghĩa
Canh tác trên những cánh đồng rộng và quần cư trong thung lũng, sống trên
nhà sàn, người Thái Mai Châu có tính cách hiền hòa, thích sống yên bình, không
tranh chấp, chuộng lối sống tình cảm và rất trọng tình nghĩa, văn học dân gian nói
chung và truyện cổ tích nói riêng thể hiện rất rõ điều này.
Ở truyện “Sự tích chàng trai Cha Long diệt muỗi chúa”, người đọc không thể
quên chi tiết hai mẹ con chàng dũng sỹ tranh nhau đi nộp mạng cho muỗi chúa, người
con thương mẹ già nên đòi được chết, người mẹ vì thương con nên nhất quyết đòi đi,
hai mẹ con tranh nhau cả ngày rồi cuối cùng mới bàn đến chuyện quyết tâm đi diệt
muỗi chúa. Cũng nói về tình cảm mẹ con sâu nặng, truyện cổ tích Thái Mai Châu có
truyện “U Thền” kể chuyện từ bé U Thền đã biết đi kiếm thức ăn nuôi mẹ mù lòa, rồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 35
khi trưởng thành chàng đã học phép thuật để chữa cho mắt mẹ sáng lại để mẹ tiếp tục
hưởng cuộc sống hạnh phúc trong no đủ… Những chi tiết như vậy đã thể hiện tình
cảm mẹ con hết sức sâu nặng, không thể tách rời, họ sẵn sàng hi sinh tính mạng vì
nhau để cho người kia được sống của người dân Thái Mai Châu.
Truyện “Biến thành thuồng luồng” lại thành công trong việc mô tả tình cảm
anh em gắn bó thân thiết. Người em gái luôn nhường cho anh trai phần hơn. Khi
người anh vô tình ăn phải trứng thuồng luồng, anh đã bị biến thành thuồng luồng. Cô
em gái ngày nào cũng ra bờ suối khóc với anh, rồi cô lấy chiếc khăn hoa của mình
quấn vào cổ anh để phân biệt với những con thuồng luồng bình thường khác. Ba năm
lấy chồng, cô không hề cười nói vì thương nhớ anh. Chỉ khi có đủ trâu bò để làm tang
anh, cô mới òa khóc và nói trở lại. Câu chuyện chứng minh tình anh em gắn bó máu
thịt của những người dân Thái nghĩa tình.
Thể hiện tình yêu lứa đôi thắm thiết, chung thủy, truyện cổ tích Thái Mai Châu
cũng có những tình tiết xúc động: nàng Hai đã vượt bao nguy hiểm, phải cận kề cái
chết trong cuộc chiến đấu với quỷ Dá Bài để đến với tình yêu của tạo làng Hông; hay
chuyện nàng Như Ý đã quyết tâm vượt qua sự ngăn cản của cha mẹ để đến với tình
yêu đích thực của mình, để được sống hạnh phúc với người mình yêu.
2.2.3. Nghệ thuật truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu
2.2.3.1. Về cốt truyện
Truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu bao giờ cũng được kể theo một
đường thẳng, tuyến tính, sự kiện nào xảy ra trước kể trước, sự kiện nào xảy ra sau kể
sau. Cốt truyện thường được xây dựng theo một số sơ đồ kết cấu nhất định; trong khi
kết cấu truyện bao giờ cũng mang tính chất trọn vẹn, kể về toàn bộ sự việc, hoặc toàn
bộ số phận, cuộc đời của nhân vật chính, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc truyện.
Một đặc điểm nổi bật khác của truyện cổ tích dân gian dân tộc Thái Mai Châu
là tính chất hư cấu của câu chuyện kể. Nếu truyền thuyết có chứa đựng đôi chút lõi
lịch sử thì cổ tích là những chuyện hoàn toàn hư cấu. Tuy nhiên những truyện cổ tích
Thái đều chứa đựng những ý nghĩa, những bài học đạo đức, những kinh nghiệm
sống… cho mọi người, giúp người ta sống tốt hơn, lạc quan hơn, có khát vọng vươn
lên trong cuộc sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 36
2.2.3.2. Về nhân vật
Nhân vật trong truyện cổ tích Thái Mai Châu là nhân vật chức năng, chưa
được cá thể hóa, tâm lý hóa. Do dung lượng của luận văn bị hạn chế nên có thể chia
thành hai loại nhân vật cơ bản, đó là nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Những nhân vật chính diện thường là người anh hùng, chàng dũng sỹ, người
em, người mồ côi… Xây dựng nhân vật chính diện, truyện cổ tích Thái Mai Châu
thường có chủ định đặt nhân vật trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ và vô vàn thách
thức khắc nghiệt để từ đó khẳng định phẩm chất đáng quý của kiểu nhân vật này. Mỗi
nhân vật một vẻ, một số phận khác nhau. Phẩm chất được bộc lộ qua hành động.
Trong suốt các truyện hầu hết phẩm chất đạo đức của nhân vật không thay đổi.
Các kiểu nhân vật phản diện thường là quan lại, người giàu có, người anh,
người dì ghẻ… Những nhân vật này luôn luôn luôn đối lập với nhân vật người em,
người mồ côi, người con dâu về phẩm chất đạo đức, số phận. Nếu như trong diễn biến
câu chuyện, các nhân vật chính diện bị nhân vật phản diện ức hiếp, bóc lột, hãm hại
thì khi kết thúc truyện hầu như các nhân vật chính diện lại được hưởng cuộc sống
hạnh phúc, giàu sang, no đủ, được dân gian đề cao, ca ngợi còn các nhân vật phản
diện bị trừng phạt thích đáng: mất hết của cải, có khi mất cả tính mạng và bị lên án,
phê phán mạnh mẽ.
2.2.3.3. Yếu tố thần kỳ
Yếu tố thần kỳ có vai trò quan trọng trong truyện cổ tích, đặc biệt là truyện cổ
tích thần kỳ. Trong quá trình xây dựng truyện cổ tích, các tác giả dân gian dân tộc
Thái ở Mai Châu đã sử dụng yếu tố thần kỳ để giải quyết và thực hiện tất cả những
ước mơ, nguyện vọng về một xã hội tươi đẹp. Mỗi khi nhân vật ở vào thế bế tắc, nếu
không thể tự thân khắc phục thì yếu tố thần kỳ sẽ xuất hiện. Lực lượng thần kỳ hay
người trợ giúp thần kỳ một mặt tượng trưng cho kiến thức, sự chín chắn, kiến giải
sáng suốt, trí tuệ và sức mạnh, mặt khác cũng tượng trưng cho đạo đức, những nết
đẹp như hiền lành, tốt bụng, sẵn sàng giúp đỡ người tốt, bênh vực kẻ yếu, trừng phạt
kẻ ác…
Những đặc điểm này khiến tính cách nhân vật, yếu tố tư tưởng của truyện cổ
tích được bộc lộ rõ rệt. Sự xuất hiện yếu tố thần kỳ trong truyện cổ tích đáp ứng nhu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 37
cầu tâm lý của chính người dân Thái sống trong thời đại của câu chuyện. Yếu tố thần
kỳ là những lực lượng biến hoá khôn lường, có thể đáp ứng được mọi nhu cầu trợ
giúp hay trừng phạt, ban thưởng hay tước đoạt. Nó chính là sự thể hiện một cách sinh
động, phong phú thông qua sức tưởng tượng của tác giả dân gian, tạo nên tính hấp
dẫn cho tất cả các câu chuyện cổ tích.
Yếu tố thần kỳ trong truyện cổ tích dân tộc Thái Mai Châu thường rất cụ thể, đó
là thầy Sài Thiên trong truyện “U Thền”, quỷ Dá Bài trong “Tạo làng Hông và nàng
Hai”, là chiếc đũa thần… Đây chính là kết quả của sự kết hợp giữa nhu cầu tâm lý chung
và tôn giáo tín ngưỡng riêng của dân tộc Thái sống trên địa bàn huyện Mai Châu.
2.2.3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật
Không giống với thần thoại và truyền thuyết, trong truyện cổ tích dân gian
Thái, các tác giả dân gian không có ý thức trong việc xác định cụ thể các yếu tố thời
gian và không gian nghệ thuật.
Thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích Thái Mai Châu bao giờ cũng là dòng
chảy của chuỗi hành động của nhân vật chính và bao giờ cũng là thời gian của quá
khứ. Nó chậm chạp hay gấp gáp đều do nhịp điệu của những hành động của nhân vật
chính quy định. Thời gian trong truyện cổ tích không xác định và thường được mở
đầu rằng những câu chuyện xảy ra cách nay đã lâu, thuộc về quá khứ xa xôi. Trong
truyện cổ tích Thái thường có những mô típ như: “Ngày xưa…”, “Truyện đời xửa,
đời xưa …”. Thời gian của truyện là dòng chảy liên tục, trong đó diễn ra chuỗi hành
động của nhân vật chính, trong đó nhân vật sinh ra, lớn lên, hoạt động và kết thúc
bằng sự thay đổi số phận.
Không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích Thái là một không gian rộng lớn
trong đó các tác giả dân gian tin rằng có sự tồn tại ba tầng thế giới: thế giới trên trời,
thế giới trên mặt đất và thế giới dưới mặt đất. Nhân vật của truyện cổ tích Thái hành
động trong thế giới rộng lớn đó, nhân vật có thể lên cõi trời hoặc có thể xuống dưới
mặt đất như U Thền, chàng Voi nhỏ, Án nhà Khàm Khạc; cũng có thể xuống Thủy
phủ như cô gái chăn vịt; hoặc từ Thủy cung lên như chàng con vua Thủy tề.... Cũng
giống như truyện cổ tích nói chung, không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích Thái
Mai Châu thường mang tính phiếm chỉ ước lệ mà không phải là những địa danh cụ
thể rõ ràng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 38
2.3. Truyện cười
Truyện cười dân gian ra đời và phát triển cùng với quá trình lao động sản xuất
và đời sống nhân dân. Không chỉ đem lại tiếng cười mua vui cho thiên hạ để cho họ
giải tỏa những mệt nhọc, vất vả sau một ngày lao động tích cực mà truyện cười còn
có tác dụng phê phán, châm biếm, mỉa mai các thói hư tật xấu của con người. Vì vậy
truyện cười được xem như là một thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh chống lại những bất
công, những thói hư tật xấu trong xã hội. Bên cạnh đó, truyện cười còn thể hiện sự
thông minh, tư duy sâu sắc của những con người có trí tuệ, có khả năng giao tiếp
nhanh nhạy, sắc sảo.
Truyện cười được phân biệt với các thể loại truyện dân gian khác bởi yếu tố
gây cười. Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, giáo sư Đinh Gia Khánh viết:
“ Truyện cười, nói một cách đơn giản, là truyện làm cho người ta cười (...). Trong
truyện cổ tích cũng đã có nhiều yếu tố gây ra tiếng cười (...). Song tiếng cười ở đây
chỉ có vai trò điểm xuyết, làm cho truyện thêm duyên dáng, đậm đà mà thôi chứ
không chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển của truyện. Giữa truyện ngụ ngôn và
truyện cười thì có sự thâm nhập sâu hơn. Một số truyện vừa có thể coi là truyện ngụ
ngôn mà lại vừa có thể coi là truyện cười (...). Tuy nhiên, truyện ngụ ngôn không
nhằm mục đích gây ra tiếng cười. Truyện cười trái lại bao giờ cũng nhằm mục đích
ấy. Đằng sau mục đích gây ra tiếng cười có thể còn mục đích khác sâu sắc hơn.
Nhưng trước hết phải đạt mục đích gây cười đã”. [12, tr.362]
Về khái niệm truyện cười, các nhà nghiên cứu văn học trong và ngoài nước
có những ý kiến khá thống nhất. Về cơ bản, truyện cười là những truyện kể dân gian
xây dựng và phát hiện tình huống xung quanh các hiện tượng trái lẽ thường, trái tự
nhiên được che đậy bằng một hình thức tốt đẹp giả tạo để tạo nên tiếng cười cho
người nghe.
Như vậy, truyện cười là hình thức tự sự dân gian dựa trên cơ sở cái đáng cười
để tạo ra cái cười có mục đích nhất định, gắn với nội dung xã hội và nhận thức của
con người. Tiếng cười trong truyện cười bật ra khi chúng ta phát hiện ra cái đáng
cười, hay nhận thức được bản chất của tình huống gây cười.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 39
Các truyện cười dân gian Thái chứng tỏ người Thái là một dân tộc lạc quan, dù
trong cuộc sống còn nhiều vất vả khó khăn nhưng thường nhìn đời bằng con mắt,
bằng tâm trạng vui vẻ. Đồng thời người Thái Mai Châu cũng biết nhìn vào những
khiếm khuyết của mình để châm biếm, nhằm mục đích điều chỉnh mình, làm cho
mình ngày càng hoàn thiện hơn.
2.3.1. Phân loại truyện cười của dân tộc Thái ở Mai Châu
Trong truyện cười dân gian dân tộc Thái có nhiều truyện nằm ở ranh giới giao
thoa với các thể loại hoặc tiểu loại văn học dân gian khác. Trường hợp giao thoa với
tiểu loại cổ tích sinh hoạt như loạt truyện về nhân vật ngốc nghếch Bố Cù, hoặc
truyện “Ma cà rồng”; giao thoa với tiểu loại cổ tích loài vật với truyện “Khỉ và Hổ”...
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào đặc điểm thi pháp thì về cơ bản có thể chia thành hai loại:
2.3.1.1. Truyện cười không kết chuỗi
Tiểu loại này gồm những truyện cười có kết cấu độc lập, khép kín và hoàn
chỉnh. Mỗi truyện kể về những nhân vật, những tình huống khác nhau.
Điển hình cho tiểu loại này có các truyện “Cài lẫy bậy sập”, “Thịt ướp chua”,
“Hôm nay tôi ăn gì”, “ Thổi mắt dê”...
2.3.1.2. Truyện cười kết chuỗi
Tiểu loại này là những câu chuyện xoay quanh nhân vật Xự Phong, một nhân
vật nghèo khổ, phải đi ở cho nhà giàu. Mỗi chuyện xung quanh nhân vật này có tính
độc lập tương đối, đồng thời kết cấu của chúng lại tương đối mở để có thể tạo ra mối
liên hệ với những mẩu chuyện khác trong loạt truyện Xự Phong.
2.3.2. Nội dung truyện cười dân tộc Thái Mai Châu
2.3.2.1. Đem lại tiếng cười hài hước, giúp mọi người giải trí sau những ngày lao
động mệt nhọc
Trong cuộc sống, nhu cầu giải trí của con người luôn thường trực. Vào thời mà
các phương tiện giải trí còn chưa phát triển thì cách thức đơn giản nhất là kể cho nhau
nghe về những câu chuyện, những tình huống hài hước trong cuộc sống. Vì vậy, để
giảm bớt mệt mỏi trong công việc, tránh áp lực trong cuộc sống, người dân Thái kể
lại những tình huống hài hước. Những câu chuyện không có ác ý mà tạo ra không khí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 40
vui tươi, cởi mở giữa những người dân lao động, giúp họ tìm được niềm vui và có
được những bài học góp ý nhẹ nhàng, tinh tế.
Truyện “Hôm nay tôi ăn gì?” kể về một anh chàng cố chấp. Khi một con
hoẵng chẳng biết vì lý do gì lao ngày vào chuồng gà và bị anh ta bắt được, anh đã rất
hí hửng và chắc chắn có thịt hoẵng ăn. Nhưng để thử tài ông thầy bói hàng xóm, anh
đã sang nhà ông thầy và đề nghị ông ta bói xem hôm nay anh ta sẽ ăn món gì, không
ngờ bị ông thầy phán: “ Hôm nay anh ăn “cái ấy” của vợ anh”. Tức giận, anh ta lẳng
lặng cùng vợ bắt hoẵng làm thịt, nhưng không ngờ để hoẵng vuột thoát mất; vẫn cay
cú, anh bắt gà làm thịt để mời ông thầy sang ăn, nhưng chị vợ lại lúng túng đánh đổ
cả mâm thịt khiến chó mèo xông vào cướp hết. Tiếng cười bật ra trong nhiều tình
huống truyện: tình huống vợ chồng anh lóng ngóng để hoẵng chạy mất, tình huống
anh vẩy mạnh ngón tay đập vào cầu thang, tình huống chó mèo lao vào tranh cướp
thịt gà... Nhưng tiếng cười lớn nhất, mang tính chất tổng hợp là tiếng cười công nhận
ông thầy bói nói đúng: dù rất cố gắng, nhưng hôm ấy anh chẳng được ăn gì, chỉ được
một cái mút tay.
Tiểu loại truyện cười hài hước của dân tộc Thái ở Mai Châu hoàn toàn chỉ có
chức năng giải trí, gây cười nhằm mục đích mua vui, đơn giản là chỉ để giải trí chứ
không tố cáo một cái gì lạc hậu, xấu xa, phản động… Người ta cười cho vui cửa, vui
nhà, vui anh, vui em. Nó được kể ra như nhằm thể dục trí tuệ. Nó vui tươi, nhẹ nhàng,
có khả năng giáo dục những tình cảm trong sáng, tốt lành, bồi dưỡng tinh thần sảng
khoái, mang lại cho con người niềm lạc quan, yêu đời. Truyện “Thổi mắt dê” - một
truyện rất giống truyện cười “Vừa buồn cười vừa sợ” của dân tộc Kinh - là một
truyện như vậy. Ông bà nọ có cô con gái rất xinh đến tuổi lấy chồng. Ông bà chẳng
đòi hỏi chàng rể tương lai phải giàu có, phải địa vị… mà chỉ yêu cầu họ làm cho ông
bà một phen vừa tức vừa buồn cười thì sẽ gả con gái cho. Một chàng trai trẻ láu lỉnh
đã thiết kế cho họ một đêm kinh hoàng: cô con gái thì tưởng mình đẻ con, bà mẹ thì
ngồi phải sừng dê, ông bố thì tự mình đập tan rổ bát và ngã cầu thang tưởng thọt cả
dái lên cổ… Sáng ra, khi nhận ra tình huống buồn cười mà cả nhà vừa trải qua, ông
bảo bà “ Thôi mình gả con gái cho nó, bà ạ”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 41
Về những tình huống hiểu nhầm trong cuộc sống, người đọc sẽ thực sự thích
thú với những tình huống trong truyện “Cài lẫy bẫy sập”. Người Thái có tục ở rể, khi
trai gái tìm hiểu nhau đã chín, người con trai sẽ đến ở rể ở nhà cô gái vài ba năm.
Trong thời gian này, bố mẹ cô gái sẽ thông qua công việc để xem anh ta là người như
thế nào, chăm chỉ hay lười biếng, giỏi giang hay vụng về, có biết ứng xử hay
không… Trong truyện “Cài lẫy bẫy sập”, chàng trai Thái được bố đưa vào rừng để
cài lẫy cho các bẫy sập ông đã đặt trước đó, vấn đề là anh chưa biết cài bẫy, khi anh
hỏi bố là cài như thế nào thì bà mẹ lại trả lời tranh “Bố làm như thế nào thì con cứ
làm như thế”. Mọi rắc rối xuất phát từ việc chàng trai sợ mẹ vợ quá nên chấp hành
tuyệt đối câu nói của bà: thấy bố vợ yêu cầu được thổi mắt (do bùn bắn vào) anh cũng
đòi được thổi mắt, cành tre ngoắc mất cái khăn đội đầu của bố vợ, anh cũng tháo
khăn đội đầu của mình ngoắc vào cành tre. Cao trào là tình huống bố vợ vì tức giận
mẹ vợ (do câu bà dặn đã gây ra nhiều rắc rối) nên đã đá bà ngã nhào xuống cầu thang.
Chàng trai thấy mẹ vợ bị ngã đau như thế nên vội vàng chạy đến, dìu bà lên nhà.
Người đọc tưởng câu chuyện kết thúc ở sự hiếu thảo này của chàng rể; nhưng không,
tiếng cười thực sự sảng khoái, tiếng cười lớn còn giấu ở cuối chuyện: chàng rể vẫn
tuyệt đối “thấy bố làm gì thì làm như thế”, vì vậy khi vừa đưa mẹ vợ lên trên nhà, anh
lại đá mạnh khiến bà lộn cổ xuống cầu thang một lần nữa.
Tóm lại, những truyện hài hước của dân tộc Thái kể về những tình huống buồn
cười do chẳng may, do hiểu lầm, do hớ hênh… mà thường tình, ai cũng có thể mắc
phải hoặc do những nhược điểm, những khuyết tật không gây tổn hại đến ai. Đó là
những truyện có tính giải trí cao, các nhược điểm của nhân vật là thông thường hoặc
vô tình, có thể thông cảm và châm chước dễ dàng; đồng thời sự giáo dục trong những
truyện này cũng nhẹ nhàng, tạo nên không khí vui tươi, hồn nhiên, sảng khoái cho
người nghe.
2.3.2.2. Châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội
Trong tiểu loại truyện cười châm biếm, đả kích, truyện cười dân gian Thái Mai
Châu có thể được chia thành hai loại nhỏ:
- Truyện cười những thói xấu “thông thường” ở những người bình dân bộc lộ
ở những hành vi buồn cười trong sinh hoạt của họ: Loại truyện này kể về những nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 42
vật không có tên riêng, cũng ít khi có thành phần, địa vị xã hội cụ thể, mà chỉ được
định danh bằng những khuyết tật, nhược điểm hay tính cách đáng cười. Đó là tiếng
cười giáo dục hướng vào những thói hư tật xấu trong sinh hoạt thường ngày của nhân
dân như lười nhác, tham lam, ăn vụng… Điển hình cho loại truyện cười này có truyện
“Ma nhà đuổi ông mo”. Truyện kể về anh con rể lười biếng mà lại tham ăn. Khi bố vợ
nhìn thấy con diều hâu liền bảo anh về lấy súng để bắn, do lười nên anh ta gàn “Bắn
cũng không trúng đâu”, bố vợ bực mình tự mình về lấy súng bắn chết con diều hâu
rồi anh ta đi nhặt, anh ta lại không đi với lí do “Con không ăn thịt diều hâu”. Bố vợ
đành phải tự đi nhặt diều hâu về làm thịt, nấu lên rồi để dành đến mai mới ăn. Nửa
đêm anh chàng thèm quá, nghĩ đến nồi thịt diều hâu mà không thể ngủ được, anh ta
liền trở dậy mò vào bếp ăn vụng. Thịt diều hâu ngon đến mức ăn hết cả nồi mà vẫn
thèm, anh ta liền chui cả đầu vào nồi mà liếm. Vấn đề là lúc chui vào thì được, nhưng
lúc rút đầu ra thì mắc. Loay hoay đến gần sáng mà vẫn không thể rút đầu ra được, anh
ta đành chui vào trốn sau bàn thờ. Lúc thầy mo đến cúng cơm mới nhìn thấy cái đầu
tròn vo và đen xì thì hét lên “Ma” rồi bỏ chạy thì anh chàng cũng chạy, cái nồi đất va
vào cột vỡ tan…
Tuy không gay gắt và quyết liệt như tiếng cười châm biếm, đả kích dành cho
giai cấp thống trị nhưng xét về tác dụng và sức sống thì bộ phận truyện cười mang
tính phê bình nội bộ này cũng rất quan trọng. Nó giúp mỗi người tự nhận thức và điều
chỉnh những suy nghĩ, lời nói, hành động của mình cho phù hợp, được cộng đồng
chấp nhận. Truyện “Thịt ướp chua” cũng phê phán thói ăn vụng của một anh con rể.
Mặc dù rất muốn ăn thịt chua nhưng anh ta lại khách khí xác nhận là không ăn được
thịt chua. Đêm đến, khi đi ăn vụng thịt, anh được người bạn chỉ cho cách quay về
đúng chỗ nằm của mình bằng cách lấy dây buộc vào chân. Nhung người bạn tai quái
đã lừa bằng cách lần sang buộc đầu dây còn lại vào chân mẹ vợ anh ta. Khi quay trở
về, anh ta chui vào nằm cạnh mẹ vợ mà lại tưởng là nằm cạnh người bạn nên còn ghé
tai khen thịt chua ngon quá. Bà mẹ vợ tỉnh dậy làm anh ta xấu hổ tháo chạy không
kịp cởi bỏ cái dây buộc ở chân, khiến mẹ vợ bị kéo kêu ầm ĩ. Kết quả là anh chàng
xấu hổ không dám quay trở lại nhà vợ nữa.
- Truyện cười châm biếm, đả kích những thói xấu thuộc về bản chất, bộc lộ
chủ yếu trong những hành vi buồn cười của các nhân vật tiêu biểu của xã hội phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 43
kiến như quan lại, địa chủ: Ở loại truyện cười này, các tác giả dân gian Thái không
những đem lại tiếng cười mà còn tác động vào nhận thức, vào tình cảm của chúng ta,
làm cho ta có thể vui, có thể buồn, có thể phẫn nộ, căm ghét, khinh bỉ, đau xót...
thông qua những tình tiết của loạt chuyện kể về hai nhân vật Án Nhà và Xự Phong.
Trong xã hội phong kiến của người Thái xưa, Án Nhà vốn là một chức quan
lại bậc trung (dưới chức tạo mường). Còn Xự Phong thì tương truyền là người dân
thường ở Mường Mộc (Mộc Châu ngày nay). Án Nhà mường Mộc cho theo hầu
người con gái đi lấy Án Nhà mường Pa (một vùng của huyện Mai Châu ngày nay).
Lúc đầu Xự Phong rất ngoan ngoãn, được Án Nhà mường Pa tin cậy.
Một lần Án Nhà mường Pa bảo Xự Phong nếu lấy được thanh kiếm chuôi ngà
voi của Án Nhà Mường Mộc cho ông ta thì nhỡ có tội ông ta cũng tha, bị bắt vạ ông
ta cũng không phạt. Xự Phong đã dùng mưu mẹo lấy được thanh kiếm của Án Nhà
mường Mộc đem xuống cho Án Nhà mường Pa. Từ đó Án Nhà mường Pa phải giữ
lời cam kết không bắt tội Xự Phong. Hơn nữa, Xự Phong cũng rất lanh lợi, nhanh
nhẹn, vui vẻ, hài hước... nên dù nhiều lần xỏ xiên Án Nhà mường Pa nhưng ông ta
vẫn giữ làm hầu cận bên mình. Điều này khiến cho Xự Phong có dáng dấp như nhân
vật Trạng Quỳnh trong truyện cười của người Kinh. Và cũng như Trạng Quỳnh, lai
lịch của Xự Phong cũng chỉ là tương truyền, đồn đại trong dân gian chứ không phải là
lai lịch chính thống.
Lẽ ra quan hệ giữa Án Nhà và Xự Phong đã hết sức tốt đẹp nếu Án Nhà không
càng ngày càng bộc lộ thêm những thói xấu của quan lại. Trong truyện “Mong ước”,
khi Xự Phong hỏi Án Nhà đang mong gì, ông ta đã trắng trợn đến mức hồn nhiên nói
rằng đang mong có người mắc tội để được xử phạt, lấy tiền, lấy rượu thịt... Làm quan
mà lại mong dân phạm tội để được uống rượu. Ý nghĩ này của Án Nhà khiến Xự
Phong rất tức giận, vì vậy khi Án Nhà hỏi Xự Phong mong gì thì anh ta trả lời là
mong cho Án Nhà chết đi, chết ngay bây giờ. Mong ước của Xự Phong - người đại
diện cho nhân dân lao động nghèo khổ, vất vả - có lẽ là chính đáng trước một viên
quan có tư tưởng cai trị như Án Nhà.
Xự Phong cũng đã dành cho những kẻ tham tiền một bài học thích đáng.
