ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

VŨ ĐỨC HẠNH VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

VŨ ĐỨC HẠNH VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG

THÁI NGUYÊN - 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài này là do tôi tự tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn

thiện dưới sự hướng dẫn của Phó giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Hằng Phương. Kết

quả của luận văn này chưa được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

Hòa Bình, ngày 9 tháng 11 năm 2015

Tác giả luận văn

Vũ Đức Hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân

thành và sâu sắc nhất của mình tới PGS. TS. Nguyễn Hằng Phương, người đã tận

tình chỉ bảo, hướng dẫn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tác giả xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Ban giám hiệu;

Khoa sau đại học; Ban chủ nhiệm; quý thầy cô trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ

trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu khoa học.

Tác giả xin chân thành cảm ơn các nghệ nhân dân gian, các già làng

trưởng bản thuộc huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình đã nhiệt tình giúp đỡ, cung

cấp tư liệu trong quá trình sưu tầm tài liệu để hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các đồng nghiệp thuộc

ngành Giáo dục huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi

giúp đỡ, động viên tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành

luận văn.

Mai Châu, ngày 9 tháng 11 năm 2015

Tác giả

Vũ Đức Hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8

7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 8

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ, VĂN HÓA

DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU ....................................................................... 9

1.1. Sơ lược về quá trình di cư và lập đất của dân tộc Thái ở Mai Châu ............ 9

1.2. Khái quát về văn hóa của người Thái ở Mai Châu ..................................... 11

1.2.1. Văn nghê ̣ dân gian ................................................................................... 11

1.2.2. Lễ hô ̣i Xên Bản, Xên Mườ ng .................................................................. 12 1.2.3. Mô ̣t số phong tu ̣c tâ ̣p quán khác .............................................................. 13 1.3. Vài nét về văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu .............................. 14

Chương 2. TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ TRUYỆN CƯỜI

DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU ..................................................................... 16

2.1. Truyền thuyết .............................................................................................. 16

2.1.1. Phân loại truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu ............................ 17

2.1.2. Nội dung truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu ............................ 17

2.1.3. Nghệ thuật của truyền thuyết dân tộc Thái ở Mai Châu ......................... 23

2.2. Truyện cổ tích ............................................................................................. 24

2.2.1. Phân loại truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu ........................... 25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii

2.2.2. Nội dung truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu .................................. 27

2.2.3. Nghệ thuật truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu ............................... 36

2.3. Truyện cười ................................................................................................. 39

2.3.1. Phân loại truyện cười của dân tộc Thái ở Mai Châu ............................... 40

2.3.2. Nội dung truyện cười dân tộc Thái Mai Châu ......................................... 40

2.3.3. Nghệ thuật truyện cười dân tộc Thái Mai Châu ...................................... 45

Chương 3. KHẮP VÀ TỤC NGỮ DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU ......... 50

3.1. Khắp ............................................................................................................ 50

3.1.1. Phân loại khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu .......................................... 51

3.1.2. Nội dung khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu .......................................... 52

3.1.3. Phương thức diễn xướng và nghệ thuật khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu .... 75

3.2. Tục ngữ ....................................................................................................... 81

3.2.1. Phân loại tục ngữ của dân tộc Thái ở Mai Châu ..................................... 82

3.2.2. Nội dung tục ngữ dân tộc Thái ở Mai Châu ............................................ 82

3.2.3. Nghệ thuật tục ngữ dân tộc Thái ở Mai Châu ......................................... 86

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 89

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 93

PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là một quốc gia bao gồm nhiều dân tộc. Bên cạnh dân tộc Kinh còn

có 53 dân tộc thiểu số khác sống rải rác trên mọi miền đất nước. Thành phần các dân

tộc có khác nhau, nhưng đều chung nguồn gốc Bách Việt. Từ buổi đầu dựng nước

đến nay, các dân tộc thiểu số đã có sự tham gia tích cực trong việc xây dựng và bảo

vệ đất nước, xây dựng những truyền thống lịch sử, văn hóa của đại gia đình các dân

tộc Việt Nam.

Văn học dân gian các dân tộc thiểu số có những thành tựu độc đáo với những

sắc thái riêng biệt. Diện mạo của nền văn học dân gian Việt Nam sẽ được nhìn nhận

đầy đủ, chính xác hơn trên mối quan hệ tổng thể văn học dân gian các dân tộc. Văn

học dân gian dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số có mối quan hệ gắn bó, mật thiết, có sự

giao lưu và chuyển hóa lẫn nhau đến mức có những trường hợp không thể tách rời.

Việc nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số là rất cần thiết. Do đó, văn

kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa

VIII đã nêu rõ: “coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và phát

triển những giá trị mới về văn hóa, văn học nghệ thuật của các dân tộc thiểu số là

nhiệm vụ vô cùng cấp bách” [40].

Sinh ra và lớn lên trên quê hương Mai Châu - Hòa Bình, nơi được coi là cửa

ngõ lên miền Tây Bắc của đất nước, cũng là một trong những khu vực cư trú tập

trung của đồng bào dân tộc Thái ở Việt Nam, tôi đã sớm được tiếp xúc với một nền

văn hóa Thái phong phú và rất đậm bản sắc riêng. Đó là các lễ hội như Xên Bản, xên

mường; là các phong tục tập tập quán như tết cơm mới, ma chay, cưới xin... Đồng

thời tôi cũng được tiếp xúc với những tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Thái

qua lời kể, các điệu khắp của các ông mo, các già bản, các chàng trai cô gái Thái, tôi

nhận thấy rằng dân tộc Thái ở huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình có một kho tàng văn

học dân gian khá phong phú về số lượng văn bản và thể loại, khá sâu sắc về nội dung

ý nghĩa. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu để giúp cho việc sưu tầm, nghiên

cứu và sử dụng kho tàng ấy một cách hiệu quả. Chính vì vậy, hiện tại việc thực hiện

nội dung Ngữ văn địa phương ở các trường Trung học cơ sở trong huyện rất khó khăn

do thiếu tư liệu và cơ sở để biên soạn các tiết dạy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 1

Từ những lí do trên, tôi chọn: "Văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu"

làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Mong rằng qua công trình này, tôi sẽ

góp được một phần công sức bé nhỏ vào việc giới thiệu, gìn giữ, bảo tồn và quảng bá

cho nền văn học dân gian của dân tộc Thái huyện Mai Châu; đồng thời tạo thêm một

cơ sở, một nguồn tư liệu về văn học dân gian để giúp các giáo viên Ngữ văn ở huyện

Mai Châu có thể thực hiện các tiết dạy Ngữ văn địa phương một cách thuận lợi hơn.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc thù riêng, những giá trị văn hóa

đậm bản sắc đó đã tạo thành nền văn hóa thống nhất và đa dạng của đại gia đình 54

dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu văn học dân gian dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh

Hòa Bình là nhằm giữ gìn và phát huy các giá tri văn hóa của cộng đồng các dân tộc

Việt Nam; đồng thời ứng dụng vào các công việc có giá trị thiết thực ở địa phương.

Từ trước đến nay, tuy chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn học

song nền văn hóa dân tộc Thái nói chung và văn học dân tộc Thái ở huyện Mai Châu,

Hòa Bình nói riêng đã được một số tác giả đề câ ̣p đến, cụ thể như sau:

Năm 1977, giáo sư Đặng Nghiêm Vạn công bố cuốn "Tư liệu về lịch sử và xã

hội dân tộc Thái" do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành. Trong công trình này có

phần nói về người Thái Mai Châu, Hoà Bình với tư liệu là cuốn gia phả của dòng họ

Hà Công (Xóm Chiềng Hạ, xã Mai Hạ, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) được các thế

hệ của dòng họ này ghi chép liên tục từ ngày đến mở đất sinh cư (khoảng cuối thế kỷ

XIII, đầu thế kỷ XIV) và dừng lại vào Cách mạng tháng 8 năm 1945.

Năm 1978, cuốn “Các dân tộc ít người ở Việt Nam” đã giới thiệu khá chi tiết

về đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của các dân tô ̣c, trong đó có dân tộc Thái ở Việt Nam, đây là cơ sở quan tro ̣ng cho việc tìm hiểu về nguồn gốc và các đặc điểm cơ bản

của dân tộc Thái.

Cuốn “Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam” (trước Cách mạng tháng 8 năm

1945) của tác giả Phan Đăng Nhật được Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1981 là

công trình chủ yếu nghiên cứu về văn học dân gian các dân tộc thiểu số ở nước ta,

trong đó có phần quan trọng về văn học dân gian dân tộc Thái.

Đặc biệt, trong thời gian gần đây, trước xu thế hội nhập văn hóa giữa các dân

tộc, các nhà nghiên cứu trẻ đã có nhiều công trình tìm hiểu chi tiết hơn về nền văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2

hóa Thái nói chung và nền văn học dân tộc Thái nói riêng. Như chúng ta đã biết, dân

tộc Thái cư trú nhiều ở vùng Tây Bắc và một số tỉnh khác như Thanh Hóa, Nghệ

An... Mặc dù có địa bàn cư trú rộng nhưng những đặc điểm cơ bản về lối sống, về văn

hóa là khá đồng nhất. Tác giả Nguyễn Văn Phượng - Giảng viên Khoa Triết & Chủ

nghĩa xã hội khoa học có bài viết đăng trên trang web của trường chính trị tỉnh Nghệ

An “Tiếp cận những khía cạnh cơ bản văn hoá dân tộc Thái từ góc độ triết học”. Về

văn hóa vật chất, ông khẳng định: Không gian cư trú là các bản làng ven các nguồn

nước; bản Thái không lấy vườn tược, đồi nương và đường đi lối lại để quy định vị trí

mà lấy thế đất làm điểm trung tâm cho việc khai mở.

Về kiến trúc, người Thái chủ yếu là ở trong nhà sàn, loại nhà được kiến thiết

bằng những chất liệu từ thiên nhiên, gần gũi với nơi họ sinh sống. Về trang phục, người

Thái có truyền thống dệt vải lâu đời. Giới nam của dân tộc Thái mang trang phục rất

đơn giản, ít giữ bản sắc. Đặc biệt, ngày nay với sự thâm nhập của người Kinh, thì nam

giới Thái đã mang trang phục như miền xuôi. Phụ nữ xính trang sức đã làm tăng thêm

nét duyên dáng và tươi đẹp của họ. Việc mặc váy đã tôn lên được thân hình mảnh dẻ,

điệu đà của họ, nhân lên phong cách Á Đông của người phụ nữ Việt Nam.

Về lĩnh vực văn hóa tinh thần của dân tộc Thái, tác giả Nguyễn Văn Phượng

cho rằng tín ngưỡng dân gian của người Thái là biểu hiện nhận thức, tâm lý, tình cảm

của họ về các hiện tượng xung quanh tự nhiên và xã hội. Trong quan niệm về vũ trụ,

người Thái chia vũ trụ làm ba phần: Thứ nhất là Mường Phạ - mường của các vị

Then; thứ hai là Mường Lùm (Mường người); thứ ba là Mường Boọc Đai (Mường

trong lòng đất). Với người Thái xưa coi đấng siêu nhiên, toàn năng là "Phi". "Phi"

bao gồm linh hồn người sống (Phi vẳn); linh hồn người chết (Phi hương); tổ sư nghề

mo (Phi ôn, Phi một); các loại ma quỷ trong tự nhiên (Phi Pu, Phi Pả). Người Thái có

quan niệm duy linh về con người. Họ cho rằng, con cái được sinh ra là quà ban

thưởng của trời đất cho họ. Mỗi đứa trẻ sinh ra được gửi gắm rất nhiều hi vọng.

Tác giả Nguyễn Văn Phượng cũng cho rằng đời sống tinh thần của dân tộc

Thái là vô cùng phong phú với rất nhiều nghi lễ như lễ hội Xên Mường, lễ hội Xăng

Khan, tết cơm mới, nghi lễ tang ma, nghi lễ cưới xin… Đặc biệt Người Thái có vốn

văn nghệ dân gian rất phong phú và đặc sắc, đó là cả kho tàng văn hóa của một tộc

người có lịch sử hàng ngàn năm sinh tụ ổn định trên một địa bàn tương đối rộng. Đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 3

là chưa kể dọc đường hành trình của họ, họ đã từng gặp gỡ tiếp xúc các cư dân Việt-

Mường, những cư dân Môn- Khơme, cư dân Lào... làm cho vốn văn nghệ dân gian

Thái mang thêm nhiều màu sắc của nhiều dân tộc.

Trên trang web “Biên phòng Việt Nam” số ra ngày 24/4/2013 có bài viết

“Những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Thái” có những nhận định tương tự “Dân

tộc Thái có trên một triệu người sinh sống tập trung chủ yếu tại các tỉnh Lai Châu,

Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái, Nghệ An, Thanh Hóa và sinh sống rải rác ở

một số tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do di cư. Dân tộc Thái còn có những

tên gọi khác là Táy và có các nhóm Táy Đăm, Táy Khao, Táy Mười, Táy Thanh,

Hàng Tổng, Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày - Thái. Trải

qua các cuộc thiên di trong lịch sử, dân tộc Thái có mặt ở Việt Nam từ hàng trăm năm

trước, họ có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng cọn, bắc máng lấy nước

làm ruộng. Bản mường Thái thường định cư gần nguồn nước, mỗi bản có từ vài chục

đến hơn trăm nóc nhà kề bên nhau. Người Thái có quan niệm đa thần và giữ tục cúng

tổ tiên. Do đời sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp nên có tục lấy nước đêm giao

thừa, lễ hội đón tiếng sấm năm mới và một số lễ hội cầu mùa khác. Đối với người

chết, họ quan niệm là tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia vì vậy đám ma là lễ tiễn

người chết về với “mường trời”. Người Thái có nhiều họ, mỗi họ có những qui định

kiêng kỵ khác nhau, chẳng hạn: họ Lò kiêng không ăn thịt chim Táng Lò, họ Quàng

kiêng con hổ… Về văn học nghệ thuật, do người Thái có chữ viết riêng nên kho tàng

văn học dân gian như truyền thuyết, ca dao, truyện thơ, văn học, dân ca… và một số

luật lệ còn được lưu giữ và truyền lại khá nguyên vẹn qua các bản ghi chép trên giấy

bản hoặc trên lá cây. Đồng bào Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khắp. Khắp là lối

ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa

xòe, múa sạp, múa quạt rất độc đáo đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài

nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Vào dịp lễ hội, hạn khuống và ném còn là hai trò

chơi mang nét đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người Thái.

Tác giả Nguyễn Văn Hòa có công trình nghiên cứu “Dân ca Thái vùng Tây

Bắc Việt Nam” công trình đã được Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm

2011. Công trình đã sưu tầm, nghiên cứu, tổng hợp và đưa ra nhiều nhận định có giá

trị về thể loại dân ca Thái vùng Tây Bắc, trong đó có dân ca Thái Hòa Bình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 4

Riêng về văn hóa dân gian dân tộc Thái ở huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình,

tác giả Nguyễn Hữu Thức - Hội văn nghệ dân gian Việt Nam - đã có công trình

nghiên cứu “Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái ở Mai Châu”. Công trình này

đã được Nhà xuất bản Lao động ấn hành. Trong công trình của mình, tác giả Nguyễn

Hữu Thức đã nghiên cứu về quá trình thiên di lập đất của người Thái ở Mai Châu, các

phong tục tập quán và sưu tầm một số tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Thái ở

Mai Châu. Ông khẳng định tính trội của văn hóa Thái Mai Châu thể hiện ở một số

biểu hiện như văn hóa ăn ở của người Thái gắn liền với nguồn nước. Bản mường

người Thái Mai Châu bám theo hai bờ dòng chảy các con suối, trong đó có hai suối

lớn là suối Mùn và suối Xia. Người Thái thành thạo trong làm ruộng nước. Đến đất

Mai Châu đã hơn sáu thế kỷ, họ đã cải tạo thung lũng thành những thửa ruộng bậc

thang, xây dựng hệ thống mương máng, đặt guồng đưa nước vào ruộng để cấy, gặt

hai vụ một năm. Người Thái có tập quán cư trú mật tập, các nhà sàn liền mái, ngõ đi

chung, ý thức cộng đồng được đề cao trong quan hệ xã hội; họ hiếu khách, trân trọng

và luôn dành những tình cảm tốt đẹp cho khách. Mọi công việc đều khởi đầu bằng

cốc rượu, uống rượu không khích bác nhau mà dành cho nhau nhưng lời nói tốt đẹp

nhất tạo sự thân thiện giữa các cá nhân với cộng đồng.

Tác giả Nguyễn Hữu Thức nhận định “Dù gian lao, vất vả, chiến tranh, giặc

giã, đói kém, dịch bệnh, mất gì thì mất chứ nhất quyết không để mất chữ. Chữ viết

người Thái là vốn vô giá của tổ tiên để lại cho con cháu. Nhờ vào chữ viết, vốn liếng

tri thức được các đời ghi chép và truyền lại cho các thế hệ tiếp thu để chăm lo sản

xuất, bảo vệ sức khỏe, đặt ra luật lệ quản lý xã hội, xây dựng bản mường” [35,tr.54].

Về văn học dân gian dân tộc Thái Mai Châu, tác giả Nguyễn Hữu Thức có sưu

tầm một số tác phẩm và sơ lược về ba thể loại có số lượng tác phẩm lớn là dân ca,

truyền thuyết và truyện cười. Ông cũng có những nhận định chính xác về văn học dân

gian Thái như “Dân ca Thái thoát thai từ lao động, không thể tách rời cơ sở kinh tế -

xã hội của thời đại sản sinh ra nó” [35,tr.124]; “... Nạn cát cứ phong kiến tranh đất,

tranh mường của nhau đã bao phen binh đao làm thân phận người dân Thái vô cùng

điêu đứng. Có biết bao truyền thuyết như một bản cáo trạng truyền đời cho con cháu

mai sau nói lên thảm họa đó” [35,tr.142]; “Tiếng cười là vũ khí của kẻ mạnh. Trước

muôn vàn khó khăn người Thái Mai Châu đã biết tìm cho mình vũ khí sắc bén ấy”

[35,tr.160].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 5

Như vậy, việc sưu tầm trên diện rộng và đi sâu tổng hợp, nghiên cứu để nêu ra

những nhận định, đánh giá mang tính chất toàn diện về những đặc điểm cơ bản của

văn học dân gian Thái Mai Châu chưa được thực hiện từ trước đến nay. Trong khuôn

khổ luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng để đáp ứng điều đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Luận văn nhằ m mục đích nghiên cứu, tìm hiểu giá trị cơ bản về nội dung và

nghệ thuật của các tác phẩm văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu - tỉnh

Hòa Bình.

- Thông qua việc sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu về văn học dân gian Thái, luận

văn nêu ra một số định hướng, biện pháp nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá

trị văn hóa nói chung và văn học dân gian Thái nói riêng của cộng đồng dân tộc Thái

ở Mai Châu - Hòa Bình.

- Một trong những mục tiêu quan trọng mà luận văn muốn hướng tới là

dùng kết quả sưu tầm, nghiên cứu để ứng dụng vào việc giảng dạy nội dung

Ngữ văn địa phương ở các đơn vị trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện

Mai Châu.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích của đề tài, trước tiên cần tìm hiểu và nắm vững những

vấn đề lý luận và thực tế có liên quan đến đề tài làm nền tảng khoa học cho việc

nghiên cứu. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế

- xã hội và đời sống văn hóa của dân tộc Thái ở Mai Châu bởi đó là yếu tố quan trọng

thúc đẩy sự phát triển văn học dân gian của dân tộc Thái ở địa phương.

Trên cơ sở hệ thống văn bản tác phẩm đã được sưu tầm, chúng tôi khảo sát,

phân loại, tìm hiểu, phân tích để từ đó rút ra những giá trị cơ bản về nội dung và nghệ

thuật của văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Các tác phẩm thuộc thể loại truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, khắp (dân ca)

và tục ngữ của dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 6

- Một số tác phẩm có nét tương đồng của dân tộc Kinh (trường hợp có tác

phẩm tương đồng).

4.2. Phạm vi nghiên cứu

4.2.1. Phạm vi tư liệu nghiên cứu

Trong giới hạn của luận văn, tôi chỉ tìm hiểu về các thể loại có số lượng tương

đối phong phú, bao gồm truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, tục ngữ và phần lời của

khắp (dân ca) thuộc văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.

Những thể loại khác như thần thoại, sử thi... do chưa được sưu tầm một cách thực sự

đầy đủ nên xin được trình bày trong một dịp khác.

4.2.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu

Luận văn giới hạn chủ yếu ở việc tìm hiểu những đặc điểm nội dung, nghệ

thuật cơ bản của một số thể loại văn học dân gian tiêu biểu ở Mai Châu, Hòa Bình.

Có thể so sánh với văn học dân gian các dân tộc khác trong trường hợp cần thiết.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Trên cơ sở tìm hiểu những văn bản văn

học dân gian Thái ở Mai Châu, chúng tôi có phối hợp với một số phương pháp sử

học, dân tộc học để nghiên cứu.

- Phương pháp điền dã: Đây là phương pháp chúng tôi đã sử dụng để thu thập

tư liệu về văn học dân gian Thái ở Mai Châu. Thường vào những ngày nghỉ cuối

tuần, chúng tôi tìm đến các xóm bản để sưu tầm. Các tác phẩm đều được sưu tầm trực

tiếp từ các nghệ nhân dân gian, các già làng trưởng bản, những người am hiểu về văn

hóa và văn học dân gian Thái trên địa bàn huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình.

- Phương pháp khảo sát, phân loại: Sau khi sưu tầm tác phẩm văn học dân

gian, chúng tôi đã đọc kỹ nhằm sơ bộ tìm hiểu về các tác phẩm đó. Sau đó đối chiếu

với kiến thức văn học dân gian mà bản thân đã có để phân loại chúng vào những thể

loại cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích, tổng hợp.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ kết quả phân loại các tác phẩm văn học

dân gian Thái theo thể loại, chúng tôi tiến hành phân tích và đưa ra những nhận xét,

đánh giá đối với những giá trị cơ bản về nội dung, nghệ thuật của các thể loại đó

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình phân tích, tổng hợp, chúng

tôi cố gắng so sánh, đối chiếu các tác phẩm văn học dân gian của dân tộc Thái ở Mai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 7

Châu với các tác phẩm văn học dân gian của các dân tộc anh em khác nhằm làm rõ

những nét tương đồng và dị biệt trong những trường hợp cần thiết.

6. Đóng góp của luận văn

Từ việc sưu tầm, phân loại, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh các văn

bản văn học dân gian dân tộc Thái Mai Châu - Hòa Bình, luận văn sẽ góp phần xây

dựng diện mạo chung của nền văn học dân gian của dân tộc Thái Mai Châu.

Luận văn cũng sẽ đề xuất một số biện pháp phát huy giá trị, góp phần bảo tồn

nền văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu.

Các kết quả nghiên cứu sẽ được tham khảo và ứng dụng vào việc giảng dạy

các tiết Ngữ văn địa phương trong các trường Trung học cơ sở thuộc huyện Mai Châu

- tỉnh Hòa Bình.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung chính

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa dân tộc Thái ở

Mai Châu

Chương 2. Truyền thuyết, cổ tích và truyện cười dân tộc Thái ở Mai Châu

Chương 3. Khắp và tục ngữ của dân tộc Thái ở Mai Châu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 8

NỘI DUNG

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ, VĂN HÓA

DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU

Mai Châu là một huyện vùng cao, nằm ở phía tây bắc tỉnh Hoà Bình, có tọa độ

địa lý 20o24’ - 20o45’ vĩ bắc và 104o31’ - 105o16’ kinh đông; phía đông giáp huyện

Đà Bắc và huyện Tân Lạc (Hòa Bình), phía tây và phía nam giáp huyện Quan Hóa

(Thanh Hóa), phía bắc giáp huyện Mộc Châu (Sơn La). Toàn huyện có 23 xã và thị

trấn với diện tích là 564,54 km², dân số tính đến năm 2014 là 53.944 người; trong đó

dân tộc Thái chiếm đa số với 60,2%; dân tộc Mường chiếm 15,1%; dân tộc Kinh

chiếm 15,6%; dân tộc Mông chiếm 7,0%; dân tộc Dao chiếm 2,1%, còn lại là đồng

bào các dân tộc khác chiếm tỷ lệ rất nhỏ.

Mai Châu vốn là một trong năm châu của phủ Chợ Bờ khi thành lập tỉnh

Mường, tiền thân của tỉnh Hòa Bình (năm 1886). Đến năm 1892, Mai Châu là một

trong năm châu của Hòa Bình. Trong kháng chiến chống Pháp, Mai Châu thuộc phần

phía nam sông Đà của huyện Mai Đà, thuộc Liên khu Việt Bắc. Ngày 21 tháng 9 năm

1956, huyện Mai Đà chia làm hai huyện Đà Bắc và Mai Châu.

Mai Châu có địa hình khá phức tạp với hai vùng cơ bản, vùng cao giống như

một vành đai bao quanh vùng thấp, có nhiều dãy núi cao và hiểm trở. Hệ thống sông,

suối khá dày đặc với hai con sông lớn chảy qua là sông Đà và sông Mã cùng nhiều

suối lớn là nguồn cung cấp nước phong phú phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân

dân. Được thiên nhiên ưu đãi, cảnh quan môi trường ở Mai Châu rất đẹp, với núi non

hùng vĩ, thảm rừng được bảo vệ luôn giữ màu xanh tươi. Mai Châu từ lâu đã nổi tiếng

với những di tích, danh thắng là điểm thu hút đông đảo khách du lịch như hang

Chiều, hang Khoài, bản Lác (xã Chiềng Châu), bản Bước (xã Xăm Khoè), xóm Hang

Kia (xã Hang Kia)...

1.1. Sơ lược về quá trình di cư và lập đất của dân tộc Thái ở Mai Châu

Người Thái Việt Nam nằm trong cộng đồng ngôn ngữ dòng Nam Á, bao

gồm nhiều ngành, mỗi ngành lại chia thành nhiều nhóm, với những tên gọi khác

nhau tuỳ theo từng địa phương. Tuy vậy, rõ rệt và quen thuộc hơn cả là cách gọi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 9

theo sự phân chia của chính người Thái, đó là hai ngành: Thái trắng và Thái đen

(Tày Đón và Tày Đăm).

Những ngành Thái ở Việt Nam đều chung một gốc với các nhóm Thái ở nam

Trung Hoa, Lào, Thái Lan và Miến Điện. Có thể nói rằng tổ tiên người Thái xưa bắt

nguồn từ nhóm Thái Bách Việt, trong khối ngôn ngữ tiền Thái, sinh tụ ở miền đông

nam Trung Hoa và đông bắc Việt Nam. Ở đây, họ đã tiếp thu được việc thuần dưỡng

lúa từ tổ tiên người Tạng - Miến, đưa cây lúa thành cây lương thực chính và tạo nên

một nền văn minh lúa nước độc đáo trong vùng.

Đến thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên, do bị sức ép của các thế lực chính

trị người Hán, một bộ phận tổ tiên người Thái cổ tách rời khỏi đồng tộc của mình

phía đông, thiên di nhiều đợt theo hướng tây nam và nam, vào miền nam tỉnh Vân

Nam và miền tây Đông Dương, dọc theo các con sông lớn và các chi nhánh của nó đổ

xuống châu thổ miền Đông Nam Á.

Đến những thế kỷ đầu của thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, người Thái

cũng đã lập được một loạt các tiểu quốc ở miền thượng Đông Dương, thượng Lào và

Tây Bắc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu sử, dân tộc học đã khẳng định, từ đời

Đường, tổ tiên người Thái ngành phía tây, trong đó có Tây Bắc Việt Nam, đã đến cư

trú ở vùng này. Điều đó được chứng minh từ chính sử Trung Quốc, từ sự hỗ trợ của

các nguồn tài liệu biên niên sử chép tay; các truyền thuyết lưu hành trong nhân dân ở

Tây Bắc Việt Nam, Lào, Mianma, Thái Lan...

Ở Việt Nam, sau đợt thiên di này, cư dân người Thái chưa nhiều... Phải đến

những thế kỷ của cuối thiên niên kỷ I hay đầu thiên niên kỷ II sau Công nguyên, các

nhóm Thái ở Vân Nam mới lớn mạnh lên và bắt đầu những cuộc thiên di lớn xuống

phía nam. Chúa đất Thái đen là Lạng Chượng, từ mường Lò (nay thuộc Nghĩa Lộ -

Yên Bái), tràn ra đánh chiếm toàn bộ miền Tây Bắc Việt Nam. Khi Lạng Chượng đến

các vùng đã gặp các tù trưởng Thái Trắng có mặt sớm hơn.

Quá trình thiên di và định cư của người Thái ở Mai Châu - Hòa Bình được ghi

chép lại trong một cuốn sử biên niên tìm thấy ở Chiềng Hạ (xã Mai Hạ - huyện Mai

Châu - tỉnh Hòa Bình). Đây là một cuốn gia phả của dòng họ Hà Công được các thế

hệ ghi chép liên tục từ ngày đến mở đất sinh cư (khoảng cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ

XIV) và dừng lại năm 1945 khi xảy ra Cách mạng tháng tám năm 1945. Cuốn gia phả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 10

này được giáo sư Đặng Nghiêm Vạn công bố trong cuốn "Tư liệu về lịch sử và xã hội

dân tộc Thái" do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1977.

Kết hợp với những thông tin ít ỏi trong sử liệu Việt Nam, ta thấy được tổ tiên

của người Thái ở Mai Châu từ miền đầu nguồn sông Hồng, vùng đất Mường Hước,

Pước Khà (bây giờ thuộc huyện Bắc Hà - tỉnh Lào Cai) thiên di dọc sông Hồng, đến

ngã ba Hồ ng Đà thì rẽ sang sông Đà rồi tới lập nghiệp ở Mường Xang (bây giờ thuộc

huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La), Mường Khoòng (bây giờ thuộc huyện Bá Thước -

tỉnh Thanh Hoá) và Mường Mùn (bây giờ thuộc huyện Mai Châu - tỉnh Hoà Bình) từ

cách ngày nay ngót 700 năm. Cuộc thiên di của người Thái đến Mai Châu và quan hệ

giữa ba nhóm Thái Mai Châu, Mộc Châu, Bá Thước còn được truyền thuyết hoá lưu

truyền trong dân gian, không những ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Sơn La… mà còn

phổ biến ở vùng Lào Cai.

Theo biên niên sử của dòng họ Hà Công, người Thái đến Mường Mùn phải

gian nan vất vả khai khẩn đất đai, một quá trình kéo dài hàng chục đời người mới xây

đắp nên ruộng đồng, mường bản để lại cho con cháu cho đến ngày nay. Cũng như các

bộ phận Thái khác, các chúa đất Thái ở Mai Châu đến lập nghiệp cho đến tận ngày

nay đều thần phục triều đình và đã cùng các tộc người khác tham gia vào công cuộc

xây dựng và bảo vệ quê hương. Đến đầu thời Lê, mường Mai đươ ̣c triều đình đặt tên

là Châu Mai và là một trung tâm chính tri ̣ trong vùng, ngườ i đứ ng đầu mườ ng đươ ̣c

giao cai quản ngườ i Thái ở một vù ng rộng lớ n gồ m Sơn La, Hò a Bình, Thanh Hó a.

Có thể nó i rằ ng: dân tô ̣c Thái Mai Châu đã có những đó ng gó p quan tro ̣ng trong việc

khai phá, mở mang đất đai, xây dựng mô ̣t quê hương Mai Châu giàu đe ̣p ngày nay.

1.2. Khái quát về văn hóa của người Thái ở Mai Châu

1.2.1. Văn nghê ̣ dân gian

Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình, đồng bào Thái ở Mai Châu

- Hòa Bình nói riêng và ở Tây Bắc nói chung đã sáng tạo ra nền văn hoá văn nghệ

dân gian đa dạng phong phú đậm đà bản sắc dân tộc, tiêu biểu là các giá trị văn hóa

nghệ thuật. Chúng ta không thể không nói đến “Xển mo”, “Khắp một lao”, “Khắp

sư”, “Khắp báo sao” và các làn điệu múa dân gian. “Khắp sư”, “Khắp báo sao” có

nghĩa là đọc, là ngâm, là hát những bài hát dân gian của dân tộc. Trong sản xuất, đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 11

sống sinh hoạt, hát (người Thái gọi là khắp) đối với họ không thể thiếu được. Người

ta tự hát một mình hoặc hát cho mọi người nghe một cách say sưa. Trước đây đã có

những cuộc hát kéo dài hai, ba ngày đêm. Qua hát người ta không những thưởng thức

thi vị của ý thơ mà còn gửi gắm tâm tư, tình cảm vào những âm thanh trầm bổng

của giọng hát. Hễ có thơ là người ta có thể hát ngay theo một lối hát cho hợp với thể

loại. Đó chính là các làn điệu khắp biểu hiện bằng lối hát thơ thích hợp của từng

vùng. Cũng là truyện thơ, nhưng khi hát làn điệu khác nhau hoàn toàn. Không bao

giờ hát sử thi “Táy pú xắc” như hát anh hùng ca “Chương Han”; người ta cũng

không hát “Phanh mương” (Kể chuyện dựng bản mường) như hát truyện thơ

“Chàng Lú, Nàng Ủ a”. Lại cũng có thể có hai lối hát cho cùng một tác phẩm thơ.

Truyện thơ “Sống chụ xon sao” khi nhàn rỗi ngâm nga thì phải theo làn điệu “Khắp

sư”, khi hát ở các bữa tiệc cưới thì phải theo làn điệu “Khắp báo sao”. Hát có kèm

theo nhạc khí, chiêng trống tăng thêm không khí rạo rực, sôi nổi hoặc lâm ly thống

thiết... Có thể nói, những giá trị văn hoá tinh thần phong phú đa dạng của dân tộc

Thái tràn đầy sức sống.

1.2.2. Lễ hội Xên Bả n, Xên Mườ ng

Đã từ lâu, các lễ hội Xên Bản, Xên Mường trở thành một hình thức sinh hoạt

văn hóa, tín ngưỡng rất quan trọng trong đời sống tinh thần của ngườ i Thái Mai Châu - Hò a Bình.

Theo sử sách của người Thái cổ và truyền thuyết còn lưu đến ngày nay, lễ hội

Xên Mường là tổ chức cho cả huyện, Xên Bản tổ chức ở làng xã. Lễ hội thể hiện tấm

lòng tôn kính tri ân của nhân dân tưởng nhớ công lao to lớn của các vị nhân thần tiền

bối và cầu cho quốc thái, dân an, bản mường no ấm, quanh năm mưa thuận gió hòa,

mùa màng bội thu, gia đình hạnh phúc, đất nước vinh hoa phồn thịnh… Cỗ cúng

thường gồm ba mâm nhưng phải đảm bảo có thịt trâu chín, gạo và rượu. Ông mo

khấn bảy lần, mời các vị thần, tổ tiên về dự lễ và phù hộ cho dân bản được ấm no,

sung túc, cuộc sống an vui. Trong những ngày lễ hội đồng bào có phong tục kiêng

không được giã gạo, làm nhà, xẻ gỗ, vào rừng lấy củi, săn bắt, hái lượm...

Ở Mai Châu, lễ hội Xên Mường được tổ chức tại xã Chiềng Châu - nơi được

coi là thủ phủ, điểm phát tích của người Thái di cư từ Bắc Hà về vào khoảng thế kỷ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 12

thứ XIII. Trải qua bao biến cố lịch sử, các thế hệ chúa đất người Thái đã có công lao

to lớn trong việc cùng với muôn dân khai khẩn đất đai lập nên bản, nên mường, trở

thành mảnh đất trù phú như ngày nay…

1.2.3. Một số phong tục tập quá n khá c

Cùng với những tinh hoa văn hoá độc đáo thể hiện đời sống tình cảm đằm

thắm thiết tha của cộng đồng dân tộc, đồng bào Thái còn có nhiều phong tục tập quán

tốt đẹp như: lễ mừng thọ, lễ mừng cơm mới, mừng nhà mới, hội ném còn, hạn

khuống... Ngoài ra, đồng bào Thái còn có các tập tục truyền thống lâu đời như: ma

chay, cưới xin, cúng bản... Mỗi phong tục tập quán có một sắc thái riêng, nhưng tựu

trung lại là thể hiện sự phong phú của đời sống tình cảm, nếp tư duy của cộng đồng

dân tộc đã phát triển đạt đến trình độ cao.

Về cưới xin, người Thái có xu hướng hiện đại hơn nhiều dân tộc khác trong

cộng đồng người Việt. Mọi người khuyến khích trai gái tự do tìm hiểu, yêu đương.

Khi tâm đầu ý hợp, họ hẹn hò nhau ở nương rẫy, ở chợ phiên, ở các lễ hội… Sau khi

được gia đình nhà gái đồng ý, chàng trai đến ở rể và chung sống với gia đình cô gái.

Khi nào tình yêu thực sự chín muồi, họ mới làm lễ cưới.

Về tang lễ, người Thái coi sự ra đi của mỗi cá nhân trong cộng đồng là một sự

kiện lớn. Việc tổ chức tang lễ được tiến hành một cách cẩn trọng. Mọi người thân

trong dòng tộc và cộng đồng trong làng xóm đều tham gia. Mỗi người đến viếng đều

mang theo gạo, rượu, thịt… tùy theo quan hệ với người đã mất. Họ ở lại cùng tổ chức

đám ma với rất nhiều nghi lễ cúng bái như lễ tắm xác, lễ nhập quan, lễ dẫn hồn, lễ

đưa tang, lễ chôn cất, lễ gọi hồn… Một đám ma thường kéo dài trung bình khoảng ba,

bốn ngày và luôn thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong đời sống cộng đồng của người

Thái.

Về lễ tết, trước đây, người Thái không tổ chức Tết nguyên đán. Tết lớn nhất

trong năm là tết cơm mới được tổ chức hai lần trong năm. Sau khi gặt hái xong vụ

chiêm hoặc vụ mùa, mỗi gia đình thường làm mâm cơm nấu gạo mới cúng tổ tiên

nhằm báo cáo và tỏ lòng biết ơn tổ tiên đã phù hộ trong cả một mùa trồng cấy. Trong

tết cơm mới nhất thiết phải có cá và người Thái kiêng ăn thịt gà trong ngày này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 13

Song song với viê ̣c giữ đươ ̣c những nét văn hó a đă ̣c trưng củ a ngườ i Thái cổ , trong quá trình sinh tồn của mình, ngườ i Thái Mai Châu đã có sự tiếp xú c liên tu ̣c về văn hó a vớ i các dân tô ̣c phổ biến trong vù ng, nhất là văn hóa dân tô ̣c Mườ ng. Vì vâ ̣y, văn hóa Thái Mai Châu chịu nhiều ảnh hưở ng củ a các yếu tố văn hó a Mường. Điều

này thể hiện rõ ở cách thiết kế nhà, trang phu ̣c… có nhiều nét gần vớ i ngườ i Mườ ng

Bi (huyện Tân Lạc - tỉnh Hòa Bình).

1.3. Vài nét về văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu

Là một huyện nhỏ nằm ở cửa ngõ lên vùng Tây Bắc, dù chỉ có khoảng 54

nghìn dân nhưng huyện Mai Châu lại có tới 7 dân tộc anh em cùng chung sống gồm

Thái, Mường, Dao, H’Mông, Tày, Hoa và Kinh; trong đó dân tộc Thái chiếm đa số

(trên 60%). Các dân tộc đều có nền văn hóa riêng phong phú, đa sắc màu. Thêm nữa,

do đã chung sống từ lâu đời nên còn có hiện tượng giao thoa văn hóa, khiến cho các

sinh hoạt văn hóa của mỗi dân tộc càng trở nên đa dạng.

Người Thái có lợi thế là đã có chữ viết từ lâu đời, chữ Thái có nguồn gốc từ

chữ Phạn. Từ nhiều thế kỷ trước, chữ Thái cổ đã được dùng để sáng tác văn học, ghi

chép văn học dân gian. Chính vì vậy, kho tàng văn học dân gian của dân tộc Thái

huyện Mai Châu - tỉnh Hòa Bình khá phong phú, đa dạng và độc đáo với đủ các thể

loại: Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, sử

thi, khắp, tục ngữ, thành ngữ… Tuy nhiên, do chưa có điều kiện để tìm hiểu hết các

thể loại nên ở đề tài này chỉ xin đề cập đến một số thể loại có số lượng lớn hơn. Đó là

truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, khắp và tục ngữ.

