BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Nghi Dung
VỊ TRÍ CỦA THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ
TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Nghi Dung
VỊ TRÍ CỦA THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ
TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
DẪN NHẬP ................................................................................................................ 1
Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ .................................... 11
1.1. Khái niệm thể loại .......................................................................................... 11
1.2. Đặc trưng của thể loại truyền kì ..................................................................... 12
1.2.1. Đặc trưng về nội dung ............................................................................. 12
1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật ........................................................................... 22
1.3. Một số tác phẩm truyền kì tiêu biểu ............................................................... 28
1.3.1. Thánh Tông di thảo .................................................................................. 28
1.3.2. Truyền kì mạn lục .................................................................................... 29
1.3.3. Truyền kì tân phả ..................................................................................... 30
1.3.4. Tân truyền kì lục ...................................................................................... 30
1.3.5. Lan Trì kiến văn lục ................................................................................. 30
1.4. Quá trình phát triển của thể loại truyền kì Việt Nam ..................................... 31
1.4.1. Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIV – giai đoạn manh nha của
thể loại truyền kì ...................................................................................... 31
1.4.2. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVI, giai đoạn phát triển rực
rỡ của thể loại truyền kì. .......................................................................... 37
1.4.3. Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX: giai đoạn cáo chung
của thể loại truyền kì................................................................................ 41
Chương 2. TRUYỀN KÌ: CẦU NỐI GIỮA VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ VĂN
HỌC VIẾT ........................................................................................... 46
2.1. Đề tài của truyền kì: khai thác đề tài từ văn học dân gian ............................. 46
2.1.1. Truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyện cổ tích .................................. 46
2.1.2. Truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyền thuyết................................... 55
2.1.3. Truyền kì khai thác đề tài từ truyện ngụ ngôn ......................................... 61
2.2. Nghệ thuật của truyền kì: chịu ảnh hưởng của nghệ thuật văn học dân gian . 64
2.2.1. Cốt truyện và kết cấu của truyền kì có nhiều nét tương đồng với cốt
truyện, kết cấu của truyện dân gian ......................................................... 64
2.2.2. Truyện truyền kì sử dụng những mô – tip dân gian ................................ 71
2.2.3. Cách xây dựng nhân vật trong truyện truyền kì có nhiều điểm giống cách
xây dựng nhân vật trong truyện dân gian ................................................ 73
Chương 3. TRUYỀN KÌ: THỂ LOẠI ĐÁNH DẤU SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẢ VĂN HỌC
HIỆN ĐẠI ............................................................................................. 77
3.1. Văn xuôi Việt Nam trước khi thể loại truyền kì xuất hiện ............................. 77
3.2. Truyền kì đánh dấu sự phát triển của văn xuôi tự sự trung đại ...................... 81
3.2.1. Nội dung truyền kì giàu giá trị yêu nước, đậm chất hiện thực và thấm
đẫm nhân đạo ........................................................................................... 81
3.2.2. Nghệ thuật của truyền kì: một bước phát triển của nghệ thuật văn xuôi
trung đại ................................................................................................. 102
3.3. Dấu vết của truyền kì trong văn học hiện đại ............................................... 130
3.3.1. Dấu vết của truyền kì trong văn học 1930 – 1945 ................................. 130
3.3.2. Dấu vết của truyền kì trong văn học Việt nam hiện đại sau 1975 ......... 135
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 141
1
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Việt Nam có lịch sử phát triển lâu dài, là nền văn học có sức sống mạnh
mẽ, bền bỉ, cũng là một nền văn học có sắc màu phong phú, phản ánh chân thật tâm
hồn, đời sống dân tộc qua mỗi thời kì, mỗi giai đoạn lịch sử. Làm nên sắc màu
phong phú của văn học dân tộc là sự góp mặt của nhiều loại hình văn học với rất
nhiều thể loại đa dạng. Có những thể loại giờ đây đã không còn phát triển nữa. Có
những thể loại xuất hiện từ rất lâu mà vẫn tồn tại, phát triển đến hôm nay. Cũng có
những thể loại dù không còn được sáng tác nữa nhưng dấu ấn của thể loại đó vẫn
còn để lại trong những tác phẩm văn học sau này. Truyền kì là thể loại thuộc dạng
cuối cùng này. Dẫu rằng tên gọi thể loại này chỉ xuất hiện trong văn học viết trung
đại, tồn tại và phát triển đến hết thời kì văn học trung đại, nhưng sự đóng góp của
truyền kì cho sự phát triển chung của loại hình tự sự trong văn học trung đại Việt
Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung là không thể phủ nhận. Các tác
phẩm truyền kì nổi tiếng của các tác giả tên tuổi như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh
Tông – (?)), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm),
Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh) là những cứ liệu không thể bỏ qua khi xem xét sự
phát triển về nội dung, nghệ thuật của văn học Việt Nam ở các giai đoạn khác nhau.
Nói cách khác, nghiên cứu về truyền kì, qua những tác phẩm tiêu biểu, ta phần nào
thấy được diện mạo nền văn học Việt Nam ở cả hai mặt nội dung tư tưởng và hình
thức nghệ thuật. Chọn đề tài Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển
của văn học Việt Nam, chúng tôi muốn góp một cái nhìn khách quan, công bằng
hơn về vai trò của thể loại này đối với sự phát triển chung của văn học dân tộc, cũng
là để có cơ hội hiểu thêm về thể loại này và hiểu thêm về văn học Việt Nam.
Bên cạnh đó, với những đặc trưng của mình, các sáng tác truyền kì luôn gây cho
người đọc sự thích thú. Thế giới huyền ảo, kì lạ của truyền kì đủ sức hấp dẫn người
đọc nhiều thế hệ khác nhau và có sức sống trong dòng chảy văn học. Thế giới ấy
2
cũng cuốn hút tôi, một người học văn, dạy văn và có nhiều tình cảm với văn
chương.
Trong chương trình văn học trung đại ở hai cấp trung học cơ sở và trung học phổ
thông, cùng với thơ Đường luật, ngâm khúc, hát nói, truyện thơ, tiểu thuyết chương
hồi…, truyền kì là một thể loại được chọn giảng dạy trong chương trình, cụ thể là ở
chương trình Ngữ văn lớp 6, lớp 9 và chương trình Ngữ văn lớp 10. Là một giáo
viên môn Ngữ văn, tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu về thể loại truyền kì và vị trí
của thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam sẽ giúp ích cho
công tác giảng dạy văn học ở trường phổ thông. Thực tế nghiên cứu sẽ giúp chúng
tôi có cái nhìn vừa toàn diện, vừa cụ thể chi tiết về thể loại này, lấy đó làm cơ sở
cho việc tìm hiểu, giảng dạy các tác phẩm truyền kì trong chương trình ngữ văn ở
các cấp học. Qua đó, có thể giúp các em học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của văn
chương trung đại (vốn không phải là một điều dễ dàng) qua một thể loại cụ thể và
trân trọng hơn văn học dân tộc mình.
Tóm lại, nhận thức được vai trò quan trọng của thể loại truyền kì trong sự phát
triển của văn học Việt Nam, niềm yêu thích đối với thể loại này và từ yêu cầu thực
tế công tác, tôi chọn đề tài Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt
Nam làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình với mong mỏi có thể góp chút
hiểu biết của mình vào hiểu biết chung về văn học nước nhà và khơi gợi sự hứng
thú của mọi người trong việc tìm hiểu về thể loại truyền kì, từ đó sẽ có thêm những
công trình nghiên cứu khoa học có giá trị về thể loại này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
những tác phẩm cụ thể thuộc thể loại truyền kì, từ Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục đến Lan Trì kiến văn lục nhưng hầu như chưa có một công trình nghiên cứu
cụ thể về vị trí của thể loại này trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, với những
đóng góp quan trọng về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của thể
loại. Số lượng công trình khoa học hay những bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về
những tác phẩm truyền kì cụ thể (trên những phương diện khác nhau) khá lớn, trong
3
khi các bài viết nghiên cứu về thể loại truyền kì nói chung và vị trí của thể loại này
trong tiến trình văn học Việt Nam nói riêng chưa nhiều, cũng có nghĩa là vấn đề này
chưa nhận được sự quan tâm xứng đáng của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học
và những người quan tâm đến văn học.
Trước thế kỉ XX, nhiều tác giả Nho học đã thể hiện sự quan tâm đến thể loại
truyền kì qua những sáng tác truyền kì cụ thể. Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Phan
Huy Chú đều đã dành nhiều ưu ái cho Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả. Vũ
Khâm Lân trong Bạch Vân Am cư sĩ phả kí coi Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ
là một “thiên cổ kì bút”. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục ca ngợi Truyền kì mạn
lục là “lời lẽ thanh tao, tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”. Phan Huy Chú
khen rằng Truyền kì mạn lục là “áng văn hay của bậc đại gia”. Trong Lịch triều
hiến chương loại chí, Phan Huy Chú nhận xét về Truyền kì tân phả: “Lời văn hoa lệ
nhưng khí chất yếu ớt, không bằng văn của Nguyễn Dữ”. Như vậy các tác giả trước
thế kỉ XX quan tâm đến thể loại truyền kì qua các tác phẩm truyền kì cụ thể và về
một phương diện nào đó như văn phong, ngôn từ chứ chưa có cái nhìn bao quát về
thể loại này.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, các sáng tác truyền kì nói riêng, thể loại truyền kì nói
chung nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình văn học hơn.
Khi điều kiện nghiên cứu hiện thời đã thuận lợi hơn, khi nhu cầu tìm về những tác
phẩm nổi tiếng của thời trung đại để xem xét giá trị của chúng trong nền văn học
ngày càng cao hơn thì những công trình khoa học về các tác phẩm truyền kì và thể
loại truyền kì xuất hiện nhiều hơn. Đặc biệt, tác phẩm Truyền kì mạn lục được chọn
làm đối tượng nghiên cứu của nhiều bài viết, công trình khoa học như:
- Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học (Con đường giải mã văn học
trung đại, NXB Giáo dục, 2006) – Nguyễn Đăng Na
- Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
(Tạp chí văn học số 7 – 1987) - Nguyễn Phạm Hùng
- Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán
(Văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, 2001) – Bùi Duy Tân
4
- Bàn thêm về tác giả, tác phẩm Truyền kì mạn lục (Tạp chí văn học số 10/
2002) – Lại Văn Hùng
- Bàn góp về tiếp thu và đổi mới trong Truyền kì mạn lục (Trang điện tử Khoa
Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm TpHCM, tháng 12, 2011) – Phạm Tuấn Vũ
- Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á (Trang điện tử của
Viện Văn học, tháng 10, 2006)– Vũ Thanh
- Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo trong Truyền kì
mạn lục (Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, tháng 6,
2009) – Nguyễn Hữu Sơn
- Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ
(Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, tháng 01, 2010) -
Đoàn Lê Giang
- Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì Việt Nam qua Truyền kì mạn lục
của Nguyễn Dữ (Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Cao đẳng sư phạm Bà Rịa
Vũng Tàu, 2007)- Lê Văn Hùng
Ngoài ra, còn có những bài viết, những công trình nghiên cứu về các tác phẩm
truyền kì khác như:
- Đoàn Thị Điểm và Truyền kì tân phả (Tạp chí Văn hóa Nghệ An tháng 9 –
2010)
- Mối liên hệ giữa Truyền kì tân phả và lễ hội văn hóa dân gian (Trang điện tử
của Viện văn học, tháng 8, 2011) – Trần Thị Băng Thanh và Bùi Thị Thiên Thai
- Thánh Tông di thảo – nhìn từ truyền thống truyện dân gian Việt Nam và từ
đặc điểm truyện truyền kì (Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Đại học Vinh,
2008) – Vũ Thị Phương Thanh
Những bài báo, công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu xem xét từng tác phẩm
truyền kì cụ thể trên những phương diện, góc nhìn khác nhau: so sánh tác phẩm với
những tác phẩm khác cùng thể loại (như bài viết Truyền kì mạn lục dưới góc độ so
sánh văn học; Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ); sự đóng góp của tác phẩm đối với sự phát triển của thể loại (như Bàn
5
góp về tiếp thu và đổi mới trong Truyền kì mạn lục, Bước tiến của thể loại truyện
ngắn truyền kì Việt Nam qua Truyền kì mạn lục, Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu
của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán), ảnh hưởng của văn hóa, văn học dân
gian đến tác phẩm truyền kì (như bài Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và
những sáng tạo của Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục; Mối liên hệ giữa Truyền
kì tân phả và lễ hội văn hóa dân gian); …
Với chúng tôi, những công trình, bài báo này tuy chưa cung cấp một cái nhìn
toàn diện về thể loại truyền kì và vai trò của thể loại này trong tiến trình phát triển
của văn học Việt Nam nhưng đã cho chúng tôi những gợi ý quý báu cho nội dung
của luận văn này.
Trong thế kỉ XX, XXI, ở các công trình liên quan đến văn học trung đại, thể loại
truyền kì nói chung đã được chú ý hơn so với trước đó. Tuy nhiên, xem xét thể loại
truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nói chung, văn học trung
đại nói riêng, những nhà phê bình, nghiên cứu chưa thật sự dành sự quan tâm xứng
đáng cho thể loại này. Chúng ta có thể tìm thấy trong các công trình Lịch sử văn học
Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, 1980), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam
(Trần Đình Sử, NXB ĐHQGHN, 2005), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa (Trần Nho Thìn, NXB GD, 2008) những trang viết về thể loại truyền kì.
Những phần về Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục trong chương XIV (Văn học
viết từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII) và chương XVI (Truyền kì mạn lục và những
thành tựu của văn xuôi chữ Hán) trong Lịch sử văn học Việt Nam, về truyện truyền
kì (Chương IV: Thể loại truyện chữ Hán, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam), về
thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam (Phần một: Một số vấn đề lí luận của văn
học trung đại nhìn từ góc độ văn hóa, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa) tuy không nhiều nhưng cũng giúp chúng tôi tham khảo được nhiều nội
dung quan trọng liên quan đến đề tài luận văn.
Có lẽ người đầu tiên cho ra đời một công trình quy mô, có hệ thống về truyền kì
chính là Nguyễn Huệ Chi với tuyển tập Truyện truyền kì Việt Nam gồm 3 tập do
NXB Giáo Dục Việt Nam xuất bản năm 1999. Đây là tác phẩm tuyển tập trên 200
6
truyện truyền kì và phỏng truyền kì của văn học Việt Nam trong 7 thế kỉ, từ thế kỉ
XIV đến thế kỉ XX, là một công trình thật sự có giá trị, không chỉ cung cấp cho
người đọc những truyện truyền kì cụ thể mà còn qua đó thấy được đặc điểm của thể
loại này. Công trình của tác giả Nguyễn Huệ Chi chính là một trong những nguồn tư
liệu quan trọng cho luận văn của chúng tôi. Chính từ công trình này, chúng tôi có
thể hình dung ra sự phát triển của thể loại truyền kì qua các thời kì, giai đoạn, cũng
như có cái nhìn rõ ràng, đầy đủ hơn về đặc điểm của thể loại này. Cùng với Nguyễn
Huệ Chi, tác giả Vũ Thanh dường như cũng là những học giả khá quan tâm đến
truyền kì với nhiều công trình nghiên cứu về thể loại này như: Những biến đổi của
yếu tố kì và thực trong truyện ngắn truyền kì Việt Nam (in trong Tuyển tập 40 năm
Tạp chí Văn học), Dư ba của truyện truyền kì, chí quái trong văn học hiện đại Việt
Nam (in trong Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học – Kỉ yếu hội thảo của Viện
văn học năm 2001), Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại – quá trình nảy
sinh và phát triển đến đỉnh điểm của (in trong Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX -
Những vấn đề lịch sử và lí luận, NXB GD, 2007)… Tác giả Bùi Thanh Truyền lại
thể hiện sự quan tâm của mình đối với thể loại truyện kì ảo, truyền kì trong những
công trình về thể loại này trong văn học hiện đại qua các bài viết: Sự hồi sinh của
yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam (luận án Tiến sĩ trường Đại học Sư
phạm Huế), Truyện kì ảo trong đời sống văn học Việt Nam… Tác giả Nguyễn Đăng
Na trong Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự
(NXBGD, 2007) cũng đã đề cập đến thể loại truyền kì như là một thể loại tiêu biểu
của văn học trung đại giai đoạn thế kỉ XV – XVI. Bên cạnh đó, Nguyễn Đăng Na
cũng là tác giả chủ biên tuyển tập Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 1,
Truyện ngắn (NXB GD, 1999). Những bài viết, công trình này đã mang đến cho
chúng tôi những ý tưởng quý giá để hoàn thiện nội dung luận văn về những đặc
điểm của thể loại truyền kì, sự ảnh hưởng của thể loại này đến văn học hiện đại.
Như vậy, tất cả các công trình trên, dù ít, dù nhiều cũng đã cung cấp cho chúng
tôi những tư liệu đáng quý để góp phần hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, điểm qua
đôi nét chúng tôi nhận thấy mặc dù các tác phẩm truyền kì nổi tiếng đều nhận được
7
nhiều sự quan tâm của người nghiên cứu phê bình văn học nhưng thể loại truyện kì
lại chưa có được vị trí tương xứng với đóng góp của nó cho sự phát triển văn học
Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. Đây là một trong những
nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi chọn Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình
phát triển của văn học Việt Nam làm đề tài cho luận văn cao học chuyên ngành Văn
học Việt Nam của mình.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình
phát triển của văn học, chủ yếu là văn học trung đại nhìn từ đóng góp của thể loại
này về nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật trên những phương diện cụ thể. Do
nội dung đề tài quy định, trong quá trình nghiên cứu về thể loại truyền kì nhìn từ vị
trí của nó trong tiến trình văn học, chúng tôi có so sánh thể loại này với văn học dân
gian (mảng truyện dân gian) và văn học hiện đại (mảng truyện ngắn).
Do hạn chế về tài liệu chúng tôi không có điều kiện nghiên cứu tất cả các truyện
ngắn được xếp vào thể loại truyền kì. Hơn nữa, việc xác định những truyện ngắn
nào là thật sự thuộc thể loại truyền kì không phải là một việc dễ dàng khi mà những
tiêu chí để phân biệt thể loại này với các thể loại khác vẫn còn những phức tạp.
Trong điều kiện của mình, chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại này qua những
sáng tác truyền kì tiêu biểu trong văn học trung đại, những sáng tác đã được các nhà
nghiên cứu văn học từ trước đến nay khẳng định là những tác phẩm truyền kì hoặc
bản thân tên tác phẩm đã khẳng định là thuộc thể loại này, cụ thể là các tác phẩm
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Tân truyền kì lục và Lan
Trì kiến văn lục. Tổng số lượng truyện ngắn truyền kì mà chúng tôi thu thập được
qua các tuyển tập và các nguồn khác nhau để phục vụ cho đề tài này là 75 truyện
trong đó Thánh Tông di thảo: 10 truyện (Hai Phật cãi nhau, Duyên lạ xứ Hoa,
Chuyện lạ nhà thuyền chài, Người hành khất giàu, Chồng dê, Ngọc nữ về tay chân
chủ, Hai thần hiếu để, Hai gái thần, Tinh chuột và Truyện Dòng dõi con thiềm thừ),
Truyền kì mạn lục: 20 truyện (Nhà xuất bản Trẻ và Nhà xuất bản Hồng Bàng xuất
bản 2011), Truyền kì tân phả: 4 truyện (An Ấp liệt nữ, Hải khẩu linh từ, Vân Cát
8
thần nữ, Bích Câu kì ngộ), Lan Trì kiến văn lục: 39 truyện (trong tuyển tập Truyện
truyền kì Việt Nam, tập 2, NXB Giáo Dục Việt Nam xuất bản năm 2009), Tân
truyền kì lục: 2 truyện (Ve sầu và Nhặng xanh, Con chó nhà nghèo có nghĩa).
Ngoài ra, trong luận văn, người viết cũng đề cập đến những tác phẩm tuy chưa
được gọi là truyền kì nhưng ít nhiều mang màu sắc của thể loại này xuất hiện trước
hoặc sau khi thể loại này xuất hiện và cáo chung như Việt điện u linh, Thiền uyển
tập anh, Tam Tổ thực lục, Lĩnh Nam chích quái… và một số truyện ngắn giai đoạn
1930 – 1945, 1975 trở về sau.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng phối hợp những
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp loại hình: được dùng để xem xét các tác phẩm truyền kì đựa
trên đặc điểm loại hình tự sự của văn học trung đại để từ đó thấy được đóng góp của
thể loại này đối với sự phát triển về nội dung, hình thức nghệ thuật của văn xuôi tự
sự trung đại.
- Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp thống kê, chúng tôi khảo sát
sự ảnh hưởng của văn học dân gian lên các sáng tác truyền kì nhằm chứng minh
truyền kì là cầu nối giữa văn học dân gian với văn học viết; phương pháp này cũng
được sử dung khi chúng tôi xem xét những đóng góp về nghệ thuật ngôn từ của
truyền kì đối với văn xuôi tự sự trung đại.
- Phương pháp miêu tả - so sánh: cùng với phương pháp thống kê, phương
pháp này được sử dụng để xem xét vai trò của truyền kì như cầu nối giữa văn học
dân gian và văn học viết, bên cạnh đó còn nhằm chứng minh truyền kì là một bước
tiến của văn xuôi tự sự trung đại so với những tác phẩm xuất hiện trước đó.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: trong quá trình hoàn thành luận văn, để
làm rõ cho những nhận định của mình, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích
những tác phẩm truyền kì cụ thể, từ đó cũng tổng hợp, khái quát lại trên cơ sở đã
phân tích để có cái nhìn khách quan, chính xác.
9
5. Đóng góp của luận văn
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm truyền kì tiêu biểu như
Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả hay Thánh Tông di thảo… nhưng hầu như
chưa có công trình nghiên cứu bao quát về thể loại này mà chỉ có những công trình
sưu tập, tuyển chọn các truyện truyền kì như bộ Tuyển tập truyện truyền kì Việt
Nam gồm 3 quyển do Nguyễn Huệ Chi chủ biên chẳng hạn. Với luận văn này,
người viết mong muốn góp một cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về thể loại này
trong việc đánh giá giá trị nội dung, nghệ thuật của thể loại đối với sự phát triển của
văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Hiểu thêm về vị trí của thể loại truyền kì sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu, phân tích
từng tác phẩm cụ thể của thể loại, đồng thời hiểu thêm về lịch sử phát triển của văn
học dân tộc, ảnh hưởng qua lại giữa các bộ phận văn học (văn học dân gian và văn
học viết).
Việc đi sâu tìm hiểu về vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình văn học để đi
đến một số kết luận thỏa đáng nào đó là một dịp để người viết rèn luyện khả năng
thao tác nghiên cứu khoa học, cũng là cơ hội để người viết mở rộng thêm kiến thức,
khả năng cảm thụ, phân tích, bình giá văn chương của bản thân.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Mục lục và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được tổ chức thành 3 chương.
Ở chương 1, Khái lược về thể loại truyền kì, luận văn trình bày những vấn đề lí
thuyết liên quan đến thể loại như khái niệm truyền kì, đặc điểm của thể loại, các tác
phẩm truyền kì tiêu biểu trong văn học Việt Nam và các giai đoạn phát triển của thể
loại này.
Trong chương 2, Truyền kì: cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết,
người viết xem xét vị trí của truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam với vai trò
là chiếc cầu nối của văn học dân gian và văn học viết. Qua đó, có thể thấy được sự
ảnh hưởng và tiếp biến của văn học dân gian vào văn học viết thể hiện qua thể loại
truyền kì.
10
Với chương 3, Truyền kì: thể loại đánh dấu sự phát triển của văn xuôi trung đại
và ảnh hưởng đến cả văn học hiện đại, luận văn tiếp tục khẳng định vị trí của thể
loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam khi xem xét thể loại này với tư cách
là một thể loại đánh dấu sự phát triển của văn học trung đại và còn ảnh hưởng đến
cả văn học thời hiện đại.
11
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ THỂ LOẠI TRUYỀN KÌ
1.1. Khái niệm thể loại
Theo Từ điển Văn học, khái niệm truyền kì xuất hiện lần đầu tiên tại Trung
Quốc vào thời nhà Đường trong tên gọi thể loại tiểu thuyết truyền kì. Tiểu thuyết
truyền kì kế thừa những nhân tố của loại truyện chí quái thời Lục triều.
Tiểu thuyết truyền kì là thể văn tự sự cổ điển của Trung Quốc, có nguồn gốc từ
truyện dân gian, sử dụng những yếu tố hoang đường, kì ảo để phản ánh hiện thực
cuộc sống. Những yếu tố hoang đường kì ảo này không phải là dạng nhân vật Bụt,
tiên với vai trò là nhân vật chức năng như trong truyện cổ tích thần kì, cũng không
phải là lực lượng tự nhiên được nhân hóa như trong truyện thần thoại. Sự tham gia
của yếu tố thần kì, hoang đường trong tiểu thuyết truyền kì phần lớn ở trong hình
thức “phi nhân tính” của các nhân vật. Đó là dạng nhân vật ma, quỷ, hồ li, vật hóa
người. Truyện bao giờ cũng có nhân vật là người thật và những nhân vật như ma
quỷ, yêu quái… cũng là sự cách điệu, phóng đại tâm lí, ẩn dụ cho một loại người
nào đó trong xã hội hiện thực. Theo tác giả Đoàn Lê Giang, chữ “kì” trong “truyền
kì” trong những tác phẩm Truyền kì của Bùi Hình, Đường Tống truyền kì (Lỗ Tấn)
không có nghĩa là kì ảo, kì dị mà phải hiểu như một quan niệm văn học, một
phương pháp sáng tác; quan niệm này xem trọng cái “lạ” trong sáng tác. Điều đó
giúp chúng ta lí giải vì sao một số truyện dù được gọi là “truyền kì” nhưng lại hiếm
hoi hoặc thậm chí không có yếu tố hoang đường, kì ảo như những truyện Oanh
Oanh truyện, Liễu Thị truyện (Trung Quốc) hay những truyện trong Lan Trì kiến
văn lục của Vũ Trinh (Việt Nam). Trong luận văn này, chúng tôi hiểu “kì” trong
“truyền kì” theo cả hai nghĩa trên. Tuy gọi là tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết truyền kì
có dung lượng ngắn, tuy nhiên không phải sự thu ngắn của kiểu truyện dài. Tiểu
thuyết truyền kì phần nào mang dáng dấp của thể loại truyện ngắn cận – hiện đại.
12
Trong văn học Trung Quốc, hai chữ “truyền kì” được khai sinh vào thời vãn
Đường với một tập sách của Bùi Hình, nhưng thể loại truyền kì đã được xác lập từ
thời sơ Đường với các truyện Cổ kính kí (Vương Độ (?) ), Bổ Giang tổng Bạch Viên
truyện (không rõ tác giả), Du tiên quật (Trương Thốc). Còn trong văn học Việt
Nam, có thể nói tên gọi truyền kì chính thức xuất hiện lần đầu trong văn học viết
vào thế kỉ XVI với tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tuy nhiên, những
đặc điểm của thể loại truyền kì đã xuất hiện khá rõ nét từ Thánh Tông di thảo (thế kỉ
XV) và nhạt hơn trong một số tác phẩm trước đó như Lĩnh Nam chích quái, Việt
điện u linh… Thậm chí, theo Vũ Thanh, truyện kì ảo của Việt Nam đã bắt đầu xuất
hiện từ thế kỉ XIII với truyện Ứng Minh trì dị sự (Chuyện lạ ở ao Ứng Minh)
[52,739]. Như vậy, có thể nói, trong lịch sử văn học Việt Nam, thể loại truyền kì đã
manh nha xuất hiện từ buổi đầu của văn học viết trong những tác phẩm ghi chép các
truyện kì lạ được lưu truyền trong dân gian như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u
linh sau đó phát triển mạnh và đạt đến đỉnh cao với những sáng tác như Thánh Tông
di thảo, Truyền kì mạn lục; đặc biệt là với Truyền kì mạn lục, thể loại truyện truyền
kì Việt Nam đã đạt được thành tựu rực rỡ, đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển của văn học trung đại Việt Nam. Có thể nói, truyện truyền kì Việt Nam có
nguồn gốc từ truyền kì của Trung Quốc nhưng có một quá trình hình thành, phát
triển nội sinh, gắn liền với nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa dân gian và văn
xuôi lịch sử. Trong quá trình phát triển của mình, truyền kì Việt Nam chịu ảnh
hưởng của văn học các nước trong khu vực Đông Á (như Triều Tiên, Nhật Bản) và
đồng thời cũng góp phần vào sự phát triển chung của thể loại này trong văn học khu
vực thời trung đại.
1.2. Đặc trưng của thể loại truyền kì
1.2.1. Đặc trưng về nội dung
Truyền kì là một thể loại giàu giá trị phản ánh hiện thực. Dù thế giới trong
truyền kì là một thế giới hoang đường, kì ảo nhưng đằng sau những yếu tố hoang
đường đó là hiện thực lịch sử, xã hội cùng với những số phận con người trong
những hoàn cảnh xã hội cụ thể.
13
Đó có thể là một xã hội đầy biến động, rối ren, loạn lạc với giặc giã, trộm cướp,
với những cuộc nội chiến trong Truyền kì mạn lục hay Lan Trì kiến văn lục. Trong
hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục, có những truyện vẽ nên hình ảnh một đất
nước “binh biến rối ren” (Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu), “người chết chóc
nhiều, những oan hồn không có chỗ tựa nương thường họp lại thành từng đoàn,
từng lũ” (Chuyện tướng Dạ Xoa). Lan Trì kiến văn lục cũng ghi lại một thời kì
“giặc cướp nổi lên như ong, lại thêm mất mùa, dịch bệnh” (Dốc Lôi Thủ).
Xã hội phong kiến trong các sáng tác truyền kì là một xã hội nhiều tệ lậu với
những hôn quân, những quan tham lại nhũng bè phái nhau hãm hại dân lành. Những
tên vua quan đó có khi được miêu tả trực tiếp, có khi được ẩn dụ gián tiếp qua hình
ảnh quỷ thần hoặc loài vật.
Đọc Truyền kì mạn lục, ta thấy hình ảnh những vị vua nhà Lê thời suy vong (Lê
Uy Mục, Lê Tương Dực) qua hình ảnh của vua Hồ Hán Thươnng trong Câu chuyện
đối đáp của người tiều phu núi Na. Hiện lên trong truyện ngắn này là một vị vua
“dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn kho
của để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ
rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là
được, kẻ dâng lời ngay bị giết, kẻ nói điều nịnh thì được thưởng, lòng dân động
lay…” [11,tr.176]. Trong khi đó, quan lại khi quyền cao lộc hậu thì tham của đút
lót, “kêu xin chạy chọt lúc nào cũng rộn rịp những người ra vào, vàng bạc châu báu
trong nhà chồng chất đầy rẫy”, nhờ đó mà ăn chơi xa hoa “khoản đãi khách khứa
mỗi ngày tốn phí đến hàng chuông thóc” [11,tr.199] Không những thế, như Lý Hữu
Chi trong Chuyện Lý tướng quân lại còn “dựa lũ trộm cướp coi như lòng ruột, coi
người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu
ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng
cho ruộng đất, đi kiếm những kì hoa đá lạ từ bên huyện khác đem về…” [11,tr.226]
Truyện tuy khẳng định đó là vào thời vua Giản Định Đế thời Hậu Trần nhưng thực
tế hẳn không xa lạ với xã hội thế kỉ XVI của Nguyễn Dữ. Trong Chuyện Phạm Tử
Hư lên chơi Thiên tào, Nguyễn Dữ mượn lời Tử Hư đã vẽ nên bộ mặt triều đình
14
phong kiến mục ruỗng thời bấy giờ với những tên quan lại chỉ là bọn sâu dân hại
nước: “ông mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam không chán, ông mỗ làm chức sư tư
mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều thiếu thốn, ông mỗ chăn dân mà
dân nhiều tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ trị ngục mà buộc tội
oan uổng; lại còn những người lúc thường bàn nói thi môi mép bẻo lẻo, đến lúc trù
tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm
chí không nói theo danh, không xét theo thực, không trung với đấng quân thượng,
lớn thì làm việc bán nước như Lưu Dự, nhỏ thì làm việc dối vua của Diên
Linh.”[11,tr.145]
Có khi các tác giả truyện truyền kì mượn hình ảnh của quỷ thần, loài vật để ẩn
dụ cho bọn quan lại phong kiến thời bấy giờ. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên, hình ảnh “các đền miếu gần quanh đều ăn của đút lót” của hồn ma Bách hộ
họ Thôi mà bao che cho hắn, để hắn mặc sức hưng yêu tác quái và lời thổ thần nước
Việt vì vậy không thông đạt được lên trên phải chăng là hình ảnh bọn vua quan
phong kiến trên cõi trần thời Nguyễn Dữ sống, những tên quan lại bè phái nhau hãm
hại dân lành? Đọc Tân truyền kì lục của Phạm Quý Thích, ta thích thú với hình ảnh
Nhặng xanh và Ve sầu (truyện Ve sầu và Nhặng xanh). Cuộc đối đáp của hai côn
trùng này vẽ nên tích cách của hai loại người. Ve sầu tượng trưng cho nhà Nho quân
tử giàu lòng tự trọng, trong khi đó Nhặng xanh là hình ảnh của bọn mọt nước sâu
dân, không chút tự trọng, liêm sỉ, chỉ cần biết vơ vét cho túi tham của mình.
Trong hoàn cảnh xã hội như vậy, cuộc sống của nhân dân muôn phần khổ sở.
Quyền sống của con người không được trân trọng, hạnh phúc bị chà đạp, đặc biệt
người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh hơn cả. Người dân sống dưới ách cai trị của
những vua quan như vậy hẳn nhiên chịu cực khổ trăm bề, phải “phục dịch nhọc
nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều tai sưng vai rách, rất là
khổ sở…” [11,tr.226]. Có những gia đình nghèo khó đến nỗi chẳng có tiền làm ma
khi người thân qua đời, phải bán vợ đợ con, như trong Chuyện yêu quái ở Xương
Giang (Truyền kì mạn lục), người mẹ vì không tiền để đưa ma chồng về quê đã bán
người con gái nhỏ cho một nhà phú thương. Những người phụ nữ trong xã hội ấy,
15
dù đoan chính, dịu hiền, mẫu mực như Vũ Nương (Chuyện người thiếu phụ Nam
Xương – Truyền kì mạn lục), Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu –
Truyền kì mạn lục) hay táo bạo, phá phách như Túy Tiêu (Chuyện nàng Túy Tiêu)
thì cũng đều chịu kết cục đau đớn, hoặc bị nghi oan đến phải trầm mình (Vũ
Nương), hoặc bị biến thành vật gán nợ thua bạc (Nhị Khanh) hoặc bị cướp về làm
thê thiếp (Túy Tiêu), hoặc bị ép uổng không lấy được người mình yêu để đến nỗi
đau buồn mà mất (Chuyện tình ở Thanh Trì – Lan Trì kiến văn lục).
Xã hội đó cũng là một xã hội đầy những kẻ bất nhân với những nho sĩ lừa thầy
phản bạn, kẻ phú thương hay quan lại cậy tiền của cướp vợ người. Đây là lời của
Dương Trạm, nhận xét về những người “mặc áo nhà nho” thời nhà Trần, mà có lẽ
không khác thời nhà Lê lúc Nguyễn Dữ sống là mấy: “Ngày nay những người mặc
áo nhà nho, đeo dải nhả nho thì lại khác hẳn. Họ thường đổi họ để đi học, thay tên
để đi thi; hễ trượt thì đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm trường, hơi thành danh thì
hợm mình tài giỏi hơn cả tiền bối, chí khí ngông ngạo tính tình tráo trở, thấy thầy
nghèo thì lãng tránh, gặp bạn nghèo thì làm ngơ, không biết rằng ngày thường dẫn
dắt rèn cặp phần nhiều là công đức của thầy bạn. Vả như ta ngày xưa, dạy có đến
mấy nghìn học trò, giao du ở kinh đô có rất nhiều bè bạn thế mà sau ta mất, nghe
có người đai vàng, mũ bạc, có người quan cả, ngôi cao nhưng không hề một ai tìm
đến thăm viếng mồ ta mà tưới lên một vài chén rượu.” [11,tr.144] Trong Chuyện
nàng Túy Tiêu, Túy Tiêu dù đã là vợ của Nhuận Chi, nhưng vẫn bị quan Trụ quốc
họ Thân bắt cướp mang về làm của mình, dù Nhuận Chi làm đơn kiện tận triều đình
nhưng vì họ Thân uy thế rất lớn nên các tòa các gác đều không dám xét xử. Như
vậy, kẻ bất nhân lại được triều đình phong kiến dung túng, mặc sức làm càn. Hay
như Đỗ Tam trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu, vì ham vợ đẹp củaTrọng
Quỳ nên lấy lợi dử chàng, bày trò đánh bạc mà vật đặt cược lại là Nhị Khanh, vợ
Trọng Quỳ, nhân đó mà lấy được Nhị Khanh, đến nỗi nàng đau lòng phẫn uất mà
thắt cổ chết.
Trong Tân truyền kì lục, với truyện Con chó nhà nghèo có nghĩa, Phạm Quý
Thích một mặt ca ngợi những con người sống ân nghĩa qua hình ảnh chú chó Hàn
16
Lư, mặt khác ngầm phê phán những kẻ bất nhân, đổi mặt thay lòng, không bằng
một con vật. Ví như người chủ nhà họ Nguyễn, vì chê cung cách thầy đồ Đào Cảnh
Long hèn kém nên đối xử bạc bẽo, dù đó là thầy dạy học ở nhà mình; hay như
người nhà giàu họ Trương, vì thấy chú chó Hàn Lư là con vật kì lạ, muốn lôi kéo về
với mình mà bảo Hàn Lư bỏ nghèo theo giàu, bỏ người chủ hiện thời mà theo hắn
và bị Hàn Lư đáp trả thông minh, đầy tình nghĩa khiến phải sững sờ.
Đọc Lan Trì kiến văn lục, ta đau lòng khi thấy có kẻ vì ham vợ kế đẹp đẽ mà nỡ
giết con, mang con vào rừng cho hổ dữ ăn thịt; có người chồng một phút ghen tuông
mà giết vợ; có người anh tham lam chiếm hết gia tài… Đó là hình ảnh hiện thực xã
hội phong kiến trong thời kì suy tàn.
Không chỉ giàu giá trị hiện thực, những sáng tác thuộc thể loại truyền kì còn
đầy giá trị nhân đạo và đậm chất nhân văn. Các tác phẩm truyền kì ca ngợi tài
năng và phẩm chất tốt đẹp của con người, thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của các
tác giả với những số phận bất hạnh, từ đó lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh
phúc cho con người bị chà đạp trong xã hội xưa; đồng thời cũng đồng cảm với
những khát vọng chân chính của con người như khát vọng khẳng định mình, khát
vọng tình yêu, hạnh phúc.
Đọc truyện truyền kì, từ Truyền kì mạn lục đến Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến
văn lục…, ta đều có thể bắt gặp những nhân cách cao thượng đáng quý, những con
người vì dân trừ hại, đặc biệt là những người phụ nữ tài sắc, tiết nghĩa, thủy chung.
Đọc Truyền kì mạn lục , ta sẽ gặp những con người chọn cách sống nghèo khó mà
thanh bạch, không chấp nhận vào luồn ra cúi, công hầu giàu sang mà hại dân, hại
nước. Họ không màng đến bổng lộc triều đình, nếu đó là một triều đình mục ruỗng,
thối nát. Tiêu biểu cho hình tượng này là nhân vật người tiều phu trong Câu chuyện
đối đáp của người tiều phu núi Na. Khi được Trương Công, quan hầu của Hồ Hán
Thương mời về triều, đã mỉm cười trả lời: “Ta là kẻ ẩn dật trốn đời, ông lão già
lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng,
ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là hươu nai tôm
cá, quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà
17
ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn chứ có biết gì đầu ở ngoài là triều đại
nào, là vua quan nào” [11,tr.173]. Khi được Trương Công cố gắng thuyết phục, tiều
phu đáp: “Kẻ sĩ ai có chí nấy, hà tất phải vậy! Cho nên Nghiêm Tử Lăng không đem
chức giám nghị ở Đông Đô đánh đổi khói sóng Đồng Thủy, Khương Bá Hoài không
đem bức tranh vẽ của Thiên tử làm nhơ non nước Bành Thành. Tài ta tuy kém, so
với người xưa chưa bằng được. Nhưng may lại giàu hơn Kiềm Lâu, thọ hơn Vệ
Giới, no hơn Viên Tinh, đạt hơn Phụng Thiến, kể thì cũng được trời đất ban cho khá
nhiều. Nếu lại còn tham cầu những cái ở ngoài phận mình, len lỏi vào đường tiến
sĩ, chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiển, lại còn phụ bạc với vượn hạc ở trong
núi nữa. Vậy xin ông đi đi, đừng lôi thôi nữa.” [11,tr.174] Trước lời đánh giá cho
rằng tiều phu cố chấp, người ẩn sĩ trả lời: “Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét
những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình trong cái trào định trọc loạn, lại còn kéo
người khác để cùng đắm với mình.” [11,tr.178] Lời đáp của tiều phu là lời đáp của
một con người khẳng khái, cương trực, tin ở tài năng và đức độ của mình, không
thích bị trói buộc bởi lợi danh, càng chán ghét cảnh triều định trọc loạn, giữ tiết tháo
trong sạch, thanh cao.
Trong các sáng tác truyền kì, ta cũng bắt gặp không ít những nhân vật, có thể là
hàn nho, có thể là nông dân, nhưng đều không sợ gian tà, ma quái mà giúp dân trừ
hại. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trong Truyền kì mạn lục ghi lại sự việc
chàng Ngô Tử Văn vì bất bình trước việc ngôi đền nổi tiếng là linh thiêng nay lại bị
hồn ma quấy nhiễu, tác oai tác quái trong dân lành mà ra tay đốt đền, dù biết rằng
có thể gặp tai vạ. Đến khi bị bắt xuống âm ti, trước những lời lẽ vu khống của Bách
hộ họ Thôi, trước Diêm Vương đầy uy quyền và trong không khí rùng rợn của cõi
âm, chàng vẫn khẳng khái đối đáp, đấu tranh giành công lí về mình. Trong chuyện
Rồng (Lan Trì kiến văn lục), người chồng sau khi vợ mất vì bị rồng làm hại, đã tìm
cách trừ rồng, vừa trả thù cho vợ, vừa giúp dân diệt được loài vật hại người.
Đặc biệt, trong truyện truyền kì, nhân vật người phụ nữ tài sắc, có những phẩm
chất tốt đẹp xuất hiện nhiều, đánh dấu một bước phát triển của trào lưu nhân đạo
chủ nghĩa trong văn học trung đại. Họ thường được khắc họa là những người phụ
18
nữ có nhan sắc, có tài năng văn chương, đàn hát, có tình cảm thủy chung, hiếu
thuận. Đó là nàng Nhị Khanh, người nghĩa phụ đất Khoái Châu (Truyền kì mạn lục)
hiếu thảo, thủy chung, tiết nghĩa. Khi cha chồng nàng là Phùng Lập Ngôn phải đi
công cán xa nhà, vào nơi nguy hiểm, dù thương chồng, không muốn xa chồng
nhưng Nhị Khanh vẫn khuyên chồng đi theo hầu hạ, chăm sóc cho cha già, còn
mình chịu cảnh đơn chiếc nơi quê nhà. Người chồng đi nhiều năm không về, không
có tin tức, ở nhà có người giàu sang đem bạc vàng hỏi cưới, người cô của Nhị
Khanh cũng ép uổng nàng phải lấy kẻ ấy, Nhị Khanh vẫn không suy suyển, một
lòng chờ chồng, cho người bõ già đi tìm chồng để vợ chồng đoàn tụ. Thế nhưng,
Trọng Quỳ chồng nàng vì ham mê cờ bạc mà để Nhị Khanh trở thành vật gán nợ
cho Đỗ Tam. Nhị Khanh chọn cách quyên sinh chứ không làm vợ người khác. Sau
khi mất, hồn được trở về dương gian, Nhị Khanh còn dẫn hướng cho con. Nhị
Khanh là hình mẫu tiêu biểu của người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến
xưa. Đó cũng có thể là nàng Vũ Thị Thiết, đối với mẹ chồng hết mực hiếu thảo, đối
với chồng một dạ thủy chung. Ngày tiễn chồng ra trận, Vũ Nương ân cần dặn dò,
thể hiện sự quan tâm lo lắng chân thành, một tình yêu thật sự dành cho chồng. Lời
tiễn biệt của nàng cho thấy nàng không ham giàu sang, danh lợi, phong hầu chức
tước, chỉ mong chồng bình yên trở về. Đó là biểu hiện của một tình cảm sâu sắc,
chân thành đáng quý. Những ngày chồng ra trận xa nhà, Vũ Nương hầu hạ mẹ
chồng hết mực chu đáo, khi mẹ chồng bệnh nàng hết sức thuốc thang, lễ bái, lấy lời
ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Khi mẹ chồng mất, nàng lo liệu ma chay tế lễ như
đối với cha mẹ ruột. Vắng chồng đằng đẵng hàng năm trời, nàng vẫn giữ tiết hạnh,
“tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Xa
chồng, nhớ chồng, nàng tự trỏ bóng mình trên vách mà bảo rằng đó là chồng nàng.
Hình ảnh ấy thể hiện tình cảm thủy chung nàng dành cho chồng, tựa hồ như tự nói
với mình hai người gắn bó như hình với bóng. Cùng với Nhị Khanh, Vũ Nương
trong Truyền kì mạn lục, ta có thể kể đến cô gái họ Trần trong Chuyện tình ở Thanh
Trì (Lan Trì kiến văn lục). Người con gái ấy một khi đã yêu thì yêu hết lòng, khi
tình yêu bị cha mình ngăn cản vì sự cách biệt giàu nghèo, nàng đã tìm cách giúp
19
Nguyễn Sinh, người nàng yêu, có thể lo liệu sính lễ. Tiếc là chàng vì phẫn chí đã bỏ
nhà đi. Đau buồn vì không đến được với người mình yêu, cô gái sinh bệnh rồi mất,
tim hóa thành một khối đỏ như son, trong như gương, búa đập không vỡ. Hình ảnh
khối đỏ như son ấy là biểu tượng cho tấm lòng thủy chung trong tình yêu của người
con gái đáng thương ấy.
Những người phụ nữ ấy không chỉ xinh đẹp, đức hạnh mà còn là những con
người tài năng. Xây dựng hình mẫu những người phụ nữ tài hoa trong một xã hội
phong kiến vốn trọng nam khinh nữ là một bước tiến của chủ nghĩa nhân đạo trong
văn học trung đại Việt Nam lúc bấy giờ. Nàng Túy Tiêu trong Chuyện nàng Túy
Tiêu là một người phụ nữ như vậy. Nàng không chỉ xinh đẹp, nàng còn rất giỏi thơ
văn, có khiếu thông tuệ, chỉ trong một năm đã làm được thơ từ ngang với Nhược
Chân. Hay nàng Giáng Tiên trong Vân Cát thần nữ (Truyền kì tân phả), về nghề âm
luật lại càng tinh thông, thổi ống tiêu gảy đàn không khác gì Tương Phi và Lộng
Ngọc[37,tr.137]. Cũng trong Truyền kì tân phả, cung phi Bích Châu Nguyễn Cơ
khiến người đọc yêu mến vì tài thơ phú, thông hiểu âm luật, lại giỏi cả việc chính
sự, khuyên can vua những điều đúng đắn, ích nước lợi dân. Ta còn ngưỡng mộ nàng
bởi lòng can đảm, đức hi sinh khi chấp nhận làm vật tế thần để cứu vua. Trước khi
mất còn dặn dò vua những điều gan ruột: “xin bệ hạ sửa văn, nghi võ, kén dùng
người hiền lành, làm điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như
thế thì u hồn thiếp có thể ngậm cười nơi chín suối” [25,tr.336]. Người cung phi họ
Nguyễn ấy hẳn đã được xây dựng bằng tất cả sự trân trọng của tác giả dành cho
nhân vật của mình. Người con gái của Quận công trong Liên Hồ quận công (Lan Trì
kiến văn lục) được Vũ Trinh ca ngợi là “thông tuệ lạ thường, chỉ liếc mắt trông qua
sách một lần là đã thuộc lòng”, “giá như dùng văn chương ở nơi quán các, đem võ
nghệ dùng ở trận mạc chưa chắc ai đã đối địch được” [25,tr.438]. Quả thật, trong
các sáng tác truyền kì, ta không khó tìm thấy những nhân vật nữ tài năng, đức hạnh
dù xuất thân cao sang hay nghèo khó.
Truyền kì phản ánh những khát vọng trần thế của con người, ca ngợi tình yêu tự
do, đồng cảm với khát vọng hạnh phúc lứa đôi trong xã hội phong kiến nhiều chế
20
định khắt khe. Tình yêu trong những sáng tác truyền kì có thể là tình yêu giữa
những người thế tục, có thể là tình yêu giữa con người trần thế với thần tiên giáng
trần, với hồn hoa, vật hóa người hay tình yêu giữa người với yêu ma… Đó có thể là
cuộc tình trong mộng, có thể là cuộc tình ngoài đời thực; có cuộc tình từ đời thực đi
vào trong mộng, và ngược lại, có những cuộc tình từ trong mộng mà thành thực.
Nhưng dù là giữa người cõi trần với cõi âm hay với tiên giới, là cuộc tình trong
mộng hay trong cõi thực, tình yêu ấy đều có sự đắm say, mãnh liệt, thậm chí cực kì
táo bạo, vượt thoát khỏi mọi sự ràng buộc, chấp nê. Thánh Tông di thảo với truyện
Duyên lạ xứ Hoa đã ghi lại cuộc tình trong mộng giữa Chu Sinh, một học trò nghèo
và Mộng Trang, một nàng tiên bướm. Cuộc tình êm đềm, ngọt ngào trong giấc
mộng kéo dài hơn hai năm và rồi Chu Sinh chấp nhận rời bỏ vinh hoa phú quý cõi
trần để sum họp cùng Mộng Trang nơi xứ Hoa. Đọc Truyền kì mạn lục, độc giả có
thể xúc động với những cuộc tình son sắt đầy cảm động của những chàng trai, cô
gái xưa. Đó là mối tình giữa Nhuận Chi và Túy Tiêu, giữa Phật Sinh và Lệ Nương.
