ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ----------------------------- HÀ THỊ THU THỦY
ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI BÌNH NGUYÊN TRANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ------------------------------ HÀ THỊ THU THỦY
ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI BÌNH NGUYÊN TRANG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Ngân
THÁI NGUYÊN - 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Hà Thị Thu Thủy
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thanh Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Hà Thị Thu Thủy
iii
MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................. ii
MỤC LỤC ................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 8
5. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG .................................................. 11
1.1. Các vấn đề thể loại ................................................................................... 11
1.1.1. Truyện ngắn và các đặc điểm của truyện ngắn ..................................... 11
1.1.2. Tản văn và các đặc điểm của tản văn .................................................... 14
1.2. Văn xuôi Bình Nguyên Trang trong diện mạo chung của văn xuôi nữ Việt
Nam đương đại ....................................................................................... 18
1.2.1. Khái quát văn xuôi nữ Việt Nam đương đại ......................................... 19
1.2.2. Hành trình sáng tác của Bình Nguyên Trang ........................................ 21
Tiểu kết chương 1 ...................................................................................... 29
Chương 2. CẢM HỨNG VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TRONG
VĂN XUÔI CỦA BÌNH NGUYÊN TRANG .......................................... 30
2.1. Cảm hứng về cuộc sống ........................................................................... 30
2.1.1. Những suy nghĩ về cách sống ............................................................... 30
2.1.2. Những cảm xúc đẹp về cảnh vật thiên nhiên ........................................ 36
2.2. Cảm hứng về con người ........................................................................... 39
iv
2.2.1. Ca ngợi, bênh vực người phụ nữ ........................................................... 39
2.2.2. Trăn trở về những đứa trẻ bất hạnh ....................................................... 47
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................... 53
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIÊM NGHỆ THUẬT VĂN XUÔI BÌNH
NGUYÊN TRANG .................................................................................... 54
3.1. Nhân vật và cốt truyện ............................................................................. 54
3.1.1. Thế giới nhân vật đa dạng, đa diện, đa tính cách .................................. 54
3.1.2 Cốt truyện đơn tuyến .............................................................................. 60
3.2. Không gian, thời gian nghệ thuật ............................................................. 62
3.2.1. Không gian nghệ thuật đa dạng ............................................................. 62
3.2.2 Thời gian nghệ thuật đa chiều ................................................................ 68
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu ........................................................................... 71
3.3.1. Ngôn ngữ đằm thắm, giàu chất thơ ....................................................... 72
3.3.2. Giọng điệu đa dạng mà thống nhất ....................................................... 75
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 78
KẾT LUẬN ................................................................................................ 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 81
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Đặc điểm thể loại là vấn đề luôn được giới nghiên cứu quan tâm.
Nghiên cứu đặc điểm thể loại văn học là chỉ ra được những đặc trưng về nội
dung cũng như nghệ thuật của thể loại đó thông qua những tác phẩm tiêu biểu.
Từ khía cạnh cảm hứng nghệ thuật, có thể thấy được vấn đề của cuộc sống mà
tác giả quan tâm, thấy được những tâm tư, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm
trong từng tác phẩm, qua đó thấy được những đặc điểm nghệ thuật mang dấu
ấn đặc trưng của tác giả.
1.2 Trong nền văn học đương đại của nước ta, có rất nhiều cây bút nữ trẻ
đã khẳng định được tài năng cũng như phong cách của mình. Thế hệ nhà văn
nữ cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX có thể kể đến những cái tên như:
Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Đoàn Lê, Trần Thùy Mai, Lý Lan, Y
Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ,... Thế hệ nữ tác giả mới từ
những năm 2000 phải nhắc đến: Đỗ Hoàng Diệu, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp,
Phan Hồn Nhiên, Phạm Điệp Giang, Võ Diệu Thanh, Nguyễn Ngọc Tư, Dương
Thụy, Trang Hạ... Mỗi cây bút mang một màu sắc riêng, góp phần tạo dựng
bức tranh chung của nền văn học đương đại Việt Nam. Việc khai thác đặc điểm
thể loại của một tác giả trẻ là việc làm cần thiết để khẳng định phong cách nhà
văn trong bức tranh đa dạng của nền văn học nước ta.
1.3 Bình Nguyên Trang là nhà văn trẻ, được đánh giá là một trong những
cây bút nữ xuất sắc của nền Văn học đương đại Việt Nam. Chị viết khá nhiều
thể loại, tên tuổi từ lâu đã gắn với thơ, nhưng gần đây chị mạnh dạn thử sức và
đã khẳng định mình rất ấn tượng ở thể loại văn xuôi. Truyện ngắn, tản văn của
Bình Nguyên Trang không viết về những điều lớn lao, trừu tượng, mà mỗi câu
chuyện là một mảnh ghép cuộc sống bình dị, những cảm xúc rất đỗi đời
2
thường... Nói cách khác, cuộc sống được thu nhỏ vào trang viết bằng giọng
văn đầy chất thơ. Chính tác giả từng chia sẻ “Mỗi cuốn sách là một góc nhỏ
của cuộc đời người viết. Nó chứa đựng những buồn vui, trải nghiệm cá nhân
người viết cuốn sách đó...”. Văn xuôi của Bình Nguyên Trang vì thế rất giản
dị mà sâu sắc, để lại ấn tượng khó phai trong lòng độc giả.
Theo các nhà phê bình, văn xuôi Bình Nguyên Trang vừa mang hơi thở
cuộc sống, vừa mang nét ý nhị rất riêng vốn làm nên đặc trưng văn chương của
chị. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có đề tài nào khai thác đặc
điểm văn xuôi của Bình Nguyên Trang- một phương diện không thể thiếu để
khẳng định tên tuổi nhà văn. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng đề tài “Đặc điểm
văn xuôi Bình Nguyên Trang” nằm trong số những đề tài cấp thiết hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Về đặc điểm thể loại
Bước đầu tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi xin được trình bày một số
những công trình nghiên cứu dưới đây:
Trong cuốn Lý luận văn học, GS. TS. Trần Đình Sử đã chỉ ra: “ Cái chính
của truyện ngắn là gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người. Kết
cấu của truyện ngắn thường là một sự tương phản,liên tưởng. Bút pháp trần
thuật thường là chấm phá. Yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện
ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý, tạo cho tác phẩm
những chiều sâu chưa nói hết. Ngoài ra, giọng điệu, cái nhìn cũng hết sức quan
trọng, làm nên cái hay của truyện ngắn. Truyện ngắn là một thể loại dân chủ,
gần gũi với đời sống hằng ngày, lại súc tích, dễ đọc, gắn liền với hoạt động báo
chí, có tác dụng ảnh hưởng kịp thời trong đời sống.”.[36;tr317]. Có thể thấy,
GS. TS Trần Đình Sử đã chỉ ra những đặc trưng về nội dung, kết cấu, dung
lượng, giọng điệu,… của truyện ngắn. Ngày nay, truyện ngắn là một thể loại
3
rất phổ biến, tuy một truyện ngắn có dung lượng không nhiều nhưng nó lại đáp
ứng được nhu cầu của độc giả cả về mặt nội dung và nghệ thuật.
Một cái tên rất ấn tượng trong số những người làm nghiên cứu phê bình
của nền văn học nước ta, có sự quan tâm đặc biệt đến thể loại truyện ngắn, đó
chính là Bùi Việt Thắng. Anh đã cho ra đời rất nhiều những công trình viết về
truyện ngắn như: Bình luận truyện ngắn (Nxb Văn học, 1999), Truyện ngắn-
những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2000), Truyện ngắn hiện thực 1930-1945 (Nxb Văn học, 2003). Trong những
công trình nghiên cứu đó, Bùi Việt Thắng đã có cái nhìn khái quát về truyện
ngắn từ định nghĩa, nguồn gốc, để từ đó xác định các yếu tố đặc trưng, các kiểu
truyện ngắn như truyện ngắn cổ điển, truyện ngắn tâm tình, truyện ngắn kỳ ảo,
truyện ngắn rất ngắn, truyện ngắn liên hoàn và biến thể... Có thể nói, những
công trình nghiên cứu giá trị về thể loại truyện ngắn của Bùi Việt Thắng, đã
đem đến cho người đọc những hiểu biết cụ thể về thể loại này.
Ngoài những công trình tiêu biểu nêu trên, còn có rất nhiều những công
trình nghiên cứu khoa học về những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của thể loại
truyện ngắn và tản văn. Người viết xin được nêu ra một số công trình sau:
Trong luận văn khoa học “Đặc điểm truyện ngắn Đỗ Bích Thúy”, tác giả
Nguyễn Xuân Thủy đã viết “Từ sau 1986 văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói
riêng chiếm một ưu thế lớn... Thời kỳ này, từ sự đổi mới trong tư duy nghệ
thuật, sự mở rộng về phạm trù thẩm mỹ trong văn học khiến truyện ngắn không
những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà có có nhiều thể nghiệm,
cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lý giải cuộc sống từ góc nhìn riêng, với
những cách xử lý ngôn ngữ riêng. Tất cả những đặc điểm trên khiến truyện
ngắn Việt Nam đương đại gặt được nhiều thành công trên nhiều phương diện”.
Như vậy, cùng sự đổi mới tư duy, mở rộng chủ đề, nội dung hướng đến mọi
4
mặt trong đời sống, truyện ngắn có được vị trí nhất định trong nền văn học hiện
đại Việt Nam[54,tr 10].
Ở luận văn “Đặc sắc tản văn Y Phương” của tác giả Sùng Thị Hương
đã chỉ ra các đặc trưng của tản văn như sau: “Thứ nhất, tản văn là những tác
phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm xúc có hoặc không có cốt truyện. Tản văn là
những tác phẩm văn xuôi có dung lượng không lớn, phổ biến là những bài văn
ngắn gọn, hàm xúc...nhằm vẽ lại một vài nét chân dung của ai đó hoặc kể lại
một vài kỷ niệm từng ám ảnh trong ký ức... Tản văn có thể có hoặc không có
cốt truyện... Thứ hai, tản văn bộc lộ rõ nét cái tôi của tác giả... Thứ ba, tản văn
viết về người thật, việc thật và sử dụng hư cấu có hạn chế trong phạm vi và
mức độ nhất định...”. [19,tr 9-11]. Ở luận văn này, tác giả đã chỉ ra được những
đặc trưng cơ bản của tản văn. Có thể thấy tản văn có những đặc điểm khá gần
với truyện ngắn, thể loại này cũng được nhiều tác giả lựa chọn để gửi gắm cảm
xúc của mình .
Tác giả Cao Thị Thùy Nhung trong Đặc điểm tạp văn và tản văn Nguyễn
Vĩnh Nguyên, đã khái quát về đặc điểm nội dung và hình thức của tản văn: “Về
hình thức, tản văn có dung lượng ngắn gọn, hàm súc. Cho đến hôm nay, ngắn
gọn vẫn là ưu thế của tạp văn, tạp văn lên ngôi do nhu cầu cần đọc nhanh, đọc
nhiều thông tin của người đọc hiện nay. Hình thức tạp văn, tản văn tự do, phóng
khoáng, không câu nệ các quy tắc về câu chữ, kết cấu. Về nội dung: tạp văn,
tản văn có phạm vi thể hiện khá phong phú, đa dạng, từ những vấn đề chính
trị, xã hội mang tính thời sự nóng hổi đến những cảm xúc đời thường rất giản
dị, gần gũi. Những vấn đề phản ánh trong tạp văn, tản văn thường được biểu
hiện dưới dạng một suy nghĩ, khoảnh khắc riêng tư, một thoáng liên tưởng bất
ngờ, độc đáo mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả...” [31,tr14].
Nhìn chung, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ về đặc điểm
thể loại văn xuôi mà cụ thể là truyện ngắn và tản văn. Những công trình nghiên
5
cứu đó là những tài liệu quý báu để tác giả luận văn tham khảo trong quá trình
tìm hiểu về các tác phẩm văn xuôi của Bình Nguyên Trang.
2.2 Về tác phẩm của Bình Nguyên Trang
Cho đến nay, chưa thấy có nhiều bài viết cũng như các công trình nghiên
cứu khoa học về các tác phẩm của Bình Nguyên Trang. Nếu có chăng thì cũng
chỉ là các bài nhận xét về tác phẩm, những lời giới thiệu sách hoặc là các bài
phỏng vấn trên các trang báo.
Trong bài báo Nhà thơ Bình Nguyên Trang: Không thể trả lời thỏa đáng
cho câu hỏi về tình yêu của tác giả Khánh Thủy, Bình Nguyên Trang đã từng
tâm sự về vai trò của văn chương đối với chị: “Tôi cần những cuộc trò chuyện
mà ở đó, toàn bộ đời sống tinh thần của tôi được tỏ bày, được thỏa mãn, được
sẻ chia. Viết có vai trò với tôi như vậy. Giây phút ngồi trước trang giấy và viết
về nỗi buồn, niềm vui, trải nghiệm của mình trên đó, tôi hạnh phúc...” [52]. Có
thể thấy, văn chương có vai trò rất quan trọng đối với Bình Nguyên Trang, từng
câu chuyện, từng trang viết chính là những tâm tư, tình cảm mà chị muốn được
sẻ chia và giãi bày. Được viết ra những dòng cảm xúc của mình dường như là
một niểm hạnh phúc với Bình Nguyên Trang .
Tác giả Mai Đô trong bài viết Bình Nguyên Trang nữ sĩ tài hoa đã nhận
xét: “Những bài báo, những tản văn của Bình Nguyên Trang thấm đẫm chất
thơ, trĩu nặng tình cảm. Với nhân vật, chị viết như tận lòng, da diết những nỗi
niềm chia sẻ. Chị viết về người khác như viết cho chính mình. Trực giác cảm
nhận với mạch văn quyến rũ làm nên một giọng điệu Bình Nguyên Trang...
Cùng với tập thơ mới, Bình Nguyên Trang còn cho in tập tản văn “Hoa gạo
cuối trời”. Vẫn là những nỗi niềm khắc khoải với thời gian và quê hương. Nhất
là Mẹ, nguồn cảm xúc không bao giờ cạn kiệt trong tâm hồn nhà thơ...” [8].
6
Đọc những trang viết của Bình Nguyên Trang ta thấy trong đó là sự trăn trở, là
những nỗi niềm băn khoăn, khắc khoải về thời gian, về hạnh phúc của đời
người. Những nhân vật trong tác phẩm của chị phần lớn là những người phụ nữ
bất hạnh luôn khát khao có được hạnh phúc, có được một bến đỗ bình yên trong
cuộc đời. Bằng giọng điệu trữ tình, sâu lắng từng trang thơ, trang văn của chị
cứ nhẹ nhàng, êm ái đến với người đọc.
Tác giả Thanh Hằng, trong bài viết Nhà thơ Bình Nguyên Trang: viết văn
đừng sống qua loa hời hợt thì nhấn mạnh một hình ảnh mang tính biểu tượng
trong văn xuôi Bình Nguyên Trang :“Tôi có một tuổi thơ đồng đất, gắn với
làng, với những gì giản dị, gần gũi nhất. Tôi cũng là đứa trẻ rời cha mẹ đi xa
từ khi còn rất nhỏ. Và ký ức trong tôi, thường có màu đỏ của bông hoa gạo. Tôi
yêu loài hoa này bằng một tình yêu rất khó gọi thành lời. Tôi nhớ những ngày
tháng ba mưa phùn rét mướt, cái mùa đói khốn khó ở nông thôn, cũng là mùa
hoa gạo bung đỏ một góc trời, như khát vọng của những phận người nơi quê
nghèo, luôn muốn vươn lên, bay lên khỏi hiện thực mình đang sống. Trong hình
ảnh bông hoa gạo có hình ảnh của bà tôi, của mẹ tôi, của chị tôi. Một hình ảnh
rất thân phận, vừa cam chịu vừa không bằng lòng với số phận...” . [12]. Thời
thơ ấu có lẽ là khoảng thời gian đẹp đẽ nhất, trong trẻo nhất của đời người. Và
với Bình Nguyên Trang, thời thơ ấu của chị gắn với hình ảnh bông hoa gạo.
Hình ảnh đó trở đi, trở lại nhiều lần trong các sáng tác của chị, bởi nó gắn với
mùa sinh, gắn với một tuổi thơ khốn khó nhưng đầy ắp những kỉ niệm tươi đẹp.
Đó là một vùng kí ức đậm sâu, một khoảng trời thương nhớ khôn nguôi. Hình
ảnh bông hoa gạo đã trở thành một biểu tượng đẹp và rất đặc trưng của Bình
Nguyên Trang.
7
Trong một bài báo khác: Nhà thơ Bình Nguyên Trang: Lặng lẽ 'Tìm trong
cõi người' của phóng viên Việt Quỳnh - Báo Thể thao Văn hóa đã nhận xét:
“Từ thơ đến ký ra ngoài đời, với Bình Nguyên Trang, văn sao người vậy. Bình
Nguyên Trang (tên thật là Vũ Quỳnh Trang) lưu lạc đến cõi nhân gian này một
cách giản đơn là làm nghề viết, và nếm náp hương vị đời mà chẳng màng tiền
bạc, công danh... Mọi sự đến với chị bình thản như mọi ổn thỏa từ công việc
đến gia đình. Không cần thắp sáng cho đám đông, chị tỏa rạng từ trái tim, tràn
ra nụ cười, lan lên trang viết. Và thế là hạnh phúc vừa đủ.” [33]. Bình Nguyên
Trang là một người phụ nữ tràn đầy năng lượng, một nhà báo nhiệt tình, sôi nổi
và rất yêu nghề. Chị đến với nghề không phải vì công danh, tiền bạc mà đơn
giản muốn được giãi bày những cảm xúc của mình trên những trang viết. Với
Bình Nguyên Trang, còn được viết là còn hạnh phúc, và còn sống chị vẫn sẽ
gắn bó với nghề.
Trong bài viết:Triết lý hạnh phúc trong "Mùa đom đóm mở hội" , tác giả
Lương Sỹ Cầm đã nhận xét: “Gấp lại tập truyện, nghĩ về các nhân vật nữ được
tác giả miêu tả, tôi hình dung cả một cánh rừng bị cơn bão quật đổ tan tác, cây
ngã đè lên nhau ngổn ngang. Bình Nguyên Trang đã lần mò xem xét từng cây,
nhặt nhạnh từng cành để tái hiện cơn bão số phận ập vào cuộc đời của những
nhân vật phụ nữ. Suốt tập truyện ngắn, chẳng tìm thấy một niềm vui.” [4].
Những nhân vật nữ trong tác phẩm của Bình Nguyên Trang đa phần là những
người phụ nữ bất hạnh. Họ cam chịu, hi sinh nhưng lại luôn phải chịu những
thiệt thòi, đau khổ trong cuộc sống. Bình Nguyên Trang luôn bày tỏ sự đồng
cảm, xót xa và trân trọng cho những thân phận bất hạnh này.
Mở đầu tập truyện ngắn Mùa đom đóm mở hội, nhà văn Trần Đức Tiến đã
có những lời nhận xét cũng là lời giới thiệu sách: “Bình Nguyên Trang thành
8
công khi kể những câu chuyện rất “đời” với những chi tiết vừa đủ gây ấn tượng
bằng giọng kể dung di đầy nữ tính. Nhưng có lẽ chị còn hay hơn khi không
chăm chú vào bố cục, vào tình tiết có khả năng gây kịch tính của một câu
chuyện có đầu có cuối...” [53,tr4]. Nguồn cảm hứng sáng tác của Bình Nguyên
Trang là từ những câu chuyện bình dị trong đời sống, là từ chính những con
người sống xung quanh chị. Những câu chuyện của chị đơn giản là kể lại những
gì chị đã chứng kiến, đã trải qua. Với lối viết dung dị, không cầu kì, hoa mỹ,
không quá quan trọng đến cốt truyện, bố cục,…những trang viết của Bình
Nguyên Trang cứ nhẹ nhàng đến với người đọc, để lại những ấn tượng sâu sắc.
Trong phạm vi tìm hiểu của chúng tôi, có thể thấy, những bài viết về Bình
Nguyên Trang vẫn còn khá hạn chế. Đến nay, chưa có công trình nghiên cứu
nào về các tác phẩm của chị nói chung và văn xuôi của chị nói riêng. Do đó,
khi thực hiện công trình nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn góp một phần
nhỏ trong việc tìm hiểu về nội dung cũng như phong cách nghệ thuật trong các
tác phẩm văn xuôi của Bình Nguyên Trang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Ở đề tài này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là đặc điểm văn xuôi của
Bình Nguyên Trang trên hai phương diện đặc điểm về nội dung và nghệ thuật.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài xem xét các đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong bao gồm 2 tập
truyện ngắn: Chuyến tàu thời gian (NXB Văn học năm 2000); Mùa đom đóm
mở hội (NXB Văn học năm 2012) và tập tản văn Hoa gạo cuối trời (NXB Phụ
nữ năm 2016).
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
9
Thứ nhất, tìm hiểu về đặc trưng thể loại, cụ thể là đặc điểm của hai thể
loại truyện ngắn và tản văn. Tìm hiểu về tác giả Bình Nguyên Trang nói chung
và hành trình sáng tác cũng như quan niệm văn chương của chị.
Thứ hai, tìm hiểu về phương diện nội dung các tác phẩm văn xuôi của
Bình Nguyên Trang.
Thứ ba, tìm hiểu về phương diện nghệ thuật các tác phẩm văn xuôi của
Bình Nguyên Trang.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng
các phương pháp sau:
- Phương pháp thi pháp học.
- Phương pháp tiểu sử.
- Phương pháp so sánh.
Ngoài ra, chúng tôi áp dụng những thao tác khoa học: phân tích, trích dẫn
tác phẩm để chứng minh cho từng luận điểm của đề tài.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được triển khai đề tài theo 3 chương chính:
- Chương 1: Một số vấn đề chung.
- Chương 2: Cảm hứng về cuộc sống và con người trong văn xuôi Bình
Nguyên Trang.
- Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật trong văn xuôi của Bình Nguyên
Trang.
6. Đóng góp của luận văn
10
1. Về lý luận: Luận văn mong muốn đóng góp vào lý luận về thể loại văn
học, phong cách của tác giả, góp phần làm giàu lý luận văn học.
2. Về thực tiễn: Kết quả của luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập văn học đương đại của giảng viên và sinh viên
tại các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng.
11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Các vấn đề thể loại
1.1.1. Truyện ngắn và các đặc điểm của truyện ngắn
1.1.1.1. Khái niệm truyện ngắn
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyện ngắn. Trong cuốn 150 thuật
ngữ văn học, truyện ngắn được xác định là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ,
thường được viết bằng văn xuôi, đề cập đến hầu hết các phương diện đời sống
con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng;
tác phẩm truyện ngắn thích hợp với người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền mạch
không nghĩ” [2;tr16]. Từ điển thuật ngữ văn học lại cũng giải thích “Truyện
ngắn là hình thức tự sự loại nhỏ; truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng
nhỏ hơn, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài
biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, thể hiện một
khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội” [36;tr14]. Các định nghĩa trên bổ sung cho
nhau để làm nổi bật rõ những đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngắn. Theo đó,
trong luận văn này, người viết đi theo khái niệm của Từ điển văn học để triển
khai các chương 2 và 3.
1.1.1.2. Đặc trưng của truyện ngắn
Trước hết, truyện ngắn có dung lượng nhỏ nhưng lại có sức chứa, sức mở
lớn. “Sở dĩ truyện ngắn ngắn, sở dĩ người ta có thể viết ngắn là vì người ta đã
biết quá nhiều. Nhiều đến mức có thể tước bỏ tất cả những gì phù phiếm,
không cốt lõi, không quan trọng. Phải có rất nhiều nguyên liệu thì mới có thể
chưng cất. Truyện ngắn vì nó là tác phẩm nghệ thuật chưng cất, chứ không
phải là nguyên liệu thô” [10;tr16]. Tuy nhiên, “dung lượng truyện ngắn hiện
nay rất lớn, trong độ ba trang mấy nghìn chữ mà rõ mặt cuộc đời, một kiếp
12
người, một thời đại…Các truyện ngắn bây giờ rất nặng, dung lượng của nó là
dung lượng của cả một cuốn tiểu thuyết, bởi vì cái đặc sắc của thể loại buộc
nó phải dồn nén lại, cho đến sắc lịm, nhọn hoắt. Như vậy dung lượng hay chất
lượng nghệ thuật của truyện ngắn bình đẳng với tiểu thuyết” [10;tr16]. Truyện
ngắn thường có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, được kể bằng văn
xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích hơn các câu truyện dài như tiểu thuyết.