Trong kho tàng văn học dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu, rất nhiều

truyền thuyết có giá trị nội dung khá sâu sắc, đó là những truyền thuyết thể hiện mối

quan hệ khăng khít giữa người Kinh và người Thái, truyền thống hiếu học và lòng

biết ơn những người đã xây dựng bản mường giàu mạnh của người Thái…. Trong khi

đó, truyện cổ tích và truyện cười thể hiện các vấn đề đấu tranh giữa thiện - ác, giàu -

nghèo, mạnh - yếu, thông minh - ngu dốt… Đặc biệt, thể loại khắp Thái rất phong

phú, được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống lao động và trong các phong tục, tập

quán của người Thái.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 14

* Tiểu kết

Mai Châu được biết đến không chỉ bởi cảnh đẹp thiên nhiên mà còn là nơi lưu

giữ nhiều nét văn hoá đặc trưng của cộng đồng dân tộc Thái. Vốn là dân tộc có lịch

sử phát triển lâu đời, người Thái nơi đây tự hào là một tộc người có bản sắc riêng,

phong phú, đa dạng, vừa mang những nét văn hóa truyền thống, vừa có sự hòa nhập

văn hóa khu vực. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa, thấm đẫm tới từng cá nhân trong

cộng đồng người Thái, góp phần làm phong phú thêm giá trị cho nền văn hóa đa dân

tộc ở miền đất Mai Châu. Nổi bật lên trong nền văn hóa ấy chính là văn học dân gian

Thái, chính văn học dân gian Thái đã góp một phần quan trọng vào việc làm sống lại

cả một thời thời kì thăng trầm đầy bi tráng của dân tộc Thái ở Mai Châu. Suốt gần

bảy trăm năm lịch sử, văn học dân gian Thái là một tư liệu quý báu, giúp chúng ta

dựng lại một cách khái quát từng chặng đường lịch sử dân tộc Thái trên đất Mai

Châu. Vì vậy, vấn đề sưu tầm, nghiên cứu và lưu giữ văn học dân gian Thái Mai

Châu là hết sức cần thiết trong thời điểm hiện nay.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 15

Chương 2

TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ

TRUYỆN CƯỜI DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU

2.1. Truyền thuyết

Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian kế tiếp thần thoại, được nhân

dân sáng tạo ra từ khi con người có ý thức về lịch sử. Bắt nguồn từ cảm hứng tự hào

và ngợi ca những anh hùng kiệt xuất có nhiều công trạng với nhân dân, với đất nước.

Truyền thuyết là một cách nhận thức và lý giải những sự kiện lịch sử trọng đại của

quốc gia, dân tộc theo quan điểm của nhân dân thuộc về hệ tâm lý xã hội trong ý thức

dân gian.

Không có lịch sử thì không có truyền thuyết, và trên thực tế đã có nhiều truyền

thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo, chẳng những thỏa mãn nhu cầu kể sử

truyền đời của quần chúng nhân dân lao động mà trong nhiều trường hợp còn có tác

dụng bổ sung vào chính sử. Nhưng truyền thuyết không phải là lịch sử, con đường

hình thành và phát triển của nó là sự chuyển hóa từ ý tưởng lịch sử hóa huyền thoại

hư cấu đến lịch sử đích thực được hư cấu có tính quy luật theo quan điểm thẩm mỹ

dân gian.

Theo giáo sư Lê Chí Quế trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam do nhà

xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội ấn hành năm 1999 thì “Truyền thuyết là một thể

loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử hay di

tích cảnh vật địa phương thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kỳ” [30,tr.49].

Sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng có ý kiến rất có giá trị về truyền

thuyết “Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà

nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của

mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân

gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con người ưa thích” (Trích “Nhân

ngày giỗ tổ Hùng Vương” của Phạm Văn Đồng – Báo Nhân dân ngày 24/9/1969).

Về truyền thuyết dân gian của dân tộc Thái ở Mai Châu, do quá trình thiên di

đến sinh sống trên địa bàn Mai Châu khá muộn (từ khoảng thế kỳ XIV) nên trong văn

học dân gian Thái ở đây không có các truyền thuyết thời sơ khai, thời chuyển từ thần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 16

thoại sang truyền thuyết; không có các tác phẩm đánh dấu thời kỳ con người chuyển

từ thời kỳ hoang sơ sang thời kỳ văn minh đồ đồng, đồ sắt. Truyền thuyết của dân tộc

Thái ở Mai Châu chủ yếu có nội dung kể về các nhân vật anh hùng lịch sử - những

người đã có công khai phá, giữ gìn và mở mang đất đai - và giải thích cách đặt tên, sự

tồn tại của những địa danh trên địa bàn huyện Mai Châu, nơi dân tộc Thái sinh sống.

2.1.1. Phân loại truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu

2.1.1.1. Truyền thuyết về nhân vật anh hùng lịch sử

Người Thái thường kể cho nhau nghe truyện về những người anh hùng và

những cuộc chiến tranh tìm đất, giữ đất của các tộc trưởng… Họ là những nhân vật

anh hùng lịch sử của dân tộc Thái ở Mai Châu, những người đã có công lớn trong

việc khai phá, giữ gìn và mở mang đất đai; những người đã có công dẹp yên các mâu

thuẫn nội bộ, giúp mang lại sự yên bình cho bản mường hoặc là những người có công

giúp vua dẹp loạn, đánh giặc bảo vệ đất nước.

Tiêu biểu cho nhóm các truyền thuyết này có các tác phẩm “Truyền thuyết ông

Bá Hộ”, “Truyền thuyết Vua Quán - Hoàng Ngoài”…

2.1.1.2. Truyền thuyết về các địa danh, các miền đất

Đây là nhóm các truyền thuyết kể về các sự kiện liên quan làm nảy sinh các

tên gọi của các vùng đất, các miền đất, các thôn xóm… trên địa bàn huyện Mai

Châu. Có những tên gọi đến nay đã thay đổi, nhưng còn nhiều địa phương đến nay

vẫn dùng những tên gọi ban đầu, hoặc chỉ lái đi đôi chút do đặc điểm phiên âm

sang tiếng Việt.

Tiêu biểu cho nhóm các truyền thuyết này có “Truyền thuyết về thuyền đồng,

thuyền da”, “Đền ông Chín Mường”…

2.1.2. Nội dung truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu

2.1.2.1. Ca ngợi công lao của những người anh hùng có công khai phá, giữ gìn và mở

mang địa bàn sinh sống

Trước hết, cần phải khẳng định lại một vài đặc điểm rất cơ bản của truyền

thuyết, giáo sư Lê Chí Quế trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam có viết

“Truyền thuyết dân gian được xây dựng trên cơ sở một cốt lõi lịch sử và được chắp

thêm đôi cánh “thơ và mộng”, nghĩa là sự hư cấu hoang đường” [30,tr.62]. Truyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 17

thuyết là một thể tài văn học dân gian chứ không phải là một thể tài sử học. Trong

truyền thuyết có những sự kiện lịch sử nhưng chúng không phải những sự kiện lịch sử

đích thực mà chỉ là “những ánh hào quang, những tia khúc xạ” của lịch sử. Truyền

thuyết không chú ý đến việc đảm bảo tính đầy đủ và tuần tự theo thời gian của các sự

kiện lịch sử. Không phải bất cứ nhân vật và sự kiện lịch sử nào cũng trở thành trung

tâm phản ánh của truyền thuyết. Truyền thuyết có thể ghi lại những sự kiện lịch sử

của thời khuyết sử hoặc chọn lọc những sự kiện theo quan niệm của nhân dân.

Từ đó, chúng ta thấy rằng: Các truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu không phải là lịch sử nhưng trong nó có chứa một phần lõi lịch sử, nó phản ánh quá

trình phát triển đẫm máu của những người dân lao động. Điều này được thể hiê ̣n rõ qua cuốn “Lai lịch dòng họ Hà Công” mà giáo sư Đă ̣ng Nghiêm Va ̣n đã sưu tầm được: không kể hàng chục lần ta ̣o Ha ̣ và ta ̣o Thươ ̣ng đem quân đánh nhau, có lần chết đến 63 ngườ i, thì cò n nhiều lần giă ̣c từ các vù ng khác xông vào cướ p bó c, giết chó c kinh hoàng. Vì thế, người nông dân Thái hiểu rõ cái giá mà ho ̣ phải trả cho na ̣n cát cứ , tranh chấp, giă ̣c giã… Ho ̣ mong muốn mô ̣t cuô ̣c số ng yên lành, yêu thương, đù m bo ̣c lẫn nhau để cù ng chung số ng trong hò a bình.

Là một trong ít các dân tộc ở Việt Nam có kinh nghiệm làm lúa nước từ lâu

đời, dân tộc Thái rất hiểu giá trị của các nguồn nước và những vùng đất đai màu mỡ.

Chính vì vậy, khi một miền quê vì một lý do nào đó bị trở nên quá khô cằn, không thể

trồng lúa được nữa thì đó là lúc người Thái phải ra đi, tìm và khai phá những miền

đất mới. Truyền thuyết “Thuyền đồng, thuyền da” nói về quá trình thiên di của người

Thái từ Mường Hước - Pước Khà (Bắc Hà - Lào Cai) đến Mai Châu. Đó là một

chuyến đi đầy vất vả, nhọc nhằn nhằm mục đích tìm ra một nơi định cư mới cho dòng

họ Thái Hà Công. Người dân Thái nhớ ơn những người đã dũng cảm từ bỏ miền đất

toàn cỏ gianh để đến với đất Mai Châu màu mỡ nên đã kể khá chi tiết về hành trình

này: từ Mường Hước - Pước Khà họ đã đi thuyền đến ngã ba sông - điểm sông Đà

gặp sông Hồng - đoàn người đã đi ngược lên đầu nguồn sông Đà rồi rẽ vào đất Mai

Châu. Trên đường đi đã có những người phải nằm xuống vì ốm đau, vì đói rét; nhưng

đó mới chỉ là khởi đầu của quá trình mở đất. Vì khi đến Mai Châu thì ở đó đã có tộc

người Xá ở từ trước, do đó những người dân Thái sau rất nhiều tranh chấp, đổ máu đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 18

dùng mẹo bắn tên cắm dính vào vách đá để đẩy người Xá đi khỏi vùng đất. Từ đó, họ

toàn quyền khai khẩn và canh tác trên đất Mai Châu.

Truyền thuyết “Thuyền đồng, thuyền da” đã ca ngợi những thủ lĩnh dũng

cảm, thông minh của dân tộc Thái đã có công khai phá vùng đất Mai Châu, những

người đã đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân Thái. Đối với dòng họ

Hà Công nói riêng và các dòng họ Thái ở Mai Châu nói chung, những người như

Lăng Bôn, Lăng Bắp… thực sự là những người anh hùng, đáng được lưu danh trong

truyền thuyết.

Thông qua việc kể lại những câu chuyện gắn liền với các miền đất và con

người Mai Châu, các truyền thuyết ca ngợi ý chí, nghị lực và trí tuê ̣; đồng thời thể hiện lòng biết ơn của dân tộc Thái đối với những người đi lập đất, khai khẩn, phát

triển địa bàn để xây dựng mô ̣t vù ng quê hương rộng lớn, trù phú và thi ̣nh vươ ̣ng.

2.1.2.2. Ca ngợi công lao các anh hùng có công thống nhất các bộ tộc, dẹp giặc

ngoại xâm

Dân tộc ta đã trải qua nhiều nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, làm ăn

và đánh giặc, sản xuất và chiến đấu. Nhìn vào chính sử sẽ thấy các truyền thuyết dân

gian Thái có đề cập đến các thời kỳ, các giai đoạn, các thời điểm cụ thể của lịch sử.

Tuy nhiên, như chúng ta biết, truyền thuyết không phải là lịch sử. Do đó, truyền

thuyết về các nhân vật lịch sử của dân tộc Thái ở Mai Châu có nói về thời nhà Mạc

(Vua Quán Hoàng Ngoài) hoặc quân Cờ Vàng (Truyền thuyết ông Bá Hộ) nhưng các

chi tiết về các nhân vật cụ thể không phải là những ghi chép trong chính sử mà chỉ là

những hành động, suy nghĩ… của nhân vật truyền thuyết. Hoặc nói một cách khác, đó

là những hình tượng được xây đắp từ haỉ phía: trước hết đó là những nhân vật có

nguyên mẫu từ những con người có thật, đã từng lãnh đạo nhân dân chiến đấu và đã

lập nên những chiến công hiển hách, góp phần bảo vệ quê hương, đất nước; mặt khác

đó là anh hùng do cộng đồng sáng tạo ra để khắc họa một biểu tượng cao cả, đại diện

cho ý chí chiến đấu và chiến thắng các lực lượng thù địch của quân và dân dân tộc

Thái ở Mai Châu.

Truyền thuyết “Vua Quán Hoàng Ngoài” có những chi tiết dường như rất thật,

đó là mâu thuẫn giữa hai anh em tạo mường Hạ và tạo mường Thượng. Mưu kế của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 19

tạo mường Thượng đã khiến người em là tạo mường Hạ cùng quẫn tự vẫn, dân phải

giấu bà vợ đang có mang của tạo vào hang để trốn… Bên cạnh đó cũng có những chi

tiết ly kỳ đặc trưng của truyện cổ dân gian như việc Xà Chúm, Xà Chướng mổ bụng

người vợ đã chết của tạo mường Hạ để cứu sống đứa trẻ, nuôi nấng nó rồi cho về ăn

học ở triều đình… Sau đó đứa trẻ trở về đóng góp nhiều công lao trong việc thống

nhất các bộ tộc, các mường Thái, để mọi người cùng chung sức xây dựng vùng đất

Mai Châu yên vui, no ấm, hạnh phúc.

“Truyền thuyết ông Bá Hộ” kể về một anh hùng trong lĩnh vực chống giặc

ngoại xâm. Chiến công nổi bật của ông tập trung ở hai trận đánh. Có trận đánh các

tác giả dân gian Thái kể rằng đó là trận ông Bá Hộ chống giặc Cờ Vàng, nhưng

cũng có trận đánh chỉ kể chung chung là ông đánh giặc ở phía tây bắc kéo xuống

chứ không nói rõ là giặc gì. Tuy nhiên chúng ta cũng khẳng định đây khó có thể là

một nhân vật của chính sử. Có thể trong hoàn cảnh bị ngoại bang xâm lấn, đáp ứng

nguyện vọng của cộng đồng, thực tế đã có một con người bằng xương, bằng thịt, có

đức, có tài đã lãnh đạo tập thể đứng lên đánh giặc, mở ra một trang sử với những

chiến công oanh liệt của con em nhân dân lao động. Và từ đó, người dân Thái đã

hoà nhập chân dung người anh hùng văn hóa với chân dung người anh hùng lịch sử

để hoàn thiện một biểu tượng đủ sức đáp ứng nguyện vọng sinh tồn của cộng đồng

trước những thử thách thường xuyên do ngoại cảnh đem lại. Hoặc cũng có thể nghĩ

rằng, ông Bá Hộ là hiện thân cho những con người thật, có nhiều công lao trong

việc bảo vệ những quyền lợi của cộng đồng nên đã được các tác giả dân gian truyền

thuyết hoá thành người anh hùng, trở thành thiên tráng ca về trí tuệ, sức mạnh và

tính cách của người dân Thái.

2.1.2.3. Giải thích lịch sử tên gọi của những vùng đất, miền đất trên địa bàn

Truyền thuyết dân gian Thái thể hiện dấu ấn về thời kỳ khai phá và hình ảnh

những con người tiên phong trong công cuộc chinh phục, cải tạo những miền đất mới.

Với mọi dân tộc nói chung và với dân tộc Thái nói riêng thì đất đai có giá trị lớn cả

về mặt vật chất lẫn tinh thần. Đối với các di dân thì đất đai càng bội phần quý báu,

thiêng liêng. Những đoàn người ly hương đi lên vùng cửa ngõ Tây Bắc với một hành

trình đầy gian nan, gian khổ nhằm mục đích đi tìm đất mới. Với những con người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 20

cùng khổ, không thể mưu sinh ở mảnh đất quê nhà thì một miền đất mới màu mỡ trở

thành một lý tưởng và khát vọng lớn lao, khẩn thiết và cháy bỏng. Vì vậy, quá trình

mở đất của họ đã được các truyền thuyết trân trọng kể lại khá chi tiết, nhiều trường

đoạn giống như dã sử, huyền sử hoặc mang dáng dấp của lịch sử: …“Đuổi được

người Xá, Tạo Lang Bôn cùng dân khai phá xuống đến bản Củm, bản Bước, bản

Ngõa… Tạo lấy con gái trong Mường sinh được con trai là Lạng Thượng. Lạng

Thượng lập chiềng ở bản Uống và lấy con gái quan Pưng Mường sinh ra tạo Lang

Uôn. Tạo Lang Bôn cũng lấy con gái con quan Cuông sinh ra tạo Lang Thanh. Lang

Thanh lấy nàng Mường Dón Pi sinh ra tạo Lang Tông. Lang Tông lấy nàng Mường

Khời, sinh ra tạo Khà Bằng. Tạo cùng dân khai phá những đất đai bỏ hoang, mở

mang đến bản Pùng, bản Pheo, Nà Nóc… Tạo lấy nàng Ngăm sinh ra tạo Lang Sôm.

Lang Sôm lấy nàng Mường Khến sinh được ba con trai, con cả là Khằm Pông, con

thứ là Khằm Piềng, con út là Khằm Pành. Ba anh em cùng với dân khai phá đất đai

và chia nhau các vùng đất. Ông Khằm Pông ăn đất Mường Hạ, được coi giữ gốc

Mường. Ông lấy bản Uống, bản Lầu, bản Lốm, bản Nghẹ làm đất Mường. Ông Khằm

Piềng ăn đất Mường Thượng. Còn ông Khằm Pành không có đất nên ba anh em mới

sai dân xuống xem xét đất đai ở Mường Khoòng, thấy đất tốt, bằng phẳng, người ta

bảo “khừ lâu co” nên mới có tên là bản Lầu. Khằm Pành và một số dân được chia

xuống bản này. Ba anh em mổ một con bò sừng bọc đồng chạm trổ để làm tiệc chia

tay. Về sau thỉnh thoảng người ta lại lấy chiếc sừng bọc đồng ấy ở bản Nghẹ, nó

được làm thành chiếc tù và, người ta gọi đó là “khau ngùa tòng”. Sau khi chia đất

cho ba con, tạo lang Sôm không ở với người con cả ở Chiềng Uống mà lên ở với

người con thứ hai ở Nà Pướt và lập nên Chu Mùn. Trước khi chết, ông giao quyền

Tạo Chu cho Khằm Piềng ở Nà Pướt”… (Truyền thuyết “Thuyền đồng, thuyền da”).

Trong nhóm truyền thuyết địa danh của dân tộc Thái, những tên gọi địa danh

thường gắn với dấu tích về người đầu tiên đặt chân lên vùng đất với ý nghĩa ngợi ca,

tôn vinh nhằm nhắc nhở những thế hệ sau nhớ đến công lao của những người có công

đầu trong quá trình mở đất. Trong truyền thuyết “Thuyền đồng, thuyền da” thì con

suối mà đoàn người đi khai khẩn ngồi nghỉ ăn sáng gọi là suối “Kin Lành” (ăn sáng);

mỏ nước mà người thủ lĩnh đánh rơi mất mũi giáo đồng là “bó cháo tòng” (mỏ “Giáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 21

đồng”), sau này khi làng bản phát triển lên ở đây cũng gọi là bản Tòng; vách núi nơi

người Thái đã chiến thắng người Xá trong việc giành đất bằng lời thách đấu bắn tên

cắm vào vách đá thông qua bí quyết phết sáp ong vào đầu mũi tên được đặt tên là

“Pha khí sút” (vách đá sáp ong)… Tương tự, trong truyện “Vua Quán - Hoàng

Ngoài” có hang Giấu, “pom tền pua” (núi tên vua), mái Đá Bừa… đều là những tên

địa danh liên quan đến các sự kiện, các hành động… của các tiền nhân thời mở đất.

Như vậy, chúng ta thấy rằng trong truyền thuyết dân gian Thái hầu như không

có truyện gắn trực tiếp tên nhân vật với tên gọi địa điểm mà chỉ có hình thức giải

thích địa danh do liên quan đến hành động, tình tiết, sự kiện... mà các nhân vật trong

truyện tạo ra. Truyện mang đậm yếu tố hiện thực, các yếu tố thần kỳ, hoang đường,

kỳ diệu, huyền ảo nhìn chung không có hoặc khá mờ nhạt. Trong các truyện kể, quan

hệ và xung đột được thể hiện chủ yếu là giữa con người với con người, hầu như

không có các tình tiết đấu tranh giữa con người với thiên nhiên như đánh đuổi thú dữ,

ngăn sông, đắp núi…

Cũng như truyền thuyết dân gian của nhiều dân tộc khác, truyền thuyết Thái có

đề cập đến việc đặt tên địa danh gắn liền với chuỗi sự kiện tiếp theo như lập mộ bia,

xây dựng đền miếu. Việc này có ý nghĩa ghi ơn, tôn vinh, bất tử hóa công tích của

những bậc tiền bối trong công cuộc khai khẩn và đem lại ấm no, hạnh phúc cho cộng

đồng. Truyện “Đền ông Chín Mường” có kể về việc dân đã lập đền thờ ông Chín

Mường ở Sộp Páo để hằng năm cúng lễ tưởng nhớ đến công đức của ông. Tương tự,

trong “Truyền thuyết ông Bá Hộ”, vì những công lao đánh đuổi giặc giã, đem lại sự

yên bình cho nhân dân nên sau khi qua đời, ông Bá Hộ được dân bản lập miếu ở bản

Củm quê nhà để thờ cúng, tri ân hàng năm.

Về tổng thể, nhóm truyền thuyết địa danh của dân tộc Thái ở Mai Châu đã

phản ánh quá trình khai khẩn, thích nghi, hòa hợp, cải tạo thiên nhiên và đấu tranh xã

hội của cư dân Thái ở địa phương. Đây là sản phẩm tinh thần của nhân dân lao động

Thái được kết tinh, chắt lọc từ thực tại trong hành trình mở đất, thực hiện khát vọng

của người dân Thái về một miền đất trù phú để có thể sinh tồn lâu dài.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 22

2.1.3. Nghệ thuật của truyền thuyết dân tộc Thái ở Mai Châu

2.1.3.1. Nghệ thuật tạo dựng cốt truyện

Truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu vừa hướng người nghe về cõi

thiêng bằng cách tạo ra được niềm tin trong đời sống tâm linh, vừa tỉnh táo đặt ra và

lý giải những vấn đề trọng đại đối với lịch sử phát triển của miền đất, của tộc người.

Vì vậy, truyền thuyết của dân tộc Thái ở Mai Châu thường gắn bó rất chặt chẽ với

những lễ hội dân gian được tổ chức thường xuyên trên địa bàn huyện, đồng thời có

mối liên hệ đặc biệt tự nhiên với tín ngưỡng trong dân gian. Dù có thể chỉ là huyền sử

nhưng những chi tiết trong truyền thuyết thường được coi là có thật, được sắp xếp

trong một thời gian cụ thể và trong một không gian xác định: từ hoàn cảnh ra đời, các

đặc điểm khác thường đến những chiến công phi thường của nhân vật, và cuối cùng

là việc nhân vật được tôn xưng thế nào, được thờ tự ra sao.

2.1.3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Nhân vật trong truyền thuyết của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu thường được

xây dựng với những nét đời thường bình dị, thế tục; ít yếu tố kỳ ảo, phi thường. Các

hành động của nhân vật và công trạng của họ trong truyền thuyết có thể có thật, cũng

có thể là do người dân quá yêu mến những nhân vật đó nên kể về họ với những hư

cấu lịch sử. Trong truyền thuyết dân gian dân tộc Thái, các vị ấy hiện ra với tư cách

là một hình tượng nghệ thuật. Do đó, việc phản ánh những vấn đề lịch sử hay sử dụng

những chi tiết, sự kiện lịch sử trong truyền thuyết dân gian dân tộc Thái cần được

xem là một biện pháp nghệ thuật, được chi phối bởi các quy luật sáng tạo nghệ thuật.

Đó là quan niệm nghệ thuật về con người, và mọi cách thức chọn lựa các phương tiện

chất liệu để xây dựng hình tượng đều thuộc về quan điểm lịch sử - thẩm mỹ của nhân

dân. Khác với chính sử, nhân vật lịch sử trong truyền thuyết dân gian dân tộc Thái rất

gần gũi với quần chúng nhân dân lao động. Vì vậy mà hành động, tính cách của họ

giàu tính hiện thực đời thường. Các yếu tố kỳ diệu chỉ là kết quả của sự hư cấu kỳ ảo

có chủ tâm được vay mượn trong thế giới của truyện cổ dân gian.

Sự lý giải của dân tộc Thái về sức mạnh thể chất, ý chí, trí tuệ… của nhân vật

thường là do sức mạnh tự thân mang tính thế tục nhờ nghị lực phi thường của nhân

vật. Điều này cũng khác so với truyền thuyết của nhiều dân tộc khác là sức mạnh của

nhân vật thường do tự thân nhân vật kết hợp với sự góp sức của các yếu tố thần linh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 23

kỳ ảo. Mặc dù là do tự thân nhưng sức mạnh của nhân vật trong truyền thuyết của dân

tộc Thái xét cho cùng vẫn có ý nghĩa biểu tượng thấm nhuần tinh thần và bản sắc dân

tộc: sức mạnh đó chính là sức mạnh được hun đúc, được tổng hợp từ linh khí của dân

tộc, từ sức mạnh đoàn kết của người dân trên địa bàn.

Cũng khác với nhiều truyền thuyết của các dân tộc khác là truyền thuyết của

dân tộc Thái hầu như không có chi tiết hóa thân, hiển linh… Các nhân vật khi chết đi

không bay về trời, không hóa thành thánh thần… nhưng luôn được nhân dân kính

trọng, ghi ơn và lập nơi thờ cúng.

2.2. Truyện cổ tích

Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam do giáo sư Đinh Gia Khánh

chủ biên thì “… truyện cổ tích là bộ phận quan trọng nhất trong các thể loại tự sự

dân gian” [12,tr.294], “truyện cổ tích xuất hiện phần lớn khi công xã thị tộc tan

rã” [12,tr.296], “truyện cổ tích một mặt phản ánh sự đấu tranh của nhân dân

chống giai cấp thống trị nhưng một mặt vẫn chịu ảnh hưởng ý thức hệ chính trị

của thời đại” [12,tr.296].

Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả ít khi đưa ra định nghĩa về thể

loại cổ tích. Ngay cả các giáo sư Đinh Gia Khánh, Lê Chí Quế cũng không đưa ra

khái niệm về về thể loại này trong các giáo trình của mình mà chỉ nêu lên những đặc

trưng chung để xác định thể loại. Có thể tựu trung lại một cách khái quát thì truyện cổ

tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng yếu tố nghệ thuật kỳ

ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời sống, bộc lộ quan niệm về đạo

đức cũng như về công lý xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân

dân lao động.

Trong khi thần thoại của người Thái ra đời từ thời xa xưa và thường gắn liền

với các nghi lễ thì cổ tích ra đời khi xã hội đã phát triển, đã hình thành quan hệ giai

cấp. Khi đó dân tộc Thái Mai Châu phải đối mặt với chính mình, nhất là đối với

những thói hư tật xấu của con người đã mang tính giai cấp. Cuộc đấu tranh chống lại

cái xấu ngày càng trở nên gay gắt hơn và trực tiếp được phản ánh trong cổ tích của

dân tộc Thái Mai Châu. Thể loại này ra đời với chức năng chống lại cái xấu, bênh

vực cái tốt, giáo dục con người hướng thiện. Người Thái Mai Châu xưa đã sử dụng cổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 24

tích như một công cụ đấu tranh. Trong sáng tác của mình, họ đã sử dụng hư cấu, nhất

là yếu tố kỳ diệu để tạo ra một thế giới cổ tích, khiến cho cổ tích trở thành những sản

phẩm nghệ thuật hấp dẫn. Các tác giả dân gian Thái Mai Châu đã khéo léo tạo ra một

thế giới không có trong thực tại nhưng lại tương đồng với thế giới thực tại, nhằm tạo ra

một trục liên tưởng cho người nghe để họ cảm xúc trước những điều xảy ra trong cổ

tích; làm cho họ yêu cái tốt, ghét cái xấu và ra sức đấu tranh chống lại cái xấu. Cổ tích

Thái Mai Châu thật sự là những sáng tạo nghệ thuật và đó là nghệ thuật có chủ tâm.

2.2.1. Phân loại truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu

Về cơ bản thì truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu có hai dòng phát triển

song song: truyện kể về loài vật và truyện kể về loài người. Càng về sau dòng truyện

kể về vật càng hẹp lại, truyện kể về người càng ngày càng phong phú, song song với

sự phát triển mọi mặt của xã hội con người. Truyện cổ tích thần kỳ hình thành và phát

triển trong thời kỳ đầu của truyện cổ tích, còn truyện cổ tích sinh hoạt chủ yếu phát

triển ở thời kỳ sau.

Chúng ta có thể phân loại truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu thành

truyện cổ tích về loài vật, truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt.

2.2.1.1. Truyện cổ tích loài vật

Truyện cổ tích về loài vật là một bộ phận quan trọng của truyện cổ tích dân tộc

Thái Mai Châu. Chúng có những giao thoa nhất định với truyện ngụ ngôn dựa trên

những yếu tố nghệ thuật và nội dung. Tuy nhiên những con vật ở truyện cổ tích loài

vật là những loài vật của thế giới tự nhiên, truyện có thể có nội dung giáo huấn song

đó không phải là mục đích chủ yếu của tiểu loại này mà điều cốt lõi là mỗi câu

chuyện là một sự nhận thức và lý giải đặc điểm của loài vật.

Nhân vật chính của truyện cổ tích về loài vật của người Thái ở Mai Châu là thế

giới loài vật phong phú và đa dạng, đó là những con khỉ ranh mãnh, con hổ hung bạo

nhưng dốt nát, con rùa thông thái, con cóc gan dạ… Các nhân vật chính là thế giới

sinh động, ngộ nghĩnh của loài vật trong tự nhiên, nhiều chuyện lý giải những đặc

điểm nổi bật của sinh vật trong tự nhiên: tại sao ve sầu không có ruột, tại sao lông hổ

lại vằn vện, tại sao có loại ốc suối đít bằng…

Khác với truyện cổ tích về loài vật của dân tộc Kinh, truyện cổ tích về loài vật của

người Thái Mai Châu có nhiều nhân vật là các loài thú sống ở trên rừng, điều này cho

thấy đặc điểm sinh sống của dân tộc Thái là luôn sống gần gũi, gắn bó với rừng núi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 25

Tiêu biểu cho các truyện cổ tích về loài vật của dân tộc Thái Mai Châu có

“Khỉ và Cào Cào”, “Án Nhà Khàm Khạc”, “Rùa khóc Then”, “Khỉ và Hổ”, “Mành

Khẳm không có ruột”...

2.2.1.2.Truyện cổ tích thần kỳ

Truyện cổ tích thần kỳ là một tiểu loại của truyện cổ tích, nó có những đặc

điểm riêng về nhiều mặt, phân biệt nó với những tiểu loại truyện cổ tích khác như

truyện cổ tích loài vật hay truyện cổ tích sinh hoạt; thể hiện ở cách xây dựng nhân

vật, xây dựng cốt truyện, phương pháp phản ánh thực tại… Trong đó tiêu chí cơ bản

phân biệt các tiểu loại với nhau là vai trò quan trọng của yếu tố thần kỳ trong việc chi

phối quá trình phát triển hệ thống tình tiết của cốt truyện. Ở truyện cổ tích thần kỳ,

yếu tố thần kỳ ngoài việc đóng vai trò quan trọng trong kết cấu của quá trình dẫn dắt

câu chuyện, nó còn là phương tiện hỗ trợ cho hoạt động của con người. Đối tượng

miêu tả của truyện cổ tích thần kỳ là con người. Nhưng con người đôi khi bất lực

trước những khó khăn và khi đó lực lượng thần kỳ xuất hiện giúp cho nhân vật vượt

qua những khó khăn và xung đột của truyện sẽ được giải quyết, câu chuyện sẽ được

phát triển tiếp tục. Hầu hết các vấn đề nêu lên trong truyện cổ tích thần kỳ đều được

giải quyết trực tiếp hay gián tiếp bằng lực lượng thần kỳ. Đó là những truyện cổ tích

phản ánh bi kịch gia đình đi từ quần hôn đến hôn nhân một vợ một chồng, từ chế độ

mẫu hệ sang phụ quyền, từ chế độ chưa có giai cấp sang chế độ phân chia giai cấp…

Kết cấu truyền thống của truyện cổ tích thần kỳ thường là kết thúc có hậu. Theo quan

điểm của Chu Xuân Diên, ông cho rằng trong truyện cổ tích thần kỳ cũng có nhiều

yếu tố cổ xưa có liên quan đến những quan niệm thần thoại và tín ngưỡng của con

người thời thị tộc bộ lạc.

Truyện cổ tích thần kỳ là bộ phận phong phú nhất của truyện cổ tích dân tộc

Thái ở Mai Châu. Đó là những truyện cổ tích về đứa trẻ mồ côi, về người con riêng,

về người con út, về những nhân vật bất hạnh… Tiêu biểu cho tiểu loại truyện cổ tích

thần kỳ của người Thái ở Mai Châu có các truyện “Chàng Voi nhỏ và ông Xù Xì bốn

mắt năm mồm”, “Người hóa khỉ”, “Cô gái chăn vịt”, “Biến thành thuồng luồng”, “Bờ

ruộng và trụ cột đá bên bờ”, “Phi Càng Cói”, “Càng Cói xin váy”, “Lấy nhầm chồng

sâu”, “Người hóa khỉ”, “Người hóa hổ”, “Nàng Trăng - nàng Sao”, “U Thền”, “Bỏ

quên bướu”…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 26

2.2.1.3. Truyện cổ tích sinh hoạt

Hệ thống những truyện cổ tích sinh hoạt của người Thái ở Mai Châu bao gồm

các cốt truyện kể về những sinh hoạt gia đình như quan hệ vợ chồng, bố mẹ, anh em,

con cái và các quan hệ xã hội như quan hệ chủ tớ, quan hệ giữa người làm thuê và

ông chủ, giữa người nông dân và kẻ trọc phú… Bên cạnh đó là những truyện cổ tích

về những nhân vật thông minh hóm hỉnh cũng như những truyện cổ tích về những

chàng ngốc, những chàng rể và những ông bố vợ…

Phần lớn truyện cổ tích sinh hoạt của người Thái ở Mai Châu thể hiện những

vấn đề đạo đức, ứng xử, cách sống của người dân Thái trên địa bàn. Sức hấp dẫn của

tiểu loại này không nằm trong yếu tố kỳ ảo, hoang đường, ly kỳ, phức tạp… mà nằm

trong những tình huống sinh hoạt thường ngày. Tình huống diễn ra rất sinh động,

phong phú và con người không phải lúc nào cũng ứng xử đúng đắn. Vì vậy, tiểu loại

này là cái nhìn có thiên hướng phê phán của người Thái Mai Châu về những lệch lạc

trong quan niệm về đạo đức, về ứng xử trong cuộc sống; vì thế tính giáo huấn của nó

rất cao, nó hướng tới những chuẩn mực đạo đức, bảo vệ những giá trị đạo đức trong

gia đình và xã hội.

Tiêu biểu cho tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt của người Thái Mai Châu có

“Kế của mẹ vợ”, “Kẻ trộm”, “Chàng Thoi mường Trời và chàng Thoi hạ giới”,

“Thành cứt con trăn”, “Ma đười ươi”, “Lổm Luông”, “Sự tích loài ốc đít bằng”,

“Tiếng dơ dớ của người rót rượu cần”, “Chó cắn tai”, “Chỉ bạn bè lúc biết có thịt

nai”, “Con ông thợ săn”…

2.2.2. Nội dung truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu

Truyện cổ tích dân tộc Thái Mai Châu là kết quả của sáng tác tập thể nên nó

phản ánh tâm lý tập thể, tâm lý phổ biến và nguyện vọng chung của người dân Thái ở

miền đất này. Chúng ta có thể điểm qua một số nội dung cơ bản như sau.

2.2.2.1. Giải thích nguồn gốc, đặc điểm, tên gọi của sự việc, sự vật, loài vật

Truyện cổ tích Thái thể hiện nội dung giải thích nguồn gốc, đặc điểm riêng của

một số sự vật, sự việc, loài vật… Các câu chuyện cho ta thấy trí tưởng tượng hồn

nhiên của tác giả dân gian Thái trong việc cố gắng lý giải những hiện tượng trong

cuộc sống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 27

Trước hết, đó là sự hồn nhiên trong việc giải thích một số đặc điểm của các

loài vật. Chẳng hạn tại sao lại có loài thuồng luồng cổ hoa (Biến thành thuồng luồng),

tại sao “mành khẳm” (ve sầu) lại rỗng ruột (Mành khẳm không có ruột), tại sao lông

hổ lại đen vàng loang lổ (Rùa khóc Then), tại sao lại có loài ốc đít bằng (Sự tích loài

ốc đít bằng)…

Truyện cổ dân gian Thái cũng giải thích nguồn gốc của các sự vật, sự việc liên

quan đến con người và địa phương Mai Châu. Truyện “Bờ ruộng và trụ cột đá bên

bờ” giải thích vì sao lại có một khu ruộng bằng phẳng, rộng lớn với bốn cột đá đứng

sừng sững ở góc bên bờ sông Mã; truyện “Lổm luông” giải thích tại sao lại có một

vùng sụt lún lớn ở xã Tòng Đậu, đồng thời cũng giải thích tại sao người Thái rất

kiêng việc lấy lược chải đầu để chải lông cho chó; truyện “Phần trắng trong mắt

người” giải thích sao mắt người lại có lòng trắng, lòng đen...

Tất nhiên xét dưới góc độ khoa học thì tất cả những giải thích đã được thống

kê cũng như những giải thích tương tự trong truyện cổ tích Thái đều không chính xác.

Tuy nhiên, nhưng chi tiết nghệ thuật này thể hiện trí tưởng tượng phong phú, hồn

nhiên và ngây thơ của các tác giả dân gian Thái; đồng thời những chi tiết như vậy

cũng rất hấp dẫn người nghe - nhất là trẻ em - bởi sự thú vị của chúng.

2.2.2.2. Phản ánh cuộc đấu tranh chống lại các thế lực tàn ác và ước mơ về một xã

hội công bằng, một cuộc sống ấm no, hạnh phúc

Xuất hiện trong xã hội phân chia giai cấp, xã hội mà trong lòng nó đã chứa

đựng những bất công, những điều ngang trái; truyện cổ tích dân gian dân tộc Thái ở

Mai Châu đã xây dựng nên một xã hội ước mơ, đó là một xã hội không có cái ác, không có áp bức bóc lột, mọi người được bình đẳng. Đọc những câu chuyện phản ánh

cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa mạnh và yếu...

chú ng ta bắt gặp những giấc mơ của người dân Thái xưa về một thế giới tươi đẹp, mô ̣t thế giớ i khác hiê ̣n thực. Ở đó những kẻ ác đô ̣c luôn bi ̣ trừ ng phạt, những ngườ i hiền lành luôn được che chở và có đươ ̣c cuô ̣c sống ấm no, ha ̣nh phú c. Đó là những giấc mơ phủ nhận, phản kháng thực tại để hướng về một cuộc số ng tự do, bình đẳng trong chân, thiê ̣n, mỹ.

Trước hết xin đề cập đến loại truyện cổ có tính chất kế tiếp, gần gũi với thần

thoại, loại truyện nói về nhân vật đấu tranh chống lại các thế lực khác trong cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 28

sống. Nguyên do làm nảy sinh loại truyện này là vì môi trường sống, vì yêu cầu sinh

hoạt xã hội, vì công cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đặt ra một cách cấp bách và

thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày của người dân Thái. Họ cần chống lũ lụt,

chống hạn hán, chống thú dữ… Vì thế ra đời những câu chuyện về những con người

phi thường, kỳ tài. Tiêu biểu cho dạng này là truyện “Chàng Voi nhỏ và ông Xù Xì

bốn mắt năm mồm”. Truyện kể về một chàng trai mà ngay từ cách ra đời đã lạ lùng:

bà mẹ thụ thai do uống nước trong một vũng nước voi tắm, bà chửa ba năm ba

tháng mới sinh ra chàng trai và đặt tên là Voi con. Ngay từ nhỏ Voi con đã có sức

khỏe phi thường, chẳng ai dám thử sức với cậu. Cậu vật thắng cả người khổng lồ để

đem vàng bạc về cho bố mẹ. Bố mẹ chàng Voi nhỏ bảo con đi giết quái vật Xù Xì

để trừ hại cho dân. Trên đường đi chàng đã chiêu mộ được nhiều bạn bè tài giỏi, đó

là các chàng Lấy trán đóng cọc, chàng Lấy bàn chân cày ruộng, chàng Chèo thuyền

giữa rừng, chàng Chạy nhanh như tên… Họ đều tôn Voi nhỏ làm thủ lĩnh, nhiều

loài thú cũng xin cùng đi. Đoàn quân đã giết quỷ Chí Khè và cuối cùng đã hợp sức

giết Xù Xì, đem lại cuộc sống yên lành cho nhân dân.