Khi Túy Tiêu bị bắt về làm thê thiếp của Thân Trụ quốc, nàng và Nhuận Chi vẫn
tìm cách gặp nhau, thổ lộ tâm tình và đấu tranh cho tình yêu của mình để cuối cùng
được sum họp, vợ chồng ăn ở đến già. Còn nàng Lệ Nương trong Chuyện Lệ
Nương, khi bị bắt vào trong cung vẫn tìm cách liên lạc với Phật Sinh, đến khi rơi
vào tay giặc, người phụ nữ ấy tự tận ở quê hương chứ không chấp nhận làm cô hồn
nơi đất Bắc. Và chàng Phục Sinh, một lòng yêu Lệ Nương, đã lặn lội nước non lần
tìm theo tung tích của nàng, rồi đầu quân theo vua Giản Định mong cậy thế quân
của vua mà đánh úp cướp lại Lệ Nương. Khi biết Lệ Nương đã tự vẫn, Phục Sinh
buồn rầu quay về, từ đấy không lấy ai nữa. Có lẽ thời ấy hiếm có trang nam tử nào
chung tình như chàng Phục Sinh vậy. Cuộc tình giữa Trung Ngộ và Nhị Khanh
(Chuyện cây gạo), giữa nàng Hàn Than với sư Vô Kỉ (Chuyện nghiệp oan của Đào
Thị) có lẽ là hai trong những cuộc tình phóng túng nhất, tự do nhất trong lịch sử văn
học trung đại. Trong hai cuộc tình đó, ta thấy được khát vọng tình yêu, khát vọng
sống mãnh liệt, táo bạo của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nàng Nhị Khanh
chết khi tuổi đời còn quá trẻ và lòng vẫn đầy khao khát yêu thương. Mối tình giữa
21
hồn ma Nhị Khanh với chàng thư sinh Trình Trung Ngộ hẳn nhiên không được xã
hội bấy giờ ủng hộ. Thế nhưng, tình cảm ấy quá mãnh liệt, và Trung Ngộ cũng hóa
thành hồn ma để đêm ngày quấn quýt bên Nhị Khanh. Hình ảnh của họ khi đã là
hồn ma với thân thể lõa lồ cùng nhau nô giỡn như phá tung cả trật tự xã hội phong
kiến lúc bấy giờ. Nàng Nhị Khanh, ngay từ ngày đầu gặp Trung Ngộ, đã bộc lộ khát
vọng sống mãnh liệt của mình, khát vọng ấy, hẳn nhiên, đi ngược lại với quan niệm
của Nho giáo phong kiến lúc bấy giờ: “Nghĩ đời người ta thật chẳng khác gì giấc
chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một
sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân,
cũng không thể được nữa.” [11,tr.37] Lời nói của Nhị Khanh quả thật tưởng chừng
như đã đạp đổ hoàn toàn quan niệm trung trinh tiết hạnh, đoan chính đè nặng lên
người phụ nữ thời bấy giờ. Tìm trong văn học trung đại hình ảnh người phụ nữ táo
bạo nhường ấy dễ được mấy người. Cùng một dạng tình yêu như tình yêu giữa Nhị
Khanh và Trung Ngộ có thể kể đến tình yêu giữa nàng Hàn Than và sư Vô Kỉ, và
nàng Hàn Than cũng có những nét tính cách phá cách như Nhị Khanh. Nàng Hàn
Than khi bị vợ quan Hành khiển ghen tuông hành hạ, đã thuê thích khách báo thù.
Chỉ riêng hành động đó cũng đã không thể nào chấp nhận được trong xã hội phong
kiến. Tìm đến nơi cửa Phật, niềm khao khát tình yêu trần tục trong Hàn Than vẫn
chưa dứt. Nàng tư thông với sư Vô Kỉ, hai người yêu nhau, mê đắm say sưa. Nhưng
cả Hàn Than và Nhị Khanh đều không có được một kết cục tốt đẹp. Vẫn chịu sự
ràng buộc của lễ giáo phong kiến lúc bấy giờ, kể về những mối tình này, lời văn của
Nguyễn Dữ táo bạo, phóng túng nhưng lời bình luôn là những lời phê phán. Kết
thúc của những câu chuyện tình yêu này cũng phần nào phản ánh quan niệm bảo vệ
lễ giáo phong kiến của tác giả. Những mối tình ấy thách thức xã hội phong kiến,
quan niệm của Nho giáo từ xưa đến nay thế nên tất yếu sẽ có kết cục bi thảm. Tuy
nhiên, điều đó vẫn không ngăn được giá trị nhân văn, nhân bản toát ra từ hình tượng
nhân vật, từ các câu chuyện tình yêu này. Bởi lẽ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ
trong những mối tình này, trong hình ảnh của Nhị Khanh, Hàn Than là những khát
khao mãnh liệt của tuổi trẻ, khát vọng giải phóng tình cảm bản năng, khát vọng
22
sống mạnh mẽ, ý chí vươn lên giành quyền sống, quyền làm người dù bị vùi dập
như thế nào chăng nữa. Nàng Giáng Tiên trong Vân Cát thần nữ (Truyền kì tân phả)
cũng được xây dựng như một nhân vật nữ khao khát tình yêu trong cuộc sống trần
thế. Nàng tiên ấy giáng trần làm vợ Đào sinh. Khi về chầu trời, trần duyên chưa dứt
lại hạ trần gian, chủ động tìm đến với tình duyên kiếp trước. Và khi lên Cung tiên,
mãn hạn công cán, lại nhớ duyên ước ba sinh, tâu xin Thượng đế cho giáng sinh
xuống cõi trần. Rõ ràng, với nàng tiên ấy, hạnh phúc không ở nơi chốn xa xôi, hạnh
phúc là ở ngay trong cõi đời thực này, được sống tự do với chí nguyện của mình,
với tình yêu của mình.
1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật
Không khó để ta nhận ra sự ảnh hưởng của văn học dân gian đến các tác
phẩm truyền kì. Ta dễ dàng bắt gặp trong những sáng tác truyền kì những câu
chuyện mang cốt truyện dân gian hoặc dã sử, các môtip quen thuộc trong truyện
dân gian. Và có không ít những truyện truyền kì vốn là những truyện dân gian
được sáng tạo lại.
Trong Thánh Tông di thảo có truyện Chồng dê. Ngay nhan đề của truyện cũng
đã khiến ta nhớ đến kiểu truyện người lấy vật rất quen thuộc trong truyện cổ tích
thần kì của văn học dân gian (như những truyện Lấy vợ cóc, Lấy chồng dê). Và diễn
biến của truyện tưởng cũng không khác lắm so với chuyện cổ tích. Người con gái
hiếu thuận nết na, có được người chồng vốn là thần tiên trên trời vì phạm lỗi mà bị
đọa, ẩn hình trong dáng dê. Người chồng dê đẹp hơn Tống Ngọc, Phan Lang ấy
phải chăng là phần thưởng xứng đáng cho cô gái có tấm lòng hiếu thảo? Cũng trong
Thánh Tông di thảo, truyện Ngọc nữ về tay chân chủ ít nhiều mang dáng dấp của
truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh với chi tiết Ngọc Hoàng kén rể, Sơn thần và
Thủy thần đến thi tài để được vợ.
Một số truyện trong Truyền kì mạn lục có nguồn gốc truyện dân gian rất rõ như
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên vốn được sáng tạo lại từ truyện Từ Thức lên tiên trong
dân gian hay Chuyện người con gái Nam Xương cũng là một phóng tác từ truyện cổ
tích Vợ chàng Trương.
23
Truyện Vân Cát thần nữ trong Truyền kì tân phả lại được biết đến như một tác
phẩm sáng tạo lại dựa trên những truyền thuyết về bà chúa Liễu Hạnh, một trong Tứ
Bất Tử nổi tiếng trong văn học và văn hóa dân gian.
Mối tình của chàng trai nghèo làm nghề lái đò giỏi ca hát với nàng tiểu thư nhà
giàu họ Trần trong Chuyện tình ở Thanh Trì (Lan Trì kiến văn lục) ít nhiều khiến ta
nghĩ đến mối tình chàng Trương Chi tội nghiệp và cô Mị Nương xinh đẹp trong
truyện cổ tích. Nếu truyện cổ tích kết thúc bằng cái chết của Trương Chi và hình
bóng chàng lái đò thổi sáo tan trong chén nước khi có nước mắt của tiểu thư Mị
Nương rỏ vào thì ở đây lại kết thúc bằng cái chết của cô gái và trái tim hóa thành
một khối đỏ như son của nàng tan thành máu tươi, chảy đầm đìa trên tay áo chàng
trai khi hai hàng lệ của chàng trào xuống khối đá ấy. Dù có sự khác biệt, cả hai mối
tình ấy đều khiến ta cảm động bởi sự thủy chung son sắt của người trong cuộc.
Cũng trong Lan Trì kiến văn lục, ta đọc thấy truyện Ông Tiên ăn mày và ta có thể
ngờ rằng đây là một câu chuyện cổ tích được ghi chép lại bởi nó mang nội dung chủ
đề, diễn biến cốt truyện rất điển hình của một truyện cổ tích, kiểu truyện quá đỗi
quen thuộc với bao người Việt Nam. Đó là câu chuyện về hai anh em Giáp (người
anh) và Ất (người em). Người anh tham lam keo kiệt, có người vợ cũng thô bạo xấu
xa, tranh cướp hết tài sản của cha để lại, người em hiền lành chăm chỉ chỉ được gian
nhà nát cùng một khoảnh ruộng xấu. Khi gặp người ăn mày tội nghiệp, người em
đối đãi tử tế, và được người ăn mày (vốn là tiên giả dạng) đền ơn và trở nên giàu có.
Người anh tham lam khi biết chuyện, muốn được giàu có như em nên đi tìm người
ăn mày ấy. Ngờ đâu, gặp người ăn mày thật, không phải là tiên giả dạng, người anh
vì đánh cụ già ăn mày đó, bị thưa kiện lên quan và vợ chồng người anh bị trừng trị.
Quả thật, kiểu truyện này không hề xa lạ với bất cứ người nào ưa thích truyện cổ
tích.
Diễn biến của đại đa số các truyện truyền kì khá tương đồng với diễn biến trong
truyện cổ dân gian. Mở đầu mỗi truyện là đôi dòng giới thiệu về nhân vật, tiếp đó kể
về những sự việc thể hiện phẩm chất của nhân vật hoặc cuộc đấu tranh thiện ác giữa
nhân vật chính và nhân vật phản diện và kết thúc thường là kết thúc có hậu, kẻ ác bị
24
trừng trị, người hiền được báo đáp, chính nghĩa thắng gian tà. Có thể thấy rõ đặc
điểm này trong những truyện thuộc tuyển tập Truyền kì mạn lục. Ta thử khảo sát vài
truyện làm ví dụ. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên bắt đầu bằng những dòng giới
thiệu về nhân vật chính: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng
Giang. Chàng vốn khẳng khái nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được,
vùng Bắc vẫn khen là người cương trực” [11,tr.115]. Tiếp đến là sự kiện Ngô Tử
Văn đốt đền tà và những tình tiết xoay quanh việc đốt đền thể hiện bản tính cương
trực, cứng cỏi của Ngô Tử Văn. Và kết thúc bằng việc Bách hộ họ Thôi bi đày vào
ngục Cửu u, mồ bị phá tung. Hay Chuyện người con gái Nam Xương cũng có diễn
biến cốt truyện tương tự. Sau đôi dòng khái quát về nhân vật Vũ Nương: “Vũ Thị
Thiết, quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp…” là
những sự việc khắc họa phẩm chất hiếu thảo, thủy chung của Vũ Nương cùng nỗi
oan tình của nàng: sự kiện mẹ chồng bệnh rồi mất, việc nàng trỏ bóng mình bảo là
cha bé Đản, việc Trương Sinh nghi ngờ nàng thất tiết khiến nàng phải trầm mình tự
vẫn. Kết thúc bằng sự kiện Vũ Nương được giải oan, và sống sung sướng dưới thủy
cung. Cùng kiểu kết cấu này có thể kể đến Chồng dê (Thánh Tông di thảo ), Ông
tiên ăn mày, Lan quận công phu nhân (Lan Trì kiến văn lục)…
Nói truyện truyền kì gần với văn học dân gian còn bởi vì có thể bắt gặp trong
truyện truyền kì những môtip ta vẫn thường gặp trong truyện cổ dân gian: mô tip
người lấy vật, mô tip về sự thụ thai hay ra đời thần kì, mô tip nằm mộng, được điềm
báo, mô tip vợ bị cướp, mô tip xuống thủy cung, âm ti, hay lên thiên tào, cõi tiên…
Mô tip người lấy vật có thể kể đến những truyện: Chồng dê, Duyên lạ xứ Hoa
(Thánh Tông di thảo ), Chuyện kì ngộ ở trại Tây (Truyền kì mạn lục), Mô tip về sự
thụ thai thần kì có: Chuyện gã trà đồng giáng sinh (Truyền kì mạn lục), Vân Cát
thần nữ (Truyền kì tân phả). Mô tip nằm mộng, được điềm báo có thể thấy trong rất
nhiều truyện truyền kì: Duyên lạ xứ Hoa (Thánh Tông di thảo), Câu chuyện ở đền
Hạng Vương, Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa
(Truyền kì mạn lục), Tháp Báo Ân (Lan Trì kiến văn lục), … Sự ảnh hưởng của văn
học dân gian đối với truyện truyền kì sẽ được chúng tôi bàn kĩ hơn ở chương 2,
25
“Truyền kì : cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết”.
Làm nên đặc trưng nổi bật nhất của thể loại truyền kì đó chính là sự hòa
quyện giữa yếu tố hiện thực và những yếu tố hoang đường, kì ảo. Trong truyện
truyền kì, thế giới con người và thế giới siêu nhiên có sự tương giao. Đến với
truyền kì, người đọc có thể phiêu diêu qua nhiều cõi khác nhau. Đó có thể là cõi
tiên mê hoặc lòng người, là chốn thủy phủ lộng lẫy, có thể là nơi địa phủ rùng
rợn… Cùng với không gian huyền ảo ấy, bên cạnh những con người phàm trần
là những nhân vật không thuộc về thế giới người như tinh vật, yêu ma, thần
tiên… Từ Thánh Tông di thảo đến Lan Trì kiến văn lục, ta đều có thể bắt gặp
những nhân vật siêu nhiên ấy trong một thế giới ảo huyền.
Đang trong thế giới thực của cõi trần, theo giấc mộng của chàng Chu sinh, ta có
thể đến với xứ Hoa đẹp đẽ của vương quốc bướm (Duyên lạ xứ Hoa –Thánh Tông
di thảo ), đi cùng Phạm Tử Hư lên thiên tào, nơi có những bức tường bao quanh,
cửa lớn khảm trai lộng lẫy, lầu châu điện ngọc… (Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi
thiên tào- Truyền kì mạn lục), hay cùng Thái thú họ Trịnh xuống Long cung đối
tụng (Chuyện đối tụng ở Long cung – Truyền kì mạn lục), hoặc theo hồn Tử Văn
xuống địa phủ gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương, hai bên đầy những quỷ dạ
xoa mắt xanh nanh trắng để dự phiên tòa Diêm Vương xử án Bách hộ họ Thôi
(Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Truyền kì mạn lục), hay cũng có thể theo
Thái Công vào giấc mơ để lên chốn Bồng Lai với thành vàng sừng sững, cửa ngọc
mở toang, có hành trăm người cầm hốt phách, tấu nhạc quân thiều, múa điệu nghê
thường (Vân Cát thần nữ - Truyền kì tân phả)… Con người có thể đi về giữa những
thế giới khác nhau ấy, và các nhân vật siêu nhiên thuộc thế giới kì ảo đó cũng có thể
tìm đến với cõi trần, kết giao với người trần.
Nhân vật trong truyền kì cũng là nhân vật trong thế giới hoang đường. Đó có thể
là những tinh vật hóa người như nàng Mộng Trang (bướm hóa người – Duyên lạ xứ
Hoa – Thánh Tông di thảo), nàng Đào, Liễu (Chuyện kì ngộ ở trại Tây – Truyền kì
mạn lục), nàng Ngọa Vân (hải tiên, trong Chuyện lạ nhà thuyền chài – Thánh Tông
di thảo); là những u hồn, trệ phách như Nhị Khanh (Chuyện cây gạo – Truyền kì
26
mạn lục ), Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang – Truyền kì mạn lục); những
thần tiên bị giáng cõi trần do phạm phải lỗi lầm nào đó trên tiên giới như người
Chồng dê trong câu chuyện cùng tên (Thánh Tông di thảo), Thiên Tích trong
Chuyện gã trà đồng giáng sinh (Truyền kì mạn lục), nàng Giáng Tiên trong Vân Cát
thần nữ (Truyền kì tân phả); có thể là Phật, là Thổ Công, là Diêm Vương, là quỷ Dạ
Xoa… Những nhân vật này ta cũng có thể bắt gặp trong truyện cổ dân gian. Tuy
nhiên, đến với truyền kì, ý nghĩa vai trò của kiểu nhân vật siêu nhiên này có sự khác
biệt so với truyện cổ. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ bàn rõ hơn trong chương sau của
luận văn.
Chịu ảnh hưởng chung của thi pháp văn học trung đại khi xây dựng nhân vật
trong tác phẩm tự sự, nhân vật trong truyền kì thường được xây dựng khá đơn
giản, tính cách nhân vật thể hiện qua hành động, ngôn ngữ, ít khi các tác giả đi
sâu vào phân tích tâm lí, miêu tả sâu sắc diễn biến tâm trạng nhân vật, nội tâm
nhân vật thường ít có sự xung đột, mâu thuẫn. Đây là điểm khác biệt lớn giữa
truyện truyền kì với những sáng tác tự sự hiện đại.
Có thể lấy một vài truyện làm ví dụ. Để làm bật lên tính cách đoan chính, thủy
chung, hết lòng yêu thương chồng con của nàng Nhị Khanh (Chuyện người nghĩa
phụ Khoái Châu – Truyền kì mạn lục), Nguyễn Dữ đặt nhân vật trong những hoàn
cảnh khác nhau, từ thái độ, ngôn ngữ của nhân vật mà bộc lộ vẻ đẹp phẩm chất của
nàng. Khi Trọng Quỳ, chồng nàng, quyến luyến vợ mà có ý chần chừ không muốn
đi cùng cha khi cha phải công cán ở vùng Nghệ An, Nhị Khanh ngăn bảo: “Nay
nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu
yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử
địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo
giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ
thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình mà lỗi bề
hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng
thắc mắc bận lòng đến chốn hương khuê.” [11,tr.21] Lời lẽ của nàng rõ ràng là lời
lẽ của một người phụ nữ hiểu đạo nghĩa, một người con dâu hiếu thảo khi phân tích
27
cho Trọng Quỳ thấy những khó khăn mà cha chồng sẽ gặp phải, nhắc lại đạo hiếu tử
để khuyên chồng theo chăm sóc cha già. Khi biết bà cô Lưu thị định ép gả mình cho
tướng quân họ Bạch, Nhị Khanh lo lắng, sợ hãi. Thế nhưng, nói về nỗi lo lắng của
nhân vật, Nguyễn Dữ chỉ ghi lại trong một câu: nghe nói sợ hãi, mất ngủ quên ăn
đến hàng tháng, mà không đi sâu miêu tả diễn biến nội tâm, những trăn trở dằn vặt
của nhân vật bằng những câu độc thoại, độc thoại nội tâm như ta hay thấy trong
truyện hiện đại. Tấm lòng thủy chung của Nhị Khanh được khẳng định qua việc chờ
chồng sáu năm trời, không mảy may thay lòng dù phải chịu cảnh chăn đơn gối
chiếc; qua việc nàng nhờ người bõ già đi tìm Trọng Quỳ, cũng như việc chọn cái
chết khi bị phụ bạc chứ kiên quyết không làm vợ kẻ khác dù kẻ ấy giàu có, quyền
thế. Đến khi mất, Nhị Khanh vẫn hiện về hướng chí cho hai con. Những sự việc, lời
nói của nhân vật khắc họa được vẻ đẹp nội tâm của nhân vật này. Trong Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên, để xây dựng Ngô Tử Văn như một nhân vật tiêu biểu
cho khí phách cứng cỏi, cương trực, nhân nghĩa, Nguyễn Dữ cũng thông qua thái
độ, ngôn ngữ của nhân vật mà làm hiển hiện khí phách ấy. Đốt đền tà vì ngôi đền
nổi tiếng là linh ứng nay lại có yêu ma tác quái, hành động ấy đã cho thấy tinh thần
dũng cảm vì dân trừ hại của Tử Văn. Trước khi đốt đền, Tử Văn tắm gội sạch sẽ,
khấn trời rồi mới châm lửa đốt đền, và trong khi mọi người đều lắc đầu lè lưỡi lo sợ
thay cho chàng, Tử Văn vẫn vung tay không cần gì cả. Hành động và thái độ đó của
Tử Văn đã cho thấy bản lĩnh cứng cỏi, tin vào việc mình làm, không chút e dè, sợ
hãi trước yêu ma của chàng Ngô Soạn. Ta thử xem xét một truyện trong Lan Trì
kiến văn lục, truyện Chuyện tình ở Thanh Trì. Tác phẩm đã cho thấy cái nhìn trân
trọng của Vũ Trinh đối với người phụ nữ, ở đây là một người phụ nữ thủy chung,
mang một mối tình son sắt. Nhà văn khẳng định tình cảm sâu nặng của người con
gái họ Trần chỉ bằng một vài câu kể ngắn gọn: thấy mặt chàng rồi nàng không làm
sao quên được, nàng nhờ con hầu đem khăn tay đến tặng, dặn con hầu bảo chàng
rằng sớm nhờ người qua mai mối. Chúng ta không đọc thấy những dòng văn kể lại
những suy nghĩ, ưu tư, những câu miêu tả tâm trạng nhớ nhung bồi hồi của nhân
vật. Tấm lòng son sắt thủy chung của cô gái được biểu hiện qua hành động táo bạo:
28
trộm trăm lạng vàng của cha sai người mang đến tặng người yêu để dùng làm đồ
sính lễ. Nói về nỗi đau khổ của nàng khi tình yêu bị ngăn cản, Vũ Trinh cũng không
đi vào kể sâu, tả kĩ. Ta cảm nhận và cảm thông với nỗi đau của nhân vật qua lời kể
súc tích của tác giả: nàng âm thầm đau khổ chẳng thể cùng ai giãi bày, chỉ biết
ngắm bóng mình mà nuốt lệ. Dần dần nàng sinh bệnh, chân tay rời rã, vóc dáng
gầy mòn. Mối u tình lắng đọng thành khối đá trong lòng, thuốc men chạy chữa bao
nhiêu cũng vô hiệu. Kể ngắn gọn, không đi sâu khắc họa nội tâm đau đớn của nhân
vật, nhưng với những dòng văn ấy, nỗi đau của nhân vật vẫn hiện lên chân thật, sâu
sắc, từ đó mà tấm lòng thủy chung của nàng tỏa sáng.
1.3. Một số tác phẩm truyền kì tiêu biểu
1.3.1. Thánh Tông di thảo
Được xem là tác phẩm đánh dấu sự chuyển biến đột khởi của văn xuôi tự sự
Việt Nam thời trung đại, Thánh Tông di thảo gồm 19 truyện, đều được viết bằng
chữ Hán. Đầu sách có bài tựa của tác giả, cuối mỗi truyện có lời bình của Sơn Nam
Thúc. Về tác giả của tác phẩm này, hiện vẫn còn nhiều nghi vấn. Phần lớn các nhà
nghiên cứu cho rằng đây là tác phẩm tập hợp nhiều truyện kí, trong đó có những
truyện kí của vua Lê Thánh Tông. Theo Từ điển Văn học, xét về tính chất loại hình,
Thánh Tông di thảo gồm những truyện truyền kì, ngụ ngôn, tạp kí. Dù rằng tác
phẩm không phải chỉ là tập hợp những truyện truyền kì nhưng theo chúng tôi, có thể
nói, Thánh Tông di thảo đánh dấu sự ra đời và phát triển của thể loại truyền kì trong
văn học trung đại Việt Nam. Dù tên tác phẩm không có từ truyền kì nhưng yếu tố
truyền kì đã xuất hiện rất rõ trong một số truyện của Thánh Tông di thảo như Duyên
lạ xứ Hoa, Chuyện lạ nhà thuyền chài, Tinh chuột, Chồng dê, Hai gái thần… Nhiều
truyện ngắn trong Thánh Tông di thảo thể hiện cái nhìn nhân đạo khá mới mẻ của
người kể khi đề cập đến tình yêu nam nữ, hạnh phúc lứa đôi, thể hiện sự bao dung,
cảm thông với nhu cầu tình cảm của con người. Tác phẩm cũng cho thấy sự trân
trọng dành cho người phụ nữ khi xây dựng các nhân vật nữ là những con người nết
na, đức hạnh, giỏi giang.
29
1.3.2. Truyền kì mạn lục
Là tác phẩm tiêu biểu nhất cho thể loại truyền kì của văn học trung đại Việt
Nam, Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ.
Tác phẩm được Vũ Khâm Lân, nhà văn thế kỉ XVIII, đánh giá là “thiên cổ kì bút”
và tiến sĩ Phạm Hùng, nhà nghiên cứu văn học hiện đại, khẳng định: Nguyễn Dữ là
nhà tiểu thuyết truyền kì nổi tiếng nhất của Việt Nam thời trung đại và Truyền kì
mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là
“thiên cổ kì bút”, một cái cột mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra
nhiều thứ tiếng trên thế giới. [11, trang bìa 4]
Truyền kì mạn lục có nghĩa là ghi chép những câu chuyện tản mạn được lưu
truyền. Nhan đề cho thấy sự khiêm tốn của tác giả. Bởi lẽ, Truyền kì mạn lục không
chỉ là một quyển sách ghi chép đơn thuần mà thật sự là một sáng tác của Nguyễn
Dữ với sự gia công, hư cấu sáng tạo đặc sắc của nhà văn khi viết tác phẩm này dựa
trên những truyện được lưu truyền trong nhân dân. Tác phẩm viết bằng tản văn xen
lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện đều có lời bình của tác giả. Hầu hết các
truyện kể về các sự việc xảy ra vào đời Lí đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ. Mặc dù
vậy, ta vẫn thấy được hiện thực xã hội Việt Nam thế kỉ XVI hiện lên từ đó. Nội
dung chủ đề Truyền kì mạn lục khá phong phú. Có truyện đả kích bọn hôn quân bạo
chúa, quan tham lại nhũng; có truyện thể hiện chí khí của kẻ sĩ, quan niệm sống
lánh đục về trong của sĩ phu ẩn dật; có truyện viết về tình yêu nam nữ, hạnh phúc
lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng; có truyện thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ khi đối
tượng phê phán là bọn giặc ngoại xâm. Truyền kì mạn lục vì vậy không chỉ giàu giá
trị hiện thực mà còn đầy giá trị nhân đạo, nhân văn. Tác giả, thông qua những câu
chuyện mang màu sắc truyền kì đã thể hiện sự đồng cảm với nỗi khổ đau của nhân
dân, đặc biệt là người phụ nữ; ca ngợi những phẩm chất đẹp và tài năng của con
người, thông cảm với những khát vọng tình yêu của tuổi trẻ… Truyền kì mạn lục
cũng là một tác phẩm thành công về mặt nghệ thuật. Diễn biến truyện trong các
truyện ngắn của Truyền kì mạn lục thường giàu kịch tính, kết hợp một cách nhuần
nhuyễn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật, giữa tự sự và trữ tình, giữa văn
30
xuôi và văn biền ngẫu; nhân vật có tính cách, có số phận riêng. Tác phẩm là sáng
tác tiêu biểu cho thành tựu của loại hình văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới
ảnh hưởng của sáng tác dân gian (Theo Từ điển Văn học bộ mới).
1.3.3. Truyền kì tân phả
Truyền kì tân phả là sáng tác chữ Hán của nhà văn Đoàn Thị Điểm. Tác phẩm
viết bằng văn xuôi, có nhiều bài thơ xen kẽ. tập sách có sáu truyện trong đó có ba
truyện được xác định là của Đoàn Thị Điểm là Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ,
An ấp liệt nữ, còn ba truyện sau chưa rõ người viết: Bích Câu kì ngộ, Khuyển miêu
đối thoại, Long hổ đấu kì. Có thể thấy nổi bật nhất trong nội dung tư tưởng của
Truyền kì tân phả là sự đề cao người phụ nữ. Nhân vật người phụ nữ trong sáng tác
này hầu hết là những người có nhan sắc, tài năng, đặc biệt là có phẩm hạnh đoan
chính, thủy chung, có tình yêu mãnh liệt. Truyền kì tân phả ra đời sau Thánh Tông
di thảo và Truyền kì mạn lục nhưng xét về mặt nghệ thuật, có nhiều ý kiến cho rằng
tác phẩm này không thành công bằng hai tác phẩm trên, lời văn tác phẩm trau chuốt,
hoa lệ nhưng tính chất sinh động, hấp dẫn của tác phẩm không cao hơn so với
Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục ra đời trước đó. Tuy nhiên, đây vẫn là tác
phẩm cho thấy bước phát triển của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học trung đại lúc
bấy giờ.
1.3.4. Tân truyền kì lục
Là tác phẩm của Phạm Quý Thích, gồm một bài tựa và ba truyện chữ Hán, chủ
yếu viết theo dạng ngụ ngôn: Bần gia nghĩa khuyển, Vũ trùng đốc thắng, Khuyển
miêu đối thoại. Các truyện đều nói về những con vật có tính cách khác lạ. Theo
Nguyễn Huệ Chi, có lẽ tác phẩm được viết sau khi nhà Lê mất, mang nặng tâm sự
hoài Lê.
1.3.5. Lan Trì kiến văn lục
Được xem là tác phẩm truyền kì cuối cùng của văn học trung đại, Lan Trì kiến
văn lục gồm 45 truyện với nhiều đề tài khác nhau: chuyện giáo dục thi cử, chuyện
nhân quả báo ứng, chuyện kì quái, chuyện tình yêu nam nữ… Tác phẩm một mặt
phê phán nghiêm khắc xã hội đương thời với những chuyện đồi phong bại tục,
31
những kẻ mất nhân tính (cha giết con, chồng giết vợ, …), một mặt thể hiện sự trân
trọng, yêu mến cảm thông với những kiếp người khổ đau nhưng phâm chất tốt đẹp,
đặc biệt là người phụ nữ. Tác giả cũng thể hiện niềm cảm thông với khát vọng tình
yêu, hạnh phúc của con người, vì vậy cũng cho thấy tư tưởng nhân đạo tiến bộ trong
nội dung văn học lúc bấy giờ. Truyện của Vũ Trinh thường ngắn gọn, tinh giản, ít
thơ từ. Truyện được xây dựng từ các chi tiết đắt, không thể thay thế được trong kết
cấu nghệ thuật toàn bộ câu chuyện.
1.4. Quá trình phát triển của thể loại truyền kì Việt Nam
Truyền kì là một thể loại quan trọng của văn xuôi tự sự trung đại, vì vậy, có thể
thấy, quá trình phát triển của thể loại này khá tương đồng với quá trình phát triển
của văn xuôi trung đại nói chung. Ở đây, tham khảo sự phân chia giai đoạn phát
triển văn xuôi tự sự trung đại của Nguyễn Đăng Na, so sánh với những tác phẩm là
đối tượng nghiên cứu của luận văn, chúng tôi thấy có thể chia quá trình phát triển
của thể loại truyền kì thành ba giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIV. Đây có thể xem là giai đoạn
manh nha của thể loại truyền kì.
- Giai đoạn 2: Từ thế kỉ XV đến cuối thể kỉ XVI, là giai đoạn phát triển rực rỡ
của thể loại này.
- Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII đến cuối thể kỉ XIX, là giai đoạn cáo chung của
thể loại truyền kì.
1.4.1. Giai đoạn 1: Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIV: giai đoạn manh nha của
thể loại truyền kì
Vào đầu thế kỉ X, khi nền độc lập dân tộc được khôi phục, ý thức về chủ quyền
và tự tôn dân tộc cũng phát triển sâu sắc. Ý thức ấy không chỉ thể hiện trên phương
diện cương vực lãnh thổ, thể chế chính trị mà còn trên phương diện văn hóa, văn
học. Sự ra đời của văn học viết vào thời điểm này đã minh chứng cho điều đó. Ở
buổi đầu của văn học viết, văn xuôi tự sự chưa tách khỏi văn học dân gian và văn
học chức năng, chủ yếu là chức năng lịch sử, chức năng tôn giáo. Tính chất truyền
kì đã xuất hiện ít nhiều trong những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này. Vì lẽ đó,
32
chúng tôi xem đây là giai đoạn manh nha trong quá trình phát triển của thể loại
truyền kì. Tiêu biểu cho giai đoạn này có thể kể đến các tác phẩm Việt điện u linh,
Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái, … Những tác phẩm này hoặc ghi chép
những câu chuyện dân gian, hoặc ghi chép những hành trạng của các vị cao tăng.
Và dù là sưu tầm, ghi chép lại truyện dân gian hay ghi chép hành trạng của các vị
cao tăng, ghi chép lịch sử tôn giáo thì các truyện trong những tuyển tập này đều có
những yếu tố hoang đường, kì ảo; một biểu hiện khá rõ nét của sáng tác truyền kì.
Tuy nhiên, các tác phẩm mang dấu ấn của thể loại truyền kì giai đoạn này nhìn
chung chưa có sự gia công, sáng tạo rõ rệt của tác giả như ở giai đoạn sau.
Việt điện u linh ghi chép sự tích các nhân vật thần linh được thờ phụng tại các
đền miếu ở Việt Nam theo ba loại: các vị vua, các bề tôi, những sự tích thiêng liêng.
Các nhân vật được tôn làm thần này đều xuất hiện trước đời Trần. Kể về 27 vị thần
được thờ phụng, các tác giả không chỉ kể về công trạng lúc sinh thời mà còn nói về
sự hiển linh độ dân, giúp nước của họ sau khi mất, theo công thức: dương trợ, âm
phù. Chính điều này đã tạo nên những chi tiết hư cấu, tưởng tượng kì ảo xuyên suốt
trong tác phẩm. Trong Từ điển văn học Việt Nam - từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX,
Lại Nguyên Ân đã khẳng định: “bản thân việc thiên về những điều huyền bí như ở
đây đã khiến những ghi chép này có thể được xem như một dạng sáng tác huyền
thoại và có thể xếp vào thể loại truyền kì” [1,tr.609]. Ta thử xem xét một vài truyện
trong tác phẩm này để thấy rõ đặc điểm của những câu chuyện được ghi chép.
Trong thiên Bố Cái, Phu Hựu, Chương Tín, Sùng Nghĩa Đại Vương, sau khi kể về
lai lịch, cuộc đời của Bố Cái đại vương từ lúc khởi nghiệp cho đến khi mất, tác giả
kể lại sự việc Vương hiển linh để giúp dân giúp nước: “Lại nói, khi Hưng mới mất
hay hiển linh, mọi người cho rằng Vương là thần, bởi vậy lập miếu thờ ở phía tây
của Đô Phủ. Phàm những việc trộm cắp, ngục tụng còn ngờ nếu đến đền miếu để
thề thì lập tức họa phúc giáng ngay, bởi thế hương hỏa bất tuyệt. khi Ngô tiên chúa
dựng nước, quân phương Bắc vào cõi cướp phá, Tiên chúa lo lắng, đêm mộng thấy
Vương tự xưng tên tuổi, nói rằng đã đem trăm ngàn vạn đội thần binh, xin Tiên
chúa đốc thúc tiến quân sẽ có âm phù. Bạch Đằng thắng trận, Tiên chúa lấy làm lạ,
33
hạ chiếu xây miếu tôn nghiêm, lại chuẩn bị đầy đủ bảo vũ, hoàng đạo, trống đồng,
trống da, âm nhạc, vũ đạo làm lễ Thái loa để tạ ơn…” [25,tr.52] Việc kể lại những
sự hiển linh với những chi tiết hoang đường, kì ảo một mặt nhằm khẳng định lòng
yêu nước của nhân vật, bất tử hóa những nhân vật lịch sử này, mặt khác thể hiện
niềm tự hào, ngưỡng mộ của nhân dân đối với nhân vật lịch sử. Đây là yếu tố nghệ
thuật – nội dung ta dễ dàng bắt gặp trong các truyền thuyết dân gian. Những yếu tố
hoang đường, kì ảo trong Việt điện u linh thường gắn với những chi tiết báo mộng,
hiện hồn… nói lên anh linh tỏa rộng muôn đời sau của các nhân vật.
Thiền uyển tập anh ra đời vào khoảng giữa thế kỉ XIV, viết về hành trạng của 68
vị thiền sư thuộc các phái Vô Ngôn Thông, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thảo Đường. Kể về
hành trạng các vị cao tăng, tác phẩm này ngoài những dữ kiện xác định còn có
nhiều dữ kiện, tình tiết mang màu sắc kì ảo gắn với sự ra đời thần kì, những hành
trạng mang nét huyền hoặc, phi thường và sự tịch diệt cũng có những điểm kì lạ của
nhân vật. Cũng như trong Việt điện u linh, ở đây yếu tố huyền thoại được sử dụng
như một chi tiết nội dung nhằm đề cao nhân vật có thật trong lịch sử Phật giáo nước
ta, đồng thời thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ của người kể đối với những nhân vật
ấy. So với Việt điện u linh, cốt truyện của Thiền uyển tập anh phức tạp hơn, tình tiết
đa dạng hơn. Trong Từ điển văn học Việt Nam – từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX, các
tác giả đã nhận định: “…các tác giả Thiền uyển tập anh đồng thời cũng là những
tác giả của một kiểu sáng tác huyển thoại, kết quả là các thiên tiểu truyện, truyện kí
lịch sử ở đây có thể đồng thời được xem như những tác phẩm truyền kì.” [1,tr.481]
Trong thiên Thiền sư Ngộ Ấn, tác giả Thiền uyển tập anh ghi nhận sự ra lời kì lạ của
sư Ngộ Ấn: người mẹ bỗng dưng có mang sau khi bị một con khỉ lớn từ trong rừng
chạy ra ôm lấy lưng mình cả ngày. Kiểu ra đời thần kì này ta vẫn thường gặp trong
truyện cổ tích thần kì hoặc truyền thuyết dân gian. Cuộc đời tu hành của các vị sư
được ghi lại trong Thiền uyển tập anh cũng thường gắn với những sự kiện kì lạ.
Trong thiên Thiền sư Tịnh Giới có kể về khả năng hô phong hoán vũ, ra lệnh cho
mưa gió của sư Tịnh Giới. Truyện kể về việc sư cầu đảo thành công khi trời đang
đại hạn (năm Trinh Phù thứ hai), chuyện sư cầu cho tạnh mưa để lễ khánh thành
34
chùa Chân Giáo được tiếp tục… Trong cái nhìn của người kể chuyện, sư chẳng
khác nào Phật sống giáng thế nên mới có những tài năng siêu việt, thần kì đến thế.
Truyện Thiền sư Đạo Hạnh lại kể về sự viên tịch kì lạ của vị sư này. Thiền sư nhờ
Sùng Hiền Hầu can gián vua cho mình thoát nạn, nguyện đầu thai làm con để đáp tạ
ơn đức. Sau khi được Sùng Hiền Hầu cứu, sư đi thẳng vào nơi phu nhân Sùng Hiền
Hầu tắm, từ đó phu nhân thấy mình có mang. Sư dặn Sùng Hiền Hầu: khi nào phu
nhân sắp sanh thì báo cho mình biết trước. Khi phu nhân sắp sanh, được báo, sư tắm
gội sạch sẽ bảo đệ tử: “Nghiệp duyên ta chưa hết, còn phải thác sinh để tạm giữ
ngôi vua. Ngày sau thọ chung sẽ được làm thiên tử ở cõi trời thứ ba mươi ba…” Nói
xong sư trang nghiêm mà hóa, đến nay hình xác vẫn còn [25,tr.86]. Rõ ràng là sự
tịch diệt của sư, tịch diệt để đầu thai vào kiếp khác và tự xếp đặt được cả mệnh kiếp
của mình, vừa đậm màu sắc Phật giáo lại đầy nét thần bí, hoang đường. Cuộc đời
của thiền sư Ma Ha cũng được kể lại với nhiều dấu ấn kì lạ. Sư có thể biến từ trong
ra ngoài phòng mà không cần mở cửa, có thể chữa khỏi bệnh cho người hủi lâu
ngày sắp chết chỉ bằng cách niệm chú vào nước lả rồi phun lên người bệnh, chỉ với
việc chắp tay niệm Phật, Pháp, Tăng mà các món thịt có thể biến thành thú vật chạy
đi, các món cá biến thành cá vùng quẫy, rượu thì biến thành nước gỉ đồng … Một
vài dẫn chứng trên cho thấy rõ ràng Thiền uyển tập anh mang nhiều yếu tố hoang
đường kì ảo, một trong những dấu hiệu nổi bật của thể loại truyện truyền kì.
Tam Tổ thực lục cũng là một tác phẩm có chức năng tôn giáo, viết về ba vị sáng
lập dòng Thiền Trúc Lâm đời Trần: vua Trần Nhân Tông, sư Pháp Loa, sư Huyền
Quang. Tác phẩm tuy mang chức năng tôn giáo nhưng đã tiến gần tới văn học đich
thực. Các thiên truyện ở đây được xây dựng với nhiều tình tiết li kì hấp dẫn. Cũng
như Việt điện U Linh và Thiền uyển tập anh, để thể hiện sự ngưỡng mộ, tôn vinh
các thiền sư, tác giả đã thần thánh hóa nhân vật bằng những yếu tố hoang đường kì
ảo. Chính vì điều này chúng tôi khẳng định ở tác phẩm này đã manh nha những yếu
tố cơ bản nhất của thể loại truyền kì. Đặc biệt, truyện về sư Huyền Quang được các
tác giả của Từ điển văn học nhận định là “mang nhiều tính chất của một câu chuyện
truyền kì thú vị, khéo léo, có nhân vật đối thoại và tình tiết dẫn dắt khéo léo, với
35
ngòi bút kể chuyện nửa thực nửa hư, thu hút người đọc.” [55,tr.1589] Truyện Tổ gia
thực lục kể về sư Huyền Quang trong tác phẩm này mang đầy những chi tiết thần bí.
Sự ra đời của sư Huyền Quang gắn với việc người mẹ nằm mộng thấy một con khỉ
già, đầu đội mũ triều thiên, mặc áo hoàng bào, ôm mặt trời hồng ném vào bà, mà
theo lời của Tuệ Tổ, chồng bà, đó là điềm báo bà có thai. Ngày Sư Tổ Huyền Quang
ra đời có ánh hào quang rực rỡ, hương thơm ngào ngạt, vì vậy ngài được gọi là
Thanh Tịnh Hương hài đồng. Không chỉ vậy, đạo pháp cao trọng của sư còn được
khẳng định qua sự việc sư làm phép thở than với trời đất, cầu đất trời làm sáng tỏ
nỗi oan của sư về việc cung nữ Điểm Bích vu cho sư không giữ đạo hạnh. Trong
ngày hội Vô Già, sư bước lên đàn làm phép, vọng bái hiền thánh mười phương, rảy
nước tưới rửa khắp chốn trên dưới trong đàn ngoài hội. Và trên trời xuất hiện đám
mây đen gió thổi cát bay mù mịt, một lát thì tan hết, tất cả các tạp vật đều tan hết,
chỉ còn lại nhang đèn của sáu lễ. Vua thấy sư phù phép mà cảm thông được trời đất,
đã đến tạ lỗi cùng sư.
Như vậy, những sáng tác trên, dù là ghi chép lịch sử dân tộc hay lịch sử Phật
giáo, đều gắn với những yếu tố hoang đường, kì ảo, làm nên sự hấp dẫn của các tác
phẩm tự sự buổi đầu văn học trung đại. Những yếu tố kì lạ trong các sáng tác này
cũng là dấu ấn của thể loại truyền kì, là nền tảng cho thể loại này phát triển rực rỡ
trong giai đoạn sau.
Lĩnh Nam chích quái không phải là một tác phẩm mang chức năng tôn giáo như
những sáng tác trên mà là một công trình sưu tầm ghi chép lại những câu chuyện
lưu truyền trong dân gian. Những truyện ngắn được biên soạn ở tuyển tập này có
thể là truyền thuyết, có thể là truyện cổ tích và sắc màu thần kì là rất đậm nét.
Chúng ta có thể bắt gặp trong tác phẩm này những yếu tố hoang đường thường gặp
trong truyện cổ: sự thụ thai kì lạ, sự ra đời thần kì, sự hóa kiếp thành vật sau khi
chết, những phép thần thông, biến hóa… Là tuyển tập những sáng tác của nhân dân,
Lĩnh Nam chích quái mang tư tưởng tình cảm của nhân dân và mang tính dân tộc
mạnh mẽ. Các truyện trong Lĩnh Nam chích quái hoặc là lí giải nguồn gốc dân tộc,
hoặc có liên quan đến những phong tục tập quán lâu đời của dân tộc, cũng có những
36
truyện liên quan đến di tích văn hóa cổ đại của đất nước, liên quan đến các nhân vật
lịch sử. Qua đó, tác giả thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc: tự hào về nguồn gốc
Tiên Rồng, tự hào về đất nước địa linh nhân kiệt. Cùng với niềm tự hào dân tộc là
thái độ lên án sự áp bức bất công của phong kiến Trung Quốc trong thời Bắc thuộc.
Và để thể hiện tinh thần ấy, cũng như những tác phẩm trên, Lĩnh Nam chích quái
mượn những chi tiết hoang đường kì ảo, đầy chất thần thoại chuyển tải tinh thần ấy.
Đọc truyện Họ Hồng Bàng, ta tự hào vì tổ tiên ta là Thần Nông, Long Vương. Đọc
Truyện Rùa Vàng, ta sẽ thấy được sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với nhân vật lịch
sử An Dương Vương thể hiện qua chi tiết bất tử hóa nhân vật này ở cuối truyện
(Rùa Vàng rẽ nước đưa vua xuống biển). Nhằm tôn vinh các nhân vật lịch sử, các
tác giả xây dựng chi tiết hư cấu như bay về trời, hóa thành thần linh phò hộ dương
trần… như trong Truyện Đổng Thiên Vương, Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như
Nguyệt. Bên cạnh đó, đọc Lĩnh Nam chích quái, ta còn có thể thấy tinh thần nhân
đạo chủ nghĩa của văn học dân gian thấm nhuần trong tác phẩm. Thái độ yêu ghét
của nhân dân trong các sáng tác dân gian thể hiện rất rõ ở đây: yêu chính nghĩa,
ghét gian tà, yêu thiện, ghét ác, đề cao những mối quan hệ thủy chung giữa người
và người. Truyện Cây cau đề cao tình cảm anh em, tình nghĩa vợ chồng qua chi tiết
hóa thân của các nhân vật ở cuối truyện: người em hóa thành cây cau, người anh
hóa phiến đá dưới gốc cây, người vợ biến thành cây dây leo có mùi thơm, cay quấn
quanh thân cây và phiến đá. Truyện thần núi Vọng phu ca ngợi tình cảm thủy chung
của người phụ nữ qua chi tiết người vợ mỏi mòn chờ chồng đến hóa đá. Truyện
Nhất Dạ Trạch ca ngợi con người bình thường mà có lòng hiếu thảo, thể hiện mơ
ước “ở hiền gặp lành” của nhân dân qua diễn biến và kết thúc truyện với sự việc
chàng Chử Đồng Tử được cưới công chúa, ban cho vật thần, sống giàu sang rồi cuối
cùng được lên trời.
Những sáng tác tự sự của giai đoạn này mặc dù chưa thoát khỏi văn học dân
gian và văn học chức năng nhưng giữ vai trò quan trọng, là nền tảng cơ sở để thể
loại tự sự, trong đó có truyền kì, phát triển manh mẽ ở giai đoạn sau cả về nội dung
lẫn nghệ thuật. Những tác phẩm Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh, Tam Tổ thực
37
lục, Lĩnh Nam chích quái… đều là những tác phẩm giàu giá trị yêu nước. Chủ nghĩa
yêu nước bắt nguồn từ văn học dân gian được thể hiện trong những sáng tác này
qua nhiều khía cạnh: tự hào về nền độc lập, tự chủ của dân tộc, khẳng định chủ
quyền lãnh thổ, ca ngợi những anh hùng, hào kiệt, anh tài của núi sông. Những yếu
tố hoang đường, những môtip kì ảo như sự thụ thai thần kì, ra đời thần kì, cái chết
kì lạ, lên cõi trời, xuống thủy cung… trong các sáng tác này là cơ sở nghệ thuật cho
loại hình truyện truyền kì ở giai đoạn sau.
1.4.2. Giai đoạn từ đầu thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVI: giai đoạn phát triển
rực rỡ của thể loại truyền kì.
Trong năm thế kỉ đầu sau khi dân tộc Đại Việt giành lại được độc lập từ tay
phong kiến phương Bắc, đất nước vẫn luôn phải đối phó với giặc ngoại xâm, hết
Tống đến Nguyên rồi lại đến giặc Minh xâm phạm bờ cõi. Trong hoàn cảnh xã hội
đó, vua tôi đồng lòng, một lòng chống giặc, quyền lợi của giai cấp phong kiến và
quyền lợi của nhân dân là tương đối thống nhất. Chính điều này đã chi phối nội
dung, tư tưởng của văn học nói chung, các sáng tác tự sự nói riêng. Sau cuộc kháng
chiến chống quân Minh thành công, xã hội phong kiến phát triển mạnh mẽ, đạt đến
độ cực thịnh dưới triều vua Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông. Nhưng đến cuối thế kỉ
XV đầu thế kỉ XVI, xã hội phong kiến bắt đầu bộc lộ sự suy thoái của nó. Những
cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ triều đình dẫn đến nội chiến, đất nước chia
cắt. Hoàn cảnh xã hội ấy làm cho nhân dân điêu đứng, khổ sở. Hiện thực ấy đi vào
văn học. Nội dung yêu nước mang âm hưởng ngợi ca trong giai đoạn văn học này
có phần mờ nhạt so với nội dung nhân đạo và phản ánh hiện thực cuộc sống của
nhân dân. Điều này thể hiện rõ trong các sáng tác tự sự, trong đó có truyền kì. Nhân
vật trung tâm của văn học nói chung, của truyền kì nói riêng, trong giai đoạn này
không phải là những vị anh hùng cái thế, những vị cao tăng mà là những con người
bình thường với những số phận cụ thể trong một xã hội nhiều rối ren. Bên cạnh đó,
sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội cũng tác động đến hình thức nghệ thuật văn học.
Muốn phản ánh thực tế phức tạp, đa dạng và lí giải những vấn đề trong một xã hội
đầy biến động, các tác giả không thể chỉ dừng lại ở việc ghi chép những sự tích có
38
sẵn từ những đời trước. Trải qua năm thế kỉ phát triển, không còn là ở buổi đầu hình
thành, văn học viết đã có những bước tiến mới. Cùng với lối ghi chép sự việc hay
sưu tầm tác phẩm được lưu truyền trong dân gian, với sự nhận thức sâu sắc hơn về
chức năng văn học, đồng thời, do nhu cầu phản ánh hiện thực tác động đến sự đổi
mới của văn học, các tác giả văn học giai đoạn này đã cho ra đời những tác phẩm tự
sự thực sự là những sáng tạo đầy cá tính của người cầm bút. Đó chính là những tiền
đề để thể loại truyền kì phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn này.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Đăng Na gọi thế kỉ XV, XVI là thế kỉ của
truyền kì. Đây là hai thế kỉ chứng kiến sự ra đời của những tác phẩm truyền kì xuất
sắc nhất trong văn xuôi tự sự Việt Nam: Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục.
Ngoài ra còn có thể kể đến một số tác phẩm khác cũng có yếu tố truyền kì trong giai
đoạn này: Nam Ông mộng lục (Hồ Nguyên Trừng), Nam Xương tứ quái truyện
(khuyết danh), … Về Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục, chúng tôi đã có lời
giới thiệu vắn tắt ở phần trước, xin không nhắc lại ở đây. Nam Ông mộng lục là một
tác phẩm được viết ở Trung Quốc, vào thời Minh. Dù Hồ Nguyên Trừng sáng tác
tác phẩm này ở nước ngoài nhưng nội dung tác phẩm vẫn là hiện thực và con người
Việt Nam trong xã hội phong kiến thời Lý Trần. Toàn bộ tác phẩm này gồm 31
thiên, mỗi thiên là một chuyện ở Việt Nam thời Lí, Trần. Tác phẩm mang đậm tinh
thần dân tộc thể hiện qua việc kí thác nỗi sầu xa xứ qua những hồi ức được ghi
chép, kín đáo bộc lộ với các bậc thức giả Trung Hoa về một nền văn hóa không hề
thua kém của nước mình.