Truyện ngắn là tiếng nói nhanh nhạy nhất, phản ánh thời sự các vấn đề nóng
hổi của thời đại, con người một cách chính xác. Vì là một thể loại năng động
nên truyện ngắn hiện nay mang trong mình nhiều dấu hiệu không ổn định,
cách xây dựng truyện ngắn hiện nay uyển chuyển đa dạng hơn, xu hướng tự
nới mở, không ngừng cách tân trong cách thức diễn đạt, khiến truyện ngắn
linh hoạt hơn. Đây cũng chỉ là những khả năng, đặc điểm mang tính bản thể
của thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn đã tạo cho bản thân thể loại những giá
trị riêng biệt. Mỗi truyện ngắn gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình
người, nói như D. Boulanger là: “Đánh thức và cuốn hút cả năm giác quan
của người đọc”. Tạo được ấn tượng nổi bật nhất và những chiều sâu chưa nói
hết, đó chính là điều khiến truyện ngắn luôn hấp dẫn bạn đọc.
Truyện ngắn phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó, qua con
người, hành vi, sự kiện được miêu tả và được kể lại bởi người kể chuyện (trần
thuật) nào đó. Cốt truyện với một chuỗi các tình tiết, sự kiện, biến cố xảy ra
liên tiếp tạo nên sự vận động của hiện thực được phản ánh, góp phần khắc họa
tính cách nhân vật, số phận từng cá nhân. Nhà văn Ma Văn Kháng đã ý thức rõ
về điều này: “Vấn đề là anh tổ chức sao cho truyện ngắn của anh thành một lát
cắt gọn ghẽ. Như người ta vẫn nói, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa
một chi tiết nào” [10;tr17]. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã so sánh nó với tiểu
thuyết: “Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là cái mặt cắt
13
của dòng đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở người viết
một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một
thứ kỹ thuật tinh xảo – kĩ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của
người làm pháo, dồn nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, thật
tự nhiên” [10;tr17]. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng mà
thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Nhân vật
được miêu tả chi tiết và sinh động trong mối quan hệ với hoàn cảnh, với môi
trường xung quanh. Truyện không bị gò bó về không gian, thời gian, có thể đi
sâu vào tâm trạng con người, những cảnh đời cụ thể. “Trong một tác phẩm nếu
là truyện ngắn, do lệ thuộc vào số trang eo hẹp, cốt truyện tập trung, sự kiện
dồn dập, đường dây chặt chẽ, cho nên số lượng phân phối nhân vật cũng không
phải nhiều” [10;tr17]. Paul Bourget - nhà văn và nhà phê bình Pháp thế kỷ 20
nhận định về thể loại trên: "Phong cách của truyện ngắn và của tiểu thuyết rất
khác nhau. Phong cách của truyện ngắn là thuộc về tình tiết. Cái tình tiết mà
truyện ngắn dự định diễn tả, truyện ngắn đã tách nó ra, làm cô lập nó lại. Các
tình tiết mà cả dãy đã làm nên đối tượng của tiểu thuyết, tiểu thuyết đã làm
ngưng kết chúng, nối chúng lại với nhau. Tiểu thuyết tiến hành thông qua các
triển khai, còn truyện ngắn thông qua sự tập trung... Truyện ngắn là độc tấu.
Tiểu thuyết là giao hưởng" [10;tr17].
Truyện ngắn ít nhân vật, nhà văn không thể miêu tả quá trình phát triển
tính cách của nhân vật từ trưởng thành, biến đổi, đấu tranh hay dằn vặt như
trong tiểu thuyết, mà chỉ đi sâu vào một vài khía cạnh, một thời điểm trong
cuộc đời nhân vật. Dù không được khắc họa rõ về ngoại hình, lý lịch nhưng
người ta vẫn hình dung được gương mặt tinh thần tương đối trọn vẹn của nhân
vật và gây được một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và con người. Nếu mỗi
nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện ngắn là
14
một mảnh nhỏ của thế giới. Có nghĩa truyện ngắn thường không nhắm tới việc
khắc họa những tính cách điển hình, nhiều mặt trong tương quan với hoàn
cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một quan hệ xã hội,
ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Cốt truyện của truyện ngắn
thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó là
nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người.
Truyện ngắn sử dụng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau. Ngoài ngôn
ngữ người kể chuyện còn có ngôn ngữ nhân vật. Bên cạnh lời đối đáp còn có
lời độc thoại nội tâm. Lời kể khi thì ở bên ngoài khi thì nhập tâm vào nhân vật.
Ngôn ngữ kể chuyện gần với ngôn ngữ đời sống.
Tóm lại, truyện ngắn đem đến cho chúng ta bức tranh tập trung mô tả một
mảnh của cuộc sống. Tuy dung lượng nhỏ nhưng thông qua những biến cố của
đời sống nhân vật, nhà văn đã thể hiện những khía cạnh đáng quan tâm của đời
sống xã hội. Vì thế, truyện ngắn có sức hấp dẫn riêng và ngày càng có vị trí
quan trọng trong văn học hiện đại.
1.1.2. Tản văn và các đặc điểm của tản văn
1.1.2.1 Khái niệm tản văn
Tản văn là thể loại văn học “chú trọng việc ghi lại những gì đã trải qua,
đã cảm thấy, thể nghiệm liên tưởng của cái tôi hoặc ghi lại những câu
chuyện, những trạng thái cảnh vật hoặc trữ tình hoài niệm. Đây là thể loại
tác phẩm văn học giàu tính trữ tình, rộng rãi về đề tài, tinh túy về nội dung,
khuôn khổ tương đối nhỏ” [36;tr391]. Tác giả còn có thể dựa vào nội dung
cần viết mà tự do điều chỉnh, biến hóa tùy ý. Tất cả những điều chừng như
tủn mủn đều có thể là cái cớ cho một tản văn ra đời, ví dụ: một sự việc xảy
ra trong gia đình, một âm thanh vang lên cuối phố,…Những điều đó hòa với
15
sức cảm, sức nghĩ, độ rộng và chiều sâu trong trường liên tưởng của người
viết để tạo ra tản văn. Tản văn còn là thể loại coi trọng tính phải chân thực.
Tản văn cũng có ngôn ngữ mới mẻ, thủ pháp biểu hiện linh hoạt, văn phong
sáng sủa, cách viết không câu nệ, có thể trần thuật lại diễn biến sự việc, cũng
có thể miêu tả hình tượng nhân vật, có thể mượn vật gửi gắm tình cảm, phát
biểu quan điểm.
1.1.2.2 Đặc trưng của tản văn
Tính tự do là một đặc trưng của tản văn. Nhiều khi người đọc có cảm
giác đọc tản văn như đọc các chi tiết tản mạn. Tuy nhiên, đó là cái tản mạn
có logic, không phải là lộn xộn, thiếu trật tự, không có tính văn chương.
Trong cái tản mạn vẫn có nguồn cảm xúc, tư tưởng chủ đạo xuyên suốt.
Những điều mà tản văn viết dường như vô cùng tản mạn, nhưng thực ra lại
rất thống nhất về chủ đề, tình cảm, tư tưởng (mặc dù tản mạn về tài liệu, hình
thức, thủ pháp…).
Tản văn thể hiện sự tự do, phóng túng ngay từ trong việc chọn đề tài. Đó
là các đề tài khá nhỏ, mang tính đời thường mà ít người để ý. Rồi tới bố cục kết
cấu, tản văn cũng không cần một quy tắc chuẩn mực như văn nghị luận thông
thường hay cách viết sáng tạo, gây tò mò như truyện. Tản văn cứ nhẹ nhàng,
thong dong đi hết ý tưởng của tác giả mà không cần bố cục nào rõ ràng. Nó có
lúc gần lúc xa, lúc trước lúc sau. Tác giả đã căn cứ vào ý đồ sáng tác của mình
và nhu cầu biểu hiện để tổ chức trật tự ý tứ cho bài. Ở đó, ta thấy hiện thực và
lịch sử, tự nhiên và xã hội có sự giao thoa, triết lí và cuộc sống hằng ngày có
sự giao thoa, thậm chí trên trời dưới đất, trần gian tiên giới đều có thể liên kết
vào một điểm. Hay việc vận dụng thủ pháp biểu hiện đều ít có tính quy phạm,
cách thức, hạn chế, tất cả đều lấy cảm nhận và lấy tác giả làm trung tâm. Tự do
trong nội dung đi kèm tự do trong hình thức. Thể loại tản văn linh hoạt có giao
16
thoa với các thể loại khác, như thơ, truyện, nghị luận,…Tùy đề tài, phong cách
viết, tản văn sẽ nó tự học theo các thể loại khác, đưa hơi hướng của các thể loại
đó vào tác phẩm. Chúng ta có thể dễ dàng gặp những đoạn tản văn lại trữ tình
như thơ, có cao trào như kịch hay sinh động như tiểu thuyết.
Tính đa dạng cũng là một trong những đặc trưng của tản văn. Đầu tiên, nó
thể hiện qua đề tài. Đề tài của tản văn đặc biệt rộng lớn, vượt qua tất cả các thể
loại văn học khác, do đó người ta gọi tản văn là “viện bảo tàng của cuộc sống”
[6]. Lịch sử, hiện tại, tương lai, tự nhiên, xã hội, sự kiện, cảnh vật, tình
cảm,…có thể được đưa vào tản văn và trở thành đề tài đầy hấp dẫn của tản văn.
Tiếp theo, nó thể hiện qua tư tưởng của nhà văn. Một bài tản văn lại có thể bao
hàm triết lí sâu sắc như văn nghị luận, cũng có thể dạt dào cảm xúc như thơ.
Hay nó vừa nói lên cái tôi cá nhân của tác giả vừa lấy tinh thần thời đại, xu
hướng thẩm mĩ mới để đưa ra tư tưởng. Ngay trong thể loại nhỏ, tản văn cũng
rất phong phú đa dạng. Ta có thể chia thành nhiều tiểu loại nhỏ. Hiện giờ, căn
cứ vào đối tượng và hình thức thể hiện để chia tản văn thành các tiểu loại: tản
văn tự sự, tản văn trữ tình, tản văn nghị luận.
Thứ nhất là tản văn tự sự. Tiểu loại này lấy sự kiện, nhân vật, cảnh vật làm
nội dung biểu đạt chủ yếu, lấy sự trần thuật miêu tả làm phương thức biểu đạt.
Vì thế, nó khá gần với kí, tùy bút. Song việc kể việc, ghi người, tả cảnh vẫn có
nét riêng. Kể chuyện trong tản văn là trần thuật một số phiến đoạn của sự kiện;
ghi người chỉ là ghi mặt quan trọng của nhân vật, tả cảnh chỉ là tả một số phương
diện nào đó của cảnh vật; hơn nữa, những sự việc, con người, cảnh vật này đại
đa số chỉ là những sự việc, con người, cảnh vật mà tác giả đã tiếp xúc qua, tác
giả thường lấy chính tâm tư của bản thân làm sợi dây liên kết những sự kiện,
những mặt nào đó của nhân vật, phương diện nào đó của cảnh vật; thủ pháp
17
miêu tả thường là vận dụng phác họa. Rõ ràng, ngôn ngữ không nhiều là biểu
hiện của đặc trưng gợi trong tản văn. Tác giả chỉ vẽ ra tình trạng của sự kiện,
thần thái của nhân vật, đặc sắc của cảnh vật. Tản văn tự sự lại chia thành: tản
văn kí sự, tản văn ghi người, tản văn tả cảnh.
Thứ hai là tản văn trữ tình. Tiểu loại này lấy sự bộc lộ tư tưởng, tình cảm
của tác giả làm chủ đạo với tiêu chí: một bài tản văn trữ tình hay phải lấy tâm
tư của tác giả làm sợi dây sắp đặt kết cấu. Vì thế, tính chủ quan của nó đặc biệt
mãnh liệt. Ở đây, tản văn trữ tình và thơ trữ tình có điểm giống nhau, nhưng
tản văn trữ tình khác với thơ trữ tình ở chỗ không trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mà
phần nhiều là sự việc sinh tình cảm, mượn cảnh nói tình. Trữ tình đã chỉ ra nội
dung chủ yếu của nó là tình cảm, đồng thời cũng chỉ ra thủ pháp biểu hiện chủ
yếu của nó là trữ tình. “Tình” trong tản văn trữ tình chiếm vị trí quan trọng.
lấy vật để nói chí, “tình” của nó phải có cái dựa vào, tình thấm vào trong cảnh
và vật rồi bộc lộ ra, tình cảm chủ quan và cảnh vật khách quan nhập vào làm
một” [6]. Tình cảm trong tản văn trữ tình không tập trung như thơ trữ tình, nó
thường là sự trải rộng của tư tưởng tình cảm trong một tổ chức, sắp xếp hết sức
công phu của tài liệu. Ngôn ngữ tản văn khác ngôn ngữ thơ trữ tình là điều rõ
ràng.
Thứ ba là tản văn nghị luận. Tản văn nghị luận lấy việc nói rõ đạo lí làm
nội dung chủ yếu, lấy nghị luận làm thủ pháp biểu hiện cơ bản; bám chắc vào
sự kiện, nhân vật có ý nghĩa điển hình phong phú trong đời sống. Điểm hấp dẫn
của tản văn này là những tư tưởng của nhà văn và những tư tưởng, kiến giải ấy
phải đi cùng cơ sở lập luận sắc bén, thuyết phục. Trong ba tiểu loại tản văn, tản
văn nghị luận có cách viết rõ ràng, có khuynh hướng tư tưởng rõ ràng và sắc
18
thái tình cảm mãnh liệt nhất. Mục tiêu của nó là giúp người đọc hiểu và tin tư
tưởng ấy. Tản văn nghị luận gồm tạp văn, văn tiểu phẩm, tùy bút.
Đặc trưng tiếp theo của tản văn là sự bộc lộ tâm tư, tình cảm. Nhà văn chỉ
có thể sáng tác khi có cảm xúc, giúp bộc lộ những gì nhà văn tự mình trải qua,
tự mình cảm thấy. Nếu so sánh với các thể loại tự sự khác, ta sẽ thấy ngay điểm
khác biệt. Các thể loại khác viết về những sự việc của người khác, cái ngoài
bản thân thì tản văn lại là viết về những sự việc chính mình, là sự việc trong
tim của tác giả. Vì vậy, đọc truyện có thể hiểu ngay nhưng tản văn lại không
cảm nhận dễ dàng, nếu ta không cùng chung “tần số cảm xúc” với tác giả. “Tản
văn chính là sự biểu lộ ra một cách linh hoạt, nên tính chân thực là sinh mệnh,
xác thực là linh hồn, chân thành là căn bản của tản văn” [6]. Tản văn muốn
dựa vào tình cảm chân thành, trải nghiệm của tác giả trong cuộc sống và kinh
nghiệm nghệ thuật tương đương để sáng tác.
Về mặt ngôn ngữ, ta thấy tản văn có ngôn ngữ tự nhiên, tươi mới, gọn
gàng, bóng bẩy và khá tự do. Nó không yêu cầu niêm luật chặt chẽ như thơ mà
trải dài, ứng biến theo cảm xúc. Nội dung tự do, giàu cảm xúc của tản văn
đương nhiên sẽ ăn hợp với ngôn ngữ vừa đẹp vừa phóng khoáng. Đề tài của tản
văn là những điều bên ngoài mà tác giả tự mình nhìn thấy, nghe thấy, suy ngẫm
nên ngôn ngữ cũng phải phản ánh rõ phong cách của từng nhà văn. Có nhà văn
đưa đến lối viết sinh động như cuộc sống, truyền đạt âm thanh phải giống hệt;
có người lại thích đưa vào tình cảm thiết tha, tế nhị; có người thích lối nghị luận
phải vừa trang trọng, có người ưa cách viết hài hước, thú vị... Tuy nhiên, dù
phong cách gì thì đó đều là những lối viết không cần kiểu cách mất tự nhiên,
không cần che đậy, mà là những cảm hứng sáng tạo phá vỡ những lối mòn.
1.2. Văn xuôi Bình Nguyên Trang trong diện mạo chung của văn xuôi nữ
Việt Nam đương đại
19
1.2.1. Khái quát văn xuôi nữ Việt Nam đương đại
Nhắc đến văn xuôi đương đại có nghĩa là nói đến giai đoạn văn học từ năm
1986 đến nay. Có thể nói đây là dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự phát triển của
nền văn học nước ta trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. Văn xuôi
thời kì đổi mới, đã phản ánh chân thực những vấn đề mà nhà văn trăn trở, đi
sâu phản ánh cuộc sống của con người, những cảm hứng thế sự, đời tư được
các nhà văn khai thác và thể hiện triệt để trong các tác phẩm của mình. Thời kì
này, có thể kể đến một số cái tên tiêu biểu như: Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng,
Nguyễn Minh Châu,... Tiếp đến là một số nhà văn: Nguyễn Bình Phương, Chu
Lai, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh,… Càng về sau này, các cây bút văn xuôi
càng tỏ ra nhạy bén trong việc phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Đáp
ứng được yêu cầu của giai đoạn văn học mới cũng như yêu cầu của độc giả.
Trong những giai đoạn trước của văn học Việt Nam, các cây bút nữ không
chiếm ưu thế. Phải đến những năm 60 của thế kỉ XX, một số nhà văn nữ mới
khẳng định được vị thế của mình trên diễn đàn văn học nước ta. Sau năm 1975,
đặc biệt là sau năm 1986, nền văn học Việt Nam đương đại nổi lên một mảng
văn học nữ với một sức sống mới mẻ, một cách nhìn rất sâu sắc về hiện thực
của cuộc sống,… Tất cả tạo nên một diện mạo mới cho nền văn học nước ta.
Tiếng nói của các nhà văn nữ trong văn học khiến độc giả phải nghĩ khác về
một bộ phận văn học nữ. Không còn đi bên lề, văn xuôi nữ dần chiếm số lượng
lớn, sóng đôi với văn xuôi của các nhà văn nam giới, cùng làm nên một diện
mạo nói chung của văn xuôi đương đại nước ta. Đến đầu thập niên 90 của thế
kỉ XX, văn đàn Việt Nam xôn xao bởi sự xuất hiện của nhiều nhà văn nữ mới.
Phạm Thị Hoài gây ấn tượng với độc giả bằng một loạt những tác phẩm. Năm
1988, cuốn tiểu thuyết Thiên sứ ra đời, sau đó đã được dịch sang nhiều thứ tiếng
khác nhau như: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức,… Năm 1993, cuốn tiểu
20
thuyết Thiên sứ bằng tiếng Đức đã đoạt giải thưởng "Tiểu thuyết nước ngoài
hay nhất" của tổ chức Frankfurter LiBeraturpreis tại Đức. Năm 2000, cuốn tiểu
thuyết Thiên sứ với bản dịch bằng Tiếng Anh đã giành giải Dinny O'Hearn cho
thể loại văn học. Sau đó là một loạt truyện ngắn: Mê Lộ (1989) và Man Nương
(1995), Marie Sến (1996),… cũng để lại nhiều dấu ấn sâu sắc cho độc giả. Nhà
văn Y Ban khẳng định tên tuổi của mình với tập truyện ngắn Người đàn bà có
ma lực(1993), Đàn bà xấu thì không có quà(2004), I am Đàn bà(2006)…
Nguyễn Thị Thu Huệ là một cái tên quen thuộc với độc giả Việt Nam có số
lượng tác phẩm khá lớn với mỗi năm mỗi tập truyện ngắn: Cát đợi(1992) , Hậu
thiên đường(1994), Phù thủy(1997), Nào ta cùng lãng quên (2003) và gần đây
là Thành phố đi vắng (2012),… Chị là một trong số những nữ nhà văn được
độc giả yêu thích và gặt hái được rất nhiều giải thưởng quan trọng, hiện nay chị
là Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.
Ngoài những cái tên kể trên, còn phải nhắc đến những cái tên như Lý Lan,
Dạ Ngân, Bích Ngân,Trần Thùy Mai, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thanh Hà, Phan
Thị Vàng Anh,... cùng tạo dấu ấn khi còn khá trẻ với nhiều tác phẩm giá trị ở
thập niên 90 của thế kỉ XX. Một số nhà văn nữ đã đưa tên tuổi của mình ra
văn đàn thế giới. Tiêu biểu là nữ nhà văn Nguyễn Ngọc Tư với tác phẩm gây
nhiều tranh cãi Cánh đồng bất tận(2005) đã được trao Giải thưởng Văn học
ASEAN (2008), là nhà văn nữ duy nhất trong số 17 nhà văn được giải thưởng
từ 1996-2013).
Những đề tài được các nhà văn nữ hướng đến là những câu chuyện thường
ngày, chuyện tình yêu, hôn nhân, chuyện tủn mủn, và cả những vấn đề “quốc
gia đại sự”,... Cuộc sống hiện đại với sự đề cao tự do, dân chủ đã khiến người
phụ nữ sống cho mình và vì mình nhiều hơn. Họ biết trân trọng bản thân hơn,
về những khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc chính đáng của con người.
Những điều ấy được các nhà văn nữ trải lòng qua những tác phẩm I am đàn bà,
21
Người đàn bà có ma lực,… của Y Ban, Thiếu phụ chưa chồng (Nguyễn Thị Thu
Huệ), Tập yêu chồng (Phạm Thái Lê); Người đàn bà tên Hạ (Thùy Dương),...
Mỗi nhân vật, mỗi câu chuyện chính là những khía cạnh, những nhìn nhận,
đánh giá khác nhau của các nhà văn nữ.
Qua những tác phẩm của mình, các nhà văn nữ đã thể hiện suy nghĩ, quan
điểm của mình trước những khía cạnh của đời sống. Nhà văn Y Ban đã từng
nói: “Tôi muốn xã hội hãy đọc tác phẩm của các nhà văn nữ như một sự lắng
nghe, một sự thấu hiểu. Vì đó chính là tiếng lòng của họ, là những khát khao
tự giải phóng bản thân mình”. Như vậy, văn chương nữ trước hết là tiếng lòng,
là khát khao của những người phụ nữ, giúp họ trải nghiệm cuộc sống và thể
hiện cảm xúc của bản thân.
Nhìn chung, với một lực lượng ngày càng đông đảo, bằng sự nỗ lực và tài
năng của mình, các nhà văn nữ đã khẳng định được vị thế của họ trong dòng
chảy chung của nền văn học đương đại nước ta. Họ trở thành một bộ phận
không thể thiếu của nền văn học Việt Nam.
1.2.2. Hành trình sáng tác của Bình Nguyên Trang
1.2.2.1 Vài nét về tác giả
Bình Nguyên Trang tên thật là Vũ Thị Quỳnh Trang, sinh ngày 17/5/1977,
quê ở xã Hải Hà, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Chị là hội viên hội Nhà văn
Hà Nội, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Hiện chị là Phó Trưởng Ban Chuyên
đề Cảnh sát toàn cầu, Báo Công an nhân dân.
Vùng quê heo hút, tĩnh lặng Hải Hậu gắn liền với tuổi thơ chị đã in dấu
không ít lần trên trang viết với hình ảnh hoa gạo, những tiếng chuông ngân
trong không gian cuối chiểu mùa đông ảm đạm, với đồng đất, với làng, với
những gì giản dị, gần gũi nhất. Vào đại học, Bình Nguyên Trang học ngành
22
Báo chí. Ra trường chị về làm việc tại báo Tiền Phong, rồi được cơ quan cử đi
làm phóng viên thường trú tại Nam Định. Tuy nhiên, vì phải xa rời lĩnh vực
văn nghệ mình sở trường, yêu thích, Bình Nguyên Trang xin nghỉ và trở lại Hà
Nội, làm việc cho báo Sinh Viên Việt Nam và Hoa Học Trò - nơi chị từng đăng
những bài thơ, những truyện ngắn đầu tiên. Năm 2004, chị chuyển sang làm
phóng viên của Báo công an nhân dân – An ninh thế giới. Trong số hàng ngàn
phóng viên chuyên về văn hóa, văn nghệ, Bình Nguyên Trang đã nổi lên như
một cây bút được chờ đợi với lối viết mới mẻ, đầy cảm xúc.
Với tâm hồn nhạy cảm và năng khiếu thơ văn, Bình Nguyên Trang đến
với nghề viết từ rất sớm. Năm 18 tuổi chị đã xuất bản tập thơ đầu tiên và nhận
được nhiều giải thưởng của các tờ báo nổi tiêng dành cho học trò thời bấy giờ:
Hoa Học Trò, Mực Tím… Đến năm 20 tuổi, chị dành giải quán quân trong cuộc
thi sáng tác văn học Tác phẩm tuổi xanh do báo Tiền Phong tổ chức Dù cuộc
sống nhiều bộn bề nhưng tình yêu văn chương của chị vẫn được chăm chút với
một ý thức và bản lĩnh rõ ràng. Bình Nguyên Trang đã vượt qua những thách
thức đó để trở thành một bút danh được khá nhiều người biết và tìm đọc. Điều
này thể hiện trên mỗi trang viết của Bình Nguyên Trang, ở chỗ, những tác phẩm
vẫn đầy sức lôi cuốn trong hành văn, sự nồng ấm trong tình cảm, sự tinh tế
trong nhận xét.
Kể từ khi cầm bút đã hơn 20 năm tới nay, chị đã in 7 đầu sách. Chị trở
thành một gương mặt để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn học trẻ. Ngoài
các giải thưởng do Báo Hoa Học Trò, Áo Trắng, Mực Tím trao tặng, Bình
Nguyên Trang còn giành các giải thưởng quan trọng:
- Giải Nhất Tác phẩm tuổi xanh Báo Tiền phong 1997.