Bằng cách xây dựng một nhóm anh hùng, dũng cảm, có tài năng đặc biệt, đã

hợp sức lại để chiến thắng các thế lực tàn ác; truyện “Chàng Voi nhỏ và ông Xù Xì

bốn mắt năm mồm” của người Thái Mai Châu đã ca ngợi tập thể những người lao

động giỏi, chiến đấu giỏi, dám đấu tranh và chiến thắng các thế lực tự nhiên và xã hội

để mang lại cuộc sống yên lành, hạnh phúc cho nhân dân. Truyện thể hiện trí tưởng

tượng táo bạo của dân tộc Thái, đồng thời thể hiện sự phát triển tư duy và nhận thức

của cộng đồng người Thái về cuộc sống con người. Những tập thể anh hùng mang

dáng dấp những anh hùng trong thần thoại, truyền thuyết và sử thi, nó thể hiện tư duy

nghệ thuật cao của các tác giả dân gian Thái trong cốt truyện chặt chẽ, tình tiết truyện

hợp lý, diễn biến truyện hấp dẫn. Các nhân vật hợp với nhau trong chỉnh thể không

thể chia cắt, nếu thiếu đi một nhân vật thì tập thể không thể chiến thắng.

Ý chí chiến đấu và chiến thắng những thế lực tàn ác là điều ta thườ ng gặp trong truyện cổ tích củ a dân tô ̣c Thái ở Mai Châu. Dễ dàng thấy nhân vật chính nằm

trong chuyện là những ngườ i em, người con riêng, những kẻ làm thuê, những người

nghèo khó… Họ bị ngược đãi, bị hắt hủi, bi ̣ bắt làm việc tối ngày, bị bóc lột sức lao

động một cách thậm tệ. Họ không thể làm gì được khi thân phận người lao động chỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 29

là con sâu cái kiến. Vì vậy họ luôn mong ước có những thế lực siêu nhiên như thần,

Phật, bụt, tiên để giúp đỡ họ, làm cho họ đổi đời. Những thế lực này không xuất hiện

để thuyết minh cho một tôn giáo nào mà đó chính là đại diện cho cái thiện, cho lẽ

phải, cho khát vọng của người dân về sự công bằng. Sự công bằng ở đây tức là sự

chiến thắng của cái thiện trước những thế lực đen tối, độc ác. Sự xuất hiện của các thế

lực siêu nhiên chứng tỏ rằng người lao động không bao giờ chi ̣u khuất phu ̣c. Nhân

vâ ̣t nàng Hai trong truyê ̣n “Ta ̣o làng Hông và nàng Hai” suố t ngày phải làm nương nhưng chi ̣ dâu chỉ cho ăn khoai, thâ ̣m chí là vỏ khoai. Khi phát hiê ̣n nàng Hai đươ ̣c chim thần giú p đỡ, ngườ i chi ̣ dâu đã giết chim, nàng Hai gom lông chim đem chôn thì chỗ chôn mo ̣c lên mô ̣t cây rau dền, ngườ i chi ̣ dâu la ̣i chă ̣t cây rau dền để nấu ăn... rồ i số phâ ̣n run rủ i nàng Hai gă ̣p quỷ Dá Bài, suố t ngày bi ̣ nó rình râ ̣p ăn thi ̣t song nàng đã không chịu khuất phục. Bằng mưu trí củ a mình, nàng Hai đã giết chết Dá Bài, cuố i cù ng là tìm đươ ̣c ta ̣o làng Hông và gia đình ho ̣ có mô ̣t cuô ̣c số ng ha ̣nh phú c, no ấm.

Bằng những hình tượng nhân vật gần gũi với cuộc đời thực, truyện cổ tích của

dân tộc Thái ở Mai Châu trình bày lý tưởng của nhân dân về một xã hội dân chủ,

trong đó những người dân lương thiện, nghèo khổ, hiền lành, tốt bụng sẽ được hưởng

hạnh phúc xứng đáng với đạo đức và tài năng của họ… Truyện “U Thền” kể về nhân

vật U Thền khi còn nhỏ đã có phẩm chất củ a mô ̣t dũng sỹ, mă ̣c dù sinh ra trong hoàn

cảnh hết sứ c éo le: me ̣ bi ̣ đem bỏ vào trong rừ ng vớ i đôi mắt mù lò a, song U Thền đã

giúp mẹ vượt qua được những khó khăn, nguy hiểm nơi rừng sâu nướ c đô ̣c; không những thế, chàng cò n tìm cách vào tâ ̣n hang ổ củ a mườ ng quỷ, ho ̣c đươ ̣c phép thuâ ̣t của chúng, lấy đươ ̣c báu vật củ a chú ng. Chàng giết hết bo ̣n quỷ đô ̣c ác rồ i quay trở về

trần gian, tìm giết quỷ Khằ m Ca là nguyên nhân gây ra những đau khổ , cực nhục củ a

me ̣ mình và khiến cho cả mườ ng bi ̣ bê ̣nh tâ ̣t. Chàng giết Khằ m Ca, dù ng phép thuâ ̣t

làm cho mắ t me ̣ sáng la ̣i và dân mườ ng hết bê ̣nh tâ ̣t.

Ở tiểu loa ̣i truyê ̣n cổ tích về loài vâ ̣t có truyê ̣n “Khỉ và Cào Cào” phản ánh cuô ̣c đấu tranh giữa những nhân vâ ̣t bé nhỏ vớ i những kẻ to lớ n, hố ng hách. Những con khỉ đã

ngang ngược đuổ i đàn cào cào đi, không cho chú ng kiếm ăn ở nơi chú ng sinh số ng.

Những tưở ng đàn cào cào yếu ớ t sẽ phải nhẫn nhu ̣c bỏ đi song không phải như vâ ̣y, cào

cào đã dũng cảm lên tiếng bảo vê ̣ quyền lợi củ a mình bằ ng cách sẵn sàng chiến đấu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 30

Bằ ng mưu me ̣o củ a mình, đàn cào cào đã khiến cho cả lũ khỉ to xác nhưng ngu ngố c, hữu dũng vô mưu chết không cò n mô ̣t mố ng. Truyê ̣n đề cao mơ ướ c có mô ̣t cuô ̣c số ng

công bằ ng, phản đố i áp bứ c bất công trong xã hô ̣i, đồ ng thờ i đưa ra mô ̣t tuyên bố củ a những ngườ i dân nghèo thấp cổ bé ho ̣ng: có áp bứ c thì tất sẽ có đấu tranh, và cuô ̣c đấu tranh củ a ngườ i Thái sẽ là cuô ̣c đấu tranh quyết liê ̣t, không khoan nhượng.

2.2.2.3. Lý giải những xung đột cơ bản trong gia đình và ngoài xã hội

Truyện cổ tích dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu phản ánh và lý giải những

xung đột, mâu thuẫn trong gia đình. Những mâu thuẫn này thường mang tính chất

riêng tư nhưng lại phổ biến trong xã hội có giai cấp với những xung đột cơ bản như

xung đột giữa anh em trai (Con cầy biết hát), xung đột giữa chị dâu em chồng (Tạo

làng Hông và nàng Hai), xung đột giữa dì ghẻ con chồng (U Thền)…

Truyện “Con cầy biết hát” kể về hai anh em mồ côi cha mẹ sớm, người anh

tham lam chiếm hết tài sản, chỉ để cho người em một mảnh vườn nhỏ. Một hôm hai

anh em bắt được hai con cầy, người anh tranh con to để giết thịt, người em đưa con

nhỏ về nuôi. Con cầy nhỏ của người em biết hát rất hay, nhờ tài đó nó giúp người em

có một gia tài lớn. Người anh tham lam biết vậy đến mượn con cầy nhưng do đối xử

với nó không tốt nên nó không giúp anh ta. Người anh tức giận giết cầy ăn thịt, người

em đến nhặt xương cầy đem về chôn và bộ xương mọc thành hai cây luồng lại giúp

anh làm giàu, người anh lại đến đòi mượn và lại gặp tai họa, anh ta lại chặt luồng...

Sau nhiều lần như vậy, người anh ốm chết.

Truyện “Con cầy biết hát” có mô-tip hơi giống truyện cổ tích “Cây khế”: cũng

hoàn cảnh hai anh em có bố mẹ mất sớm, người em hiền lành, nhường nhịn; người

anh tham lam, tranh giành... và kết quả là người anh bị trừng phạt. Đồng thời truyện

cũng có mô-tip rất gần với truyện Tấm Cám của dân tộc Kinh: qua nhiều lần tranh

cướp, người anh bị trừng phạt (chết), người em hưởng cuộc sống giàu có. Truyện cho

chúng ta thấy rằng quan niệm “ở hiền gặp lành” không phải của riêng dân tộc Kinh

mà là một quan niệm phổ biến chung của người Việt.

Ở truyện “Tạo làng Hông và nàng Hai”, những tình huống thể hiện mâu thuẫn

giữa chị dâu và em chồng tuy chưa phải là đấu tranh đến cùng mang tính chất một

mất một còn nhưng cũng đã rất rõ nét: chị dâu bắt em chồng đi làm nương hàng ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 31

nhưng chỉ cho ăn vỏ khoai, đến khi em chồng được chim thần giúp đỡ thì chị dâu giết

chim, em chồng gom lông chim về chôn rồi từ chỗ chôn lông chim mọc lên một cây

rau dền thì chị dâu lại chặt trộm cây rau dền để nấu ăn…

Mâu thuẫn dì ghẻ - con chồng là một dạng mâu thuẫn rất phổ biến mà xã hội,

dân tộc nào cũng có. Trong cổ tích Thái Mai Châu có truyện “U Thền” thể hiện mâu

thuẫn này. Khi cha là tạo mường lấy dì ghẻ, chính dì ghẻ đã xui tạo mường đẩy bà vợ

cả - khi đó đã bị dì ghẻ làm cho mù mắt - vào rừng sâu. Bà mẹ khốn khổ bụng mang

dạ chửa đã một mình sinh ra U Thền và nuôi nấng chú bé trong cảnh mù lòa. Nhưng

U Thền bằng sức khỏe và trí tuệ hiếm có của mình đã trở lại mường, rồi đã tương kế

tựu kế để được đi học các phép thuật ở mường quỷ. Chàng lập mưu giết hết bọn quỷ

rồi quay về trừng trị mụ dì ghẻ cũng vốn là một con quỷ. Sau khi cho cha mình tận

mắt nhận thấy dì ghẻ là một con quỷ trá hình, chàng đã tự tay giết nó. Cuối cùng là U

Thền dùng phép thuật để làm cho mắt mẹ mình sáng lại, cùng gia đình hưởng hạnh

phúc với bản mường.

Dù gắn với đề tài gia đình hay đề tài xã hội, ý nghĩa của truyện cổ tích dân

gian dân tộc Thái ở Mai Châu cũng rất sâu sắc. Nó phản ánh được những xung đột

giữa cái thiện và cái ác, xung đột giữa kẻ mạnh và người yếu, xung đột giữa người

giàu và người nghèo, xung đột giữa tầng lớp thống trị và người bị trị… trong một xã

hội phân chia giai cấp.

Truyện “Sự tích chàng trai Cha Long diệt muỗi chúa” kể về chuyện mẹ con

chàng dũng sỹ đã không chịu khuất phục trước con muỗi chúa hung bạo và tàn ác.

Hai người đã bàn mưu dùng khói và lửa giết chết muỗi chúa, trừ họa cho dân lành.

Truyện có mô-típ tương tự truyện “Thạch Sanh” của dân tộc Kinh, cũng có một quái

vật tàn ác chuyên bắt dân lành cống nộp người để ăn thịt, cũng có nhân vật chính

không chịu để bị ăn thịt mà đã chiến đấu và chiến thắng quái vật tàn ác, cũng có nhân

vật phụ cướp công của dũng sỹ… Tuy nhiên, kết thúc của truyện “Sự tích chàng trai

Cha Long diệt muỗi chúa” đơn giản hơn: kẻ cướp công của dũng sỹ không bị trừng

phạt, chàng trai vô tình trở thành giàu có khi tìm thấy nhiều vàng bạc trong dạ dày

của muỗi chúa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 32

Là truyện cổ tích về loài vật nhưng ra đời muộn hơn, truyện “Khỉ và Cào

Cào”, có sự giao thoa và mang dáng dấp của truyện ngụ ngôn. Trong đó những người

thấp cổ bé họng, những người bị thống trị đã dùng sức mạnh đoàn kết và sức mạnh trí

tuệ, sức mạnh chính nghĩa để chống lại những kẻ mạnh hống hách, hung hăng và bạo

ngược. Khi lũ Khỉ bắt đàn Cào Cào phải rời bỏ nơi Cào Cào đã sinh sống thì Cào Cào

đã quyết tâm chiến đấu chống lại Khỉ, dù Khỉ mạnh hơn gấp rất nhiều lần. Bằng bản

lĩnh và mưu mẹo, chính đàn Cào Cào mới là người chiến thắng, khiến lũ Khỉ chết

không còn một mống. Truyện cho ta thấy rằng: những người dân lao động Thái cũng

rất yêu quê hương, họ sẵn sàng chiến đấu chống lại bất kỳ kẻ thù hung bạo nào để bảo

vệ quê hương mình.

Truyện “Án nhà Khàm Khạc” thì hầu như giống y như truyện “Cóc kiện trời”

của dân tộc Kinh. Cũng có nhân vật chính là Cóc, các nhân vật phụ là Cáo, Hổ,

Ong… cốt truyện, tình tiết, diễn biến hầu như trùng khớp nhau. Điều này cho thấy sự

giao thoa văn hóa giữa dân tộc Thái và dân tộc Kinh là hết sức sâu sắc, chứng tỏ sự

gắn bó lâu đời về văn hóa giữa hai dân tộc anh em.

Trong truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu, mâu thuẫn trong xã hội phụ

quyền được thể hiện qua xung đột giữa nhân vật bề trên và bề dưới, đàn anh và đàn

em. Trong thực tế không phải người em, người con nào cũng tốt; người mẹ ghẻ,

người anh nào cũng xấu nhưng truyện cổ tích của người Thái Mai Châu có khuynh

hướng ca ngợi, bênh vực nhân vật “bề dưới”, “đàn em”; lên án nhân vật “bề trên”,

“đàn anh”. Điều này có nghĩa là dân tộc Thái đã thông qua truyện cổ tích để thể hiện

quan điểm chống lại cái bất công, vô lý của xã hội phụ quyền. Quay trở lại với truyện

“Con cầy biết hát”, chúng ta thấy diễn biến chung của loại chuyện này thường gồm

hoàn cảnh hai anh em (mồ côi cha mẹ); hai anh em chia gia tài (người anh chiếm đoạt

phần lớn tài sản); người em được lực lượng thần kỳ giúp đỡ; người anh gạ đổi gia tài

rồi bắt chước em lặp lại sự việc; người anh tham lam bị trừng phạt; người em được

hưởng hạnh phúc. Truyện thường đưa ra những tình thế tương phản nhằm khắc họa rõ

những nét tính cách đối lập nhằm tạo nên mâu thuẫn dẫn dắt câu chuyện một cách

hợp lý: người em nghèo nhưng lại không thiết tha đến của cải, còn người anh giàu có

thì lại tham lam vô độ. Nhằm biểu hiện những mâu thuẫn và những sự phức tạp của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 33

cuộc sống, tác giả dân gian thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật đắc dụng “nhắc lại”.

Sự nhắc lại có tác dụng nêu bật tâm lý của nhân vật này bằng cách đối chiếu tâm lý

với nhân vật khác. Đặt vào hoàn cảnh như nhau, người anh đã hành động trái ngược

hẳn với người em, một đằng thì giả dối tham lam, một đằng thì thực thà trung hậu và

cũng từ đó khiến nổi rõ tính cách, phẩm chất, đạo đức của hai nhân vật đối lập, qua

đó làm nổi bật phẩm chất của người em. Còn người anh - kẻ đã lợi dụng địa vị trong

gia đình phụ quyền để chiếm đoạt tài sản thừa kế của người em - là kẻ tham lam,

không cần cù lao động, có lòng tham vô đáy nên bị trừng phạt dẫn đến cái chết.

Nói rộng hơn, truyện cổ tích “Con cầy biết hát” của dân tộc Thái ở Mai Châu

còn là sự phản ánh tình trạng phân hoá tổ chức gia đình, xã hội; hình thành ý thức sở

hữu cá nhân, những xung đột về quyền lợi của thời kỳ đầu phân hoá giai cấp. Tình

trạng này đã khiến cho các mối quan hệ thân tình giữa những người ruột thịt và

những người cùng cộng đồng bị biến dạng, trở nên đối kháng. Các tác giả dân gian

giải quyết mâu thuẫn đó bằng phương pháp tiên nghiệm: những người nghèo, tốt,

hiền lành, lương thiện… sẽ được giàu sang; những kẻ xấu, gian ác, bất lương… sẽ bị

trừng trị.

2.2.2.4. Đề cao trí tuệ dân gian, ca ngợi cách ứng xử thông minh, khéo léo

Thông qua những việc làm, những hành động, những ứng phó… trước những

hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống của các nhân vật, truyện cổ tích của người Thái ở

Mai Châu luôn đề cao vai trò của tư duy, của trí khôn, của sự thông minh…

Trước hết là ở loạt truyện cổ tích về loài vật, các tác giả dân gian Thái đã đồ

chiếu quan hệ xã hội loài người vào quan hệ của các con vật. Đó là những truyện cổ

tích ra đời muộn hơn nên thường có xu hướng ngụ ngôn, giao thoa từ truyện cổ tích

loài vật sang truyện ngụ ngôn. Thông qua những ứng xử, những hành động của người

thông minh, rồi đem đối lập với hành động của kẻ khờ dại, các tác giả dân gian đã

dựng lên một xã hội loài vật mang tính người. Loài vật đã được nhân cách hóa một

cách hồn nhiên và dí dỏm khiến cho câu chuyện pha lẫn yếu tố hài. Tiếng cười bật ra

khi ta chứng kiến sự ngu ngốc, kẻ ngu ngốc, sự thông minh, người thông minh,

những mẹo lừa và sự mắc lừa, sự thành công và sự thất bại của hai hạng người mang

danh động vật đó. Điển hình là truyện “Khỉ và Hổ”, mặc dù bị Khỉ lừa cho hết lần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 34

này đến lần khác nhưng con Hổ to xác và ngờ nghệch vẫn dại dột mắc lừa, rồi cuối

cùng bị Khỉ xả nước dìm chết ở dưới đập nước. Câu chuyện đã ca ngợi tài ứng đối, sự

nhanh nhẹn và linh hoạt trong ứng xử của chú Khỉ thông minh.

Một truyện cổ tích loài vật khác là “Khỉ và Cào Cào” cũng có giá trị tương tự,

nhưng lần này không phải là Khỉ mà những con Cào Cào bản lĩnh mới là đối tượng

được ca ngợi. Không phải bằng sức mạnh mà bằng sự nhanh nhẹn và trí tuệ của mình,

đàn Cào Cào đã giết sạch đàn Khỉ hống hách, trịch thượng và bảo vệ vững chắc địa

bàn sinh sống của mình.

Trong truyện cổ tích thần kỳ và cổ tích sinh hoạt của dân tộc Thái Mai Châu,

chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy rất nhiều những chi tiết thể hiện trí tuệ dân gian. Đó

là chi tiết chàng dũng sỹ dùng khói lửa diệt muỗi chúa trong “Sự tích chàng trai Cha

Long diệt muỗi chúa”; là chi tiết nàng Hai đã lừa quỷ Dá Bài suốt một thời gian dài

để được sống sót, rồi cuối cùng dùng mưu trí giết chết Dá Bài trong “ Tạo làng Hông

và nàng Hai”; là chi tiết U Thền lừa cả vua quỷ để học phép thuật rồi giết cả mường

quỷ, đem lại hạnh phúc cho người dân trong “U Thền”; là cách điều binh khiển tướng

đầy bản lĩnh và trí tuệ của chàng Cóc trong “Án nhà Khàm Khạc”… Tất cả chứng

minh một điều: những truyện cổ tích dân gian của dân tộc Thái luôn đề cao, ca ngợi

sự thông minh, cách ứng xử đúng đắn… trong cuộc sống; và do vậy, dân tộc Thái là

một dân tộc rất coi trọng trí tuệ.

2.2.2.5. Minh chứng dân tộc Thái là một dân tộc trọng tình nghĩa

Canh tác trên những cánh đồng rộng và quần cư trong thung lũng, sống trên

nhà sàn, người Thái Mai Châu có tính cách hiền hòa, thích sống yên bình, không

tranh chấp, chuộng lối sống tình cảm và rất trọng tình nghĩa, văn học dân gian nói

chung và truyện cổ tích nói riêng thể hiện rất rõ điều này.

Ở truyện “Sự tích chàng trai Cha Long diệt muỗi chúa”, người đọc không thể

quên chi tiết hai mẹ con chàng dũng sỹ tranh nhau đi nộp mạng cho muỗi chúa, người

con thương mẹ già nên đòi được chết, người mẹ vì thương con nên nhất quyết đòi đi,

hai mẹ con tranh nhau cả ngày rồi cuối cùng mới bàn đến chuyện quyết tâm đi diệt

muỗi chúa. Cũng nói về tình cảm mẹ con sâu nặng, truyện cổ tích Thái Mai Châu có

truyện “U Thền” kể chuyện từ bé U Thền đã biết đi kiếm thức ăn nuôi mẹ mù lòa, rồi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 35

khi trưởng thành chàng đã học phép thuật để chữa cho mắt mẹ sáng lại để mẹ tiếp tục

hưởng cuộc sống hạnh phúc trong no đủ… Những chi tiết như vậy đã thể hiện tình

cảm mẹ con hết sức sâu nặng, không thể tách rời, họ sẵn sàng hi sinh tính mạng vì

nhau để cho người kia được sống của người dân Thái Mai Châu.

Truyện “Biến thành thuồng luồng” lại thành công trong việc mô tả tình cảm

anh em gắn bó thân thiết. Người em gái luôn nhường cho anh trai phần hơn. Khi

người anh vô tình ăn phải trứng thuồng luồng, anh đã bị biến thành thuồng luồng. Cô

em gái ngày nào cũng ra bờ suối khóc với anh, rồi cô lấy chiếc khăn hoa của mình

quấn vào cổ anh để phân biệt với những con thuồng luồng bình thường khác. Ba năm

lấy chồng, cô không hề cười nói vì thương nhớ anh. Chỉ khi có đủ trâu bò để làm tang

anh, cô mới òa khóc và nói trở lại. Câu chuyện chứng minh tình anh em gắn bó máu

thịt của những người dân Thái nghĩa tình.

Thể hiện tình yêu lứa đôi thắm thiết, chung thủy, truyện cổ tích Thái Mai Châu

cũng có những tình tiết xúc động: nàng Hai đã vượt bao nguy hiểm, phải cận kề cái

chết trong cuộc chiến đấu với quỷ Dá Bài để đến với tình yêu của tạo làng Hông; hay

chuyện nàng Như Ý đã quyết tâm vượt qua sự ngăn cản của cha mẹ để đến với tình

yêu đích thực của mình, để được sống hạnh phúc với người mình yêu.

2.2.3. Nghệ thuật truyện cổ tích dân tộc Thái ở Mai Châu

2.2.3.1. Về cốt truyện

Truyện cổ tích của dân tộc Thái ở Mai Châu bao giờ cũng được kể theo một

đường thẳng, tuyến tính, sự kiện nào xảy ra trước kể trước, sự kiện nào xảy ra sau kể

sau. Cốt truyện thường được xây dựng theo một số sơ đồ kết cấu nhất định; trong khi

kết cấu truyện bao giờ cũng mang tính chất trọn vẹn, kể về toàn bộ sự việc, hoặc toàn

bộ số phận, cuộc đời của nhân vật chính, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc truyện.

Một đặc điểm nổi bật khác của truyện cổ tích dân gian dân tộc Thái Mai Châu

là tính chất hư cấu của câu chuyện kể. Nếu truyền thuyết có chứa đựng đôi chút lõi

lịch sử thì cổ tích là những chuyện hoàn toàn hư cấu. Tuy nhiên những truyện cổ tích

Thái đều chứa đựng những ý nghĩa, những bài học đạo đức, những kinh nghiệm

sống… cho mọi người, giúp người ta sống tốt hơn, lạc quan hơn, có khát vọng vươn

lên trong cuộc sống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 36

2.2.3.2. Về nhân vật

Nhân vật trong truyện cổ tích Thái Mai Châu là nhân vật chức năng, chưa

được cá thể hóa, tâm lý hóa. Do dung lượng của luận văn bị hạn chế nên có thể chia

thành hai loại nhân vật cơ bản, đó là nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.

Những nhân vật chính diện thường là người anh hùng, chàng dũng sỹ, người

em, người mồ côi… Xây dựng nhân vật chính diện, truyện cổ tích Thái Mai Châu

thường có chủ định đặt nhân vật trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ và vô vàn thách

thức khắc nghiệt để từ đó khẳng định phẩm chất đáng quý của kiểu nhân vật này. Mỗi

nhân vật một vẻ, một số phận khác nhau. Phẩm chất được bộc lộ qua hành động.

Trong suốt các truyện hầu hết phẩm chất đạo đức của nhân vật không thay đổi.

Các kiểu nhân vật phản diện thường là quan lại, người giàu có, người anh,

người dì ghẻ… Những nhân vật này luôn luôn luôn đối lập với nhân vật người em,

người mồ côi, người con dâu về phẩm chất đạo đức, số phận. Nếu như trong diễn biến

câu chuyện, các nhân vật chính diện bị nhân vật phản diện ức hiếp, bóc lột, hãm hại

thì khi kết thúc truyện hầu như các nhân vật chính diện lại được hưởng cuộc sống

hạnh phúc, giàu sang, no đủ, được dân gian đề cao, ca ngợi còn các nhân vật phản

diện bị trừng phạt thích đáng: mất hết của cải, có khi mất cả tính mạng và bị lên án,

phê phán mạnh mẽ.

2.2.3.3. Yếu tố thần kỳ

Yếu tố thần kỳ có vai trò quan trọng trong truyện cổ tích, đặc biệt là truyện cổ

tích thần kỳ. Trong quá trình xây dựng truyện cổ tích, các tác giả dân gian dân tộc

Thái ở Mai Châu đã sử dụng yếu tố thần kỳ để giải quyết và thực hiện tất cả những

ước mơ, nguyện vọng về một xã hội tươi đẹp. Mỗi khi nhân vật ở vào thế bế tắc, nếu

không thể tự thân khắc phục thì yếu tố thần kỳ sẽ xuất hiện. Lực lượng thần kỳ hay

người trợ giúp thần kỳ một mặt tượng trưng cho kiến thức, sự chín chắn, kiến giải

sáng suốt, trí tuệ và sức mạnh, mặt khác cũng tượng trưng cho đạo đức, những nết

đẹp như hiền lành, tốt bụng, sẵn sàng giúp đỡ người tốt, bênh vực kẻ yếu, trừng phạt

kẻ ác…

Những đặc điểm này khiến tính cách nhân vật, yếu tố tư tưởng của truyện cổ

tích được bộc lộ rõ rệt. Sự xuất hiện yếu tố thần kỳ trong truyện cổ tích đáp ứng nhu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 37

cầu tâm lý của chính người dân Thái sống trong thời đại của câu chuyện. Yếu tố thần

kỳ là những lực lượng biến hoá khôn lường, có thể đáp ứng được mọi nhu cầu trợ

giúp hay trừng phạt, ban thưởng hay tước đoạt. Nó chính là sự thể hiện một cách sinh

động, phong phú thông qua sức tưởng tượng của tác giả dân gian, tạo nên tính hấp

dẫn cho tất cả các câu chuyện cổ tích.

Yếu tố thần kỳ trong truyện cổ tích dân tộc Thái Mai Châu thường rất cụ thể, đó

là thầy Sài Thiên trong truyện “U Thền”, quỷ Dá Bài trong “Tạo làng Hông và nàng

Hai”, là chiếc đũa thần… Đây chính là kết quả của sự kết hợp giữa nhu cầu tâm lý chung

và tôn giáo tín ngưỡng riêng của dân tộc Thái sống trên địa bàn huyện Mai Châu.

2.2.3.4. Không gian và thời gian nghệ thuật

Không giống với thần thoại và truyền thuyết, trong truyện cổ tích dân gian

Thái, các tác giả dân gian không có ý thức trong việc xác định cụ thể các yếu tố thời

gian và không gian nghệ thuật.

Thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích Thái Mai Châu bao giờ cũng là dòng

chảy của chuỗi hành động của nhân vật chính và bao giờ cũng là thời gian của quá

khứ. Nó chậm chạp hay gấp gáp đều do nhịp điệu của những hành động của nhân vật

chính quy định. Thời gian trong truyện cổ tích không xác định và thường được mở

đầu rằng những câu chuyện xảy ra cách nay đã lâu, thuộc về quá khứ xa xôi. Trong

truyện cổ tích Thái thường có những mô típ như: “Ngày xưa…”, “Truyện đời xửa,

đời xưa …”. Thời gian của truyện là dòng chảy liên tục, trong đó diễn ra chuỗi hành

động của nhân vật chính, trong đó nhân vật sinh ra, lớn lên, hoạt động và kết thúc

bằng sự thay đổi số phận.

Không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích Thái là một không gian rộng lớn

trong đó các tác giả dân gian tin rằng có sự tồn tại ba tầng thế giới: thế giới trên trời,

thế giới trên mặt đất và thế giới dưới mặt đất. Nhân vật của truyện cổ tích Thái hành

động trong thế giới rộng lớn đó, nhân vật có thể lên cõi trời hoặc có thể xuống dưới

mặt đất như U Thền, chàng Voi nhỏ, Án nhà Khàm Khạc; cũng có thể xuống Thủy

phủ như cô gái chăn vịt; hoặc từ Thủy cung lên như chàng con vua Thủy tề.... Cũng

giống như truyện cổ tích nói chung, không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích Thái

Mai Châu thường mang tính phiếm chỉ ước lệ mà không phải là những địa danh cụ

thể rõ ràng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 38

2.3. Truyện cười

Truyện cười dân gian ra đời và phát triển cùng với quá trình lao động sản xuất

và đời sống nhân dân. Không chỉ đem lại tiếng cười mua vui cho thiên hạ để cho họ

giải tỏa những mệt nhọc, vất vả sau một ngày lao động tích cực mà truyện cười còn

có tác dụng phê phán, châm biếm, mỉa mai các thói hư tật xấu của con người. Vì vậy

truyện cười được xem như là một thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh chống lại những bất

công, những thói hư tật xấu trong xã hội. Bên cạnh đó, truyện cười còn thể hiện sự

thông minh, tư duy sâu sắc của những con người có trí tuệ, có khả năng giao tiếp

nhanh nhạy, sắc sảo.

Truyện cười được phân biệt với các thể loại truyện dân gian khác bởi yếu tố

gây cười. Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, giáo sư Đinh Gia Khánh viết:

“ Truyện cười, nói một cách đơn giản, là truyện làm cho người ta cười (...). Trong

truyện cổ tích cũng đã có nhiều yếu tố gây ra tiếng cười (...). Song tiếng cười ở đây

chỉ có vai trò điểm xuyết, làm cho truyện thêm duyên dáng, đậm đà mà thôi chứ

không chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển của truyện. Giữa truyện ngụ ngôn và

truyện cười thì có sự thâm nhập sâu hơn. Một số truyện vừa có thể coi là truyện ngụ

ngôn mà lại vừa có thể coi là truyện cười (...). Tuy nhiên, truyện ngụ ngôn không

nhằm mục đích gây ra tiếng cười. Truyện cười trái lại bao giờ cũng nhằm mục đích

ấy. Đằng sau mục đích gây ra tiếng cười có thể còn mục đích khác sâu sắc hơn.

Nhưng trước hết phải đạt mục đích gây cười đã”. [12, tr.362]

Về khái niệm truyện cười, các nhà nghiên cứu văn học trong và ngoài nước

có những ý kiến khá thống nhất. Về cơ bản, truyện cười là những truyện kể dân gian

xây dựng và phát hiện tình huống xung quanh các hiện tượng trái lẽ thường, trái tự

nhiên được che đậy bằng một hình thức tốt đẹp giả tạo để tạo nên tiếng cười cho

người nghe.

Như vậy, truyện cười là hình thức tự sự dân gian dựa trên cơ sở cái đáng cười

để tạo ra cái cười có mục đích nhất định, gắn với nội dung xã hội và nhận thức của

con người. Tiếng cười trong truyện cười bật ra khi chúng ta phát hiện ra cái đáng

cười, hay nhận thức được bản chất của tình huống gây cười.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 39

Các truyện cười dân gian Thái chứng tỏ người Thái là một dân tộc lạc quan, dù

trong cuộc sống còn nhiều vất vả khó khăn nhưng thường nhìn đời bằng con mắt,

bằng tâm trạng vui vẻ. Đồng thời người Thái Mai Châu cũng biết nhìn vào những

khiếm khuyết của mình để châm biếm, nhằm mục đích điều chỉnh mình, làm cho

mình ngày càng hoàn thiện hơn.

2.3.1. Phân loại truyện cười của dân tộc Thái ở Mai Châu

Trong truyện cười dân gian dân tộc Thái có nhiều truyện nằm ở ranh giới giao

thoa với các thể loại hoặc tiểu loại văn học dân gian khác. Trường hợp giao thoa với

tiểu loại cổ tích sinh hoạt như loạt truyện về nhân vật ngốc nghếch Bố Cù, hoặc

truyện “Ma cà rồng”; giao thoa với tiểu loại cổ tích loài vật với truyện “Khỉ và Hổ”...

Tuy nhiên, nếu căn cứ vào đặc điểm thi pháp thì về cơ bản có thể chia thành hai loại:

2.3.1.1. Truyện cười không kết chuỗi

Tiểu loại này gồm những truyện cười có kết cấu độc lập, khép kín và hoàn

chỉnh. Mỗi truyện kể về những nhân vật, những tình huống khác nhau.

Điển hình cho tiểu loại này có các truyện “Cài lẫy bậy sập”, “Thịt ướp chua”,

“Hôm nay tôi ăn gì”, “ Thổi mắt dê”...

2.3.1.2. Truyện cười kết chuỗi

Tiểu loại này là những câu chuyện xoay quanh nhân vật Xự Phong, một nhân

vật nghèo khổ, phải đi ở cho nhà giàu. Mỗi chuyện xung quanh nhân vật này có tính

độc lập tương đối, đồng thời kết cấu của chúng lại tương đối mở để có thể tạo ra mối

liên hệ với những mẩu chuyện khác trong loạt truyện Xự Phong.

2.3.2. Nội dung truyện cười dân tộc Thái Mai Châu

2.3.2.1. Đem lại tiếng cười hài hước, giúp mọi người giải trí sau những ngày lao

động mệt nhọc

Trong cuộc sống, nhu cầu giải trí của con người luôn thường trực. Vào thời mà

các phương tiện giải trí còn chưa phát triển thì cách thức đơn giản nhất là kể cho nhau

nghe về những câu chuyện, những tình huống hài hước trong cuộc sống. Vì vậy, để

giảm bớt mệt mỏi trong công việc, tránh áp lực trong cuộc sống, người dân Thái kể

lại những tình huống hài hước. Những câu chuyện không có ác ý mà tạo ra không khí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 40

vui tươi, cởi mở giữa những người dân lao động, giúp họ tìm được niềm vui và có

được những bài học góp ý nhẹ nhàng, tinh tế.

Truyện “Hôm nay tôi ăn gì?” kể về một anh chàng cố chấp. Khi một con

hoẵng chẳng biết vì lý do gì lao ngày vào chuồng gà và bị anh ta bắt được, anh đã rất

hí hửng và chắc chắn có thịt hoẵng ăn. Nhưng để thử tài ông thầy bói hàng xóm, anh

đã sang nhà ông thầy và đề nghị ông ta bói xem hôm nay anh ta sẽ ăn món gì, không

ngờ bị ông thầy phán: “ Hôm nay anh ăn “cái ấy” của vợ anh”. Tức giận, anh ta lẳng

lặng cùng vợ bắt hoẵng làm thịt, nhưng không ngờ để hoẵng vuột thoát mất; vẫn cay

cú, anh bắt gà làm thịt để mời ông thầy sang ăn, nhưng chị vợ lại lúng túng đánh đổ

cả mâm thịt khiến chó mèo xông vào cướp hết. Tiếng cười bật ra trong nhiều tình

huống truyện: tình huống vợ chồng anh lóng ngóng để hoẵng chạy mất, tình huống

anh vẩy mạnh ngón tay đập vào cầu thang, tình huống chó mèo lao vào tranh cướp

thịt gà... Nhưng tiếng cười lớn nhất, mang tính chất tổng hợp là tiếng cười công nhận

ông thầy bói nói đúng: dù rất cố gắng, nhưng hôm ấy anh chẳng được ăn gì, chỉ được

một cái mút tay.

Tiểu loại truyện cười hài hước của dân tộc Thái ở Mai Châu hoàn toàn chỉ có

chức năng giải trí, gây cười nhằm mục đích mua vui, đơn giản là chỉ để giải trí chứ

không tố cáo một cái gì lạc hậu, xấu xa, phản động… Người ta cười cho vui cửa, vui

nhà, vui anh, vui em. Nó được kể ra như nhằm thể dục trí tuệ. Nó vui tươi, nhẹ nhàng,

có khả năng giáo dục những tình cảm trong sáng, tốt lành, bồi dưỡng tinh thần sảng

khoái, mang lại cho con người niềm lạc quan, yêu đời. Truyện “Thổi mắt dê” - một

truyện rất giống truyện cười “Vừa buồn cười vừa sợ” của dân tộc Kinh - là một

truyện như vậy. Ông bà nọ có cô con gái rất xinh đến tuổi lấy chồng. Ông bà chẳng

đòi hỏi chàng rể tương lai phải giàu có, phải địa vị… mà chỉ yêu cầu họ làm cho ông

bà một phen vừa tức vừa buồn cười thì sẽ gả con gái cho. Một chàng trai trẻ láu lỉnh

đã thiết kế cho họ một đêm kinh hoàng: cô con gái thì tưởng mình đẻ con, bà mẹ thì

ngồi phải sừng dê, ông bố thì tự mình đập tan rổ bát và ngã cầu thang tưởng thọt cả

dái lên cổ… Sáng ra, khi nhận ra tình huống buồn cười mà cả nhà vừa trải qua, ông

bảo bà “ Thôi mình gả con gái cho nó, bà ạ”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 41

Về những tình huống hiểu nhầm trong cuộc sống, người đọc sẽ thực sự thích

thú với những tình huống trong truyện “Cài lẫy bẫy sập”. Người Thái có tục ở rể, khi

trai gái tìm hiểu nhau đã chín, người con trai sẽ đến ở rể ở nhà cô gái vài ba năm.

Trong thời gian này, bố mẹ cô gái sẽ thông qua công việc để xem anh ta là người như

thế nào, chăm chỉ hay lười biếng, giỏi giang hay vụng về, có biết ứng xử hay

không… Trong truyện “Cài lẫy bẫy sập”, chàng trai Thái được bố đưa vào rừng để

cài lẫy cho các bẫy sập ông đã đặt trước đó, vấn đề là anh chưa biết cài bẫy, khi anh

hỏi bố là cài như thế nào thì bà mẹ lại trả lời tranh “Bố làm như thế nào thì con cứ

làm như thế”. Mọi rắc rối xuất phát từ việc chàng trai sợ mẹ vợ quá nên chấp hành

tuyệt đối câu nói của bà: thấy bố vợ yêu cầu được thổi mắt (do bùn bắn vào) anh cũng

đòi được thổi mắt, cành tre ngoắc mất cái khăn đội đầu của bố vợ, anh cũng tháo

khăn đội đầu của mình ngoắc vào cành tre. Cao trào là tình huống bố vợ vì tức giận

mẹ vợ (do câu bà dặn đã gây ra nhiều rắc rối) nên đã đá bà ngã nhào xuống cầu thang.

Chàng trai thấy mẹ vợ bị ngã đau như thế nên vội vàng chạy đến, dìu bà lên nhà.

Người đọc tưởng câu chuyện kết thúc ở sự hiếu thảo này của chàng rể; nhưng không,

tiếng cười thực sự sảng khoái, tiếng cười lớn còn giấu ở cuối chuyện: chàng rể vẫn

tuyệt đối “thấy bố làm gì thì làm như thế”, vì vậy khi vừa đưa mẹ vợ lên trên nhà, anh

lại đá mạnh khiến bà lộn cổ xuống cầu thang một lần nữa.

Tóm lại, những truyện hài hước của dân tộc Thái kể về những tình huống buồn

cười do chẳng may, do hiểu lầm, do hớ hênh… mà thường tình, ai cũng có thể mắc

phải hoặc do những nhược điểm, những khuyết tật không gây tổn hại đến ai. Đó là

những truyện có tính giải trí cao, các nhược điểm của nhân vật là thông thường hoặc

vô tình, có thể thông cảm và châm chước dễ dàng; đồng thời sự giáo dục trong những

truyện này cũng nhẹ nhàng, tạo nên không khí vui tươi, hồn nhiên, sảng khoái cho

người nghe.