Truyện “Nhà tôi mua tôi đốt” kể về việc Xự Phong đã dạy một viên Án Nhà khác như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 44
thế nào. Một lần đi cống nộp, Xự Phong cùng đoàn dân phu của mình đến một bản
khi trời đã tối, anh ta xin ở nhờ nhưng bản không cho, rồi Án Nhà của bản đó đòi bán
lại cho Xự Phong một cái nhà hoang với giá ba đồng bạc trắng. Xự Phong nhất trí
mua để giải quyết chỗ ở cho những người dân phu tá túc qua đêm. Nhưng rồi sáng
mai dậy Xự Phong tuyên bố với làng “Nhà tôi mua tôi đốt”. Những người đã từng
sống trong các bản Thái đều biết rằng người Thái sợ nhất là bị cháy nhà, những nhà
sàn Thái cao như nhà hai tầng, làm bằng những vật liệu dễ cháy, các nhà lại ở gần
nhau san sát, nên đã cháy là cháy cả làng. Vì vậy, khi Xự Phong tuyên bố “Nhà tôi
mua tôi đốt” thì Án Nhà đã hoảng sợ xin trả lại tiền, đồng thời nhận được một bài học
đích đáng về thái độ đối xử với khách và thói tham lam.
Như vậy, truyện cười châm biếm, đả kích của người Thái Mai Châu có đối
tượng chủ yếu là tầng lớp quan lại, những người vốn được xã hội trọng vọng và vốn
tự coi mình là tầng lớp trên uy nghi, đạo mạo. Đó là những kẻ luôn sử dụng quyền lực
để áp chế nhân dân nhưng bản thân thì chứa đựng đầy rẫy những điều tầm thường,
xấu xa. Các hình thức văn chương chính thống khác có thể phải kiêng dè, tránh đả
động đến chúng nhưng truyện cười châm biếm, đả kích dân gian dân tộc Thái đã coi
tầng lớp quan lại là những mục tiêu để đấu tranh, để phê phán, để bóc trần những thói
hư tật xấu của chúng, để biến chúng thành những trò cười.
2.3.3. Nghệ thuật truyện cười dân tộc Thái Mai Châu
2.3.3.1. Kết cấu
Truyện cười dân gian Thái không kể lại số phận, cuộc đời của nhân vật như
trong truyện cổ tích. Nó chỉ là một lát cắt ngang trong cuộc đời của nhân vật, trong đó
dứt khoát phải có một hoặc những tình huống gây cười. Các câu chuyện đã làm cho
cái đáng cười tự nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sinh động; thường là rất tự nhiên và bất
ngờ. Khi tiếng cười nổ ra là lúc chuyện kết thúc.
Các truyện cười dân gian Thái thường được cấu tạo hết sức chặt chẽ và giàu
kịch tính. Mỗi câu chuyện có dáng dấp như một màn hài kịch nhỏ gồm ba phần: Giới
thiệu màn kịch có mâu thuẫn tiềm tàng, mâu thuẫn tiềm tàng phát triển tới đỉnh điểm
và giải quyết mâu thuẫn.
Hầu hết các truyện cười dân gian Thái đều có dạng kết cấu này. Truyện “Thổi
mắt dê” chứa mâu thuẫn tiềm tàng trong giao ước kỳ quặc của bố mẹ cô gái: chỉ cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 45
chàng trai nào làm cho ông bà vừa tức vừa buồn cười là họ sẽ gả cô con gái xinh đẹp
cho; mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm khi cả nhà ông bà bị đưa vào những tình
huống kinh hoàng; và cuối cùng là việc giải quyết mâu thuẫn với cái chép miệng của
ông “Xem ra ta phải gả con gái cho nó thôi bà ạ”. Truyện “Thịt ướp chua” chứa mâu
thuẫn tiềm tàng giữa ước muốn được ăn thịt chua với tính sĩ diện của chàng trai; mâu
thuẫn lên đến đỉnh điểm trong tình huống con rể chạy quáng quàng lôi theo cả mẹ vợ
bằng cái dây buộc ở chân hai người; mâu thuẫn được giải quyết bằng việc chàng trai
chẳng bao giờ dám đến nhà mẹ vợ nữa. Truyện “Bắt cua” có mâu thuẫn chứa đựng
trong việc lúc nào Xự Phong cũng mong muốn chơi xỏ Án Nhà; đỉnh điểm là Xự
Phong đốt mông Án Nhà; mâu thuẫn được giải quyết với việc Án Nhà rút được tay ra,
nhưng tay thì sưng vù vì bị cua cắp, còn mông thì bỏng rát vì bị Xự Phong đốt…
2.3.3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
* Nhân vật được đặt vào trong tình huống gây cười
Nhân vật trong cả truyện hài hước và nhân vật của truyện châm biếm dân gian
Thái đều được đặt vào cùng một loại hoàn cảnh - đó là hoàn cảnh sinh hoạt đời
thường, nhưng là hoàn cảnh đáng cười. Đó là loại hoàn cảnh chứa mâu thuẫn, là môi
trường để nuôi dưỡng và làm bật lên tiếng cười.
Ở nhiều truyện cười, hoàn cảnh đáng cười được giới thiệu vắn tắt ngay ở đầu
truyện. Đó là hoàn cảnh ẩn chứa mâu thuẫn, là nguyên nhân dẫn nhân vật đến với tình
huống đáng cười trong truyện. Truyện “Mong ước” là một ví dụ: Án Nhà hỏi Xự
Phong về mơ ước hiện tại của bản thân, Xự Phong nói rằng chỉ mong Án Nhà chết
ngay đi. Hoàn cảnh này ẩn chứa một mâu thuẫn: hai người đang ngồi nói chuyện thân
mật, thế mà một người lại mong người kia chết đi. Nghịch lí này dẫn người nghe tới
sự ngạc nhiên hết mức vì chẳng bao giờ người Việt lại có cách xử sự như vậy. Vì thế
họ có một suy nghĩ rằng tất yếu sẽ có trò cười thú vị nếu để tâm theo dõi diễn biến
tiếp theo của câu chuyện.
Thường thì truyện cười dân gian Thái có hoàn cảnh đáng cười nằm trong chính
là tình huống đáng cười. Truyện “Nhớ Án Nhà” cũng được xây dựng trong bối cảnh
Án Nhà và Xự Phong ngồi tâm sự với nhau, Án Nhà hỏi “Tao mà có đi đâu xa nhà thì
mày có nhớ tao không?”, Xự Phong khẳng định là sẽ nhớ lắm, Án Nhà hỏi tiếp “Nhớ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 46
tao đến mức nào ?”, Xự Phong độp luôn “Dạ! Con nhớ Án Nhà còn hơn muốn đi đại
tiện ạ!”. Tình huống đáng cười đã xuất hiện, nhưng chưa thực sự dồn nén, tiếng cười
đã bật ra nhưng chưa thực sự lớn trước câu trả lời dở đùa dở thật của nhân vật Xự
Phong ranh mãnh. Do vậy, khi theo dõi tiếp chuyện, người ta mới bật tung tiếng cười
sảng khoái khi anh chàng Xự Phong láu lỉnh chứng minh cho Án Nhà thấy nhu cầu đi
đại tiện nó lớn lao và cấp thiết như thế nào.
* Lời nói, cử chỉ và hành động đáng cười
Lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật trong truyện cười dân gian Thái ở
điểm mở nút thường có tính chất kỳ quặc, trái tự nhiên nhưng lại được cắt nghĩa bằng
một lý lẽ có vẻ phù hợp.
Một số truyện cười đã lấy một lời nói không hợp lẽ thường để gây cười. Ví dụ
ở truyện “Nhớ Án Nhà” thì lời nói đó là “Con nhớ Án Nhà còn hơn muốn đi đại tiện
ạ!”, ở truyện “Mong ước” là câu “…con thì con mong Án Nhà chết”, còn ở truyện
“Cái này cũng là mồm ư?” chính là khi Xự Phong chỉ vào mồm mình và đặt ra câu
hỏi “Cái này cũng là mồm ư”…
Trong truyện cười dân gian Thái cũng có những truyện lấy một cử chỉ, một tư
thế hay một hành động trái lẽ thường để gây cười. Truyện “Án Nhà cũng lặn à?” là
một ví dụ: Xự Phong đã cố tình hiểu nhầm câu dặn “đừng để gần lửa” của Án Nhà
nên treo tít ống cơm lam của Án Nhà lên cành cây, khiến cho ống cơm không thể
chín được. Hậu quả là Án Nhà đói quá, không chịu nổi nữa nên phải ăn chính ống
cơm gạo xấu của Xự Phong.
Những hành động, cử chỉ tức cười, kì quặc, trái tự nhiên… của nhân vật khiến
cho tiếng cười bật lên thật giòn giã. Những truyện như “Ma nhà dọa ông mo”, “Đẽo
cây xà dọc nhà”, “Cài lẫy bẫy sập”… đều thuộc loại truyện trong đó cái đáng cười
chủ yếu là ở cử chỉ máy móc trái với tự nhiên.
* Tính cách đáng cười
Truyện cười dân gian Thái không chỉ nêu lên những hoàn cảnh, những lời nói,
những cử chỉ của nhân vật mà có khi còn lấy một tính cách để gây cười. Đó là những
tính xấu của con người thường bộc lộ trong cuộc sống được tác giả dân gian phát hiện
ra và thể hiện dưới con mắt hài hước, hóm hỉnh nhằm mục đích phê phán. Tất nhiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 47
những tính cách đáng cười này cũng được thể hiện cụ thể bằng những lời nói và hành
động máy móc, trái tự nhiên có khả năng gây cười. Ví dụ như các truyện “Ma nhà
dọa ông mo” kể về anh chàng rể cực lười và cực tham ăn, truyện “Thịt ướp chua” kể
về anh chàng có tính sĩ diện hão, truyện “Thổi mắt dê” kể về hai người có sở thích kỳ
lạ là thích được sợ… Ở truyện cười dân gian Thái, gây cười là mục đích của mỗi bản
kể nên việc đặt nhân vật vào trong tình huống gây cười, đặc tả lời nói, hành động
thậm chí tính cách gây cười của nhân vật là yếu tố quyết định để tạo nên tiếng cười.
* Biện pháp gây cười khác
Truyện cười dân gian Thái phản ánh hiện thực bằng cách phóng đại sự thực.
Lời nói, cử chỉ, hoàn cảnh, tính cách càng trái tự nhiên, máy móc bao nhiêu, càng ngộ
nghĩnh, khác thường bao nhiêu thì tiếng cười vang lên càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Việc
phóng đại, thậm chí bịa đặt ra những cảnh thực là éo le, những nhân vật thực là ngộ
nghĩnh, không ảnh hưởng gì đến chất hiện thực của tác phẩm. Nếu như không có ai
dám cãi bố vợ theo kiểu như anh chàng lười trong truyện “Ma nhà dọa ông mo”, thì
nhất định có những kẻ vì lười biếng mà có những hành động, cử chỉ chướng tai, gai
mắt hơn cả cách cãi ngang tai ấy. Nếu như không có ai kỳ quặc như cặp bố mẹ tương
lai trong “Thổi mắt dê” thì nhất định trên thực tế còn có những người kỳ quặc hơn.
Cho nên, xét đến cùng, nếu như cái sự việc cụ thể ở trong truyện cười không
có thực, thì cái bản chất của vấn đề lại rất thực. Các tác giả dân gian Thái đã nhờ
nghệ thuật phóng đại để phản ánh hiện thực một cách nghệ thuật giống như nghệ
thuật biếm họa trong hội họa vậy.
Để gây tiếng cười thực là giòn giã, truyện cười dân gian Thái còn thường dùng
yếu tố bất ngờ. Tiếng cười được bật ra đột ngột khi người nghe khám phá ra thực chất
của một hiện tượng. Yếu tố bất ngờ thường gắn với việc đột nhiên bộc lộ mâu thuẫn ở
trong hiện tượng. Truyện “Mong ước” khiến người nghe bất ngờ khi Xự Phong nói
“chỉ mong Án Nhà chết”, nhưng tiếng cười thực sự bật ra khi Xự Phong lý giải “Án
Nhà chết mới được làm ma to, được tha hồ ăn thịt”. Tương tự, truyện “Cái này cũng
là mồm ư” khiến người ta bật cười đau đớn khi nghĩ đến việc cũng là những cái mồm,
nhưng những cái mồm của Án Nhà và quan khách thì no nê bóng nhẫy, còn mồm của
người hầu Xự Phong thì đói khát thèm thuồng… Dù bố cục theo cách nào thì truyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 48
cười dân gian Thái cũng thường nhằm đạt được kịch tính cao nhất. Vì thế, để gây ra
tiếng cười giòn giã, truyện cười phải tập trung vào những yếu tố gây cười, vào những
nét phóng đại, những yếu tố bất ngờ, kịch tính.
Ngoài ra, truyện cười dân gian dân tộc Thái Mai Châu còn sử dụng yếu tố tục
như một biện pháp gây cười. Yếu tố tục trong truyện cười dân gian Thái mang tính
chất giải trí cao, giải tỏa những quy phạm, những gò bó trong cuộc sống để hướng tới
tiếng cười một cách tự nhiên, thoải mái nhất.
* Tiểu kết:
Truyền thuyết, cổ tích và truyện cười dân gian đã phản ánh đời sống phong
phú nhiều mặt của dân tộc Thái Mai Châu. Thông qua việc kể lại những câu chuyện
gắn liền với các miền đất và con người Mai Châu, các truyền thuyết ca ngơ ̣i ý chí, nghị lực và trí tuê ̣; đồng thời thể hiện lòng biết ơn củ a dân tô ̣c Thái đối với những
người đi lập đất, khai khẩn, phát triển địa bàn để xây dựng mô ̣t vù ng quê hương rộng
lớn, trù phú và thi ̣nh vươ ̣ng; nó tạo ra sự sinh động và tô đậm thêm truyền thống yêu
quê hương đất nước, truyền thống đoàn kết gắn bó, truyền thống kiên quyết chiến đấu
và chiến thắng giặc của dân tộc Thái nói riêng và của người dân Việt nói chung. Cổ
tích Thái thì thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, không có áp bức, bóc lột; ca
ngợi tập thể những người lao động giỏi, chiến đấu giỏi, dám đấu tranh và chiến thắng
các thế lực tự nhiên và xã hội để mang lại cuộc sống yên lành, hạnh phúc cho nhân
dân. Thể loại truyện cười đã đem lại tiếng cười mua vui cho thiên hạ để cho họ giải
tỏa những mệt nhọc, vất vả sau một ngày lao động và phê phán, châm biếm, mỉa mai
các thói hư tật xấu của con người. Tóm lại, các thể loại ruyền thuyết, cổ tích và
truyện cười dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu đã làm sáng tỏ thêm sự vận động của
các yếu tố đã tạo nên văn hóa Thái hồn nhiên, lành mạnh, giàu lòng nhân ái của
những người dân Thái luôn gắn bó chặt chẽ với cộng đồng bản mường, làng xóm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 49
Chương 3
KHẮP VÀ TỤC NGỮ DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU
3.1. Khắp
Khắp (hát, hò, ngâm thơ) Thái ở Mai Châu - Hòa Bình có vần điệu như thơ
nhưng có tính nhạc điệu và tiết tấu rất cao. Khắp có một vai trò quan trọng và có khả
năng tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của người dân Thái:
“Hát vào núi đá hoá thành vôi trắng
Hát vào suối cạn, dâng thành sông Đà
Hát cùng chài gấp nên tấm lụa
Hát cùng rau non, lớn vụt thành sen
Hát cùng chồng, người bỏ vợ quên tình
Hát cùng đầu bạc, xanh lại thời tuổi trẻ”
(Khắp Thái)
Khắp Thái ở Mai Châu đang tồn tại hai dạng chính là “khắp bắc” (hát sáng tác
mới) và “khắp quăm pang chạu” (hát lời truyền thống). Ở đây chúng ta chỉ bàn tới
khắp truyền thống, sau đây xin được gọi tắt là khắp.
Khắp là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác, được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Khắp Thái có ba yếu tố cơ bản: phần lời (ngôn từ văn học),
phần nhạc (âm điệu, nhịp điệu, trường độ, cao độ, tiết tấu…) và đặc điểm diễn xướng
(xét về quy mô thì có khắp cuộc, khắp lẻ; xét về ý nghĩa và hình thức thì có khắp báo
sao, khắp hạn khuống, khắp xe, khắp pan làu pan chàu…). Như vậy, xét về bản chất,
khắp chính là dân ca của dân tộc Thái. Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam
do giáo sư Đinh Gia Khánh chủ biên cũng xếp khắp Thái vào nội dung dân ca của các
dân tộc thiểu số. Với những nét đặc sắc, độc đáo trong kết cấu ngôn ngữ, trong cách
sử dụng hình tượng, trong nhạc điệu… khắp Thái mang đậm dấu ấn của phong cách,
màu sắc đa dạng của văn hóa Thái.
Khắp là sản phẩm sáng tạo của tập thể nhưng sự hình thành và phát triển của
nó ghi dấu ấn vai trò của các cá nhân khá rõ. Bên cạnh những sáng tạo tập thể nảy
sinh trong quá trình lao động, những sáng tạo của cá nhân nếu đáp ứng được nhu
cầu của cộng đồng và được cộng đồng sử dụng trong các sinh hoạt tập thể thì nó đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 50
được công nhận là tài sản chung và mặc nhiên được tiếp nhận như một sản phẩm
của tập thể.
Khắp hình thành và phát triển từ thực tế cuộc sống và chủ yếu được lưu giữ
bằng hình thức truyền miệng. Khắp mang những tư tưởng triết học, phản ánh nhân
sinh quan, thế giới quan cùng những tâm tư tình cảm, khát vọng vươn tới một cuộc
sống ấm no, hạnh phúc của người dân Thái. Khắp gắn bó mật thiết với sinh hoạt xã
hội (như lao động sản xuất, giao duyên, phong tục - nghi lễ, sinh hoạt thường ngày...)
của dân tộc Thái ở Mai Châu với những nét đặc sắc trong lời ca, trong cách sử dụng
hình tượng, trong nhạc điệu, trong vũ điệu… Khắp mang đậm dấu ấn phong cách văn
hóa của dân tộc Thái.
3.1.1. Phân loại khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu
Khắp Thái Mai Châu phong phú về loại. Mỗi loại có cách diễn xướng riêng.
Mo Thái cũng được gọi là khắp. Mo thường là các bài hát dài, có giá trị cao
trong việc phản ánh lịch sử hình thành vũ trụ, phát triển dân tộc, quan niệm về thế
thái nhân tình. Điển hình là các bài mo - sử thi – thần thoại “Ẳm ệt luông” (Sinh ra
cái lớn), “Ẳm ệt nọi” (Sinh ra cái nhỏ), “Tày ẳm óc” (Người Thái sinh ra như thế
nào)... Mo “Mời” thể hiện tâm tư của người sống đối với người chết và những lời dặn
dò chan chứa tình cảm của người chết với người sống.
“Khắp bán phăng, bán ngà” (Hát gieo kê, gieo vừng) được thể hiện lúc lao
động trên nương rẫy.
Xắng là loại khắp giàu chất trữ tình, nó thường thể hiện sự tiếc nuối, nhớ
nhung, day dứt về điều gì đó chưa đạt được. Mường Hịch Mai Châu có “Xắng
Mường” (Nhớ quê) đầy nhớ nhung kỷ niệm.
Xềnh và Xươn là những loại khắp vui, thường dùng để giải trí, giúp người ta
vượt qua những khó khăn, nhọc nhằn của cuộc sống.
Khắp xư (hát kể chuyện thơ), dùng để chỉ một điệu chuyên dùng để hát lên
một bài thơ, kể chuyện thơ (như Xống chụ xon xao, Nàng Nèn...).
Về cơ bản, chúng ta có thể chia khắp theo các loại sau: khắp nghi lễ, khắp lao
động - lễ tiết, khắp giao duyên, khắp sinh hoạt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 51
3.1.2. Nội dung khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu
3.1.2.1. Khắp phản ánh những nghi lễ - phong tục
Khắp nghi lễ - phong tục của dân tộc Thái Mai Châu ra đời khi con người còn
gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Khi ấy, với trình độ nhận thức của mình, người dân
tin rằng thần linh có thể giúp đỡ hoặc trừng phạt mình; do vậy, họ tìm cách giao tiếp
với thần linh để cầu xin những điều cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống
của mình. Vào khoảng tháng ba, tháng tư, nếu trời hạn hán thì người dân Thái Mai
Châu tổ chức lễ cầu mưa. Một đoàn người với ông lĩnh xướng đi đầu, người thứ hai
cầm một cái sàng và nhiều người hát phụ họa đi sau đến nhà một bà cụ cao tuổi trong
làng, họ đứng dưới sân và hát:
… “Nay xin nước mưa xuống cày ruộng mạ
Xin nước trời xuống cấy ruộng mùa
Lúa ở nương chết héo
Ốc ở đồng chết khô
Đất nẻ, gió hun
Con ruồi chết ngạt
…
Người già ra bến được chạy cơn mưa
Ơn được hạt mưa to bằng quả gắm
Các suối đều lũ lụt
Các hố hốc đều ngập
Các hố củ mài tràn đầy
Các gò mối trôi thành bãi bằng
Được mùa lúa tốt nặng bông”…
(Khắp cầu mưa)
Đoàn người hát đi hát lại bài khắp theo nhiều cách khác nhau, cuối cùng bà cụ
già trong nhà bước ra, mang một chậu nước lớn dội vào đoàn người và đặc biệt là vào
cái sàng gạo để tạo ra “mưa” rồi nói “Mưa to này, mưa dày này!”. Đoàn người lại vui
mừng hát vang bài cầu mưa để tạ ơn trời làm mưa. Bài khắp kết thúc bằng việc nhắc
đi nhắc lại “Ơn… ơn lắm !”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 52
Các bài khắp nghi lễ của dân tộc Thái thường thể hiện mối quan hệ giữa con
người với thiên nhiên, hoặc mối quan hệ giữa con người với con người, tức nội dung
xã hội cũng được các khắp nghi lễ đề cập tới nhiều khi khá sắc sảo, táo bạo theo kiểu
những bài vè tự sự xã hội, vượt quá khuôn khổ trang nghiêm, hư ảo của các khắp
cúng tế. Tương truyền bài khắp “Sắng Mường” của ông Phú Mường làm tạo ở
Mường Hịch. Do tranh chấp quyền làm tạo ở Mường Hịch nên ông phải đem cả gia
đình lên Mường Pao đồi Sầm Tớ thuộc nước Lào ở. Trước lúc đi, ông viết bài này để
lại, coi như một nghi lễ chào quê hương đầy xúc động:
... “Ta nghe thương quá.
Tiếng gọi hồn về nhà
Nghe ông mo gọi hồn lên Mường Trời vào hầu ông Then
Ở lại nhớ!
Mảnh đất quý, xin nhắn lại Bằng Bon trước đã.
Nơi ta luôn được cá chày to làm canh.
Sáng trưa, ta quen ăn ở bên khoang nước đó.
Tuổi già từ biệt về trời.
Ta gặp ông Then.
Để yên nằm ở Mường Trời nơi ấy.
Nhắn lại mảnh đất yêu ta chuyển đi xa.
Ghi lời này cho người sau để nhớ
Những gì yêu quý của tôi ơi!
Khe Bương Khảng ta quen chăn trâu
Ta bỏ lại gối hoa và chăn đệm
Chết lên trời chẳng còn thấy nữa đâu
Nức nở, nước mắt tràn khóc dặn.
Xin nhắn lại cỏ cây.
Quê cũ mường sau, còn gì ta chưa dặn lại.
Xin gửi lời chào nốt.
Tất cả các khoang suối, ta thường ăn cá.
Tất cả các thửa ruộng ta từng ăn gạo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 53
Cả rừng cây Tạu nhỏ, ta thường quen đến chăn trâu
Cả con đường ta thường đi thăm nhiều bạn.
Xin gửi lời chào để về sau không còn được thấy.
Chúng bạn quê cũ mường sau của tôi ơi”.
(Xắng Mường)
Bên cạnh nhóm bài lễ ca mang tính chất tự sự, có bộ phận các khắp mang tính
chất trữ tình, thể hiện tình yêu thương, nuối tiếc của gia đình người chết. Điển hình là
khắp “Tiễn đưa” của người Thái, khắp tang lễ thường được hát với giọng trầm thấp,
chầm chậm theo kiểu tỉ tê, nỉ non của những tâm tình đau buồn, chứ không hát theo
những giọng cao và nhanh như trong khắp giao duyên.
Có thể phân chia các bài khắp nghi lễ - phong tục thành các nhóm nhỏ hơn
như khắp Nông lễ, khắp Hôn lễ, khắp Tang lễ, khắp Mừng nhà mới... Ngoài ra, còn
có những bài hát trong các nghi lễ khác như: khắp cầu sức khoẻ, khắp cúng vía…
* Nhóm khắp nông lễ
- Nhóm các bàì khắp nông lễ: Phục vụ các lễ tiết trong chu kỳ sản xuất nông
nghiệp, từ phát nương, gieo vãi cấy cày, đến làm cỏ, gặt hái, mừng lúa mới....
Đối tượng chủ yếu trong khắp nghi lễ nông nghiệp của dân tộc Thái là thiên
nhiên được thần linh hoá: thần Mưa, thần Sấm, thần Sét, thần Mây… Qua cách gọi và
cầu cúng các vị thần, chúng ta thấy thiên nhiên đã được con người nhận thức theo tư
duy vừa huyền ảo vừa hiện thực. Hiện thực ở chỗ đó chính là những gì rất cụ thể của
môi trường sống: nước, mây, sấm, sét, mưa, núi non, đất đai, cây cối... Hiện thực còn
ở chỗ con người đã thể hiện rõ nhận thức của mình về quy luật phát triển của thiên
nhiên - tuy rằng nhận thức đó còn mơ hồ, thô sơ - và vận dụng hiểu biết của mình vào
thực tế sản xuất, đồng thời lại chuyển hoá nhận thức ấy vào những lời ca mang tính
tín ngưỡng. Trong phần “Mở họng trời” thuộc sử thi “Ẳm ệt luông” (Sử thi - thần
thoại “Ẳm ệt luông” của dân tộc Thái gồm ba phần chính: “Ẳm ệt luông” - Sinh ra
Cái Lớn, “Ẳm ệt nọi” - Sinh ra Cái Nhỏ và “Khay phắc phạ” - Mở họng Trời) có
những đoạn thể hiện nhận thức của người dân lao động Thái về quy luật của thời tiết,
của kiểu hình khí hậu ở địa phương:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 54
...“Tháng này là tháng giêng, tiếp là tháng hai
Tiếp nữa là tháng ba, tháng bốn
Tháng giêng hoa gạo hé nụ dùi trống
Tháng hai hoa vông hé nụ cựa gà
Tháng ba nước chảy tràn khe suối
Không có nước tràn khe để đơm đó
Tháng tư nước tràn vào khe cạn
Nhưng không nước vào khe để chặn bắt cá
Tháng ba họng trời còn kín còn tắc”...
Còn huyền ảo là ở chỗ, do trình độ còn hạn chế, chưa lý giải được nguyên
nhân của những hiện tượng thiên nhiên ấy, người dân Thái đã thần linh hoá các hiện
tượng thiên nhiên - cho rằng đó là do công của các vị thần, như thần Mây, thần Sấm,
thần Mưa... và nghĩ rằng các vị thần ấy theo dõi công việc của mình trong suốt chu kỳ
sản xuất. Từ đó, người ta luôn cầu khấn các vị thần ấy để mong có được vùng đất
màu mỡ, mùa màng tốt tươi.
... “Nàng Ặc ở Mường Bôn
Mới cho trời rung
Nàng Ắn ở Mường trời
Mới cho trời chớp
Nàng Nèn ở Mường trên
Mới cho trời gầm, sấm”…
(Mở họng trời)
Trong nghi lễ cầu cúng, con người thường đóng vai trò người cầu xin với địa
vị thấp bé, phải luôn luôn tỏ sự cung kính với các đấng siêu nhiên. Nhưng có những
trường hợp, người dân lao động Thái đã vượt khỏi thân phận nhỏ bé của mình để thể
hiện sức mạnh chế ngự thiên nhiên. Hình ảnh những người con ưu tú của dân tộc Thái
lên tận mường Trời để mở họng Bôn, để trời có thể mưa là một chi tiết huyền ảo.