- Giải B Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam 2012 cho tập thơ
Những bông hoa đang Thiền.
23
Thể loại thành công nhất của Bình Nguyên Trang vẫn là thơ. Ban đầu, thơ
của Bình Nguyên Trang là tiếng lòng của một thiếu nữ mới lớn với những cảm
xúc, suy tư về tình yêu của lứa tuổi học trò, về tình yêu gia đình, yêu quê hương.
Sau đó, càng trưởng thành, thơ chị hướng nhiều hơn về các triết lí cuộc sống.
Bình Nguyên Trang thuộc lớp nhà thơ trẻ giàu sáng tạo, đổi mới nhưng không
xa lìa cội rễ văn hóa dân tộc, bộc lộ cái tôi cá nhân nhưng không sa vào cực
đoan, vượt qua ràng buộc của thơ truyền thống, tìm tự do trong sự hài hòa.
Đồng thời, Bình Nguyên Trang đã sớm biết nuôi nấng sự tĩnh tại trong hồn,
nghĩa là đã biết gạt bỏ dần sự phù phiếm. Khi biết giữ cho tâm hồn giản dị,
người làm thơ chắc chắn sẽ độc thoại được nhiều hơn với chính mình.
Về quan điểm sáng tác, chị cũng đã bộc lộ nhiều suy nghĩ riêng qua các
trang viết và bài phỏng vấn. Cụ thể:
Trong suy nghĩ về nghề văn, chị cho rằng nhà văn phải thật sự tâm
huyết, bản lĩnh với nghề. Khi giới trẻ có quá nhiều thú vui giải trí, thói quen
đọc sách báo không nhiều thì văn chương cũng không được đón nhận nhiệt
tình như trước. Trong một bài phỏng vấn, chị đã kể: “Bây giờ thì khác rồi,
các báo dành cho sinh viên học trò, tuổi trẻ nói chung không mặn mà lắm
với việc đăng tải tác phẩm của các bạn trẻ. Những thói quen giải trí mới
đẩy văn chương trở thành một trong rất nhiều lựa chọn của công chúng.
Cho dù mạng xã hội có thể là nơi giúp ích thiết thực việc bạn trẻ viết văn
tự đăng tải tác phẩm của mình, nhưng thiếu sự động viên, khuyến khích của
người đi trước, của báo chí truyền thông, thì rất khó để phát hiện các tài
năng mới. Cho nên, một bạn trẻ hôm nay mà chọn nghề viết văn, bạn phải
tự vượt qua mình rất nhiều. Phải bản lĩnh hơn, hy sinh hơn..” [38]. Chị từng
khẳng định: “Trò chơi chữ nghĩa nghiệt ngã ở chỗ nó chả đoái hoài đến
những con số đếm bao giờ. Sự ruồng rẫy của nó với bạn vẫn có thể diễn ra
24
ngay khi bạn đã miệt mài lao động, đã viết rất nhiều. Cố nhiên tôi không
biện hộ cho những người viết ít hay không viết, vì như thế thì chả có gì để
bàn. Sự lãng quên như bạn hỏi, tôi không sợ, vì tôi đã luôn sẵn sàng cho
việc đó. Bạn đọc có quyền quên đi những bài thơ dở và những nhà thơ dở.
Bởi lẽ văn chương có cái mặt ồn ào, ảo tưởng của nó. Mà người viết trẻ thì
lắm khi nóng vội, lại thêm chưa đủ trải nghiệm, vốn sống để tạo nên những
trang viết có chiều sâu.” [38]. Chị cũng khẳng định nghề văn là một nghề
khó. Trong xã hội hiện đại thì càng nhiều thử thách. Nhưng đã trót mê nó
thì không bỏ được. Nó đem lại cho ta niềm sung sướng sau khi đã vắt kiệt
cả trái tim và khối óc cho “đứa con tinh thần” ra đời.
Suy nghĩ về trách nhiệm của người cầm bút, chị nhận thấy muốn sống với
nghề văn cần sự trải nghiệm. Nhà văn phải sống tận cùng với chính mình, trải
nghiệm tận cùng những buồn, vui của đời sống may ra mới làm ra được cái
Thật trong tác phẩm. Những “chuyến đi” thực tế ý nghĩa nhất là việc của mỗi
cá nhân người viết. Đó không chỉ là những chuyến đi cơ học mà còn là những
chuyến đi trong tinh thần. Nó cũng không phải là những chuyến đi định lượng
thời gian như một tuần, một tháng hay một năm mà sẽ phải là định lượng sống
của người viết với cuộc đời này. Nhưng tài năng không đủ làm nên một tác
phẩm hay, nếu người viết không trải nghiệm, không có vốn sống. Những nhà
văn thế hệ trước chị thường hay khuyên, sống đã rồi hãy viết. Sống ở đây là
sống thực sự, sống thật, sống đến đáy cảm xúc của mình, không hời hợt, qua
loa, né tránh...Điều đó thể hiện rõ nét qua các tác phẩm của chị.
Suy nghĩ về sự sáng tạo, chị cũng bày tỏ: “Khi tôi xuất bản một tập thơ,
nghĩa là tôi có nhu cầu được “trình bày” trước bạn đọc một TÔI ít nhiều khác
so với TÔI của ngày hôm qua. Hình như điểm yếu nhất của thơ ca là nhà thơ
25
không thể giấu được con người thật của mình trong đó”[52]. Với chị sáng tác
thì tác phẩm sau gửi đến bạn đọc cần có gì đó mới mẻ hơn tác phẩm trước.
Như vậy, chị đã bộc lộ nhiều suy nghĩ riêng về văn chương và sự nghiệp
sáng tác. Dù ở quan điểm nào, ta cũng thấy sự nghiêm túc, nỗ lực hết mình của
một người làm nghệ thuật chân chính. Dù biết được khó khăn của nghề song
chị vẫn giữ vững được bản lĩnh sáng tác và luôn muốn làm mới mình.
1.2.2.2 Văn xuôi Bình Nguyên Trang
Được biết đến trước hết là một nhà thơ, Bình Nguyên Trang đã mạnh dạn
lấn sân sang ký chân dung, truyện ngắn. Truyện ngắn, ký chân dung của Bình
Nguyên Trang mang phong cách độc đáo. Bình Nguyên Trang dẫu không viết
nhiều, không đi vào những đề tài lớn, hầu hết là những chuyện thường ngày,
với những người thường gặp, kết cấu còn đơn giản như những nét phác về thân
phận con người, nhưng bù lại, chị có một lối văn mạch lạc, trữ tình, giàu chất
thơ và nghệ thuật phân tích tâm lý sắc sảo. Những tác phẩm của chị thực sự gây
xúc động và ám ảnh.
Tới giờ, chị đã để lại các tác phẩm tiêu biểu:
Chuyến tàu thời gian (tập truyện) (2000)
Sông của nhiều bờ (tập ký) (2012)
Mùa đom đóm mở hội (tập truyện) (2012)
Tìm trong cõi người (tập ký) (2013)
Những người đàn bà trở về (tập truyện) (2014)
Hoa gạo cuối trời (tập tản văn) (2014)
Có thể gọi tập kí Sông của nhiều bờ là tập kí họa nghệ sĩ. Tập kí kể về 50
chân dung nghệ sỹ với những câu chuyện đời thường của họ. Có thể kể ra đây
một số chân dung tiêu biểu: nghệ nhân hát xẩm Hà Thị Cầu, giáo sư âm nhạc
26
Trần Văn Khê, họa sĩ Lưu Công Nhân, nhạc sĩ Trần Tiến, hai cha con ca sĩ Trần
Hiếu - Trần Thu Hà, các nhà văn nhà thơ Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Khắc
Phục, Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Hồng Ngát…Qua danh sách tên tuổi các
nghệ sĩ, ta thấy Bình Nguyên Trang đã chọn được chân dung tiêu biểu của lĩnh
vực văn học - nghệ thuật. Ngòi bút của chị không dừng chân ở một địa hạt nào
mà khai thác chân dung nghệ sĩ trên hầu hết mọi loại hình nghệ thuật: âm nhạc,
hội họa, văn chương,…Ngay cả trong từng lĩnh vực chị cũng tìm ra được những
loại hình nghệ thuật đáng lưu ý, ví dụ: hát xẩm. “Qua ngòi bút báo chí tốc họa,
đó chưa phải là chân dung đầy đặn, nhưng cũng đủ cho người đọc tiếp cận với
một lớp người tài năng, nhiều người đa tài có đường đời biến động trong những
năm đất nước còn chiến tranh. Mỗi người một cảnh ngộ, hạnh phúc và bất hạnh
vô lường, nhưng đã góp những gì tinh anh nhất của đời mình để tạo nên một
thời đại văn học nghệ thuật với rất nhiều thành tựu.” [40].
Chân dung nghệ sĩ nào qua trang sách của chị cũng hiện lên với nét đặc
biệt không thể trộn lẫn trong tính cách và phong cách sáng tác. Có người nghệ
sĩ chị nhấn mạnh về sự nghiệp, có người lại chú trọng đến cá tính, lại có người
chỉ động đến chút tình riêng. Chị đã tiếp cận gần hơn với người nghệ sĩ tài năng,
đa tài. Dù mỗi người một cảnh ngộ, hạnh phúc và bất hạnh, nhưng họ đã đóng
góp tâm huyết của đời mình để tạo nên một thời đại văn học nghệ thuật nhiều
thành tựu. Nhờ chị, ta mới biết đến những chông gai trong đời nghệ thuật của
bao nhiêu người nghệ sĩ tài ba, biết được những tâm tư riêng mà các nghệ sĩ
chưa hề giãi bày. Có thể nói: Bình Nguyên Trang đã kéo gần người nghệ sĩ
tưởng rất xa xôi lại gần người đọc. Từ những gương mặt nghệ sĩ tiêu biểu ấy ta
có thể hiểu thêm về lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của nước ta trong những năm
gần đây. Bình Nguyên Trang đã dệt được một bức tranh tổng thể khá đầy đặn
27
về hoạt đông văn học nghệ thuật cả nước trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21
nhiều biến động.
Sở dĩ Bình Nguyên Trang viết nhiều và hay về nghệ sĩ là vì chị là một nhà
báo. Chị đi nhiều, có dịp gặp gỡ, trò chuyện của những văn nghệ sĩ ở nhiều lớp
tuổi, nhiều ngành nghệ thuật. Hơn nữa, trái tim nghệ sĩ trong con người Bình
Nguyên Trang dễ rung động, hòa nhịp đập với những người cùng giới sáng tác
như mình. Bình Nguyên Trang đã kể chuyện người khác bằng cả tâm hồn mình.
Tiếp theo là tập truyện ngắn Mùa đom đóm mở hội do NXB Văn học phát
hành tháng 6 năm 2012. Đây là những trang văn từ chính cuộc sống đời thường.
17 truyện ngắn trong Mùa đom đóm mở hội là những câu truyện mang đậm
nghĩ suy của nhà văn Bình Nguyên Trang về cuộc đời, đặc biệt là người phụ nữ
với những cảm xúc vui - buồn, được - mất, hạnh phúc - đau khổ và cả sự hối
lỗi, bao dung... Tính chất đời thường của tập truyện thể hiện rõ trong đề tài.
Bình Nguyên Trang chỉ tìm đến những lát cắt nhỏ của cuộc sống này, nhưng
qua đó chị đã nói được rất nhiều bài học sâu sắc. Nhân vật của Bình Nguyên
Trang phần lớn là phụ nữ - những người phụ nữ bình thường xung quanh chị.
Mỗi người mang một số phận, một suy nghĩ nhưng chung quy là đang trên
đường tìm đến với hạnh phúc còn xa xôi. Tiểu biểu, ta có thể thấy chân dung
những cô gái đang băn khoăn, trăn trở trong tình yêu như cô Mây trong Đời
còn có nhau. Rồi cả những cuộc đời bất hạnh song vẫn không cam chịu, như
mợ Thanh bất hạnh trong Mợ Thanh, dì Lê âm thầm cưỡng lại số mệnh trong
Dì Lê…,ba người phụ nữ như ba thế giới khác biệt sống chung dưới một mái
nhà trong Nhà có ba mẹ con. Đó còn là hình ảnh những cô gái chịu bi kịch do
thực dụng, như hình ảnh Huệ trong Huệ khôn ngoan của tôi. Đó còn là những
cô gái xinh đẹp mà khổ như Châu xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc phận trong
Hương bồ kết. Nhưng dù họ là người thế nào, lương thiện, tử tế hay còn có
28
những điểm này điểm khác thiếu hụt, dưới cái nhìn nhân hậu của Bình Nguyên
Trang, họ đều trở nên đẹp hơn, rất cần được thông cảm và sẻ chia…Dù là
chuyện gia đình hay tình yêu, cái kết của từng truyện trong tập truyện này luôn
là kết thúc mở khiến người đọc day dứt, sau bao đau khổ, bất hạnh, con người
luôn hướng đến niềm vui và hạnh phúc. Đó chính là thông điệp mà Bình
Nguyên Trang muốn gửi đến chúng ta qua những truyện ngắn của chị.
Thứ ba là tập Tìm trong cõi người. Trong cuốn sách này, Bình Nguyên
Trang vẫn viết dàn đều nhân vật ở nhiều lĩnh vực nhưng ưu ái hơn cho văn
chương. Ta có thể thấy những tên tuổi: Nhà thơ Bằng Việt, họa sĩ Trần Tiến,
danh họa Trần Trung Tín, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ, NSND Đoàn Dũng, nhà
văn Kim Lân, Y Ban, đạo diễn Phan Đăng Di, ca sĩ Đức Tuấn... Các nhân vật
trong trang viết của chị đều có sự hài hòa về tài năng cũng như cá tính sáng tạo.
Không lạc vào trong ảnh hưởng của người thuộc về công chúng, chị thường
dành ưu ái cho người làm nên giá trị văn hóa, đóng góp vào việc làm giàu cũng
như rộng mở tối đa thế giới tâm hồn đối với người thưởng thức. “Đúng là người
nhặt cuội cũng cần có cặp mắt tinh tường. Lê Trí Dũng đã cần mẫn nhiều tháng
năm trong vai người nhặt cuội. Chiếc túi đeo vải cũ sờn của người họa sĩ lính
ấy, chưa khi nào thiếu vắng những hòn cuội. Nó trĩu nặng tâm tư không chỉ của
riêng ông, mà của cả một thời ông và đồng đội ông đã sống” [33].
Cuối cùng là tập tản văn Hoa gạo cuối trời. Đây là ấn phẩm gần đây nhất
của Bình Nguyên Trang. Không tìm đến với đề tài về người nghệ sĩ như ở
những tác phẩm trước, ở tập tản văn này chị đã kéo tản văn lại gần cuộc sống
hơn khi đưa người đọc trở về những không gian của kí ức, cuộc sống thường
nhật đầy thân thuộc, ấm áp. Những gì chị viết đã đến độ chín của người phụ nữ
trung niên từng trải. Chị dám viết lên trang giấy là niềm an ủi, niềm hân hoan
đáng kể trong đời sống của mình; chị sáng tác bằng cả lòng thiết tha sống, và
tình yêu đó đã lan tỏa trong từng câu từ, nhịp điệu ngôn ngữ của chị. Bình
29
Nguyên Trang đã đi vào những câu chuyện thường nhật bằng giọng điệu thủ
thỉ, nhẹ nhàng: Bánh mì của lòng tin, Là ông chủ của chính mình, con nhé, Yêu
lấy mình, Tài sản của tâm hồn... Tập tản văn dịu nhẹ như cánh bướm đậu trên
hoa, khẽ lãng đãng, khẽ khàng tâm sự, triết lí: “Năm tháng khiến chúng ta già
đi, và những phút giây tận hưởng yêu thương cũng mất dần theo năm tháng.
Chúng ta nhìn xuống đôi tay chai sần của mình và tự hỏi, phải chăng chúng ta
đã quý trọng những phút giây lau nhà, giặt giũ, những đồng xu lẻ tích cóp...
hơn là những phút giây ngồi cạnh người bạn đời uống một ly trà buổi sáng,
hay một chiếc ôm, một lời thì thầm lúc đêm khuya. Yêu lấy mình, bạn sẽ thấy
cuộc đời đẹp hơn và bạn đẹp hơn. Khi bạn trở nên đẹp hơn, thì bạn sẽ được
yêu thương nhiều hơn. Và bạn hạnh phúc...” (Yêu lấy mình) [60,tr56]. Bình
Nguyên Trang cứ dịu dàng, nhẹ nhàng thế để dấn thân vào trò chơi của chữ
nghĩa, đem đến cho người đọc những câu chuyện rất nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận văn bàn về khái niệm và đặc trưng của hai thể loại
văn xuôi Bình Nguyên Trang: truyện ngắn và tản văn. Mỗi thể loại có đặc trưng
riêng song nó đều gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người. Tuy số
lượng câu chữ có hạn nhưng hai thể loại này lại có “sức chứa”, “sức mở” lớn.
“Sức chứa” của truyện ngắn là ở việc tóm bắt được khoảng khắc cuộc sống ý
nghĩa thì với tản văn đó là ở cách viết không câu nệ, có thể mượn vật gửi gắm
tình cảm, phát biểu quan điểm. Bình Nguyên Trang đã tìm đến hai thể loại này
như một cách trải lòng mình. Lối viết văn mạch lạc, trữ tình, giàu chất thơ và
nghệ thuật phân tích tâm lý sắc sảo của chị đã thực sự làm những trang văn có
hồn. Chính vì thế mà dù dấn sân vào văn xuôi sau thơ ca, song chị vẫn đạt nhiều
thành công. Sơ lược nội dung của ba tập truyện ngắn và tản văn của Bình
30
Nguyên Trang, người đọc sẽ nhận thấy ranh giới khá mờ giữa chúng. Quan
trọng hơn, cả truyện ngắn và tản văn của Bình Nguyên Trang đều thấm đẫm
chất thơ. Điều này làm nên đặc trưng trong phong cách nhà văn. Tìm hiểu văn
xuôi của Bình Nguyên Trang ta sẽ được bước vào thế giới gần gũi quanh ta
nhưng nó lại mở ra những nghĩ suy mới mẻ. Những nội dung này sẽ là cơ sở để
chúng tôi triển khai chương 2 và 3.
Chương 2
CẢM HỨNG VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TRONG VĂN XUÔI
CỦA BÌNH NGUYÊN TRANG
2.1. Cảm hứng về cuộc sống
2.1.1. Những suy nghĩ về cách sống
Văn xuôi của Bình Nguyên Trang giàu dự cảm, bộc lộ triết lý về cách sống
đáng suy ngẫm. Cũng giống như giọng văn, những triết lí ấy trong sáng, giản
dị, lấy nguyên liệu từ chính cuộc sống hàng ngày. Bằng nội tâm phong phú,
nhạy cảm, Bình Nguyên Trang đã cô đọng triết lí gắn với những khát khao, ước
vọng chân thực và đời thường nhất.
31
Trước hết là những triết lí về hạnh phúc. Hạnh phúc là điều tưởng chừng
như đơn giản nhưng không phải ai cũng có và nắm giữ được, nhất là trong cuộc
sống hiện đại, khi mà cuộc đời vẫn đặt ra nhiều vật cản để tới hạnh phúc. Từ
những khát khao rất đỗi đời thường, bình dị như phải có, họ đã chứng tỏ một
điều, khát khao về một cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp là vô tận. Từ đó, qua
những trang viết của mình, tác giả đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận,
hạnh phúc và quyền sống của con người trong cuộc sống hôm nay.
Vấn đề trước hết mà chị đặt ra là khái niệm hạnh phúc. Đây đã từng là
điều mà nhiều nhà thơ, nhà văn lớn quan tâm. Nói về vấn đề không mới ấy,
Bình Nguyên Trang chọn cách riêng: kể chuyện, khai thác diễn biến tâm lý rồi
mới nhẹ nhàng đúc kết. Nhân vật Mây trong truyện ngắn Đời còn có nhau yêu
Tình ròng rã bao nhiêu năm, chẳng ai phản bội ai, nhưng cô cảm thấy tình yêu
nhàm chán, chai mòn. Mây và Tình đều không dám nghĩ đến chuyện xa nhau, họ
hoảng hốt nếu mất nhau. Nghĩ về Tình, cô buồn chán, khổ đau, tiếc nuối vì đã yêu
nhau như thế trong một thời gian dài. Tình lại tốt và lịch thiệp. Nhưng tình yêu
của họ sao giống một ngọn lửa, không chết mà cứ nguội dần. Thế mà cứ mỗi lần
gặp nhau là bải hoải, cạn kiệt như bị rút dần năng lượng. Họ không thấy vui, ấm
áp như ngày mới yêu. Cô không cần gì khác nhưng sao vẫn thiếu. Điều đó làm
Mây hoang mang. Cuối cùng, cô đành bất lực: “ Chúng mình cứ thế này cũng tốt
rồi. Em vẫn còn có anh là được.” [55;tr2]. Sống thế này là sống không còn tình
yêu nhưng vẫn không đủ can đảm để rời bỏ hay làm mới tình cảm ấy. Câu hỏi mà
Mây đặt ra cho hạnh phúc của mình là: “Ngày xưa ríu ran hạnh phúc, giờ ở đâu
rồi?”, “Nếu hai người cưới mình thật thì liệu có hạnh phúc không?” [55;15]. Từ
câu hỏi đó, truyện đã đặt ra một triết lí về hạnh phúc trong tình yêu: tình yêu không
chỉ cần sự an toàn, nó cần sự mới lạ, mê đắm. Thời gian có thể làm chết đi ngọn
lửa mê đắm của cả hai. Không còn cách nào khác là nhen lại ngọn lửa ấy. Nếu
32
không, đôi lứa sẽ mãi mãi là hai mảnh đời song song, không thể hợp thành mái
ấm được.
Còn Phương trong Mong đợi chủ nhật lại đặt câu hỏi với người yêu: "Anh
có cho rằng em sẽ hạnh phúc khi bên anh không?" [55;tr30]. Hôn nhân chẳng
còn là cứu cánh của cuộc tình giữa giữa Phương và Đức. Hạnh phúc đang trong
tay nhưng ý nghĩ chối bỏ đã nẩy sinh trong lòng. Sự nghi ngại thể hiện trong
lời tự vấn của Phương: "Hay là người ta chỉ cảm thấy hạnh phúc trên chính con
đường tìm đến với hạnh phúc, chứ không phải khi đã tìm thấy hạnh phúc?".
[55;tr30]. Những câu chất vấn của Phương cũng cho thấy nét tâm lí bình thường
của con người trong tình yêu: yêu lâu sinh ra nhàm chán. Tình cảm cũng như
mọi thứ vật chất, đầy đủ rồi con người ta đâm coi thường. Tuy đây là phút lòng
xao động của một cô gái nhưng nó nói hộ tâm trạng của biết bao người trong
tình yêu. Nhiều khi họ không hiểu nổi bản thân tại sao lại chán nản dù tình yêu
đang tồn tại. Bình Nguyên Trang không trả lời. Chị chỉ để dành những trang
viết kể lại cuộc gặp gỡ chán nản của các đôi lứa để độc giả tự rút ra câu trả lời:
tình yêu cũng như cây cối, cần sự chăm sóc; tình yêu cũng như việc ăn uống,
nghe nhạc; cần phải mới lạ, tránh nhàm chán. Đến với tình yêu là tới với nghệ
thuật sống. Để tới lúc nó đi vào nhàm chán thì con đường tới với hôn nhân hoàn
toàn bế tắc.
Từ cái nhìn đầy lo lắng về hạnh phúc trong tình yêu, Bình Nguyên Trang
lại thể hiện sự lo lắng về hạnh phúc trong hôn nhân với những câu hỏi tự vấn.
Trong Đời còn có nhau, nhìn thấy cuộc sống hôn nhân của anh chị mình, Mây
đặt ra một loạt câu hỏi: “Chỉ nói có thế thôi là chị Vinh có việc phải ra ngoài.
Chị mặc bộ váy xanh. Chả hiểu anh rể thế nào lại cứ để chị đi tối ngày như thế.
Tại sao lại chấp nhận một cuộc sống chung với những chiếc đinh lung lay như
thế? Họ cho nhau tự do, cả con cái cũng chưa, để đỡ ràng buộc. Nhưng họ là vợ
33
chồng, đi về êm ấm.” [57;tr2]. Cô gái đa cảm Mây không hiểu được cuộc sống
hôn nhân ấy nên chỉ càng thêm đau đầu: Liệu cuộc sống hôn nhân ấy đi tới đâu?
Anh chị Mây liệu có là những cái đinh lung lay không? Chưa trả lời được thì Mây
đã lại nhìn thấy cảnh anh rể đi với gái: “Mây nhoài người nhìn theo chiếc xe phân
khối lớn phía trước đang lạng lách, hoan hỉ. Đúng là xe anh rể. Ngồi sau xe không
phải chị Vinh. Một cô bé. Váy ngắn cứ như sắp sửa tung lên trời. Mây chợt nhớ
lời chị Vinh nói lúc chiều: “Ở đời thiếu cái gì ta tìm cách bù đắp cái đó.” [57;tr2].