Những tác phẩm truyền kì giai đoạn này thể hiện sâu đậm nhất những đặc trưng
của thể loại truyền kì. Các sáng tác truyền kì giai đoạn này dù ít nhiều vẫn mang
màu sắc văn học dân gian nhưng đã thoát khỏi sự ràng buộc của văn học dân gian
và văn học chức năng, các nhà văn đã chắp cho chúng đôi cánh của sự sáng tạo mà
vẫn bám sát hiện thực xã hội. Những tác phẩm truyền kì thế kỉ XV, XVI một mặt
vẫn đậm bản sắc dân tộc, một mặt vẫn phản ánh hiện thực xã hội; vừa đầy hấp dẫn
lôi cuốn bởi những chi tiết hoang đường, kì ảo, lại vừa đầy tính chân thực. Truyền kì
mạn lục, Thánh Tông di thảo không còn là những ghi chép, biên soạn thuần túy mà
39
thật sự là những tác phẩm văn xuôi nghệ thuật. Nguyễn Dữ, với Truyền kì mạn lục,
đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, thêm bớt các tình tiết, chú ý
xây dựng làm bộc lộ tính cách, số phận nhân vật, dụng công trau chuốt câu văn, từ
ngữ ... để tạo thành những truyện mới. Thánh Tông di thảo cũng vậy. Ra đời trước
Truyền kì mạn lục một thời gian, tập truyện này thực sự là một sáng tác văn học
dánh dấu bước chuyển mình của văn xuôi tự sự từ ghi chép thuần túy sang hư cấu,
phóng tác những truyện mới. Trong đó có truyện là phóng tác, có truyện là tái tạo,
có truyện hư cấu. Dùng yếu tố kì ảo làm phương tiện chuyển tải nội dung, phản ánh
hiện thực, các sáng tác truyền kì lại có khả năng đưa độc giả đi sâu vào khám phá
thế giới con người thực, một thế giới có đủ tốt, xấu; thiện, ác; có những lí tưởng cao
cả nhưng cũng có những toan tính, tình cảm bình thường, tầm thường, có cả những
đố kị, lọc lừa, yêu thương, ghen tuông…
Khác với những sáng tác văn xuôi tự sự giai đoạn trên chủ yếu ca ngợi những
anh hùng dân tộc, những bậc anh tài; chủ yếu ghi lại công đức, hành trạng của
những nhân vật lịch sử…, các sáng tác truyền kì giai đoạn này lại đi sâu phản ánh
số phận con người bình thường trong xã hội, những phận đời bé mọn, những kiếp
người bất hạnh, đặc biệt là người phụ nữ. Với Thánh Tông di thảo, lần đầu tiên, con
người xuất hiện trong văn học với tư cách là đối tượng phản ánh, và với sức mạnh
trí tuệ của mình đã trở thành chủ thể của vũ trụ. Tác giả đã không ngần ngại xem
thần, Phật cũng bình thường như con người trần tục, cũng say rượu, cãi cọ như
trong Hai Phật cãi nhau, và con người thì có sức mạnh vô biên, có thể bạt núi, ngăn
sông như ở truyện Ngọc nữ về tay chân chủ. Còn ở Truyền kì mạn lục, có truyện tác
giả nói về những sự suy đồi của phong hóa con người như Chuyện cây gạo, có
truyện nói đến quyền sống của con người trong đó có tình yêu trai gái như truyện
Chuyện nàng Túy Tiêu, tình nghĩa vợ chồng như Chuyện người nghĩa phụ Khoái
Châu, có truyện thể hiện lí tưởng sống của những nho sĩ giàu lòng tự trọng, muốn
sống cuộc đời liêm khiết tránh xa danh lợi ô trọc như Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên,
Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na…; chung quy con người cũng là đối
tượng trung tâm. Đồng thời với việc phản ánh số phận con người bình thường, các
40
tác giả cũng hiểu và cảm thông cho những khát vọng chân chính của con người,
trong đó có khát vọng khẳng định mình bằng tài năng và nhân cách, khát vọng tình
yêu lứa đôi hạnh phúc. Tình yêu trong những sáng tác này, dù là trong Thánh Tông
di thảo hay trong Truyền kì mạn lục, đều vừa lãng mạn trong sáng, vừa mãnh liệt
nồng nàn, lại có những lúc mang màu sắc nhục cảm, một điều không thể bắt gặp
trong văn học giai đoạn trước. Chuyện Duyên lạ xứ Hoa, Chuyện lạ nhà thuyền chài
(Thánh Tông di thảo), Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Chuyện nàng Túy Tiêu…
(Truyền kì mạn lục) đều là những câu chuyện tình yêu đẹp, ca ngợi những con
người dám sống cho tình yêu của mình. Đặc biệt, ở Chuyện kì ngộ ở Trại Tây, tác
giả Nguyễn Dữ, thông qua những bài thơ xướng họa của các nhân vật đã miêu tả
những cuộc tình mang sắc màu nhục cảm một cách ý nhị. Bên cạnh sự cảm thông,
thấu hiểu, ca ngợi những con người bất hạnh nhưng có nhân cách tốt đẹp, các tác
giả truyền kì giai đoạn này đồng thời cũng lên án bọn hôn quân, tham quan ô lại
(Chuyện Lí tướng quân, Chuyện nàng Túy Tiêu), bọn lừa thầy phản bạn… (Chuyện
Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào) từ đó vạch trần xã hội phong kiến với không ít
những bất công cay đắng.
Một sự khác biệt khẳng định sự phát triển của thể loại truyền kì trong giai đoạn
này so với trước đó còn là: các tác phẩm truyền kì giai đoạn này thường có sự kết
hợp đan xen giữa thơ ca với văn xuôi. Hầu như truyện nào trong Truyền kì mạn lục
và Thánh Tông di thảo cũng đều có ít nhất một bài thơ, từ.. Chẳng hạn, trong Duyên
lạ xứ Hoa (Thánh Tông di thảo), chàng Chu sinh nằm mộng thấy Mộng Trang vợ
mình tặng mình chiếc lá ngọc mềm trên đó có bài thơ tỏ ý. Tỉnh giấc, quả thật chàng
thấy cạnh mình là chiếc túi gấm, trong có chiếc lá ngọc đề bài thơ tám câu, và Chu
sinh sau khi đọc đi đọc lại bài thơ cũng cầm bút đề lên vách một bài thơ. Trong Hai
thần hiếu để (Thánh Tông di thảo), các nhân vật xướng họa với nhau đến năm bài
thơ. Đặc biệt, trong hai truyện Chuyện kì ngộ ở Trại Tây và Chuyện nghiệp oan của
Đào thị (Truyền kì mạn lục), có trên một chục bài thơ của các nhân vật, mà trong đó
có những bài mượn lời thơ để tả cảnh ái ân một cách tế nhị. Những bài thơ, từ này
có thể là những bài thơ xướng họa giữa các nhân vật trong truyện, có thể là tác
41
phẩm được đề trên vách núi, đề trước cửa nhà, trong thư gửi cho người yêu dấu…
Các sáng tác thơ được sử dụng với mức độ hợp lí trong những truyện ngắn này góp
phần thể hiện tài hoa của tác giả, minh chứng cho sự dung hòa giữa tự sự và trữ tình
trong truyện ngắn trung đại. Ở giai đoạn sau, đặc điểm này có phần thay đổi theo
chiều hướng hoặc xen quá nhiều thơ làm cốt truyện lỏng lẻo hoặc hạn chế tối đa đến
không còn bài thơ nào trong truyện khiến truyện có phần khô khan.
1.4.3. Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX: giai đoạn cáo
chung của thể loại truyền kì
Sẽ có một câu hỏi được đặt ra là vì sao giai đoạn 2 của truyền kì là thế kỉ XV –
XVI, đến giai đoạn 3 lại là thế kỉ XVIII – XIX, còn khoảng giữa hai giai đoạn ấy
sao không được kể đến. Ở đây, chúng tôi mượn cách lí giải của Nguyễn Đăng Na
khi lí giải về nguyên nhân sự vắng bóng của loại hình văn xuôi tự sự trong khoảng
thời gian này để lí giải cho sự phân chia tiến trình phát triển của thể loại truyền kì,
vì một lẽ đơn giản: truyền kì là một thể loại trong loại hình văn xuôi tự sự của văn
học trung đại. Tác giả Nguyễn Đăng Na khi giải thích “tại sao thế kỉ XVII văn xuôi
tự sự vắng bóng trên văn đàn” đã cho rằng có thể vì những văn bản văn xuôi của thế
kỉ này đã bị thất lạc cho tới nay không tìm được, cũng có thể là vì thế kỉ XVII ra đời
ba loại hình văn học mới: truyện Nôm, diễn ca lịch sử và khúc vịnh. Và sự xuất hiện
của những thể loại văn học mới này đã khiến cho văn xuôi tự sự bị lãng quên. Tuy
nhiên, cả hai nguyên nhân trên vẫn chỉ là những giả thuyết, không thể khẳng định
chắc chắn.
Thế kỉ XVIII, XIX là thế kỉ bão táp của lịch sử phong kiến. Nếu giai đoạn trước
xã hội phong kiến chỉ bắt đầu bộc lộ sự khủng hoảng của nó thì ở giai đoạn này xã
hội phong kiến rơi vào sự khủng hoảng trầm trọng. Những cuộc nổi dậy của nông
dân diễn ra liên miên (mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của ba anh em
Nguyễn Huệ), chỉ trong vòng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX đã có
ba triều đại thay nhau cai trị. Đời sống nhân dân vô cùng điêu đứng, khổ sở, quyền
sống của con người bị đe dọa; tài năng, phẩm chất, hạnh phúc của con người không
được coi trọng. Trong hoàn cảnh đó, các tác giả văn học càng đi sâu bám sát hiện
42
thực cuộc sống theo tiêu chí càng gần hiện thực cuộc sống càng tốt. Văn học nói
chung, văn xuôi tự sự và thể loại truyền kì nói riêng phát triển thêm một bước mới
về nội dung (vốn đã có nền tảng từ giai đoạn trước): phản ánh trực tiếp và tức thời
những điều đang xảy ra. Văn chương lúc bấy giờ không còn trung thành nghiêm
ngặt theo quan niệm: văn chương chuyển tải đạo lí, văn chương thể hiện chí hướng
nỗi lòng mà theo một quan niệm mới: phải viết về những “sở kiến” – những điều
trông thấy, “sở văn” – những điều nghe thấy. Những truyện kể trong các sáng tác
truyền kì giai đoạn này, đặc biệt ở Lan Trì kiến văn lục, là những câu chuyện hết
sức đời thường. Đó có thể là câu chuyện về người con trai nửa đêm trèo tường vào
nhà người yêu tỏ tình (Trạng nguyên họ Nguyễn), đó cũng có thể là chuyện một
người ca nữ hết lòng hết dạ vì người yêu, lo cho người yêu ăn học thành tài nhưng
bản thân mình lại chịu số phận hẩm hiu (Ca nữ họ Nguyễn), là câu chuyện về một
cô gái tài sắc hơn người mà cuộc đời chìm nổi cuối cùng phải lưu lạc đất khách quê
người và nhờ ân sư giúp đỡ đưa về quê quán (Liên Hồ quận công), chuyện về một
tên trộm ranh ma, quỷ quyệt nhưng gặp phải một người khác còn cao tay hơn
(Thằng trộm). Các tác giả truyền kì muốn làm mới những tác phẩm truyền kì của
mình và muốn thể hiện điều đó cho người đọc thấy đã thêm vào nhan đề tác phẩm
của mình chữ “tân” : Tân truyền kì lục, Truyền kì tân phả. Và điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến các đặc điểm của truyền kì trong giai đoạn này. Thậm chí, có
những sáng tác mà người đọc có thể nhận thấy tác giả bám sát đến từng chi tiết
được ghi chép trong lịch sử. Trong tuyển tập Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại
(tập 1) – Truyện ngắn, tác giả Nguyễn Đăng Na đã đưa ra một sự đối chiếu giữa
Hải khẩu linh từ (Truyền kì tân phả) và tác phẩm lịch sử Toàn thư để minh chứng
cho điều này. Theo sự so sánh của Nguyễn Đăng Na, có hơn sáu chi tiết tác giả
Truyền kì tân phả đã dùng là được viết lại từ sự thật lịch sử, thậm chí chính xác đến
từng năm, tháng, thời tiết. Ví dụ, Hải khẩu linh từ kể về việc vua Trần đi đánh giặc
ở phía Nam thì trong Toàn thư cũng ghi nhận sự kiện vua Trần thân đi đánh giặc
Chiêm Thành; Toàn thư ghi chép lại việc Ngự sử trung tán Lê Tích dâng sớ can vua
không nên thân chinh đánh giặc thì Hải khẩu linh từ cũng ghi lại sự việc đó, Toàn
43
thư ghi lại việc vua đóng quân ở động Ỷ Mang, Bà Ma giả đầu hàng để lừa vua kết
quả vua bị hãm hại mà băng hà thì Hải khẩu linh từ cũng ghi “tiến sâu vào cửa động
Ỷ Mang, trúng phải kế của Bà Ma, toàn quân nhà vua bị hãm hại trong động ấy”,
Toàn thư viết: “Hồng Đức năm thứ nhất…vua xuống chiếu thân đi đánh Chiêm
Thành” thì Hải khẩu linh từ chép: “Niên hiệu Hồng Đức… hạ chiếu phát binh, vua
thân hành đốc xuất thủy binh”; ngay cả bài Kê minh thập sách của cung nữ Bích
Châu dâng vua Trần Duệ Tông trong truyện cũng là viết lại từ Thập điều khải của
Thái thường tự khanh Bùi Sĩ Tiêm dâng vua Lê Duy Phường.
Để chứng minh những câu chuyện của mình là có thật, các tác giả thường chỉ ra
cụ thể, rõ ràng tên tuổi, địa chỉ của nhân vật hoặc ghi rõ ai là người chứng kiến sự
việc. Lan Trì kiến văn lục thể hiện rất rõ đặc điểm này. Ví dụ, cuối truyện Rồng, tác
giả khẳng định: “Ông Hoàng Xuân Viên làm quan tể ở huyện Kim Thành đã chứng
kiến việc này và kể lại với ta.” [11,tr.437] Hay trong Tiên trên đảo, tác giả kể rõ quê
quán, nghề nghiệp nhân vật chính: “Người Thanh Trì là ông Nguyễn Lộc, kết bạn
vài mươi người, mua một chiếc thuyền đi biển, ra châu Vạn Ninh, Quảng Yên buôn
bán, mỗi năm vài bận đi về.” [25,tr.447] Cuối truyện Ca nữ họ Nguyễn, tác giả cho
biết về người ca nữ đó: “Cô gái này người Chương Đức, tỉnh Sơn Nam”. Tính xác
thực của chuyện kể càng tăng lên khi tác giả không chỉ ghi rõ ai là người chứng
kiến mà còn cho thấy nhân vật trong truyện là người quen biết, thậm chí chính
người nhà tác giả cũng là nhân vật trong truyện (hẳn nhiên là nhân vật phụ, đóng vai
trò là người được nghe kể lại), ví dụ như những truyện Con lai rắn, Cá thần, Con
hổ nghĩa hiệp, Chuyện quan quận ở Liên Hồ… Có khi, để chứng minh tính xác thực
của truyện kể, nhà văn đưa dẫn chứng những sự vật, sự việc liên quan đến câu
chuyện vẫn còn tồn tại, như truyện Tháp Báo Ân chẳng hạn. Đầu truyện tác giả cho
biết địa điểm xây tháp: “Tháp ở xã Bình Quân, huyện Cẩm Giàng, xung quanh
không có bia kí”, cuối truyện lại khẳng định: “…Lại dựng một ngôi tháp trên chỗ
đất cũ, đặt tên là tháp Báo Ân. Nay vẫn còn.”[25,tr.459]
Truyền kì đến giai đoạn này còn có một đặc điểm khác với giai đoạn trước mà
chúng tôi đã đề cập. Đó là, nếu ở giai đoạn trước, hầu hết các truyện truyền kì đều
44
có xen thơ từ nhưng với một mức độ vừa phải thì ở giai đoạn này, các tác giả hoặc
chen vào quá nhiều thơ từ làm cho cốt truyện lỏng lẻo, làm chậm diễn biến truyện,
giảm sự hấp dẫn; hoặc lại giản lược đến mức không còn bài thơ nào trong một
truyện truyền kì, khiến truyện vì vậy cũng có phần hơi khô khan. Tiêu biểu cho loại
thứ nhất có thể kể đến Truyền kì tân phả, chẳng hạn truyện Vân Cát thần nữ, truyện
An Ấp liệt nữ; điển hình cho loại thứ hai là Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Tân
truyền kì lục (Phạm Quý Thích). Trong Vân Cát thần nữ, chỉ riêng nàng Giáng Tiên
cũng đã ngâm đến bốn bài thơ trước khi lấy Đào sinh, khi trở thành Tiên chúa cũng
gãy đàn cầm hát một bài từ; những nhân vật khác cũng đều có thơ ngâm xướng họa.
Truyện An Ấp liệt nữ cũng có gần mười bài thơ. Trong khi đó, Lan Trì kiến văn lục
của Vũ Trinh, Tân truyền kì lục của Phạm Quý Thích hầu hết các truyện không có
thơ.
Muốn đảm bảo tiêu chí bám sát hiện thực cuộc sống, phản ánh trực tiếp những
điều đang xảy ra trong xã hội đương thời, các tác phẩm truyền kì giai đoạn này đã
phần nào giảm đi những yếu tố hoang đường kì ảo, cũng có nghĩa là làm cho tác
phẩm truyền kì kém đi phần hấp dẫn, sinh động, trở nên khô khan hơn. Thậm chí
trong Lan Trì kiến văn lục, một số truyện ngắn gần như không có chi tiết hư cấu kì
ảo (dù vẫn ghi lại những việc kì lạ theo cái nhìn của người kể) (như truyện Trạng
nguyên họ Nguyễn, Ca nữ họ Nguyễn, Liên Hồ quận công, Lan quận công phu
nhân). Cũng có khi chi tiết hoang đường kì ảo chỉ còn thể hiện trong môtip nằm
mộng thấy điềm báo (như Lan quận công phu nhân). Việc các tác giả trung thành
với hiện thực cuộc sống là một sự tiến bộ trong nội dung tư tưởng, nhưng theo nhận
xét của Nguyễn Đăng Na và một số tác giả khác, về nghệ thuật, điều đó đã khiến
cho truyền kì có một bước lùi khi các tác giả đã không thể đưa người đọc đến với
những thế giới huyền hoặc, những kì ảo bay bổng…vốn là đặc trưng nổi bật nhất
của thể loại này. Khi văn xuôi tự sự tiến gần hơn đến chủ nghĩa hiện thực, loại
truyện truyền kì không còn phù hợp với ý đồ sáng tác của tác giả văn xuôi trung đại.
Vì vậy, truyền kì đến giai đoạn này lên tiếng cáo chung, khẳng định sự kết thúc của
thể loại này trong tiến trình văn học trung đại. Hẳn nhiên, những yếu tố hoang
đường kì lạ mà điển hình là những chi tiết ma quái vẫn còn được dùng như một thủ
45
pháp nghệ thuật trong những sáng tác của thời kì văn học hiện đại sau này như trong
một số truyện của Thế Lữ, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Tchya… chẳng hạn.
Những sáng tác truyền kì nổi bật nhất của giai đoạn này thường được nhắc đến
là Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Tân truyền kì lục (Phạm Quý Thích), Lan
Trì kiến văn lục (Vũ Trinh). Ngoài ra còn có thể kể đến một số tác phẩm mang màu
sắc truyền kì khác như: Công dư tiệp kí (Vũ Phương Đề), Tang thương ngẫu lục
(Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án)… Công dư tiệp kí được viết vào giữa thế kỉ XVIII, là
tập truyện có tính chất dã sử pha màu sắc thần kì, ghi chép các mẫu chuyện, truyền
thuyết về các sự kiện và nhân vật chủ yếu trong khoảng từ thế kỉ XV đến thế kỉ
XVIII. Vì vậy, tác phẩm được xem là mang dáng dấp truyền kì. Nhưng truyền kì ở
đây chủ yếu là người thật, việc thật được li kì hóa, các nhân vật ảo chỉ xuất hiện
thấp thoáng và thường là một lực lượng siêu nhiên không có cá tính, đóng vai trò
phù trợ cho con người đạt được tài năng, danh vọng. Đây là môt tác phẩm rất được
các nho sĩ ham thích nên được thêm thắt và ghi chép khá nhiều. Tang thương ngẫu
lục là tác phẩm của hai nhà văn Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, viết vào khoảng cuối
thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, gồm 90 truyện có tính chất dã sử, ma quái và những sự
tích hoang đường kì dị được lưu truyền rộng rãi ngay trong thời đại của tác giả. Tác
phẩm thể hiện ý thức tự hào dân tộc, đề cao những người có công giữ gìn, xây đắp
tô điểm nước non; nhiều truyện khắc họa những vẻ đạp của cảnh trí quê hương; bên
cạnh đó cũng ít nhiều gửi gắm thái độ phê phán kín đáo đối với thực trạng xã hội
thời Lê mạt. Tang thương ngẫu lục ghi lại hình ảnh một thời đại đầy biến động với
lối văn kể chuyện giản lược, súc tích, màu sắc hoang đường được vận dụng như một
thủ pháp nghệ thuật có giá trị phản ánh nội dung.
Là một thể loại của loại hình tự sự trung đại, quá trình phát triển của thể loại
truyền kì đã ít nhiều phản ánh quá trình phát triển của văn xuôi tự sự Việt Nam
trong thời đại trước, đồng thời cũng cho thấy sự phát triển của văn học Việt Nam
nói chung. Từ đó, ta có thể khẳng định vị trí của thể loại này trong tiến trình phát
triển của văn học dân tộc nói chung và của văn học trung đại nói riêng. Nghiên cứu
lịch sử phát triển của văn học Việt Nam thiết nghĩ không thể không xem xét sự phát
triển của truyền kì trong dòng chảy của văn học dân tộc.
46
Chương 2
TRUYỀN KÌ: CẦU NỐI GIỮA VĂN HỌC
DÂN GIAN VÀ VĂN HỌC VIẾT
Nói truyền kì là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết là bởi lẽ nghiên
cứu các sáng tác truyền kì, ta có thể thấy được sự ảnh hưởng của văn học dân gian
đối với truyền kì cả về nội dung đề tài lẫn nghệ thuật trên nhiều phương diện: cốt
truyện, kết cấu, môtip, nhân vật…
2.1. Đề tài của truyền kì: khai thác đề tài từ văn học dân gian
Xem xét các tác phẩm truyền kì từ Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông (?)) cho
đến Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), ta dễ dàng bắt gặp dấu ấn văn học dân gian
trong những sáng tác này thể hiện qua việc lựa chọn đề tài. Có rất nhiều truyện
truyền kì khai thác đề tài từ truyện cổ tích, cũng có những truyện truyền kì khai thác
đề tài từ truyền thuyết dân gian hoặc dã sử; và cũng có những truyện truyền kì mang
màu sắc của truyện ngụ ngôn.
2.1.1. Truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyện cổ tích
Có không ít những sáng tác truyền kì là những truyện ngắn được phóng tác,
sáng tác lại từ truyện cổ tích dân gian Việt Nam. Bên cạnh đó, những đặc điểm nội
dung nổi bật của truyện cổ tích dân gian có thể dễ dàng tìm thấy trong các truyện
truyền kì.
Truyện Chồng dê trong Thánh Tông di thảo hẳn là được phóng tác từ câu
chuyện Lấy chồng dê thuộc kiểu truyện người lấy vật rất quen thuộc trong cổ tích
dân gian. Ta hãy thử so sánh hai truyện này.
Có thể tóm tắt truyện dân gian Lấy chồng dê trong Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam do Nguyễn Đổng Chi sưu tầm như sau: Ngày xưa, có hai vợ chồng tuổi đã cao
mà vẫn không có con. Cầu khẩn mãi cuối cùng người vợ cũng có mang nhưng đến
ngày sinh nở bà lại sinh ra một con dê đực. Người chồng phiền não, sinh bệnh rồi
mất, người vợ một mình nuôi con. Dê hay ăn chóng lớn, việc gì cũng làm được. Một
47
hôm, dê nài nỉ mẹ qua hỏi một trong ba cô con gái phú ông làm vợ. Phú ông đuổi
người mẹ về, nhưng người mẹ nằn nì mãi, cuối cùng phú ông gọi ba người con gái
ra, hỏi ai muốn lấy dê làm chồng. Hai cô chị bĩu môi khinh miệt, riêng cô em út
đáp: “Cha mẹ đặt đâu con xin ngồi đấy”. Phú ông bằng lòng gả nhưng thách cưới
rất cao, vậy mà dê biện đủ cả lễ vật. Đêm hợp cẩn, dê trút bỏ lớp dê biến thành một
chàng trai tuấn tú, sáng hôm sau lại trở lại lốt dê. Thấy người em út không có gì lo
buồn hối hận về việc lấy chồng là dê, hai cô chị dò hỏi biết được sự thật và xui em
bỏ lốt dê đi. Người em út theo lời, từ đó, dê trút bỏ lốt dê. Hai cô chị vừa hối tiếc
vừa ganh tị với hạnh phúc của em. Hơn một năm sau, chồng cô em út có việc phải
đi. Trước khi đi, chàng trao cho cô hai vật hô thân là một con dao và một hòn đá
lửa. Cô gái út ở nhà bị hai chị lập mưu đẩy xuống biển, bị cá nuốt. May nhờ có con
dao chồng đưa, cô đâm cá bị thương, xác cá trôi dạt vào hòn đảo, cô rạch bụng cá
thoát được ra ngoài và sống ở trên hòn đảo đó. Với con dao và hòn đá chồng đưa
khi từ biệt, cô vượt qua hết những khó khăn trong cuộc sống trên đảo. Một hôm, có
chiếc thuyền đi qua hòn đảo, nàng ra hiệu cầu cứu, hóa ra thuyền đó là của chồng
mình, hai người sum họp, mừng mừng tủi tủi, vợ kể chồng nghe hết mọi chuyện. Hai
người về nhà, chồng giấu vợ đi không cho ai biết rồi dọn cỗ linh đình bảo là để
cúng vợ, mời làng nước, bà con đến dự. Hai người chị ra bộ thương cảm cho người
em út vắn số, sau đó nhiều lần liếc mắt đưa tình với em rể. Người em rể để mọi
người ăn uống no say như không có chuyện gì rồi mới bảo vợ mình ra chào mọi
người. Hai người chị vừa sửng sốt, vừa xấu hổ lẻn ra khỏi cổng. nhưng chúng đi
được một đoạn đã bị thần sét đánh chết. Vợ chồng người em út sống hạnh phúc trọn
đời.
Truyện Chồng dê trong Thánh Tông di thảo kể rằng: Ở làng Thanh Khê xưa, có
cô gái mồ côi hiếu thảo. Vì phải đội tang mẹ nên 21 tuổi mà vẫn chưa chồng. Một
lần, sau khi tảo mộ về, cô gặp một con dê trắng, con dê theo cô về tận nhà, xua đuổi
mãi không được nên mang dê về nhà nuôi. Bốn tháng sau dê hóa thành một chàng
trai tuấn tú, bảo mình là tiên trên trời, bị đày xuống trần và có duyên cũ với cô gái
nên cùng cô kết làm vợ chồng. Sống hạnh phúc với nhau một thời gian, người
48
chồng dê mãn hạn bị đày phải trở về trời. Cô gái đau buồn, chàng trai bày cho cô
gái cách gọi mình mỗi khi thương nhớ. Cô gái làm theo, lần nào cũng linh nghiệm.
Vài tháng sau, cô gái mất, hóa thành ngỗng vàng ngậm cành hoa bay về trời.
Truyện Chồng dê trong Thánh Tông di thảo có nét gần gũi với truyện Lấy chồng
dê, Lấy vợ cóc của nhân dân. Sự so sánh khiến chúng tôi nghi ngờ rằng phải chăng
tác giả Thánh Tông di thảo đã được gợi ý đề tài từ truyện Lấy chồng dê trong cổ
tích để cho ra đời một câu chuyện mang màu sắc dân gian nhưng có những điểm
mới mẻ thể hiện cá tính sáng tạo của người viết. Cũng có nghĩa là đã có sự tiếp biến
trong dòng chảy văn học dân gian sang văn học viết. Cũng như người vợ xinh đẹp,
tài giỏi trong lốt cóc là phần thưởng cho chàng trai hiền lành trong truyện Lấy vợ
cóc, chàng Dê giỏi giang, tuấn tú, nhiều tài phép là phần thưởng cho cô gái út ngoan
hiền trong truyện Lấy chồng dê của dân gian, ở Chồng dê, người chồng dê vốn là
tiên cõi trời cùng cuộc sống hạnh phúc vĩnh hằng ở tiên cảnh chính là phần thưởng
xứng đáng cho cô gái hiếu thảo, đoan chính. Tất cả đều thể hiện quan niệm sống
đầy tính nhân văn, nhân đạo của dân tộc Việt Nam: ở hiền gặp lành, đằng sau vẻ bề
ngoài xấu xí có thể ẩn tàng một tâm hồn đẹp đáng trân trọng. Câu chuyện quen
thuộc của dân gian đi vào tác phẩm Thánh Tông di thảo đã có sự gia công đáng kể,
thể hiện tài hoa nghệ thuật của người viết. Lời thoại của nhân vật được trau chuốt
với những câu nói giàu hình ảnh bóng bẩy; xen vào câu chuyện là lời bình bằng hai
câu thơ bảy chữ của người kể, lời kể cũng được đẽo gọt với một vài điển cố được sử
dụng, những câu văn có các vế đối nhau và trong truyện cũng có thơ góp phần tăng
thêm sự lãng mạn của tác phẩm.
Thánh Tông di thảo có một truyện nhan đề Tinh chuột. Thử so sánh truyện này
với một truyện dân gian được lưu truyền ở Nghệ An, truyện Tại sao gọi chuột là
ông cống, ta sẽ thấy nhiều nét tương đồng. Khảo sát hai truyện này, dù không cả
quyết Tinh chuột trong Thánh Tông di thảo là từ truyện này mà ra, nhưng ta có thể
nghi ngờ có sự ảnh hưởng của truyện dân gian đối với những sáng tác truyền kì về
mặt đề tài. Những diễn biến chính của hai truyện rất giống nhau. Điểm khác biệt là
ở chỗ câu chuyện của Thánh Tông di thảo rõ ràng hơn, nhiều tình tiết hơn, cùng với
49
lời người kể chuyện, lời thoại của nhân vật có tính văn chương hơn cùng những câu
văn trau chuốt, những câu tục ngữ, những bài thơ được xen vào hợp lí. Đáng chú ý
hơn là truyện còn xen vào đoạn độc thoại nội tâm của người kể chuyện, ở đây là vua
Lê Thánh Tông, cho thấy sự trăn trở của một người đứng đầu nhà nước trước những
việc can hệ đến cả xã hội. Vì vậy, có thể nói, cùng một đề tài với một câu chuyện
dân gian, qua sự dụng công của tác giả, truyện ngắn truyền kì Tinh chuột đã góp
phần thể hiện tài năng nghệ thuật và quan niệm sống của người kể. Có thể thấy,
truyền kì là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết đầu tiên chính là vì điểm
này.
Ở Truyền kì mạn lục, những truyện ngắn được sáng tác lại từ truyện cổ tích dân
gian không phải là hiếm hoi. Có thể kể đến ở đây một số truyện như Chuyện người
con gái Nam Xương vốn viết lại từ truyện Vợ chàng Trương đã được lưu truyền từ
lâu trong nhân dân; truyện Từ Thức lấy vợ tiên là sáng tạo lại từ Sự tích Động Từ
Thức (hay Từ Thức gặp tiên) trong kho tàng truyện cổ dân gian… Chuyện người
con gái Nam Xương viết lại từ truyện cổ tích Vợ chàng Trương với một sự gia công
đáng kể. Có thể tóm tắt truyện Vợ chàng Trương trong truyện cổ tích dân gian như
sau: Vũ Thị Thiết lấy chồng là Trương Sinh. Hơn một năm sau ngày cưới, Trương
Sinh phải đầu quân đi lính, lúc bấy giờ Vũ Nương đang mang thai. Những ngày xa
chồng, Vũ Nương thường trỏ bóng mình trên vách, đùa con bảo rằng đó là cha bé.
Ngày Trương Sinh trở về, vì nghe lời con trẻ mà nghi ngờ vợ mình không chung
thủy bèn đánh đuổi đi. Vũ Nương bị oan, phải gieo mình xuống sông tự vẫn để tỏ
lòng trong sạch. Sau khi Vũ Nương mất, Trương Sinh mới biết vợ mình bị oan
nhưng việc đã muộn rồi. Trên cơ sở cốt truyện đó, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm
nhiều chi tiết, sắp xếp lại vài diễn biến truyện, thêm vào lời thoại giữa người mẹ
chồng và người con dâu, đặc biệt là thêm hẳn một đoạn truyện kể về cuộc sống dưới
thủy phủ của Vũ Nương sau khi tự vận. Theo đó, truyện của Nguyễn Dữ kể thêm:
Vũ Nương sau khi nhảy sông Hoàng Giang, Linh Phi thương tình nàng oan ức nên
cho nàng sống sung sướng dưới thủy cung. Ở đây, Vũ Nương gặp lại một người
cùng làng mình tên là Phan Lang, vì từng cứu mạng Linh Phi nên khi chết đuối ở
50
Nam Hải được Linh Phi cứu mạng để trả ơn. Vũ Nương nhờ Phan Lang mang chiếc
hoa vàng về gửi Trương Sinh cùng lời nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan cho
mình. Theo lời, Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương ở bến Hoàng Giang.
Vũ Nương hiện về trên kiệu hoa rực rỡ, nói lời tạ từ rồi trở lại thủy cung cùng Linh
Phi, không trở về nhân gian. Đối chiếu hai truyện, ta không thể phủ nhận sự dụng
công của tác giả. Sự dụng công này không chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật mà còn
cho thấy cái nhìn đầy nhân đạo của nhà văn về con người và xã hội đương thời.
Việc thêm vào những cuộc đối thoại giữa các nhân vật, những lời độc thoại của
nhân vật chính, những chi tiết hoang đường kì ảo ở phần sau truyện mà truyện dân
gian không có, một mặt khắc họa rõ nét tính cách nhân vật, một mặt làm câu chuyện
thêm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, mặt khác lại kín đáo gửi gắm quan niệm, tư
tưởng của nhà văn về số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Kết thúc truyện với
việc Vũ Nương về thủy cung sống cuộc đời sung sướng tưởng như là một kết thúc
có hậu nhưng thực tế lại tăng thêm tính bi kịch cho tác phẩm. Kết thúc có hậu là
kiểu kết thúc phổ biến của truyện cổ dân gian, thể hiện quan niệm ở hiền gặp lành,
cũng là ước mơ hạnh phúc, công bằng của nhân dân trong một xã hội phong kiến
nhiều bất công. Nói cách khác, xây dựng một kết thúc mang vẻ ngoài có hậu cho
truyện ngắn của mình, Nguyễn Dữ đáp ứng được thị hiếu thẩm mĩ của nhân dân lúc
bấy giờ. Màu sắc dân gian của câu chuyện thêm phần đậm đà. Nhưng ẩn sâu trong
đó là cái nhìn đầy hiện thực của tác giả về cuộc sống người phụ nữ trong xã hội xưa.
Hạnh phúc mà Vũ Nương đeo đuổi là “thú vui nghi gia nghi thức”, hạnh phúc ấy
nàng chẳng thể nào có được khi xã hội vẫn còn mang nặng tư tưởng trọng nam
khinh nữ, khi còn những người chồng đầy tính gia trưởng như Trương Sinh, vì vậy
chốn dương gian không có chỗ cho nàng, và cuộc sống sung sướng giàu sang chốn
thủy cung chỉ là chút an ủi cho người bạc mệnh, hạnh phúc đó không có thực, là thứ
ảo ảnh khi mờ, khi hiện. Mượn một truyện cổ dân gian sáng tác thành câu chuyện
truyền kì trong sáng tác truyền kì nổi tiếng của mình, Nguyễn Dữ đã cho ta thấy
truyền kì chính là một cầu nối cho văn học dân gian và văn học viết, ít nhất là về
mặt đề tài.
51
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên của ông, như đã nói, cũng là một câu chuyện
chuyển thể từ cổ tích Sự tích động Từ Thức. Văn bản truyện Sự tích động Từ Thức
được trích từ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do Nguyễn Đổng Chi biên soạn có
diễn biến chính gần giống hoàn toàn với Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn
Dữ trong Truyền kì mạn lục. Nhưng tài hoa của Nguyễn Dữ đã được thể hiện qua
những bài thơ trong câu chuyện của mình, trong lời kể gọt giũa và quan niệm sống
của một kẻ sĩ lánh đục về trong, chán ngán chốn quan trường được gửi gắm một
cách kín đáo trong sáng tác này.
Không phải chỉ có thể tìm thấy trong Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục,
dáng dấp những câu chuyện cổ tích quen thuộc trong dân gian còn được tìm thấy
trong cả những sáng tác truyền kì giai đoạn sau như trong Truyền kì tân phả, Lan
Trì kiến văn lục. Hẳn những ai đã từng yêu thích truyện cổ tích đều biết đến câu
chuyện Người đẹp trong tranh. Đọc Truyền kì tân phả, ta có thể gặp lại câu chuyện
này dưới nhan đề Bích Câu kì ngộ. Câu chuyện kể về chàng Tú Uyên tài hoa, gặp
được nàng tiên Giáng Kiều ẩn thân trong bức tranh mỹ nhân. Người – tiên yêu
nhau, nên vợ nên chồng. Nhưng rồi Tú Uyên vì hay say rượu, Giáng KIều can mãi
không nghe lại còn lấy roi da đánh nàng, Giáng Kiều tủi phận bỏ đi, mãi sau khi Tú
Uyên đã tu tỉnh mới trở về sum họp. Sau, cả hai vợ chồng cùng con bay về trời sống
cuộc sống của người tiên cảnh. Truyện cổ tích kể lại câu chuyện này khá ngắn gọn,
chỉ khoảng hai trang sách, trong khi đó, Bích Câu kì ngộ trong Truyền kì tân phả
được kể rất dài, hơn ba mươi trang với nhiều nhân vật, nhiều tình tiết hơn và rất
nhiều bài thơ được lồng vào trong tác phẩm. Trong Lan Trì kiến văn lục, ta có thể
tìm thấy ít nhất ba câu chuyện được khai thác từ đề tài cổ tích: Truyện Ông Tiên ăn
mày có lẽ là viết lại từ truyện cổ tích dân gian Hai anh em, truyện Sống lại trong tác
phẩm này cũng có thể được tìm thấy trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam mà
Nguyễn Đổng Chi đã sưu tầm với tên gọi Anh chàng họ Đào, Chuyện tình ở Thanh
Trì hẳn là phóng tác từ câu chuyện tình bi thương mà cổ tích đã lưu truyền: Trương
Chi, Mị Nương. Đọc và so sánh truyện Hai anh em, truyện Anh chàng họ Đào do
Nguyễn Đổng Chi sưu tầm với truyện Ông Tiên ăn mày và truyện Sống lại do Vũ
52
Trinh viết, ta sẽ nhận ra một điều diễn biến chính của hai truyện Hai anh em và Ông
Tiên ăn mày rất giống nhau, chỉ khác nhau ở vài tiểu tiết; cũng vậy, truyện Sống lại
gần như giống hoàn toàn với truyện Anh chàng họ Đào, và chủ đề tư tưởng của
những cặp truyện này về cơ bản là giống nhau. Hai anh em và Ông Tiên ăn mày ca
ngợi con người hiền lành, lương thiện, phê phán kẻ tham lam, độc ác thông qua hai
tuyến nhân vật đối lập: người em, dại diện cho cái thiện và vợ chồng người anh, đại
diện cho cái ác. Ông Tiên giả dạng người ăn mày giữ vai trò là nhân vật chức năng
xuất hiện để thử lòng người, giúp đỡ cho người có tấm lòng thơm thảo và trừng trị
kẻ tham lam. Truyện Anh chàng họ Đào hay Sống lại thì ca ngợi tình cảm thủy
chung của người học trò nghèo và cô gài đoan chính. Chỗ khác nhau giữa truyện
Hai anh em và Ông Tiên ăn mày chủ yếu là ở phần sau của truyện, như ta dễ dàng
nhận ra: trong Ông Tiên ăn mày, phần thưởng cho người em tốt bụng là vàng hóa
thành từ máu Tiên ông, người anh thì bị quan phạt như một sự trừng trị thích đáng
cho bản tính tham lam keo kiệt của mình; còn trong Hai anh em, phần thưởng cho
người em cũng là vàng, nhưng là vàng từ miệng chó đá tuôn ra và người anh bị
trừng trị bằng cách bị gắn chặt cả phần đời còn lại với con chó đá; ở truyện Hai anh
em, ngoài ý nghĩa khuyên con người sống hiền nhân, thể hiện quan niệm người hiền
được phúc, còn nhằm giải thích lai lịch câu thành ngữ “chó đá biết cười”. Ý nghĩa
giải thích lai lịch một di tích, một tên gọi, một thành ngữ… dường như không phải
là ý nghĩa chính của truyện truyền kì. Truyện truyền kì, như đã nói, chủ yếu mang ý
nghĩa xã hội. Còn truyện Anh chàng họ Đào và truyện Sống lại thì chỉ khác vài tiểu
tiết không đáng kể ở cuối truyện. Chuyện tình ở Thanh Trì lại rất gần với truyện
Trương Chi – Mị Nương của dân gian khi nội dung truyện kể về mối tình bi thương
của chàng lái đò nghèo và cô gái nhà giàu. Có điều, khác với truyện dân gian kết
thúc bằng cái chết của chàng trai, truyện của Vũ Trinh kết thúc bằng cái chết của cô
gái, chết với trái tim hóa đá có hình bóng chàng lái đò, khối đá chỉ tan khi nước mắt
chàng trai nhỏ vào.
Chúng ta đều biết, truyện cổ tích, nhất là truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích
sinh hoạt, là những truyện dân gian có cốt truyện và nhân vật được hư cấu kể về
53
cuộc đời và số phận của con người bình thường trong xã hội có giai cấp, phản ánh
những nhận thức của nhân dân về thực tại xã hội, những quan niệm đạo đức, ước
mơ công lí và ước mơ xã hội tốt đẹp. Trong truyện cổ tích, thường có những xung
đột thiện – ác; giàu – nghèo, kẻ thuộc tầng lớp trên – người thuộc tấng lớp dưới.
Qua cách giải quyết những xung đột đó, ta thấy tác giả truyện cổ tích thường đứng
về phía những con người có phẩm chất tốt đẹp, dù có thể họ nghèo khổ, dị hình dị
dạng; ở một số truyện, những con người ấy tuy trải qua cuộc sống vất vả, khổ sở
hay có thể bị hãm hại, nhưng cuối cùng lại có kết thúc tốt đẹp. Điều đó phản ánh
hiện thực cuộc sống nhiều bất công và ước mơ một xã hội công bằng, tốt đẹp hơn
của người bình dân xưa. Ở nhiều truyện truyền kì, không phải chỉ ở những truyện
được sáng tác lại từ những truyện cổ tích đã quen thuộc như đã kể ở trên, mà ở
nhiều truyện khác, ta cũng tìm thấy đặc điểm nội dung này. Những truyện Chuyện
người nghĩa phụ Khoái Châu, Chuyện nàng Túy Tiêu, Chuyện chức phán sự đền
Tản Viên…trong Truyền kì mạn lục; truyện Cá thần trong Lan Trì kiến văn lục đều
có thể thấy dấu ấn nội dung này. Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu kể về nàng
Nhị Khanh một lòng yêu chồng, thương con, hiếu thảo với cha mẹ chồng. Khi
chồng theo cha đi nhậm chức nơi xa, lâu năm không tin tức, nàng vẫn một lòng chờ
đợi dù bị người cô ép uổng lấy người khác. Bị cô thúc bách, nàng cho người bõ già
đi tìm chồng về, vợ chồng đoàn tụ. Sau, Trọng Quỳ chồng nàng vì mê cờ bạc mà
mang cả nàng ra đặt cược. Trọng Quỳ thua, nàng phải làm vợ người khác. Không
chấp nhận việc ấy, Nhị Khanh tự tử. Thượng Đế thương tình, cho nàng làm thần.
Câu chuyện ca ngợi tấm lòng thủy chung cao khiết đáng trân trọng của nàng Nhị
Khanh. Việc Thượng đế phong cho nàng làm thần sau khi nàng mất mang màu sắc
kì ảo và kiểu kết thúc có hậu của truyện cổ tích. Chuyện nàng Túy Tiêu kể về mối
tình sâu sắc của nàng Túy Tiêu và chàng Dư Nhuận Chi. Hai người yêu nhau nhưng
rồi Túy Tiêu bị Thân Trụ quốc bắt về làm thiếp. Túy Tiêu, Nhuận Chi tìm mọi cách
để sum họp nhau. Trải qua nhiều gian nan, cuối cùng hai người cũng đoàn tụ, Trụ
quốc vì cớ xa xỉ mà phải tội, Nhuận Chi thi đỗ tiến sĩ, hai vợ chồng ăn ở đến già.
Hình ảnh nàng Túy Tiêu và chàng Nhuận Chi là đại diện cho tình yêu, cho cái thiện,
54
trong khi đó Thân Trụ quốc đại diện cho thế lực cường quyền tàn ác. Kết thúc của
truyện này là kết thúc của truyện cổ tích, phản ánh quan niệm và ước mơ ngàn đời
của người bình dân trong truyện cổ tích: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo. Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên là câu chuyện về chàng thư sinh Ngô Soạn, bất bình
trước việc ngôi đền có tiếng là linh ứng giờ lại có yêu quái quấy nhiễu nhân dân nên
đốt đền. Đốt đền xong, trong cơn sốt nóng sốt rét, chàng thấy hồn ma Bách hộ họ
Thôi, kẻ đã cướp ngôi đền ấy của Thổ công để hưng yêu tác quái đến hăm dọa, đòi
dựng trả lại đền, sau đó Thổ công cũng đến gặp bày cho chàng cách đối phó với
Bách hộ họ Thôi. Nửa đêm, hồn Ngô Soạn bị giải xuống âm phủ. Trước mặt Diêm
Vương, dù Bách hộ họ Thôi giảo quyệt vu khống chàng, chàng đã khẳng khái đối
chất, giành phần thắng. Bách hộ họ Thôi bị trừng trị bằng việc đày vào ngục Cửu U,
hài cốt bị đánh tan tành như cám, còn Ngô Tử Văn thì được hưởng phần xôi thịt
cúng tế của dân làng sau đó được giữ chức phán sự đền Tản Viên. Câu chuyện và
chàng Ngô Tử Văn và Bách hộ họ Thôi là câu chuyện về cuộc chiến đấu giữa cái
thiện và cái ác, giữa chính nghĩa và gian tà rất hay gặp trong dân gian. Kết thúc câu
chuyện như đã tóm tắt ở trên đã cho thấy cái nhìn nhân đạo của nhà văn trên quan
niệm của nhân dân như trong truyện cổ tích: chính nghĩa tất thắng, kẻ gian tà chắc
chắn sẽ bị trừng trị.
Truyện Cá thần trong Lan Trì kiến văn lục được kể lại rất ngắn gọn: “Người lái
buôn Mỗ ở Quảng Nam giàu mà thích làm việc thiện. Hằng năm thường thuê thuyền
chở hàng từ Gia Định ra Thuận Hóa buôn bán. Một hôm thuyền đang đi giữa biển,
Mỗ say rượu làm trái ý chủ thuyền. chủ thuyền vốn là dân trộm cướp, nhân đêm tối
đẩy Mỗ xuống biển. Mỗ ngoi ngóp khi nổi khi chìm giữa sóng biển, bỗng đụng phải
một con cá lớn. Yên chí thế nào cũng chết, Mỗ bèn níu lấy râu cá mà khấn rằng:
“Tôi là người lương thiện bị cướp hại, xin Long vương cứu lấy sinh mạng nhỏ nhoi
như con sâu cái kiến này!” Tức thì con cá vùng sóng bơi đi, nhanh như tên, nhìn
thân cá dài đến trăm trượng. Nửa đêm thấy cá nghiêng mình nghỉ lại, Mỗ ngước
mắt nhìn thì đã đến bờ. Mỗ sửa áo ngay ngắn lễ tạ hai lạy rồi tìm đường mà đi.
Bỗng trước mặt có một đồn bình, hỏi ra thì là đồn Động Hải. Mỗ gõ cửa xin ăn.
55
Lính trong đồn thấy Mỗ là người quen thường ngày vẫn qua lại đường này nên đều
thương, lại thấy chuyện lạ, liền cho quần áo và thức ăn. Chủ thuyền hại anh lái
buôn Mỗ xong chia nhau hàng hóa rồi thuận dòng mà đi. Hơn mười ngày sau, cũng
đến Động Hải, neo thuyền lên bờ. Trông thấy Mỗ y kinh hoàng bỏ chạy. Mỗ hô
hoán, lính đồn đuổi theo bắt được, vừa tra hỏi, chủ thuyền đã nhận hết tội. Lúc bấy
giờ chú dượng ta Trần Đương, làm tướng cai quản đồn, xử vụ án này” [8,tr.120].
Nhân vật và diễn biến của câu chuyện này khá tương đồng với truyện cổ tích: nhân
vật chính là người “thích làm việc thiện” nhưng bị kẻ ác hãm hại rồi được cá thần
cứu, còn kẻ ác nhân bị trừng trị. Câu chuyện có màu sắc cổ tích này (dù được khẳng
định là một câu chuyện có thật với chi tiết cuối truyện: Lúc bấy giờ chú dượng ta là
Trần Đương, làm tướng cai quản đồn, xử vụ án này) đưa ra một bài học muôn đời
nhân dân vẫn gửi gắm trong truyện cổ: ở hiền thì lại gặp lành, gieo gió sẽ gặt bão.
