BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thu Trang
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thu Trang
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN CÔNG KHANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
1
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn thạc sĩ
Ngữ văn, chuyên ngành Văn học Việt Nam. Cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn
đến gia đình - nguồn sức mạnh to lớn, giúp tôi đi hết chặng đường vừa qua.
Tôi cũng xin được cảm ơn các Thầy, Cô khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã dạy dỗ, dìu dắt tôi trong suốt quá trình học tập.
Xin được bày tỏ lời tri ân đến Cô Lê Thu Yến - người đã mang lại cho tôi
nguồn cảm hứng và tình yêu thơ chữ Hán Nguyễn Du, đồng thời cũng là người gợi
ý tôi đến với đề tài này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Thầy Phan Công Khanh,
người đã luôn tận tình chỉ bảo, dạy dỗ định hướng nghiên cứu trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn BGH Trường THCS – THPT Ngôi Sao, tất cả bạn bè,
đồng nghiệp đã ủng hộ, tạo điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình thực
hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
2
MỤC LỤC Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 4
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................ 7
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................... 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 11
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 12
6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................... 12
Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................................ 14
1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán của Nguyễn Du ............................................................ 14
1.1.1. Nguyễn Du ......................................................................................................... 14
1.1.1.1. Thời đại ....................................................................................................... 14
1.1.1.2. Thân thế và cuộc đời Nguyễn Du ............................................................... 16
1.1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du ............................................................................ 20
1.2.Thiên nhiên trong thơ trung đại ................................................................................. 29
1.2.1. Thiên nhiên trong thơ thiền thời Lý – Trần ( thế kỷ X- XIV) ........................... 31
1.2.2. Thiên nhiên trong thơ thời Lê (thế kỷ XV) ........................................................ 34
1.2.3. Thiên nhiên trong thơ từ thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII ............................ 37
1.2.4. Thiên nhiên trong thơ từ nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX .............. 40
CHƯƠNG 2 : TỪ CẢM THỨC THIÊN NHIÊN ĐẾN TÂM SỰ VÀ TRIẾT LÝ VỀ
CUỘC ĐỜI CỦA NGUYỄN DU ........................................................................................ 43
2.1. Cảm thức thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du .............................................. 43
2.1.1. Thiên nhiên mang màu sắc đạm bạc, tĩnh lặng .................................................. 46
2.1.2. Thiên nhiên gần gũi, hiền hòa ............................................................................ 53
2.1.3. Thiên nhiên dữ dội, nguy hiểm .......................................................................... 60
2.2. Thiên nhiên và tâm trạng của Nguyễn Du ................................................................ 66
2.2.1. Thiên nhiên và tâm trạng u buồn ....................................................................... 67
2.2.3. Thiên nhiên và tâm trạng cô đơn ....................................................................... 73
2.2.4. Thiên nhiên và tâm trạng băn khoăn, trăn trở, day dứt ...................................... 82
2.3. Thiên nhiên và triết lí về cuộc đời của Nguyễn Du .................................................. 90
Mục lục
3
CHƯƠNG 3 : NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN TRONG THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU ...................................................................................................................... 97
3.1. Hình ảnh .................................................................................................................... 97
3.1.1. Hình ảnh ước lệ, tượng trưng ............................................................................. 97
3.1.2. Hình ảnh gần gũi, giản dị, mộc mạc ................................................................ 103
3.2.Giọng điệu ................................................................................................................ 108
3.3 . Bút pháp ................................................................................................................. 119
3.3.1 Miêu tả chân thực.............................................................................................. 119
3.3.2. Tả cảnh ngụ tình .............................................................................................. 125
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 132
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 134
PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 139
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nhắc đến Nguyễn Du – đại thi hào của dân tộc, nhiều người chỉ nhớ đến
Truyện Kiều mà quên rằng thơ chữ Hán cũng là một công trình có giá trị to lớn.
Chúng ta sẽ thật sự thiếu sót nếu chỉ nói đến Truyện Kiều như một đỉnh cao chói lọi
mà quên dành cho thơ chữ Hán một sự quan tâm và vị trí xứng đáng. Thơ chữ Hán
của Nguyễn Du, theo giáo sư Mai Quốc Liên “là những áng văn chương nghệ thuật
trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong
một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành mà cũng độc đáo so với thơ
chữ Hán của Trung Quốc nữa”. (Lời nói đầu, Nguyễn Du toàn tập, Tập 1, Nxb Văn
học, 1996).
Chữ Hán là loại chữ tượng hình, bản thân nó mang những kí hiệu tượng
trưng, gợi nghĩa. Mỗi bài thơ chữ Hán là một không gian mang tính hội họa và gợi
mở về thế giới hiện thực – thế giới cảm xúc. Chính vì vậy mà thơ chữ Hán khó đến
với người đọc, mặc dù với Nguyễn Du, đây thật sự là quyển nhật kí về cuộc đời
cũng như bản thân ông. Những tư tưởng, tình cảm, trăn trở và day dứt trong tâm
hồn được thi nhân bộc lộ rõ trong 3 tập thơ chữ Hán.
1.2. Để tìm hiểu giá trị thơ chữ Hán, mỗi người có thể chọn cho mình một
phương diện, một khía cạnh nào đó. Có người nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật, có
người tìm hiểu vấn đề tâm linh trong thơ chữ Hán, một số khác muốn khám phá về
những nổi niềm trắc ẩn của Nguyễn Du thể hiện trong thơ hay con đường hoạn lộ
mà ông đã trải qua. Chúng tôi chọn thiên nhiên làm đối tượng nghiên cứu của mình.
Từ xưa, trong cái nhìn của con người, thiên nhiên là cả nguồn sống vô cùng
phong phú. Đến với thiên nhiên, vô vàn cảnh đẹp hiện ra. Đó là nguồn chất liệu quý
trong sáng tạo nghệ thuật, mà văn học không phải là một ngoại lệ.
Con người sáng tác văn học, cảm thụ vẻ đẹp của thiên nhiên trước tiên bằng
các giác quan của mình. Sau đó, qua hệ thống ngôn ngữ và bằng cách sử dụng ngôn
ngữ, họ sẽ trau chuốt, tô vẽ lại bức tranh thiên nhiên và đưa vào tác phẩm của mình.
Thiên nhiên hiện ra trong văn học bằng chính cái vốn có của nó như màu sắc, âm
5
thanh, hương vị, dáng vẻ… nhưng ẩn sau chất hiện thực ấy, thiên nhiên còn là
“trung tâm phát sóng” của tâm hồn.
Việc phát hiện ra những vẻ đẹp, những mực thước, khuôn mẫu và quy cách
trong các hiện tượng thiên nhiên là cả một quá trình tìm tòi, nghiên cứu, hoạt động
tích cực, đòi hỏi người ta phải làm bằng cả con tim và khối óc, cả tình cảm và trí
tuệ. Như vậy, thiên nhiên gắn chặt với văn học, không thể hình dung văn học sẽ thế
nào nếu thiếu vắng thiên nhiên. Xin lấy văn học Việt Nam như một minh chứng.
Thiên nhiên có mặt khắp mọi nơi trong văn học nước ta, từ văn học truyền miệng
cho đến văn học viết.
Thần thoại cắt nghĩa thiên nhiên vô cùng ngộ ngĩnh: thần trụ trời móc đất đá
xây trụ đội trời lên, rồi bỗng dưng vứt chúng tung tóe trên mặt đất để thành núi,
thành gò và chỗ bị móc lại thành hồ thành sông… Cổ tích Trầu cau tìm thấy tình
cảm anh em, vợ chồng tượng trưng trong đá vôi, dây trầu và cây cau. Tục ngữ lại
càng ẩn chứa những bài học muôn đời bằng hình ảnh thiên nhiên:“Mau sao thì
nắng, vắng sao thì mưa”; “Mống đông vồng tây, chẳng mưa dây cũng giật bão”.
Còn trong văn học viết thì bức tranh thiên nhiên hiện ra vô cùng phong phú,
và đa dạng. Lần giở lại các tập thơ của những nhà thơ thiền thời Lý – Trần, thiên
nhiên hiện diện trên khắp trang thơ. Đến với Nguyễn Trãi, ta không thể quên hình
ảnh mưa thu rơi nhẹ trên khóm trúc, đầu nhà ai làn gió xuân mát nhẹ thổi ngang
bình dị, thanh tao mang theo hương lan thoang thoảng:
Mưa thu tưới ba đường cúc
Gió xuân đưa một lãnh lan
(Ngôn chí, 16)
Văn học cổ điển đã vậy, văn học lãng mạn cũng đắm mình trong thiên nhiên.
Trách móc vu vơ thật ra là mời mọc về chơi thôn Vĩ, nơi có cảnh đẹp mà người
cũng nên thơ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
6
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
Văn học cách mạng, hướng tới lí tưởng chiến đấu giải phóng dân tộc, xây
dựng cuộc sống độc lập, tự do cho đất nước, tưởng ít gặp gỡ thiên nhiên, thực ra
không phải vậy. Có lúc người ta nghĩ rằng làm cách mạng thì không còn biết yêu
trăng hay yêu sự yên tĩnh của một dòng sông. Nhưng trong kháng chiến gian lao,
người ta vẫn không quên dành tình cảm cho những vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên.
Hồ Chí Minh đã từng vẽ nên một khung cảnh thật đẹp, nơi đó có con thuyền về giữa
đêm trăng sáng của mùa xuân:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời đêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
(Rằm tháng Giêng – Hồ Chí Minh)
Đi qua mọi thời đại, thiên nhiên vẫn luôn là một thứ nam châm có sức hút vô
cùng mạnh mẽ đối với tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân. Nguyễn Du – đại thi hào
dân tộc – cũng không nằm ngoài quy luật thẫm mỹ ấy.
Đến với đề tài “Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du”, người viết biết
rằng đây không phải là một công việc dễ dàng. Chúng tôi đến với đề tài này từ sự
trân trọng, cảm mến tài năng của Nguyễn Du, từ lòng yêu thích của bản thân đối với
thơ ca Nguyễn Du và đặc biệt là ba tập thơ chữ Hán của thi nhân. Tuy nhiên, công
việc này chỉ có lòng yêu thích và sự say mê thôi thì chưa đủ. Bởi thiên nhiên trong 3
tập thơ không chỉ đơn thuần là bức tranh phong cảnh của thế giới khách quan mà
đằng sau nó chứa đựng biết bao tâm sự, day dứt, trăn trở và băn khoăn của thi nhân,
để hiểu được tất cả những điều đó không phải đơn giản, đây chính là thách thức đối
với người nghiên cứu.
Với trình độ và đặc biệt là vốn kiến thức về chữ Hán có hạn, chúng tôi đến
với đề tài này bằng tinh thần học hỏi, mong muốn thử sức mình để góp một phần
nhỏ bé trong quá trình tìm hiểu về giá trị thơ chữ Hán Nguyễn Du.
7
Trên đây là những lý do chúng tôi chọn đề tài Thiên nhiên trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du.
2. Lịch sử vấn đề
Trong nền văn học dân tộc, Nguyễn Du là nhà thơ hàng đầu có nhiều đóng
góp to lớn. Cho nên, đã có rất nhiều người nghiên cứu về sáng tác của ông. Tuy
nhiên, theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì do mục đích của các công trình chi phối
nên vẫn chưa có một nghiên cứu nào chuyên biệt nào đi sâu vào tìm hiểu về thiên
nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Một số nhà nghiên cứu có đề cập đến những
khía cạnh nhất định như Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, Nguyễn
Thị Huyền Thương…
Trong công trình Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du (Lê Thu
Yến, Nxb Thanh niên, 1997) khi viết về không gian nghệ thuật tác giả có đề cập đến
một số khía cạnh thiên nhiên. Trên bình diện không gian nhỏ hẹp, tác giả nhắc đến
vẻ lạnh lùng, vô tình của thiên nhiên với thi nhân. Con người luôn khát khao được
nhìn thấy vẻ tươi sáng rạng ngời của trăng, của ngày xuân nhưng phần nhận được
chỉ là bóng cây xanh trùng điệp và đầy âm u. Nguyễn Du yêu mùa xuân nhưng nó
không thuộc về ông, thiên nhiên và thi nhân dường như có một khoảng cách rất xa,
xung quanh căn nhà của thi nhân bao phủ một màu xanh của sắc núi, sắc xanh âm u
không chút ánh sáng; ngoài cửa có hoa cúc vàng tươi những tưởng sẽ ăn được
nhưng thực tế không phải vậy…
Trong bình diện không gian rộng lớn, tác giả có chỉ ra tất cả những địa điểm
mà Nguyễn Du đi qua, đường ra phía Nam, đường lên phía Bắc và trên hành trình
của con người không nơi nào mà không có hình ảnh của thiên nhiên. Tuy nhiên,
thiên nhiên không phải là người bạn thân tình, sẻ chia mà ngược lại đó là sự mù mịt,
tối tăm của gió, bụi, cát, đất, sắc đêm, khí trời, bóng mây, sương khói và đặc biệt
nhất là cái lạnh. Lê Thu Yến đã thống kê có đến 47 lần Nguyễn Du nhắc đến cái
lạnh để thấy được thiên nhiên khắc nghiệt như thế nào và chính nó đã làm cho con
người vốn đã cô đơn càng thêm chạnh lòng… Thiên nhiên như nhấn chìm tất cả
những gì tươi đẹp nhất.
8
Qua bài viết tác giả còn khẳng định, Nguyễn Du không hòa mình với thiên
nhiên mà xem đó như là đối tượng để khám phá, để ngắm nhìn; ông từ chối hòa
nhập với thiên nhiên. Điều này cho thấy thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
có nhiều điểm khác biệt với thiên nhiên trong thơ ca trung đại.
Trong bài viết “Thơ thu Nguyễn Du” (Kỷ yếu khoa học 1998, Khoa ngữ văn,
Đại học sư phạm TPHCM), Lê Thu Yến đã tìm hiểu về hình ảnh thu trong 3 tập thơ
chữ Hán của Nguyễn Du. Người viết nhìn nhận mùa thu từ nhiều góc độ khác nhau
và cho rằng mùa thu và thi nhân có sự đồng điệu. Tác giả phân tích vẻ đẹp của mùa
thu thông qua hai hình ảnh hoa cúc và rừng phong. Không chỉ nhìn vẻ đẹp của mùa
thu mà người viết còn nhìn thấy cái xơ xác tàn tạ, thê lương của mùa thu qua hình
ảnh gió thu và cỏ thu. Với Nguyễn Du, thu biểu trưng cho sự mất mát, buồn đau.
Cuối cùng, mùa thu và thi nhân vẫn song hành, đôi khi có chỗ gặp nhau nhưng vẫn
không thể hòa hợp.
Lê Trí Viễn với bài viết “Thơ xuân Nguyễn Du” (Một đời dạy văn, viết văn,
Tập 2,, Nxb Giáo dục, 2010) cũng đã thống kê được 12 bài thơ viết về mùa xuân
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và cũng khẳng định, xuân trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du thưa thớt và đượm buồn. Qua việc khái quát nội dung chính của một số bài thơ
như Quỳnh Hải nguyên tiêu, Xuân nhật ngẫu hứng, Thanh Minh ngẫu hứng , Xuân
dạ, Mộ xuân mạn hứng vv…, tác giả nhận xét xuân trong thơ Nguyễn Du chỉ toàn là
xuân đêm, xuân muộn, xuân xa nhà, xuân nhớ thương. Tất cả những bài thơ về xuân
có nội dung hầu như không thay đổi: nỗi buồn xa nhà, anh em chia lìa, bản thân cô
đơn, nghèo túng, mỗi ngày một già đi, hùng tâm tráng chí nguội lạnh theo năm
tháng. Nói tóm lại, xuân là ngày vui mà thơ xuân Nguyễn Du luôn mang đến cho
người đọc nỗi buồn man mác không nguôi.
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba trong “Xuân tha hương trong thơ chữ Hán của đại thi
hào Nguyễn Du” (Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, http://vietsciences.free.frr, 10/2008) cũng
đề cập đến một khía cạnh nhỏ về thiên nhiên, đó là hình ảnh mùa xuân. Người viết
thống kê trong 249 bài thơ chữ Hán qua ba tập thơ Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam
trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du đã dùng tới 40 từ “xuân” đi cùng
9
với các từ hàn, bệnh, vũ ,... gợi nên một trường cảm xúc khá bi đát. Trong 4 bài thơ
được đặt nhan đề có từ xuân (Xuân nhật ngẫu hứng, Xuân dạ, Xuân tiêu lữ thứ, Mộ
xuân mạn hứng), Nguyễn Du đều bày tỏ một nỗi buồn sâu lắng, âm ỉ khi phiêu bạc
ở đất khách quê người.
Nguyễn Thị Huyền Thương với luận văn thạc sĩ “Con người nhân văn trong
tiến trình văn học trung đại qua thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du”
(2010, Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh) cũng đề cập đến thiên nhiên
trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Trong công trình này, người viết nhận định
thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du bao giờ cũng giữ vai trò làm nền để thi nhân bộc
lộ nỗi lòng. Tâm trạng thường thấy của Nguyễn Du chính là nỗi buồn. Dưới con
mắt của thi nhân cảnh vật nào cũng đượm buồn: ánh trăng, mùa thu. Ngay cả mùa
xuân cũng không có được chút gì đó tươi sáng.
Từ đó tác giả kết luận: Nguyễn Du đến với thiên nhiên không giống như một
số nhà thơ trung đại khác. Nếu như Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về
thiên nhiên như một môi trường để di dưỡng tinh thần, giữa người và cảnh có mối
giao hòa đến khăng khít, thì với Nguyễn Du, thiên nhiên là môi trường để con người
suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời và bản thân, cho nên thiên nhiên thường hiện lên
trong buồn bã, chật hẹp, u tịch như chính cõi lòng của thi nhân.
Cuối cùng là bài viết “Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du” (Tạp chí
nghiên cứu văn học số 5, 2010) cũng của tác giả Lê Thu Yến – tuy đây là bài viết
ngắn gọn, cô đọng nhưng có sức khái quát về thiên nhiên trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du.
Trong bài viết, tác giả nhận định:“Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du đầy thi vị, sinh động và gợi tình”. Khi được Nguyễn Du đưa vào thơ, thiên nhiên
vẫn giữ được đặc điểm vốn có, đó là nét ban sơ, hoang dã và tồn tại một cách độc
lập. Tuy nhiên ngoài việc phản ánh thế giới khách quan, thiên nhiên vẫn mang nét
nhân tính phản ánh tâm trạng con người. Lê Thu Yến cũng khẳng định thiên nhiên
có hai mặt hiền hòa, tươi đẹp – lạnh lùng, tàn nhẫn và dữ dội. Điều này được thể
hiện cụ thể bằng nhiều hình ảnh khác nhau: mùa xuân, mùa thu, vầng trăng, núi
10
non, dòng sông… Trong bài viết, tác giả cũng chỉ ra sự khác biệt khi miêu tả thiên
nhiên của Nguyễn Du so với các nhà thơ trung đại khác như Cao Bá Quát hay
Không Lộ thiền sư, và nhà thơ Lý Bạch của Trung Quốc. Nét khác nhau căn bản
nhất là nếu như các nhà thơ khác luôn hòa mình vào thiên nhiên, được thiên nhiên
lắng nghe, thông cảm và sẻ chia thì ở Nguyễn Du, thiên nhiên luôn vô tình và lạnh
lùng, cả hai song hành nhưng chưa bao giờ hòa hợp làm một. Chính điều này đã làm
nên sự khác biệt giữa thơ Nguyễn Du với thơ trung đại nói chung. Ông đã biết kế
thừa và phát triển cách miêu tả thiên nhiên của thế hệ trước tạo nên nét đặc trưng
riêng của mình.
Từ ý kiến của các nhà nghiên cứu trên, chúng tôi có thể rút ra một vài nhận
xét như sau:
Thứ nhất, thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du rất sinh động. Ông đã
thâu tóm vào thơ của mình mọi biểu hiện của thiên nhiên: cảnh vật khi xuân về, khi
thu sang, một áng mây, một buổi chiều, một ngọn gió… đều được Nguyễn Du quan
sát và cảm nhận thật tinh tế.
Thứ hai, bức tranh thiên nhiên được Nguyễn Du cảm nhận ở hai mặt đối lập.
Ông phát hiện ra vẻ đẹp vô cùng xinh tươi, lung linh và duyên dáng của thiên nhiên.
Ngoài vẻ đẹp vốn có, thiên nhiên tồn tại một cách khách quan và độc lập. Trong cái
nhìn của Nguyễn Du, thiên nhiên cũng dữ dội, nguy hiểm và đáng sợ.
Thứ ba, thiên nhiên trong thơ cụ Nguyễn đẹp nhưng buồn. Điều này có lẽ bắt
nguồn từ cái nhìn chủ quan của tác giả. Bản thân thi nhân là một con người mang
nhiều ưu tư, day dứt và trăn trở với cuộc đời. Với ông, cuộc đời là chuỗi dài đằng
đẵng những tháng ngày cô đơn, bệnh tật, đói rét, tha hương … Tất cả như thấm vào
trong thơ. Bởi thế đọc thơ Nguyễn Du lúc nào cũng thấy nỗi buồn man mác hiện
hữu.
Chúng tôi cho rằng những nhận xét, đánh giá trên đây là khá thú vị và thuyết
phục. Tuy nhiên, do đặc điểm, mục đích và tính chất riêng của các công trình nên ý
kiến của các nhà nghiên cứu chỉ dừng lại ở một vài nhận xét chung chung mang tính
khái quát hoặc một vài khía cạnh nhỏ hẹp của vấn đề.
11
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt
nào tìm hiểu vấn đề mà chúng tôi đặt ra trong luận văn. Đối với chúng tôi, tất cả ý
kiến trên đều có ý nghĩa trong việc tham khảo để lựa chọn đề tài. Tuy vậy, người
viết luận văn cũng có mục đích riêng. Chúng tôi xem xét thiên nhiên trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du trên nhiều phương diện như: cảm thức của Nguyễn Du về thiên
nhiên, thiên nhiên và tâm sự của Nguyễn Du, thiên nhiên và triết lí về cuộc đời của
Nguyễn Du, Ngoài ra, chúng tôi cũng quan tâm đến phương diện nghệ thuật khi
miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du.
3. Mục đích nghiên cứu
Ở đề tài này, mục đích của người viết là đi vào tìm hiểu bức tranh phong
cảnh và nỗi niềm tâm sự của tác giả được gửi gắm qua những hình ảnh thiên nhiên
trong thơ chữ Hán. Bên cạnh đó chúng tôi có so sánh với thiên nhiên trong thơ của
một số tác giả trung đại để thấy được những điểm giống và khác của Nguyễn Du
khi viết về đề tài này. Cuối cùng, chúng tôi nghiên cứu nghệ thuật miêu tả thiên
nhiên trong thơ Nguyễn Du trên ba bình diện: hình ảnh, bút pháp và nghệ thuật sử
dụng từ ngữ; qua đó, chỉ ra được những điểm kế thừa và phát triển của Nguyễn Du
trong cách miêu tả thiên nhiên so với các tác giả trung đại, từ đó góp phần tôn vinh
giá trị thơ chữ Hán và hiểu thêm về thế giới tâm hồn và tài năng của đại thi hào
Nguyễn Du.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng khảo sát: Đối tượng mà đề tài khảo sát là các bài thơ có trong ba
tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du gồm: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và
Bắc hành tạp lục (Nxb Quốc học).
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng so sánh thơ thiên nhiên của một số tác giả có
nội dung liên quan để thấy được điểm tương đồng và dị biệt trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du.
Phạm vi khảo sát, nghiên cứu: đề tài chú trọng khảo sát 175 bài thơ chữ Hán
có hình ảnh thiên nhiên. Từ đó phân tích, bình luận và đưa ra một số đánh giá, nhận
xét về cách miêu tả thiên nhiên của đại thi hào Nguyễn Du.
12
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài một cách khoa học và hợp logic, chúng tôi sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp:
Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng với tư cách là phương
pháp chủ yếu để nghiên cứu đặc điểm thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
và rút ra các kết luận. Phương pháp này được vận dụng xuyên suốt trong toàn bộ
luận văn với ý nghĩa chủ đạo trong quá trình lựa chọn cũng như phân tích, bình giá
vấn đề.
Phương pháp lịch sử - cụ thể: bất cứ loại hình nghệ thuật nào cũng xuất phát
từ thực tế cuộc sống. Điều này đã được nói rõ trong phản ánh luận của chủ nghĩa
Mác–Lênin. Các sáng tác của Nguyễn Du cũng có cội rễ từ hiện thực lịch sử và đặc
trưng thời đại của Nguyễn Du. Đây là phương pháp được sử dụng để tìm hiểu sự
chi phối của thời đại, hoàn cảnh đối với Nguyễn Du và thơ ca của ông.
Phương pháp so sánh – chiếu đối : dùng để làm rõ đặc điểm của đối tượng
nghiên cứu trong mối tương quan với một số hiện tượng văn học khác. Cụ thể trong
luận văn này, chúng tôi có so sánh thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du với
thiên nhiên của các nhà thơ trung đại như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Khuyến… để thấy được những điểm kế thừa và phát triển khi viết về thiên
nhiên của Nguyễn Du.
Phương pháp thống kê: được sử dụng như một phương pháp bổ trợ để làm
tăng sức thuyết phục cho những kết luận rút ra sau khi nghiên cứu.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn gồm có
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán
1.2. Thiên nhiên trong thơ trung đại
Chương 2: Từ cảm thức thiên nhiên đến tâm trạng và triết lý về cuộc đời của
Nguyễn Du
13
2.1. Cảm thức thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
2.2. Thiên nhiên và tâm trạng của Nguyễn Du
2.3. Thiên nhiên và triết lí về cuộc đời của Nguyễn Du
Chương 3: Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
3.1. Hình ảnh
3.2. Giọng điệu
3.3. Bút pháp
14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán của Nguyễn Du
1.1.1. Nguyễn Du
1.1.1.1. Thời đại
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một thời đại vô cùng rối ren của xã hội
Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, một thời kì bão
táp trong lịch sử dân tộc với những thay đổi khôn lường. Bức tranh toàn cảnh phong
kiến thời Lê mạt–Nguyễn sơ đầy rẫy những biến động, chế độ phong kiến tập quyền
ngày càng lộ rõ nhiều ung nhọt. Đặc điểm nổi bật của lịch sử nước ta thời kì này là
chế độ phong kiến bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, không có lối thoát.
Chiến tranh giữa các phe phái không khác nào một nạn dịch lớn. Tiêu biểu là cuộc
đối đầu giữa họ Trịnh ở Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong kéo dài hơn hai
thế kỷ.
Khủng hoảng bắt đầu từ Đàng Ngoài rồi lan rộng ra cả nước. Chiến tranh
kéo dài khiến cuộc sống của người dân lâm vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn: mất
mùa, tô thuế nặng nề, đói kém xảy ra liên tiếp. Làng xóm trở nên tiêu điều, người
nông dân phải tha phương cầu thực khắp nơi.
Đàng Ngoài hình thành cơ chế “Vua Lê chúa Trịnh”. Vua chúa thường lo
việc ăn chơi hơn là việc trị nước. Có thể nói chính quyền phong kiến giai đoạn này,
từ trung ương đến địa phương đều thối nát, tệ tham nhũng và hối lộ ngày càng trầm
trọng.
Ở Đàng Trong, những mâu thuẫn vốn có của chế độ phong kiến dần trở nên
gay gắt. Từ giữa thế kỷ XVIII, Đàng Trong bắt đầu rơi vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, tổ chức lại bộ máy nhà
nước. Các gia đình quan lại, quý tộc cũng đua nhau xây dựng dinh thự, đua nhau
chơi bời xa xỉ. Chính trị thối nát, nhân dân lầm than.
Xã hội phong kiến Việt Nam đã đi vào con đường tự sụp đổ không thể cứu
vãn. Giai cấp thống trị ngày càng tự đào hố chôn mình, giai cấp bị trị rơi vào cảnh
15
bần cùng, khốn khổ. Trước tình hình đó, mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt. Người
dân không chịu đựng cuộc sống như cũ. Mọi tầng lớp nhân dân đều mong muốn
thay đổi hoàn cảnh hiện tại. Họ chỉ có một con đường duy nhất là nổi dậy chống
chính quyền phong kiến đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho bản thân.
Các phong trào khởi nghĩa nông dân chống triều đình phong kiến bùng nổ
mạnh mẽ và dữ dội. Ở Đàng Ngoài, từ cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII, nông
dân nhiều nơi đã nổi dậy cướp phá nhà giàu. Có thể kể đến các cuộc khởi nghĩa tiêu
biểu của Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất…Cuộc chiến
đấu quyết liệt của những người nông dân tuy chưa được thắng lợi nhưng đã là hồi
chuông báo động cho chế độ phong kiến nước ta lúc bấy giờ.
Ở Đàng Trong, chế độ phong kiến bước vào giai đoạn suy tàn, chuẩn bị cho
một cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại làm rung chuyển cả nước. Cuộc khởi nghĩa
bùng lên từ đất Tây Sơn, do ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ
lãnh đạo. Sau nhiều năm, quân Tây Sơn đã hoàn thành sự nghiệp: đánh đổ ba tập
đoàn phong kiến thống trị Lê – Trịnh – Nguyễn , làm chủ đất nước.
Thời đại Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh xây dựng triều Nguyễn. Dưới sự
thống trị nhà Nguyễn, khởi nghĩa nông dân cũng nổ ra liên tục. Phong trào nông dân
khởi nghĩa giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX không những đã
làm cho giai cấp thống trị khiếp sợ mà còn làm cho hệ tư tưởng chính thống của giai
cấp phong kiến bị khủng hoảng và sụp đổ.
Tóm lại, thời đại của Nguyễn Du diễn ra giằng co quyết liệt giữa nhiều xu
thế chính trị khác nhau. Trong đời sống tư tưởng xã hội, từng mảng nhỏ của hệ
thống tư tưởng phong kiến có nguy cơ bị lật đổ đến tận gốc rễ. Chiến thắng hiển
hách của phong trào nông dân, rồi sự trả thù của nhiều thế lực phản động, sức vang
dội của những đòi hỏi về công lí…tất cả khiến cho không khí thời đại càng trở nên
phức tạp. Như vậy, những biến động của xã hội phong kiến thời đại Nguyễn Du là
bằng chứng cho một cuộc khủng hoảng trầm trọng không chỉ ở bề mặt mà ở cả
chiều sâu.
16
1.1.1.2. Thân thế và cuộc đời Nguyễn Du
Nguyễn Du sinh năm 1765 tại phường Bích Câu (Thăng Long); quê quán
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Quê hương Tiên Điền của Nguyễn Du nổi tiếng khắp cả nước vì có nhiều
người đỗ đạt cao. Đặc biệt dòng họ Nguyễn của ông được coi là dòng họ vinh hiển
nhất. Có rất nhiều người làm quan to, tiêu biểu là Nguyễn Nghiễm cha Nguyễn Du
làm đến chức Đại tư đồ, tước Xuân Quận Công. Chính vì lẽ đó mà dân gian vùng
Tiên Điền có câu hát:
Chừng nào ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước họ này hết quan.
Mười năm đầu của cuộc đời Nguyễn Du trôi qua êm đềm và có phần tẻ nhạt
trong dinh cơ của cha tọa lạc ở phía nam hoàng thành Thăng Long, ven dòng Bích
Câu trong vắt chảy ra hồ Kim Âu, mùa hè ngát hương sen. Cảnh ở đây có lẽ đẹp
nhất đế đô thời kì ấy. Hồn thơ Nguyễn Du đã được nảy nở và nuôi dưỡng chính tại
nơi đây, trong không khí và nếp sống của một gia đình Nho học, có truyền thống
văn chương và mấy đời làm quan to.
Nguyễn Nghiễm, thân phụ Nguyễn Du, là người có tài, ông đỗ tiến sĩ năm
24 tuổi và sau đó lập được nhiều công trạng, năm 1761 được thăng Đô ngự sử, sau
đó thăng thượng thư bộ công, tương đương với chức tể tướng. Năm 1764 ông được
thăng hàm thiếu phó. Năm 1767, Trịnh Sâm lên cầm quyền, ông được thăng làm
Thái tử thiếu bảo, tước Xuân Quận Công.
Nguyễn Du ra đời khi gia đình đang hết sức thịnh vượng, giàu sang tột bậc.
Năm ấy, Nguyễn Nghiễm đang làm tể tướng trong phủ, hai năm sau được thăng
Thái tử thiếu bảo. Trong kí ức của Nguyễn Du vẫn còn lưu lại sự kiện cụ thân sinh
vinh quy về làng. Năm Tân Mão 1771, Nguyễn Nghiễm 64 tuổi, xin về hưu. Chúa
đặc cách thăng chức Đại tư đồ và chuẩn cho vinh quy về làng. Cả nhà cùng về theo,
được dự một cuộc tiếp rước long trọng từ bến Giang Đình về dinh thự ở Tiên Điền.
Không chỉ công thành danh toại, gia đình Nguyễn Du còn có truyền thống
văn chương. Theo cuốn “Nguyễn Du, tác phẩm và lịch sử văn bản” của Nguyễn
17
Thạch Giang và Trương Chính thì dòng họ Nguyễn Tiên Điền người nào cũng thơ
hay. Nguyễn Nghiễm có hai tập thơ “Quân trung liên vận” và “Xuân đình tạp
ngâm”.
Nguyễn Khản anh trai Nguyễn Du không có tập thơ riêng nào. Tuy nhiên,
thơ ông được chép trong “Nguyễn Gia Phong vận tập”. Ông là một trong những
người dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Năm 1780 xảy ra vụ “Mật án
Canh Tý”. Trịnh Sâm lập Cán thay Tông làm thái tử. Nguyễn Khản giúp Trịnh
Tông nhưng việc bị lộ, Khản bị bắt giam. Khi bị bắt giam, ông có làm một bài thơ
tự tình bằng quốc âm. Trịnh Sâm xem xong cảm động tha tội cho ông.
Hai người cháu gọi Nguyễn Du bằng chú, nhưng tuổi xấp xỉ là Nguyễn
Thiện và Nguyễn Hành thường cùng nhà thơ ngâm vịnh. Hai người con gái của
Nguyễn Khản là Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Đài đều giỏi thơ quốc âm.
Ngoài ra, Nguyễn Du có điều kiện học và đọc rất nhiều sách thánh hiền từ
bé, được tiếp xúc với những làn điệu dân ca quan họ, những truyền thuyết thần kì
của dân tộc thông qua người mẹ rất mực dịu hiền xứ Kinh Bắc, một xứ sở nổi tiếng
về nếp sống giàu có và lịch lãm. Nhưng tuổi thơ tươi đẹp ấy không kéo dài được
bao lâu. Năm Nguyễn Du tròn 10 tuổi đã có biến cố lớn xảy ra: Nguyễn Trụ, anh
cùng mẹ với Nguyễn Du mắc bệnh mất ở Kinh giữa tuổi 18, tiếp đến Nguyễn
Nghiễm cũng qua đời. Hai cái tang như cảnh cửa khép lại thời vàng son của gia
đình họ Nguyễn và cũng kết thúc luôn thời thơ ấu ấm êm của ông. Sau này, trải qua
hơn 20 năm lưu lạc, trở về dưới chân núi Hồng, nhà thơ không khỏi nhớ lại cảnh
huy hoàng ngày ấy và ghi lại trong bài Giang Đình hữu cảm :
Ức tích ngô ông tạ lão thì
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi
Tiên chu kích thủy thần long đấu,
Bảo cái phù không thụy hạc phi,
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
18
Cận nhật Trường An đại dĩ phi.
(Nhớ xưa khi cha ta từ tạ vì già mà về hưu,
Ở bến sông này phơi phới xe bồ ngựa tứ.
Thuyền tiên cuộn nước như rồng thần đấu nhau
Chiếc lọng quí trên không như chim hạc lành bay.
Từ khi áo xiêm không còn tìm đâu thấy
Khói trên ngọn cỏ hai bờ sông khiến lòng khôn xiết bi thương,
Trăm năm cuộc đời biết bao việc thương tâm,
Ngày gần đây Trường An đã khác xưa nhiều.)
(Cảm xúc khi thấy Giang Đình)
Đó là bài thơ ghi lại dấu ấn quá khứ vàng son của gia đình Nguyễn Du, để lại
trong ông một ấn tượng sâu đậm để rồi khi nhớ lại ông không sao giấu được nỗi
chua xót, ngậm ngùi.
Mồ côi cả cha lẫn mẹ, bốn anh em Nguyễn Du chưa người nào đến tuổi
trưởng thành nên phải về ở với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản. Khản học
giỏi, thông minh, đỗ đạt sớm, làm quan to, được chúa Trịnh yêu mến và là con
người tài hoa, phong lưu rất mực.
Chính hoàn cảnh đó ấy, cuộc sống ấy đã sớm in vào hồn thơ của Nguyễn Du
nhiều ấn tượng sâu đậm. Cũng trong thời gian này, địa vị Khản thăng giáng bất
thường, cho đến khi kiêu binh nổi loạn, ông trốn lên với Nguyễn Điều ở Tây Sơn
rồi sau đó hai anh em bỏ về Hà Tĩnh (1784).
Năm Bính Ngọ 1786, Nguyễn Huệ chỉ huy đội quân thủy chiến tiến đến sông
Vị Hoàng (Nam Định). Không đầy một tháng, quân của Nguyễn Huệ chiếm Thuận
Hóa cho đến Vị Hoàng rồi tiến thẳng ra Thăng Long giương cờ phù Lê diệt Trịnh.
Đến khi nghe quân Tây Sơn bắc tiến, Nguyễn Khản bàn tính mọi công việc với em
là Nguyễn Điều rồi đi. Đến cửa Thần Phù (Ninh Bình), được tin báo quân Tây Sơn
đã đến bến Vị Doanh, Nguyễn Khản đến Thăng Long gặp Trịnh Khải dâng kế. Kế
sách chưa được thực hiện thì đã bị bọn kiêu binh phá, ông phải chạy lên Tây Sơn.