Cảnh tượng trái ngang khiến Mây choáng sốc... Phải chăng từ đó, Bình Nguyên
Trang không chỉ nói lên thực trạng hôn nhân lỏng lẻo hiện tại mà chị đang nói lên
một triết lí trong hôn nhân: không xuất phát từ những tình yêu đích thực, hôn nhân
chỉ là sự trói buộc khiên cưỡng của hai con người, trong đó, nó ẩn chứa bao nhiêu
mầm mống của ích kỷ, ngoại tình, lừa dối…
Với những người trẻ tuổi, tình yêu đòi hỏi sự rung cảm của đôi bên, là sự
chủ động hi sinh, dâng hiến của mỗi người. Nhưng với những người từng trải,
hạnh phúc trước hết là yêu chính mình. Trong tập tản văn Hoa gạo cuối trời, ta
thấy Bình Nguyên Trang đã nhắc đi nhắc lại điều này. Cách nói nhẹ nhàng như
rút ra từ chính bản thân chị nhưng thấm đượm những trải nghiệm già dặn. Đó
là triết lí sống, sống cho bản thân và sống để là một người tử tế: “Năm tháng
khiến chúng ta già đi, và những phút giây tận hưởng yêu thương cũng mất dần
theo năm tháng. Chúng ta nhìn xuống đôi tay chai sần của mình và tự hỏi, phải
chăng chúng ta đã quý trọng những phút giây lau nhà, giặt giũ, những đồng xu
lẻ tích cóp... hơn là những phút giây ngồi cạnh người bạn đời uống một ly trà
buổi sáng, hay một chiếc ôm, một lời thì thầm lúc đêm khuya. Yêu lấy mình,
bạn sẽ thấy cuộc đời đẹp hơn và bạn đẹp hơn. Khi bạn trở nên đẹp hơn, thì bạn
sẽ được yêu thương nhiều hơn. Và bạn hạnh phúc...”[60;tr53]. Hạnh phúc sẽ
đến khi ta tự yêu chính mình trước nhất. Nếu mình đẹp, mình hạnh phúc, thì
34
những người thân của mình cũng hạnh phúc theo. Khi mình hạnh phúc, mình
có thể quan tâm đến mọi người và rộng lòng đón nhận niềm yêu thương từ họ.
Đây là triết lý đầy tính nhân văn.
Bên cạnh vấn đề hạnh phúc, chị trăn trở với vấn đề cách sống. Trong nhiều
truyện ngắn, Bình Nguyên Trang đã mô tả lại lối sống thực dụng của con người
như một đòn bẩy để khắc sâu hơn quan điểm sống nhân văn “ở hiền gặp lành”.
Nhà Phật quan niệm “gieo nhân nào gặt quả ấy”, những con người lọc lừa
thường không có kết cục có hậu. Trong Huệ khôn ngoan của tôi, nhân vật chính
là Huệ - cô gái xinh đẹp, có ăn có học nhưng không tự lập mà sống bám vào
đàn ông để có nhà ở, có tiền tiêu xài. Cuối cùng cô phải chịu cái chết đau đớn,
quằn quại, tội nghiệp, vì đau đẻ giữa đường mà không có ai đưa tới viện. Truyện
đã phần nào cảnh báo về quan niệm cuộc sống sai lệch như của Huệ. Từ đó,
Bình Nguyên Trang cũng rút ra kết luận: "Đôi khi người ta chết ngay khi đang
sống" [55;tr48]. Cũng phê phán lối sống tầm gửi, truyện Vết thương ngày cũ là
các cung bậc tâm trạng của cô gái: từ chỗ cuồng nhiệt, đắm đuối yêu vẻ ngoài
phong trần với những giọt đàn phiêu lãng tới khi phát hiện ra thực chất người
yêu chẳng biết làm gì ngoài việc ngửa tay xin tiền mình để đầu tư cho quần áo,
đầu tóc, làm đẹp cái mác nghệ sĩ. Thì ra, vẻ ngoài chỉ đem đến thứ tình cảm
nhất thời, bởi "dường như trong đáy sâu của bất kỳ người phụ nữ nào cũng đều
suy nghĩ, đều cần một người đàn ông không bao giờ đụng đến tiền bạc của
mình" [55;tr104]. Mọi mối quan hệ đều cần rõ ràng về tiền bạc, không lợi dụng
nhau, huống chi là tình yêu. Cho nên, lối sống thực dụng không bao giờ đi cùng
tình yêu chân chính, lâu bền. Nó chỉ phù hợp với những con người phù phiếm,
ích kỉ, vụ lợi. Truyện nói vấn đề rất thực tế như tiếng chuông cảnh tỉnh những
con người đang ngày đêm sống cuồng quay trong một xã hội
35
Trong một số truyện khác, Bình Nguyên Trang lại thể hiện triết lí cuộc đời
qua những ẩn ức về thời gian. Ở truyện Chuyến tàu thời gian, tác giả đã xây
dựng hình ảnh chuyến tàu như biểu tượng của thời gian trôi vùn vụt. Ở đó, con
người nếu không kịp lên tàu thì sẽ bị bỏ lại trong muôn vàn tiếc nuối. Nhân vật
Bình là người như vậy. Khi thấy chuyến tàu đi mất, Bình thấy người trống rỗng.
Cô rút ra một triết lí buồn bã về cuộc đời, về biết bao con người không chớp
kịp cơ hội của thời gian: “Thì ra chẳng mấy ai biết dừng lại đúng lúc. Hoặc là
sớm, hoặc là muộn. Luôn luôn thế.” [55;tr86]. Việc lỡ tàu khiến cô liên tưởng
đến việc bà ngoại đã vội vàng đi mất, chẳng kịp cho mẹ cô chăm sóc, chẳng kịp
cho cô lưu giữ kỉ niệm. Bà đi nhanh như chuyến tàu mọc cánh bay mất. Chỉ
còn lại trên sân ga sự tiếc nuối quá muộn màng của người cháu. Suy nghĩ này
của Bình đã bắt gặp suy nghĩ của nhân vật Nhĩ trong Bến quê của Nguyễn
Minh Châu. Cả hai con người đều nuối tiếc khi không còn thời gian, cơ hội
thực hiện những gì mình mong muốn. Nếu Nhĩ thấy cuộc đời con người hay sa
vào những cái chùng chình thì Bình thấy cuộc đời con người chả ai biết dừng
đúng lúc. Câu chuyện với lối suy nghĩ già dặn đã để lại cho trang viết của Bình
Nguyên Trang dấu ấn sâu sắc, dù lúc chị viết truyện ngắn này, chị còn rất trẻ.
Cũng gắn với thời gian, song có tác phẩm, Bình Nguyên Trang lại thể hiện
triết lí về sự tha thứ. Thời gian có thể cuốn đi sai lầm, đau buồn và để lại phù
sa của lòng vị tha. Vị tha sẽ nối kết con người với con người, hàn gắn quá khứ
đau buồn. Trong truyện Gia đình, toàn bộ bi kịch của một gia đình được thuật
lại như một cuốn phim quay chầm chậm, từ khi ông chồng lãng tử bỏ vợ con
mà rong chơi hết thời trai trẻ. Quãng đời vất vả của người vợ, người mẹ không
gì có thể bù đắp. Những tưởng thù hận phải chất chồng thành núi trong lòng
người vợ tảo tần, mỏi mòn theo năm tháng. Thế nhưng, thật bất ngờ: “… một
buổi chiều cuối thu xám xịt mây trời, bố xuất hiện trước cổng nhà. Khi ấy mẹ đang
36
ngồi tựa cửa, tập nhai trầu giống bà ngoại. Bà thường bảo: “Ăn trầu sẽ thấm thía
đầy đủ mọi dư vị của cuộc đời. Cay đắng, mặn nồng đều có.”. Mẹ nhận ra bố
ngay. Và mẹ hỏi, như thể bố chưa từng bỏ mẹ con tôi mà đi mười mấy năm qua:
“Mình về đấy à?”. Mắt bố tôi nhòa nước. Chắc chắn là điều dịu dàng ấy không
có trong hình dung ngày quay về của bố. Bà tôi chống gậy ra khỏi buồng, nheo
mắt nhìn bố tôi rồi lại nhìn lên trời dõi theo đàn chim đang hối hả bay về phương
nam, rồi bà chống gậy đi vào buồng” [57;tr75]. Truyện không gay cấn, không trữ
tình ngoại đề, nhưng chúng ta vẫn thấy tính nhân văn sâu sắc qua câu hỏi của
người mẹ và cái nhìn của người bà. Đó là triết lí về sự thứ tha: thời gian đủ dài
làm người ta hối cải và sẽ đủ dài để thứ tha lỗi lầm. Sự thứ tha đi kèm với thời
gian là sự thứ tha điềm tĩnh và sâu sắc đến lạ.
Tính triết lý trong văn xuôi Bình Nguyên Trang như cũng trưởng thành
theo năm tháng. Trong các tác phẩm được chị viết ở thời thanh niên, vấn đề
được quan tâm nhiều hơn cả là tình yêu lứa đôi. Tới thời kì trung niên, văn xuôi
của chị chú trọng nhiều hơn tới hạnh phúc đích thực- đó là những suy nghĩ rất
“chín”, nó gắn liền mỗi con người với cuộc đời. Dù có một chút bâng khuâng
về thời gian qua đi song giọng điệu nhìn chung vẫn đầy thiết tha với cuộc sống.
Những triết lí này đã góp phần thể hiện một nội tâm thật phong phú, nhạy cảm
và nữ tính.
2.1.2. Những cảm xúc đẹp về cảnh vật thiên nhiên
Tác phẩm của Bình Nguyên Trang rất chú ý tới không gian thiên nhiên,
tới thời gian, nhất là trong tản văn. Ngay cả những bài viết muốn thể hiện nghĩ
suy cũng có sự gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Nhiều câu truyện buồn, chị
cũng thường giảm bớt độ căng thẳng bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên
bằng ngôn ngữ trữ tình, sâu lắng. Dưới ngòi bút đầy nữ tính của chị, tâm hồn
con người như một cung đàn kì diệu sẵn sàng rung lên những thanh âm vừa
37
mơ hồ, vừa lắng đọng. Thiên nhiên vốn đa sắc màu dưới ngòi bút của chị bỗng
trở nên tha thiết, mến thương, gần gũi đến lạ lùng. Thậm chí, thông qua mô tả
thiên nhiên nhà văn vẫn có thể thể hiện cái nhìn cuộc đời. Điều đó tạo nên
những cảm xúc khó quên trong trang văn của chị. Nói cách khác, thiên nhiên
trở thành nền cảnh để cảm xúc trở nên sinh động hơn. Đọc các tác phẩm,
chúng ta thấy thiên nhiên hiện lên vô cùng sinh động với nghệ thuật mô tả
tài tình. Thiên nhiên như có linh hồn và chứa đựng biết bao quan niệm sống
của con người. Những yếu tố thiên nhiên như một phông nền mĩ lệ để các nét
đẹp văn hóa đi vào lòng người đọc sâu sắc hơn. Thiên nhiên được khắc họa
trong tác phẩm của chị là một trong những yếu tố làm nên thành công của
chị. Có thể nói, các đoạn văn mô tả thiên nhiên là những đoạn hay nhất trong
tác phẩm. Nó sinh động, gần gũi song lại mang tâm trạng rất cô đơn của nhân
vật trữ tình.
Trong tản văn Hoa gạo cuối trời, cảm xúc mãnh liệt về cây hoa gạo đã
làm sống dậy kí ức về tuổi thơ của tác giả:
“Năm ấy mẹ sinh em, mùa đói
Tháng Ba nhọc nhằn hoa gạo rụng hố vôi” [60;tr10]
Tác giả đã dành cho cây hoa gạo một tình cảm lớn lao. Đó không chỉ là
loài cây gắn với mùa sinh của tác giả, không chỉ là loài cây của quê hương mà
bởi cây gạo ấy đã tạo nên những rung cảm vừa cao cả, vừa nhân văn. Có thể
nói những dòng văn về hoa gạo là những dòng văn đẹp bậc nhất; sắc đỏ hoa
gạo gợi nhiều liên tưởng và kỷ niệm về “một tuổi thơ đồng đất, gắn với làng,
với những gì giản dị, gần gũi nhất. Tôi cũng là đứa trẻ rời cha mẹ đi xa từ khi
còn rất nhỏ. Và ký ức trong tôi, thường có màu đỏ của bông hoa gạo. Tôi yêu
loài hoa này bằng một tình yêu rất khó gọi thành lời. Tôi nhớ những ngày
38
tháng ba mưa phùn rét mướt, cái mùa đói khốn khó ở nông thôn, cũng là mùa
hoa gạo bung đỏ một góc trời, như khát vọng của những phận người nơi quê
nghèo, luôn muốn vươn lên, bay lên khỏi hiện thực mình đang sống. Trong
hình ảnh bông hoa gạo có hình ảnh của bà tôi, của mẹ tôi, của chị tôi. Một
hình ảnh rất thân phận, vừa cam chịu vừa không bằng lòng với số phận. Khi
tôi viết một bài thơ về quê hương, về mẹ, màu đỏ của bông hoa gạo cứ chập
chờn như một ký tự nghệ thuật để tôi gửi gắm, ký thác những tình cảm của
mình - một người cầm bút đi ra từ làng quê: “Hoa gạo đỏ/ Người cắm biển
quê nhà trong hồn tôi/ Mùa rưng rưng khói/ rơm rạ ủ/ ngày không phố xá/ cho
tôi về nhận mặt cố hương” [12]. Rõ ràng, với hình ảnh hoa gạo, chị đã đưa
người đọc trở về những không gian của kí ức tuổi thơ, cuộc sống thường nhật
đầy thân thuộc, ấm áp và gần gụi. Đặc biệt, nó gắn với hình ảnh gia đình thân
thương, với quê hương mà không ai không có.
Còn trong truyện Mùa đom đóm mở hội, tác giả đã xây dựng một biểu
tượng đẹp của thiên nhiên làng quê ngay từ nhan đề và khép lại ở phần cuối
tác phẩm. Đó là hình ảnh những con đom đóm rực rỡ, lập lòe trong đêm. Nó
làm không gian vừa đậm chất quê đồng thời miêu tả được nỗi cô đơn của nhân
vật. Không gian truyện thoạt đầu gợi không gian hoang vu, tối tăm. Nhưng với
cách xây dựng hình ảnh trữ tình của tác giả, về cuối truyện, không gian ấy dần
trở thành không gian tâm linh với những ánh sáng rực rỡ như mở hội. Trong
khung cảnh linh thiêng ấy, linh hồn đứa con đã mất trở về bầu bạn với mẹ nó.
Nỗi buồn, cô đơn giảm đi, chỉ còn lại một khoảng không bâng khuâng, nhẹ
nhàng.
Đọc truyện ngắn, độc giả được trở về với những cảnh thanh bình, chứa
chan thi vị chốn thôn quê, nơi nương náu cuối cùng của dĩ vãng. Không gian
thơ mộng mang phong vị đồng quê đậm đà ở đây ứng với trạng thái tâm lí mơ
39
hồ, hư ảo của con người, đồng thời mở ra bao nỗi niềm yêu thương, gắn bó
với cảnh vật, con người quê hương. Thấm đượm trong mỗi trang viết của chị
là xúc cảm đằm sâu đối với hình sông dáng núi của dân tộc.
Đọc lại các tác phẩm của Bình Nguyên Trang, ta càng thấy man mác một
không gian thiên nhiên trữ tình, vừa mơ hồ, vừa lắng đọng. Có thể nói, với chị,
được gần gũi với thiên nhiên bao nhiêu thì càng hạnh phúc bấy nhiêu. Thiên
nhiên giống như một liều thuốc giải tỏa căng thẳng cực hữu hiệu đồng thời
cũng là nơi chị gửi gắm tâm sự. Và bằng giọng văn du dương, chị muốn truyền
hạnh phúc ấy đến tất cả người đọc.
2.2. Cảm hứng về con người
2.2.1. Ca ngợi, bênh vực người phụ nữ
2.2.1.1. Xót xa những thân phận nhỏ bé, bất hạnh luôn khao khát hạnh phúc
Trong các nhân vật chính, nhân vật phụ nữ và trẻ em được nhà văn quan
tâm nhiều nhất. Bởi họ lúc nào cũng là người chịu thòi nhất trong cuộc sống,
ngay cả trong cuộc sống đương đại như hiện nay. Nhân vật của Bình Nguyên
Trang phần lớn là phụ nữ - những người phụ nữ bình dị quen thuộc quanh chị.
Đó là các mợ, các dì, các chị, là cô em gái tật nguyền… Bình Nguyên Trang đã
xây dựng nên một thế giới nhân vật sinh động, như đang hiện trong cuộc sống
thật. Những chi tiết, hành động, sự việc của nhân vật rất đời thường, là những
câu chuyện xảy ra hàng ngày xung quanh ta. Nhìn chung, hình ảnh người phụ
nữ trong tác phẩm của chị cùng chung dòng cảm hứng về người phụ nữ trong
văn học Việt. Họ là những người có số phận luôn bị vùi dập vào vũng lầy đau
khổ, gặp nhiều đau khổ, lận đận, tình duyên trắc trở, số phận hẩm hiu, éo le.
Nghĩ về các nhân vật nữ trong truyện ngắn hay tản văn của Bình Nguyên Trang
là nghĩ về cả một cánh rừng bị cơn bão quật đổ tan tác, cây ngã đè lên nhau
ngổn ngang. Ở đó, Bình Nguyên Trang như lần mò xem xét từng cây, nhặt
nhạnh từng cành để tái hiện cơn bão số phận ập vào cuộc đời của những nhân
40
vật phụ nữ. Hầu hết trong các truyện ngắn của chị, ta chẳng tìm thấy một niềm
vui. Dẫu tác giả đã ý thức và dành nhiều ưu ái hơn với họ nhưng cuộc đời của
những người phụ nữ này vẫn không tránh khỏi hai chữ “bạc mệnh” và số phận
bi kịch. Ở đây tác giả đã có sự gặp gỡ với nhà thơ Xuân Quỳnh ở những câu
thơ:
Anh tính nỗi đau, niềm vui bằng tháng bằng tuần lễ
Nhưng với em, em hiến cả một đời
(Thơ viết cho mình và những người con gái khác)
Bao trùm lên số phận các nhân vật là tấm lòng đồng cảm, nỗi niềm thương
cảm của tác giả. Đó là những người phụ nữ hiện đại ở thành phố- tưởng như cuộc
sống đủ đầy làm họ thỏa mãn và hạnh phúc- nhưng thực ra, mỗi con người đều có
những bi kịch riêng. Đó là nỗi hoang mang đến hụt hơi vì mối tình kéo dài mấy
năm nhưng ngày càng nhạt nhẽo, nhàm chán, bế tắc của cô Mây trong Đời còn có
nhau. Đó là nỗi bất hạnh của ba người phụ nữ- ba thế giới, ba cách sống, ba cá
tính khác biệt tồn tại riêng rẽ trong một mái nhà không có hơi ấm gia đình trong
truyện Nhà có ba mẹ con. Đó là nỗi đau xé ruột của người mẹ khi phải đưa đứa
con gái của mình từ phòng co-vắc trở về. Đó là nỗi bức bí tột cùng của những
cô gái không tìm thấy lối thoát giữa những căn phòng chất chồng ngột ngạt như
bao diêm ở phố thị với những con người miệt mài theo đuổi những vòng xoay
danh vọng…
Niềm thương của Bình Nguyên Trang nghiêng nhiều hơn về những người
phụ nữ nông thôn. Trong Mùa đom đóm mở hội, ta thấy chân dung bất hạnh từ bé
của dì Lê. Từ nhỏ đã không xinh đẹp, lại tàn tật, không được học hành, sống cô
đơn, hoang dại. Không chịu số phận, dì vẫn quyết sinh một bé gái và chăm bẵm
nuôi con hết lòng. Tưởng rằng người phụ nữ bất hạnh ấy đã bén mùi hạnh phúc
thì đột nhiên đứa con- niềm yêu thương, niềm hi vọng, niềm tin sống của dì- bị
41
điện giật chết. Từ đây, bất hạnh mới lên tới đỉnh điểm của nó. Ngôi nhà hoang
của dì Lê trở thành nơi tụ hội của đàn đom đóm. Lòng thương cảm của người
kể chuyện đến đây dềnh lên đến thắt ruột, trong câu kết: "Riêng ngôi nhà sát
bờ sông, dì Lê tôi để cho đom đóm về mở hội, bởi dì tin rằng trong muôn vàn
đốm sáng nhỏ nhoi ấy, có Gái thân yêu của dì"…[55;tr108]. Nỗi cơ cực của dì
trước là một thì sau khi con dì chết, nó nhân lên gấp trăm, gấp vạn không gì có thể
nguôi ngoai được.
Đó còn là hình ảnh một mợ Thanh bất hạnh trong Mợ Thanh người phụ nữ
khốn khổ bị cả nhà chồng xa lánh, khinh ghét vì không thể có con. Đã vậy mợ
phải chịu cảnh sống cách xa chồng đằng đẵng, cô đơn đến cùng cực. Ngày vợ
chồng tái hợp ngắn chẳng tày gang, chồng mợ chết bỏ lại mợ đối diện với trăm
ngàn tủi cực cùng áp lực từ phía gia đình chồng. Ê chề, khốn khổ, mợ bỏ nhà đi
theo tiếng gọi tình yêu nhằm vớt vát chút thanh xuân còn xót lại. Nhưng rồi, bi
kịch mới lại xuất hiện khi bị gia đình chồng cũ bắt quả tang và đỉnh điểm là cái
chết khi đã mang thai đứa con đầu lòng.
Trong tác phẩm của Bình Nguyên Trang, những người phụ nữ bất hạnh do
nhiều nguyên nhân. Họ bị hành hạ, đánh đập, đầy đọa cả thể xác lẫn tinh thần( mợ
Thanh, dì Lê). Cũng có thể nỗi bất hạnh là hậu quả của cách sống, lối nghĩ của
chính họ (Huệ, Hà…). Nhưng dù họ là người thế nào, lương thiện, tử tế hay còn
có những điểm thiếu xót thì dưới cái nhìn nhân hậu của Bình Nguyên Trang, họ
đều trở nên đầy đặn hơn, đẹp hơn, rất cần được thông cảm và chia sẻ. Truyện ngắn
của tác giả đã phơi bày những bi kịch đầy lo lắng, sợ hãi, nhưng nhà văn vẫn
không mất niềm tin vào con người và cuộc sống. Những nhân vật phụ nữ của
chị dù già hay trẻ, dù đã yên ấm gia đình hay đang đổ vỡ, dù thiếu nữ hay thiếu
phụ đều có một điểm chung nhất, đó là những tâm hồn khát yêu, luôn luôn tất
tả trên hành trình kiếm tìm tình yêu. Ước mơ của những người phụ nữ rất giản
dị là sẽ có một người đàn ông lí tưởng – người sẽ mang lại hạnh phúc cho họ,
42
sẽ gây dựng cho họ một mái ấm gia đình, một cuộc sống tốt đẹp không còn
những con người bất hạnh, khổ đau; không còn nỗi cô đơn của người đàn bà
chưa từng được nếm vị ngọt ngào lẫn đắng cay của hạnh phúc làm vợ, làm mẹ;
của người phụ nữ khi không tìm thấy chỗ neo đậu cho khát vọng tình yêu.
Người phụ nữ trong truyện của chị thường mang trong mình một tình yêu đợi
chờ, khát khao nhưng chẳng bao giờ thực hiện được, họ thường chịu đau khổ
thậm chí mất mát. Cũng vì vậy mà truyện nào cũng chan chứa hoài niệm và
ước mơ về một tình yêu, một hạnh phúc mong manh khó nắm giữ, truyện nào
cũng là day dứt, trở trăn trong tình yêu đuổi theo suốt đời họ. Tình yêu, hạnh
phúc, ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp là những nỗi khát khao rất chân chính,
đời thường của con người. Các nhân vật trong truyện ngắn của chị đều đã trực
tiếp hoặc gián tiếp nói lên những ước mơ, khao khát của mình. Họ bước vào
cuộc đời với hi vọng về những điều hạnh phúc để bù đắp, khỏa lấp sự trống
vắng, thiếu hụt trong đời sống khốn cùng của thực tại. Những nỗi khao khát
đẹp đẽ đó đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn cho những nhân vật của Bình Nguyên
Trang. Dù còn mang nhiều vị đắng nhưng tình yêu luôn được diễn tả như một
niềm khát khao vĩnh hằng của con người, đặc biệt ở người phụ nữ.