Nhưng trong sự huyền ảo ấy có thể hiện khát vọng chinh phục và chiến thắng thiên
nhiên, đồng thời thể hiện ý chí, nghị lực và lòng quả cảm của những người dân lao
động Thái:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 55
... “Thủa ấy có:
Anh Làng Cặp và anh Làng Có
Lưỡi dài bằng quả núc nác
Mắt to bằng quả xổ
Nước trong vại còn trong
Trong lòng họ trí sáng
Giã gạo cho vào túi đeo lưng
Rìu lưỡi sắc đeo lên vai
Múa kiếm lên Mường Bôn sáng loáng
Múa rìu lên Mường trời cao xa
Đến tận gốc cây si Mường trời
Xem tận gốc cây đa Mường Bôn
Tay che mắt trái để ngắm
Nheo mắt phải để xem
Rễ cây si cuốn tắc họng trời
Rễ cây đa làm tắc họng Bôn
Rễ cây si cuốn tắc họng không có lối trời sấm
Rễ cây đa cuốn tắc họng không có đường cho trời gầm
Trời không sấm, không sét
Không có mưa có lũ
Ba mươi chiếc rìu Thái họ chém
Ba mươi chiếc rìu Xá họ chặt
Cắt rễ cây si không để cuốn họng trời
Chặt rễ cây đa không để tắc họng Bôn”…
(Mở họng trời)
Đoạn khắp này đã phá vỡ khuôn khổ và chức năng thường lệ của khắp nghi lễ:
nó đã chuyển từ chức năng khẩn cầu sang chức năng đấu tranh và chinh phục. Trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 56
các khắp nghi lễ, nhân vật thường là các vị thần linh, nhưng trường hợp này, đó chính
là những người anh hùng đã có công đấu tranh chinh phục thiên nhiên.
… “Mưa phun đổ lá mía
Tia mưa đổ mái gianh
Mưa giây xuống nguồn sông Mã
Mưa tuôn xuống nguồn sông Đà
Hạt mưa to bằng quả gắm
Suối cạn, hố hốc tràn đầy
Các hố củ mài đều tràn nước
Các gò mối tan thành bãi bằng
Cuối đồng thành sóng trắng
Ven đồng thành sóng bạc”.
(Mở họng trời)
Trong tâm thức dân gian, những vị anh hùng ấy đứng ngang tầm các vị thần
linh và con người cũng cầu khấn các vị anh hùng của mình với lòng tôn kính và niềm
hy vọng như đối với các đấng siêu nhiên bởi vì những người anh hùng đã làm được
điều người dân lao động mong muốn.
* Nhóm khắp hôn lễ
Khắp hôn lễ là loại khắp phục vụ trong hôn lễ của đồng bào dân tộc người
Thái. Trong đám cưới Thái xưa, người ta có thể khắp với nhau kéo dài hết ngày này
qua ngày khác, thâu đêm suốt sáng, có khi đến ba bốn ngày. Cả người hát và người
nghe đều say sưa tán thưởng. Trong các cuộc hát như vậy, người ta thường không
quan tâm đến bữa tiệc có những gì, mà chủ yếu là bàn luận về những làn điệu khắp
của người nọ, người kia.
... “Lời đẹp anh thưa với mẹ cha
Trong nhà nghe nói ai cũng vui cười
Bảo nhau lo liệu
Tìm quà cáp để đi thăm
Mang trầu cau đến dạm ngõ
Sắm quà đủ lệ, nhờ người khéo nói
Ông mối lo nhận đi trước
Sắp cho trai trẻ gánh theo sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 57
Đi đến nhà em yêu
Anh em, cha mẹ em thương
Lời chào hai bên thăm hỏi”...
(Nàng Nèn)
Qua các bài khắp hôn lễ ta thấy được những nét tốt đẹp trong phong tục cổ
truyền của đồng bào dân tộc Thái: sự hiếu khách, lòng biết ơn của con cái đối với bố
mẹ ... và nói chung là tri thức văn hóa phong phú của người dân Thái. Đây là những
lời lẽ trong một lễ hỏi vợ cho người con trai:
.. “Ông bà thương cho lấy
Bố mẹ thương cho không
Để lúc sớm có người nhóm lửa
Để lúc khuya có người căng màn
Để có cháu con nối nghiệp cha ông thủa trước”.
(Hỏi vợ)
Ngay cả khi nhà trai bị từ chối, không hỏi được vợ cho con cháu mình thì
những lời khắp vẫn không tỏ ra giận dữ, tức tối mà hết sức đúng mực, khiêm nhường.
Đó là cách cư xử có văn hóa của người dân Thái thể hiện trong khắp hôn lễ:
… “Nhà tôi sinh con trai
Thấy bông hoa trên cao muốn hái
Tiếc công tôi lội sông, lội suối đến hỏi thăm
Hỏi thăm đũa trên mâm còn đủ
Nhưng con tôi lấy con ông không nên nhà
Lấy con ông không nên cửa”…
(Khắp trong đám cưới)
* Nhóm khắp tang lễ
Khắp tang lễ là loại khắp phục vụ trong tang lễ của đồng bào các dân tộc thiểu
số, bên cạnh việc bày tỏ tình cảm thương tiếc người đã mất, thường thể hiện những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 58
quan niệm của con người về sự hình thành thế giới, về sự ra đời của con người và các
kỳ tích chinh phục thiên nhiên của con người trong buổi đầu của lịch sử. Các bài mo
“Ẳm ệt luông”, “Ẳm ệt nọi” của người Thái không làm chức năng khẩn cầu như
những bài hát nghi lễ nông nghiệp mà là những bài lễ ca thật sự thuộc về tôn giáo và
tín ngưỡng dân gian, có chức năng tiễn hồn người chết về thế giới bên kia:
… “ Cái gì có trước trời ?
Cái gì có trước đất ?
Tạo Ính, nàng On có trước trời
Tạo Ính, nàng On nở trước đất
Tình tự với nhau mới thành trời
Ăn nằm với nhau mới thành mây, thành gió”…
(Ẳm ệt luông)
Khắp tang lễ của dân tộc Thái là rất phổ biến nhưng tuỳ chức năng cụ thể, tuỳ
hoàn cảnh sáng tác và diễn xướng mà các bài khắp ấy có nhưng đặc điểm về nội dung
và nghệ thuật khác nhau, có thể chia ra làm hai nhóm. Nhóm khắp nặng về tính chất
tự sự, gắn với các nghi lễ và phong tục, bắt nguồn từ tín ngưỡng về các vị thần, về
quan niệm vạn vật hữu linh. Nhóm khắp nặng về tính chất trữ tình, trong đó người
thân trực tiếp khóc người chết, bộc lộ tình cảm riêng tư của họ.
* Nhóm khắp chúc mừng
Khắp chúc mừng của người Thái thuộc nhóm khắp nghi lễ - phong tục nhưng
có chức năng cầu chúc, chào mừng, thường mang phong cách ngợi ca, chứa đựng
nhiều nét lạc quan, vui tươi:
... “Nghe nói ông sắp làm nhà
Ba mươi cột gỗ lý không lấy
Bốn mươi cột gỗ kiêng không làm
Ông làm nhà ba mươi cột vàng nõn
Sáu mươi cột vàng luyện
Một cột dựng đầu sông Mã
Một cột dựng trước phong ba
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 59
Hai cột dựng giữa nước lớn
Dưới nước gọi Rồng đến làm
Trên bờ kêu Then xuống giúp
Khắp nơi về làm nhà cho ông
(Mừng nhà mới)
3.1.2.2. Khắp thể hiện nghị lực và niềm tự hào với những thành quả lao động
Khắp lao động là loại khắp phản ánh sinh hoạt lao động của đồng bào dân tộc
Thái, có thể gắn với lao động nhưng cũng có thể gắn với các sinh hoạt văn hoá dân
gian khác.
... “Lên giọng đi hỡi bạn tình
Cất tiếng vang như ve sầu ven suối
Hát một tí cho đỡ buồn
Hát một tí để giải phiền”
(Giao duyên)
Có thể nói, trong sản xuất nông nghiệp của nhân dân Thái có hoạt động gì, thì
trong khắp lao động có loại khắp ấy. Đó là những nhóm khắp cùng loại như: các khắp
phát nương, các khắp gieo vãi, các khắp làm cỏ, các khắp đuổi chim, các khắp giữ
rẫy, các khắp thu hoạch...
… “Tiếng chặt cây em yêu nào phát
Tiếng chặt cây to rìu ai chém
Phát rừng trồng bông hay trồng dâu tằm
Phát rừng trồng bông cho anh xin chung đồi
Phát rừng trồng dâu cho anh xin chung vườn với.
……
Anh phá hoang cho thành thửa ruộng
Dựng bản cho thành bản
Trồng cau cho thành buồng sai quả
Ươm cây mọc mầm”…
(Gieo vừng, gieo kê)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 60
Những bài khắp lao động khác cũng được lưu truyền độc lập trong cuộc sống
của người Thái, chẳng hạn như điệu “Hò kéo thuyền”:
“Hai ba
Cố kéo
Kéo cho thật
Kéo đồng sức
Kéo cứng chân
Kéo cứng tay
Cầm dây
Bẩy về”.
Những bài khắp lao động thể hiện nghị lực và niềm tự hào với những thành
quả đạt được trong lao động của người dân Thái:
... “Nương em chẳng thiếu thứ nào
Dày dày bông lúa Xế bên trái
Thấp thấp bông lúa Ca, lúa Mòng bên phải.
Lúa Cẩm em gieo quanh chòi
Bãi bằng, em trồng lúa dói
Em ươm cây nào, vào đất kiệt màu cũng lên”...
(Ngợi ca nương rẫy)
Bên cạnh đó là những nội dung khắp về nông lịch - gắn với thời vụ sản xuất
nông nghiệp:
... “Tháng chín hết tháng mười đến
Tháng mười giáp tháng mười một, tháng chạp
Tháng một, tháng chạp
Không phải tháng mưa lũ
Trời không sấm tháng chạp
Trời sẽ sấm tháng giêng”
(Mở họng trời)
Dân tộc Thái còn lưu truyền những bài khắp phản ánh các sinh hoạt lao động
thủ công đã phát triển đáng kể, tiêu biểu như khắp dệt vải:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 61
… “Trồng dâu tằm, anh xin khăn lụa
Trồng bông dệt vải, anh xin khăn dài”...
(Gieo vừng, gieo kê)
Cùng với sự phát triển của cuộc sống, khắp lao động có một sự đổi thay khá
lớn về chức năng: từ những bài hát trực tiếp phục vụ lao động, chúng trở thành những
bài khắp đối đáp mà người hát dựa vào đó để gửi gắm tâm tư tình cảm của mình với
người yêu, và do vậy nó có sự giao thoa rất sâu sắc với khắp giao duyên nam nữ.
… “Nàng ở nhà chăm lấy bản
Ở bản chăm lấy vườn
Chớ để gà vào vườn bới vườn gừng tan hoang
Mùa hoa bưởi, ngắt hoa bưởi đợi mong
Mùa hoa vông, ngắt hoa vông ngồi đợi
Chờ anh ba mùa lúa nương
Chờ anh ba mùa lúa cốm
Đi nhé, người yêu bản không phai
Đi nhé, người yêu mường không mờ”.
(Gieo vừng, gieo kê)
Như vậy, khắp lao động của các dân tộc vừa trực tiếp phục vụ sinh hoạt lao
động, vừa tồn tại trong khắp nghi lễ xa xưa lại vừa hội nhập vào khắp giao duyên
nam nữ.
3.1.2.3. Khắp là lời hát giao duyên ngọt ngào, say đắm
Khắp giao duyên Thái là loại khắp được các đôi trai gái sử dụng trong thời
gian tìm hiểu, ướm hỏi, giao duyên... Trình tự các bài khắp giao duyên thường bắt
đầu bằng chào hỏi, sau đó là tìm hiểu, thề thốt, rồi cuối cùng là chia tay. Nội dung cơ
bản của khắp giao duyên là thể hiện tình yêu đôi lứa:
… “Dạo chơi ngoài chợ giải buồn
Thoảng mùi thơm man mát đâu đây
Liếc thấy em răng trắng như bạc
Nhìn thấy anh, em mỉm cười
Thấy nụ cười lòng anh cuốn hút
Lòng khắc rủ lòng, mắt gặp mắt”…
(Giao duyên)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 62
Bên cạnh đó trong khắp giao duyên còn thường lồng thêm nội dung về tình
yêu quê hương. Trong các bài khắp giao duyên có rất nhiều trường đoạn thể hiện lòng
tự hào của người dân Thái về những miền quê trù phú, đông đúc và sầm uất:
… “Hai bên đường nhà tiếp nhà thành rặng
Nhà liền nhà thành dãy
Bản tiếp bản liền nhau
Vung tay bước sau nàng Nèn phơi phới
Chân không dừng, ta bước vội
Hòa với nhiều tốp người cùng đi thành đoàn
Người cưỡi ngựa, cưỡi voi, người đi bộ
Người đi ngược, người xuôi không ngớt”.
(Nàng Nèn)
hoặc về những bản Thái đặc trưng:
… “Vào mường em có nhiều lối
Vào bản em có nhiều cổng
Cổng dành cho trai đã có nhà đi qua
Cổng dành cho khách vào thăm gái góa
Cổng dành cho trai gái đang thì vui đùa
Cổng làm bằng cây sậy dành cho người buôn bán
Cổng bằng gỗ lát sống lâu năm
Cổng bằng cây “tậu” sống lâu muôn tuổi”…
(Giao duyên)
Mỗi dân tộc có quan niệm và cách biểu hiện riêng về tình yêu đôi lứa. Cũng do
vậy, trên cái nền chung của tình yêu con người, khắp giao duyên Thái có rất nhiều
hình nhiều vẻ, phản ánh được những nét đặc trưng trong lối sống; trong cách cảm,
cách nghĩ; trong quan niệm về tình yêu… của dân tộc Thái. Chúng ta thật khó tìm
được những so sánh tương tự như thế này trong dân ca của dân tộc Kinh:
… “Lưu luyến mãi trước giờ chia tay
Khó dứt ra như gỡ vắt cắn
Khó rời ra như nghé xa mẹ”…
(Giao duyên)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 63
Người Thái có quan niệm khá hiện đại về tình yêu và hôn nhân. Các chàng trai
đến chơi nhà các cô gái đều được bố mẹ cô gái tạo điều kiện cho gần gũi để tự do tìm
hiểu nhau. Khi trai gái đã ưng nhau, hai gia đình làm một số thủ tục và gia đình nhà
cô gái cho phép chàng trai đến ở rể. Thời gian này chú rể làm việc ở nhà cô dâu và có
thể sống với nhau như vợ chồng. Nhiều đôi có con lớn mới tách ra ở riêng. Khắp giao
duyên của dân tộc Thái nảy sinh, phát triển, truyền bá trong chính đời sống thường
ngày của các đôi trai gái, giúp đôi trai gái trực tiếp trò chuyện, tìm hiểu nhau, trở
thành một phương thức tỏ tình:
… “Đến nhà em, anh bước qua muôn rễ cỏ
Đến nhà nàng dẫm lên muôn vàn rễ cây
Qua chín mươi rừng cây mới tới
Thương lắm em à
……
Nàng tắm nước sông nào mà da em trắng
Mặt em rửa nước suối nào mà hồng như tiên
Em đẹp lại khéo ăn nói
Búi tóc em đẹp như cánh nhạn
Tóc mượt, mềm như rêu
Em người đẹp, chân tay lại khéo”.
(Giao duyên)
Sinh hoạt khắp giao duyên có thể diễn ra dưới hai hình thức: tự phát và có tổ
chức. Hình thức tự phát là loại hát nhẹ nhàng, bất chợt xảy ra trong những khung
cảnh khác nhau, như hát đối đáp giữa hai bên nam nữ trên đường đi làm rẫy, hái củi
hoặc bắt cá... Những cuộc hát đó được diễn ra một cách bột phát, không định trước,
không theo định kỳ, không theo những lề luật nào cả.
… “Ở nhà thấy chán
Ở bản thấy buồn
Đi thăm thời đến hỏi
Đi tìm người yêu, thời muốn ở làm mùa
Không thành chồng thành vợ
Xin kết nghĩa anh em”
(Giao duyên)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 64
Hình thức khắp có tổ chức là loại sinh hoạt khắp được sắp đặt, bố trí trước,
theo định kỳ và theo những thủ tục khá chặt chẽ gọi là khắp hạn khuống. Khắp hạn
khuống của ngưòi Thái thường được tổ chức vào sau vụ gặt, vào ban đêm. Trên sàn
bương tre được dựng ngoài trời, mỗi hạn khuống có một người đứng đầu gọi là tổn
khuống và các thành viên khác gọi là sao lắc xáy. Nội dung cũng thường gồm khắp
chào hỏi, tìm hiểu, tỏ lòng, thề thốt, chia tay... Chặng chào - mở đầu các cuộc hát giao
duyên - thường bao gồm những lời ca sôi nổi đầy nhiệt tình. Tiếp đó, qua chặng hát
thăm dò, ướm hỏi… thì sắc thái tình cảm ngày càng diễn ra đa dạng, tinh tế:
… “Chết dưới nước bởi anh quên bơi
Ngã lăn lưng đồi bởi anh quên vịn
Nghe lời em chết ngã cành đa
Nghe lời em chết vắt cành si
……
Chết lặng trái tim, làm mùa sao được ?!”
(Gieo vừng, gieo kê)
Nhưng các sắc thái tình cảm bộc lộ đa dạng nhất và đọng lại sâu lắng nhất
trong tâm khảm những người trong cuộc là những lời hát thắm thiết trong chặng dặn
dò, chia tay, thể hiện bao nỗi nhớ nhung luyến tiếc vì phải xa nhau, trong khi những
lời trao duyên đang thì nở rộ và tình cảm đôi bên cũng đang đến độ nồng đượm.
Những lời khắp luôn toát lên một tình cảm nồng thắm với những lời dặn dò ân cần:
… “Nàng ở mường năng chăm lấy bản
Nàng ở bản năng chăm lấy vườn
Chớ để gà vào vườn bới nát vườn gừng tan hoang
Chớ để voi đến làng bới ăn gốc
Chớ để sáu mươi voi vào lục ăn dưa
Chớ để mất công ta vun trồng
Nàng dằn lòng chờ anh ba mùa lúa nương
Chờ anh qua ba mùa lúa cốm
Mùa hoa bưởi, ngắt hoa bưởi đợi mong
Mùa hoa vông, ngắt hoa vông ngồi chờ
Mùa hoa mạ, ngắt hoa mạ về ngắm”
(Giao duyên)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 65
Khắp Thái giàu chất trữ tình, mê say; lời hát cầu kỳ, trau chuốt. Tìm hiểu kỹ thì
chúng ta sẽ thấy trong đó quê hương Thái, con người Thái với những tâm tư, suy
nghĩ… đặc trưng của người dân miền núi sống gắn bó với núi rừng, nhưng cũng có
nhiều nét tương đồng với nhiều dân tộc anh em khác. Ví dụ như trong lời khắp sau đây:
… “ Em như quả cây
Chín đỏ trên nú i đá , Mắ t trông thấy, tay giơ không tớ i.
Liê ̣u tay nố i tay là m thang có tớ i được không ?
Liê ̣u cây nố i cây làm sà o có tới được không ?
Liê ̣u đợi lâu ngà y, trá i có rơi và o mình không ?” (Ngợi ca nương rẫy)
Đoạn khắp mở đầu bằng một mô típ quen thuộc trong ca dao Viê ̣t Nam: "Em
như…", mô ̣t mô típ mà vừ a nhìn thấy, ngườ i ta đã thấy hiê ̣n lên những thân phâ ̣n bi ̣ đè nén, áp bức củ a ngườ i phu ̣ nữ trong xã hô ̣i cũ:
“Em như con hạc đầu đình Muố n bay không cất nổi mình mà bay”
(Ca dao dân tộc Kinh)
Thậm chí là những thân phâ ̣n bi ̣ rẻ rúng, coi thườ ng; những thân phâ ̣n bi ̣ đối
xử tê ̣ ba ̣c:
“Em như cá i chổi đầu hè
Để ngườ i mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại quẳng ra sân
Gọi mụ hàng xóm có chân thì chùi”
Nhưng đó là trong ca dao của dân tộc Kinh. Cò n đoạn khắp chú ng ta đang xét
tớ i là củ a dân tô ̣c Thái ở Mai Châu - Hòa Bình. Cuô ̣c số ng gắ n liền vớ i nú i rừ ng củ a
dân tô ̣c Thái đã đươ ̣c phản ánh rất đâ ̣m nét trong đó:
“Em như quả cây
Chín đỏ trên nú i đá ”
Nếu không gian quen thuộc trong ca dao củ a dân tô ̣c Kinh là cây đa, giếng
nước, sân đình, cánh đồng, bờ ao... vớ i những cánh cò chao nghiêng, nhện giăng tơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 66
lướ i, cá đớp ao bèo… những khung cảnh dễ khơi dậy những cảm xúc trữ tình củ a
những ngườ i cả đờ i gắ n bó vớ i ruô ̣ng đồ ng, vớ i mái đình cây đa thì những hình ảnh
đầu tiên trong bài dân ca Thái la ̣i ta ̣o nên cảm xú c ở những ngườ i số ng gắn bó vớ i
những cánh rừ ng đa ̣i ngàn. Những cánh rừ ng mà ở đó những ngườ i con củ a dân tô ̣c
Thái từ nhỏ đã theo me ̣ lên nương, đã đươ ̣c những cây đa ̣i thu ̣ xò e tán che mát suố t
tuổ i ấu thơ. Lớ n lên chú t nữa, những câ ̣u thiếu niên Thái đươ ̣c bố cho tham gia những
cuô ̣c đi săn. Rồ i ho ̣ trưở ng thành trong lò ng đa ̣i ngàn đầy bao dung nhưng cũng đầy
thử thách. Thử thách cả trong tình yêu: em như quả cây đỏ mo ̣ng, ngo ̣t ngào mờ i chào; nhưng đó la ̣i là mờ i chào đầy thách thứ c “chín đỏ trên vách đá ”.
Ai đã từng đến với Mai Châu - Hòa Bình đều không thể quên con đèo đá nổ i
tiếng mang tên Thung Khe. Con đèo mà ngườ i ta sẽ đi trong mây trong mù a hè, cò n
mù a đông thì sương mù giăng giăng quấn quít lấy khách bô ̣ hành. Đi qua con đèo đó ,
ngẩng đầu lên sẽ là những vách đá dựng đứ ng, cao đến hàng trăm mét. Và khi ngắ m
những vách đá như vậy, ngườ i ta mớ i thảng thốt giâ ̣t mình nhớ đến thách thứ c mà
chàng trai đang vấp phải:
“Em như quả cây
Chín đỏ trên vá ch đá ” Đến đây ta la ̣i liên tưở ng đến những câu ca dao quen thuô ̣c:
Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua
Tình yêu là như vâ ̣y, nó có thể khiến ngườ i ta si mê, để khiến ngườ i ta luôn
hướ ng về nhau, để rồ i quên đi mo ̣i khó khăn, để rồ i có thể vươ ̣t qua mo ̣i gian khổ để
đến vớ i nhau “thất bát cử u thâ ̣p đèo cũng qua”. Nhưng đó chỉ là đi qua đèo - mô ̣t
hành đô ̣ng rất khác so vớ i trèo lên mô ̣t vách đá dựng đứ ng. Sinh ra ở miền nú i, những
chàng trai Thái biết rất rõ về mứ c đô ̣ nguy hiểm chết ngườ i củ a những vách đá như
vâ ̣y. Nó i mô ̣t cách khác, những chàng trai trong “tam tứ nú i cũng trè o, ngũ lục sông
cũng lội, thất bá t đè o cũng qua” rất đáng khen ngơ ̣i về lò ng kiên trì vươ ̣t khó , song ho ̣ chưa đến mứ c bi ̣ thử thách đến mứ c bi ̣ đẩy đến ranh giớ i giữa sự số ng và cái chết
như những chàng trai Thái: Em đang ở đô ̣ chín, em rất đe ̣p đẽ, rất ngo ̣t ngào, nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 67
em đang ở trên vách đá này, anh có dám đánh cươ ̣c tính ma ̣ng củ a mình để có đươ ̣c em không?
Có thể nó i rằng: chỉ vớ i hai câu đầu hết sứ c ngắn go ̣n nhưng những từ ngữ đã
xây dựng lên hình ảnh thơ hết sức đă ̣c trưng củ a miền nú i, vớ i các hình ảnh so sánh
rất gần vớ i suy nghĩ củ a người miền nú i.
Dường như chàng trai đã rơi vào bi ki ̣ch tình yêu: để có đươ ̣c tình yêu, anh có thể phải đánh đổ i cả tính ma ̣ng củ a mình. Nhưng có vẻ như chàng trai thông minh đã phát hiện ra vẻ kiêu sa, thâ ̣m chí là kênh kiê ̣u củ a cô gái, và anh tìm mô ̣t giải pháp an
toàn hơn bằng sự thăm dò :
Liê ̣u tay nố i tay là m thang có tớ i được không ?
Cách nói củ a chàng trai lại làm ta nhớ đến mô ̣t bài ca dao hết sứ c quen thuô ̣c:
Bây giờ mận mớ i hỏi đà o
Vườ n hồng đã có ai và o hay chưa ?
Vẫn là cách nói kín đáo, ý nhi ̣ củ a ca dao, dù là ca dao củ a dân tô ̣c Kinh hay
dân tô ̣c Thái. Chỉ có điều khi cô gái Kinh đã kín đáo trả lờ i:
Mận hỏi thì đà o xin thưa Vườ n hồng có lối nhưng chưa ai và o
thì có vẻ cô gái Thái la ̣i không nhanh nhảu như thế. Cô tiếp tu ̣c im lă ̣ng, như quả chín
ở trên vách đá cao tiếp tu ̣c khiêu khích người khách ngườ i bô ̣ hành đó i khát. Như vâ ̣y
“tay nối tay” đã không thể vớ i tớ i thì cần có giải pháp hiê ̣u quả hơn. Và chàng trai đã
tìm ra giải pháp ấy:
Liê ̣u cây nố i cây là m sào có tới được không ?
Hình ảnh rất gần gũi vớ i những ngườ i miền nú i: “cây nối cây” thành chiếc sào dài là cách mà ngườ i dân miền nú i rất hay dù ng để cho ̣c, để hái quả cây. Ngôn ngữ
của bài ca rất giàu hình ảnh và sử dụng nhiều biện pháp tu từ vốn phổ biến trong ca
dao như câu hỏi tu từ, so sánh, điệp ngữ, đăng đối… đã làm tăng hiê ̣u quả thể hiê ̣n
tâm tra ̣ng củ a chàng trai: Ba câu hỏi liên tiếp kết hơ ̣p vớ i viê ̣c liên tiếp láy la ̣i mô ̣t kết
cấu “Liê ̣u tay nối tay…”, “Liê ̣u cây nối cây…”, “Liê ̣u đợi lâu ngà y…” dùng để thể
hiê ̣n những mong muố n, những ướ c mơ, những khát vo ̣ng tình yêu ngày càng tăng trong lòng chàng trai. Bên cạnh đó cách ngắ t nhi ̣p củ a lời ca không đều đă ̣n, nhi ̣p
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 68
nhàng như phần lớ n các bài ca dao củ a dân tô ̣c Kinh mà trái la ̣i, nó trú c trắc và rất
không đều. Cách ngắ t nhi ̣p ấy phù hơ ̣p vớ i lố i tư duy, vớ i khung cảnh số ng củ a những
ngườ i miền nú i; đồ ng thờ i cũng phù hơ ̣p vớ i những khó khăn, trở nga ̣i mà chàng trai
vấp phải trong tình yêu.
Chúng ta phân tích minh họa một đoạn khắp như vậy để thấy rằng khắp Thái
Mai Châu chính là bức tranh hết sức sinh động về cuộc sống sinh hoạt với những
phong tục tập quán, thế giới quan, nhân sinh quan của đồng bào Thái. Vẻ đẹp của
khắp là sự tổng hòa của vẻ đẹp ngôn ngữ, vẻ đẹp văn hóa và vẻ đẹp độc đáo của sáng
tạo nghệ thuật; là kết tinh của sự lựa chọn ngôn từ, sự chắt lọc tiếng nói chung của
cộng đồng và sự thăng hoa cảm xúc sáng tạo của người nghệ sĩ dân gian dân tộc Thái.