19
Quân Tây Sơn tiến đến huyện Thanh Trì (ngoại thành Hà Nội ngày nay),
chúa Trịnh phải đích thân đốc suất quân đánh ở bến Tây Luông, nay là bờ sông
Hồng thuộc đầu phố hàng Than. Thất thế, chúa Trịnh vội cởi áo bào, chạy ra cửa
Yên Hoa. Nguyễn Huệ vào thành đóng quân ở Phủ chúa. Chỉ trong vòng một tháng,
quân Tây Sơn đã lật nhào nền thống trị hơn 200 năm của chúa Trịnh (1570-1786).
Khi Tây Sơn ra bắc, Nguyễn Khản vẫn một lòng phò chúa Trịnh và vua Lê
nhưng rồi bệnh chết năm 1786. Nguyễn Điều cũng đã qua đời mấy tháng trước đó.
Cùng với sự sụp đổ của vương triều Lê – Trịnh, gia đình họ Nguyễn cũng dần dần
suy sụp theo. Ba anh em Nguyễn Du, Nguyễn Nễ và Nguyễn Ức không theo kịp Lê
Chiêu Thống đành quay lại, mỗi người đi một nơi.
Cũng trong những năm bối rối đó, Nguyễn Du đi thi Hương ở Sơn Nam đậu
Tam Trường (1784). Tuy đỗ thấp nhưng ông là người học rộng, biết nhiều không
những Nho học mà Phật và Đạo đều thông suốt.
Năm 1789, sau khi chia tay với anh là Nguyễn Nễ và em là Nguyễn Ức,
Nguyễn Du về quê vợ ở làng Hải An (huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình) ở nhà anh
vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Anh em mỗi người một nơi. Chưa bao giờ Nguyễn Du
cảm thấy bất lực và thất vọng như lúc này.
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du bị quân Tây Sơn bắt giữ vì
theo Nguyễn Ánh. Nhờ có quận công Nguyễn Thận, trấn tướng của Tây Sơn ở
Nghệ An là bạn thân của Nguyễn Đề và lại là một người rất mến tài thơ của Nguyễn
Du nên chỉ giam mấy tháng rồi thả cho về. Từ đấy ông về hẳn Tiên Điền trong một
thời gian dài.
Những năm ông về lại Tiên Điền, cơ nghiệp nhà họ Nguyễn đã bị quân Tây
Sơn phá sạch. Nguyễn Nễ, anh em cùng mẹ với Nguyễn Du, lúc làm quan cho Tây
Sơn cỏ sửa lại chút ít. Trong thời gian sống ở quê nhà ông có dịp hiểu biết sống gần
gũi và hiểu biết với quần chúng, ngọn nguồn của mọi giá trị tinh thần cao quý nhất
của dân tộc.
Nguyễn Du sống ở Hồng Lĩnh mãi cho đến mùa thu năm 1802, tình hình
chính sự trong nước có nhiều thay đổi. Lúc này, triều Tây Sơn không còn nữa,
20
Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Vị vua này cho mời các cựu thần nhà
Lê ra triều nhận chức mới, trong đó có Nguyễn Du.
Tháng 8 năm 1802, ông được bổ làm tri huyện Phù Dung, rồi tháng 11 thăng
tri phủ Thường Tín (Hà Tây). Năm 1805 lại được thăng làm Đông Các đại học sĩ.
Năm 1807 được cử làm giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Năm 1809 ông
làm cai bạ Quảng Bình. Năm 1813 ông được cử đi tuế cống nhà Thanh, lúc về được
thăng làm Hữu Tham tri Bộ Lễ và giữ chức ấy cho đến ngày mất (ngày 10 tháng 8
năm 1820).
Cuộc đời làm quan của Nguyễn Du dưới triều Nguyễn rất thuận lợi. Trong
suốt 20 năm ông thăng chức khá nhanh và có nhiều lúc giữ nhiều chức vụ tương đối
quan trọng.
Nguyễn Du mất ở kinh, lúc đầu chôn ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế, bốn năm sau được dời về an táng ở Tiên Điền. Khi qua đời, quan
lại ở kinh nhiều người làm câu đối phúng viếng để ca ngợi tài hoa của nhà thơ:
Nhất viện cầm tôn nhân ký thứ,
Đại gia văn tự thế tranh truyền.
(Rượu đàn đầy viện người đi xa vắng
Văn tự hơn đời tiếng dội vang)
Hay:
Nhất đại tài hoa, vi sứ, vi khanh, sinh bất thiểm,
Bách niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc, tử do vinh.
(Một kiếp tài hoa, làm sứ, làm khanh, sinh chẳng thẹn,
Trăm năm sự nghiệp, ở nhà, ở nước, chết còn vinh.)
1.1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
Thơ chữ Hán Nguyễn Du gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp
ngâm và Bắc hành tạp lục, được làm trong thời gian từ năm nhà thơ 21 tuổi đến
năm 49 tuổi.
Thanh Hiên thi tập (1786 – 1804) được làm từ thời kì đầu đến trước khi
Nguyễn Du ra làm quan cho triều Nguyễn. Tập thơ gồm có 78 bài (tính cả những
21
bài cùng một đầu đề) và được chia làm 3 phần: Mười năm gió bụi, Dưới chân núi
Hồng, Ra làm quan ở Bắc Hà.
Qua Thanh Hiên thi tập, chúng ta có thể hiểu rõ những tâm sự của Nguyễn
Du. Đây là tập thơ được sáng tác trong những năm tháng bi thương nhất của cuộc
đời tác giả. Những biến cố lịch sử dữ dội, nhà thơ luôn phải đối diện với những bi
kịch cá nhân: xa nhà, bệnh tật, gia đình tan tác, tiền đồ bản thân mù mịt:
Bách niên thân thế ủy phong trần,
Lữ thực giang tân hựu hải tân.
Cao hứng cửu vô hoàng các mộng,
Hư danh vị phóng bạch đầu nhân.
Tam xuân tích bệnh bần vô dược,
Táp tải phù sinh hoạn hữu thân.
Dao ức gia hương thiên lý ngoại,
Trạch xa đoạn mã quí đông lân.
(Mạn hứng )
(Thân thế trăm năm phó mặc gió bụi,
Ăn nhờ ở bến sông rồi ăn nhờ nơi bãi biển,
Đã lâu không còn cao hứng với giấc mộng gác vàng,
Nhưng hư danh vẫn chưa buông tha cho người đầu bạc.
Bệnh đã ba năm, nghèo không thuốc,
Cuộc phù sinh ba mươi năm có mối lo vì có thân.
Xa nhớ quê hương ngoài nghìn dặm,
Thẹn với người hàng xóm ngồi xe nhỏ cưỡi ngựa hèn.)
(Cảm hứng lan man)
Những đau thương, đổ vỡ liên tiếp, dồn dập ấy dội vào cuộc đời ông, làm
nảy sinh trong tâm hồn bao nỗi buồn thương.
Từ cuộc sống phong lưu, Nguyễn Du bị đẩy ra cuộc đời gió bụi, nhà thơ phải
sống cuộc đời nghèo túng, ăn nhờ ở đậu:
Đào hoa đào diệp lạc phân phân,
22
Môn yểm tà phi nhất viện bần.
Trú cửu đốn vong thân thị khách
Niên thâm cánh giác lão tùy thân.
(U cư I)
(Hoa đào lá đào rụng tơi bời
Cửa che xiêu vẹo, một gian ngà nghèo
Ở trọ lâu ngày bỗng quên bẵng mình là khách
Năm chầy càng biết cái già đã đến với mình)
(Ở nơi u tịch)
Hình ảnh thường thấy trong thơ là một con người cô độc, mệt mỏi, u sầu.
Nhà thơ như không dám tin tưởng vào điều gì ở phía trước, không tìm được cho
mình chút hy vọng và niềm vui sống:
Tứ thời hảo cảnh vô đa nhật,
Phao trịch như thoa hoán bất hồi.
Thiên lý xích thân vi khách cửu,
Nhất đình hoàng diệp tống thu lai.
Liêm thùy tiêu các tây phong động,
Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai.
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát,
Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
(Thu chí)
(Cảnh đẹp bốn mùa chẳng được bao ngày,
Ngày tháng thoi đưa gọi không quay lại.
Thân mình trần trụi ngoài nghìn dặm ở lâu nơi đất khách,
Một sân lá vàng đưa mùa thu tới,
Gió tây lay động bức rèm trên gác nhỏ
Tuyết rơi mịt mù nơi thôn xóm hẻo lánh, tiếng tù và buổi sớm
bi thương.
Buồn rầu vì ngày tháng trôi giục mái tóc bạc thêm,
23
Suốt đời ôm mối sầu chưa từng gỡ ra được.)
(Thu đến)
Con người thất chí kia như muốn lao vào hưởng lạc, muốn lãng quên bằng
men say; có lúc cao hứng, còn cất lên bài ca hành lạc (Hành lạc từ). Và đã có khi
thi nhân muốn tìm đến sự giải thoát, mơ về chốn “cửu huyền”, “miền ẩn dật”, về
đàn âu trắng tự do bay đi… Con người càng muốn thoát khỏi vòng trần tục nhưng
càng vẫy vùng bao nhiêu vẫn không thể tốt hơn đành đối diện với nỗi day dứt của
mình.
Qua nỗi đau riêng của một tâm hồn lớn, ta vẫn thấy được nỗi đau chung của
con người trong thời đại Nguyễn Du. Cuộc đời của Nguyễn Du chứng kiến bao
thăng trầm của thời thế nên trong lòng ông lúc nào cũng đau đáu một nỗi lo thường
trực – lo đời, lo cho tất cả mọi người, cho nhân tình thế thái. Nguyễn Du vẫn bế tắc
khi chưa thể lựa chọn cho mình một con đường nhưng trái tim người nghệ sĩ không
chỉ tủi buồn cho thân phận của mình mà còn đau đớn trước những đổ vỡ, tan hoang
của quê hương, đất nước, dân tộc.
Nam trung tạp ngâm (1804 – 1813) gồm 40 bài được viết trong thời gian
làm quan ở Phú Xuân và Quảng Bình. Lúc này, nhà thơ không còn chìm trong bế
tắc, tuyệt vọng như trước. Tuy nhiên, Nguyễn Du cũng không thật sự tìm được
những phút giây thanh thản khi bước chân vào chốn quan trường. Lẽ thường làm
quan là con đường lựa chọn của tất cả những kẻ sĩ khi lập thân, thỏa chí nguyện
tang bồng của thời trai trẻ mà tiếng thơ lại man mác nỗi buồn:
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt
Thù phương độc thác hữu quan thân.
Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã,
Lão khứ văn chương diệc tị nhân
(Ngẫu đắc)
(Trên đồng ruộng khắp nơi vùi xương vô chủ
Phương xa một mình gửi cái thân làm quan.
Khi gặp việc bọn đầy tớ lính hầu đều lên mặt với ta,
24
Già đến rồi, văn chương cũng lánh xa người.)
(Ngẫu nhiên nảy ý thơ)
Điều đó chứng tỏ Nguyễn Du luôn cảm thấy day dứt, ân hận, luôn bị giằng
xé trong nhiều mâu thuẫn nội tâm. Dường như ông thấy mình đã chọn lầm đường -
con đường mà càng dấn thân vào, con người càng mất dần đi thiên tính tốt đẹp. Ông
không còn phải khóc thương cho sự cùng đường, bế tắc của một con người lỡ thời,
thất thế nhưng lại phải đau xót, tủi thẹn vì nguy cơ đánh mất mình. Chính cuộc sống
như thế khiến nhà thơ nhiều lần cất lên những câu thơ nghe xót xa:
Phàm sinh phụ kỳ khí
Thiên địa phi sở dung
(Điệu khuyển)
(Phàm sinh ra khí phách khác thường
Thì trời đất không có chỗ dung)
(Thương con chó)
Tình cảnh như thế cho nên ông lại ước ao được về nhà, mong muốn giữ vẹn
được tấm tình thủy chung với non xanh, với tùng cúc, làm bạn với hươu nai, bầu
rượu:
Tiêu lộc mộng trường tâm bất cạnh,
Tần Tùy vãn sự khẩu năng ngôn.
Xuân vân mãn kính quần mi lộc,
Thu đạo đăng trường đốc tử tôn.
Ngã dục quải quan tòng thử thệ,
Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn.
(Tặng nhân)
Giấc mộng “lấy lá chuối dấu hươu” lòng không ganh đua,
Chuyện cũ đời Tần Tùy có thể nói được.
Mây xuân đầy đường nhỏ làm bạn cùng hươu nai
Mùa thu gặt lúa ra đốc thúc con cháu.
Ta cũng muốn từ đây treo mũ áo từ quan mà ra đi,
25
Cùng ông hưởng thọ thú vui với đàn với rượu)
(Tặng người)
Ông thất vọng về chốn quan trường - vì những tưởng khi nhập thế sẽ làm nên
sự nghiệp, sẽ giúp ích cho đời nhưng cuối cùng không thỏa được ước nguyện. Đối
mặt với hiện thực đương thời, con người muốn thoát ra nhưng càng vẫy vùng lại
càng đau khổ.
Bắc hành tạp lục (1813 – 1814) gồm 140 bài sáng tác trong vòng một năm,
khi nhà thơ đi sứ qua Trung Quốc. Cũng giống như 2 tập thơ trên, những bài thơ
trong Bắc hành tạp lục cũng là thơ tâm sự. Tuy nhiên, tập thơ có sự đổi mới rõ rệt,
không còn những bài thơ viết về riêng mình.
Trong tập thơ này, Nguyễn Du đề cập đến nhiều khía cạnh của cuộc sống.
Tâm hồn Nguyễn Du giờ đây đã rộng mở để "đón nhận những vang vọng của đời".
Hiện lên dưới ngòi bút Nguyễn Du vẫn là người lữ khách mang nặng mối sầu tha
hương song không nhuốm tủi hờn, đau đớn như ở Thanh Hiên thi tập mà nghiêng
về nỗi nhớ nhung da diết:
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão,
Đồng chu Hồ Việt các tương thân.
Thập niên dĩ thất hoàng hương lộ,
Ná đắc gia hương nhập mộng tần?
(Tam giang khẩu đường dạ bạc)
(Nhìn bốn phía toàn mây với núi, người riêng thấy mình già,
Người Hồ người Việt cùng thuyền đều thân nhau.
Mười năm đã quên mất đường về làng cũ,
Sao cho quê nhà luôn đi vào trong giấc mộng.)
(Đêm đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang)
Cũng trên con đường đi sứ, Nguyễn Du đã phát hiện nhiều điều mới mẻ về
thiên nhiên, con người và cuộc sống trên đất nước Trung Hoa.
Hiện thực cuộc sống đầy rẫy khổ đau vẫn được Nguyễn Du lưu tâm nhất, tác
giả đã vẽ lên những bức tranh sinh động về cuộc sống lầm than của người dân
26
nghèo trên bước đường tha phương. Đó là tiếng kêu đau đến xé ruột, những gương
mặt đói rau, thiếu thuốc xanh lè đang chờ chết:
Mẫu tử bất túc tuất,
Phủ nhi tăng đoạn trường.
Kì thống tại tâm đầu,
Thiên nhật giai vị hoàng.
(Sở kiến hành)
(Mẹ chết không đáng tiếc,
Vỗ về con mà thêm đứt ruột.
Trong lòng đau xót lạ lùng,
Mặt trời cũng vì người mà vàng úa).
(Bài hành về những điều trông thấy)
Đó còn là câu chuyện đầy xúc động về ông già mù hát rong kiếm ăn ở Thái
Bình.
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc,
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc.
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.
(Thái Bình mại ca giả)
(Miệng sùi bọt, tay rã rời,
Ngồi yên, cất đàn ngỏ lời hát đã xong.
Dốc hết tâm lực gần một trống canh,
Mà chỉ được năm sáu đồng tiền).
(Người hát rong ở Thái Bình)
Trong Bắc hành tạp lục, bên cạnh hiện thực đau khổ của những kiếp người
thì hình ảnh thiên nhiên trên đường đi sứ cũng được Nguyễn Du quan tâm. Trung
Hoa giàu đẹp với vô vàn danh lam thắng cảnh, hoa thơm cỏ lạ, là nơi phồn hoa đô
hội đã in đậm vào tâm hồn yêu thơ. Lòng yêu cái đẹp của thiên nhiên dường như đã
27
trở thành một nét thẩm mỹ trong tình cảm của con người Việt Nam. Mỗi lần đi qua
một địa danh hay một phong cảnh, cảm hứng trong lòng tác giả lại bừng dậy:
Giang Nam, Hồ Bắc địa tương lân,
Nhật nhật phồn hoa bất kí xuân.
Ngọc địch lâu đầu thiên thượng khúc,
Thùy dương môn ngoại họa trung nhân.
(Quảng Tế kí thắng)
(Giang Nam và Hồ Bắc giáp với nhau,
Ngày nào cũng là cảnh phồn hoa nên chẳng nhớ mùa xuân nữa.
Sáo ngọc trên lầu thổi khúc nhạc trên trời,
Cây thùy dương ngoài cửa như người đẹp trong tranh).
(Ghi cảnh đẹp ở Quảng Tế)
Những tấm gương trung nghĩa tiết liệt như Nhạc Phi, Đỗ Phủ hay Khuất
Nguyên cũng được Nguyễn Du thương cảm, trân trọng bằng thái độ chân thành
nhất. Khuất Nguyên một người ngay thẳng, chính trực lại phải nhận lấy kết cục éo
le và sầu tủi:
Mỗi độc nho quan đo ngộ than,
Thiên nhiên nhất khốc đỗ lăng nhân.
Văn chương quang diệm thành hà dụng,
Nam nữ thân ngâm bất khả văn.
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ II)
(Mỗi lần đọc câu “mũ áo nhà nho thường làm lỗi thân mình”
Lại một lần khóc thương Đỗ Lăng sống nghìn năm trước.
Văn chương ngời sáng dùng được việc gì?
Trai gái rên khóc chẳng đành lòng nghe)
(Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương)
Nguyễn Du khâm phục Nhạc Phi thời Nam Tống văn võ song toàn, có công
đánh giặc, là một vị tướng tài, tận trung báo quốc:
Trung Nguyên bách chiến xuất anh hùng
28
(Nhạc Vũ Mục mộ)
(Anh hùng xuất hiện trong trăm trận đánh ở Trung Nguyên)
(Mộ Nhạc Vũ Mục)
Những bậc hiền tài mà bạc mệnh của Trung Hoa cũng được Nguyễn Du ca
ngợi, trân trọng và cảm thông. Đó là Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành
(Quế Lâm Cù Các Bộ), đó là Âu Dương, một người tài giỏi tính thẳng thắn, thanh
liêm:
Tống triều cổ mộ ký Âu Dương
Bình sinh trực đạo vô di hám,
(Âu Dương Văn Trung công m
(Mộ cổ triều Tống có ghi tên họ Âu Dương
Suốt đời theo đường lối ngay thẳng không để lại điều gì đáng
ân hận).
(Mộ ông Âu Dương Văn Trung)
Bên cạnh đó, những loại người gian ác, xấu xa cũng được ngòi bút Nguyễn
Du vạch trần như Mã Viện, Minh Thành Tổ, Tào Tháo, Tần Cối…
Nguyễn Du đặt mối quan tâm với các nhân vật lịch sử qua những sự kiện
trong không gian và thời gian khác nhau. Ông luôn nhìn lại quá khứ với cảnh xưa,
người cũ và chiêm nghiệm lại những tháng ngày đã qua.
Đối với từng loại nhân vật, Nguyễn Du có cách nhìn nhận và đánh giá khác
nhau. Ông yêu mến, trân trọng những bậc tài hoa, trung nghĩa. Đối lập với những
nhân vật trên là hình ảnh của những con người xấu xa, gian ác. Khi nói về họ, giọng
thơ của tác giả gay gắt, phê phán và ẩn sau đó nụ cười mỉa mai thể hiện một cách
nhìn mới mẻ của ông.
Tóm lại, ba tập thơ cho ta thấy những chặng đường sáng tác song hành với
cuộc đời và quan điểm, tư tưởng của tác giả. Đi hết ba tập thơ là những tiếng lòng
của thi nhân đối với bản thân, với con người và cuộc đời.
29
1.2.Thiên nhiên trong thơ trung đại
Thiên nhiên là một đối tượng cực kì quan trọng trong văn học. Tùy từng thời
đại, thiên nhiên có những đặc điểm riêng. Các Mác và Ph. Ăngghen bàn về những
vấn đề văn học đã chỉ rõ quan điểm về thiên nhiên như sau: “Thái độ của con người
trong một thời đại nhất định đối với thế giới bên ngoài, đối với tự nhiên là trực tiếp
thông qua xã hội. Tự nhiên đã tồn tại và đang tồn tại không phụ thuộc vào con
người. Nhưng thái độ của con người đối với tự nhiên, sự cảm thụ của con người đối
với tự nhiên ở một thời đại nhất định và khả năng phân biệt, đánh giá những bản
chất, những đặc sắc và cái đẹp của tự nhiên, tất cả đều được quy định bởi những
điều kiện cụ thể của đời sống xã hội” [36, tr.28].
Từ thuở sơ khai, con người đã phải biết sống hòa hợp cùng thiên nhiên để
tồn tại. Cùng với sự phát triển của nhân loại thì tiến trình lịch sử của dân tộc Việt
Nam là tiến trình hòa hợp, khám phá và chinh phục tự nhiên. Dần dần thiên nhiên
trở thành người bạn thân thiết của con người. Thời trung đại, con người sống bằng
nông nghiệp là chủ yếu, nên con người phải dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên mà
sống. Do đó, con người hòa nhập vào tự nhiên, xem thiên nhiên với con người là
một “thiên nhân tương dữ”. Con người chưa xem mình là một chủ thể độc lập, tách
rời với tự nhiên như một khách thể để nhìn nhận, phân tích, lí giải… Như vậy, đặc
trưng của thế giới tự nhiên trong cái nhìn của con người trung đại là có tính toàn
vẹn không tách bạch.
Muốn hiểu thiên nhiên trong văn học trung đại được nhìn nhận như thế nào
thì phải nắm được hệ thống giá trị làm nên thế giới quan thời đại đó: “Những nghệ
nhân, những văn sĩ, họa sĩ trung cổ đăm chiêu nhìn vào thế giới bên kia, họ coi rẻ
những nét hữu hình của thế giới trần gian xung quanh họ. Những nhà thơ và họa sĩ
hầu như bỏ qua thiên nhiên thực tại, họ không tái hiện phong cảnh, không nêu lên
những đặc điểm của những con người cụ thể, không nhận thấy rằng ở những nước
khác nhau, trong những thời đại khác nhau, người ta ăn mặc khác kiểu, ở nhà khác,
vũ khí khác. Họ thiên về điển hình hóa hơn là cụ thể hóa, không tìm hiểu sự đa dạng
của những hiện tượng trong sinh hoạt, họ xuất phát từ nguyên lí tính mâu thuẫn, họ
30
đối kháng giữa cái cao thượng và cái đê tiện, họ suy nghĩ bằng cặp thái cực. Đầu
này là cái thiện tuyệt đối, đầu kia là cái ác tuyệt đối” [5, tr.9].
Thế giới do người trung cổ sáng tạo hết sức độc đáo và lạ thường theo dưới
cái nhìn của con người hiện đại. Những nghệ nhân trung đại xem không gian như
một mặt phẳng, thế giới không có chiều sâu, họ không biết thời gian là trôi chảy. Họ
nhìn nhận thế giới trần gian và thế giới siêu nhiên hòa lẫn vào nhau, không rõ ràng
tách bạch. Thiên nhiên trung đại cùng một loại với con người và đều là sản phẩm
của chúa sáng tạo nên.
Đó là ở phương Tây. Ở phương Đông, quan niệm về nguồn gốc của vũ trụ
thiên nhiên và con người cũng không khác mấy.
Phật giáo cho rằng thế giới này từ sự vận động của quy luật nhân quả mà ra,
Dịch học cho rằng từ Thái cực, Lão Trang thì cho là do đạo. Trời, mây, cỏ cây,
chim muông… và con người đều ngang nhau và cùng một nguồn gốc mà ra.
Văn học trung đại chịu sự chi phối của hệ tư tưởng phong kiến, gắn với cảm
thức về thế giới tự nhiên và xã hội mang tính thời đại; cư dân nông nghiệp cảm thụ
thiên nhiên trong mối tương hợp, gắn bó để cảm nhận thiên nhiên như là thành phần
tích hợp của mình. Từ đó, văn học trung đại xây dựng nên những ẩn dụ, tượng
trưng: “Trong các sáng tác sẽ gặp những hình tượng của thiên nhiên được gọi tên
bằng những yếu tố cơ thể, phẩm chất con người; sẽ thường gặp hình tượng, vật thể
thiên nhiên được sử dụng biểu hiện, xác định giá trị, phẩm chất con người (vàng đá
chỉ tình nghĩa thủy chung bền vững, hoa chỉ khuôn mặt phụ nữ đẹp, áng mây chỉ
mái tóc, rồng đứng đầu “tứ linh” tượng trưng cho vua, cỏ bồng chỉ thân phận trôi
nổi, cây tùng, cây trúc có những đặc điểm biểu hiện khí phách của người quân tử
[ 78, tr.30].
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng chung của thơ ca cổ, là đề tài quen thuộc
trong văn chương của các nhà Nho. Điều này chịu sự chi phối của quan điểm Nho
giáo:
31
Thứ nhất, Nho giáo quan niệm, nhân cách của nhà Nho có nguồn gốc tiên
nhiên, vì vậy nhân cách ấy bao giờ cũng hướng về thiên nhiên như một môi trường
để di dưỡng tinh thần.
Thứ hai, Nho giáo quan niệm cái mẫu mực thuộc về quá khứ, cái trong sạch
chủ yếu biểu hiện ở thiên nhiên.
Thứ ba, họ quan niệm điều đáng tự hào nhất ở con người là biết cảm thụ và
chiêm ngưỡng thiên nhiên, thiên nhiên là người bạn để con người bộc lộ tâm sự.
Nhìn lại những chặng đường sáng tác về đề tài thiên nhiên của các nhà thơ
trung đại, một phần nào giúp ta hình dung được bức tranh thiên nhiên thời đại lúc
bấy giờ được con người nhìn nhận và khám phá như thế nào.
1.2.1. Thiên nhiên trong thơ thiền thời Lý – Trần ( thế kỷ X- XIV)
Thơ thiền thời Lý mang nặng ý thức hệ Phật giáo. Để đáp ứng nhu cầu
truyền bá rộng rãi đạo Phật vào trong nhân dân, các nhà sư đã tìm cách thể hiện
những triết lý Phật giáo vốn trừu tượng, khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn
gọn, sinh động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp người học đạo được thuận lợi hơn trong quá
trình nghiên cứu, học tập. Và như vậy, thơ thiền thời Lý có tác dụng là công cụ hỗ
trợ tích cực cho việc truyền bá lý thuyết đạo Phật. Thiên nhiên trong thơ thiền đời
Lý phần lớn là những biểu tượng, phương tiện để nói lên nội dung triết lí hay cảm
quan Thiền đạo. Trong nhiều bài thơ, thiên nhiên không phải là đối tượng thẫm mỹ
để thưởng ngoạn và miêu tả mà là những biểu tượng được sử dụng để biểu thị
những quy luật của tự nhiên và hàm chứa chân lí hằng thường theo quy luật nhà
Phật.
Thiên nhiên biểu tượng cho trí tuệ bát nhã và chân tâm của người đạt đạo.
Hình ảnh thường được để biểu thị nội dung này là vầng trăng sáng, hoa sen trong lò
lửa…
Trí giả do như nguyệt chiếu thiên
(Cảm hoài II – Bảo Giám)
(Trí tuệ như trăng soi giữa trời.)
(Nỗi lòng)
32
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị can.
(Thị tịch – Ngộ Ấn)
(Ngọc bị thiêu trên núi mà vẫn luôn tươi nhuần
Hoa sen trong nở lò lửa mà vẫn ướt chưa hề khô.)
(Dặn trước khi mất)
Thiên nhiên là biểu tượng cho quan niệm vạn vật vốn cùng một bản thể. Với
quan niệm ấy, văn học Thiền tông đã dễ dàng đem nhập con người làm một với
thiên nhiên:
Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt
Viện tiền sơn thủy thị chân hình.
(Văn Quảng Trí thiền sư – Đoàn Văn Khâm)
(Các đạo hữu không nên đau thương vì sự vĩnh biệt,
Núi sông trước chùa trông xa, ấy là chân hình của nhà sư).
(Thiền sư Văn Quảng Trí)
Như vậy, Phật giáo đồng nhất bản thể của con người với thiên nhiên. Dù cho
nhà sư có chết đi thì đó chỉ là sự hủy diệt về mặt thân xác, còn bản thể thật sự của
nhà sư thì vẫn tồn tại mãi trong thiên nhiên, cây cỏ, núi sông.
Thiên nhiên còn là biểu tượng cho quan niệm thế giới là hư không, biến đổi vô
thường, luôn vận động và tuân theo quy luật:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
(Cáo tật thị chúng – Mãn Giác)
(Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa đua nở)
(Có bệnh bảo mọi người)
Nhìn chung, thơ Thiền tông đời Lý mỗi khi đề cập đến thiên nhiên thì các
thiền sư đều muốn qua đó gửi gắm những quan điểm triết học của mình. Đáng chú ý
là quan niệm vạn vật nhất thể của Thiền tông đã đưa đến sự hòa đồng giữa nhà thơ
33
và thiên nhiên. Sự hòa đồng này đã làm cho thiên nhiên trở nên rất đỗi gần gũi, gắn
bó với con người trong một thể thống nhất hoàn chỉnh.
Khác với thời Lý, bên cạnh việc phản ánh lòng yêu nước và tinh thần dân tộc,
văn học thời Trần còn thể hiện lòng yêu mến cảnh thiên nhiên tươi đẹp của đất
nước. So với thiên nhiên trong thơ văn thời Lý, thiên nhiên trong thơ văn thời Trần
đã trở thành đối tượng thẫm mỹ thực sự, có nhiều nét thực hơn và đẹp hơn hẳn. Các
nhà thơ không còn dùng thơ văn để thuyết giáo cho những lý thuyết của nhà Phật
nữa mà thay vào đó là những cảm xúc rất tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất
nước. Con người Thiền sống giữa thiên nhiên để thấy tâm hồn mình về với chân
như, với những cảm xúc hồn nhiên không gợn niềm trần tục:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Thiên trường vãn vọng – Trần Nhân Tông)
(Trước thôn, sau thôn đều mờ mờ như khói phủ,
Bên bóng chiều, cảnh vật nửa như có nửa như không.
Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết.
Từng đôi cò trắng liệng xuống đồng.)
(Buổi chiều ở phủ Thiên Trường trông ra)
Khó có thể nghĩ đây là bài thơ của một vị Thiền sư, bởi lẽ đây hoàn toàn là
cái nhìn rất thân quen về thiên nhiên, cuộc sống bình dị nơi thôn dã.
Ở thời kì này ta có thể dễ dàng nhận ra sự thống nhất đến độ hài hòa giữa
con người và thiên nhiên vạn vật. Ở đó, con người và cảnh vật không còn ranh giới
phân biệt nữa, tất cả đều trống không và hoàn toàn tĩnh lặng:
Vân sơn tương viễn cận,
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm dữ tâm.
34
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mãn hung khâm.
(Đăng Bảo Đài sơn – Trần Nhân Tông)
(Mây và núi bồng bềnh quyện vào nhau khi xa khi gần,
Con đường hoa nửa sáng nửa tối.
Mọi việc đời như nước trôi theo nước,
Trăm năm nhủ lòng với lòng.
Đứng tựa lan can cầm ngang ống sáo ngọc,
Trăng sáng đầy cả ngực và bụng.)
(Lên núi Bảo Đài)
Như vậy, thiên nhiên trong thơ thời Trần hết sức phong phú, đa dạng. Các nhà
thơ đã bước đầu phát hiện và cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà tuyệt vời của thiên
nhiên đất nước. Đây là sự tiếp nối thơ văn miêu tả thiên nhiên của thời Lý và là nền
tảng để các nhà thơ giai đoạn sau kế thừa và phát huy.
1.2.2. Thiên nhiên trong thơ thời Lê (thế kỷ XV)
Trong thế kỉ XV, lịch sử Việt Nam có nhiều biến động. Lê Thái Tổ tức Lê
Lợi, người Lam Sơn, Thanh Hóa; Thời thuộc Minh, ông dựng cờ khởi nghĩa; Sau
nhiều năm chiến đấu anh dũng, đại nghiệp bình Ngô phục quốc hoàn toàn thắng lợi,
Lê Lợi lên ngôi vua. Chính vì vậy, nội dung chủ yếu của văn học nửa đầu thế kỷ
XV là nội dung ca ngợi cuộc kháng chiến chống quân Minh và người anh hùng Lê
Lợi. Dưới triều đại nhà Lê, lực lượng sáng tác văn chương cũng khá đông đảo trong
đó phải kể đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Lê Thánh Tông,
Vương Sư Bá…
Thiên nhiên xuất hiện trong thơ thời kì này cũng nhằm mục đích thể hiện niềm
tự hào về những địa danh đã làm nên lịch sử. Đó là Lam Sơn, núi Chí Linh trong
sáng tác của Nguyễn Mộng Tuân (Lam Sơn phú,Chí Linh sơn phú). Địa danh Chí
Linh và Xương Giang cũng xuất hiện trong thơ Lý Tử Tấn với giọng thơ rất đỗi tự
hào:
Nghiệp lớn muôn đời thịnh trị,
35
Xã tắc trăm họ bình yên.
Đây hình thế núi Chí Linh:
Án ngữ nơi miền tây nước Việt.
Sừng sững khoảng trời đất vô biên.
(Chí Linh sơn phú)
Hay trong thơ Nguyễn Trãi:
Nhìn núi này cao vợi vợi chừ, nhớ xưa gian khổ,
Gây dựng nên nghiệp vương chừ, quên lãng sao đang.
Xin ghi thịnh đức vào đá chừ, lưu truyền bất hủ,
Mãi nghìn đời, vạn đời chừ, cùng trời đất miên trường.
(Chí Linh sơn phú - Nguyễn Trãi)
Không chỉ thể hiện niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân
tộc, các nhà thơ còn đi sâu vào việc miêu tả thiên nhiên gắn liền với đời sống hiện
thực. Đó là cảnh thiên nhiên tươi đẹp mang đậm phong vị quê hương và rất mực
gần gũi. Về phương diện này, tiêu biểu nhất phải kể đến tác giả Nguyễn Trãi.
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi là những cảnh trí về cuộc sống, con người
nông thôn Việt Nam. Những hình ảnh giản dị, mộc mạc thông qua lăng kính của
nhà thơ đã trở nên xinh tươi và duyên dáng. Đào liễu ở chốn lầu son gác tía sắp
hàng bên cạnh rau muống, mùng tơi quê mùa một cách tự nhiên. Trời mây, sông
nước, trăng hoa, chim bướm đều có mặt.
Cảnh mưa thu rơi nhẹ trên khóm trúc đầu nhà và làn gió xuân mát nhẹ thổi
ngang bình dị mang theo màu hoa lan thoang thoảng rất đẹp:
Mưa thu tưới ba đường cúc
Gió xuân đưa một lãnh lan
(Ngôn Chí, 16)
Tác giả miêu tả phong vị quê hương thật đậm đà bằng cách sử dụng những
hình ảnh mộc mạc gắn liền với cuộc sống giản dị của nông thôn Việt Nam:
Tả lòng thanh mùi núc nác
Vun đất ải rảnh mồng tơi
36
(Ngôn chí - bài 9)
Ao quan thả gửi bè rau muống,
Đất bụt ương nhờ một rảnh mùng.
(Thuật hứng- bài 23)
Qua những bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi ta thấy hình ảnh ước lệ, tượng trưng
trong việc miêu tả thiên nhiên đã được thay dần bằng chất liệu của đời sống thực.
Đó là bè rau muống, rảnh mồng tơi, kê, khoai,… những sản vật rất gần gũi với
người nông dân và cuộc sống nông thôn.
Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XV lịch sử có nhiều thay đổi, được đánh dấu bằng sự
kiện Lê Thánh Tông lên ngôi. Ở thời kỳ này, vua là người giám sát và chỉ đạo trực
tiếp việc sáng tác văn học. Nội dung chủ yếu của văn học giai đoạn này là ca ngợi
sự thịnh trị của chế độ phong kiến và tài đức của vua Lê Thánh Tông. Sáng tác văn
chương phải tuân theo những khuôn mẫu, quan điểm của nhà vua nên có phần khiên
cưỡng và thụ động. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập, qua nhiều vần thơ gợi tả sự
mĩ lệ của tự nhiên, các tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của non sông đất nước:
Chim bay rặng liễu dường thoi dệt
Nước chảy ao sen tựa suối đàn
Thông bảy tám hàng che kiểu tán
Mây dăm ba thức phủ thay màn
(Phật Tích sơn tự)
Cũng trong tập thơ này, có nhiều bài thơ viết về thiên nhiên mang tính chất
ngâm vịnh, tiêu khiển nhưng không mang giá trị biểu cảm cao như các bài thơ:
Hằng nga nguyệt, Cây chuối, Qua…
Tuy nhiên, cũng có một số tác giả sáng tác những vần thơ chân thực, hình
ảnh thiên nhiên mang đậm màu sắc dân tộc. Đó có thể là bức tranh hết sực mộc mạc
nhưng là đặc trưng cho cuộc sống ruộng đồng của người nông dân trong thơ
Nguyễn Bảo:
Ly biên ế ế giá miêu trưởng,
Thảo lý thanh thanh vu diệp hy
37
(Trừng Mại thôn xuân vãn)
Ngọn mía mơn mởn bên giậu tre
Luống khoai xanh xanh sau đám cỏ
(Chiều xuân ở thôn Trường Mại)
Đó cũng có thể là những cái rất bình thường, dung dị của đồng quê trong thơ
Thái Thuận:
Mao xá nhân yên lý,
Cô chu tiểu bạc thì.
Thôn đồng tam tứ bối,
Duyên thủy mịch bành kỳ
(Hoàng giang tức sự)
(Nhà tranh trong làn khói tỏa,
Thuyền côi lúc tạm đậu lại.