2.2.1.2. Trân trọng những tấm lòng bao dung, giàu đức hi sinh
Trong nhiều câu truyện, tác giả đã dựng lên hình tượng những người đàn
bà nhẫn nhục, sẵn sàng hy sinh chịu đựng, luôn luôn chăm lo nuôi dạy con cái,
dù phải vất vả mưu sinh. Họ toát lên vẻ đẹp đáng quý của tấm lòng thủy chung,
của tình thương vô hạn dành cho chồng con, gia đình. Dù là phái yếu, họ vẫn
ẩn tàng nguồn sức mạnh mãnh liệt vượt trên mọi khó khăn.
Trong truyện Bố nghỉ hưu, ta thấy tác giả “hạ bệ” ông chồng bao nhiêu
thì lại nâng cao vai trò của người vợ bấy nhiêu. Ở chi tiết nào, ta cũng thấy
hình ảnh một người vợ già hết lòng hi sinh vì chồng. “Mẹ mở cổng đón bố
43
với nụ cười mãn nguyện. Bố đi vào phòng, nằm xuống chiếc đi văng. Mẹ tất
bật đi tìm máy đo huyết áp cho bố. Mẹ an ủi: Tại sao mình lại buồn nhỉ?
Mình phải vui chứ. Từ nay mình được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Em cũng luôn
được ở cạnh mình.” [57;tr6]. Có lẽ, mỗi người chồng cũng chỉ cần tìm một
chốn đi về như thế khi tuổi đã xế chiều. Ai cũng cần một nơi có người chào
đón mình trở về, hỏi han, săn sóc chu đáo cả về sức khỏe lẫn tinh thần. Ai
cũng cần một nơi có người an ủi mình mỗi khi có chuyện buồn. Chỉ cần vậy,
bao tất bật ngoài đời sẽ trôi đi hết. Sự quan tâm ấy còn thể hiện rõ khi người
chồng bị mệt mỏi, ốm đau. Người vợ ấy đã chăm bẵm chồng bằng tất cả tình
yêu thương: “Bố không ngủ được. Người rã rời. Mẹ đi vào đi ra. Chỉ sợ bố
ốm. Mẹ an ủi, động viên, chăm bẵm bố như chăm trẻ nhỏ. Bố nằm gối đầu
lên tay mẹ. Bố cố ngủ để tỏ lòng biết ơn mẹ.” [57;tr7]. “Bố ốm thật. Bố sốt.
Mẹ nháo nhào ra chợ mua thật nhiều cam, thật nhiều táo về chất đầy tủ lạnh.
Mẹ sợ bố thiếu Vitamin. Mẹ nấu cháo chim bồ câu bồi dưỡng cho bố. Mẹ
gầy rộc vì bố. Có đêm mẹ thức trắng. Lúc nào tỉnh dậy bố cũng thấy mẹ ngồi
bên cạnh, đặt tay lên trán bố. Lúc này, bố yêu mẹ hơn bao giờ hết. Bố gục
đầu vào tay mẹ, ứa nước mắt” [57;tr9]. Hành động này chỉ có thể xuất phát
từ sự chu đáo, quan tâm hết mình của người vợ tào khang. Đó là sự quan tâm
của tình yêu thương thật sự. Tình yêu của người vợ không chỉ là sự săn sóc
mà còn thể hiện ở sự thấu hiểu: “Rồi mẹ chợt nhớ ra là nhà ít khách khứa
hẳn. Mà hình như từ hôm bố nghỉ hưu tới giờ, không có ai đến chơi. Mẹ đứng
hồi lâu trong bếp, ứa nước mắt hiểu rằng vì sao bố hụt hẫng.” [57;tr9]. “Mẹ
vỗ về như ru bố, thì thầm:- Em hiểu nỗi buồn của mình. Về hưu, thật chẳng
đơn giản. Nhưng em muốn nói rằng ai cũng chỉ có một thời. Mình đã ở tuổi
sáu mươi, có lẽ cũng không cần ham hố điều gì. Mỗi người có công việc của
họ. Ai cũng phải học cách chấp nhận thực tế thôi. Em muốn mình thanh thản,
nghỉ ngơi và tận hưởng cuộc sống gia đình. Mình phải học cách bình thản
44
khi những người từng yêu mình nhất giờ lại quên mình nhanh nhất”. Mẹ nói
như dạy dỗ mà làm bố ấm lòng. Bố khóc dễ dàng trước mặt mẹ.” [57;tr11].
Đọc tới đây, ta càng thấm thía vai trò của người vợ tốt. Đó là người thân.
Lúc người chồng khó khăn nhất thì người vợ vẫn mãi là người thân, luôn bên
cạnh lúc người chồng cần họ nhất và họ luôn mở rộng bàn tay chờ đón chồng
trở về. Người vợ đủ hiểu chồng để cảm thông, chia sẻ như một người bạn và
đủ gần gũi để nắm chặt tay hay ôm chầm lấy nhau khi cần an ủi, vỗ về. Họ
có thể làm bạn với chồng, làm điểm tựa tinh thần cho chồng trước những
chông chênh của cuộc sống.
Không chỉ giàu đức hi sinh, họ còn bao dung. Nhờ tình yêu thương và lòng
bao dung, xã hội này mới tồn tại và ngày càng trở nên văn minh tiến bộ hơn.
Trong truyện Gia đình, người vợ dù bị chồng bỏ rơi cả thời thanh xuân nhưng
cô vẫn một mình tần tảo nuôi con. Cả cuộc đời cô là sự thấm thía đầy đủ mọi dư
vị của cuộc đời: cay đắng, mặn nồng đều có. Tưởng chừng ngần ấy vất vả làm con
người cô trở nên thay đổi, vậy mà cô vẫn sống bao dung, thậm chí bao dung cho
cả ông chồng vô trách nhiệm của mình. Khi ông chồng đã tàn tạ, trở về quê với bộ
dạng tiều tụy vào một buổi chiều cuối thu xám xịt mây trời, cô đã nhận ra ngay,
nhưng không buồn, không trách móc, như thể chồng cô chưa từng bỏ mẹ con cô
mà đi mười mấy năm qua. Điều đó làm ông chồng cảm động rớt nước mắt. Với
những tội lỗi mà mình đã gây ra cho vơ con, ông chưa bao giờ nghĩ mình được
đón nhận như vậy trong ngày trở về. Có nhà phê bình đã thể hiện cảm xúc bất ngờ
trước tình tiết này: “Tôi dừng lại rất lâu trước đoạn văn này. Thích cái câu hỏi
của người mẹ. Thích hơn nữa cái im lặng nhìn trời, rồi chống gậy đi vào buồng
của người bà. Tất cả nguồn cơn nông nỗi, “cay đắng mặn nồng” của các nhân
vật trong truyện được gói ghém trong một đoạn văn rất tỉnh và rất ngắn. Viết về
những người bình thường xung quanh mình với những chuyện thường ngày của
45
họ, Bình Nguyên Trang đã có một sự lựa chọn đúng. Đúng, vì chị rất “thuộc”
những người như vậy” [37].
Từ chân dung những nhân vật trên, ta thấy trân trọng hơn đức hi sinh, sự bao
dung của người mẹ, người vợ xưa nay. Một gia đình hạnh phúc, luôn tràn đầy
ấm áp, yêu thương là gia đình trong đó có người vợ, người mẹ luôn hiểu rõ
chồng mình, con mình; đồng cảm với chồng con trong tư tưởng và cuộc sống
tinh thần; sẵn sàng chia sẻ với chồng con niềm vui và sự lo lắng trong công việc
cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Mọi sự thành công trong cuộc sống của
người đàn ông, mọi đứa con đều luôn có sự hỗ trợ hết mình, không biết mệt
mỏi của những người vợ, người mẹ. Bằng những lời khuyên chân thành, người
phụ nữ có thể tạo cho người chồng sự tự tin trong việc đưa ra các quyết định
quan trọng, sẵn sàng bác bỏ những quan niệm sai lầm cũng như ủng hộ hết
mình các ý tưởng hay trong suy nghĩ và hành động của người chồng con. Chính
sự bao dung, độ lượng và tình yêu chân thành của người phụ nữ đã giúp cho
người chồng, người con nhận thức được đâu là điều thực sự quan trọng trong
cuộc đời của họ. Quả thực, người phụ nữ có vai trò đặc biệt trong thực hiện
chức năng của gia đình. Để xây dựng gia đình hạnh phúc, phải bắt đầu từ người
phụ nữ: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”.
2.2.1.3. Cảnh tỉnh những người phụ nữ lầm đường, lạc lối
Đọc truyện ngắn của Bình Nguyên Trang, ta thấy có những trang viết
tưởng chừng như bình lặng mà không bình lặng chút nào. Ở đó, tiềm ẩn những
bất ổn, những day dứt trăn trở, những bi kịch nhân sinh của con người. Bên
cạnh những mặt tốt đẹp, không ít các tác phẩm của chị còn đề cập đến cả những
mặt trái, những thói tật xấu xa của cuộc đời. Cuộc sống và con người trong
các tác phẩm của chị có những khoảng lồi lõm, trồi sụt không tránh khỏi trong
đời sống xã hội hiện thời.
46
Xuất phát từ niềm thương cảm cho những người phụ nữ bất hạnh, Bình
Nguyên Trang ít nhiều thể hiện thái độ lên án đối với những kẻ đang tâm phá
hoại hạnh phúc gia đình người khác. Trong Huệ khôn ngoan của tôi, Huệ được
miêu tả là cô gái có vẻ ngoài đẹp rực rỡ, thu hút mọi ánh nhìn. Cô khéo biết
dùng sắc đẹp ấy như một công cụ để sản sinh nguồn tiền vô tận bằng cách
quyến rũ những người đàn ông giàu có, chức quyền dù họ đã có gia đình. Thời
sinh viên, cô không cần học hành, sắc đẹp và lối sống thoáng giúp cô có tiền
chạy điểm và tốt nghiệp một cách ngạo nghễ. Ra trường, sắc đẹp và sự lơi lả
giúp cô thành đạt: làm chủ quán cafe Nỗi nhớ, đặt chân vào tim vị giám đốc
vũ trường nổi tiếng trong thành phố, làm thư ký cho vị sếp tổng… Cô bất chấp
tất cả, đang tâm chen chân vào một gia đình hạnh phúc, chấp nhận làm một
người đàn bà không danh phận chỉ cần có được nhà, được tiền. Huệ là hình
ảnh điển hình của bao cô gái thực dụng trong xã hội hiện nay. Không đao to
búa lớn, Bình Nguyên Trang mượn lời của cô bạn thân tên Linh để kể về những
bước ngoặt trong đời Huệ, và lời cảnh tỉnh chỉ rung lên ở hồi kết: cái giá mà
Huệ phải trả quá đắt, cô đã mất đi mạng sống trên đường đến bệnh viện sinh
nở. Cái kết không có hậu đó phải chăng là sự trả giá cho những quan điểm
sống lệch lạc và những tội lỗi không thể tha thứ mà Huệ đã gây ra với gia đình
của biết bao người phụ nữ khác.
Tương tự như vậy, Hà trong Nhà có ba mẹ con có lối sống thoáng đến
mức báo động. Hà chẳng bao giờ cần quan tâm đến sự tồn tại của mẹ và em
gái, thản nhiên khỏa thân đi lại trong nhà. Hà chẳng đếm xỉa đến đứa em đang
ở tận đáy nỗi buồn vì lại thi trượt đại học, thản nhiên đưa lũ bạn trai “mà thằng
nào cũng như kẻ cướp” về phòng riêng để đàn đúm, ăn chơi, nhảy nhót. Hà
thích gì làm nấy, quần áo đầu tóc sặc sỡ khác người, bồ bịch tứ tung và thay
bạn trai như thay áo. Hà đại diện cho một lớp những người phụ nữ sống ích
47
kỷ, buông thả, chỉ biết hưởng thụ trước mắt mà không nghĩ đến tương lai.
Nhân vật người mẹ trong truyện cũng lầm đường lạc lối khi trả thù việc chồng
bỏ đi bằng cách lăn vào kiếm tiền, ngập trong các cơn say và giăng mắc trong
mối tình tội lỗi với một chàng trai trẻ. Bà không quan tâm đến cảm xúc của
các con, đúng hơn là bỏ bê con cái, chỉ dạy dỗ bằng những câu hời hợt hoa mĩ
“ Hai cô công chúa, hai cô đừng đối xử với nhau bằng bạo lực thế. Không
hợp.” [55;tr64]. hay “ Này hai cô công chúa. Các cô đều đã lớn khôn, hãy tự
lựa chọn cuộc sống cho mình. Tôi kiếm tiền đã quá vất vả rồi.” [55;tr65].. Cả
người mẹ và cả Hà đều phải trả giá đắt. Hà tiều tụy, xanh xao sau khi phá thai.
Mẹ già sọm đi, mắt quầng tím, hút thuốc triền miên sau đám cưới của người
tình trẻ. Cái kết tất yếu này cũng là hồi chuông cảnh tỉnh cho những người phụ
nữ có lối sống buông thả, phù phiếm.
Những người phụ nữ lầm lạc ấy bước vào trang viết của Bình Nguyên
Trang như những minh họa sinh động của xã hội hiện đại. Họ là những gương
mặt điển hình trong xã hội hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, đọc Bình Nguyên
Trang, người đọc không thấy thái độ lên án gay gắt, chỉ thấy những lời cảnh
tỉnh rất nhân văn. Chị để nhân vật phát triển tính cách một cách tự nhiên: khi
họ tỉnh ngộ khi mới chớm bước chân vào lầm lỗi, họ vẫn còn đường trở về;
khi họ tự mình trượt dài trong lối sống phù phiếm, họ không còn cơ hội để
quay trở lại. Như một sự bất lực trước thực trang ngày nay nhiều cô gái trẻ bán
rẻ bản thân và lương tâm để chạy theo tiền tài, Bình Nguyên Trang đành để
các nhân vật của mình phải chết hoặc phải sống trong dày vò, ân hận cả đời.
Đó là lời cảnh tỉnh sâu sắc của một nhà văn nữ luôn đồng cảm với những nỗi
đau của phụ nữ, song không vì thế mà thỏa hiệp với lối sống đi ngược với
thuần phong mỹ tục tự ngàn xưa của dân tộc.
2.2.2. Trăn trở về những đứa trẻ bất hạnh
48
2.2.2.1 Hứng chịu bi kịch gia đình
Bên cạnh nhân vật người phụ nữ, truyện ngắn và tản văn của Bình Nguyên
Trang còn hướng về thân phận của những đứa trẻ trong xã hội hiện đại này.
Đây cũng là những hồi chuông cảnh tỉnh những bậc làm cha, làm mẹ. Vấn đề
đặt ra không phải là mới nhưng chưa bao giờ là cũ bởi nó là niềm nhức nhối
trong tim những người đau đáu nhìn về thế hệ tương lai.
Trong văn xuôi Bình Nguyên Trang, nhiều đứa trẻ là nạn nhân của bi kịch
gia đình. Mà bi bịch gia đình thì muôn hình muôn vẻ. Đó là những đứa trẻ bị
chối bỏ sau khi bố mẹ li hôn. Trong Một mình vừa đi vừa hát, con bé tóc tém
“là món quà khốn khổ của một người đàn ông và một người đàn bà tặng cho
nhau. Không ai nhận tội về mình. Ai cũng muốn mình là kẻ hào phóng tặng quà
cho người khác… Món quà vô tội ấy trở thành gánh nặng”. [55;tr43]. Đứa trẻ
bị đùn đẩy phải về sống với bà nội nghèo, lạc lõng trong gia đình giàu có hợm
hĩnh của chú thím, chịu sự ghẻ lạnh của chú thím và làm luôn tay như một đứa
giúp việc trong nhà, trong đó có công việc đã trở thành thâm niên: hót phân chó
dọn nhà. Vì thế, nó lớn lên hoang dại và ngang ngược. Đứa bé trong Vết thương
ngày cũ cũng vậy, vết thương từ cuộc chia tay của bố và mẹ đã hằn in trong đầu
óc thơ ngây của nó, ám ảnh cho đến bao nhiêu năm sau này. Ra tòa, cả cha và
mẹ đều tranh giành ầm ĩ để được nuôi nó, nhưng không ai chịu vì nó mà nhường
nhịn thuận hòa để chung nhau một mái ấm. Những gì nó gánh chịu không chỉ
là vết cứa rỉ máu trên thịt da, mà là vết thương lòng vĩnh viễn: những cuộc gặp
gỡ ngắn ngủi với cha qua cánh cổng sắt không làm nó gần gũi ông; ở chung
nhà với mẹ nhưng các mối quan hệ và cách sống của mẹ không làm nó hiểu
mẹ. Nó trưởng thành trong đơn độc, vô cảm, khắc nghiệt trong tính cách và
quyết liệt trong mọi quyết định của đời mình.
49
Bi kịch của một gia đình không toàn vẹn cũng gây tổn thương sâu sắc cho
những đứa trẻ đang tuổi lớn. Thiếu vắng tình cảm của cha mẹ, đặc biệt thiếu
hơi ấm người cha, đứa trẻ trở nên nhạy cảm, dễ cố chấp, thù hận với đàn ông
nên hoặc sẽ dễ dàng buông xuôi, hoặc sẽ chống đối, bất cần. Trong “Gia đình”,
hai đứa trẻ lớn lên bằng mồ hôi rát bỏng và nước mắt cay đắng của mẹ, trong
tâm trí chưa từng lưu ấn tượng gì về bóng dáng người cha tài giỏi, hào hoa
nhưng đi biền biệt, ăn ở hết với cô gái này đến cô gái khác, cho nên lớn lên,
chúng chai sạn, trơ lỳ cảm xúc. Trong Chuyến tàu thời gian, chào đời trong cơn
đau và lớn lên trong sự thù hận của mẹ, chưa từng biết đến bóng dáng người
cha bội bạc, cô bé Bình trở nên ngang ngạnh, bướng bỉnh và lạnh lùng như đá.
Trong Nhà có ba mẹ con, từ khi bố bỏ đi, mẹ mê mải kiếm tiền và chìm đắm
trong thế giới riêng, chị em Hà và My lớn lên như cỏ dại: Hà thì buông thả, bất
cần; My thì yếu đuối, dễ bị tổn thương. Trong Mùa đom đóm mở hội, là con
của một người mẹ đơn thân, cái Gái lớn lên ngang tàng, ngỗ ngược như một
cậu con trai đích thực… Sự thiếu hụt trách nhiệm của cha ảnh hưởng rất lớn
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của những đứa trẻ.
Lại có những đứa trẻ là nạn nhân của thói gia trưởng, bạo hành hoặc lối
sống ích kỷ của các bậc làm bố, làm mẹ. Cô bé Lê tội nghiệp trong Mùa đom
đóm mở hội thuở nhỏ do nhà nghèo, quá đói đã bốc trộm gạo nếp nấu ăn một
mình. Cái tát nóng nảy của bố khi bắt gặp đã khiến cô bé bất tỉnh và điếc hoàn
toàn. Tính tình và nhân cách của sáu đứa trẻ trong Cái ấm nhôm trở nên tiêu
cực, méo mó hệt như hình dạng đáng thương của chiếc ấm sau mỗi lần chứng
kiến những cơn giận dữ không thể kiềm chế của cha. Cho nên, đứa thì bỏ học
để mò cua bắt tép cho thằng Út đi học, đứa thì cục cằn gây gổ đánh nhau với
con trai ông chủ tịch xã... Không bị bạo hành như thế, nhưng cô bé trong Bách
nghệ bị chấn động tâm lý nặng nề sau khi phát hiện ra bí mật động trời: người
bố - nghệ sĩ nổi tiếng của tỉnh lẻ, thần tượng trong mắt gia đình- đang tâm lừa
50
dối vợ con để cặp bồ với một cô gái tỉnh lẻ trẻ đẹp, ăn diện… Cho nên, như
những tác nhân tàn độc, những thói hư tật xấu và sự vô trách nhiệm của các bậc
làm cha làm mẹ đã ảnh hưởng nặng nề đến những tâm hồn non nớt, làm cho
các em trở lên cộc cằn, thô lỗ. Chúng đã vô tình đẩy nhiều trẻ em rơi vào tình
trạng hụt hẫng về mọi phương diện, nhiều em không đủ ý chí để vượt qua khó
khăn này đã rơi vào những bệnh như trầm cảm, rối loạn tâm lý hoặc bỏ nhà đi
lang thang, phạm tội.
Rõ ràng, ngày nay, với những biến đổi của xã hội, văn hóa gia đình đang
có biểu hiện xuống cấp biến con trẻ thành nạn nhân. Chúng ít được chú trọng
đời sống tình cảm tinh thần, xung đột gia đình gia tăng, sự cô đơn, thất vọng
xuất hiện ngày càng nhiều. Những ảnh hưởng ấy đi theo trẻ suốt cuộc đời . Tác
phẩm của Bình Nguyên Trang phản ánh điều này như lời nhắc nhở chúng ta
cần đặc biệt chú trọng giáo dục con trẻ trong gia đình, tạo cho trẻ môi trường
sống tốt nhất.
2.2.2.2. Đánh mất tuổi thơ
Tuổi thơ là quãng thời gian bình yên, trong trẻo và đẹp đẽ nhất của mỗi
con người. Đó là nơi cất giữ những kỷ niệm đẹp đẽ, giúp hình thành nhân cách
và tình cảm của mỗi con người. Trong văn xuôi Bình Nguyên Trang, bên cạnh
những nạn nhân của bi kịch gia đình, có nhiều nhân vật trẻ nhỏ tội nghiệp không
được sống hồn nhiên như độ tuổi mà bị tật nguyền nhân cách vì bị va đập hoặc
được đào tạo, uốn nắn theo khuôn phép của một môi trường sống không tích
cực. Trong Hội diễn văn nghệ, cô bé Hoài từng tự tin lên sân khấu với mong
muốn đem đến cho khán giả tiếng hát thánh thiện từ chính tấm lòng mình. Song,
trớ trêu thay, hội diễn văn nghệ mà em kỳ vọng ấy không dành cho những tâm
hồn yêu nhạc. Khán giả phấn khích với những thiếu nữ xanh đỏ lòe loẹt, váy
ngắn chân dài, uốn éo lắc lư và la ó phản đối khi cô bé tật nguyền như Hoài ra
51
sân khấu. Chính đám đông hời hợt đến tàn ác ấy đã giết chết đam mê, sự tự tin
và ước mơ đẹp đẽ của cô bé. Độc ác hơn, họ đang tâm đẩy em tới tận bờ vực
thẳm, khiến em tuyệt vọng muốn tìm đến giấc ngủ vĩnh hằng. Sau hội diễn ấy,
dù đã được chị gái bênh vực chở che, nhưng Hoài hẳn sẽ trở nên thù hận với tất
cả, sẽ lại co mình vào vỏ ốc đơn độc với vết thương mãi mãi không lành.
Ở một khía cạnh khác, chính gia đình và môi trường sống đã rèn đúc
cho trẻ thành những hình nhân di động. Trong Chuyện vặt, nhân vật lớp
trưởng sinh ra và lớn lên trong gia đình quan chức, được thừa hưởng uy
quyền và tác phong của ông bố chủ tịch huyện. Vì là con quan, nên trong
trường, trong lớp, các thày cô đều e dè kính nể mà phân công làm cán sự lớp.
Bất kể tình huống liên quan nào xảy ra, thày cô trong trường đều xử đẹp để
phần thắng nghiêng về phía lớp trưởng. Do vậy, cậu bé này mặc nhiên coi
mình có quyền ra lệnh, đôn đốc, đề nghị, giao việc một cách trịch thượng đối
với các học sinh khác. Dù không hiểu rõ ý nghĩa của hai từ “đồng chí”, nhưng
cậu học sinh ấy vẫn hào phóng gọi các bạn mình để nhắc nhở mọi người ý
thức rõ về tôn ti trật tự trong lớp: “Nhiệm vụ của đồng chí là… Nếu có gì
thắc mắc, đồng chí báo cáo lên cấp trên” [55;tr35].; Từ lối đi đứng, ăn mặc,
hành động, nhân vật này trong con mắt của người đọc không còn là đứa trẻ,
mà là bóng dáng thu nhỏ của ông bố chủ tịch huyện. Cứng nhắc với hàng mớ
quy tắc và vùi đầu vào những trang sách dạy nghệ thuật lãnh đạo ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường, lớp trưởng không bao giờ được sống đúng như
mơ ước, tình cảm của chính mình, chỉ là một thằng người lớn rỗng tuếch
mang hình hài của đứa trẻ con.