Đồng thời chúng ta cũng thấy rằng đồng bào dân tộc Thái Mai Châu có rất nhiều nét
tương đồng, giao thoa dân tộc Kinh trong những tâm tư, tình cảm, cách suy nghĩ và
ứ ng xử. Đó chính là cách cảm, cách nghĩ của một dân tộc trong cộng đồng năm mươi
tư dân tộc Việt.
Tóm lại, khắp giao duyên Thái nảy sinh và phát triển trong môi trường giao
duyên - có sự giao lưu giữa nam và nữ. Trong bối cảnh ấy, khắp giao duyên không
chỉ là lời tâm tình của các đôi trai gái, mà còn là lời đối thoại giữa họ về các mặt
trong đời sống xã hội. Thông qua việc giới thiệu quê hương, bản làng của mình với
bạn tình, các đôi trai gái đã vẽ nên những bức tranh sinh động về qưê hương. Thông
qua lời bộc bạch về những nỗi khổ phải trải qua, những người con trai, con gái phản
ánh thực trạng xã hội mà họ sống, trong đó không chỉ có niềm vui, mà còn có cả
những nỗi buồn, những sự bức xúc... Chính vì vậy, khắp giao duyên không chỉ mang
tính trữ tình, mà còn mang tính hiện thực, không chỉ là những lời tâm tình của các cá
nhân, mà còn chứa đựng những nội dung xã hội rộng lớn. Nội dung các bài khắp giao
duyên có thể nói về cảnh lao động sản xuất, có thể nói về thân phận khổ đau của
những con người bị ức hiếp, tước đoạt tự do, lại cũng có thể nói về nỗi khát khao của
con người về một cuộc sống tốt đẹp. Ở đây, chúng ta nhận thấy có sự tương hợp trong
nội dung phản ánh của khắp giao duyên với các thể loại truyện cổ tích của văn học
dân gian Thái: cũng phản ánh một cách sinh động và phong phú cuộc sống của con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 69
người, từ cuộc sống nội tâm tới cuộc sống xã hội, từ tình cảm yêu thương, căm giận,
tới hoạt động lao động sản xuất. Cũng giống như trong truyện cổ thần kỳ, các tác giả
khắp có cách giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội theo hướng lãng mạn, có nghĩa
là những người tốt, nghèo khổ, bị áp bức sau khi chịu đựng mọi thử thách nghiệt ngã
sẽ giành được hạnh phúc. Điều đó thể hiện nỗi khát khao của con người về một cuộc
sống tốt đẹp, thể hiện lòng tự tin của nhân dân lao động Thái vào sức mạnh của chính
mình, vào xu thế tất thắng của cái thiện.
3.1.2.4. Khắp là bức tranh sinh hoạt sinh động, tự nhiên
Khắp sinh hoạt là loại khắp nảy sinh và phát triển trong sinh hoạt hằng ngày
của người dân Thái, thể hiện những tình cảm, suy nghĩ của người hát trong mối quan
hệ trực tiếp với người đối thoại. Khắp sinh hoạt được diễn xướng một cách thoải mái,
tự nhiên, không gò bó theo khuôn khổ, nghi lễ nào. Đó có thể là lời hát ru của mẹ, của
chị với con, với em. Đó có thể là lời hát đối đáp của các chàng trai và cô gái. Đó còn
là lời hát tinh nghịch của trẻ em khi vui chơi với nhau. Với đặc tính trực tiếp và
không gò bó theo khuôn khổ, loại khắp sinh hoạt có khả năng giúp con ngưòi bộc lộ
một cách thẳng thắn, mạnh mẽ tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mình. Bởi vậy, khắp
sinh hoạt thể hiện chất trữ tình một cách rõ ràng, tác động trực tiếp và dễ gây ấn
tượng sâu sắc cho người nghe. Nhóm khắp sinh hoạt có thể được chia thành những
tiểu loại nhỏ hơn sau đây.
* Nhóm khắp ru trẻ
Hát ru là loại khắp dùng để ru trẻ nhỏ. Những bài hát ru truyền cho trẻ nhỏ tình
cảm thắm thiết của người lớn với trẻ em qua khúc hát êm ái, ngọt ngào. Lời hát ru có
cấu trúc phù hợp với suy nghĩ của trẻ em và tuân theo những nhịp điệu nhất định. Nội
dung các bài hát ru cũng phản ánh khá chân thực cuộc sống đương thời, theo nhiều
cách biểu hiện sinh động:
… “À ơi, ngủ đi con, ngủ đi chớ!
Ngủ cho mẹ đi nương chân núi đá,
Ngủ cho mẹ đi ruộng cạnh bản.
Mẹ đi nương, lấy trứng về nuôi con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 70
Mẹ đi ruộng, lấy cá về con ăn
Mẹ đi lấy quả sổ về cho con.
Ngủ đi con ơi!”…
Mỗi câu trong khắp ru con đều chứa đựng tình cảm đong đầy của người mẹ dành
cho đứa con, giai điệu và ca từ dịu dàng, cùng tiếng đưa nôi đều đều khiến cuộc sống
như tĩnh lặng. Nội dung mỗi bài hát đề cập đến đều rất thực tế, gần gũi với cuộc sống
thường ngày nhưng thể hiện tình yêu và sự bao dung của người mẹ hết lòng vì con.
“À ơi….
Ngủ đi, ngủ đi nhé
Con út mẹ ngủ nôi có tua đỏ, dây xanh
Con trai mẹ ngủ nôi có dây xanh tua vàng
Con út mẹ ngủ nôi dây tơ tằm
Ai đi qua, đi lại
Không đu chớ khóc”…
Với mỗi trẻ em Thái, những bài hát ru chính là bài học đầu đời mà người mẹ
dạy cho con hiểu về cuộc sống xung quanh, về quê hương nguồn cội, về cách làm
người. Những câu hát ru là điều đầu tiên trẻ cảm nhận được, bồi đắp tâm hồn trẻ lớn
dần theo năm tháng. Đó là lời dặn dò khi mẹ lên nương, chuyện về cuộc sống, công
việc hàng ngày, bài học về đối nhân xử thế... Người mẹ có thể hát ru con ngủ khi đưa
nôi, nhưng cũng có thể hát ru khi lên nương, xuống ruộng. Lúc rời xa con nhỏ dù chỉ
nửa ngày, nửa buổi, nỗi nhớ con khiến lời ru của người mẹ trở nên da diết.
… “Ngủ đi nhé
Bố mẹ đi nương ở dưới mái đá
Bố mẹ ra ruộng ở dưới bản
Đi nương mẹ lấy trứng gà về cho
Đi ra ruộng lấy cá về bón
Lấy “ẹp” nếp thơm về cho con thương”…
* Nhóm khắp đồng dao
Khắp đồng dao là loại khắp gắn với sinh hoạt vui chơi của trẻ em Thái, chủ
yếu do các em sáng tác và diễn xướng, với đặc điểm nổi bật là tính chất vui vẻ, hồn
nhiên của lứa tuổi thơ. Là một tiểu loại văn học dân gian dành riêng cho trẻ nhỏ, đồng
dao của trẻ em Thái Mai Châu gắn liền với hoạt động vui chơi, lao động và nhu cầu
hiểu biết, phát triển trí tuệ, tâm hồn của trẻ em. Mỗi bài đồng dao là một bài học bổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 71
ích đối với trẻ nhỏ về các sự vật, hiện tượng, con vật, các tri thức dân gian của dân
tộc, các mối quan hệ, kiến thức về gia đình, xã hội... Nội dung của những bài khắp
đồng dao phản ánh khá sinh động môi trường sống và cuộc sống của trẻ em Thái. Đây
là đồng dao của các em khi chơi đánh đu:
Đu đi đu lại
Rào đồng ngăn cò
Bố cũng chê
Mẹ cũng chê
Nheo mắt chê, đằng sau đố biết
(Đánh đu)
Bên cạnh tác dụng giúp trẻ tăng cường khả năng nhận thức, phát triển tư duy
ngôn ngữ, đồng dao của trẻ em Thái Mai Châu còn tạo lập môi trường vui chơi, giải
trí lành mạnh cho các em nhỏ, để các em được thỏa thích vui chơi được kết nối với
bạn bè, hòa nhập với cộng đồng. Đến với đồng dao, các em được thỏa mãn nhu cầu
tìm hiểu và kết nối với bạn bè. Môi trường diễn xướng của đồng dao là môi trường
sinh hoạt tập thể, đông người. Trẻ nhỏ không thể đọc đồng dao và chơi trò chơi một
mình. Nếu muốn trò chơi thú vị, các em phải rủ thêm bạn bè cùng chơi, cùng hát
đồng dao. Từ đó, đã tạo ra môi trường thuận lợi để trẻ em xích lại gần nhau hơn, thiết
lập và củng cố tình bạn bè, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau
cùng vui chơi, làm việc, học tập. Mặt khác, môi trường diễn xướng của các bài đồng
dao cũng là môi trường rèn luyện, tăng cường sức khỏe của trẻ nhỏ. Thông qua việc
hát, đọc đồng dao và thực hiện các hoạt động chạy, nhảy, vui chơi, lao động, cơ thể
các em được rèn luyện trở lên rắn rỏi, hoạt bát, khỏe mạnh hơn.
- Lưỡi Dá Hổ bằng nào ?
- Bằng quả núc nác.
- Mắt Dá Hổ bằng nào ?
- Bằng quả sổ.
- Vào bản tìm bắt trẻ ăn thịt nhé ?
- Đố bắt được.
(Bịt mắt)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 72
Trong hát vui chơi của trẻ em Thái, hiện thực cuộc sống hiện lên rất sinh động,
phong phú, trong đó nổi bật là thế giới thiên nhiên, thế giới động vật gần gũi, quen
thuộc với các em, được diễn xướng theo những giai điệu vui tươi, nhẹ nhàng:
Đom đóm nhấp nháy
Đom đóm xanh xanh
Mang lửa đến đây
Để soi ống nước gạo
Để soi quãng trâu đằm.
(Đom đóm)
Cấu trúc của các bài đồng dao của người Thái Mai Châu thường gắn gọn, ít
câu chữ. Nhịp điệu phổ biến trong các bài đồng dao thường ngắn gọn, tươi vui, rộn
ràng, hấp dẫn trẻ nhỏ, được các em đặc biệt yêu thích. Với cách gieo vần theo lối vắt
dòng. Lối kết cấu móc xích trong sự phát triển của lời ca, cách lặp âm, gieo vần…
giúp các em nhỏ vừa dễ đọc, dễ nhớ.
Giấu tay Cù
Giấu tay Cà
Sang tay nghẹo
Leo tay lụa
Sua sang chắn
Nằm tay từ
Tay nọ, tay kia nắm chặt
Ở tay nào ?
(Giấu vật trong tay)
Ngôn ngữ trong các bài đồng dao của người Thái giản dị, hồn nhiên mộc mạc,
dễ hiểu, gắn liền với môi trường vui chơi, học tập, sinh hoạt hàng ngày của các em
(con vịt, con gà, quả trứng, cái măng, con đom đóm...). Hệ thống hình ảnh, sinh động
cụ thể, hấp dẫn, hết sức gần gũi, quen thuộc với các em (cánh rừng, ngọn núi, ruộng
bậc thang, công việc hái măng, chăn trâu, xúc cá...), thích hợp với lối tư duy hồn
nhiên, ngây thơ, ngộ nghĩnh, đáng yêu của trẻ nhỏ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 73
“Trăng tròn tròn
Trăng sáng sáng
Ngỗng đội nón quanh bịch lúa
Lợn chống gậy ra cấy đồng
Chó vác rìu phát nương
Gà nhỏ khéo hái rau
Chim cuốc khéo làm tổ
Con nhện khéo giăng tơ
Con hoãng khéo làm mặt nhăn
Con mèo khéo bắt chuột
Con rắn khéo bện thừng
Con rồng khéo kết cổ vằn hoa…”
(Trăng ơi trăng)
Với những giá trị về nội dung và hình thức nghệ thuật đã nêu trên, đồng dao có
ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em người Thái ở
Mai Châu. Đồng dao không chỉ giúp trẻ nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh mà
thông qua việc hát đọc các bài đồng dao, tư duy ngôn ngữ của các bé cũng phát triển
mạnh mẽ. Những từ ngữ gọi tên các sự vật hiện tượng trong thực tại khách quan được
bổ sung từng ngày vào vốn từ ngữ của trẻ. Cách phát âm của trẻ cũng dần chính xác
hơn. Lời ăn, tiếng nói, phản ánh nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh cũng ngày
một đầy đủ, phong phú và hoàn thiện hơn.
Như vậy, tác dụng giáo dục của các bài đồng dao được tạo nên từ những nội
dung, hình thức nghệ thuật độc đáo nhưng rất đỗi giản dị, thân thuộc, gần gũi và vô
cùng thiết thực với cuộc sống của trẻ thơ. Thông qua những bài đồng dao, thế giới
thực tại khách quan và những bài học trong cuộc sống sẽ được ngấm dần một cách tự
nhiên vào tâm hồn, trí tuệ của trẻ nhỏ và giúp các em khôn lớn. Với nội dung phong
phú, lành mạnh, cách diễn đạt nhẹ nhàng, thoải mái, vừa hư ảo vừa hiện thực, khắp
đồng dao có tính giáo dục cao, giúp trẻ em nâng cao nhận thức và thẩm mỹ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 74
3.1.3. Phương thức diễn xướng và nghệ thuật khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu
3.1.3.1. Phương thức diễn xướng
Các thể loại văn học dân gian ra đời đều có mối quan hệ gắn bó với đời sống
của người dân Thái nhưng có lẽ khắp là thể loại gắn bó thiết tha hơn cả. Dường như
mỗi chặng đời người đều được đánh dấu bằng những tiểu loại khắp riêng, hát trao
vòng cho trẻ sơ sinh; hát đồng dao cho các em nhi đồng, thiếu niên; hát giao duyên
nam nữ; hát đám cưới cho các lứa đôi, hát lên nhà mới cho những gia đình hạnh phúc.
Vào lứa tuổi trung niên người Thái phải biết khắp để tham gia sinh hoạt trong các
ngày hội, ngày lễ cầu cúng của cả bản làng. Những người già thường yêu thích những
buổi hát kể sử thi hay các anh hùng ca dân tộc. Và khi xế chiều mãn bóng thì mỗi
người được cả cộng đồng ca hát tiễn tới nơi an nghỉ cuối cùng...
Khắp là hình thức diễn xướng của các bài thơ, các tác phẩm văn học, trong đó
có cả tác phẩm tự sự, như tác phẩm thuộc thể loại sử thi, truyện cổ tích... và các tác
phẩm trữ tình. Mọi thế hệ người Thái đều ý thức trao lại cho đời sau cách diễn xướng
những làn điệu dân ca đậm đà bản sắc văn hóa, tượng trưng cho giá trị tinh thần, tính
cách của dân tộc. Phương thức diễn xướng của khắp Thái chủ yếu là hát thơ, có nhạc
đệm hoặc không có nhạc đệm, trong môi trường sinh hoạt vui chơi, hoặc đám cưới,
hoặc tín ngưỡng. Mỗi làn điệu khắp có cách diễn xướng khác nhau. Bởi vậy, cần phải
hiểu hình thức diễn xướng của khắp một cách linh hoạt, gắn với mỗi môi trường sinh
hoạt văn hóa, ứng với mỗi nội dung sinh hoạt, gắn với mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội...
Diễn xướng khắp là yếu tố ngoài văn bản nghệ thuật ngôn từ, nhưng nó là yếu tố
không thể bỏ qua nếu muốn hiểu đúng, hiểu sâu sắc về nghệ thuật này.
Do quá trình hội nhập với cuộc sống hiện đại, nhiều hình thức diễn xướng cổ
của khắp Thái Mai Châu đã bị mai một. Trong quá trình tìm hiểu và nghe mô tả của
các nghệ nhân, xin được nêu lại một số phương thức diễn xướng của khắp như sau:
- Các làn điệu khắp xư (hát thơ): Bình thường, “khắp xư” chỉ "xướng" chứ
không "diễn", mục đích của khắp xư là để hiểu nội dung tác phẩm, nên phải thể hiện
cảm xúc bằng giọng đọc. Nhưng khi khắp các tác phẩm mang dáng dấp sử thi - ví dụ
như khắp Chương Han, khắp Ẳm ệt… - thì sẽ có một người khắp chính và những
người phụ hoạ, với trang phục nghi lễ trang nghiêm. Người khắp chính phải đứng ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 75
tư thế ngẩng mặt lên cao, hướng về phía mâm thờ và cất giọng khắp nghiêm trang,
hùng tráng. Đoàn phụ hoạ sẽ đứng thành hàng sử dụng các nhạc cụ truyền thống như
cồng, chiêng, nhạc cụ tre nứa... đệm phụ họa đúng bài bản, nhịp nhàng. Khắp lễ nghi
chỉ được thực hiện khi cúng tế các anh hùng hoặc Xên Bản, Xên Mường.
- Khắp báo sao (hát trai gái, hát giao duyên): Khắp báo sao là điệu hát thiết
tha, đằm thắm, yêu thương... của tình yêu nam nữ. Bối cảnh của khắp báo sao thường
là trên sàn hạn khuống, trong các hội xuân, trong các dịp hội họp đông vui, trên một
mảnh nương, bên một đoạn suối, trong lúc đi hái bông lau, hoặc trong khi đi hái bông
vải... Những buổi khắp có tổ chức ở quy mô nhất định thường diễn ra qua các bước:
khắp chào mời, khắp thăm hỏi, khắp thử tài và cuối cùng là khắp dặn dò hẹn ước.
- Khắp pan làu pan chàu (hát bên mâm cơm): Khắp bên mâm cơm cũng có thể
có khắp báo sao. Diễn xướng ở đây là cách diễn xướng tự do, tức là hát không cần
động tác hoặc động tác đơn giản, không kèm tập tục hay một quy định nào cả. Người
hát ngồi bình thường trong mâm, mắt nhìn đối phương, hát hết một đoạn thì mọi
người vỗ tay tán thưởng. Khắp hết bài của mình thì có lời khắp chuyển cho người
khác. Người sau khắp xong bài lại có quyền chuyền cho người nào đó tuỳ mình lựa
chọn. Cứ như thế, mọi người sẽ thay nhau khắp, ai cũng phải khắp một số lần. Nhưng
về sau sẽ dừng lại ở hai người khắp hay nhất, và cuộc khắp đối đáp sẽ diễn ra. Hai
bên sẽ trổ tài vận dụng kiến thức khắp của mình để thi với đối phương. Một người
nêu ra câu hỏi, người kia đáp lời và hỏi lại, cứ như vậy với điều kiện không được lặp
lại các lời khắp.
- Khắp trên hạn khuống: Hạn khuống là sân chơi cho lớp trẻ giao lưu, nơi
người già dạy con cháu điều hay lẽ phải, dạy đan lát thêu thùa... Hạn khuống là một
cái sàn dựng ngoài sân cao khoảng hơn một mét, muốn lên phải trèo bằng thang. Buổi
tối các cô gái sẽ mang củi xuống đốt lửa và ngồi quay sa, kéo sợi. Cái thang đã bị các
cô gái cất đi. Các chàng trai muốn lên chơi phải xin được lên hạn khuống. Sau khi
được bên nữ thả thang cho lên hạn khuống, các chàng trai cô gái sẽ khắp đối đáp theo
điệu báo sao. Trai gái diễn xướng tự do, đơn giản, hai bên ngồi đối diện hoặc ngồi
xen kẽ. Nếu riêng tư thì họ có thể dẫn nhau ra góc sàn tâm sự bằng cách đọc những
lời khắp đối đáp thủ thỉ, tình tứ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 76
- Khắp xe (hát trong vòng xoè): Trong ngày vui (cưới, lên nhà mới, tết, lễ
hội...), khi đang diễn ra cuộc khắp đối đáp thì các cô gái có thể mời các chàng trai
sang múa xòe. Trên vòng xòe thường là các cô sẽ chủ động sắp xếp sao cho gái trai
xen kẽ. Mọi người bước đi nhịp nhàng treo điệu múa truyền thống (Xòe là một trong
những điệu múa phổ thông nổi tiếng của người Thái. Vào các dịp Tết, lễ hội, sau một
vài tuần uống rượu vui, mọi người tay cầm tay cùng múa vui say sưa trong không khí
nhộn nhịp của khắp; của tiếng trống, tiếng cồng chiêng. Tâm tình của lời khắp, hơi
men của rượu, hơi ấm của bàn tay cùng âm vang thôi thúc giục giã của tiếng cồng
chiêng làm mọi người muốn xích lại gần nhau hơn trong không khí tưng bừng của
cuộc vui). Một cô gái sẽ mở đầu bằng những lời “khắp” mời mọi người cùng chơi
vui, cùng múa hát cho nhau nghe và cuộc hát đối đáp sẽ diễn ra. Mới đầu là những
câu hỏi thăm tên tuổi, quê quán, hỏi về gia đình, người thương ở nhà... Sau đó là
những lời hát trêu đùa, thăm dò nhau, rồi dần dẫn đến thân thiết, tâm tình với nhau.
Cách diễn xướng ở đây là vừa bước đi theo vòng xòe vừa hát.
- Khắp lẻ: Khi đi chặt cây, lấy củi, hái măng trên rừng, các chàng trai và cô gái
cũng hay khắp với nhau từ xa. Người này hát xong, người kia sẽ đáp lại. Chủ đề chủ
yếu là những lời trêu chọc, tán tỉnh, tỏ tình… Khắp lẻ cũng được dùng khi đi chơi
đêm, khi đó các chàng trai thường hay hát điệu buồn man mác nhằm bày tỏ nỗi lòng,
tâm tư, tình cảm, ước mong… của mình trong không gian yên tĩnh của đêm núi rừng.
Như vậy, sinh hoạt khắp gắn bó chặt chẽ với đời sống dân gian, là cơ sở quan
trọng hình thành nên diễn xướng khắp - diễn xướng một bộ phận thơ ca dân gian đậm
chất trữ tình trong kho tàng thơ ca dân tộc Thái Mai Châu. Môi trường diễn xướng
khắp nằm ở ngay trong môi trường sống hàng ngày của người Thái: từ bên mâm cơm
đến sàn sân và ra rừng núi, với hoạt động phong phú: từ ăn uống, vui chơi, tâm sự, tới
lao động sản xuất. Chính vì gắn bó chặt chẽ với đời sống như vậy, khắp có sức sống
mãnh liệt, trường tồn trong đời sống nhân dân Thái.
3.1.3.2. Nghệ thuật khắp
* Nghệ thuật phóng đại, lý tưởng hóa:
Đây là biện pháp nghệ thuật thường được dùng trong các tác phẩm mang dáng
dấp sử thi như “Ẳm ệt luông”, “Ẳm ệt nọi”, “Khay pắc phạ”, “Chương Han”…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 77
Phóng đại và lý tưởng hóa được sử dụng trong việc kỳ vĩ sự kiện, lý tưởng hóa nhân
vật anh hùng. Nhân vật được nâng lên mức độ thần thánh, phù hợp với nguyện ước
của cộng đồng. Đây là cảnh ông bà Chu Cúm tạo thành trời đất:
… “Then bảo ông Chu Cúm phải kéo trời
Bảo bà Chu Cúm phải kéo đất
Bà Chu Cúm kéo đất rủ nhau rộng nhanh
Ông Chu Cúm kéo trời rủ nhau rụt lại
Bà kéo đất phải co đất lại thành ba mươi núi chập trùng
Thành chín mươi triệu suối khe”…
(Ẳm ệt luông)
* Lối nói nhún nhường của nhân vật trữ tình:
Trong giao tiếp, dân tộc Thái Mai Châu có một đặc điểm rất đáng lưu ý, đó là
cách nói nhún nhường, xã giao. Người dân Thái không có thói quen lên mặt, khoe
khoang, khuếch trương bản thân; ngược lại, họ thường tự hạ thấp giá trị thực tế của
mình. Điều này cũng thể hiện rất rõ trong khắp:
… “Anh muốn thắt chặt với em
Nhưng anh không xứng
Xứng với em chỉ con út tạo Poọng
Xứng với em chỉ con tạo mường
Xứng với em chỉ có con Long Vương đầu nguồn
Xứng với em chỉ có con út trời có phép thần linh”…
(Giao duyên)
* Ngôn ngữ miêu tả:
Khắp Thái thường dùng lối miêu tả cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết khiến tâm tư, tình
cảm… của nhân vật trữ tình rất đa dạng, phong phú; cuộc sống hiện lên rất sinh động:
… “Gốc trầu em ươm
Giàn trầu này em trồng
Gốc trầu này ươm đất đen
Gốc trầu này em trồng đất ấm
Trầu nghe ấm trầu lên
Trầu nghe mát trầu mọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 78
Trầu lên giàn lá xanh
Cau thành cây, tàu lá cong sai quả
Trầu lá vàng rụng xuống
Dao nhỏ em bổ cau
Trầu lá đẹp têm thành miếng
Têm trầu được miếng chặt
Đặt trầu được miếng ngon
Xếp trầu vào đĩa bạc
Bưng đĩa trầu đặt lên chiếu mời anh xơi !”
(Giao duyên)
* Nhịp điệu:
Có thể xem khắp ra đời như một đòi hỏi tất yếu của thực tiễn, trước hết đáp
ứng nhu cầu về nhịp trong lao động tập thể. Yếu tố nhịp này sẽ góp phần tạo nên sự
cộng hưởng sức mạnh, vốn rất cần trong lao động. Khắp gắn với hình thức lao động
nào thì được điều chỉnh giai điệu cho phù hợp với yêu cầu của công việc đó. Nhiều
tiểu loại khắp đã lấy tên từ chính là loại hình công việc mà nó tham gia như: khắp dệt
vải, khắp kéo gỗ, khắp gieo vừng, gieo kê… Khắp gieo kê, gieo vừng thì có nhịp điệu
nhẹ nhàng, chậm rãi, phù hợp với các động tác của công việc trồng cấy:
… “Tiếng chặt cây em yêu nào phát
Tiếng chặt cây to rìu ai chém
Phát rừng trồng bông hay trồng dâu tằm
Phát rừng trồng bông cho anh xin chung đồi
Phát rừng trồng dâu cho anh xin chung vườn với”.
(Hát gieo vừng, gieo kê)
Khắp ru con thì dịu dàng, thiết tha:
“ À ơi, ngủ đi con, ngủ đi chớ!
Ngủ cho mẹ đi nương chân núi đá,
Ngủ cho mẹ đi ruộng cạnh bản.
Mẹ đi nương, lấy trứng về nuôi con
Mẹ đi ruộng, lấy cá về con ăn…”
(Ru con)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 79
Hò kéo gỗ, kéo chài thì có nhịp ngắn gọn, khỏe mạnh, gân guốc:
Hai ba
Cố kéo
Kéo cho thật
Kéo đồng sức
Kéo cứng chân
Kéo cứng tay
Cầm dây
Bẩy về.
(Hò kéo gỗ)
* Làn điệu:
Khắp của dân tộc Thái rất phong phú và đa dạng về làn điệu: tâm tình, thủ thỉ
ở khắp báo sao; hào hùng, mạnh mẽ ở khắp Chương; rì rầm thành kính ở khắp mo;
nhịp nhàng, sôi nổi trong khắp xe… Trong các cuộc hát đối đáp, hát giao duyên,
người hát sẽ chọn những câu, đoạn trong vốn kiến thức của mình để hát cho phù hợp.
Vốn kiến thức là những lời hát trong các tác phẩm truyện thơ nổi tiếng như “Xống
chụ xon xao” (Tiễn dặn người yêu), “Khun Lú, nàng Ủa” (Chàng Lú, nàng Ủa)…
hoặc các bài khắp truyền thống khác được lưu truyền trong dân gian. Và cũng chính
vì lý do cơ bản này mà ta có thể nói rằng khắp Thái có quan hệ mật thiết với truyện
thơ - một thể loại văn học dân gian rất có giá trị khác của dân tộc Thái. Nội dung của
khắp và truyện thơ Thái có sự giao thoa rất mạnh, cùng phản ánh mâu thuẫn giữa
người nghèo khổ và kẻ giàu sang, mâu thuẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, mâu
thuẫn giữa tình yêu chân chính của lứa đôi với những đòi hỏi khắt khe, lạnh lùng,
nhiều khi mất hết nhân tính của gia đình và xã hội. Nhiều trường đoạn khắp và truyện
thơ kể về thân phận hẩm hiu, đau khổ; về tình yêu thiết tha và ngang trái của các
chàng trai, cô gái dân tộc Thái; về khát vọng đấu tranh cho tình yêu tự do, cho hạnh
phúc; ... gần như trùng lắp với nhau. Tiêu biểu là các truyện thơ “Tiễn dặn người
yêu”, “Chàng Lú, Nàng Ủa”, “Nàng Nèn”…
Tóm lại, khắp Thái Mai Châu nảy sinh, tồn tại và phát triển từ chính cuộc sống
của dân tộc Thái, vừa mang đậm bản sắc của riêng dân tộc Thái, vừa có những tính
chất chung, góp phần làm nên tính chất phong phú, đa dạng và độc đáo của nền văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 80
hoá Việt Nam đa dân tộc. Khắp cần được coi trọng, bảo tồn và phát huy trong đời
sống của người dân Thái hiện đại.