Trẻ quê ba bốn tốp,
Lần theo ven sông tìm bắt cua cáy)
(Đề thơ tức cảnh ở bến Hoàng Giang)
Như vậy, thơ trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XV mặc dù mang tính chất công
thức, khuôn sáo do ảnh hưởng của lối sáng tác cung đình nhưng bên cạnh đó, vẫn
có những bài thơ rất hay viết về thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ gần với đời
sống thực hơn mà còn thể hiện sự quan tâm và yêu mến cuộc sống của các tác giả
thời kỳ này.
1.2.3. Thiên nhiên trong thơ từ thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII
Tiếp nối truyền thống văn học của những giai đoạn trước, văn học Việt Nam
từ thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII cũng đề cập nhiều đến thiên nhiên. Nguyễn
Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của thế kỷ XVI. Tiếng thơ của ông cũng là tiếng nói của
thế kỷ XVI, thế kỷ mà chế độ phong kiến nước ta bước đầu đi vào con đường khủng
hoảng, do đó tư tưởng của các tầng lớp sĩ phu cũng có nhiều xu hướng phức tạp.
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là những bức tranh
hoa mỹ, lung linh nhiều màu sắc mà chỉ là những cảnh vật dung dị bình thường, gần
38
gũi với cuộc sống của bản thân nhà thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm không mặn mà với
con đường công danh, mộng vương hầu không phải là ước mơ cả cuộc đời như bao
người khác nên làm quan được vài năm ông xin cáo và lui về ở ẩn.
Được làm bạn, chan hòa cùng cỏ cây hoa lá là niềm vui giản dị mà thanh cao
được tác giả lựa chọn:
Mịch đắc thôn khê địa nhất triền
Nhàn lai ngô diệc lạc ngô thiên
Hiểu lâm thái phố vân niêm lý
Dạ phiếm ngư cơ nguyệt mãn thuyền.
(Ngụ hứng, bài 4)
(Tìm được miếng đất ở cạnh con ngòi trong làng
Khi thanh nhàn ta cùng vui với tính tự nhiên của ta
Buổi sáng đến vườn rau, sương dính vào dép
Ban đêm chơi ở ghềnh xóm chài, trăng rọi đầy thuyền.)
Yêu thiên nhiên bằng cả tấm lòng, trái tim đa cảm của nhà thơ luôn thâu tóm
tất cả những vẻ đẹp của tự nhiên vào lòng với tất cả sự nâng niu, trân trọng. Thơ
ông thường thể hiện tình cảm ấm áp, tâm hồn trong trẻo trong sự gắn bó giữa con
người và cảnh vật:
Trăng trong gió mát là tương thức,
Nước biếc non xanh ấy cố tri
(Thơ chữ Nôm: bài 90)
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa giản dị, tươi đẹp:
Giang sơn tám bức là tranh vẽ,
Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu
Vừa gần gũi, thân tình như anh em một nhà:
Hoa nở luống hay tin gió
Đầm thanh còn thấy dáng trăng.
(Thơ Nôm, bài 16)
39
Từ chối con đường hoạn lộ, lui về ở ẩn ở Bạch Vân am tức là Nguyễn Bỉnh
Khiêm quyết định lựa chọn cuộc sống nghèo về vật chất nhưng thay vào đó là tinh
thần luôn thanh thản, thoải mái. Ông tự do thưởng ngoạn tất cả những cảnh đẹp của
tạo vật mà không hề vướng bận. Bởi vậy, giữa người và cảnh có những phút giao
hòa tuyệt diệu:
Phương thảo cung ngâm xuân ý túc
Vân song hoán khách điểu thanh trì.
(Ngụ hứng, bài 5)
(Cỏ thơm cung cấp ý xuân đầy đủ để ngâm vịnh
Bên cửa sổ mây che, tiếng chim gọi khách khoan thai.)
Cũng phải nói thêm rằng, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không
đơn thuần là những bức tranh miêu tả vẻ đẹp của tạo hóa mà ẩn sau đó là những nỗi
niềm trăn trở của thi nhân. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã rời bỏ chốn quan trường lắm
nhiễu nhương, nhiều rối rắm nhưng ông vẫn luôn trăn trở, day dứt cho số mệnh của
dân tộc, thời đại. Vì vậy, trước thiên nhiên rất nhiều lần thi nhân đã bộc lộ nỗi lòng:
Còn một tấm lòng phó chốn trăng
Họa là thanh tỏ chút nào chăng.
(Thơ Nôm, bài 78)
Vào thời điểm này, nước nhà tạm thời bị chia cắt cho nên văn học cũng có sự
phân chia, thiên nhiên trong thơ cũng có sự khác nhau giữa Đàng Ngoài và Đàng
Trong. Về nội dung tư tưởng, văn học Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII, XVIII, phần lớn
là những tác phẩm mang tính chất ca ngợi chính quyền phong kiến, thiên nhiên
trong thơ giai đoạn này còn mang nặng tính công thức và cầu kì. Trịnh Căn thông
qua cảnh trí thiên nhiên để nói lên sự phồn vinh giả tạo của thế kỷ XVII:
Lá tuôn doành quế màu lai láng,
Gấm trải đường hoa khách dập dìu
(Quán Trấn Võ)
40
So với văn học Đàng Ngoài thì văn học Đàng Trong thể hiện hình ảnh thiên
nhiên rất mực chân thực mặc dù hình thức nói chung còn thô sơ. Mạc Thiên Tích
trong Hà Tiên thập vịnh đã có nhiều vần thơ mộc mạc, gần gũi và chân thực:
Dưới rừng mấy trẻ mục đồng,
Lưng trâu thổi địch, gió lồng theo khe.
Hay:
Hiu hiu ai phất gió đông,
Trên hồ tinh tú một dòng lung lay.
Tóm lại, thiên nhiên trong thơ giai đoạn này bên cạnh mục đích ca ngợi chính
quyền phong kiến, vẫn có những vần thơ rất hay viết về thiên nhiên và những cảnh
sắc tươi đẹp của đất nước. Với sự phân chia văn học Đàng Ngoài và văn học Đàng
trong, các nhà thơ đã thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước ở cả hai miền và mỗi
nơi đều có những nét đẹp riêng mặc dù hình thức vẫn còn thô sơ thiếu sự trau chuốt.
1.2.4. Thiên nhiên trong thơ từ nửa sau thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX
Thiên nhiên trong giai đoạn văn học Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XVIII - nửa
đầu thế kỷ XIX cũng vô cùng phong phú đa dạng. Tiêu biểu cho văn học giai đoạn
này phải kể đến Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương và đặc biệt là đại thi hào Nguyễn
Du.
Đặng Trần Côn với Chinh phụ ngâm do Đoàn Thị Điểm diễn Nôm cũng là một
tác phẩm thành công về nhiều mặt. Trong đó, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên cũng
được đông đảo bạn đọc quan tâm. Bức tranh thiên nhiên hiện lên hội tụ vẻ đẹp của
hoa, của trăng và của gió làm xao xuyến lòng người:
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Cảnh trong Chinh phụ ngâm thường gắn bó với con người, cụ thể là gắn bó với
những nỗi nhớ nhung, khát khao thầm kín của người chinh phụ:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
41
Cảnh cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Nhìn chung, thiên nhiên trong Chinh phụ ngâm còn mang nặng tính chất công
thức, ước lệ của văn học trung đại.
Đến với Hồ Xuân Hương, nhà thơ nữ tiêu biểu và có phong cách độc đáo của
giai đoạn văn học này, chúng ta sẽ bắt gặp những hình ảnh thiên nhiên vô cùng lí
thú mang đậm dấu ấn cá nhân tác giả. Trong thơ Hồ Xuân Hương, đề tài thiên nhiên
chiếm một số lượng lớn và hiện lên vô cùng xinh tươi, ngộ ngĩnh :
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông
(Giếng nước)
Hay:
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp
Lách khe nước rỉ mó lam nham
(Hang Thanh Hóa)
Xuân Hương là một nhà thơ yêu đời, yêu người, thiết tha với cuộc sống. Bức
tranh thiên nhiên trong thơ bà rất gần với cuộc đời thật, nhiều khi ta tưởng như đang
được sờ mó hay tận mắt chứng kiến cảnh vật:
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo.
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẻ kèo tre đốt khẳng kheo.
(Quán Khánh)
Ngoài ra, có những bài thơ nhìn tựa đề đúng là viết về thiên nhiên nhưng thật
ra không phải là để tả cảnh mà Xuân Hương mượn cảnh để chế giễu một số hạng
người trong xã hội (Quả mít, Con ốc nhồi).
Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương rất thật, không hề giả tạo hay theo một
khuôn mẫu có sẵn trong văn học phong kiến của nước ta. Về phương diện miêu tả
thiên nhiên, bà đã có nhiều thành công thật sự.
42
Nguyễn Du là tác gia có tên tuổi nhất trong gian đoạn văn học từ nửa sau thế
kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Ông được mọi người biết đến với kiệt tác Truyện
Kiều. Nguyễn Du là một thiên tài không chỉ thành công trong thơ Nôm mà thơ chữ
Hán cũng đạt được những giá trị rực rỡ. Thiên nhiên dưới ngòi bút Nguyễn Du hiện
lên sinh động và chân thực, ngoài sự kế thừa những thành tựu trong thơ cổ, thiên
nhiên trong thơ ông cũng mang những nét rất riêng, tiêu biểu cho phong cách thơ
của ông, điều này sẽ được chứng minh rõ trong nội dung chính của luận văn.
Như vậy, qua việc tìm hiểu khái quát thiên nhiên trong thơ trung đại, chúng ta
đã có cái nhìn khái quát về thiên nhiên qua các thời kỳ. Ở mỗi giai đoạn khác nhau,
thiên nhiên trong thơ đều mang những đặc điểm, nét đặc sắc riêng. Tính chất công
thức, ước lệ nhìn chung được các tác giả sử dụng nhiều trong việc miêu tả thiên
nhiên nhưng cũng dần được thay thế bằng những chất liệu của đời sống hiện thực.
Điểm qua một số đặc điểm của thiên nhiên trong thơ trung đại sẽ tạo nền tảng cơ sở
để chúng ta đi vào tìm hiểu thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Từ đó,
giúp ta thấy được sự kế thừa và phát huy của ông trong quá trình miêu tả thiên
nhiên.
Nguyễn Du sinh ra và trưởng thành trong nền văn học trung đại Việt Nam,
những nguyên tắc và chuẩn mực của nền văn học cổ điển đã ăn sâu bén rễ trong
quan niệm sáng tác của ông. Bởi vậy, các sáng tác của Nguyễn Du cũng phản ánh
đời sống, cách nhìn, cách nghĩ của nền thơ ca trung đại. Mặt khác, ông sống giữa
một thời kì đầy phong ba bão táp của lịch sử, lại thêm hoàn cảnh bản thân Nguyễn
Du mang nhiều nỗi đau buồn, tủi cực… tất cả những điều đó tác động rất lớn đến
đời sống tâm hồn thi nhân, làm cho thơ ông mang những nét đặc trưng, rất riêng.
Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là một minh chứng cụ thể cho điều đó.
Bên cạnh những đặc điểm chung của thơ trung đại, nó vẫn mang tính cá thể hóa, rất
riêng của Nguyễn Du; phản ánh cách nhìn, cách cảm của Nguyễn Du về thiên
nhiên, con người và cuộc đời.
43
CHƯƠNG 2 TỪ CẢM THỨC THIÊN NHIÊN ĐẾN TÂM SỰ VÀ TRIẾT LÝ VỀ CUỘC ĐỜI CỦA NGUYỄN DU 2.1. Cảm thức thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Từ thuở sơ khai, thiên nhiên luôn là người bạn thân tình của con người. Cuộc
sống nông nghiệp của ông cha ta từ xưa đến nay chưa bao giờ rời xa thiên nhiên.
Công việc của họ không có giờ giấc cố định mà phải tùy thuộc vào thiên nhiên, đi
theo mùa, theo vụ, chạy theo con nước và theo cả mùa nắng mưa.“Thiên nhiên gắn
bó với người nông dân, nếu thiếu thiên nhiên, sự sống Việt Nam coi như chừng
nghiêng lệch, khuyết một phần sinh khí” (Lê Trí Viễn).
Bước vào nghệ thuật, đặc biệt là lĩnh vực văn học ta càng thấy rõ vị trí của
thiên nhiên. Thiên nhiên là đề tài lớn muôn thuở không bao giờ xưa cũ, là nguồn
cảm hứng bất tận của các nhà thơ. Tuy nhiên, đứng trước thiên nhiên, không phải
cảm xúc của mọi người đều giống nhau. Thiên nhiên trong cảm thức của nhà thơ
vẫn là thiên nhiên với các đặc trưng về: hình ảnh, màu sắc, âm thanh… nhưng mỗi
người lại có cách khám phá và nhìn nhận thiên nhiên khác nhau, tùy thuộc vào cách
nhìn, cách cảm và của từng người.
Theo Từ điển tiếng Việt, cảm thức là sự nhận thức bằng cảm quan, nhận
thức bằng cảm giác. Cảm thức thiên nhiên là sự cảm nhận, nhận thức riêng của mỗi
cá nhân về những cung bậc khác nhau như đẹp – xấu, hiền hòa – dữ dội, trữ tình –
hung bạo… của thiên nhiên. Đi vào tác phẩm nghệ thuật, cảm thức thiên nhiên của
người nghệ sĩ sẽ được cụ thể hóa, hình tượng hóa đem đến cho người đọc những
hình ảnh thiên nhiên mang đậm dấu ấn cá nhân tác giả. Thiên nhiên trong cảm thức
của nhà thơ ngoài việc phản ánh đúng thực tế còn có những đặc trưng riêng.
Thiên nhiên trong cảm thức của Nguyễn Trãi là sự tươi đẹp của gió, trăng,
mây, núi… là kho báu trời cho:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
(Thuật hứng 19)
44
Hay:
Quét trúc, bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng
(Ngôn chí 15)
Bởi thế ông thích sống đơn sơ hòa nhập giữa cỏ cây:
Láng giềng một áng mây bạc
Khách khứa hai ngàn núi xanh
(Bảo kính cảnh giới 36)
Với Nguyễn Khuyến, thiên nhiên là người bạn một lòng tri kỷ, một người
bạn mênh mông khoáng đạt không bao giờ oán ghét, không đố kị thi nhân như cõi
đời ô trọc ngoài kia. Người bạn ấy sẵn sàng dang rộng vòng tay với con người.
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá
Sư cụ nằm chung với khói mây
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến còn là bức tranh tuyệt đẹp của sông,
núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng… Những cảnh vật bình dị, gần gũi với cuộc
sống con người:
Mắt thu tám mặt xóm làng quanh,
Chót vót non cao đứng một mình.
Gió nhẹ bóng trăng vờn khói bạc,
Mù quang chuôi đẩu gác mây xanh.
Một trời cảnh vật vàng tô vẽ,
Bốn mặt giang sơn ngọc chuốt hình.
Hòa với tiếng thu, sương thánh thót,
Âu Dương phú ấy gợi bao tình.
(Đêm thu đứng trên núi trông)
Nguyễn Du – nhà thơ có tên tuổi chói lọi nhất trong giai đoạn văn học cổ
điển Việt Nam, cũng có cái nhìn rất thú vị về thiên nhiên. Kiệt tác Truyện Kiều
thành công về mặt nội dung mà thiên nhiên cũng góp phần không nhỏ tạo nên giá trị
45
rực rỡ đó. Thiên nhiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là những bức tranh vô
cùng độc đáo với đầy đủ màu sắc, hình dáng, đường nét… Nó hội tụ cả vẻ đẹp bốn
mùa của tạo vật, cảnh nào cũng mang những nét đẹp, những đặc trưng riêng.
Đây là vẻ đẹp của mùa xuân:
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cảnh đẹp của mùa hè:
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.
Và cảnh đẹp của mùa thu:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Thiên nhiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ngoài bức tranh phong cảnh vô
cùng sinh động với nhiều màu sắc, rực rỡ còn là những hình ảnh có tác dụng làm
nền để bộc lộ tâm trạng của nhân vật:
Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Thiên nhiên trong con mắt Nguyễn Du còn là nhân chứng cho mọi nỗi buồn
của nhân vật với thái độ cảm thông, sẻ chia. Đó là tâm trạng “nao nao” trong tấc dạ
của người và cảnh trong buổi chiều tà khi Kiều đi qua chiếc cầu bắc ngang dòng
sông bên cạnh mộ Đạm Tiên:
Nao nao dòng nước uống quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Đó là hình ảnh vầng trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa
tỉnh nửa mê, sau lần gặp Kiều đầu tiên:
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu
46
Như vậy, Nguyễn Du nhìn nhận thiên nhiên trên những phương diện khác
nhau. Có thể đó là một bức tranh phong cảnh thuần túy và xinh đẹp. Đôi khi thiên
nhiên làm nền để con người bộc lộ tâm sự và là nhân chứng của bao nỗi buồn vui
của con người. Nó cũng có hồn, biết thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ với con người.
Không chỉ Truyện Kiều, thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng
vô cùng phong phú và sinh động. Cảm thức về thiên nhiên của Nguyễn Du trong
thơ chữ Hán cũng là một điều thú vị mà chúng ta cần khám phá.
2.1.1. Thiên nhiên mang màu sắc đạm bạc, tĩnh lặng
Một điều ta dễ dàng nhận ra trong bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Du đó
là nó mang một màu sắc đạm bạc, tĩnh lặng chứ không rực rỡ, lung linh. Đôi khi
thiên nhiên dường như không có màu sắc, nếu có thì cũng chỉ là những gam màu
nhẹ, hết sức gần gũi với con người, không phải là những hình ảnh lớn lao, kì vĩ hay
những cảnh vật mỹ lệ, chói chang.
Cũng cần phải nói thêm rằng, bức tranh thiên nhiên trong thơ ca trung đại
không phải lúc nào cũng tuyệt đối trung thành với những nguyên tắc, chuẩn mực có
sẵn. Không phải bức tranh nào cũng chỉ bàng bạc trắng – xanh, hay chỉ chấm phá
vài nét cỏ cây, hoa lá. Đã có một số thi nhân sử dụng những gam màu mạnh để tô
điểm cho bức tranh của mình. Đó là màu đỏ khé của làn nước chiều trong thơ Trần
Minh Tông:
Ánh nước chiều hôm màu đỏ khé
(Bạch Đằng giang)
Đó còn là màu đỏ tía của con cua gạch trong thơ Lý Tử Tấn:
Tứ giải hàm hoàng sơ thướng đoạn
(Sơ thu)
(Cua đỏ tía ngậm gạch vàng đã chui vào rọ)
Cũng có nhiều thi nhân quan sát một cách tỉ mĩ và miêu tả cảnh vật một cách
cụ thể, quan tâm đến từng biểu hiện nhỏ nhất của cảnh vật xung quanh. Vẽ nên một
bức tranh vô cùng đặc sắc, lộng lẫy. Ở đó có cả dòng sông, có cơn mưa sớm, hoa
47
lựu, có hòe buông, ngay cả rong rêu – thực thể vô cùng nhỏ bé cũng được thi nhân
phát hiện:
Lựu hoa đình viện thảo trì đường
Thủy các vô trần hạ ảnh trường
Điệp điệp đài tiền triêu vũ tĩnh
Âm âm hòe ác ngọ phong lương
(Nhật hạ - Lý Tử Tấn)
(Trước sông hoa lựu, cỏ bờ ao
Mặt nước ngày dài, gác sách làu
Rêu tỏa, nụ thiền mưa sớm giội
Hòe buông màng lá gió trưa vào)
Nói như vậy để khẳng định rằng, bức tranh thiên nhiên thời trung đại cũng
được các thi nhân nhìn nhận ở nhiều chiều và nhiều phương diện khác nhau. Tuy
nhiên, những ví dụ nêu trên cũng chỉ chiếm một số lượng nhỏ trong các sáng tác
thời kì trung đại. Còn lại, đại đa số các thi nhân cũng lựa chọn cho mình cách quan
sát và miêu tả thật nhẹ nhàng, đơn giản chứ không cầu kì, phô trương, hoa mỹ. Điều
này có lẽ bắt nguồn từ quan điểm của các nhà thơ. Hầu như các nhà thơ trung đại
đều là những nhà Nho, họ sống cuộc sống thanh bạch và giản dị nên những gì họ vẽ
vào thơ cũng phản chiếu sự dung dị, bình thường như chính của cuộc sống hằng
ngày vậy. Nguyễn Du cũng lựa chọn cách đó để đến với thiên nhiên.
Miêu tả thiên nhiên, hai gam màu nhẹ xanh – trắng được Nguyễn Du sử dụng
với tần số cao nhất. Đặc biệt, màu trắng chiếm đa số. Ba tập thơ chữ Hán của
Nguyễn Du phần nhiều là những bài thơ tự thuật. Phải chăng ngoại cảnh cũng là nội
tâm? Nếu như người khác cho rằng Nguyễn Du là một “sầu nhân”, thì bản thân
Nguyễn Du cũng tự đánh giá: đời mình cũng chỉ bàng bạc thôi, bởi phần do thời
cuộc, phần do sức khỏe, có lẽ thế mà màu “bàng bạc” ấy xuất hiện rất nhiều trong
thơ ông: tóc trắng, sương móc trắng, mây trắng, đàn cò trắng, hoa lau trắng, chim âu
trắng, rau tần trắng…
Sắc trắng tràn ngập trên những trang thơ:
48
Bạch lộ tổn hoàng hoa
(Kí giang bắc Huyền Hư Tử)
(Móc trắng làm tổn hại hoa vàng)
(Gởi Huyền Hư Tử ở phía bắc sông)
Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch
(Tạp thi II)
(Mây trắng ngàn dặm sinh ra quanh ghế, quanh chiếu ngồi)
Long Vĩ châu biên đa bạch âu
(Mạn hứng)
(Bên bãi Long vĩ có nhiều chim âu trắng)
(Cảm hứng lan man)
Màu xanh nhẹ nhàng, tươi mát cũng chiếm vị trí quan trọng trong các bài thơ
chữ Hán. Với Nguyễn Du, cánh đồng Hiên mênh mông trước đình làng, xanh ngắt
một màu lúa thì con gái đã để lại ấn tượng khá đậm nét trong tâm trí ông mãi đến
sau này. Miêu tả thiên nhiên không cầu kì, nhiều màu sắc, bức tranh thiên nhiên
hiện lên không rực rỡ, chói chang mà mang vẻ đẹp dịu nhẹ, đằm thắm của màu
xanh: dãy núi xanh, trời xanh, biển xanh, thảm rêu xanh, sen xanh, mây xanh, liễu
xanh, trúc xanh, thông xanh, rau tần xanh, cầu đá xanh, mắt xanh…
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng
(Mạn hứng)
(Là dãy núi xanh vẫn nhuốm ánh chiều hồng như cũ)
(Cảm hứng lan man)
Du nhân vô hạn cảm,
Phương thảo biến thiên nhai
(Độ phú Nông Giang cảm tác)
(Du khách cảm xúc vô hạn
Cỏ thơm xanh tận chân trời)
(Cảm tác khi qua sông Phú Nông)
49
Có thể nhận ra rằng hai gam màu nhẹ trắng – xanh xuất hiện với tần số cao
nhất trong cả ba tập thơ. Tuy nhiên trong một số bài thơ, đôi khi Nguyễn Du cũng
điểm vào trong đó một số dải màu đậm để cảnh trở nên hài hòa và chân thật hơn.
Các gam màu mạnh có xuất hiện như vàng, đỏ, đen... nhưng rất ít và khi
những gam màu mạnh này xuất hiện thì luôn có những gam màu nhẹ đi kèm để làm
trung hòa màu sắc bức tranh. Nhắc đến lá vàng, hoa vàng nhưng ông ít khi lấy nó
làm màu chủ đạo mà thường kết hợp với sắc xanh hay sắc trắng:
Lô hoa sơ bạch cúc sơ hoàng,
Thiên lý hương tâm dạ cộng trường.
Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt,
Lục âm trùng điệp bất di quang.
(Ngẫu hứng kì II)
(Hoa lau vừa bạc hoa cúc vừa vàng,
Lòng nhớ quê nơi ngàn dặm xa cùng dài với đêm dài.
Gượng dậy đẩy song cửa ngắm trăng sáng,
Bóng cây xanh trùng điệp làm ánh trăng không lọt qua được).
(Cảm hứng ngẫu nhiên)
Hoặc khi nhắc đến bóng chiều nhuộm đỏ cả bầu trời thì Nguyễn Du lại đưa
vào đó sắc xanh của đại dương bao la nhằm làm phai nhạt đi ánh đỏ của mặt trời.
Hoàng Mai kiều thượng tịch dương hồng,
Hoàng Mai kiều hạ thủy lưu đông.
Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại,
(Hoàng Mai kiều vãn diếu)
(Trên cầu Hoàng Mai bóng chiều đỏ rực,
Dưới cầu Hoàng Mai nước chảy về đông.
Nguyên khí nổi chìm ngoài biển xanh)
(Chiều trên cầu Hoàng Mai nhìn ra xa)
Để khẳng định bức tranh thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du mang màu sắc
nhẹ nhàng, đạm bạc và tĩnh lặng mà chỉ nói về việc sử dụng màu sắc e là chưa đủ
50
sức thuyết phục. Giải quyết mối băn khoăn này, chúng tôi đi sâu vào khảo sát các
chất liệu được thi nhân sử dụng để vẽ nên bức tranh thiên nhiên của mình.
Các thi nhân xưa thường dùng những hình ảnh bóng bẫy để miêu tả vẻ đẹp
huyền diệu của trăng. Đó là “chị Hằng” với ánh sáng bàng bạc muôn nơi, đó chính
là “ác thỏ”, “thiềm cung” và vùng sáng xanh như ngọc… Riêng Nguyễn Du miêu
tả trăng khác lạ. Với ông, trăng không rực rỡ, lung linh mà mang nét đẹp nhẹ nhàng,
bàng bạc, thậm chí chỉ toàn là hình ảnh trăng tàn, trăng xế, trăng lặn, làm cho phong
cảnh càng thêm mờ mịt, ảm đạm:
Dạ sắc thượng mông mông,
Nguyệt lạc viên thành ngoại.
(Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành)
(Sắc đêm còn mờ mịt,
Trăng lặn ở ngoài phía tiếng vượn kêu).
(Buổi sớm trên đường núi Phượng Hoàng)
Bóng chiều rợn ngợp trong thơ chữ Hán làm bức tranh mang một màu sắc u
ám, buồn bã. Đi hết 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du có đến 31 lần hình ảnh
chiều tà xuất hiện. Đây không đơn thuần chỉ là sự nhìn nhận của tác giả khi đất trời
đi vào khoảnh khắc cuối ngày mà ẩn đằng sau đó là tâm trạng cô đơn, bế tắc và sầu
tủi. Chính những điều đó làm cho bức tranh thiên nhiên vốn đã mờ mịt, ảm đạm
càng trở nên tĩnh lặng hơn bao giờ hết:
Tịch tịch thuyền song vô cá sự,
Ngư ca giang thượng khan tà huy.
(Hạ than hỷ phú)
(Lặng lẽ bên cửa sổ thuyền không có việc gì,
Nghe khúc hát của thuyền chai trên sông, ngắm bóng chiều tà).
(Tả nỗi mừng xuống khỏi thác)
Còn nơi nào hiu quạnh, ảm đạm hơn khi mà không gian bốn bề toàn núi đồi,
cỏ cây cũng chẳng được xanh tốt, tươi non mà tất cả đều héo úa, xác xơ. Điểm vào
51
bức tranh ấy là cái không khí buồn buồn của buổi chiều làm cho cảnh vật càng thêm
quạnh quẽ, thê lương:
Tiêu tiêu khô thảo lộ nhất tuyến,
Tịch tịch tà dương sơn tứ vi.
(Tổ Sơn đạo trung)
(Suốt dọc đường cỏ héo xác xơ,
Bóng tà quạnh quẽ, bốn bề toàn núi).
(Trên đường Tổ Sơn)
Mùa thu vốn là đề tài mang đến nhiều cảm xúc cho thi nhân. Bức tranh thu
trong thơ ca truyền thống hiện lên với nhiều màu sắc sặc sỡ, chói chang, đó là màu
vàng của hoa cúc, của lá vàng rơi, là cái rực rỡ của hoa lựu trước sân, của rừng
phong lá đỏ. Mùa thu là mùa làm cho cảnh vật thêm tình tứ bởi thu đến làm cho
nước thêm trong, trời thêm xanh, trăng thêm sáng. Ấy vậy mà bức tranh thu của cụ
Nguyễn lại không phải thế. Thu trong thơ chữ Hán buồn và trở nên ảm đạm, xơ xác,
tiêu điều. Đó là cỏ thu tàn úa nơi đài Đồng Tước:
Âm phong nộ hào thu thảo mĩ.
(Đồng Tước đài)
(Gió lạnh réo gào giận giữ, cỏ thu tàn úa)
(Đài Đồng Tước)
Đó là ngôi đình Tô Tần trong cảnh thu muộn cỏ thu rậm rạp:
Nhất đình thu mộ thảo thê thê
(Tô Tần đình)
(Một ngôi đình trong cảnh thu muộn, cỏ rậm rạp)
(Đình Tô Tần)
Cỏ thu xơ xác bên cầu Dự Nhượng…:
Kiều biên thu thảo không tiêu tiêu
(Dự Nhượng kiều)
(Cỏ thu bên cầu luống xơ xác)
(Cầu Dự Nhượng)
52
Trăng khi tròn khi khuyết, không phải lúc nào cũng rực rỡ, lung linh là
chuyện bình thường. Bóng chiều mang đến sự hiu hắt, ảm đạm cũng là điều dễ hiểu,
mùa thu vốn đẹp nhưng buồn cũng là điều xưa nay mọi người công nhận. Còn mùa
xuân. Mùa bắt đầu cho một năm, mùa khởi đầu cho mọi sự sống, mùa của hoa cỏ tốt
tươi. Vậy mà trong thơ Nguyễn Du, bức tranh xuân không mang được vẻ sáng sủa,
tươi tắn ấy.
Cảnh xuân hiện ra không phải là hoa mai vàng nở rộ, hoa đào thắm đỏ,
không là én lượn, bướm bay rập rờn. Nó xuất hiện sau cái lạnh của mùa đông, trong
bóng liễu âm u, trong cái u ám của màn đêm, trong nỗi buồn cô đơn, bệnh tật của
con người:
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm.
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.
(Xuân dạ)
(Đêm tối đen tìm đâu ánh sáng mùa xuân,
Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u
Trong chốn giang hồ bệnh đến đã lâu ngày,
Mùa xuân theo mưa gió mà chìm trong đêm sâu.)
(Đêm xuân)
Như vậy, đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, ta nhận ra rằng bức tranh thiên nhiên
không phải là những hình ảnh, màu sắc, đường nét rực rỡ, lung linh mà rất nhẹ
nhàng, tĩnh lặng, thậm chí rất ảm đạm.
Trong thơ trung đại, thiên nhiên chưa thật sự là đối tượng mà nhập chung với
tác giả, họ hòa mình vào thiên nhiên để ngắm nhìn, để sẻ chia. Tuy nhiên, cũng có
những lúc con người đã tách mình ra khỏi thiên nhiên, xem nó như một đối tượng
khách quan để khám phá. Từ đó, bên cạnh thiên nhiên mang tính ước lệ, hoặc đồng
hóa thiên nhiên theo những tư tưởng, tình cảm của con người vẫn còn có những
cảnh vật thật sự khách quan trong cái nhìn, cái cảm của nhà thơ. Thiên nhiên trong
53
cảm thức của Nguyễn Du còn là những bức tranh phong cảnh gần gũi, dung dị và
chân thật gắn liền với cuộc sống của con người.
2.1.2. Thiên nhiên gần gũi, hiền hòa
Không biết từ bao giờ mà con người đã nhận ra, tôn vinh thiên nhiên và gọi
bằng một cái tên rất trân trọng, trìu mến “Mẹ thiên nhiên”. Vẻ đẹp mà “Mẹ” mang
đến đã làm rung động biết bao nhiêu trái tim của người nghệ sĩ, để rồi từ đó khơi
nguồn cảm hứng và các tác phẩm nghệ thuật về thiên nhiên lần lượt ra đời. Ta
không thể nào không rung động trước bức tranh “Mùa thu vàng” hay “Rừng bạch
dương” tuyệt đẹp của danh họa người Nga Levitan. Chúng ta không khỏi bâng
khuâng, rạo rực khi thưởng ca khúc “Bức họa đồng quê” của cố nhạc sĩ Văn Phụng;
ở đó, muôn vàn cảnh đẹp thiên nhiên mang nét đặc trưng của quê hương Việt hiện
ra, có trời trong, mây trắng, đồng lúa xanh, có nắng vàng ban mai và tiếng chim ríu
rít vang trời… Tất cả đều vô cùng tươi đẹp và duyên dáng.
Văn học cũng là một loại hình nghệ thuật. Đứng trước vẻ đẹp của tạo hóa,
cảm xúc con người được thăng hoa và kết quả là những tác phẩm nghệ thuật bằng
văn, thơ lần lượt khai sinh.
Trong lịch sử văn học dân tộc, có rất nhiều thi sĩ đã cho ra đời vô vàn những
tác phẩm nghệ thuật bằng thơ về thiên nhiên làm xao xuyến lòng người đọc. Bức
tranh thủy mặc của Trần Nhân Tông dường như đã thâu tóm tất cả vẻ đẹp của thiên
nhiên. Khung cảnh thật hài hòa và nên thơ, khói mùa thu làm nhạt nhòa đi ngôi
chùa cổ, chiếc thuyền câu giữa dòng cũng hiu hắt hơn bởi khí thu buồn. Nhưng
không phải vì thế mà bức tranh trở nên mờ nhạt. Sự trong vắt của làn nước hòa với
sự tĩnh lặng của dáng núi mùa thu; màu trắng của cánh chim điểm vào màu xanh
ngắt của những đám mây cùng những vệt lơ thơ đỏ của lá thu tạo nên bức tranh vô
cùng ấn tượng:
Cô tự thê lương thu ái ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.
Thủy minh, sơn tĩnh, bạch âu quá,
Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ.
54
(Lạng Sơn vãn cảnh – Trần Nhân Tông)
(Ngôi chùa cổ ẩn mình sau lớp khói mùa thu,
Thuyền câu hiu hắt, chuông chiều bắt đầu điểm.
Nước trong, núi lặng, chim âu trắng bay qua,
Gió im, mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ)
Nguyễn Trãi cũng là một nhà thơ viết rất nhiều và rất đẹp về thiên nhiên. Có
những vẻ đẹp được tạo nên bởi tiếng cuốc kêu, tiếng mưa rơi trong xuân muộn,
cùng hoa xoan nở trắng trước sân nhà:
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai
(Mộ xuân tức sự)
(Khắc khoải khuyên kêu xuân đã muộn
Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân)
(Cuối xuân tức cảnh)
Tiếp nối truyền thống dân tộc, đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta cũng hòa
điệu cùng các bậc tiền bối trên con đường khám phá thiên nhiên. Một nhà nghiên
cứu đã nhận xét: thơ thiên nhiên trung đại không bao giờ đơn thuần chỉ là tả cảnh.
Có lẽ, họ bị chi phối bởi quan niệm văn học trung đại, làm thơ là để nói chí, tỏ tình.
Chúng tôi không phủ nhận điều này đối với văn chương Nguyễn Du. Tuy nhiên,
thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du ngoài việc làm nền để tác giả bộc lộ tâm tình, nó
còn là bức tranh khách quan để thi nhân chiêm ngưỡng và ngâm vịnh.
“Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp. Mây gió trăng hoa tuyết núi sông”
(Hồ Chí Minh). Câu ấy quả thật không sai. Các nhà thơ trung đại luôn ưu ái cho vẻ
đẹp của một đám mây, một cơn gió, một ngọn núi, một dòng sông và đặc biệt là vẻ
đẹp của vầng trăng.
Nguyễn Du cũng mang trong mình một tình yêu tha thiết với ánh trăng. Bởi
vậy, trong ba tập thơ chữ Hán có đến 40 bài thơ xuất hiện hình ảnh này. Cụ Nguyễn
đã sử dụng rất nhiều hình ảnh độc đáo để so sánh trăng mà xưa nay chưa từng thấy
55
ai có được những lối so sánh lạ đến vậy. Trăng có khi như một cô gái đẹp đang tuổi
đương thì:
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thiền quyên.
(Quỳnh Hải nguyên tiêu)
(Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng đầy trời,
Trăng như cô gái đẹp, vẫn như xưa, không thay đổi dáng vẻ
xinh tươi).
(Đêm rằm tháng giêng ở Quỳnh Hải)
Cũng có lúc, trăng chưa thật sự tròn đầy, viên mãn nhưng không hề làm phai
giảm đi nét đẹp vốn có của nó. Lúc này, trăng vinh hạnh có được ánh sáng của mặt
trời trở nên đẹp lộng lẫy như chiếc hộp gương trang điểm của Hằng Nga, đẹp giống
như cái dáng cong của chiếc cung tráng sĩ :
Hấp đắc dương quang tài thướng thiên,
Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên.
Thường nga trang kính vi khai hạp,
Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền.
(Sơ nguyệt)
(Hút được ánh sáng mặt trời vừa mới mọc trên nền trời,
Mồng ba mồng bốn trăng chưa tròn,
Như hộp gương trang điểm của Hằng Nga vừa mới mở hé
Như cái cung cong của tráng sĩ vừa mới giương lên mà không
mắc dây)
(Trăng non)
Có lẽ từ lâu lắm rồi, trăng đã trở thành thi liệu không thể thiếu trong thơ ca.
Cũng có thể coi đây là mối lương duyên bền chặt giữa vầng trăng và các thi sĩ.
Trong quan niệm nghệ thuật của các nhà thơ cổ, trăng không phải chỉ là nguồn sáng
trong đêm mà đã trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo. Trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du, trăng cũng có được vị trí đặc biệt đó.