2.3.2.2. Châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội

Trong tiểu loại truyện cười châm biếm, đả kích, truyện cười dân gian Thái Mai

Châu có thể được chia thành hai loại nhỏ:

- Truyện cười những thói xấu “thông thường” ở những người bình dân bộc lộ

ở những hành vi buồn cười trong sinh hoạt của họ: Loại truyện này kể về những nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 42

vật không có tên riêng, cũng ít khi có thành phần, địa vị xã hội cụ thể, mà chỉ được

định danh bằng những khuyết tật, nhược điểm hay tính cách đáng cười. Đó là tiếng

cười giáo dục hướng vào những thói hư tật xấu trong sinh hoạt thường ngày của nhân

dân như lười nhác, tham lam, ăn vụng… Điển hình cho loại truyện cười này có truyện

“Ma nhà đuổi ông mo”. Truyện kể về anh con rể lười biếng mà lại tham ăn. Khi bố vợ

nhìn thấy con diều hâu liền bảo anh về lấy súng để bắn, do lười nên anh ta gàn “Bắn

cũng không trúng đâu”, bố vợ bực mình tự mình về lấy súng bắn chết con diều hâu

rồi anh ta đi nhặt, anh ta lại không đi với lí do “Con không ăn thịt diều hâu”. Bố vợ

đành phải tự đi nhặt diều hâu về làm thịt, nấu lên rồi để dành đến mai mới ăn. Nửa

đêm anh chàng thèm quá, nghĩ đến nồi thịt diều hâu mà không thể ngủ được, anh ta

liền trở dậy mò vào bếp ăn vụng. Thịt diều hâu ngon đến mức ăn hết cả nồi mà vẫn

thèm, anh ta liền chui cả đầu vào nồi mà liếm. Vấn đề là lúc chui vào thì được, nhưng

lúc rút đầu ra thì mắc. Loay hoay đến gần sáng mà vẫn không thể rút đầu ra được, anh

ta đành chui vào trốn sau bàn thờ. Lúc thầy mo đến cúng cơm mới nhìn thấy cái đầu

tròn vo và đen xì thì hét lên “Ma” rồi bỏ chạy thì anh chàng cũng chạy, cái nồi đất va

vào cột vỡ tan…

Tuy không gay gắt và quyết liệt như tiếng cười châm biếm, đả kích dành cho

giai cấp thống trị nhưng xét về tác dụng và sức sống thì bộ phận truyện cười mang

tính phê bình nội bộ này cũng rất quan trọng. Nó giúp mỗi người tự nhận thức và điều

chỉnh những suy nghĩ, lời nói, hành động của mình cho phù hợp, được cộng đồng

chấp nhận. Truyện “Thịt ướp chua” cũng phê phán thói ăn vụng của một anh con rể.

Mặc dù rất muốn ăn thịt chua nhưng anh ta lại khách khí xác nhận là không ăn được

thịt chua. Đêm đến, khi đi ăn vụng thịt, anh được người bạn chỉ cho cách quay về

đúng chỗ nằm của mình bằng cách lấy dây buộc vào chân. Nhung người bạn tai quái

đã lừa bằng cách lần sang buộc đầu dây còn lại vào chân mẹ vợ anh ta. Khi quay trở

về, anh ta chui vào nằm cạnh mẹ vợ mà lại tưởng là nằm cạnh người bạn nên còn ghé

tai khen thịt chua ngon quá. Bà mẹ vợ tỉnh dậy làm anh ta xấu hổ tháo chạy không

kịp cởi bỏ cái dây buộc ở chân, khiến mẹ vợ bị kéo kêu ầm ĩ. Kết quả là anh chàng

xấu hổ không dám quay trở lại nhà vợ nữa.

- Truyện cười châm biếm, đả kích những thói xấu thuộc về bản chất, bộc lộ

chủ yếu trong những hành vi buồn cười của các nhân vật tiêu biểu của xã hội phong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 43

kiến như quan lại, địa chủ: Ở loại truyện cười này, các tác giả dân gian Thái không

những đem lại tiếng cười mà còn tác động vào nhận thức, vào tình cảm của chúng ta,

làm cho ta có thể vui, có thể buồn, có thể phẫn nộ, căm ghét, khinh bỉ, đau xót...

thông qua những tình tiết của loạt chuyện kể về hai nhân vật Án Nhà và Xự Phong.

Trong xã hội phong kiến của người Thái xưa, Án Nhà vốn là một chức quan

lại bậc trung (dưới chức tạo mường). Còn Xự Phong thì tương truyền là người dân

thường ở Mường Mộc (Mộc Châu ngày nay). Án Nhà mường Mộc cho theo hầu

người con gái đi lấy Án Nhà mường Pa (một vùng của huyện Mai Châu ngày nay).

Lúc đầu Xự Phong rất ngoan ngoãn, được Án Nhà mường Pa tin cậy.

Một lần Án Nhà mường Pa bảo Xự Phong nếu lấy được thanh kiếm chuôi ngà

voi của Án Nhà Mường Mộc cho ông ta thì nhỡ có tội ông ta cũng tha, bị bắt vạ ông

ta cũng không phạt. Xự Phong đã dùng mưu mẹo lấy được thanh kiếm của Án Nhà

mường Mộc đem xuống cho Án Nhà mường Pa. Từ đó Án Nhà mường Pa phải giữ

lời cam kết không bắt tội Xự Phong. Hơn nữa, Xự Phong cũng rất lanh lợi, nhanh

nhẹn, vui vẻ, hài hước... nên dù nhiều lần xỏ xiên Án Nhà mường Pa nhưng ông ta

vẫn giữ làm hầu cận bên mình. Điều này khiến cho Xự Phong có dáng dấp như nhân

vật Trạng Quỳnh trong truyện cười của người Kinh. Và cũng như Trạng Quỳnh, lai

lịch của Xự Phong cũng chỉ là tương truyền, đồn đại trong dân gian chứ không phải là

lai lịch chính thống.

Lẽ ra quan hệ giữa Án Nhà và Xự Phong đã hết sức tốt đẹp nếu Án Nhà không

càng ngày càng bộc lộ thêm những thói xấu của quan lại. Trong truyện “Mong ước”,

khi Xự Phong hỏi Án Nhà đang mong gì, ông ta đã trắng trợn đến mức hồn nhiên nói

rằng đang mong có người mắc tội để được xử phạt, lấy tiền, lấy rượu thịt... Làm quan

mà lại mong dân phạm tội để được uống rượu. Ý nghĩ này của Án Nhà khiến Xự

Phong rất tức giận, vì vậy khi Án Nhà hỏi Xự Phong mong gì thì anh ta trả lời là

mong cho Án Nhà chết đi, chết ngay bây giờ. Mong ước của Xự Phong - người đại

diện cho nhân dân lao động nghèo khổ, vất vả - có lẽ là chính đáng trước một viên

quan có tư tưởng cai trị như Án Nhà.

Xự Phong cũng đã dành cho những kẻ tham tiền một bài học thích đáng.

Truyện “Nhà tôi mua tôi đốt” kể về việc Xự Phong đã dạy một viên Án Nhà khác như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 44

thế nào. Một lần đi cống nộp, Xự Phong cùng đoàn dân phu của mình đến một bản

khi trời đã tối, anh ta xin ở nhờ nhưng bản không cho, rồi Án Nhà của bản đó đòi bán

lại cho Xự Phong một cái nhà hoang với giá ba đồng bạc trắng. Xự Phong nhất trí

mua để giải quyết chỗ ở cho những người dân phu tá túc qua đêm. Nhưng rồi sáng

mai dậy Xự Phong tuyên bố với làng “Nhà tôi mua tôi đốt”. Những người đã từng

sống trong các bản Thái đều biết rằng người Thái sợ nhất là bị cháy nhà, những nhà

sàn Thái cao như nhà hai tầng, làm bằng những vật liệu dễ cháy, các nhà lại ở gần

nhau san sát, nên đã cháy là cháy cả làng. Vì vậy, khi Xự Phong tuyên bố “Nhà tôi

mua tôi đốt” thì Án Nhà đã hoảng sợ xin trả lại tiền, đồng thời nhận được một bài học

đích đáng về thái độ đối xử với khách và thói tham lam.

Như vậy, truyện cười châm biếm, đả kích của người Thái Mai Châu có đối

tượng chủ yếu là tầng lớp quan lại, những người vốn được xã hội trọng vọng và vốn

tự coi mình là tầng lớp trên uy nghi, đạo mạo. Đó là những kẻ luôn sử dụng quyền lực

để áp chế nhân dân nhưng bản thân thì chứa đựng đầy rẫy những điều tầm thường,

xấu xa. Các hình thức văn chương chính thống khác có thể phải kiêng dè, tránh đả

động đến chúng nhưng truyện cười châm biếm, đả kích dân gian dân tộc Thái đã coi

tầng lớp quan lại là những mục tiêu để đấu tranh, để phê phán, để bóc trần những thói

hư tật xấu của chúng, để biến chúng thành những trò cười.

2.3.3. Nghệ thuật truyện cười dân tộc Thái Mai Châu

2.3.3.1. Kết cấu

Truyện cười dân gian Thái không kể lại số phận, cuộc đời của nhân vật như

trong truyện cổ tích. Nó chỉ là một lát cắt ngang trong cuộc đời của nhân vật, trong đó

dứt khoát phải có một hoặc những tình huống gây cười. Các câu chuyện đã làm cho

cái đáng cười tự nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sinh động; thường là rất tự nhiên và bất

ngờ. Khi tiếng cười nổ ra là lúc chuyện kết thúc.

Các truyện cười dân gian Thái thường được cấu tạo hết sức chặt chẽ và giàu

kịch tính. Mỗi câu chuyện có dáng dấp như một màn hài kịch nhỏ gồm ba phần: Giới

thiệu màn kịch có mâu thuẫn tiềm tàng, mâu thuẫn tiềm tàng phát triển tới đỉnh điểm

và giải quyết mâu thuẫn.

Hầu hết các truyện cười dân gian Thái đều có dạng kết cấu này. Truyện “Thổi

mắt dê” chứa mâu thuẫn tiềm tàng trong giao ước kỳ quặc của bố mẹ cô gái: chỉ cần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 45

chàng trai nào làm cho ông bà vừa tức vừa buồn cười là họ sẽ gả cô con gái xinh đẹp

cho; mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm khi cả nhà ông bà bị đưa vào những tình

huống kinh hoàng; và cuối cùng là việc giải quyết mâu thuẫn với cái chép miệng của

ông “Xem ra ta phải gả con gái cho nó thôi bà ạ”. Truyện “Thịt ướp chua” chứa mâu

thuẫn tiềm tàng giữa ước muốn được ăn thịt chua với tính sĩ diện của chàng trai; mâu

thuẫn lên đến đỉnh điểm trong tình huống con rể chạy quáng quàng lôi theo cả mẹ vợ

bằng cái dây buộc ở chân hai người; mâu thuẫn được giải quyết bằng việc chàng trai

chẳng bao giờ dám đến nhà mẹ vợ nữa. Truyện “Bắt cua” có mâu thuẫn chứa đựng

trong việc lúc nào Xự Phong cũng mong muốn chơi xỏ Án Nhà; đỉnh điểm là Xự

Phong đốt mông Án Nhà; mâu thuẫn được giải quyết với việc Án Nhà rút được tay ra,

nhưng tay thì sưng vù vì bị cua cắp, còn mông thì bỏng rát vì bị Xự Phong đốt…

2.3.3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

* Nhân vật được đặt vào trong tình huống gây cười

Nhân vật trong cả truyện hài hước và nhân vật của truyện châm biếm dân gian

Thái đều được đặt vào cùng một loại hoàn cảnh - đó là hoàn cảnh sinh hoạt đời

thường, nhưng là hoàn cảnh đáng cười. Đó là loại hoàn cảnh chứa mâu thuẫn, là môi

trường để nuôi dưỡng và làm bật lên tiếng cười.

Ở nhiều truyện cười, hoàn cảnh đáng cười được giới thiệu vắn tắt ngay ở đầu

truyện. Đó là hoàn cảnh ẩn chứa mâu thuẫn, là nguyên nhân dẫn nhân vật đến với tình

huống đáng cười trong truyện. Truyện “Mong ước” là một ví dụ: Án Nhà hỏi Xự

Phong về mơ ước hiện tại của bản thân, Xự Phong nói rằng chỉ mong Án Nhà chết

ngay đi. Hoàn cảnh này ẩn chứa một mâu thuẫn: hai người đang ngồi nói chuyện thân

mật, thế mà một người lại mong người kia chết đi. Nghịch lí này dẫn người nghe tới

sự ngạc nhiên hết mức vì chẳng bao giờ người Việt lại có cách xử sự như vậy. Vì thế

họ có một suy nghĩ rằng tất yếu sẽ có trò cười thú vị nếu để tâm theo dõi diễn biến

tiếp theo của câu chuyện.

Thường thì truyện cười dân gian Thái có hoàn cảnh đáng cười nằm trong chính

là tình huống đáng cười. Truyện “Nhớ Án Nhà” cũng được xây dựng trong bối cảnh

Án Nhà và Xự Phong ngồi tâm sự với nhau, Án Nhà hỏi “Tao mà có đi đâu xa nhà thì

mày có nhớ tao không?”, Xự Phong khẳng định là sẽ nhớ lắm, Án Nhà hỏi tiếp “Nhớ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 46

tao đến mức nào ?”, Xự Phong độp luôn “Dạ! Con nhớ Án Nhà còn hơn muốn đi đại

tiện ạ!”. Tình huống đáng cười đã xuất hiện, nhưng chưa thực sự dồn nén, tiếng cười

đã bật ra nhưng chưa thực sự lớn trước câu trả lời dở đùa dở thật của nhân vật Xự

Phong ranh mãnh. Do vậy, khi theo dõi tiếp chuyện, người ta mới bật tung tiếng cười

sảng khoái khi anh chàng Xự Phong láu lỉnh chứng minh cho Án Nhà thấy nhu cầu đi

đại tiện nó lớn lao và cấp thiết như thế nào.

* Lời nói, cử chỉ và hành động đáng cười

Lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật trong truyện cười dân gian Thái ở

điểm mở nút thường có tính chất kỳ quặc, trái tự nhiên nhưng lại được cắt nghĩa bằng

một lý lẽ có vẻ phù hợp.

Một số truyện cười đã lấy một lời nói không hợp lẽ thường để gây cười. Ví dụ

ở truyện “Nhớ Án Nhà” thì lời nói đó là “Con nhớ Án Nhà còn hơn muốn đi đại tiện

ạ!”, ở truyện “Mong ước” là câu “…con thì con mong Án Nhà chết”, còn ở truyện

“Cái này cũng là mồm ư?” chính là khi Xự Phong chỉ vào mồm mình và đặt ra câu

hỏi “Cái này cũng là mồm ư”…

Trong truyện cười dân gian Thái cũng có những truyện lấy một cử chỉ, một tư

thế hay một hành động trái lẽ thường để gây cười. Truyện “Án Nhà cũng lặn à?” là

một ví dụ: Xự Phong đã cố tình hiểu nhầm câu dặn “đừng để gần lửa” của Án Nhà

nên treo tít ống cơm lam của Án Nhà lên cành cây, khiến cho ống cơm không thể

chín được. Hậu quả là Án Nhà đói quá, không chịu nổi nữa nên phải ăn chính ống

cơm gạo xấu của Xự Phong.

Những hành động, cử chỉ tức cười, kì quặc, trái tự nhiên… của nhân vật khiến

cho tiếng cười bật lên thật giòn giã. Những truyện như “Ma nhà dọa ông mo”, “Đẽo

cây xà dọc nhà”, “Cài lẫy bẫy sập”… đều thuộc loại truyện trong đó cái đáng cười

chủ yếu là ở cử chỉ máy móc trái với tự nhiên.

* Tính cách đáng cười

Truyện cười dân gian Thái không chỉ nêu lên những hoàn cảnh, những lời nói,

những cử chỉ của nhân vật mà có khi còn lấy một tính cách để gây cười. Đó là những

tính xấu của con người thường bộc lộ trong cuộc sống được tác giả dân gian phát hiện

ra và thể hiện dưới con mắt hài hước, hóm hỉnh nhằm mục đích phê phán. Tất nhiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 47

những tính cách đáng cười này cũng được thể hiện cụ thể bằng những lời nói và hành

động máy móc, trái tự nhiên có khả năng gây cười. Ví dụ như các truyện “Ma nhà

dọa ông mo” kể về anh chàng rể cực lười và cực tham ăn, truyện “Thịt ướp chua” kể

về anh chàng có tính sĩ diện hão, truyện “Thổi mắt dê” kể về hai người có sở thích kỳ

lạ là thích được sợ… Ở truyện cười dân gian Thái, gây cười là mục đích của mỗi bản

kể nên việc đặt nhân vật vào trong tình huống gây cười, đặc tả lời nói, hành động

thậm chí tính cách gây cười của nhân vật là yếu tố quyết định để tạo nên tiếng cười.

* Biện pháp gây cười khác

Truyện cười dân gian Thái phản ánh hiện thực bằng cách phóng đại sự thực.

Lời nói, cử chỉ, hoàn cảnh, tính cách càng trái tự nhiên, máy móc bao nhiêu, càng ngộ

nghĩnh, khác thường bao nhiêu thì tiếng cười vang lên càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Việc

phóng đại, thậm chí bịa đặt ra những cảnh thực là éo le, những nhân vật thực là ngộ

nghĩnh, không ảnh hưởng gì đến chất hiện thực của tác phẩm. Nếu như không có ai

dám cãi bố vợ theo kiểu như anh chàng lười trong truyện “Ma nhà dọa ông mo”, thì

nhất định có những kẻ vì lười biếng mà có những hành động, cử chỉ chướng tai, gai

mắt hơn cả cách cãi ngang tai ấy. Nếu như không có ai kỳ quặc như cặp bố mẹ tương

lai trong “Thổi mắt dê” thì nhất định trên thực tế còn có những người kỳ quặc hơn.

Cho nên, xét đến cùng, nếu như cái sự việc cụ thể ở trong truyện cười không

có thực, thì cái bản chất của vấn đề lại rất thực. Các tác giả dân gian Thái đã nhờ

nghệ thuật phóng đại để phản ánh hiện thực một cách nghệ thuật giống như nghệ

thuật biếm họa trong hội họa vậy.

Để gây tiếng cười thực là giòn giã, truyện cười dân gian Thái còn thường dùng

yếu tố bất ngờ. Tiếng cười được bật ra đột ngột khi người nghe khám phá ra thực chất

của một hiện tượng. Yếu tố bất ngờ thường gắn với việc đột nhiên bộc lộ mâu thuẫn ở

trong hiện tượng. Truyện “Mong ước” khiến người nghe bất ngờ khi Xự Phong nói

“chỉ mong Án Nhà chết”, nhưng tiếng cười thực sự bật ra khi Xự Phong lý giải “Án

Nhà chết mới được làm ma to, được tha hồ ăn thịt”. Tương tự, truyện “Cái này cũng

là mồm ư” khiến người ta bật cười đau đớn khi nghĩ đến việc cũng là những cái mồm,

nhưng những cái mồm của Án Nhà và quan khách thì no nê bóng nhẫy, còn mồm của

người hầu Xự Phong thì đói khát thèm thuồng… Dù bố cục theo cách nào thì truyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 48

cười dân gian Thái cũng thường nhằm đạt được kịch tính cao nhất. Vì thế, để gây ra

tiếng cười giòn giã, truyện cười phải tập trung vào những yếu tố gây cười, vào những

nét phóng đại, những yếu tố bất ngờ, kịch tính.

Ngoài ra, truyện cười dân gian dân tộc Thái Mai Châu còn sử dụng yếu tố tục

như một biện pháp gây cười. Yếu tố tục trong truyện cười dân gian Thái mang tính

chất giải trí cao, giải tỏa những quy phạm, những gò bó trong cuộc sống để hướng tới

tiếng cười một cách tự nhiên, thoải mái nhất.

* Tiểu kết:

Truyền thuyết, cổ tích và truyện cười dân gian đã phản ánh đời sống phong

phú nhiều mặt của dân tộc Thái Mai Châu. Thông qua việc kể lại những câu chuyện

gắn liền với các miền đất và con người Mai Châu, các truyền thuyết ca ngơ ̣i ý chí, nghị lực và trí tuê ̣; đồng thời thể hiện lòng biết ơn củ a dân tô ̣c Thái đối với những

người đi lập đất, khai khẩn, phát triển địa bàn để xây dựng mô ̣t vù ng quê hương rộng

lớn, trù phú và thi ̣nh vươ ̣ng; nó tạo ra sự sinh động và tô đậm thêm truyền thống yêu

quê hương đất nước, truyền thống đoàn kết gắn bó, truyền thống kiên quyết chiến đấu

và chiến thắng giặc của dân tộc Thái nói riêng và của người dân Việt nói chung. Cổ

tích Thái thì thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, không có áp bức, bóc lột; ca

ngợi tập thể những người lao động giỏi, chiến đấu giỏi, dám đấu tranh và chiến thắng

các thế lực tự nhiên và xã hội để mang lại cuộc sống yên lành, hạnh phúc cho nhân

dân. Thể loại truyện cười đã đem lại tiếng cười mua vui cho thiên hạ để cho họ giải

tỏa những mệt nhọc, vất vả sau một ngày lao động và phê phán, châm biếm, mỉa mai

các thói hư tật xấu của con người. Tóm lại, các thể loại ruyền thuyết, cổ tích và

truyện cười dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu đã làm sáng tỏ thêm sự vận động của

các yếu tố đã tạo nên văn hóa Thái hồn nhiên, lành mạnh, giàu lòng nhân ái của

những người dân Thái luôn gắn bó chặt chẽ với cộng đồng bản mường, làng xóm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 49

Chương 3

KHẮP VÀ TỤC NGỮ DÂN TỘC THÁI Ở MAI CHÂU

3.1. Khắp

Khắp (hát, hò, ngâm thơ) Thái ở Mai Châu - Hòa Bình có vần điệu như thơ

nhưng có tính nhạc điệu và tiết tấu rất cao. Khắp có một vai trò quan trọng và có khả

năng tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của người dân Thái:

“Hát vào núi đá hoá thành vôi trắng

Hát vào suối cạn, dâng thành sông Đà

Hát cùng chài gấp nên tấm lụa

Hát cùng rau non, lớn vụt thành sen

Hát cùng chồng, người bỏ vợ quên tình

Hát cùng đầu bạc, xanh lại thời tuổi trẻ”

(Khắp Thái)

Khắp Thái ở Mai Châu đang tồn tại hai dạng chính là “khắp bắc” (hát sáng tác

mới) và “khắp quăm pang chạu” (hát lời truyền thống). Ở đây chúng ta chỉ bàn tới

khắp truyền thống, sau đây xin được gọi tắt là khắp.

Khắp là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác, được lưu truyền từ thế

hệ này sang thế hệ khác. Khắp Thái có ba yếu tố cơ bản: phần lời (ngôn từ văn học),

phần nhạc (âm điệu, nhịp điệu, trường độ, cao độ, tiết tấu…) và đặc điểm diễn xướng

(xét về quy mô thì có khắp cuộc, khắp lẻ; xét về ý nghĩa và hình thức thì có khắp báo

sao, khắp hạn khuống, khắp xe, khắp pan làu pan chàu…). Như vậy, xét về bản chất,

khắp chính là dân ca của dân tộc Thái. Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam

do giáo sư Đinh Gia Khánh chủ biên cũng xếp khắp Thái vào nội dung dân ca của các

dân tộc thiểu số. Với những nét đặc sắc, độc đáo trong kết cấu ngôn ngữ, trong cách

sử dụng hình tượng, trong nhạc điệu… khắp Thái mang đậm dấu ấn của phong cách,

màu sắc đa dạng của văn hóa Thái.

Khắp là sản phẩm sáng tạo của tập thể nhưng sự hình thành và phát triển của

nó ghi dấu ấn vai trò của các cá nhân khá rõ. Bên cạnh những sáng tạo tập thể nảy

sinh trong quá trình lao động, những sáng tạo của cá nhân nếu đáp ứng được nhu

cầu của cộng đồng và được cộng đồng sử dụng trong các sinh hoạt tập thể thì nó đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 50

được công nhận là tài sản chung và mặc nhiên được tiếp nhận như một sản phẩm

của tập thể.

Khắp hình thành và phát triển từ thực tế cuộc sống và chủ yếu được lưu giữ

bằng hình thức truyền miệng. Khắp mang những tư tưởng triết học, phản ánh nhân

sinh quan, thế giới quan cùng những tâm tư tình cảm, khát vọng vươn tới một cuộc

sống ấm no, hạnh phúc của người dân Thái. Khắp gắn bó mật thiết với sinh hoạt xã

hội (như lao động sản xuất, giao duyên, phong tục - nghi lễ, sinh hoạt thường ngày...)

của dân tộc Thái ở Mai Châu với những nét đặc sắc trong lời ca, trong cách sử dụng

hình tượng, trong nhạc điệu, trong vũ điệu… Khắp mang đậm dấu ấn phong cách văn

hóa của dân tộc Thái.

3.1.1. Phân loại khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu

Khắp Thái Mai Châu phong phú về loại. Mỗi loại có cách diễn xướng riêng.

Mo Thái cũng được gọi là khắp. Mo thường là các bài hát dài, có giá trị cao

trong việc phản ánh lịch sử hình thành vũ trụ, phát triển dân tộc, quan niệm về thế

thái nhân tình. Điển hình là các bài mo - sử thi – thần thoại “Ẳm ệt luông” (Sinh ra

cái lớn), “Ẳm ệt nọi” (Sinh ra cái nhỏ), “Tày ẳm óc” (Người Thái sinh ra như thế

nào)... Mo “Mời” thể hiện tâm tư của người sống đối với người chết và những lời dặn

dò chan chứa tình cảm của người chết với người sống.

“Khắp bán phăng, bán ngà” (Hát gieo kê, gieo vừng) được thể hiện lúc lao

động trên nương rẫy.

Xắng là loại khắp giàu chất trữ tình, nó thường thể hiện sự tiếc nuối, nhớ

nhung, day dứt về điều gì đó chưa đạt được. Mường Hịch Mai Châu có “Xắng

Mường” (Nhớ quê) đầy nhớ nhung kỷ niệm.

Xềnh và Xươn là những loại khắp vui, thường dùng để giải trí, giúp người ta

vượt qua những khó khăn, nhọc nhằn của cuộc sống.

Khắp xư (hát kể chuyện thơ), dùng để chỉ một điệu chuyên dùng để hát lên

một bài thơ, kể chuyện thơ (như Xống chụ xon xao, Nàng Nèn...).

Về cơ bản, chúng ta có thể chia khắp theo các loại sau: khắp nghi lễ, khắp lao

động - lễ tiết, khắp giao duyên, khắp sinh hoạt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 51

3.1.2. Nội dung khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu

3.1.2.1. Khắp phản ánh những nghi lễ - phong tục

Khắp nghi lễ - phong tục của dân tộc Thái Mai Châu ra đời khi con người còn

gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Khi ấy, với trình độ nhận thức của mình, người dân

tin rằng thần linh có thể giúp đỡ hoặc trừng phạt mình; do vậy, họ tìm cách giao tiếp

với thần linh để cầu xin những điều cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống

của mình. Vào khoảng tháng ba, tháng tư, nếu trời hạn hán thì người dân Thái Mai

Châu tổ chức lễ cầu mưa. Một đoàn người với ông lĩnh xướng đi đầu, người thứ hai

cầm một cái sàng và nhiều người hát phụ họa đi sau đến nhà một bà cụ cao tuổi trong

làng, họ đứng dưới sân và hát:

… “Nay xin nước mưa xuống cày ruộng mạ

Xin nước trời xuống cấy ruộng mùa

Lúa ở nương chết héo

Ốc ở đồng chết khô

Đất nẻ, gió hun

Con ruồi chết ngạt

Người già ra bến được chạy cơn mưa

Ơn được hạt mưa to bằng quả gắm

Các suối đều lũ lụt

Các hố hốc đều ngập

Các hố củ mài tràn đầy

Các gò mối trôi thành bãi bằng

Được mùa lúa tốt nặng bông”…

(Khắp cầu mưa)

Đoàn người hát đi hát lại bài khắp theo nhiều cách khác nhau, cuối cùng bà cụ

già trong nhà bước ra, mang một chậu nước lớn dội vào đoàn người và đặc biệt là vào

cái sàng gạo để tạo ra “mưa” rồi nói “Mưa to này, mưa dày này!”. Đoàn người lại vui

mừng hát vang bài cầu mưa để tạ ơn trời làm mưa. Bài khắp kết thúc bằng việc nhắc

đi nhắc lại “Ơn… ơn lắm !”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 52

Các bài khắp nghi lễ của dân tộc Thái thường thể hiện mối quan hệ giữa con

người với thiên nhiên, hoặc mối quan hệ giữa con người với con người, tức nội dung

xã hội cũng được các khắp nghi lễ đề cập tới nhiều khi khá sắc sảo, táo bạo theo kiểu

những bài vè tự sự xã hội, vượt quá khuôn khổ trang nghiêm, hư ảo của các khắp

cúng tế. Tương truyền bài khắp “Sắng Mường” của ông Phú Mường làm tạo ở

Mường Hịch. Do tranh chấp quyền làm tạo ở Mường Hịch nên ông phải đem cả gia

đình lên Mường Pao đồi Sầm Tớ thuộc nước Lào ở. Trước lúc đi, ông viết bài này để

lại, coi như một nghi lễ chào quê hương đầy xúc động:

... “Ta nghe thương quá.

Tiếng gọi hồn về nhà

Nghe ông mo gọi hồn lên Mường Trời vào hầu ông Then

Ở lại nhớ!

Mảnh đất quý, xin nhắn lại Bằng Bon trước đã.

Nơi ta luôn được cá chày to làm canh.

Sáng trưa, ta quen ăn ở bên khoang nước đó.

Tuổi già từ biệt về trời.

Ta gặp ông Then.

Để yên nằm ở Mường Trời nơi ấy.

Nhắn lại mảnh đất yêu ta chuyển đi xa.

Ghi lời này cho người sau để nhớ

Những gì yêu quý của tôi ơi!

Khe Bương Khảng ta quen chăn trâu

Ta bỏ lại gối hoa và chăn đệm

Chết lên trời chẳng còn thấy nữa đâu

Nức nở, nước mắt tràn khóc dặn.

Xin nhắn lại cỏ cây.

Quê cũ mường sau, còn gì ta chưa dặn lại.

Xin gửi lời chào nốt.

Tất cả các khoang suối, ta thường ăn cá.

Tất cả các thửa ruộng ta từng ăn gạo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 53

Cả rừng cây Tạu nhỏ, ta thường quen đến chăn trâu

Cả con đường ta thường đi thăm nhiều bạn.

Xin gửi lời chào để về sau không còn được thấy.

Chúng bạn quê cũ mường sau của tôi ơi”.

(Xắng Mường)

Bên cạnh nhóm bài lễ ca mang tính chất tự sự, có bộ phận các khắp mang tính

chất trữ tình, thể hiện tình yêu thương, nuối tiếc của gia đình người chết. Điển hình là

khắp “Tiễn đưa” của người Thái, khắp tang lễ thường được hát với giọng trầm thấp,

chầm chậm theo kiểu tỉ tê, nỉ non của những tâm tình đau buồn, chứ không hát theo

những giọng cao và nhanh như trong khắp giao duyên.

Có thể phân chia các bài khắp nghi lễ - phong tục thành các nhóm nhỏ hơn

như khắp Nông lễ, khắp Hôn lễ, khắp Tang lễ, khắp Mừng nhà mới... Ngoài ra, còn

có những bài hát trong các nghi lễ khác như: khắp cầu sức khoẻ, khắp cúng vía…

* Nhóm khắp nông lễ

- Nhóm các bàì khắp nông lễ: Phục vụ các lễ tiết trong chu kỳ sản xuất nông

nghiệp, từ phát nương, gieo vãi cấy cày, đến làm cỏ, gặt hái, mừng lúa mới....

Đối tượng chủ yếu trong khắp nghi lễ nông nghiệp của dân tộc Thái là thiên

nhiên được thần linh hoá: thần Mưa, thần Sấm, thần Sét, thần Mây… Qua cách gọi và

cầu cúng các vị thần, chúng ta thấy thiên nhiên đã được con người nhận thức theo tư

duy vừa huyền ảo vừa hiện thực. Hiện thực ở chỗ đó chính là những gì rất cụ thể của

môi trường sống: nước, mây, sấm, sét, mưa, núi non, đất đai, cây cối... Hiện thực còn

ở chỗ con người đã thể hiện rõ nhận thức của mình về quy luật phát triển của thiên

nhiên - tuy rằng nhận thức đó còn mơ hồ, thô sơ - và vận dụng hiểu biết của mình vào

thực tế sản xuất, đồng thời lại chuyển hoá nhận thức ấy vào những lời ca mang tính

tín ngưỡng. Trong phần “Mở họng trời” thuộc sử thi “Ẳm ệt luông” (Sử thi - thần

thoại “Ẳm ệt luông” của dân tộc Thái gồm ba phần chính: “Ẳm ệt luông” - Sinh ra

Cái Lớn, “Ẳm ệt nọi” - Sinh ra Cái Nhỏ và “Khay phắc phạ” - Mở họng Trời) có

những đoạn thể hiện nhận thức của người dân lao động Thái về quy luật của thời tiết,

của kiểu hình khí hậu ở địa phương:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 54

...“Tháng này là tháng giêng, tiếp là tháng hai

Tiếp nữa là tháng ba, tháng bốn

Tháng giêng hoa gạo hé nụ dùi trống

Tháng hai hoa vông hé nụ cựa gà

Tháng ba nước chảy tràn khe suối

Không có nước tràn khe để đơm đó

Tháng tư nước tràn vào khe cạn

Nhưng không nước vào khe để chặn bắt cá

Tháng ba họng trời còn kín còn tắc”...

Còn huyền ảo là ở chỗ, do trình độ còn hạn chế, chưa lý giải được nguyên

nhân của những hiện tượng thiên nhiên ấy, người dân Thái đã thần linh hoá các hiện

tượng thiên nhiên - cho rằng đó là do công của các vị thần, như thần Mây, thần Sấm,

thần Mưa... và nghĩ rằng các vị thần ấy theo dõi công việc của mình trong suốt chu kỳ

sản xuất. Từ đó, người ta luôn cầu khấn các vị thần ấy để mong có được vùng đất

màu mỡ, mùa màng tốt tươi.

... “Nàng Ặc ở Mường Bôn

Mới cho trời rung

Nàng Ắn ở Mường trời

Mới cho trời chớp

Nàng Nèn ở Mường trên

Mới cho trời gầm, sấm”…

(Mở họng trời)

Trong nghi lễ cầu cúng, con người thường đóng vai trò người cầu xin với địa

vị thấp bé, phải luôn luôn tỏ sự cung kính với các đấng siêu nhiên. Nhưng có những

trường hợp, người dân lao động Thái đã vượt khỏi thân phận nhỏ bé của mình để thể

hiện sức mạnh chế ngự thiên nhiên. Hình ảnh những người con ưu tú của dân tộc Thái

lên tận mường Trời để mở họng Bôn, để trời có thể mưa là một chi tiết huyền ảo.

Nhưng trong sự huyền ảo ấy có thể hiện khát vọng chinh phục và chiến thắng thiên

nhiên, đồng thời thể hiện ý chí, nghị lực và lòng quả cảm của những người dân lao

động Thái:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 55

... “Thủa ấy có:

Anh Làng Cặp và anh Làng Có

Lưỡi dài bằng quả núc nác

Mắt to bằng quả xổ

Nước trong vại còn trong

Trong lòng họ trí sáng

Giã gạo cho vào túi đeo lưng

Rìu lưỡi sắc đeo lên vai

Múa kiếm lên Mường Bôn sáng loáng

Múa rìu lên Mường trời cao xa

Đến tận gốc cây si Mường trời

Xem tận gốc cây đa Mường Bôn

Tay che mắt trái để ngắm

Nheo mắt phải để xem

Rễ cây si cuốn tắc họng trời

Rễ cây đa làm tắc họng Bôn

Rễ cây si cuốn tắc họng không có lối trời sấm

Rễ cây đa cuốn tắc họng không có đường cho trời gầm

Trời không sấm, không sét

Không có mưa có lũ

Ba mươi chiếc rìu Thái họ chém

Ba mươi chiếc rìu Xá họ chặt

Cắt rễ cây si không để cuốn họng trời

Chặt rễ cây đa không để tắc họng Bôn”…

(Mở họng trời)

Đoạn khắp này đã phá vỡ khuôn khổ và chức năng thường lệ của khắp nghi lễ:

nó đã chuyển từ chức năng khẩn cầu sang chức năng đấu tranh và chinh phục. Trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 56

các khắp nghi lễ, nhân vật thường là các vị thần linh, nhưng trường hợp này, đó chính

là những người anh hùng đã có công đấu tranh chinh phục thiên nhiên.

… “Mưa phun đổ lá mía

Tia mưa đổ mái gianh

Mưa giây xuống nguồn sông Mã

Mưa tuôn xuống nguồn sông Đà

Hạt mưa to bằng quả gắm

Suối cạn, hố hốc tràn đầy

Các hố củ mài đều tràn nước

Các gò mối tan thành bãi bằng

Cuối đồng thành sóng trắng

Ven đồng thành sóng bạc”.

(Mở họng trời)

Trong tâm thức dân gian, những vị anh hùng ấy đứng ngang tầm các vị thần

linh và con người cũng cầu khấn các vị anh hùng của mình với lòng tôn kính và niềm

hy vọng như đối với các đấng siêu nhiên bởi vì những người anh hùng đã làm được

điều người dân lao động mong muốn.

* Nhóm khắp hôn lễ

Khắp hôn lễ là loại khắp phục vụ trong hôn lễ của đồng bào dân tộc người

Thái. Trong đám cưới Thái xưa, người ta có thể khắp với nhau kéo dài hết ngày này

qua ngày khác, thâu đêm suốt sáng, có khi đến ba bốn ngày. Cả người hát và người

nghe đều say sưa tán thưởng. Trong các cuộc hát như vậy, người ta thường không

quan tâm đến bữa tiệc có những gì, mà chủ yếu là bàn luận về những làn điệu khắp

của người nọ, người kia.

... “Lời đẹp anh thưa với mẹ cha

Trong nhà nghe nói ai cũng vui cười

Bảo nhau lo liệu

Tìm quà cáp để đi thăm

Mang trầu cau đến dạm ngõ

Sắm quà đủ lệ, nhờ người khéo nói

Ông mối lo nhận đi trước

Sắp cho trai trẻ gánh theo sau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 57

Đi đến nhà em yêu

Anh em, cha mẹ em thương

Lời chào hai bên thăm hỏi”...

(Nàng Nèn)

Qua các bài khắp hôn lễ ta thấy được những nét tốt đẹp trong phong tục cổ

truyền của đồng bào dân tộc Thái: sự hiếu khách, lòng biết ơn của con cái đối với bố

mẹ ... và nói chung là tri thức văn hóa phong phú của người dân Thái. Đây là những

lời lẽ trong một lễ hỏi vợ cho người con trai:

.. “Ông bà thương cho lấy

Bố mẹ thương cho không

Để lúc sớm có người nhóm lửa

Để lúc khuya có người căng màn

Để có cháu con nối nghiệp cha ông thủa trước”.

(Hỏi vợ)

Ngay cả khi nhà trai bị từ chối, không hỏi được vợ cho con cháu mình thì

những lời khắp vẫn không tỏ ra giận dữ, tức tối mà hết sức đúng mực, khiêm nhường.

Đó là cách cư xử có văn hóa của người dân Thái thể hiện trong khắp hôn lễ:

… “Nhà tôi sinh con trai

Thấy bông hoa trên cao muốn hái

Tiếc công tôi lội sông, lội suối đến hỏi thăm

Hỏi thăm đũa trên mâm còn đủ

Nhưng con tôi lấy con ông không nên nhà

Lấy con ông không nên cửa”…

(Khắp trong đám cưới)

* Nhóm khắp tang lễ

Khắp tang lễ là loại khắp phục vụ trong tang lễ của đồng bào các dân tộc thiểu

số, bên cạnh việc bày tỏ tình cảm thương tiếc người đã mất, thường thể hiện những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 58

quan niệm của con người về sự hình thành thế giới, về sự ra đời của con người và các

kỳ tích chinh phục thiên nhiên của con người trong buổi đầu của lịch sử. Các bài mo

“Ẳm ệt luông”, “Ẳm ệt nọi” của người Thái không làm chức năng khẩn cầu như

những bài hát nghi lễ nông nghiệp mà là những bài lễ ca thật sự thuộc về tôn giáo và

tín ngưỡng dân gian, có chức năng tiễn hồn người chết về thế giới bên kia:

… “ Cái gì có trước trời ?

Cái gì có trước đất ?

Tạo Ính, nàng On có trước trời

Tạo Ính, nàng On nở trước đất

Tình tự với nhau mới thành trời

Ăn nằm với nhau mới thành mây, thành gió”…

(Ẳm ệt luông)

Khắp tang lễ của dân tộc Thái là rất phổ biến nhưng tuỳ chức năng cụ thể, tuỳ

hoàn cảnh sáng tác và diễn xướng mà các bài khắp ấy có nhưng đặc điểm về nội dung

và nghệ thuật khác nhau, có thể chia ra làm hai nhóm. Nhóm khắp nặng về tính chất

tự sự, gắn với các nghi lễ và phong tục, bắt nguồn từ tín ngưỡng về các vị thần, về

quan niệm vạn vật hữu linh. Nhóm khắp nặng về tính chất trữ tình, trong đó người

thân trực tiếp khóc người chết, bộc lộ tình cảm riêng tư của họ.