2.1.2. Truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyền thuyết
Không phong phú như truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyện cổ tích,
truyện truyền kì khai thác đề tài từ truyền thuyết chiếm số lượng ít ỏi hơn, nhưng
không phải là hoàn toàn vắng bóng trong các tác phẩm truyền kì nổi tiếng, rõ nhất là
trong Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm. Nếu xem truyền thuyết là những sáng
tác kể về những nhân vật, những sự kiện lịch sử hoặc có liên quan đến lịch sử, có
những yếu tố hoang đường, kì ảo nhằm thể hiện thái độ đánh giá của người xưa đối
với những nhân vật hoặc sự kiện lịch sử đó, thì rõ ràng là trong nhiều sáng tác
truyền kì của các tác giả thời trung đại, ta có thể bắt gặp những truyện ngắn hoặc
khai thác từ những truyền thuyết đã được lưu truyền từ lâu trong dân gian hoặc
mang dáng dấp của truyền thuyết về mặt nội dung, tư tưởng. Minh chứng rõ nhất
cho điều này phải kể đến các truyện Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ và An Ấp liệt
nữ trong Truyền kì tân phả. Trong đó, Hải khẩu linh từ là câu chuyện về cung phi
Nguyễn Cơ, tên tự Bích Châu đời Trần Duệ Tông một lòng can vua những điều hay
phải, giúp vua trị nước an dân, tự nguyện hiến mình cho đô đốc Nam Hải dưới thủy
phủ để cứu vua; truyện An Ấp liệt nữ là câu chuyện về người vợ thứ của Đinh Nho
Hoàn, một vị quan nổi tiếng thời Lê Dụ Tôn, tự tử theo chồng khi chồng mất lúc đi
56
sứ, còn truyện Vân Cát thần nữ lại có những dấu ấn của truyền thuyết về Bà chúa
Liễu Hạnh được lưu truyền sâu rộng trong dân gian. Xây dựng những sự kiện xoay
quanh cuộc đời của các nhân vật này cả trước và sau khi mất với nhiều chi tiết
tưởng tượng, lãng mạn, bay bổng, tác giả Truyền kì tân phả đã khẳng định sự bất tử
của các nhân vật lịch sử này trong tâm thức dân tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện
cái nhìn hết sức trân trọng, ngưỡng mộ đối với những người phụ nữ tài sắc; không
chỉ là ngưỡng mộ vẻ đẹp tâm hồn, tài năng của họ mà còn là ca ngợi những khát
vọng trần thế mãnh liệt của những người phụ nữ trong vòng cương tỏa của xã hội
phong kiến đối với nữ giới.
Cung phi Nguyễn Cơ hay Nguyễn Thị Bích Châu hay còn một tên khác là Phù
Dung, là nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam thời nhà Trần. Theo nhiều tài liệu,
bà là con gái của Nguyễn Tướng Công, quê ở Hải Hậu, Nam Định, từ nhỏ đã nổi
tiếng thông tuệ, giỏi văn chương thơ phú, có nhan sắc. Xung quanh người cung nữ
tài sắc này có nhiều giai thoại được lưu truyền, bà cũng được dựng đền thờ tại
huyện Kì Anh tỉnh Hà Tĩnh. Tương truyền, cung phi Bích Châu (1356 – 1376), năm
1373 được vua Trần Duệ Tông tuyển làm cung phi, khi ấy chế độ phong kiến triều
Trần đang suy yếu, chính sự đổ nát, Bích Châu đã hết lời can gián vua, nàng còn
soạn bài Kê minh thập sách dâng vua với những ý hay về trị nước an dân. Năm
1376, vua đi đánh giặc Chiêm Thành, Bích Châu dâng biểu can vua nhưng vua
không nghe, nàng xin vua cho theo ngự giá, vua bằng lòng. Nhưng khi đoàn xa giá
đến cửa bể Kì Hoa (Kì Anh, Hà Tĩnh) thì trời bỗng nổi cơn phong ba. Đoàn thuyền
đành neo lại. Đêm ấy, vua nằm mộng thấy một người tự xưng là Nam Minh đô đốc,
thủ hạ của Quảng Lợi đại vương, muốn xin vua một người thiếp, được thế thì mới
làm cho sóng yên bể lặng để thuyền vua đi qua. Hôm sau, vua kể lại giấc mộng ấy,
ai cũng nín lặng nhìn nhau sợ hãi, riêng cung phi Bích Châu đứng ra tự nguyện xin
liều mình làm vật hiến tế mà cứu cả đoàn quân. Hai ngày sau xác cung phi nổi lên
trên mặt biển, dung mạo vẫn xinh đẹp, được nhân dân vớt lên lễ táng ở làng Kì Hoa.
Lại có thuyết nói năm 1377 vua Trần Duệ Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành,
trước khi đi Bích Châu làm tờ biểu can ngăn nhưng vua không nghe nên nàng xin
57
theo hộ giá. Khi quan quân nhà Trần đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn), vua Chiêm là
Chế Bồng Nga cho sứ giả đem vàng ngọc tới quan quân ta để trá hàng, nhưng sau
đó lại bất ngờ tiến đánh vào lúc nửa đêm. Quân của Trần Duệ Tông bị tấn công bất
ngờ, long thể nhà vua lại bất an, Nguyễn Thị Bích Châu cưỡi ngựa tả xung hữu đột
cầm quân xung trận và không may bị trúng tên độc sau đó từ trần. Ba ngày sau vì
bệnh quá nặng nhà vua cũng băng hà, quân nhà Trần rút về kinh đô khi tới địa điểm
Châu Hoan vì sóng to gió lớn tàu thuyền phải ghé vào vũng Ô Tôn (Vũng Áng).
Lúc này vua Trần Đế mới lên ngôi nghe tin liền xuống chiếu rước linh cữu nhà vua
về bằng đường bộ còn linh cửu quý phi đi bằng đường biển. Sau mấy ngày thời tiết
không thuận lợi triều đình xuống chiếu cho an táng Quý phi tại Cửa Khẩu, bến Kỳ
La huyện Kỳ Hoa thuộc Châu Hoan. Năm 1470 trong lần đem quân đi đánh Chiêm
Thành giành chiến thắng trở về vua Lê Thánh Tông cho quân dừng lại nơi đây và
sai người chặt gỗ, gọt đá xây dựng ba toà điện thờ bà và sắc phong cho bà là: “Chế
Thắng phu nhân”.
Còn đây là tóm tắt truyện Hải khẩu linh từ: Nguyễn Cơ là con gái nhà quan, dung
nhan tươi tắn, tính tình đứng đắn, thông hiểu âm luật, vua Duệ Tông biết tiếng, liền kén
vào cung. Nhân tiết trung thu, vua mở yến tiệc, lúc cao hứng đọc lên một vế đối, bảo
Nguyễn Cơ đối lại. Nàng lập tức ứng khẩu, vua khen hay, vế đối nàng có hai chữ “phù
dung”, vua lấy hai chữ đó mà đặt tên cho nàng, từ đó càng yêu quý nàng hơn tất cả
các cung phi. Bấy giờ chính sự suy kém, Nguyễn Cơ bèn viết bài Kê minh thập sách
dâng lên vua để can gián. Vua khen, nhưng không cho thi hành. Năm Long Khánh thứ
tư, vua định thân chinh đánh Phù Nam, Ngự sử trung tán Lê Tích can nhưng vua không
nghe. Bích Châu viết tờ biểu dâng vua xin “nghỉ binh cho dân chúng yên hàn” nhưng
vua vẫn hạ lệnh duyệt binh, định tháng Chạp xuất quân. Can vua xuất chinh không
được, nàng xin theo hộ giá, vua chuẩn y. Đến địa phận Kì Anh, vua hạ lệnh đóng quân
bên bãi vắng. Đêm ấy, Nguyễn Cơ nhìn sao, bói quẻ, thấy điềm chẳng lành nên định
hôm sau xin vua thay đổi chủ trương. Nàng chưa kịp tâu bày thì một trận gió cuồn
cuộn thổi vào thuyền vua, nàng xin vua chuẩn bị sáu quân để đối phó, vua hạ lệnh thả
neo để tránh trận gió mạnh. Đêm ấy, vua nằm mộng thấy đô đốc vùng Nam Hải đến
58
xin một người thiếp, nếu được thì mới để cho bể yên sóng lặng. Tỉnh giấc, vua kể lại
cho các phi tần nghe giấc mộng, Bích Châu quỳ trước vua xin tự nguyện làm vật tế
thần để bảo vệ toàn quân, rồi nhảy xuống biển sau khi dặn vua “sửa văn nghi võ, kén
người hiền, làm điều nghĩa”. Sau đó vua tiến sâu vào động Ỷ Mang, trúng phải quỷ kế
của Bà Ma, toàn quân và vua bị hãm trong động. Đến triều Lê Thánh Tông, vua xuất
quân đi đánh Chiêm Thành. Đi qua cửa bể Kì Hoa bỗng nhiên mưa gió mù mịt, vua hạ
lệnh neo thuyền lại, trông sang bờ kia thấy tòa miếu cổ. Vua hỏi dân sở tại, rồi trỏ vào
miếu mắng là loài yêu quái. Đêm ấy, vua mộng thấy Bích Châu đến bày tỏ nỗi oan tình
xin vua ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân. Tỉnh giấc, vua viết một phong thư gửi cho Quảng
Lợi vương, Quảng Lợi vương theo lời trừng trị tên đô đốc Nam Minh và gửi thư cho
Thánh Tông tỏ rõ hiến chương nghiêm ngặt. Sau đó, thi hài của Bích Châu nổi lên, vua
sai lấy lễ hoàng hậu tống táng, làm văn tế dâng lên miếu điện, lại còn đề cả một bài
thơ ca ngợi. Rồi vua tiếp tục lên đường đánh giặc, đánh đâu thắng đó. Khi kéo quân
về, qua lại bến cũ, cung phi Bích Châu lại hiện về trong giấc mộng để tạ ơn và xin vua
sửa lại hai câu cuối trong bài thơ vua đã đề lên miếu khi trước. Tỉnh giấc, vua y lời. Về
triều, vua hạ chiếu lập đền thờ, sắc phong bà là thần, trong đó có hai chữ Chế Thắng.
Như vậy, dựa trên những ghi chép lịch sử cùng những truyền thuyết về nàng ái phi
tài sắc của vua Trần Duệ Tông, tác giả Truyền kì tân phả đã viết nên một câu chuyện
truyền kì độc đáo với nhiều tình tiết phong phú, nhiều sự dụng công khiến cho nhân vật
vừa mang vẻ đẹp của con người thông minh, trí tuệ, vừa mang vẻ đẹp lung linh huyền
ảo với việc am hiểu chiêm tinh, thuật số, lại mang cả vẻ đẹp của một tâm hồn yêu
nước, yêu dân. Những chi tiết hoang đường kì ảo được bổ sung thêm vào một câu
chuyện sẵn có càng làm rõ lòng ngưỡng mộ, tôn kính, không chỉ của riêng tác giả mà
còn là của nhân dân dành cho nhân vật có thật này. Đây là một đặc điểm quan trọng
của truyền thuyết không thể không kể đến.
Trong bài Mối liên hệ giữa Truyền kì tân phả và lễ hội dân gian, tác giả Trần Thị
Băng Thanh và Bùi Thị Thiên Thai đã chứng minh truyện Vân Cát thần nữ trong
Truyền kì tân phả là sự kế thừa và sáng tạo những truyền thuyết về bà chúa Liễu Hạnh
trong các sáng tác dân gian đã có. Theo đó, tác giả bài viết đã khẳng định: Vân Cát
59
thần nữ là kết quả của quá trình gắn kết những truyền thuyết về nữ thần thuộc các
địa phương khác nhau: truyền thuyết Hà Nam, truyền thuyết Lạng Sơn, truyền
thuyết Thăng Long, truyền thuyết xứ Thanh, truyền thuyết xứ Nghệ... Cũng chính
trong bài viết này, người viết đã khẳng định, với những sự gia công sáng tạo của tác
giả, thì Truyền kỳ tân phả với tỷ lệ đậm đặc những hiện tượng tương đồng một đối
một giữa tác phẩm với truyền thuyết và lễ hội dân gian cần phải được ghi công
trong việc nối liền sự đứt gẫy giữa văn học, văn hoá dân gian và văn học, văn hoá
bác học; sớm hơn khá nhiều so với trào lưu "thuần Việt hoá" của văn học Việt Nam
thế kỷ XVIII - XIX. Trích dẫn ý này trong bài viết của hai tác giả trên, chúng tôi
muốn thêm một lần nữa nhờ vào đó mà khẳng định: truyền kì chính là một thể loại
giữ vai trò là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết. Trong Sự tích về bà
chúa Liễu Hạnh mà Nguyễn Đổng Chi sưu tầm từ lời kể của người Hà Tĩnh và từ
bản kể của Landers, người kể chủ yếu tập trung vào lần giáng thế thứ ba, nhấn mạnh
tính chất thần thánh, ban phúc giáng họa của nhân vật chính. Điều này là điều dễ
thấy trong truyền thuyết dân gian. Vân Cát thần nữ của Đoàn Thị Điểm lại tập trung
kể về cuộc đời trần thế với những khát vọng sống mãnh liệt của Liễu Hạnh. Chính
điều này làm nên sự khác biệt giữa sáng tác của Đoàn Thị Điểm với sáng tác dân
gian, cho thấy tác phẩm văn học dân gian đi vào truyền kì nhưng mặt khác lại được
truyền kì thổi cho một sức sống mới.
Truyện An Ấp liệt nữ cũng là một câu chuyện được viết về một nhân vật lịch sử
có thật: bà Phan Thị Viên, vợ lẽ của Đinh Nho Hoàn, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất
thân khoa Canh Thìn niên hiệu Chính Hòa thứ 21 (1700). Niên hiệu Vĩnh Thịnh
năm thứ 11 (1715), ông được cử đi sứ nhà Thanh. Trên đường về, ông lâm bệnh
nặng rồi mất. Sau khi an táng ông, bà Phan Thị đã tự vẫn theo chồng. Triều đình
phong là “Á thận nhân”, cho lập đền thờ và ban bảng vàng đề hai chữ “Tiết phụ”.
Đền thờ ấy giờ gọi là đền Gôi Mỹ, thuộc xã Sơn Hòa (Hương Sơn, Hà Tĩnh). Sự
việc này được ghi lại một cách ngắn gọn trong Đại Việt sử kí toàn thư: "Biểu dương
người xã Do Lễ, huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) là vợ bé Đinh nho Hoàn. Đinh
Nho Hoàn đi sứ phương Bắc, chết dọc đường. Sau khi đưa về chôn cất, Phan thị
60
thương nhớ tự thắt cổ chết. Việc này đến tai triều đình. Triều đình sai quan cấp cho
ruộng thờ, tặng phong là: "Á thận nhân", lập đền thờ và ban cho bảng vàng khắc 2
chữ "Tiết phụ" để biểu dương" (Theo Đền Gôi Mỹ thờ 4 vị phúc thần họ Đinh Nho
– Tư liệu và chứng cứ, tác giả Đinh Nho Quỳ, trang điện tử của Họ Đinh Việt
Nam). Còn câu chuyện An Ấp liệt nữ trong Truyền kì tân phả có thể tóm tắt như
sau: Niên hiệu Vĩnh Thịnh có một tiến sĩ trẻ tuổi tên là Đinh Hoàn, lấy người con
gái nhà quan họ Nguyễn làm vợ thứ. Bà là người “nghi dung nhàn nhã, ăn nói đoan
trang, thêu thùa khâu vá rất lành nghề, lại có tài văn thơ nổi tiếng”. Năm Ất Vị,
Đinh Hoàn được cử đi sứ sang Trung Quốc, vì lưu luyến người vợ này không nỡ đi.
Bà lấy phận sự kẻ trượng phu khuyên chồng và bày tỏ nỗi lo lắng cho thể chất của
ông. Ngày đăng trình, bà dâng rượu, làm thơ tiễn chồng. Xa chồng, nỗi niềm nhung
nhớ của bà gửi vào thơ văn, có đến hơn ba mươi bài. Khi đến Yên Kinh, Trung
Quốc, ông trở bệnh nặng rồi mất sau một giấc mơ thấy Thượng đế mời mình. Linh
cữu ông được mang về nước. Bà tiếp được tin buồn, mê man bất tỉnh, rồi làm bài
văn tế trong đó có ý quyên sinh. Một đêm, bà mộng thấy chồng về khuyên giải đừng
nên bi phiền. Đến ngày giỗ đầu của ông, bà thắt cổ tự tử. Việc đến triều đình, triều
đình cho lập đền thờ, ban cho bảng vàng: “Trinh liệt phu nhân từ”, bốn mùa tế lễ,
người làng cầu đảo đều rất linh ứng. vài năm sau, có chàng thư sinh họ Hà, đi
ngang đền, làm bài thơ có ý khinh mạn Đinh Hoàn được thờ cúng chẳng qua vì có
phu nhân trung liệt. Bà hiện lên quở trách khiến Hà sinh tỉnh ngộ. Như vậy, từ câu
chuyện về nhân vật có thật trong lịch sử, với những dụng công, sáng tạo của mình,
đặc biệt là xây dựng nên những chi tiết hoang đường kì ảo ở phần sau của truyện
(sau khi Phan Thị mất), cùng những đoạn đối thoại giữa nhân vật chính với các
nhân vật khác, với lời văn trau chuốt, hoa mỹ, tác giả đã thể hiện sự ngưỡng mộ, tôn
vinh của mình đối với người phụ nữ tiết tháo này. Hư cấu trên cơ sở một câu
chuyện về những người thật, việc thật, thêm nhiều chi tiết thần kì nhằm thể hiện thái
độ đánh giá của người kể chuyện đối với nhân vật lịch sử ấy là đặc trưng nội dung,
nghệ thuật của truyền thuyết lịch sử. An Ấp liệt nữ của Đoàn Thị Điểm ít nhiều
mang những đặc điểm này. Xét trên bình diện đó, chúng tôi nghĩ, có thể nói An ấp
61
liệt nữ và Truyền kì tân phả nói riêng, tác phẩm truyền kì thời trung đại nói chung
đã có ý thức khai thác đề tài từ truyền thuyết để tạo nên những tác phẩm có giá trị
văn chương.
Hẳn nhiên, nếu chỉ dựa vào ba truyện của Truyền kì tân phả mà rút ra kết luận
trên có thể sẽ phiến diện. Ở đây, chúng tôi chọn Truyền kì tân phả để minh chứng
cho luận điểm của mình vì lẽ những sáng tác trong Truyền kì tân phả mang dấu ấn
truyện người thật việc thật được ghi lại trong lịch sử và được thần thánh hóa rõ rệt
nhất. Một số truyện khác trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục kể về
những con người có thật được thờ phụng trong dân gian, với nhiều chi tiết hoang
đường, kì ảo, thần bí xung quanh những con người ấy. Chúng ta có thể xem đây là
dấu ấn của truyền thuyết được lưu lại trong những sáng tác này chăng? Như Chuyện
tướng Dạ Xoa kể về Văn Dĩ Thành, một người hào hiệp, không sợ quỷ thần, được
Diêm Vương phong làm tướng Dạ Xoa, vì tình bè bạn mà giúp cho Lê Ngộ thoát vạ
bị chết vì ôn dịch. Và Văn Dĩ Thành là nhân vật được dân gian thờ phụng từ lâu.
Truyện Phạm Viên của Vũ Trinh kể về Phạm Viên, con trưởng của Tiến sĩ Phạm
Chất, người Nghệ An, học được phép tiên cứu người và được thờ phụng mãi mãi.
Như vậy, có thể thấy cả hai truyện trên đều ít nhiều có dáng dấp của truyền thuyết
dân gian khi nội dung kể về những người có công dộ dân và được thờ phụng.
2.1.3. Truyền kì khai thác đề tài từ truyện ngụ ngôn
Cùng với cổ tích, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn cũng là một nguồn đề tài mà
truyền kì chịu ảnh hưởng dù không sâu đậm như cổ tích. Trong các sáng tác truyền
kì, từ Thánh Tông di thảo đến Tân truyền kì lục, ta có thể thấy có những truyện khá
ngắn, mượn các hình tượng ẩn dụ để kể về những sự việc liên quan đến con người
từ đó nêu lên những bài học kinh nghiệm về cuộc sống. Đó chính là đặc điểm của
truyện ngụ ngôn trong dân gian mà sáng tác truyền kì đã thừa hưởng.
Hãy bắt đầu với Thánh Tông di thảo. Trong Thánh Tông di thảo có hai truyện
mà chất ngụ ngôn khá rõ rệt: Hai Phật cãi nhau và Dòng dõi con thiềm thừ. Truyện
Hai Phật cãi nhau kể lại việc vua Lê Thánh Tông đã chứng kiến trong một lần đi
62
phát chẩn cho dân năm Quý Tỵ. Lần đó, gió mưa mờ mịt trên bến đò Văn Giang.
Vua cho buộc thuyền trước chùa rồi nằm ngủ. Nửa đêm, nghe tiếng lao xao, nhìn
trộm vào chùa, vua thấy một tượng Phật bằng đất đang chỉ tay mắng một tượng Phật
bằng gỗ. Tượng Phật đất khinh tượng Phật gỗ trôi dòng dạt bãi, không kiếm được
một bữa cúng chay. Phật gỗ cũng khinh Phật đất không giữ được thân khi nước đến
mà còn cười người. Vừa khi ấy, Phật Thích Ca tay cầm bầu rượu, dáng lảo đảo,
bước ra mắng át cả hai người đã không biết vận dụng lục trí đẩy lui nước lụt, không
giữ được tấm thân gỗ đất, ngồi hưởng rượu thị của dân chúng cúng cho mà không
biết xấu hổ, còn cãi nhau. Truyện mượn hình ảnh của hai tượng Phật, Phật đất và
Phật gỗ, để đả kích đám sư sải vô dụng, ăn bám và bẻm mép. Trong khi đó, truyện
Dòng dõi con thiềm thừ, mượn hình ảnh của cóc và ếch để đưa ra một cái nhìn về
cuộc đời, con người, một luân lí: ở đời, kẻ nào tham lam, gian xảo, ngạo mạn thì rồi
sẽ thất thân; còn người nào khiêm tốn, lương thiện, hay giúp người thì sẽ giữ được
thân. Truyện kể rằng cóc và ếch đều là dòng dõi thềm thừ ở cung Hằng. Một lần
trông xuống trần gian, mến yêu cảnh non xanh nước biếc bèn xin Hằng Nga cho
xuống trần. Từ khi xuống trần, cóc vẫn giữ được bản tính trời sinh: khiêm tốn mặc
áo vải thô, ở nơi kín đáo; gặp loài vật có hại thì trừ đi, hay làm việc thiện, những khi
hạn hán đều xin trời mưa cho. Vì vậy những loài không tốt không dám đến gần cóc,
người thì yêu mến. Còn ếch lại cao ngạo ngang ngược, hay nă thịt cá, tôm, sâu bọ;
lại hoang dâm, vì thế người ta rất ghét ếch. Hai tượng Phật và cóc, ếch trong hai
truyện này, rõ ràng đều là hình tượng mang tính ẩn dụ mà tác giả xây dựng nên để
ngụ ý sâu xa, vừa phản ánh hiện thực xã hội có những loại người như vậy, vừa là lời
nhắc nhở, cảnh tỉnh đối với tất cả mọi người về thái độ sống đúng đắn.
Mang tính chất ngụ ngôn đậm đặc nhất có lẽ phải kể đến những truyện trong
Tân truyền kì lục của Phạm Quý Thích. Hai truyện Ve sầu và nhặng xanh, Con chó
nhà nghèo có nghĩa đều là mượn chuyện vật để nói chuyện người, mượn lời của
loài vật để thức tỉnh lương tâm, lí trí của con người. Truyện Ve sầu và nhặng xanh
63
kể lại cuộc tranh luận của hai con côn trùng này mà qua đó ngụ ý sâu xa về những
hạng người trong xã hội. Trong truyện, khi thấy ve sầu đậu cùng một cành với
mình, nhặng xanh dè bỉu, cho rằng ve sầu không đáng sánh cùng mình vì mình kiến
thức sâu rộng, tài năng hơn người…lộc có cao lương mĩ vị nhờ ở ơn vua, của thì
chung đỉnh giàu sang toàn nhờ trời thưởng, bụng chứa đầy miếng ngon, miệng luôn
nhờn thức béo…”. Đáp lại, ve sầu cho nhặng xanh là đứa tham ăn không chán, xu
phụ thành đàn…tất cả bổng lộc nhặng hưởng đều là máu mủ của dân vì vậy nhặng
mới béo tròn, đầu óc to rỗng, không biết lấy làm xấu hổ mà còn cho là vinh hoa”
[25,tr.179]. Còn ve sầu “của phi nghĩa tơ hào không dính líu”, “không cầu cạnh
người để được no bụng”, “không hại vật khác để tự béo phì. Nhặng xanh nghe
xong, xấu hổ bay mất. Hình ảnh nhặng xanh là hình ảnh của bọn người cơ hội vô
liêm sĩ xin xỏ trong bóng tối, kiêu căng giữa ban ngày, trong khi đó, ve sầu là tượng
trưng cho người quân tử thanh cao giữ lễ nghĩa, giữ thân mình. Mượn lời đối đáp
của hai con vật, Phạm Quý Thích đã gửi đến người đọc quan niệm sống của kẻ sĩ
chân chính, phê phán bọn tiểu nhân lợi dụng đục khoét nhân dân. Cùng một dạng
thức mượn chuyện vật để nói người, truyện Con chó nhà nghèo có nghĩa là bài học
về đạo thủy chung, dạy con người sống ngay thẳng, có trước có sau, đừng tham
sang phụ khó, đừng thay lòng đổi dạ. Phản ứng và lời đối đáp của chú chó Hàn Lư
khi nghe phú ông dụ dỗ về với ông trong câu chuyện là một lời răn nghiêm khắc và
thấm thía đối với những kẻ xu nịnh cầu vinh, cơ hội kiếm lộc.
Cuối những truyện truyền kì mang tính chất ngụ ngôn này thường có lời bình
của người kể hoặc lời bình của một nhà nho nào đó. Những lời bình ấy chỉ ra hàm ý
trong câu chuyện. Tuy nhiên, thiết nghĩ, không có những lời bình đó, người đọc vẫn
có thể hiểu được những hàm ý ấy khi phân tích hình tượng trong tác phẩm.
Truyện truyền kì mang tính chất ngụ ngôn cũng thường ngắn gọn như truyện
ngụ ngôn trong dân gian. Tuy nhiên, lời kể và lời thoại trong các truyện này trau
chuốt, hoa mĩ, giàu tính triết lí, nhất là triết lí Nho giáo, chèn những câu văn đối
64
ngẫu, những điển cố…- những đặc điểm của văn chương bác học trung đại.
2.2. Nghệ thuật của truyền kì: chịu ảnh hưởng của nghệ thuật văn học dân gian
2.2.1. Cốt truyện và kết cấu của truyền kì có nhiều nét tương đồng với cốt
truyện, kết cấu của truyện dân gian
Cốt truyện là “hệ thống sự kiện được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ
thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động
của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự và kịch” (theo Từ điển văn học, trang 324).
Hiểu theo ý nghĩa này, khi xem xét mô hình cốt truyện của truyền kì, so sánh với
mô hình cốt truyện truyện cổ dân gian, chúng tôi thấy có những điểm tương đồng.
Cốt truyện của truyện cổ dân gian thường theo công thức: giới thiệu nhân vật ->
biến cố, những sự kiện diễn ra với các mâu thuẫn, xung đột -> mâu thuẫn được giải
quyết, truyện kết thúc. Ví dụ truyện cổ tích Tấm Cám chẳng hạn. Câu chuyện cổ
tích quen thuộc này mở đầu bằng việc giới thiệu về gia cảnh, tính nết hai nhân vật,
tiếp sau đó là những sự kiện cho thấy sự mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa Tấm và
mẹ con Cám: Tấm bắt được nhiều tép hơn nhưng không được hưởng yếm đỏ vì
Cám đã lừa mất, mẹ con Cám giết cá bống, bạn thân của Tấm sau khi lừa Tấm đi
chăn trâu đồng xa, dì ghẻ trộn lẫn thóc và gạo để Tâm không được dự hội làng, nhờ
sự giúp đỡ của Bụt, Tấm trở thành hoàng hậu, mẹ con Cám ghen tức, giết chết Tấm
và đưa Cám thay Tấm, Tấm hóa thân nhiều lần, mỗi lần hóa thân lại bị mẹ con Cám
tiêu diệt, cuối cùng hóa thân thành quả thị sống với bà lão hàng nước ở xa hoàng
cung; cuối cùng Tấm gặp lại vua , trở về cung trừng trị mẹ con dì ghẻ. Truyện
truyền kì cũng có chung mô hình cốt truyện như thế. Mở đầu mỗi truyện, các tác giả
dùng vài dòng giới thiệu về tên tuổi, lai lịch, tính cách nhân vật, sau đó là nêu lên
biến cố mà nhân vật gặp phải, diễn biến sự kiện xoay quanh nhân vật với biến cố
đó, cuối cùng giải quyết mâu thuẫn, kết thúc truyện. Đó là kiểu mô hình chung mà
ta có thể chứng minh bằng rất nhiều những truyện ngắn cụ thể trong các sáng tác
truyền kì, từ những sáng tác đầu tiên đến những sáng tác xuất hiện sau cùng trong
quá trình phát triển của thể loại. Truyện Tinh chuột trong Thánh Tông di thảo chẳng
hạn. Đoạn đầu tiên là lời giới thiệu ngắn gọn của tác giả về nhân vật chính: Có anh
65
con trai một nhà giàu nọ được cha mẹ cưới vợ cho vào năm hai mươi tuổi. Vợ có
nhan sắc, anh rất yêu. Ngay sau đó, truyện được mở đầu bằng một biến cố: người
chồng từ biệt gia đình đi học. Cùng với biến cố đó là một loạt sự kiện sau đó: sự
kiện đầu tiên: một đêm khuya sau khi đi học được nửa năm, người chồng trở về, bảo
vì nhớ vợ và nói vợ không được cho ai biết, từ đó đêm nào cũng về. Sự kiện tiếp
theo làm cho mâu thuẫn bộc lộ rõ hơn: người vợ ngày một ốm yếu, cha mẹ chồng
tưởng con dâu thương nhớ chồng nên viết thư bảo người chồng trở về, người chồng
trở về và nói lên nỗi niềm thương nhớ, nhưng người vợ vẫn hờ hững, lạnh nhạt
khiến chồng giận dỗi, vợ cũng ấm ức bảo rằng chồng đêm nào cũng về, còn nhớ
nhung gì; người chồng càng giận, cho rằng vợ đã gian díu với tên gian phu giả dạng
mình, vợ uất ức muốn tự tử nhưng có cha mẹ chồng khuyên giải, bênh vực nên thôi.
Sự kiện tiếp theo: mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm: sau khi người chồng từ biệt
cha mẹ, trở về nơi trọ học, người vợ theo lời ba mẹ chồng, gọi người đến bắt trói tên
gian phu khi đêm đó hắn lại đến tìm, cha mẹ cho người gọi người chồng đang học
trở về. Lúc bấy giờ mới thấy hai người giống nhau như một, không tài nào phân biệt
được. Sự kiện cuối nhằm giải quyết mâu thuẫn, đưa đến kết thúc truyện: việc đưa
lên vua, vua nhờ Đổng Thiên vương trợ giúp mà diệt được con chuột thành tinh đã
giả dạng người chồng. Ta thử xem xét một ví dụ khác, Chuyện chức phán sự đền
Tản Viên trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Sau lời giới thiệu về nhân vật
Ngô Tử Văn, tác giả nêu lên biến cố bắt đầu câu chuyện: bất bình trước việc ngôi
đến có tiếng là linh ứng, nay lại có yêu quái quấy nhiễu, Ngô Tử Văn đã đốt đền tà
để trừ hại cho dân. Biến cố này kéo theo những sự kiện sau đó: Ngô Tử Văn bị hồn
ma Bách hộ họ Thôi de dọa, Thổ thần nước Việt hiện ra bày cách cho Ngô Tử Văn
đối phó với Bách hộ họ Thôi; Ngô Tử Văn bị bắt xuống âm cung vì Bách hộ họ
Thôi đã kiện chàng, vu khống chàng với Diêm Vương; Tử Văn khẳng khái đối chất,
sự thật được sáng tỏ, họ Thôi bị trừng trị, Tử Văn được hưởng phần xôi thịt cúng tế
của dân làng; kết thúc truyện là việc Tử Văn nhận chức phán sự đền Tản Viên. Đọc
và phân tích một số truyện ngắn truyền kì khác trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục , Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục… ta đều có thể thấy được mô hình
66
này, chẳng hạn như các truyện Duyên lạ xứ Hoa, Chuyện lạ nhà thuyền chài (Thánh
Tông di thảo), Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu, Chuyện Từ Thứ lấy vợ tiên,
Chuyện người con gái Nam Xương… (Truyền kì mạn lục), An Ấp liệt nữ, Hải khẩu
linh từ (Truyền kì tân phả), Chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp Báo Ân, Ông Tiên ăn
mày… (Lan Trì kiến văn lục)…Đây là mô hình cốt truyện chung của truyện truyền
kì. Tham khảo bài viết Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo
của Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục của tác giả Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn
học và Ngôn ngữ), kết hợp với những tìm hiểu của mình, chúng tôi nhận thấy, đi
vào cụ thể, có thể chia thành các kiểu mô hình cốt truyện trong truyền kì, rất gần gũi
với truyện dân gian, như sau:
- Kiểu truyện người trần lạc vào thế giới khác (thế giới tiên cảnh, địa phủ, thủy
cung…). Trong kiểu truyện này, cốt truyện thường xoay quanh việc con người lạc
bước vào thế giới khác, gặp gỡ các nhân vật siêu nhiên, sống cùng nhân vật siêu
nhiên trong không gian kì ảo đó. Các truyện Duyên lạ xứ Hoa (Thánh Tông di
thảo), Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào, Chuyện
Lý tướng quân (Truyền kì mạn lục), Nguyễn Quỳnh (Lan Trì kiến văn lục).
- Kiểu truyện con người chủ động tìm đến cõi khác để đấu tranh cho lẽ phải.
Minh họa cho loại cốt truyện này có thể kể đến Chuyện đối tụng ở Long cung,
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Truyền kì mạn lục).
- Kiểu truyện những nhân vật thuộc thế giới khác đến cõi người, có khi là để
dụ dỗ, mê hoặc; có khi là để kết duyên, có khi chỉ là trò chuyện văn chương đạo lí
hoặc giúp đỡ. Có thể kể đến các truyện như Tinh chuột, Hai gái thần, Chồng dê
(Thánh Tông di thảo ), Chuyện cây gạo, Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang (Truyền
kì mạn lục ), Vân Cát thần nữ, Bích Câu kì ngộ (Truyền kì tân phả), Yêu quái trên
cây (Lan Trì kiến văn lục)…
- Kiểu truyện nhân vật lạc vào giấc mơ, giấc mơ tạo nên cốt truyện chính của
truyện, những sự kiện, hành động, lời đối thoại của các nhân vật đều hoàn toàn là
trong giấc mơ. Ví dụ như truyện Câu chuyện ở đền Hạng Vương, Chuyện yêu quái
ở Xương Giang, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (Truyền kì mạn lục).
67
- Kiểu truyện nhân vật chính gặp những bất công, oan trái, bất hạnh trong cuộc
đời thực dẫn đến phải tự vẫn, nhưng cuối cùng được sống ở cõi tiên, như Chuyện
người nghĩa phụ Khoái Châu, Chuyện người con gái Nam Xương (Truyền kì mạn
lục ), truyện Hải khẩu linh từ, An Ấp liệt nữ (Truyền kì tân phả).
Tuy nhiên, không phải mỗi truyện đều theo một kiểu cốt truyện độc lập. Trong
nhiều trường hợp, ta có thể thấy sự đan xen những kiểu cốt truyện trong cùng một
truyện. Truyện Duyên lạ xứ Hoa trong Thánh Tông di thảo chẳng hạn. Chàng Chu
sinh được đón đến Hoa quốc, xứ sở của tiên bướm thông qua những giấc chiêm bao,
chiêm bao nhưng lại rất thật, những sự kiện diễn ra trong những giấc mộng đều là
thật cả: chàng làm phò mã Hoa quốc, sau Hoa quốc có biến, chàng phải tạ từ, trở lại
với cuộc sống ở cõi trần, một thời gian sau lại được đoàn tụ với nàng bướm tiên
Mộng Trang, vợ chàng; khi biết mình sẽ trở thành chúa Hoa quốc, chàng thu xếp
việc nhà rồi mất để đến đó. Có thể thấy, truyện ngắn này đan cài giữ loại cốt truyện
về giấc mơ với cốt truyện người lạc cõi khác. Ngoài ra, có thể kể đến Chuyện gã trà
đồng giáng sinh trong Truyền kì mạn lục. Truyện ngắn này có những lớp truyện nối
tiếp nhau, trong mỗi lớp truyện, ta lại thấy có một kiểu cốt truyện khác. Lớp truyện
thứ nhất là kiểu cốt truyện về giấc mơ với sự việc Dương Đức Công trong lúc hôn
mê, thấy mình được đến Phong đô, xét ông hay làm việc thiện, Diêm Vương cho về,
sống thêm hơn hai mươi năm, có được một con trai. Lớp truyện thứ hai kể về việc
Thiên Tích, con trai của Dương Đức Công, trong lúc nghèo khổ lại được làm rể nhà
giàu, việc này do hồn Thạch đại phu, chịu ơn Dương Đức Công, sắp xếp; người vợ
ấy là Hán Anh, con gái Thạch đại phu. Ở đây ta thấy dáng dấp của kiểu kết thúc có
hậu thường gặp trong truyện dân gian (có điều, trong truyện này là kết thúc một lớp
truyện). Lớp truyện thứ ba là câu chuyện Dương Thiên Tích gặp đạo sĩ, vốn là bạn
kiếp trước, rồi nhận ra mình kiếp trước là gã trà đồng hầu thượng đế. Lớp truyện
cuối là kiểu truyện người gặp yêu ma quấy phá với việc Thiên Tích đi qua cửa Khẩu
Hải bỗng gặp hàng trăm giống ma quái kéo đến quấy phá, được cố nhân kiếp trước
cứu mà an toàn. Sự đan xen nhiều lớp truyện với những kiểu cốt truyện khác nhau
như vậy cũng không phải khó tìm trong truyện dân gian, đặc biệt là truyện cổ tích,
68
như truyện cổ tích Thạch Sanh, Sọ Dừa, Tấm Cám… Ví như truyện Thạch Sanh
chẳng hạn. Lớp truyện thứ nhất liên quan đến kiểu truyện người tiên xuống cõi trần
với sự việc con trai Ngọc Hoàng đầu thai làm Thạch Sanh, con trai của hai vợ
chồng già hay làm việc nghĩa, như một sự đền đáp cho những con người nhân đức
này. Lớp truyện thứ hai là kiểu truyện người chống lại yêu ma với việc Thạch Sanh
chém chằn tinh, diệt đại bàng cứu công chúa. Lớp truyện thứ ba thuộc kiểu truyện
người lạc thủy phủ với việc Thạch Sanh cứu con vua thủy tề, được mời xuống thủy
cung chơi và được tạ ơn. Lớp truyện thứ tư kể việc Thạch Sanh bị hồn chằn tinh, đại
bàng hại nhưng nhờ cây đàn vua thủy tề cho mà thoát nạn, lại còn giúp được vua
dẹp giặc, được vua gả công chúa cho. Nối kết các lớp truyện này là sự việc Lí
Thông hãm hại Thạch Sanh hết lần này đến lần khác, đẩy chàng vào chỗ chết khi
lừa Thạch Sanh đến chỗ chằn tinh, lắp cửa hang nhốt Thạch Sanh, cướp công diệt
đại bàng… Quả thật là có sự tương đồng trong mô hình cốt truyện dân gian với mô
hình cốt truyện của các truyện truyền kì. Điều này như một dấu ấn cho thấy truyền
kì chính là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết trong loại hình tự sự. Một
vài minh chứng trên phần nào cho thấy sự tiếp biến những truyền thống dân gian
trong các sáng tác truyền kì, từ đó, giúp cho thể loại này giữ một vị trí quan trọng
trong tiến trình văn học Việt Nam.
Một trong những điểm khác biệt về nghệ thuật giữa văn xuôi tự sự dân gian, văn
xuôi tự sự trung đại – trong đó có truyền kì - với văn xuôi tự sự hiện đại là trong các
tác phẩm văn xuôi hiện đại, kết cấu truyện thường khá phức tạp, có kiểu kết cấu
theo dòng ý thức, có kiểu kết cấu truyện nằm trong truyện, có kiểu kết cấu theo
dạng hồi tưởng, kết cấu tâm lí, … chứ không nhất thiết phải kết cấu theo trình tự
thời gian; trong khi đó, phần lớn các truyện ngắn truyền kì có kết cấu theo trật tự
tuyến tính khá đơn giản, diễn biến truyện được kể theo trình tự thời gian, sự việc
nào xảy ra trước kể trước, sự việc nào xảy ra sau kể sau. Đây cũng là kiểu kết cấu
của truyện dân gian. Truyện thường có kết cấu ba phần: mở đầu giới thiệu chung về
nhân vật, phần giữa là nội dung chính kể về diễn biến những sự kiện theo trình tự
thời gian, cuối cùng là kết thúc truyện. Có thể lấy hầu hết các truyện trong các sáng
69
tác truyền kì này để minh chứng cho điều này, từ Tinh chuột, Duyên lạ xứ Hoa,
Chuyện lạ nhà thuyền chài… (Thánh Tông di thảo), Chuyện người nghĩa phụ Khoái
Châu, Chuyện kì ngộ ở Trại Tây, Chuyện đối tụng ở Long Cung, Chuyện nghiệp
oan của Hàn Thị… (Truyền kì mạn lục), đến Hải khẩu linh từ, An Ấp liệt
nữ…(Truyền kì tân phả), Chuyện tình ở Thanh Trì, Tháp Báo Ân, Liên Hồ quận
công, Lan quận công phu nhân… (Lan Trì kiến văn lục). Có lẽ không cần phải tóm
tắt thêm các truyện truyền kì mới thấy điều này vì đã quá rõ ràng. Ví như Chuyện lạ
nhà thuyền chài chẳng hạn. Truyện mở đầu bằng việc giới thiệu về lai lịch của Thúc
Ngư, nhân vật chính, tiếp theo đó là những sự việc Thúc Ngư không chịu học mà
hay bỏ nhà đi, bảo là đi tìm vợ; đến việc cha mẹ Thúc Ngư gặp được Ngọa Vân, vợ
Thúc Sinh trong một lần đi đánh cá rồi được Ngọa Vân đưa về, tiếp theo là kể về lễ
cưới của Thúc Ngư và Ngọa Vân, kết thúc bằng việc Ngọa Vân nhờ phép tiên cứu
được cả gia đình chồng khỏi trận bão dữ nhưng vì vậy mà phải chịu phạt ở Long
cung nên từ biệt chồng ra đi… Tất cả những sự kiện này được kể lại tuần tự trước
sau theo diễn biến thời gian của câu chuyện, không có sự đảo ngược trình tự kể hay
xen vào đoạn hồi tưởng như một số truyện hiện đại. Chuyện nghiệp oan của Đào
Thị cũng kể tuần tự theo diễn biến cuộc đời danh kỹ Hàn Than từ lúc được tuyển
làm cung nhân đến khi vào chùa Lệ Kì, gặp sư Vô Kỉ rồi yêu nhau và đến việc hai
người mất đi, đầu thai thành làm hai người con của Nhược Chân để trả thù và bị sư
Pháp Vân trừng trị. Chuyện Hải khẩu linh từ kể về cung phi Bích Châu cũng theo
diễn biến những sự kiện lớn cuộc đời bà từ lúc được tuyển vào cung đến việc bà tự
dâng mình làm vật tế thần cứu vua rồi đến việc sau khi mất, hiển linh cứu đời, giúp
nước. Chuyện tình ở Thanh Trì của Vũ Trinh cũng kể về câu chuyện tình của chàng
học trò nghèo với cô gái nhà giàu họ Trần theo trình tự diễn biến của cuộc tình đó:
từ lúc họ mới gặp nhau cho đến lúc tình duyên bị chia cắt, chàng trai bỏ đi, cô gái
chết, trái tim hóa thành khối đá đỏ, và kết thúc với việc chàng trai trở về, xúc động
trước chân tình của người yêu, nước mắt rơi xuống khối đá, làm đá tan chảy thành
máu. Và như vậy, câu chuyện cũng được kết cấu theo trình tự thời gian tuyến tính.
Kiểu kết cấu theo trình tự thời gian khiến câu chuyện phát triển đơn giản, dễ theo
70
dõi, nhưng cũng dễ rơi vào đơn điệu.
Cùng với kiểu kết cấu theo trình tự thời gian này, một kiểu kết cấu khác cũng rất
hay gặp trong các sáng tác dân gian mà ta cũng có thể thấy trong sáng tác truyền kì,
đó là kiểu kết cấu hai tuyến đối lập. Thật ra, hai kiểu kết cấu này thường lồng vào
nhau, không tách rời nhau trong một truyện. Nghĩa là truyện đồng thời được kể theo
trình tự thời gian, đồng thời trong truyện có hai tuyến nhân vật đối lập: thiện và ác.
Khi một truyện ngắn là đan lồng giữa hai kiểu kết cấu này thì diễn biến truyện được
kể theo trình tự thời gian với những sự kiện thể hiện sự mâu thuẫn, xung đột của hai
tuyến nhân vật và kết thúc truyện thường là kết thúc có hậu theo đúng quan niệm
của người xưa: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo. Chẳng hạn Chuyện nàng Túy Tiêu,
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Truyền kì mạn lục), truyện Ông tiên ăn mày
(Lan Trì kiến văn lục) được xây dựng theo kiểu kết cấu này. Ở Chuyện nàng Túy
Tiêu, Túy Tiêu và Nhuận Chi là những nhân vật đại diện cho cái thiện, trong khi đó
Thân Trụ quốc là nhân vật ở tuyến đối lập, tuyến nhân vật ác. Câu chuyện xoay
quanh việc Túy Tiêu và Nhuận Chi gặp nhau rồi yêu nhau và đã cố gắng đấu tranh
như thế nào với Thân Trụ quốc để được đoàn tụ sau khi Túy Tiêu bị Thân Trụ quốc
bắt đi, và kết thúc bằng việc Túy Tiêu đoàn tụ với Nhuận Chi, Nhuận Chi đậu tiến
sĩ, Trụ quốc bị trừng phạt. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên cũng được kết cấu
theo tuyến nhân vật như thế. Theo đó, đại diện cho cái thiện, cho chính nghĩa là
chàng Ngô Tử Văn khẳng khái, cương trực, ghét sự gian tà; đại diện cho cái ác, sự
phi nghĩa là nhân vật Bách hộ họ Thôi khi sống là giặc cướp nước, khi chết làm ma
hại người. Câu chuyện diễn ra theo trình tự thời gian với cuộc đấu tranh không
khoan nhượng của Tử Văn trước yêu ma: đốt cháy đền tà, bị Bách hộ họ Thôi đe
đọa, vu cáo, nhưng vẫn cứng cỏi đối chất, phơi bày bộ mặt xảo quyệt của Bách hộ,
kết thúc với việc kẻ ác - Bách hộ họ Thôi phải trả giá: bị đày vào ngục Cửu U, hài
cốt bị đánh tan tành, cái thiện chiến thắng và được vinh danh: Tử Văn được hưởng
xôi thịt cúng tế của dân làng, được làm phán sự đền Tản Viên. Hai tuyến nhân vật
đối lập trong Ông tiên ăn mày lại là hai anh em. Người anh thuộc tuyến nhân vật
phản diện: tham lam, bất nhân; người em thuộc tuyến nhân vật chính diện: từ tâm,
71
lương thiện. Diễn biến truyện theo trình tự thời gian dẫn dắt người em và người đọc
đến với hạnh phúc mà chàng xứng đáng có được nhờ tấm lòng thơm thảo của mình:
được ông Tiên giả dạng ăn mày ban cho vàng bạc, trở nên giàu có; và người anh vì
tham lam, ác độc nên bị trừng phạt bằng bản án thích đáng của quan trên dành cho
hắn vì tội đánh người.
Kiểu kết cấu này cho thấy truyền kì chưa hoàn toàn thoát khỏi đặc điểm kết cấu
loại hình tự sự trung đại dưới sự ảnh hưởng của văn học dân gian. Nhưng với kiểu
kết cấu đó, các tác giả đã phần nào cho thấy thực trạng xã hội đương thời với đầy đủ
những mặt tốt xấu của nó và thể hiện được tư tưởng nhân đạo bắt nguồn sâu rộng từ
văn học dân gian: ước mơ một xã hội công bằng tốt đẹp, trân trọng những tình cảm,
phẩm chất đáng quý của con người, đặc biệt là những con người bình thường trong
xã hội phân chia giai cấp nhiều bất công.
Tuy nhiên, khi nói kết cấu của truyện truyền kì chịu ảnh hưởng của truyện dân
gian, chúng tôi không có ý phủ nhận sự sáng tạo của các tác giả truyền kỳ trong
nghệ thuật xây dựng kết cấu truyện. Một điều rõ ràng là, phần lớn các truyện ngắn
truyền kì được kết cấu theo trật tự thời gian đơn tuyến nhưng vẫn có, tuy không
nhiều, những truyện ngắn truyền kì đã xây dựng được một kết cấu truyện độc đáo
hơn, linh hoạt sáng tạo hơn từ đó tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm nói chung và của
thể loại nói riêng.