56
Không chỉ trăng, thu trong thơ Nguyễn Du cũng rất đẹp. Không biết vì lẽ gì
mà mùa thu lại xuất hiện nhiều trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du đến vậy? Đi hết
3 tập thơ có đến 57 bài thơ tác giả đề cập đến hình ảnh thu. Mùa thu trong thơ cụ
Nguyễn hiện lên vô cùng phong phú và sinh động, có lẽ tác giả phải có một tình
cảm đặc biệt lắm mới ưu ái thu đến thế. Nguyễn Du không đơn thuần chỉ tả bức
tranh thu một cách chung chung, khái quát mà đi sâu vào từng biến đổi của sự vật,
quan sát đến những biểu hiện nhỏ nhất của mùa thu. Từ biểu hiện dễ dàng nhận thấy
như sắc thu, màu thu, mưa thu cho đến khí thu, hơi thu, vẻ thu, tiếng thu – những
biểu hiện mơ hồ, khó nắm bắt mà Nguyễn Du cũng cảm nhận thật tài tình. Có lẽ thu
đã ăn sâu, bén rễ vào tâm hồn vốn nhạy cảm của thi nhân nên mới có những phát
hiện tinh tế đến vậy.
Bức tranh thu hiện lên với nhiều màu sắc và đường nét. Khi thu đến, sắc
vàng của hoa cúc lan tỏa khắp nơi vẽ nên một bức tranh đặc trưng cho thu:
Nhất song thu sắc tại hoa vàng
(Tạp ngâm I)
(Sắc thu đầy cửa sổ ở khóm hoa cúc vàng)
Thu đến, bầu trời tuy còn âm u nhưng đã trở nên thanh thoát, mát mẻ hơn
nhiều. Làn gió thu nhẹ nhàng đưa con người ta đến cảm giác thật thoải mái. Lúc
này, không còn cái nắng gay gắt của mùa hè, càng không có cái lạnh căm căm cắt
da, cắt thịt của mùa đông. Bởi vậy, thi nhân có được sự ung dung, tự tại dạo bước
để chiêm ngưỡng thu với tất cả vẻ đẹp mà nó mang đến. Thu hiện hữu ở khắp mọi
nơi, khí thu tràn về trong những ao đầm và cả những rặng núi xa. Thu hiện ra với
làn nước trong vắt, hoa cúc vàng, với khóm trúc xanh, với rừng phong lá đỏ:
Mạc mạc thu quang bát nguyệt thâm,
Mang mang thiên khí bán tình âm.
Thu phong cao trúc minh thiên lại,
Linh vũ hoàng hoa bố địa câm.
Viễn tụ hàn xâm du tử mộng,
Trừng đàm thanh cộng chủ nhân tâm.
57
Xuất môn từ bộ khan thu sắc,
Bán tại giang đầu phong thụ lâm.
(Tạp ngâm II)
Tháng tám lặng lẽ ánh thu già,
Khí trời mênh mông nửa tạnh ráo, nửa âm u.
Trúc cao đón gió, sáo trời thổi,
Hoa vàng được mưa, như rắc vàng trên mặt đất.
Khí lạnh rặng núi xa thấm vào người du tử,
Nước đầm trong cùng với lòng chủ nhân.
Ra cửa bước thong dong nhìn sắc thu,
Thấy một nửa sắc thu ở tại rừng phong đầu sông)
Vẻ đẹp của thiên nhiên không chỉ được Nguyễn Du nhìn nhận và phát hiện ở
một đối tượng cụ thể mà còn được thi nhân khám phá một cách toàn diện.
Một điều chúng ta có thể dễ dàng nhận ra khi đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du là
ông luôn mang trong mình một tình cảm sâu đậm đối với quê hương Hà Tĩnh. Sông
Lam, núi Hồng giữ vị trí đặc biệt trong thơ ông. Dù đi đâu, ở đâu, làm gì tác giả
cũng luôn nhớ về nơi ấy với tình cảm tha thiết nhất. Với Nguyễn Du, sông Lam, núi
Hồng là tuyệt vời hơn cả. Ở đó, con người ta có thể mở rộng tấm lòng để đón nhận
tất cả sự bình yên và thanh thản. Cũng nơi đó, thi nhân có thể mặc sức chiêm
ngưỡng thiên nhiên mà không phải lo lắng, trăn trở và vướng bận bất cứ điều gì.
Bởi thế, vẻ đẹp của nó cũng được ông nhắc đến nhiều trong thơ với giọng rất đỗi tự
hào:
Lam thủy Hồng sơn vô hạn thắng,
Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm.
(Phúc Thực Đình)
(Sông Lam núi Hồng đẹp vô hạn,
Nhờ anh thu lượm để giúp thêm vào việc ngâm vịnh thanh tao)
(Trả lời bạn Thực Đình)
Hay :
58
Mạc sầu tịch địa vô giai khách,
Lam thủy Hồng sơn túc vịnh ngâm.
(Tặng Thực Đình)
(Chớ sầu ở nơi hẻo lánh không gặp bạn tốt,
Sông Lam núi Hồng đã đủ để ngâm vịnh)
(Tặng Thực Đình)
Nguyễn Du có dịp được đi nhiều nên có rất nhiều cơ hội được chiêm ngưỡng
vô vàn danh lam thắng cảnh trên những chặng đường đi qua. Và tất nhiên, bản thân
là một thi sĩ luôn rung động trước cái đẹp, ông không quên ghi lại tất cả những vẻ
đẹp cũng như cảm xúc của mình.
Đó là vẻ đẹp ở mảnh đất Quảng Tế của đất nước Trung Hoa, nơi khi còn làm
quan Nguyễn Du đã đi sứ và ghé thăm:
Giang Nam, Hồ Bắc địa tương lân,
Nhật nhật phồn hoa bất kí xuân.
Ngọc địch lâu đầu thiên thượng khúc,
Thùy dương môn ngoại hà trung nhân.
(Quảng Tế kí thắng)
(Giang Nam và Hồ Bắc giáp với nhau,
Ngày nào cũng là cảnh phồn hoa nên chẳng nhớ tới mùa xuân
nữa.
Sáo trên lầu thổi khúc nhạc trên trời,
Cây thùy dương ngoài cửa như người đẹp trong tranh.)
(Ghi cảnh đẹp ở Quảng Tế)
Đó còn là cảnh đẹp ở một gia trại vào buổi sớm mà Nguyễn Du đã ghé nghỉ
nhờ. Thi nhân cảm nhận tất cả những chuyển biến của tạo vật trước mắt ông, dù chỉ
là những thay đổi nhỏ nhất. Bức tranh của một buổi bình minh trên đất Trung Hoa
thật đẹp. Đẹp từ hình ảnh mặt trời lấp ló trong núi đến cái không gian bát ngát mênh
mông của bầu trời. Đẹp từ hình ảnh con đường người dạo bước cho đến cả giấc ngủ
muộn của những chú chim trên cành:
59
Hiểu sắc hà thương mang,
Sơ nhật ẩn sơn phúc.
Lộ thượng nhân kí hành,
Chi đầu điểu do túc.
(Lý gia trại tạo phát)
(Sắc trời buổi sớm sao mà bát ngát mênh mang,
Mặt trời bắt đầu mọc còn nấp trong núi.
Trên đường, người đã đi,
Đầu cành chim còn ngủ.)
(Sớm từ Lý gia trại đi ra)
Nguyễn Du là người biết cảm nhận và trân trọng cái đẹp. Vẻ đẹp tươi tắn,
rạng ngời của thiên nhiên được ông gói trọn vào “túi thơ” với một tình cảm chân
thành nhất. Cái đẹp trong thơ ông không chỉ biểu hiện ở những hình ảnh cụ thể như
một vầng trăng, một đám mây, một buổi chiều mà được thi nhân cảm nhận ở cả tầm
vĩ mô. Với cái nhìn cao rộng và thoáng đạt, bức tranh thiên nhiên hiện lên thật hài
hòa, duyên dáng và đậm chất thơ. Tình yêu thiên nhiên đã trở thành một nét đẹp
thẫm mỹ trong con người Nguyễn Du. Có như vậy, thi nhân mới có thể vẽ nên
những bức tranh lung linh, bay bỗng đến thế.
Trước cảnh đẹp thiên nhiên, Tô Đông Pha phải thốt lên: “Chảy hoài như dòng
nước chẳng bao giờ mất. Ánh trăng tràn ngập khắp nơi mà chẳng kém hay hơn…
Nhìn trời đất không muốn chớp mắt… gió mát trên sông, trăng sáng đầu núi, tai
nghe mà nên tiếng, mắt thấy mà thành màu, lấy đi không cấm, dùng mãi vẫn còn.
Kho tạo hóa là kho vô tận để chúng ta cùng tận hưởng [37,tr.332]. Nguyễn Du cũng
đã biết tận dụng vẻ đẹp của tạo hóa để làm nên cái đẹp của riêng mình, làm đẹp cho
thơ và làm đẹp cho đời.
Bên cạnh vẻ đẹp cố hữu của tự nhiên, điều mà từ xưa đến nay bất cứ ai là thi
sĩ cũng đã từng rung động, dạt dào cảm xúc và ngợi ca, thiên nhiên còn mang khuôn
mặt hung tợn, dữ dằn làm con người phải khiếp sợ. Nguyễn Du không hề thi vị hóa
mà đã có một cái nhìn khách quan về thiên nhiên.
60
2.1.3. Thiên nhiên dữ dội, nguy hiểm
Thiên nhiên có khi hiền dịu nhưng cũng có khi dữ tợn không khác gì mãnh
thú. Chúng ta có thể bắt gặp điều này trong bài “Buổi tối mùa đông” của Puskin,
nhà thơ Nga:
Ngoài trời đầy gió bão
Tuyết lốc quay mịt mờ
Khi gầm như mãnh thú
Khi gào như trẻ thơ
Khi xạc xào gốc rạ
Trên nóc nhà xác xơ
Khi ngập ngừng gõ cửa
Như khách đêm ghé nhờ.
Nguyễn Du có dịp đi nhiều nên được thỏa sức chiêm ngưỡng, ngắm nhìn cả
một vùng không gian rộng lớn, hùng vĩ của tự nhiên. Nhờ đó, ông phát hiện ra rằng
thiên nhiên không phải lúc nào cũng gần gũi, mang vẻ đẹp duyên dáng, tươi trong,
thanh mát mà ẩn trong nó là những nanh vuốt, những cơn cuồng phong như muốn
cuốn đi và nuốt chửng tất cả. Dưới cái nhìn của Nguyễn Du, thiên nhiên vẫn giữ
được những nét ban sơ, nguyên thủy, trần trụi như nó vốn có.
Cảnh núi rừng hiểm trở, đất đá chất chồng, đằng sau nó là sự rình rập của thú
dữ được Nguyễn Du quan sát và miêu tả thật cụ thể trong thơ. Đó là con đường khe
đá ở Quỉ Môn làm cho lữ khách ai ai cũng rùng mình, hồn bay phách lạc. Những
cơn gió lạnh đến gai người từ núi phả ra, giữa bầu không gian u tịch, thâm sâu là âm
thanh ghê rợn của tiếng vượn hú làm con người khiếp sợ. Ngay cả cái tên cũng đủ
làm cho người ta có cảm giác rờn rợn huống gì phải bước đi trên con đường ấy:
Quỉ Môn thạch kính xuất vân côn,
Chính khách nam qui dục đoạn hồn.
Thụ thụ đông phong xuy tống mã,
Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề vôn.
(Quỉ Môn đạo trung)
61
(Đường khe đá ở Quỉ Môn từ chân mây chạy ra,
Khách đi đường xa về nam như muốn dứt hồn.
Gió đông qua thổi vào những hàng cây ngựa đi tiễn,
Trăng lặn xuống sau dãy núi, đêm nghe tiếng vượn kêu)
(Trên đường Quỉ Môn)
Có lẽ vì sự hiểm trở của địa danh này mà người Trung Quốc đã tương
truyền: “Quỉ Môn quan, Quỉ Môn quan. Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn” (Ải Quỉ
Môn, ải Quỉ Môn. Mười người đi chỉ có một người về).
Đi hết 3 tập thơ chữ Hán, chúng ta còn nhận ra có rất nhiều bức tranh vẽ ra
sự hiểm trở và ngổn ngang của núi rừng được tác giả khắc họa thật cụ thể tỉ mỉ. Đôi
khi, chúng ta không khỏi cảm giác rợn ngợp, ghê sợ, bởi thiên nhiên quá dữ dội và
hiểm nguy. Con người không thể biết được lúc nào thần núi, thần đá nổi giận và số
phận mình sẽ đi về đâu.
Đó còn là con đường giữa núi mà bùn ngập sâu cả chân ngựa, đó là khe núi
âm u thích hợp cho sự ẩn nấp của yêu quái, thú dữ… tất cả đều được miêu tả sinh
động và chân thực:
Sơn lộc tích nê thâm một mã,
Khê tuyền phục quái lão thành tinh.
(Mạc phủ tức sự)
(Đường chân núi đầy bùn sâu ngập cả chân ngựa
Yêu quái ấn nấp lâu đời trong khe suối đã thành tinh)
(Tức cảnh ở mạc phủ)
Hay
Đông A lộ xuất loạn sơn trung,
Vạn thụ tùng sam nhất kính thông.
Giản vụ tử sinh nghi ẩn báo,
Khê vân vô sự lãn tòng long.
(Đông A sơn lộ hành)
(Đường Đông A đi ra từ giữa lòng núi ngổn ngang,
62
Một con đường tắt nhỏ chạy qua muôn gốc tùng sam.
Sương móc ở khe bốc lên thích hợp cho con báo ẩn nấp,
Mây ở khe suối lười bay theo rồng)
(Trên đường núi huyện Đông A)
Trên con đường dài vạn dặm, không ít lần con người có được sự ưu ái từ
thiên nhiên. Đang lúc cô đơn, sầu tủi đôi khi chỉ cần nhìn thấy vẻ đẹp của một bông
hoa dại, một vầng trăng sáng, một áng mây bồng bềnh cũng có thể làm cho họ tìm
được một chút cảm giác bình yên. Giữa lúc mệt mỏi, đói khát và bệnh tật, một làn
gió nhẹ thoảng qua đôi khi cũng làm người ta vơi bớt đi nỗi nhọc nhằn. Tuy nhiên,
không phải lúc nào con người cũng có được sự vỗ về, an ủi ấy. Thiên nhiên không
chỉ là mặt trời hồng, làn gió mát, ánh trăng trong, đóa hoa đẹp dịu dàng đến đáng
yêu. Có không ít lần thiên nhiên bộc lộ bộ mặt khắc nghiệt, lạnh lùng, và đã có lúc
con người dường bất lực trước sự nghiệt ngã của nó.
Hình ảnh lữ khách một mình lặn lội trên con đường dài giữa tiết thu cứ mãi
ám ảnh người đọc. Khí nóng gay gắt của trời thu làm cả người và ngựa gần như ngã
qụy. Cái nóng như thiêu như đốt đã làm con người kiệt sức, ánh mắt mỏi mòn hiện
lên đầy xót xa:
Hà Nam thu bát nguyệt,
Tàn thử vị tiêu dung.
Lộ xuất lương phong ngoại,
Nhân hành liệt nhật trung.
Đồ trường tê quyện mã,
Mục đoạn diệt qui hồng.
(Hà Nam đạo trung khốc thử)
(Tiết thu, tháng tám ở Hà Nam,
Khí nóng tàn vẫn chưa tan hết.
Đường ra ngoài chỗ có gió mát,
Người đi trong nắng gắt của mặt trời.
Trên đường dài mệt, ngựa hí vang,
63
Mỏi mắt trông, vắng mất bóng chim hồng.)
(Nắng dữ trên đường Hà Nam)
Núi rừng hiểm trở, yêu quái, thú dữ rình rập, khí trời oi bức, cái nắng gắt như
thiêu như đốt của mặt trời chưa phải là tất cả. Sự hung bạo của sơn thần cũng chưa
thể bằng những cơn thịnh nộ của thủy thần. Đó là những cơn cuồng phong dữ dội
như muốn nhấn chìm tất cả vào lòng, chứng kiến cảnh tượng đó ai cũng hãi hùng.
Chúng ta không thể nào quên được cảnh đẹp “vô hạn” mà Nguyễn Du đã
hơn một lần nói đến khi miêu tả về mảnh đất quê hương ông – núi Hồng, sông Lam.
Mảnh đất mà khi đặt chân đến, thi nhân có thể quên đi mọi gánh nặng cuộc sống,
xua tan đi mọi phiền muộn trong lòng. Nơi mà Nguyễn Du còn mãi nặng nợ cho
đến hết cuộc đời, nơi ông được vỗ về, an ủi, nơi ông có thể tìm thấy được sự bình
yên thanh thản ấy có lúc cũng bộc lộ bộ mặt đối lập làm người ta phải giật mình.
Sông Lam hiền hòa, trong mát là vậy nhưng ai đã từng chứng kiến cảnh tượng con
sông vào mùa nước nổi khi thu về thì thật là dữ dội. Mùa thu, nước cuồn cuộn, ồ ạt
chảy, trâu ngựa không thể nhận ra sự phân cách đâu là bờ, đâu là dòng sông. Những
cơn sóng chồm lên giận dữ :
Thanh thần vọng Lam Giang
Lam Giang trướng thu thủy,
Ngư miết du khâu lăng,
Ngưu mã mê nhai sĩ.
Dĩ ngạn băng bảo lôi,
Hồng đào kiến kỳ quỉ.
(Lam giang)
(Sáng mai trông sông Lam,
Sông Lam tràn đầy nước lụt mùa thu,
Cá giãi bơi đùa nơi gò đẫy.
Trâu ngựa không nhận ra bờ nước,
Bờ sông lở sụt ầm ầm như sấm dữ.
Sóng lớn thấy như có quỉ lạ)
64
Khi còn làm quan, Nguyễn Du đã từng có một khoảng thời gian dài chu du
trên đất Trung Hoa. Cuộc sống của tác giả không phải lúc nào cũng là những ngày
tháng đẹp đẽ, ngao du sơn thủy. Con đường thi nhân trải bước, bên cạnh những
cảnh đẹp khiến nhà thơ say đắm, ông cũng đã phải trải nghiệm rất nhiều hiểm nguy.
Tất cả những điều đó đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng Nguyễn Du.
Trên hành trình đó, thi nhân đã trải qua rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.
Hạnh phúc, vui vẻ vì được ngắm nhìn làn nước trong xanh, êm đềm chảy. Sảng
khoái, bất ngờ khi được tận mắt chứng kiến được sự kì vĩ, thú vị mà thiên nhiên
mang đến. Và có lẽ để lại ấn tượng sâu sắc nhất là cảm xúc sợ hãi, kinh hoàng khi
phải đối đầu với những cơn thịnh nộ của con nước, đặc biệt là khi mùa lũ tràn về.
Sự hùng vĩ cùng với những trận cuồng phong đến ghê người của con sông
Ninh Minh được Nguyễn Du miêu tả một cách chân thực. Đó là một dòng sông
được hợp lại từ những con suối nhỏ qua hàng ngàn năm miệt mài tuôn chảy. Dòng
sông không có được thế hiền hòa, êm xuôi, phẳng lặng mà những con dốc đứng như
thác đổ. Nước chảy xuống dữ dội, cuồn cuộn ngày đêm có lúc như tiếng rồng đang
nổi giận, khi lại giống như tiếng mũi tên lìa khỏi cung… Tất cả đều đáng sợ:
Việt Tây sơn trung đa giản tuyền,
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên.
Tự cao nhi hạ như bát thiên,
Than thượng hà sở văn?
Ứng long kích nộ lôi điền điền,
Than hạ hà sở kiến?
Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền,
Nhất tả vạn lý vô đình yên.
(Ninh Minh giang chu hành)
(Vùng núi Việt Tây có nhiều khe suối,
Qua nghìn năm chảy, hợp thành lưu một dòng sông.
Nước như đổ xuống tự trời cao,
Trên thác nghe thấy gì?
65
Nghe như tiếng con rồng có cánh nổi giận, sấm động ầm ầm.
Dưới thác thấy những gì?
Thấy như máy nỏ bật mạnh, tên lìa khỏi dây.
Một dòng tuôn vạn dặm không ngừng)
(Đi thuyền trên sông Ninh Minh)
Không chỉ thế, Ninh Minh giang còn được miêu tả tỉ mỉ với những mỏm đá
đủ hình thù kì dị, chen chúc nhau và nằm ngất ngưởng đủ tư thế càng làm cho con
sông trở nên kì quái. Hãi hùng nhất là những vực sâu được tạo bởi sự di chuyển của
thuồng luồng hay ly long, nhìn qua không dễ gì phát hiện nhưng nó có thể nhấn
chìm con người bất cứ lúc nào. Nước sông vốn đã hung bạo nhưng vào mùa hè
nước lụt lại càng kinh khủng, sóng vỗ trắng trời, nước sôi sùng sục… Tất cả những
điều đó làm lòng người cảm thấy chơi vơi, chơi vơi vì sợ hãi bủa vây:
Giao ly xuất một thành trùng uyên,
Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyên.
Hạ lạo sơ trướng phí như tiên,
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền.
Tâm huyền huyền đa sở úy,
(Thuồng luồng, ly long ra vào thành vực sâu,
Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm ầm.
Nước lụt mùa hè vừa dâng, nước sôi sục,
Một mạch ba ngày đi, lòng chơi vơi.
Lòng chơi vơi vì sợ nhiều.)
Điều này, không chỉ một lần mà rất nhiều lần được Nguyễn Du chú ý và ghi
lại thật đậm nét trong nhiều bài thơ. Mỗi bài thơ là một địa danh, một biểu hiện
khác nhau nhưng chung qui lại vẫn là những hình ảnh thiên nhiên nguy hiểm, dữ
dội gây ấn tượng mạnh mẽ và có sức ám ảnh lớn trong lòng người đọc:
Vũ sư thế khấp Bằng Di nộ,
Ngũ thủy sơn tiền thủy bạo chú.
Bạch ba chung nhật tẩu xà long,
66
Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ.
(Bất tiến hành)
(Thần mưa khóc sướt mướt, thần nước giận dữ,
Trước núi Ngũ Chỉ nước như trút xuống.
Sóng bạc suốt ngày như rắn rồng đua chạy,
Hai bên bờ núi xanh như sói, cọp)
(Bài hành về thuyền không tiến được)
Nguyễn Du đã nhìn nhận và miêu tả thiên nhiên một cách khách quan. Mặc
dù là một con người luôn biết yêu và trân trọng cái đẹp nhưng không vì thế mà ông
thiên vị khi miêu tả chúng. Nguyễn Du đứng ở vị trí độc lập, không chen chân vào
mà nhìn nhận nó một cách tỉnh táo, công bằng. Không để tình cảm lấn áp hiện thực,
yêu thiên nhiên là vậy nhưng những gì trần trụi, hoang dã của tự nhiên đều được
nhà thơ đưa vào trang sách một cách sinh động, hùng hồn và chân thật nhất.
Thơ là tiếng nói tâm hồn của thi sĩ, là tiếng lòng mà thi nhân muốn gởi gắm
đến người đọc. Đặc biệt là đối với Nguyễn Du – một “sầu nhân” giữa cuộc đời thì
điều này lại càng đúng hơn bao giờ hết. Bên cạnh cái nhìn khách quan về thiên
nhiên thì dấu ấn chủ quan của tác giả là không thể thiếu khi miêu tả thiên nhiên.
Trước cảnh vật bao la, hùng vĩ, thi nhân đã gửi những nỗi niềm của mình mong
được thấu hiểu và sẻ chia.
2.2. Thiên nhiên và tâm trạng của Nguyễn Du
Nguyễn Du không có ý định lập danh với thơ, bằng thơ. Mặc dù rằng ông đã
sống hết mình cho thơ. Thi nhân đến với thơ chủ yếu để bộc bạch nỗi lòng, đối
tượng thường hướng đến để tâm sự chính là thiên nhiên. Thiên nhiên vốn là đề tài
quen thuộc trong thơ ca. Với Nguyễn Du điều đó cũng không ngoại lệ. Song cái
cách mà Nguyễn Du tìm đến thiên nhiên không phải chỉ để chiêm ngưỡng, thưởng
thức rồi làm thơ. Thiên nhiên còn là nơi để tác giả trút bỏ những nỗi niềm, nơi ông
gửi gắm những băn khoăn, trăn trở, ưu tư của bản thân. Ông tìm đến thiên nhiên
mục đích lớn nhất là để giãi bày tâm trạng của mình.
67
2.2.1. Thiên nhiên và tâm trạng u buồn
Thiên nhiên trong thơ chữ Hán ngoài bức tranh về cảnh vật còn là bức tranh
tâm trạng, ẩn đằng sau hình ảnh thiên nhiên là những tâm sự thi nhận muốn gửi
gắm, sẻ chia. Mà tâm sự của Nguyễn Du có lẽ ai cũng thấu hiểu, nó chứa đựng mối
sầu bi, cô đơn lạnh lẽo của cuộc đời. Trước thiên nhiên Nguyễn Du đã trải lòng bộc
bạch những buồn thương của bản thân mình.
Công bằng mà nói, cuộc đời Nguyễn Du không phải chỉ toàn khổ đau, bất
hạnh. Nếu quả là như vậy, nỗi buồn cứ hiện hữu trên những trang thơ cũng là điều
dễ chấp nhận. Nhưng cũng có những lúc cuộc đời ông hết sức thuận lợi, nhất là con
đường công danh. Khi triều đại mới ra đời, Nguyễn Du rất được trọng dụng mặc dù
không học cao, chỉ đổ tú tài đã được cất nhắc làm quan, hai tháng sau thăng tri phủ.
Được đặc ân của triều đình giao nhiệm vụ đi đón sứ thần… là hân hạnh lắm chứ.
Ấy vậy mà thơ ông rặc giọng buồn. Ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du đều man
mác nỗi sầu chứ không riêng giai đoạn nào, kể cả khi làm quan – thời kì có thể
được xem là tươi sáng nhất cuộc đời ông.
Cả một đời ông mang nỗi sầu nhân thế, buồn cho số kiếp lênh đênh, vô định
của bản thân. Buồn vì hùng tâm tráng chí đã nguội lạnh, tiêu ma theo bao nỗi thăng
trầm thế sự, buồn vì nỗi nhớ nhung da diết cố hương, buồn vì nỗi đau nhân tình thế
thái cứ dội vào trái tim vốn mở rộng của thi nhân… Tất cả làm nên một bản nhạc
cuộc đời mà nốt nào cũng trầm lắng, xót xa, rất hiếm khi tìm được giọng vút cao,
tươi vui.
Có thể khẳng định rằng, nỗi buồn hiện diện trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
như một nỗi niềm thường trực. Tất cả những biến chuyển của cảnh vật xung quanh
cho dù có thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp cũng không làm cho tâm hồn thi nhân
vui lên được.
Ngày trước, các nhà thơ trung đại tìm được niềm vui khi được về với tự
nhiên, được sống hòa mình vào cỏ cây, hoa lá là niềm hạnh phúc lớn nhất. Với
Nguyễn Trãi, những cảnh vật trong thiên nhiên như gió, mây, trăng, hoa, hồ, đá,
tùng, cúc, vượn, hạc… đều có thể kết bạn tri âm. Có những lúc, chúng vòi vĩnh, đòi
68
nụ cười hiền hòa, bàn tay mơn trớn và ánh mắt đầm ấm của ông. Thiên nhiên hạnh
phúc vì đã giúp đỡ nhà thơ trút bỏ được những âu lo, phiền muộn trong cuộc sống.
Nguyễn Trãi thật sự thoải mái giữa đất trời lộng gió, chan hòa cùng tạo vật:
Vượn chim kết bạn, nước non quanh
Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường.
(Tức sự 4)
Đến với thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy mối giao
cảm giữa con người và cảnh vật thân thiết như thế. Thiên nhiên đã trở thành một
thành viên không thể thiếu trong cuộc sống của ông:
Cày mây cuốc nguyệt gánh yên hà
Nào phải nào chăng phải của ta
Đêm đợi trăng cài bóng trúc
Ngày chờ gió thổi tin hoa
(Thơ Nôm, bài 17)
Sau này, trong thơ Nguyễn Khuyến cũng không ít lần ta bắt gặp được sự
khăng khít giữa cảnh và người. Với tình yêu và tấm lòng rộng mở, nhà thơ đã kéo
thiên nhiên về bên mình bằng tất cả những gì thân thương và trìu mến nhất:
Gió đâu lọt chốn thư phòng,
Bên song hây hẩy, giấc nồng vừa tan.
Ống tay thoang thoảng mùi lan,
Chén trà lóng lánh ánh lên mái hồi.
Cóc vồ con kiến tha mồi,
Chim rình bọ ngựa đang ngồi bắt ve.
Mảnh vườn cũng lắm thú ghê,
Ghế bên ngồi nghỉ tỉ tê một mình.
(Vườn nhỏ)
Thơ Nguyễn Du không có được tất cả những điều đó. Tìm hiểu 250 bài thơ
chữ Hán hầu như bài nào cũng có bóng dáng hình ảnh thiên nhiên, thế nhưng để
chọn ra một bài thơ thể hiện niềm vui hòa hợp giữa người và cảnh quả thật vô cùng
69
khó khăn. Cảnh thì có đẹp thật nhưng lòng người chẳng vui nên ta cảm thấy chúng
dường như lúc nào cũng chất chứa tâm sự.
Đặc trưng dễ dàng nhận ra nhất khi chúng ta đến với thơ chữ Hán Nguyễn
Du chính là nỗi sầu. Lòng người vốn đã buồn nhìn cảnh vật lại càng buồn thêm,
dưới cái nhìn của thi nhân ánh trăng đêm, mùa xuân về, mùa thu sang, buổi chiều tà
nhiều khi thấm đẫm nỗi buồn.
Trăng xuất hiện rất nhiều lần trong những trang thơ. Ngoài một số hình ảnh
trăng đẹp, tròn trĩnh, viên mãn ta chủ yếu bắt gặp chỉ là trăng tàn, trăng xế, trăng
lặn, thậm chí chỉ là một mảnh trăng nhỏ nhoi, lơ lửng giữa trời… tất cả đều mang
đến nỗi buồn cho thi nhân:
Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên,
Kim cổ nhàn sầu lai túy hậu.
(Dạ hành)
(Trăng tà không sáng, sao đầy trời,
Nỗi buồn man mác về xưa nay, lại đến sau khi say)
Hay :
Hương Giang nhất phiến nguyệt,
Kim cổ hứa đa sầu.
(Thu chí)
(Một mảnh trăng trên sông hương,
Xưa nay gợi bao nhiêu mối sầu)
(Thu đến)
Trước trăng, Nguyễn Du cũng đã trải lòng mình nhưng không tìm được phút
giây vui vẻ, tươi sáng. Lòng người luôn trĩu nặng, ủ dột và cũng chỉ mờ mờ ảo ảo
như thứ ánh sáng leo lắt của mảnh trăng đêm. Cũng có những lúc, trăng thật sáng
trong, tròn đầy nhưng ông cũng chẳng thấy niềm vui. Trăng sáng có thể làm thi vị
trời đêm, làm lòng người thổn thức, mơ mộng hơn nhưng ở đây trăng sáng càng soi
tỏ lòng buồn, càng làm cho không gian thêm lạnh lẽo và thời gian thêm chậm chạp.
70
Trăng sáng nhưng hoàn cảnh hiện tại thật trớ trêu, anh em tan tác mỗi người một
ngã, nỗi nhớ nhung càng trở nên da diết:
Nguyệt minh hồng nhạn tán,
Lưỡng địa các tương vương.
(Biệt Nguyễn đại lang)
(Trăng sáng chim hồng chim nhạn tản mác.
Đôi chốn mỗi nơi đều nhớ nhau)
(Từ biệt anh Nguyễn)
Đã có lúc ông buồn bã, cô đơn và bệnh tật; nhà thơ muốn nương theo trăng để
xua tan bóng tối đang vây quanh nhưng trăng cứ ở trên cao nhà thơ không thể với
tới. Với Nguyễn Du trăng đẹp nhưng có cái gì đó không trọn vẹn (Lê Thu Yến).
Cũng nỗi buồn tê tái ấy có lúc nhuộm cả trời thu. Mùa thu trong thơ chữ hán
Nguyễn Du thường gắn liền với những hình ảnh quen thuộc đã trở thành ước lệ
trong thơ cổ: lá vàng rơi lả tả, hoa cúc nở vàng, rừng phong lá đỏ, hơi lạnh giục
người giặt vải may áo, mái tóc bạc và sự già nua nay được hình dung như làn sương
thu. Mùa thu không chỉ báo hiệu hoàng hôn trong một năm mà còn gắn liền với nỗi
buồn về sự phai úa của đời người, một cuộc đời mông lung, vô định như cỏ bồng,
như gió thu chẳng biết đâu là chốn dừng chân.
Thu được Nguyễn Du nâng niu hơn cả. Trong 250 bài thơ chữ Hán, thu chiếm
một số lượng đáng kể với tất cả là 57 bài. Có lẽ rằng, Nguyễn Du tìm thấy được
mình khi mùa thu sang nên ưu ái nó đến thế. Mùa thu vốn đã buồn nhưng dưới con
mắt của một người mang quá nhiều tâm sự như Tố Như thu lại càng buồn hơn:
Thiên lý xích thân vi khách cửu,
Nhất đình hoàng diệp tống thu lai.
Liêm thùy tiêu các tây phong động,
Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai.
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát,
Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
(Thu chí)
71
(Thân mình trần trụi ngoài nghìn dặm ở lâu nơi đất khách,
Một sân lá vàng đưa mùa thu tới.
Gió tây lay động bức rèm trên gác nhỏ,
Tuyết rơi mịt mù nơi thôn xóm hẻo lánh, tiếng tù và buổi sớm
bi thương.
Buồn rầu vì ngày tháng trôi giục mái tóc bạc thêm,
Suốt đời ôm mối u sầu chưa từng gỡ ra được)
Thu sang không có lấy một dấu hiệu tươi vui mà chỉ toàn bắt gặp không khí
ảm đạm, thê lương. Gió thu tràn về trên căn gác nhỏ của thi nhân, tuyết rơi trắng đất
làm con người càng thêm lạnh. Trời thu quá u ám, một tiếng tù và không đủ để phá
tan đi sự yên tĩnh đến bi thương. Có thật là cảnh thu buồn đến thế hay vì tâm trạng
của thi nhân “suốt đời ôm mối sầu” nên đã nhuốm vào cảnh vật? Dù lí do gì đi nữa
cảnh và người ở đây đã quyện vào nhau nhưng không phải vì tìm được niềm hân
hoan mà vì có chung một điệu buồn đến não nề.
Mang nỗi buồn cố hữu trước thu nên chỉ cần mới chớm thu lòng thi nhân lại
đau khôn xiết. Ông nghe được cả “điệu thanh thương” trong tiếng ve kêu, không
phải là người đang có tâm trạng buồn thì không thể cảm nhận được điều này:
Giang thượng tây phong mộc diệp hy,
Hàn thiền chung nhật táo cao chi.
Kỳ trung tự hữu thanh hương điệu
Bất thị sầu nhân bất hứa tri.
(Sơ thu cảm hứng)
(Gió tây thổi trên song lá cây thưa thớt,
Ve sầu bi lạnh suốt ngày kêu trên cành cao.
Trong tiếng ve kêu có điệu thanh thương
Không phải là người có nỗi buồn thì không biết được)
(Cảm hứng đầu thu)
72
Mùa thu của đất trời chắc chắn không phải khi nào cũng nảo nề, thê lương
đến thế. Không đâu xa, trong Truyện Kiều, bức tranh thu hiện lên làm mê đắm lòng
người:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Như vậy, không phải mùa thu đâu chỉ toàn ảm đạm, ảm đạm hay không
chính là ở lòng người.
“Thu dẫu nghèo nàn nhưng hào phóng hơn tất cả, thu có khả năng ban phát
và đồng cảm rất lớn. Phải chăng thu cũng buồn bã tư lự như người ngưỡng mộ
nó?” (Lê Thu Yến). Thu vốn đẹp nhưng buồn, đặc biệt với những người mang
nhiều tâm sự, họ u sầu trước thu âu cũng là điều dễ hiểu. Nhưng sao mùa xuân trong
thơ Nguyễn Du cũng chẳng thể tìm được chút ấm áp, bình yên.
“Ngày xuân cần vui. Thơ xuân Nguyễn Du buồn, đọc mất hay”[22, tr.490]
Soi vào thơ chữ Hán nhận định trên quả thật không sai. So với thu thì mùa xuân
trong thơ chữ Hán quả thật là ít ỏi. Xuân đến, mọi người nô nức chào đón một năm
mới với bao điều tốt đẹp sẽ đến, mùa xuân cây cỏ đâm chồi nảy lộc, xuân về tức là
lúc mọi người được đoàn tụ, sum họp sau những tháng ngày xa cách… tất nhiên
phải vui lắm chứ. Nhưng Nguyễn Du đâu có được niềm vui ấy, thực tế bản thân
luôn phải trải qua những năm tháng xa nhà; núi Hồng, sông Lam chỉ là niềm mong
mỏi, nhớ thương, anh em li tán, bản thân thì như ngọn cỏ bồng không có gốc mặc
cho gió bụi cuộc đời cuốn trôi thì thử hỏi sao không buồn.
Bởi vậy, Nguyễn Du đã từng tâm sự:
Nhân tự bi thê thảo tự thanh
(Thanh minh ngẫu hứng)
(Người cứ buồn thương, cỏ cứ xanh)
(Ngẫu hứng trong dịp tết Thanh Minh)
Cuộc đời Nguyễn Du là những chuỗi ngày dài bất đắc ý .Ông không có được
được sự tự tại trong tâm hồn như Nguyễn Trãi, không thể an nhiên chọn lối sống
nhàn như Nguyễn Bỉnh Khiêm, càng không đắc ý với con đường công danh như
73
Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Du hiện lên trong thơ chữ Hán là một con người mang
nặng nỗi sầu nhân thế, bản thân thi nhân luôn có những tâm sự u uất trong lòng.
Giọng tha thiết buồn thương là giọng thơ chủ đạo trong 3 tập thơ chữ Hán Nguyễn
Du.