3.2. Tục ngữ
Văn học dân gian nói chung và tục ngữ nói riêng xuất phát trực tiếp từ lao
động rồi trực tiếp phục vụ cho lao động sản xuất và người lao động. Tục ngữ là tiếng
nói được tổng kết từ cuộc sống của nhân dân trong mối quan hệ với thiên nhiên và lao
động sản xuất, là sản phẩm tư duy của người lao động. Bắt đầu từ những nhận xét
giản đơn về thời tiết, khí hậu đã ảnh hưởng đến lao động và đời sống của con người.
Những nhận xét đó, qua chiêm nghiệm được xem như quy luật của thiên nhiên tác
động đến sản xuất và cũng có thể là những kinh nghiệm đã trở thành tập quán "xưa
làm, nay bắt chước", lưu truyền trong nhân dân.
Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
đồng chủ biên có định nghĩa tục ngữ là “Một thể loại văn học dân gian mà chức năng
chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc
tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền” [7,tr.377].
Tục ngữ là cẩm nang đa năng của nhân dân lao động về những tri thức dân
gian muôn mặt quý báu trong cuộc đời. Tục ngữ là kinh nghiệm nhưng không phải là
kinh nghiệm của một người nào đó có tính chất cá nhân mà nó mang sức mạnh của bề
dày truyền thống lịch sử của một dân tộc, là một hành vi ngôn ngữ có tính xã hội
được truyền từ đời này sang đời khác. Sự đúc kết đạo lý của cuộc sống được tiến
hành thông qua những kinh nghiệm đã được thử thách, thông qua thế giới quan, nhân
sinh quan và trình độ nhận thức của nhân dân lao động về các khía cạnh trong xã hội.
Vì vậy tục ngữ có sức mạnh thuyết phục lớn lao.
Mỗi dân tộc đều có rất nhiều lời khuyên với những ý nghĩa khác nhau được
hình thành và gắn liền với sự tồn tại, phát triển của dân tộc mình. Dân tộc Thái Mai
Châu có một kho tục ngữ thể hiện những kinh nghiệm về nhiều lĩnh vực. Đó là những
kinh nghiệm về sản xuất, về đối nhân xử thế, về quan hệ giữa con người với thiên
nhiên… Đây quả thực là một kho tàng kiến thức dân gian để mỗi người dân Thái nói
riêng và nhân dân các dân tộc nói chung soi vào đó để học tập.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 81
3.2.1. Phân loại tục ngữ của dân tộc Thái ở Mai Châu
Tục ngữ của dân tộc Thái Mai Châu thể hiện nhiều nội dung, đó là những
kinnh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về cày bừa, kinh nghiệm về trồng trọt, kinh
nghiệm về chăn nuôi, kinh nghiệm về ứng xử với thiên nhiên, kinh nghiệm đối nhân
xử thế... Tuy nhiên, để khái quát thì ta có thể chia tục ngữ Thái Mai Châu thành hai
loại cơ bản:
- Tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất.
- Tục ngữ thể hiện các triết lý dân gian.
3.2.2. Nội dung tục ngữ dân tộc Thái ở Mai Châu
3.2.2.1. Phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất
Trong điều kiện khoa học chưa phát triển, việc xem xét các hiện tượng thiên
nhiên, đặt trong mối tương quan ảnh hưởng của thời tiết với đất đai, cây trồng để rút
ra những kinh nghiệm là một vấn đề không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp. Có
lẽ tác động quan trọng nhất của thiên nhiên đối với sản xuất và đời sống là mưa và
nắng. Là một trong rất ít các dân tộc thiểu số có kinh nghiệm làm lúa nước từ lâu đời,
người Thái ở Mai Châu có một kho tàng phong phú những câu tục ngữ quan sát hiện
tượng nắng mưa.
- Nắng tháng sáu được lúa
Nắng tháng tám, tháng chín mất mùa.
Nếu tục ngữ người Việt có câu "Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa" thì
dân tộc Thái Mai Châu cũng có những câu tương tự:
- Sao mờ trời nắng
Sao tỏ trời mưa.
Tục ngữ về lao động sản xuất phản ánh điều kiện và phương thức lao động của
nhân dân Thái, phản ánh đặc điểm đời sống của dân tộc Thái. Những kinh nghiệm về
lao động sản xuất nảy sinh trong quá trình đấu tranh thiên nhiên của nhân dân lao
động được đúc kết trong tục ngữ được phổ biến rộng rãi, trở thành tri thức khoa học
kỹ thuật dân gian.
- Sấm đầu năm, nguồn sông Đà sửa gác
Sấm đầu năm, cuối sông Mã sửa thuổng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 82
Trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt, nhân dân tích lũy được nhiều
kinh nghiệm về quy luật diễn biến của thời tiết khí hậu:
- Sao mờ trời nắng
Sao tỏ trời mưa.
Trong quá trình lao động sản xuất ở các ngành nghề nông nghiệp, người dân
lao động Thái cũng đã đúc kết được rất nhiều kinh nghiệm. Đó là những kinh nghiệm
về trồng trọt:
- Tháng năm gieo mạ
Tháng sáu lấy mạ đi cấy
Tháng bảy lúa đẻ nhánh
Tháng tám lúa xanh trổ
Tháng chín lúa trên nương đã vàng
Lúa dưới đồng chín lốm đốm bông cái.
Hoặc là những kinh nghiệm về chăn nuôi:
- Lúa ở trên, cá ở dưới.
- Trồng khoai phải thành vườn, nuôi tằm phải thành cửi.
Tục ngữ về lao động sản xuất thể hiện tinh thần sáng tạo của nhân dân lao
động Thái. Đó chủ yếu là những kinh nghiệm hết sức phong phú được đúc rút từ thực
tiễn của đời sống lao động sinh động của nhân dân.
- Đi làm nương chớ mang theo chó
Đi làm ruộng chớ mang theo con nhỏ.
3.2.2.2. Tục ngữ thể hiện các triết lý dân gian của dân tộc Thái
Tục ngữ dân gian Thái phản ánh những kinh nghiệm sống và lối sống của nhân
dân, phản ánh tư tưởng và đạo đức truyền thống của người dân Thái, trong đó bao
hàm cả những tư tưởng chính trị xã hội và tư tưởng triết học. Trước hết đó là những
quan niệm chung về con người:
- Người nào cũng có lúc xấu, vải nào cũng có lúc rách.
- Cây rừng không thể bằng ngọn,
nhiều người nhiều suy nghĩ khác nhau.
- Trâu sừng cụp không uốn thẳng được,
người ương bướng khó thay đổi tính nết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 83
- Voi bốn chân có lúc còn trượt ngã
Ý nghĩ nhiều lúc cũng sai.
Dân tộc Thái rất trọng quan hệ anh em ruột thịt, họ hàng:
- Anh em cùng ông như đũa chung rổ.
Anh em cùng ngoại như trâu chung chuồng.
- Chim lạc đàn chim kêu
Anh em xa nhau thì nhớ.
Tục ngữ Thái thể hiện những kinh nghiệm ứng xử trong quan hệ vợ chồng. Họ
cho rằng là vợ chồng thì không bao giờ nên bất đồng, không bao giờ được cãi nhau,
dù chỉ là những cuộc cãi cọ ngắn ngủi:
- Anh em cãi nhau cả ngày vẫn là anh em.
Vợ chồng cãi nhau một giờ thành dưng.
Những kinh nghiệm trong ứng xử với bạn bè làng xóm chứng tỏ dân tộc Thái
rất khéo léo, tế nhị:
- Anh em đến nhà không được đánh chó
Cô bác đến thăm không được đánh con.
Tục ngữ Thái thể hiện những ước muốn tốt đẹp trong cuộc sống của người dân
lao động:
- Nuôi con muốn cho con khôn
Cắm que muốn được rượu cần ngon.
Tục ngữ Thái thể hiện cách xét đoán con người qua lao động. Những câu tục
ngữ rất gần với những kinh nghiệm như “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “Gần mực thì
đen, gần đèn thì sáng” của dân tộc Kinh:
- Làm bạn với người lười mình cũng lười
Làm bạn với người chăm mình cũng chăm.
- Hay làm người khỏe mạnh, lười làm người gầy còm.
Người dân lao động Thái ca ngợi thái độ chăm chỉ trong lao động. Họ không
chấp nhận thái độ chỉ biết kêu ca, rên rỉ về một cuộc sống khó khăn mà yêu cầu phải
biết phấn đấu, làm lụng chăm chỉ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 84
- Phát nương qua chín gò mối, không có ăn thì hãy kêu trời.
- Mồ hôi rỏ xuống nước thành cá
Mồ hôi rỏ xuống ruộng thành lúa
Mồ hôi rỏ xuống rừng thành sắn khoai.
- Nhà có ba trâu không đói, nhà có ba chày không nhịn.
Do đó, người dân lao động Thái kịch liệt phê phán thói lười biếng. Họ biết
rằng lười biếng luôn đi đôi với đói khát, rét mướt:
- Ngồi còn hơn nằm, đi còn hơn ở.
- Chơi không thì chết đói, mày mò còn được ăn.
- Lười làm, nghe bụng ban chiều
Lười dệt vải, nghe cái rét mùa đông.
Người dân lao động Thái không thích những gì là có sẵn, họ biết rằng đó chỉ là
của cải phù vân; họ cho rằng cần phải biết cách tự mình tạo ra của cải vật chất và trân
trọng những thành quả lao động đó:
- Của chân tay khắc làm như có mỏ
Của bố mẹ cho như biết trôi dòng.
Cũng như quan niệm của dân tộc Kinh trong “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, người
dân Thái cũng cho rằng nội dung quan trọng hơn hình thức:
Đẹp bề ngoài, mục thối bên trong.
Tục ngữ Thái phản ánh khá phong phú những đức tính của nhân dân lao
động, thể hiện truyền thống tư tưởng, đạo đức của nhân dân thông qua những nhận
xét, suy ngẫm rất sâu sắc về hiện thực. Đó là những trăn trở, lo toan, tính toán trong
công việc:
- Một miếng cơm, chín cái lo
Một miếng cơm, chín xoáy lạt
Một miếng cơm, chín giọt mồ hôi.
Người dân Thái rất ghét những kẻ cơ hội:
- Ngã thuyền đừng đẩy thuyền chạy, nước cạn đừng tháo thêm.
Tục ngữ Thái kêu gọi ý chí vươn lên, vượt qua hoàn cảnh thực tại:
- Nghèo không nghèo cả đời
Đẹp không đẹp muôn thuở.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 85
- Cơm, cá không của riêng ai; tơ tằm không của riêng ai.
Câu tục ngữ “Ngắn cây thì mất, ngắn đất hãy còn” của người Thái mang dáng
dấp tinh thần lạc quan, vượt lên trên số phận trong câu “Đừng than phận khó ai ơi -
Còn da: lông mọc, còn chồi: nảy cây” của dân tộc Kinh.
Về vấn đề học hành, tục ngữ Thái luôn khuyên con người cố gắng học hỏi, tích
lũy kiến thức, kinh nghiệm sống:
- Bố mẹ dạy không bằng thầy dạy.
Thày dạy không bằng ham muốn học hỏi.
- Của để cho con cháu không gì bằng chân chài và quyển sách.
Tục ngữ Thái là những kinh nghiệm của nhân dân được đúc rút từ trong thục
tiễn phong phú của cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có một số câu tục ngữ phản ánh
những nhận thức có tính chất duy vật tự phát của dân tộc Thái.
- Yêu ai bảo người ấy đẹp
Sa của ai vừa tay người ấy.
- Thời nào khuôn ấy
Thời trước, đời trước xếp
Thời sau, đời sau sắp đặt.
- Chọn vợ xem bà ngoại
Chọn trâu xem con đầu đàn.
- Mẹ nó đốm thì con nó đốm
Ngoại nó vằn thì cháu nó vằn.
3.2.3. Nghệ thuật tục ngữ dân tộc Thái ở Mai Châu
Tục ngữ Thái có tính đa nghĩa. Một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa
đen và nghĩa bóng.
- Bảo rái cá đi thăm đó.
- Lên núi này thấy thấp, nhìn núi nọ thấy cao.
- Đừng kéo thuồng luồng vào thuyền, chớ dẫn hổ vào bản.
Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành
những phương châm, chân lý, xu hướng này thể hiện bằng ngôn từ đều qua lối tư duy
hình tượng, lối nói hình tượng. Hình tượng của tục ngữ thường được xây dựng từ
những biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ ...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 86
- Một miếng cơm, chín cái lo
Một miếng cơm, chín xoáy lạt
- Của chân tay khắc làm như có mỏ
Của bố mẹ cho như biết trôi dòng.
- Của quý không ở lại với người dốt
Tai vạ không đến với người khôn.
Ða số tục ngữ Thái đều có vần. Đặc điểm này tạo điều kiện cho tục ngữ đi vào
nhân dân lao động một cách tự nhiên, dễ dàng đưa ra ứng dụng vào những thời điểm
phù hợp:
"Đin đăm háy pú teng
Đin đeng háy pú phải"
(Đất đen nương trồng dưa
Đất đỏ nương bông vải)
Nhịp điệu là yếu tố quan trọng trong tục ngữ Thái. Sự hòa đối là yếu tố tạo sự
cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ Thái:
- Ăn khắc hết, làm khắc xong.
- Nhiều người ăn thì hết, nhiều người làm thì xong.
Về hình thức ngữ pháp, những câu tục ngữ Thái hầu như không có dạng câu
một mệnh đề mà thường chứa ít nhất hai mệnh đề:
- Sao mờ trời nắng
Sao tỏ trời mưa.
- Một thửa ruộng không bõ công cấy
Một con vịt không bõ công nuôi
Cũng có thể chứa rất nhiều nhận định thông qua các mệnh đề:
- Tháng năm gieo mạ
Tháng sáu lấy mạ đi cấy
Tháng bảy lúa đẻ nhánh
Tháng tám lúa xanh trổ
Tháng chín lúa trên nương đã vàng
Lúa dưới đồng chín lốm đốm bông cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 87
Về phong cách biểu đạt, tục ngữ Thái hầu như thiếu khuyết đại từ nhân xưng.
Điều này rất khác so với khắp Thái và nó khiến cho tục ngữ Thái có xu hướng khách
quan khi trình bày những kinh nghiệm và thể hiện rõ phong cách khuyên bảo, răn dạy
của nhân dân lao động Thái.
* Tiểu kết:
Ở chương III chúng tôi đã nói về khắp và tục ngữ Thái. Khắp Thái thể hiện quá
trình vận động, phát triển phong phú, lâu dài của tư duy nghệ thuật và của ý thức xã hội
dân tộc Thái: từ những bài khắp nghi lễ cổ xưa gắn với tư duy thần thoại, sử thi đến
những bài hát vui chơi, chúc mừng có tính chất thế tục đã thể hiện những cảm quan
trong suy tưởng và nhận thức về thiên niên, xã hội của người dân lao động Thái trong
suốt hơn bảy trăm năm lịch sử sống ở miền đất Mai Châu. Khắp Thái Mai Châu chính
là bức tranh hết sức sinh động về cuộc sống sinh hoạt với những phong tục tập quán,
thế giới quan, nhân sinh quan của đồng bào Thái. Vẻ đẹp của khắp là sự tổng hòa của
vẻ đẹp ngôn ngữ, vẻ đẹp văn hóa và vẻ đẹp độc đáo của sáng tạo nghệ thuật; là kết
tinh của sự lựa chọn ngôn từ, sự chắt lọc tiếng nói chung của cộng đồng và sự thăng
hoa cảm xúc sáng tạo của người nghệ sĩ dân gian dân tô ̣c Thái.
Khắp Thái giàu chất trữ tình, mê say; lời hát cầu kỳ, trau chuốt. Tìm hiểu kỹ thì
chúng ta sẽ thấy trong đó quê hương Thái, con người Thái với những tâm tư, suy
nghĩ… đặc trưng của người dân miền núi sống gắn bó với núi rừng. Trong khi đó, tục
ngữ Thái đã để lại cho thế hệ sau một kho tàng tri thức quý giá, giúp người dân lao
động Thái luôn chính xác trong ứng xử với thiên nhiên và với cộng đồng; luôn chiến
thắng trong cuộc đấu tranh chế ngự và chinh phục thiên phục thiên nhiên; luôn đoàn
kết, gắn bó, sẻ chia trong sinh hoạt ở làng xóm, bản mường. Tục ngữ đã đúc kết, khái
quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý… qua lối tư duy
hình tượng, lối nói hình tượng với những biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn
dụ ...Tục ngữ đã phản ánh khá phong phú những đức tính của nhân dân lao động
Thái, thể hiện truyền thống tư tưởng, đạo đức của người dân Thái thông qua những
nhận xét, suy ngẫm rất sâu sắc về hiện thực, về cuộc sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 88
KẾT LUẬN
1. Hình thành trong đời sống, thể hiện cuộc sống, văn học dân gian Thái ở Mai
Châu luôn là tấm gương trung thành phản ánh hiện thực. Chính điều này mang lại sức
hấp dẫn và sự phong phú đa dạng của văn học dân gian trong đời sống văn học nói
chung của dân tộc Thái. Ở một mức độ nhất định, có thể thấy văn học dân gian Thái
còn gắn bó với thực tế cuộc sống nhiều hơn văn học viết khi nó đã đồng hành với
người dân Thái Mai Châu hơn bảy trăm năm qua, và ngày nay vẫn luôn theo sát với
đời sống mới của dân tộc Thái trong đời sống hiện đại ngày nay. Vì vậy văn học dân
gian dân tộc Thái Mai Châu giữ vai trò quan trọng không chỉ đối với văn hoá truyền
thống mà còn với cả chính con người trong cuộc sống đương đại.
2. Về nội dung, mỗi thể loại văn học dân gian Thái phản ánh một mảng hiện
thực sinh động trong cuộc sống của đồng bào Thái Mai Châu. Truyền thuyết bắt
nguồn từ cảm hứng tự hào và ngợi ca những anh hùng kiệt xuất có nhiều công trạng
với nhân dân Thái Mai Châu nói riêng và với đất nước nói chung; cổ tích thể hiện
ước mơ về một xã hội công bằng, không có áp bức, bóc lột; truyện cười đem lại tiếng
cười mua vui cho thiên hạ để cho họ giải tỏa những mệt nhọc, vất vả sau một ngày
lao động và phê phán, châm biếm, mỉa mai các thói hư tật xấu của con người; khắp
thể hiện những cung bậc, trạng thái phong phú, đa dạng trong tâm tư, tình cảm, khát
vọng của mọi người dân Thái; tục ngữ là những tri thức dân gian được đúc rút qua
thực tế cuộc sống của người dân lao động… Tổng hòa lại, với nội dung phong phú và
độc đáo của nó, văn học dân gian Thái Mai Châu đã góp phần quan trọng trong việc
bồi đắp nên những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Thái, trong đó nổi lên truyền
thống lao động cần cù, sáng tạo, truyền thống đoàn kết yêu thương đùm bọc, giúp đỡ
lẫn nhau, truyền thống chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, bảo vệ quê hương đất nước.
3. Về nghệ thuật, trước hết chúng ta có thể nhận thấy những yếu tố nghệ thuật
đơn sơ, mộc mạc qua cách diễn đạt so sánh, ví von độc đáo và nhiều hình ảnh. Đặc
biệt, thông qua hình thức diễn xướng phong phú, đa dạng, văn học dân gian Thái Mai
Châu đã và đang được bảo lưu khá bền vững trong sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt nghi
lễ của dân tộc Thái. Mỗi thể loại có những đặc sắc riêng: Truyền thuyết vừa hướng
người nghe về cõi thiêng bằng cách tạo ra được niềm tin trong đời sống tâm linh, vừa
tỉnh táo đặt ra và lý giải những vấn đề trọng đại đối với lịch sử phát triển của tộc
người, dù có thể chỉ là huyền sử nhưng những chi tiết trong truyền thuyết thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 89
được coi là có thật, nhân vật thường được xây dựng với những nét đời thường bình dị,
thế tục; ít yếu tố kỳ ảo, phi thường. Trong khi đó truyện cổ tích là những chuyện hoàn
toàn hư cấu, yếu tố thần kỳ được sử dụng để giải quyết và thực hiện tất cả những ước
mơ, nguyện vọng về một xã hội tươi đẹp. Còn truyện cười là một lát cắt ngang trong
cuộc đời của nhân vật, với cấu tạo hết sức chặt chẽ và giàu kịch tính, mỗi câu chuyện
có dáng dấp như một màn hài kịch nhỏ, các tác giả dân gian Thái đã sử dụng nghệ
thuật phóng đại hiện thực để gây tiếng cười giòn giã, sảng khoái. Ở thể loại trữ tình,
có thể xem khắp ra đời như một đòi hỏi tất yếu của thực tiễn, đó là sự đáp ứng nhu
cầu trong lao động tập thể, nhu cầu bộc lộ những cung bậc tình cảm phong phú và
tinh tế của người dân Thái, những người đã tham gia khắp dù chỉ một lần trong đời sẽ
không thể quên nhịp điệu sôi nổi, mê say trong khắp xe; tâm tình, thủ thỉ ở khắp báo
sao; hào hùng, mạnh mẽ ở khắp Chương; rì rầm thành kính ở khắp mo… Cuối cùng,
nói về nghệ thuật của tục ngữ, chúng ta thấy rằng tục ngữ Thái thành công ở lối tư
duy hình tượng thông qua những biện pháp tu từ hiệu quả như so sánh, nhân hóa, ẩn
dụ ... bên cạnh đó, sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững
chắc cho tục ngữ Thái.
4. Hòa Bình là một tỉnh miền núi với dân số trên 80 vạn người gồm 7 dân tộc
anh em cùng chung sống, trong đó dân tộc Mường chiếm đa số với trên 60%, dân tộc
Kinh chiếm khoảng 30%, còn lại là các dân tộc Thái, Tày, Dao, Mông, Hoa… Mỗi
dân tộc đều hình thành và phát triển nền văn hoá và phong tục tập quán của riêng
mình. Các dân tộc cùng chung sống trên mảnh đất Hoà Bình đều có một kho tàng văn
học, nghệ thuật dân gian phong phú. Những giá trị đó được chắt lọc, sáng tạo nên từ
cuộc sống của người Mường, người Thái, người Dao, người Tày… từ bao đời, được
lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Bên cạnh sử thi
“Đẻ đất đẻ nước” vô giá của người Mường, tiếng sáo trầm hùng sâu thẳm của người
Mông, những bài dân ca da diết của người Dao… là “Ẳm ệt luông” quý báu, là điệu
khắp sôi nổi, say mê của người Thái, … Truyện kể dân gian của người Thái cho thấy
quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh của người Thái xưa tưởng tượng ra vừa thiêng
liêng, vừa hồn nhiên, vừa gần gũi thân thiết với cuộc sống hàng ngày của người dân
sơn cước. Các vị thần vừa nghiêm khắc nhưng lại hết sức bao dung, đồng cảm với
con người và chứa đựng tình người sâu sắc mà vẫn không mất đi sự linh thiêng của
họ. Còn các thể loại trữ tình cho thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú và quyến
rũ tuyệt vời của dân tộc Thái. Chính vì vậy, văn học dân gian Thái đã đóng góp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 90
những giá trị không nhỏ trong bức tranh toàn cảnh của văn học dân gian đại gia đình
năm mươi tư dân tộc Việt Nam. Văn học dân gian Thái sẽ mãi trường tồn trong nền
văn học dân gian tỉnh Hòa Bình nói riêng và cả nước nói chung.
5. Với những giá trị nội dung phong phú, đa dạng và nghệ thuật độc đáo, đặc
sắc, văn học dân gian Thái có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng nền văn học
nghệ thuật mới. Nhờ kế thừa và phát huy nền văn học dân gian của dân tộc mình nên
nhiều thế hệ các nhà văn, nhà thơ… dân tộc Thái ở Mai Châu ngày càng trưởng
thành. Tiêu biểu là nhà thơ Lò Cao Nhum:
“Ông nội tôi khai sinh miền đất
Bắt đầu là gồng gánh núi non
Ở trong núi có mồ hôi của đá
Trong đá kết tinh nỗi khổ
Nỗi khổ ủ niềm khát khao.
……………
Nghe mạch đất râm ran vọng điều linh thiêng
Hỡi mọi sinh linh mặt đất.
Trong ta trú ngụ một Thành Hoàng”.
(Trích “Ông nội tôi khai sinh miền đất” - Lò Cao Nhum)
6. Bảo tồn văn học dân gian Thái ở Mai Châu cũng là vấn đề chúng tôi quan
tâm trong đề tài này. Trong xu thế phát triển chung của xã hội, việc cố gắng giữ lại
trọn vẹn toàn bộ mọi giá trị của văn hoá truyền thống là một hành động duy ý chí và
không khả thi. Không thể phủ nhận rằng có không ít những giá trị văn hoá của truyền
thống đã không còn phù hợp và trở thành lực cản đối với sự phát triển của xã hội.
Văn học dân gian dân tộc Thái Mai Châu cũng không thể nằm ngoài quy luật đó. Tuy
nhiên, những tinh hoa của văn hóa, văn học dân gian truyền thống vẫn là vốn quý cần
lưu giữ và phát huy giá trị trong cuộc sống đương đại. Song, vấn đề bảo tồn văn học
dân gian dân tộc Thái cần được nhìn nhận theo hai hướng: hướng khai thác vốn cổ để
tư liệu hoá, lưu giữ, nghiên cứu; mặt khác cần chủ động đưa các thể loại văn học dân
gian vào một số sinh hoạt văn hoá đương đại, ví dụ như chủ động và tận dụng hình
thức thể hiện của nó trong các hoạt động sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, thông tin
tuyên truyền, đặt lời mới cho “khắp”, thi hát dân ca hay kể sử thi trong ngày hội sinh
hoạt văn hoá cộng đồng ... Đó chính là những phương thức bảo tồn văn học dân gian
dân tộc Thái theo hướng chủ động và hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 91
Tóm lại, để nhằm bảo tồn và phát huy hết các giá trị của văn học dân gian Thái, trước hết chúng ta cần phải trả nó về với cộng đồng công chúng để họ giữ gìn và phát triển nó trong môi trường gốc. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy trong môi trường dân gian cần phải được nhận thức và ứng xử rất năng động, không cứng nhắc. Bằng ý thức và biện pháp bảo tồn phù hợp, văn học dân gian Thái Mai Châu sẽ được lưu truyền tới những thế hệ sau như một bằng chứng về tính đa dạng mà thống nhất của bản sắc văn hoá Việt Nam, góp phần tích cực vào việc ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tập quán lạc hậu ở địa phương.
7. Vấn đề đưa văn học dân gian dân tộc Thái vào giảng dạy ở một số tiết Ngữ văn địa phương trong các trường học Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Mai Châu nằm trong định hướng bảo tồn và phát huy giá trị của văn học truyền thống.