2.2.2. Truyện truyền kì sử dụng những mô – tip dân gian
Môtip là thuật ngữ văn học nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn hoặc
nhỏ đã được hình thành ổn định bền vững và được sử dụng nhiều lần trong các
sáng tác văn học nghệ thuật. [19,tr.197] Trong các truyện cổ dân gian, ta dễ bắt gặp
những chi tiết, hình ảnh… xuất hiện trở đi trở lại trong những truyện khác nhau như
sự thụ thai thần kì, ra đời kì lạ của nhân vật chính, chi tiết nhân vật nằm mộng được
điềm báo trước, người xuống thủy phủ hoặc lên cõi trời, người đội lốt hoặc có hình
dạng kì lạ… Ta gọi đó là những môtip và những môtip này cũng xuất hiện trong các
sáng tác truyền kì, chứng minh cho sự ảnh hưởng của văn học dân gian lên thể loại
này. Có thể kể ra ở đây một số môtip văn học dân gian được tìm thấy nhiều trong số
72
75 truyện ngắn truyền kì mà chúng tôi khảo sát:
Tên tác phẩm Tên môtip Số lần
xuất hiện
3 Thụ thai, ra đời
thần kì
9
Xuống thủy phủ,
âm
lên
cung,
cung tiên…
9 Nằm mộng được
điềm báo
7
Chuyện gã trà đồng giáng sinh (TKML), Vân
Cát thần nữ (TKTP), Con lai rắn (LTKVL)
Duyên lạ xứ Hoa, Chuyện lạ nhà thuyền chài
(TTDT), Chuyện đối tụng ở Long cung,
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Chuyện
Từ Thức lấy vợ tiên, Chuyện Phạm Tử Hư lên
tướng quân
tào, Chuyện Lí
chơi Thiên
(TKML); Vân Cát thần nữ (TKTP)
Chuyện gã trà đồng giáng sinh, Chuyện
nghiệp oan của Đào thị (TKML); An Ấp liệt
nữ, Hải khẩu linh từ (TKTP), Thần cửa Cần
Hải, Lan quận công phu nhân, Điềm báo
trước, Giấc mộng lạ, Ông Nguyễn Trật
(LTKVL)
Chuyện lạ nhà thuyền chài, Duyên lạ xứ Hoa,
Chồng dê (TTDT), Chuyện cây gạo, Chuyện kì
ngộ ở Trại Tây, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên
(TKML); Bích Câu kì ngộ (TKTP) Duyên kì ngộ
(người gặp và
yêu
tiên/ ma,
quỷ)
Tên mô - tip Tên tác phẩm Số lần
xuất hiện
10
Chết kì lạ (hóa
thành vật, thành
thần, tiên…)
Duyên lạ xứ Hoa, Chồng dê (TTDT), Chuyện
người nghĩa phụ Khoái Châu, Chuyện nghiệp
oan của Đào thị, Chuyện chức phán sự đền
Tản Viên, Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên
tào,Chuyện người con gái Nam Xương,
Chuyện tướng Dạ Xoa (TKML), Hải khẩu linh
từ, An Ấp liệt nữ (TKTP), Chuyện tình ở
Thanh Trì (LTKVL)
Chuyện đối tụng ở Long cung, Chuyện chức
phán sự đền Tản Viên, Chuyện nàng Túy Tiêu
(TKML), Ông Tiên ăn mày (LTKVL) 4
Thưởng,
phạt
(thưởng cho nhân
vật chính diện,
trừng phạt nhân
vật phản diện)
73
Ở đây, xin nói rõ một số điểm. Môtip thụ thai và ra đời thần kì gắn với những
chi tiết lạ lùng, kì dị như người mẹ thấy sao rơi vào bụng rồi thụ thai (như Chuyện
gã trà đồng giáng sinh) hay bị rắn cuốn quanh người rồi có mang (Con lai rắn);
ngày ra đời có hương lạ thơm nức nhà, điềm lành soi ngoài cửa sổ (Vân Cát thần
nữ). Khi nói đến môtip nằm mộng được điềm báo chúng tôi không kể đến trong đây
những truyện lấy giấc mộng làm khung truyện, toàn bộ câu chuyện diễn ra trong
giấc mộng đó, mà chỉ xem xét môtip này như một chi tiết trong truyện, cụ thể hơn là
chi tiết nằm mộng để được báo trước một việc gì đó như: báo trước được sống lâu
hơn và sẽ có con (Chuyện gã trà đồng giáng sinh), báo trước sẽ có sự biến như
trong Hải khẩu linh từ, báo trước sẽ được trùng phùng như An Ấp liệt nữ, báo trước
chuyện thi cử, đường công danh (Lan quận công phu nhân, Điềm báo trước, Giấc
mộng lạ, Ông Nguyễn Trật). Về môtip chết kì lạ chúng tôi muốn đề cập đến việc
nhân vật chính sau khi chết hoặc sẽ biến thành một vật (sự vật/ con vật), hoặc sẽ hóa
thành tiên, thành thần thánh: chết mà tim hóa đá (Chuyện tình ở Thanh Trì), chết rồi
hóa thành con ngỗng vàng (Chồng dê) hay thành rắn (Chuyện nghiệp oan của Đào
thị), chết để nhận chức chúa xứ Hoa (Duyên lạ xứ Hoa), chức phán sự (Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên), thành thần hầu Thượng đế (Chuyện người nghĩa phụ
Khoái Châu, Chuyện người con gái Nam Xương, An Ấp liệt nữ…)
Qua thống kê, ta cũng có thể nhận thấy có thể có nhiều môtip dân gian trong
cùng một truyện. Việc xuất hiện những môtip dân gian này trong các sáng tác
truyền kì một mặt khiến cho thể loại này rất gần gũi, thân thuộc với người đọc, mặt
khác, với tài năng sáng tạo của mình, các tác giả đã dụng công để những môtip ấy
tuy quen thuộc nhưng vẫn hàm chứa những nội dung ý nghĩa sâu sắc.
2.2.3. Cách xây dựng nhân vật trong truyện truyền kì có nhiều điểm giống
cách xây dựng nhân vật trong truyện dân gian:
Nhân vật trong các truyện truyền kì phần lớn có tính cách đơn giản, một chiều.
Tính các đó được bộc lộ qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Đây là điểm khiến
cho truyền kì gần với văn học dân gian hơn là văn học hiện đại. Đọc truyền kì, ta sẽ
ít thấy những giằng xé nội tâm của nhân vật cũng như ít thấy những nhân vật vừa
74
thiện, vừa ác, vừa tốt đẹp vừa xấu xa trong một con người như nhân vật trong các
tác phẩm tự sự của văn xuôi hiện đại. Như các sáng tác truyện cổ dân gian, tác giả
thường giới thiệu trước tính cách nhân vật trong đoạn mở đầu giới thiệu về nhân
vật, sau đó, bằng những lời thoại cùng những thái độ, hành động của nhân vật trước
diễn biến sự việc được kể mà người đọc thấy rõ tính cách, phẩm chất nhân vật như
tác giả đã giới thiệu. Cũng có những truyện, tác giả chỉ giới thiệu về lai lịch, thân
thế, gia cảnh… nhân vật, không giới thiệu tính cách và người đọc sẽ tự nhận ra tính
cách của nhân vật, cũng qua hành động, ngôn ngữ của nhân vật đó. Đọc truyện
Chồng dê trong Thánh Tông di thảo, ta cảm nhận được nhân vật nữ chính trong
truyện là một người con gái hiếu thảo, người phụ nữ đoan chính. Sự hiếu thảo được
khắc họa qua việc cô khước từ mọi lời ngỏ ý cầu hôn vì để tang mẹ, mỗi ngày hai
buổi cúng cơm cho mẹ, khóc lóc thảm thiết và lo lắng không biết ai là người sẽ thay
mình cúng bái mẹ nếu một mai mình đi lấy chồng. Những điều đó khiến người đọc
cảm động về tình cảm hiếu thảo của cô dành cho mẹ. Nết đoan chính của nàng cũng
được thể hiện qua lời nói cân nhắc, hợp tình, hợp lẽ khi dê hóa thành người và bày
tỏ tình cảm với nàng: “Tiền thân chẳng ai biết đâu, nhưng hiện nay nếu người ngoài
biết được thì chả hóa ra tấm thân băng ngọc chỉ một đêm đã nhơ nhuốc hay sao? Ví
phỏng thật có duyên xưa, sao không hiện hẳn làm người? Năm lễ đã xong thì trăm
năm sum họp. Cớ gì ngày làm súc vật, đêm làm vợ chồng? Giả sử có nghén sinh
con, thì chồng dê lại đẻ con dê, chả bõ làm trò cười cho thiên hạ?” [25,tr.190]. Lời
lẽ của nàng cho thấy nàng không phải là người dễ dãi, thích những chuyện trêu hoa
ghẹo bướm, đó là lời nói của người con gái đứng dắn, biết nghĩ trước sau. Đầu
truyện Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu, Nguyễn Dữ nói về Nhị Khanh, nhân
vật chính của truyện như sau: “Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ
Phùng, khéo biết cư xử, với họ hàng rất hòa mục, thờ chồng rất cung thuận. Người
ta đều khen là người nội trợ hiền” [11,tr.21]. Lời giới thiệu của tác giả đã được
khẳng định trong suốt thiên truyện qua mỗi việc làm, lời nói của nhân vật Nhị
Khanh. Khi cha chồng phải đi xa dẹp giặc, Nhị Khanh đã lấy lời lẽ của người con
dâu hiểu đạo hiếu thuận, người vợ hiểu đạo phu thê để khuyên chồng theo săn sóc
75
cha già, lời nàng nói khiến người ta mến phục. Phẩm chất chung thủy của một
người vợ hiền ở Nhị Khanh đã được minh chứng bằng việc sáu năm trời chờ đợi
chồng, không chút thay lòng đổi dạ, dù bị dụ dỗ, o ép và dù chồng không chút tin
tức. Đến khi bị người cô bức bách lấy chồng khác, nàng cho người đi tìm chồng về,
và khi chồng vì ham mê cờ bạc mà dùng nàng làm vật đánh đổi, nàng thà chết chứ
không chịu làm vợ kẻ khác. Nàng Nhị Khanh, cũng như nàng Vũ Nương trong
Chuyện người con gái Nam Xương, khi chọn cái chết đã không hề có chút phân vân,
do dự, băn khoăn. Ta không tìm thấy trong truyện những đoạn kể về cuộc đấu tranh
nội tâm, những mâu thuẫn dằn xé trong chính nhân vật. Các nhân vật trong các sáng
tác truyền kì hầu như hành động, thái độ… đều theo những khuôn mẫu được lập
trình sẵn theo những chuẩn mực lễ giáo của xã hội phong kiến xưa, và nhân vật nào
đi ngược lại những chuẩn mực ấy thường phải nhận những hậu quả đau thương. Vũ
Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương được giới thiệu là người “tính thùy
mị nết na” và trong suốt thiên truyện, nàng đã thể hiện mình là người phụ nữ có đầy
đủ những phẩm chất tốt đẹp theo chuẩn mực lí tưởng của xã hội phong kiến xưa.
Đối với mẹ chồng, nàng hết sức hiếu thảo, giữ đạo dâu con. Khi mẹ chồng bệnh thì
hết sức thuốc thang lễ bái thần Phật, khi mẹ chồng mất thì lo ma chay tế lễ chu đáo
như đối với cha mẹ đẻ; đối với chồng, nàng một lòng chung thủy, giữ đúng cương
thường. Ngày tiễn chồng ra trận, lời lẽ nàng cho thấy nàng yêu chồng bằng một tình
yêu thương thât sự: “không mong chàng được đeo ấn phong hầu, chỉ xin ngày về
hai chữ bình yên”, những ngày chồng xa nhà “nỗi buồn nơi góc bể chân trời không
tài nào vơi được”…, khi bị chồng nghi ngờ, nàng quyết định nhảy xuống sông
Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch, không lưỡng lự, đắn đo. Tất cả những
hành động, việc làm đó đã minh chứng cho lời giới thiệu của tác giả về nhân vật; và
Vũ Nương được xây dựng như một người phụ nữ lí tưởng theo quan niệm xã hội
phong kiến lúc bấy giờ. Nàng cung phi Bích Châu trong Hải khẩu linh từ của
Truyền kì tân phả cũng được xây dựng theo công thức ấy. Bích Châu là hình ảnh
của người phụ nữ tài sắc, lại một lòng trung quân, ái quốc. Tài năng nàng được
minh chứng bằng câu ứng đối tức thời với vua, bằng bài Kê minh thập sách dâng
76
vua khi thấy chính sự quốc gia ngày càng suy kém, tấm lòng trung quân, ái quốc lại
được thể hiện bằng hành động cụ thể: xin đi theo hộ giá vua khi can vua đừng xuất
chinh không được, tự nguyện làm vật hiến thần cho sóng yên bể lặng, cho thuyền
vua an lành, bảo toàn tính mệnh của cả đội quân… Chân dung tính cách nhiều nhân
vật khác trong các sáng tác truyền kì cũng đã được khắc họa theo kiểu cách này.
Điểm này cho thấy sự gần gũi giữa thể loại truyền kì với các thể loại tự sự dân gian
trong việc xây dựng nhân vật, và cũng cho thấy vai trò là chiếc cầu nối giữa văn học
dân gian và văn học viết của truyền kì. Hẳn nhiên, khi nói đến vai trò là chiếc cầu
nối của truyền kì giữa hai bộ phận văn học, chúng ta không chỉ nói đến sự ảnh
hưởng của văn học dân gian lên tác phẩm truyền kì mà còn nói đến sự sáng tạo của
các tác giả khi tiếp nhận những ảnh hưởng ấy, cụ thể ở đây là trong cách xây dựng
nhân vật. Tuy xây dựng nhân vật theo công thức chung của văn học dân gian và văn
học trung đại nói chung, nhưng trong những truyện ngắn truyền kì, tính cách, số
phận nhân vật được thể hiện rõ rệt, sống động hơn; tác giả có nhiều sự dụng công
hơn trong việc dựng những đoạn đối thoại và cả độc thoại của nhân vật, từ đó chân
dung tính cách nhân vật trở nên thuyết phục hơn. Ở chương tiếp theo, chúng tôi sẽ
đi vào bàn sâu hơn về vấn đề này.
77
Chương 3
TRUYỀN KÌ: THỂ LOẠI ĐÁNH DẤU
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI
VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẢ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
3.1. Văn xuôi Việt Nam trước khi thể loại truyền kì xuất hiện
Trước khi những sáng tác thuộc thể loại truyền kì chính thức ra đời với những
tác phẩm như Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục…, văn xuôi tự sự Việt Nam
thời trung đại đã có mặt trên văn đàn, góp một phần quan trọng vào sự phát triển
của nền văn học nước nhà. Các tác phẩm truyện, kí của văn học trung đại đã xuất
hiện từ buổi đầu văn học viết với Ngoại sử kí (Đỗ Thiện), Đại Việt sử kí (Lê Văn
Hưu), Thiền uyển tập anh, Tam Tổ thực lục… Các tác phẩm này đều ra đời từ thế kỉ
XIV trở về trước, trước khi truyền kì có mặt. Nếu những sáng tác truyền kì tiêu biểu
cho thấy được sự gia công sáng tạo đầy tính nghệ thuật của các tác giả, là những tác
phẩm văn học nghệ thuật đích thực thì những tác phẩm này chủ yếu thực hiện chức
năng ghi chép, ghi chép lịch sử dân tộc hoặc ghi chép sự tích, hành trạng của các vị
cao tăng, hoặc có khi là ghi chép, sưu tầm những sáng tác lưu truyền trong dân gian.
Nói như thế chúng tôi không có ý phủ nhận hoàn toàn tính nghệ thuật của các tác
phẩm này mà muốn nhấn mạnh những tác phẩm này nặng tính chức năng hơn là
tính nghệ thuật. Đồng thời chúng cũng phản ánh tình trạng “văn sử bất phân” khá
nổi bật trong văn học nghệ thuật Việt Nam buổi đầu. Ở những tác phẩm này, nếu
xét trên phương diện nghệ thuật, so với những sáng tác truyền kì, có thể nhận thấy
sự cách biệt. Công bằng mà nói, đây là những tác phẩm giàu giá trị sử học hơn là
giá trị văn học. Trong khi đó, ở các tác phẩm truyền kì thật sự, ta nhận thấy sự sáng
tạo nghệ thuật của các tác giả là rất rõ rệt chứ không phải các tác giả chỉ đơn thuẩn
làm công việc ghi chép lại những truyền thuyết, sự tích, những việc kì lạ.
78
Đại Việt sử kí là bộ sử quy mô đầu tiên ở nước ta, được hoàn thành năm 1272,
gồm 30 quyển, chép từ thời Triệu Vũ Đế (207 – 136 trCN) đến Lí Chiêu Hoàng
(1224 – 1226). Dù rằng Đại Việt sử kí đã thất truyền, nhưng ta vẫn có thể thấy phần
nào diện mạo của tác phẩm này qua bộ Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, vì
bộ sách này đã được Ngô Sĩ Liên thừa kế để làm nên một phần Đại Việt sử kí toàn
thư. Đại Việt sử kí toàn thư ghi chép các sự việc xảy ra trong lịch sử theo thứ tự
năm tháng ngày, ghi chép liên tục cả việc lớn lẫn việc nhỏ, nên rất cụ thể, chi tiết.
Nếu Đại Việt sử kí toàn thư dựa theo cách viết của Đại Việt sử kí thì ta có thể thấy
Đại Việt sử kí hẳn cũng ghi chép tỉ mỉ, cụ thể như thế, và như vậy, giá trị lịch sử của
Đại Việt sử kí là không thể phủ nhận. Những lời bình của Lê Văn Hưu trong Đại
Việt sử kí mà Ngô Sĩ Liên còn giữ lại được khi viết Đại Việt sử kí toàn thư cũng
phần nào cho chúng ta thấy cách nhìn nhận, đánh giá của sử gia xưa đối với các
nhân vật và sự kiện lịch sử. Theo Từ điển văn học (Bộ mới), những lời bình sử của
Lê Văn Hưu cho thấy ông không chỉ là một sử gia mà còn là một nhà văn vì những
đoạn bình sử đó phản ánh một khuynh hướng thẩm mĩ nhất quán trong khi bình giá
nhân vật và sự kiện lịch sử. Tuy nhiên, theo chúng tôi, một tác phẩm ghi chép lịch
sử cụ thể, chi tiết đến từng những việc nhỏ và ghi chép liên tục, không có sự hư cấu,
không chú ý về mặt nghệ thuật tự sự thì vẫn giàu giá trị sử học hơn là giá trị văn
học. Còn Đại Việt sử lược là tác phẩm sử học khuyết danh ra đời ở thế kỉ XIV,
khoảng sau năm 1377, có thể đoán đây là quyển sách chép tóm tắt Đại Việt sử kí.
Bởi lẽ, có những đoạn viết rất sơ sài, nhưng cũng có những đoạn viết y hệt như Đại
Việt sử kí toàn thư, quyển sách ra đời sau và được viết dựa trên Đại Việt sử kí. Đây
cũng là một bộ sách giàu giá trị sử học vì đây là bộ sử được chép khá sớm, từ đời
Trần đến nay còn thu giữ được. Qua Đại Việt sử lược, người đọc biết được những
thay đổi buổi đầu của đất nước Đại Việt, biết được lịch sử Việt Nam từ thời Triệu
Đà đến Ngô Quyền, qua nhà Đinh, nhà TIền Lê, đến nhà Lí, khi Lí Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho Trần cảnh. Đại Việt sử lược cho thấy tác giả là người có tinh thần
dân tộc, có ý thức góp phần lưu giữ tài liệu lịch sử cho đời sau. Như vậy, cùng với
Đại Việt sử kí, Đại Việt sử lược là cơ sở để Ngô Sĩ Liên và những tác giả sau này
79
hoàn thành bộ Đại Việt sử kí toàn thư. Chỉ riêng điều này cũng đủ để ta khẳng định
cả hai tác phẩm Đại Việt sử kí và Đại Việt sử lược là những ghi chép giàu giá trị
lịch sử, có đóng góp lớn lao trong việc lưu giữ lịch sử dân tộc.
Cùng với những tác phẩm ghi chép lịch sử dân tộc, trước khi thể loại truyền kì
chính thức xuất hiện còn có những tác phẩm ghi chép hành trạng, cuộc đời các vị
cao tăng, mang chức năng tôn giáo rất rõ rệt. Đó là những tác phẩm như Thiền uyển
tập anh, Tam Tổ thực lục. Phần nhiều các tác giả của những tác phẩm này muốn
trung thành với hiện thực, muốn tỏ ra những tác phẩm của mình đúng sự thật nên
thường ít có những sáng tạo, tưởng tưởng. Các sáng tác này rất có ích cho việc
nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử tôn giáo ở nước ta. Đồng thời qua những sáng tác này,
ta thấy được những triết lí Phật giáo. Trong Tam Tổ thực lục điều đó thể hiện ở bài
luận thuyết mang tính duy lí của Pháp Loa, trong Thiền uyển tập anh thể hiện qua
những đoạn đối thoại, truyền giảng về giáo lí, các công án thiền… Nhìn nhận một
cách khách quan, như trong phần Các giai đoạn phát triển của truyền kì chúng tôi
đã đề cập, Tam Tổ thực lục, Thiền uyển tập anh khi ghi chép hành trạng các vị cao
tăng vẫn có những yếu tố hoang đường, kì ảo gắn với sự ra đời hay viên tịch của
nhân vật chính, nhằm để thần thành hóa nhân vật như vẫn thấy trong truyền thuyết
dân gian. Tuy nhiên, những tác phẩm này phần nhiều vẫn là những ghi chép tiểu sử
khô khan, vắn tắt nên ngoài giá trị tôn giáo, lịch sử, các tác phẩm này không thực sự
hấp dẫn.
Những tác phẩm trên được tác giả Nguyễn Đăng Na xếp vào loại theo xu hướng
lịch sử. Những sáng tác này, về cơ bản bám sát lịch sử, lấy nhân vật lịch sử và sự
kiện lịch sử làm đối tượng phản ánh. Những nhân vật lịch sử ở đây là những người
tác động đến lịch sử dân tộc và lịch sử dân tộc ở đây cũng hiểu theo nghĩa rộng là
những gì liên quan đến đời sống người Việt, trong đó có tôn giáo.
Cùng với những bộ sách ghi ghép lịch sử dân tộc, lịch sử tôn giáo, trước khi
truyền kì xuất hiện, văn xuôi tự sự Việt Nam còn có sự góp mặt của các tác phẩm
vốn là những công trình ghi chép, sưu tầm những truyện cổ được lưu truyền trong
dân gian. Nếu những sáng tác kể trên chưa thoát khỏi văn học chức năng thì những
80
tác phẩm được nói ở đây chưa thoát khỏi văn học dân gian. Tiêu biểu cho tác phẩm
loại này là Lĩnh Nam chích quái. Đây là công trình sưu tầm những truyện cổ, chủ
yếu là truyền thuyết từ thời xa xưa của dân tộc ta. Đó có thể là truyện về nguồn gốc
dân tộc Việt (Họ Hồng Bàng), về quá trình chinh phục tự nhiên, mở rộng địa bàn cư
trú (Thần núi Tản Viên, Ngư tinh, Hồ tinh…) đến chuyện đánh giặc cứu nước (Đổng
Thiên Vương). Những truyền thuyết này từ lâu đã được lưu truyền trong dân gian,
nay được tác giả Lĩnh Nam chích quái tập hợp hệ thống lại. Là công trình sưu tầm
tác phẩm dân gian, Lĩnh Nam chích quái chưa thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả.
Những yếu tố nghệ thuật trong Lĩnh Nam chích quái là nghệ thuật dân gian, chưa
thể hiện rõ chất văn chương bác học như những tác phẩm truyền kì sau này.
Có thể xem Việt điện u linh là một kiểu tác phẩm trung gian giữa Đại Việt sử kí
toàn thư, Tam Tổ thực lục, Thiền uyển tập anh với Lĩnh Nam chích quái. Là một tác
phẩm ghi chép sự tích các vị thần được thờ phụng, trong đó đa phần là nhân vật lịch
sử như Phùng Hưng, Lí Nam Đế, Hai Bà Trưng, … với nhiều chi tiết hoang đường,
Việt điện u linh được xem là tác phẩm theo xu hướng lịch sử đi theo con đường thần
thánh hóa nhân vật theo quan điểm và tín ngưỡng dân gian. Tác phẩm một mặt ghi
chép những sự kiện, nhân vật lịch sử trên tiêu chí bám sát hiện thực, mặt khác lại
phản ánh những sự kiện, nhân vật đó dưới cái nhìn của dân gian nên theo chúng tôi,
cốt truyện của Việt điện u linh gần gũi với sáng tác dân gian hơn là văn chương bác
học.
Mặc dù những tác phẩm tự sự trước khi thể loại truyền kì chính thức ra đời chưa
thoát khỏi văn học dân gian hay văn học chức năng (chức năng hành chính, chức
năng tôn giáo), nhưng chúng không phải là không có ý nghĩa đối với sự xuất hiện và
phát triển của thể loại truyền kì. Những yếu tố hoang đường kì ảo mang tính mô –
tip trong Lĩnh Nam chích quái, Tam Tổ thực lục, Thiền uyển tập anh là những gợi ý
nghệ thuật, là cơ sở cho sự ra đời của loại truyện truyền kì. Những nội dung yêu
nước, hiện thực đời sống nhân dân được phản ánh trong các tác phẩm này cũng có
thể xem là gợi ý đề tài cho các tác giả truyền kì sau này. Vì vậy, khi nói truyền kì
đánh dấu sự phát triển của văn xuôi tự sự thời trung đại ta không thể không nói đến
81
những sáng tác tự sự của văn học trung đại trước khi thể loại này xuất hiện. Có xem
xét đến những sáng tác này, ta mới có cái nhìn khách quan và liên tục về tiến trình
phát triển của truyền kì.
3.2. Truyền kì đánh dấu sự phát triển của văn xuôi tự sự trung đại
3.2.1. Nội dung truyền kì giàu giá trị yêu nước, đậm chất hiện thực và thấm
đẫm nhân đạo
3.2.1.1. Nếu chủ nghĩa yêu nước là nội dung quan trọng, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt lịch sử văn học Việt Nam thì tình cảm yêu nước thương dân là một trong
những tình cảm lớn đầu tiên mà ta có thể nhận thấy trong những sáng tác thuộc thể
loại truyền kì. Tình cảm yêu nước ấy được thể hiện trên nhiều phương diện khác
nhau: có khi là những suy tư trăn trở trước tình hình xã hội, trước cảnh sống của
nhân dân ở một vị vua hiền, có khi là sự tự nguyện hi sinh vì đất nước, có khi là nỗi
băn khoăn trước vận mệnh đất nước và mong muốn thay đổi triều chính đang suy
yếu, có khi là niềm tự hào về nhân tài đất nước… Tình cảm ấy có thể gặp ở những
con người thuộc các thành phần, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Đó có thể là một
người đứng đầu trăm họ, đó cũng có thể là một nhà Nho không gặp thời muốn bảo
toàn tiết tháo đành lánh đục về trong, đó có thể là một cung phi, thậm chí là một
người phụ nữ bình thường mà trách nhiệm quan trọng theo quan niệm xã hội phong
kiến chỉ là tề gia nội trợ … Những con người ấy tuy khác nhau về giai cấp, tầng lớp,
nhưng đều là những con người nghĩ cho dân, cho nước, góp sức mình bảo vệ đất
nước theo cách này hay cách khác.
Thương dân là yêu nước. Tình yêu nước không tách khỏi lòng thương dân. Ở
cương vị là một đức vua đứng đầu đất nước, tình cảm ấy được thể hiện qua nỗi lo
lắng trước tình hình xã hội bất an, nhân dân khổ sở và vì vậy mong dẹp yên những
rối loạn, trả lại sự yên bình cho dân. Nỗi lòng ấy của vua Lê Thánh Tông được gửi
qua những suy tư trước một sự việc cụ thể. Khi xử vụ án con chuột thành tinh giả
làm người, gây rối hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ, vua nghĩ: “Mình là người đứng
đầu thần dân, nếu không xét ra cái án ma này, thì bố mẹ người thêm một đứa con
ma, vợ người thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là ma sau này không khỏi sinh vạ
82
khác” [25,tr.162] Và không phải chỉ suy tư, mà phải hành động: thắp hương nhờ
Đổng Thiên Vương giúp sức. Việc làm đó của vua đã giúp phân rõ trắng đen, trả lại
sự yên vui cho gia đình người bị hại. Điều đó, nếu không xuất phát từ tình thương
dân thì còn là gì? Tấm lòng vì dân, mong dân no ấm còn được thể hiện qua việc
phát chẩn cứu dân khi dân gặp phải thảm nạn lũ lụt (truyện Hai Phật cãi nhau):
“Năm Quý Tỵ lụt to. Những nơi nước đến, rắn rết bò lên ngọn cây, người ta phải
nuôi gà, chó trên cành. Đền chùa phần nhiều bị nước cuốn đi hoặc là đổ nát. Ngày
27 tháng tám nước rút, ta đi thuyền xem xét nơi nào bị thiệt hại thì chẩn cấp cho
dân” [25,tr.154]. Lo cho cuộc sống của dân chúng là đạo của người làm vua. Nhưng
không phải ai cũng thực thi được cái đạo ấy nếu không thực sự có lòng vì dân, vì
nước. Lòng yêu nước trong Thánh Tông di thảo còn thể hiện qua tình cảm căm ghét
giặc xâm lược đã vơ vét sông hồ, đào khoét núi non, làm hại muôn vật trong truyện
Hai gái thần.
Nhắc đến Truyền kì mạn lục là nhắc đến một tác phẩm mở đầu cho trào lưu nhân
đạo chủ nghĩa của văn học trung đại. Nhưng đọc Truyền kì mạn lục, ta không quá
khó để tìm thấy những truyện ngắn thể hiện tình yêu nước, có khi rõ rệt, cụ thể; có
khi kín đáo. Yêu nước nên mong muốn góp phần mình giết giặc cứu nước, nếu
không thể tự mình thực hiện mong muốn đó thì di nguyện lại cho chồng, con. Ấy là
nàng Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu. Mất rồi, gặp lại chồng
bằng linh hồn sau khi mất, Nhị Khanh khuyên chồng: “Thiếp thường theo chầu tả
hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ Triều sẽ
hết vào năm Bính Tuất, binh cách nổi lớn, số người bị giết chóc đến chừng hơn hai
mươi vạn, ấy là chưa kể đến số bị cướp đi. Nếu không phải là người trồng cây đức
đã ăn sâu thì chỉ e ngọc đá đều cháy cả. Bấy giờ có vị chân nhân họ Lê, từ miền tây
nam xuất hiện; chàng hãy khuyên hai con bền chí đi theo vị ấy, thiếp dù chết cũng
không nát” [11,tr.33]. Về sau, hai người con của Nhị Khanh theo lời mẹ, phò tá Lê
Lợi khi ông tuốt gươm dấy nghĩa ở Lam Sơn. Tình yêu nước trong Truyền kì mạn
lục cũng thể hiện qua tình cảm gắn bó với quê hương bản quán và tiết tháo cao cả
của nàng Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương: “Thà chết rấp ở ngòi lạch, gần gũi với
83
quê hương còn hơn là sang làm những cô hồn ở bên đất Bắc” [11,tr.249]. Đó là lời
của Lệ Nương trước khi tự tận lúc bị tướng giặc bắt về Trung Quốc, là lời lẽ đầy khí
tiết của một trang nhi nữ. Tình yêu nước còn được thể hiện qua tinh thần dân tộc
trong một số truyện ngắn của Truyền kì mạn lục. Tinh thần dân tộc ấy bộc lộ khá rõ
qua việc chọn đối tượng đả kích phê phán là một tên tướng giặc bại trận như trong
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Tinh thần dân tộc, tấm lòng vì dân cũng được
gửi trong lời bàn về đạo làm vua của quan Thừa chỉ Hồ Tông Thốc với vua Hạng
Võ trong Câu chuyện ở đền Hạng vương. Lời bàn của Hồ công vừa đề cao đức nhân
của người cai trị, vừa phê phán cách làm vua của Hạng vương: “Phàm xoay cái thế
thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức, thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải
ở bạo. Nhà vua thì chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương cường làm đức. Chém Tống
Nghĩa là một tướng mạnh, vô quân đến đâu! Giết Tử Anh là người đã hàng, bất võ
quá lắm! Hàn Sinh vô tội mà bị luộc, hình pháp trái thường; A Phòng vô cố mà bị
thiêu, hung uy quá tệ. Cứ như những việc của nhà vua làm thì được lòng người
chăng? Hay mất lòng người chăng?” [11,tr.14] Khẳng khái chê trách cả chính sách
trị dân của vua một đất nước vẫn xem mình là nước thiên tử, lời Hồ Tông Thốc, hay
chính lời Nguyễn Dữ gợi nhắc ta nhớ đến những lời hùng hồn của Nguyễn Trãi
trong Bình Ngô đại cáo khi xưa. Lời khẳng khái ấy hẳn có cội nguồn từ lòng tự tôn
dân tộc, tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
Tình cảm yêu nước trong Truyền kì tân phả lại càng khiến người đọc trân trọng
hơn khi nó được thể hiện ở người phụ nữ, ở đây là một cung phi, cung phi Bích
Châu, thuộc những người vốn bị xã hội phong kiến đặt để cho nhiệm vụ tề gia, nội
trợ, không được can dự vào việc quốc gia đại sự. Trước tình cảnh chính sự quốc gia
ngày càng suy kém, nàng Bích Châu dâng bài Kê minh thập sách, hiến kế trị nước.
Lời bàn của nàng không chỉ chứng tỏ một trí tuệ sáng suốt, tư chất hơn người mà
còn biểu thị một tấm lòng trung quân, ái quốc, vì dân. Trong mười điều can vua,
ngoài những điều bàn về cách kén quân, chọn tướng, dùng khí giới, bày trận pháp,
là những điều bàn về cách làm yên lòng dân, lo cho dân có cuộc sống an vui, trừ
bọn tham nhũng, lạm quyền. Những điều bàn đến, như chính Kê minh thập sách đã
84
khẳng định, rất thiết thực, tỏ bày tấm lòng trung của nàng Nguyễn Cơ Bích Châu.
Khi nhà vua muốn đánh Chiêm Thành, một lần nữa nàng lại làm bài biểu dâng lên
để can ngăn và một lần nữa, tình cảm sâu nặng với dân nước của nàng lại được
minh chứng. Trong bài biểu, nàng nói về đạo trị nước, qua đó, đề cao lòng nhân của
vua đối với dân: “Vả lại, trị đạo gốc trước, ngọn sau, xin nghỉ binh cho dân chúng
yên hàn, trị cái rắn dùng mềm, phục người xa lấy đức” [25,tr.332]. Ở đây, ta gặp lại
tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với lí tưởng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi
trong Bình Ngô đại cáo: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo
trừ bạo. Lòng yêu nước của cung phi Bích Châu càng tỏa rạng với hành động tự
nguyện hi sinh thân mình tế thần cho vua và quân lính được yên ổn và lời di nguyện
thiết tha: “Sau khi thiếp chết, xin bệ hạ sửa văn, nghi võ, kén dùng người hiền, làm
điều nhân nghĩa, dựng chước dài lâu cho nước nhà. Được như thế thì u hồn thiếp có
thể ngậm cười nơi chín suối!” [25,tr.334] Tình cảm yêu nước ấy bất tử cùng thời
gian, được muôn đời ngợi ca.
Một vài minh chứng trên phần nào đã cho ta thấy tình cảm yêu nước là một
trong những nội dung lớn của sáng tác truyền kì. Nếu kể cả những tác phẩm mang
dáng dấp của thể loại truyền kì buổi đầu như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích
quái…, nội dung này càng nổi bật. Tình cảm ấy gắn liền với niềm tự hào, tự tôn dân
tộc: tự hào về nguồn gốc Tiên Rồng, tự hào vì đất nước địa linh nhân kiệt, có những
con người anh hùng sẵn sàng vị quốc vong thân, ngay cả khi thác rồi vẫn hiển linh
giúp nước giúp dân như Bố Cái đại vương (Việt điện u linh), như Trương Hống,
Trương Hát (Lĩnh Nam chích quái)…
Nối tiếp truyền thống yêu nước đã có từ rất lâu trong văn học dân gian, các tác
giả truyền kì, bằng tài năng sáng tạo, bằng tấm lòng của những kẻ sĩ chân chính đã
chuyển tải chủ nghĩa yêu nước trong các sáng tác truyền kì của mình vừa chân thật,
cảm động, sâu sắc vừa không kém phần hấp dẫn, sinh động, góp phần đưa nội dung
yêu nước của thể loại hòa chảy cùng nguồn mạch chung của văn xuôi tự sự Việt
Nam trung đại nói riêng, của văn học Việt Nam nói chung. Tìm hiểu nội dung tư
tưởng quan trọng này của văn học Việt Nam, thiết nghĩ không thể không xem xét
85
những tác phẩm truyền kì này.
3.2.1.2. Đọc những sáng tác truyền kì, người đọc có thể thấy được hiện thực
nhiều mặt của xã hội phong kiến Việt Nam. Đó có thể là hiện thực lịch sử chống
giặc giữ nước thời Trần, Lê…, có thể là hiện thực đời sống của nhân dân trong một
xã hội rối ren, biến động, loạn lạc. Hiện thực đó được khắc họa cụ thể, chân thực,
sinh động, giúp ta hiểu thêm về xã hội, con người Việt Nam trong thời trung đại.
Cảm hứng thế sự ấy đồng thời gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa nhân đạo được thể
hiện một cách sâu sắc và toàn diện với nhiều khía cạnh khác nhau trong các sáng tác
truyền kì.
Hoàn cảnh lịch sử xã hội nước ta thời nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê phần nào đã
được phản ánh trong những sáng tác truyền kì, từ Thánh Tông di thảo đến Tân
truyền kì lục. Một vài truyện ngắn trong Truyền kì mạn lục và Truyền kì tân phả có
nhắc đến những sự kiện lịch sử cuối thời Trần, thời Hồ, ít nhiều cung cấp cho người
đọc những hiểu biết về lịch sử nước mình thời ấy. Truyện Hải khẩu linh từ trong
Truyền kì tân phả cho ta biết tình hình lịch sử thời vua Trần Duệ Tông với sự kiện
vua Trần thân đi đánh Chiêm Thành, trúng phải kế giặc, bị hãm hại ở động Ỷ Mang,
sau đó băng hà khi chưa kịp về đến triều ca. Cũng trong truyện ngắn này, ta còn biết
đến việc giặc Chiêm Thành xâm lấn bờ cõi vào khoảng niên hiệu Hồng Đức, vua Lê
Thánh Tông thân hành thống suất thủy binh giết giặc và chiến thắng giòn giã.
Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu, Chuyện
Lệ nương trong Truyền kì mạn lục đều giúp ta hình dung được tình cảnh lịch sử,
chính trị cuối thời Trần, thời Hồ. Đó là một giai đoạn khó khăn cho lịch sử nước
nhà khi bên trong thì có nội loạn, phía ngoài thì ngoại xâm nhòm ngó. Trong tình
cảnh ấy, lịch sử ghi nhận sự xuất hiện của vị “chân nhân họ Lê” giúp nước trừ bạo
an dân. Đây là hình ảnh chính trị nước Đại Việt đời vua Trần Phế Đế: “Hiện nay
thánh hóa chưa khắp, bờ cõi chưa yên. Bồng Nga là con chó dại, cắn càn ở Nam
Phương, Lí Anh là con hổ đói gầm thét ở Tây Bắc. Ngô Bệ ngông cuồng tuy đã tắt,
Đường Lang lấm lét vẫn còn kia…”[11,tr.210]. Lời của xử sĩ họ Hồ đã tả rõ tình
hình bấy giờ: phía Nam đất nước quân Chiêm Thành thường vào quấy nhiễu, Lí
86
Anh, tướng nhà Minh lại thường đòi hỏi yêu sách bắt ta cung đốn; trong nước Ngô
Bệ họp đảng làm loạn ở núi Yên Phụ, Nguyễn Bồ (tự xưng là Đường Lang tử y),
người ở Bắc Giang dùng phép thuật tiếm hiệu xưng vương làm loạn. Rồi nhà Trần
mất về tay họ Hồ, nhưng triều Hồ sớm tàn, giặc Minh sang lấn cướp, Lê Lợi dựng
cờ khởi nghĩa được nhiều người đi theo phò tá. Nàng Nhị Khanh trong Chuyện
người nghĩa phụ Khoái Châu đã báo trước điều này trong lần giáng thế gặp lại
chồng nàng là Trọng Quỳ: “…Hồ triều sẽ hết vào năm Bính Tuất, binh cách nổi
lớn, số người bị giết chóc đến chừng hai mươi vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp
đi… Bấy giờ có vị chân nhân họ Lê, từ miền tây nam xuất hiện…” [11,tr.33]
Chuyện Lệ Nương cũng ghi lại hoàn cảnh đất nước cuối thời nhà Hồ: “Cuối đời nhà
Hồ, tướng Minh là Trương Phụ chia binh vào cướp, lấn chiếm kinh kì…Hán
Thương phải chạy… […] Chợt gặp khi vua Giản Định nổi lên ở châu Trường An
nhưng vì ít binh không địch nổi với số nhiều của quân giặc…” [11,tr.242] Truyện
Duyên lạ xứ Hoa cũng cho ta biết thêm một sự kiện lịch sử: “Năm Quý Mùi, ở đạo
Tuyên Quang có giặc Vũ Văn Hối, dựa vào thế núi hiểm trở không nộp cống thuế,
triều đình đã nhiều lần đánh, nhưng không dẹp được.”[25,tr.173] Vài dòng ngắn
ngủi trong phần đầu truyện Con chó nhà nghèo có nghĩa (Tân truyền kì lục) đã khái
quát giúp cho người đọc hoàn cảnh lịch sử nước ta những năm cuối thế kỉ XVIII với
việc Lê Chiêu Thống đê hèn sang cầu cứu nhà Thanh, quân Thanh thừa cơ xâm
lược nước ta và bị Nguyễn Huệ dẹp trừ: “Cuối đời Chiêu Thống, đất nước đại loạn.
Quân Nam thừa thắng kéo ra, quân Thanh tan tác bỏ chạy, vua Lê theo lên phương
Bắc. Chỉ một thời gian ngắn mà mười ba đạo binh đã thuộc về tù trưởng Tây Sơn”.
[25,tr.482]
Hẳn nhiên những sự kiện lịch sử ghi dấu trong những truyện ngắn truyền kì này
chỉ là những tiểu tiết, không ảnh hưởng lớn đến diễn biến cốt truyện. Nhưng việc
ghi nhận lại những sự kiện ấy trong các sáng tác truyền kì của các tác giả trung đại
đã cho thấy tiêu chí bám sát hiện thực lịch sử và đời sống của nhân dân. Tuy vậy,
điều mà các tác giả truyền kì quan tâm hơn và được phản ánh xuyên suốt trong các
sáng tác của mình không phải là hiện thực lịch sử mà chính là hiện thực đời sống
87
nhân dân trong xã hội phong kiến đương thời. Cảnh sống của nhân dân, số phận con
người trong xã hội ấy là mối quan tâm hàng đầu, là nội dung quan trọng không thể
thiếu khi nhắc đến giá trị phản ánh hiện thực của thể loại này. Hình ảnh xã hội
phong kiến trong những truyện ngắn truyền kì trung đại phần lớn là xã hội rối ren,
nhiều biến động khiến dân chúng làm than, khổ sở. Họ khổ sở vì thiên tai, địch ách,
càng khổ sở hơn vì tình cảnh bị cướp bóc, giặc giã, bị áp bức bởi hôn quân, quan
tham, lại nhũng.
Truyện Hai Phật cãi nhau trong Thánh Tông di thảo ghi lại tình cảnh nhân dân
trước nạn lụt: “Năm Quý Tỵ lụt to. Những nơi nước đến, rắn rết bò lên ngọn cây,
người ta phải nuôi gà, cho trên cành. Đền chùa phần nhiều bị nước cuốn hoặc là đổ
nát.” Trong tình cảnh ấy, những sư sãi vô dụng chỉ biết “hưởng rượu thịt của dân
chúng thay vì vận ngũ thông, dùng trí lực thét lui dòng nước về biển Đông”
[25,tr.155], dân chúng vì vậy sẽ thêm phần khổ sở.
Nhưng nhân dân khổ vì thiên tai thì ít mà đau đớn, uất ức nhiều hơn vì bị hà
hiếp, áp bức bởi bọn hôn quân, bọn quan lại nhũng nhiễu. Bằng một vài đoạn văn
trong hai truyện ngắn Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang và Câu chuyện đối đáp của
người tiều phu núi Na, Nguyễn Dữ đã dựng lên trước mắt chúng ta bức chân dung
của những tên hôn quân. Đó là vua Trần Phế Đế, vua Hồ Hán Thương nhưng cũng
là hình ảnh của không ít những vị vua tham tàn, bạo ngược khác coi rẻ mạng sống
của nhân dân, lấy việc hưởng vinh hoa phú quý là mục đích sống, không đoái hoài
đến tình cảnh con dân vô tội: “Đương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân
không phải thời, giày lên lúa để thỏa cái ham thích săn bắn, không phải chỗ, quanh
đầm mà quay, bọc núi mà đốt, không phải lẽ…”[11,tr.209], “Ông ấy thường dối trá,
tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở
phố Hoa Nhai, phao phí gấm à, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền
như đất bùn, hình ngục có của đúc là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng
lời ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng, lòng dân động lay, nên xảy việc quân
sông Đáy, cõi bờ chếch mếch nên đã mất dải đất Cổ Lâu. Vậy mà các kẻ đình thần
trên dưới theo hùa, trước sau nối vết” [11,tr.176] Vua thì vậy, còn quan lại thì
88
“Nguyễn Bằng Cử có lượng nhưng chậm chạp, Hoàng Hối Khanh có học nhưng lờ
mờ, Lê Cảnh Kỉ giỏi mưu tính nhưng không quyết đoán, Lưu Thúc Kiệm quân tử
nhưng chưa được là bậc nhân; còn ngoài ra phi là đồ tham tiền thì là tuồng lấy thế
vị mà khuynh loát nhau, chứ chưa thấy ai nghĩ kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân
chúng cả” [11,tr.177], một vài kẻ thì có tài thiếu đức, còn lại hầu như vừa không
đức lại còn kém tài. Có những kẻ tính vốn đã hung ác, khi có quyền lực trong tay,
tính ác lại càng nổi rõ như Lý Hữu Chi trong Lí tướng quân: “Quyền vị đã cao, Lý
bèn làm những việc trái phép, dựa lũ trộm cướp như lòng ruột, coi người nho sĩ như
cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu ruộng vườn, dựng
nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng cho rộng đất, đi
kiếm những hoa kì đá lạ từ trên huyện khác đem về. Người trong vùng phục dịch
nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách, rất
là khổ sở nhưng hắn vẫn điềm nhiên không chút động tâm.” [11,tr.226] Nguyễn Dữ
đã để cho chính nạn nhân của bọn quan bất nhân phi nghĩa ấy lên tiếng vạch trần
bản chất của chúng: “Hắn chỉ là đồ yếu hèn mà làm đến bậc Vệ Hoắc, kêu xin chạy
chọt, lúc nào ở cửa cũng rộn rập những người ra vào, vàng bạc châu báu trong
nhà, chồng chất đầy dẫy. Trừ ra gặp phải hỏa tai, của cải trong nhà ấy không biết
có cách nào tiêu mòn đi đâu được…” [11,tr.204] Những tên quan nắm quyền lực ấy
được quyền bắt vợ người làm thiếp, chia rẽ hạnh phúc gia đình người khác và bao
che cho nhau, bè phái nhau hãm hại dân lành. Khi nàng Túy Tiêu, vợ Nhuận Chi bị
Trụ quốc bắt đi, Nhuận Chi làm đơn kiện nhưng “họ Thân uy thế rất lớn, các tòa
các sở đều tránh kẻ quyền hào gác bút không dám xét xử”. Hiện thực về bọn quan
lại phong kiến lộng quyền o ép dân chúng hay cấu kết với nhau hà hiếp nhân dân có
khi được thể hiện đầy ẩn ý qua hình ảnh các vị quan ở thủy phủ hay dưới cõi âm
như hình ảnh thần Thuồng Luồng trong Cuộc đối tụng ở Long Cung hay bọn thổ
thần ở các đền miếu đều ăn của đút lót của Bách hộ họ Thôi mà bao che cho hắn
trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Triều đình với những tên vua, quan như
thế thì tránh sao khỏi cảnh “giặc cướp nổi lên như ong”, “người chết chóc nhiều,
những oan hồn không có chỗ tựa nương thường họp lại thành từng đàn lũ…”
89
[11,tr.270] Đây là hình ảnh ma quỷ được Dĩ Thành vạch tội (Chuyện tướng Dạ
Xoa): “Các ngươi muốn cho thêm quân nhưng tổn hại người sống thì sao! Quân
thêm thì ăn uống phải thiếu, người bớt thì cung cấp phải thưa, lợi gì cho các người
mà cứ thích làm như vậy? Lòng dục thả ra thì khe ngòi không đủ lấp, thói ác giở ra
thì hùm sói chưa là dữ. Hễ là mình được, dù tấm áo mảnh giấy cũng không từ, hễ
no lòng được, dù ống giập chậu vỡ cũng không thẹn. Hì hục đi tìm chai lọ, hăm hở
đi kiếm cháo cơm, gieo tai rắc vạ, trộm quyền của Hóa công, kêu nóc dòm buồng,
rối lòng của dân chúng…” [11,tr.277] Những hồn ma hưng yêu tác quái ấy phải
chăng chính là tấm gương phản chiếu xã hội nhiều biến loạn, không còn trật tự kỉ
cương cùng với những khổ sở của nhân dân lúc bấy giờ?
Trong xã hội ấy, những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp bị lung lay. Bên cạnh bọn
hôn quân, tham quan ô lại, những người có học thức, được đời trọng vọng như
những sư sãi, nho sinh, … cũng làm nhiều điều tệ hại. Truyện Hai Phật cãi nhau
(Thánh Tông di thảo) ghi lại hình ảnh của Phật gỗ và Phật đất như là những thứ vô
dụng và cả Phật Thích Ca cũng chỉ là người nát rượu mà thôi. Hẳn nhiên, hình ảnh
các tượng Phật chính là hình ảnh ẩn dụ cho sư sãi lúc bấy giờ. Chuyện cái chùa
hoang ở Đông Triều (Truyền kì mạn lục) với hình ảnh hai tên Hộ pháp: “vào bếp để
khoắng hũ rượu”, “vào buồng để ghẹo vợ người”…phơi bày thực trạng bọn tu hành
giả dối, núp dưới mái nhà chùa để làm điều xằng bậy. Xã hội ấy có những nho sinh
tuy mượn tiếng đi học nhưng thực chất “bút nghiên chí nản, son phấn tình nồng”
suốt ngày chỉ đắm chìm trong ái ân hoan lạc như Hà Nhân trong Chuyện kì ngộ ở
trại Tây (Truyền kì mạn lục). Một xã hội đầy rẫy những tệ trạng như thế tất cũng
sản sinh ra những con người xấu xa, bạc ác: những kẻ lừa thầy phản bạn, tham sang
phụ khó, quên ơn bội nghĩa, có sau quên trước, những người chồng bất nghĩa giết
vợ, những người cha bất nhân giết con, những kẻ cậy có tiền lập mưu cướp vợ
bạn… Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào ghi lại thực trạng ấy bằng những lời
nhận xét của Dương Trạm: “Ngày nay những kẻ mặc áo nhà nho, đeo dải nhà nho
thì lại khác hẳn. Họ thường đổi họ để đi học, thay tên để đi thi, hễ trượt đỗ thì đổ
lỗi mờ quáng cho quan chấm trường, hơi thành danh thì hợm mình tài giỏi hơn tiền
90
bối, chí khí ngông ngạo, tính tình tráo trở, thấy thầy nghèo thì lảng tránh, gặp bạn
nghèo thì làm ngơ, không biết rằng ngày thường dẫn dắt rèn cặp phần nhiều là
công đức của thầy bạn…” [11,tr.144]. Có người cha vì muốn cưới vợ kế mà đành
lòng đem con mình bỏ vào rừng cho hổ dữ ăn thịt như trong truyện Con hổ nghĩa
hiệp (Lan Trì kiến văn lục); có người chồng chỉ vì ghen tuông vô lối mà đang tay
giết vợ như trong truyện Sống lại (Lan Trì kiến văn lục), có tên phú thương Đỗ Tam
vì ham mê sắc đẹp mà bày trò cờ bạc bịp để cướp vợ của bạn mình (Chuyện người
nghĩa phụ Khoái Châu)…
Hoàn cảnh xã hội, tình hình triều chính lúc bấy giờ làm mất lòng tin ở những
nho sĩ chân chính. Khi tự nhận thấy cá nhân mình không thể thay đổi cả một tổ chức
triều đình đang hồi suy vong, lại không muốn bị kéo theo những kẻ hại dân, hại
nước, các nhà nho có lương tri chán ngán chốn quan trường chọn con đường lánh
đục về trong, từ bỏ công danh phú quý, về sống cùng với mây ngàn hạc núi, ở ẩn
trong nhân dân. Nhiều sáng tác truyền kì có nhân vật là những nhà nho ở ẩn. Lời
thoại của các nhân vật này, có thể chăng xem như lời phát ngôn về quan niệm làm
quan của người trí thức lúc bấy giờ? Thánh Tông di thảo có truyện Hai gái thần.