Ngoài những nguyên nhân trên, tư tưởng sống lệch lạc của các bậc cha mẹ
cũng khiến con cái đánh mất tuổi thơ. Họ miệt mài kiếm tiền, làm giàu để cho
con cuộc sống đầy đủ, sung túc. Nhưng họ quên một điều: tiện nghi không làm
52
con cái họ trưởng thành theo đúng nghĩa. Trong tản văn Những trang nhật kí
cô đơn, Bình Nguyên Trang xót xa trước thực trạng học trò thời nay thật cô đơn
giữa ngôi nhà của chính mình vì “ ở trường các em không được thày cô lắng
nghe, về nhà các em không được cha mẹ chia sẻ” [60;tr29].. Do vậy, thay vì
mơ ước hay trải nghiệm khám phá, các em tự cô lập mình với xã hội, tự co
mình vào thế giới ảo, để rồi thốt lên những status chán chường, tuyệt vọng:
“Đời chán như con gián…”, “Chết quách cho rồi” [60;tr28].. Chị đau đáu xót
xa: “Những đứa trẻ bắt đầu ập làm người lớn, sống ngập trong tiện nghi, vật
chất mà tâm hồn thì lúc nào cũng trống trải, như bị vết thương, như bị đau ốm”.
[60;tr30]. Cô đơn, trầm cảm là thứ bệnh khủng khiếp ăn mòn tâm hồn những
đứa trẻ, để lại những di chứng nặng nề khi chúng trưởng thành hoặc đẩy chúng
đến cách giải quyết tiêu cực: tìm đến cái chết khi chưa thực sự nếm trải hương
vị đẹp đẽ của cuộc sống.
Hướng về phụ nữ và trẻ nhỏ, những tâm hồn mong manh và chịu nhiều
bất hạnh ngay cả trong cuộc sống hiện đại này, Bình Nguyên Trang lên tiếng
đòi sự công bằng, sự quan tâm hơn nữa, để họ được sống một cuộc sống đúng
nghĩa. Điều này càng sâu sắc hơn bởi chị nói tiếng nói đồng cảm của giới mình
bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương chân thành.
53
Tiểu kết chương 2
Với sự nhạy cảm và một trái tim nhân ái, thông qua những áng văn xuôi
của mình, Bình Nguyên Trang góp phần không nhỏ giúp con người hiểu mình
hơn, hiểu rõ hơn những tình cảm sâu kín thuộc về con người. Bình Nguyên
Trang đặc biệt tâm huyết ở các khía cạnh: cuộc sống, những người phụ nữ và
trẻ em. Trong các tác phẩm văn xuôi của mình, Bình Nguyên Trang đã thể
hiện những cảm nhận trước cuộc sống thông qua triết lí sống cùng sự rung
cảm với thiên nhiên, vạn vật. Bên cạnh đó, chị cũng hướng về con người, đặc
biệt là người phụ nữ bất hạnh, họ phải chịu nhiều nỗi đau. Tuy nhiên, dù nỗi
đau ấy thuộc về cá nhân, gia đình hay xã hội thì tất cả những con người trong
sáng tác của chị đều khao khát hạnh phúc, đều muốn kiếm tìm một nơi bình
yên. Một nhóm nhân vật khác được Bình Nguyên Trang đặc biệt quan tâm
chính là những đứa trẻ. Những đứa trẻ với tâm hồn mong manh, nhạy cảm
luôn cảm thấy chới với trước cuộc sống phức tạp, chúng luôn khao khát được
người lớn thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ những băn khoăn của mình…Viết
về nỗi đau thông qua số phận những con người, khi họ đang cảm nhận những
rạn nứt trong cuộc sống chung, bằng sự cảm thông sâu sắc, tác phẩm của chị
đã làm rung động trái tim người đọc. Trên mỗi trang viết của chị luôn ẩn chứa
một tiếng thở dài than thân, lo sợ và tiếc nuối. Qua những trang viết này, tác
giả đã thể hiện được lòng nhân ái, sự quan tâm sâu sắc đến số phận của con
người, trước hết là những người phụ nữ. Đây là một điều đáng trân trọng.
54
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ ĐẶC ĐIÊM NGHỆ THUẬT
VĂN XUÔI BÌNH NGUYÊN TRANG
3.1. Nhân vật và cốt truyện
3.1.1. Thế giới nhân vật đa dạng, đa diện, đa tính cách
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Bình Nguyên Trang đa dạng như
bước vào từ đời sống muôn vẻ quanh chị, quanh chúng ta. Đó là những dì Lê,
mợ Thanh, cô Châu, bố, mẹ, em gái, bạn thân, đồng nghiệp,… Họ mang dáng
dấp người lao động bình thường nhưng không tầm thường. Mỗi nhân vật được
tác giả khéo léo bộc lộ bản chất, tính cách qua các tình huống, lời thoại hay các
nét phác họa tinh tế.
3.1.1.1 Phác họa ngoại hình
Bình Nguyên Trang không ôm đồm mà chọn vài nét căn bản để tạo ấn
tượng về nhân vật. Đó đều là những nét đặc trưng khiến nhân vật như được
đóng đinh vào trí nhớ độc giả, bởi nó không chỉ có giá trị tạo hình mà còn góp
phần bộc lộ tính cách.
Nhân vật cái Gái, con dì Lê trong Dì Lê được miêu tả rất khách quan:
“Tóc nó đỏ hoe như râu ngô vì nắng gió. Suốt ngày nó cởi trần và bơi giỏi
không thua bất kỳ đứa con trai nào cùng tuổi trong làng…”. [55;tr103]. Còi
cọc, xấu xí nhưng nó là quà tặng vô giá mà tạo hóa tạm ban cho dì Lê – người
phụ nữ bất hạnh, tật nguyền: “Hàng đêm, dì ôm nó vào lòng hít hà mái tóc đuôi
ngựa, cả thân thể đen đúa, ngai ngái mùi phù sa của nó”. [55;tr103]. Ngoại
hình này phần nào thể hiện tính cách ngang tàn, bất chấp của Gái. Như một thứ
cỏ dại mọc ở một mảnh vườn hoang. Gái vừa là niềm an ủi, là chỗ dựa tinh thần
55
của dì Lê. Sự cứng cỏi, gai góc của con bé như được hun đúc để giúp mẹ nó
đối diện với mọi thị phi của cuộc đời.
Trong Hội diễn văn nghệ, cô em gái yêu ca hát tên Hoài được phác nhanh
bằng mấy nét vẽ đơn sơ: “Hoài mặc váy trắng. Trông nó bé nhỏ như một cành
cây khô. Đôi chân tật nguyền làm cho dáng đi của nó lệch hẳn về một bên”
[55;tr24]. Ngoại hình ấy, sắc áo ấy như ngầm báo hiệu về một tính cách thẳng
thắn đến khẳng khái, tự tin đến kiêu hãnh: “Em muốn người ta nghe em hát chứ
không phải xem em hát” [55;tr24]., về một suy nghĩ đẹp đẽ nhưng ngây thơ,
non nớt và thiếu sự trải đời. Miêu tả Hoài, tác giả đặt trong thế đối lập hoàn
toàn với cô “sờ-pic-cơ” lòe loẹt và rỗng tuếch: “Từ sau cánh gà, một cô mặt
non choẹt đỏ ra đỏ, xanh ra xanh, trắng ra trắng bước ra chào rất cung kính.
Chiếc váy ngắn quá tiêu chuẩn cứ ngất ngưởng trên đùi cô gái làm tức mắt mọi
người…”[55;tr25]. Đời sống nội tâm nông cạn của cô gái lòe loẹt với mớ ngôn
từ hoa mĩ khiến khán giả không thể nhớ nổi rằng cô đang nói gì, làm gì. Ngược
lại, chính những lời giới thiệu mĩ lệ của cô ta giống như một mũi tên tàn độc
sát thương ngay cô bé tự tin dám cháy hết mình vì nghệ thuật.
Trong một tác phẩm khác, người đọc ấn tượng với bà chủ quán bia – vị
khách VIP của hàng vàng mã: “Đấy là bà chủ quán bia ôm rất phì nhiêu với
mông và má ngọ nguậy trong bộ đồ màu vàng hoàng yến” [55;tr16] (Hàng mã).
Chỉ bằng một chi tiết nhỏ, bản chất con người mụ ta bị phơi bày. Sự tài tình ấy
khiến ta liên tưởng tới bút pháp tả nhân vật của Nguyễn Du khi ông chỉ cần một
vài nét cơ bản để lột trần nhân vật Mã Giám Sinh: “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần
bảnh bao” hay Tú Bà: “Thoắt trông hời hợt màu da/ Ăn gì to lớn, đẫy đà làm
sao” (Truyện Kiều). Với bà chủ quán bia ôm, lối ăn mặc lòe loẹt, lả lơi cùng sự
“ngọ nguậy” của da thịt dễ khiến người đọc liên tưởng đến cái công việc, cái
nghề nghiệp mà bà ta đang làm. Tính cách, bản chất của bà ta cũng lộ ra ngay
sau đó, khi bà ta đặt hàng con chó giả và những chai bia giả hệt như thật để
56
mong thần linh xá cho cái tội bán bia giả và thâm niên giết chó. Sự độc ác, thói
lừa lọc dù được giấu kỹ đến mấy cũng ít nhiều “lòi” ra theo nét nhân tướng
khác thường.
Ngoài ra ngoại hình còn như báo hiệu cả số phận nhân vật trong truyện
ngắn Bình Nguyên Trang. Khi người bố trở về sau những tháng ngày cháy hết
mình với đam mệ và sự hưởng thụ. Người mẹ đón bố bằng lời nói quan tâm
nhưng gương mặt vô hồn: “Không hề một tia thù hận nào ánh lên trong đôi mắt
người đàn bà đau khổ ngoài năm mươi tuổi. Nhưng những tia nồng ấm cũng
tắt từ lâu rồi. Chỉ còn lại một đôi mắt dưng dưng, xa xót” [55;tr97].. Và ấn
tượng để lại trong lòng đứa con là những nỗi đau hằn lên dáng hình của từng
người thân trong gia đình: “Tôi nhìn thấy dáng lưng còng của bà, mái đầu bạc
của bố và gương mặt đau khổ của mẹ khắc lên tường nhà” [55;tr98]. (Gia đình).
Có thể nói, nét bút phác họa của Bình Nguyên Trang có tác dụng lớn lao
trong việc bộc lộ tính cách, tâm trạng nhân vật, góp phần không nhỏ vào việc
xây dựng những chân dung sinh động của xã hội hiện đại.
3.1.1.2 Khắc họa nội tâm
Một trong những lý do để nhân vật của Bình Nguyên Trang gây ấn tượng
mạnh với độc giả, đó là nhờ nghệ thuật khắc họa tâm lý tài tình. Mỗi nhân vật
trung tâm đều có đời sống tinh thần riêng, có những góc khuất riêng, nỗi khổ
tâm riêng. Len sâu vào từng ngõ ngách tâm hồn ấy, người đọc có thể lý giải
nguyên do vì sao nhân vật lại nói năng như thế, hành động như vậy, để từ đó
thấu hiểu và đồng điệu ít nhiều với họ. Chính vì thế, nhân vật của Bình Nguyên
Trang ít có những vai chính diện hay phản diện đơn thuần. Nhân vật tích cực
cũng có thể có những suy nghĩ, quan điểm tiêu cực. Ngược lại, những nhân vật
có tính cách, cách hành xử đáng ghét nhất cũng có những lý do sâu thẳm để
đáng thương.
57
Trong Không chỉ là ký ức, nhân vật người cha sống với nhiều dằn vặt:
người yêu ra trận bặt vô âm tín; vốn nặng tình, ông lập gia đình với chị gái của
người yêu nhằm mong vớt vát được ít nhiều bóng hình của mối tình cũ. Thời
gian dần nguôi ngoai, đứa con ra đời, thời gian mười năm tưởng đã xóa mờ vết
thương trong tim ông, nhưng đúng lúc gia đình êm ấm nhất thì người yêu xưa
của ông trở về. Từ đây, ông sống trong đau đớn: người yêu mắc bệnh tâm thần,
chỉ sống với những hình ảnh và tình yêu của quá khứ đã chôn vùi dưới đáy ba
lô, ông cho mình chính là nguồn cơn căn bệnh ấy; người vợ càng chu đáo, vun
vén tình cảm hai người bao nhiêu, ông càng dằn vặt bởi làm tổn thương vợ bấy
nhiêu. Ngày đón người của quá khứ trở về sống chung với người của hiện tại,
ông “gục xuống bàn, trong chốc lát gương mặt già nua một cách lạ lùng”
[55;tr56]. … Mỗi ngày trôi qua, ông chỉ ra vào như cái bóng. Cơn bệnh trở nặng
của người cũ khiến ông lao lực, mất ngủ triển miên đến kiệt quệ. Ông tìm mọi
cách để chữa lành bệnh cho người cũ, nhưng bất lực. Ngay cả đối diện để nói
lời yêu thương, ông cũng không thể nói, chỉ nhìn thật sâu vào gương mặt ấy để
rồi khóc như trẻ thơ. Nhân vật người mẹ cũng được khắc họa sâu về diễn biến
tâm lý. Thấu hiểu nỗi mất mát mà người yêu của em gái mình phải chịu khi
nhận tin báo tử, biết thân phân mình là người thay vai, phải “cố gắng sống bằng
hai cuộc đời” để xoa dịu nỗi đau, bà cố gắng nhen ngọn lửa gia đình nồng nàn
để chồng mình yên ổn và thanh thản. Sự trở về của em gái khiến cả gia đình bà
đảo lộn, riêng bà vẫn bình tĩnh và quyết đoán đưa ra những quyết định đầy nhân
văn. Bà cố gắng vun vén để nối lại mối duyên xưa cho hai người mà mình yêu
thương nhất. Những động thái bình tĩnh và hành động cao cả đó thực tình không
thể che giấu nổi nỗi đau sâu kín rất riêng tư trong tâm hồn bà. Bà đi chùa để
lòng mình thanh thản, để nhẹ tâm hơn mà chăm sóc đứa em bệnh tật. Bà mong
em mình trở lại bình thường và luôn chuẩn bị tâm lý ở tư thế sẵn sàng ra đi. Bà
kiệt sức đến hóa đá khi căn bệnh mang em mình đi. Kể từ sau mất mát ấy, cả
hai nhân vật đều không thể trở lại cuộc sống vô tư như trước.
58
Trong Nhà có ba mẹ con, nỗi buồn của cô bé My mang nhiều cung bậc.
Thi trượt đại học, cô mệt mỏi với những lời chia buồn, chỉ thấy lòng rỗng tuếch.
Cô buồn nôn với thứ nhạc sàn dậm dật. Cô chán chường khi đụng đến sách. Cô
nổi giận, cãi vã với chị gái đang nhảy nhót ồn ào cùng đám bạn. Cô rã rời về
phòng. Cô chống chếnh đi ra ngoài như muốn thoát khỏi căn nhà mà mỗi con
người trong đó là một thế giới khác, không ai quan tâm đến ai. Cô tìm đến nhà
thày giáo khi “lòng tan hoang như ngôi nhà vừa đi qua bão”, “bất ổn đến
cuồng loạn” và khao khát vô cùng một chỗ dựa tinh thần. Nỗi chênh vênh khiến
lòng cô bấn loạn, nảy sinh cả những ý nghĩ điên rồ: “Em không muốn nghe thầy
nói. Lòng em bùng lên một nỗi khát khao xâm chiếm. Em cần một vòng tay. Em
muốn thầy ôm chặt em vào lòng. Nhưng em không thể nói. Em gục đầu trên đi
văng” [55;tr67]. Nỗi buồn, thất vọng đã được Bình Nguyên Trang đẩy lên đỉnh
điểm; nhân vật khiến người đọc lo lắng khi chênh vênh giữa ranh giới thiện-
ác, tốt- xấu. Nhưng cũng nhờ đó, ấn tượng về nhân vật trở nên sâu sắc hơn .
Trong Mùa đom đóm mở hội, độc giả từng ấn tượng xấu với người cha gia
trưởng và nóng nảy, đã đánh con vì con ăn vụng cơm nếp giữa những ngày đói
khát. Cái tát ấy khiến con ông tàn tật. Kể từ đó, ông thay đổi tâm tính. Sự ân
hận của ông thể hiện qua hàng loạt hành động và biểu hiện: ông không bao giờ
đánh con và không thô bạo với bất kỳ ai. Ông không dám đến gần đứa con ấy
và cũng chẳng có bất kỳ một hành vi thân thiện nào của người cha nữa. Ông
không dám can thiệp vào đời tư của con gái để khuyên con mình lo chuyện
chồng con. Ông hóa đá như tượng khi con gái trở thành mẹ đơn thân. Ông nằm
liệt giường kể từ sau cái chết của đứa cháu bất hạnh. Khi ông qua đời, đôi mắt
ông không thể khép lại cho đến khi đứa con tội nghiệp vuốt mắt tha thứ. Cả
cuộc đời ông lặng lẽ gặm nhấm nỗi ân hận dày vò, không chia sẻ với bất kỳ ai,
cho đến tận lúc về với thế giới bên kia. Chính vì hiểu được điều đó, thông cảm
59
với nỗi dày vò đó, nên con gái ông không hề thù hận ông; độc giả vì vậy cũng
không chỉ nhìn nhận ông một chiều, mà xót xa thương cảm.
Có thể nói: tâm lí nhân vật trong tác phẩm của Bình Nguyên Trang thường
đi theo hướng tự nhận thức. Những con người trên mỗi trang viết của chị mang
một trạng thái suy tư, nghĩ nhiều hơn nói. Họ là những người có khả năng chiêm
nghiệm, nhận biết lý giải về chính bản thân mình và về những người xung
quanh. Nhưng, thường khi nhân vật ý thức được thực tại của mình cũng là khi
họ ít có cơ hội làm lại, mọi sự đã quá muộn. Tiếc nuối sau những khoảnh khắc
tự thức tỉnh là cảm giác khó tránh khỏi với hầu hết nhân vật của Bình Trang.
Tâm lí phổ biến thứ hai hay xuất hiện trong tác phẩm của Bình Nguyên
Trang là trạng thái tâm lý cô đơn. Bình Nguyên Trang bằng trực cảm của một
nhà văn, một người phụ nữ đã đi vào khám phá các phương diện khác nhau của
sự cô đơn và nhận thức về nỗi cô đơn là tâm trạng thường gặp của các nhân vật
trong truyện ngắn của chị. Khi nỗi cô đơn trở thành một trạng thái tâm lý thường
gặp của người phụ nữ trong xã hội hiện đại thì với mẫn cảm bản năng, nỗi cô
đơn đó thường trở đi trở lại trong sáng tác của Bình Nguyên Trang. Chị hướng
ngòi bút vào số phận những người đàn bà đi suốt cuộc đời vẫn không tìm thấy
một nơi trú ngụ tinh thần. Một điều dễ dàng nhận thấy nhân vật chính trong
truyện ngắn của chị nhân vật cô đơn cũng thường là nữ. Tư duy hướng nội, cảm
quan tinh tế nhạy bén giúp cho chị diễn đạt thật hơn nỗi cô đơn của giới mình.
Nhận thức nỗi cô đơn trở thành nỗi ám ảnh, một sự truy đuổi số phận các nhân
vật nữ. Ví dụ trong Đời còn có nhau, ta xót xa với trạng thái cô đơn của
Mây trong tình yêu. Lúc nào Mây cũng nghĩ: “Yêu nhau như thế mà không
lấy được nhau kể cũng phí. Ừ phí thật. Đã từng yêu nhau đến thế cơ mà.” [57;tr4].
Nhưng khi khẳng định mình có vui sướng không nếu vẫn tiếp tục tình yêu này thì
cô lại vướng phải tâm trạng mâu thuẫn: “Có người yêu mà cứ như không. Tình ơi,
làm sao đây, tất cả cứ rã ra như tường vôi bị tróc lở” [57;tr4]. Tình yêu ấy làm
60
Mây thấy cô đơn hơn: “…Sao ngày xưa mới yêu nhau ngồi đâu cũng được và nói
chuyện với nhau cả ngày không hết. Yêu nhau như thế, từng ấy năm, ý nghĩ cứ gõ
nhịp loạn xạ trong Mây” [57;tr4]. Những ý nghĩ ấy cứ mông lung làm Mây có lúc
òa khóc vì chả biết làm sao cả: “Làm sao đây? Làm sao lại thế này? Không ai ghét
ai. Không ai phản bội ai. Họ vẫn đi song song bên cuộc đời nhau” [57;tr5]. Thực
tế thì Mây thuộc người sống thiên về nội tâm. Nỗi trăn trở của cô là tất yếu bởi cô
luôn biết hướng đến sự toàn vẹn của tâm hồn, tẩy chay sự cũ mòn, chú trọng và
nâng niu những cảm xúc tích cực, mới mẻ.
Có thể nói, khi xây dựng nhân vật, Bình Nguyên Trang đã phát hiện ra
những góc khuất tinh vi của tâm lí. Chính điều này làm cho những tác phẩm
nhẹ nhàng như một bài thơ của chị trở nên chân thực, gần gũi nhưng cũng sâu
sắc hơn, thấm thía lẽ đời hơn.
3.1.2 Cốt truyện đơn tuyến
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể,
được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ
phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc
loại hình tự sự và kịch…Có thể tìm thấy qua một cốt truyện hai phương diện
gắn bó hữu cơ: một mặt, cốt truyện là một phương diện bộc lộ nhân vật, nhờ
cốt truyện, nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật;
mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã
hội” [34;tr67]. Như vậy, trong một tác phẩm truyện ngắn thông thường, cốt
truyện luôn giữ vị trí “xương sống”, nó liên kết các chi tiết, các sự kiện thành
một hệ thống.
Tuy nhiên, không phải mọi truyện ngắn đều hướng tới việc xây dựng cốt
truyện ấn tượng, gây tác động mạnh. Với một dung lượng vừa phải, Bình
Nguyên Trang chọn lựa cốt truyện thường không quá nhiều tình tiết phức tạp,
61
chủ yếu đi sâu vào quá trình phát triển tính cách nhân vật. Nếu Nguyễn Thị Thu
Huệ chú trọng tới việc xây dựng cốt truyện hấp dẫn, giàu kịch tính thì Bình
Nguyên Trang lại quan tâm khai thác những diễn biến rất bình thường, thầm
lặng của cuộc sống. Không còn nơi nào cho em, Mùa hạ cháy, Hàng mã, Cái
ấm nhôm, Mưa về phố nhỏ v.v. dường như không có cốt truyện, chỉ có những
dòng tâm sự tràn ùa trên trang giấy. Đó là cái ngột ngạt đến khó thở của cuộc
sống đô thị trong những ngôi nhà bao diêm chen chúc; là những suy nghĩ tản
mạn về kiếp đời, kiếp người giữa những thật –giả, âm-dương; là những xót xa
khi sống trong bi kịch bạo lực của gia đình hay bi kịch lọc lừa của xã hội. Ấn
tượng về truyện Đời còn có nhau không phải sự kịch tính mà là dòng tâm trạng
của Mây- đó là nỗi băn khoăn, trăn trở, đau khổ ngày một lớn dần về một tình
yêu đang ngày càng mòn mỏi, nhạt nhẽo mà bất lực, không có lối thoát. Ấn tượng
về truyện Không còn nơi nào cho em cũng không phải những thắt nút và mở
nút. Đó đơn giản là tâm trạng của cô sinh viên xinh đẹp, giỏi giang luôn cảm
thấy cô đơn, tù túng, ngột ngạt trong chính nơi ở, nơi học tập, thậm chí trong
tình yêu của chính mình.
Ngay cả trong những truyện ngắn có tình huống, cốt truyện mà Bình
Nguyên Trang tạo ra cũng không hề gay cấn, xung đột. Sự trở về của người dì
trong Không chỉ là ký ức, của người cha trong Gia đình, của người đàn ông lạ
mặt trong Nơi dòng sông đi qua.v.v. chỉ là một trong số những tình huống nhận
thức, để mỗi nhân vật trong đó bộc lộ tính cách, phẩm chất, quan điểm sống, từ
đó bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Trong Nơi dòng sông đi qua, cốt truyện là dòng
tâm trạng có nhiều khúc ngoặt của đứa con gái với mẹ. Lớn lên trong niềm tin
từ câu chuyện mẹ kể, cô thần tượng lòng thủy chung của mẹ. Bà một mình nuôi
cô khôn lớn. Thế nhưng khi phát hiện mẹ thường xuyên hò hẹn với một người
đàn ông trên thuyền, lòng tin của cô vỡ vụn. Khúc ngoặt đầu tiên khá quen
62
thuộc trong motip truyện về con gái và mẹ, nhưng khúc ngoặt thứ hai mới làm
ta bất ngờ. Đó là tâm trạng của cô con gái khi nhận ra sự thực bị che giấu bấy
lâu. Cô không phải con gái đẻ của mẹ. Người mà cô tưởng là bố đã chết chính
là người mẹ cô đang hò hẹn bây giờ. Truyện kết thúc trong tâm trạng rối bời và
sự ân hận ngập tràn của cô gái. Có thể nói cốt truyện trong những trường hợp
này như một mạch cảm xúc sâu kín, xoáy sâu để rồi hé lộ những nội tâm sâu
sắc của con người. Vì thế, người đọc nhớ đến truyện ngắn của chị với ấn tượng
dịu nhẹ mà trầm lắng như một bài thơ. Bình Nguyên Trang thành công khi kể
những câu chuyện rất “đời” với những chi tiết vừa đủ gây ấn tượng bằng giọng kể
dung dị, đầy nữ tính. Đọc truyện ngắn có cốt truyện đơn giản của chị, người đọc
sẽ bị lôi cuốn bởi những dòng tâm trạng cảm xúc và những chiêm nghiệm mang
đầy tính triết lý chứ không phải từ các biến cố, hay sự kiện giật gân. Cốt truyện
đơn tuyến đã đem lại những hiệu quả nghệ thuật cao trong việc chuyển tải nội
dung tư tưởng cho nhiều truyện ngắn của nhà văn.