Tháng 10 - 2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ra Nghị quyết số 29-NQ/TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, mà công việc trước mắt là đổi mới chương trình và sách giáo khoa. Được sự phân nhiệm của Chính phủ, tháng 11 - 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Đề án Đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015. Nét đột phá trong định hướng xây dựng chương trình phổ thông mới là ngoài những yêu cầu, nội dung mang tính bắt buộc trong toàn quốc, còn có phần dành cho các địa phương chủ động xác định, vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm dạy học của đơn vị, của thầy và trò. Theo đó, văn học địa phương sẽ là một nhân tố quan trọng tạo ra đặc trưng trong nội dung và phương pháp dạy học của mỗi đơn vị. Đây là hướng chỉ đạo thuận lợi để văn học dân gian dân tộc Thái Mai Châu đi vào chương trình Ngữ văn trong các trường trung học cơ sở, giúp học sinh nhận biết những điều gần gũi, thiết thực nhất, hình thành ở các em niềm yêu thích, hứng thú tìm tòi, lưu giữ và phát huy giá trị văn học, văn hóa dân gian của dân tộc.
Tóm lại: Với những thể loại phong phú, đa dạng, số lượng tác phẩm khá lớn; với các biện pháp nghệ thuật xây dựng tác phẩm độc đáo, đặc sắc; văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu đã đóng góp cho nền văn học địa phương nói riêng và văn học nước nhà nói chung những giá trị không thể phủ nhận. Chính sức sống của văn học dân gian trong cộng đồng người dân tộc Thái ở địa phương thông qua những hình thức diễn xướng vô cùng hấp dẫn đã chứng minh cho giá trị trường tồn của nó. Mong rằng những nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu và những tư liệu được cung cấp kèm theo luận văn này sẽ là những đóng góp nhỏ bé để mọi người cùng chung tay góp sức bảo tồn và phát huy các giá trị bền vững của văn học dân gian Thái, để nền văn học này ngày càng phong phú, sinh động và hấp dẫn hơn, góp phần hiệu quả vào việc giáo dục những thế hệ trẻ của dân tộc Thái ở Mai Châu ngày nay./.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, 5 tập, Viện Văn
học xuất bản, Hà Nội.
4. Trương Chính - Phong Châu (1987), Tiếng cười dân gian Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
5. Trương Chính (1986), Tiếng cười dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Lê Sĩ Giáo (chủ biên), Hoàng Lương, Lâm Bá Nam, Lê Ngọc Thắng (2006),
Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (2006), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Minh Hạnh, Phan Hồng Sơn (1986), Truyện ngụ ngôn Việt Nam, Nxb Giáo Dục,
Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Hòa (2011), Dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa
Thông tin.
10. Hội văn nghệ dân gian (2012), Thơ ca nghi lễ dân tộc Thái, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
11. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
12. Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn (2008), Văn học
dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Vũ Ngọc Khánh, Trần Thị An (1998), Truyền thuyết Việt Nam, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
14. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (1997), Kho tàng diễn xướng dân gian Việt
Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
15. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo... (1995), Kho tàng thần thoại Việt Nam,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
16. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 93
17. Nguyễn Xuân Kính (1998), Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc
Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Đặng Văn Lung (1997), Nghiên cứu văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên
cứu, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
20. Đặng Văn Lung, Trần Thị An (1995), Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
21. Vi Hồng Nhân (2004), Văn hóa các dân tộc thiểu số từ một góc nhìn, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
22. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước Cách
mạng tháng 8 năm 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.
23. Phan Đăng Nhật (2010), Văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số: Những giá trị
đặc sắc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Nhiều tác giả (1974), Bước đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, Sở Văn hóa
thông tin Việt Bắc, Bắc Thái.
25. Nhiều tác giả (1988), Tìm hiểu văn hóa cổ truyền của người Thái Mai Châu,
xí nghiệp in Hà Sơn Bình.
26. Nhiều tác giả (1989), Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
27. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
28. Vũ Ngọc Phan (1996), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Phượng (2015) “Tiếp cận những khía cạnh cơ bản văn hoá dân tộc
Thái từ góc độ triết học”, Trang web trường Chính trị tỉnh Nghệ An.
30. Lê Chí Quế (chủ biên), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (1999), Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
31. Trần Đình Sử (1978), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Tài liệu do tác giả luận văn sưu tầm (chưa xuất bản).
33. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 94
34. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (2012), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
35. Nguyễn Hữu Thức (2012), Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái ở Mai Châu,
Nxb Lao động, Hà Nội.
36. Trang web “Biên phòng Việt Nam” (24/4/2013), “Những nét văn hóa đặc trưng
của dân tộc Thái”.
37. Đỗ Bình Trị (1995), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Đặng Nghiêm Vạn (1977), Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
40. Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam,
khóa VIII.
41. Viện dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các dân tộc ở phía Bắc),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
42. Tân Việt (1997), Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 95
PHỤ LỤC 1 MỘT SỐ VĂN BẢN VĂN HỌC DÂN GIAN THÁI Ở MAI CHÂU, HÒA BÌNH
(Tuyển chọn từ khoảng 150 câu tục ngữ, 30 bài khắp và 70 truyện kể
đã được tác giả luận văn sưu tầm trực tiếp trong dân gian và một vài tài liệu khác)
I. TRUYỀN THUYẾT
TRUYỀN THUYẾT THUYỀN ĐỒNG, THUYỀN DA
Người ta kể lại rằng: tổ tiên xa xưa củ a ngườ i Thái Mai Châu là ở Quảng Tây - Trung Quốc. Có ba anh em buôn bán ở kẻ chợ. Người anh cả lấy vợ Sống Thân, anh
thứ hai lấy vợ Vân Hóa; còn người em út ngược lên Khát lấy nàng Ngoăn Băn, sinh
được người con trai đặt tên là Miến Mấu Đông. Người con này lớn lên làm tạo
Mường Khà. Tạo Khà sinh được hai người con trai, con cả là con của bà hai tên là
Lăng Bôn, con thứ là con của bà cả tên là Lăng Bắp. Sau Lăng Bắp được tôn lên làm
anh do là con của bà cả. Khi các con lớn lên, tạo Khà cho Lăng Bắp ăn Mường Khà
Luông (lớn), cho Lăng Bôn ăn Mường Khà Nọi (nhỏ). Lăng Bôn không nhận và sắm
được thuyền đồng cùng với dân theo sông Hồng đi xuống, đến “ pắc nặm khi” (ngòi
của một con suối chảy ra sông Hồng) thì dừng chân.
Thấy Lăng Bôn cùng dân bỏ đi, Lăng Bắp chỉ kịp sắm thuyền bằng da trâu
cùng với mẹ và một số dân đuổi theo, gặp nhau ở “pắc nặm khi”. Hai anh em ở đó ít
lâu rồi cùng xuôi xuống theo dòng sông Hồng. Đến ngã ba sông, nơi sông Đà đổ vào
sông Hồng, đoàn thuyền rẽ ngược lên thượng nguồn sông Đà. Người em ngồi thuyền
đồng đi được nhanh hơn, đến thác Bờ thì dừng thuyền chờ thuyền của anh và mẹ.
Người anh và bà mẹ đi thuyền da trâu đã chậm, thỉnh thoảng lại ghé và bờ, cắt
một miếng da trâu rồi nhóm lửa nấu ăn nên càng chậm, mãi mới đến thác Bờ. Sau đó,
người anh và bà mẹ đổi sang thuyền đồng đi trước, người em đi thuyền da trâu đi sau
theo những vết người anh đánh dấu trên thân cây ven bờ. Nhưng đến ngòi Chò,
thuyền của người em gặp nước xiết quá nên không lên được nữa, những người trên
thuyền đành rời thuyền lên bờ đi bộ men theo suối Pó Sáng. Đi đến chân dốc Pù Khà,
khi đang nghỉ chân thì họ thấy một đàn chim sáo bay từ vùng trong ra. Đoán rằng
vùng đó có nước, họ men theo suối lên thượng nguồn và dừng chân ăn sáng, sau
người ta đặt tên dòng suối nhỏ này là suối “Kin Lành” (suối ăn sáng).
Ăn xong đoàn người đi tiếp. Đến một nơi thấy có mỏ nước và trước mặt là cả
một thung lũng rộng, bằng phẳng và có dấu vết người xưa đã ở. Tạo cùng đoàn người
thở phào “Ái chà chà” và dừng chân ở đó. Về sau người ta đặt tên nơi đây là “Kéo Ái
Tạu” (“Kéo” là đỉnh dốc núi, “ái chà” là tiếng thở phào và “tạu” là nơi dừng chân),
mỏ nước cũng được gọi là “mó ái tạu”. Sau bản Tạu cũng mang tên gọi này. (Nay là
bản Đậu, theo phiên âm của người Kinh).
Tạo cùng mọi người dừng chân ở đây và khai phá đất đai ở đây đến bản Tòng.
Nguyên do có tên bản Tòng là do người cai đội lấy ngọn giáo làm gậy chống xuống
một nguồn nước để cúi người xuống uống nước, khi nhấc ngọn giáo lên thì thấy tụt
mất mũi giáo bằng đồng. Ông mò mãi không thấy nên người ta đặt tên cho mỏ nước
này là “bó cháo tòng” (mỏ giáo đồng), khi bản hình thành cũng gọi là bản Tòng luôn.
Còn tên gọi bản Coọng là do khi khai phá đến đây thì người cai đội khi đang cầm
chiếc cồng đã trượt chân ngã, làm vỡ chiếc cồng (Coọng là chiếc cồng).
Khi mở mang đến Nà Pướt được hai năm thì tạo Lăng Bôn chết. Lúc đó nàng
Mường và cô hầu gái đều đang có mang. Vì buồn phiền nên nàng Mường muốn
cùng người dân quay về chỗ cũ, dân muốn giữ nàng nhưng nàng vẫn quyết ra đi.
Khi nàng về đến Nà Páng thì dân chặt cây ở Kẹm Màn chắn ngang đường, mong tạo
ra điềm để nàng thấy gở mà quay lại, nhưng nàng vẫn đi. Dân đành tiễn nàng về
Mường cũ chu toàn.
Đúng thời điểm nàng Mường ra đi thì người hầu gái trở dạ sinh được một
người con trai, dân đưa vào Nà Páng xin cho mẹ con người hầu gái ở lại và tôn con
của người hầu gái lên làm tạo. Tạo nhỏ cũng được đặt tên là Lang Bôn. Lớn lên, Lang
Bôn cùng với dân khai phá xuống đến bản Pheo, bản Uống, bản Lầu, bản Lôm. Tạo
lấy nàng Mường Móc (thuộc châu Mộc) sinh ra tạo Lang Bắt. Tạo Lang Bắt tiếp tục
cùng người dân khai phá xuống đến bản Nghẹ thì gặp người Xá Kha Lài (người Xá
Xăm Đùi) hay còn gọi là Ang Bóc (người Xá ngực bạc - do đeo khuy bạc ở ngực áo).
Lúc đầu người Thái muốn thuyết phục người Xá quy thuận về mình, nhưng người Xá
không chịu nên người Thái nhiều lần kéo đến đánh đuổi. Nhưng người Xá cũng rất
thiện chiến nên người Thái không khuất phục được. Người ta còn kể rằng khi người
Thái đi bừa thì người Xá lại leo lên đồi Pom Lai, dùng súng bắn đứt chão bừa của
người Thái, khiến người Thái không làm ăn gì được.
Một lần người Thái kéo đến đánh đuổi người Xá ở bản Nghẹ, họ dùng mưu
nhử cho người Xá bắn hết tên nỏ, hết đạn thì mới xông vào đánh, quân Xá thua to
nhưng vẫn quyết không bỏ đất.
Cuối cùng hai bên đã thương lượng và quyết đinh phân đi ̣nh thắng thua bằng
cách giao he ̣n bên nào bắn tên găm được vào vách đá thì bên kia phải đi nơi khác. Người Xá cậy sức mạnh, vót những mũi tên to nặng để bắn, song những mũi tên của
họ khi chạm vào vách đá đều bật ra hết. Ngườ i Thái đã dù ng me ̣o phết “khí sút” (sáp ong) vào những mũi tên nhe ̣, khi bắn tên dính vào vách đá. Về sau người ta gọi vách đá này là Pha Khí Sút (vách đá sáp ong).
Người Xá sau khi chôn cất quân tử trận đã di cư đến ở Pha Dôm (thuộc địa
phận xã Nà Phòn - Mai Châu ngày nay). Sau này dân bản Nghẹ cũng lấy nơi đã chôn
cất những người Xá làm nghĩa địa của bản, người ta bảo những ngôi mộ hướng về
Pha Dôm là mộ của người Xá Kha Lài.
Mãi về sau người Xá và người Thái mới làm lành với nhau. Bản Nghẹ có một
người Thái lấy vợ người Xá sinh ra một người con lớn lên làm đến phó bản.
Tạo Lang Bôn cũng lấy người Xá làm bà Mường, nhưng không sinh được con.
Lúc mới đến làm bà Mường, nàng người Xá rất xinh đẹp song ở được vài ba tháng thì
nàng ốm, người xanh xao. Nàng bảo người hầu về lấy thuốc ở chỗ cha mẹ đẻ. Uống
thuốc được ít hôm thì khỏi, nhưng cứ hết thuốc lại ốm, người hầu lại phải về lấy
thuốc. Mỗi lần lấy, thuốc đầu được gói buộc rất kỹ và bố mẹ nàng Xá dặn đi dặn lại là
dọc đường không được mở làm thuốc mất công hiệu. Một lần người hầu quá tò mò
nên dọc đường đã mở ra xem. Ông ta kinh hoàng thấy trong gói là xác một đứa trẻ
không mắt mũi, chân tay không ngón. Ông vội chạy về báo với tạo rằng thuốc mà bà
Mường uống là xác trẻ con đã được ướp. Tạo bèn trả nàng về với cha mẹ ở Pha Dôm.
Ít lâu sau tộc người Xá bỏ đi đâu không ai rõ.
Đuổi được người Xá, Tạo Lang Bôn cùng dân khai phá xuống đến bản Củm,
bản Bước, bản Ngõa… Tạo lấy con gái trong Mường sinh được con trai là Lạng
Thượng. Lạng Thượng lập chiềng ở bản Uống và lấy con gái quan Pưng Mường sinh
ra Tạo Lang Uôn. Tạo Lang Bôn cũng lấy con gái con quan Cuông sinh ra tạo Lang
Thanh. Lang Thanh lấy nàng Mường Dón Pi sinh ra tạo Lang Tông. Lang Tông lấy
nàng Mường Khời, sinh ra tạo Khà Bằng. Tạo cùng dân khai phá những đất đai bỏ
hoang, mở mang đến bản Pùng, bản Pheo, Nà Nóc… Tạo lấy nàng Ngăm sinh ra tạo
Lang Sôm. Lang Sôm lấy nàng Mường Khến sinh được ba con trai, con cả là Khằm
Pông, con thứ là Khằm Piềng, con út là Khằm Pành. Ba anh em cùng với dân khai
phá đất đai và chia nhau các vùng đất. Ông Khằm Pông ăn đất Mường Hạ, được coi
giữ gốc Mường. Ông lấy bản Uống, bản Lầu, bản Lốm, bản Nghẹ làm đất Mường.
Ông Khằm Piềng ăn đất Mường Thượng. Còn ông Khằm Pành không có đất nên ba
anh em mới sai dân xuống xem xét đất đai ở Mường Khoòng, thấy đất tốt, bằng
phẳng, người ta bảo “khừ lâu co” nên mới có tên là bản Lầu. Khằm Pành và một số
dân được chia xuống bản này. Ba anh em mổ một con bò sừng bọc đồng chạm trổ để
làm tiệc chia tay. Về sau thỉnh thoảng người ta lại lấy chiếc sừng bọc đồng ấy ở bản
Nghẹ, nó được làm thành chiếc tù và, người ta gọi đó là “khau ngùa tòng”. Sau khi
chia đất cho ba con,, tạo lang Sôm không ở với người can cả ở Chiềng Uống mà lên ở
với người con thứ hai ở Nà Pướt và lập nên Chu Mùn. Trước khi chết, ông giao
quyền Tạo Chu cho Khằm Piềng ở Nà Pướt.
Thời đó việc vua quan chưa nhiều lắm, tạo nào ở đâu đặt lệ ở đó. Hàng năm vua
chỉ buộc nộp thuế mang tính chất tượng trưng gồm năm tấm vải. Ông Khăm Pông bổ cho
Mường Thượng hai tấm, Mường Hạ ba tấm, còn Mường Khoòng không phải nộp. Chỉ
khi nào giết mổ trâu bò thì đem đùi biếu hai anh ở Mường Mùn (Mai Châu).
Một lần có hai người được phân công khiêng đùi trâu lên biếu, lúc ngồi nghỉ ở
Ma Ham, một người mặc áo đen lấy dao hí hoáy khắc nghịch lên đòn khiêng, không
ngờ thành câu “Em mổ trâu làm lễ “sờ nà”, cho hai người khiêng đùi lên biếu, xin
ông Hai giết người mặc áo đen khiêng đằng trước, để người mặc áo trắng khiêng
đằng sau”. Khi đến nhà tạo Chu , ông thấy lạ nên đánh trống họp mường. Nhiều
người ra xem, ai cũng bảo chữ nghĩa rõ ràng. Tạo anh bèn đem người mặc áo đen ra
giết. Người áo trắng thấy thế, hốt hoảng bỏ chạy về báo tin cho tạo út. Tạo út lên hỏi
tạo anh xem sự thể thế nào, đồng thời cho hỏi người áo trắng, được biết cả hai người
khiêng đều không biết chữ mà lại khắc thành chữ thành câu. Các tạo cho rằng là điềm
không lành, từ đó tạo em không phải biếu đùi trâu nữa.
Các đời sau, các tạo chi em ở Mường Mùn phải lên cống nộp cho chi trưởng ở
Mường Mộc. Các tạo chi em phân công nhau lên nộp, năm thì Mường Pa, năm thì
Mường Hạ, năm thì Mường Thượng.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 9 năm 2014)
TRUYỀN THUYẾT ÔNG BÁ HỘ
Bá Hộ có tên thật là Hà Công Đáng. Đời ông cha của ông là con nhà dòng dõi,
được tạo Mường phân cho xuống ăn đất Poọm Củm (bản Củm thuộc xã Vạn Mai
ngày nay).
Thời ấy Mường Mùn mới được triều đình cai quản đến. Đất nước luôn có giặc,
trong lần chiêu quan đầu tiên ở Mường Mùn, triều đình tuyển ba mươi người và cử
ông Hà Công Đáng đứng đầu đội quân này (cai đội); đồng thời cử ông Sứ Tây, người
bản Nghẹ, là em rể ông Hà Công Đáng làm lính “tin mừ” (trợ lý). Đội quân tập trung
tại Chu Án Nhà tại Chiềng Châu, cho mổ bò ăn tuyên thệ rồi giao quân cho hai người
của triều đình. Đội quân này được đưa lên phía tây bắc. Đến nơi được giao cho chặn
một cánh quân của giặc đang tụ lại, qua thăm thấy dò lực lượng của giặc đông gấp
nhiều lần, ông Hà Công Đáng và Sứ Tây bàn mưu kế. Ông Hà Công Đáng cử người
vào rừng lấy vỏ cây “hiềng hang nai” (loại vỏ cây thường được dùng để chế dây
châm ngòi thuốc súng hỏa mai), mang về phơi khô, bện chặt rồi cắt cho mỗi người
năm đoạn, mỗi đoạn dài khoảng gang tay. Ông lại bảo mỗi người vào rừng chặt lấy
cây nứa tép dài ba sải tay, mỗi cây được chia thành năm đoạn, mỗi đoạn khoét một lỗ
nhỏ vừa đủ để cắm dây châm ngòi thuốc súng hỏa mai. Tối đến, ông cho đốt tất cả
dây cháy chậm, vác cây lên vai và hành quân vòng đi vòng lại nơi giặc đóng quân
trong suốt đêm. Bọn giặc kinh sợ vì cho rằng bên Hà Công Đáng rất đông quân. Sáng
ra chúng lục tục rút quân. Thừa cơ Hà Công Đáng cho quân bất ngờ tấn công khiến
quân giặc bỏ chạy thục mạng.
Đánh tan giặc, Hà Công Đáng được triều đình phong cho chức Bá Hộ và cho
về quê. Ít lâu sau thì giặc Cờ Vàng kéo đến, triều đình giao cho ông Bá Hộ tổ chức
quân ở Mường Mùn chặn đánh cách quân của giặc từ Hồi Xuân (Thanh Hóa) lên.
Ông Bá Hộ chiêu quân và lập chỉ huy sở tại bản Lọng, còn gọi là đồn Co Nát.
Giặc Cờ Vàng men theo sông Mã đi lên, đến Quán Pế (nay thuộc xã Phú Lệ -
huyện Quan Hóa - tỉnh Thanh Hóa) thì chia thành hai cánh quân. Một cánh quân
ngược dòng sông Mã lên thượng nguồn, còn cánh quân thứ hai đi dọc theo suối Xia
vào Mường Mùn (Mai Châu). Đến bản Lọng (xã Vạn Mai) thì đụng phải quân của
ông Bá Hộ đang mai phục. Ông Bá Hộ trèo trên cây xằm pùng cao để chỉ huy trận
đánh. Cả hai bên đều tổn thất nặng, xác người đầy bãi chiến trường.
Giặc quá đông nên một phần quân và dân trong vùng phải chạy vào hang Hóm
(Thung Nghẹ), một phần khác chạy vào hang Hài. Giặc tưởng hang Hài chỉ có một
cửa nên hô mỗi tên một nắm đất sét đi qua ném vào cửa hang để vùi chết những
người trong hang. Khi cửa hang đã bị lấp đầy, bọn giặc bỏ lại chỗ đất thừa thành gò
đất sét ở bản Khán thuộc Vạn Mai ngày nay.
Tuy nhiên, số quân của ông Bá Hộ chạy vào hang Hài không những không chết
mà còn đi vòng theo lối cửa sau của hang rồi đánh tập kích giặc. Bọn giặc bị chết
nhiều ở bản Củm, bản Cha Lang nên phải kéo quân bỏ chạy.
Trước khi bỏ chạy, giặc đã chặt đầu các tù binh và rất nhiều dân thường mà
chúng bắt được. Chúng treo đầu của những người bị giết hại lên những cây tre rồi gác
lên gốc cây thị ở bản Bó (nay là bản Mỏ - Chiềng Châu - Mai Châu). Sau khi giặc
chạy, những nhà có người bị giặc giết đến nhận xác nhưng không ai có thể nhận được
mặt người thân của mình nên đành làm lễ chôn chung ở thửa Nà Tò (Chiềng Châu
ngày nay).
Sau khi giặc rút đi, những nhà có người tử trận đến tìm nhưng không ai nhận
được mặt người thân của mình nữa. Họ đành phải làm lễ chôn chung ở “hớ nà tò”
(thửa ruộng to) thuộc Chiềng Châu. Từ đó các gia đình người Thái có tục lệ thờ cúng
những người tử trận, Mường Thượng gọi là “phi chàng bàng”, Mường Hạ gọi là “phi
lang Khà” hoặc “phi tềnh hua”. Người ta dùng thịt vịt nấu cháo là đồ cúng, chỉ cúng
vào ban đêm khi mọi người đã ngủ, trong nhà phải dập tắt hết lửa, giấu hết các đồ vật
như súng nỏ, giáo mác, dao rìu… Các cụ giải thích rằng ma những người bị giặc giết
sẽ không đến ăn khi còn có những đồ vật có thể giết người ở trong nhà. Trong lễ
cúng, người cúng gọi oan hồn của những người tử trận tập trung ở gốc cây thị bản Mỏ
về ăn cháo.
Xác giặc chết ở chiến trường bản Lọng được chôn ở một gò đất gọi là Pom
Hua Hán (gò đầu người Hán), gò đất sau này đã bị phá và người ta còn nhặt được
những dấu tích của vũ khí bằng đồng ở đấy.
Sau khi qua đời, ông Bá Hộ được con cháu và dân bản lập miếu để thờ ở bản
Củm quê nhà.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 9 năm 2014)
II. CỔ TÍCH
1. Cổ tích về loài vật
KHỈ VÀ CÀO CÀO
Mới sáng tinh sương, đàn Khỉ đã nhảy, đu trên ngọn cây cao. Vốn tính hay
khinh thường các loài vật bé nhỏ hơn mình. Ngó xuống đám cỏ xanh, thấy đàn Cào
Cào còn ủ rũ nấp mình dưới các lá của bụi cây để tránh sương sớm.
Bọn Khỉ quát:
- Này Cào Cào bé nhỏ kia, có dám đánh nhau với bọn tao không?
Đàn Cào Cào bảo:
- Chả biết đánh nhau để làm gì? Phận anh thì ăn quả, chúng tôi thì ăn lá.
Khỉ lại quát:
- Bay ăn trụi hết lá, làm sao cây có quả? Trông mi bé nhỏ phải lụy bọn tao thôi,
cút khỏi nơi này!
Cào Cào nói:
- Chúng ta đi đâu thì cũng ăn lá rừng, có đánh nhau thì thử sức, nhưng chờ đến
sáng mai đã.
Sáng hôm sau đàn Khỉ lực lưỡng, oai nghi đã sẵn trong tay mỗi con một chiếc
gậy nhảy đu trên cành cây cao, gọi với xuống bảo Cào Cào:
- Này, Cào Cào ! Bắt đầu cuộc chiến thôi chứ?
Đàn Cào Cào bảo:
- Chờ cho ánh nắng chiếu xuống làm tan hết sương đã!
Khi ánh nắng mặt trời đã chiếu xuống tan sương; đàn Cào Cào cũng đã xòa phơi
khô bộ cánh và bảo với đàn Khỉ rằng đã sẵn sàng. Đàn Cào Cào từ các lùm cây dưới
thấp, bay ào lên, con đậu trên trán, con đậu trên đầu các con Khỉ. Nhìn thấy Cào Cào
đậu ở đâu, Khỉ liền giương gậy đập, khi chiếc gậy của Khỉ sắp đến mình là Cào Cào
vụt bay mất. Chiếc gậy của Khỉ đập hụt Cào Cào nện luôn vào trán, vào đầu của nhau
làm Khỉ rơi từ trên các cành cây cao xuống đất chết. Cứ thế đàn Khỉ thi nhau, bổ lên
đầu, lên trán của nhau. Đến lúc chỉ còn lại mỗi con Khỉ cuối cùng, nó mới nhìn xuống
dưới đất, thấy cả đàn, con thì nằm ngửa, con thì nằm sấp dưới các gốc cây. Nó hoảng
quá vứt chiếc gậy trong tay, chạy bán sống, bán chết. Đến lúc mệt quá nó nghỉ trên một
mỏm đá, lại ngồi đè lên lưng một con Rùa. Chàng Rùa rụt cổ lại kêu “khò khè”. Khỉ
nhìn xuống, nó đã hoa mắt không còn nhìn thấy con Rùa mà chỉ nhìn thấy bộ hạ của
nó; nó tưởng bộ hạ nó trêu, giễu cợt nó. Nó bảo: Tao sắp chết mà mày còn cười tao hả?
Nó vớ hòn đá bên cạnh nện luôn, bộ hạ bị vỡ nát ra và nó cũng ngã lăn ra chết nốt.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 12 năm 2014)
RÙA KHÓC THEN
Lúc mới sinh thành, người ta bảo: Trời còn thấp, đất và trời gần nhau lắm, ai cũng
có thể lên trời được. Người và muôn loài phải nghe Then, do Then định đoạt số phận.
Then muốn thử lòng dạ muôn loài ở dưới trần gian. Một hôm Then giả vờ chết
và cho truyền xuống dưới trần gian, bảo cho muôn loài biết và khóc tiễn đưa. Muôn
loài sẵn có lòng ghét Then vì cái gì Then cũng định đoạt được nên đua nhau khóc
rằng “May mà Then đã chết”.
Chỉ có con Rùa là biết Then giả vờ chết, nhưng giữa đường lên Then phải qua
một khúc gỗ to chắn ngang đường, Rùa không bò qua được, mặc dầu Rùa đã nhờ
nhiều loài đưa Rùa qua khúc gỗ, nhưng không có loài nào làm.
Loài người lên sau cùng, nhìn thấy chàng Rùa đang loay hoay bò qua khúc gỗ,
nhưng bò lên được nửa lại rơi xuống. Thấy người lên sau Rùa mới nhờ người, Rùa bảo:
Đưa rùa ta qua được khúc gỗ, thì rùa ta bảo cách khóc Then cho. Người mới
nhặt lấy con Rùa kẹp vào nách, bước qua khỏi khúc gỗ (Do đó loại người mới hay hôi
nách). Qua được khúc gỗ, Rùa mới bảo cho người biết là Then giả vờ chết, cho nên
phải khóc khác đi, đừng khóc như loài khác.