Sau khi miêu tả hai người phụ nữ và kể về một vài sự việc kì lạ của họ, tác giả kể về
cuộc đối thoại của hai người với một nhà nho già. Chí hướng của vị nho sĩ ấy có lẽ
cùng là chí hướng của nhiều người lúc bấy giờ: “Ta không phải là bọn thiếu niên ở
Ngũ Lăng, mà vốn là nhà nho tài cao học rộng, buồn vì thời loạn không ra làm
quan. Ngày nay thiên tử đã lên ngôi, nhiều người vui vẻ ra phò vua giúp nước, thì ta
lại già rồi… Vì vậy, ta cố gây dựng cho lũ hậu tiến, mong để lại chút ơn nhỏ về đời
sau…” [25,tr.206] Đâu phải chỉ vị nho sĩ già này buồn vì thời loạn không ra làm
quan, ta còn có thể bắt gặp những con người tài cao, học rộng, hiểu đạo quân thần
nhưng thà sống trong cảnh nông bần hay tiêu diêu tự tại với thiên nhiên hơn là làm
quan trong triều đình trọc loạn như người tiều phu trong Câu chuyện đối đáp của
người tiều phu núi Na, Từ Thức trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên. Lời người tiều
phu núi Na là lời khẳng định đầy khẳng khái về quan niệm xuất xử của một người
theo Nho học: “Tài ta tuy kém, so với người xưa chưa bằng được. Nhưng may lại
91
giàu hơn Kiềm Lâu, thọ hơn Vệ Giới, no hơn Viên Tinh, đạt hơn Phụng Thiến, kể thì
cũng đã được trời đất ban cho khá nhiều. Nếu lại còn tham cầu những cái ở ngoài
phận mình, len lỏi vào đường tiến sĩ, chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiền, lại
còn phụ bạc với vượn hạc ở trong núi nữa”[11,tr.175]. Khi Trương Công một lần
nữa thuyết phục, tiều phu vừa khẳng định chí hướng của mình, vừa chê trách những
kẻ “miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong cái triều đình trọc loạn, lại còn toan
kéo người khác để cùng đắm với mình.”[11,tr.182] Từ Thức khi bị trách vì “không
làm nổi một chức tri huyện” đã khẳng định: “Ta không thể vì số lương năm đấu gạo
đó mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu cũng là một mái chèo về, nước biếc non
xanh vốn chẳng phụ ta đâu vậy.”[11,tr.125]
Một xã hội nhiễu nhương biến loạn như vậy thì những người chịu nhiều
[11,tr.182] thiệt thòi nhất, đau khổ nhất chính là người phụ nữ, không phân biệt đó
là người phụ nữ xuất thân danh giá hay người phụ nữ bình dân, không phân biệt họ
là người đoan chính giữ đạo hay người phóng tùng muốn phá bỏ trật tự kỉ cương
giáo điều cứng nhắc của xã hội ấy. Từ nàng Vũ Thị Thiết (Chuyện người con gái
Nam Xương – Truyền kì mạn lục) vốn “con nhà kẻ khó” hay nàng Nhị Khanh, con
vị quan nghèo Từ Đạt (Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu – Truyền kì mạn lục),
nàng ca kĩ Đào Thị Hàn Than (Chuyện nghiệp oan của Đào Thị - Truyền kì mạn
lục) đến cung phi Bích Châu (Hải khẩu linh từ - Truyền kì tân phả), hay phu nhân
của tiến sĩ Đinh Hoàn (An Ấp liệt nữ - Truyền kì tân phả)… đều chung một số phận
đau khổ, khác nhau ở nỗi đau cụ thể nhưng nguyên nhân đau khổ nhìn chung là như
nhau. Một Vũ Thị Thiết hết lòng hiếu thảo với mẹ chồng, thương chồng rất mực
nhưng bị nghi oan là thất tiết đến nỗi phải tự trầm mình ở sông Hoàng Giang để
chứng tỏ lòng trong sạch, một nàng Nhị Khanh giữ vững lòng son dù xa cách chồng
nhiều năm trời mà rồi trở thành vật đánh cược và thua cược của chồng, cũng kết
thúc cuộc đời bằng việc tự sát; một nàng Hàn Than bị vợ quan hành khiển hành hạ
trở lại trả thù nhưng không thành, chịu nhiều nỗi truân chuyên trong tình cảm và
cuộc đời, một Nguyễn Cơ Bích Châu sau nhiều lần can gián vua không được lại
chấp nhận làm vật tế thần để cứu vua và binh lính, một Đinh phu nhân phải chịu
92
cảnh cách xa chồng rồi trở thành góa phụ khi mối duyên chồng vợ vừa bén chưa
bao lâu… Tất cả đều là những minh chứng thuyết phục cho số phận bất hạnh của
người phụ nữ xưa mà các tác giả truyền kì, bằng cảm quan hiện thực và tấm lòng
nhân đạo, đã lên tiếng phản ánh. Dường như số phận người phụ nữ trong xã hội
phong kiến càng về sau càng phải chịu nhiều dớn đau hơn. Họ yêu chân thành
nhưng hoặc không được cha mẹ cho phép lấy người mình yêu đến nỗi đau khổ mà
chết với trái tim hóa đá (Chuyện tình ở Thanh Trì – Lan Trì kiến văn lục), hoặc vì là
ca nữ nên bị gia đình người yêu khinh khi, cự tuyệt dù đã hết lòng giúp đỡ người
yêu, rồi về sau lại phải lưu lạc đó đây dạy hát để nuôi mẹ, nuôi thân (Cô đào họ
Nguyễn – Lan Trì kiến văn lục), có khi còn bị chồng vô cớ giết chết vì ghen tuông
(Sống lại – Lan Trì kiến văn lục), có khi bị anh mình vì tham tiền mà ép gả cho
người mình không yêu (Chuyện quan quận ở Liên Hồ)…
Khi phơi bày cảnh sống của nhân dân với thái độ đả kích, phê phán những thế
lực tàn bạo, các nhà văn viết truyền kì đã đứng về phía nhân dân để nói lên tiếng nói
cảm thông, bênh vực họ. Đây chính là một phương diện biểu hiện của tinh thần
nhân đạo trong thể loại truyền kì. Lời của các nhân vật trong truyện khi nói về thực
trạng xã hội rõ ràng mang một giọng điệu lên án khá mạnh mẽ. Bên cạnh đó, kết
thúc truyện có hậu với việc những tên tham quan như Lí Hữu Chi (Chuyện Lí tướng
quân), Thân Trụ quốc (Chuyện nàng Túy Tiêu), Bách hộ họ Thôi (Chuyện chức
phán sự đền Tản Viên)… phải trả giá, việc Trương Công không thể thuyết phục tiều
phu ra làm quan cho triều Hồ (Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na), xử sĩ họ
Hồ, tú tài họ Viên từ chối lời mời tham gia chốn quan trường của Hồ Quý Li
(Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang)… cũng là một cách thể hiện niềm cảm thông
với nhân dân và đả kích hiện thực xã hội cùng những kẻ bất nhân lúc bấy giờ. Mong
muốn một xã hội công bằng tốt đẹp trong đó cái ác bị trừng trị, cái thiện được bênh
vực, được ca ngợi là một khía cạnh nội dung bắt nguồn từ cảm hứng nhân đạo sâu
sắc của các truyện truyền kì. Trong nhiều truyện truyền kì đều có kiểu kết thúc có
hậu này. Truyện Tinh chuột trong Thánh Tông di thảo kết thúc với việc tên chuột
thành tinh, giả chồng người, phá hại hạnh phúc gia đình người khác bị đốt thành tro.
93
Các truyện Chuyện đối tụng ở Long cung, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên,
Chuyện nàng Túy Tiêu… trong Truyền kì mạn lục, truyện Sống lại, truyện Cá thần,
Con hổ nghĩa hiệp… trong Lan Trì kiến văn lục đều có kết thúc là phần thắng
nghiêng về những con người hiền lương bị hãm hại còn những tên gian ác đều bị
trừng phạt thích đáng. Chuyện đối tụng ở Long cung kể về cuộc chiến giữa vợ
chồng Trịnh Thái thú với thần Thuồng Luồng của Long cung. Thần Thuồng Luồng
bắt vợ của Trịnh Thái thú là Dương thị xuống thủy phủ để vợ chồng nên nỗi chia
cắt, hạnh phúc của hai người bị cướp mất. Trịnh Thái thú một lòng thương nhớ vợ
bỏ cả quan chức, về làm cái mồ giả dưới chân núi, dựng một cái lầu trông xuống
bến sông. Sau nhờ được Long hầu giúp, Trịnh liên lạc được với vợ và kiện tên thần
Thuồng Luồng đó ở Long cung. Qua cuộc đối tụng, tội trạng thần Thuồng Luồng bị
vạch trần, bị xử tội, vợ chồng Thái thú được đoàn tụ. Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên là câu chuyện về cuộc chiến giữa người và yêm ma, một ẩn dụ về bọn tham tàn
của xã hội trần thế). Khi yêu ma trú ngụ đền tà quấy nhiễu nhân dân, chàng trai họ
Ngô đã giúp dân đốt cháy đền tà của yêu ma. Bị thưa kiện dưới âm cung, trước
Diêm Vương, chàng khẳng khái đối đáp không hề run sợ, chỉ rõ bộ mặt giảo quyệt
của hồn ma Bách hộ họ Thôi, và cuối cùng tên Bách hộ họ Thôi bị đày vào ngục
Cửu U, mồ mả bị nát ra như cám. Đó là một kết thúc xứng đáng cho một kẻ bất
nhân. Tên quan trụ quốc họ Thân trong Chuyện nàng Túy Tiêu, cướp vợ người, chia
rẽ hạnh phúc gia đình người, cùng với những tội ác khác cuối cùng chịu tội trước
triều đình, còn nàng Túy Tiêu và chàng Nhuận Chi thì “ăn ở với nhau đến già”.
Truyện Cá thần, truyện Sống lại, truyện Ông Tiên ăn mày trong Lan Trì kiến văn
lục cũng được kết lại theo kiểu tương tự. Tên chủ thuyền giết người cướp của cuối
cùng bị lính đồn bắt và bị xử tội (Cá thần), người chồng ghen tuông bị mất vợ và bị
quan trên khiển trách (Sống lại), người anh tham lam bị bắt lên quan phủ (Ông Tiên
ăn mày). Nếu không bắt nguồn từ lòng nhân ái, mong muốn công lí được thực thi,
xã hội tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn cho những người xứng đáng có lẽ các nhà văn
truyền kì đã không xây dựng nên những kết thúc dạng này.
94
Bênh vực cái thiện không chỉ là đứng về phía con người hiền lành vô tội để lên
tiếng tố cáo cái ác và mong cái ác bị trừng trị. Bênh vực, biểu dương cho cái thiện
còn là ca ngợi những phẩm chất tài năng của con người và khẳng định công lí đứng
về phía họ, những con người nhân đức ấy. Các nhân vật chính trong truyền kì hầu
hết là những con người có những đức tính đáng quý nào đó. Và dù cuộc đời họ có
gặp khó khăn, trắc trở, nhưng các tác giả truyền kì vẫn dành cho họ những kết thúc
xứng đáng với những phẩm chất đáng quý đó, ít nhất là trong quan niệm của con
người thời ấy. Những phẩm chất đó có thể là hiếu thảo, nhân từ hay làm việc thiện,
cương trực, nghĩa tình, sống có trước có sau với thầy bạn…Truyện Hai thần hiếu đễ
trong Thánh Tông di thảo ca ngợi lòng hiếu thuận, thờ cha mẹ rất mực của anh em
Tử Khanh thông qua kết thúc truyện hai anh em đều được làm thần, truyện Chồng
dê cũng trong Thánh Tông di thảo là lời khuyên con người phải hiếu thảo, sống
đàng hoàng tử tế rồi thì sẽ được hạnh phúc như cô gái trong truyện. Ngô Tử Văn
(Chuyện chức phán sự đền Tản Viên) ghét gian tà, không sợ yêu mà quỷ thần, quyết
vì dân trừ hại đã được tác giả ngợi ca bằng những lời bình cuối truyện: “Ngô Tử
Văn là một chàng áo vải vì cứng cỏi nên dám đốt cháy đền tà, chống cãi yêu quỷ,
làm một việc hơn được cả thần và người. Nhân thế nức tiếng mà được giữ chức vị ở
Minh tào, thật là xứng đáng” [11,tr.123]. Thái độ đồng tình với việc làm của nhân
vật, biểu dương những phẩm chất ấy cũng được thể hiện xuyên suốt diễn biến và kết
thúc truyện với việc Ngô Tử Văn được làm phán sự đền Tản Viên. Phạm Tử Hư
nhờ luôn giữ đạo nghĩa thầy trò mà được thầy dẫn lên chơi Thiên tào và báo trước
những điềm họa phúc (Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào), chàng Dĩ Thành
tính tình hào hiệp, không để ma quỷ mê hoặc còn khuyên bảo những hồn ma những
điều nên làm, về sau được tướng dưới Minh ti (Chuyện tướng Dạ Xoa).
Khi ca ngợi tài năng, phẩm chất của con người, truyện truyền kì dành nhiều
trang ca ngợi người phụ nữ. Đặt trong hoàn cảnh xã hội bấy giờ, có thể nhận thấy
đây là một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo tiến bộ trong văn xuôi tự sự thời trung
đại. Một số không ít những người phụ nữ trong các sáng tác truyền kì, dù xuất thân
bình dân hay cao quý, dù là người trần hay người tiên đều có tài năng hoặc phẩm
95
chất tốt đẹp, hay đủ cả tài năng và phẩm chất. Người vợ trong truyện Tinh chuột
(Thánh Tông di thảo) là người có nhan sắc, biết lễ nghĩa. Người phụ nữ ấy, theo đạo
đức của xã hội phong kiến xưa đã gác tình chồng vợ để mong chồng hiển đạt:
“Mong chàng hãy tạm gác tình yêu thương thiếp, ra sức học hành, còn như việc
phụng thờ cha mẹ, miếng ngon miếng ngọt, sớm hỏi tối chào, thiếp xin đảm đương,
mong chàng chớ ngại” [25,tr.156]. Không chỉ là lời nói suông, từ ngày chồng ra đi,
nàng hết lòng phụng thờ cha mẹ chồng, nết na ngoan ngoãn, không có điều gì đáng
trách. Người phụ nữ trong truyện Chồng dê (Thánh Tông di thảo) là một người con
gái có tấm lòng hiếu thảo cảm động lòng người, nàng Nhị Khanh (Chuyện ngưởi
nghĩa phụ Khoái Châu – Truyền kì mạn lục), nàng Vũ Thị Thiết (Chuyện người con
gái Nam Xương - Truyền kì mạn lục), Đinh phu nhân (An Ấp liệt nữ - Truyền kì tân
phả), người con gái của Liên Hồ quận công (Liên Hồ quận công – Lan Trì kiến văn
lục)… đều là những người có nhan sắc, có người còn có tài văn chương (như Đinh
phu nhân hay con gái quận công Liên Hồ), những người có tính thùy mị, nết na, đối
đãi với cha mẹ, cha mẹ chồng hiếu thuận, yêu chồng, thương con. Tình yêu thương
ấy đậm sâu đến mức ngay cả khi chết rồi, họ vẫn chở che, bảo bọc chồng, con mình.
Nàng Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu sau khi mất còn dẫn
hướng cho con, người mẹ nghèo trong truyện Sinh đẻ kì lạ (Lan Trì kiến văn lục)
chết khi đang mang thai nhưng khi chết rồi vẫn sinh con ra và khi là hồn ma vẫn lo
cho con khỏi đói lả. Những người phụ nữ cõi phàm trần đã vậy, những nàng tiên
giáng thế lại càng xinh đẹp, tài năng và có phẩm hạnh hơn người. Trong truyện Hai
gái thần, người cháu dâu của Long vương dù tuổi đã ngoài bốn mươi, “tóc xanh đã
điểm sương trắng, mặt ngọc đã nhạt màu hồng, nhưng cái vẻ thùy mị còn làm cho
thiên hạ xiêu lòng”, còn vợ sơn thần Đông Ngu mặt hoa da tuyết, “tuy ăn mặc mộc
mạc, quần nâu áo vải mà gương mặt sáng sủa ưa nhìn”, cả hai đều có tài ca hát,
tiếng hát có thể khiến người nghe phải sa nước mắt vì cảm động. Đáng quý hơn, hai
vị nữ thần ấy, có bao nhiêu tiền đều để cho người nghèo đói. Hai vị nữ thần ấy,
chấp nhận cuộc sống tha hương, làm nghề bói toán, ca hát… chỉ để đi khắp nơi tìm
phu quân của mình. Nàng tiên bướm Mộng Trang trong Duyên lạ xứ Hoa thì “tuyết
96
hờn thua trắng, ngọc thẹn kém trong, ngón tay búp măng thon thon, hàm răng hạt
bầu nho nhỏ. Nếu không là gái dưới trăng Dao Đài thì cũng là tiên trên núi Quần
Ngọc, trần gian làm gì có người như vậy” và chữ viết của nàng thì “đã có lực lại có
thần. Trước kia thì Vệ phu nhân, sau này thì Vương Hữu Quân trong làng nho xưa
không có lối chữ của ai sánh kịp”[25,tr.71]. Nàng Giáng Tiên trong Vân Cát thần
nữ da trắng như sáp đọng, tóc sáng như gương soi, mi cong như mặt trời mới mọc,
mắt long lanh như sóng mùa thu, tinh thông âm luật, thổi ống tiêu, gảy đàn thì giỏi
như Tương Phi, Lộng Ngọc, khi là vợ của Đào Lang thì “thờ cha mẹ chồng rất hiếu,
đối với chồng giữ lễ thừa thuận như người thục nữ trong thơ Quan thư”. Giáng
Kiều trong Bích Câu kì ngộ “cốt cách như ngọc, da dẻ tựa băng, thật là cái đẹp
nghiêng nước nghiêng thành”, khi làm vợ của Tú Uyên “phụng thờ gia tiên rất hiếu,
trông nom việc nhà rất chăm, nâng niu khăn lược, cung phụng nấu ăn, không chỗ
nào chàng không vừa ý”. Nàng Ngọa Vân, học sĩ ở Long cung (Chuyện lạ nhà
thuyền chài – Thánh Tông di thảo) chấp nhận bị phạt tội tiết lộ thiên cơ để cứu tính
mệnh cả gia đình chồng. Quả thật, những nhân vật nữ trong các truyện truyền kì
không chỉ tài sắc mà còn là những con người có nhân phẩm tốt đẹp, sáng trong.
Ngay cả khi miêu tả các nhân vật nữ là hồn ma hay là những tinh vật, ngòi bút của
các tác giả truyền kì, dù có khi phê bình chuyện tình cảm đồi phong bại tục, nhưng
cũng có không ít những đoạn ca ngợi tài, sắc, thậm chí là ca ngợi những phẩm chất
đáng quý khác của họ. Nàng Nhị Khanh (Chuyện cây gạo – Truyền kì mạn lục) là
“giai nhân tuyệt sắc”, văn tài không kém gì Dị An, nàng Thị Nghi (Chuyện yêu quái
ở Xương Giang) thì “khá có tư sắc”, khi là hồn ma và thành vợ chồng với Hoàng
sinh thì cử động rất hợp lẽ, nói năng biết lựa lời, họ hàng bạn bè ai cũng đều khen
ngợi. Liễu Nhu Nương, Đào Hồng Nương (Chuyện kì ngộ ở Trại Tây) là những cây
liễu, cây đào biến thành. Các tinh vật ấy khi hóa thành người phụ nữ thì “vẻ kiều
diễm quả là tột bậc”, còn thơ do hai nàng sáng tác thì “thật là tuyệt diệu, lời hoa ý
gấm khó lòng theo kịp hai nàng”. Trong xã hội nam quyền, tài sắc, phẩm hạnh của
người phụ nữ thường bị coi nhẹ mà các tác giả truyền kì lại dành nhiều ưu ái cho
các nhân vật nữ của mình với những lời miêu tả mang tính chất ngợi ca nhan sắc, tài
97
năng, phẩm hạnh của họ. Đây là một biểu hiện không thể không kể đến của giá trị
nhân đạo trong các sáng tác truyền kì thời trung đại.
Một điểm đánh dấu sự tiến bộ trong nội dung nhân đạo của thể loại truyền kì
thời trung đại đó chính là việc đồng cảm với khát vọng chân chính của con người,
nhất là khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Những nhân vật trong các
truyện truyền kì, đặc biệt là các nhân vật nữ, là những người dám đấu tranh cho khát
vọng của mình: khát vọng được sống tự do theo chí hướng, không thích bị ràng
buộc; khát vọng yêu đương - đôi khi rất mãnh liệt, táo bạo. Giữa một xã hội coi
trọng việc thi cử, đỗ đạt, xem đó như là con đường tiến thân duy nhất thì những suy
nghĩ của chàng Thúc Ngư trong Chuyện lạ nhà thuyền chài (Thánh Tông di thảo)
gây cho ta ngạc nhiên bởi sự táo bạo khác người của chàng. Khi cha muốn con bỏ
nghiệp nhà đi học, Thúc Ngư trả lời: “Trong sách đã không có cá, lời nói lại không
thể đem đánh được cá, còn học làm gì?” Lời nói của Thúc Ngư đi ngược lại những
giáo điều Nho học, đi ngược lại quan niệm đã đè nặng bao nhiêu năm trong xã hội
phong kiến xưa. Xem nhẹ việc học hành, thi cử khi nó không mang lại lợi ích thật
sự, chàng Thúc Ngư đã thể hiện chí hướng riêng của mình, không chấp nhận những
suy nghĩ cứng nhắc theo lề thói xưa. Mong muốn được tự do, thoát khỏi những
kiềm tỏa của xã hội phong kiến khắt khe, đó cũng là một lí do khiến nhiều nhân vật
trong các sáng tác truyền kì thích cuộc sống tiêu diêu tự tại, không thích làm quan
vào luồn ra cúi như người tiều phu núi Na trong Câu chuyện đối đáp của người tiều
phu núi Na, chàng Từ Thức trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Phạm Viên trong
truyện cùng tên (Lan Trì kiến văn lục). Xem trọng hạnh phúc đời thường, hạnh phúc
bên gia đình, vợ con, người yêu nên khi hạnh phúc đó bị cướp mất, các nhân vật
trong truyền kì sẵn sàng đấu tranh đến cùng để giành lại hạnh phúc ấy. Đang làm
quan Thái thú, một chức quan lớn trong triều, nhưng khi vợ bị thần Thuồng Luồng
bắt đi, Trịnh Thái thú bỏ cả quan tước, chôn một cái mả hờ dưới chân núi Đốn,
hằng ngày ở một mình trong cái lầu nhỏ, theo đuổi việc cứu vợ, dẫu biết rằng người
mình phải đối phó thế lực rất mạnh nhưng ông vẫn không từ nan. Để cuối cùng,
châu lại về hợp phố, vợ chồng được đoàn tụ, hưởng hạnh phúc lứa đôi. Nếu Trịnh
98
Thái thú không một lòng muốn sum vầy, không dám đấu tranh cho hạnh phúc, có lẽ
không dễ gì có được ngày đoàn tụ. Khát vọng hạnh phúc chân chính có lẽ là khát
vọng đáng trân trọng nhất của con người và dễ dàng nhận được sự đồng cảm nhất.
Điều đặc biệt là, trong các sáng tác truyền kì, những người dám đấu tranh mạnh mẽ
nhất cho hạnh phúc, tình yêu của mình lại là những người phụ nữ. Họ chủ động nắm
giữ hạnh phúc, khi hạnh phúc có nguy cơ tan vỡ, họ cũng là người chủ động đấu
tranh để bảo vệ nó. Nàng Túy Tiêu cùng chàng Nhuận Chi trong Chuyện nàng Túy
Tiêu, chàng Phật Sinh và nàng Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương đều là những con
người như thế. Nhuận Chi và Túy Tiêu yêu nhau, kết thành vợ chồng, Túy Tiêu lại
bị Thân Trụ quốc cướp về làm thiếp. Khi quan lại triều đình vì sợ thế lực của Thân
Trụ quốc không dám xử vụ kiện của Nhuận Chi, Túy Tiêu cùng chồng đã tìm cách
để được trùng phùng. Túy Tiêu toan tự tử để Thân Trụ quốc phải đồng ý cho gặp
Nhuận Chi, với sự giúp sức của người đầy tớ già, Nhuận Chi đã cướp lại được Túy
Tiêu trong đêm mồng một theo như lời hẹn giữa hai người. Không sợ uy thế của
Trụ quốc, vì tình yêu và hạnh phúc chân chính của mình, họ đã dũng cảm phản
kháng lại Trụ quốc để cuối cùng lại có nhau. Khi nàng Lệ Nương bị bắt vào cung,
chàng Lí Phật Sinh đã bỏ cả ăn ngủ, lặn lội, bôn ba khắp nơi theo tung tích của vợ,
theo về với vua Giản Định để có thể nhờ thế quân của vua mà đánh cướp lại vợ.
Dẫu rằng cuối cùng hai người cũng chẳng thể đoàn tụ vì nàng đã tuẫn tiết để được
chết trên quê hương, nhưng tình yêu chân thành và tấm lòng dũng cảm vì tình yêu
của chàng thật đáng ca ngợi. Có thể nói, nhiều truyện ngắn truyền kì là những bài ca
ca ngợi tình yêu đôi lứa. Ta cảm động trước mối chân tình của chàng Chu sinh,
chấp nhận từ bỏ cuộc sống giàu sang chốn trần giang để đoàn tụ cùng Mộng Trang
vợ mình (Duyên lạ xứ Hoa – Thánh Tông di thảo, ta khâm phục tinh thần dũng cảm
đấu tranh vì hạnh phúc của Túy Tiêu – Nhuận Chi, Phật Sinh… và ta cũng ngưỡng
mộ cùng thương xót cho tình cảm nặng sâu của người ca nữ họ Nguyễn dành cho
Vũ Khâm Lân, người nàng yêu (Ca nữ họ Nguyễn – Lan Trì kiến văn lục); của
người con gái họ Trần dành cho Nguyễn sinh (Chuyện tình ở Thanh Trì – Lan Trì
kiến văn lục); của người con gái họ Nguyễn mang bệnh hủi dành cho chàng cử nhân
99
người Kinh Môn (Tháp Báo Ân – Lan Trì kiến văn lục)…Những người con gái ấy
có thể hi sinh tất cả vì người mình yêu mà không cần báo đáp, thậm chí ngay cả khi
chết rồi, là một hồn oan vẫn hướng về người yêu, giúp người yêu đỗ đạt vinh hiển.
Đẹp biết mấy tấm lòng của những người con gái ấy, những người sống chết với tình
yêu của mình. Nàng ca kĩ họ Nguyễn người Chương Đức, tỉnh Sơn Nam, vì tình yêu
dành cho Khâm Lân đã giúp đỡ chàng ăn học, chăm sóc cơm nước cho chàng từ khi
chàng còn là một nho sinh nghèo khó. Ngày Khâm Lân thành danh, nàng đón bằng
đồ lễ rất hậu. Cha của Khâm Lân khinh nàng là ca nữ, là “loại đàn bà bỏ nhà theo
trai” nên không chấp nhận tình yêu của hai người, Khâm Lân vì vậy đành phụ tình
nàng. Thế nhưng người con gái ấy tuyệt không một lời hờn trách, oán thán, chỉ đổ
cho số mệnh. Khi nàng gặp lúc khó khăn nhất, Khâm Lân giúp đỡ, nàng khẳng khái
chối từ: “Tôi không có phận làm vợ Thừa tướng thì chỗ tiền bạc này sao có thể tiêu
dùng được?”. Tình yêu và lòng tự trọng ở một cô ca nữ, một người bị xã hội phong
kiến coi khinh, khiến chúng ta trân trọng, thán phục. Ta xót xa cho tình cảnh của cô
gái trong Chuyện tình ở Thanh Trì. Tình yêu của nàng dành cho chàng trai lái đò
thật sự đậm sâu. Tình yêu ấy thôi thúc nàng phải chủ động nắm bắt: chủ động ngỏ
lời cùng chàng trai, chủ động đưa vàng bạc sang cho chàng làm sính lễ hỏi cưới.
Khi tình yêu ấy bị ngăn cản, nàng đau buồn đến nỗi chết đi. Trái tim hóa thành khối
đá đỏ như máu là biểu tượng của một tình yêu thủy chung bất biến với thời gian
khiến người đọc cảm động. Tình yêu của những cô gái xưa trong truyện truyền kì
mãnh liệt đến độ khi chết rồi vẫn còn yêu, vẫn tìm cách giúp đỡ người yêu. Người
con gái nhà giàu họ Nguyễn trong Tháp Báo Ân là một người như thế. Chàng cử
nhân, người yêu của cô gái lẽ ra đã không thể thi đỗ, nhưng khi là một hồn ma, cô
gái đã đến gặp quan chủ khảo van xin chấm cho chàng được đỗ khoa này. Cô gái đã
giúp cho chàng thi đỗ hay chính tình yêu mãnh liệt đến lúc tàn hơi của nàng đã giúp
chàng đỗ đạt? Các nhân vật nữ trong truyền kì cũng là những con người sống mạnh
mẽ, táo bạo, khát khao tận hưởng hạnh phúc trần thế, tận hưởng tuổi xuân. Nàng
Giáng Tiên trong Vân cát thần nữ nhiều lần hạ giới cũng vì khát vọng sống mãnh
liệt, khát vọng được thỏa nguyện ước ba sinh cùng Đào lang chồng mình. Những lời
100
tỏ bày của hồn ma Nhị Khanh (Chuyện cây gạo) hẳn sẽ bị các nhà nho xưa xem là
loạn ngôn, yêu ngôn: “Người ta sinh ở đời, cốt được thỏa chí, chứ văn chương thời
có làm gì, chẳng qua rồi cũng một nắm đất vàng là hết chuyện. Đời trước những
người như Ban Cơ, Sái Nữ nay còn gì nữa đâu. Sao bằng ngay trước mắt tìm thú
vui say, để khỏi phụ mất một thời xuân tươi tốt.” [11,tr.40] Rõ ràng đây là lời lẽ hết
sức táo bạo của một người phụ nữ cảm nhận rõ ràng giá trị của hạnh phúc hiện tại,
của tuổi xuân đang có. Hạnh phúc đó mới là thực, không xa xôi, mơ hồ. Lời nói của
nàng như lời khuyến khích con người cần nắm bắt, tận hưởng ngay hạnh phúc thật
sự trước mắt ấy. Và nàng chính là minh chứng cho điều ấy: chết rồi mà vẫn khao
khát níu giữ tình yêu của cõi trần. Nàng Liễu, nàng Đào trong Chuyện kì ngộ ở Trại
Tây là những “u hồn trệ phách” nhập vào cuộc sống của dương gian để tìm người tri
âm, tìm hạnh phúc tuổi xuân. Lời hai nàng dẫu dùng những hình ảnh ẩn dụ bóng gió
nhưng vẫn không che giấu khát vọng tận hưởng lạc thú trần thế: “Nay gặp tiết xuân
tươi đẹp, chúng em muốn làm những bông hoa hướng dương để khỏi hoài phí mất
xuân quang.” [11,tr.60]
Khi viết về tình yêu nam nữ, có thể nói, các tác phẩm truyền kì là những tác
phẩm đầu tiên đề cập đến một vấn đề mang tính nhân bản, nhân văn: tình yêu gắn
liền với những đắm đuối nhục dục, đặc biệt là trong Truyền kì mạn lục. Ngòi bút
của các tác giả truyền kì khá táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si
mê, đắm đuối sắc dục. Dẫu trong lời bình, để bảo vệ lễ giáo phong kiến, tác giả
thường lên tiếng phê phán những mối tình đó (như tình yêu giữa Trình Trung Ngộ
và Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, giữa Hà Nhân và hai nàng Đào, Liễu trong
Chuyện kì ngộ ở Trại Tây, giữa nàng Hàn Than và sư Vô Kỉ trong Chuyện nghiệp
oan của Đào thị…); nhưng phân tích hình tượng các nhân vật này, như trên chúng
tôi đã có nói qua đôi nét, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa tiến bộ toát ra từ các nhân vật.
Những nhân vật đó đề cao hạnh phúc trần thế, hạnh phúc đó lại gắn liền với lạc thú
của tuổi trẻ, lạc thú ái ân. Để đảm bảo tính trang nhã theo yêu cầu của thi pháp văn
học trung đại, khi nói đến cảnh ái ân, các tác giả đã dùng những hình ảnh ẩn dụ
nhưng không vì thế mà kém phần táo bạo. Đây là lời của hồn ma Nhị Khanh khi nói
101
về khao khát của đời nàng: “Thân tàn một mảnh, cách với chết cũng chẳng bao xa.
Ngày tháng quạnh hiu, không người săn sóc. Nay dám mong quân tử quạt hơi
dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía rụng hồng rơi, được
trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp như thế sẽ không phải phàn nàn
gì nữa.” [11,tr.37] Lời lẽ ấy quả thật quá táo bạo, hoàn toàn trái với tư tưởng phong
kiến vốn luôn đề cao sự e ấp, đề cao trinh tiết, đề cao sự khắc kỉ, xem thường những
nhu cầu bình thường của con người. Người con gái ấy, chết khi tuổi vừa hai mươi,
việc xuân chưa trải, khao khát được sống với hạnh phúc của con người bình thường
trong cuộc đời. Niềm khao khát ấy mãnh liệt đến nỗi khi đã là một hồn ma vẫn
không từ bỏ và còn khiến người yêu cũng có cùng niềm đắm đuối. Khát khao ấy
hẳn đi ngược lại với quan niệm phong kiến đương thời, như một sự chống đối với
những ràng buộc của xã hội, những giáo điều cũ kĩ. Hình ảnh hồn ma Nhị Khanh và
Trung Ngộ (Chuyện cây gạo) “thân thể lõa lồ cùng nhau nô giỡn” là biểu tượng của
sự phản kháng mạnh mẽ đối với trật tự xã hội lúc bấy giờ. Cuộc tình của danh kĩ
Hàn Than và sư Vô Kỉ trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị cũng mang đậm màu
sắc phản kháng chống đối lại lề thói xã hội ấy. Dẫu rằng, kết thúc của những mối
tình này đều là kết thúc bi kịch (Trung Ngộ và Nhị Khanh bị đào mả phá quan tài,
vứt bỏ hài cốt, về sau khi là hồn ma thì bị sáu bảy trăm lính đầu trâu mặt ngựa gông
trói bắt đi; nàng Hàn Than chết trên giường ở cữ, cùng Vô Kỉ đầu thai vào nhà
Nhược Chân và rồi bị sư Pháp Vân làm phép trừ khử)… thể hiện sự thất bại của
quan niệm tư tưởng mới về tình yêu, hôn nhân nam nữ trong xã hội đang có những
biến chuyển nhưng cũng đã đánh dấu sự xuất hiện của tư tưởng, quan niệm ấy,
chứng minh có bước phát triển trong giá trị nhân đạo và hiện thực của văn xuôi tự
sự trung đại.
Cảm hứng hiện thực kết hợp cùng nội dung nhân đạo sâu sắc đã làm nên giá trị
độc đáo của các sáng tác truyền kì, góp phần vào những thành tựu chung của văn
xuôi tự sự trung đại Việt Nam.
102
3.2.2. Nghệ thuật của truyền kì: một bước phát triển của nghệ thuật văn
xuôi trung đại
3.2.2.1. Ngôn ngữ trong truyền kì: ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ truyện truyền kì thật sự là ngôn ngữ bác học với lời văn trau
chuốt, sử dụng những câu văn có tính chất biền ngẫu với những vế đối nhau, lời văn
có hình ảnh, dùng nhiều từ ngữ Hán Việt trang trọng. Bên cạnh đó, tính bác học
trong sáng tác truyền kì còn thể hiện ở những điển cố, điển tích được sử dụng đậm
đặc. Đọc các sáng tác truyền kì, đặc biệt là những tác phẩm truyền kì tiêu biểu nhất,
ta có thể nhận thấy sự kết hợp hài hòa giữa thơ và văn xuôi với nhiều bài thơ,
từ…được đưa vào truyện. Có thể nói, dù nhiều truyện truyền kì bắt nguồn từ truyện
dân gian nhưng ngôn ngữ trong các sáng tác truyền kì đã vượt thoát khỏi ngôn ngữ
dân gian, đưa văn học Việt Nam thời kì đó bước vào quỹ đạo văn học viết, văn
chương bác học.
Trong số 5 tuyển tập truyền kì (gồm Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục,
Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục, Tân truyền kì lục) mà chúng tôi khảo sát,
trừ Lan Trì kiến văn lục, còn lại ở các tập truyện truyền kì khác đều có hiện tượng
sử dụng câu văn có tính chất biền ngẫu, nghĩa là có những câu văn được tạo thành
từ những vế đối nhau. Hiện tượng này xuất hiện trong lời kể, lời miêu tả của người
kể chuyện hoặc xuất hiện trong lời thoại của các nhân vật. Mức độ xuất hiện tuy có
khác nhau ở mỗi truyện nhưng khi nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của truyền kì ta
không thể không chú ý tới. Cụ thể, trong số 9 truyện của Thánh Tông di thảo có 4
truyện có hiện tượng này, ở Truyền kì mạn lục là 15/20 truyện, ở Truyền kì tân phả
là 4/4 truyện, trong Tân truyền kì lục là 2/2 truyện. Có khi các vế câu đối nhau xuất
hiện khá nhiều trong những câu kể, tả của người kể chuyện hoặc câu thoại của các
nhân vật, có khi chỉ xuất hiện trong đôi ba câu, nhưng hầu như truyện nào cũng có.
Sử dụng những câu văn đối nhau trong các truyện ngắn của mình, các tác giả truyền
kì cũng làm cho ngôn ngữ có nhịp điệu, thanh điệu hài hòa, êm tai. Nhờ vậy, câu
văn thêm tính nghệ thuật và cũng thêm phần sinh động. Ta thử xem xét một vài ví
dụ. Đây là một đoạn thoại được trích trong truyện ngắn Tinh chuột: “Vết đỏ ở cổ,
103
mụn hạt cơm ở tai, không phải chàng thì ai? Tiếng nói như khánh, môi đỏ như son,
không phải chàng thì ai? Tầm co không sai một tấc, vóc lớn chẳng kém một phân,
không phải chàng thì ai? Dưới vận quần trắng, ngoài mặc áo the, quần áo chàng
đều do tay thiếp cắt may, lẽ nào lại lầm? Quạt lụa phe phẩy, khăn hồng vai vắt,
những thứ của chàng đều là của thiếp đưa tặng, lẽ nào còn sai? Huống hồ lời nói
bên gối cách đây mới có một đêm, thiếp còn nhớ cả, sao lại bảo là thiếp nhận càn?”
[25,tr.160] Đọc đoạn thoại, ta có cảm giác như đọc một đoạn văn vần. Trong mỗi
câu là những vế đối nhau: vết đỏ ở cổ/ mụn hạt cơm ở tai; tiếng nói như khánh/ môi
đỏ như son; dưới vận quần trắng/ ngoài mặc áo the… và cả đoạn là những câu văn
được sắp xếp cân xứng, nhịp nhàng với cách ngắt nhịp đều đặn và những từ ngữ
được lặp lại, nhấn mạnh ở cuối câu. Người đọc rất dễ bị ấn tượng bởi những đoạn
thoại như thế. Và không quá khó để tìm thấyđiều đó trong các truyện truyền kì. Đây
là một ví dụ khác, cũng trích từ Thánh Tông di thảo, trong truyện Ngọc nữ về tay
chân chủ. Lời đối thoại này là lời của người đến xin thi tài kén rể của Ngọc Hoàng,
đối thủ của Sơn thần và Thủy thần: “… Quỷ thần ở núi sông chỉ là một vật ở nơi đó
thôi. Múa trí khoe tài, sao đáng đếm xỉa trong vòng trời đất? Sao không xem: ngôi
cao vòi vọi mà những người chiêm ngưỡng chỉ sợ đi sau, lượng bể bao la mà những
kẻ lại chầu tranh nhau đến trước. Tài trí trong thiên hạ, đều là tài trí của một
người. Núi đúc khí thiêng, mong được tận trung mọi việc; sông theo dòng lớn, đâu
không hiếu thuận một niềm. Thảng hoặc có thỏ nấp trong núi, kình múa ngoài khơi
thì sai người văn thần trọng vọng, cử người võ tướng lược thao. Bày trận theo thế
rắn thường sơn, hành quân như nước dòng Giang hán. Núi có thể bạt đi, gò có thể
san bằng, nước lớn có thể bắt lui, sông to có thể cắt đứt. Bấy giờ sông yên núi vững,
chỉ thấy một vẻ thanh cao. Thái Sơn Hoàng Hà, ghi thề đới lệ; Ngũ nhạc Tứ độc,
giữ lễ công hầu. Bước lên núi cao tỏ lòng trung với trời, oai trùm biển rộng, nào ai
dám chống. Thiên tử trị bên ngoài, hoàng hậu trị bên trong, hải vật sơn hào, hưởng
những vị ngon trong thiên hạ. So với bọn một gáo nước đã khoe nhiều, một nắm đá
đã khoe lớn, khác nhau biết là chừng nào?” [25,tr.196] Bằng việc dùng những câu
văn có các vế đối nhau trong lời nói của nhân vật, tác giả tạo nên giọng điệu hùng
104
hồn, khinh bạc cả thần linh ở nhân vật vốn là người trần này. Qua đó, khẳng định
sức mạnh lớn lao hơn cả đấng siêu nhiên của con người. Kiểu câu văn miêu tả, kể
chuyện và lời đối thoại có tính biền ngẫu này rất dễ tìm thấy trong Truyền kì mạn
lục . Hầu như mỗi truyện trong Truyền kì mạn lục đều có kiểu câu này. Đặc biệt,
kiểu câu văn biền ngẫu xuất hiện nhiều trong những lời luận bàn về việc trị nước, an
dân, về tình hình chính sự, làm tăng tính chính luận của câu chuyện. Đồng thời, tư
tưởng, quan niệm của nhân vật trong truyện cũng như của tác giả được khẳng định
rõ ràng, dứt khoát hơn. Đây là lời của quan Thừa chỉ Hồ Tông Thốc: “Lẽ trời việc
người, cũng là đầu cuối lẫn cho nhau. Bảo mệnh ở trời, Thương Trụ vì thế mà mất
nước; bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì thế phải bỏ mình. Nay nhà vua bỏ việc người
mà bàn lẽ giời, vì thế đã đến tán bại vẫn không tỉnh ngộ…” [11,tr.13] Xen vào trong
lời bàn của mình câu văn có hai vế đối nhau, cùng dẫn chứng cụ thể từ lịch sử
Trung Quốc, quan Thừa chỉ đã khẳng định mạnh mẽ quan niệm của mình: con
người, cụ thể là nhân dân, là yếu tố quyết định sự hưng vong của quốc gia, vì vậy,
đó phải là mối quan tâm hàng đầu của người trị quốc. Cùng với lời khẳng định đó,
thái độ phê phán sắc sảo đối với chính sách cai trị của Hạng Vương cũng được thể
hiện. Những lời thoại dạng này ta cũng có thể tìm thấy trong các truyện Câu chuyện
đối đáp của người tiều phu núi Na, Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, Chuyện
tướng Dạ Xoa… và trong các truyện Ve sầu và nhặng xanh, Con chó nhà nghèo có
nghĩa của Tân truyền kì lục. Lời đối đáp giữa ve sầu và nhặng xanh đều được dựng
bằng những câu văn biền ngẫu đầy chất chính luận thể hiện mạnh mẽ quan niệm
sống của mỗi con vật, cũng là cách sống của hai kiểu người trong xã hội bấy giờ:
bậc chính nhân quân tử và kẻ tiểu nhân cơ hội. Lời của chú chó Hàn Lư trong Con
chó nhà nghèo có nghĩa đáp lại lời phú ông khi có xen những câu văn có đối cũng
trở nên rõ ràng, dứt khoát hơn. Trở lại với Truyền kì mạn lục, lời của Dương Trạm
(Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào) khi trò chuyện với Phạm Tử Hư học trò
mình về lẽ luân hồi gần như được xây dựng toàn bằng câu văn biền ngẫu: “Trồng
dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Lười trời thênh thang, thưa nhưng chẳng lọt.
Chỉ cho rằng thời gian chưa đến mà thôi. Nay ta bảo rõ có anh nghe: trong khoảng
105
trời đất báo ứng luân hồi, chỉ có hai loài thiện ác. Người chăm làm thiện, tuy hãy
còn sống, tên đã ghi ở Đế Đình; người hay làm ác, không đợi đến chết, án đã thành
ở Địa Phủ. Cho nên Nhan Hồi lúc sống ở trong ngõ hẻm mà chết làm chức Tu văn,
Vương Bàng ngày thường có nết kiêu ngoan mà chết phải máu rây mặt đất...”
[11,tr.146] Xây dựng lời thoại của nhân vật bằng những câu văn cân xứng, đối
nhau, Nguyễn Dữ đã phần nào cho ta thấy đặc điểm của nhân vật: một xử sĩ chân
chính, nắm rõ đạo đời, đồng thời, ý khuyên răn trong câu nói của nhân vật dành cho
học trò mình và cho cả người đọc cũng có sức nặng hơn. Lời khấn của nhân vật Vũ
Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương trước khi nhảy sông Hoàng Giang
tự tử cũng được xây dựng bằng những câu văn có những vế đối nhau: “Kẻ bạc mệnh
này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc
nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh
bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ.
Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên
xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ
nhổ.”[11,tr.220] Cách sử dụng vế đối trong lời khấn của nhân vật gây ấn tượng cho
người đọc về một người phụ nữ tuy xuất thân là “con nhà kẻ khó” nhưng là người
có học thức, biết lễ nghĩa; hơn nữa, các vế câu đối nhau tạo nhịp điệu cân phân
trong lời độc thoại của nhân vật càng nhấn mạnh thêm tâm sự cũng là làm nổi bật
thêm tấm lòng trinh bạch của nàng. Truyền kì tân phả cũng sử dụng kiểu câu có
những vế đối như thế. Nàng cung phi Nguyễn Cơ (truyện Hải khẩu linh từ), trong
lời tự than, cũng dùng câu văn biền ngẫu: “Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ; đã
không lấy lòng trung can gián nổi để giữ nền bình trị, lại không lấy lời khéo ngay
để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa trên cõi đất trời vậy.” [25,tr.332] Lời tâu
của nàng với vua Trần cũng xen vào những câu có đối như vậy: “Có duyên may
được hầu chăn gối, dám tiếc cái chết để nghĩa phụ phàng; không phải Cai trướng
ngậm oan, cũng khác Ngôi đình nuốt giận…”. Những lời độc thoại, đối thoại như
thế góp phần khắc họa rõ nét hơn tính cách nhân vật, một con người thông minh,
giỏi văn chương và khí tiết cứng cỏi. Trên đây chúng tôi dẫn ra một số dẫn chứng là
106
lời thoại của các nhân vật. Nhưng như trên đã nói, kiểu câu văn biền ngẫu không
phải chỉ có trong các lời đối thoại mà trong lời kể, lời tả của người kể chuyện. Sử
dụng kiểu câu văn này trong lời kể, tả của mình, người kể chuyện sẽ gây được ấn
tượng mạnh hơn nơi người đọc về đối tượng được miêu tả hay sự kiện được kể.
Điều này ta ít khi bắt gặp trong truyện dân gian hoặc những tác phẩm lịch sử. Dùng
cách viết sóng đôi trong đoạn văn kể và tả này, tác giả Thánh Tông di thảo đã nhấn
mạnh vẻ đẹp của nàng tiên Mộng Trang, công chúa của Hoa quốc: “Chu sinh ngồi
đối diện cùng Mộng Trang. Chàng nhìn kĩ Mộng Trang thì thấy, tuyết hờn thua
trắng, ngọc thẹn kém trong, ngón tay búp măng thon thon, hàm răng hạt bầu nho
nhỏ. Nếu không là gái dưới trăng Dao Đài, thì cũng là tiên trên núi Quần Ngọc,
trần gian làm gì có người như vậy…” [25,tr.168]. Cũng trong truyện này, ở phần
cuối, để thể hiện niềm hạnh phúc khi vợ chồng được đoàn tụ, người viết lại một lần
nữa dùng câu văn biền ngẫu: “Bấy giờ Chu sinh và Mộng Trang ngồi đối ẩm với
nhau. Một người nhạn sa cá lặn, nàng tiên rạng vẻ trong phòng; một người ưng vút
hổ gầm, ông tướng thành công ngoài cõi. Bao năm xa cách, một buổi trùng phùng,
phú quý nhà trời, thần tiên quyến luyến, tình nồng rượu nhạt, mắt liếc mày
đưa…”[25,tr.176] Để khắc họa sinh động bản chất tham tàn bất nhân của Lí Hữu
Chi (Chuyện Lí Tướng quân – Truyền kì mạn lục), Nguyễn Dữ cũng chọn cách sắp
xếp những vế đối nhau trong cùng một câu, một đoạn khi kể về nhân vật này: …dựa
lũ trôm cướp như lòng ruột/ coi người nho sĩ như kẻ thù; thích sắc đẹp/ ham tiền
tài…; khai đào đồng nội để làm ao/ dồn đuổi xóm giềng cho rộng đất… Và đây là
một đoạn trong Vân Cát thần nữ của Truyền kì tân phả, câu văn biền ngẫu được
dùng để miêu tả chốn tiên cảnh, cùng với lời văn nhiều hình ảnh khiến cho đoạn văn
miêu tả vừa sinh động vừa mang sắc màu lãng mạn: “Trên bàn lưu li để quả đào
Vương mẫu, trong bầu mã não đựng thuốc tiên “Lão quân”. Vua Diêm La cống cây
báu; chúa Động Đình dâng ly châu, các thức vật kì lạ chốn nhân gian chưa từng có
bao giờ.” [37,137] Kiểu miêu tả này ta cũng gặp trong Hải khẩu linh từ, An Ấp liệt
nữ.
107
Chất nghệ thuật mang tính trang nhã theo đặc trưng thi pháp văn học trung đại,
cho thấy một bước tiến trong nghệ thuật văn xuôi tự sự ở thể loại truyền kì, so với
những tác phẩm truyện, kí trước khi thể loại này xuất hiện, còn thể hiện ở việc câu
văn truyền kì dùng nhiều hình ảnh, nhiều điển cố. Bằng cách nói giàu hình ảnh,
dùng nhiều điển cố, các tác giả truyền kì không chỉ khiến câu chuyện thêm phần
sinh động, hấp dẫn mà còn có thể diễn đạt được những ý tứ sâu sắc, những điều khó
nói bằng cách nói ngắn gọn. Ngay trong những lời đối thoại và lời văn miêu tả đã
được dẫn chứng ở trên cũng cho thấy rõ đặc điểm này. Chẳng hạn, hình ảnh nhân
hóa được dùng trong đoạn miêu tả nàng tiên bướm Mộng Trang (truyện Duyên lạ
xứ Hoa – Thánh Tông di thảo) mà chúng tôi đã dẫn ở trên giúp người đọc hình dung
rõ hơn vẻ đẹp hơn người, hiếm có của nhân vật này. Lời của người đến thi tài chọn
rể trong Ngọc nữ về tay chân chủ dùng nhiều hình ảnh và nhắc đến nhiều điển xưa:
“…Bày trận theo thế rắn thường sơn, hành quân như dòng nước Giang Hán. Núi có
thể bạt đi, gò có thể san bằng, nước lớn có thể bắt lui, sông to có thể cắt đứt. Bây
giờ sông yên núi vững, chỉ thấy một vẻ thanh cao. Thái Sơn Hoàng Hà, ghi thề đới
lệ; Ngũ nhạc Tứ độc, giữ lễ công hầu. Bước lên núi cao tỏ lòng trung với trời, oai
trùm biển rộng, nào ai dám chống…” [25,tr.196]. Những hình ảnh thế rắn thường
sơn, dòng nước Giang Hán, bạt núi, san gò và điển tích Thái Sơn Hoàng Hà, lời thề
đới lệ… khắc họa được sức mạnh lớn lao của con người. Đó là sức mạnh dời non
lấp bể, sức mạnh giữ vững nền bình trị. Hiểu được ý nghĩa điển tích được sử dụng,
ta sẽ thấy được nội dung này. Điển kể rằng: Hán Cao Tổ lên làm vua, thề với các
công thần: Hoàng Hà như đới, Thái Sơn như lệ, quốc dĩ vĩnh tồn, viên cập miêu
duệ; nghĩa là Hoàng Hà như cái dải lưng, Thái Sơn như hòn đá mài, nhà nước còn
mãi đến con cháu đời sau. Như vậy, bằng việc dùng điển cố và cách nói hình ảnh,
tác giả đã diễn đạt một cách hàm súc và sinh động về tài trí của con người. Một
điểm đáng lưu ý là trong những lời bàn luận về chính sự, đạo lí của các nhân vật
thường dẫn những điển cố, điển tích. Ví dụ như lời của Trương Công trong Câu
chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na: “... Cho nên tất cả bức tiếu tượng đi tìm
rồi sau đồng Thương mới thấm nước, tất có cỗ hậu xa đi chở rồi sau nội Mục mới
108
thành công. Nay phu tử lấy tấm thân vàng ngọc ôm một bọc kinh luân, ngoài vòng
vinh lợi, vùi lấp tiếng tăm trong đám ngư tiều, giấu tài trí trạch náu mình chốn rừng
suối, vang tiếng đến cửu trùng, đốt nón lá, xé áo tơi, nay chính là đến lúc rồi đó.