* Nhóm khắp chúc mừng

Khắp chúc mừng của người Thái thuộc nhóm khắp nghi lễ - phong tục nhưng

có chức năng cầu chúc, chào mừng, thường mang phong cách ngợi ca, chứa đựng

nhiều nét lạc quan, vui tươi:

... “Nghe nói ông sắp làm nhà

Ba mươi cột gỗ lý không lấy

Bốn mươi cột gỗ kiêng không làm

Ông làm nhà ba mươi cột vàng nõn

Sáu mươi cột vàng luyện

Một cột dựng đầu sông Mã

Một cột dựng trước phong ba

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 59

Hai cột dựng giữa nước lớn

Dưới nước gọi Rồng đến làm

Trên bờ kêu Then xuống giúp

Khắp nơi về làm nhà cho ông

(Mừng nhà mới)

3.1.2.2. Khắp thể hiện nghị lực và niềm tự hào với những thành quả lao động

Khắp lao động là loại khắp phản ánh sinh hoạt lao động của đồng bào dân tộc

Thái, có thể gắn với lao động nhưng cũng có thể gắn với các sinh hoạt văn hoá dân

gian khác.

... “Lên giọng đi hỡi bạn tình

Cất tiếng vang như ve sầu ven suối

Hát một tí cho đỡ buồn

Hát một tí để giải phiền”

(Giao duyên)

Có thể nói, trong sản xuất nông nghiệp của nhân dân Thái có hoạt động gì, thì

trong khắp lao động có loại khắp ấy. Đó là những nhóm khắp cùng loại như: các khắp

phát nương, các khắp gieo vãi, các khắp làm cỏ, các khắp đuổi chim, các khắp giữ

rẫy, các khắp thu hoạch...

… “Tiếng chặt cây em yêu nào phát

Tiếng chặt cây to rìu ai chém

Phát rừng trồng bông hay trồng dâu tằm

Phát rừng trồng bông cho anh xin chung đồi

Phát rừng trồng dâu cho anh xin chung vườn với.

……

Anh phá hoang cho thành thửa ruộng

Dựng bản cho thành bản

Trồng cau cho thành buồng sai quả

Ươm cây mọc mầm”…

(Gieo vừng, gieo kê)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 60

Những bài khắp lao động khác cũng được lưu truyền độc lập trong cuộc sống

của người Thái, chẳng hạn như điệu “Hò kéo thuyền”:

“Hai ba

Cố kéo

Kéo cho thật

Kéo đồng sức

Kéo cứng chân

Kéo cứng tay

Cầm dây

Bẩy về”.

Những bài khắp lao động thể hiện nghị lực và niềm tự hào với những thành

quả đạt được trong lao động của người dân Thái:

... “Nương em chẳng thiếu thứ nào

Dày dày bông lúa Xế bên trái

Thấp thấp bông lúa Ca, lúa Mòng bên phải.

Lúa Cẩm em gieo quanh chòi

Bãi bằng, em trồng lúa dói

Em ươm cây nào, vào đất kiệt màu cũng lên”...

(Ngợi ca nương rẫy)

Bên cạnh đó là những nội dung khắp về nông lịch - gắn với thời vụ sản xuất

nông nghiệp:

... “Tháng chín hết tháng mười đến

Tháng mười giáp tháng mười một, tháng chạp

Tháng một, tháng chạp

Không phải tháng mưa lũ

Trời không sấm tháng chạp

Trời sẽ sấm tháng giêng”

(Mở họng trời)

Dân tộc Thái còn lưu truyền những bài khắp phản ánh các sinh hoạt lao động

thủ công đã phát triển đáng kể, tiêu biểu như khắp dệt vải:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 61

… “Trồng dâu tằm, anh xin khăn lụa

Trồng bông dệt vải, anh xin khăn dài”...

(Gieo vừng, gieo kê)

Cùng với sự phát triển của cuộc sống, khắp lao động có một sự đổi thay khá

lớn về chức năng: từ những bài hát trực tiếp phục vụ lao động, chúng trở thành những

bài khắp đối đáp mà người hát dựa vào đó để gửi gắm tâm tư tình cảm của mình với

người yêu, và do vậy nó có sự giao thoa rất sâu sắc với khắp giao duyên nam nữ.

… “Nàng ở nhà chăm lấy bản

Ở bản chăm lấy vườn

Chớ để gà vào vườn bới vườn gừng tan hoang

Mùa hoa bưởi, ngắt hoa bưởi đợi mong

Mùa hoa vông, ngắt hoa vông ngồi đợi

Chờ anh ba mùa lúa nương

Chờ anh ba mùa lúa cốm

Đi nhé, người yêu bản không phai

Đi nhé, người yêu mường không mờ”.

(Gieo vừng, gieo kê)

Như vậy, khắp lao động của các dân tộc vừa trực tiếp phục vụ sinh hoạt lao

động, vừa tồn tại trong khắp nghi lễ xa xưa lại vừa hội nhập vào khắp giao duyên

nam nữ.

3.1.2.3. Khắp là lời hát giao duyên ngọt ngào, say đắm

Khắp giao duyên Thái là loại khắp được các đôi trai gái sử dụng trong thời

gian tìm hiểu, ướm hỏi, giao duyên... Trình tự các bài khắp giao duyên thường bắt

đầu bằng chào hỏi, sau đó là tìm hiểu, thề thốt, rồi cuối cùng là chia tay. Nội dung cơ

bản của khắp giao duyên là thể hiện tình yêu đôi lứa:

… “Dạo chơi ngoài chợ giải buồn

Thoảng mùi thơm man mát đâu đây

Liếc thấy em răng trắng như bạc

Nhìn thấy anh, em mỉm cười

Thấy nụ cười lòng anh cuốn hút

Lòng khắc rủ lòng, mắt gặp mắt”…

(Giao duyên)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 62

Bên cạnh đó trong khắp giao duyên còn thường lồng thêm nội dung về tình

yêu quê hương. Trong các bài khắp giao duyên có rất nhiều trường đoạn thể hiện lòng

tự hào của người dân Thái về những miền quê trù phú, đông đúc và sầm uất:

… “Hai bên đường nhà tiếp nhà thành rặng

Nhà liền nhà thành dãy

Bản tiếp bản liền nhau

Vung tay bước sau nàng Nèn phơi phới

Chân không dừng, ta bước vội

Hòa với nhiều tốp người cùng đi thành đoàn

Người cưỡi ngựa, cưỡi voi, người đi bộ

Người đi ngược, người xuôi không ngớt”.

(Nàng Nèn)

hoặc về những bản Thái đặc trưng:

… “Vào mường em có nhiều lối

Vào bản em có nhiều cổng

Cổng dành cho trai đã có nhà đi qua

Cổng dành cho khách vào thăm gái góa

Cổng dành cho trai gái đang thì vui đùa

Cổng làm bằng cây sậy dành cho người buôn bán

Cổng bằng gỗ lát sống lâu năm

Cổng bằng cây “tậu” sống lâu muôn tuổi”…

(Giao duyên)

Mỗi dân tộc có quan niệm và cách biểu hiện riêng về tình yêu đôi lứa. Cũng do

vậy, trên cái nền chung của tình yêu con người, khắp giao duyên Thái có rất nhiều

hình nhiều vẻ, phản ánh được những nét đặc trưng trong lối sống; trong cách cảm,

cách nghĩ; trong quan niệm về tình yêu… của dân tộc Thái. Chúng ta thật khó tìm

được những so sánh tương tự như thế này trong dân ca của dân tộc Kinh:

… “Lưu luyến mãi trước giờ chia tay

Khó dứt ra như gỡ vắt cắn

Khó rời ra như nghé xa mẹ”…

(Giao duyên)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 63

Người Thái có quan niệm khá hiện đại về tình yêu và hôn nhân. Các chàng trai

đến chơi nhà các cô gái đều được bố mẹ cô gái tạo điều kiện cho gần gũi để tự do tìm

hiểu nhau. Khi trai gái đã ưng nhau, hai gia đình làm một số thủ tục và gia đình nhà

cô gái cho phép chàng trai đến ở rể. Thời gian này chú rể làm việc ở nhà cô dâu và có

thể sống với nhau như vợ chồng. Nhiều đôi có con lớn mới tách ra ở riêng. Khắp giao

duyên của dân tộc Thái nảy sinh, phát triển, truyền bá trong chính đời sống thường

ngày của các đôi trai gái, giúp đôi trai gái trực tiếp trò chuyện, tìm hiểu nhau, trở

thành một phương thức tỏ tình:

… “Đến nhà em, anh bước qua muôn rễ cỏ

Đến nhà nàng dẫm lên muôn vàn rễ cây

Qua chín mươi rừng cây mới tới

Thương lắm em à

……

Nàng tắm nước sông nào mà da em trắng

Mặt em rửa nước suối nào mà hồng như tiên

Em đẹp lại khéo ăn nói

Búi tóc em đẹp như cánh nhạn

Tóc mượt, mềm như rêu

Em người đẹp, chân tay lại khéo”.

(Giao duyên)

Sinh hoạt khắp giao duyên có thể diễn ra dưới hai hình thức: tự phát và có tổ

chức. Hình thức tự phát là loại hát nhẹ nhàng, bất chợt xảy ra trong những khung

cảnh khác nhau, như hát đối đáp giữa hai bên nam nữ trên đường đi làm rẫy, hái củi

hoặc bắt cá... Những cuộc hát đó được diễn ra một cách bột phát, không định trước,

không theo định kỳ, không theo những lề luật nào cả.

… “Ở nhà thấy chán

Ở bản thấy buồn

Đi thăm thời đến hỏi

Đi tìm người yêu, thời muốn ở làm mùa

Không thành chồng thành vợ

Xin kết nghĩa anh em”

(Giao duyên)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 64

Hình thức khắp có tổ chức là loại sinh hoạt khắp được sắp đặt, bố trí trước,

theo định kỳ và theo những thủ tục khá chặt chẽ gọi là khắp hạn khuống. Khắp hạn

khuống của ngưòi Thái thường được tổ chức vào sau vụ gặt, vào ban đêm. Trên sàn

bương tre được dựng ngoài trời, mỗi hạn khuống có một người đứng đầu gọi là tổn

khuống và các thành viên khác gọi là sao lắc xáy. Nội dung cũng thường gồm khắp

chào hỏi, tìm hiểu, tỏ lòng, thề thốt, chia tay... Chặng chào - mở đầu các cuộc hát giao

duyên - thường bao gồm những lời ca sôi nổi đầy nhiệt tình. Tiếp đó, qua chặng hát

thăm dò, ướm hỏi… thì sắc thái tình cảm ngày càng diễn ra đa dạng, tinh tế:

… “Chết dưới nước bởi anh quên bơi

Ngã lăn lưng đồi bởi anh quên vịn

Nghe lời em chết ngã cành đa

Nghe lời em chết vắt cành si

……

Chết lặng trái tim, làm mùa sao được ?!”

(Gieo vừng, gieo kê)

Nhưng các sắc thái tình cảm bộc lộ đa dạng nhất và đọng lại sâu lắng nhất

trong tâm khảm những người trong cuộc là những lời hát thắm thiết trong chặng dặn

dò, chia tay, thể hiện bao nỗi nhớ nhung luyến tiếc vì phải xa nhau, trong khi những

lời trao duyên đang thì nở rộ và tình cảm đôi bên cũng đang đến độ nồng đượm.

Những lời khắp luôn toát lên một tình cảm nồng thắm với những lời dặn dò ân cần:

… “Nàng ở mường năng chăm lấy bản

Nàng ở bản năng chăm lấy vườn

Chớ để gà vào vườn bới nát vườn gừng tan hoang

Chớ để voi đến làng bới ăn gốc

Chớ để sáu mươi voi vào lục ăn dưa

Chớ để mất công ta vun trồng

Nàng dằn lòng chờ anh ba mùa lúa nương

Chờ anh qua ba mùa lúa cốm

Mùa hoa bưởi, ngắt hoa bưởi đợi mong

Mùa hoa vông, ngắt hoa vông ngồi chờ

Mùa hoa mạ, ngắt hoa mạ về ngắm”

(Giao duyên)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 65

Khắp Thái giàu chất trữ tình, mê say; lời hát cầu kỳ, trau chuốt. Tìm hiểu kỹ thì

chúng ta sẽ thấy trong đó quê hương Thái, con người Thái với những tâm tư, suy

nghĩ… đặc trưng của người dân miền núi sống gắn bó với núi rừng, nhưng cũng có

nhiều nét tương đồng với nhiều dân tộc anh em khác. Ví dụ như trong lời khắp sau đây:

… “ Em như quả cây

Chín đỏ trên nú i đá , Mắ t trông thấy, tay giơ không tớ i.

Liê ̣u tay nố i tay là m thang có tớ i được không ?

Liê ̣u cây nố i cây làm sà o có tới được không ?

Liê ̣u đợi lâu ngà y, trá i có rơi và o mình không ?” (Ngợi ca nương rẫy)

Đoạn khắp mở đầu bằng một mô típ quen thuộc trong ca dao Viê ̣t Nam: "Em

như…", mô ̣t mô típ mà vừ a nhìn thấy, ngườ i ta đã thấy hiê ̣n lên những thân phâ ̣n bi ̣ đè nén, áp bức củ a ngườ i phu ̣ nữ trong xã hô ̣i cũ:

“Em như con hạc đầu đình Muố n bay không cất nổi mình mà bay”

(Ca dao dân tộc Kinh)

Thậm chí là những thân phâ ̣n bi ̣ rẻ rúng, coi thườ ng; những thân phâ ̣n bi ̣ đối

xử tê ̣ ba ̣c:

“Em như cá i chổi đầu hè

Để ngườ i mưa gió đi về chùi chân

Chùi rồi lại quẳng ra sân

Gọi mụ hàng xóm có chân thì chùi”

Nhưng đó là trong ca dao của dân tộc Kinh. Cò n đoạn khắp chú ng ta đang xét

tớ i là củ a dân tô ̣c Thái ở Mai Châu - Hòa Bình. Cuô ̣c số ng gắ n liền vớ i nú i rừ ng củ a

dân tô ̣c Thái đã đươ ̣c phản ánh rất đâ ̣m nét trong đó:

“Em như quả cây

Chín đỏ trên nú i đá ”

Nếu không gian quen thuộc trong ca dao củ a dân tô ̣c Kinh là cây đa, giếng

nước, sân đình, cánh đồng, bờ ao... vớ i những cánh cò chao nghiêng, nhện giăng tơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 66

lướ i, cá đớp ao bèo… những khung cảnh dễ khơi dậy những cảm xúc trữ tình củ a

những ngườ i cả đờ i gắ n bó vớ i ruô ̣ng đồ ng, vớ i mái đình cây đa thì những hình ảnh

đầu tiên trong bài dân ca Thái la ̣i ta ̣o nên cảm xú c ở những ngườ i số ng gắn bó vớ i

những cánh rừ ng đa ̣i ngàn. Những cánh rừ ng mà ở đó những ngườ i con củ a dân tô ̣c

Thái từ nhỏ đã theo me ̣ lên nương, đã đươ ̣c những cây đa ̣i thu ̣ xò e tán che mát suố t

tuổ i ấu thơ. Lớ n lên chú t nữa, những câ ̣u thiếu niên Thái đươ ̣c bố cho tham gia những

cuô ̣c đi săn. Rồ i ho ̣ trưở ng thành trong lò ng đa ̣i ngàn đầy bao dung nhưng cũng đầy

thử thách. Thử thách cả trong tình yêu: em như quả cây đỏ mo ̣ng, ngo ̣t ngào mờ i chào; nhưng đó la ̣i là mờ i chào đầy thách thứ c “chín đỏ trên vách đá ”.

Ai đã từng đến với Mai Châu - Hòa Bình đều không thể quên con đèo đá nổ i

tiếng mang tên Thung Khe. Con đèo mà ngườ i ta sẽ đi trong mây trong mù a hè, cò n

mù a đông thì sương mù giăng giăng quấn quít lấy khách bô ̣ hành. Đi qua con đèo đó ,

ngẩng đầu lên sẽ là những vách đá dựng đứ ng, cao đến hàng trăm mét. Và khi ngắ m

những vách đá như vậy, ngườ i ta mớ i thảng thốt giâ ̣t mình nhớ đến thách thứ c mà

chàng trai đang vấp phải:

“Em như quả cây

Chín đỏ trên vá ch đá ” Đến đây ta la ̣i liên tưở ng đến những câu ca dao quen thuô ̣c:

Yêu nhau mấy núi cũng trèo

Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua

Tình yêu là như vâ ̣y, nó có thể khiến ngườ i ta si mê, để khiến ngườ i ta luôn

hướ ng về nhau, để rồ i quên đi mo ̣i khó khăn, để rồ i có thể vươ ̣t qua mo ̣i gian khổ để

đến vớ i nhau “thất bát cử u thâ ̣p đèo cũng qua”. Nhưng đó chỉ là đi qua đèo - mô ̣t

hành đô ̣ng rất khác so vớ i trèo lên mô ̣t vách đá dựng đứ ng. Sinh ra ở miền nú i, những

chàng trai Thái biết rất rõ về mứ c đô ̣ nguy hiểm chết ngườ i củ a những vách đá như

vâ ̣y. Nó i mô ̣t cách khác, những chàng trai trong “tam tứ nú i cũng trè o, ngũ lục sông

cũng lội, thất bá t đè o cũng qua” rất đáng khen ngơ ̣i về lò ng kiên trì vươ ̣t khó , song ho ̣ chưa đến mứ c bi ̣ thử thách đến mứ c bi ̣ đẩy đến ranh giớ i giữa sự số ng và cái chết

như những chàng trai Thái: Em đang ở đô ̣ chín, em rất đe ̣p đẽ, rất ngo ̣t ngào, nhưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 67

em đang ở trên vách đá này, anh có dám đánh cươ ̣c tính ma ̣ng củ a mình để có đươ ̣c em không?

Có thể nó i rằng: chỉ vớ i hai câu đầu hết sứ c ngắn go ̣n nhưng những từ ngữ đã

xây dựng lên hình ảnh thơ hết sức đă ̣c trưng củ a miền nú i, vớ i các hình ảnh so sánh

rất gần vớ i suy nghĩ củ a người miền nú i.

Dường như chàng trai đã rơi vào bi ki ̣ch tình yêu: để có đươ ̣c tình yêu, anh có thể phải đánh đổ i cả tính ma ̣ng củ a mình. Nhưng có vẻ như chàng trai thông minh đã phát hiện ra vẻ kiêu sa, thâ ̣m chí là kênh kiê ̣u củ a cô gái, và anh tìm mô ̣t giải pháp an

toàn hơn bằng sự thăm dò :

Liê ̣u tay nố i tay là m thang có tớ i được không ?

Cách nói củ a chàng trai lại làm ta nhớ đến mô ̣t bài ca dao hết sứ c quen thuô ̣c:

Bây giờ mận mớ i hỏi đà o

Vườ n hồng đã có ai và o hay chưa ?

Vẫn là cách nói kín đáo, ý nhi ̣ củ a ca dao, dù là ca dao củ a dân tô ̣c Kinh hay

dân tô ̣c Thái. Chỉ có điều khi cô gái Kinh đã kín đáo trả lờ i:

Mận hỏi thì đà o xin thưa Vườ n hồng có lối nhưng chưa ai và o

thì có vẻ cô gái Thái la ̣i không nhanh nhảu như thế. Cô tiếp tu ̣c im lă ̣ng, như quả chín

ở trên vách đá cao tiếp tu ̣c khiêu khích người khách ngườ i bô ̣ hành đó i khát. Như vâ ̣y

“tay nối tay” đã không thể vớ i tớ i thì cần có giải pháp hiê ̣u quả hơn. Và chàng trai đã

tìm ra giải pháp ấy:

Liê ̣u cây nố i cây là m sào có tới được không ?

Hình ảnh rất gần gũi vớ i những ngườ i miền nú i: “cây nối cây” thành chiếc sào dài là cách mà ngườ i dân miền nú i rất hay dù ng để cho ̣c, để hái quả cây. Ngôn ngữ

của bài ca rất giàu hình ảnh và sử dụng nhiều biện pháp tu từ vốn phổ biến trong ca

dao như câu hỏi tu từ, so sánh, điệp ngữ, đăng đối… đã làm tăng hiê ̣u quả thể hiê ̣n

tâm tra ̣ng củ a chàng trai: Ba câu hỏi liên tiếp kết hơ ̣p vớ i viê ̣c liên tiếp láy la ̣i mô ̣t kết

cấu “Liê ̣u tay nối tay…”, “Liê ̣u cây nối cây…”, “Liê ̣u đợi lâu ngà y…” dùng để thể

hiê ̣n những mong muố n, những ướ c mơ, những khát vo ̣ng tình yêu ngày càng tăng trong lòng chàng trai. Bên cạnh đó cách ngắ t nhi ̣p củ a lời ca không đều đă ̣n, nhi ̣p

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 68

nhàng như phần lớ n các bài ca dao củ a dân tô ̣c Kinh mà trái la ̣i, nó trú c trắc và rất

không đều. Cách ngắ t nhi ̣p ấy phù hơ ̣p vớ i lố i tư duy, vớ i khung cảnh số ng củ a những

ngườ i miền nú i; đồ ng thờ i cũng phù hơ ̣p vớ i những khó khăn, trở nga ̣i mà chàng trai

vấp phải trong tình yêu.

Chúng ta phân tích minh họa một đoạn khắp như vậy để thấy rằng khắp Thái

Mai Châu chính là bức tranh hết sức sinh động về cuộc sống sinh hoạt với những

phong tục tập quán, thế giới quan, nhân sinh quan của đồng bào Thái. Vẻ đẹp của

khắp là sự tổng hòa của vẻ đẹp ngôn ngữ, vẻ đẹp văn hóa và vẻ đẹp độc đáo của sáng

tạo nghệ thuật; là kết tinh của sự lựa chọn ngôn từ, sự chắt lọc tiếng nói chung của

cộng đồng và sự thăng hoa cảm xúc sáng tạo của người nghệ sĩ dân gian dân tộc Thái.

Đồng thời chúng ta cũng thấy rằng đồng bào dân tộc Thái Mai Châu có rất nhiều nét

tương đồng, giao thoa dân tộc Kinh trong những tâm tư, tình cảm, cách suy nghĩ và

ứ ng xử. Đó chính là cách cảm, cách nghĩ của một dân tộc trong cộng đồng năm mươi

tư dân tộc Việt.

Tóm lại, khắp giao duyên Thái nảy sinh và phát triển trong môi trường giao

duyên - có sự giao lưu giữa nam và nữ. Trong bối cảnh ấy, khắp giao duyên không

chỉ là lời tâm tình của các đôi trai gái, mà còn là lời đối thoại giữa họ về các mặt

trong đời sống xã hội. Thông qua việc giới thiệu quê hương, bản làng của mình với

bạn tình, các đôi trai gái đã vẽ nên những bức tranh sinh động về qưê hương. Thông

qua lời bộc bạch về những nỗi khổ phải trải qua, những người con trai, con gái phản

ánh thực trạng xã hội mà họ sống, trong đó không chỉ có niềm vui, mà còn có cả

những nỗi buồn, những sự bức xúc... Chính vì vậy, khắp giao duyên không chỉ mang

tính trữ tình, mà còn mang tính hiện thực, không chỉ là những lời tâm tình của các cá

nhân, mà còn chứa đựng những nội dung xã hội rộng lớn. Nội dung các bài khắp giao

duyên có thể nói về cảnh lao động sản xuất, có thể nói về thân phận khổ đau của

những con người bị ức hiếp, tước đoạt tự do, lại cũng có thể nói về nỗi khát khao của

con người về một cuộc sống tốt đẹp. Ở đây, chúng ta nhận thấy có sự tương hợp trong

nội dung phản ánh của khắp giao duyên với các thể loại truyện cổ tích của văn học

dân gian Thái: cũng phản ánh một cách sinh động và phong phú cuộc sống của con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 69

người, từ cuộc sống nội tâm tới cuộc sống xã hội, từ tình cảm yêu thương, căm giận,

tới hoạt động lao động sản xuất. Cũng giống như trong truyện cổ thần kỳ, các tác giả

khắp có cách giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội theo hướng lãng mạn, có nghĩa

là những người tốt, nghèo khổ, bị áp bức sau khi chịu đựng mọi thử thách nghiệt ngã

sẽ giành được hạnh phúc. Điều đó thể hiện nỗi khát khao của con người về một cuộc

sống tốt đẹp, thể hiện lòng tự tin của nhân dân lao động Thái vào sức mạnh của chính

mình, vào xu thế tất thắng của cái thiện.

3.1.2.4. Khắp là bức tranh sinh hoạt sinh động, tự nhiên

Khắp sinh hoạt là loại khắp nảy sinh và phát triển trong sinh hoạt hằng ngày

của người dân Thái, thể hiện những tình cảm, suy nghĩ của người hát trong mối quan

hệ trực tiếp với người đối thoại. Khắp sinh hoạt được diễn xướng một cách thoải mái,

tự nhiên, không gò bó theo khuôn khổ, nghi lễ nào. Đó có thể là lời hát ru của mẹ, của

chị với con, với em. Đó có thể là lời hát đối đáp của các chàng trai và cô gái. Đó còn

là lời hát tinh nghịch của trẻ em khi vui chơi với nhau. Với đặc tính trực tiếp và

không gò bó theo khuôn khổ, loại khắp sinh hoạt có khả năng giúp con ngưòi bộc lộ

một cách thẳng thắn, mạnh mẽ tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mình. Bởi vậy, khắp

sinh hoạt thể hiện chất trữ tình một cách rõ ràng, tác động trực tiếp và dễ gây ấn

tượng sâu sắc cho người nghe. Nhóm khắp sinh hoạt có thể được chia thành những

tiểu loại nhỏ hơn sau đây.

* Nhóm khắp ru trẻ

Hát ru là loại khắp dùng để ru trẻ nhỏ. Những bài hát ru truyền cho trẻ nhỏ tình

cảm thắm thiết của người lớn với trẻ em qua khúc hát êm ái, ngọt ngào. Lời hát ru có

cấu trúc phù hợp với suy nghĩ của trẻ em và tuân theo những nhịp điệu nhất định. Nội

dung các bài hát ru cũng phản ánh khá chân thực cuộc sống đương thời, theo nhiều

cách biểu hiện sinh động:

… “À ơi, ngủ đi con, ngủ đi chớ!

Ngủ cho mẹ đi nương chân núi đá,

Ngủ cho mẹ đi ruộng cạnh bản.

Mẹ đi nương, lấy trứng về nuôi con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 70

Mẹ đi ruộng, lấy cá về con ăn

Mẹ đi lấy quả sổ về cho con.

Ngủ đi con ơi!”…

Mỗi câu trong khắp ru con đều chứa đựng tình cảm đong đầy của người mẹ dành

cho đứa con, giai điệu và ca từ dịu dàng, cùng tiếng đưa nôi đều đều khiến cuộc sống

như tĩnh lặng. Nội dung mỗi bài hát đề cập đến đều rất thực tế, gần gũi với cuộc sống

thường ngày nhưng thể hiện tình yêu và sự bao dung của người mẹ hết lòng vì con.

“À ơi….

Ngủ đi, ngủ đi nhé

Con út mẹ ngủ nôi có tua đỏ, dây xanh

Con trai mẹ ngủ nôi có dây xanh tua vàng

Con út mẹ ngủ nôi dây tơ tằm

Ai đi qua, đi lại

Không đu chớ khóc”…

Với mỗi trẻ em Thái, những bài hát ru chính là bài học đầu đời mà người mẹ

dạy cho con hiểu về cuộc sống xung quanh, về quê hương nguồn cội, về cách làm

người. Những câu hát ru là điều đầu tiên trẻ cảm nhận được, bồi đắp tâm hồn trẻ lớn

dần theo năm tháng. Đó là lời dặn dò khi mẹ lên nương, chuyện về cuộc sống, công

việc hàng ngày, bài học về đối nhân xử thế... Người mẹ có thể hát ru con ngủ khi đưa

nôi, nhưng cũng có thể hát ru khi lên nương, xuống ruộng. Lúc rời xa con nhỏ dù chỉ

nửa ngày, nửa buổi, nỗi nhớ con khiến lời ru của người mẹ trở nên da diết.

… “Ngủ đi nhé

Bố mẹ đi nương ở dưới mái đá

Bố mẹ ra ruộng ở dưới bản

Đi nương mẹ lấy trứng gà về cho

Đi ra ruộng lấy cá về bón

Lấy “ẹp” nếp thơm về cho con thương”…

* Nhóm khắp đồng dao

Khắp đồng dao là loại khắp gắn với sinh hoạt vui chơi của trẻ em Thái, chủ

yếu do các em sáng tác và diễn xướng, với đặc điểm nổi bật là tính chất vui vẻ, hồn

nhiên của lứa tuổi thơ. Là một tiểu loại văn học dân gian dành riêng cho trẻ nhỏ, đồng

dao của trẻ em Thái Mai Châu gắn liền với hoạt động vui chơi, lao động và nhu cầu

hiểu biết, phát triển trí tuệ, tâm hồn của trẻ em. Mỗi bài đồng dao là một bài học bổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 71

ích đối với trẻ nhỏ về các sự vật, hiện tượng, con vật, các tri thức dân gian của dân

tộc, các mối quan hệ, kiến thức về gia đình, xã hội... Nội dung của những bài khắp

đồng dao phản ánh khá sinh động môi trường sống và cuộc sống của trẻ em Thái. Đây

là đồng dao của các em khi chơi đánh đu:

Đu đi đu lại

Rào đồng ngăn cò

Bố cũng chê

Mẹ cũng chê

Nheo mắt chê, đằng sau đố biết

(Đánh đu)

Bên cạnh tác dụng giúp trẻ tăng cường khả năng nhận thức, phát triển tư duy

ngôn ngữ, đồng dao của trẻ em Thái Mai Châu còn tạo lập môi trường vui chơi, giải

trí lành mạnh cho các em nhỏ, để các em được thỏa thích vui chơi được kết nối với

bạn bè, hòa nhập với cộng đồng. Đến với đồng dao, các em được thỏa mãn nhu cầu

tìm hiểu và kết nối với bạn bè. Môi trường diễn xướng của đồng dao là môi trường

sinh hoạt tập thể, đông người. Trẻ nhỏ không thể đọc đồng dao và chơi trò chơi một

mình. Nếu muốn trò chơi thú vị, các em phải rủ thêm bạn bè cùng chơi, cùng hát

đồng dao. Từ đó, đã tạo ra môi trường thuận lợi để trẻ em xích lại gần nhau hơn, thiết

lập và củng cố tình bạn bè, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau

cùng vui chơi, làm việc, học tập. Mặt khác, môi trường diễn xướng của các bài đồng

dao cũng là môi trường rèn luyện, tăng cường sức khỏe của trẻ nhỏ. Thông qua việc

hát, đọc đồng dao và thực hiện các hoạt động chạy, nhảy, vui chơi, lao động, cơ thể

các em được rèn luyện trở lên rắn rỏi, hoạt bát, khỏe mạnh hơn.

- Lưỡi Dá Hổ bằng nào ?

- Bằng quả núc nác.

- Mắt Dá Hổ bằng nào ?

- Bằng quả sổ.

- Vào bản tìm bắt trẻ ăn thịt nhé ?

- Đố bắt được.

(Bịt mắt)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 72

Trong hát vui chơi của trẻ em Thái, hiện thực cuộc sống hiện lên rất sinh động,

phong phú, trong đó nổi bật là thế giới thiên nhiên, thế giới động vật gần gũi, quen

thuộc với các em, được diễn xướng theo những giai điệu vui tươi, nhẹ nhàng:

Đom đóm nhấp nháy

Đom đóm xanh xanh

Mang lửa đến đây

Để soi ống nước gạo

Để soi quãng trâu đằm.

(Đom đóm)

Cấu trúc của các bài đồng dao của người Thái Mai Châu thường gắn gọn, ít

câu chữ. Nhịp điệu phổ biến trong các bài đồng dao thường ngắn gọn, tươi vui, rộn

ràng, hấp dẫn trẻ nhỏ, được các em đặc biệt yêu thích. Với cách gieo vần theo lối vắt

dòng. Lối kết cấu móc xích trong sự phát triển của lời ca, cách lặp âm, gieo vần…

giúp các em nhỏ vừa dễ đọc, dễ nhớ.

Giấu tay Cù

Giấu tay Cà

Sang tay nghẹo

Leo tay lụa

Sua sang chắn

Nằm tay từ

Tay nọ, tay kia nắm chặt

Ở tay nào ?

(Giấu vật trong tay)

Ngôn ngữ trong các bài đồng dao của người Thái giản dị, hồn nhiên mộc mạc,

dễ hiểu, gắn liền với môi trường vui chơi, học tập, sinh hoạt hàng ngày của các em

(con vịt, con gà, quả trứng, cái măng, con đom đóm...). Hệ thống hình ảnh, sinh động

cụ thể, hấp dẫn, hết sức gần gũi, quen thuộc với các em (cánh rừng, ngọn núi, ruộng

bậc thang, công việc hái măng, chăn trâu, xúc cá...), thích hợp với lối tư duy hồn

nhiên, ngây thơ, ngộ nghĩnh, đáng yêu của trẻ nhỏ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 73

“Trăng tròn tròn

Trăng sáng sáng

Ngỗng đội nón quanh bịch lúa

Lợn chống gậy ra cấy đồng

Chó vác rìu phát nương

Gà nhỏ khéo hái rau

Chim cuốc khéo làm tổ

Con nhện khéo giăng tơ

Con hoãng khéo làm mặt nhăn

Con mèo khéo bắt chuột

Con rắn khéo bện thừng

Con rồng khéo kết cổ vằn hoa…”

(Trăng ơi trăng)

Với những giá trị về nội dung và hình thức nghệ thuật đã nêu trên, đồng dao có

ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em người Thái ở

Mai Châu. Đồng dao không chỉ giúp trẻ nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh mà

thông qua việc hát đọc các bài đồng dao, tư duy ngôn ngữ của các bé cũng phát triển

mạnh mẽ. Những từ ngữ gọi tên các sự vật hiện tượng trong thực tại khách quan được

bổ sung từng ngày vào vốn từ ngữ của trẻ. Cách phát âm của trẻ cũng dần chính xác

hơn. Lời ăn, tiếng nói, phản ánh nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh cũng ngày

một đầy đủ, phong phú và hoàn thiện hơn.

Như vậy, tác dụng giáo dục của các bài đồng dao được tạo nên từ những nội

dung, hình thức nghệ thuật độc đáo nhưng rất đỗi giản dị, thân thuộc, gần gũi và vô

cùng thiết thực với cuộc sống của trẻ thơ. Thông qua những bài đồng dao, thế giới

thực tại khách quan và những bài học trong cuộc sống sẽ được ngấm dần một cách tự

nhiên vào tâm hồn, trí tuệ của trẻ nhỏ và giúp các em khôn lớn. Với nội dung phong

phú, lành mạnh, cách diễn đạt nhẹ nhàng, thoải mái, vừa hư ảo vừa hiện thực, khắp

đồng dao có tính giáo dục cao, giúp trẻ em nâng cao nhận thức và thẩm mỹ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 74

3.1.3. Phương thức diễn xướng và nghệ thuật khắp của dân tộc Thái ở Mai Châu

3.1.3.1. Phương thức diễn xướng

Các thể loại văn học dân gian ra đời đều có mối quan hệ gắn bó với đời sống

của người dân Thái nhưng có lẽ khắp là thể loại gắn bó thiết tha hơn cả. Dường như

mỗi chặng đời người đều được đánh dấu bằng những tiểu loại khắp riêng, hát trao

vòng cho trẻ sơ sinh; hát đồng dao cho các em nhi đồng, thiếu niên; hát giao duyên

nam nữ; hát đám cưới cho các lứa đôi, hát lên nhà mới cho những gia đình hạnh phúc.

Vào lứa tuổi trung niên người Thái phải biết khắp để tham gia sinh hoạt trong các

ngày hội, ngày lễ cầu cúng của cả bản làng. Những người già thường yêu thích những

buổi hát kể sử thi hay các anh hùng ca dân tộc. Và khi xế chiều mãn bóng thì mỗi

người được cả cộng đồng ca hát tiễn tới nơi an nghỉ cuối cùng...

Khắp là hình thức diễn xướng của các bài thơ, các tác phẩm văn học, trong đó

có cả tác phẩm tự sự, như tác phẩm thuộc thể loại sử thi, truyện cổ tích... và các tác

phẩm trữ tình. Mọi thế hệ người Thái đều ý thức trao lại cho đời sau cách diễn xướng

những làn điệu dân ca đậm đà bản sắc văn hóa, tượng trưng cho giá trị tinh thần, tính

cách của dân tộc. Phương thức diễn xướng của khắp Thái chủ yếu là hát thơ, có nhạc

đệm hoặc không có nhạc đệm, trong môi trường sinh hoạt vui chơi, hoặc đám cưới,

hoặc tín ngưỡng. Mỗi làn điệu khắp có cách diễn xướng khác nhau. Bởi vậy, cần phải

hiểu hình thức diễn xướng của khắp một cách linh hoạt, gắn với mỗi môi trường sinh

hoạt văn hóa, ứng với mỗi nội dung sinh hoạt, gắn với mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội...

Diễn xướng khắp là yếu tố ngoài văn bản nghệ thuật ngôn từ, nhưng nó là yếu tố

không thể bỏ qua nếu muốn hiểu đúng, hiểu sâu sắc về nghệ thuật này.

Do quá trình hội nhập với cuộc sống hiện đại, nhiều hình thức diễn xướng cổ

của khắp Thái Mai Châu đã bị mai một. Trong quá trình tìm hiểu và nghe mô tả của

các nghệ nhân, xin được nêu lại một số phương thức diễn xướng của khắp như sau:

- Các làn điệu khắp xư (hát thơ): Bình thường, “khắp xư” chỉ "xướng" chứ

không "diễn", mục đích của khắp xư là để hiểu nội dung tác phẩm, nên phải thể hiện

cảm xúc bằng giọng đọc. Nhưng khi khắp các tác phẩm mang dáng dấp sử thi - ví dụ

như khắp Chương Han, khắp Ẳm ệt… - thì sẽ có một người khắp chính và những

người phụ hoạ, với trang phục nghi lễ trang nghiêm. Người khắp chính phải đứng ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 75

tư thế ngẩng mặt lên cao, hướng về phía mâm thờ và cất giọng khắp nghiêm trang,

hùng tráng. Đoàn phụ hoạ sẽ đứng thành hàng sử dụng các nhạc cụ truyền thống như

cồng, chiêng, nhạc cụ tre nứa... đệm phụ họa đúng bài bản, nhịp nhàng. Khắp lễ nghi

chỉ được thực hiện khi cúng tế các anh hùng hoặc Xên Bản, Xên Mường.

- Khắp báo sao (hát trai gái, hát giao duyên): Khắp báo sao là điệu hát thiết

tha, đằm thắm, yêu thương... của tình yêu nam nữ. Bối cảnh của khắp báo sao thường

là trên sàn hạn khuống, trong các hội xuân, trong các dịp hội họp đông vui, trên một

mảnh nương, bên một đoạn suối, trong lúc đi hái bông lau, hoặc trong khi đi hái bông

vải... Những buổi khắp có tổ chức ở quy mô nhất định thường diễn ra qua các bước:

khắp chào mời, khắp thăm hỏi, khắp thử tài và cuối cùng là khắp dặn dò hẹn ước.

- Khắp pan làu pan chàu (hát bên mâm cơm): Khắp bên mâm cơm cũng có thể

có khắp báo sao. Diễn xướng ở đây là cách diễn xướng tự do, tức là hát không cần

động tác hoặc động tác đơn giản, không kèm tập tục hay một quy định nào cả. Người

hát ngồi bình thường trong mâm, mắt nhìn đối phương, hát hết một đoạn thì mọi

người vỗ tay tán thưởng. Khắp hết bài của mình thì có lời khắp chuyển cho người

khác. Người sau khắp xong bài lại có quyền chuyền cho người nào đó tuỳ mình lựa

chọn. Cứ như thế, mọi người sẽ thay nhau khắp, ai cũng phải khắp một số lần. Nhưng

về sau sẽ dừng lại ở hai người khắp hay nhất, và cuộc khắp đối đáp sẽ diễn ra. Hai

bên sẽ trổ tài vận dụng kiến thức khắp của mình để thi với đối phương. Một người

nêu ra câu hỏi, người kia đáp lời và hỏi lại, cứ như vậy với điều kiện không được lặp

lại các lời khắp.