3.2. Không gian, thời gian nghệ thuật
3.2.1. Không gian nghệ thuật đa dạng
Không gian không chỉ đóng vai trò là một tọa độ, là môi trường sống của
nhân vật mà còn có chức năng như một thủ pháp, một tín hiệu nghệ thuật, có
giá trị nghệ thuật riêng. “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của
hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó” đồng thời “thể hiện quan
niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của thời gian hay của một giai đoạn văn
học” [41;tr203]. Trong tác phẩm của mình, Bình Nguyên Trang đã tạo dựng
được không gian nghệ thuật đặc sắc, vừa riêng cho từng người vừa chung cho
văn chương phái nữ. Từ việc xác định không gian hợp lý, Bình Nguyên Trang
đã thể hiện con người tương ứng với không gian ấy. Nói cách khác không gian
được xem là một thủ pháp để xây dựng nhân vật.
63
3.2.1.1. Không gian làng quê
Đến với văn của Bình Nguyên Trang, ta ấn tượng với không gian làng
quê. Đó có thể là một con đường làng, cũng có thể là một cái ngõ tối và sâu,
hay một phiên chợ quê, một phố huyện nghèo... Dưới ngòi bút của chị, những
hình ảnh vốn rất mực thân quen, ngỡ như vô tri, vô giác bỗng được thổi hồn,
trở nên vô cùng sống động. Đó là thần thái, là linh hồn của xứ sở, quê hương
mình. Đi vào thế giới nghệ thuật của Nguyên Trang, những không gian ấy luôn
ứng với nhịp sống của những người dân quê, gắn với bao nỗi niềm yêu thương,
khao khát, ước mơ bình dị. Con mắt quan sát tinh tế và tấm lòng gắn bó sâu
nặng với quê hương đã giúp Thạch Lam kiến tạo được nhiều câu văn gợi sắc,
gợi hình về một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ.
Không gian làng quê trước hết được gợi lên bởi hình ảnh con sông. Trong
Mùa đom đóm mở hội, con sông gắn liền với cuộc đời chìm nổi của dì Lê. Dòng
sông ấy che chở và nuôi sống xóm làng, nhưng cũng chính dòng sông ấy cướp
đi đứa con gái duy nhất là điểm tựa tinh thần của dì Lê. Để rồi, cũng chính dòng
sông ấy là xoa dịu nỗi đau mất mát của dì, để mỗi chiều dì ra đó chờ đợi, hú
gọi, trò chuyện với linh hồn của con gái. Trong Nơi dòng sông đi qua, dòng
sông gắn với cuộc đời của hai mẹ con côi cút. Dòng sông đó tắm mát tâm hồn
trẻ thơ, nuôi dưỡng tình cảm của đứa con với người mẹ, nhưng cũng chính dòng
sông đem đến cho con bé sự nghi ngờ và sụp đổ khi bắt gặp mẹ mình hẹn hò…
Trong Gia đình, dòng sông nuôi lớn chị em Hà, xóa đi vết thương lòng mà
người cha tài hoa nhưng vô trách nhiệm gây ra với gia đình, sẵn sàng giang tay
đón vào lòng những kiếp người cơ cực như mẹ Hà… Dòng sông trong truyện
ngắn của Bình Nguyên Trang không chỉ gợi khung cảnh làng quê mà con mang
nhiều ý nghĩa biểu tượng. Gắn bó với đời sống con người, mỗi khúc sông vừa
64
là chứng nhân, vừa là biểu tượng của mọi buồn vui, sướng khổ, sống chết đời
người.
Không gian làng quê còn được gợi lên qua những góc chợ quê trong Mùi
của kí ức, là những cánh đồng trong Những mùa xưa miên man hay Như một
cánh đồng hay con đường trong Bởi một con đường như thế,... Khắp làng quê,
đâu đâu chẳng có những khu chợ nhỏ nhỏ xinh xinh. Có thể là chợ theo buổi,
chỉ có sáng hoặc chiều, cũng có thể là cả ngày, nếu đấy là những con ngõ náo
nhiệt như nơi tôi đang sống, với đủ mọi thành phần lúc nào cũng đông đúc. Sau
khi người ta về hết, chỉ còn sót lại mấy chiếc bàn cũ dựng tạm úp vào tường,
đống rau thừa rác cặn gom lại ven ngõ. Mùi bụi hòa với mùi hăng ngái còn sót
lại, tựa như khung cảnh đìu hiu trong Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Rồi
đến sáng mai, cái chỗ đìu hiu ấy lại sinh động náo nhiệt, đủ âm thanh sắc màu.
Bình Nguyên Trang cứ lặng lẽ tả thực góc chợ mà đủ làm ta thấy nôn nao, quen
thuộc. Không gian bình dân ấy ai cũng từng thấy, thậm chí gắn bó đâm ra thành
quen mắt, không để ý. Với con mắt tinh tế và cái hồn của nhà văn, chị tách
mình khỏi nhịp sống thường ngày, biến mình thành khách du lịch phương xa,
để rồi từng dòng viết như sự phát hiện đầy ngạc nhiên trước nét riêng của khu
chợ nơi làng quê. Hình ảnh làng quê còn là những cánh đồng, con đường vàng
đầy nắng: “Con đường không một bóng người. Chỉ có nắng chiều và rơm, vàng
như bất tận.” [56;tr 50], “Ở những vùng đồng bằng tôi sinh ra, mùa thu là mùa
của lúa chín. Tôi đã đi chân trời góc bê, nhưng không có bức tranh nào màu
vàng đẹp như màu vàng của cánh đồng lúa quê tôi.” [56;tr25]. Tình yêu với
quê hương và cái nhìn đậm chất hội họa làm tái hiện khung cảnh quê hương
rực rỡ, lãng mạn như trong bức tranh.
Viết về vùng quê, cảm hứng trữ tình chi phối hầu hết sáng tác của Bình
Nguyên Trang. Chị hiểu vùng quê của mình nghèo, điều này không bị phủ
định nhưng con mắt trữ tình đã xóa đi cái nghèo, chỉ để lại trước mắt ta một
65
không gian bình yên, tươi tắn của thiên nhiên và sinh hoạt. Ở đâu ta cũng
thấy một tình yêu và sự gắn bó sâu sắc của Bình Nguyên Trang với đồng đất
quê hương.
3.2.1.2 Không gian đô thị
Song song với không gian làng quê, không gian đô thị được phản ánh
nhiều trong văn xuôi Bình Nguyên Trang. Trên thực tế, đô thị Việt Nam hiện
đại vẫn đang trong quá trình kiến tạo vì thế sự ngổn ngang của nó tạo nên
mảnh đất màu mỡ cho nhiều cây bút khai phá. Nếu những trang viết của
Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn,…mang tới một hình dung xô bồ, bát nháo, nhiều
hấp dẫn mà cũng nhiều xót xa tiếc nuối, thì Bình Nguyên Trang mang đến một
hình dung về một đô thị trống trải, không màu sắc và âm sắc dù chộn rộn người
và xe. Ở đó, chị vận dụng lối viết khách quan, mỗi truyện là một mảng màu
đan dệt nên bức chân dung tinh thần thị dân mà nhà văn chỉ làm nhiệm vụ duy
nhất là tường thuật trung thành. Xuất hiện trong đó, kiểu không gian đô thị
nhàm chán, lặp lại, diễn ra những bi kịch trong cuộc sống nhân vật, nỗi cô đơn,
thất vọng, chán chường của những tâm hồn không tìm được chỗ dựa bình yên.
Ở đó, có những tình yêu không thành, những cái chết bất ngờ, nhanh
chóng,…Không gian đô thị là phố phường với tất cả những ồn ào, bát nháo
của cuộc sống hiện đại nhưng lại trống trếch với những hụt hẫng cô đơn.
Ta có thể thấy điều đó qua truyện Bố về hưu. Mở đầu truyện là cảnh rộn rã
vui tươi của khu phố. Nhưng nó chỉ làm nỗi đau của con người thêm tăng lên:
“Chiều nắng đẹp. Đoàn quân diễu hành qua nhà. Cờ hoa tung bay như diều. Khẩu
hiệu và băng rôn. Thành phố đón nhận danh hiệu anh hùng. Các chú cảnh sát
đứng chật đường. Mẹ bảo đông quá. Cứ đông là vui rồi. Riêng bố không vui. Bố
trầm ngâm ngồi bên lan can, đôi mắt vô cảm. Mẹ không làm trong nhà nước nên
66
mẹ không hiểu là phải. Bố không tin mình đang buồn. Bố thấy trống trải. Nắng
chiều lại cứ đẹp rạng rỡ lên như báo hiệu xuân sắp tàn.” [57;tr6]
Hay trong truyện Đời còn có nhau, tác giả xây dựng không gian quán cà phê
nhàm chán đến nỗi các nhân vật không chọn được chỗ nào dừng chân. Đó là thực
tế phổ biến ở thành thị. Thừa quá thì hóa chán, nhiều quá thì đâm chả biết chọn gì.
Một cuộc sống đủ đầy mà vẫn nhàm chán. Mây và Tình đi nửa tiếng đồng hồ hai
đứa vẫn không quyết định được sẽ vào đâu. “Mây ngồi sau, mỗi lần Tình định rẽ
vào quán nào đó, cô lại giật áo Tình: “Chỗ này ồn quá anh.”, “Chỗ này tối quá
anh.”, “Chỗ này nhạc sến quá anh.” [57;tr2]. Ngay cả lúc chọn được một quán
thì nó cũng nhàm chán chẳng kém: “Cà phê. Quán không vắng, không thưa. Nhạc
không to, không nhỏ. Ngồi cạnh nhau. Tình lơ đãng, Mây lơ đãng, cả hai đều
không biết nói gì” [57;tr2]. Không gian quản cà phê ấy còn xuất hiện trong truyện
Những ngày xưa miên man. Vẫn là không gian không vắng, không thưa, không
có gì đặc biệt. Con người ngồi đó không phải vì công việc mà để ngồi suy tư.
Nhìn mưa và suy nghĩ. Có lẽ lúc đó họ mới bật ra được những điều mà lúc ồn
ào không nhận ra được. Không gian quán thu hẹp lại ở nội tâm con người.
Đó còn là không gian của hè phố, ngõ sâu. Trong Xao lòng ngõ, ta thấy
những cảm nhận của Bình Nguyên Trang về những con ngõ nhỏ như linh hồn
giấu kín của đời sống phố thị. Chị đã có những phát hiện thật đúng về những
con ngõ: “Đời sống ngày một phát triển ồn ào, tốc độ. Chúng ta có xu hướng
nhìn ra phố, ra xa lộ, nhìn lên cao nhiều hơn là nhìn sâu vào một con ngõ. Một
con ngõ kể gì về đời sống nó đang bao chứa, có lẽ rất ít người tự hỏi điều đó,
ngay cả chính họ cũng đang sống trong một con ngõ. Hà Nội có cơ man ngõ,
mà nếu hình dung trên một bản đồ, nó giống như những đường vân chằng chịt
chuyển tải rất nhiều tín hiệu ngóc ngách của đời sống” [60;tr66]. Chị khẳng
định: “Ngõ không thể thiếu trong câu chuyện phố phường, trong kí ức của dân
67
cư đô thị. Nó có một cái mùi riêng, một cái bản sắc riêng khó có thể trộn lẫn.”
[60;tr66]. Bằng cái nhìn đậm chất văn hóa, Bình Nguyên Trang đã đem đến cho
ta cái nhìn văn hóa về phố thị. Trong hàng trăm con ngõ xưa cũ ở Hà thành, nơi
nào dường như cũng giữ được nét riêng của mình để có một Hà Nội "ngõ" rất
riêng.
Ngay cả không gian phố xá ồn ào, Bình Nguyên Trang cũng phát hiện
được nét đặc trưng rất bình dân của Hà Nội nói riêng, Việt Nam nói chung. Đó
là những hàng quà vặt. Trong Bánh mì của lòng tin, chị đã kể về một hàng bánh
mì nhỏ nằm trên lề đường phố đã bao năm. Quán bánh tiếp đón đủ hạng người,
có cả những tên kẻ trộm rình mò để ăn cắp. Lúc nào quản cũng đơn sơ và sẵn
sàng mở lòng với tất cả kẻ qua người lại. Nó đem đến cho tác giả một cảm giác
thân thương, gần gũi. Hay trong Trò truyện với cây, tác giả tả cây như một vẻ
đẹp của phố phường: “Những bóng cây đẹp đẽ, tỏa bóng râm xuống phố
phường. Những gốc cây nơi ghi dấu tuổi thơ của nhiều thế hệ người Hà Nội.
Nơi những đôi lứa hò hẹn bâng khuâng. Những cây là chứng tích lịch sử của
thủ đô nhiều thời kì. Những cây vẫn kiên cường bám trụ từng con phố thủ đô.”
[60;tr99]. Giọng văn của Bình Nguyên Trang trong những trích đoạn này trữ
tình hơn bao giờ hết. Chị nói tới cây xanh với cả một niềm say mê không chỉ ở
vẻ đẹp mà còn ở nét văn hóa cây mang lại. Phố xá dịu đi trong vẻ đẹp của những
con đường, dải cây xanh. Những hàng cây xanh là nỗi nhớ của người đi xa, là
niềm yêu của người ở gần, là bâng khuâng vương vấn của tuổi trẻ. Đây là bóng
hàng me cổ thụ ở phố Ngô Quyền. Đường Nguyễn Du, đường Trần Hưng Đạo
lại có nhiều cây sấu già, có hoa sữa. Tháng mười đi dưới hàng cây xanh, ai
cũng ngây ngất, vấn vương bởi mùi hương hoa sữa. Phố Lò Đúc có hàng cây
sao đen thẳng cao vút xanh rì. Phố Điện Biên Phủ có gần năm mươi cây đa toả
bóng.
68
Tóm lại, không gian phố thị xuất hiện với nhiều nét đa dạng hơn. Đó vừa
là không gian mang nét văn hóa đặc trưng của Hà Nội, vừa là không gian của
tâm lí, của đời tư. Chị khai thác song song để mang đến một cái nhìn khá toàn
diện. Nhưng nhìn chung, nó mang nét giản dị, bình dân hơn là sự xa hoa, nhộn
nhịp. Vì thế, dư âm phố thị để lại là “góc”, “ngõ”, “quản nhỏ”; là sự tĩnh lặng
rất riêng.
3.2.2 Thời gian nghệ thuật đa chiều
“Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật (…)
thể hiện sự cảm thụ độc đáo của thời gian về phương thức tồn tại của con
người trong thời gian” [41;223]. Thời gian nghệ thuật được sử dụng như một
phương tiện hữu hiệu để biểu đạt thế giới cảm xúc, cảm giác của con người.
Nó góp phần thể hiện tâm trạng của nhân vật và bộc lộ ý tưởng của tác giả.
3.2.2.1 Thời gian quá khứ
Ở một số truyện ngắn của Bình Nguyên Trang, ta bắt gặp thời gian đồng
hiện: quá khứ, hiện tại và tương lai. Chị miêu tả thời gian trong sự đan xen
giữa xưa và nay như một thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu để diễn tả những biến
đổi trong thế giới nội tâm của nhân vật. Đây chính là thủ pháp nghệ thuật độc
đáo góp phần phản ánh đời sống nội tâm nhân vật. Do hướng tới việc biểu đạt
thế giới bên trong đầy bí ẩn của con người với những trạng thái sống mơ hồ,
những kỉ niệm về một thời xưa cũ nên thời gian trong văn phẩm của chị không
mang tính chất cụ thể, xác thực. Đây là kiểu thời gian tâm lí, tâm tưởng.
Ta có thể thấy điều đó qua tản văn Hoa gạo cuối trời và Tháng ba. Kí ức
về tuổi thơ tác giả được gợi dậy lại, đan xen với hiện thực cuộc sống. Nó sống
lại đầy xúc động qua những câu thơ:
“Năm ấy mẹ sinh em, mùa đói
tháng Ba nhọc nhằn hoa gạo rụng hố vôi” [60;tr10]
69
Kí ức về những ngày tháng khó khăn không xóa đi được, nhưng đọng lại
trong một tâm hồn non thơ vẫn là hình ảnh cây hoa gạo cổ thụ đứng chơ vơ
giữa trời. Suốt tuổi thơ tác giả đã đi học qua những cánh đồng gạo nở đỏ trời.
Chị thấy những bông gạo bừng nở như ngọn đuốc khổng lồ được ai thắp lên.
Nhìn hoa gạo mà bao nhọc nhằn, khó khăn, thiếu đói vơi đi. Và với trái tim đa
cảm, Bình Nguyên Trang từng khóc thầm khi thấy hoa gạo rụng đầy cái hố
vôi sau một trận mưa rào. Phải chăng, đó là sự tiếc nuối trước cái đẹp bị thời
gian và thiên nhiên vùi dập?
Hình ảnh hoa có lẽ là nét đẹp riêng trong tản văn của Bình Nguyên
Trang. Chị dùng hoa để nói về tâm tưởng và cũng dùng hoa để báo hiệu thời
gian. Nếu hoa gạo báo mùa xuân thì hoa cúc trong Mùa thu báo hiệu mùa
thu đến. Mùa thu và hoa cúc là một cặp sóng đôi. Tạo hóa sinh ra vốn đã như
vậy, chẳng thể nào tách rời nhau được. Để rồi hoa cúc nở, hoài niệm mùa
thu lại gợi dậy trong Bình Nguyên Trang. Những mùa thu vẫn đẹp kiêu sa,
trang trọn. Thu sang, đất trời Hà Nội lại rạng ngời, duyên dáng đáng yêu bởi
sắc vàng tươi của màu hoa cúc. Với màu vàng hoang hoải cố hữu của đất
trời, tiết thu như thể làm nền để tôn nâng cái vẻ đẹp quyến rũ xốn xang đang
dâng lên trong sắc vàng sánh quyện của hoa cúc. Sắc vàng ấy trên đất Thăng
Long đã làm đắm say, mê mẩn biết bao người. Sắc thu hòa vào hoa cúc như
thế đẹp đến nao lòng. Ngắm nhìn trời thu Hà Nội như thế hẳn sẽ có không ít
người không khỏi ngỡ ngàng thích thú khi nhận ra những bông cúc bình dị
thường ngày kia nay đã đem đến, tô điểm cho Hà thành một sắc vàng mê mải
đầy quyến rũ.
Thời gian hoài niệm cũng gắn với cả giấc mơ như một biểu hiện của tâm
hồn. Bình Nguyên Trang đã từng viết về một giấc mơ đầy ánh trăng trong tản
văn Tài sản của tâm hồn. Không có một ai trưởng thành mà không ôm ấp vài
70
ba kỷ niệm thân thương thuở bé. Những bộn bề cuộc sống, đôi khi cuốn thước
phim ký ức ấy vào một miền xa xăm trong tâm trí. Nhưng thực ra chúng chỉ
ngủ im trong cõi mông lung ấy, chứ chẳng hề mất đi. Kỳ diệu thay, một ngày
nào đó, khi ta bình tâm nhìn lại tất cả bỗng ùa về rực rỡ. Bình Nguyên Trang
mơ thấy mình bay lên trăng – một giấc mơ lãng mạn, một câu chuyện có vẻ
bình thường song ý nghĩa của nó thật lớn: “Những giấc mơ đẹp thời thơ ấu, tôi
tin rằng, ai cũng có thể gặp lại chúng…Là khi tâm hồn ta rộng mở, tràn ngập
sự yêu thương và ánh sáng. Và khi giấc mơ trở lại, nó là một hiện hữu, một sự
thật, một kiểm chứng về hạnh phúc. Nó trở thành tài sản của tâm hồn.”
[60;tr98].
Có thể nói, trong tản văn và truyện ngắn của mình, Bình Nguyên Trang đã
ngược về quá khứ để soi chiếu lại tâm hồn, để tâm hồn bình yên hơn và lắng
nghe những hạnh phúc nhỏ bé. Đây cũng chính là cách thức để bộc lộ tư tưởng
chủ đề của từng tác phẩm.
3.2.2.2 Thời gian hiện tại
Ngoài thời gian quá khứ, tác giả cũng tái hiện thời gian hiện tại. Để biểu
đạt sâu sắc những cảm xúc riêng tư của nhân vật, tác giả đặc biệt quan tâm
đến hai thời điểm hoàng hôn và đêm khuya. Đây là những khoảnh khắc dễ gợi
cảm xúc buồn, dễ khiến người ta sống thật với chính mình. Có lẽ vì thế mà
đọc tác phẩm của chị ta ít gặp trạng thái vui vẻ mà luôn thấy xuất hiện cảm
xúc buồn. Ví như trong truyện Mùa đom đóm mở hội, cảnh tượng cứ ám ảnh
trong ta là cứ chiều chiều dì Lê lại ra ngồi bên bờ sông gọi hồn cái Gái: “Chiều
chiều, dì Lê cầm cái giỏ không ra bến sông ngồi đợi. Mặt sông vàng vọt ánh
sáng của ngày tàn. Dì chìa cái miệng giỏ ra phía cửa sông, đốt hương hú gọi
hồn cái Gái về. Đêm xuống, dì Lê vẫn cứ ngồi bất động như bóng ma ở bờ
sông.” [57;tr108]. Nỗi buồn đã chôn, đã quên sao có thể giấu được khi chiều
71
tà về. Một thời gian của sự tàn tạ, của nỗi cô đơn càng làm rõ sự mất mát lớn
lao trong lòng dì Lê.
Thời gian sinh hoạt hàng ngày được nhắc tới trong sáng tác của chị. Nó
được đo đếm bằng những hoạt động thường nhật, những bữa cơm, những lần
gặp gỡ gia đình, những cuộc tranh luận đầy thử thách, từ đó bộc lộ rõ suy nghĩ,
tình cảm bản chất của nhân vật. Trong tản văn Bánh mì của lòng tin, chị đã kể
câu chuyện trong chính cuộc sống hiện tại của chị. Đó là việc chị mua bánh mì
không có tiền trả nhưng bà bán bánh không chỉ cho chị khất mà còn ân cần gói
bánh mì lại cho chị, tránh trời mưa. Từng lời văn kể lại chi tiết như sự việc đang
xảy ra trước mắt. Có lẽ bây giờ con người không còn tin vào những việc làm
tốt, những cử chỉ độ lượng nữa rồi, nên kể lại sự việc bình thường trong buổi
sáng bình thường ấy cũng là một điều đặc biệt.
Chị cũng hay đưa ra những tác phẩm triết lí về thời gian, như: tản văn Nói
cùng bạn về thời gian, Như một dòng chảy, Lan man trong thời gian,... Lúc đó,
thời gian là một thứ báu vật cần phải nâng niu, trân trọng. Trong tác phẩm Nói
cùng bạn về thời gian, cảm nhận về thời gian rất rõ, bắt nguồn từ ngày sinh
nhật: “Sinh nhật là ngày gì, chính xác là ngày ta già đi một tuổi. Khi năm tháng
dày hơn, ta cảm thức về thời gian mạnh hơn. Một khi cảm thức về thời gian, ta
không tránh khỏi sự chạnh buồn. Buồn vì quỹ thời gian của mình đang vơi đi,
như một tất yếu. Buồn vì tuổi trẻ đang rời bỏ mình từ từ.” [60;tr36]. Thời gian
ấy hiện lên qua cảm nhận của một con người đã từng trải, tuổi xuân đã qua, và
nói về thời gian cũng là cách để nhắn nhủ mọi người sống có ý nghĩa hơn. Đừng
để thời gian trôi qua vô ích – thông điệp lặp đi lặp lại trong những trang viết
của chị đã biến thời gian thành một biểu tượng cho cách sống đúng của mỗi
người.