Rùa và người lên đến nhà Then sau cùng và khóc Then rằng:
“Then chết thì không có chỗ ở
Then chết thì không có chỗ làm ăn”
Tiếng khóc của con Rùa lại nhỏ, lí nhí nên Then không nghe được mà chỉ nghe
được tiếng khóc của con người. Lúc ấy Then bật ngồi dậy và truyền lệnh:
- Tất cả muôn loài ở dưới trần gian, loài nào quay lưng lên trời, mặt cúi xuống
đất thì loại người được phép ăn thịt hết.
Lúc đó Rùa mới thưa với Then và hỏi:
- Còn loài Rùa thì sao?
Then bảo:
- Mi cũng bị người ăn.
Chàng Rùa rụt cổ lại kêu “khò” một cái. Nhưng về sau, để nhớ đến công của
con rùa, người Thái không chủ tâm đi tìm bắt Rùa để ăn thịt, nếu tự nhiên gặp thì mới
được bắt.
Xuống dến trần gian, một số loài tụ tập lại ở một cái bịch lúa to, phản đối lệnh
của Then, thách thức, dọa dẫm con người.
Loài Dím và Don thì bảo:
- Lưng ta cắm trông gai, mũi ta biết ngửi hơi theo gió.
Bắt được ta, cho ăn cả cứt lẫn lông
Vì thế nên ngày nay, khi bắt được Dím, Don, người ta mới hay ăn phèo.
Còn loại Hổ thì bảo: “Ăn thịt ta thì ta ăn lại”.
Người bèn đóng cửa bịch lúa lại, châm lửa đốt. Các loài hoảng hốt chạy toán
loạn. Chàng Hổ tài nhảy, nhưng lửa vẫn bén lông cháy loang lổ, ngày nay da con Hổ
mới lông vằn. Chàng Nai thì cháy thành than đen (lông con Nai mới có màu đen, ngả
màu tro). Chàng Hoẵng thì cháy thành than đỏ (lông hoẵng mới có màu đỏ sẫm). Bắt
được Nai, được Hoẵng người ta có thể ăn gỏi được; người ta bảo thịt Hoẵng và thịt
Nai đã chín từ ngày ấy
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 9 năm 2014)
2. Cổ tích thần kỳ
NGƯỜI HÓA KHỈ
Ngày xưa có một nhà đông con, năm này qua năm khác chỉ nuôi con bằng ngô,
khoai, sắn. Lũ con rất thèm cơm, ngày ngày cứ đòi mẹ rằng:
“Páng páng pòn pòn
Cho chúng con ăn cơm mẹ ơi”
Từ xưa tới nay chỉ nuôi con bằng củ sắn, củ rừng; nghe các cơn đòi ăn cơm,
người mẹ nói:
“ Ừ các con chờ mẹ
Để mẹ đi phát nương đã”
Thấy mẹ đi phát nương về, những đứa con lại đòi:
“Páng páng pòn pòn
Cho chúng con ăn cơm mẹ ơi”
Người mẹ nói:
“ Ừ, thư thả nhé, ráng mà chờ
Để mẹ đi đốt cái nương đã
Thấy mẹ đi đốt nương về, lũ con lại đòi ăn cơm, người mẹ lại bảo: Thư thả đã,
cố mà chờ, để mẹ đi dọn vườn trồng lúa đã. Thấy mẹ đi trồng lúa về, lũ con lại đòi:
“Páng páng pòn pòn
Cho chúng con ăn cơm mẹ ơi”
Người mẹ phải từ chối con bao lần nữa, nào là làm cỏ, chăm bón, gặt, phơi, giã
gạo…Lũ con phải chờ ăn cơm của người mẹ qua cả một mùa lúa nương. Khi cơm
trong chõ đồ xôi đã chín, người mẹ đổ ra nia quạt cho cơm nguội, rồi mới gọi các con
đang chơi dưới sàn “ Hỡi các con ! Cơm của mẹ đã chín rồi, các con rửa tay đi, đến
đây mẹ cho ăn cơm. Lũ con đang chơi, đứa thì nhúng tay vào nồi chàm, đứa thì
nhúng ta vào máng nước rửa chân, đứa thì nhúng tay vào vũng nước gầm sàn… rồi
túm tụm vào nia cơm định thò tay vào bốc ăn. Người mẹ thấy thế tiện trong tay đang
có chiếc đũa cả liền phang ngay vào tay, vào đầu các con. Lũ con chạy tan tác xuống
dưới sân, đứa trèo lên nóc nhà, đứa trèo lên cây và kêu rằng:
“ Cu lích, cu lích
Ăn quả sấu không còn thấy chua
Ăn quả song mây không còn nghe ngứa
Chân tay đã mọc đầy lông
Không làm kiếp người với cha mẹ được nữa”
Người mẹ gọi lũ con bảo rằng : “ Hỡi các con ! Thứ lỗi cho mẹ, xuống đây về
nhà đi, về mà ăn cơm nếp của mẹ”.
Lũ con hóa thành khỉ nói rằng: “Không, không, ăn quả sấu không còn thấy
chua còn hơn, ăn quả song mây không còn nghe ngứa còn hơn”.
Lũ con biến vào rừng sâu và hóa thành đàn khỉ. Từ đó, dù có tức giận con đến
mấy, người Thái cũng không bao giờ lấy đũa cả đánh con hoặc đánh người khác,
thậm chí trong bữa ăn người Thái rất kiêng để đũa chạm phải người ngồi bên.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 8 năm 2014)
CHÀNG VOI NHỎ VÀ ÔNG XÙ XÌ BỐN MŨI NĂM MỒM
Chàng voi nhỏ thấy một hang dế mèn, chàng vác thuổng đi đào. Trên đường đi
voi nhỏ gặp một chàng đang lấy trán thay vồ đóng cọc bờ ruộng. Anh chàng lấy trán
đóng cọc hỏi xin đi theo. Hai chàng đi tiếp và gặp một chàng đang lấy tai tát nước.
Chàng lấy tai tát nước cũng hỏi xin đi theo. Ba chàng đang đi thì gặp một người lấy
móng tay đục cây làm máng nước. Anh chàng này cũng xin đi theo nốt.
Bốn chàng cùng đến hang dế mèn, thấy đống đất đùn từ trong ra lấp đầy kín
cửa hang. Bốn chàng lấy thuổng thay nhau đào bới từ sáng đến trưa mới nghe thấy
tiếng dế mèn lấy cẳng đá những hòn đất văng ra ào ào. Đào thêm một lúc mới nhìn
thấy những cẳng của dế mèn to như đùi trâu. Một chàng thò tay vào định tóm lấy
cẳng của con dế mèn thì bị một cú đá của dế văng ra xa, hai chàng tiếp theo thử sức
cũng bị nó đá bật lại. Cuối cùng chàng Voi nhỏ xông vào tóm được cẳng của dế mèn
nhưng cả bốn chàng lôi mãi vẫn không được. Họ đành bỏ ra ngoài.
Bốn chàng trai bàn nhau lấy nước đổ vào hang để cho dế mèn bị ngạt phải
chui ra. Thế là người nào vào việc ấy: chàng lấy trán đóng cọc đóng những chiếc
cọc lớn để đắp đập, chàng lấy tai tát nước tát một lúc nước đã đầy đập, chàng lấy
móng đục máng đục những đoạn máng vừa to vừa dài để dẫn nước. Nước ào ào đổ
vào hang dế một hồi lâu thì đầy. Quả nhiên dế mèn bị ngạt phải chui ra. Thừa cơ
chàng Voi nhỏ lấy thuổng đập chết dế mèn. Bốn chàng trai cùng làm thịt dế nhưng
lại không có lửa. Chàng Voi nhỏ sai chàng lấy trán đóng cọc đi xin lửa ở chỗ ông
Xù xì bốn mũi năm mồm.
Chàng lấy trán đóng cọc đi đến nơi thì không thấy ông Xù xì mà chỉ thấy bà
vợ của ông. Chàng chào bà và hỏi:
- Ông Xù xì đi đâu bà?
Bà Xù xì trả lời:
- Ông ấy đi vắng rồi.
Chàng lấy trán đóng cọc nói:
- Cháu đến đây xin lửa để nướng thịt dế mèn ăn.
Bà Xù xì nói:
- Thổi xem, chỗ nào đốm đỏ thì lấy.
Chàng lấy trán đóng cọc vừa cúi xuống định thổi lửa thì bị bà Xù xì quăng
chài chùm lên lên người và bắt ăn thịt luôn.
Chàng Voi nhỏ chờ lâu không thấy chàng lấy trán đóng cọc về liền sai chàng
lấy tai tát nước đi tìm. Đến nhà Xù xì, không thấy chàng lấy trán đóng cọc đâu.
Chàng chào bà Xù xì và hỏi:
- Bà có thấy chàng lấy trán đóng cọc đến đây không ạ ?
Bà Xù xì trả lời:
- Chả thấy lấy trán đóng cọc nào đến đây đâu.
Chàng lấy tai tát nước hỏi xin lửa. Bà Xù xì lại bảo tìm đốm đỏ mà lấy, rồi
chàng cũng bị ăn thịt giống như chàng lấy trán đóng cọc.
Chờ mãi không thấy hai bạn về, chàng Voi nhỏ lại bảo chàng móng tay đục
máng đi tìm. Rồi chàng lấy móng đục máng cũng bị bà Xù xì lập mưu ăn thịt.
Thấy các bạn không về, chàng Voi nhỏ đi tìm. Vừa đến nhà Xù xì, chàng thấy
mồm mép bà Xù xì còn đầy máu me, Voi nhỏ đã biết có chuyện không hay. Chàng
hỏi bà Xù xì:
- Ông nhà đi đâu hả bà ?
Bà Xù xì bảo:
- Ông ấy đi cắt gianh.
Voi nhỏ lại hỏi:
- Thế bao giờ thì ông ấy về ?
- Bao giờ thấy râm một góc trời là lúc ông ấy về.
Voi nhỏ chờ được một lát thì thấy trời đang nắng mà bỗng nhiên râm lại. Nhìn
ra thì thấy ông Xù xì đang gánh gianh đi về, gánh gianh quá lớn che khuất cả mặt trời
nên trời bỗng nhiên râm mát. Voi nhỏ nhìn thấy một con hoẵng còn sống bị kẹt ở đầu
gánh gianh của ông Xù xì. Ông Xù xì vừa dặt gánh gianh xuống thì Voi nhỏ chạy đến
kéo con hoẵng ra. Đến lúc đấy ông Xù xì mới biết là có con hoẵng, ông giật lấy và hỏi:
- Mày đến đây làm gì ?
Voi nhỏ bảo:
- Ta đến đây đòi nợ ông bà đó.
Ông Xù xì quát:
- Tao nợ mày từ bao giờ ?
Voi nhỏ chỉ tay về phía đống xương của ba người bạn và chỉ vào bà Xù xì
mồm còn đầy máu me.
Ông Xù xì vứt con hoẵng trong tay, xông vào vật lộn với chàng Voi nhỏ. Hai
người đánh nhau từ chiều đến tối không phân thắng bại. Cả hai lăn từ trên sườn núi
xuống sông Mã mà vẫn tiếp tục vật lộn làm đục ngầu cả một khúc sông. Người dân ở
ven sông tưởng là mưa đầu nguồn làm cho nước đục nên xách chài đi kiếm cá, nhưng
họ quăng mãi mà không được cá. Một người đánh chài đi ngược dòng lên trên thì
thấy hai con nhãi đang đánh nhau. Ông tức quá nhạt hai con nhãi bỏ vào giỏ đeo sau
lưng. Vào giỏ mà hai con nhãi vẫn còn đánh nhau làm cho người đeo giỏ lúc ngã sấp,
lúc ngã ngửa. Ông tức mình lại vứt hai con nhãi xuống sông. Thấy bọn nó vẫn đánh
nhau làm đục nước, ông nhặt lên, bẻ đùi rồi vứt một con lên bờ, nó chết hóa thành rau
cút. Con kia ông vứt xuống nước, chết hóa thành loài cá mương. Vì vậy, người Thái
Mai Châu kiêng nấu canh rau cút với cá vì họ cho rằng làm thế sẽ khiến ông Xù Xì và
chàng Voi nhỏ tiếp tục đánh nhau, gây ra mưa bão.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 6 năm 2014)
3. Cổ tích sinh hoạt
KẺ TRỘM
Vào quãng nửa đêm, gà trong chuồng nhà nọ kêu quang quác. Chủ nhà nghi có
trộm nên chủ nhà lẻn xuồng sân, mò mãi mới được cái chày giã gạo làm vũ khí. Dò
dẫm đến bên chuồng gà, ông lờ mờ thấy có kẻ đang chúi đầu vào trong chuồng gà
liền giáng một chày vào lưng hắn, nào ngờ tên kẻ trộm lăn ra chết.
Sợ mắc phải tội giết người, ông tìm cách đổ lỗi cho người khác. Đến gần sáng,
ông sang nhà hàng xóm dắt trộm con trâu. Ông đặt xác chết nằm úp trên lưng trâu rồi
che chiếc nón lên đầu. Xong ông dắt trâu ra ăn lúa của chủ trâu.
Sáng ra ông chủ ruộng lúa mở cửa sổ nhìn ra đồng, thấy trâu của ai đang ăn lúa
nhà mình, gọi mãi mà người nằm trên lên trâu vẫn không nghe. Ông bực mình, xuống
sân nhổ cọc rào, chạy thẳng ra đồng nện luôn một gậy vào lưng người đang nằm sấp
trên lưng trâu và quát:
- Này thì vừa chăn trâu vừa ngủ, để trâu ăn lúa này !
Con trâu nhảy chồm lên. Cái xác cứng đờ rơi xuống. Ông chủ ruộng lúc này
mới biết có ai đó đã tìm cách đổ tội cho mình. Ông về nhà bàn với vợ rồi hai vợ
chồng đem mấy hòm đựng của cải đổ ra sân phơi, làm cho kẻ trộm để ý. Tối đến ông
bảo vợ bí mật thu dọn của cải lại, rồi hai vợ chồng ra đồng khiêng cái xác về bỏ vào
chiếc hòm lớn nhất, rồi khóa lại tử tế.
Nửa đêm, kẻ trộm đảo đi đảo lại mà vẫn thấy chiếc hòm lớn ở đó, hắn nghĩ là
chủ nhà bỏ quên. Hắn đi rủ người cùng đến khiêng trộm chiếc hòm. Hai tên khiêng
chiếc hòm đi xa khỏi bản. Tên khiêng đằng sau muốn được phần hơn nên lén lấy
dao nhỏ cắt quai hòm, vừa đi vừa thò tay vào trong để rút trộm đồ. Đầu tiên hắn sờ
phải tóc người chết, tưởng là tơ tằm hắn muốn kéo ra để giấu đi nhưng kéo mãi
không được. Thọc tay sâu hơn vào trong, hắn sờ phải cái xác lạnh ngắt. Hoảng hồn,
hắn kêu lên:
- Ôi, có người !
Tên khiêng đứng trước tưởng có người đuổi theo nên bảo “ Có người thì chạy
mau lên” rồi chạy thục mạng, kéo theo cả tên khiêng đằng sau chạy theo. Được một
quãng xa, mệt quá, hai thằng đi chậm lại một chút. Tên khiêng sau lại sờ vào hòm
kiểm tra lại, hắn lại kêu lên “ Ôi giời, có người thật”. Tên khiêng trước lại kéo chạy.
Đến khi không thể chạy nổi nữa, hai tên mới đặt khiêng xuống, thở hồng hộc. Tên
khiêng trước chưa biết gì nên vội vàng mở hòm ra. Bên trong chỉ là cái xác đã lạnh
ngắt, cứng đờ. Hai tên sợ bị tội nên đành đào hố sâu chôn phi tang kẻ ăn trộm gà.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ nghệ nhân dân gian Hà Trung Tín,
sinh năm 1941, ở xóm Mỏ - xã Chiềng Châu – Huyện Mai Châu vào tháng 04 năm
2015)
MA CÀ RỒNG
Cô gái rất xinh vừa mới lấy chồng, cô có thói quen đi cấy thấy “mác nhú cáu”
(một loại cây nhỏ, hay mọc ở bờ ruộng, có quả và lá ăn được) thì thường hái ăn sống.
Trong bản có một chàng trai thầm yêu cô gái mà không lấy được. Biết cô có
thói quen ấy, chàng trai rỉ tai người chồng của cô gái:
- Vợ anh là ma cà rồng đấy.
Người chồng hỏi lại:
- Sao anh biết ?
Chàng trai bảo:
- Anh cứ để ý mà xem, khi đi cấy thỉnh thoảng cô ấy lại bắt nhái ăn sống đấy thôi.
Từ đó người chồng để ý vợ. Mỗi khi vợ đi cấy, người chồng ngồi rình từ xa,
thấy thỉnh thoảng vợ mình lại nhặt gì đó ở bờ ruộng, bỏ vào miệng nhai vẻ rất ngon
lành. Người chồng bắt đầu tin lời chàng trai.
Một hôm chàng trai lại nói chuyện với người chồng:
- Anh có muốn vợ mình không bị biến thành ma cà rồng không ?
Khi chồng cô gái bảo là rất muốn, chàng trai dặn anh ta mỗi ngày anh phải “bà
khớp hườn” dang sải tay ra, đi xung quanh nhà hai lần vào buổi sáng và buổi tối để cô
gái không biến thành ma cà rồng đi kiếm ăn được. Anh còn dặn thêm:
- Nhưng anh phải cẩn thận, lúc chưa khỏi hẳn, nửa đêm nó đói sẽ thò tay móc
ruột người để ăn đấy.
Người chồng tưởng thật, hàng ngày cứ dang tay đi xung quanh nhà vào buổi
sáng và buổi tối. Trong đêm anh không dám ngủ vì sợ bị vợ móc ruột.
Thấy anh chồng đã tin lời mình, chàng trai lại tìm cách nói chuyện với cô gái:
- Chồng của cô điên, ngày nào cũng dang tay đi quanh nhà. Nó sắp mọc đuôi
biến hóa rồi đấy. Nửa đêm cô sờ thử xem đuôi đã mọc đến đâu rồi.
Cô gái tưởng thật. Đêm đến tưởng chồng đã ngủ say, cô nhẹ nhàng tìm cách sờ
thử xem đuôi đã mọc đến đâu. Người chồng vẫn đang thức, thấy vợ sờ vào đít mình
thì hoảng sợ la toáng lên “ Ối ! Ma cà rồng, ma cà rồng móc ruột”. Chàng chạy một
mạch về nhà mình, ai khuyên thế nào cũng không dám quay lại nữa.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, 82 tuổi,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 02 năm 2015)
III. TRUYỆN CƯỜI
XỰ PHONG
Người ta kể rằng: Xự Phong là người dân thường ở Mường Mộc (Mộc Châu
ngày nay). Án Nhà Mường Mộc cho xuống theo hầu người con gái của ông đi lấy
chồng xa là Án Nhà Mường Pa (thuộc một vùng của huyện Mai Châu ngày nay). Lúc
đầu Xự Phong rất ngoan ngoãn, được Án Nhà tin cậy, coi như người trong dòng tộc.
Một lần Án Nhà mường Pa bảo Xự Phong nếu lấy được thanh kiếm chuôi ngà
voi của Án Nhà Mường Mộc cho ông ta thì có tội sẽ được tha, mắc vạ không bị phạt.
Nhân một lần lên cống nộp, Xự Phong lấy được thanh kiếm của Án Nhà
Mường Mộc đem xuống cho Án Nhà Mường Pa. Từ đó, Án Nhà mường Pa phải giữ
lời cam kết.
ĐIỀU MONG
Trong lúc thư giãn, Án Nhà cũng hay tâm sự với Xự Phong. Một lần Án Nhà
muốn thổ lộ với Xự Phong những điều mình mong muốn nhưng lại muốn cho Xự
Phong thổ lộ trước. Vì vậy Án Nhà hỏi:
- Xự Phong, ngươi mong muốn cái gì nhất ?
Xự Phong hỏi lại:
- Thế Án Nhà mong muốn cái gì hơn ? Án Nhà nói trước, con nói sau.
Án Nhà bảo:
- Ta thì ta mong có người nào mắc tội để ta bắt phạt vạ, lấy tiền, lấy của, lấy gà
lợn ăn cho đã đời. Còn ngươi muốn gì ?
- Dạ, xin lỗi Án Nhà, con thì con mong Án Nhà chết, để được làm đám ma to ạ.
Án Nhà trợn mắt quát:
- A, thằng phản chủ, mày lại mong cho tao chết hả.
Xự Phong giả bộ sợ hãi:
- Dạ… Án Nhà có chức, có quyền, mong cho dân mắc tội để được phạt vạ,
được tiền lại được ăn. Còn phận tôi tớ như con, chỉ có mỗi cách là Án Nhà chết mới
được làm ma to, được tha hồ ăn thịt, vì vậy con mong thế.
Án Nhà ớ lên một tiếng.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, 82 tuổi,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)
BẮT CUA
Một hôm Án Nhà và Xự Phong đi săn. Trên đường về nhà, Xự Phong thấy một
con cua chạy vào bên trong hốc đá. Xự Phong bảo:
- Án Nhà, có con cua.
Đi săn từ sáng đến giờ không gặp con thú nào, vì vậy Án Nhà bảo:
- Cua thì bắt chứ sao, nó ở đâu ?
Xự Phong chỉ vào hốc đá và bảo:
- Nó vừa chui vào đây, Án Nhà cho tay vào xua nó chạy nó sang bên kia, để
con sang bắt nhé, con cua to lắm.
Án Nhà không biết là hốc đá không thông sang bên kia nên khi vừa thò tay vào đã
bị cua cắp ngay vào ngón tay, ông kêu thét lên vì đau. Xự Phong giả bộ cuống quít:
- Ông ở yên, càng động đậy nó càng cặp chặt đấy.
Rồi Xự Phong lấy bao diêm trong túi ra, xòe một que, rồi chọc thẳng que diêm
đang cháy vào mông Án Nhà. Bị nóng đột ngột, Án Nhà giật mạnh tay ra. Trên ngón
tay còn nguyên cái càng cua vẫn cặp chặt. Ông mắng:
- Thằng trời đánh, mày làm gì vậy hả ?
Xự Phong bảo:
- Con mà không làm cách ấy thì sao ông rút tay ra được.
Án Nhà giơ ngón tay bị cua cặp lên, mặt méo xệch.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, 82 tuổi,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)
IV. KHẮP.
I. Khắp nghi lễ - phong tục:
KHẮP SỬ THI “MỞ HỌNG TRỜI”
Hết đoạn trước, kể dòng sau
Hết dòng sau, kể đoạn mới.
Đẵn cây, chém đắng gốc,
Nhấc cây, lấy đằng ngọn.
Kể chuyện, kể dòng trước, dòng sau
Mo không lẫn mất lời,
Mo không quên mất đoạn.
Nhầm mất lời, sợ không thọ
Lẫn mất đoạn, sợ chết sớm.
Đây là chuyện đời xưa kể lại
Đây là lời tổ tiên truyền cho.
Đời xưa, truyền để mo khấn
Đời xưa, truyền để mo kể.
Mo xin kể từ đầu đến cuối
Kể đủ như cây cỏ mọc trong rừng.
Mo xin kể năm, kể tháng mới có,
Mo xin kể năm, kể tháng trời mới làm ra.
Ngày xửa ngày xưa thủa trước
Ngày xưa thời xa xăm
Họ bảo cái gì thành tiếp sau trời
Cái gì thành tiếp sau đất ?
Họ bảo thành tiếp sau trời
Chỉ có gà trống đỏ cựa độc
Gà trống đỏ cựa đồng
Nó ở Mường Bôn cao vút
Ở Mường Mây cao xa
Nó ở sân nhà Then, nơi gái giã gạo
Nó ở sân nhà Then, nơi gái đập lúa
Hết năm nó vỗ cánh gáy
Trên cối, gái nhà Then hay giã gạo
Lên trên máng chày lúa nhà Then nó gáy
Gáy một lần cựa nó chưa rơi
Gáy năm sáu lần cựa nó mới rụng
Một cựa rụng xuống nước
Thành cá đày khày đuôi đỏ
Rụng xuống vườn rau tành
Thành rau tành cuống tím
Rụng xuống vườn trước cửa
Hóa thành hoa mào gà vàng
Rụng xuống vườn sau nhà
Hóa thành hoa mào gà đỏ
Một cựa rụng xuống đồi núi
Hóa thành hoa bưởi, hoa vông
Thành tháng giêng năm mới!
Tháng giêng tiếp là tháng hai
Tiếp là tháng ba, tháng tư
Trăng lên đỉnh núi sáng trong
Hai đầu nhọn tựa sừng trâu
Dân Mường hỏi tháng chi tháng này?
Trẻ em chạy về nói
Người già mời ra xem
Ngắm nghía trăng đúng mồng ba hàng tháng
Họ bảo:
Tháng này là tháng giêng, tiếp là tháng hai
Tiếp nữa là tháng ba, tháng bốn
Tháng giêng hoa gạo hé nụ dùi trống
Tháng hai hoa vông hé nụ cựa gà
Tháng ba nước chảy tràn khe suối
Không có nước tràn khe để đơm đó
Tháng tư nước tràn vào khe cạn
Nhưng không nước vào khe để chặn bắt cá
Tháng ba họng trời còn kín còn tắc
Còn kín như lưỡi sáo
Còn kín như lưỡi khèn
Rễ cây si còn cuốn họng trời
Rễ cây đa còn cuốn tắc họng Bôn
Nàng Ặc ở Mường Bôn
Chưa cho trời rung
Nàng Ắn ở Mường trời
Chưa cho trời chớp
Nàng Nè ở Mường trên
Chưa cho trời sấm
Trời không sấm chưa có mưa
Trời không mưa
Dân Mường trần chưa cúi mặt làm của
Trời chưa sấm chưa chớp
Dân Mường dưới chưa cúi lưng làm việc
Xong ăn cơm họ chỉ ngồi
Ăn cơm rồi họ chỉ chơi
Người đi bán không biết giá
Người đi mua không biết lối cả
Ba mươi ngày nàng trăng xuống thấp
Ba mươi đêm nàng trăng mới lặn
Trăng lặn tối như hũ nút
Đêm tối như trong tổ tò vò
Hết tháng này tháng sau lại đến
Hết tháng này tháng khác mở ra
Trăng lên đỉnh núi sáng trong
Hai đầu nhọn tựa sừng trâu
Dân Mường bảo tháng chi tháng này
Trẻ con chạy về nói
Người già lại ra xem
Ngắm nghía trăng đúng mồng ba hàng tháng
Trẻ con lại nói
Người già lại bảo:
Tháng năm tiếp tháng sáu
Tháng sáu tiếp là tháng bảy tháng tám
Tháng năm lá mạ nẩy mầm, hoa hé nụ sát cành
Khướu đua hót ở rừng sâu.