- Khắp trên hạn khuống: Hạn khuống là sân chơi cho lớp trẻ giao lưu, nơi

người già dạy con cháu điều hay lẽ phải, dạy đan lát thêu thùa... Hạn khuống là một

cái sàn dựng ngoài sân cao khoảng hơn một mét, muốn lên phải trèo bằng thang. Buổi

tối các cô gái sẽ mang củi xuống đốt lửa và ngồi quay sa, kéo sợi. Cái thang đã bị các

cô gái cất đi. Các chàng trai muốn lên chơi phải xin được lên hạn khuống. Sau khi

được bên nữ thả thang cho lên hạn khuống, các chàng trai cô gái sẽ khắp đối đáp theo

điệu báo sao. Trai gái diễn xướng tự do, đơn giản, hai bên ngồi đối diện hoặc ngồi

xen kẽ. Nếu riêng tư thì họ có thể dẫn nhau ra góc sàn tâm sự bằng cách đọc những

lời khắp đối đáp thủ thỉ, tình tứ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 76

- Khắp xe (hát trong vòng xoè): Trong ngày vui (cưới, lên nhà mới, tết, lễ

hội...), khi đang diễn ra cuộc khắp đối đáp thì các cô gái có thể mời các chàng trai

sang múa xòe. Trên vòng xòe thường là các cô sẽ chủ động sắp xếp sao cho gái trai

xen kẽ. Mọi người bước đi nhịp nhàng treo điệu múa truyền thống (Xòe là một trong

những điệu múa phổ thông nổi tiếng của người Thái. Vào các dịp Tết, lễ hội, sau một

vài tuần uống rượu vui, mọi người tay cầm tay cùng múa vui say sưa trong không khí

nhộn nhịp của khắp; của tiếng trống, tiếng cồng chiêng. Tâm tình của lời khắp, hơi

men của rượu, hơi ấm của bàn tay cùng âm vang thôi thúc giục giã của tiếng cồng

chiêng làm mọi người muốn xích lại gần nhau hơn trong không khí tưng bừng của

cuộc vui). Một cô gái sẽ mở đầu bằng những lời “khắp” mời mọi người cùng chơi

vui, cùng múa hát cho nhau nghe và cuộc hát đối đáp sẽ diễn ra. Mới đầu là những

câu hỏi thăm tên tuổi, quê quán, hỏi về gia đình, người thương ở nhà... Sau đó là

những lời hát trêu đùa, thăm dò nhau, rồi dần dẫn đến thân thiết, tâm tình với nhau.

Cách diễn xướng ở đây là vừa bước đi theo vòng xòe vừa hát.

- Khắp lẻ: Khi đi chặt cây, lấy củi, hái măng trên rừng, các chàng trai và cô gái

cũng hay khắp với nhau từ xa. Người này hát xong, người kia sẽ đáp lại. Chủ đề chủ

yếu là những lời trêu chọc, tán tỉnh, tỏ tình… Khắp lẻ cũng được dùng khi đi chơi

đêm, khi đó các chàng trai thường hay hát điệu buồn man mác nhằm bày tỏ nỗi lòng,

tâm tư, tình cảm, ước mong… của mình trong không gian yên tĩnh của đêm núi rừng.

Như vậy, sinh hoạt khắp gắn bó chặt chẽ với đời sống dân gian, là cơ sở quan

trọng hình thành nên diễn xướng khắp - diễn xướng một bộ phận thơ ca dân gian đậm

chất trữ tình trong kho tàng thơ ca dân tộc Thái Mai Châu. Môi trường diễn xướng

khắp nằm ở ngay trong môi trường sống hàng ngày của người Thái: từ bên mâm cơm

đến sàn sân và ra rừng núi, với hoạt động phong phú: từ ăn uống, vui chơi, tâm sự, tới

lao động sản xuất. Chính vì gắn bó chặt chẽ với đời sống như vậy, khắp có sức sống

mãnh liệt, trường tồn trong đời sống nhân dân Thái.

3.1.3.2. Nghệ thuật khắp

* Nghệ thuật phóng đại, lý tưởng hóa:

Đây là biện pháp nghệ thuật thường được dùng trong các tác phẩm mang dáng

dấp sử thi như “Ẳm ệt luông”, “Ẳm ệt nọi”, “Khay pắc phạ”, “Chương Han”…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 77

Phóng đại và lý tưởng hóa được sử dụng trong việc kỳ vĩ sự kiện, lý tưởng hóa nhân

vật anh hùng. Nhân vật được nâng lên mức độ thần thánh, phù hợp với nguyện ước

của cộng đồng. Đây là cảnh ông bà Chu Cúm tạo thành trời đất:

… “Then bảo ông Chu Cúm phải kéo trời

Bảo bà Chu Cúm phải kéo đất

Bà Chu Cúm kéo đất rủ nhau rộng nhanh

Ông Chu Cúm kéo trời rủ nhau rụt lại

Bà kéo đất phải co đất lại thành ba mươi núi chập trùng

Thành chín mươi triệu suối khe”…

(Ẳm ệt luông)

* Lối nói nhún nhường của nhân vật trữ tình:

Trong giao tiếp, dân tộc Thái Mai Châu có một đặc điểm rất đáng lưu ý, đó là

cách nói nhún nhường, xã giao. Người dân Thái không có thói quen lên mặt, khoe

khoang, khuếch trương bản thân; ngược lại, họ thường tự hạ thấp giá trị thực tế của

mình. Điều này cũng thể hiện rất rõ trong khắp:

… “Anh muốn thắt chặt với em

Nhưng anh không xứng

Xứng với em chỉ con út tạo Poọng

Xứng với em chỉ con tạo mường

Xứng với em chỉ có con Long Vương đầu nguồn

Xứng với em chỉ có con út trời có phép thần linh”…

(Giao duyên)

* Ngôn ngữ miêu tả:

Khắp Thái thường dùng lối miêu tả cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết khiến tâm tư, tình

cảm… của nhân vật trữ tình rất đa dạng, phong phú; cuộc sống hiện lên rất sinh động:

… “Gốc trầu em ươm

Giàn trầu này em trồng

Gốc trầu này ươm đất đen

Gốc trầu này em trồng đất ấm

Trầu nghe ấm trầu lên

Trầu nghe mát trầu mọc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 78

Trầu lên giàn lá xanh

Cau thành cây, tàu lá cong sai quả

Trầu lá vàng rụng xuống

Dao nhỏ em bổ cau

Trầu lá đẹp têm thành miếng

Têm trầu được miếng chặt

Đặt trầu được miếng ngon

Xếp trầu vào đĩa bạc

Bưng đĩa trầu đặt lên chiếu mời anh xơi !”

(Giao duyên)

* Nhịp điệu:

Có thể xem khắp ra đời như một đòi hỏi tất yếu của thực tiễn, trước hết đáp

ứng nhu cầu về nhịp trong lao động tập thể. Yếu tố nhịp này sẽ góp phần tạo nên sự

cộng hưởng sức mạnh, vốn rất cần trong lao động. Khắp gắn với hình thức lao động

nào thì được điều chỉnh giai điệu cho phù hợp với yêu cầu của công việc đó. Nhiều

tiểu loại khắp đã lấy tên từ chính là loại hình công việc mà nó tham gia như: khắp dệt

vải, khắp kéo gỗ, khắp gieo vừng, gieo kê… Khắp gieo kê, gieo vừng thì có nhịp điệu

nhẹ nhàng, chậm rãi, phù hợp với các động tác của công việc trồng cấy:

… “Tiếng chặt cây em yêu nào phát

Tiếng chặt cây to rìu ai chém

Phát rừng trồng bông hay trồng dâu tằm

Phát rừng trồng bông cho anh xin chung đồi

Phát rừng trồng dâu cho anh xin chung vườn với”.

(Hát gieo vừng, gieo kê)

Khắp ru con thì dịu dàng, thiết tha:

“ À ơi, ngủ đi con, ngủ đi chớ!

Ngủ cho mẹ đi nương chân núi đá,

Ngủ cho mẹ đi ruộng cạnh bản.

Mẹ đi nương, lấy trứng về nuôi con

Mẹ đi ruộng, lấy cá về con ăn…”

(Ru con)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 79

Hò kéo gỗ, kéo chài thì có nhịp ngắn gọn, khỏe mạnh, gân guốc:

Hai ba

Cố kéo

Kéo cho thật

Kéo đồng sức

Kéo cứng chân

Kéo cứng tay

Cầm dây

Bẩy về.

(Hò kéo gỗ)

* Làn điệu:

Khắp của dân tộc Thái rất phong phú và đa dạng về làn điệu: tâm tình, thủ thỉ

ở khắp báo sao; hào hùng, mạnh mẽ ở khắp Chương; rì rầm thành kính ở khắp mo;

nhịp nhàng, sôi nổi trong khắp xe… Trong các cuộc hát đối đáp, hát giao duyên,

người hát sẽ chọn những câu, đoạn trong vốn kiến thức của mình để hát cho phù hợp.

Vốn kiến thức là những lời hát trong các tác phẩm truyện thơ nổi tiếng như “Xống

chụ xon xao” (Tiễn dặn người yêu), “Khun Lú, nàng Ủa” (Chàng Lú, nàng Ủa)…

hoặc các bài khắp truyền thống khác được lưu truyền trong dân gian. Và cũng chính

vì lý do cơ bản này mà ta có thể nói rằng khắp Thái có quan hệ mật thiết với truyện

thơ - một thể loại văn học dân gian rất có giá trị khác của dân tộc Thái. Nội dung của

khắp và truyện thơ Thái có sự giao thoa rất mạnh, cùng phản ánh mâu thuẫn giữa

người nghèo khổ và kẻ giàu sang, mâu thuẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, mâu

thuẫn giữa tình yêu chân chính của lứa đôi với những đòi hỏi khắt khe, lạnh lùng,

nhiều khi mất hết nhân tính của gia đình và xã hội. Nhiều trường đoạn khắp và truyện

thơ kể về thân phận hẩm hiu, đau khổ; về tình yêu thiết tha và ngang trái của các

chàng trai, cô gái dân tộc Thái; về khát vọng đấu tranh cho tình yêu tự do, cho hạnh

phúc; ... gần như trùng lắp với nhau. Tiêu biểu là các truyện thơ “Tiễn dặn người

yêu”, “Chàng Lú, Nàng Ủa”, “Nàng Nèn”…

Tóm lại, khắp Thái Mai Châu nảy sinh, tồn tại và phát triển từ chính cuộc sống

của dân tộc Thái, vừa mang đậm bản sắc của riêng dân tộc Thái, vừa có những tính

chất chung, góp phần làm nên tính chất phong phú, đa dạng và độc đáo của nền văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 80

hoá Việt Nam đa dân tộc. Khắp cần được coi trọng, bảo tồn và phát huy trong đời

sống của người dân Thái hiện đại.

3.2. Tục ngữ

Văn học dân gian nói chung và tục ngữ nói riêng xuất phát trực tiếp từ lao

động rồi trực tiếp phục vụ cho lao động sản xuất và người lao động. Tục ngữ là tiếng

nói được tổng kết từ cuộc sống của nhân dân trong mối quan hệ với thiên nhiên và lao

động sản xuất, là sản phẩm tư duy của người lao động. Bắt đầu từ những nhận xét

giản đơn về thời tiết, khí hậu đã ảnh hưởng đến lao động và đời sống của con người.

Những nhận xét đó, qua chiêm nghiệm được xem như quy luật của thiên nhiên tác

động đến sản xuất và cũng có thể là những kinh nghiệm đã trở thành tập quán "xưa

làm, nay bắt chước", lưu truyền trong nhân dân.

Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi

đồng chủ biên có định nghĩa tục ngữ là “Một thể loại văn học dân gian mà chức năng

chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc

tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền” [7,tr.377].

Tục ngữ là cẩm nang đa năng của nhân dân lao động về những tri thức dân

gian muôn mặt quý báu trong cuộc đời. Tục ngữ là kinh nghiệm nhưng không phải là

kinh nghiệm của một người nào đó có tính chất cá nhân mà nó mang sức mạnh của bề

dày truyền thống lịch sử của một dân tộc, là một hành vi ngôn ngữ có tính xã hội

được truyền từ đời này sang đời khác. Sự đúc kết đạo lý của cuộc sống được tiến

hành thông qua những kinh nghiệm đã được thử thách, thông qua thế giới quan, nhân

sinh quan và trình độ nhận thức của nhân dân lao động về các khía cạnh trong xã hội.

Vì vậy tục ngữ có sức mạnh thuyết phục lớn lao.

Mỗi dân tộc đều có rất nhiều lời khuyên với những ý nghĩa khác nhau được

hình thành và gắn liền với sự tồn tại, phát triển của dân tộc mình. Dân tộc Thái Mai

Châu có một kho tục ngữ thể hiện những kinh nghiệm về nhiều lĩnh vực. Đó là những

kinh nghiệm về sản xuất, về đối nhân xử thế, về quan hệ giữa con người với thiên

nhiên… Đây quả thực là một kho tàng kiến thức dân gian để mỗi người dân Thái nói

riêng và nhân dân các dân tộc nói chung soi vào đó để học tập.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 81

3.2.1. Phân loại tục ngữ của dân tộc Thái ở Mai Châu

Tục ngữ của dân tộc Thái Mai Châu thể hiện nhiều nội dung, đó là những

kinnh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về cày bừa, kinh nghiệm về trồng trọt, kinh

nghiệm về chăn nuôi, kinh nghiệm về ứng xử với thiên nhiên, kinh nghiệm đối nhân

xử thế... Tuy nhiên, để khái quát thì ta có thể chia tục ngữ Thái Mai Châu thành hai

loại cơ bản:

- Tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất.

- Tục ngữ thể hiện các triết lý dân gian.

3.2.2. Nội dung tục ngữ dân tộc Thái ở Mai Châu

3.2.2.1. Phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất

Trong điều kiện khoa học chưa phát triển, việc xem xét các hiện tượng thiên

nhiên, đặt trong mối tương quan ảnh hưởng của thời tiết với đất đai, cây trồng để rút

ra những kinh nghiệm là một vấn đề không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp. Có

lẽ tác động quan trọng nhất của thiên nhiên đối với sản xuất và đời sống là mưa và

nắng. Là một trong rất ít các dân tộc thiểu số có kinh nghiệm làm lúa nước từ lâu đời,

người Thái ở Mai Châu có một kho tàng phong phú những câu tục ngữ quan sát hiện

tượng nắng mưa.

- Nắng tháng sáu được lúa

Nắng tháng tám, tháng chín mất mùa.

Nếu tục ngữ người Việt có câu "Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa" thì

dân tộc Thái Mai Châu cũng có những câu tương tự:

- Sao mờ trời nắng

Sao tỏ trời mưa.

Tục ngữ về lao động sản xuất phản ánh điều kiện và phương thức lao động của

nhân dân Thái, phản ánh đặc điểm đời sống của dân tộc Thái. Những kinh nghiệm về

lao động sản xuất nảy sinh trong quá trình đấu tranh thiên nhiên của nhân dân lao

động được đúc kết trong tục ngữ được phổ biến rộng rãi, trở thành tri thức khoa học

kỹ thuật dân gian.

- Sấm đầu năm, nguồn sông Đà sửa gác

Sấm đầu năm, cuối sông Mã sửa thuổng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 82

Trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt, nhân dân tích lũy được nhiều

kinh nghiệm về quy luật diễn biến của thời tiết khí hậu:

- Sao mờ trời nắng

Sao tỏ trời mưa.

Trong quá trình lao động sản xuất ở các ngành nghề nông nghiệp, người dân

lao động Thái cũng đã đúc kết được rất nhiều kinh nghiệm. Đó là những kinh nghiệm

về trồng trọt:

- Tháng năm gieo mạ

Tháng sáu lấy mạ đi cấy

Tháng bảy lúa đẻ nhánh

Tháng tám lúa xanh trổ

Tháng chín lúa trên nương đã vàng

Lúa dưới đồng chín lốm đốm bông cái.

Hoặc là những kinh nghiệm về chăn nuôi:

- Lúa ở trên, cá ở dưới.

- Trồng khoai phải thành vườn, nuôi tằm phải thành cửi.

Tục ngữ về lao động sản xuất thể hiện tinh thần sáng tạo của nhân dân lao

động Thái. Đó chủ yếu là những kinh nghiệm hết sức phong phú được đúc rút từ thực

tiễn của đời sống lao động sinh động của nhân dân.

- Đi làm nương chớ mang theo chó

Đi làm ruộng chớ mang theo con nhỏ.

3.2.2.2. Tục ngữ thể hiện các triết lý dân gian của dân tộc Thái

Tục ngữ dân gian Thái phản ánh những kinh nghiệm sống và lối sống của nhân

dân, phản ánh tư tưởng và đạo đức truyền thống của người dân Thái, trong đó bao

hàm cả những tư tưởng chính trị xã hội và tư tưởng triết học. Trước hết đó là những

quan niệm chung về con người:

- Người nào cũng có lúc xấu, vải nào cũng có lúc rách.

- Cây rừng không thể bằng ngọn,

nhiều người nhiều suy nghĩ khác nhau.

- Trâu sừng cụp không uốn thẳng được,

người ương bướng khó thay đổi tính nết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 83

- Voi bốn chân có lúc còn trượt ngã

Ý nghĩ nhiều lúc cũng sai.

Dân tộc Thái rất trọng quan hệ anh em ruột thịt, họ hàng:

- Anh em cùng ông như đũa chung rổ.

Anh em cùng ngoại như trâu chung chuồng.

- Chim lạc đàn chim kêu

Anh em xa nhau thì nhớ.

Tục ngữ Thái thể hiện những kinh nghiệm ứng xử trong quan hệ vợ chồng. Họ

cho rằng là vợ chồng thì không bao giờ nên bất đồng, không bao giờ được cãi nhau,

dù chỉ là những cuộc cãi cọ ngắn ngủi:

- Anh em cãi nhau cả ngày vẫn là anh em.

Vợ chồng cãi nhau một giờ thành dưng.

Những kinh nghiệm trong ứng xử với bạn bè làng xóm chứng tỏ dân tộc Thái

rất khéo léo, tế nhị:

- Anh em đến nhà không được đánh chó

Cô bác đến thăm không được đánh con.

Tục ngữ Thái thể hiện những ước muốn tốt đẹp trong cuộc sống của người dân

lao động:

- Nuôi con muốn cho con khôn

Cắm que muốn được rượu cần ngon.

Tục ngữ Thái thể hiện cách xét đoán con người qua lao động. Những câu tục

ngữ rất gần với những kinh nghiệm như “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “Gần mực thì

đen, gần đèn thì sáng” của dân tộc Kinh:

- Làm bạn với người lười mình cũng lười

Làm bạn với người chăm mình cũng chăm.

- Hay làm người khỏe mạnh, lười làm người gầy còm.

Người dân lao động Thái ca ngợi thái độ chăm chỉ trong lao động. Họ không

chấp nhận thái độ chỉ biết kêu ca, rên rỉ về một cuộc sống khó khăn mà yêu cầu phải

biết phấn đấu, làm lụng chăm chỉ:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 84

- Phát nương qua chín gò mối, không có ăn thì hãy kêu trời.

- Mồ hôi rỏ xuống nước thành cá

Mồ hôi rỏ xuống ruộng thành lúa

Mồ hôi rỏ xuống rừng thành sắn khoai.

- Nhà có ba trâu không đói, nhà có ba chày không nhịn.

Do đó, người dân lao động Thái kịch liệt phê phán thói lười biếng. Họ biết

rằng lười biếng luôn đi đôi với đói khát, rét mướt:

- Ngồi còn hơn nằm, đi còn hơn ở.

- Chơi không thì chết đói, mày mò còn được ăn.

- Lười làm, nghe bụng ban chiều

Lười dệt vải, nghe cái rét mùa đông.

Người dân lao động Thái không thích những gì là có sẵn, họ biết rằng đó chỉ là

của cải phù vân; họ cho rằng cần phải biết cách tự mình tạo ra của cải vật chất và trân

trọng những thành quả lao động đó:

- Của chân tay khắc làm như có mỏ

Của bố mẹ cho như biết trôi dòng.

Cũng như quan niệm của dân tộc Kinh trong “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, người

dân Thái cũng cho rằng nội dung quan trọng hơn hình thức:

Đẹp bề ngoài, mục thối bên trong.

Tục ngữ Thái phản ánh khá phong phú những đức tính của nhân dân lao

động, thể hiện truyền thống tư tưởng, đạo đức của nhân dân thông qua những nhận

xét, suy ngẫm rất sâu sắc về hiện thực. Đó là những trăn trở, lo toan, tính toán trong

công việc:

- Một miếng cơm, chín cái lo

Một miếng cơm, chín xoáy lạt

Một miếng cơm, chín giọt mồ hôi.

Người dân Thái rất ghét những kẻ cơ hội:

- Ngã thuyền đừng đẩy thuyền chạy, nước cạn đừng tháo thêm.

Tục ngữ Thái kêu gọi ý chí vươn lên, vượt qua hoàn cảnh thực tại:

- Nghèo không nghèo cả đời

Đẹp không đẹp muôn thuở.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 85

- Cơm, cá không của riêng ai; tơ tằm không của riêng ai.

Câu tục ngữ “Ngắn cây thì mất, ngắn đất hãy còn” của người Thái mang dáng

dấp tinh thần lạc quan, vượt lên trên số phận trong câu “Đừng than phận khó ai ơi -

Còn da: lông mọc, còn chồi: nảy cây” của dân tộc Kinh.

Về vấn đề học hành, tục ngữ Thái luôn khuyên con người cố gắng học hỏi, tích

lũy kiến thức, kinh nghiệm sống:

- Bố mẹ dạy không bằng thầy dạy.

Thày dạy không bằng ham muốn học hỏi.

- Của để cho con cháu không gì bằng chân chài và quyển sách.

Tục ngữ Thái là những kinh nghiệm của nhân dân được đúc rút từ trong thục

tiễn phong phú của cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có một số câu tục ngữ phản ánh

những nhận thức có tính chất duy vật tự phát của dân tộc Thái.

- Yêu ai bảo người ấy đẹp

Sa của ai vừa tay người ấy.

- Thời nào khuôn ấy

Thời trước, đời trước xếp

Thời sau, đời sau sắp đặt.

- Chọn vợ xem bà ngoại

Chọn trâu xem con đầu đàn.

- Mẹ nó đốm thì con nó đốm

Ngoại nó vằn thì cháu nó vằn.

3.2.3. Nghệ thuật tục ngữ dân tộc Thái ở Mai Châu

Tục ngữ Thái có tính đa nghĩa. Một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa

đen và nghĩa bóng.

- Bảo rái cá đi thăm đó.

- Lên núi này thấy thấp, nhìn núi nọ thấy cao.

- Đừng kéo thuồng luồng vào thuyền, chớ dẫn hổ vào bản.

Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành

những phương châm, chân lý, xu hướng này thể hiện bằng ngôn từ đều qua lối tư duy

hình tượng, lối nói hình tượng. Hình tượng của tục ngữ thường được xây dựng từ

những biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ ...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 86

- Một miếng cơm, chín cái lo

Một miếng cơm, chín xoáy lạt

- Của chân tay khắc làm như có mỏ

Của bố mẹ cho như biết trôi dòng.

- Của quý không ở lại với người dốt

Tai vạ không đến với người khôn.

Ða số tục ngữ Thái đều có vần. Đặc điểm này tạo điều kiện cho tục ngữ đi vào

nhân dân lao động một cách tự nhiên, dễ dàng đưa ra ứng dụng vào những thời điểm

phù hợp:

"Đin đăm háy pú teng

Đin đeng háy pú phải"

(Đất đen nương trồng dưa

Đất đỏ nương bông vải)

Nhịp điệu là yếu tố quan trọng trong tục ngữ Thái. Sự hòa đối là yếu tố tạo sự

cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tục ngữ Thái:

- Ăn khắc hết, làm khắc xong.

- Nhiều người ăn thì hết, nhiều người làm thì xong.

Về hình thức ngữ pháp, những câu tục ngữ Thái hầu như không có dạng câu

một mệnh đề mà thường chứa ít nhất hai mệnh đề:

- Sao mờ trời nắng

Sao tỏ trời mưa.

- Một thửa ruộng không bõ công cấy

Một con vịt không bõ công nuôi

Cũng có thể chứa rất nhiều nhận định thông qua các mệnh đề:

- Tháng năm gieo mạ

Tháng sáu lấy mạ đi cấy

Tháng bảy lúa đẻ nhánh

Tháng tám lúa xanh trổ

Tháng chín lúa trên nương đã vàng

Lúa dưới đồng chín lốm đốm bông cái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 87

Về phong cách biểu đạt, tục ngữ Thái hầu như thiếu khuyết đại từ nhân xưng.

Điều này rất khác so với khắp Thái và nó khiến cho tục ngữ Thái có xu hướng khách

quan khi trình bày những kinh nghiệm và thể hiện rõ phong cách khuyên bảo, răn dạy

của nhân dân lao động Thái.

* Tiểu kết:

Ở chương III chúng tôi đã nói về khắp và tục ngữ Thái. Khắp Thái thể hiện quá

trình vận động, phát triển phong phú, lâu dài của tư duy nghệ thuật và của ý thức xã hội

dân tộc Thái: từ những bài khắp nghi lễ cổ xưa gắn với tư duy thần thoại, sử thi đến

những bài hát vui chơi, chúc mừng có tính chất thế tục đã thể hiện những cảm quan

trong suy tưởng và nhận thức về thiên niên, xã hội của người dân lao động Thái trong

suốt hơn bảy trăm năm lịch sử sống ở miền đất Mai Châu. Khắp Thái Mai Châu chính

là bức tranh hết sức sinh động về cuộc sống sinh hoạt với những phong tục tập quán,

thế giới quan, nhân sinh quan của đồng bào Thái. Vẻ đẹp của khắp là sự tổng hòa của

vẻ đẹp ngôn ngữ, vẻ đẹp văn hóa và vẻ đẹp độc đáo của sáng tạo nghệ thuật; là kết

tinh của sự lựa chọn ngôn từ, sự chắt lọc tiếng nói chung của cộng đồng và sự thăng

hoa cảm xúc sáng tạo của người nghệ sĩ dân gian dân tô ̣c Thái.

Khắp Thái giàu chất trữ tình, mê say; lời hát cầu kỳ, trau chuốt. Tìm hiểu kỹ thì

chúng ta sẽ thấy trong đó quê hương Thái, con người Thái với những tâm tư, suy

nghĩ… đặc trưng của người dân miền núi sống gắn bó với núi rừng. Trong khi đó, tục

ngữ Thái đã để lại cho thế hệ sau một kho tàng tri thức quý giá, giúp người dân lao

động Thái luôn chính xác trong ứng xử với thiên nhiên và với cộng đồng; luôn chiến

thắng trong cuộc đấu tranh chế ngự và chinh phục thiên phục thiên nhiên; luôn đoàn

kết, gắn bó, sẻ chia trong sinh hoạt ở làng xóm, bản mường. Tục ngữ đã đúc kết, khái

quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý… qua lối tư duy

hình tượng, lối nói hình tượng với những biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn

dụ ...Tục ngữ đã phản ánh khá phong phú những đức tính của nhân dân lao động

Thái, thể hiện truyền thống tư tưởng, đạo đức của người dân Thái thông qua những

nhận xét, suy ngẫm rất sâu sắc về hiện thực, về cuộc sống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 88

KẾT LUẬN

1. Hình thành trong đời sống, thể hiện cuộc sống, văn học dân gian Thái ở Mai

Châu luôn là tấm gương trung thành phản ánh hiện thực. Chính điều này mang lại sức

hấp dẫn và sự phong phú đa dạng của văn học dân gian trong đời sống văn học nói

chung của dân tộc Thái. Ở một mức độ nhất định, có thể thấy văn học dân gian Thái

còn gắn bó với thực tế cuộc sống nhiều hơn văn học viết khi nó đã đồng hành với

người dân Thái Mai Châu hơn bảy trăm năm qua, và ngày nay vẫn luôn theo sát với

đời sống mới của dân tộc Thái trong đời sống hiện đại ngày nay. Vì vậy văn học dân

gian dân tộc Thái Mai Châu giữ vai trò quan trọng không chỉ đối với văn hoá truyền

thống mà còn với cả chính con người trong cuộc sống đương đại.

2. Về nội dung, mỗi thể loại văn học dân gian Thái phản ánh một mảng hiện

thực sinh động trong cuộc sống của đồng bào Thái Mai Châu. Truyền thuyết bắt

nguồn từ cảm hứng tự hào và ngợi ca những anh hùng kiệt xuất có nhiều công trạng

với nhân dân Thái Mai Châu nói riêng và với đất nước nói chung; cổ tích thể hiện

ước mơ về một xã hội công bằng, không có áp bức, bóc lột; truyện cười đem lại tiếng

cười mua vui cho thiên hạ để cho họ giải tỏa những mệt nhọc, vất vả sau một ngày

lao động và phê phán, châm biếm, mỉa mai các thói hư tật xấu của con người; khắp

thể hiện những cung bậc, trạng thái phong phú, đa dạng trong tâm tư, tình cảm, khát

vọng của mọi người dân Thái; tục ngữ là những tri thức dân gian được đúc rút qua

thực tế cuộc sống của người dân lao động… Tổng hòa lại, với nội dung phong phú và

độc đáo của nó, văn học dân gian Thái Mai Châu đã góp phần quan trọng trong việc

bồi đắp nên những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Thái, trong đó nổi lên truyền

thống lao động cần cù, sáng tạo, truyền thống đoàn kết yêu thương đùm bọc, giúp đỡ

lẫn nhau, truyền thống chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, bảo vệ quê hương đất nước.

3. Về nghệ thuật, trước hết chúng ta có thể nhận thấy những yếu tố nghệ thuật

đơn sơ, mộc mạc qua cách diễn đạt so sánh, ví von độc đáo và nhiều hình ảnh. Đặc

biệt, thông qua hình thức diễn xướng phong phú, đa dạng, văn học dân gian Thái Mai

Châu đã và đang được bảo lưu khá bền vững trong sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt nghi

lễ của dân tộc Thái. Mỗi thể loại có những đặc sắc riêng: Truyền thuyết vừa hướng

người nghe về cõi thiêng bằng cách tạo ra được niềm tin trong đời sống tâm linh, vừa

tỉnh táo đặt ra và lý giải những vấn đề trọng đại đối với lịch sử phát triển của tộc

người, dù có thể chỉ là huyền sử nhưng những chi tiết trong truyền thuyết thường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 89

được coi là có thật, nhân vật thường được xây dựng với những nét đời thường bình dị,

thế tục; ít yếu tố kỳ ảo, phi thường. Trong khi đó truyện cổ tích là những chuyện hoàn

toàn hư cấu, yếu tố thần kỳ được sử dụng để giải quyết và thực hiện tất cả những ước

mơ, nguyện vọng về một xã hội tươi đẹp. Còn truyện cười là một lát cắt ngang trong

cuộc đời của nhân vật, với cấu tạo hết sức chặt chẽ và giàu kịch tính, mỗi câu chuyện

có dáng dấp như một màn hài kịch nhỏ, các tác giả dân gian Thái đã sử dụng nghệ

thuật phóng đại hiện thực để gây tiếng cười giòn giã, sảng khoái. Ở thể loại trữ tình,

có thể xem khắp ra đời như một đòi hỏi tất yếu của thực tiễn, đó là sự đáp ứng nhu

cầu trong lao động tập thể, nhu cầu bộc lộ những cung bậc tình cảm phong phú và

tinh tế của người dân Thái, những người đã tham gia khắp dù chỉ một lần trong đời sẽ

không thể quên nhịp điệu sôi nổi, mê say trong khắp xe; tâm tình, thủ thỉ ở khắp báo

sao; hào hùng, mạnh mẽ ở khắp Chương; rì rầm thành kính ở khắp mo… Cuối cùng,

nói về nghệ thuật của tục ngữ, chúng ta thấy rằng tục ngữ Thái thành công ở lối tư

duy hình tượng thông qua những biện pháp tu từ hiệu quả như so sánh, nhân hóa, ẩn

dụ ... bên cạnh đó, sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững

chắc cho tục ngữ Thái.

4. Hòa Bình là một tỉnh miền núi với dân số trên 80 vạn người gồm 7 dân tộc

anh em cùng chung sống, trong đó dân tộc Mường chiếm đa số với trên 60%, dân tộc

Kinh chiếm khoảng 30%, còn lại là các dân tộc Thái, Tày, Dao, Mông, Hoa… Mỗi

dân tộc đều hình thành và phát triển nền văn hoá và phong tục tập quán của riêng

mình. Các dân tộc cùng chung sống trên mảnh đất Hoà Bình đều có một kho tàng văn

học, nghệ thuật dân gian phong phú. Những giá trị đó được chắt lọc, sáng tạo nên từ

cuộc sống của người Mường, người Thái, người Dao, người Tày… từ bao đời, được

lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Bên cạnh sử thi

“Đẻ đất đẻ nước” vô giá của người Mường, tiếng sáo trầm hùng sâu thẳm của người

Mông, những bài dân ca da diết của người Dao… là “Ẳm ệt luông” quý báu, là điệu

khắp sôi nổi, say mê của người Thái, … Truyện kể dân gian của người Thái cho thấy

quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh của người Thái xưa tưởng tượng ra vừa thiêng

liêng, vừa hồn nhiên, vừa gần gũi thân thiết với cuộc sống hàng ngày của người dân

sơn cước. Các vị thần vừa nghiêm khắc nhưng lại hết sức bao dung, đồng cảm với

con người và chứa đựng tình người sâu sắc mà vẫn không mất đi sự linh thiêng của

họ. Còn các thể loại trữ tình cho thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú và quyến

rũ tuyệt vời của dân tộc Thái. Chính vì vậy, văn học dân gian Thái đã đóng góp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 90

những giá trị không nhỏ trong bức tranh toàn cảnh của văn học dân gian đại gia đình

năm mươi tư dân tộc Việt Nam. Văn học dân gian Thái sẽ mãi trường tồn trong nền

văn học dân gian tỉnh Hòa Bình nói riêng và cả nước nói chung.

5. Với những giá trị nội dung phong phú, đa dạng và nghệ thuật độc đáo, đặc

sắc, văn học dân gian Thái có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng nền văn học

nghệ thuật mới. Nhờ kế thừa và phát huy nền văn học dân gian của dân tộc mình nên

nhiều thế hệ các nhà văn, nhà thơ… dân tộc Thái ở Mai Châu ngày càng trưởng

thành. Tiêu biểu là nhà thơ Lò Cao Nhum:

“Ông nội tôi khai sinh miền đất

Bắt đầu là gồng gánh núi non

Ở trong núi có mồ hôi của đá

Trong đá kết tinh nỗi khổ

Nỗi khổ ủ niềm khát khao.

……………

Nghe mạch đất râm ran vọng điều linh thiêng

Hỡi mọi sinh linh mặt đất.

Trong ta trú ngụ một Thành Hoàng”.

(Trích “Ông nội tôi khai sinh miền đất” - Lò Cao Nhum)

6. Bảo tồn văn học dân gian Thái ở Mai Châu cũng là vấn đề chúng tôi quan

tâm trong đề tài này. Trong xu thế phát triển chung của xã hội, việc cố gắng giữ lại

trọn vẹn toàn bộ mọi giá trị của văn hoá truyền thống là một hành động duy ý chí và

không khả thi. Không thể phủ nhận rằng có không ít những giá trị văn hoá của truyền

thống đã không còn phù hợp và trở thành lực cản đối với sự phát triển của xã hội.

Văn học dân gian dân tộc Thái Mai Châu cũng không thể nằm ngoài quy luật đó. Tuy

nhiên, những tinh hoa của văn hóa, văn học dân gian truyền thống vẫn là vốn quý cần

lưu giữ và phát huy giá trị trong cuộc sống đương đại. Song, vấn đề bảo tồn văn học

dân gian dân tộc Thái cần được nhìn nhận theo hai hướng: hướng khai thác vốn cổ để

tư liệu hoá, lưu giữ, nghiên cứu; mặt khác cần chủ động đưa các thể loại văn học dân

gian vào một số sinh hoạt văn hoá đương đại, ví dụ như chủ động và tận dụng hình

thức thể hiện của nó trong các hoạt động sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, thông tin

tuyên truyền, đặt lời mới cho “khắp”, thi hát dân ca hay kể sử thi trong ngày hội sinh

hoạt văn hoá cộng đồng ... Đó chính là những phương thức bảo tồn văn học dân gian

dân tộc Thái theo hướng chủ động và hiệu quả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 91

Tóm lại, để nhằm bảo tồn và phát huy hết các giá trị của văn học dân gian Thái, trước hết chúng ta cần phải trả nó về với cộng đồng công chúng để họ giữ gìn và phát triển nó trong môi trường gốc. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy trong môi trường dân gian cần phải được nhận thức và ứng xử rất năng động, không cứng nhắc. Bằng ý thức và biện pháp bảo tồn phù hợp, văn học dân gian Thái Mai Châu sẽ được lưu truyền tới những thế hệ sau như một bằng chứng về tính đa dạng mà thống nhất của bản sắc văn hoá Việt Nam, góp phần tích cực vào việc ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tập quán lạc hậu ở địa phương.

7. Vấn đề đưa văn học dân gian dân tộc Thái vào giảng dạy ở một số tiết Ngữ văn địa phương trong các trường học Trung học cơ sở trên địa bàn huyện Mai Châu nằm trong định hướng bảo tồn và phát huy giá trị của văn học truyền thống.

Tháng 10 - 2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ra Nghị quyết số 29-NQ/TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, mà công việc trước mắt là đổi mới chương trình và sách giáo khoa. Được sự phân nhiệm của Chính phủ, tháng 11 - 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Đề án Đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015. Nét đột phá trong định hướng xây dựng chương trình phổ thông mới là ngoài những yêu cầu, nội dung mang tính bắt buộc trong toàn quốc, còn có phần dành cho các địa phương chủ động xác định, vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm dạy học của đơn vị, của thầy và trò. Theo đó, văn học địa phương sẽ là một nhân tố quan trọng tạo ra đặc trưng trong nội dung và phương pháp dạy học của mỗi đơn vị. Đây là hướng chỉ đạo thuận lợi để văn học dân gian dân tộc Thái Mai Châu đi vào chương trình Ngữ văn trong các trường trung học cơ sở, giúp học sinh nhận biết những điều gần gũi, thiết thực nhất, hình thành ở các em niềm yêu thích, hứng thú tìm tòi, lưu giữ và phát huy giá trị văn học, văn hóa dân gian của dân tộc.

Tóm lại: Với những thể loại phong phú, đa dạng, số lượng tác phẩm khá lớn; với các biện pháp nghệ thuật xây dựng tác phẩm độc đáo, đặc sắc; văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu đã đóng góp cho nền văn học địa phương nói riêng và văn học nước nhà nói chung những giá trị không thể phủ nhận. Chính sức sống của văn học dân gian trong cộng đồng người dân tộc Thái ở địa phương thông qua những hình thức diễn xướng vô cùng hấp dẫn đã chứng minh cho giá trị trường tồn của nó. Mong rằng những nghiên cứu về văn học dân gian dân tộc Thái ở Mai Châu và những tư liệu được cung cấp kèm theo luận văn này sẽ là những đóng góp nhỏ bé để mọi người cùng chung tay góp sức bảo tồn và phát huy các giá trị bền vững của văn học dân gian Thái, để nền văn học này ngày càng phong phú, sinh động và hấp dẫn hơn, góp phần hiệu quả vào việc giáo dục những thế hệ trẻ của dân tộc Thái ở Mai Châu ngày nay./.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, 5 tập, Viện Văn

học xuất bản, Hà Nội.

4. Trương Chính - Phong Châu (1987), Tiếng cười dân gian Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

5. Trương Chính (1986), Tiếng cười dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Lê Sĩ Giáo (chủ biên), Hoàng Lương, Lâm Bá Nam, Lê Ngọc Thắng (2006),

Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (2006), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Minh Hạnh, Phan Hồng Sơn (1986), Truyện ngụ ngôn Việt Nam, Nxb Giáo Dục,

Hà Nội.

9. Nguyễn Văn Hòa (2011), Dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa

Thông tin.

10. Hội văn nghệ dân gian (2012), Thơ ca nghi lễ dân tộc Thái, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

11. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

12. Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn (2008), Văn học

dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13. Vũ Ngọc Khánh, Trần Thị An (1998), Truyền thuyết Việt Nam, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

14. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (1997), Kho tàng diễn xướng dân gian Việt

Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

15. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo... (1995), Kho tàng thần thoại Việt Nam,

Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

16. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 93

17. Nguyễn Xuân Kính (1998), Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

18. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc

Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

19. Đặng Văn Lung (1997), Nghiên cứu văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên

cứu, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

20. Đặng Văn Lung, Trần Thị An (1995), Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc,

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

21. Vi Hồng Nhân (2004), Văn hóa các dân tộc thiểu số từ một góc nhìn, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

22. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước Cách

mạng tháng 8 năm 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.

23. Phan Đăng Nhật (2010), Văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số: Những giá trị

đặc sắc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Nhiều tác giả (1974), Bước đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, Sở Văn hóa

thông tin Việt Bắc, Bắc Thái.

25. Nhiều tác giả (1988), Tìm hiểu văn hóa cổ truyền của người Thái Mai Châu,

xí nghiệp in Hà Sơn Bình.

26. Nhiều tác giả (1989), Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

27. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam,

Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

28. Vũ Ngọc Phan (1996), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

29. Nguyễn Văn Phượng (2015) “Tiếp cận những khía cạnh cơ bản văn hoá dân tộc

Thái từ góc độ triết học”, Trang web trường Chính trị tỉnh Nghệ An.

30. Lê Chí Quế (chủ biên), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (1999), Văn học dân

gian Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

31. Trần Đình Sử (1978), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Tài liệu do tác giả luận văn sưu tầm (chưa xuất bản).

33. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 94

34. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (2012), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

35. Nguyễn Hữu Thức (2012), Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái ở Mai Châu,

Nxb Lao động, Hà Nội.