Dám xin bỏ bờ đập Phó Nham, ném cần câu Vị Thủy, đừng để uổng hoài khát vọng
của bao kẻ thương sinh.”[11,tr.174] Trong lời dụ của mình, Trương Công lấy câu
chuyện vua Cao Tông nhà Thương mời Phó Duyệt về làm tướng theo như điềm báo
của Thượng Đế, Văn Vương nhà Chu tôn Lã Vọng làm bậc thầy để thuyết phục
người ẩn sĩ ra giúp Hồ Quý Li. Dùng những câu chuyện cũ được lưu truyền lâu đời
để làm lí lẽ cho lập luận của mình, phải chăng lời lập luận của nhân vật sẽ thêm sức
nặng? Điều này có thể tìm thấy trong lời của Tử Hư, Dương Trạm (Chuyện Phạm
Tử Hư lên chơi thiên tào – Truyền kì mạn lục), của Trương Công và người tiều phu
(Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na – Truyền kì mạn lục), của Lê Ngộ
và Dĩ Thành (Chuyện tướng Dạ Xoa – Truyền kì mạn lục), giữa ve sầu và nhặng
xanh (Ve sầu và Nhặng xanh – Tân truyền kì lục). Có khi, cách nói giàu hình ảnh và
những điển cố được sử dụng có tác dụng làm cho câu chuyện thêm phần chân thật,
sinh động và khắc họa rõ hơn cảnh ngộ, tính cách nhân vật. Lời than của nàng Vũ
Thị Thiết khi bị chồng nghi oan có nhiều hình ảnh quen thuộc nhưng vẫn đầy sức
biểu cảm đã cho thấy rõ hơn cảnh ngộ đau đớn của nàng và khiến người đọc cảm
động trước nỗi oan tình, nỗi đau hạnh phúc tan vỡ của nàng: “Thiếp sở dĩ nương tựa
vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng
nên non. Nay đà bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm
buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa.” [11,tr.219] Lời khấn của
nàng trước bến Hoàng Giang với những điển cố: ngọc Mị Nương, cỏ Ngu mỹ cũng
nhấn mạnh tấm lòng trinh bạch và dễ được người đọc thấu hiểu, cảm thông vì
những điển cố ấy không hề xa lạ. Đặc biệt, trong Truyền kì tân phả, những đoạn
miêu tả cảnh vật với nhiều hình ảnh cụ thể, sinh động cũng góp phần diễn tả tâm
trạng nhân vật. Khung cảnh thiên nhiên trong đoạn văn sau được miêu tả với những
hình ảnh thê lương, ảm đạm như báo một điềm dữ sắp xảy đến và gợi lên nỗi sợ hãi
109
trong tâm trạng nhân vật Bích Châu trong đêm trước ngày nàng hiến mình cho đô
đốc Nam Minh: “Khi ấy đang cuối mùa đông, mưa tuyết mới tạnh, trăng mờ mờ
sáng, tiếng gió tiêu điều, cá bơi lượn đớp bóng cây mai, chim về tổ đan cành cổ
thụ…” Cũng dùng lời văn giàu hình ảnh như vậy để miêu tả một đêm thu sau khi
chồng mất, Đoàn Thị Điểm đã khắc họa chân thật và xúc động nỗi niềm thương nhớ
lang quân của Đinh phu nhân (An Ấp liệt nữ): “Một hôm, phu nhân đốt đèn ngồi một
mình, khi ấy là mùa thu muộn, gió vàng hiu hắt, cây khuya xào xạc, sâu tường nỉ
non, tiếng đập vải lạnh lùng như giã vào lòng người cô phụ, trăng suông như giọi
vào giọt lệ Vương sinh. Nỗi thương tâm khiến phu nhân đờ đẫn, nhìn đâu cũng toàn
thấy cảnh sầu…”[25,tr.356] Một điều độc đáo là ở những truyện truyền kì đề cập
đến tình yêu nam nữ, khi tả cảnh ái ân, để đảm bảo tính thanh nhã theo thi pháp văn
chương trung đại, tác giả dùng những hình ảnh bóng gió kín đáo để miêu tả. Nhờ
vậy, dù nói về chuyện ân ái hoan lạc nhưng lời văn vẫn tế nhị, kín đáo và người đọc
vẫn hoàn toàn hiểu được. Chẳng hạn như ở các truyện Chuyện cây gạo, Chuyện kì
ngộ ở trại Tây. Ta đọc lại lời nàng Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo hay lời hai
nàng Đào Liễu trong Chuyện kì ngộ ở trại Tây sẽ thấy được điều này: “Nay dám
mong quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía
rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút…” (Chuyện cây gạo); “Chúng
em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉn e mưa gió nặng nề, hoặc không
kham nổi cho tấm thân hoa mềm yếu” (Chuyện kì ngộ ở trại Tây). “Quạt hơi dương
vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô”; “việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn
phong”… đều là cách nói ẩn dụ về chuyện ái ân. Tuy tác giả dùng hình ảnh ẩn dụ
nhưng ta vẫn thấy toát lên sự táo bạo của nhân vật trong việc thể hiện tình cảm của
mình.
Như vậy, có thể nói, những hình ảnh, những điển cố được vận dụng trong lời kể,
lời thoại của truyện truyền kì mang đến nhiều tác dụng khác nhau làm tăng giá trị
nghệ thuật của từng tác phẩm, đồng thời khẳng định vị trí của thể loại này trong tiến
trình văn học nước ta.
110
Tính nghệ thuật trong ngôn ngữ truyện ngắn truyền kì còn thể hiện qua việc kết
hợp giữa văn xuôi và văn vần. Tuy thuộc loại hình tự sự, rất nhiều truyện ngắn
truyền kì lại có sự góp mặt của không ít các câu thơ, bài thơ, từ. Những bài thơ, từ
này có khi là của các nhân vật trong truyện sáng tác, xướng họa cùng nhau, có khi là
của người kể chuyện xen vào thể hiện sự đánh giá của mình về đối tượng được kể.
Chúng tôi có làm một thống kê nhỏ và nhận thấy: trong số 9 truyện của Thánh Tông
di thảo đã có 6 truyện có xen thơ, từ; trong 20 truyện của Truyền kì mạn lục có 12
truyện. Tỉ lệ này ở Truyền kì tân phả là 4/4, ở Tân truyền kì lục là 2/2; chỉ riêng Lan
Trì kiến văn lục là không có hiện tượng này. Số lượng những bài thơ được xen vào
trong mỗi truyện không giống nhau; ít thì bốn câu, một, hai bài; nhiều thì có khi lên
đến hàng chục bài như Chuyện nghiệp oan của Đào thị (Truyền kì mạn lục), Cuộc
nói chuyện thơ ở Kim Hoa (Truyền kì mạn lục) hay An Ấp liệt nữ, Vân Cát thần nữ
(đều thuộc Truyền kì tân phả). Có khi tác giả không đưa thơ vào trong truyện ngắn
của mình mà xen những bài văn có vần, nhịp như trường hợp Chuyện Lệ Nương
trong Truyền kì mạn lục. Sự xuất hiện khá đậm đặc của các bài thơ, từ, ca… vừa
cho thấy có sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình trong văn xuôi tự sự trung đại,
vừa thể hiện được tài hoa của tác giả, mặt khác cũng làm cho truyện truyền kì thêm
phần uyển chuyển, mềm mại rất hợp với yêu cầu trang nhã của thi pháp trung đại.
Nhiều bài thơ trong các truyện ngắn truyền kì không chỉ nhằm thể hiện tài năng văn
chương thơ phú của nhân vật mà còn góp phần bộc lộ tâm trạng nhân vật, làm tăng
tính chất trữ tình của truyện đồng thời cũng cho thấy một bước tiến mới trong nghệ
thuật tự sự trung đại khi các tác giả không chỉ đơn thuần ghi chép sự kiện mà còn
chú ý đến đời sống riêng, diễn biến tâm lí của nhân vật, đưa loại hình tự sự Việt
Nam thời trung đại đến gần hơn với hiện đại. Truyện Tinh chuột trong Thánh Tông
di thảo vừa dẫn thơ Kinh thi, vừa có bài thơ do nhân vật sáng tác:
“Nhớ ai như thiết như tha,
Cắt mà chẳng đứt mài mà chẳng phai.
Cắt mài lòng những nhớ ai,
Cao cao hơn núi, dài dài hơn mây.
111
Hỏi nàng, nàng phỏng có hay,
Lòng vương chốn cũ, hồn bay quê người.
Để ta dạ những bồi hồi,
Nằm thời biếng ngủ, ăn thời chẳng ngon.
Đêm đông ngày hạ bồn chồn,
Người xa một khắc, tình dồn ba thu.
Biệt ly trời khéo vẽ trò,
Vắng tanh thư nhạn, tịt mù tin ngư…”
Tuy không thật đặc sắc nhưng bài thơ đã khắc họa được tình cảnh xa cách và
tấm lòng thương nhớ thủy chung của người chồng dành cho vợ mình. Câu chuyện
được kể nhờ vậy bớt đi rất nhiều phần khô khan. Trong truyện Duyên lạ xứ Hoa, để
thể hiện thái độ thú vị trước sự việc lạ kì (cứ ba mươi ngày thì mười ngày Chu sinh
nằm mộng thấy đến thăm Hoa quốc), tác giả bình bằng một bài thơ: “Thật là:
Mộng đến thăm nước Hoa
Tỉnh dậy lại làm thơ.
Bếp chẳng hề đỏ lửa
Dung nhan đẹp quá xưa.”
Và để thể hiện nỗi thẫn thờ tiếc nuối của Chu sinh khi phải xa cách Mộng Trang,
người kể chuyện để nhân vật đề thơ lên vách bày tỏ nỗi niềm:
“Xứ Hoa duyên lạ đã mấy thu
Mà nay tâm sự nguội như tro,
Xe rồng, kiệu phượng về đâu tá?
Giấc mộng canh tàn đến nữa ru.”
Lời bài ca do nàng Ngọa Vân hát khi phải từ biệt gia đình chồng nghe thật bi
thương, khiến người đọc cảm động trước tấm lòng son sắt hiếu thuận, hết lòng vì
gia đình chồng của nàng. Có lẽ, nếu bỏ đi bài ca này, giá trị đó có phần giảm sút:
“Từ ngày thay áo lạy cô chương
Cách tháng về nhà chàng,
Trăm năm ân ái ngày còn trường
112
Bỗng đâu cơn bão táp,
Biển cả sóng điên cuồng,
Rào rạt mênh mang.
Thời ấy, thế ấy,
Không lấy thân đương,
Thì cô chương, thì hiền lang,
Chôn trong bụng cá rất bi thương.
Thiên cơ đã lộ,
Lại e cha mẹ mắc tai ương,
Làm sao giữ được cảnh đồng sàng?
Thúc Ngư lang!
Trời một phương!
Ghi nhớ trong tâm trường:
Trước song chẳng quản trăng soi bóng,
Nhắn nhủ hoa mai tự chủ trương.
Ông xanh, ông xanh sao phũ phàng.”
Đặc biệt, trong Truyền kì mạn lục, việc vận dụng thơ từ một cách hợp lí (đúng
lúc, dung lượng vừa phải) đã làm tăng giá trị nghệ thuật của tác phẩm, đưa tác phẩm
này lên hàng tác phẩm tiêu biểu của loại hình tự sự thời trung đại nói chung và thể
loại truyền kì nói riêng. Bởi lẽ, bằng việc xen thơ, từ vào trong truyện ngắn của
mình, Nguyễn Dữ có thể đi sâu vào miêu tả nội tâm nhân vật thông qua các bài thơ
đó, bên cạnh đó, tính cách riêng của nhân vật cũng được khắc họa rõ nét, sinh động
và chân thật hơn. Tình yêu son sắt chung thủy của chàng Dư Nhuận Chi đối với
nàng Túy Tiêu đã được bộc lộ một cách chân thành qua nỗi nhớ gửi trong lời thơ
khi nàng bị Thân Trụ quốc bắt đi:
“…Trông ai nước mắt thầm rơi
Tấc gang bỗng cách đôi nơi mịt mùng.
Cửa hầu sâu thẳm nghìn trùng
Sớm hôm khách những riêng lòng ngẩn ngơ
113
Tình xưa kể đến bao giờ
Cảm sâu mọi mối như tơ rối bời
Thơ ngâm nhớ bữa tiệc mời
Giọng ca lanh lảnh để người như say.
…
Chim hồng buồn bã kêu sương,
Mây Tần thăm thẳm xa buông tối mù.
Người nương trướng gấm êm ru
Người ôm một mảnh chăn cù giá đông.
….”
Và đây là nỗi sầu li biệt của người phụ nữ:
“… Bến Nam cỏ áy bóng tà
Vườn Tây một rặng mai già khóc mưa
Cỏ cây rầu rĩ tiêu sơ
Chàng về thiếp luống ngẩn ngơ tâm hồn.
Vì chàng hát khúc nỉ non
Biệt li để nặng đau buồn cho ai.”
Đinh phu nhân (An Ấp liệt nữ) trong những ngày xa chồng cũng gửi nỗi niềm u
sầu nhung nhớ vào những bài thơ, hành, bài ca chất chứa tâm sự.
Không dùng đến những đoạn độc thoại nội tâm, không có những câu văn khắc
họa rõ nỗi niềm trăn trở ưu tư, nhưng tâm tư tình cảm của nhân vật đã được thể hiện
một cách súc tích qua những bài thơ này. Nhiều bài thơ trong các truyện ngắn
truyền kì như là lời phát ngôn cho quan niệm của nhân vật, và có thể, là của chính
tác giả. Ví như bài thơ Thích ngủ và bài thơ Thích cờ của người tiều phu trong Câu
chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na, hay bài thơ đề ở đền Hạng Vương của
quan Thừa chỉ Hồ Tông Thốc. Từ đó cũng góp phần thể hiện tính cách riêng của
nhân vật. Ở người tiều phu núi Na, đó là tính cách phóng khoáng, ưa tự do, không
thích bị trói buộc bởi lợi danh quan trường; ở quan Thừa chỉ họ Hồ là tinh thần dân
tộc mạnh mẽ, thể hiện cái nhìn khinh bạc đối với Hạng Vũ, đối chọi với ngòi bút tán
114
tụng của Tư Mã Thiên.
Cùng với những bài thơ để nhân vật bày tỏ nỗi lòng, Truyền kì mạn lục còn có
rất nhiều bài thơ xướng họa giữa các nhân vật, chủ yếu là giữa những đôi tình nhân.
Các bài thơ cho thấy tài thơ phú của những khách má hồng trong truyện, như một
cách ngợi ca người phụ nữ. Có thể thấy hiện tượng này trong các truyện: Chuyện kì
ngộ ở trại Tây, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị; và cũng tìm thấy trong Vân Cát
thần nữ (Truyền kì tân phả). Một điểm đáng lưu ý là, trong những câu chuyện tình
yêu nam nữ, nhà thơ thường để nhân vật, lại là nhân vật nữ, tả lại cảnh hoan lạc
chốn buồng khuê bằng những bài thơ. Điều đó cho thấy sự táo bạo, ý thức chống
đối lại trật tự, lề thói xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cuộc hoan lạc của Trình Trung
Ngộ và Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo đã được Nhị Khanh ghi lại bằng hai bài
thơ, ở đây xin trích một bài:
“Giấc xuân mê mệt chốn hoang liêu,
Bỗng sượng sùng thay cuộc ấp yêu
Măng ngọc vuốt ve nghiêng xuyến trạm
Dải là cổi tháo trút hài thêu.
Mộng tàn gối bướm bâng khuâng lạc
Xuân hết cành quyên khắc khoải kêu
Đồng huyệt chưa tròn nguyền ước ấy
Vì nhau một thác sẵn xin liều.”
Nàng Liễu, nàng Đào (Chuyện kì ngộ ở trại Tây) trong lúc gối êm chăn gấm đã
ngâm hai bài thơ, được Hà Nhân khen rằng: “Tình trạng trong chốn buồng xuân, tả
đến thế thì thật là tuyệt diệu, lời hoa ý gấm, tôi khó lòng theo kịp hai nàng.”
[11,tr.61]
Quả thật, nói đến giá trị nghệ thuật ngôn từ trong truyền kì không thể không kể
đến đặc điểm này: sự đan xen của thơ ca trữ tình trong một câu chuyện kể. Những
bài thơ được viết trong các truyện truyền kì đã vượt thoát khỏi kiểu thơ ca dân gian
như ca dao, dẫu rằng không quá đặc sắc, chưa đạt đến đỉnh cao nghệ thuật như
những tác phẩm thơ độc lập của nhiều tác giả thơ khác thời trung đại nhưng vẫn
115
mang một giá trị thẩm mĩ nhất định, khẳng định một bước tiến của văn xuôi tự sự
trung đại ở thể loại truyền kì so với những tác phẩm truyện kí xuất hiện trước nó.
3.2.2.2. Kết cấu truyện truyền kì chặt chẽ sinh động, có khi giàu kịch tính, có
nhiều chi tiết đắt, đầy ý nghĩa.
Như trong phần trên chúng tôi đã phân tích, truyện truyền kì thường có kết
cấu theo trật tự tuyến tính, diễn biến truyện được sắp xếp theo trình tự thời gian như
truyện dân gian. Nhưng không vì vậy mà truyện truyền kì đơn điệu, ngược lại, có
nhiều truyện ngắn truyền kì có kết cấu rất chặt chẽ, sinh động và giàu kịch tính. Các
sự kiện trong truyện nối tiếp nhau, xây dựng các mâu thuẫn xung đột ngày một cao
để đẩy đến cao trào và “tháo nút” như đặc điểm chung của loại hình tự sự trung đại.
Tuy nhiên, do đặc trưng của thể loại, trật tự tuyến tính này có những lúc bị phá vỡ
vì không gian trong truyền kì là không gian vô biên, thời gian trong truyền kì có khi
là thời gian phi tuyến tính với độ đàn hồi cao. Những khi đó, từ hiện tại, người đọc
có thể được đưa trở về quá khứ “kiếp trước” hoặc bay đến tương lai “kiếp sau” của
nhân vật.
Nhìn chung, nếu xét về độ đơn giản hay phức tạp của kết cấu truyện, có thể chia
truyện truyền kì thành hai loại: loại có tính chất luận thuyết với kết cấu đơn giản, ít
tình tiết, ít nhân vật, cốt truyện chủ yếu xoay quanh cuộc tranh biện giữa hai hay
nhiều nhân vật. Loại thứ hai có kết cấu phức tạp hơn, tình tiết phong phú, nhiều
nhân vật. Tính chất nghệ thuật của loại hình tự sự trung đại trong truyện truyền kì
thể hiện rõ ở loại truyện thứ hai này hơn. Nói như thế không có nghĩa là hoàn toàn
phủ nhận giá trị nghệ thuật của loại truyện thứ nhất. Đồng ý rằng kết cấu cốt truyện
và diễn biến của loại truyện này khá đơn giản nhưng chúng vẫn có sức hấp dẫn
riêng. Nội dung tranh biện của các nhân vật trong truyện thường là các vấn đề đạo
đức, chính trị, xã hội. Các tác giả thông qua lời tranh biện của nhân vật mà thể hiện
quan điệm của mình. Tính cách và tâm lí nhân vật được thể hiện qua những đoạn
đối thoại thuyết lí nên khá đơn giản, sơ lược. Tuy nhiên, cách lập luận hùng hồn,
tranh luận sắc sảo, đối thoại sinh động và nhờ các yếu tố thần kì được sử dụng một
cách khéo léo mà những truyện này, dù mang tính chất luận thuyết nhưng không
116
khô khan, nặng nề, mà có sức hấp dẫn của loại văn chính luận hình tượng. Truyện
Hai Phật cãi nhau trong Thánh Tông di thảo; truyện Câu chuyện ở đền Hạng
Vương, Chuyện bữa tiệc đêm ở Hà Giang, Câu chuyện đối đáp của người tiều phu
núi Na trong Truyền kì mạn lục, truyện Ve sầu và Nhặng xanh, Con chó nhà nghèo
có nghĩa trong Tân truyền kì lục có thể xếp vào loại truyện này. Những truyện trên
đều ít tình tiết, diễn biến truyện không có tình tiết gay cấn, chủ yếu kể về việc gặp
gỡ, đối thoại giữa các nhân vật từ đó vừa bộc lộ được tính cách nhân vật vừa nêu
lên được quan điểm của tác giả. Truyện Hai Phật cãi nhau kể về việc vua Lê Thánh
Tông, một năm lụt to, đi phát chẩn cho dân nghỉ đêm ở một chùa và nửa đêm chứng
kiến hai vị Phật bằng đất và Phật gỗ tranh cãi nhau. Phật đất mắng Phật gỗ là đồ bất
lực, không đủ tài phép để ngăn lũ đến nỗi phải trôi nổi bồng bềnh; Phật gỗ mắng lại
rằng lụt hạn là do thiên tai, hơn nữa trong cảnh lụt lội thì tượng gỗ cứ theo mực
nước mà lên xuống không có gì hại đến “chân thân” cả. Hai Phật còn đương cãi
nhau thì Phật Thích Ca, tay cầm bầu rượu, dáng say lảo đảo bước vào trách cả hai
đều là đồ vô dụng, chỉ biết ngồi hưởng rượu thịt của dân cúng tế. Cốt truyện chỉ có
vậy, rất đơn giản. Thế nhưng, qua lời đối đáp của các tượng Phật, người đọc vẫn có
thể thấy được quan điểm của người kể chuyện về sư sãi trong xã hội khi ấy: chỉ là
những kẻ vô dụng và bẻm mép. Câu chuyện ở đền Hạng Vương là cuộc tranh luận
giữa quan Thừa chỉ nước Việt đang đi sứ Trung Quốc, Hồ Tông Thốc, với Hạng
Vương. Khi Hạng Vương cho rằng hưng vong của một triều đại là do trời định, Hồ
Tông Thốc đã phê phán bằng những lời hùng hồn, sắc sảo khiến cho Hạng Vương
phải tái mặt không thể đối đáp: “Lẽ trời việc người, cũng là đầu cuối lẫn cho nhau.
Bảo mệnh ở trời, Thương Trụ vì thế mà mất nước; bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì
thế mà bỏ mình. Nay nhà vua bỏ việc người bàn lẽ giời, vì thế mà đến tán bại vẫn
không tỉnh ngộ…” [11,tr.13] Cũng vậy, Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang là cuộc
tranh luận giữa tú tài họ Viên, xử sĩ họ Hồ với Hồ Quý Ly mà ở đó quan điểm phê
phán vua Trần Phế Đế có thói ham mê săn bắn, không lo đến cuộc sống nhân dân
của tác giả đã được khẳng định một cách mạnh mẽ bằng những lí lẽ chặt chẽ, Câu
chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na cũng hấp dẫn người đọc bằng những lời
117
hùng biện đầy thuyết phục của nhân vật người tiều phu trước Trương Công. Truyện
Ve sầu và nhặng xanh tuy mở đầu là bằng việc ông Nguyễn Gia Hiến được uống
tiên đan mà nghe hiểu được tiếng loài vật, nhưng chủ yếu lại kể về cuộc tranh luận
giữa ve và nhặng với những lời phê phán sắc sảo của ve sầu trước thói cơ hội, bần
tiện của nhặng xanh. Từ đó, tác giả Phạm Quý Thích nêu lên quan điểm của mình
về kẻ sĩ chân chính: phải như loài ve kia biết được thanh cao mà tự giữ lễ nghĩa, gìn
giữ thân mình, coi trọng cương thường.
Loại truyện thứ hai với kết cấu phức tạp, tình tiết phong phú hơn là nơi thể hiện
rõ tính nghệ thuật trong việc xây dựng kết cấu truyện truyền kì. Mặc dù kết cấu các
truyện truyền kì được xây dựng theo công thức rất quen thuộc của văn xuôi tự sự
trung đại: mở đầu, diễn biến với những sự việc chứa đựng những mâu thuẫn liên
tiếp nhau được đưa đến cao trào và giải quyết mâu thuẫn, kết thúc; chưa phải là kiểu
kết cấu theo dòng tâm lí, kết cấu truyện lồng trong truyện, kết cấu đảo ngược thời
gian… như truyện hiện đại sau này nhưng thật sự nhiều truyện truyền kì, nhất là
trong Truyền kì mạn lục, đủ sức hấp dẫn người đọc bởi diễn biến sinh động, giàu
kịch tính, tình tiết phong phú; qua đó, tính cách và số phận nhân vật được khắc họa
sắc nét. Những sự kiện, diễn biến trong nhiều truyện truyền kì được sắp xếp khéo
léo, dẫn dắt người đọc dõi theo những mâu thuẫn hoặc xung đột truyện có khi lên
đến đỉnh điểm rồi bất ngờ mở nút, mâu thuẫn được giải quyết, truyện kết thúc gây
bất ngờ cho người đọc. Dưới đây là vài ví dụ. Truyện ngắn Tinh chuột trong Thánh
Tông di thảo chẳng hạn. Tác giả mở đầu truyện bằng việc trình bày về hoàn cảnh
hai nhân vật: hai vợ chồng vừa cưới nhau được nửa năm, chồng theo lời cha mẹ, từ
biệt gia đình trọ học xa nhà. Mâu thuẫn trong truyện bắt đầu với sự kiện một đêm
người chồng trèo tường vào nhà, không thăm mẹ cha, chỉ để gặp vợ rồi sau đó cứ
cách đêm lại về, ngoài vợ, trong nhà không ai hay. Mâu thuẫn được đẩy lên cao khi
người vợ ngày một gầy ốm, cha mẹ chồng viết thư bảo con trai về nhà. Người
chồng về, thấy vợ không vồn vã với mình sinh lòng nghi ngờ vợ khiến người vợ
toan tự tử. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là khi xuất hiện cùng lúc hai người chồng
giống hệt nhau, không chỗ nào sai khác mà người nhà, quan huyện rồi quan phủ
118
không cách nào phân biệt được. Người đọc trước đó bị cuốn hút bởi sự việc kì lạ:
sao cách đêm người chồng lại về mà lại còn trách vợ không âu yếm vồn vã mình,
giờ đây hồi hộp theo dõi không biết trong hai người chồng, ai thật ai giả và làm
cách nào phân biệt được. Mâu thuẫn phát triển lên đến đỉnh điểm cũng là lúc mâu
thuẫn được giải quyết bằng sự việc vua Lê Thánh Tông, nhờ sự trợ giúp của Đổng
Thiên Vương mà phân biệt được đâu là ma, đâu là người. Truyện kết thúc với việc
con chuột thành tinh bị thiêu chết, hai vợ chồng đoàn tụ khiến người đọc thỏa mãn.
So với truyện dân gian (truyện Vì sao gọi chuột là ông cống) diễn biến của truyện
Tinh chuột hấp dẫn hơn, lôi cuốn người đọc hơn khi tác giả không giới thiệu ngay
từ đầu như truyện dân gian đã làm: “Nhà kia có con chuột đực, con chuột này sống
ngoài trăm năm, trở thành tinh…”. Truyện khéo léo dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ
này đến bất ngờ khác với những sự kiện nằm ngoài suy đoán của người đọc (ngỡ
người chồng sẽ chăm chỉ học hành ngờ đâu lại trốn về thăm vợ thường xuyên;
không ngờ hai vợ chồng đã gặp thường xuyên như thế mà người chồng lại muốn vợ
vẫn phải mừng rỡ đón tiếp mình…). Việc giấu đầu mối đến giai đoạn cao trào cho
thấy tính nghệ thuật trong việc xây dựng kết cấu truyện, nâng cao giá trị của tác
phẩm so với truyện dân gian. Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện chức
phán sự đền Tản Viên trong Truyền kì mạn lục là những minh chứng khác. Chuyện
người con gái Nam Xương vốn viết lại từ truyện Vợ chàng Trương của dân gian.
Thế nhưng, trên cơ sở cốt truyện dân gian, tác giả sắp xếp lại một số tình tiết, thêm
vào phần kể về cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung, cũng có nghĩa là xây
dựng lại kết cấu truyện… từ đó tăng cường kịch tính và đồng thời nhấn mạnh nội
dung tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Cũng đi theo công thức quen thuộc, tác giả mở
đầu bằng việc giới thiệu về nhân vật và tình huống dẫn đến mâu thuẫn chính: nàng
Vũ Thị Thiết đẹp người đẹp nết, lấy chồng là Trương Sinh, không bao lâu thì
Trương Sinh phải đi lính; Vũ Nương một mình nuôi dạy con thơ, chăm sóc mẹ
chồng chu đáo, một dạ thủy chung chờ chồng. Mâu thuẫn bắt đầu với việc Trương
Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà nghi ngờ lòng chung thủy của vợ. Điều đáng chú ý
là lời của bé Đản được đưa ra dần dần, thông tin ngày một gay cấn làm cho nút thắt
119
của câu chuyện chặt hơn, kịch tính cũng tăng cao với mối nghi ngờ ngày càng lớn
của Trương Sinh. (“Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không
như cha tôi trước kia chỉ im thin thít” -> “Trước khi ông về, thường có một người
đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng
chẳng bao giờ bế Đản cả.”) Người đọc vì vậy bị cuốn hút theo số phận của Vũ
Nương: người đàn ông đó là ai; trước lời nói của con trẻ, với bản tính hay ghen của
mình, Trương Sinh sẽ xử sự như thế nào với vợ, Vũ Nương liệu sẽ phản ứng như thế
nào? Những lời phân trần của Vũ Nương, mong muốn được giải tỏa mối nghi ngờ
của nàng đã không thể thực hiện khi Trương Sinh kiên quyết giấu biệt chuyện đó là
do ai nói. Để rồi mọi chuyện chỉ được sáng tỏ sau khi Vũ Nương mất. Tưởng rằng
truyện kết thúc ở đó, thế nhưng Nguyễn Dữ đã thêm vào phần sau truyện với những
chi tiết hoang đường kì ảo vừa làm cho câu chuyện thêm phần sinh động, vừa nhấn
mạnh phẩm chất tốt đẹp và số phận bi kịch của nhân vật: Vũ Nương tự vẫn nhưng
lại được Linh Phi cứu và sống sung sướng dưới thủy cung, tại đây, nàng gặp được
người cùng làng là Phan Lang, bèn đưa chiếc hoa vàng nhờ gửi cho Trương Sinh và
nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình; Trương Sinh theo lời, lập đàn giải oan
cho Vũ Nương, nàng hiện về trên kiệu hoa rực rỡ lúc ẩn lúc hiện rồi sau đó biến
mất. Với việc xây dựng một kết thúc khác kết thúc truyện dân gian, Nguyễn Dữ cho
người đọc chút an ủi: những người có phẩm chất tốt đẹp như Vũ Nương không thể
chết trong oan ức mà sẽ được đền bù xứng đáng (bằng cuộc sống sung sướng chốn
thủy cung); nhưng đồng thời cũng làm tăng tính bi kịch của tác phẩm: dù khao khát
cả đời nàng là hạnh phúc gia đình, thú vui nghi gia nghi thức, nhưng nàng mãi mãi
không thể có được niềm hạnh phúc giản đơn ấy trong cõi trần, nơi xã hội phong
kiến với tư tưởng trọng nam khinh nữ, thói gia trưởng của người đàn ông vẫn ngự
trị. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên cũng là một câu chuyện có kiểu kết cấu
quen thuộc mà vẫn đầy kịch tính với những tình tiết hấp dẫn được đẩy lên cao dần.
Ngay từ đầu tác phẩm, bằng một vài dòng, tác giả vừa giới thiệu được với chúng ta
lai lịch nhân vật và tình huống truyện vừa qua đó phần nào làm bộc lộ tính cách
nhân vật. Là một người khẳng khái, thấy sự gian tà thì không thể chịu được, khi biết
120
ngôi đền có tiếng là linh ứng giờ đây lại có yêu quái quấy nhiễu, Tử Văn đã châm
lửa đốt đền. Trong khi mọi người đều “lắc đầu lè lưỡi lo sợ thay cho Tử Văn” thì
chàng vẫn “vung tay không cần gì cả.” Chi tiết đó đặt ra cho người đọc một câu hỏi:
liệu rồi Tử Văn có gặp tai họa, vì xâm phạm đền chùa là một điều cấm kị, ngôi đền
này lại có hồn ma hưng yêu tác quái. Và người đọc bị cuốn vào câu chuyện từ
những diễn biến đầu tiên. Đốt đền xong, Tử Văn quả thật bị một cơn sốt nóng sốt
rét và trong cơn mê, chàng thấy hồn ma Bách hộ họ Thôi đến đe dọa, đòi chàng
dựng trả đền nếu không sẽ kiện chàng ở âm phủ. Sự việc này đẩy mâu thuẫn lên cao
và người đọc lại hồi hộp dõi theo số phận của nhân vật Tử Văn, không rõ rồi Tử
Văn có đối phó được Bách hộ họ Thôi hay không? Mâu thuẫn phát triển đến cao
trào và kịch tính cũng được đẩy lên cao nhất với sự việc Tử Văn bị bắt xuống âm
cung và ở đây, Bách hộ họ Thôi đã đến trước và vu khống chàng với Diêm Vương.
Cuộc đối đầu giữa Tử Văn và Bách hộ họ Thôi lúc bấy giờ là cuộc đối đầu trực tiếp,
một mất một còn. Khi mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm cũng là lúc mâu thuẫn
được tháo gỡ. Trước Diêm Vương đầy quyền uy, trong khung cảnh rùng rợn của
Minh ty, Tử Văn không chút nao núng, khẳng khái đối chất với Bách hộ họ Thôi
khiến Bách hộ họ Thôi lo sợ và sự thật được phơi bày, Tử Văn giành chiến thắng
trong cuộc chiến đòi công lí. Rõ ràng là kiểu kết cấu của truyện không mới nhưng
vẫn đủ sức hấp dẫn người đọc khi tác giả khéo léo sắp xếp các sự việc, tình tiết để
làm câu chuyện giàu kịch tính. Còn những truyện trong Lan Trì kiến văn lục của Vũ
Trinh thường rất tinh giản, kết cấu truyện ngắn hoặc rất ngắn nhưng vẫn có thể
khiến người đọc bị thu hút bởi mỗi chi tiết trong truyện đều có vị trí nhất định
không thể lược bỏ và cũng có những truyện tạo được kịch tính. Ta thử xem xét
truyện Con hổ nghĩa hiệp và Chuyện tình ở Thanh Trì. Truyện Con hổ nghĩa hiệp
vào mạch chính của truyện khá ngắn gọn, diễn biến truyện nhanh kết thúc truyện là
kiểu kết thúc có hậu quen thuộc nhưng vẫn gây hứng thú cho người đọc vì tình tiết
bất ngờ ở cuối truyện. Truyện kể người nhà giàu họ Hoàng góa vợ, có đứa con trai
nhỏ. Hoàng nhờ người mai mối đánh tiếng hỏi cưới một người ở làng bên nhưng
người đó từ chối vì Hoàng có con nhỏ. Không từ bỏ ý định, Hoàng mang con vào
121
rừng cho hổ ăn thịt để mình có thể tục huyền. Đến đây, người đọc vừa căm phẫn
trước hành động vô nhân của Hoàng vừa lo âu cho mạng sống của đứa bé thì diễn
biến truyện được tiếp tục ngay để trả lời cho nỗi lo âu đó. Nửa đêm, bà ngoại của
đứa bé nghe tiếng gõ cửa và tiếng trẻ khóc gọi, mở cửa ra xem thì thấy cháu mình,
cháu kể: “Lúc chiều tối, cha dắt cháu một mình lên núi. Cháu ngồi ở gốc cây đợi
cha trở lại, cháu sợ, cháu khóc, thấy một con mèo vàng to bằng con trâu cõng cháu
đến đặt ở đấy rồi bỏ đi, cháu cũng không biết là nhà bà.”[8,tr.123]. Truyện không
kết thúc ngay ở đó với việc đứa bé được hổ cứu sống và người bà tố cáo tội ác của
con rể lên quan. Vũ Trinh kể thêm hai sự việc với một vài tình tiết, cũng rất ngắn
gọn để làm bật lên tính cách nhân vật và chủ đề truyện. Sự việc tiếp theo là việc
người bà một mình vờ qua nhà Hoàng thăm cháu, Hoàng dẫn ra chỉ nấm mồ giả,
người bà bảo đào lên thì không thấy gì cả, bèn bảo Hoàng: “Chắc lúc chôn cháu,
con chôn theo nhiều quần áo nên bị kẻ gian trông thấy chúng đào lên vứt xác đi. Ở
bên mẹ còn vài cái áo cái chăn của cháu, anh theo mẹ về lấy rồi đốt cả đi. Mẹ đã ở
tuổi xế chiều, vãn bóng không nỡ nhìn thấy những vật thương tâm ấy
nữa.”[8,tr.123] Với sự việc này, tác giả cho thấy sự sáng suốt, khéo léo của người
bà, đồng thời cho thấy bản tính xảo quyệt, lạnh lùng đến tàn nhẫn của nhân vật
Hoàng khi không có một chút lo sợ, hối hận trước sự việc mình làm. Sự việc tiếp
theo kể chuyện Hoàng theo mẹ vợ về nhà, thấy con trai mình, sợ hãi bỏ chạy. Vạch
trần được bộ mặt ác độc của con rể, người mẹ vợ thưa lên quan. Hoàng bị bắt. Một
lần nữa người đọc tưởng truyện đã có thể kết thúc. Nhưng không, bằng chi tiết:
Hoàng hối lộ rất nhiều tiền của cho quan xử kiện nên thoát tội, Vũ Trinh lại khắc
sâu thêm bản chất bất nhân, vô hạnh của hắn đồng thời phần nào cho thấy bộ mặt xã
hội lúc bấy giờ. Nếu truyện kết thúc ở đó sẽ không thể đáp ứng thị hiếu thẩm mĩ của
người đọc đương thời và không thể làm bật lên được tư tưởng chủ đạo của truyện.
Vũ Trinh không để nhân vật ác bị trừng trị bởi thanh gươm công lí của quan lại mà
phải trả giá bằng việc bị hổ vồ ăn thịt. Với chi tiết cuối cùng này của truyện, tác giả
khiến người đọc bất ngờ và thấm thía hơn chủ đề truyện: con người gieo nhân nào
sẽ gặt quả nấy, trong xã hội ấy, có những kẻ còn thua cả loài cầm thú, một loài
122
thường bị cho là ác thú như hổ lại còn có lòng nhân nghĩa hơn con người, biết bênh
vực cái thiện, trừng trị kẻ ác. Rõ ràng là không có một chi tiết nào thừa trong câu
chuyện Vũ Trinh kể. Mỗi chi tiết không chỉ có vai trò dẫn dắt diễn biến truyện mà
còn có chức năng xoáy sâu ý nghĩa chủ đề của tác phẩm. Chuyện tình ở Thanh Trì
cũng là một truyện ngắn hay khiến người đọc cảm động bởi những chi tiết được
chọn lọc xây dựng nên tác phẩm. Kết cấu truyện nhìn chung giản đơn, cũng không
có nhiều tình tiết diễn biến phức tạp nhưng mỗi sự việc, chi tiết trong truyện đủ sức
lay động lòng người. Truyện kể về mối tình của Nguyễn sinh, chàng lái đò nghèo
hát hay và cô con giá nhà giàu họ Trần. Cô gái yêu Nguyễn sinh, chủ động bảo
chàng nhờ người làm mối đến nhà nàng hỏi cưới. Cha cô chê chàng nghèo, không
chịu gả, cô sai người đưa vàng tặng chàng để chàng dùng làm đồ sính lễ. Hai chi tiết
ấy có ý nghĩa nhấn mạnh sự chủ động của cô gái trong tình yêu và cũng cho thấy
tình cảm sâu nặng của nàng. Diễn biến truyện tiếp tục với việc chàng trai vì phẫn
chí nên bỏ xứ đi nơi khác lập thân, cô gái âm thầm đau khổ đến sinh bệnh rồi mất,
trước khi mất còn dặn lại cha mình: “Trong ngực con chắc có một vật lạ. Sau khi
con mất, xin cha cho hỏa táng để xem đó là vật gì.” [25,tr.425] Những câu chuyện
tình kết thúc bằng cái chết của một trong hai người thật ra không hề xa lạ trong văn
học, nhất là văn học thời trung đại, khi tự do yêu đương vẫn là điều cấm kị và cũng
là khao khát của bao chàng trai cô gái. Nhưng Chuyện tình ở Thanh Trì quả thật rất
giàu xúc cảm khi kể lại câu chuyện có vẻ quen thuộc đó. Chi tiết sau khi hỏa thiêu
cô gái, “trong nắm xương tàn, sót lại một vật, to bằng cái đấu, sắc đỏ như son,
không phải ngọc cũng chẳng phải đá, nó trong như gương, búa đập không vỡ, nhìn
kĩ thì thấy trong khối ấy có hình một con đò, trên đò có một chàng trẻ tuổi đang ngả
đầu tựa mái chèo nằm hát” [25,tr.426] là chi tiết giàu ý nghĩa, đầy sức ám ảnh. Nó
minh chứng cho tình yêu mãnh liệt, đậm sâu, bất biến với thời gian của cô gái dành
cho chàng trai. Nó cũng minh chứng cho nỗi đau khổ u uẩn sâu sắc của nàng. Nỗi
niềm u uẩn ấy chỉ có thể hóa giải bằng sự cảm thông, thấu hiểu với tình yêu chân
thành của chàng trai. Vậy nên, dù khối đá ấy “búa đập không vỡ” nhưng lại có thể
tan ra thành nước, giọt giọt đều biến thành máu tươi khi nước mắt chàng trai nhỏ
123
vào. Quả là những chi tiết thật đắt. Nhờ vậy, truyện dù được kể khá ngắn gọn nhưng
đọng rất sâu trong lòng người.
Như trên có nói, truyện ngắn truyền kì tuy thường có kết cấu theo trật tự tuyến
tính nhưng cũng có những lúc trật tự này bị phá vỡ. Với đặc trưng là dùng nhiều
yếu tố hoang đường kì ảo, truyện truyền kì có thể đưa người đọc từ hiện tại của
nhân vật trở về quá khứ kiếp trước hay tương lai kiếp sau của họ, có thể dồn mấy
trăm năm thành một vài ngày, có thể đưa người đọc từ trần gian xuống địa phủ hay
lên cung tiên… Truyện Hai gái thần của Thánh Tông di thảo đưa chúng ta từ câu
chuyện đang kể ở những năm đầu thời vua Lê Thái Tổ trở về thời xưa khi giặc
Minh còn thôn tính nước ta với tiền thân kiếp trước của hai nhân vật: cháu dâu
Long Vương và vợ sơn thần Đông Ngu. Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên trong Truyền kì
mạn lục kết lại với chi tiết chàng Từ Thức vì nhớ nhà, chia tay Giáng Hương mà trở
về quê cũ. Ngờ đâu, về đến nói chỉ thấy “vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết
thảy đều không như trước nữa.” Hóa ra, từ lúc chàng đến cõi tiên, chỉ một năm thôi,
mà đã là tám mươi năm ở cõi trần. Quả thật, thời gian trong truyện truyền kì có thể
co dãn như vậy đấy. Trong truyện Hải khẩu linh từ (Truyền kì tân phả), tác giả đang
kể với chúng ta về cái chết của cung phi Bích Châu đời Trần Duệ Tông lại đưa
người đọc đến hàng chục năm sau, thời vua Lê Thánh Tông với việc oan hồn của
Bích Châu đến gặp vua xin vua “ra tay tế độ, vớt kẻ trầm luân”. Truyện Nhớ được
ba kiếp (Lan Trì kiến văn lục) có kết cấu truyệnba phần lần lượt kể về ba kiếp trước
của nhân vật. Hay truyện Biết chuyện kiếp trước cũng vậy, tác giả đưa người đọc
đến kiếp trước của cậu bé con người đàn bà họ Trần, từ đó lí giải cho chúng ta biết
nguyên do vì sao đứa trẻ “vừa lọt lòng mẹ đã biết nói”, cứ khóc mãi không nín đòi
về nhà bố mẹ cũ.
Có thể khẳng định rằng, dẫu chưa có được những kiểu kết cấu hiện đại như
truyện ngắn sau thế kỉ XIX, kết cấu các truyện thuộc thể loại truyền kì vẫn mang
tính nghệ thuật, tạo được sự hấp dẫn và góp phần đắt lực cho việc thể hiện tư tưởng
chủ đề của tác phẩm. Từ đó, ta có thể khẳng định những đóng góp về mặt nghệ
thuật của thể loại này trong tiến trình phát triển của văn học trung đại.
124
3.2.2.3. Nhân vật trong truyền kì: đa dạng, giàu giá trị phản ánh hiện thực
Ta bắt gặp trong truyền kì một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú: từ con
người trần thế với đủ giai cấp, thành phần đến nhân vật trong thế giới siêu nhiên
như ma, quỷ, tinh vật, thần tiên… Sự đa dạng của thế giới nhân vật phản ánh sự
phong phú, phức tạp của hiện thực cuộc sống xã hội. Nhân vật là người trần thế
trong thế giới truyền kì có thể là vua quan, có thể là nho sinh, có thể là lái buôn, tiều
phu, ca nữ, hành khất… Mỗi nhân vật đều có tính cách, số phận riêng được xây
dựng một cách khéo léo, sinh động, phản ánh được hiện thực nhiều mặt của xã hội
với đầy đủ tốt, xấu; thiện, ác… Có vị vua là vị vua anh minh lo cho dân nước như
vua Lê Thánh Tông (Tinh chuột – Thánh Tông di thảo; Hải khẩu linh từ - Truyền kì
tân phả), cũng có vị vua là hôn quân chỉ biết bóc lột tiền của, công sức của dân,
ham thích săn bắn, chẳng bận tâm đến đời sống nhân dân (vua Hồ Quý Li trong Câu
chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na; vua Trần Phế Đế trong Chuyện bữa tiệc
đêm ở Đà Giang – đều thuộc Truyền kì mạn lục). Quan có người thanh liêm, thương
dân như Dương Đức Công (Chuyện gã trà đồng giáng sinh – Truyền kì mạn lục)
cũng có những kẻ tham nhũng, tàn ác (như Lí Hữu Chi trong Chuyện Lí tướng
quân, Thân Trụ quốc trong Chuyện nàng Túy Tiêu – Truyền kì mạn lục). Những
chàng nho sinh thì có người chuyên tâm học hành (như người chồng trong Tinh
chuột – Thánh Tông di thảo), khẳng khái, cương trực (như Tử Văn trong Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên – Truyền kì mạn lục), si tình như Phật Sinh (Chuyện Lệ
Nương – Truyền kì mạn lục); cũng có kẻ dâm ô, trụy lạc, không lo học hành (như
Hà Nhân trong Chuyện kì ngộ ở trại Tây – Truyền kì mạn lục; hay ham mê bài bạc,
phá gia chi tử như Trọng Quỳ trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu – Truyền
kì mạn lục)…
Nhân vật trong thế giới siêu nhiên cũng đa dạng không kém. Họ tham gia vào
câu chuyện với vai trò là nhân vật chính của truyện, có cuộc sống, số phận, tính
cách riêng, cũng suy nghĩ, hành động và mang những tình cảm như con người trần
thế. Đó có thể là hồn ma của người chết như hồn ma Nhị Khanh trong Chuyện cây
gạo, hồn ma Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang), có thể là các tinh vật (con
125
vật hay cây lâu năm thành người) như con chuột thành tinh trong Tinh chuột, Liễu
Nhu Nương và Đào Hồng Nương (Chuyện kì ngộ ở trại Tây), có thể là tiên bướm
(nàng Mộng Trang – Duyên lạ xứ Hoa), hải tiên (nàng Ngọa Vân - Chuyện lạ nhà
thuyền chài), thần Thuồng luồng dưới thủy cung (Câu chuyện đối tụng ở Long cung
– Truyền kì mạn lục ; Hải khẩu linh từ - Truyền kì tân phả), là tiên cõi trời như
Giáng Hương (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên – Truyền kì mạn lục; Giáng Tiên – Vân
Cát thần nữ, Giáng Kiều – Bích câu kì ngộ trong Truyền kì tân phả)….