Nguyễn Du phải sống trong một hoàn cảnh xa nhà, anh em li tán, thân lại
nghèo túng, còn vướng bệnh tật, chưa già mà tóc đã bạc, hùng tâm cứ mãi xa dần,
danh vọng trên đời cũng chỉ như mây bay, gió thổi. Cái cuối cùng còn lại với ông
chỉ là sự lo lắng, bế tắc. Đến cuối đời, ông vẫn không tìm ra được lối thoát và một
niềm mơ ước nho nhỏ được trở về với quê hương thân yêu nhưng vẫn không thành;
vì thế nỗi buồn cứ man mác trong thơ là điều dễ hiểu. Nguyễn Du đã từng bộc bạch:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”(Truyện
Kiều), vận vào thơ chữ Hán quả thật là không sai. Nỗi buồn từ lòng người thấm ra
toàn cảnh vật, khiến thiên nhiên hầu như lúc nào cũng mang khuôn mặt buồn bã, thê
lương.
2.2.3. Thiên nhiên và tâm trạng cô đơn
Xưa nay, từ Đông sang Tây, các nhà thơ thường lấy thiên nhiên làm đối
tượng để khai thác một khía cạnh thích hợp cho nguồn cảm hứng của mình.
Nguyên lí của vũ trụ là có sinh là có hóa. Hóa để mà sinh. Sinh để mà hóa.
Nói sinh không nhất thiết là vui, nói hóa không nhất thiết là buồn. Mãn Giác đời Lý
đã chứng minh điều này rất cụ thể:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Cáo tật thị chúng)
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai)
Thời trung đại, các nghệ sĩ nhìn thiên nhiên như một người bạn chân tình,
gần gũi, một người tri âm, tri kỉ để gửi gắm tâm sự cuộc đời mình. Họ gửi gắm tất
cả tình cảm, tâm tư của mình vào non nước. Ta thấy ở đây “nội tâm và ngoại cảnh,
74
chủ thể và khách thể kết hợp hài hoà chặt chẽ; hay nói khác đi theo quan niệm triết
học phương Đông là TÂM và VẬT ở đây tuy hai mà [49, tr.35].
Tuy nhiên, thơ chữ Hán của Nguyễn Du không phải vậy. Dường như giữa thi
nhân và thiên nhiên có một khoảng cách nhất định, không có được mối tương thông
khăng khít đến thân thuộc và dĩ nhiên không thể dung hòa làm một. Ngay cả những
ngày còn thanh xuân, Nguyễn Du đã nhắc nhiều đến nỗi cô độc, mệt mỏi, và u sầu.
Có những lúc ông mất niềm tin vào cuộc sống. Một mình bước đi giữa cõi trần với
bao nhiêu đổi thay, thăng trầm. Một mình đối diện với bệnh tật, đói rét, khổ đau. Vì
thế, ta thường thấy trong thơ hiện lên hình ảnh một con người lặng im, cô độc,
không biết chia sẻ cùng ai, đành ôm bao tâm sự chôn kín tận đáy lòng. Nỗi cô đơn
cứ ùa về bủa vây lấy thi nhân.
Cho đến mãi sau này, chúng ta chắc cũng không thể quên được hình ảnh
người khách trọ lầm lũi, cô đơn giữa dòng đời. Thiên nhiên hữu tình càng làm cho
lòng người dậy sóng, đêm đẹp và tĩnh lặng càng gieo thêm nỗi buồn cho kẻ xa xứ.
Cái lạnh của tiếng trống xe vào cái lạnh của ngọn gió càng làm con người
chạnh lòng. Giữa thiên nhiên bao la, vắng lặng thi nhân ý thức được hoàn cảnh hiện
tại của bản thân mình, mộng đẹp không thành, không thể làm được gì đành mặc cho
con tạo xoay vần. Cuối cùng, tồn tại giữa cõi đời là một kẻ cô đơn, bệnh tật, gối đầu
mang nặng những trầm tư:
Trệ khách yêm lưu Nam Hải trung,
Tịch liêu lương dạ dữ thùy đồng.
Qui hồng bi động thiên hà thủy,
Thú cổ hàn xâm hạ dạ phong.
Nhân đáo cùng đồ vô hảo mộng,
Thiên hồi khổ hải xúc phù tung.
Phong trần đội lý lưu bì cốt,
Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn hồng.
(Trệ khách)
(Người khách ở lỳ chốn Nam Hải,
75
Đêm đẹp và vắng lặng biết cùng ai tâm sự?
Tiếng kêu bi thương của con chim hồng bay về làm xao động
nước sông Ngân,
Cái lạnh của tiếng trống dồn canh xâm nhập vào luồng gió lạnh
đêm hè.
Người đã đến bước đường cùng không mộng đẹp,
Trời đưa lại bể khổ để thúc dục bước chân phiêu bồng.
Trong đám phong trần còn lại kẻ da bọc xương,
Gối khách buồn thiu hai mái tóc rối bù)
(Người khách trọ lâu ngày)
Có lẽ rằng, cuộc đời Nguyễn Du không mấy tươi sáng nên thơ ông ít xuất
hiện tia nắng ấm áp; làn gió dịu nhẹ mơn trớn, vuốt ve và an ủi con người. Thay vào
đó, ta thường xuyên bắt gặp hình ảnh đám mây đen phủ chiếu cả bầu trời hay là
những cơn gió lạnh đến run người…
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du hay đề cập đến cái lạnh. Theo thống
kê của người viết, có đến 47 lần Nguyễn Du nhắc tới cái lạnh. Cái lạnh của tự nhiên
lan tràn khắp mọi nẻo, tấn công vào tất cả cảnh vật và cả tâm hồn con người. Đó là
đóa mai lạnh (Xuân nhật ngẫu hứng), ngôi nhà lạnh (U cư kì I), chòm cây lạnh (Dao
vọng Càn hải từ), vầng trăng lạnh (Đồng Lung giang), mùa xuân lạnh (Sơn cư mạn
hứng), mùa đông lạnh (Phúc Thực Đình), mùa thu lạnh (Nễ Giang khẩu hương
vọng)… Đặc biệt là những cơn gió lạnh đến tê người cứ trở đi trở lại như muốn cắt
từng mảnh da, thớ thịt của lữ khách cô đơn. Đã cô độc bước đi giữa dòng đời,
không ai để sẻ chia vậy mà cái lạnh còn bủa vây thử hỏi làm sao Nguyễn Du tìm
được sự ấm áp. Cái lạnh không những làm héo úa tàn tạ cảnh vật mà còn làm “lạnh”
cả tâm hồn con người. Bởi vậy, mỗi khi cái lạnh đến, cảm giác cô đơn trong lòng
Nguyễn Du lại dâng trào.
Đêm đến, vạn vật đều chìm vào giấc ngủ bình yên. Vị sư già nhàn nhã ngon
giấc giữa núi non, bầy chim âu sau một ngày mệt mỏi cũng đã tìm cho mình một
nơi ấm áp để ngã cánh. Chỉ riêng mình thi nhân chưa tìm thấy được chốn dừng
76
chân. Trên con đường dài vạn dặm, nỗi cô đơn cứ mãi đeo đuổi người, lại thêm cơn
gió lạnh thổi vô tình và không ai khác hơn chỉ mình Nguyễn Du hứng chịu hỏi sao
thi nhân không cảm thấy cô đơn?
Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân,
Phù âu tĩnh túc noãn sa tân.
Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý,
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân.
(Dạ hành)
(Vị sư già ngủ yên trong mây núi Hồng,
Chim âu ngủ yên trên bãi cát ấm,
Trên biển nam trăng tà dập dờn ngàn dặm,
Gió lạnh trên đường xưa dồn vào một người)
Có ai đó từng nói lúc hấp hối buồn hơn lúc đã chết, cũng như chiều tà buồn
hơn đêm khuya, ấy là trên mặt đất vẫn còn ánh sáng nhưng là thứ ánh sáng yếu ớt
hắt lên một lần để rồi tàn lụi. Chiều tà là cơn hấp hối lớn của ngày, người ta càng
nuối tiếc ánh sáng thì càng không thể níu giữ nó. Trong 3 tập thơ chữ Hán có 31 bài
thơ xuất hiện hình ảnh buổi chiều. Cái nhìn của thi sĩ như lúc nào cũng nhuốm sắc
hoàng hôn, ông ngắm cảnh trời chiều, đi trong chiều, luôn đắm mình vào suy tư lúc
mặt trời xế bóng. Lòng người đã cảm thấy cô đơn trống vắng mà thiên nhiên thì cứ
lạnh lùng làm nỗi buồn tăng lên gấp bội:
Cô thành nhật mộ khởi âm vân,
Thanh thảo man man đáo hải tần.
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt,
Thù phương độc thác hữu quan thân.
(Ngẫu đắc)
(Chiều tà trên thành lẻ loi mây đen nổi,
Cỏ xanh rờn lan tỏa tận bờ bể.
Trên đồng ruộng khắp nơi vùi xương vô chủ,
Phương xa một mình gửi cái thân làm quan)
77
(Ngẫu nhiên nảy ý thơ)
Chiều về là lúc mọi gia đình sum họp cùng nhau vui vẻ bên bữa cơm sau một
ngày làm việc mệt nhọc. Bản thân Nguyễn Du hiếm khi có được niềm vui nho nhỏ
ấy, cả cuộc đời phiêu dạt, nay đây mai đó, khi đầu sông, lúc cuối biển. Bởi thế, ông
luôn ao ước tìm được cho mình niềm vui đoàn tụ cùng anh em, bạn bè, quê hương.
Thực tế thật phũ phàng, chỉ ước mơ nho nhỏ ấy thôi cũng chẳng thể nào thành hiện
thực. Cho nên, mỗi khi trời ngả về chiều lòng thi nhân lại dâng trào một cảm giác
khó tả, thương cho số kiếp lênh đênh, cô độc của bản thân mình.
Những ngày đi sứ phương Bắc, nỗi niềm nhớ quê hương vẫn cứ trở đi trở lại
xoáy sâu vào tâm khảm nhà thơ. Mỗi khi chiều về trên đất người lòng nhà thơ cảm
thấy cô đơn. Nguyễn Du nhìn đâu cũng không tìm ra được màu tươi sáng mà nơi
nào cũng mờ mịt, nhuốm màu sương khói:
Triều môn ngư tống tịch dương thuyền,
Mang mang viễn thủy tam xuân thụ.
Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên,
Cực mục hương quan tại hà xứ?
(Thanh Quyết giang vãn diếu)
(Nhà chái đẩy thuyền ra lúc buổi xế chiều,
Mịt mờ dòng sông xa lẫn trong cây cối mùa xuân.
Nhà lác đác giữa khói sóng hai bờ,
Nhướn mắt nhìn xem quê nhà ở chốn nào)
(Chiều ngắm cảnh trên sông Thanh Quyết)
Không chỉ ôm mối cô đơn, u sầu trước những cơn gió lạnh hay mỗi khi chiều
đến, nỗi cô đơn hiện hữu như một nỗi niềm thường trực không thể nào dứt ra được
trong tâm hồn Nguyễn Du. Nó có mặt ngay cả khi xuân về, thu sang và cả lúc màn
đêm buông xuống.
Như đã nói, thu mang đến cho Nguyễn Du tâm trạng u buồn, thu cũng khiến
nhà thơ cảm thấy cô đơn. Thu đến, thi sĩ dạt dào cảm xúc và muốn gửi một chút gì
đó, ghi lại hình ảnh lúc đất trời vào thu. Để xem, thơ Nguyễn Du khi thu đến có gì
78
vui? Cảm hứng bao trùm mà ta tìm thấy được chỉ là sự lạnh lẽo, nhớ nhà, cô đơn
chứ không lấy gì tươi vui. Gió thu lành lạnh vừa thổi ngang qua kẻ xa xứ làm con
người ta càng thêm day dứt. Trời thu vào lúc chiều buông buồn da diết làm kẻ tha
hương càng nhớ thương quê nhà. Giữa không gian thu ấy, gót chân phong trần vẫn
chông chênh và cô độc bước đi giữa cõi đời:
Tây phong tài đáo bất qui nhân,
Đốn giác hàn uy dĩ thập phần.
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật,
Tha hương thân thế thác phù vân.
(Thu nhật ký hứng)
(Gió tây mới vừa thổi đến người chưa được về nhà,
Chợt cảm thấy trời đã rất lạnh.
Sông núi quê nhà nhìn trong cảnh mặt trời lặn,
Thân thế nơi đất khách gởi đám mây nổi)
(Ngày thu gởi hứng)
Với dáng vẻ cằn cỗi, xơ xác, cái lạnh thì len lỏi man mác, thu nhiều khi mơ
màng, nửa hư nữa thực khiến lòng người càng nhức nhối với nỗi cô đơn và buồn tủi
cũng là điều cảm thông được. Còn mùa xuân, mùa mang đến bao nhiêu bao điều
tươi vui mới mẻ mà nỗi cô đơn trong lòng Nguyễn Du như càng được vuốt nhọn thì
quả thật là khó hiểu.
Công bằng mà nói, Nguyễn Du không ưu ái mùa xuân như thu. Có lẽ điều
này có lí do của nó, 250 bài thơ chữ Hán mà lựa ra nét xuân thì quả thật là ít ỏi.
Cũng đúng thôi, cả quãng đường dài sống lay lắt giữa gió bụi trần ai, kiếp sống ăn
nhờ ở đậu thì lấy đâu ra niềm vui sum họp, đoàn tụ mà bảo xuân đến. Nguyễn Du
luôn mang trong mình nhiều nỗi niềm trăn trở day dứt, một tâm hồn quá lạnh lẽo, cô
đơn thì làm sao xuân yên vui, xuân ấm áp có thể đến nhiều cho được.
Như chúng ta thường biết, thơ ca truyền thống luôn có sự hài hòa giữa người
và cảnh. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng ta hiếm khi tìm ra được sự hài hòa
ấy. Cảnh và tình hầu như không tìm được tiếng nói chung, đặc biệt khi xuân về
79
người và cảnh lại càng đối lập. Con người vốn đã mệt mỏi, cô độc mà thiên nhiên
lại vô tình, đối lập càng làm lòng người trở nên nặng trĩu:
Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo
(Xuân tiêu lữ thứ)
(Người cứ tiêu điều xuân cứ đẹp.)
(Đêm xuân khách quán)
Hay:
Nhân tự bi thê thảo tự thanh
(Thanh minh ngẫu hứng)
(Người cứ buồn thương cỏ cứ xanh.)
(Ngẫu hứng trong dịp tết Thanh Minh)
Càng tìm hiểu xuân trong thơ chữ Hán chúng ta càng thấy nỗi buồn và sự cô
đơn lấn áp tất cả những cảm xúc khác của thi nhân. Thiên nhiên trong thơ chữ Hán
cũng có lúc được nhìn nhận thật khách quan. Tuy nhiên, với một con người mang
trong mình quá nhiều tâm sự như Nguyễn Du, đôi khi thiên nhiên cũng hiện lên
dưới cái nhìn chủ quan của tác giả. Có rất nhiều lần, thiên nhiên chính là tấm gương
phản chiếu tâm hồn nghệ sĩ. Bởi thế, thơ xuân Nguyễn Du luôn mang nỗi buồn man
mác. Xuân đến là lúc cả đất trời và lòng người tươi vui nhất. Từ cổ chí kim, xuân
bao giờ cũng là nguồn cảm hứng dồi dào, bất tận cho các thi nhân, xuân chiếm một
vị trí khá quan trong trong thơ ca Việt Nam. Nguyễn Du là người mang cả “khối
sầu” nên xuân Nguyễn Du thấm đượm nỗi buồn và sự cô đơn. Xuân đến mà không
tìm thấy một chút ánh sáng, không gian mênh mông rợn ngợp trong sự âm u, mờ
mờ, ảo ảo. Nếu đêm xuân đen tối không tìm ra được ánh sáng thì Nguyễn Du cũng
là một khách bộ hành cô độc giữa cuộc đời chưa tìm ra lối thoát, chưa thể tìm thấy
ánh sáng niềm vui cho cuộc đời nhiều đau khổ của ông:
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm.
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.
80
(Xuân dạ)
(Đêm đen tối, tìm đâu ra ánh sáng mùa xuân,
Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u.
Trong chốn giang hồ bệnh đến đã lâu ngày,
Mùa xuân theo mưa gió mà chìm trong đêm sâu)
(Đêm xuân)
Không phải bao giờ xuân trong mắt của Nguyễn Du cũng buồn đến nào nề
như thế. Kiệt tác Truyện Kiều của thi nhân đã có rất nhiều bức tranh thiên nhiên
tươi đẹp về mùa xuân. Đó có thể là cảnh một buổi sáng xuân tươi mát :
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Đây là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân. Những thảm cỏ non trải rộng đến
chân trời là gam màu làm nền cho bức tranh xuân. Trên màu xanh cỏ non ấy, tác giả
điểm vào vài hoa lê trắng. Màu sắc của thiên nhiên, đất trời gợi lên một vẻ đẹp hài
hòa, tuyệt diệu.
Có khi là cảnh đêm xuân rạo rực sức sống :
Gương nga chênh chếnh dòm sông
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân
Hải đường lả ngọn đông lân
Hạt sương trĩu nặng, cành xuân là đà.
Như vậy, Nguyễn Du đã có không ít lần tìm được niềm vui phơi phới, hạnh
phúc khi xuân về. Nhưng trong 3 tập thơ chữ Hán thì tìm được nụ cười của thi nhân
khi xuân đến quả là hiếm hoi. Tìm hiểu hết 3 tập thơ chữ Hán, chúng ta nhận ra
được rằng nỗi cô đơn luôn hiện hữu mọi lúc, mọi nơi trong tâm hồn vốn đa sầu, đa
cảm của Nguyễn Du. Không phải đến lúc bạc đầu thi nhân mới tâm sự điều này. Cả
cuộc đời Nguyễn Du đã nhắc nhiều đến nỗi cô độc, mệt mỏi, mất hết niềm tin vào
cuộc sống. Sinh ra trong thời loạn, bản thân phải chứng kiến bao nhiêu đổi thay,
giông tố của cuộc đời. Nguyễn Du ngán ngẩm tất cả, lo lắng về con đường còn phải
đi qua, không biết chia sẻ cùng ai những nỗi niềm của trai thời loạn. Một mình phải
81
đối diện với sóng gió cuộc đời, đã có lúc ông buông tay, phó mặc cho số phận đẩy
đưa. Có lẽ vì tất cả những lí do đó mà ta thấy hiện lên trên những trang thơ là một
con người lặng im, cô độc :
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
(My trung mạn hứng)
(Ta có tất lòng không biết ngõ cùng ai,)
(Cảm hứng lan man trong tù)
Tâm sự của Nguyễn Du không thoát được ra ngoài, không gửi vào được
thiên nhiên, không hòa điệu được cùng gió trăng mây nước mà thấm vào máu thịt
của người. Thi nhân chỉ còn biết cô độc đối diện với bốn mùa:
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm
(Thu dạ 2)
(Mây khói bốn mùa một mình trầm ngâm)
(Đêm thu)
Với bóng đêm :
Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê
(Ngẫu hứng I)
(Suốt đêm bồi hồi suy nghĩ miên man)
(Cảm hứng ngẫu nhiên)
Với bóng mình :
Bồi hồi đối ảnh độc vô ngữ
(La Phù Giang thủy các độc tọa)
(Bồi hồi trước bóng một mình yên lặng)
(Ngồi một mình trên thủy các sông La Phù)
Với cây trúc trước sân :
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc
(Ký hữu)
(Riêng mình lẳng lặng trước cây trúc ngoài sân)
(Gửi bạn)
82
Đó có thể xem là cái tôi bế tắc, cô đơn, tuyệt vọng của Nguyễn Du – một con
người mang nhiều bi kịch cá nhân, không thể hòa nhập vào cuộc đời đen bạc đầy
rẫy nhiễu nhương.
2.2.4. Thiên nhiên và tâm trạng băn khoăn, trăn trở, day dứt
Sinh ra trong xã hội thời kì loạn lạc, chứng kiến bao nhiêu bi hoan và tan
hợp, Nguyễn Du chán ngán thế sự, âu lo về con đường tương lai, không biết ngỏ
cùng ai những ước nguyện hùng tâm tráng chí. Một mình một bóng với bao cảnh
thăng trầm, nhiễu nhương, đen bạc, với tuổi già bóng xế, với mái tóc bạc trên đầu.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã thể hiện gần như trọn vẹn tâm tình, suy nghĩ của nhà
thơ trong suốt cả một chặng đường dài, trải qua bao biến cố của bản thân cũng như
thời cuộc. Đó là cuốn nhật ký tâm trạng mà thế hệ hậu sinh qua đó có thể hiểu sâu
sắc hơn về Nguyễn Du. Những ngày tháng sống trong bệnh tật, đói nghèo, cô đơn,
sầu tủi đặc biệt là những tháng ngày tha hương, ít khi Nguyễn Du có được sự đồng
hành chia sẻ từ anh em, bạn bè. Khi không có ai để trút bầu tâm sự, ông đành một
mình thủ thỉ với cỏ cây, hoa lá, sông nước, mây trời…
Có thể nói rằng, cuộc đời Nguyễn Du không mấy hạnh phúc, trừ 10 năm tuổi
thơ đầu đời. Bởi vậy, đọc thơ ông chúng ta ít khi tìm thấy được niềm vui, mà lúc
nào cũng cảm thấy mối sầu mac mán bám riết lấy cuộc đời nhà thơ. Tâm trạng
thường thấy trong các sáng của ông là nỗi hoang mang, xót xa về thân phận chân
trời góc bể “đi khắp chân trời lại đến góc biển”, ông luôn ví mình như “một nhánh
cỏ bồng đứt gốc trước gió tây”.
Tha hương, cô đơn trên con đường dài gió bụi nên lúc nào trong lòng
Nguyễn Du cũng canh cánh nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, anh em, bè bạn. “Vọng cố
hương” là nỗi niềm trăn trở của Nguyễn Du cho đến suốt cuộc đời. Thơ Nguyễn Du
ghi lại một cách chân thực, cảm động tấm lòng của ông với quê nhà, có khoảng 50
bài thơ thể hiện điều này.
Quê hương đối với Nguyễn Du như là chỗ dựa tinh thần, là nơi đẹp đẽ trong
lành, yên tĩnh ; về với quê hương là tránh được vòng trần tục, tìm được sự thanh
thản. Vì thế quê hương trong nỗi niềm của Tố Như còn đồng nghĩa với một ước
83
vọng. Mong ước giản dị thế thôi nhưng cũng khó lòng thực hiện. Nỗi nhớ quê vì thế
càng trở nên đau đáu. Trong thơ chữ Hán, ta bắt gặp hình ảnh dưới trăng, trong gió
thu lạnh, khi nắng xuân tràn về có một người thơ thẩn nhớ về nơi xa nghìn dặm.
Một mình nằm tận sâu trong rặng núi xa, cảnh vật xung quanh quạnh quẽ,
hiu hắt, xuân đến mang theo hơi lạnh làm tê tái lòng người. May mắn thay, còn có
được chút ánh sáng của trăng có thể thắp lên niềm vui nho nhỏ. Nhưng tiếc thay,
không những không tìm được niềm an ủi động viên mà dưới trăng thi nhân lại ý
thức được hoàn cảnh xa xứ của mình, lòng bồi hồi nhớ cố hương:
Nam khứ Trường An thiên lý dư,
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiếm hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ
(Sơn cư mạn hứng)
(Phía nam cách Trường An hơn nghìn dặm,
Có kẻ quê mùa ở sâu trong dãy núi.
Ngày vắng, mây núi như đóng kí cửa sài,
Xuân lạnh, trúc trong thung nơi vườn thuốc thưa thớt.
Dưới bóng trăng một mảnh lòng nhớ quê,
Tiếng nhạn đầu mùa khơi dòng lệ ly biệt từ bao năm)
(Ở núi cảm hứng)
Xuân về mang theo niềm vui sum họp cho tất cả mọi người, nhưng chính nó
cũng đào sâu thêm nỗi buồn cho kẻ tha hương. Chúa xuân ban phước lành, nhà nhà
vui vẻ quây quần cùng nhau ôn lại những kỉ niệm của tháng ngày đã qua và hy vọng
mọi điều tốt đẹp cho những ngày sắp tới, chỉ mình thi nhân ôm nỗi đau quặn thắt,
nỗi nhớ da diết đến nao lòng về một miền đất xa xôi. Ước mơ lớn nhất của Nguyễn
Du là được về đoàn tụ với gia đình, tìm được hơi ấm xuân quê, nguôi ngoai bớt nỗi
sầu trong gió sớm mây chiều của quê hương mà cũng chẳng thể nào thành hiện
84
thực. Bởi thế, xuân với Nguyễn Du cũng không lấy gì là hạnh phúc mà chỉ toàn là
xuân đêm, xuân muộn, xuân xa nhà, xuân nhớ thương:
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.
Kỹ lư đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt rung tâm.
(Xuân dạ)
(Trong chốn gian hồ bệnh đã lâu ngày,
Mùa xuân theo mưa gió mà chìm trong đêm sâu.
Lâu năm làm khách xa nhà, lệ rơi dưới đèn,
Nghìn dặm nhớ quê, lòng gửi theo vầng trăng.)
(Đêm xuân)
Không chỉ với mùa xuân, trước mùa thu Nguyễn Du cũng chạnh lòng nhớ về
chốn quê nhà. Có thể nói, mùa thu có vẻ phù hợp với Nguyễn Du hơn cả, bởi “thu
mang khuôn mặt u buồn, tư lự, của lá vàng rơi, của gió hắt hiu” (Lê Thu Yến). Đó
cũng chính là vẻ mặt của một con người suốt đời chất chứa sầu bi. Như vậy, thu gần
gũi với Nguyễn Du hơn so với xuân, hạ hay đông. Nó như một người bạn tri âm biết
lắng nghe, thấu hiểu, có lẽ vì thế mà khi xuân đến nhiều lúc thi nhân đóng kín cửa
mặc xuân rơi vào nhà ai. Còn với thu, đôi khi chỉ mới chớm thu nhà thơ vẫn cảm
nhận được. Mặc dù thân thiết, gần gũi là thế nhưng trên thực tế thu cũng dễ gieo sầu
và gợi buồn hơn cả.
Thu tràn về trên khắp nẻo đường, vạn vật đều nhuốm màu thu, kẻ tha hương
cũng hòa theo điệu buồn khi thu sang:
Chướng tĩnh phong loan sấu,
Thiên hàn thảo mộc thu.
Hành nhân hồi khán xứ,
Vô ná cố hương sầu.
(Tái du Tam Điệp sơn)
(Chướng khí tan trên núi và vịnh gầy đi,)
85
Trời lạnh cỏ cây nhuốm màu thu,
Người khách quay đầu nhìn
Nỗi sầu cố hương biết sao đây)
(Lại vượt đèo Ba Dội)
Đến với thơ ca trung đại, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh “đăng cao”của
thi nhân. Họ lên cao để tìm được cảm hứng giữa đất trời, vũ trụ bao la, họ hạnh
phúc khi tìm được cảm giác sảng khoái. Nguyễn Du trên đường dài vạn dặm cũng
đã nhiều lần đăng cao. Nhưng ông không có được sự an nhiên, tự tại như người đời
trước. Trong sâu thẳm tâm can của một khách bộ hành luôn trĩu nặng tâm sự, vì thế
mới chỉ có ý định mở lòng mình để hòa nhập cùng vũ trụ đã bị bao nhiêu gánh
nặng, ưu tư, trầm mặc cuộc đời đè lên đôi vai, ghì sát đất. Đăng cao với Nguyễn Du
chỉ là để quay đầu trông về miền kí ức xa xăm, nơi mà ông đã từng có những tháng
ngày hạnh phúc được làm bạn với hươu nai, bầu rượu, tảng đá, cây tùng… tất cả trở
thành nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng tác giả:
Vạn lý hương tâm hồi thủ xứ,
Bạch vân nam hạ bất thăng đa.
(Ngẫu hứng)
(Lòng nhớ quê xa cách vạn dặm, quay đầu nhìn lại,
Phía nam mây trắng nhiều không kể xiết)
(Cảm hứng ngẫu nhiên)
Hay :
Cố hương không nhất nhai
(Đăng Nhạc Dương lầu)
(Quê hương một góc trời trống không)
(Lên lầu Nhạc Dương)
Cuộc đời xô đẩy, Nguyễn Du phải sống trong cảnh xa nhà, anh em, bạn bè ly
tán... Yêu quê hương nhưng hình bóng ấy vẫn cứ mãi chỉ là nỗi nhớ da diết không
nguôi trong tâm khảm của kẻ tha hương. Chính vì lẽ đó mà nỗi niềm “vọng cố
hương” cứ trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Du, ray rứt, bám riết lấy nhà thơ cho đến
86
suốt cuộc đời. Tuy nhiên, đây không phải là sự dằn vặt, trăn trở lớn nhất trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du. Cả cuộc đời dấn thân vào chốn gió bụi, chưa bao giờ ông tìm
thấy được phút giây bình yên và hạnh phúc thật sự cho bản thân mình. Bao nhiêu
mối ưu tư, sầu muộn cứ đeo đẳng mãi theo ông. Bao nhiêu tâm sự là bấy nhiêu nỗi
buồn.
Cho đến hết cuộc đời, chưa bao giờ Nguyễn Du cảm thấy thanh thản, con
người ông lúc nào cũng chìm đắm trong những suy tư, trăn trở. Bóng hình, nét mặt,
dáng vẻ, tâm tình… đều ẩn chứa tâm sự. Thi nhân cảm thấy chạnh lòng, xót xa
thậm chí xấu hổ cho bản thân mình. Mang tiếng là một trang nam tử trong trời đất
mà cho đến hết cuộc đời vẫn không để lại được tiếng tăm gì giữa non sông, thẹn vì
làm trai thời loạn mà không giúp gì cho đất nước. Tâm trạng này xuất hiện rất nhiều
lần trong thơ. Dẫu biết rằng những trăn trở, dằn vặt xuất phát từ trong lòng người
nhưng môi trường xung quanh, hoàn cảnh hiện tại cũng là nguyên nhân khiến lòng
người càng buồn hơn. Hình ảnh ngọn gió có mặt trong hầu khắp trang thơ của
Nguyễn Du, nó là nhân chứng đồng thời cũng chính là chất xúc tác khiến con người
ta trở nên yếu đuối và sầu muộn hơn bao giờ hết.
Theo khảo sát của chúng tôi hình ảnh ngọn gió trở đi trở lại trong thơ như
nỗi niềm thường trực của thi nhân, trong 250 bài thơ thì có đến 50 lần ngọn gió đến
với Nguyễn Du. Với bao nhiêu người khác, gió đến là mang theo niềm vui, hạnh
phúc, những là gió mát, thổi bình dị xóa tan đi bao nhiêu nỗi nhọc nhằn, làm tâm
hồn con người trở nên thanh thoát và sảng khoái. Còn Nguyễn Du, gió đến là lúc
con người trở nên ưu tư hơn bao giờ hết:
Lúc thì ông hổ thẹn vì đầu đã bạc rồi mà vẫn mãi vụng về, không làm nên
công trạng gì để giúp đời, giúp người:
Sinh vị thành danh thân dĩ suy,
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.
(Tự thán I)
(Sống chưa làm nên danh, thân đã suy yếu
Tóc bạc phơ phơ trước gió chiều)
87
(Than thân)
Khi thì ông lo lắng, buồn thương cho số kiếp lênh đênh, vất vả của mình giữa
dòng đời:
Bách niên cùng tử văn chương lý,
Lục xích phù sinh thiên địa trung.
Vạn lý hoàng quan tương mộ cảnh,
Nhất đầu bạch phát tản tây phong.
(Mạn hứng II)
(Cuộc đời trăm năm chết xác trong chốn văn chương,
Tấm thân sáu thước sống trôi nỗi giữa vòng trời đất.
Đội chiếc mũ vàng (Đạo sĩ) nơi muôn dặm trong cảnh
chiều tối,
Một đầu tóc bạc bay tung trước gió tây)
(Cảm hứng lan man)
Hay :
Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp,
Tất cánh phiêu linh hà xứ qui?
(Tự thán I)
(Một nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây thổi gấp
Cuối cùng sẽ trôi dạt về đâu?)
(Than thân)
Đất trời biến chuyển cũng để lại trong lòng Nguyễn Du nhiều nỗi niềm
không thể tả xiết. Chứng kiến sự vận động của tạo vật ông lại chạnh lòng nghĩ đến
thân phận của mình, nhất là khi xuân về hay thu sang.
Thu cứ thế, bao lần đến rồi đi chỉ có con người là vẫn ở lại nỗi buồn cố hữu
không sao dứt ra được. Thu vẫn thản nhiên, vô tình mặc cho ai kia suốt đời ôm
những nỗi niềm khôn nguôi, ấy là tuổi già, tóc bạc, số phận lênh đênh như cánh bèo
trôi, như ngọn cỏ bồng, như áng mây lờ lững vô định giữa trời:
Thu mãn phong lâm sương diệp hồng,
88
Tiểu oa hào xuất đoản ly đông.
Sổ hề canh đạo kê đồn ngoại,
Nhất đới mao từ dương liễu trung.
Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng,
Bạch đầu thiên lý tẩu thu phong.
(Nhiếp Khẩu đạo trung)
(Khí thu đầy rừng phong, sương nhuộm đỏ lá cây,
Tiếng chó con sủa vàn nơi hàng rào thấp phía đông.
Ngoài lợn gà còn có mấy đám lúa nếp,
Một dãy nhà tranh trong rặng dương liễu.
Hơn một năm qua, chỉ mộng mị suông về dải non Hồng,
Mái đầu bạc vẫn lặn lội trong gió thu)
(Trên đường Nhiếp Khẩu)
Vẫn theo chu kì xoay vần của tạo hóa, thu ra đi rồi lại trở về mà dường như
lúc nào thu đến cứ lòng Nguyễn Du vẫn chất chứa những nỗi niềm nhức nhối. Trăn
trở cho số phận của bản thân mình. Hè qua, thu sang vạn vật thay đổi, lá cây thì
được khoác lên mình chiếc áo mới, rừng phong đỏ nhuộm cả trời thu, những cơn
gió cũng không còn nhẹ nhàng mát mẻ như khi còn mùa hạ, duy nhất chỉ có con
người vẫn bơ vơ, chênh vênh giữa đất trời, tóc đã bạc mà mãi vẫn cứ phải lặn lội
trong gió thu:
Lão lai bạch phát khả liên nhữ,
Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân.
Tối thị thiên nhai quyện du khách
Cùng niên ngọa bệnh Quế Giang tân.
(Thu dạ I)
(Già đến, tóc bạc, ngươi thật đáng thương,
Ở đây lâu rồi mà núi xanh vẫn chưa chán người,
Đáng buồn nhất là du khách nơi chân trời đã mỏi.
Hết năm rồi vẫn đau ốm nằm bên Quế Giang)
89
(Đêm thu)
Nguyễn Du đã từng tâm sự:
Bất thiệp Hồ Nam đạo,
An tri Tương thủy thâm.
Bất độc Hoài sa phú,
An thức Khuất Nguyên tâm
(Không đi qua Hồ Nam.
Sao biết nước sông Tương sâu?
Không đọc bài Hoài sa,
Sao biết được lòng Khuất Nguyên.)
Cũng như vậy, nếu không đọc thơ chữ Hán chúng ta khó có thể hiểu được
lòng Nguyễn Du. Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng thơ chữ Hán chính
là một thiên nhật kí về cuộc đời Nguyễn Du, ở đó ông đã gửi gắm tất cả những trăn
trở, day dứt, ưu tư của bản thân mình.
Bao nhiêu năm xa nhà xa quê, Nguyễn Du sống cuộc đời gió bụi truân
chuyên trong cảnh ăn nhờ ở đậu, lúc đầu sông, khi cuối bể, mặc cho cuộc đời lênh
đênh, chìm nổi như ngọn cỏ bồng. Bởi vậy, lòng Nguyễn Du lúc nào cũng nhớ về
quê nhà với những nỗi niềm ray rứt khôn nguôi. Đó là những trăn trở của những
ngày tháng lưu lạc, nhưng đến khi được về Tiên Điền sống cũng thấy cuộc đời ông
không mấy tươi sáng. Tuy được thỏa nguyện cùng sông Lam núi Hồng, làm bạn
cùng cỏ cây, hoa lá nhưng bệnh tật, đói nghèo vẫn bám riết lấy Nguyễn Du. Đến khi
ra làm quan, những tưởng tháng ngày cơ cực sẽ qua đi nhưng không phải vậy.
Nguyễn Du vẫn ôm nặng ưu tư, muộn phiền, và hổ thẹn vì không làm nên công cán
gì để giúp đời giúp người, dằn vặt vì đến lúc tuổi già tóc bạc mà vẫn lận đận, chênh
vênh giữa cuộc đời. Tất cả những tâm sự đó đều được Nguyễn Du gửi gắm vào cỏ
cây, gió mây, trăng sao… một cách thành thật và cảm động.
90
2.3. Thiên nhiên và triết lí về cuộc đời của Nguyễn Du
Nguyễn Du đã đón nhận thiên nhiên với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau,
có niềm vui, có nỗi buồn và có cả những phút giây sợ hãi. Dù thế nào đi nữa, chúng
ta cũng phải khẳng định rằng thi nhân bao giờ cũng dành một tình cảm đặc biệt đối
với thiên nhiên. Ông đã miêu tả thiên nhiên bằng tất cả hiện thực khách quan vốn
có, ông cảm nhận vẻ đẹp, sự duyên dáng, xinh tươi cũng như sự giận dữ, hiểm nguy
và hung bạo của nó bằng tất cả các giác quan của mình. Tuy nhiên không dừng lại ở
cảm xúc thông thường, không phải đơn giản là tìm thấy niềm vui khi băt gặp một
khung cảnh đẹp đẽ, yên bình, nên thơ, cũng không phải chỉ là sự run sợ, lo lắng khi
phải đối đầu với những phong ba bão táp của thiên nhiên. Với Nguyễn Du, đằng sau
những cảm xúc về thiên nhiên luôn ẩn chứa những suy ngẫm, triết lí về cuộc đời.
Trong khi miêu tả, Nguyễn Du đã nắm bắt, đúc kết và lí giải những qui luật nhân
sinh, thế sự theo quan điểm của ông.