Tháng bảy lũ lụt nắng gắt
Nhưng không có mưa làm lũ
Tháng tám trời sấm sét mưa to
Nhưng không có mưa to lũ lụt
Họng trời còn kín còn tắc
Còn kín như lưỡi sáo
Còn kín như lưỡi khèn
Nàng Ặc ở Mường Bôn
Chưa cho trời rung
Nàng Ắn ở Mường trời
Chưa cho trời chớp
Nàng Nè ở Mường trên
Chưa cho trời sấm
Trời không sấm
Người Mường dưới cúi mặt làm của
Trời chưa mưa
Người Mường trần chưa cúi lưng làm việc
Người đi bán không biết giá
Người đi mua không biết lối cả
Ăn cơm xong họ chỉ ngồi
Ăn cơm rồi họ chỉ chơi
Ba mươi ngày nàng trăng xuống thấp
Ba mươi đêm nàng trăng mới lặn
Trăng lặn, tối như hũ nút
Đêm tối như tổ tò vò
Hết tháng này tháng sau lại đến
Hết tháng này tháng khác mở ra
Trăng lên đỉnh núi sáng trong
Hai đầu nhọn tựa sừng trâu
Dân Mường bảo tháng chi tháng này
Trẻ con lại về nói
Người già lại ra xem
Ngắm nghía đúng mồng ba hàng tháng
Họ bảo:
Tháng chín hết tháng mười đến
Tháng mười giáp tháng mười một, tháng chạp
Tháng một, tháng chạp
Không phải tháng mưa lũ
Trời không sấm tháng chạp
Trời sẽ sấm tháng giêng
Mong ngày này ngày sau cũng vắng
Mong đêm này đêm khác cũng không
Lời đầu họ nói
Lời sau họ bảo
Lo sao làm được
Ước sao được vàng của quý
Làm sao cho trời tung lưỡi tầm sét bằng đồng
Thủa ấy có:
Anh Làng Cặp và anh Làng Có
Lưỡi dài bằng quả núc nác
Mắt to bằng quả xổ
Nước trong vại còn trong
Trong lòng họ trí sáng
Giã gạo cho vào túi đeo lưng
Rìu lưỡi săc đeo lên vai
Múa kiếm lên Mường Bôn sáng loáng
Múa rìu lên Mường trời cao xa
Đến tận gốc cây si Mường trời
Xem tận gốc cây đa Mường Bôn
Tay che mắt trái để ngắm
Nheo mắt phải để xem
Rễ cây si cuốn tắc họng trời
Rễ cây đa làm tắc họng Bôn
Rễ cây si cuốn tắc họng không có lối trời sấm
Rễ cây đa cuốn tắc họng không có đường cho trời gầm
Trời không sấm, không sét
Không có mưa có lũ
Ba mươi chiếc rìu Thái họ chém
Ba mươi chiếc rìu Xá họ chặt
Cắt rễ cây si không để cuốn họng trời
Chặt rễ cây đa không để tắc họng Bôn
Chặt rễ cây si để trời có lối gầm
Chặt rễ cây đa để trời có lối sấm
Nàng Ặc ở Mường Bôn
Mới cho trời rung
Nàng Ắn ở Mường trời
Mới cho trời chớp
Nàng Nè ở Mường trên
Mới cho trời gầm, sấm
Trời muốn sấm mồng một
Sợ đánh đè vía trâu
Trời muốn sấm mồng hai
Sợ đánh đè vía lúa
Trời muốn sấm mồng chín
Sợ đánh đè vía ông Mo
Trời chọn ngày được ngày tốt
Chọn ngày được ngày đẹp, lành
Chọn ngày được ngày chắc chắn
Chọn ngày được ngày bền lâu
Trời lui lại sấm ngày cột
Trời lui lại sấm ngày rụng
Trời làm râm từ sáng đến trưa
Râm từ trưa đến tối
Chọn giờ được giờ tốt
Chọn giờ được giờ lành
Trời mới tung lưỡi tầm sét bằng sắt
Trời mới tung lưỡi tầm sét bằng đồng
Trời gầm, sôi như nồi cháo
Trời gào như nồi canh rêu
Trời tung lưỡi tầm sét xuống đất
Sấm đầu năm tiếng nặng
Sấm đầu năm tiếng vang
Dân Mường nghe sấm
Mọi người hú vía về bản
Người già trong bản, quan ngồi trên sập
Nghe trời sấm hú vía về nhà
Trời sấm đầu năm nay con gì nghe trước
Chim chào mào đậu cành tre
Chẻo bẻo đậu cành cây trước nhà
Nó bảo: Trời sấm nghe trước muôn loài
Voi, ngựa cúi đầu gặm cỏ
Ếch trong vườn cằm ngắn
Dím ở trong hang thính tai
Trời sấm, cũng bảo nghe trước muôn loài
Hươu, nai ăn cỏ đồi cao vót
Chim Càng Cót lông mượt
Gà lôi lông dày
Trời sấm cũng bảo nghe trước muôn loài
“Úm áy” mọc ven đồng
Cua, cá ở dưới nước
Ve sầu kêu rền vang
Mành Lền kêu dồn dập
Trời sấm cũng bảo nghe trước muôn loài
Rau “hác” mọc trước cơn giông
Măng đắng mọc để nghe trời sấm
Chim Khài Khó xuống bảo làm nương
Chim Khài Khoáy xuống bảo làm ruộng
Bảo người sửa cuốc, sửa rìu
Bảo người làm ruộng sửa cày, sửa bừa
Làm ruộng lấy cơm ăn
Trời sấm cũng bảo được nghe trước muôn loài
Các quan ở bên chum rượu
Người già ở trên sập
Trời sấm cũng bảo nghe trước muôn loài
Họ bảo:
Trời sấm đầu năm trên Sông Đà thì sửa gác
Sấm đầu năm cuối nguồn Sông Mã sửa thuổng
Trời tung lưỡi tầm sét bằng sắt xuống ầm ầm
Tung lưỡi tầm sét bằng đồng xuống ào ào
Mưa phun đổ lá mía
Tia mưa đổ mái gianh
Mưa giây xuống nguồn sông Mã
Mưa tuôn xuống nguồn sông Đà
Hạt mưa to bằng quả gắm
Suối cạn, hố hốc tràn đầy
Các hố củ mài đều tràn nước
Các gò mối tan thành bãi bằng
Cuối đồng thành sóng trắng
Ven đồng thành sóng bạc
Trời mưa xuống Mường dưới
Muôn cây đua nở đâm chồi
Muôn loài vật đua nhau kêu
Trời mưa xuống Mường trần
Dân chúng vui cầy ruộng mạ
Trời mưa xuống Mường dưới
Dân chúng vui cầy ruộng mùa
Mo nói ngần ấy đủ bề
Mo kể bằng này đã đủ biết
Mo kể năm, tháng
Then lớn mới sinh ra
Mở họng trời từ thời xa xưa ấy
Nhớ lấy để trong lòng mãi mãi
Nhớ lấy để trong bụng muôn đời.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Hà Văn Hoan, sinh năm
1942, ở Xóm Vặn - Xã Piềng Vế - Huyện Mai Châu vào tháng 11 năm 2014)
KHẮP “HỎI VỢ”.
Tôi về đây thăm ông, mong nên anh nên em.
Không có rau, xin ông chỉ vườn.
Không có nhà, mong ông cho gỗ.
Thiếu người, ông cho người,
Sợ con voi, tôi xin vào nấp ngà,
Sợ núi đá, tôi xin vào nấp vách đá.
Sợ ông, tôi vào nấp đầu gối ông, xin cơm.
Gánh đồ tôi xin gửi lại đây
Bố mẹ thương cho không
Họ ngoại thương cho gặp
Ông bà thương cho đi lại.
Xin dựa gốc cây cọ, cuống lá gốc,
Xin dựa gốc cây cọ, cuống lá dày.
Xin dựa nhờ bố mẹ bên ngoại, dựa nhờ các anh, các em.
Mong có người về nối nghiệp cha ông.
Để gầm sàn có đống củi to,
Đầu chỗ ngủ có người quét dọn.
Tôi người cũ, người xưa không khéo.
Nói năng vụng về, lại ít tinh thông
Không dám đi đường cái, chỉ dám đi đường con sóc.
Đất ông, bản mường tôi.
Mong cho đông bản, nhiều mường.
Mường úp bản như máng gạo úp ôm.
Đóng nạc bản, không để cột héo,
Đóng nạc bản, tôi không để cột nghiêng.
Vách đá có sơn dương, đất mường có chủ.
Có người giúp việc làm ăn.
Nối nghiệp tổ tiên có người nắm cơm trao tay
Có người dắt ra bến suối bảo cách tháo nước.
Đất Mường Mai tôi có năm mường.
Mường Thượng, Mường Hạ, Mường Pa, Mường Mùn...
Bảo nhau làm việc,
Làm nhà kéo nhau sang giúp,
Cưới con mời nhau sang thăm.
Đi buổi sớm không mang cơm trưa,
Về buổi chiều, không mang cơm tối.
Đi có chỗ nghỉ, về có chỗ chơi.
Nên anh, nên em, cô, dì, chú, bác.
Nói phải, ông gả con cho,
Nói trái ông cũng gả con cho.
Đất Tạo tôi dài, rừng Tạo tôi rộng.
Nơi Tòng Đậu, Lồm Nọi ở trong, Lổm Luông ở ngoài.
Núi Tá Nghẹ có bãi gianh lớn
Ngòi Chò có hòn đá Mé
Nơi ấy, cây phay chẽ ba nhành
Cây đa cổ thụ ở núi Khà Lê
Dây mây nhiều ở ao Ánh
Suối nước đục có đá Chồng Mâm
Có núi Bộc xem ruộng
Có núi Phai Dôm nhìn mường
Vách Đán Cật bắn nỏ thời xưa,
Vách Đán Há thành hình bò đá.
Nước Sông Mã chảy bên trái là đất Mai Châu,
Chảy bên phải là đất Thanh Hóa.
Đá hoa ở Đập Làm
Mỏ cua ở núi Con Sóc
Chiềng Châu là đất gốc đẻ ra các bản.
Có nước tất có cá, có ruộng khắc có thóc.
Lúa nếp gốc ở ruộng đầu mường
Lúa nếp hương ở ruộng cạnh bản.
Lúa lóc, bản tôi trồng ruộng bãi.
Đầu bãi, trồng bông
Dâu nuôi tằm, trồng đầu bến nước.
Voi ngựa dứt dây chạy lên trên,
Thuyền be trôi xuôi phí dưới.
Người mường tôi
Lợn thiến không đánh,
Con gái đẹp không trêu
Người buôn bán không bắt vạ.
Dưới xuôi có muối, bản mường ta có họ.
Bản dưới, mường trên coi nhau là anh em.
Làm thuyền mong nhiều bến đỗ,
Ngâm gạo, muốn nhiều người vui.
Đi ăn cá, về ăn cơm
Đêm ngủ, đắp chăn, nằm đệm.
Bây giờ Tạo tôi khôn lớn
Muốn dựa vào bố mẹ bên ngoại
Ông bà thương cho lấy
Bố mẹ thương cho không
Để lúc sớm có người nhóm lửa
Để lúc khuya có người căng màn
Để có cháu con nối nghiệp cha ông thủa trước.
( Theo Nguyễn Hữu Thức trong “Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái ở Mai
Châu”, nhà xuất bản Lao động, Hà Nội ấn hành năm 2012)
2. Khắp lao động
KHẮP “GIEO VỪNG GIEO KÊ” (trích).
………….
Ước gì lấy được nàng về chăm lấy bản
Ước gì lấy được nàng về chăm lấy nhà
Nhà thành đạt cậy nhờ mệnh em
Chớ chém đổ chuối rừng để lợn độc ăn cây
Thử lòng em ắt thấy bụng
Đo nước suối sâu ắt thấy đáy
Em người nông nổi thấy bụng ngay
Anh phá hoang cho thành thửa ruộng
Dựng bản cho thành bản
Trồng cau cho thành buồng sai quả
Ươm cây mọc mầm
Anh mới về thưa cha mẹ
Nhà anh không chê
Trầu cau dạm ngõ
Cuốn ta như chỉ vàng cuốn chặt ống
Cuốn ta như chỉ tơ cuốn này
Chỉ xe thuận xin em đừng nhả
Chỉ xe trái xin em đừng dỡ
Thấy nước mường nàng muốn bơi
Thấy đồi mường nàng muốn trèo
Thấy nàng mường ấy anh muốn được lời
Chết dưới nước bởi anh quên bơi
Ngã lăn lưng đồi bởi anh quên vịn
Nghe lời em chết ngã cành đa
Nghe lời em chết vắt cành si
Chết lặng trái tim, làm mùa sao được
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)
3. Khắp giao duyên
KHẮP GIAO DUYÊN (trích)
- Nam:
…………………
Lên giọng đi hỡi bạn tình
Cất tiếng vang như ve sầu ven suối
Hát một tí cho đỡ buồn
Hát một tí để giải phiền
Khắp đêm nay đến sáng phơi sương
Khắp đêm nay, đêm nữa lấy tiếng
Khắp đêm nay, không nỡ mất trâu
Khắp đêm rưỡi, không nỡ mất voi
Không nỡ mất đám cưới bạc
Không nỡ mất đám cưới vàng.
- Nữ:
Chim cu gáy bên bờ ruộng mạ
Giọng em xấu cất tiếng chớ cười
Như thể vịt nhỏ mới tập đẻ trứng
Như gà trống nhỏ mới tập gáy
Gáy không nên xin hãy bỏ quá
Chạy không kịp anh cho bằng nhau
Sánh không kịp anh bao che
Sánh không bằng lá chàm bao phủ
Em chỉ sợ nước vỡ bờ, thuyền gãy mái
Sông có sóng thuyền chòng chành
Em chỉ sợ phí giấc ngủ của anh
Bởi em xấu, tóc ngắn không dài
Em hèn, tóc quặp ngang vai
Cổ thấp sánh sao được với chò chỉ
Cỏ lùn sánh sao bằng lưng voi
Không ngờ, thật là không ngờ
Chuồng gà lại có cá “pộc” vào
Hiên nhà lại có cá chiên bò đến
Trăng sao lại rớt xuống đồng
Người phú quý lại đến mường neo
Anh đi việc mường hay việc bản
Đi việc mường ghé qua bản
Hay đi việc bản ghé thăm nàng ?
- Nam:
Việc trong mường anh ẩm ương nói ngọng
Việc trong bản anh lại quá kém
Tại anh hèn không làm việc bản
Tại nói ngọng không xứng làm việc mường
Anh ở nhà nghe chán
Anh ở bản nghe buồn
Đành chặt lá chuối héo gánh qua mường
Chặt lá chuối vàng gánh qua bản
Chặt lá dong gánh đến mường xa
Đến thăm và đến hỏi
Đi tìm bạn tình và muốn ở làm ăn
Không thành vợ chồng, xin kết nghĩa anh em
Xin ở gian nhà ngoài, đeo “ớp” chăn trâu
Như thể bắc cầu cho chuột vào bịch lúa.
- Nữ:
Đến anh còn nói là ngọng
Hạng em này anh bảo là chi ?
Không biết em xin hỏi
Không hiểu xin hỏi thăm
Ngày anh sinh ngày nào
Ngày anh xuống trần ngày mấy
Bố mẹ cho anh ăn cá gì ngày sinh
Cha mẹ cho ăn cơm gì ngày xuống.
- Nam:
Cảm ơn ! Trăm ngàn người mới có em hỏi
Anh thành người bởi “mé hàng, nàng mé bẩu”
Do bà mụ lo đúc thành gái trai
Anh vào bụng mẹ được tám, chín tháng chờ mong
Ngày sinh anh ra đã đến
Đêm sinh anh ra đã về
Ngày sinh anh ngày chín
Bố mẹ cho ăn cá “tệt” đuôi đỏ, anh không ăn
Ông bà ngoại cho ăn cá trôi vảy trắng, anh không ăn
Anh chỉ ăn trứng cá “pau” trộn với nếp chiêm
Bố anh tên là “pằn nhà”
Ông ngoại anh tên là “khằn họi”
Chính tên anh gọi là “tiều oan”
To cao bằng chạn, không có “hạn” gọi đi
Lớn cao bằng gác, không có “hạn” rủ về
Anh mới lớn thành trai
Lớn thành trai đang sức
Răng chưa đen anh nhuộm
Răng thưa bịt bạc
Tóc chưa dài anh nối
Mặt chưa đẹp đi sửa
Tóc không bằng cắt tỉa
Anh têm trầu vào đĩa hoa
Đặt trầu vào đĩa đẹp
Tất tưởi sắm đi chơi mường xa
Đi xa mường giải chán
Đi xa bản giải buồn
Được lời người yêu về bảo chú
Được lời gái về bảo cha mẹ
Rủ bạn được bạn cùng chí
Rủ bạn được bạn hợp tâm
Rủ bạn được bạn cùng lứa
Đi nhờ ông mo già bói ngày
Nhờ ông mo mường chọn giờ
Mười ông mo ở gian giữa nói
Hai mươi ông mo ở gian ngoài bảo:
“Đi ngày cưn coong tổ tiên mới phù hộ”
Anh sắm cả ớt trộn hạt dổi
Lấy khăn đen mẹ cho
Quần áo bố mua ở chợ
Lấy súng hỏa mai quen dùng
Lấy chài lưới tơ tằm anh quen thả
Áo vắt vai anh bước đi
Áo vắt vai anh ra khỏi nhà
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 12 năm 2014)
4. Khắp sinh hoạt
KHẮP ĐỐ (trích).
...Anh chặt cây cho nàng kéo
Đẽo cây cho nàng chặt bằng
Đặt câu cho em giải đáp
Giải được như kéo sợi được bảy cuốn
Ươm tơ được bảy cuộn
Giải được thành con út trời sánh trăng
Then cho ta thành đôi tình:
- Sân dưới núi đá sân gì ?
Sân cuối bản sân gì ?
Sân ngoài sạp sân gì ?
Sân gầm sàn sân gì ?
Sân đống rơm rạ sân gì ?
Sân ngoài trời bao la sân gì ?
- Đẵn cây cho nàng kéo, nàng kéo
Đẽo cây cho em chặt, em chặt
Đặt câu đố để em giải, em xin giải:
Sân dưới mái đá, sân Voi
Sân cuối bản, sân trâu đằm
Sân trên sạp phơi tơ tằm
Sân gầm sàn, đàn lợn béo
Trên đống rơm gà nhà hay bới
Khoảng không trên đầu mây bay
Khoảng trống ngoài trời của ma cà rồng…
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 02 năm 2015)
KHẮP “RU CON”
À ơi….
Ngủ đi, ngủ đi nhé
Con út mẹ ngủ nôi có tua đỏ, dây xanh
Con trai mẹ ngủ nôi có dây xanh tua vàng
Con út mẹ ngủ nôi dây tơ tằm
Ai đi qua, đi lại
Không đu chớ khóc
Ngủ đi nhé
Bố mẹ đi nương ở dưới mái đá
Bố mẹ ra ruộng ở dưới bản
Đi nương mẹ lấy trứng gà về cho
Đi ra ruộng lấy cá về bón
Lấy “ẹp” nếp thơm về cho con thương
Con không nhắm mắt
Gà đuôi cụp nhà dưới mổ mắt
Con không ngủ
Chó vằn nhà trên cắn đít
À ơi…
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 02 năm 2015)
KHẮP ĐỒNG DAO
1. Cúi vào, cúi ra.
Cúi cúi vào
Lối cũ cúi ra
Bố mẹ bảo ra lũ lượt
Bắt lấy nàng đem đi trước
Đu đưa quả dưa bở
Dòng gái dòng hoa
Dòng gái, dòng trai xà tích
Bắt lấy con bé nhỏ, lẽo đẽo theo sau.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)
2. Đom đóm.
Đom đóm nhấp nháy
Đom đóm xanh xanh
Mang lửa đến đây
Để soi ống nước gạo
Để soi quãng trâu đằm.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)
V. TỤC NGỮ
I. Tục ngữ phản ánh các kinh nghiệm về lao động sản xuất:
- Sấm đầu năm, nguồn sông Đà sửa gác
Sấm đầu năm, cuối sông Mã sửa thuổng.
- Chim “khài khó” xuống bảo làm nương
Chim “khàng khoẳng” xuống bảo làm ruộng
Bảo người làm nương sửa cuốc, sửa thuổng
Bảo người làm ruộng sửa cày bừa, cày cấy lấy cơm ăn
- Sấm trước không mưa nhiều.
- Nắng tháng sáu được lúa
Nắng tháng tám, tháng chín mất mùa.
- Sao mờ trời nắng
Sao tỏ trời mưa.
- Mải bắt cá sông Mã đục đầu mùa
Mẹ vợ chết quên về khóc tiễn đưa.
- Làm nương dưới rừng gianh
Cấy lúa dưới ruộng mạ.
- Một thửa ruộng không bõ công cấy
Một con vịt không bõ công nuôi
- Nương rợp mắt không bằng ruộng một thửa.
- Làm nương rải rác, làm ruộng dông dài không được ăn.
- Vừa làm ruộng, vừa làm nương phân lẫn máu.
- Tháng năm gieo mạ
Tháng sáu lấy mạ đi cấy
Tháng bảy lúa đẻ nhánh
Tháng tám lúa xanh trổ
Tháng chín lúa trên nương đã vàng
Lúa dưới đồng chín lốm đốm bông cái
- Làm nương mỗi năm hẹp thêm một sải
Làm ruộng mỗi năm rộng thêm một vuông
- Làm nhà đợi gianh thì đẹp, để ruộng đợi mạ thì tốt.
- Làm nhà thiếu gianh không được
Làm ruộng thiếu mạ không nên.
- Làm nương có tháng, làm nhà có ngày.
- Chuối đã trồng không được nhổ, dâu tằm đã trồng không nên bới.
- Lúa ở ruộng, cá ở dưới nước.
- Lúa ở trên, cá ở dưới.
- Đất đen nương trồng dưa
Đất đỏ nương bông vải
- Muốn ăn cá, đào chuôm ao, hủm cá.
- Đi suối không đem chài, cá vào gần bờ.
- Đi rừng không mang nỏ, chim đậu gần người.
- Đi làm nương chớ mang theo chó
Đi làm ruộng chớ mang theo con nhỏ.
- Trồng khoai phải thành vườn, nuôi tằm phải thành cửi.
- Bổ cây bổ đằng ngọn
Chẻ song mây chẻ đằng gốc.
II. Tục ngữ thể hiện những triết lý dân gian, những kinh nghiệm sống:
- Một miếng cơm, chín cái lo
Một miếng cơm, chín xoáy lạt
Một miếng cơm, chín giọt mồ hôi.
- Một nhát chém, chín lần ngắm.
- Ruộng hoang quý trâu mộng
Mường có giặc quý người có gan, có lực.
- Phát nương qua chín gò mối, không có ăn thì hãy kêu trời.
- Ăn khắc hết, làm khắc xong.
- Nhiều người ăn thì hết, nhiều người làm thì xong.
- Hay làm người khỏe mạnh, lười làm người gầy còm.
- Nhà có ba trâu không đói, nhà có ba chày không nhịn.
- Chơi không thì chết đói, mày mò còn được ăn.
- Của chân tay khắc làm như có mỏ
Của bố mẹ cho như biết trôi dòng.
- Của để cho con cháu không gì bằng chân chài và quyển sách.
- Người khéo làm thì có
Ai chịu khó có ăn.
- Bố mẹ dạy không bằng thầy dạy.
Thày dạy không bằng ham muốn học hỏi.
- Đẹp bề ngoài, mục thối bên trong.
- Không ăn thì thiệt, tự ái thì hỏng.
- Ngã thuyền đừng đẩy thuyền chạy, nước cạn đừng tháo thêm.
- Đừng kéo thuồng luồng vào thuyền, chớ dẫn hổ vào bản.
- Người nào cũng có lúc xấu, vải nào cũng có lúc rách.
- Làm bạn với người lười mình cũng lười
Làm bạn với người chăm mình cũng chăm.
- Nhút nhát thì đâm
Cứng rắn thì bỏ.
- Người thương chỉ đầy miếng da, người chê đầy mường đầy bản.
- Thích ai thì bảo người ấy tốt, ghét ai thì bảo người ấy xấu.
- Thương nói thẳng trước mặt, không thương nói sau lưng.
- Đập nồi không được đập ảng.
Giết voi không được chém trâu.
- Lên núi này thấy thấp, nhìn núi nọ thấy cao.
- Ở bản thành trâu đực, ra ngoài thành trâu cái.
- Thức ăn không ăn thì thối
Lời nói không nhắc lại hay quên.
- Của quý không ở lại với người dốt
Tai vạ không đến với người khôn.
- Bảo rái cá đi thăm đó.
- Voi bốn chân có lúc còn trượt ngã
Ý nghĩ nhiều lúc cũng sai.
- Anh em cãi nhau cả ngày vẫn là anh em.
Vợ chồng cãi nhau một giờ thành dưng.
- Chọn vợ xem bà ngoại
Chọn trâu xem con đầu đàn.
- Chọn vợ xem bế củi
Chọn chồng xem mối lạt.
- Anh em cùng ông như đũa chung rổ.
- Anh em cùng ngoại như trâu chung chuồng.
- Làm nên, thấy chín bác bá
Không có, mỗi ông cậu cũng không ló mặt.
- Anh em đến nhà không được đánh chó
Cô bác đến thăm không được đánh con.
- Anh em ở xa nhau không bằng người cùng bản.
- Mái gãy còn sào, cha chết còn chú bác.
- Một con trai nuôi bố mẹ ăn không hết
Bảy con trai nuôi bố mẹ ăn không no.
- Mẹ nó đốm thì con nó đốm
Ngoại nó vằn thì cháu nó vằn.
- Gốc cây gì thì đâm chồi lá ấy.
(Tác giả luận văn sưu tầm từ các cụ Khà Tiến, 82 tuổi,
ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – huyện Mai Châu; cụ Hà Văn Hoan, sinh năm 1942, ở
xóm Vặn - xã Piềng Vế - huyện Mai Châu; cụ Hà Trung Tín, sinh năm 1941, ở
xóm Mỏ - xã Chiềng Châu - huyện Mai Châu; cụ Lường Xuân Toàn, sinh năm
1944, ở tiểu khu 3 - thị trấn Mai Châu - huyện Mai Châu; cụ Hà Công Tưởng,
sinh năm 1935, ở xóm Dân Tiến - xã Bao La - huyện Mai Châu; ông Hà Công
Nhiêng, sinh năm 1951, ở xóm Báo - xã Bao La - huyện Mai Châu và từ một số
người khác trong khoảng từ tháng 08 năm 2014 đến tháng 8 năm 2015).
-------------------------------------------
PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI
Ở MAI CHÂU, HÒA BÌNH
Một góc Thị trấn Mai Châu trong sương chiều (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 1/2015)
Bản Thái thanh bình (Nguồn: Ecolodge Mai Châu - Tháng 7/2015)
Một góc nhà sàn Thái
(Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 7/2015, tại Xóm Bước - Xã Xăm Khòe Huyện Mai Châu)
Cây thị xóm Mỏ có gốc to đến năm, sáu người ôm - nơi lưu giữ nhiều chứng tích về quá trình phát triển của dân tộc Thái trên đất Mai Châu. (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 7/2015, tại Xóm Mỏ - Xã Chiềng Châu - Huyện Mai Châu)
Bếp Thái (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 5/2013, tại Không gian văn hóa dân tộc Thái huyện Mai Châu)
Các cô gái Thái với trang phục truyền thống múa quạt trong lễ hội (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 4/2014 tại Thị trấn Mai Châu - Huyện Mai Châu)
Biểu diễn khắp giao duyên trên hạn khuống (Ảnh minh họa cho bài viết “Lên Mai Châu dự hội Xên Mường” của trang Web 24h.com.vn số ra ngày 23/3/3015)
Một đêm văn nghệ khắp giao duyên (Nguồn: trang web Mai Châu Tourism, tháng 8/2015)
Đi sưu tầm tư liệu (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 6/2015 tại Xã Xăm Khòe - Huyện Mai Châu)
Đến nhà nghệ nhân (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 6/2015 tại nhà trên nương của ông Hà Văn Hoan - Xóm Vặn - Xã Piềng Vế - Huyện Mai Châu)
Ông Hà Công Nhiêng đang trao đổi với tác giả luận văn về văn học dân gian Thái vùng Bao La - Mai Châu. (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 4/2015 tại nhà riêng của ông Hà Công Nhiêng - Xóm Báo - Xã Bao La - Huyện Mai Châu)
Ông Hà Công Tưởng diễn giải về ý nghĩa của một câu tục ngữ Thái (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 6/2015 tại nhà riêng của ông Hà Văn Tít - Xóm Dân Tiến - Xã Bao La - Huyện Mai Châu)
Nghệ nhân dân gian Hà Trung Tín (trái) và ông Lường Xuân Toàn (phải) - những người nắm giữ nhiều tư liệu văn học dân gian Thái quý báu. (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 5/2015 tại nhà riêng của nghệ nhân dân gian Hà Trung Tín - Xóm Mỏ - Xã Chiềng Châu - Huyện Mai Châu)
Ông Hà Văn Hoan - một người rất có uy tín trong cộng đồng người Thái ở Mai Châu, luôn được chọn làm mo mường trong lễ xên mường ở Mai Châu- đang kể “Ẳm ệt luông” (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 3/2015 tại nhà ông Hà Văn Hoan - Xóm Vặn - Xã Piềng Vế - Huyện Mai Châu)