36. Trang web “Biên phòng Việt Nam” (24/4/2013), “Những nét văn hóa đặc trưng

của dân tộc Thái”.

37. Đỗ Bình Trị (1995), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Đặng Nghiêm Vạn (1977), Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

40. Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam,

khóa VIII.

41. Viện dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các dân tộc ở phía Bắc),

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

42. Tân Việt (1997), Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 95

PHỤ LỤC 1 MỘT SỐ VĂN BẢN VĂN HỌC DÂN GIAN THÁI Ở MAI CHÂU, HÒA BÌNH

(Tuyển chọn từ khoảng 150 câu tục ngữ, 30 bài khắp và 70 truyện kể

đã được tác giả luận văn sưu tầm trực tiếp trong dân gian và một vài tài liệu khác)

I. TRUYỀN THUYẾT

TRUYỀN THUYẾT THUYỀN ĐỒNG, THUYỀN DA

Người ta kể lại rằng: tổ tiên xa xưa củ a ngườ i Thái Mai Châu là ở Quảng Tây - Trung Quốc. Có ba anh em buôn bán ở kẻ chợ. Người anh cả lấy vợ Sống Thân, anh

thứ hai lấy vợ Vân Hóa; còn người em út ngược lên Khát lấy nàng Ngoăn Băn, sinh

được người con trai đặt tên là Miến Mấu Đông. Người con này lớn lên làm tạo

Mường Khà. Tạo Khà sinh được hai người con trai, con cả là con của bà hai tên là

Lăng Bôn, con thứ là con của bà cả tên là Lăng Bắp. Sau Lăng Bắp được tôn lên làm

anh do là con của bà cả. Khi các con lớn lên, tạo Khà cho Lăng Bắp ăn Mường Khà

Luông (lớn), cho Lăng Bôn ăn Mường Khà Nọi (nhỏ). Lăng Bôn không nhận và sắm

được thuyền đồng cùng với dân theo sông Hồng đi xuống, đến “ pắc nặm khi” (ngòi

của một con suối chảy ra sông Hồng) thì dừng chân.

Thấy Lăng Bôn cùng dân bỏ đi, Lăng Bắp chỉ kịp sắm thuyền bằng da trâu

cùng với mẹ và một số dân đuổi theo, gặp nhau ở “pắc nặm khi”. Hai anh em ở đó ít

lâu rồi cùng xuôi xuống theo dòng sông Hồng. Đến ngã ba sông, nơi sông Đà đổ vào

sông Hồng, đoàn thuyền rẽ ngược lên thượng nguồn sông Đà. Người em ngồi thuyền

đồng đi được nhanh hơn, đến thác Bờ thì dừng thuyền chờ thuyền của anh và mẹ.

Người anh và bà mẹ đi thuyền da trâu đã chậm, thỉnh thoảng lại ghé và bờ, cắt

một miếng da trâu rồi nhóm lửa nấu ăn nên càng chậm, mãi mới đến thác Bờ. Sau đó,

người anh và bà mẹ đổi sang thuyền đồng đi trước, người em đi thuyền da trâu đi sau

theo những vết người anh đánh dấu trên thân cây ven bờ. Nhưng đến ngòi Chò,

thuyền của người em gặp nước xiết quá nên không lên được nữa, những người trên

thuyền đành rời thuyền lên bờ đi bộ men theo suối Pó Sáng. Đi đến chân dốc Pù Khà,

khi đang nghỉ chân thì họ thấy một đàn chim sáo bay từ vùng trong ra. Đoán rằng

vùng đó có nước, họ men theo suối lên thượng nguồn và dừng chân ăn sáng, sau

người ta đặt tên dòng suối nhỏ này là suối “Kin Lành” (suối ăn sáng).

Ăn xong đoàn người đi tiếp. Đến một nơi thấy có mỏ nước và trước mặt là cả

một thung lũng rộng, bằng phẳng và có dấu vết người xưa đã ở. Tạo cùng đoàn người

thở phào “Ái chà chà” và dừng chân ở đó. Về sau người ta đặt tên nơi đây là “Kéo Ái

Tạu” (“Kéo” là đỉnh dốc núi, “ái chà” là tiếng thở phào và “tạu” là nơi dừng chân),

mỏ nước cũng được gọi là “mó ái tạu”. Sau bản Tạu cũng mang tên gọi này. (Nay là

bản Đậu, theo phiên âm của người Kinh).

Tạo cùng mọi người dừng chân ở đây và khai phá đất đai ở đây đến bản Tòng.

Nguyên do có tên bản Tòng là do người cai đội lấy ngọn giáo làm gậy chống xuống

một nguồn nước để cúi người xuống uống nước, khi nhấc ngọn giáo lên thì thấy tụt

mất mũi giáo bằng đồng. Ông mò mãi không thấy nên người ta đặt tên cho mỏ nước

này là “bó cháo tòng” (mỏ giáo đồng), khi bản hình thành cũng gọi là bản Tòng luôn.

Còn tên gọi bản Coọng là do khi khai phá đến đây thì người cai đội khi đang cầm

chiếc cồng đã trượt chân ngã, làm vỡ chiếc cồng (Coọng là chiếc cồng).

Khi mở mang đến Nà Pướt được hai năm thì tạo Lăng Bôn chết. Lúc đó nàng

Mường và cô hầu gái đều đang có mang. Vì buồn phiền nên nàng Mường muốn

cùng người dân quay về chỗ cũ, dân muốn giữ nàng nhưng nàng vẫn quyết ra đi.

Khi nàng về đến Nà Páng thì dân chặt cây ở Kẹm Màn chắn ngang đường, mong tạo

ra điềm để nàng thấy gở mà quay lại, nhưng nàng vẫn đi. Dân đành tiễn nàng về

Mường cũ chu toàn.

Đúng thời điểm nàng Mường ra đi thì người hầu gái trở dạ sinh được một

người con trai, dân đưa vào Nà Páng xin cho mẹ con người hầu gái ở lại và tôn con

của người hầu gái lên làm tạo. Tạo nhỏ cũng được đặt tên là Lang Bôn. Lớn lên, Lang

Bôn cùng với dân khai phá xuống đến bản Pheo, bản Uống, bản Lầu, bản Lôm. Tạo

lấy nàng Mường Móc (thuộc châu Mộc) sinh ra tạo Lang Bắt. Tạo Lang Bắt tiếp tục

cùng người dân khai phá xuống đến bản Nghẹ thì gặp người Xá Kha Lài (người Xá

Xăm Đùi) hay còn gọi là Ang Bóc (người Xá ngực bạc - do đeo khuy bạc ở ngực áo).

Lúc đầu người Thái muốn thuyết phục người Xá quy thuận về mình, nhưng người Xá

không chịu nên người Thái nhiều lần kéo đến đánh đuổi. Nhưng người Xá cũng rất

thiện chiến nên người Thái không khuất phục được. Người ta còn kể rằng khi người

Thái đi bừa thì người Xá lại leo lên đồi Pom Lai, dùng súng bắn đứt chão bừa của

người Thái, khiến người Thái không làm ăn gì được.

Một lần người Thái kéo đến đánh đuổi người Xá ở bản Nghẹ, họ dùng mưu

nhử cho người Xá bắn hết tên nỏ, hết đạn thì mới xông vào đánh, quân Xá thua to

nhưng vẫn quyết không bỏ đất.

Cuối cùng hai bên đã thương lượng và quyết đinh phân đi ̣nh thắng thua bằng

cách giao he ̣n bên nào bắn tên găm được vào vách đá thì bên kia phải đi nơi khác. Người Xá cậy sức mạnh, vót những mũi tên to nặng để bắn, song những mũi tên của

họ khi chạm vào vách đá đều bật ra hết. Ngườ i Thái đã dù ng me ̣o phết “khí sút” (sáp ong) vào những mũi tên nhe ̣, khi bắn tên dính vào vách đá. Về sau người ta gọi vách đá này là Pha Khí Sút (vách đá sáp ong).

Người Xá sau khi chôn cất quân tử trận đã di cư đến ở Pha Dôm (thuộc địa

phận xã Nà Phòn - Mai Châu ngày nay). Sau này dân bản Nghẹ cũng lấy nơi đã chôn

cất những người Xá làm nghĩa địa của bản, người ta bảo những ngôi mộ hướng về

Pha Dôm là mộ của người Xá Kha Lài.

Mãi về sau người Xá và người Thái mới làm lành với nhau. Bản Nghẹ có một

người Thái lấy vợ người Xá sinh ra một người con lớn lên làm đến phó bản.

Tạo Lang Bôn cũng lấy người Xá làm bà Mường, nhưng không sinh được con.

Lúc mới đến làm bà Mường, nàng người Xá rất xinh đẹp song ở được vài ba tháng thì

nàng ốm, người xanh xao. Nàng bảo người hầu về lấy thuốc ở chỗ cha mẹ đẻ. Uống

thuốc được ít hôm thì khỏi, nhưng cứ hết thuốc lại ốm, người hầu lại phải về lấy

thuốc. Mỗi lần lấy, thuốc đầu được gói buộc rất kỹ và bố mẹ nàng Xá dặn đi dặn lại là

dọc đường không được mở làm thuốc mất công hiệu. Một lần người hầu quá tò mò

nên dọc đường đã mở ra xem. Ông ta kinh hoàng thấy trong gói là xác một đứa trẻ

không mắt mũi, chân tay không ngón. Ông vội chạy về báo với tạo rằng thuốc mà bà

Mường uống là xác trẻ con đã được ướp. Tạo bèn trả nàng về với cha mẹ ở Pha Dôm.

Ít lâu sau tộc người Xá bỏ đi đâu không ai rõ.

Đuổi được người Xá, Tạo Lang Bôn cùng dân khai phá xuống đến bản Củm,

bản Bước, bản Ngõa… Tạo lấy con gái trong Mường sinh được con trai là Lạng

Thượng. Lạng Thượng lập chiềng ở bản Uống và lấy con gái quan Pưng Mường sinh

ra Tạo Lang Uôn. Tạo Lang Bôn cũng lấy con gái con quan Cuông sinh ra tạo Lang

Thanh. Lang Thanh lấy nàng Mường Dón Pi sinh ra tạo Lang Tông. Lang Tông lấy

nàng Mường Khời, sinh ra tạo Khà Bằng. Tạo cùng dân khai phá những đất đai bỏ

hoang, mở mang đến bản Pùng, bản Pheo, Nà Nóc… Tạo lấy nàng Ngăm sinh ra tạo

Lang Sôm. Lang Sôm lấy nàng Mường Khến sinh được ba con trai, con cả là Khằm

Pông, con thứ là Khằm Piềng, con út là Khằm Pành. Ba anh em cùng với dân khai

phá đất đai và chia nhau các vùng đất. Ông Khằm Pông ăn đất Mường Hạ, được coi

giữ gốc Mường. Ông lấy bản Uống, bản Lầu, bản Lốm, bản Nghẹ làm đất Mường.

Ông Khằm Piềng ăn đất Mường Thượng. Còn ông Khằm Pành không có đất nên ba

anh em mới sai dân xuống xem xét đất đai ở Mường Khoòng, thấy đất tốt, bằng

phẳng, người ta bảo “khừ lâu co” nên mới có tên là bản Lầu. Khằm Pành và một số

dân được chia xuống bản này. Ba anh em mổ một con bò sừng bọc đồng chạm trổ để

làm tiệc chia tay. Về sau thỉnh thoảng người ta lại lấy chiếc sừng bọc đồng ấy ở bản

Nghẹ, nó được làm thành chiếc tù và, người ta gọi đó là “khau ngùa tòng”. Sau khi

chia đất cho ba con,, tạo lang Sôm không ở với người can cả ở Chiềng Uống mà lên ở

với người con thứ hai ở Nà Pướt và lập nên Chu Mùn. Trước khi chết, ông giao

quyền Tạo Chu cho Khằm Piềng ở Nà Pướt.

Thời đó việc vua quan chưa nhiều lắm, tạo nào ở đâu đặt lệ ở đó. Hàng năm vua

chỉ buộc nộp thuế mang tính chất tượng trưng gồm năm tấm vải. Ông Khăm Pông bổ cho

Mường Thượng hai tấm, Mường Hạ ba tấm, còn Mường Khoòng không phải nộp. Chỉ

khi nào giết mổ trâu bò thì đem đùi biếu hai anh ở Mường Mùn (Mai Châu).

Một lần có hai người được phân công khiêng đùi trâu lên biếu, lúc ngồi nghỉ ở

Ma Ham, một người mặc áo đen lấy dao hí hoáy khắc nghịch lên đòn khiêng, không

ngờ thành câu “Em mổ trâu làm lễ “sờ nà”, cho hai người khiêng đùi lên biếu, xin

ông Hai giết người mặc áo đen khiêng đằng trước, để người mặc áo trắng khiêng

đằng sau”. Khi đến nhà tạo Chu , ông thấy lạ nên đánh trống họp mường. Nhiều

người ra xem, ai cũng bảo chữ nghĩa rõ ràng. Tạo anh bèn đem người mặc áo đen ra

giết. Người áo trắng thấy thế, hốt hoảng bỏ chạy về báo tin cho tạo út. Tạo út lên hỏi

tạo anh xem sự thể thế nào, đồng thời cho hỏi người áo trắng, được biết cả hai người

khiêng đều không biết chữ mà lại khắc thành chữ thành câu. Các tạo cho rằng là điềm

không lành, từ đó tạo em không phải biếu đùi trâu nữa.

Các đời sau, các tạo chi em ở Mường Mùn phải lên cống nộp cho chi trưởng ở

Mường Mộc. Các tạo chi em phân công nhau lên nộp, năm thì Mường Pa, năm thì

Mường Hạ, năm thì Mường Thượng.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 9 năm 2014)

TRUYỀN THUYẾT ÔNG BÁ HỘ

Bá Hộ có tên thật là Hà Công Đáng. Đời ông cha của ông là con nhà dòng dõi,

được tạo Mường phân cho xuống ăn đất Poọm Củm (bản Củm thuộc xã Vạn Mai

ngày nay).

Thời ấy Mường Mùn mới được triều đình cai quản đến. Đất nước luôn có giặc,

trong lần chiêu quan đầu tiên ở Mường Mùn, triều đình tuyển ba mươi người và cử

ông Hà Công Đáng đứng đầu đội quân này (cai đội); đồng thời cử ông Sứ Tây, người

bản Nghẹ, là em rể ông Hà Công Đáng làm lính “tin mừ” (trợ lý). Đội quân tập trung

tại Chu Án Nhà tại Chiềng Châu, cho mổ bò ăn tuyên thệ rồi giao quân cho hai người

của triều đình. Đội quân này được đưa lên phía tây bắc. Đến nơi được giao cho chặn

một cánh quân của giặc đang tụ lại, qua thăm thấy dò lực lượng của giặc đông gấp

nhiều lần, ông Hà Công Đáng và Sứ Tây bàn mưu kế. Ông Hà Công Đáng cử người

vào rừng lấy vỏ cây “hiềng hang nai” (loại vỏ cây thường được dùng để chế dây

châm ngòi thuốc súng hỏa mai), mang về phơi khô, bện chặt rồi cắt cho mỗi người

năm đoạn, mỗi đoạn dài khoảng gang tay. Ông lại bảo mỗi người vào rừng chặt lấy

cây nứa tép dài ba sải tay, mỗi cây được chia thành năm đoạn, mỗi đoạn khoét một lỗ

nhỏ vừa đủ để cắm dây châm ngòi thuốc súng hỏa mai. Tối đến, ông cho đốt tất cả

dây cháy chậm, vác cây lên vai và hành quân vòng đi vòng lại nơi giặc đóng quân

trong suốt đêm. Bọn giặc kinh sợ vì cho rằng bên Hà Công Đáng rất đông quân. Sáng

ra chúng lục tục rút quân. Thừa cơ Hà Công Đáng cho quân bất ngờ tấn công khiến

quân giặc bỏ chạy thục mạng.

Đánh tan giặc, Hà Công Đáng được triều đình phong cho chức Bá Hộ và cho

về quê. Ít lâu sau thì giặc Cờ Vàng kéo đến, triều đình giao cho ông Bá Hộ tổ chức

quân ở Mường Mùn chặn đánh cách quân của giặc từ Hồi Xuân (Thanh Hóa) lên.

Ông Bá Hộ chiêu quân và lập chỉ huy sở tại bản Lọng, còn gọi là đồn Co Nát.

Giặc Cờ Vàng men theo sông Mã đi lên, đến Quán Pế (nay thuộc xã Phú Lệ -

huyện Quan Hóa - tỉnh Thanh Hóa) thì chia thành hai cánh quân. Một cánh quân

ngược dòng sông Mã lên thượng nguồn, còn cánh quân thứ hai đi dọc theo suối Xia

vào Mường Mùn (Mai Châu). Đến bản Lọng (xã Vạn Mai) thì đụng phải quân của

ông Bá Hộ đang mai phục. Ông Bá Hộ trèo trên cây xằm pùng cao để chỉ huy trận

đánh. Cả hai bên đều tổn thất nặng, xác người đầy bãi chiến trường.

Giặc quá đông nên một phần quân và dân trong vùng phải chạy vào hang Hóm

(Thung Nghẹ), một phần khác chạy vào hang Hài. Giặc tưởng hang Hài chỉ có một

cửa nên hô mỗi tên một nắm đất sét đi qua ném vào cửa hang để vùi chết những

người trong hang. Khi cửa hang đã bị lấp đầy, bọn giặc bỏ lại chỗ đất thừa thành gò

đất sét ở bản Khán thuộc Vạn Mai ngày nay.

Tuy nhiên, số quân của ông Bá Hộ chạy vào hang Hài không những không chết

mà còn đi vòng theo lối cửa sau của hang rồi đánh tập kích giặc. Bọn giặc bị chết

nhiều ở bản Củm, bản Cha Lang nên phải kéo quân bỏ chạy.

Trước khi bỏ chạy, giặc đã chặt đầu các tù binh và rất nhiều dân thường mà

chúng bắt được. Chúng treo đầu của những người bị giết hại lên những cây tre rồi gác

lên gốc cây thị ở bản Bó (nay là bản Mỏ - Chiềng Châu - Mai Châu). Sau khi giặc

chạy, những nhà có người bị giặc giết đến nhận xác nhưng không ai có thể nhận được

mặt người thân của mình nên đành làm lễ chôn chung ở thửa Nà Tò (Chiềng Châu

ngày nay).

Sau khi giặc rút đi, những nhà có người tử trận đến tìm nhưng không ai nhận

được mặt người thân của mình nữa. Họ đành phải làm lễ chôn chung ở “hớ nà tò”

(thửa ruộng to) thuộc Chiềng Châu. Từ đó các gia đình người Thái có tục lệ thờ cúng

những người tử trận, Mường Thượng gọi là “phi chàng bàng”, Mường Hạ gọi là “phi

lang Khà” hoặc “phi tềnh hua”. Người ta dùng thịt vịt nấu cháo là đồ cúng, chỉ cúng

vào ban đêm khi mọi người đã ngủ, trong nhà phải dập tắt hết lửa, giấu hết các đồ vật

như súng nỏ, giáo mác, dao rìu… Các cụ giải thích rằng ma những người bị giặc giết

sẽ không đến ăn khi còn có những đồ vật có thể giết người ở trong nhà. Trong lễ

cúng, người cúng gọi oan hồn của những người tử trận tập trung ở gốc cây thị bản Mỏ

về ăn cháo.

Xác giặc chết ở chiến trường bản Lọng được chôn ở một gò đất gọi là Pom

Hua Hán (gò đầu người Hán), gò đất sau này đã bị phá và người ta còn nhặt được

những dấu tích của vũ khí bằng đồng ở đấy.

Sau khi qua đời, ông Bá Hộ được con cháu và dân bản lập miếu để thờ ở bản

Củm quê nhà.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 9 năm 2014)

II. CỔ TÍCH

1. Cổ tích về loài vật

KHỈ VÀ CÀO CÀO

Mới sáng tinh sương, đàn Khỉ đã nhảy, đu trên ngọn cây cao. Vốn tính hay

khinh thường các loài vật bé nhỏ hơn mình. Ngó xuống đám cỏ xanh, thấy đàn Cào

Cào còn ủ rũ nấp mình dưới các lá của bụi cây để tránh sương sớm.

Bọn Khỉ quát:

- Này Cào Cào bé nhỏ kia, có dám đánh nhau với bọn tao không?

Đàn Cào Cào bảo:

- Chả biết đánh nhau để làm gì? Phận anh thì ăn quả, chúng tôi thì ăn lá.

Khỉ lại quát:

- Bay ăn trụi hết lá, làm sao cây có quả? Trông mi bé nhỏ phải lụy bọn tao thôi,

cút khỏi nơi này!

Cào Cào nói:

- Chúng ta đi đâu thì cũng ăn lá rừng, có đánh nhau thì thử sức, nhưng chờ đến

sáng mai đã.

Sáng hôm sau đàn Khỉ lực lưỡng, oai nghi đã sẵn trong tay mỗi con một chiếc

gậy nhảy đu trên cành cây cao, gọi với xuống bảo Cào Cào:

- Này, Cào Cào ! Bắt đầu cuộc chiến thôi chứ?

Đàn Cào Cào bảo:

- Chờ cho ánh nắng chiếu xuống làm tan hết sương đã!

Khi ánh nắng mặt trời đã chiếu xuống tan sương; đàn Cào Cào cũng đã xòa phơi

khô bộ cánh và bảo với đàn Khỉ rằng đã sẵn sàng. Đàn Cào Cào từ các lùm cây dưới

thấp, bay ào lên, con đậu trên trán, con đậu trên đầu các con Khỉ. Nhìn thấy Cào Cào

đậu ở đâu, Khỉ liền giương gậy đập, khi chiếc gậy của Khỉ sắp đến mình là Cào Cào

vụt bay mất. Chiếc gậy của Khỉ đập hụt Cào Cào nện luôn vào trán, vào đầu của nhau

làm Khỉ rơi từ trên các cành cây cao xuống đất chết. Cứ thế đàn Khỉ thi nhau, bổ lên

đầu, lên trán của nhau. Đến lúc chỉ còn lại mỗi con Khỉ cuối cùng, nó mới nhìn xuống

dưới đất, thấy cả đàn, con thì nằm ngửa, con thì nằm sấp dưới các gốc cây. Nó hoảng

quá vứt chiếc gậy trong tay, chạy bán sống, bán chết. Đến lúc mệt quá nó nghỉ trên một

mỏm đá, lại ngồi đè lên lưng một con Rùa. Chàng Rùa rụt cổ lại kêu “khò khè”. Khỉ

nhìn xuống, nó đã hoa mắt không còn nhìn thấy con Rùa mà chỉ nhìn thấy bộ hạ của

nó; nó tưởng bộ hạ nó trêu, giễu cợt nó. Nó bảo: Tao sắp chết mà mày còn cười tao hả?

Nó vớ hòn đá bên cạnh nện luôn, bộ hạ bị vỡ nát ra và nó cũng ngã lăn ra chết nốt.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 12 năm 2014)

RÙA KHÓC THEN

Lúc mới sinh thành, người ta bảo: Trời còn thấp, đất và trời gần nhau lắm, ai cũng

có thể lên trời được. Người và muôn loài phải nghe Then, do Then định đoạt số phận.

Then muốn thử lòng dạ muôn loài ở dưới trần gian. Một hôm Then giả vờ chết

và cho truyền xuống dưới trần gian, bảo cho muôn loài biết và khóc tiễn đưa. Muôn

loài sẵn có lòng ghét Then vì cái gì Then cũng định đoạt được nên đua nhau khóc

rằng “May mà Then đã chết”.

Chỉ có con Rùa là biết Then giả vờ chết, nhưng giữa đường lên Then phải qua

một khúc gỗ to chắn ngang đường, Rùa không bò qua được, mặc dầu Rùa đã nhờ

nhiều loài đưa Rùa qua khúc gỗ, nhưng không có loài nào làm.

Loài người lên sau cùng, nhìn thấy chàng Rùa đang loay hoay bò qua khúc gỗ,

nhưng bò lên được nửa lại rơi xuống. Thấy người lên sau Rùa mới nhờ người, Rùa bảo:

Đưa rùa ta qua được khúc gỗ, thì rùa ta bảo cách khóc Then cho. Người mới

nhặt lấy con Rùa kẹp vào nách, bước qua khỏi khúc gỗ (Do đó loại người mới hay hôi

nách). Qua được khúc gỗ, Rùa mới bảo cho người biết là Then giả vờ chết, cho nên

phải khóc khác đi, đừng khóc như loài khác.

Rùa và người lên đến nhà Then sau cùng và khóc Then rằng:

“Then chết thì không có chỗ ở

Then chết thì không có chỗ làm ăn”

Tiếng khóc của con Rùa lại nhỏ, lí nhí nên Then không nghe được mà chỉ nghe

được tiếng khóc của con người. Lúc ấy Then bật ngồi dậy và truyền lệnh:

- Tất cả muôn loài ở dưới trần gian, loài nào quay lưng lên trời, mặt cúi xuống

đất thì loại người được phép ăn thịt hết.

Lúc đó Rùa mới thưa với Then và hỏi:

- Còn loài Rùa thì sao?

Then bảo:

- Mi cũng bị người ăn.

Chàng Rùa rụt cổ lại kêu “khò” một cái. Nhưng về sau, để nhớ đến công của

con rùa, người Thái không chủ tâm đi tìm bắt Rùa để ăn thịt, nếu tự nhiên gặp thì mới

được bắt.

Xuống dến trần gian, một số loài tụ tập lại ở một cái bịch lúa to, phản đối lệnh

của Then, thách thức, dọa dẫm con người.

Loài Dím và Don thì bảo:

- Lưng ta cắm trông gai, mũi ta biết ngửi hơi theo gió.

Bắt được ta, cho ăn cả cứt lẫn lông

Vì thế nên ngày nay, khi bắt được Dím, Don, người ta mới hay ăn phèo.

Còn loại Hổ thì bảo: “Ăn thịt ta thì ta ăn lại”.

Người bèn đóng cửa bịch lúa lại, châm lửa đốt. Các loài hoảng hốt chạy toán

loạn. Chàng Hổ tài nhảy, nhưng lửa vẫn bén lông cháy loang lổ, ngày nay da con Hổ

mới lông vằn. Chàng Nai thì cháy thành than đen (lông con Nai mới có màu đen, ngả

màu tro). Chàng Hoẵng thì cháy thành than đỏ (lông hoẵng mới có màu đỏ sẫm). Bắt

được Nai, được Hoẵng người ta có thể ăn gỏi được; người ta bảo thịt Hoẵng và thịt

Nai đã chín từ ngày ấy

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 9 năm 2014)

2. Cổ tích thần kỳ

NGƯỜI HÓA KHỈ

Ngày xưa có một nhà đông con, năm này qua năm khác chỉ nuôi con bằng ngô,

khoai, sắn. Lũ con rất thèm cơm, ngày ngày cứ đòi mẹ rằng:

“Páng páng pòn pòn

Cho chúng con ăn cơm mẹ ơi”

Từ xưa tới nay chỉ nuôi con bằng củ sắn, củ rừng; nghe các cơn đòi ăn cơm,

người mẹ nói:

“ Ừ các con chờ mẹ

Để mẹ đi phát nương đã”

Thấy mẹ đi phát nương về, những đứa con lại đòi:

“Páng páng pòn pòn

Cho chúng con ăn cơm mẹ ơi”

Người mẹ nói:

“ Ừ, thư thả nhé, ráng mà chờ

Để mẹ đi đốt cái nương đã

Thấy mẹ đi đốt nương về, lũ con lại đòi ăn cơm, người mẹ lại bảo: Thư thả đã,

cố mà chờ, để mẹ đi dọn vườn trồng lúa đã. Thấy mẹ đi trồng lúa về, lũ con lại đòi:

“Páng páng pòn pòn

Cho chúng con ăn cơm mẹ ơi”

Người mẹ phải từ chối con bao lần nữa, nào là làm cỏ, chăm bón, gặt, phơi, giã

gạo…Lũ con phải chờ ăn cơm của người mẹ qua cả một mùa lúa nương. Khi cơm

trong chõ đồ xôi đã chín, người mẹ đổ ra nia quạt cho cơm nguội, rồi mới gọi các con

đang chơi dưới sàn “ Hỡi các con ! Cơm của mẹ đã chín rồi, các con rửa tay đi, đến

đây mẹ cho ăn cơm. Lũ con đang chơi, đứa thì nhúng tay vào nồi chàm, đứa thì

nhúng ta vào máng nước rửa chân, đứa thì nhúng tay vào vũng nước gầm sàn… rồi

túm tụm vào nia cơm định thò tay vào bốc ăn. Người mẹ thấy thế tiện trong tay đang

có chiếc đũa cả liền phang ngay vào tay, vào đầu các con. Lũ con chạy tan tác xuống

dưới sân, đứa trèo lên nóc nhà, đứa trèo lên cây và kêu rằng:

“ Cu lích, cu lích

Ăn quả sấu không còn thấy chua

Ăn quả song mây không còn nghe ngứa

Chân tay đã mọc đầy lông

Không làm kiếp người với cha mẹ được nữa”

Người mẹ gọi lũ con bảo rằng : “ Hỡi các con ! Thứ lỗi cho mẹ, xuống đây về

nhà đi, về mà ăn cơm nếp của mẹ”.

Lũ con hóa thành khỉ nói rằng: “Không, không, ăn quả sấu không còn thấy

chua còn hơn, ăn quả song mây không còn nghe ngứa còn hơn”.

Lũ con biến vào rừng sâu và hóa thành đàn khỉ. Từ đó, dù có tức giận con đến

mấy, người Thái cũng không bao giờ lấy đũa cả đánh con hoặc đánh người khác,

thậm chí trong bữa ăn người Thái rất kiêng để đũa chạm phải người ngồi bên.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 8 năm 2014)

CHÀNG VOI NHỎ VÀ ÔNG XÙ XÌ BỐN MŨI NĂM MỒM

Chàng voi nhỏ thấy một hang dế mèn, chàng vác thuổng đi đào. Trên đường đi

voi nhỏ gặp một chàng đang lấy trán thay vồ đóng cọc bờ ruộng. Anh chàng lấy trán

đóng cọc hỏi xin đi theo. Hai chàng đi tiếp và gặp một chàng đang lấy tai tát nước.

Chàng lấy tai tát nước cũng hỏi xin đi theo. Ba chàng đang đi thì gặp một người lấy

móng tay đục cây làm máng nước. Anh chàng này cũng xin đi theo nốt.

Bốn chàng cùng đến hang dế mèn, thấy đống đất đùn từ trong ra lấp đầy kín

cửa hang. Bốn chàng lấy thuổng thay nhau đào bới từ sáng đến trưa mới nghe thấy

tiếng dế mèn lấy cẳng đá những hòn đất văng ra ào ào. Đào thêm một lúc mới nhìn

thấy những cẳng của dế mèn to như đùi trâu. Một chàng thò tay vào định tóm lấy

cẳng của con dế mèn thì bị một cú đá của dế văng ra xa, hai chàng tiếp theo thử sức

cũng bị nó đá bật lại. Cuối cùng chàng Voi nhỏ xông vào tóm được cẳng của dế mèn

nhưng cả bốn chàng lôi mãi vẫn không được. Họ đành bỏ ra ngoài.

Bốn chàng trai bàn nhau lấy nước đổ vào hang để cho dế mèn bị ngạt phải

chui ra. Thế là người nào vào việc ấy: chàng lấy trán đóng cọc đóng những chiếc

cọc lớn để đắp đập, chàng lấy tai tát nước tát một lúc nước đã đầy đập, chàng lấy

móng đục máng đục những đoạn máng vừa to vừa dài để dẫn nước. Nước ào ào đổ

vào hang dế một hồi lâu thì đầy. Quả nhiên dế mèn bị ngạt phải chui ra. Thừa cơ

chàng Voi nhỏ lấy thuổng đập chết dế mèn. Bốn chàng trai cùng làm thịt dế nhưng

lại không có lửa. Chàng Voi nhỏ sai chàng lấy trán đóng cọc đi xin lửa ở chỗ ông

Xù xì bốn mũi năm mồm.

Chàng lấy trán đóng cọc đi đến nơi thì không thấy ông Xù xì mà chỉ thấy bà

vợ của ông. Chàng chào bà và hỏi:

- Ông Xù xì đi đâu bà?

Bà Xù xì trả lời:

- Ông ấy đi vắng rồi.

Chàng lấy trán đóng cọc nói:

- Cháu đến đây xin lửa để nướng thịt dế mèn ăn.

Bà Xù xì nói:

- Thổi xem, chỗ nào đốm đỏ thì lấy.

Chàng lấy trán đóng cọc vừa cúi xuống định thổi lửa thì bị bà Xù xì quăng

chài chùm lên lên người và bắt ăn thịt luôn.

Chàng Voi nhỏ chờ lâu không thấy chàng lấy trán đóng cọc về liền sai chàng

lấy tai tát nước đi tìm. Đến nhà Xù xì, không thấy chàng lấy trán đóng cọc đâu.

Chàng chào bà Xù xì và hỏi:

- Bà có thấy chàng lấy trán đóng cọc đến đây không ạ ?

Bà Xù xì trả lời:

- Chả thấy lấy trán đóng cọc nào đến đây đâu.

Chàng lấy tai tát nước hỏi xin lửa. Bà Xù xì lại bảo tìm đốm đỏ mà lấy, rồi

chàng cũng bị ăn thịt giống như chàng lấy trán đóng cọc.

Chờ mãi không thấy hai bạn về, chàng Voi nhỏ lại bảo chàng móng tay đục

máng đi tìm. Rồi chàng lấy móng đục máng cũng bị bà Xù xì lập mưu ăn thịt.

Thấy các bạn không về, chàng Voi nhỏ đi tìm. Vừa đến nhà Xù xì, chàng thấy

mồm mép bà Xù xì còn đầy máu me, Voi nhỏ đã biết có chuyện không hay. Chàng

hỏi bà Xù xì:

- Ông nhà đi đâu hả bà ?

Bà Xù xì bảo:

- Ông ấy đi cắt gianh.

Voi nhỏ lại hỏi:

- Thế bao giờ thì ông ấy về ?

- Bao giờ thấy râm một góc trời là lúc ông ấy về.

Voi nhỏ chờ được một lát thì thấy trời đang nắng mà bỗng nhiên râm lại. Nhìn

ra thì thấy ông Xù xì đang gánh gianh đi về, gánh gianh quá lớn che khuất cả mặt trời

nên trời bỗng nhiên râm mát. Voi nhỏ nhìn thấy một con hoẵng còn sống bị kẹt ở đầu

gánh gianh của ông Xù xì. Ông Xù xì vừa dặt gánh gianh xuống thì Voi nhỏ chạy đến

kéo con hoẵng ra. Đến lúc đấy ông Xù xì mới biết là có con hoẵng, ông giật lấy và hỏi:

- Mày đến đây làm gì ?

Voi nhỏ bảo:

- Ta đến đây đòi nợ ông bà đó.

Ông Xù xì quát:

- Tao nợ mày từ bao giờ ?

Voi nhỏ chỉ tay về phía đống xương của ba người bạn và chỉ vào bà Xù xì

mồm còn đầy máu me.

Ông Xù xì vứt con hoẵng trong tay, xông vào vật lộn với chàng Voi nhỏ. Hai

người đánh nhau từ chiều đến tối không phân thắng bại. Cả hai lăn từ trên sườn núi

xuống sông Mã mà vẫn tiếp tục vật lộn làm đục ngầu cả một khúc sông. Người dân ở

ven sông tưởng là mưa đầu nguồn làm cho nước đục nên xách chài đi kiếm cá, nhưng

họ quăng mãi mà không được cá. Một người đánh chài đi ngược dòng lên trên thì

thấy hai con nhãi đang đánh nhau. Ông tức quá nhạt hai con nhãi bỏ vào giỏ đeo sau

lưng. Vào giỏ mà hai con nhãi vẫn còn đánh nhau làm cho người đeo giỏ lúc ngã sấp,

lúc ngã ngửa. Ông tức mình lại vứt hai con nhãi xuống sông. Thấy bọn nó vẫn đánh

nhau làm đục nước, ông nhặt lên, bẻ đùi rồi vứt một con lên bờ, nó chết hóa thành rau

cút. Con kia ông vứt xuống nước, chết hóa thành loài cá mương. Vì vậy, người Thái

Mai Châu kiêng nấu canh rau cút với cá vì họ cho rằng làm thế sẽ khiến ông Xù Xì và

chàng Voi nhỏ tiếp tục đánh nhau, gây ra mưa bão.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 6 năm 2014)

3. Cổ tích sinh hoạt

KẺ TRỘM

Vào quãng nửa đêm, gà trong chuồng nhà nọ kêu quang quác. Chủ nhà nghi có

trộm nên chủ nhà lẻn xuồng sân, mò mãi mới được cái chày giã gạo làm vũ khí. Dò

dẫm đến bên chuồng gà, ông lờ mờ thấy có kẻ đang chúi đầu vào trong chuồng gà

liền giáng một chày vào lưng hắn, nào ngờ tên kẻ trộm lăn ra chết.

Sợ mắc phải tội giết người, ông tìm cách đổ lỗi cho người khác. Đến gần sáng,

ông sang nhà hàng xóm dắt trộm con trâu. Ông đặt xác chết nằm úp trên lưng trâu rồi

che chiếc nón lên đầu. Xong ông dắt trâu ra ăn lúa của chủ trâu.

Sáng ra ông chủ ruộng lúa mở cửa sổ nhìn ra đồng, thấy trâu của ai đang ăn lúa

nhà mình, gọi mãi mà người nằm trên lên trâu vẫn không nghe. Ông bực mình, xuống

sân nhổ cọc rào, chạy thẳng ra đồng nện luôn một gậy vào lưng người đang nằm sấp

trên lưng trâu và quát:

- Này thì vừa chăn trâu vừa ngủ, để trâu ăn lúa này !

Con trâu nhảy chồm lên. Cái xác cứng đờ rơi xuống. Ông chủ ruộng lúc này

mới biết có ai đó đã tìm cách đổ tội cho mình. Ông về nhà bàn với vợ rồi hai vợ

chồng đem mấy hòm đựng của cải đổ ra sân phơi, làm cho kẻ trộm để ý. Tối đến ông

bảo vợ bí mật thu dọn của cải lại, rồi hai vợ chồng ra đồng khiêng cái xác về bỏ vào

chiếc hòm lớn nhất, rồi khóa lại tử tế.

Nửa đêm, kẻ trộm đảo đi đảo lại mà vẫn thấy chiếc hòm lớn ở đó, hắn nghĩ là

chủ nhà bỏ quên. Hắn đi rủ người cùng đến khiêng trộm chiếc hòm. Hai tên khiêng

chiếc hòm đi xa khỏi bản. Tên khiêng đằng sau muốn được phần hơn nên lén lấy

dao nhỏ cắt quai hòm, vừa đi vừa thò tay vào trong để rút trộm đồ. Đầu tiên hắn sờ

phải tóc người chết, tưởng là tơ tằm hắn muốn kéo ra để giấu đi nhưng kéo mãi

không được. Thọc tay sâu hơn vào trong, hắn sờ phải cái xác lạnh ngắt. Hoảng hồn,

hắn kêu lên:

- Ôi, có người !

Tên khiêng đứng trước tưởng có người đuổi theo nên bảo “ Có người thì chạy

mau lên” rồi chạy thục mạng, kéo theo cả tên khiêng đằng sau chạy theo. Được một

quãng xa, mệt quá, hai thằng đi chậm lại một chút. Tên khiêng sau lại sờ vào hòm

kiểm tra lại, hắn lại kêu lên “ Ôi giời, có người thật”. Tên khiêng trước lại kéo chạy.

Đến khi không thể chạy nổi nữa, hai tên mới đặt khiêng xuống, thở hồng hộc. Tên

khiêng trước chưa biết gì nên vội vàng mở hòm ra. Bên trong chỉ là cái xác đã lạnh

ngắt, cứng đờ. Hai tên sợ bị tội nên đành đào hố sâu chôn phi tang kẻ ăn trộm gà.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ nghệ nhân dân gian Hà Trung Tín,

sinh năm 1941, ở xóm Mỏ - xã Chiềng Châu – Huyện Mai Châu vào tháng 04 năm

2015)

MA CÀ RỒNG

Cô gái rất xinh vừa mới lấy chồng, cô có thói quen đi cấy thấy “mác nhú cáu”

(một loại cây nhỏ, hay mọc ở bờ ruộng, có quả và lá ăn được) thì thường hái ăn sống.

Trong bản có một chàng trai thầm yêu cô gái mà không lấy được. Biết cô có

thói quen ấy, chàng trai rỉ tai người chồng của cô gái:

- Vợ anh là ma cà rồng đấy.

Người chồng hỏi lại:

- Sao anh biết ?

Chàng trai bảo:

- Anh cứ để ý mà xem, khi đi cấy thỉnh thoảng cô ấy lại bắt nhái ăn sống đấy thôi.

Từ đó người chồng để ý vợ. Mỗi khi vợ đi cấy, người chồng ngồi rình từ xa,

thấy thỉnh thoảng vợ mình lại nhặt gì đó ở bờ ruộng, bỏ vào miệng nhai vẻ rất ngon

lành. Người chồng bắt đầu tin lời chàng trai.