Dẫu chưa đi sâu vào phân tích tâm lí nhân vật, diễn biến tâm lí nhân vật chưa
được khắc họa sắt nét như các tác phẩm tự sự hiện đại sau này nhưng những nhân
vật trong truyền kì, dù là nhân vật trần tục hay nhân vật siêu nhiên, vẫn hiện lên
chân thật, sinh động, phản ánh được tư tưởng chủ đề của tác phẩm và quan niệm
của tác giả. Ta hãy xem xét vài ví dụ trong một số truyện từ Thánh Tông di thảo ,
Truyền kì mạn lục đến Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục. Trong Chuyện lạ
nhà thuyền chài, bằng một vài chi tiết, tác giả đã vẽ nên trước mắt chúng ta một
nàng hải tiên hiền thảo, hết lòng vì chồng và gia đình chồng, dẫu phải hi sinh cả
mạng sống của mình cũng không hề từ nan. Lời nàng dặn dò hai kình ngư khi nhờ
họ đưa cha mẹ chồng về nhà thể hiện sự quan tâm lo lắng chân thành của một nàng
dâu đối với cha mẹ chồng, hành động quên thân mình bảo vệ cả gia đình chồng khỏi
trận hồng thủy là minh chứng rõ nhất cho tấm lòng hiếu thuận của người con dâu,
tấm lòng vị tha trong sáng. Lời hát cuối truyện khi từ tạ chất chứa bao tình cảm xót
xa và nhớ nhung vì xa cách. Mỗi chi tiết đều được xây dựng khéo léo thể hiện sinh
động phẩm chất của Ngọa Vân. Đặc biệt, không thể không kể đến nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong Truyền kì mạn lục, có thể xem là một thành công mẫu mực
trong việc khắc họa nhân vật của loại hình tự sự trung đại. Bằng những tình tiết
chọn lọc, từ những nhân vật trong truyện dân gian, Nguyễn Dữ xây dựng nên những
nhân vật mang diện mạo tính cách riêng, có cuộc sống riêng và có những nhân vật
được khắc họa rất ấn tượng, trở thành nhân vật điển hình của văn học trung đại. Câu
chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na ít tình tiết, không nhiều sự kiện nhưng
tính cách nhân vật tiều phu vẫn được khắc họa sắc sảo chỉ qua một vài chi tiết: qua
126
lời hát trong hai bài ca Thích ngủ và Thích cờ, qua những lời tranh luận hùng hồn
với Trương Công. Nàng Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu
được xây dựng như hình mẫu của một nghĩa phụ theo quan niệm xã hội xưa bằng
nhiều chi tiết chọn lọc tinh tế. Khi Trọng Quỳ phải theo cha đi trấn thủ nơi xa, thấy
chàng có ý bịn rịn, quyến luyến, nàng lấy đạo cha con, nghĩa vợ chồng để khuyên
nhủ; chồng ra đi nhiều năm trời không tin tức, nhiều kẻ mang vàng bạc đến cầu
thân, cô nàng khuyên nàng “bạn lành kén lựa, duyên mới vương xe”, nàng sợ hãi
quên ăn mất ngủ. Vì lòng chung thủy với chồng, nàng chủ động nhờ người bõ già
lặn lội đường xa dò hỏi tin chồng, nhờ vậy gia đình đoàn tụ. Nhưng chồng nàng vì
thua bạc mà bán nàng cho Đỗ Tam. Nhị Khanh có thể chờ chồng trong cảnh bơ vơ
trơ trọi, giữa những lời “giăng gió cợt trêu” nhưng không thể chị đượng được sự
phụ bạc của chồng vì vậy mà chọn cho mình cái chết như một lẽ tất yếu. Thế nhưng,
dẫu chết rồi tình yêu thương chồng con vẫn vẹn nguyên, vậy nên khi chồng có ý hối
hận, nàng lại trở về tha thứ cho chồng, hướng chí cho con. Quả thật, Nhị Khanh đã
được tác giả xây dựng như một điển hình của tính cách trung hậu, tiết nghĩa, đảm
đang bằng những chi tiết, sự việc đã kể. Nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con
gái Nam Xương cũng là một tính cách và số phận điển hình cho người phụ nữ trong
xã hội phong kiến. Vũ Thị Thiết vốn con nhà kẻ khó, được Trương Sinh mến vì
dung hạnh cưới về. Dù Trương Sinh có tính đa nghi nhưng Vũ Nương khéo léo cư
xử nên vợ chồng chưa từng thất hòa. Không bao lâu sau ngày cưới, Trương Sinh
phải đầu quân đi lính. Bằng lời lẽ của Vũ Nương lúc tiễn chồng, Nguyễn Dữ đã
chứng minh nhân cách của nàng như đã giới thiệu từ trước: tính đã thùy mị nết na,
lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong lời tiễn, nàng thể hiện lòng quan tâm lo lắng chân
thành cho sự an nguy của chồng, “không mong ngày về được đeo ấn phong hầu, chỉ
xin hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Mẹ chồng bệnh, Vũ Nương hết lời khôn khéo
khuyên lơn, lễ bái thần phật; mẹ chồng mất nàng lại lo liệu ma chay chu đáo… Tất
cả những chi tiết ấy đều không hề thừa thãi khi xây dựng tính cách nhân vật.
Nguyễn Dữ để cho người mẹ chồng trăng trối lại: “Xanh kia quyết chẳng phụ con
cũng như con đã không phụ mẹ” càng nhấn mạnh phẩm chất tốt đẹp của nàng. Lời
127
phân trần của Vũ Nương khi bị chồng nghi oan vừa khẳng định tiết hạnh của nàng
đồng thời cũng nhấn mạnh số phận bi kịch của người phụ nữ thủy chung đoan chính
trong xã hội nam quyền. Ngô Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền tản Viên
được xây dựng với tính cách một con người vị nghĩa vong thân, cứng cỏi, thẳng
ngay, sẵn sàng vì dân trừ hại. Và chỉ cần một đoạn văn ngắn ở đầu truyện, tác giả đã
vừa gợi ra được tình huống truyện, vừa miêu tả được tính cách nhân vật: “Cuối đời
nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng
của Mộc Thạnh có viên Bách hộ họ Thôi tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu quái
trong dân gian. Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi
châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi lo sợ thay cho Tử Văn nhưng
chàng vẫn vung tay không cần gì cả…” [11, tr.115]. Sự việc châm lửa đốt đền
không chút e sợ và thái độ “ngất ngưởng tự nhiên” khi hồn ma Bách hộ đến đe dọa,
thái độ “không chịu chùn nhụt chút nào” khi đối chất trước Diêm Vương… đã
khẳng định bản tính cương trực, dám làm việc “hơn cả thần và người” của Tử Văn.
Nhiều nhân vật siêu nhiên trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ rất gần gũi với
chúng ta vì tình cảm, số phận của họ không khác nào con người trần thế. Có thể lấy
nhân vật Nhị Khanh, một hồn ma, trong Chuyện cây gạo, Thị Nghi, cũng là một hồn
ma, trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang làm ví dụ. Là những hồn ma nhưng hai
nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm với vai trò là nhân vật chính thể hiện chủ đề
về số phận người phụ nữ trong xã hội xưa chứ không phải như những nhân vật chức
năng thường xuất hiện để nhân vật chính bộc lộ phẩm chất, tính cách của mình như
trong truyện dân gian. Nhị Khanh và Thị Nghi đều là những cô gái chết trẻ và khi
còn sống cũng chịu đựng nỗi đau khổ. Nhị Khanh chết khi tuổi chỉ mới đôi mươi,
còn Thị Nghi từ nhỏ đã bị bán vào nhà phú thương họ Phạm, lớn lên lại bị vợ của
Phạm ghen tuông đánh chết. Cả hai nàng dù chết mà vẫn khát khao tình yêu, khát
khao hạnh phúc tuổi trẻ - những niềm khát khao rất đời thường mà người trần tục
nào cũng có. Vì mang nặng khát khao đó, họ nhập vào cuộc sống dương gian để tìm
bạn. Nguyễn Dữ, bằng một vài chi tiết đã khắc họa rõ nét chân dung hai người phụ
nữ mạnh mẽ, táo bạo, với khát vọng sống mãnh liệt. Nhị Khanh ngay từ buổi đầu
128
gặp Trình Trung Ngộ đã bộc lộ không chút e dè quan niệm sống, khát vọng hưởng
thụ tuổi trẻ của mình: “Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi
bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ
thành người dưới suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể
được nữa.” Tính cách táo bạo, bướng bỉnh, phá cách của Nhị Khanh càng được thể
hiện rõ qua chi tiết sau khi Trung Ngộ biết nàng là hồn ma, nàng “vẫn thường qua
lại, có lúc đứng trên bãi sông gọi eo éo, có lúc đến bên cửa sổ nói thì thào”, trên hết
là hình ảnh nàng cùng hồn ma Trung Ngộ tìm đến nương hồn trên cây gạo và
thường xuất hiện với thân thể lõa lồ. Hình ảnh đó như tung hê tất cả trật tự, lề thói
của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nàng Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương
Giang cũng cùng một tính cách mạnh mẽ, dữ dội như thế. Dường như để trả thù
trước cái chết oan uổng của mình, hồn Thị Nghi hưng yêu tác quái, biến huyễn đủ
vẻ, ngay cả khi bị đào mả vứt hài cốt rồi, hồn nàng vẫn tìm về cõi trần, kết duyên vợ
chồng với viên quan họ Hoàng. Khi hạnh phúc đời thường nàng đang có có nguy cơ
lung lay trước người thuật sĩ, nàng cố công bảo vệ bằng việc lấy gậy đập vỡ chai
thuốc, mắng người ấy “Anh chàng huyễn thuật này ở đâu đến đây ly gián vợ chồng
ta, chia rẽ nhà cửa ta”. Quả thật, dẫu là những hồn ma nhưng Thị Nghi, Nhị Khanh
không hề xa lạ với chúng ta khi họ cũng có cùng những khát vọng đời thường như
bao con người trần thế. Số phận của họ cũng là số phận của những con người “liễu
yếu đào tơ”, thấp cổ bé họng trong một xã hội mà họ không có tiếng nói riêng,
không được quyền hưởng hạnh phúc. Cả Nhị Khanh lẫn Thị Nghi đều phải nhận lấy
kết cục đau đớn: Nhị Khanh thì bị sáu bảy trăm lính đầu trâu mặt ngựa gông trói đi,
Thị Nghi bị thiên binh thần tướng bắt xuống âm cung. Bằng tài năng xây dựng nhân
vật của Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục đã để lại trong lòng người đọc những dấu
ấn khó quên về các kiểu nhân vật khác nhau, những con người với tính cách, số
phận rất gần gũi. Đoàn Thị Điểm cũng khiến người đọc không thể quên được nàng
Giáng Tiên mà bà đã dụng công xây dựng trong Vân Cát thần nữ. Từ nhân vật trong
truyền thuyết dân gian là bà chúa Liễu Hạnh, qua ngòi bút khắc họa nhân vật khéo
léo của Hồng Hà nữ sĩ, nàng Giáng Tiên hiện lên sinh động và chân thật với tài
129
phép huyền ảo, kì lạ mà cũng rất đời thường với khát vọng được thỏa nguyện ước
ba sinh cùng người mình yêu thương, khát vọng được sống tự do, không ràng
buộc…
Khi xây dựng nhân vật, các tác giả truyền kì đã chú ý thể hiện tính cách nhân vật
qua những đoạn đối thoại hoặc đôi khi là lời độc thoại. Lời người con gái trong
truyện Chồng dê (Thánh Tông di thảo ) khi nói với chàng trai do dê hóa thành thì
đoan chính, lời nàng Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương) khi phân trần
cùng chồng rõ ràng là lời của một phụ nữ coi trọng phẩm tiết, hết lòng thủy chung,
lời của Nhị Khanh (Chuyện cây gạo) thì táo bạo, phóng túng, lời cung phi Bích
Châu (Hải khẩu linh từ) thì sắc sảo, thể hiện mình là con người có học thức… Bên
cạnh đó, truyền kì đã bắt đầu chú ý đến việc miêu tả nội tâm nhân vật, rõ nhất là
trong Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả. Nội tâm nhân vật có khi được thể hiện
qua lời miêu tả trực tiếp của tác giả, có khi được thể hiện qua những bài thơ, bài
ca… do nhân vật ngâm đọc. Nỗi niềm thương nhớ gia hương của Từ Thức (Chuyện
Từ Thức lấy vợ tiên) khi đang sống ở cõi tiên đã được Nguyễn Dữ khắc họa bằng
những câu văn nhiều hình ảnh và gợi cảm: “Từ khi bỏ nhà đi, thấm thoát đã được
một năm, ao sen đã thay màu biếc. Những đêm sương sa gió thổi, bóng trăng sáng
dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một
nỗi buồn bâng khuâng, quấy nhiễu không sao ngủ được…”[11,tr.139] Nỗi nhớ
nhung của người vợ xa chồng ở Đinh phu nhân trong An Ấp liệt nữ (Truyền kì tân
phả) khiến người đọc cảm động qua đoạn văn miêu tả tâm trạng của Đoàn Thị
Điểm: “Mỗi khi gặp cảnh xuân quang, thời tiết thay đổi, mưa trôi hoa lạnh, khói
ngậm quất hồng, đó là những lúc phu nhân đau từng khúc ruột vậy. Có khi nghe ve
kêu buổi tối, chim hót buổi sáng đó là lúc phu nhân buồn não nuột vậy. Mưa Sở
mây Tần, cảnh từng ngao ngán, trông mặt trăng thêm than thở, hứng gió mát luống
ngại ngùng. Mối u sầu phát ra thơ văn, kể có đến hơn ba mươi bài…” [25,tr.347].
Dẫu rằng tác giả chưa thoát khỏi việc dùng những hình ảnh ước lệ quen thuộc của
thơ văn trung đại khi miêu tả nỗi buồn nhớ nhưng đoạn văn trên vẫn giúp người đọc
hình dung được tâm sự của nhân vật và cảm thông với nỗi niềm tâm sự đó.
130
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện truyền kì thật sự đã đạt đến một trình
độ cao hơn so với những thể loại thuộc loại hình truyện kí trước đó. Các truyện kí
trước đó vì nặng về ghi chép nên thường ít chú ý đến tính cách và cuộc sống riêng
của nhân vật. Truyện truyền kì đã khắc phục được điều này và bước đầu đã quan
tâm đến việc miêu tả nội tâm nhân vật. Đây là một giá trị cần ghi nhận khi nghiên
cứu về vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam.
3.3. Dấu vết của truyền kì trong văn học hiện đại
Thời đại của thể loại truyền kì đã chấm dứt ở cuối thế kỉ XIX với những tác
phẩm Tân truyền kì lục, Lan Trì kiến văn lục, nhưng điều đó không có nghĩa những
đặc điểm của thể loại này hoàn toàn bị triệt tiêu trong văn học hiện đại. Dư ba của
kiểu truyện truyền kì vẫn còn vang động trong nhiều sáng tác truyện ngắn và tiểu
thuyết giai đoạn 1930 – 1945 mà Nguyễn Huệ Chi gọi là truyện “phỏng truyền kì”
và dấu ấn của thể loại này cũng được thể hiện rất đậm nét trong những truyện ngắn
sau 1975 với sự tham gia của các yếu tố kì ảo.
3.3.1. Dấu vết của truyền kì trong văn học 1930 – 1945
Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX đến khoảng năm 1945, bên cạnh sự phát
triển của truyện ngắn hiện thực phê phán, truyện ngắn lãng mạn, truyện ngắn hiện
thực cách mạng, văn học Việt Nam còn ghi nhận sự xuất hiện của các truyện ngắn
mang nhiều yếu tố kì ảo, ghê rợn với sự góp mặt của các nhân vật ma, quỷ, thần…
như những sáng tác của Nhất Linh, Thế Lữ, Tchya (Đới Đức Tuấn), Nguyễn Tuân,
Thanh Tịnh… Giới nghiên cứu phê bình gọi loại truyện này bằng những cái tên
“truyện kì ảo”, “truyện kinh dị”, “truyện đường rừng”… Ở đây, chúng tôi sử dụng
cách gọi của Nguyễn Huệ Chi trong tuyển tập Truyện truyền kì Việt Nam là “phỏng
truyền kì”. Quả thật, khảo sát một số truyện ngắn loại này như Lan rừng (Nhất
Linh), Tiếng hú ban đêm, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ), Thần hổ, Ai hát giữa rừng
khuya (Tchya), Xác ngọc lam, Lửa nến trong tranh (Nguyễn Tuân), Chiều sương,
Một trận bão cuối năm (Bùi Hiển), Ngậm ngải tìm trầm (Thanh Tịnh)… chúng ta sẽ
thấy một vài đặc điểm của thể loại truyền kì thời trung đại ghi dấu trong những tác
phẩm này. Hẳn nhiên, không vì vậy mà ta gọi đây là những tác phẩm thuộc thể
131
truyền kì, vì dẫu mang trong mình một số đặc điểm của thể loại này, những sáng tác
này về mục đích sáng tác, nội dung, nghệ thuật, … có nhiều điểm khác biệt so với
những sáng tác truyền kì mà ta khảo sát ở trên.
Nếu như những sáng tác truyền kì trung đại sử dụng những yếu tố kì ảo, kì lạ để
chủ yếu, thông qua đó phơi bày hiện thực xã hội phong kiến cùng những số phận cụ
thể của những con người trong xã hội đó, đồng thời gửi gắm một bài học đạo đức
hay lí tưởng sống thì với những tác phẩm phỏng truyền kì của văn học Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945, những yếu tố kì ảo, huyễn hoặc, ma quái lại được sử dụng
với nhiều mục đích, chức năng khác nhau. Có khi, yếu tố kì ảo, huyễn hoặc trong
các truyện này được dùng để tạo không khí rùng rợn, li kì cho câu chuyện; có khi để
thể hiện những trăn trở của con người trước cuộc sống; có khi lại được dùng để thể
hiện những quan niệm của người viết về con người, cuộc đời; có lúc yếu tố kì ảo lại
là phương tiện để các tác giả đi vào thế giới tâm linh của con người, hay để gửi gắm
những khát khao về tình yêu đôi lứa… và cũng có trường hợp, các sáng tác 1930 –
1945 kể lại những câu chuyện mang màu sắc huyền ảo nhưng những hiện tượng
huyền ảo, kì bí lại được giải thích một cách khoa học. Các truyện truyền kì trung đại
khai thác đề tài từ văn học dân gian với những câu chuyện có thể rất quen thuộc
trong kho tàng cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn. Các truyện phỏng truyền kì của văn
học hiện đại Việt Nam 1930 – 1945 cũng mang sắc màu dân gian nhưng đậm nét về
tín ngưỡng dân gian hơn là về văn học dân gian. Khẳng định điều này bởi lẽ chúng
tôi nhận thấy rằng nhiều truyện truyền kì trung đại khai thác từ các truyện dân gian
có sẵn thì ở truyện phỏng truyền kì giai đoạn này lại chủ yếu khai thác yếu tố kì ảo
dựa trên niềm tin của nhân dân ta từ xưa đến nay (tin rằng có ma quỷ, thần thánh)
mà sáng tạo ra những câu chuyện mang màu sắc huyền ảo, hoang đường. Ta rất dễ
tìm thấy trong truyện phỏng truyền kì giai đoạn này đủ các loại ma: ma xó, ma
trành, ma giữ của, ma cụt đầu, ma thuyền chài, ma khách… Điều đó phản ánh tín
ngưỡng tâm linh của dân gian: tin rằng có sự tồn tại của thế giới cõi âm, thế giới sau
khi con người mất đi. Thế giới ma ấy tạo nên một không khí rùng rợn, ảo huyền bao
trùm nhiều tác phẩm tác phẩm giai đoạn 1930 – 1945. Nhưng đó không phải là chức
132
năng chủ yếu duy nhất của các yếu tố kì ảo trong truyện phỏng truyền kì. Sử dụng
các yêu tố kì ảo trong sáng tác của mình, các nhà văn viết truyện ngắn kì ảo thời
hiện đại còn thể hiện nỗi niềm trăn trở, suy tư về về cuộc đời, về con người. Mượn
câu chuyện về người hóa hổ (Ngậm ngải tìm trầm) Thanh Tịnh gợi lên trong người
đọc những suy nghĩ về hai chữ “con người”. Con người khác với con vật ở chỗ dù
có biến đổi về nhân hình, nhân tính trong họ vẫn không hề mất đi hoàn toàn. Thế
nên, dù đã hóa hổ, bác Diệm trai vẫn cố gắng trở về nhà thăm con, thăm vợ bởi tình
yêu thương vẫn nặng trong lòng. Hình ảnh “Trong bầu sáng nhạt, nhuộm sương
khuya, bác Diệm thấy một bóng người – không, một con vật thì đúng hơn – chụm
mạnh bốn chân xuống đất, ngẩng đầu lên cao, đang đăm đăm nhìn về phía bác…
Bác ôm mặt khóc rất thê thảm. Con hổ cũng rú lên một hơi dài như để đáp lại tiếng
lòng của vợ. Tiếng hú nghe lạnh và buồn”[9,tr.530] khiến ta thương cảm cho đôi vợ
chồng từ nay phải chia cắt vĩnh viễn và đọng lại trong ta nhiều nghĩ suy về tình
người trong cuộc đời. Tiếng hú ban đêm (Thế Lữ), Thần hổ (Tchya)… lại mang đến
cho ta những trăn trở về sự hận thù. Sức mạnh của sự thù hận thật ghê gớm, nó cho
con người những khả năng phi thường nhưng cũng có thể khiến con người suốt đời
đau khổ và liệu hận thù có phải chỉ được hóa giải bằng việc trả thù? Yếu tố kì ảo
trong truyện ngắn hiện đại giai đoạn này có lúc được sử dụng để giúp người đọc
thâm nhập, tìm hiểu thế giới tâm linh của con người. Bóng người trên sương mù
(Nhất Linh) là câu chuyện vừa hư vừa thực, không khiến ta cảm thấy ghê sợ mà xúc
động thấm thía với niềm tin giữa những người thân yêu có cái gọi là “thần giao cách
cảm”, khả năng đó có thể cứu rỗi con người. Câu chuyện vì vậy còn là sự khẳng
định về sức mạnh của tình cảm vợ chồng. Những truyện ngắn Chiều sương, Một
trận bão cuối năm như thừa nhận có một thế giới của những hồn oan, những người
đã chết. Những con người ấy dẫu chết rồi vẫn có khi gặp gỡ, chuyện trò với người
sống như tìm chút hơi ấm. Một số tác phẩm, đặc biệt là những sáng tác của Nguyễn
Tuân, lại dùng yếu tố kì ảo để khẳng định, ca ngợi cái đẹp, ca ngợi giá trị vật chất
và giá trị tinh thần do con người tạo ra. Cái đẹp ấy ở trong những bức tranh cổ (Lửa
nến trong tranh), cái đẹp ấy trong những trang giấy dó nhà họ Chu (Xác ngọc lam),
133
cái đẹp ấy cũng có thể hiện thân trong những hồn ma phụ nữ như Hoàng Lan
Hương (Trại Bồ Tùng Linh), nàng Peng Slao (Thần hổ), nàng Sao (Lan rừng)…
(Giống như truyện truyền kì thời trung đại, các nhân vật nữ trong các sáng tác kì ảo
giai đoạn này đều rất đẹp). Đi liền với cái đẹp là tình yêu. Nhiều truyện phỏng
truyền kì thể hiện niềm khát khao hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc trần thế của con
người. Về điểm này truyện phỏng truyền kì giai đoạn 30 – 45 khá tương đồng với
truyện truyền kì trung đại. Người đọc có thể tìm thấy mối tình đắm đuối như mối
tình của Tuấn và cô gái kì bí, không rõ người hay ma Hoàng Lan Hương (Trại Bồ
Tùng Linh), một tình yêu nồng nàn, mãnh liệt như tình yêu giữa Đèo Lầm Khẳng và
nàng ma trành Peng Slao (Thần hổ), hay một tình yêu tha thiết, trong trẻo như tình
yêu của Quang và Sao - tinh hoa lan (Lan rừng)… Một điều khác biệt khá rõ giữa
truyện truyền kì trung đại và truyện phỏng truyền kì giai đoạn này đó là các tác giả
văn học trung đại không hề dùng yếu tố kì ảo để lí giải một cách khoa học về các
hiện tượng kì bí trong đời sống, trong khi đó ở truyện ngắn 1930 – 1945 điều này lại
có. Ví như truyện Vàng và máu (Thế Lữ) hay truyện Lửa nến trong tranh (Nguyễn
Tuân) chẳng hạn. Truyện của Thế Lữ đưa người đọc từ chỗ ghê sợ trước lời nguyền
của thần linh đến chỗ thấy được sức mạnh của lí trí con người khi để cho quan Châu
khám phá ra bí mật: những người vào hang tìm vàng không chết vì sự trừng phạt
của thần linh mà chết vì những hòn đá cuội có trát thuốc độc. Nguyễn Tuân lí giải
hiện tượng kì bí: bức tranh sáng bừng lên và ông tướng Hàn Kì hiện lên trên bức
tranh như thật, như thể “là người của cuộc đời này và đang là một vị khách ngoài
thời gian của ấp chủ đây” bằng những hiểu biết rất khoa học thông qua lời của công
sứ Lê Bích Xa. Đó là nhờ bức tranh được tạo từ chất liệu đặc biệt: “lấy chất lân trộn
vào thuốc để điểm ngọn lửa tranh, lấy thạch nhung để làm nến tranh”… Bằng cách
đó lí giải các hiện tượng kì bí một cách khoa học, các tác giả đã thể hiện niềm tin
tưởng vào khoa học và con người.
Dấu ấn rõ nhất của thể loại truyền kì trong các sáng tác mà chúng tôi đang đề
cập có lẽ chính là sự góp mặt của các nhân vật ma, thần, những tinh vật… trong
truyện. Nhân vật kì ảo là ma ta có thể tìm thấy trong các truyện: Thần hổ, Ai hát
134
giữa rừng khuya của Tchya, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ), Chiều sương, Một trận
bão cuối năm (Bùi Hiển)…; có nhân vật kì ảo là thần có thể kể đến các truyện Thần
hổ, Trên đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân); ta gặp nhân vật kì ảo là tinh vật trong những
truyện Lan rừng (Nhất Linh), Xác ngọc lam (Nguyễn Tuân)… Và môtip thường gặp
nhất của thể loại truyền kì trong văn học trung đại được tìm thấy trong những sáng
tác này chính là môtip về sự gặp gỡ, yêu đương và ân ái giữa ma và người, giữa
người và tinh vật… như trong các truyện Lan rừng, Trại Bồ Tùng Linh, Thần hổ, Ai
hát giữa rừng khuya… Có điều, trong nhiều sáng tác truyền kì thời trung đại, bên
cạnh thái độ cảm thông với khát vọng tình yêu của nhân vật trong truyện, tác giả có
khi phê phán những tình cảm này là trái với luân thường, là đồi phong bại tục, nhất
là ở những chàng nho sinh chỉ đắm đuối trong tình dục. Còn ở truyện phỏng truyền
kì mà chúng ta đang nói, có thể nói, chỉ thấy tinh thần ngợi ca tình yêu, đồng cảm
với những khát khao yêu thương của con người. Ngoài ra, những môtip khác như sự
thụ thai, ra đời kì lạ, chết kì lạ, thưởng – phạt… mà ta vẫn hay gặp ở truyện truyền
kì lại ít thấy ở truyện phỏng truyền kì. Ta cũng sẽ không thấy kiểu câu văn biền
ngẫu hay văn xuôi nhưng xen thơ phú trong những truyện kì ảo của văn học 1930 –
1945. Ngôn ngữ của truyện phỏng truyền kì giai đoạn này vẫn là ngôn ngữ giàu
hình ảnh nhưng không phải là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong truyện kì.
Không gian của truyện phỏng truyền kì có thể là không gian siêu nhiên như không
gian núi tiên, nơi ở của thần Tản Viên (Trên đỉnh non Tản), không gian tiên cảnh
trong Trên Bồng Lai… nhưng vẫn có điểm khác biệt so với truyện truyền kì trung
đại. Nếu không gian siêu nhiên trong truyện trung đại là không gian tưởng tượng
như tiên cảnh, thủy phủ, âm ti… thì không gian trong truyện phỏng truyền kì không
hoàn toàn là không gian tưởng tượng mà vừa hư, vừa thực, mang sắc màu rùng rợn
hoặc kì bí hoặc huyễn hoặc phù hợp với diễn biến nội dung truyện và cũng phù hợp
với thời gian truyện: ban đêm. Không gian ấy tràn ngập trong các truyện như Bóng
người trên sương mù, Lan rừng, Trại Bồ Tùng Linh, Một đêm trăng, Thần hổ, Ai hát
giữa rừng khuya… như một yếu tố nghệ thuật tạo nên sự hấp dẫn cho truyện. Chính
những điểm này đã đưa chúng tôi đến kết luận: dấu ấn thể loại truyền kì vẫn còn ghi
135
dấu trong các sáng tác văn xuôi 1930 – 1945 nhưng không thể xem những truyện
này là truyện truyền kì như các sáng tác Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục,
Truyền kì tân phả…của thời trung đại vì có rất nhiều điểm khác biệt. Những truyện
kì ảo của văn học Việt Nam 1930 – 1945 kế thừa những đặc điểm của truyện truyền
kì trung đại nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của kiểu truyện kinh dị phương
Tây như một số truyện Vàng và máu, Một truyện ghê gớm…
3.3.2. Dấu vết của truyền kì trong văn học Việt nam hiện đại sau 1975
Từ sau 1975, đặc biệt là từ sau 1986 trở đi, văn học Việt Nam chứng kiến sự
ra đời của nhiều tác phẩm mang nhiều yếu tố kì ảo và sắc màu huyền thoại, tạo
thành một xu hướng quan trọng của văn học đương đại: xu hướng văn học kì ảo.
Những yếu tố kì ảo gợi chúng ta nhớ đến thể loại truyền kì trung đại xuất hiện đậm
đặc trong nhiều sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết của các cây bút đương thời như
Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Hòa Vang, Lê Minh Hà… Những
yếu tố kì ảo trong văn học giai đoạn này khá phong phú và mang những điểm khác
so với truyện phỏng truyền kì văn học giai đoạn 1930 – 1945 và cũng khác truyện
truyền kì trung đại.
Yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam sau 1975 xuất hiện trong nhiều truyện
ngắn “viết lại” từ truyền thuyết, cổ tích dân gian như Gióng (Lê Minh Hà), Sự tích
những ngày đẹp trời (Hòa Vang), Trương Chi (Nguyễn Huy Thiệp)…, trong những
truyện ngắn “giả cổ tích” của Nguyễn Huy Thiệp với Những ngọn gió Hua tát, và
trong nhiều truyện viết về cuộc sống, con người hiện đại yếu tố kì ảo cũng góp mặt
khi thì thoáng qua, khi thì đậm đặc như Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ),
Dây neo trần gian (Võ Thị Hảo), Gió lẻ (Nguyễn Ngọc Tư), Bướm trắng (Thái Bá
Tân), Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt (Nguyễn Huy Thiệp), Cõi người rung chuông
tận thế (Hồ Anh Thái)…
Nếu trong truyền kì trung đại, yếu tố kì ảo là phương thức phản ánh hiện thực và
chuyển tải quan niệm “văn dĩ tải đạo”, và trong những tác phẩm phỏng truyền kì
nhằm tạo không khí rùng rợn, kì bí hay để đi vào thế giới tâm linh, hoặc thể hiện
những quan niệm của người viết về cuộc đời, con người thì những yếu tố kì ảo,
136
mang sắc màu huyền thoại trong văn học hiện đại lại được dùng với những chức
năng khác. Khi “viết lại” những huyền thoại xưa trong văn hóa dân gian của dân
tộc, các tác giả hiện đại đã “nhận thức lại” con người và cuộc sống trong truyện cổ,
gắn những nhân vật trong truyền thuyết, cổ tích với cuộc đời thường, với những suy
tư, tình cảm rất “người”. Vì vậy, dẫu mượn yếu tố kì ảo, hoang đường của truyện
cổ, của huyền thoại, những truyện Gióng, Sự tích những ngày đẹp trời, Trương
Chi… vẫn là những câu chuyện của hiện tại, mang hơi thở của cuộc sống đương
thời. Những nhân vật từ truyền thuyết, cổ tích trở về với chúng ta, qua ngòi bút của
các tác giả văn học hiện đại rất gần gũi. Một mặt, ở họ vẫn có những cái cao cả
đáng ngưỡng mộ, mặt khác họ vẫn mang những tính cách, suy nghĩ như con người
bình thường. Bằng những chi tiết hoang đường kì ảo ta vẫn gặp trong truyền kì, các
tác giả mang đến cho người đọc những câu chuyện sinh động, hấp dẫn đồng thời
cũng khiến người đọc “phản tỉnh”, “nghĩ lại” về những con người trong huyền
thoại, cổ tích xa xưa. Trong truyện dân gian, Gióng là nhân vật chính được khắc họa
bằng những chi tiết miêu tả về ngoại hình, hành động… thì trong truyện của Lê
Minh Hà, hình ảnh Gióng được xây dựng chủ yếu bằng những nghĩ suy, bằng
những dòng tâm trạng nối nhau của người mẹ sinh ra Gióng. Truyền thuyết dân gian
kết thúc với chi tiết Gióng bay về trời sau khi đánh tan giặc Ân để trở thành bất tử,
Lê Minh Hà mang Gióng trở về với cuộc đời trần thế cùng bao tâm trạng ngỡ
ngàng, sững sờ và xót xa của người mẹ khi con trở về trong sự cô đơn, trong những
đổi thay của nhân tình thế thái. Sự tích những ngày đẹp trời của Hòa Vang cũng là
một cách nhìn lại, một cuộc “đối thoại” lại về truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh, thể
hiện sự táo bạo của tác giả khi “đi ngược” lại với những gì truyền thuyết đã kể và
người Việt Nam từ bao đời nay vẫn nghĩ, cách nghĩ một chiều. Tác giả đã nhìn thấy
ở Mị Nương nỗi nhớ quê nhà tha thiết, đã thấu suốt ở Thủy Tinh một tình yêu mãnh
liệt, say đắm và thủy chung. Tình yêu ấy Thủy Tinh biến thành những giọt mưa thu
để có thể gặp mặt người yêu. Qua ngòi bút của Hòa Vang, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mị
Nương… là những con người bình thường trong cuộc đời này chứ không phải chỉ là
những nhân vật huyền thoại, những thần tiên xa lạ nữa. Viết Trương Chi, Nguyễn
137
Huy Thiệp vẫn giữ nguyên hình ảnh một Trương Chi xấu xí nhưng hát cực hay và
có một tâm hồn thật đẹp. Nhưng chàng Trương Chi ấy vẫn là con người bình
thường với những hành động, cử chi bình thường. Và Trương Chi còn là một người
rất đỗi si tình chứ không phải Mị Nương như trong truyện dân gian. Mị Nương của
Nguyễn Huy Thiệp cũng có những lúc “rỗng tuếch và tẻ nhạt”, cũng đầy hoài nghi.
Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp cố vượt qua những giới hạn bình thường của
cuộc đời dung tục để tình yêu mình hướng vào cái tuyệt đối. Những truyện như Sói
trả thù, Nàng Sinh, Chiếc tù và bị bỏ quên, … trong chùm truyện Những ngọn gió
Hua Tát… lung linh sắc màu cổ tích dân tộc Tây Bắc từ ngôn ngữ, giọng điệu kể
chuyện đến nội dung truyện. Và bằng những câu chuyện mang sắc màu kì ảo ấy, tác
giả hướng người đọc vào những vấn đề luôn day dứt, ám ảnh con người từ bao đời.
Sói trả thù là câu chuyện về một gia đình tưởng đã có thể bước qua được lời nguyền
của những người đi rừng thế nhưng cuối cùng đứa con trai duy nhất của gia đình nổi
tiếng về săn bắt thú rừng ấy lại chết đau đớn dưới họng con sói dữ. Những người đi
rừng đã từng khuyên người cha “hãy biết sợ rừng”, nhưng người cha ấy chỉ “cười
khẩy” và cho con mình vào rừng săn thú từ lúc mới năm tuổi thay vì mười ba tuổi
như tục lệ. Một lần, hai cho con vào rừng săn sói, giết được sói đầu đàn và bắt
những con sói con mang về. Đúng ngày người cha cúng ma cho con để bước qua lời
nguyền, đứa bé sảy chân té, máu trào ra từ miệng đứa bé đã thức tỉnh tiềm thức mơ
hồ của con sói con ngày xưa bị mất mẹ, nó chồm lên táp vào cổ đứa bé. Cái chết của
đứa bé thật khủng khiếp. Trong nỗi đau mất con, người cha cầm rìu tiến về phía con
sói, tưởng rằng ông sẽ bổ xuống đầu nó những đòn trí mạng, nhưng không, ông chặt
đứt dây xích cho nó chạy vào rừng. Câu chuyện khiến người đọc bị ám ảnh, không
phải chỉ vì cái chết của thằng bé San mà còn vì những điều kì bí không thể giải
thích hết được trong cuộc đời. Sói trả thù cũng là lời nhắc nhở con người phải biết
sống hài hòa với tự nhiên, tự nhiên cũng cần được tôn trọng, được sống bình đẳng
như con người. Nàng Sinh là một câu chuyện đầy dư vị sâu xa, ngắn nhưng chất
chứa tính nhân văn thông qua chi tiết hư cấu kì ảo ở cuối truyện. Hòn đá thiêng tích
tụ bao nhiêu nỗi đau khổ và những lời cầu xin của người trong bản Hua Tát. Hòn đá
138
ấy, tuy nhỏ, nhưng không ai nhấc lên nổi. Thế mà, nàng Sinh, người con gái thân
phận con hươn, sống thui thủi như con chim cút, bị dân làng lãng quên lại nhấc lên
thật dễ dàng. Trên tay nàng Sinh, hòn đá ấy bỗng tan thành nước, những giọt nước
trong như nước mắt, chảy qua kẽ tay nàng, đôi bàn tay chai sạn, ngón không ra
ngón. Phải chăng Nguyễn Huy Thiệp muốn nói với chúng ta: chỉ những con người
thật sự chịu đựng những đau khổ đắng cay trong sự cô đơn, ghẻ lạnh mà không oán
thán, những con người có tâm hồn hoàn troàn thánh thiện mới có khả năng hóa giải
những khổ đau? Chiếc tù và bị bỏ quên cũng là một lời nhắc nhở con người đừng
quên đi nguồn cội, tổ tiên. Sự lãng quên những giá trị thiêng liêng từ quá khứ chính
là mối nguy cho cuộc sống hiện tại chứ không phải là loại sâu mọt; hay nói cách
khác, sâu mọt, hiểu theo hàm nghĩa, chính là sự lãng quên truyền thống, tổ tiên, quá
khứ của con người. Yếu tố kì ảo ở phần cuối truyện Hậu thiên đường của Nguyễn
Thị Thu Huệ như nhấn mạnh sự bất lực của người mẹ nhìn con mình đang bước vào
địa ngục mà tưởng là đang ở thiên đường. Yếu tố kì ảo ấy còn là một sự thức tỉnh
đối với người đọc: đừng để sự quan tâm của mình dành cho những người thân yêu
trở thành quá muộn. Câu chuyện, dù mang sắc màu kì ảo ở cuối truyện, lại đề cập
đến những vấn đề của hiện thực nóng hổi: những gia đình không trọn vẹn, con cái
sẽ thế nào, ở tuổi mười sáu, tuổi mới lớn, người con gái cần gì ở người mẹ, và
những sai lầm thế hệ trước đã trải qua, liện thế hệ sau có tránh được, nhất là khi
giữa họ là khoảng cách về tình cảm; thiếu sự thấu hiểu, quan tâm?... Dây neo trần
gian của Võ Thị Hảo lại mượn yếu tố kì ảo để khẳng định một chân lí: tình yêu
thương chân thành có sức mạnh kì diệu. Cái đã “neo” được người đàn ông trong
truyện phải đâu là 999 bím tóc quấn quanh tấm ảnh mà chính là khát khao mãnh liệt
của nhân vật “tôi” trong truyện, khát khao người yêu mình sống lạc quan, vượt qua
bệnh tật và khát khao gieo vào lòng anh niềm tin đó.
Điểm qua một vài truyện có yếu tố kì ảo trong văn học hiện đại sau 1975, có thể
thấy những yếu tố kì ảo được vận dụng để chuyển tải nhiều nội dung phong phú chứ
không chỉ đơn thuần phản ánh hiện thực và thể hiện quan niệm đạo đức như trong
truyền kì trung đại. Một số tác phẩm tự sự còn khai thác yếu tố kì ảo để đề cập đến
139
những vấn đề được cho là “nhạy cảm”, là khó nói như mặt trái của chiến tranh,
chuyện tính dục…như các tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người
nhiều ma… Thế giới nhân vật trong truyện hiện đại mang dấu vết của truyền kì
cũng đa dạng phong phú như thế giới nhân vật trong truyện truyền kì trung đại. Ở
những tác phẩm tự sự hiện đại có yếu tố kì ảo ngoài nhân vật là những con người
bình thường trong trần thế, còn có nhân vật là thần (Gióng, Sự tích những ngày đẹp
trời), là ma (Bướm trắng, Gió lẻ), là con người lạ thường với diện mạo kì quái
(Trương Chi), lại có cả nhân vật có thể biến hình như người họa sĩ trong Hạc vừa
bay vừa kêu thảng thốt biến thành cánh hạc khi biết người con gái mình hẹn không
còn nữa… Nếu truyện truyền kì trung đại mượn chuyện ma quỷ, thần linh để nói
chuyện người, chuyện đời trong xã hội phong kiến thì ở các truyện mang âm vang
truyền kì cũng mượn các nhân vật kì ảo ấy để phản ánh hiện thực, nhưng mặt khác,
những nhân vật này còn thể hiện nhu cầu nhận thức mới, một quan niệm nghệ thuật
mới về con người trong xã hội đương đại, hướng con người đến với cái đẹp nhân
bản. Nếu phần nhiều các truyện kì ảo trung đại có kết thúc có hậu, kết cấu chặt chẽ
và khá nhất quán thì các truyện mang yếu tố kì ảo của văn học hiện đại sau 1975 lại
thường có kết cấu mở. Kiểu kết cấu này tạo ra tính đa nghĩa, để lại nhiều suy tư cho
người đọc, trao cho người đọc quyền khám phá, quyết định. Nếu truyện truyền kì
trung đại chịu ảnh hưởng của văn học cổ Trung Quốc, truyện phỏng truyền kì giai
đoạn 1930 – 1945 chịu ảnh hưởng của truyện kinh dị phương Tây thì các truyện có
yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam sau 1975 lại tiếp nhận ảnh hưởng của loại
truyện kì ảo phương Tây thế kỉ XX.
Sự hồi sinh của những yếu tố hoang đường, kì ảo trong các truyện hiện đại sau
1975 cũng như trong các truyện phỏng truyền kì giai đoạn 1930 – 1945 đã cho thấy
dư ba của thể loại truyền kì trung đại lên văn học hiện đại Việt Nam. Điều này cũng
chứng tỏ, dù thể loại truyền kì của loại hình tự sự trung đại không còn nữa trong
văn học hiện đại, nhưng sức sống của thể loại này là rất lớn, sức ảnh hưởng và cuốn
hút cũng không hề nhỏ, dẫu thời gian có qua đi. Qua đó, phần nào ta thấy được vị trí
quan trọng của thể loại truyền kì trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của văn học
140
Việt Nam. Theo ý kiến của người viết, dù đã có một số bài viết và công trình nghiên
cứu về yếu tố kì ảo trong văn học hiện đại Việt Nam nhưng xem xét sự ảnh hưởng
của thể loại truyền kì lên văn học hiện đại cũng vẫn là một vấn đề đáng quan tâm và
còn có thể khai thác thêm nhiều phương diện.
141
KẾT LUẬN
Truyền kì là một thể loại quan trọng của văn học trung đại, có sự đóng góp đáng
kể trong quá trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam cả về nội dung lẫn
nghệ thuật. Thể loại này một mặt tiếp nối những truyền thống văn học dân gian,
đóng vai trò là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, một mặt đánh dấu sự
phát triển của văn xuôi tự sự trung đại, đưa văn học viết từ chỗ đơn thuần ghi chép
sự việc hay sưu tầm tác phẩm dân gian đến chỗ sáng tác nghệ thuật thật sự. Mặt
khác, thể loại này cũng ảnh hưởng lâu dài đến cả văn học hiện đại trong tiến trình
phát triển của văn học dân tộc.
Với vai trò là cầu nối giữa văn học dân gian và văn học viết, truyền kì khai thác
đề tài từ các truyện cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn của dân gian, đồng thời chịu
ảnh hưởng của truyện dân gian trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, kết cấu, nghệ
thuật khắc họa nhân vật, bên cạnh đó truyền kì cũng sử dụng nhiều môtip quen
thuộc của truyện dân gian.
- Những tác phẩm truyền kì, đặc biệt là những tác phẩm thuộc giai đoạn phát
triển rực rỡ nhất của thể loại này (thế kỉ XV, XVI) thật sự là những sáng tác nghệ
thuật độc đáo với rất nhiều sự dụng công của các tác giả, thể hiện được cá tính của
người viết. Các truyện truyền kì phản ánh chân thực đời sống xã hội phong kiến với
những nỗi thống khổ của nhân dân, khẳng định những tình cảm, tính cách đáng quý
của con người, thể hiện sự đồng cảm của các tác giả với số phận và khao khát chính
đáng của những con người bất hạnh trong một xã hội bất công. Truyền kì vì vậy vừa
có giá trị hiện thực, giá trị yêu nước lại giàu giá trị nhân văn, nhân bản. Nghệ thuật
tự sự của truyền kì đánh dấu một bước tiến mới so với những tác phẩm tự sự trước
khi thể loại này ra đời thể hiện ở các mặt xây dựng kết cấu, khắc họa nhân vật, ngôn
ngữ kể chuyện…
- Những yếu tố hoang đường, kì ảo – điểm nổi bật của truyện truyền kì trung
đại vẫn được tìm thấy trong những sáng tác của văn học hiện đại. Tuy nhiên, các tác
giả hiện đại sử dụng các yếu tố kì ảo trong những tác phẩm của mình với những
142
mục đích, chức năng phong phú hơn là phản ánh hiện thực cuộc sống và chuyển tải
đạo lí như truyền kì trong trung đại. Bên cạnh đó, dù mang trong mình nhiều yếu tố
hoang đường, kì ảo nhưng các sáng tác hiện đại vẫn mang nhiều điểm khác biệt về
nội dung chủ đề, nghệ thuật phản ánh hiện thực cuộc sống, con người so với truyền
kì trung đại.
Nghiên cứu vị trí thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của văn học Việt
Nam là một cách khẳng định giá trị của thể loại, thể hiện cái nhìn khách quan, công
bằng hơn đối với đóng góp của thể loại này trong lịch sử văn học. Luận văn Vị trí
của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hi vọng có thể
thực hiện được phần nào yêu cầu này.
143
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lại Nguyên Ân, Từ điển Văn học Việt Nam, từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, 1.
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005
Trần Lê Bảo, “Liêu trai” hiện đại Việt Nam, Văn học Việt Nam sau 1975 – 2.
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, 2009
Ngữ văn 6, Bộ Giáo dụ và đào tạo, NXB Giáo dục, 3.
Ngữ văn 9, tập 1, Bộ giáo dục và đào tạo, NXB Giáo dục, 2005 4.
Ngữ văn 10, tập 2, Bộ Giáo dục và đào tạo, 2006 5.
Lê Nguyên Cẩn, Cái kì ảo trong tác phẩm Balzac, NXB Đại học Sư phạm, 6.
2003
Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, 7.
http//wwwe.thuvien.com
Nguyễn Huệ Chi, Truyện truyền kì Việt Nam, Tập 2, NXB Giáo dục, 2009 8.
Nguyễn Huệ Chi, Truyện truyền kì Việt Nam, Tập 3, NXB Giáo dục, 2009 9.
10.
11. Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, NXB Trẻ, NXB Hồng Bàng, 2011
12. Kỉ yếu Hội thảo khoa học của học viên cao học và nghiên cứu sinh năm
2010, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Đặng Anh Đào, Vai trò của yếu tố kì ảo trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt
Nam,
14. Lê Đạt, Lê Minh Hà, Truyện cổ viết lại, NXB trẻ, 2006
Phan Cự Đệ, Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử, Thi pháp, Chân dung, NXB 15.
Giáo dục, 2007
Phan Cự Đệ (Chủ biên), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Giáo dục, 16.
2010
17. Đoàn Lê Giang, Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì mạn lục
của Nguyễn Dữ, Trang điện tử trường ĐHKHXHNV, Khoa Văn học và
Ngon ngữ, 2010
144
Phùng Hữu Hải, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại sau 1975, 18.
19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2010
20. Lại Văn Hùng, Bàn thêm về tác giả, tác phẩm Truyền kì mạn lục, Tạp chí
văn học 10/2002
21. Lê Văn Hùng, Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì Việt Nam qua
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Báo cáo nghiên cứu khoa học trường Cao
đẳng Sư phạm Bà Rịa Vũng Tàu, 2007
Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, NXB Văn học, 22.
2010
23. Đinh Gia Khánh (Chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ
XIX, NXB Giáo dục, 2006
Nguyễn Văn Long, Lã Nhân Thìn, Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn 24.
đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, 2009
Sương Nguyệt Minh (tuyển chọn), Truyện ngắn 5 tác giả nữ, NXB Thời đại, 25.
2011
26. Nguyễn Đăng Na, Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những vấn đề văn
xuôi tự sự, NXB Giáo dục, 2007
27. Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại, tập 1 – Truyện ngắn,
NXB Giáo dục, 1999
28. Nguyễn Đăng Na, Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học, Con
đường giải mã văn học trung đại, NXB Giáo dục, 2006
29. Hoài Nam, Thơ, văn xuôi và những kết hợp nghệ thuật, CAND.com.vn
30. Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái, NXB trẻ - NXB Hồng Bàng, 2011
31. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (2 tập), NXB Khoa học Xã hội, 1989
32. Nguyễn Hữu Sơn, Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và sáng tạo
trong truyền kì mạn lục, Trang điện tử trường KHXHVNV, Khoa Văn học và
Ngôn ngữ, 2006
33. Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXBĐHQGHN, 2005
145
Đại Việt sử kí toàn thư (2 tập), Viện Sử học, NXB Văn hóa Thông tin, 2004 34.
35. Bùi Duy Tân, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tập 1, NXB Giáo dục,
2004
36. Bùi Duy Tân, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tập 2, NXB Giáo dục,
2004
37. Bùi Duy Tân, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tập 3, NXB Giáo dục,
2004
38. Trần Thị Băng Thanh, Đi tìm nguyên mẫu Chế thắng phu nhân, Trang điện
tử Báo Văn hóa Nghệ An, tháng 3/ 2012
39. Trần Thị Băng Thanh, Mối liên hệ giữa Truyền kì tân phả và lễ hội văn hóa
dân gian, Trang điện tử của Viện Văn học, 2011
40. Vũ Thanh, Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á, Trang
điện tử của Viện Văn học, 2006
41. Vũ Thanh, Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại – quá trình nảy sinh
và phát triển đến đỉnh điểm, in trong Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX –
Những vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Giáo dục, 2007
Vũ Thị Phương Thanh, Thánh Tông di thảo – nhìn từ truyền thống truyện 42.
dân gian Việt Nam và từ đặc điểm truyện truyền kì, Báo cáo nghiên cứu khoa
học trường Đại học Vinh, 2008
43. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
NXBGD, 2008
44. Trần Viết Thiện, Huyền thoại trong truyện ngắn đương đại Việt Nam, , 2011
45. Nguyễn Huy Thiệp, Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội Nhà Văn, 1995
46. Nguyễn Thanh Trường, Một vài đặc điểm truyện ngắn miền núi 1930 – 1945,
Tạp chí khoa học ĐHSPHN, số 5/ 2006
47. Bùi Thanh Truyền, Sự hồi sinh của những yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương
đại Việt Nam,
48. Bùi Thanh Truyền, Truyện kì ảo trong đời sống văn học đương đại,
146
49. Trần Văn Tùng, Yếu tố kì ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 -1945,
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn trường ĐHSP TPHCM
50. Nguyễn Ngọc Tư, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, NXB Trẻ, 2009
51. Lê Trí Viễn (Chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, Giáo trình khoa Ngữ
văn trường ĐHSP TPHCM, 1999
52. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – Những vấn đề lí luận
và lịch sử, NXB Giáo dục, 2007
53. Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, NXB Văn học, 1960
54. Nghiên cứu số phận người phụ nữ Việt Nam trong Truyền kì mạn lục, Luận
văn Thạc sĩ, nguồn: tailieu100.com
Từ điển Văn học Việt Nam (Bộ mới), NXB Thế giới, 2004. 55.
Truyện ngắn Hòa Vang, Thư viện ebook, http://thuvien.com.forums 56.