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu
72
3.3.1. Ngôn ngữ đằm thắm, giàu chất thơ
Ngôn ngữ trong tác phẩm của Bình Nguyên Trang không chỉ đi sâu khám
phá, phân tích những hiện thực cuộc đời mà còn có xu hướng đi tìm vẻ đẹp của
thiên nhiên, con người qua những cảm nhận vừa trữ tình vừa sâu lắng. Chị đã
lựa chọn những ngôn từ thật đằm thắm dịu dàng, giàu chất thơ để hướng vào
thế giới nội tâm con người hoặc miêu tả những bức tranh thiên nhiên trữ tình
thơ mộng. Nếu so sánh trong bối cảnh chung của văn học đương đại, ta thấy
ngôn ngữ của Phan Thị Vàng Anh sắc sảo như “dao cứa”, chạm vào vấn đề của
đời sống một cách trực diện bằng một cái nhìn tự tin thì ngôn ngữ của Bình
Nguyên Trang lại đằm thắm, nữ tính. Có lẽ bởi vì chị vốn là một nhà thơ nên
ngôn ngữ văn xuôi của chị cũng mang hơi hướng của thơ. Tính thơ thể hiện ở
hệ thống các từ gợi cảm trong tác phẩm. Ở tác phẩm của chị, ta thấy nhiều từ
láy với giá trị biểu đạt cao, lại vừa có khả năng đi đến tận cùng mọi ngõ ngách
của tâm hồn, mọi đặc điểm của trạng thái mà những loại từ khác khó diễn đạt
được. “Mỗi từ láy là một “nốt nhạc” chứa đựng trong mình một “bức tranh” cụ
thể về các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác, khứu giác… kèm
theo những ấn tượng về sự cảm thụ chủ quan, những cách đánh giá và thái độ
của người nói trước sự vật, hiện tượng, đủ sức thông qua các giác quan hướng
ngoại và hướng nội của người nghe mà tác động mạnh mẽ tới họ. Là lớp từ có
nhạc tính cao, giá trị biểu âm lớn, hệ thống từ láy được sử dụng trong sáng tác
của Bình Nguyên Trang đã tạo nên sự sinh động, hấp dẫn cho tác phẩm; sự hài
hoà, cân đối cho câu văn, hấp dẫn độc giả. Từ láy đã góp phần đưa chất thơ,
nhạc, hoạ vào trong tiểu thuyết, rút ngắn khoảng cách về thể loại trong các loại
hình văn học. Từ láy xuất hiện dày đặc. Có thể tìm thấy không ít đoạn văn mà
câu nào cũng sử dụng từ láy:
73
- “Mẹ sinh tôi ra cũng vào một ngày tháng ba, mưa phùn rét mướt. Trong
nỗi đau hân hoan, hạnh phúc ấy, khi bố đưa mẹ qua cánh đồng để đến trạm xá,
mẹ vẫn nhìn lên cây hoa gạo và bà cảm giác ngày hôm đó tất cả những bông
hoa gạo dường như đều bừng nở.” [60;tr10]
- “Gió bắt đầu phả một chút se se vào không khí. Những hàng cây xanh
mướt mát như mời gọi. Và nắng vàng như mật ong chảy tràn trên mặt đất....”
[60;tr21]
- “Phải chăng vì chút gió lạnh làm lòng ta se sắt. Hay vì chút lá vàng rơi
làm lòng ta bâng khuâng hồi tưởng. Hay vì màu trời quá xanh, màu nắng quá
vàng làm những xốn xang bừng thức sau một mùa hè cất giữ.” [60;tr22]
Chị cũng sử dụng rất đa dạng phương tiện và biện pháp tu từ để tạo hình
cho câu văn. Sử dụng biện pháp so sánh, chị tạo nên những câu văn giàu hình
ảnh về thiên nhiên và con người, tạo nên một thế giới hình tượng sinh động, ấn
tượng:
- “Nhìn từ xa, cây gạo giống như ngọn đuốc khổng lồ vừa được ai thắp
lên” [60;tr11].
- Cuộc sống là viên rubic nhiều màu sắc, ta luôn phải lựa chọn màu cho
mình” [60;tr28]
- Thời gian là thứ tài sản mà chẳng ai huênh hoang nói mình giàu được
cả” [60;tr56].
Trong văn phẩm của chị, so sánh không chỉ mở rộng khả năng phản ánh
hiện thực của lời văn mà còn mở rộng hiểu biết cho người đọc. Qua những hình
ảnh đối chiếu, chị đã giúp người đọc cảm nhận đến tận cùng và chia sẻ được
với những tầng bậc cao thấp, đa diện, đa chiều trong thế giới nội tâm đầy bí ẩn
của con người. Sẽ là không quá nếu nói rằng đây là một phương tiện ngôn ngữ
74
đắc địa giúp chị phản ánh logic bên trong, logic tâm trạng. Bằng hình ảnh so
sánh, nhà văn đem đến cho độc giả sự hiểu biết sâu sắc về thế giới bên trong
của con người nói chung, của chính mình nói riêng. Qua hình ảnh so sánh,
người đọc còn cảm nhận được tình cảm yêu thương sâu sắc, thấm thía và tấm
lòng trân trọng trước sự sống, con người của nhà văn..
Những từ ngữ dịu dàng lắng sâu chỉ cảm giác con người thường được chị
đúc kết như: thoáng thấy, thoáng nghe, thoáng nhìn, thoáng nghĩ, bỗng nhiên,
bất chợt, lần đầu, ý thức…
Sự đằm thắm trong văn xuôi Bình Nguyên Trang còn bắt nguồn bởi
những câu văn giàu nhạc điệu. Nó được cất lên từ những câu văn có âm điệu
uyển chuyển, nhịp nhàng, thể hiện đậm nét “cái nhạc tính trong tâm hồn nhà
văn”. Dù diễn tả tâm trạng vui hay buồn, cảm xúc mong manh, mơ hồ hay
động thái tâm lí rõ ràng, cụ thể…, lúc nào ta cũng bắt gặp trong văn phẩm của
chị những câu văn du dương, cái nhịp văn khoan thai, êm ả. Ngoài ra, chị còn
thích kết hợp cả thơ trong sáng tác văn xuôi của mình. Tản văn Hoa gạo cuối
trời là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách này. Trong bài tản văn ngắn mà có
tới ba trích đoạn thơ:
- “Năm ấy mẹ sinh em, mùa đói
tháng Ba nhọc nhằn hoa gạo rụng hố vôi” [60;tr10]
- “Kí ức em dột ướt một mái nhà
Thời gian phủ nỗi niềm lên màu rạ
Mẹ khâu vá một đời bên bức vách
Ngọn đèn chong chưa lụi tắt bao giờ” [60;tr12]
- “Cây gạo ấy bây giờ con vẫn nhớ
Năm tháng đi phai sắc đỏ mỗi mùa” [60;tr12]
75
Bình Nguyên Trang mang đến chất giọng nhẹ nhàng và tinh tế. Ngôn
ngữ trữ tình cũng vì thế là đặc trưng cơ bản của văn xuôi Bình Nguyên Trang.
Mỗi tác phẩm của chị như một bài thơ về những cảnh vật, cuộc đời sâu sắc
của cảm nhận và đậm đà tình người. Giản dị mà sâu sắc, chứa chan tình nhân
ái, chị hướng người đọc tới sự thanh cao của cái đẹp, cái thiện.
3.3.2. Giọng điệu đa dạng mà thống nhất
3.3.2.1 Trữ tình sâu lắng
Giọng điệu là đặc điểm tạo nên dấu ấn đặc trưng của mỗi người, mỗi thời.
“Thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện
tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng
từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã,
ngợi ca hay châm biếm (…) Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ
tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc (…). Giọng điệu
là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học” [33;tr216]. Với thể loại văn
xuôi, giọng điệu càng trở nên quan trọng, bởi chỉ trong một lát cắt của cuộc
sống, nhà văn không chỉ biểu hiện được các vấn đề nhân sinh mà còn phải cho
thấy được sự hiện diện của những quan niệm cá nhân trước cuộc đời.
Trong văn của Bình Nguyên Trang, ta dễ dàng nhận thấy chất giọng trữ
tình, lối viết dịu dàng, đằm thắm. Giọng trữ tình độc thoại đằm thắm trở thành
âm điệu chính trong tác phẩm của chị. Từ đó, những tác phẩm của chị bộc lộ
sự đồng cảm, sẻ chia với những con người, những thân phận người, những
cuộc đời sống quanh mình. Giọng điệu trữ tình khơi sâu vào cảm xúc chủ quan
của nhân vật và khơi gợi ở người đọc những khoảnh khắc rung động tâm hồn.
Nó góp phần làm nên một “cái nhìn khắc khoải” về thân phận con người, về
những nỗi đau, những dâu bể trong cuộc đời. Đồng thời cũng ánh lên một
niềm tin: những khó khăn, vất vả cùng những đau khổ nhất định rồi sẽ qua
76
đi. Có thể nói, trước những dâu bể thăng trầm của cuộc đời, con người không
thể không buồn nhưng quan trọng hơn trước những dâu bể thăng trầm ấy, con
người ta biết chấp nhận nó để có thể sống tốt hơn, để hiểu mình và hiểu
đời hơn. Tác giả không chỉ xót xa và thông cảm, chị còn tin yêu và luôn
mong mỏi cho những phận người không may ấy có được cuộc sống hạnh phúc
dù là những hạnh phúc bình dị và nhỏ nhoi nhất để bù đắp cho sự độ lượng,
vị tha và nghĩa khí của họ trong cuộc sống. Đây cũng chính là cái nhìn mang
đầy tính nhân văn của nhà văn Bình Nguyên Trang.
3.3.2.2 Triết lý sâu xa
Đi kèm với chất giọng trữ tình là chất giọng triết lí. Nó biểu hiện sự
trưởng thành, già dặn của một người từng trải với những chiêm nghiệm suy tư
về những giá trị cuộc đời và con người. Trải qua những bước chuyển, những
biến cố trong cuộc đời, các nhân vật của chị thường nhạy cảm, biết suy xét và
nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống: “Năm tháng khiến chúng ta già
đi, và những phút giây tận hưởng yêu thương cũng mất dần theo năm tháng....
Yêu lấy mình, bạn sẽ thấy cuộc đời đẹp hơn và bạn đẹp hơn. Khi bạn trở nên
đẹp hơn, thì bạn sẽ được yêu thương nhiều hơn. Và bạn hạnh
phúc...”[60;tr53]. Văn xuôi của Bình Nguyên Trang luôn có cảm hứng suy
nghĩ, trăn trở về con người, về tình yêu, mối quan hệ giữa con người với
con người. Nó được nhìn bằng một tâm hồn nữ giới đậm chất nữ tính. Giọng
điệu của chị là giọng điệu như thủ thỉ, tâm sự từ chính cuộc đời mình. Dường
như nhà văn không có ý định gửi thông điệp mà cũng chẳng triết lí gì về cuộc
sống, mà để mọi thứ tự phơi bày, lên tiếng. Sự phân tích chiêm nghiệm trong
truyện ngắn của chị thường vượt ra khỏi phạm vi cá nhân để vươn tới sự khái
quát có ý nghĩa với số đông: con người, đàn ông, đàn bà, con gái, người
ta,…Đây là sự chiêm nghiệm về bản chất con người: những điều chiêm nghiệm
77
trong văn của chị là cõi nhân sinh thật thấm thía. Từ triết lý về con người, tình
yêu, cuộc sống…, Bình Nguyên Trang cho thấy sự cởi mở trong suy nghĩ, tư
duy, sự sắc sảo trong cách tiếp cận và lý giải vấn đề. Sự chiêm nghiệm, triết
lý ấy được khúc xạ qua những hình tượng nghệ thuật sống động nên có khả
năng tạo dư ba và kích thích sự khám phá và trải nghiệm từ bạn đọc.
Thực ra, giọng điệu triết lí không phải là hướng đi riêng của chị mà là
giọng chủ lực của văn xuôi hiện nay. Nhưng có lẽ, ít có nhà văn nào tạo được
những phương thức chuyển tải giọng điệu nữ tính, tự do như chị. Qua giọng
điệu, ta thấy được quan niệm của chị về con người và những căn nguyên sâu
xa dẫn đến nỗi khổ, bất hạnh của con người. Bởi vậy, đọc văn của chị, người
đọc như được tham dự vào đời sống của nhân vật thông qua giọng kể thiên về
xu hướng biểu đạt thế giới tâm hồn con người bằng những suy tư và quá trình
tự nghiệm.
Tóm lại, Bình Nguyên Trang đã tìm đến giọng điệu phù hợp với lối văn
của chị. Giọng điệu ấy đã phản ánh cái nhìn xã hội khá đa chiều: vừa trữ tình
lại vừa mang cái buồn chiêm nghiệm. Nó cũng cho thấy chị thích hướng về
những vẻ đẹp thẩm mỹ nhẹ nhàng trong nội tâm hơn sự phô trương bề ngoài.
Có nhà văn đã dùng giọng điệu để ấn định phong cách của mình và tác dụng
truyền cảm cho người đọc. Bình Nguyên Trang là một nhà văn trong số đó.
78
Tiểu kết chương 3
Văn xuôi của Bình Nguyên Trang gây ấn tượng về mặt nghệ thuật. Trong
xây dựng nhân vật, tác giả thường hay tái hiện cả ngoại hình, hành động và tâm
trạng. Điểm mạnh của văn xuôi Bình Nguyên Trang là miêu tả tâm trạng bằng
một lối riêng bình dị, gần gũi với mỗi người, với cuộc sống thường nhật của
chúng ta. Trong văn xuôi của Bình Nguyên Trang, người dẫn chuyện đứng ở
ngôi thứ nhất "tôi" với tỷ lệ cao. Cái "tôi" trong truyện giúp ta hiểu thêm về số
phận nhân vật, tạo giọng văn thủ thỉ, trữ tình. Vì điểm trên, ngôn ngữ trong tác
phẩm của Bình Nguyên Trang có xu hướng đi tìm vẻ đẹp của thiên nhiên, con
người qua những cảm nhận vừa trữ tình vừa sâu lắng. Chị đã lựa chọn những
ngôn từ thật đằm thắm dịu dàng, giàu chất thơ để hướng vào thế giới nội tâm
con người hoặc miêu tả những bức tranh thiên nhiên trữ tình thơ mộng. Ở đây,
đóng góp nên thành công của Bình Nguyên Trang còn là việc tạo dựng được
không gian thời gian nghệ thuật đa dạng: vừa có không gian đô thị vừa có không
gian làng quê, thời gian quá khứ đan lồng với thời gian hiện tại. Tất cả tạo nên
giọng văn trữ tình, lối viết dịu dàng, đằm thắm. Văn của chị vì thế không hướng
tới việc xây dựng cốt truyện ấn tượng, gây tác động mạnh. Cốt truyện đơn giản
nhưng cách viết giàu cảm xúc vẫn làm tác phẩm của Bình Nguyên Trang trở
nên hấp dẫn.
79
KẾT LUẬN
Được biết đến là nhà thơ trẻ, nhưng Bình Nguyên Trang cũng rất thành
công với truyện ngắn và tản văn. Trong dòng chảy chung của văn học đương
đại ta có thể dễ dàng nhận ra một giọng văn dịu dàng, đằm thắm, nữ tính rất
riêng của chị. Những tập truyện và tản văn của chị ra đời đều thu hút được sự
quan tâm của đông đảo bạn đọc và giới phê bình bởi những nét độc đáo rất
riêng: từ cảm hứng nhân sinh đến những đặc sắc trong nghệ thuật.
Trước hết, văn xuôi của chị vẽ nên hiện thực cuộc sống và thế giới tâm
hồn con người biểu hiện ngay trong cuộc sống hằng ngày với giọng văn mềm
mại, nữ tính. Chị ưa nắm bắt những chuyển biến tinh tế của con người, cảnh
vật với cảm xúc tự do, lúc gần lúc xa, lúc trước lúc sau, phối hợp với triết lí sâu
sắc. Mảng đề tài chị quan tâm nhất là những thân phận cuộc đời với bao tâm
trạng buồn vui, yêu ghét, giận hờn. Những tập truyện chị viết thường phản ánh
số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ cùng những vấn đề trong tình yêu
và hôn nhân gia đình. Đó là những người phụ nữ bất hạnh, cô đơn nhưng đầy
cao cả bởi đức hi sinh và lòng vị tha. Ngoài chân dung các nhân vật nữ, chị
cũng dành trang viết cho những trẻ em bất hạnh. Tìm hiểu tác phẩm của chị,
chúng ta nhận thấy những tâm tư, tình cảm, ẩn ức của con người. Tác giả dành
nhiều không gian để diễn tả những suy tư, chiêm nghiệm của nhân vật, từ đó,
bộc lộ nhiều triết lý về cách sống đáng suy ngẫm. Cũng giống như giọng văn,
những triết lí ấy trong sáng, giản dị với nguồn nguyên liệu được lấy từ chính
cuộc sống hàng ngày về những khát khao, ước vọng chân thực và đời thường
nhất, như: triết lí về hạnh phúc, về lối sống thực dụng, về thời gian,…
Bút pháp miêu tả nội tâm, giọng văn trữ tình hay điểm nhìn từ nhân vật
“tôi” đều được Bình Nguyên Trang khéo léo đan cài, sử dụng phù hợp trong
việc biểu đạt tâm trạng – đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật. Trong đó,
80
chị phối hợp với cả ngôn ngữ giàu chất thơ, có sự hòa trộn giữa ngôn ngữ của
nhà văn và nhân vật tạo thành lối diễn đạt riêng nhẹ nhàng, thấm đượm cảm
xúc. Cốt truyện không phải điểm mạnh của chị song nó cũng để lại phong cách
riêng: giản dị, ít kịch tính, đôi khi pha trộn với kiểu kí sự hay tản mạn như tản
văn. Trong đó, nhiều truyện đi theo lối cốt truyện tâm trạng đang phổ biến
trong văn học đương đại. Lối cốt truyện đó không mới song phù hợp với nội
dung truyện của chị. Tất cả tạo nên một tổng thể thế giới văn chương mềm
mại, giàu suy tư, nữ tính mà vẫn thấm đẫm giá trị nhân đạo. Đọc văn của chị,
ta thấy chị để lại dấu ấn khó quên trong lòng người đọc, khơi gợi nhiều khả
năng đối thoại và suy ngẫm. Với lối viết của riêng mình, Bình Nguyên Trang
đã góp một tiếng nói giàu nữ tính làm phong phú thêm bức tranh văn xuôi nữ
đương đại.
Trong quá trình tìm hiểu văn xuôi Bình Nguyên Trang có một số vấn đề
hấp dẫn được khơi gợi như ranh giới mờ nhạt giữa truyện ngắn với tản văn,
hình tượng những con người cá tính, đề tài đô thị… Tuy nhiên, do phạm vi có
hạn, chúng tôi mong muốn quay trở lại với những vấn đề này trong một công
trình khác có dung lượng lớn hơn.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1996), Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện
thể loại, Tạp chí văn học.
2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học QGHN.
3. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong thơ văn hiện đại, Tạp chí
Văn học.
4. Lương Sỹ Cầm(2013), Triết lý hạnh phúc trong mùa đom đóm mở hội,
http://sachhay.org/diem-sach/ChiTiet/1471/triet-ly-hanh-phuc-trong-
mua-dom-dom-mo-hoi.
5. Kim Dung (1994), Đọc hồi ức Bến trần gian, Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, (11).
6. Nguyễn Đức Dũng (2015), Đặc trưng của tản văn, thư viện Violet.vn
7. Đặng Anh Đào (1993), Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay, Tạp
chí văn học.
8. Mai Đô(2016), Bình Nguyên Trang nữ sĩ tài hoa, Báo Hà Nội mới.
9. Trần Thanh Địch (1998), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới.
10. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
11. Võ Thị Hảo (1996), Truyện ngắn – sự trớ trêu trong khung hẹp, Tạp chí
Diễn đàn Văn hóa văn nghệ VN.
12. Thanh Hằng (2014). Nhà thơ Bình Nguyên Trang: viết văn đừng sống qua
loa hời hợt, http://cand.com.vn/van-hoa/Nha-tho-Binh-Nguyen-Trang-
Viet-van-dung-song-qua-loa-hoi-hot-333832.htm
13. Hoàng Việt Hằng (2012), Giọt giọt huê tinh,
http://antgct.cand.com.vn/Nhan-vat/Nha-tho-Binh-Nguyen-Trang-Giot-
giot-hue-tinh-314295/
82
14. Triệu Thị Hiệp (2014), Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, luận
văn thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
15. Phạm Hoa (1993), Đọc sách “Cát đợi” của Nguyễn Thị Thu Huệ, Tạp chí
Văn nghệ Quân đội.
16. Trần Thúc Hoa (1990), Giải thích về văn tiểu phẩm có ngôn ngữ tinh
luyện, xem Bàn về nghệ thuật văn tiểu phẩm, Nxb Phát thanh truyền hình
Trung Quốc,.
17. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb
Giáo dục.
18. Lê Thị Hường (1994), Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn
hôm nay, Tạp chí VH.
19. Sùng Thị Hương, Đặc sắc tản văn Y Phương, luận văn thạc sĩ.
20. Lê Minh Khuê (1993), Mùa gặt truyện ngắn, Diễn đàn VNVN.
21. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb
KHXH.
22. Nguyễn Văn Lưu (1997), Luận chiến văn chương, Nxb VH.
23. Phương Lựu (1998), Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sỹ, Tạp chí Tác
phẩm mới.
24. Nhiều tác giả (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.
25. Nhiều tác giả (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
26. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật
phát triển”, Tạp chí Văn học.
27. Nguyên Ngọc (1992), Diện mạo riêng của vụ mùa này, Báo Việt Nam.
28. Phạm Xuân Nguyên (1994), Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp
chí VH.
29. Vương Trí Nhàn (1996), Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí Văn học.
83
30. Vương Trí Nhàn (1998), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.
31. Cao Thị Thùy Nhung, Đặc điểm tản văn và tạp văn Nguyễn Vĩnh Nguyên,
luận văn thạc sĩ.
32. Hồ Phương (1994), Thế hệ thứ ba, Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
33. Việt Quỳnh (2016). Nhà thơ Bình Nguyên Trang: Lặng lẽ “Tìm trong cõi
người,. http://thethaovanhoa.vn/bong-da/nha-tho-binh-nguyen-trang-
lang-le-tim-trong-coi-nguoi-n20140216090104347.htm
34. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, (2006), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục.
35. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
36. Trần Đình Sử (2005), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
37. Trần Đình Sử (2008), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
38. Thiên Sơn(2012), Bình Nguyên Trang”mở cánh một loài
hoa”,http://vanchuongplusvn.blogspot.com/2012/12/nha-van-thien-son-
binh-nguyen-trang-mo.html
39. Dương Tử Thành(2012), Bạn đọc có quyên quên nhà thơ dở,
https://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/binh-nguyen-trang-
ban-doc-co-quyen-quen-nha-tho-do-2135202.html
40. Ngô Thảo(2012), Giới thiệu sách Bình Nguyên Trang và sông của nhiều
bờ, http://vanhocquenha.vn/gioi-thieu-sach/binh-nguyen-trang-va-song-
cua-nhieu-bo-108720.html
41. Bùi Việt Thắng (1986), Chân trời của truyện ngắn, Báo Văn Nghệ.
42. Bùi Việt Thắng (1993), Khi người ta trẻ - tản mạn về truyện ngắn của
những cây bút nữ trẻ, Báo Văn nghệ.
43. Bùi Việt Thắng (1994), Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút trẻ, Tạp
chí Văn nghệ Quân đội.
84
44. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý luận và thực tiễn thể
loại, Nxb ĐHQG.
45. Thi Thi(2012), Gặp lại một màu hoa không
gửi.http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-hoa/552620/gap-lai-mot-mau-
hoa-khong-gui.
46. Bích Thu (1995), Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975
qua hệ thống mô típ chủ đề, Tạp chí Văn học.
47. Bích Thu (1996), Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, Tạp chí văn
học.
48. Bích Thu (1999), Nam Cao về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
49. Bích Thu (2001), Văn xuôi của phái đẹp, Tạp chí Sông Hương.
50. Lý Hoài Thu (2003), Những truyện ngắn hay, Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
51. Nhật Tuấn (2013), Một thành tựu văn xuôi hiện đại, Báo Văn nghệ.
52. Khánh Thủy(2016), Nhà thơ Bình Nguyên Trang: Không thể trả lời thỏa
đáng cho câu hỏi về tình yêu ,http://phunuonline.com.vn/van-hoa-giai-
tri/nha-tho-binh-nguyen-trang-khong-the-tra-loi-thoa-dangcho-cau-hoi-
ve-tinh-yeu-84019/.
53. Nguyễn Xuân Thủy(2013), “Rắn 7x” sung sức trên văn đàn,
http://anninhthudo.vn/giai-tri/ran-7x-sung-suc-tren-van-dan/481823.antd
54. Nguyễn Xuân Thủy, Đặc điểm truyện ngắn Đỗ Bích Thúy.
55. Bình Nguyên Trang (2000), Chuyến tàu thời gian (tập truyện), NXB
Văn học.
56. Bình Nguyên Trang (2012), Sông của nhiều bờ (tập ký), NXB Công an
nhân dân.
57. Bình Nguyên Trang (2012), Mùa đom đóm mở hội (tập truyện), NXB
Văn học .
85
58. Bình Nguyên Trang (2013), Tìm trong cõi người (tập ký), NXB Công an
nhân dân.
59. Bình Nguyên Trang (2014), Những người đàn bà trở về (tập thơ), NXB
Phụ nữ.
60. Bình Nguyên Trang (2014), Hoa gạo cuối trời (tập tản văn), NXB Phụ nữ.
61. Thảo Yên(2012),Sống ở đời cần có sự bao dung
,http://baocantho.com.vn/song-o-doi-can-co-su-bao-dung-a69358.html