Một hôm chàng trai lại nói chuyện với người chồng:

- Anh có muốn vợ mình không bị biến thành ma cà rồng không ?

Khi chồng cô gái bảo là rất muốn, chàng trai dặn anh ta mỗi ngày anh phải “bà

khớp hườn” dang sải tay ra, đi xung quanh nhà hai lần vào buổi sáng và buổi tối để cô

gái không biến thành ma cà rồng đi kiếm ăn được. Anh còn dặn thêm:

- Nhưng anh phải cẩn thận, lúc chưa khỏi hẳn, nửa đêm nó đói sẽ thò tay móc

ruột người để ăn đấy.

Người chồng tưởng thật, hàng ngày cứ dang tay đi xung quanh nhà vào buổi

sáng và buổi tối. Trong đêm anh không dám ngủ vì sợ bị vợ móc ruột.

Thấy anh chồng đã tin lời mình, chàng trai lại tìm cách nói chuyện với cô gái:

- Chồng của cô điên, ngày nào cũng dang tay đi quanh nhà. Nó sắp mọc đuôi

biến hóa rồi đấy. Nửa đêm cô sờ thử xem đuôi đã mọc đến đâu rồi.

Cô gái tưởng thật. Đêm đến tưởng chồng đã ngủ say, cô nhẹ nhàng tìm cách sờ

thử xem đuôi đã mọc đến đâu. Người chồng vẫn đang thức, thấy vợ sờ vào đít mình

thì hoảng sợ la toáng lên “ Ối ! Ma cà rồng, ma cà rồng móc ruột”. Chàng chạy một

mạch về nhà mình, ai khuyên thế nào cũng không dám quay lại nữa.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, 82 tuổi,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 02 năm 2015)

III. TRUYỆN CƯỜI

XỰ PHONG

Người ta kể rằng: Xự Phong là người dân thường ở Mường Mộc (Mộc Châu

ngày nay). Án Nhà Mường Mộc cho xuống theo hầu người con gái của ông đi lấy

chồng xa là Án Nhà Mường Pa (thuộc một vùng của huyện Mai Châu ngày nay). Lúc

đầu Xự Phong rất ngoan ngoãn, được Án Nhà tin cậy, coi như người trong dòng tộc.

Một lần Án Nhà mường Pa bảo Xự Phong nếu lấy được thanh kiếm chuôi ngà

voi của Án Nhà Mường Mộc cho ông ta thì có tội sẽ được tha, mắc vạ không bị phạt.

Nhân một lần lên cống nộp, Xự Phong lấy được thanh kiếm của Án Nhà

Mường Mộc đem xuống cho Án Nhà Mường Pa. Từ đó, Án Nhà mường Pa phải giữ

lời cam kết.

ĐIỀU MONG

Trong lúc thư giãn, Án Nhà cũng hay tâm sự với Xự Phong. Một lần Án Nhà

muốn thổ lộ với Xự Phong những điều mình mong muốn nhưng lại muốn cho Xự

Phong thổ lộ trước. Vì vậy Án Nhà hỏi:

- Xự Phong, ngươi mong muốn cái gì nhất ?

Xự Phong hỏi lại:

- Thế Án Nhà mong muốn cái gì hơn ? Án Nhà nói trước, con nói sau.

Án Nhà bảo:

- Ta thì ta mong có người nào mắc tội để ta bắt phạt vạ, lấy tiền, lấy của, lấy gà

lợn ăn cho đã đời. Còn ngươi muốn gì ?

- Dạ, xin lỗi Án Nhà, con thì con mong Án Nhà chết, để được làm đám ma to ạ.

Án Nhà trợn mắt quát:

- A, thằng phản chủ, mày lại mong cho tao chết hả.

Xự Phong giả bộ sợ hãi:

- Dạ… Án Nhà có chức, có quyền, mong cho dân mắc tội để được phạt vạ,

được tiền lại được ăn. Còn phận tôi tớ như con, chỉ có mỗi cách là Án Nhà chết mới

được làm ma to, được tha hồ ăn thịt, vì vậy con mong thế.

Án Nhà ớ lên một tiếng.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, 82 tuổi,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)

BẮT CUA

Một hôm Án Nhà và Xự Phong đi săn. Trên đường về nhà, Xự Phong thấy một

con cua chạy vào bên trong hốc đá. Xự Phong bảo:

- Án Nhà, có con cua.

Đi săn từ sáng đến giờ không gặp con thú nào, vì vậy Án Nhà bảo:

- Cua thì bắt chứ sao, nó ở đâu ?

Xự Phong chỉ vào hốc đá và bảo:

- Nó vừa chui vào đây, Án Nhà cho tay vào xua nó chạy nó sang bên kia, để

con sang bắt nhé, con cua to lắm.

Án Nhà không biết là hốc đá không thông sang bên kia nên khi vừa thò tay vào đã

bị cua cắp ngay vào ngón tay, ông kêu thét lên vì đau. Xự Phong giả bộ cuống quít:

- Ông ở yên, càng động đậy nó càng cặp chặt đấy.

Rồi Xự Phong lấy bao diêm trong túi ra, xòe một que, rồi chọc thẳng que diêm

đang cháy vào mông Án Nhà. Bị nóng đột ngột, Án Nhà giật mạnh tay ra. Trên ngón

tay còn nguyên cái càng cua vẫn cặp chặt. Ông mắng:

- Thằng trời đánh, mày làm gì vậy hả ?

Xự Phong bảo:

- Con mà không làm cách ấy thì sao ông rút tay ra được.

Án Nhà giơ ngón tay bị cua cặp lên, mặt méo xệch.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, 82 tuổi,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)

IV. KHẮP.

I. Khắp nghi lễ - phong tục:

KHẮP SỬ THI “MỞ HỌNG TRỜI”

Hết đoạn trước, kể dòng sau

Hết dòng sau, kể đoạn mới.

Đẵn cây, chém đắng gốc,

Nhấc cây, lấy đằng ngọn.

Kể chuyện, kể dòng trước, dòng sau

Mo không lẫn mất lời,

Mo không quên mất đoạn.

Nhầm mất lời, sợ không thọ

Lẫn mất đoạn, sợ chết sớm.

Đây là chuyện đời xưa kể lại

Đây là lời tổ tiên truyền cho.

Đời xưa, truyền để mo khấn

Đời xưa, truyền để mo kể.

Mo xin kể từ đầu đến cuối

Kể đủ như cây cỏ mọc trong rừng.

Mo xin kể năm, kể tháng mới có,

Mo xin kể năm, kể tháng trời mới làm ra.

Ngày xửa ngày xưa thủa trước

Ngày xưa thời xa xăm

Họ bảo cái gì thành tiếp sau trời

Cái gì thành tiếp sau đất ?

Họ bảo thành tiếp sau trời

Chỉ có gà trống đỏ cựa độc

Gà trống đỏ cựa đồng

Nó ở Mường Bôn cao vút

Ở Mường Mây cao xa

Nó ở sân nhà Then, nơi gái giã gạo

Nó ở sân nhà Then, nơi gái đập lúa

Hết năm nó vỗ cánh gáy

Trên cối, gái nhà Then hay giã gạo

Lên trên máng chày lúa nhà Then nó gáy

Gáy một lần cựa nó chưa rơi

Gáy năm sáu lần cựa nó mới rụng

Một cựa rụng xuống nước

Thành cá đày khày đuôi đỏ

Rụng xuống vườn rau tành

Thành rau tành cuống tím

Rụng xuống vườn trước cửa

Hóa thành hoa mào gà vàng

Rụng xuống vườn sau nhà

Hóa thành hoa mào gà đỏ

Một cựa rụng xuống đồi núi

Hóa thành hoa bưởi, hoa vông

Thành tháng giêng năm mới!

Tháng giêng tiếp là tháng hai

Tiếp là tháng ba, tháng tư

Trăng lên đỉnh núi sáng trong

Hai đầu nhọn tựa sừng trâu

Dân Mường hỏi tháng chi tháng này?

Trẻ em chạy về nói

Người già mời ra xem

Ngắm nghía trăng đúng mồng ba hàng tháng

Họ bảo:

Tháng này là tháng giêng, tiếp là tháng hai

Tiếp nữa là tháng ba, tháng bốn

Tháng giêng hoa gạo hé nụ dùi trống

Tháng hai hoa vông hé nụ cựa gà

Tháng ba nước chảy tràn khe suối

Không có nước tràn khe để đơm đó

Tháng tư nước tràn vào khe cạn

Nhưng không nước vào khe để chặn bắt cá

Tháng ba họng trời còn kín còn tắc

Còn kín như lưỡi sáo

Còn kín như lưỡi khèn

Rễ cây si còn cuốn họng trời

Rễ cây đa còn cuốn tắc họng Bôn

Nàng Ặc ở Mường Bôn

Chưa cho trời rung

Nàng Ắn ở Mường trời

Chưa cho trời chớp

Nàng Nè ở Mường trên

Chưa cho trời sấm

Trời không sấm chưa có mưa

Trời không mưa

Dân Mường trần chưa cúi mặt làm của

Trời chưa sấm chưa chớp

Dân Mường dưới chưa cúi lưng làm việc

Xong ăn cơm họ chỉ ngồi

Ăn cơm rồi họ chỉ chơi

Người đi bán không biết giá

Người đi mua không biết lối cả

Ba mươi ngày nàng trăng xuống thấp

Ba mươi đêm nàng trăng mới lặn

Trăng lặn tối như hũ nút

Đêm tối như trong tổ tò vò

Hết tháng này tháng sau lại đến

Hết tháng này tháng khác mở ra

Trăng lên đỉnh núi sáng trong

Hai đầu nhọn tựa sừng trâu

Dân Mường bảo tháng chi tháng này

Trẻ con chạy về nói

Người già lại ra xem

Ngắm nghía trăng đúng mồng ba hàng tháng

Trẻ con lại nói

Người già lại bảo:

Tháng năm tiếp tháng sáu

Tháng sáu tiếp là tháng bảy tháng tám

Tháng năm lá mạ nẩy mầm, hoa hé nụ sát cành

Khướu đua hót ở rừng sâu.

Tháng bảy lũ lụt nắng gắt

Nhưng không có mưa làm lũ

Tháng tám trời sấm sét mưa to

Nhưng không có mưa to lũ lụt

Họng trời còn kín còn tắc

Còn kín như lưỡi sáo

Còn kín như lưỡi khèn

Nàng Ặc ở Mường Bôn

Chưa cho trời rung

Nàng Ắn ở Mường trời

Chưa cho trời chớp

Nàng Nè ở Mường trên

Chưa cho trời sấm

Trời không sấm

Người Mường dưới cúi mặt làm của

Trời chưa mưa

Người Mường trần chưa cúi lưng làm việc

Người đi bán không biết giá

Người đi mua không biết lối cả

Ăn cơm xong họ chỉ ngồi

Ăn cơm rồi họ chỉ chơi

Ba mươi ngày nàng trăng xuống thấp

Ba mươi đêm nàng trăng mới lặn

Trăng lặn, tối như hũ nút

Đêm tối như tổ tò vò

Hết tháng này tháng sau lại đến

Hết tháng này tháng khác mở ra

Trăng lên đỉnh núi sáng trong

Hai đầu nhọn tựa sừng trâu

Dân Mường bảo tháng chi tháng này

Trẻ con lại về nói

Người già lại ra xem

Ngắm nghía đúng mồng ba hàng tháng

Họ bảo:

Tháng chín hết tháng mười đến

Tháng mười giáp tháng mười một, tháng chạp

Tháng một, tháng chạp

Không phải tháng mưa lũ

Trời không sấm tháng chạp

Trời sẽ sấm tháng giêng

Mong ngày này ngày sau cũng vắng

Mong đêm này đêm khác cũng không

Lời đầu họ nói

Lời sau họ bảo

Lo sao làm được

Ước sao được vàng của quý

Làm sao cho trời tung lưỡi tầm sét bằng đồng

Thủa ấy có:

Anh Làng Cặp và anh Làng Có

Lưỡi dài bằng quả núc nác

Mắt to bằng quả xổ

Nước trong vại còn trong

Trong lòng họ trí sáng

Giã gạo cho vào túi đeo lưng

Rìu lưỡi săc đeo lên vai

Múa kiếm lên Mường Bôn sáng loáng

Múa rìu lên Mường trời cao xa

Đến tận gốc cây si Mường trời

Xem tận gốc cây đa Mường Bôn

Tay che mắt trái để ngắm

Nheo mắt phải để xem

Rễ cây si cuốn tắc họng trời

Rễ cây đa làm tắc họng Bôn

Rễ cây si cuốn tắc họng không có lối trời sấm

Rễ cây đa cuốn tắc họng không có đường cho trời gầm

Trời không sấm, không sét

Không có mưa có lũ

Ba mươi chiếc rìu Thái họ chém

Ba mươi chiếc rìu Xá họ chặt

Cắt rễ cây si không để cuốn họng trời

Chặt rễ cây đa không để tắc họng Bôn

Chặt rễ cây si để trời có lối gầm

Chặt rễ cây đa để trời có lối sấm

Nàng Ặc ở Mường Bôn

Mới cho trời rung

Nàng Ắn ở Mường trời

Mới cho trời chớp

Nàng Nè ở Mường trên

Mới cho trời gầm, sấm

Trời muốn sấm mồng một

Sợ đánh đè vía trâu

Trời muốn sấm mồng hai

Sợ đánh đè vía lúa

Trời muốn sấm mồng chín

Sợ đánh đè vía ông Mo

Trời chọn ngày được ngày tốt

Chọn ngày được ngày đẹp, lành

Chọn ngày được ngày chắc chắn

Chọn ngày được ngày bền lâu

Trời lui lại sấm ngày cột

Trời lui lại sấm ngày rụng

Trời làm râm từ sáng đến trưa

Râm từ trưa đến tối

Chọn giờ được giờ tốt

Chọn giờ được giờ lành

Trời mới tung lưỡi tầm sét bằng sắt

Trời mới tung lưỡi tầm sét bằng đồng

Trời gầm, sôi như nồi cháo

Trời gào như nồi canh rêu

Trời tung lưỡi tầm sét xuống đất

Sấm đầu năm tiếng nặng

Sấm đầu năm tiếng vang

Dân Mường nghe sấm

Mọi người hú vía về bản

Người già trong bản, quan ngồi trên sập

Nghe trời sấm hú vía về nhà

Trời sấm đầu năm nay con gì nghe trước

Chim chào mào đậu cành tre

Chẻo bẻo đậu cành cây trước nhà

Nó bảo: Trời sấm nghe trước muôn loài

Voi, ngựa cúi đầu gặm cỏ

Ếch trong vườn cằm ngắn

Dím ở trong hang thính tai

Trời sấm, cũng bảo nghe trước muôn loài

Hươu, nai ăn cỏ đồi cao vót

Chim Càng Cót lông mượt

Gà lôi lông dày

Trời sấm cũng bảo nghe trước muôn loài

“Úm áy” mọc ven đồng

Cua, cá ở dưới nước

Ve sầu kêu rền vang

Mành Lền kêu dồn dập

Trời sấm cũng bảo nghe trước muôn loài

Rau “hác” mọc trước cơn giông

Măng đắng mọc để nghe trời sấm

Chim Khài Khó xuống bảo làm nương

Chim Khài Khoáy xuống bảo làm ruộng

Bảo người sửa cuốc, sửa rìu

Bảo người làm ruộng sửa cày, sửa bừa

Làm ruộng lấy cơm ăn

Trời sấm cũng bảo được nghe trước muôn loài

Các quan ở bên chum rượu

Người già ở trên sập

Trời sấm cũng bảo nghe trước muôn loài

Họ bảo:

Trời sấm đầu năm trên Sông Đà thì sửa gác

Sấm đầu năm cuối nguồn Sông Mã sửa thuổng

Trời tung lưỡi tầm sét bằng sắt xuống ầm ầm

Tung lưỡi tầm sét bằng đồng xuống ào ào

Mưa phun đổ lá mía

Tia mưa đổ mái gianh

Mưa giây xuống nguồn sông Mã

Mưa tuôn xuống nguồn sông Đà

Hạt mưa to bằng quả gắm

Suối cạn, hố hốc tràn đầy

Các hố củ mài đều tràn nước

Các gò mối tan thành bãi bằng

Cuối đồng thành sóng trắng

Ven đồng thành sóng bạc

Trời mưa xuống Mường dưới

Muôn cây đua nở đâm chồi

Muôn loài vật đua nhau kêu

Trời mưa xuống Mường trần

Dân chúng vui cầy ruộng mạ

Trời mưa xuống Mường dưới

Dân chúng vui cầy ruộng mùa

Mo nói ngần ấy đủ bề

Mo kể bằng này đã đủ biết

Mo kể năm, tháng

Then lớn mới sinh ra

Mở họng trời từ thời xa xưa ấy

Nhớ lấy để trong lòng mãi mãi

Nhớ lấy để trong bụng muôn đời.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Hà Văn Hoan, sinh năm

1942, ở Xóm Vặn - Xã Piềng Vế - Huyện Mai Châu vào tháng 11 năm 2014)

KHẮP “HỎI VỢ”.

Tôi về đây thăm ông, mong nên anh nên em.

Không có rau, xin ông chỉ vườn.

Không có nhà, mong ông cho gỗ.

Thiếu người, ông cho người,

Sợ con voi, tôi xin vào nấp ngà,

Sợ núi đá, tôi xin vào nấp vách đá.

Sợ ông, tôi vào nấp đầu gối ông, xin cơm.

Gánh đồ tôi xin gửi lại đây

Bố mẹ thương cho không

Họ ngoại thương cho gặp

Ông bà thương cho đi lại.

Xin dựa gốc cây cọ, cuống lá gốc,

Xin dựa gốc cây cọ, cuống lá dày.

Xin dựa nhờ bố mẹ bên ngoại, dựa nhờ các anh, các em.

Mong có người về nối nghiệp cha ông.

Để gầm sàn có đống củi to,

Đầu chỗ ngủ có người quét dọn.

Tôi người cũ, người xưa không khéo.

Nói năng vụng về, lại ít tinh thông

Không dám đi đường cái, chỉ dám đi đường con sóc.

Đất ông, bản mường tôi.

Mong cho đông bản, nhiều mường.

Mường úp bản như máng gạo úp ôm.

Đóng nạc bản, không để cột héo,

Đóng nạc bản, tôi không để cột nghiêng.

Vách đá có sơn dương, đất mường có chủ.

Có người giúp việc làm ăn.

Nối nghiệp tổ tiên có người nắm cơm trao tay

Có người dắt ra bến suối bảo cách tháo nước.

Đất Mường Mai tôi có năm mường.

Mường Thượng, Mường Hạ, Mường Pa, Mường Mùn...

Bảo nhau làm việc,

Làm nhà kéo nhau sang giúp,

Cưới con mời nhau sang thăm.

Đi buổi sớm không mang cơm trưa,

Về buổi chiều, không mang cơm tối.

Đi có chỗ nghỉ, về có chỗ chơi.

Nên anh, nên em, cô, dì, chú, bác.

Nói phải, ông gả con cho,

Nói trái ông cũng gả con cho.

Đất Tạo tôi dài, rừng Tạo tôi rộng.

Nơi Tòng Đậu, Lồm Nọi ở trong, Lổm Luông ở ngoài.

Núi Tá Nghẹ có bãi gianh lớn

Ngòi Chò có hòn đá Mé

Nơi ấy, cây phay chẽ ba nhành

Cây đa cổ thụ ở núi Khà Lê

Dây mây nhiều ở ao Ánh

Suối nước đục có đá Chồng Mâm

Có núi Bộc xem ruộng

Có núi Phai Dôm nhìn mường

Vách Đán Cật bắn nỏ thời xưa,

Vách Đán Há thành hình bò đá.

Nước Sông Mã chảy bên trái là đất Mai Châu,

Chảy bên phải là đất Thanh Hóa.

Đá hoa ở Đập Làm

Mỏ cua ở núi Con Sóc

Chiềng Châu là đất gốc đẻ ra các bản.

Có nước tất có cá, có ruộng khắc có thóc.

Lúa nếp gốc ở ruộng đầu mường

Lúa nếp hương ở ruộng cạnh bản.

Lúa lóc, bản tôi trồng ruộng bãi.

Đầu bãi, trồng bông

Dâu nuôi tằm, trồng đầu bến nước.

Voi ngựa dứt dây chạy lên trên,

Thuyền be trôi xuôi phí dưới.

Người mường tôi

Lợn thiến không đánh,

Con gái đẹp không trêu

Người buôn bán không bắt vạ.

Dưới xuôi có muối, bản mường ta có họ.

Bản dưới, mường trên coi nhau là anh em.

Làm thuyền mong nhiều bến đỗ,

Ngâm gạo, muốn nhiều người vui.

Đi ăn cá, về ăn cơm

Đêm ngủ, đắp chăn, nằm đệm.

Bây giờ Tạo tôi khôn lớn

Muốn dựa vào bố mẹ bên ngoại

Ông bà thương cho lấy

Bố mẹ thương cho không

Để lúc sớm có người nhóm lửa

Để lúc khuya có người căng màn

Để có cháu con nối nghiệp cha ông thủa trước.

( Theo Nguyễn Hữu Thức trong “Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái ở Mai

Châu”, nhà xuất bản Lao động, Hà Nội ấn hành năm 2012)

2. Khắp lao động

KHẮP “GIEO VỪNG GIEO KÊ” (trích).

………….

Ước gì lấy được nàng về chăm lấy bản

Ước gì lấy được nàng về chăm lấy nhà

Nhà thành đạt cậy nhờ mệnh em

Chớ chém đổ chuối rừng để lợn độc ăn cây

Thử lòng em ắt thấy bụng

Đo nước suối sâu ắt thấy đáy

Em người nông nổi thấy bụng ngay

Anh phá hoang cho thành thửa ruộng

Dựng bản cho thành bản

Trồng cau cho thành buồng sai quả

Ươm cây mọc mầm

Anh mới về thưa cha mẹ

Nhà anh không chê

Trầu cau dạm ngõ

Cuốn ta như chỉ vàng cuốn chặt ống

Cuốn ta như chỉ tơ cuốn này

Chỉ xe thuận xin em đừng nhả

Chỉ xe trái xin em đừng dỡ

Thấy nước mường nàng muốn bơi

Thấy đồi mường nàng muốn trèo

Thấy nàng mường ấy anh muốn được lời

Chết dưới nước bởi anh quên bơi

Ngã lăn lưng đồi bởi anh quên vịn

Nghe lời em chết ngã cành đa

Nghe lời em chết vắt cành si

Chết lặng trái tim, làm mùa sao được

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)

3. Khắp giao duyên

KHẮP GIAO DUYÊN (trích)

- Nam:

…………………

Lên giọng đi hỡi bạn tình

Cất tiếng vang như ve sầu ven suối

Hát một tí cho đỡ buồn

Hát một tí để giải phiền

Khắp đêm nay đến sáng phơi sương

Khắp đêm nay, đêm nữa lấy tiếng

Khắp đêm nay, không nỡ mất trâu

Khắp đêm rưỡi, không nỡ mất voi

Không nỡ mất đám cưới bạc

Không nỡ mất đám cưới vàng.

- Nữ:

Chim cu gáy bên bờ ruộng mạ

Giọng em xấu cất tiếng chớ cười

Như thể vịt nhỏ mới tập đẻ trứng

Như gà trống nhỏ mới tập gáy

Gáy không nên xin hãy bỏ quá

Chạy không kịp anh cho bằng nhau

Sánh không kịp anh bao che

Sánh không bằng lá chàm bao phủ

Em chỉ sợ nước vỡ bờ, thuyền gãy mái

Sông có sóng thuyền chòng chành

Em chỉ sợ phí giấc ngủ của anh

Bởi em xấu, tóc ngắn không dài

Em hèn, tóc quặp ngang vai

Cổ thấp sánh sao được với chò chỉ

Cỏ lùn sánh sao bằng lưng voi

Không ngờ, thật là không ngờ

Chuồng gà lại có cá “pộc” vào

Hiên nhà lại có cá chiên bò đến

Trăng sao lại rớt xuống đồng

Người phú quý lại đến mường neo

Anh đi việc mường hay việc bản

Đi việc mường ghé qua bản

Hay đi việc bản ghé thăm nàng ?

- Nam:

Việc trong mường anh ẩm ương nói ngọng

Việc trong bản anh lại quá kém

Tại anh hèn không làm việc bản

Tại nói ngọng không xứng làm việc mường

Anh ở nhà nghe chán

Anh ở bản nghe buồn

Đành chặt lá chuối héo gánh qua mường

Chặt lá chuối vàng gánh qua bản

Chặt lá dong gánh đến mường xa

Đến thăm và đến hỏi

Đi tìm bạn tình và muốn ở làm ăn

Không thành vợ chồng, xin kết nghĩa anh em

Xin ở gian nhà ngoài, đeo “ớp” chăn trâu

Như thể bắc cầu cho chuột vào bịch lúa.

- Nữ:

Đến anh còn nói là ngọng

Hạng em này anh bảo là chi ?

Không biết em xin hỏi

Không hiểu xin hỏi thăm

Ngày anh sinh ngày nào

Ngày anh xuống trần ngày mấy

Bố mẹ cho anh ăn cá gì ngày sinh

Cha mẹ cho ăn cơm gì ngày xuống.

- Nam:

Cảm ơn ! Trăm ngàn người mới có em hỏi

Anh thành người bởi “mé hàng, nàng mé bẩu”

Do bà mụ lo đúc thành gái trai

Anh vào bụng mẹ được tám, chín tháng chờ mong

Ngày sinh anh ra đã đến

Đêm sinh anh ra đã về

Ngày sinh anh ngày chín

Bố mẹ cho ăn cá “tệt” đuôi đỏ, anh không ăn

Ông bà ngoại cho ăn cá trôi vảy trắng, anh không ăn

Anh chỉ ăn trứng cá “pau” trộn với nếp chiêm

Bố anh tên là “pằn nhà”

Ông ngoại anh tên là “khằn họi”

Chính tên anh gọi là “tiều oan”

To cao bằng chạn, không có “hạn” gọi đi

Lớn cao bằng gác, không có “hạn” rủ về

Anh mới lớn thành trai

Lớn thành trai đang sức

Răng chưa đen anh nhuộm

Răng thưa bịt bạc

Tóc chưa dài anh nối

Mặt chưa đẹp đi sửa

Tóc không bằng cắt tỉa

Anh têm trầu vào đĩa hoa

Đặt trầu vào đĩa đẹp

Tất tưởi sắm đi chơi mường xa

Đi xa mường giải chán

Đi xa bản giải buồn

Được lời người yêu về bảo chú

Được lời gái về bảo cha mẹ

Rủ bạn được bạn cùng chí

Rủ bạn được bạn hợp tâm

Rủ bạn được bạn cùng lứa

Đi nhờ ông mo già bói ngày

Nhờ ông mo mường chọn giờ

Mười ông mo ở gian giữa nói

Hai mươi ông mo ở gian ngoài bảo:

“Đi ngày cưn coong tổ tiên mới phù hộ”

Anh sắm cả ớt trộn hạt dổi

Lấy khăn đen mẹ cho

Quần áo bố mua ở chợ

Lấy súng hỏa mai quen dùng

Lấy chài lưới tơ tằm anh quen thả

Áo vắt vai anh bước đi

Áo vắt vai anh ra khỏi nhà

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 12 năm 2014)

4. Khắp sinh hoạt

KHẮP ĐỐ (trích).

...Anh chặt cây cho nàng kéo

Đẽo cây cho nàng chặt bằng

Đặt câu cho em giải đáp

Giải được như kéo sợi được bảy cuốn

Ươm tơ được bảy cuộn

Giải được thành con út trời sánh trăng

Then cho ta thành đôi tình:

- Sân dưới núi đá sân gì ?

Sân cuối bản sân gì ?

Sân ngoài sạp sân gì ?

Sân gầm sàn sân gì ?

Sân đống rơm rạ sân gì ?

Sân ngoài trời bao la sân gì ?

- Đẵn cây cho nàng kéo, nàng kéo

Đẽo cây cho em chặt, em chặt

Đặt câu đố để em giải, em xin giải:

Sân dưới mái đá, sân Voi

Sân cuối bản, sân trâu đằm

Sân trên sạp phơi tơ tằm

Sân gầm sàn, đàn lợn béo

Trên đống rơm gà nhà hay bới

Khoảng không trên đầu mây bay

Khoảng trống ngoài trời của ma cà rồng…

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 02 năm 2015)

KHẮP “RU CON”

À ơi….

Ngủ đi, ngủ đi nhé

Con út mẹ ngủ nôi có tua đỏ, dây xanh

Con trai mẹ ngủ nôi có dây xanh tua vàng

Con út mẹ ngủ nôi dây tơ tằm

Ai đi qua, đi lại

Không đu chớ khóc

Ngủ đi nhé

Bố mẹ đi nương ở dưới mái đá

Bố mẹ ra ruộng ở dưới bản

Đi nương mẹ lấy trứng gà về cho

Đi ra ruộng lấy cá về bón

Lấy “ẹp” nếp thơm về cho con thương

Con không nhắm mắt

Gà đuôi cụp nhà dưới mổ mắt

Con không ngủ

Chó vằn nhà trên cắn đít

À ơi…

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 02 năm 2015)

KHẮP ĐỒNG DAO

1. Cúi vào, cúi ra.

Cúi cúi vào

Lối cũ cúi ra

Bố mẹ bảo ra lũ lượt

Bắt lấy nàng đem đi trước

Đu đưa quả dưa bở

Dòng gái dòng hoa

Dòng gái, dòng trai xà tích

Bắt lấy con bé nhỏ, lẽo đẽo theo sau.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)

2. Đom đóm.

Đom đóm nhấp nháy

Đom đóm xanh xanh

Mang lửa đến đây

Để soi ống nước gạo

Để soi quãng trâu đằm.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ cụ Khà Tiến, sinh năm 1938,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – Huyện Mai Châu vào tháng 03 năm 2015)

V. TỤC NGỮ

I. Tục ngữ phản ánh các kinh nghiệm về lao động sản xuất:

- Sấm đầu năm, nguồn sông Đà sửa gác

Sấm đầu năm, cuối sông Mã sửa thuổng.

- Chim “khài khó” xuống bảo làm nương

Chim “khàng khoẳng” xuống bảo làm ruộng

Bảo người làm nương sửa cuốc, sửa thuổng

Bảo người làm ruộng sửa cày bừa, cày cấy lấy cơm ăn

- Sấm trước không mưa nhiều.

- Nắng tháng sáu được lúa

Nắng tháng tám, tháng chín mất mùa.

- Sao mờ trời nắng

Sao tỏ trời mưa.

- Mải bắt cá sông Mã đục đầu mùa

Mẹ vợ chết quên về khóc tiễn đưa.

- Làm nương dưới rừng gianh

Cấy lúa dưới ruộng mạ.

- Một thửa ruộng không bõ công cấy

Một con vịt không bõ công nuôi

- Nương rợp mắt không bằng ruộng một thửa.

- Làm nương rải rác, làm ruộng dông dài không được ăn.

- Vừa làm ruộng, vừa làm nương phân lẫn máu.

- Tháng năm gieo mạ

Tháng sáu lấy mạ đi cấy

Tháng bảy lúa đẻ nhánh

Tháng tám lúa xanh trổ

Tháng chín lúa trên nương đã vàng

Lúa dưới đồng chín lốm đốm bông cái

- Làm nương mỗi năm hẹp thêm một sải

Làm ruộng mỗi năm rộng thêm một vuông

- Làm nhà đợi gianh thì đẹp, để ruộng đợi mạ thì tốt.

- Làm nhà thiếu gianh không được

Làm ruộng thiếu mạ không nên.

- Làm nương có tháng, làm nhà có ngày.

- Chuối đã trồng không được nhổ, dâu tằm đã trồng không nên bới.

- Lúa ở ruộng, cá ở dưới nước.

- Lúa ở trên, cá ở dưới.

- Đất đen nương trồng dưa

Đất đỏ nương bông vải

- Muốn ăn cá, đào chuôm ao, hủm cá.

- Đi suối không đem chài, cá vào gần bờ.

- Đi rừng không mang nỏ, chim đậu gần người.

- Đi làm nương chớ mang theo chó

Đi làm ruộng chớ mang theo con nhỏ.

- Trồng khoai phải thành vườn, nuôi tằm phải thành cửi.

- Bổ cây bổ đằng ngọn

Chẻ song mây chẻ đằng gốc.

II. Tục ngữ thể hiện những triết lý dân gian, những kinh nghiệm sống:

- Một miếng cơm, chín cái lo

Một miếng cơm, chín xoáy lạt

Một miếng cơm, chín giọt mồ hôi.

- Một nhát chém, chín lần ngắm.

- Ruộng hoang quý trâu mộng

Mường có giặc quý người có gan, có lực.

- Phát nương qua chín gò mối, không có ăn thì hãy kêu trời.

- Ăn khắc hết, làm khắc xong.

- Nhiều người ăn thì hết, nhiều người làm thì xong.

- Hay làm người khỏe mạnh, lười làm người gầy còm.

- Nhà có ba trâu không đói, nhà có ba chày không nhịn.

- Chơi không thì chết đói, mày mò còn được ăn.

- Của chân tay khắc làm như có mỏ

Của bố mẹ cho như biết trôi dòng.

- Của để cho con cháu không gì bằng chân chài và quyển sách.

- Người khéo làm thì có

Ai chịu khó có ăn.

- Bố mẹ dạy không bằng thầy dạy.

Thày dạy không bằng ham muốn học hỏi.

- Đẹp bề ngoài, mục thối bên trong.

- Không ăn thì thiệt, tự ái thì hỏng.

- Ngã thuyền đừng đẩy thuyền chạy, nước cạn đừng tháo thêm.

- Đừng kéo thuồng luồng vào thuyền, chớ dẫn hổ vào bản.

- Người nào cũng có lúc xấu, vải nào cũng có lúc rách.

- Làm bạn với người lười mình cũng lười

Làm bạn với người chăm mình cũng chăm.

- Nhút nhát thì đâm

Cứng rắn thì bỏ.

- Người thương chỉ đầy miếng da, người chê đầy mường đầy bản.

- Thích ai thì bảo người ấy tốt, ghét ai thì bảo người ấy xấu.

- Thương nói thẳng trước mặt, không thương nói sau lưng.

- Đập nồi không được đập ảng.

Giết voi không được chém trâu.

- Lên núi này thấy thấp, nhìn núi nọ thấy cao.

- Ở bản thành trâu đực, ra ngoài thành trâu cái.

- Thức ăn không ăn thì thối

Lời nói không nhắc lại hay quên.

- Của quý không ở lại với người dốt

Tai vạ không đến với người khôn.

- Bảo rái cá đi thăm đó.

- Voi bốn chân có lúc còn trượt ngã

Ý nghĩ nhiều lúc cũng sai.

- Anh em cãi nhau cả ngày vẫn là anh em.

Vợ chồng cãi nhau một giờ thành dưng.

- Chọn vợ xem bà ngoại

Chọn trâu xem con đầu đàn.

- Chọn vợ xem bế củi

Chọn chồng xem mối lạt.

- Anh em cùng ông như đũa chung rổ.

- Anh em cùng ngoại như trâu chung chuồng.

- Làm nên, thấy chín bác bá

Không có, mỗi ông cậu cũng không ló mặt.

- Anh em đến nhà không được đánh chó

Cô bác đến thăm không được đánh con.

- Anh em ở xa nhau không bằng người cùng bản.

- Mái gãy còn sào, cha chết còn chú bác.

- Một con trai nuôi bố mẹ ăn không hết

Bảy con trai nuôi bố mẹ ăn không no.

- Mẹ nó đốm thì con nó đốm

Ngoại nó vằn thì cháu nó vằn.

- Gốc cây gì thì đâm chồi lá ấy.

(Tác giả luận văn sưu tầm từ các cụ Khà Tiến, 82 tuổi,

ở xóm Nghẹ - xã Vạn Mai – huyện Mai Châu; cụ Hà Văn Hoan, sinh năm 1942, ở

xóm Vặn - xã Piềng Vế - huyện Mai Châu; cụ Hà Trung Tín, sinh năm 1941, ở

xóm Mỏ - xã Chiềng Châu - huyện Mai Châu; cụ Lường Xuân Toàn, sinh năm

1944, ở tiểu khu 3 - thị trấn Mai Châu - huyện Mai Châu; cụ Hà Công Tưởng,

sinh năm 1935, ở xóm Dân Tiến - xã Bao La - huyện Mai Châu; ông Hà Công

Nhiêng, sinh năm 1951, ở xóm Báo - xã Bao La - huyện Mai Châu và từ một số

người khác trong khoảng từ tháng 08 năm 2014 đến tháng 8 năm 2015).

-------------------------------------------

PHỤ LỤC 2

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VĂN HÓA DÂN TỘC THÁI

Ở MAI CHÂU, HÒA BÌNH

Một góc Thị trấn Mai Châu trong sương chiều (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 1/2015)

Bản Thái thanh bình (Nguồn: Ecolodge Mai Châu - Tháng 7/2015)

Một góc nhà sàn Thái

(Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 7/2015, tại Xóm Bước - Xã Xăm Khòe Huyện Mai Châu)

Cây thị xóm Mỏ có gốc to đến năm, sáu người ôm - nơi lưu giữ nhiều chứng tích về quá trình phát triển của dân tộc Thái trên đất Mai Châu. (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 7/2015, tại Xóm Mỏ - Xã Chiềng Châu - Huyện Mai Châu)

Bếp Thái (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 5/2013, tại Không gian văn hóa dân tộc Thái huyện Mai Châu)

Các cô gái Thái với trang phục truyền thống múa quạt trong lễ hội (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 4/2014 tại Thị trấn Mai Châu - Huyện Mai Châu)

Biểu diễn khắp giao duyên trên hạn khuống (Ảnh minh họa cho bài viết “Lên Mai Châu dự hội Xên Mường” của trang Web 24h.com.vn số ra ngày 23/3/3015)

Một đêm văn nghệ khắp giao duyên (Nguồn: trang web Mai Châu Tourism, tháng 8/2015)

Đi sưu tầm tư liệu (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 6/2015 tại Xã Xăm Khòe - Huyện Mai Châu)

Đến nhà nghệ nhân (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 6/2015 tại nhà trên nương của ông Hà Văn Hoan - Xóm Vặn - Xã Piềng Vế - Huyện Mai Châu)

Ông Hà Công Nhiêng đang trao đổi với tác giả luận văn về văn học dân gian Thái vùng Bao La - Mai Châu. (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 4/2015 tại nhà riêng của ông Hà Công Nhiêng - Xóm Báo - Xã Bao La - Huyện Mai Châu)

Ông Hà Công Tưởng diễn giải về ý nghĩa của một câu tục ngữ Thái (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 6/2015 tại nhà riêng của ông Hà Văn Tít - Xóm Dân Tiến - Xã Bao La - Huyện Mai Châu)

Nghệ nhân dân gian Hà Trung Tín (trái) và ông Lường Xuân Toàn (phải) - những người nắm giữ nhiều tư liệu văn học dân gian Thái quý báu. (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 5/2015 tại nhà riêng của nghệ nhân dân gian Hà Trung Tín - Xóm Mỏ - Xã Chiềng Châu - Huyện Mai Châu)

Ông Hà Văn Hoan - một người rất có uy tín trong cộng đồng người Thái ở Mai Châu, luôn được chọn làm mo mường trong lễ xên mường ở Mai Châu- đang kể “Ẳm ệt luông” (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 3/2015 tại nhà ông Hà Văn Hoan - Xóm Vặn - Xã Piềng Vế - Huyện Mai Châu)

Thầy mo Hà Văn Hoan trong lễ cúng xên mường của người Thái (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 3/2013 tại xã Chiềng Châu - Huyện Mai Châu)

Lễ cúng cơm mới với các món ăn truyền thống của người Thái

(Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 1/2015 tại xóm Hịch - xã Mai Hịch - huyện Mai Châu)

Một số đồ trong lễ xin cưới (Ảnh do tác giả chụp tháng 3/2013 tại bản Nhót - xã Nà Phòn - Huyện Mai Châu)

Một đoạn trong văn bản cổ “Gia phả dòng họ Hà Công” (Ảnh do tác giả chụp tháng 4/2015 tại nhà của nghệ nhân dân gian Hà Trung Tín - Xóm Mỏ - xã Chiềng Châu - Huyện Mai Châu)

Sách cổ Thái (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 3/2015 tại nhà trên nương của ông Hà Văn Hoan - Xóm Vặn - Xã Piềng Vế - Huyện Mai Châu)

Sách cổ Thái (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 8/2015 tại nhà ông Hà Văn Hoan - Xóm Vặn - Xã Piềng Vế - Huyện Mai Châu)

Hiện vật mũi tên kim loại được cho là của những người Xá trong cuộc thi bắn tên vào vách đá với người Thái. Sau cuộc thi này, người Xá đã thua và phải rời khỏi địa bàn Mai Châu (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 7/2015 tại nhà của nghệ nhân dân gian Hà Trung Tín - Xóm Mỏ - xã Chiềng Châu - Huyện Mai Châu)

Nhà thờ tổ của một dòng họ Thái (Ảnh do tác giả luận văn chụp tháng 8/ 2015 tại nhà ông Hà Hiển Nhiên Xã Bao La - Huyện Mai Châu)