Có rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Du là một phật tử thuận
thành ; những lí giải, chiêm nghiệm của ông có nhiều điểm tương đồng với quan
niệm Phật giáo. Để khẳng định Nguyễn Du có thật là một tín đồ theo Đức Thích Ca
hay không có lẽ cần phải xem xét lại. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng
những tư tưởng, giáo lí nhà Phật đã thấm nhuần trong suy nghĩ của ông và được thể
hiện qua các sáng tác, không chỉ trong thơ chữ Hán mà cả Truyện Kiều lẫn Văn
chiêu hồn đều là những minh chứng rất hùng hồn. Ngoài ra, người đọc cũng đã bắt
gặp hơn một lần trong thơ thi nhân đã thổ lộ mong ước được rời bỏ những đau khổ
ở cõi trần tục lụy để tìm đến với sự an nhiên, tự tại của cõi Phật thanh tịnh:
Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.
(Tự thán)
(Ước sao có thể xuống tóc vào rừng,
Nằm nghe tiếng thông reo lưng chừng mây)
(Than thân)
Hay :
91
Na đắc khiêu ly phù thế ngoại
Trường tùng thu hạ tối nghi nhân
(Sơn thôn)
(Ước gì ngảy thoát khỏi vòng trần tục
Dưới bóng cây tùng già, thích biết bao)
(Xóm núi)
Trong tư tưởng Phật giáo, triết lý vô thường được xem là một trong những
nội dung căn bản. Tư tưởng Phật giáo cho rằng cuộc đời như một cổ bánh xe luân
hồi, quay liên tục, con người cũng như vạn vật không bao giờ mất đi mà chỉ chuyển
từ kiếp này sang kiếp khác. Đức Phật dạy: “Tất cả những gì trong thế gian đều biến
đổi, hư hoại đều là vô thường”. Nguyễn Du cũng nhận ra những biểu hiện này khi
quan sát thiên nhiên. Đó là một quá trình vận động liên tục, không ngừng nghỉ và
không bao giờ có điểm dừng. Từ đó, ông khái quát nên những quan điểm của riêng
mình về cuộc sống.
Nhìn áng mây thay đổi sớm chiều. Xuân, hạ, thu, đông lần lượt thay thế
nhau, hoa nở rồi lại rụng… tất cả mọi thứ trên cuộc sống trần thế đều không nằm
ngoài quy luật ấy. Trong các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, hình ảnh “phù vân”
cứ trở đi trở lại nhiều lần. Đó là hình ảnh tượng trưng cho cái nhìn cuộc đời là vô
thường của Nguyễn Du:
Thủy các các hạ, giang thủy thâm,
Thủy các các thượng, nhân trầm ngâm.
Du du vân ảnh biến thần tịch,
Cổn cổn lãng hoa phù cổ kim.
Trần thế bách niên khai nhãn mộng,
Hồng Sơn thiên lý ỷ lan tâm.
(La Phù giang thủy các độc tọa)
(Dưới thủy các nước sông sâu,
Trên thủy các người trầm ngâm.
Sáng và chiều đổi thay theo bóng mây trôi lờ lững
92
Xưa và nay lênh đênh như hoa sóng cuồn cuộn.
Cuộc đời trăm năm trên trần thế chỉ là giấc mộng vừa mở mắt
Lòng nhớ Hồng Sơn nơi ngàn dặm trong lúc tựa lan can)
(Ngồi một mình trên thủy các sông La Phù)
Thế gian phú quí đẳng phù vân
(Đồ trung ngẫu hứng)
(Giàu sang trên đời chỉ mà mây nổi)
(Ngẫu hứng giữa đường)
Thế sự phù vân chân khả ai
(Đối tửu)
(Việc đời như mây nổi thật đáng thương)
(Ngồi uống rượu)
Nguyễn Du nhìn thấy cuộc đời chỉ là vô thường. Ông nhận ra tất cả công
danh, địa vị, quyền lực, giàu nghèo, hơn thua, được mất… đều chỉ như những ảo
ảnh như đám mây trôi nổi, không có gì là tồn tại vĩnh cửu :
Phù thế công danh khan điểu quá
(Công danh ở cõi đời như cánh chim bay qua)
Phù lợi vinh danh chung nhất tán
(Danh lợi hão huyền cuối cùng sẽ tiêu tan hết)
(Bài cuối xuân cảm hứng)
Phù thế công danh tẩu hác xà
(Công danh trên cõi đời trôi nổi tuột mất như rắn vào hang)
(Bài tiễn Nguyễn Sĩ Hữu về Nam)
Cổ kim vị kiến thiên niên quốc
(Xưa nay chưa từng thấy triều đại nào đứng vững nghìn năm)
(Vị Hoàng doanh)
93
Từ việc nhìn nhận và khái quát các hiện tượng thiên nhiên, Nguyễn Du đã
hình thành cái nhìn lạc quan về lẻ sướng – khổ của cuộc đời:
Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn,
Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi.
Lũng thiên tuế tuế qua điền thục,
Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ.
(Đại tác cửu thú tư qui)
(Vinh hoa như mặc áo gấm đi đêm, chỉ là ảo mộng ngoài thân
Danh lợi như mây buổi sớm, đổi khác ngay trước mặt.
Năm này qua năm khác ruộng dưa lại chín,
Hết khổ đến sướng còn có ngày về)
(Làm thay người đi thú lâu năm, nhớ nhà)
Ngoài ra, triết lí về cuộc đời của Nguyễn Du cũng được gửi gắm qua những
bức tranh thiên nhiên đối lập với con người. Nó giúp ta nhận ra một quy luật đơn
giản nhưng sâu sắc: tự nhiên thì bất diệt, chỉ có đời người là hữu hạn, con người chỉ
là một hạt cát nhỏ trong cái vô cùng vô tận của vũ trụ.
Núi vẫn sừng sững tồn tại giữa đất trời bao la, nước vẫn chảy mãi không bao
giờ ngừng nghỉ. Chỉ có con người, những kẻ suốt đời tranh dành quyền lực, địa vị là
chìm vào lãng quên. Nguyễn Du rất nhạy cảm trước sự tồn tại một cách thách thức,
ngạo nghễ của thiên nhiên bên cạnh sự ngắn ngủi của đời người :
Thành ngoại thanh sơn tự cựu thì,
Gian hung soán thiết nhân hà tại.
(Ngoài thành núi vẫn xanh như thời xưa,
Lũ giang hùng cướp ngôi có kẻ nào còn đâu)
(Cựu Hứa Đô)
Bá Vương trần tích thuộc du du
Hán thủy thao thao trú dạ lưu
(Hán Dương vãn diễu)
(Dấu cũ của Bá Vương đã đi vào cõi mông lung rồi
94
Sông Hán ngày đêm cuồn cuộn chảy)
(Ngắm cảnh chiều Hán Dương)
Tôn sách Lưu phan hà xứ tại
Thương nhiên nhất vọng tẫn binh vu
(Sở vọng)
(Đâu là đất họ Tôn đòi, họ Lưu chiếm giữ ?
Buồn trông chỉ thẫy xanh um một vùng cỏ hoang)
(Trông vời đất Sở)
Trải qua nhiều biến cố dồn dập của cuộc sống, cuộc đời trôi dạt nhiều nơi,
tận mắt chứng kiến những sự kiện vật đổi sao dời, những cảnh đời thương tâm,
ngang trái… Nguyễn Du cảm thấy xót thương cho kiếp phù sinh của con người.
Cuộc đời là chớp mắt, thời gian trôi đi đã làm tiêu xóa những dấu tích liên quan
đến con người. Đài Đồng Tước, một nơi nguy nga tráng lệ, gắn liền với sự nghiệp
bá vương lẫy lừng của Táo Tháo, giờ đã trở nên đổ nát, hoang tàn, dấu xưa mất
hút, chỉ còn lại cái nền trống trơn và giớ lạnh thổi vào cỏ thu tàn úa :
Đãn kiến giang biên Đồng Tước đài.
Đài cơ tuy tại, dĩ khuynh dĩ,
Âm phong nộ hào thu thảo mĩ.
Ngọc Long Kim Phụng tận mang mang.
(Đồng Tước đài)
(Chỉ thấy đài Đồng Tước ở bên sông.
Nền đài tuy còn nhưng đã nghiêng lở,
Gió lạnh réo gào giận dữ, cỏ thu úa tàn
Hai lầu Ngọc Long, Kim Phụng đã mịt mờ dấu vết)
(Đài Đồng Tước)
Nguyễn Du không khỏi đau lòng, ngao ngán khi phát hiện rằng ngay cả
những giá trị tinh thần đẹp đẽ nhất của cuộc đời, giá trị văn hóa nhân loại đều bị tàn
phá, thay đổi. Thành quách, công danh tan theo bèo nước dã đành; đền đài, bia miếu
95
vốn là những nơi linh thiêng để người sống thể hiện lòng kính trọng, thương xót với
những bậc hiền tài đều biến thành đống hoang tàn, đổ nát.
Chứng kiến sự biến chuyển của cuộc đời, Nguyễn Du không khỏi chạnh lòng
khi nghĩ về bản thân mình. Đến cả anh hùng một thời xưng vương xa bá mà cuối
cùng cũng trở thành dĩ vàng, huống gì một con người công nhỏ, danh mọn thì số
phận sẽ thế nào?
Ngã tư cổ nhân thương ngã tình,
Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh.
Như thử anh hùng thả như thử,
Huống hồ thốn công dữ bạc danh.
(Đồng Tước đài)
(Ta nghĩ đến người xưa xót nỗi mình
Bồi hồi ngẩng lên cuối xuống thương kiếp phù sinh.
Anh hùng đến như thế mà như thế,
Huống nữa là những kẻ chỉ có chút công nhỏ mọn
và cái danh mỏng manh)
(Đài Đồng Tước)
Cảm nhận được hữu hạn của con người trước thiên nhiên Nguyễn Du nhận ra
chân lí cuộc đời rằng để trường tồn cũng thời gian thì con người cần để lại những
giá trị nhân văn cao đẹp. Giá trị thật sự sẽ được nhân loại thừa nhận và trân trọng
đến ngàn sau. Điều này được Nguyễn Du chứng minh trong bài thơ Đào hoa đầm
Lý Thanh Liên cựu tích. Đầm Đào Hoa nơi thi tiên Lý Bạch thường xuyên đến để
ngâm vịnh, ngàn đời sau nước vẫn trong suốt, chim cá đều thành tiên. Đầm nổi
tiếng đến cả mai sau là vì vẻ đẹp của nó đã được nhà thơ ghi nhận trong những vần
thơ bất hủ :
Thiên niên thắng tích dĩ nhân truyền,
Bất tại du du nhất đàm thủy.
Đàm thủy chí kim thanh thả liên,
Nhất ngư nhất điểu giai thành tiên.
96
(Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích)
(Cảnh đẹp nhờ người mà danh để nghìn năm,
Chứ đâu phải vì đầm nước mênh mông bát ngát.
Nước đầm đến nay vẫn trong veo và gợn sóng,
Con cá con chim đều biến thành tiên)
(Dấu cũ của Lý Thanh Liên ở đầm Đào Hoa)
Nguyễn Du khẳng định giá trị vĩnh hằng mà thiên nhiên có được là nhờ con
người đã nhận ra và tôn vinh. Còn đối với bản thân con người, vốn là một thực thể
hữu hạn so với thiên nhiên muốn người đời ghi nhận, muốn trường tồn cùng thiên
nhiên không cách nào khác là sống và để lại những phẩm chất nhân văn cao đẹp,
bền vững.
Thời đại Nguyễn Du sống có biết bao cuộc biến thiên sóng gió. Ông đã
chứng kiến biết bao chuyện đau lòng, thi nhân đã biến đó thành những nỗi đau của
chính mình. Nguyễn Du không phải là người chỉ biết thu mình lại trong những đau
khổ cá nhân. Chuyện đất trời đổi thay, thành quách xiêu tán, sự hữu hạn của đời
người… đối với ông như một niềm trăn trở, khiến ông mãi bận tâm về nó. Thơ chữ
Hán Nguyễn Du không chỉ là những nỗi niềm riêng tây với những lời tự thán. Ông
gửi gắm vào thơ cả những băn khoăn về thế sự, về cuộc đời. Bởi thế mà Lê Thu
Yến đã nhận định về thơ chữ Hán của ông : “Thấp thoáng đâu đó chuyện trăm năm,
nghìn năm, chuyện xưa nay, kiếp phù sinh…”. Tất cả những điều đó cứ trở đi trở lại
trong thơ Nguyễn Du, đó là cách nhận nhận và lí giải của riêng ông , trở thành triết
lý của Nguyễn Du về cuộc đời.
97
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ THIÊN NHIÊN
TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
3.1. Hình ảnh
3.1.1. Hình ảnh ước lệ, tượng trưng
Thời trung đại, để phản ánh đời sống và nội tâm con người, văn học sử dụng
một hệ thống hình ảnh thiên nhiên ước lệ hết sức chặt chẽ. Có nhiều hệ thống ước lệ
mà chỉ cùng cộng đồng văn chương mới hiểu. Tính ước lệ chiếm một vị trí rất cao
và hầu như quy định mọi phương diện của tác phẩm. Tất cả như thành một khuôn
mẫu quy định sẵn. Nhan sắc thì “chim sa cá lặn”, tài thơ thì Lý Bạch – Đỗ Phủ, giỏi
rượu thì Lưu Linh… Mùa hạ thì hoa sen, mùa thu hoa cúc, mùa đông hoa mai, mùa
xuân thì trăm hoa.
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong thời kì trung đại, những nguyên tắc và
chuẩn mực của thời đại ảnh hưởng đến cách nhìn, cách nghĩ và cách viết của ông.
Từ đó, ông rút ra được nhiều cách thức thể hiện thiên nhiên, trước hết dựa trên hình
ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng.
Tượng trưng là dùng một sự vật này để nói đến sự vật khác, khi giữa chúng
có những điểm gì đó giống nhau khá tiêu biểu. Cái tượng trưng được mọi người
công nhận, sử dụng phổ biến thì thành ước lệ.
Theo quan niệm trung đại, văn chương là một thế giới riêng, không giống
cuộc đời thật. Nói đến người con gái đẹp thì “khách má hồng”, “khách quần hoa”
hay “làn thu thủy, nét xuân sơn”. Nói đến bậc anh hùng thì “râu hùm, hàm én, mày
ngài”. Nói đến mùa thu thì “ngô đồng rơi”, “hoa cúc nở”, “sen tàn”. Nói đến kẻ sĩ
thì “tùng, trúc, mai”… Ở Nguyễn Du điều này cũng được vận dụng nhuần nhuyễn
và hết sức tự nhiên dưới nhiều hình thức nhất định.
Không biết từ bao giờ mà khi muốn nói đến khí tiết của người quân tử thì
các nhà thơ đã sử dụng hình ảnh tùng, trúc, mai để biểu đạt điều muốn nói. Trúc,
mai và tùng là ba loại cây được trồng hoặc vẽ quanh nơi ở của con người, nó tượng
trưng cho đức tính cao thượng, trong sạch giữ tròn khí tiết của người quân tử. Có
98
được sự cao quý này là bắt nguồn từ đặc điểm, phẩm chất của chúng, trong những
ngày đông giá rét tất cả các loài cây đều rụng lá và khô cằn, riêng tùng vẫn xanh,
trúc vẫn tươi và mai lại nở hoa.
Vô tình hay hữu ý mà hình ảnh tùng được Nguyễn Du sử dụng nhiều lần để
nói lên khí tiết của người quân tử. Đây không phải điều mà đến bây giờ Nguyễn Du
phát hiện ra. Khi xưa, Nguyễn Trãi từng đề cập đến cái phi thường của cây tùng:
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng
Một mình lạc thuở ba đông
Lâm tuyền ai già làm khách?
Tài đống lương cao ắt cả dùng.
(Tùng)
Hình ảnh “một mình lạc thuở ba đông” trở thành một tư thế hiên ngang dũng
mãnh. Đó chính là cốt cách của cây tùng. Mặc dù sinh ra ở nơi rừng núi nhưng đâu
phải vĩnh viễn chịu làm khách nơi rừng khe. Cây tùng có thể làm rường cột (đống
lương) và dùng vào việc trọng đại (cả dùng).
Khi miêu tả cây tùng, Nguyễn Du không tập trung tả màu sắc hay hình dáng
mà tập trung miêu tả sức sống mãnh liệt, bất chấp sương gió, thời tiết qua đó nói lên
khí tiết của người quân tử. Những anh hùng trên đất Trung Hoa để lại trong lòng
Nguyễn Du nhiều ấn tượng sâu đậm. Thi nhân khâm phục tinh thần và ý chí của họ.
Người anh hùng Nhạc Vũ Mục hiên ngang trong trận đánh ở Trung Nguyên năm
nào được sử sách ghi công, nhân dân mãi nhớ về ông với những chiến công hiển
hách và nhân vật ấy cũng giống như cây tùng, cây bách thách thức gió bão, giông tố
cuộc đời mà không hề run sợ:
Trung nguyên bách chiến xuất anh hùng,
Trượng bát thần thương lục thạch cung.
Tướng phủ dĩ thành tam tự ngục,
Quân môn do tích thập niên công.
Giang hồ xứ xứ không nam quốc,
Tùng bách tranh tranh ngạo bất phong.
99
(Nhạc Vũ Mục mộ)
(Anh hùng xuất hiện trong trận đánh ở Trung Nguyên
Thương thần dài trượng tám, cung nặng sáu thạch.
Ở tướng phủ đã khép thành tội “ba chữ”
Nơi quân còn tiếc công của ông trong mười năm trời.
Giang hồ nơi nơi còn đó, Nam quốc thấy không,
Cây tùng cay bách vẫn hiên ngang ngạo nghễ lao vào trước gió
bão)
Nguyễn Du là một người biết yêu và trân trọng cái đẹp, không chỉ khâm phục
những bậc anh hùng mà ông còn ngưỡng mộ những bậc văn nhân Trung Quốc, vừa
có tài lại vừa có khí phách. Có lúc, ông đã lấy sự hiên ngang, ngạo nghễ của tùng
giữa mùa đông giá rét để nói đến phẩm chất cao quý của con người. Cụ thể ở đây là
Lý Thanh Liên tức Lý Bạch. Ông là đại thi hào đời Đường, sinh tại làng Thanh
Liên, tự xưng mình là Thanh Liên cư sĩ:
Đàm thường tùng bách đông do thanh
(Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích)
(Tùng bách bên đầm giữa mùa đông vẫn xanh)
(Dấu cũ của Lý Thanh Liên ở đầm Đào Hoa)
Hình ảnh tùng thường được Nguyễn Du nhắc nhiều đến trong thơ. Phải
chăng qua đó ông muốn gửi gắm tâm sự của bản thân? Có thể ông cũng muốn
khẳng định phẩm chất của mình trước cuộc sống.
Ngoài hình ảnh tùng, tác giả còn đề cập đến trúc. Trúc là biểu tượng cho khí
tiết thanh cao của con người. Tô Đông Pha từng nói “Thà ăn không có thịt, còn hơn
là ở không có Trúc”. Đặc điểm của cây trúc là vỏ cứng mà ruột rỗng, muốn có khí
tiết như trúc thì lòng phải trong sạch, trung thực, trung thành, không tham lam, vụ
lợi, không chìm đắm trong vòng vinh hoa phú quý, không vướng mắc vào những lạc
thú tầm thường. Đây cũng là khí tiết của kẻ sĩ. Dù có lạc vào chốn phồn hoa đô hội,
sống giữa xa hoa phú quí, người quân tử vẫn giữ được khí tiết thanh cao của mình.
Người ta quí trúc, ưa trúc bởi vì tiết trúc thanh, không chịu thả mình trong những
100
cám dỗ tầm thường. Nếu tùng được coi là bậc trượng phu thì trúc cũng có được bản
chất thanh cao, nổi tiếng. Trúc không có khả năng vững chắc như tùng để chống đỡ
phong ba bão táp nhưng trúc có cái cứng rắn của mình, đó chính là sự vượt lên
những cám dỗ tầm thường.
Nếu không kể đến tuổi thơ thì bản thân cuộc đời Nguyễn Du là một câu
chuyện dài về sự buồn khổ. Nhà thơ luôn phải đối diện với những bi kịch cá nhân:
tha phương, bệnh tật, gia đình tan tác, tiền đồ bản thân mù mịt. Cuộc đời vốn nhiều
ngang trái và cũng lắm cạm bẫy nhưng Nguyễn Du luôn trong sạch. Mặc cho người
đời bon chen vào vòng danh lợi, riêng ông vẫn giữ mãi tấm lòng trong sạch, luôn
chung thủy với quê hương, bè bạn và có lần ông đã ví tấm lòng của mình với hình
ảnh trúc thanh cao:
Mạc mạc trần ai mãn thái không,
Bế môn cao chẩm ngọa kỳ trung.
Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại,
Bách lý Hồng sơn chính khí đồng.
Nhãn để phù vân khan thế sự,
Yêu giang trường kiếm quải thu phong.
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc,
Sương tuyết tiêu thời hợp hóa long.
(Ký hữu)
(Bụi trần mù mịt đầy bầu trời,
Đóng cửa đầu gối cao nằm trong nhà.
Một trời trăng sáng tình bạn còn mãi,
Trăm dặm núi Hồng chung chính khí.
Xem việc đời như mây nổi trong đáy mắt,
Kiếm dài đeo lưng treo trước gió thu.
Riêng mình lẳng lặng trước cây trúc ngoài sân,
Lúc sương tuyết tan nó sẽ hóa rồng)
(Gởi bạn)
101
Trúc hóa rồng chính là nói đến những kẻ sĩ, những bậc trượng phu, để đạt
được cái tinh túy đó thì bản thân con người phải trải qua một quá trình tôi luyện lâu
dài, bền bỉ như trúc.
Trong một bài thơ khác, Nguyễn Du đã lấy hình tượng cây trúc để tượng
trưng cho tấm lòng trung quân của con người. Đó là hai cha con Kê Khang. Kê
Khang làm chức Thị trung đời Tấn Huệ Đế (290 – 306). Ông là một trong “Trúc
lâm thất hiền”. Con của Kê Khang là Kê Thiệu. Khi Huệ Đế bị giặc đuổi, tên bắn
như mưa, Kê Thiệu đã lấy thân che cho vua, nhận lấy cái chết về mình. Khí tiết của
hai cha con Kê Khang liều chết để bảo vệ vua như một điệu đàn Quảng lăng tuy đã
dứt nhưng âm hưởng thì vẫn còn vang vọng mãi:
Cổ miếu tùng hoàng nhất đái u,
Thanh phong do tự Trúc lâm thu.
Quảng lăng điệu tuyệt dư thanh hưởng,
Chính khí ca thành lập nọa phu.
Cắng cổ vị can lưu huyết địa,
Kỳ trung năng phá vấn ma ngu
(Kê Thị trung từ)
(Ngôi miếu cổ có một dãy thông và trúc xanh um,
Cái vẻ thanh cao còn giống như mùa thu ở rừng trúc,
Điệu đàn Quảng Lăng dứt rồi mà âm hưởng vẫn còn
Bài Chính khí ca làm xong, dù kẻ ươn hèn cũng lập chí.
Suốt từ xưa đến nay, đất này chưa ráo vết máu của người trung
thần.
Tấm lòng trung khác thường phá được cái ngu của người hỏi
chuyện ễnh ương.)
(Đền thơ Kê Thị trung)
Nguyễn Du sống một cuộc đời lang thang phiêu bạt, nay đầu sông mai cuối
bể. Ông lo lắng, ngậm ngùi và thầm hỏi số phận sẽ về đâu? Cuộc sống bấp bênh,
trôi nổi không chốn dừng chân luôn là nỗi khắc khoải trong lòng thi nhân. Có lẽ vì
102
thế mà hình ảnh ngọn cỏ bồng – tượng trưng cho cuộc đời mông lung, vô định cứ
trở đi trở lại trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Rất nhiều lần, ông ví mình như ngọn cỏ
bồng đứt gốc trước gió tây thổi gấp:
Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp
Tất cánh phiêu linh hà xứ qui?
(Tự thán I)
(Một nhánh cỏ bồng trước gió tây thổi gấp
Cuối cùng sẽ trôi dạt về đâu)
(Than thân I)
Tráng chí giang hồ bốn phương cuối cùng đành như ngọn cỏ bồng không gốc
rễ, không có đích để dừng chân, không có bờ cập bến:
Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng
(Mạn hứng II)
(Như ngọn cỏ bồng không rễ tha hồ chuyển dời, tôi đi)
(Cảm hứng lan man II)
Và rồi, Nguyễn Du đành cảm thương cho thân phận lẻ loi cô độc của mình
nơi chân trời góc bể:
Nhất lệ thiên nhai sái đoạn bồng
(Ngẫu hứng II)
(Bên trời, lệ rơi rưới lên ngọn cỏ bồng đứt gốc)
Nguyễn Du ý thức rất rõ về cuộc đời lênh đênh của bản thân mình, ông cảm
thấy buồn và tủi thân khi con đường phía trước mịt mờ. “Đó là khung trời không có
lối thoát cũng không có một viễn cảnh tươi sáng để theo đuổi trong tương lai. Con
người cứ đi đi mãi và rồi sẽ mất hút trong chốn không gian vô hình" [8, tr.64].
Ngoài ra trong 3 tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều những
chất liệu thiên nhiên mang tính ước lệ, tượng trưng. Đó là một cánh chim âu trắng
tượng trưng cho tinh thần tự do, tự tại của kẻ ẩn sĩ:
Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân
Phù âu tĩnh túc noãn sa tân.
103
(Dạ hành)
(Vị sư già ngủ yên trong mây núi Hồng
Chim âu ngủ đêm trên bãi cát ấm)
Là ngọn cỏ Ngu mỹ tượng trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ :
Xuân lai ngu thảo tự tùng sinh
(Sở Bá Vương mộ)
(Mỗi khi xuân đến, cỏ Ngu mỹ nhân là mọc xinh tươi)
Là hoa lan tượng trưng cho vẻ đẹp cao khiết của con người. Loài hoa mà
Khuất Nguyên – bậc hiền tài của đất Trung Hoa rất thích, nó tượng trưng cho tâm
hồn trong sạch, thanh khiết của ông.
Nguyễn Du là một nhà thơ sinh ra và trưởng thành trong nền thơ ca trung
đại. Những nguyên tắc, chuẩn mực của nền thơ ca dân tộc đã thấm sâu vào quan
điểm sáng tác của ông. Tuy nhiên, ngoài việc miêu tả thiên nhiên thông qua những
hình ảnh ước lệ và tượng trưng mang tính qui phạm của văn học trung đại Nguyễn
Du còn sử dụng chất liệu của cuộc sống hiện thực. Những hình ảnh giản dị, gần gũi
với cuộc sống hằng ngày của con người đã đi vào trang thơ một cách mộc mạc và
chân thật.
3.1.2. Hình ảnh gần gũi, giản dị, mộc mạc
Nguyễn Du thuộc dòng dõi cao sang, quyền quý, nhưng gặp phải cảnh loạn
lạc đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn. Sinh ra và trưởng thành ở mảnh
đất kinh đô nhưng cũng có khoảng thời gian ông trở về với miền đất Tiên Điền quê
cha để ẩn cư. Những ngày sống trong phú quý giàu sang và cả những ngày sống
một cuộc sống thanh đạm, mộc mạc nơi thôn dã Nguyễn Du đều đã trải qua. Thi
nhân đã kết hợp hài hòa được hai lối sống đó. Hồn thơ của cụ Nguyễn một mặt vẫn
mang những cốt cách của bậc văn nhân, nho sĩ nên câu chữ, hình ảnh trong thơ
mang vẻ trang trọng quý phái, mặt khác tâm hồn thi nhân đã hòa vào cùng cảnh vật
nơi thôn dã nên rất nhiều hình ảnh giản dị, rất đỗi bình thường của cuộc sống nông
thôn được Nguyễn Du trân trọng đưa vào thơ.
104
Là con đẻ của nền văn học trung đại, quan điểm, khuynh hướng sáng tác của
Nguyễn Du mang đậm dấu ấn của thời đại. Thiên nhiên trong văn học trung đại
thường hiện lên trước mắt chúng ta là những khuôn mẫu “bất di bất dịch”. Nói đến
mùa đông thì nhất định phải có tuyết rơi, mùa thu nhất thiết phải lá vàng, rừng
phong lá đỏ, mùa xuân thì nhất định sẽ hiện lên hình ảnh của hoa mai nở rộ…Thơ
chữ Hán Nguyễn Du vẫn còn bị ảnh hưởng nhiều vào những khuôn mẫu định sẵn đó
nhưng ở mức độ thấp hơn. Thay vào đó là những chất liệu (hình ảnh, âm thanh, màu
sắc) rất gần gũi, gắn bó với đời sống con người.
Nguyễn Du không lý luận khô khan mà lại giàu cảm xúc trước những vẻ đẹp
rất đỗi thân quen của cảnh vật. Nguyễn Du đã đưa vào trang sách những thi liệu vô
cùng gần gũi, mộc mạc khác hẳn những chất liệu của văn chương bác học.
Nguyễn Du không phải là người đầu tiên đưa những hình ảnh đơn sơ, gần
gũi với đời sống con người vào trang thơ. Trước đây, trong thơ Nguyễn Trãi cũng
đã xuất hiện các thi liệu thơ mang đậm phong vị làng quê Việt với rãnh mồng tơi,
bè rau muống:
Tả lòng thanh mùi núc nác
Vun đất ải rảnh mồng tơi
(Ngôn chí - bài 9)
Ao quan thả gửi hai bè muống,
Đất bụt nương nhờ một lãnh mùng
(Thuật hứng- bài 23)
Tiếp nối truyền thống đó, bức tranh thiên nhiên trong thơ của Nguyễn Du
cũng mang đầy đủ nét đặc trưng cho cuộc sống dân dã của quê hương Việt Nam. Có
một điều lạ rằng, Nguyễn Du sinh ra, lớn lên và sống phần nhiều ở đất Thăng Long.
Còn đối với Hà Tĩnh quê cha, mặc dầu ông rất ít thời gian về sống ở đây, ngoại trừ
sáu năm về lánh ẩn sau chặng “thập tải phong trần”, nhưng hình ảnh quê hương,
một làng quê yên bình êm ả được Nguyễn Du ưu ái hơn cả và đặt nó vào trong thơ
với những tình cảm đặc biệt. Miền đất Thái Bình quê vợ, miền quê mà ông cũng
từng gắn bó trong một thời gian khá dài cũng được Nguyễn Du nhắc đến trong thơ.
105
Phải chăng trong tâm khảm của một con người mang nhiều ưu tư, trăn trở như
Nguyễn Du chỉ thật sự tìm được niềm vui, thanh thản khi được làm bạn với mây
trời, trăng sao, sông nước, cỏ cây…?
Cảnh làng quê hiện ra trong một buổi chiều tà thật nhẹ nhàng êm trôi. Thấp
thoáng đâu đây trên đám lau tàn giữa đồng cát là cánh cò bay lượn, những chú trâu
nằm nghỉ sau một ngày làm việc vất vả, khóm tre mùa thu mang đến hơi lạnh nhẹ
nhàng:
Sa chủy tàn lô phi bạch lộ, Lũng đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu.
Loạn sơn thúy tiếp cô thành mộ,
Thủy trúc hàn sinh tiểu điếm thu.
(Đồng Lung giang)
(Trên đám lau tàn ở mỏm cát đàn cò trắng bay,
Dưới bóng trăng xế đầu ghềnh con trâu mệt nằm nghỉ.
Buổi chiều những ngọn núi xanh liên tiếp liền thành trơ trọi
Mùa thu, những khóm tre nước lạnh lẽo tỏa hơi lạnh quanh
chiếc điếm nhỏ)
(Sông Đồng Lung)
Đêm quê thanh vắng, yên tĩnh là đặc trưng của vùng nông thôn Việt. Giữa
không gian u tịch, vắng lặng của màn đêm, có lẽ bất cứ một tín hiệu khác thường
nào của thiên nhiên cũng được con người lưu tâm. Bởi vậy, thứ ánh sáng yếu ớt,
chập chờn của đom đóm, âm thanh vo ve của muỗi đều được nhà thơ nhận ra. Phải
tinh tế lắm thi nhân mới cảm nhận được tất cả những chuyển động rất nhẹ nhàng
của sự vật:
Hoang thảo nhạ lưu huỳnh,
Nhàn giai dạ khí thanh.
Hàn đăng lưu quỉ ảnh,
Hư trướng tụ văn thanh.
(Quế Lâm công quán)
106
(Trong đám cỏ hoang đom đóm bay,
Ngoài thềm vắng, hơi đêm trong mát.
Ngọn đèn lạnh, như lưu lại bóng ma
Màn thưa tiếng muỗi vo ve)
(Trong công quán ở Quế Lâm)
Khung cảnh của một xóm núi nhỏ khi xuân đến cũng đã được tác giả quan
tâm và vẽ lên thật nên thơ. Ban ngày cảnh vật vắng lặng khác xa cái vẻ ồn ào náo
nhiệt chốn kinh thành, những đám mây bềnh bồng giăng trắng cửa sài. Mùa xuân
tới mang theo hơi lạnh nên trúc trong thung cũng thưa thớt đi nhiều. Đêm đến, trăng
chiếu xuống trần làm lòng người thổn thức. Lại văng vẳng đâu đây tiếng nhạn đầu
mùa càng làm con người thêm chạnh lòng, day dứt nhớ về quá khứ:
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiếm hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
(Sơn cư mạn hứng)
(Ngày vắng, mây núi như đóng kín của sài,
Xuân lạnh, trúc trong thung nơi vườn thuốc thưa thớt.
Dưới bóng trăng một mảnh lòng nhớ quê,
Tiếng nhạn đầu mùa khơi lại dòng lệ biệt ly từ bao năm)
(Cảm hứng ở núi)
Quê hương Tiên Điền ăn sâu vào trong tiềm thức đôi khi nhập cả vào giấc
mộng của nhà thơ. Làng Tiên Điền nổi tiếng là nghèo, đất cằn cỗi, nhiễm mặn, lúa
không thể phát triển tốt nên phải trồng nhiều hoa màu thay thế. Muốn tồn tại, con
người phải vất vả làm thêm nhiều nghề phụ và phải cố gắng rất nhiều. Khó khăn là
thế nhưng ông không bao giờ lãng quên. Quê nhà hiện hữu trong ông với tất cả
những gì thân thuộc như nó vốn có. Công việc lao động cực nhọc, hạn hán dày vò
nhà nông, cái đói hiện rõ trên khuôn mặt trẻ thơ tội nghiệp,và đặc biệt những hương
vị của “rau thuần, gỏi cá lô” đạm bạc được Nguyễn Du nhắc đến rất nhiều lần. Ông
107
yêu biết mấy cuộc sống của người dân quê, không cao lương mĩ vị, không gấm vóc
lụa là mà chỉ là những phong vị đồng nội hết sức bình thường:
Cố hương cang hạn cửu phương nông
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng
Thí tự thuần lô tối quan thiết
Hoài qui nguyên bất đãi thu phong.
(Ngẫu hứng kì IV)
(Quê hương nắng hạn lâu làm hại việc nông
Mười miệng trẻ đói mặt cũng xanh như rau.
Giá như rất thiết tha canh rau thuần gỏi cá lô,
Thì lòng muốn về vốn chẳng cần đợi gió thu nổi)
Những hình ảnh thật bình dị, mộc mạc mà thân quen trên những lộ trình cụ
Nguyễn đi qua cũng được cụ miêu tả một cách tỉ mỉ. Đó là rừng cây, đó là ngọn núi
phủ mây trắng, đó là dòng nước róc rách từ trong lòng núi. Là những hàng trúc
xanh um, nơi có một vị sư già tọa thiền trông thật an nhiên, tự tại. Xa hơn nữa là
những chú mục đồng cỡi trâu thổi sáo thật ung dung biết nhường nào:
Vạn mộc sơn tiền khả bốc cư,
Bạch vân tại tụ thủy thông cừ.
Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng,
Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như.
(Lạng Sơn đạo trung)
(Trước núi có rừng cây có thể làm chỗ ở,
Mây trắng ở hang núi, nước chảy ra khe
Nhà sư trên núi ngồi trước trúc, cả hai đều bình thường,
Trẻ mục đồng cỡi trâu ung dung là điều ta chẳng bằng)
(Trên đường Lạng Sơn)
Bức tranh thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du hiện lên thật tự nhiên.
Đó là không gian của một miền quê cụ thể Tiên Điền hay Thái Bình. Cũng có khi là
khung cảnh của một mảnh đất nào đó mà cụ Nguyễn có dịp ngang qua. Cảnh vật
108
giản dị, bình thường nhưng thông qua lăng kính của nhà thơ, nó trở nên vô cùng
duyên dáng. Có thể là một ánh trăng đêm, một ngọn núi xanh, một hơi đêm lạnh,
một buổi chiều tà, một bến đò xưa, một cánh đồng hoang, tiếng nhạn đầu mùa, tiếng
dế kêu trong đêm lạnh, âm thanh vo ve của muỗi… Tất cả đều có mặt trong thơ,
làm cho bức tranh thêm mộc mạc, gần gũi nhưng không kém phần sống động.
3.2.Giọng điệu
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. “Với tư cách là một hiện tượng phong cách,
ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện chức năng phức tạp, nó tạo ra một hệ thống giọng
điệu”(Lê Đình Kị). Nhà văn chính là vị tướng điều khiển cho đạo quân ngôn từ ấy.
Mỗi nhà văn có một tiếng nói riêng, không giống với bất cứ ai. Cho nên có thể nói
không ở đâu giọng điệu lại thể hiện rõ như trong văn học.
Văn chương cổ không có chỗ cho những tình cảm ủy mị, riêng tư, đời thường
mà là “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí”. Cha ông làm thơ là để nói cái chí của
mình. Chí như thế nào sẽ phát ra lời tương ứng thế ấy. Giọng điệu chính là kết quả
sự thể hiện cái chí của người sáng tác. Cho nên,“nếu ý chí mà ở đạo đức thì tất sẽ
phát ra lời hồn hậu, chí mà ở sự nghiệp thì tất nhả ra khí phách hào hùng, chí ở
rừng suối hò hoang thì thích giọng liêu tịch, chí ở gió, mây, trăng, tuyết thì thích về
thơ thanh cao, chí ở uất thì làm ra lời thơ ưu tư, chí ở niềm cảm thương thì làm ra
lời thơ ai oán”[58, tr.50].
Ngoài ra, thơ là tiếng nói tình cảm, cái gốc xâu xa của giọng điệu chính là
tình. Vì thế, giọng điệu còn được hiểu là hồn, là thần và khí của thơ. Người xưa rất
xem trọng khẩu khí của bài thơ. Câu thơ không có hồn thì đọc lên nghe nhạt nhẽo
vô vị. Ngược lại, thơ văn có hồn thì từng chữ, từng câu đều thể hiện được tư tưởng,
tình cảm của tác giả hay cho ta thấy được khí thế dồn dập như gió bão, xoay chuyển
lòng người. Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt)
đều đạt đến chữ hồn, chữ khí, chữ thần trong văn chương.
Trong thơ, giọng điệu có một vai trò quan trọng; âm hưởng, giọng của tác
phẩm là yếu tố quan trọng để người đọc đến với tác phẩm. Nhà thơ, bằng tất cả sự
nỗ lực của mình phải làm cho giọng diễn đạt được tư tưởng, tình cảm của mình
109
đồng thời phải khơi dậy trong lòng người đọc những ấn tượng, cảm xúc, những tâm
trạng tương tự. Tóm lại, giọng điệu nghệ thuật là một hình thức bộc lộ cái chủ quan
của tác giả trong sáng tác. Nó là sự tổng hợp thái độ, tình cảm, tư tưởng đạo đức và
quan niệm thẩm mỹ của tác giả.
Thơ dùng cảnh để tả tình nên hình ảnh trong thơ rất quan trọng, đó cũng là một
trong những yếu tố tạo nên giọng. Ngoài ra, với quy định chặt chẽ của thơ, nhất là
thơ cổ thì từ ngữ được sử dụng và cách tạo câu cũng là những phương tiện cần thiết
để hình thành nên giọng điệu. Thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du được
miêu tả trên nhiều phương diện với những giọng điệu riêng. Nó phản ánh tâm hồn,
cảm xúc và tình cảm của tác giả đối với cảnh vật.
Timôphêép đã từng nói “Từ cửa miệng một người nói ra không hề có lấy một
câu nào mà không thể truy nguyên đến cái hoàn cảnh đã khiến nó xuất hiện” [83,
tr. 20]. Đối với Nguyễn Du, như đã nói thời đại và cuộc đời có tác động rất lớn đến
những sáng tác của ông. Nguyễn Du sống giữa “thời loạn”. Ông chỉ sống được 65
năm nhưng phải trải qua 3 triều đại: Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Trong lịch sử, mỗi khi
có cuộc chuyển giao chính trị đều có những biến động lớn. Mọi tầng lớp xã hội đều
ít nhiều chịu sự tác động của biến cố này. Nguyễn Du cũng là một nhân chứng và
cũng là nạn nhân của những biến động thời cuộc ấy.
Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Nguyễn Du sống cuộc đời gian nan, lưu lạc. Trong
quãng thời gian đó, ông đã nghe, thấy đã nếm trải và cảm thông với những nỗi
thống khổ và đau xót, tủi nhục của nhân dân với tư cách là người đồng cảnh ngộ.
Thời trai trẻ, Nguyễn Du rất muốn giúp đời. Nhưng một phần chưa đủ tài,
phần thời cuộc không phù cho người mộng cao chí lớn nên Nguyễn Du đành dở
dang giấc mộng. Ông trút tất cả tâm huyết và nỗi đau đời của mình vào thơ. Thơ
ông có nỗi thất vọng của một nam nhi thời loạn không thể tung hoành ngang dọc
giúp đời:
Lưu lạc bạch đầu thành để sự
(U cư)
(Lưu lạc đến bạc đầu mà có nên chuyện gì đâu)
110
(Ở nơi u tịch)
Có sự thất chí của một vị quan thấy mình bất tài:
Bất tài đa khủng tốc quan phi
(Giang đầu tản bộ)
(Bất tài nên hay sợ rước lấy sai lầm trong việc làm quan)
(Dạo bước bên sông)
Có cả nỗi thương cảm với những kiếp người bất hạnh:
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
(Long Thành cầm giả ca)
(Khúc xưa giọng mới lệ thầm rơi
Tôi lắng nghe lòng đau xót
“Chí ở niềm u uất thì làm ra lời thơ ưu tư. Chí ở niềm cảm thương thì làm ra
lời ai oán” [20, tr.35] Thơ Nguyễn Du vì thế đầy chất bi thương, trầm buồn.
Giọng bi là đặc trưng đầu tiên mà chúng ta cảm nhận được khi tiếp xúc với
thiên nhiên trong 3 tập thơ chữ Hán. Nó thể hiện một phần qua cách lựa chọn hình
ảnh, màu sắc, âm thanh… một phần thể hiện qua cách sử dụng từ ngữ, đặt câu của
Nguyễn Du.
Giọng buồn trong giọng điệu thơ thiên nhiên chữ Hán Nguyễn Du trước hết
được tạo nên bởi hệ thống các hình ảnh: vầng trăng, đám mây, ngọn gió, mùa thu,
mùa xuân, cỏ cây... Hình ảnh có vai trò tạo nên không khí của tác phẩm. Nó thể
hiện giọng điệu của người viết. Với những hình ảnh gợi sự u buồn, không thể có
chất hào sảng hay ngạo nghễ. Ngược lại, những hình ảnh biểu trưng cho sự vui tươi,
đoàn tụ... không cho phép chọn giọng bi hay hài hước.
Trăng trong thơ Nguyễn Du thật gần gũi, ngoài một số hình ảnh đẹp, tứ lạ thì
đậm nét vẫn là hình ảnh: tà nguyệt (trăng xế), tàn nguyệt (trăng tàn), lạc nguyệt
(trăng lặn)… mở ra không gian buồn hiu hắt, đơn lạnh:
Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý
(Dạ hành)
111
(Trên biển nam trăng tà dập dờn nghìn dặm)
Có những lúc trăng đẹp thì giọng thơ vẫn thấy buồn tê tái
Nguyệt minh hồng nhạn tán
(Biệt Nguyễn đại lang II)
(Trăng sáng chim hồng chim nhạn tan tác)
(Từ biệt anh Nguyễn)
Với Nguyễn Du, trăng là nhân chứng cho cõi lòng thi nhân cũng là nhân chứng
cho những đắng cay, trắc ẩn trong cuộc đời. Giọng trầm buồn khi nói đến trăng
trong thơ chữ Hán là điều dễ hiểu.
Hình ảnh mùa thu cũng là một đặc trưng khơi gợi nỗi buồn trong thơ chữ Hán.
Mùa thu mùa của sự tàn phai rơi rụng, của gió hiu hắt, của tư lự buồn… tất cả tràn
ngập trong thơ Nguyễn Du :
Yến Đảo thu hàn thanh nhập hải,
Nễ Giang triều trướng bạch hàm thiên
(Nễ Giang khẩu hương vọng)
(Mùa thu lạnh, Hòn Én chiếu sắc xanh xuống mặt biển
Thủy triều lên sông Nễ lồng bóng trời trắng xóa)
Thu thường hiện lên với nắng bảng lảng, lá vàng rơi. Nhắc đến thu trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du, ta quen với thu buồn, thu lạnh. Không gian thu mờ nhạt, ảm
đạm và đó cũng là thời điểm lòng người dội lên bao nỗi tiếc thương, buồn nhớ.
Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, mùa thu gắn liền với “nỗi hận kim cổ và nỗi u uất
ngàn đời của thi nhân” :
Niên niên thu sắc hồn như hử,
Nhân tại tha hương bất tự tri.
(Giang đầu tản bộ)
(Hàng năm sắc thu vẫn không thay đổi
Chỉ khách tha hương không biết mà thôi)
(Dạo bước bên sông)
Mùa thu với lá vàng xao xác cả lòng khách quê:
112
Thiên lý xích thân vi khách cửu,
Nhất đình hoàng dịp tống lai thu.
(Thu chí)
(Trơ trọi một mình ngoài ngàn dặm, nơi đất
khách đã lâu ngày
Giờ đây một sân đầy lá vàng đưa mùa thu đến)
(Thu đến)
Sương thu lạnh, khí thu hiu hắt, lá thu tiêu điều…Tất cả vẻ nên không gian ảm
đạm thê lương. Nguyễn Du viết về thu với giọng buồn tha thiết.
Giọng buồn u uẩn và dai dẳng trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du còn được thể
hiện qua rất nhiều hình ảnh. Đó có thể là hình ảnh buổi chiều tà chỉ một bóng người
cô đơn đi trên bãi cát:
Bình sa nhân ảnh tại tà dương
(Giang đầu tản bộ II)
(Bóng người trên bãi cát phẳng lúc chiều tà)
(Dạo bước bên sông)
Đó còn cơn gió lạnh lẽo mà mình thi nhân phải hứng chịu:
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân
(Dạ hành)
(Gió lạnh trên con đường xưa dồn cả vào một người)
(Đi trong đêm)
Giọng bi ai không chỉ được thể hiện qua hệ thống hình ảnh thiên nhiên được
nói trên mà còn thể hiện ở việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du. Thơ cổ
không có dấu câu nhưng có thể nhận diện câu thông qua từ ngữ. Trong những câu
cảm thán Nguyễn Du dùng nhiều từ ngữ có chức năng biểu cảm như: thương tâm,
liên, sầu, bi, tư, ưu, hoài, oán…
Từ ngữ biểu lộ tâm trạng được Nguyễn Du sử dụng rất đa dạng, mỗi sắc thái
tình cảm khác nhau có những từ ngữ riêng để diễn đạt. Trong khi miêu tả các bức
113
tranh thiên nhiên, Nguyễn Du cũng thể hiện rất rõ tâm trạng u buồn, cô đơn của bản
thân mình qua những từ ngữ như : bi, sầu, trù trướng, du du, ưu…
Đông bích hàn trùng bi cánh tân
(Thu dạ)
(Vách phía đông tiếng côn trùng lạnh nghe buồn bã xót xa)
(Đêm thu)
Qui hồng bi động thiên hà thủy
(Trệ khách)
(Tiếng kêu bi thương của con chin hồng bay về làm xao
động nước sông Ngân)
(Người khách trọ lâu ngày)
Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
Vãng sư bi thanh trủng
Tân thu đáo bạch đầu
(Thu chí)
(Một mảnh trăng trên sông Hương
Xưa nay gợi bao nhiêu mối sầu
Chuyện cũ bi thương nấm mồ cỏ xanh
Thu mới đến trên đầu tóc bạc
(Thu đến)
Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh
Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh
(Tống nhân)
(Trong đêm khuya cô tịch một mình đối bóng
Nghe mưa dầm đầy giướng không sao chịu nổi)
(Tiễn người đi)
Bi mạc bi hề hành đọa nang
Thảo đầu lộ túc phạm suy nhan
114
(Thủy Liên đạo trung tảo hành)
(Không gì buồn bằng đường đi khó
Đêm ngủ trên sương đầu ngọn cỏ làm mặt mày hốc hác thêm)
(Buổi sớm đi trên đường Thủy Liên)
Chất sầu bi trong thơ góp phần do chính những từ này tạo nên. Chúng là
những từ mang chức năng biểu cảm, diễn tả tâm trạng của con người. Nhưng chúng
không biểu đạt tình cảm nồng nàn, cháy bỏng hay sôi sục, dâng trào của con người,
mà là những tình cảm nằm ẩn sâu bên trong, âm ỉ cháy trong tâm hồn: nỗi đau đời,
là nỗi buồn, nỗi xót xa của thi nhân trước những đau khổ và bất hạnh của cuộc đời.
Bên cạnh những từ ngữ mang chức năng biểu cảm, giọng bi còn được tạo nên
bởi những từ ngữ mang sắc thái buồn bã, ảm đạm và u tối. Hệ thống từ ngữ này
xuất hiện rất nhiều trong các bài thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Du.
Đó là bóng liễu âm u trong đêm xuân:
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
(Xuân dạ)
(Đêm tối đen tìm đâu ra ánh sáng mùa xuân
Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u)
(Đêm xuân)
Là cảnh tuyết rơi mù mịt nơi thôn xóm nhỏ:
Liêm thúy tiêu các tây phong động
Tuyết ám cùng khôn hiểu giác ai
(Thu chí)
(Gió tây lay động bức rèm trên gác nhỏ
Tuyết rơi mịt mù nơi thôn xóm hẻo lánh, tiếng tù và
buổi sớm bi thương)
(Thu sang)
Là cây cỏ xơ xác mỗi độ thu về:
Bạch lộ vi sương thu khí thâm
115
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm
(Thu dạ II)
(Móc trắng thành sương hơi thu lạnh già
Cây cỏ quanh thành bên sông thảy đều tiêu điều)
(Đêm thu II)
Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong
(Ngẫu đề)
(Gió đầy cả phòng, tàu chuối tiêu điều xào xạc)
(Tình cờ làm thơ)
Khi có nỗi ưu tư, sầu bi trong tâm hồn, con người thường thốt lên những lời
cảm thán và than thở. Nhưng một khi những nỗi sầu ấy lên đến tột cùng mà không
thể giải tỏa, con người thường thốt ra nhưng câu hỏi lớn, những câu hỏi không cần
lời đáp mà cũng không ai có thể giải đáp được.
Nguyễn Du rất hay dùng câu hỏi để biểu lộ tình cảm, tâm trạng của mình.
Dường như những từ ngữ bi ai kia chưa đủ làm nhẹ cõi lòng ông. Sử dụng câu hỏi
không cần câu trả lời cũng là yếu tố tạo nên giọng trầm buồn trong thơ Nguyễn Du:
Ông buồn vì mùa xuân không ở với ông;
Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?
(Quỳnh Hải nguyên tiêu)
(Xuân ở Quỳnh Hải từ đâu lại ?)
(Đêm rằm ở Quỳnh Hải)
Tha nhật xuân phong hà xứ lai?
(Ngẫu hứng III)
(Mai mốt gió xuân biết từ nơi nào đến?
Bất tri thanh đế nại nhân hà?
(Tạp ngâm I)
(Không biết chúa xuân sẽ làm được gì người?)
Ông đau buồn vì phải cách xa quê nhà, phải lang thang phiêu bạt:
Chinh hồng ảnh lý gia hà tại
116
(Ngẫu hứng II)
(Trong bóng con chim hồng đang bay xa, nhà ta ở đâu?)
Dường như nỗi niềm của Nguyễn Du quá lớn, chừng đó câu hỏi vẫn chưa đủ.
Kết cấu của bài thơ Đường chia 4 phần đề, thực, luận, kết. Ông sử dụng cả hai câu
kết để đặt câu hỏi thay vì dùng nó để kết thúc vấn đề theo lẽ thường. Hỏi nhưng
cũng là câu trả lời:
Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp
Tất cánh phiêu linh hà xứ qui?
(Tự thán)
(Một nhánh có bồng trước gió tây thổi gấp
Cuối cùng sẽ trôi dạt về đâu?
(Than thân)
Cộng chỉ hoa mai báo tiêu thức
Xuân tằng hà đáo dị hương nhân?
(An Huy đạo trung)
(Cùng nhau chỉ hoa mai báo tin xuân
Nhưng xuân có bao giờ đến với người từ nơi đất khách?)
(Trên đường An Huy)
Những câu hỏi này có tác động rất lớn đến người đọc. Nó làm cho người đọc
cảm thấy hụt hẫng vì ông không kết lại vấn đề nhưng lẽ thường mà họ chờ đợi. Câu
hỏi đó không phải đặt cho riêng ông mà còn cho cả độc giả. Cái giọng bi của tác giả
trong câu thơ đã xâm chiếm toàn bộ cảm giác của con người. Người ta có thể cảm
nhận được giọng đau thương trong những câu hỏi của Nguyễn Du.
Tóm lại, trong thơ Nguyễn Du không có ý vị ung dung siêu thoát của một kẻ
đã rũ sạch chuyện đời. Ông đứng ở tư thế của một người vì quá đau đời mà ngửa
mặt lên nhìn trời thốt lên lời thơ ai oán, hờn giận. Suốt cuộc đời mình, Nguyễn Du
ôm một mối sầu lớn: “Thiên tế trường ưu vị tử tiền” (Trước khi chết vẫn còn lo
chuyện ngàn năm) nên giọng thơ ông tràn đầy chất bi.
117
Bên cạnh giọng trầm buồn, thơ chữ Hán của Nguyễn Du còn có giọng triết lý.
Chất triết lý này xuất phát từ những trăn trở dai dẳng và nhức nhối của thi nhân.
Mỗi hình ảnh, mỗi câu thơ lại gieo vào lòng người đọc bao nỗi xúc động, nghẹn
ngào. Giọng triết lý thể hiện những chiêm nghiệm, suy nghĩ sâu sắc của Nguyễn Du
về con người và cuộc sống. Ông nhận ra sự hữu hạn của kiếp người trước vòng tuần
hoàn vô tận của vũ trụ; nhận thấy cuộc đời mông lung, vô định không có cái gì là
chắc chắn. Điều này biểu hiện thành một nỗi niềm u uẩn không tên mà ông cố đè
nén.
Trong 3 tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du sử dụng rất nhiều hình ảnh để thể hiện
cái nhìn của ông về cuộc sống. Ông coi cuộc đời là phù sinh (cuộc sống tạm bợ),
phù thế (cuộc đời thay đổi), phù vân (mây nổi), phù vinh (vinh quang trống rỗng),
phù danh (tiếng tăm hảo huyền), phù bình (cuộc sống như bèo trôi)...
Nguyễn Du không chỉ có cái nhìn chung chung về cuộc đời mà đã khái quát
thành những quan niệm và nâng lên thành triết lý. Cảm nhận về cuộc đời của
Nguyễn Du mang màu sắc ảm đạm, xám tối. Ông không chỉ quan tâm đến bản thân
mà còn trải lòng ra với những mảnh đời đau khổ đang kêu gào. Nguyễn Du ý thức
về nỗi khổ của con người. Thi nhân cảm nhận cả không gian và thời gian đều truy
bức con người. Giọng điệu thơ xót xa khi nhà thơ đồng nhất đời người với “khoảnh
khắc”, “thoáng chốc”.
Cuộc sống đối với ông là không chắc chắn. Cảm thức bãi bể nương dâu xuất
hiện rất nhiều trong thơ ông:
Phù thế kỉ kinh tang lỗ biến
(Tái thứ nguyên vận)
(Cuộc đời đã trải qua bao phen ruộng dâu biến thành
ruộng muối)
(Họa lại bài nguyên vận)
Thông qua rất nhiều hình thiên nhiên, Nguyễn Du thể hiện cái nhìn của mình
về cuộc đời. Hình ảnh mây xuất hiện dày đặc trong thơ chữ Hán. Mây là hiện thân
của nỗi “sầu vũ trụ”, nỗi “sầu vạn thuở”, khiến con người nhức nhối và tê tái.
118
Nhưng cũng có “mây” để ám chỉ sự tạm bợ, dễ đổi thay và dễ tan biến. Nguyễn Du
ví cuộc đời này giống như đám mây nổi trên trời:
Tha hương thân thế thác phù vân
(Thu nhật ký hứng)
(Thân thế nơi đất khách gửi gắm đám mây nổi)
(Ngày thu gởi hứng)
Đôi khi ông ví cuộc đời giống như cánh bèo mặt nước;
Lạc ngạch phiêu bình thốt tự mưu
(Hoàng hà trở lao)
(Cành rụng béo trôi không tự mưu toan được gì)
(Bị nước lũ sông Hoàng Hà làm nghẽn đường)
Hay như chiếc lá giữa dòng:
Thiên địa biên chu phù tự diệp
(Chu hành tức sự)
(Chiếc thuyền con trôi nổi như chiếc lá trong trời đất)
Bởi vậy, ông “xem việc đời như mây nổi trong đáy mắt”. Tất cả những danh
lợi, giàu sang, quyền hành trên đời sẽ tiêu tan. Mọi thứ chỉ là tạm bợ, ngắn ngủi:
Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi
(Đại tác cửu thú tư qui I)
(Danh lợi như đám mây buổi sáng, thay đổi ngay trước mắt)
(Làm thay người đi thú lâu năm nhớ nhà)
Hay:
Thế gian phù quí đẳng phù vân
(Đồ trung ngẫu hứng)
(Giàu sang trên đời chỉ là mây nổi)
(Ngẫu hứng giữa đường)
Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh thiên nhiên mang tính chất triết lý
không phải để lí luận mà để thể hiện cái nhìn của ông về hiện thực. Nguyễn Du
119
muốn nắm khám phá và nắm bắt được qui luật của đất trời cũng như qui luật của
cuộc đời.
Giọng điệu nghệ thuật là một trong những yếu tố của hình thức tác phẩm. Nó
bộc lộ cái chủ quan của nhà thơ trong các sáng tác. Giọng điệu nghệ thuật là sản
phẩm tinh diệu của sự kết hợp thế giới quan, quan niệm thẫm mỹ và tình cảm của
tác giả. Giọng điệu là nơi nhận biết tài năng của tác giả và giá trị của tác phẩm.
Giọng bi và giọng triết lý của Nguyễn Du khi miêu tả các bức tranh thiên nhiên
được hình thành từ những yếu tố cơ bản là hệ thống hình ảnh, từ ngữ và hệ thống
câu hỏi.
3.3 . Bút pháp
3.3.1 Miêu tả chân thực
Các nhà thơ trung đại chưa xem thiên nhiên là một khách thể độc lập mà đến
với cảnh vật chủ yếu bằng cách hòa mình vào trong cảnh. Tìm về thiên nhiên, thi
nhân đã thiết lập mối quan hệ vô cùng thân thiết và cởi mở. Tuy nhiên cũng có
những lúc, con người đã tách mình ra khỏi thiên nhiên, xem nó như một đối tượng
khách quan để khám phá. Từ đó, bên cạnh thiên nhiên mang tính ước lệ, theo những
khuôn mẫu có sẵn vẫn còn có những tác giả nhìn cảnh vật một cách khách quan,
thật như nó vốn có - Nguyễn Du là một tác giả như thế. Dưới cái nhìn của ông,
thiên nhiên hiện lên rất chân thực và sinh động, 3 tập thơ chữ Hán là một minh
chứng.
Riêng tả cảnh thì Nguyễn Du cũng theo truyền thống có sẵn trong văn học
Trung Quốc cũng như trong văn học Việt Nam. Tuy vẫn có những chỗ mang tính
chất công thức, ước lệ và tượng trưng, nhưng các yếu tố thực của đời sống dần được
nhà thơ chú ý khai thác.
Như vậy, ngoài việc tuân thủ những quy phạm vốn có của nền văn học trung
đại, Nguyễn Du cũng miêu tả chân thực về thiên nhiên – đây là công cụ đắc lực để
vẽ nên những bức tranh thiên nhiên vô cùng khách quan.
Những hình ảnh, màu sắc và âm thanh mà Nguyễn Du đưa vào bức tranh của
mình đều xuất phát từ sự quan sát nhạy cảm, tinh tế chứ không hề dựa trên những
120
nguyên tắc cổ điển trong việc miêu tả thiên nhiên và con người trong đó. Chẳng
hạn, âm thanh náo nức của hội đua thuyền, tiếng ếch nhái kêu trong đêm vắng, tiếng
gió thổi xào xạt, cả tiếng động bởi những chú chim bay qua cũng được thi nhân tái
hiện lại rất sinh động. Không những thế, thiên nhiên dưới con mắt của Nguyễn Du
hiện lên vô cùng dữ dội và nguy hiểm, rừng núi thâm sâu ẩn trong đó là sự rình rập
của thú dữ, sông nước thì hiểm trở, thác lũ cuồn cuộn vồ lên như muốn nhấn chìm
tất cả. Hiện thực trần trụi của thiên nhiên đã được Nguyễn Du khai thác một cách
triệt để. Từ đó, ta thấy bức tranh thiên nhiên mà Nguyễn Du miêu tả không chỉ đẹp
mà còn rất thực:
Càn khôn dư thảo ốc,
Phong vũ túc cô chu.
Thu dạ ngư long trập,
Thâm sơn mi lộc du.
(Biệt Nguyễn đại lang)
(Trong trời đất còn một nhà tranh
Giữa gió mưa đỗ con thuyền đơn côi
Đêm thu cá rồng ẩn nấp
Núi sâu hươu nai dạo chơi)
(Từ biệt anh Nguyễn)
Nguyễn Du đưa vào bức tranh tất cả những gì ông đã chứng kiến, đã thật sự
mắt thấy tai nghe. Nhà thơ đã thâu tóm toàn bộ cảnh vật xung quanh trong một cuộc
chia tay giữa ông và anh vợ của mình. Một mái nhà tranh thấp thoáng giữa đất trời
bao la, trên dòng sông hòa cùng gió bụi là chiếc thuyền nhỏ đơn côi. Hình ảnh cá
rồng trong đêm thu hay đàn hươu nai dạo trong núi sâu là những hình ảnh vô cùng
thực tế, do nhà thơ quan sát và ghi lại không hề bị ảnh hưởng bởi bút pháp ước lệ,
tượng trưng.
Không gian vào một buổi chiều trên sông Thanh Quyết được Nguyễn Du vẽ
nên chân thực và sinh động:
Phù kiều tận xứ xuất bình điền
121
Lịch lịch thanh sơn tại nhãn tiền
Cổ kính tiều qui minh nguyệt đảm,
Triều môn ngư tống tịch dương thuyền
Mang mang viễn thủy tam xuân thụ,
Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên.
(Thanh Quyết giang vãn diếu)
(Chỗ cuối chiếc cầu là đồng ruộng hiện ra,
Trước mắt thấy rõ từng đợt núi xanh.
Trên lối cũ tiều phu gánh củi trở về dưới trăng,
Nhà chài đẩy thuyền ra lúc thủy triều dâng buổi xế chiều,
Mờ mịt dòng sông xa lẫn trong cây cối mùa xuân,
Nhà lác đác giữa khói sóng hai bờ,)
(Buổi chiều trên sông Thanh Quyết)
Nguyễn Du có khả năng bao quát cảnh vật khá tốt, chỉ bấy nhiêu câu thơ mà
bao nhiêu hình ảnh của cuộc sống hiện lên với nhiều hình nhiều vẻ khác nhau. Cuối
chiếc cầu bắc qua sông là đồng ruộng, hướng mắt về hướng xa xa trước mặt là từng
dãy núi xanh hiện lên trong trời chiều. Trên con đường mòn là hình ảnh con người
trở về sau một ngày làm việc, thấp thoáng trên bầu trời trăng đã bắt đầu lên, lúc bác
tiều phu trở về bên bữa cơm chiều cùng gia đình cũng là lúc ngư phủ phải ra khơi,
dòng sông không còn được vẻ tươi sáng mà mờ mịt dần bởi khói chiều đang
buông… tất cả những hình ảnh đó bước vào thơ hết sức tự nhiên và dung dị.
Nguyễn Du không hề cầu kì, không trau chuốt cho bức tranh, nó thực như cuộc đời
thường vậy.
Nguyễn Du đã vẽ trong thơ chữ Hán nhiều bức tranh rất thực và thuần túy là
những bức họa xinh đẹp, không ước lệ, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ
có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được nhìn bằng cái nhìn khách quan và được viết
với lối văn rất thật. Chỉ cần một vài nét phác họa thiên nhiên hiện lên thật hài hòa
và trung thực. Hình ảnh vầng trăng, ngọn gió, đám cỏ, mùa thu hay mùa xuân…
trong thơ Nguyễn Du ngoài những lúc làm nền để thi nhân bộc lộ tâm tư, tình cảm
122
của mình, tức là đôi khi miêu tả chúng có mang dấu ấn chủ quan của tác giả thì
nhiều lúc nó cũng rất thực.
Đó có thể là không gian mênh mông, bát ngát của đất trời vào lúc chính thu,
vạn vật cũng hòa chung vào sự đổi mới, trời thu lồng lộng, trúc vươn cao thâu góp
gió, sắc vàng đã tràn về trên khắp lối đi:
Mạc mạc thu quang bát nguyệt thâm,
Mang mang thiên khí bán tình âm.
Thu phong cao trúc minh thiên lại,
Linh vũ hoàng hoa bố địa câm.
(Tạp ngâm III)
(Tháng tám lặng lẽ ánh thu già,
Khí trời mêng mông nửa tạnh ráo nửa âm u.
Trúc cao đón gió, sáo trời thổi,
Hoa vàng được mưa, như rắc vàng trên mặt đất)
Đôi khi cùng nói về mùa thu nhưng không phải miêu tả về cái đẹp, độ tươi
sáng mỗi khi thu về mà Nguyễn Du còn nhận ra cả vẻ thu hiu hắt, tư lự, cô quạnh.
Cảnh vật đôi khi mang dáng điệu sầu mộng nhưng không phải bởi tâm trạng người
ngắm mà đó chính là cảnh thực, rất thu:
Phồn tinh lịch lịch độ như ngân,
Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
Vạn lý thu thanh thôi lạc điệp,
Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân.
(Thu dạ)
(Sao nhiều rõ mồn một, móc trắng như bạc,
Vách phía đông tiếng côn trùng mùa lạnh nghe buồn bã xót xa.
Muôn dặm tiếng thu dục lá rụng,
Một trời màu lạnh quét sạch đám mây nổi,)
(Đêm thu)
123
Ngoài ra, còn rất nhiều hình ảnh thiên nhiên được nhìn dưới con mắt khách
quan, rất thực của thi nhân. Đó có thể là vầng trăng tròn trên đỉnh núi:
Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh
(Ký Hữu)
(Một vầng trăng tròn trên núi Hồng)
(Gởi bạn)
Cũng có thể là một ánh trăng tà trong đêm:
Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên
(Dạ tọa)
(Trăng tà không sáng sao đầy trời)
(Đêm ngồi)
Nguyễn Du không chỉ tả thực những cảnh đẹp của làng quê Việt Nam mà
còn miêu tả rất cụ thể những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội của đất nước
Trung Hoa, khiến cuộc sống con người luôn nơm nớp trong nỗi sợ hãi, kinh hoàng.
Những hình ảnh thiên nhiên kì vĩ, núi cao hiểm trở, sông sâu lắm thác nhiều
ghềnh, những con đường khe đá cheo leo, con đường dài đầy bụi đỏ… là những
hình ảnh rất thực, phổ biến trong các bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, đặc biệt là
những bài thơ trong Bắc hành tạp lục – thơ đi sứ của Nguyễn Du.
Núi tiếp núi, sông liền sông cứ hiện lên đậm nét trong, con người hiện lên
thật nhỏ bé giữa cả vùng không gian rộng lớn, hiểm trở:
Tây Việt sơn xuyên đa hiểm hi
Hành hành tòng thử hướng thiên nhai
Băng nhai quái thạch nộ tương hướng
Thủy điểu sa cầm hiệp bất phi
(Chu hành tức sự)
(Núi sông miền Tây Việt nhiều hiểm trở
Từ đây cứ đi, đi mãi về chân trời
Vách núi lở, những hòn đá kì quái giận dữ nhìn nhau
Chim nước, chim bãi dạn người không bay đi)
124
Đây thực sự là những điều Nguyễn Du tai nghe, mắt thấy chứ không phải thi
nhân vẽ lên bằng trí tưởng tượng hay hư cấu nghệ thuật. Ở một bài thơ khác thi
nhân lại nhận ra bộ mặt hung thần của tự nhiên. Sự thịnh nộ của thủy thần, thêm
vào đó là địa hình hiểm trở của cả sông núi tạo nên một bức tranh sống động và
hùng vĩ, khiến người đọc cũng có cảm giác sợ hãi y như là mình đang đứng trước
khung cảnh đó vậy. Hình ảnh con thuyền lọt tỏm giữa muôn rặng núi và đang lướt
nhanh trên sông đang mùa lũ cứ ám ảnh người đọc:
Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn,
Vạn sơn trung đoạn nhất sà bôn.
Phù vân sạ tán thạch dung sấu,
Tân lạo sơ sinh giang thủy hồn.
(Minh Giang chu phát)
(Bắt đầu ra cửa sông tiếng tiêu tiếng trống kêu ầm ĩ,
Một con thuyền lướt nhanh giữa muôn rặng núi.
Mây nổi chợt tan dáng núi gầy đi.
Lụt mới đổ về nước sông đục ngầu)
(Thuyền ra đi trên sông Minh Giang)
Trong thơ chữ Hán, thiên nhiên nhiều khi được Nguyễn Du miêu tả một cách
cụ thể và chân thật. Dưới con mắt của ông, thiên nhiên hiện lên thật khách quan. Đó
có thể là những cảnh vật gần gũi thân quen: một ngọn gió, một buổi chiều, một đám
cỏ; là âm thanh xào xạc của tàu chuối gió đưa, tiếng ếch nhái nỉ non trong đêm
vắng; là màu đỏ thắm của hoa lựu trên núi, màu vàng rực của hoa cúc trước sân,
màu xanh hoang dại của rừng núi bạt ngàn... Nhưng có lúc thiên nhiên hiện lên với
bộ mặt hung tợn và nguy hiểm; khắc nghiệt và dữ dội khiến lòng người lo lắng và
sợ hãi. Như vậy, thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du tồn tại một cách độc
lập, thật như những gì nó vốn có.
Tuy nhiên, nói đến thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du mà chỉ thừa
nhận phương diện khách quan như trên e rằng chưa trọn vẹn. Thơ là tiếng nói tâm
hồn của thi sĩ, là những trang nhật kí tâm trạng của thi nhân. Đặc biệt đối với
125
Nguyễn Du – một “sầu nhân” giữa cuộc đời - thì điều này lại càng đúng hơn bao
giờ hết. Trong khi miêu tả thiên nhiên, ngoài yếu tố khách quan thì dấu ấn chủ quan
của tác giả là không thể phủ nhận. Ngoài việc sử dụng phương thức miêu tả chân
thực thì tả cảnh ngụ tình cũng là một đặc trưng cần được khai thác khi nghiên cứu
nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
3.3.2. Tả cảnh ngụ tình
Tả cảnh ngụ tình vốn là bút pháp nghệ thuật hết sức quen thuộc trong văn
học trung đại Trung Quốc và Việt Nam. Đến nay không ai có thể trả lời được rằng
bút pháp này được hình thành từ bao giờ nhưng ta thấy rõ biểu hiện của nó ở chỗ nó
thường dùng những hình ảnh, hiện tượng thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của chủ
thể cảm nhận, quan sát những hình ảnh, hiện tượng ấy và bất kì điều gì, khi qua
lăng kính cảm nhận của mỗi con người thì đều mang dấu ấn chủ quan của riêng họ.
Trong thơ ca trung đại Trung Quốc nói chung và thơ Đường nói riêng, bút
pháp nghệ thuật này được sử dụng hết sức phổ biến, có lẽ là do ảnh hưởng của quan
niệm triết học “Thiên nhân nhất thể” rất phổ biến trong thời trung đại. Và tác dụng
lớn nhất của nó mà ai cũng có thể cảm nhận được đó chính là làm cho cảnh và tình
trong mỗi bài thơ hòa quyện với nhau, làm cho mỗi bài thơ có hồn, tinh tế và hàm
súc hơn. Cũng có lẽ vì vậy đọc thơ Đường buộc người đọc phải đồng sáng tạo cùng
tác giả để hiểu rõ những giá trị của mỗi bài thơ.
Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng đậm nét của văn hóa phương Bắc. Đặc
biệt trong lĩnh vực văn chương. Bản thân Nguyễn Du sinh ra và trưởng thành cùng
với nền văn học trung đại, những nguyên tắc, chuẩn mực về sáng tác văn chương
được Nguyễn Du tuân thủ và vận dụng vào trong 3 tập thơ chữ Hán một cách linh
hoạt. Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du rất đa dạng, tài tình và phong phú. Chính
vì điều đó mà giá trị các tác phẩm của Nguyễn Du được nâng lên tầm cao mới.
Truyện Kiều của ông là một minh chứng hùng hồn nhất. Từ lâu, nó đã trở thành như
một quyển thơ phổ thông của nước ta, từ bậc cao sang quyền quý, đến bậc văn
nhân, trí thức cho đến tầng lớp bình dân ít học cũng biết đến thậm chí rất thích.
Tóm lại, Truyện Kiều có vị trí vững chắc như ngày hôm nay là bởi nó mang một giá
126
trị toàn vẹn về mọi mặt: nội dung, tư tưởng, triết lý và cả nghệ thuật tả cảnh rất điêu
luyện của Nguyễn Du.
Không chỉ riêng Truyện Kiều, thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng để lại ấn tượng
sâu đậm trong lòng người đọc bởi nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của cụ Nguyễn.
Đặc biệt là lối tả cảnh ngụ tình, một bút pháp chủ yếu được Nguyễn Du sử dụng
nhằm để bộc lộ nỗi lòng của mình.
Được thể hiện mình trong môi trường thiên nhiên là một nhu cầu của các nhà
nho thời trung đại. Tình yêu cái đẹp thuần khiết của cảnh vật vốn là tính sẵn có của
nghệ sĩ. Chính điều đó đã góp phần đưa các nhà thơ trung đại về với thiên nhiên
một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, mỗi thi nhân đến với thiên nhiên bằng nhiều lí do
khác nhau. Nhưng tựu trung lại, các nhà thơ trung đại đến với thiên nhiên và xem
nó như một đối tượng để chiêm ngưỡng, ngâm vịnh, là nơi để di dưỡng tinh thần, ở
nơi đó tâm hồn họ trở nên thanh thoát và thoải mái hơn. Nguyễn Du không tìm thấy
được điều đó khi trở về với tự nhiên. Đứng trước thiên nhiên, Nguyễn Du không
mấy khi tìm được cảm giác bình yên như thế, thiên nhiên đối với Nguyễn Du chỉ
như là một môi trường mà ông muốn gởi gắm những tâm sự, những trăn trở của bản
thân mình. Có người nhận xét, trong thơ chữ Hán Nguyễn Du bút pháp tả cảnh ngụ
tình được sử dụng tối đa là vì vậy.
Không phải Nguyễn Du không nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng chẳng
phải Nguyễn Du từ chối hòa nhập vào thiên nhiên. Có lẽ cuộc đời Nguyễn Du quá
nhiều đau khổ, không chỉ là những bất hạnh của riêng bản thân mình mà là nỗi đau
của nhân tình thế thái, sự biến đổi mạnh mẽ của sơn hà… tất cả những điều đó cứ
như những nhát dao cứa rát tâm hồn vốn đa sầu, đa cảm của thi nhân. Bởi thế, ông
không có những phút giây thanh thản đề ngắm nhìn vẻ đẹp của thiên nhiên, ông
không tìm thấy được ánh sáng niềm vui trong cuộc đời cũng là điều dễ cảm thông.
Với Nguyễn Du, thiên nhiên không phải là đối tượng chỉ để ngắm nhìn,
khám phá mà trên thực tế ông xem đó là môi trường để suy tư, để trăn trở bộc lộ
những suy nghĩ, day dứt của bản thân. Bút pháp tả cảnh ngụ tình được Nguyễn Du
127
vận dụng một cách triệt để trong thơ, đây là nghệ thuật đã trở thành một nét phổ
biến và độc đáo trong thơ cổ.
Đây là lối tả cảnh mang tính chủ quan, một lối miêu tả đặc trưng trong các
tác phẩm của Nguyễn Du. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của
con người. Nói một cách khác, Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái
cảm xúc của người chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh
hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Nguyễn Du cũng đã
thú nhận lối tả cảnh chủ quan của mình :
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
(Truyện Kiều)
Trong 3 tập thơ chữ Hán, rất nhiều lần sự xuất hiện của thiên nhiên chính là
hồi quang tâm sự của thi nhân. Nguyễn Du vốn là một con người mang nhiều ưu tư
với thời thế, cuộc đời, sâu thẳm trong tâm hồn thi nhân ngổn ngang những đắng cay
tủi nhục của đời người. Xuất thân trong một gia đình đức cao vọng trọng đương
thời, tuổi thơ đẹp đẽ, cao sang không kéo dài được bao lâu, bất hạnh đã ập đến với
Nguyễn Du; 13 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ vào người anh trai cùng cha
khác mẹ, năm 19 tuổi đỗ tú tài cũng là lúc gia đình anh trai bị bọn kiêu binh phá
sạch. Năm 21 tuổi làm một chức quan thấp, làm quan chưa được 2 năm thì triều
đình Lê – Trịnh sụp đổ. Cuộc đời 10 năm gió bụi của nhà thơ bắt đầu từ đó, cuộc
sống tha hương ,lầm than, đói rách, bệnh tật…cứ bám riết lấy nhà thơ. Đến lúc ra
làm quan cho triều Nguyễn những tưởng cuộc đời ông từ đây sẽ có chút gì tươi sáng
nhưng thói nhiễu nhương, đen bạc chốn quan trường làm ông không được phút giây
nào thanh thản… cuộc đời vốn đã đầy rẫy khổ đau, lại thêm một tâm hồn vốn luôn
nhạy cảm trước mọi nỗi đau thời cuộc khiến trái tim ông lúc nào cũng chất chứa sầu
bi. Với một tâm hồn tràn ngập những tâm sự như thế với một ánh mắt chất chứa bao
nỗi niềm như thế thử hỏi nhìn cảnh vật nào mà không ẩn tình vào trong đó.
Trong rất nhiều bài thơ, cảnh vật chỉ xuất hiện với vai trò làm nền cho những
tâm sự của tác giả. Nhiều bức tranh thi nhân vẽ nên hoàn toàn bằng những nét buồn
128
bã đến thê lương. Chắc chắn rằng, cảnh vật cũng có nhiều khi héo hắt, nhạt nhòa
nhưng không đến mức não nề đến thế này:
Cô thành nhật mộ khởi âm vân,
Thanh thảo man man đáo hải tần.
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt,
Thù phương độc thác hữu quan thân.
(Ngẫu đắc)
(Phương xa một mình gửi cái thân làm quan,
Chiều tà trên thành lẻ loi mây đen nổi.
Cỏ non xanh rờn lan tận bờ bể,
Trên đồng ruộng khắp nơi vùi xương vô chủ)
Bức tranh được bao phủ bởi một màu đen tối, ảm đạm đến ghê người. Chiều
về đã cho thấy không gian cô quạnh, nhà thơ đưa mắt lên trời chỉ thấy một màu đen
của mây, hướng cái nhìn xuống mặt đất lại bắt gặp màu xanh rờn xâm chiếm cả một
vùng. Nhìn về phía cánh đồng thì lại càng làm cho con người ta rùng mình bởi
những nấm mồ vô chủ lạnh lẽo đến nao lòng. Cảnh ở đây được nhìn qua lăng kính
chủ quan của một kẻ làm quan xa xứ, bị bề dưới lên mặt coi khinh. Chỉ còn mỗi văn
chương là người bạn tâm giao từ thuở thiếu thời mà khi về già cũng không còn
được mối khăng khít để thi nhân trút bầu tâm sự, điều này khiến thi nhân càng trở
nên trống vắng, bơ vơ, tâm hồn càng cô đơn, sầu tủi bảo sao cảnh vật không mang
nét buồn:
Sự lai đồ lệ gian kiêu ngã,
Lão khứ văn chương diệc tị nhân.
(Khi gặp việc bọn đầy tớ, lính hầu đều lên mặt với ta,
Già đến rồi, văn chương cũng xa lánh người)
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du thường gắn liền với mùa. Xuân, hạ, thu,
đông lần lượt thay thế nhau kéo theo đó là tuổi già tóc bạc, khiến con người nhạy
cảm trước thời gian. Hai mùa xuất hiện nhiều nhất trong thơ Nguyễn Du là mùa
xuân và mùa thu. Chúng lần lượt đi vào trang thơ với những khung cảnh và nỗi
129
niềm riêng. Đặc biệt là khi đất trời vào xuân, lòng thi nhân lại lâng lâng một nỗi
niềm khó tả.
Xuân trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du không lấy gì tươi tắn, rực rỡ. Từ cổ
chí kim xuân bao giờ cũng đem đến cho con người cảm xúc dạt dào hay niềm vui
bất tận. Xuân về trăm hoa đua nở, nắng xuân ấm áp. Nhưng trong thơ Nguyễn Du,
nắng xuân rất ít viếng thăm. Nếu như mùa thu trong thơ ông thường đi liền với tuổi
già, tóc bạc thì mùa xuân lại gắn liền với nỗi buồn lưu lạc và bệnh tật. Mùa xuân là
mùa của sum họp và đoàn viên. Còn Nguyễn Du thì phải chịu cảnh xa nhà, anh em
li tán, tấm thân như ngọn cỏ bồng lìa gốc, mặc gió cuốn đi, nỗi buồn li hương cứ ám
ảnh mãi tâm trí nhà thơ. Không vui được cùng xuân đã đành, Nguyễn Du bỏ mặc
cho mùa xuân hờ hững trôi ngang: Bế môn bất kí xuân thâm hiểm (Đóng cửa chẳng
phường xuân sớm hay muộn). Cũng có lúc ông đón nhận mùa xuân nhưng tâm
trạng buồn thì nhìn cảnh chẳng bao giờ đẹp nên xuân của Nguyễn Du chỉ toàn là
xuân đêm, xuân muộn, xuân lữ thứ… cảnh xuân cũng u uất như lòng người. Bức
tranh xuân có lúc cũng lộng lẫy với cả một trời hoa đào nhưng sao ta cảm thấy tiêu
điều, thê lương đến vậy :
Đào hoa đào diệp lạc phân phân
Môn yểm tà phi nhất viện bần
(U cư I)
(Hoa đào lá đào rụng bời bời
Cửa che xiêu vẹo một gian nhà nghèo)
(Ở nơi u tịch)
Ngày xuân đã vậy, đêm xuân lại càng não nề hơn:
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
(Xuân dạ)
(Đêm đen tối tìm đâu ra ánh sáng màu xuân
Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u)
(Đêm xuân)
130
Mùa xuân của đất trời chắc chắn không khi nào buồn đến thế. Nhưng xuân
trong thơ Nguyễn Du được khúc xạ qua tâm hồn thi nhân, một con người ôm cả
“khối sầu”, loay hoay mãi vẫn không tìm được lối đi cho mình thì lấy đâu ra niềm
vui mà bảo xuân phơi phới.
Tình trong thơ Nguyễn Du không chỉ bộc lộ khi thu về, xuân đến mà còn
được gởi gắm theo vầng trăng, gửi vào cơn gió, gửi cả vào đám mây bồng bềnh trên
cao.
Nguyễn Du đã từng bộc bạch: “Nhất sinh u tứ vị tằng khai” (Suốt đời ôm
mối sầu chưa từng gỡ ra được). Cho đến hết cuộc đời, những ưu tư, trăn trở ấy
Nguyễn Du vẫn chưa thể dứt ra được. Bản thân thi nhân luôn mang trong mình một
nỗi buồn cố hữu nên ta cũng không thể phân định rạch ròi rằng cảnh vật khiến
người buồn hay chính con người đã thổi nỗi buồn vào cảnh, nhưng có một điều chắc
chắn rằng có rất nhiều lúc người và cảnh đã hòa hợp với nhau. Chỉ có điều sự hòa
hợp ấy không có tiếng cười mãn nguyện, không có được phút giây trùng phùng
hạnh phúc mà chỉ là sự gặp gỡ nhau trong một khúc ca buồn, một điệu nhạc buồn
của cả người và cảnh. Không phải Nguyễn Du không yêu cảnh vật, mà có lẽ đến
thời của ông, cuộc đời nhiều đau khổ, không chỉ là nỗi đắng cay của bản thân mà
còn “những điều trông thấy” như những vết dao cắt cứa vào tâm hồn thi nhân. Vì
thế, Nguyễn Du không có được những giây phút thảnh thơi để có thể ngắm được
cảnh đẹp của thiên nhiên cho đúng nghĩa với thú vui tao nhã này.
Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du phong phú và độc đáo. Nó có sự
kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Bên cạnh việc đưa những hình ảnh mang tính
ước lệ, tượng trưng để thể hiện những suy nghĩ, quan niệm của mình. Nguyễn Du
đã sử dụng chất liệu đời thường đưa vào bức tranh là một bước kế thừa và tiếp bước
những nhà thơ trước. Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du như một bức tranh
thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời, một ánh trăng, một cành liễu, một dòng
nước hay một áng mây hoàng hôn… Cách lựa chọn hình ảnh, từ ngữ và câu thơ của
Nguyễn Du tạo nên giọng điệu đặc sắc, lôi cuốn tâm hồn người đọc như để cùng
chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất đã ban
131
cho cảnh thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của
Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ. Phương thức miêu tả thiên nhiên chân
thực và tả cảnh ngụ tình cũng là một thành công của Nguyễn Du trong 3 tập thơ chữ
Hán, giúp người đọc nhìn nhận, khám phá được tài năng, suy nghĩ và tình cảm của
thi nhân.
132
KẾT LUẬN
Lịch sử văn học dân tộc tự hào vì có những nhà thơ tài hoa. Nguyễn Du cũng
là một trong số đó. Người ta biết đến Nguyễn Du bởi kiệt tác Truyện Kiều là điều
không thể phủ nhận. Tuy nhiên, thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng thật sự là một
thành công xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông. Điều này Nguyễn Lộc cũng
đã khẳng định : “Truyện Kiều là diễn âm, lỡ tay mà thành kiệt tác, còn thơ chữ Hán
mới đích là sáng tác, nên xem nó là phát ngôn viên chính thức của Nguyễn Du”.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã thể hiện gần như trọn vẹn tâm tình, suy nghĩ của
nhà thơ trong suốt cả một chặng đường dài, trải qua bao biến cố của bản thân cũng
như thời cuộc. Đó là cuốn nhật ký tâm trạng mà thế hệ hậu sinh qua đó có thể hiểu
cụ thể hơn, sâu sắc hơn về Nguyễn Du, về những gì đã làm nên một nhà thơ lớn,
một người nghệ sĩ vĩ đại của mọi thời đại. Thành công trong thơ chữ Hán được thể
hiện qua nhiều phương diện khác nhau, thiên nhiên cũng là một yếu tố đặc sắc được
nhiều người quan tâm. Thông qua những bức tranh thiên nhiên giúp chúng ta hiểu
thêm về tài năng cũng như đời sống tâm hồn Nguyễn Du.
Nguyễn Du đã dành cho thiên nhiên một vị trí đặc biệt. Thiên nhiên trong con
mắt của Nguyễn Du hiện lên vô cùng sinh động và chân thực. Cảnh vật gần gũi,
quen thuộc của cuộc sống có mặt trên khắp các trang thơ, Mặc dù, thiên nhiên hiện
lên với những gam màu hết sức nhẹ nhàng, tĩnh lặng nhưng có một sức hút lạ kì, lôi
cuốn sự chú ý của người đọc. Thiên nhiên trong thơ chữ Hán không phải chỉ là
những nét chấm phá mà hiện rõ như muốn chứng minh nó đang tồn tại giữa cõi đời.
Đó là những hình ảnh khách quan của thế giới hiện thực, không vì tâm trạng mà
Nguyễn Du nhìn nó khác đi. Ông nhận ra cả vẻ đẹp dịu dàng, tươi xinh cũng như sự
hung dữ, táo tợn của thiên nhiên. Đây là điều đáng ghi nhận trong bút pháp miêu tả
thiên nhiên của Nguyễn Du.
Thơ Nguyễn Du viết về thiên nhiên đã bộc lộ tình yêu chân thành, niềm say
mê tha thiết với cảnh vật xung quanh, đồng thời qua đó cũng thể hiện năng lực cảm
nhận vô cùng tinh tế của thi nhân. Nguyễn Du đã có những tiếp biến nhất định trong
vấn đề cảm nhận và miêu tả thiên nhiên so với các nhà thơ trung đại trước đó. Các
133
bậc tiền bối quan niệm thiên nhiên là môi trường để di dưỡng tinh thần, nên cảnh
vật hiện lên trong thơ thuần hậu, khoáng đạt và hiền hòa. Riêng với Nguyễn Du,
ngoài điều đó ra, thiên nhiên còn là môi trường để suy tư, vì thế một mảng thiên
nhiên hiện lên với dáng vẻ buồn bã, chật hẹp, u tịch. Có thể, cảnh thật không phải
lúc nào cũng buồn đến vậy nhưng dưới con mắt của một con người nặng trĩu tâm sự
thì điều đó cũng không có gì khó hiểu. Bút pháp tả cảnh ngụ tình cũng được
Nguyễn Du khai thác tối đa.
Xuất phát từ quan điểm “thiên nhân nhất hợp”, “thiên nhân tương cảm”, các
nhà thơ các nhà thơ tìm về với thiên nhiên một cách trọn vẹn bằng cách hòa mình
vào cảnh, họ thiết lập mốt quan hệ vô cùng khăng khít, tìm được niềm vui, sự động
viên, chiều chuộng từ thiên nhiên. Ở Nguyễn Du, không phải vậy. Ông tách mình ra
khỏi thiên nhiên và xem nó như một đối tượng để khám phá, để giải bày tâm trạng.
Nhưng rồi ông nhận ra thiên nhiên nhiều khi vô tâm, thờ ơ với con người, quay lưng
trước nỗi đau của con người, không tương giao với con người. Người thì buồn mà
cỏ vẫn xanh, người thì tiêu điều mà xuân vẫn cứ tươi đẹp. Trong cuộc mưu sinh đầy
vất vả, khổ đau, nhiều khi con người cần sự vỗ về, cảm thông nhưng thiên nhiên
nào đáp ứng. Xuân đến với ai kia chứ không hề đến với kẻ tha hương, người đã
buồn thương mà bóng chiều, mây đen cứ giăng mắc khắp lối khiến lòng người càng
não nề… Thiên nhiên với Nguyễn Du là vậy, lạnh lùng và tàn nhẫn. Cả 2 bao giờ
cũng song hành nhưng không bao giờ hòa hợp. Nó hiển hiện rõ trước mắt con người
nhưng không phải để xoa dịu nỗi buồn; không lắng nghe và chia sẻ mà lúc nào cũng
vô tình trước nỗi đau của thi nhân. Đây là nét khác biệt của Nguyễn Du với các nhà
thơ trước và sau ông.
Nguyễn Du đã có những thành công nhất định trong việc miêu tả thiên nhiên
Thơ chữ Hán. Qua đó, chúng ta có thể hiểu thêm về tài năng và thế giới nội tâm
phong phú, phức tạp của thi nhân. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du là
sự kết hợp giữa việc lựa chọn chất liệu, hình ảnh; giọng điệu; phương thức miêu tả
chân thực kết hợp với tả cảnh ngụ tình đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đặc sắc
không lẫn lộn với bất cứ ai.
134
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Sĩ Cẩn (1984), Mấy vấn đề dạy văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục.
2. Nguyễn Huệ Chi (1983), Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời kì cổ - cận đại, Nxb
Tác phẩm mới.
3. Trương Chính, Lê Thước (1965), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học, Hà
Nội.
4. Trương Chính (1997), Văn học Việt Nam trung đại, Tuyển tập Trương Chính
5. ( Tập 1), Nxb Văn bản Hà Nội.
6. Ngô Viết Dinh (Chủ biên) (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh
niên.
7. Xuân Diệu (2001), Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập 1, Nxb trẻ.
8. Xuân Diệu ( 2000), Ba thi hào dân tộc, Nxb thanh niên.
9. Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, (1998) Nxb Giáo dục.
10. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩ hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb Văn học.
11. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb Văn học.
12. Đỗ Đức Dục (1984), Tuyên ngôn sáng tác Nguyễn Du, Tạp chí Văn học số 2.
13. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (2000), Nguyễn Du tác phẩm và lịch sử
văn bản, Nxb TPHCM.
14. Trịnh Bá Đĩnh (2001), Nguyễn Du về tác giả tác phẩm, Nxb giáo dục.
15. Trần Văn Giàu(1998), Triết học và tư tưởng, Nxn TPHCM.
16. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa.
17. Hồ Sĩ Hiệp, Lâm Quế Phong (1997), Lê Thánh Tông – Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nxb Văn nghệ TPHCM.
18. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Nxb Lao động – Trung tâm văn hóa ngôn
ngữ đông tây.
19. Cao Thị Liên Hương (2010), Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán, Luận văn thạc
sĩ, Đại học SP TPHCM.
135
20. Hà Ngọc Hòa (biên soạn) (2006), Nguyễn Khuyến – Nhà thơ của làng quê Việt
Nam, Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Phạm Hùng (1996) Văn học Lý Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục.
22. Đỗ Văn Hỷ (1993), Người xưa bàn về văn chương, Nxb Khoa học xã hội.
23. Lê Đình Kị (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb giáo dục Hà Nội.
24. Lê Đình Kị (1990), Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, Kiến thức ngày nay số.
25. Đinh Gia Khánh (2005), Điển cố văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
26. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Lê Cao Cường (1978), Văn học Việt Nam thế kỉ
X đến thế kỉ XVIII, Nxb ĐH và TCCN.
27. Đặng Thanh Lê (1990), Văn học Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội.
28. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập (Tập 1) Nxb Văn học Trung tâm
nghiên cứu quốc học.
29. Nguyễn Lộc(1990), Nguyễn Du và cuộc đời, Nxb Đà Nẵng.
30. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX,
Nxb Giáo dục, TP. HCM.
31. Phương Lựu (chủ biên)(2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
32. Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục Hà
Nội.
33. Phương Lựu (1985), Tinh hoa lí luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo
dục Hà Nội.
34. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lí – Trần, diện mạo và đặc
điểm, Nxb Đại học quốc gia TPHCM.
35. Đặng Thai Mai ( 1977), Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học, Nxb KHXH.
36. Mác và Ăng –ghen về văn học nghệ thuật (1963), Nxb sự thật Hà Nội.
37. Mác và Ăng –ghen và những vấn đề văn học (1968), Bản dịch trong tư liệu của
trường Đại học Sư phạm TPHCM.
38. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục Hà Nội.
136
39. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1985 – 1986), Các nhà văn nói về văn, NXb
Tác phẩm mới Hà Nội.
40. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn, tư tưởng và phong cách. Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
41. Nguyễn Đăng Na (2007) Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
42. Nhiều tác giả (1996), Kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du (1965 – 1967), Nxb
Khoa học xã hội.
43. Phùng Quí Nhâm (1991),Thẫm định văn học, Nxb Văn nghệ.
44. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ, Nxb trẻ.
45. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du người tình và tình người, Nxb Khoa học xã
hội.
46. Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức (1969), Các thể thơ ca và hình thức phát triển
hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội.
47. Bùi Mạnh Nhị (1984), Bức tranh thế giới của con người trung cổ, Nxb Văn
nghệ.
48. Nguyễn Thị Nương (2007), Sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn
Du qua bài thơ tự thuật, Nghiên cứu văn học số 5.
49. Hồng Phương (Dịch và tuyển chọn) (2002), Điển tích xưa, Nxb Văn học.
50. Vũ Tiến Quỳnh (1977), Phê bình và bình luận văn học Nguyễn Du, Nxb Văn
nghệ TPHCM.
51. Lưu Lực Sinh (2002), Từ điển điển cố Trung Hoa, Nxb Văn hóa thông tin.
52. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – quan niệm con người
và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội.
53. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du – từ thơ chữ Hán đến kiệt tác
Truyện Kiều, Nxb Trẻ - Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.
54. Nguyễn Hữu Sơn, Đoàn Thị Thu Vân.(1997), Về con người ca nhân trong văn
học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục Hà Nội.
55. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du từ thơ chữ Hán đến kiệt tác.
137
56. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb TPHCM.
57. Trần Đình Sử (1996) Lí luận phê bình văn học, Nxb hội nhà văn Hà Nội.
58. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb GD, Hà Nội.
59. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
60. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại – tác gia – tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
61. Bùi Duy Tân (2007), (chủ biên), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (Thế kỉ
X – XIX), 2 tập, Nxb giáo dục Hà Nội.
62. Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh (2001), Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác giả tác
phẩm, Nxb GD.
63. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb Khoa
học xã hội.
64. Chương Thâu (1980), Trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb
Văn học Hà Nội.
65. Trần Nho Thìn(2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa.
66. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca Nguyễn Du, Nxb Kinh thi.
67. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương thẫm mỹ và văn hóa, Nxb Giáo dục.
68. Thơ văn Nguyễn Trãi (1980), Nxb Giáo dục.
69. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt
Nam TK X – XIV, Nxb Văn học.
70. Phạm Quang Trung (1999), Thơ trong con mắt người xưa, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
71. Hoàng Hữu Yên (1992), Giảng văn văn học trung đại Việt Nam (Tập 1), Nxb
Giáo dục.
72. Lê Thu Yến (1998), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du.
73. Lê Thu Yến (2003), Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, Nxb giáo
dục.
74. Lê Trí Viễn (2006), Một đời dạy văn viết văn, tập 2, Nxb Giáo dục.
138
75. Lê Trí Viễn (1982), Những bài giảng văn ở đại học, Nxb Giáo dục.
76. Lê Trí Viễn (1997), Đến với thơ hay, Nxb Giáo dục.
77. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển của lịch sử văn học Việt Nam, Nxb giáo
dục.
78. Lê Trí Viễn, Đoàn Thị Thu Vân (1993), Học tập thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Giáo
dục.
139
PHỤ LỤC Bảng 1: Bảng thống kê các hình ảnh
Hình Ảnh `Stt Tên Bài Thơ Buổi Chiều Cái Lạnh
Mây
Mai lạnh Xuân lạnh Sóng lạnh Tuyết lạnh Trời lạnh Mây nổi Thu lạnh Mây khói
Quỳnh Hải nguyên tiêu Xuân nhật ngẫu hứng Vị Hoàng doanh Sơn cư mạng hứng U cư II Mạn hứng II Xuân dạ Lưu biệt Nguyễn đại lang Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam qui Thu chí Thu dạ I Thu dạ II Tạp ngâm Bát muộn Đại nhân hý bút Hoàng Mai kiều vãn diếu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Xuân Trăng tròn Xuân Xuân lạnh Bóng trăng Xuân lạnh Trăng Xuân đêm Trăng Mảnh trăng Trăng Xuân Vẻ xuân Trăng Thu Tiếng thu Hơi thu Thu vắng Bóng chiều Trời chiều Chiều tối Chiều Bóng chiều Gió Gió bồng Gió tây Gió mát Gió tây Gió bụi Gió
Dao vọng Càn hải từ 17 Màu thu Trời chiều
Tái du Tam Điệp sơn Độ Phú Nông giang cảm tác Xuân Mắt thu Cây lạnh, trời lạnh Trời lạnh Mây
18 19
140
Hình Ảnh `Stt Tên Bài Thơ Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió
20 Ánh trăng
Họa hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt chư hữu” chi tác
21 Ký mộng Trăng tà Gió lạnh
22 Thôn dạ 23 Ký hữu 24 Ký Huyền hư tử 25 Ký giang bắc Huyền Hư Tử 26 Biệt Nguyễn đại lang I 27 Biệt Nguyễn đại lang II 28 Biệt Nguyễn đại lang III 29 Đạo ý 30 Hành lạc từ 31 Lam giang 32 Khai song Trăng sáng Trăng sáng Trăng Trăng sáng Đêm trăng Trăng Cuối thu Đêm thu Gió thu Thu Tứ thu Chiều tối Mây Gió thu Gió tây Gió tây Gió mưa
33 Đối tửu
34 Sơn thôn 35 Tạp thi II Xuân Xuân thay đổi xuân Chiều Mây trắng
36 Ngọa bệnh II Xuân lạnh Xuân lạnh
37 Dạ hành 38 Tạp ngâm I 39 Tạp ngâm II Trăng sáng Trăng mong ước Trăng tà Trăng Sắc thu Mây núi Gió tây
141
Hình Ảnh `Stt Tên Bài Thơ
40 Tạp ngâm III 41 Ký hữu Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Núi lạnh Thu già Mây Gió
42 Sơ nguyệt
43 Ngẫu hứng I 44 Thanh minh ngẫu hứng 45 Mộ xuân mạn hứng 46 Thanh Quyết giang vãn diếu Trăng tròn Trăng như hộp gương Trăng sáng Trăng Xế chiều xuân xuân Gió tây Gió đông
47 Đồng Lung Giang Trăng xế Thu Chiều
48 Đồng Lư lộ thượng dao sài sơn 49 Vọng phu thạch 50 Quỉ Môn đạo trung 51 Xuân tiêu lữ thứ Ánh trăng Trăng lặn Xuân Mưa thu Gió lạnh Khóm tre lạnh Lạnh Mây Chân mây
52 Trăng lặn Gió Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành
53 Thu chí 54 Ngẫu thư công quán bích I 55 Ngẫu thư công quán bích II 56 Ngẫu thư công quán bích III 57 Ngẫu hứng (kì nhị) 58 Ngẫu đề 59 Tân thu ngẫu hứng 60 Dạ tọa 61 Bất mị 62 Trệ khách Mảnh trăng Trăng Trăng Trăng tà Xuân qua Xuân tàn Thu Vẻ thu Thu Trời tàn Đêm lạnh Trống lạnh Mây trôi Mây trắng Gió thổi Gió
142
Hình Ảnh `Stt Tên Bài Thơ
Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Hoa lạnh Đông lạnh Thu Núi lạnh Thu Tiếng thu Sắc thu Màu thu Thu lạnh Hơi thu Thu Thu Thu Bóng chiều Chiều tà Chiều tà Trời chiều Mây
Tiếng thu Mặt trời lặn
63 Ưc gia huynh 64 Độ Long Vĩ Giang 65 Ninh Công thành 66 Tạp thi I 67 Phúc thực đình 68 La Phù giang các độc tọa 69 Ngẫu hứng II 70 Lạng Sơn đạo trung 71 Điệu khuyển 72 Tặng nhân 73 Tạp ngâm 74 Giang đầu tản bộ I 75 Giang đầu tản bộ I 76 Ngẫu đắc 77 Thành hạ khí mã 78 Vọng Thiên Thai tự 79 Giản công bộ Thiêm sự Trần I 80 Giản công bộ Thiêm sự Trần II 81 Thu nhật ngẫu hứng 82 Sơn trung tức sự 83 Độ Linh Giang 84 Nễ Giang khẩu hương vọng Trăng sáng Mây Mây trắng Mây trắng Bóng mây Mây vàng Mây trắng Mây xuân Mây trắng Mây trắng Khói mây Mây đen Mây trắng Cát lạnh Mây trắng Thu lạnh Trời lạnh Mây nổi Mây trắng Lạnh Vẻ thu Thu Xuân Gió Gió tây Gió thu Gió Gió mát Gió tây
85 Gió tây
Thu 86 Gió thu Y nguyên vận kí Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên Đại tác cửu thú tư qui I
143
Hình Ảnh `Stt Tên Bài Thơ Mây
Khí lạnh Mây trắng
Gió lạnh Mây xanh
87 Đại tác cửu thú tư qui II 88 Thăng Long I 89 Thăng Long II 90 Quỉ Môn quan 91 Lang Thành đaọ trung Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Thu Chiểu xuống Trăng Trăng sáng Mảnh trăng Gió Gió bụi Mây
92 Nam Quan đạo trung Mưa xuân Mây
93 Trấn Nam Quan 94 Minh Giang chu phát Xương lạnh Mặt trời xế
95 Vọng Quan Âm miếu Chiều
96 Thái Bình thành hạ văn xuy địch 97 Sơn Đường dạ bạc 98 Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu 99 Hạ than hỷ phú 100 Thương Ngô tức sự 101 Thương Ngô mộ vũ 102 Thương Ngô Trúc Chi caI Trăng Trăng Mây biếc Mây nổi Mây ngừng trôi. Mây nổi Gió tây Gió mạnh Gió đông Mặt trời xế Chiều tà Chiều tà Xế chiều
103 Thương Ngô Trúc Chi caII Sông lạnh Khói lạnh Ánh sáng lạnh
104 Thương Ngô Trúc Chi caIII
105 Thương Ngô Trúc Chi ca IV 106 Thương Ngô Trúc Chi ca IX Mây thẫn thờ Mây trắng Gió
107 Gió Thương Ngô Trúc Chi ca XIII
144
Hình Ảnh `Stt Tên Bài Thơ
108 Dương Phi cố lý Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Mây Gió Gió đông
109 Quế Lâm Cù Các bộ Cỏ thu Bóng chiều
110 Quế Lâm công quán 111 Vọng Tương Sơn tự 112 Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch 113 Tương giang dạ bạc Trăng sáng Xuân Gió thu Chiều tà Chiều hôm Hương khói lạnh Mây chiều Mây nổi Mây nổi
114 Gió thu Thu Tương Đàm tiều Tam Lư đại phu I
115 Trường Sa giả Thái Phó 116 Sơ thu cảm hứng I Gió thu Thu Chiều tà
117 Sơ thu cảm hứng II Gió tây
118 Sở vọng 119 Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I 120 Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ II 121 Tương Âm dạ 122 Đăng Nhạc Dương lầu 123 Hoàng hạc lâu 124 Hán Dương vãn diễu 125 Nhiếp Khẩu đạo trung 126 Tín Dương tức sự 127 Ngẫu hứng Trăng sáng Trăng trong Ve sầu lạnh Mây chiều Mây nổi Mây nổi Mấy trắng Gió Gió tây Gió Gió thu Gió tây Thu Mùa thu Tứ thu Sắc thu Nước thu Khí thu Thu đến Hơi thu Bóng xế Chiều Trời chiều
128 Mây rời rạc Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu
145
Hình Ảnh `Stt Tên Bài Thơ Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Mây Gió
129 Chiều tà Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa Tướng
130 Hà Nam đạo trung khốc thử 131 Cựu Hứa Đô 132 Âu Dương Văn Trung công mộ 133 Bùi Tấn công mộ 134 Hoàng Hà 135 Hoàng Hà trở lao 136 Đồng Tước đài 137 Thất thập nhị nghi trủng 138 Hàm Đan tức sự 139 Tô Tần Đình 140 Dự Nhượng kiều chủy thủ hành 141 Dự Nhượng kiều Bóng chiều Chiều Tiết thu Cỏ thu Thu Thu Trời thu Cỏ thu Cỏ thu Thu Thu muộn Cỏ thu Mây nổi Mây Gió Gió Gió thổi Gió tây
142 Kinh Kha cố lý Thu Gió thu
143 Lưu Linh mộ 144 Kỳ Lân mộ Chiều Lạnh Gió lạnh Gió lạnh Gió lạnh Nước sông lạnh Gió lạnh Gió bụi Gió
145 Chiều Mây chiều Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ
Trời rét Mây
Tuyết lạnh Mây trắng
146 Đông A sơn lộ hành 147 Sở Bá Vương mộ II 148 Từ Châu đạo trung 149 Nhị Sơ cố lý 150 Từ Châu đê thượng vọng 151 Từ Châu dạ Chiều Cỏ thu Đông lạnh Mây chiều Gió mưa Gió Trăng Xuân đến Xuân
146
Hình Ảnh `Stt Tên Bài Thơ Mây
Thu lạnh Mây nổi
Ánh Trăng Mùa Xuân Mùa Thu Buổi Chiều Cái Lạnh Thu Chiều tà Khói chiều Chiều Xuân Xuân Xuân Sóng xuân Gió rét Tuyết lạnh Mây trắng Mây ráng Gió Gió chiều Gió tây
152 Á phụ mộ 153 Tổ Sơn đạo trung 154 Nhạc Vũ Mục mộ 155 An Huy đạo trung 156 Tiềm Sơn đạo trung 157 Tây Hà dịch 158 Sở kiến hành 159 Đồ Trung ngẫu hứng 160 Hoàng Mai đạo trung 161 Tự thán 162 U cư I
147
Bảng 2: Bảng thống kê màu sắc và hình ảnh ước lệ, tượng trưng
Stt Tên Bài Thơ
1 Xuân nhật ngẫu hứng 2 Vị Hoàng doanh 3 Tụ thán I 4 Mạn hứng II 5 6 Sơn cư mạn hứng Thu chí Màu Sắc Vàng Lá Xanh Cỏ Trời, núi Đỏ - Hồng Đen Hình ảnh ước lệ tượng trưng Cỏ bồng Cỏ bồng Nhạn
7 Thu dạ I Núi
8 9 Trệ khách Thu dạ II Trắng Sương móc, tóc bạc Sương móc Chim hồng
10 Hoàng Mai kiều vãn diếu Biển
11 Dao vọng Càn hải từ 12 Độ Phú Nông giang cảm tác Trời Núi, cỏ Bóng chiều đỏ
13 Nước biển
Họa hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt chư hữu” chi tác
14 Ký hữu 15 Ký giang bắc Huyền Hư Tử 16 Độ Long Vĩ giang Sương Hoa
17 Biệt Nguyễn đại lang II
18 Khai song Nệm Trúc Chim hồng Chim hồng, chim nhạn Chim bằng
148
Stt Tên Bài Thơ
19 Đối tửu 20 Ninh Công Thành 21 Tạp thi I 22 Mạn hứng 23 Tạp thi II 24 Dạ hành 25 Tạp ngâm I 26 Tạp ngâm II 27 Tạp ngâm III 28 Sơ nguyệt 29 Ngẫu hứng II 30 Thanh minh ngẫu hứng 31 Thanh Quyết giang vãn diếu 32 Đồng Lung Giang Trắng mây Mây Mây Sương móc Mây Đàn cò Xanh Rêu Núi Cỏ Núi Núi Màu Sắc Vàng Hoa cúc Hoa cúc Hoa Đỏ - Hồng Đen
33 Đồng Lư lộ thượng dao kiến sài sơn Màu ,
34 Lạng Sơn đạo trung 35 Xuân tiêu lữ thứ 36 Thu chí 37 Mộng đắc thái liên 38 Ngẫu hứng (kì nhị) 39 Tống nhân 40 Tân thu ngẫu hứng 41 Tái thứ nguyên vận 42 Tạp ngâm 43 La Phù giang các độc tọa Mây , chim âu Hoa lau Mây Mây Mây Cỏ Xanh Liễu trúc Hoa cúc hoa Cây Hình ảnh ước lệ tượng trưng Chim âu Chim âu Tùng Trúc Cỏ bồng Chim hồng Chim âu Áo xanh (người làm quan) Cỏ bồng Chim âu Sen
149
Stt Tên Bài Thơ
44 Tặng nhân 45 Giang đầu tản bộ I 46 Giang đầu tản bộ II 47 Ngẫu đắc 48 Vọng Thiên Thai tự 49 Giản công bộ Thiêm sự Trần I 50 Giản công bộ Thiêm sự Trần II 51 Thu nhật ngẫu hứng 52 Sơn trung tức sự 53 Độ Linh Giang 54 Nễ Giang khẩu hương vọng 55 Đại tác cửu thú tư qui II 56 Quỉ Môn quan 57 Nam Quan đạo trung 58 Trấn Nam Quan 59 Thương Ngô Trúc Chi ca IV 60 Thương Ngô Trúc Chi ca IX 61 Thương Ngô Trúc Chi ca XIII 62 Tương giang dạ bạc 63 Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I Trắng Mây, Mây Mây Mây Sóng Mây Xương Mây Xanh Rau tần Cây Cỏ Núi Núi Núi Cỏ Bãi cỏ Biển Mây Núi Mây Núi Liễu Cây Màu Sắc Vàng Cúc Lá lá Lá Đỏ - Hồng Hoa lựu đỏ Đen Mây
64 Đăng Nhạc Dương lầu
65 Hán Dương vãn diễu 66 Nhiếp Khẩu đạo trung 67 Ngẫu hứng 68 Hà Nam đạo trung khốc thử Rau tần Mây Mây Núi Hình ảnh ước lệ tượng trưng Chim âu Hoa mai Liễu Hoa lan, hoa chỉ Cây tùng Chim hồng, chim nhạn Chim hồng
150
Stt Tên Bài Thơ
69 Cựu Hứa Đô 70 Âu Dương Văn Trung công mộ 71 Hoàng Hà trở lao 72 Kê Thị trung từ 73 Thất thập nhị nghi trủng 74 Đào hoa Đàm Lý Thanh Liên cựu tích 75 Tái thứ nguyên vận 76 Ngô gia đệ cựu ca cơ 77 Ngũ nguyệt quan canh độ 78 Bất tiến hành Trắng Sóng Màu Sắc Vàng Hoa Xanh Trúc Núi Đỏ - Hồng Mây đỏ Đen Hình ảnh ước lệ tượng trưng Tùng Chim âu Trúc Tùng Tùng Tùng Sen Hoa lan Hoa lan