ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

TRẦN ĐĂNG DƢƠNG

VỐN XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH TÌM VIỆC LÀM

CỦA NHỮNG NGƢỜI GIÚP VIỆC TẠI HÀ NỘI -

TRƢỜNG HỢP CHUNG CƢ BẮC LINH ĐÀM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

HÀ NỘI, 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

TRẦN ĐĂNG DƢƠNG

VỐN XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH TÌM VIỆC LÀM

CỦA NHỮNG NGƢỜI GIÚP VIỆC TẠI HÀ NỘI -

TRƢỜNG HỢP CHUNG CƢ BẮC LINH ĐÀM

Chuyên ngành: Việt Nam học

Mã số: 60220113

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. TRỊNH VĂN TÙNG TS. ĐẶNG HOÀI GIANG

HÀ NỘI, 2020

LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành một luận văn luôn là một hành trình dài với nhiều thử

thách. Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Đặng Hoài Giang -

cán bộ giảng dạy tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học

Quốc gia Hà Nội, là người trực tiếp hướng dẫn, động viên tinh thần và liên tục

chỉ dạy cả về chuyên môn và phương pháp mà nếu thiếu chúng, tôi không thể

hoàn thành luận văn này.

Tiếp đến, tôi xin gửi lời tri ân đến những cư dân hiện đang cư trú tại

Khu đô thị Bắc Linh Đàm. Trong quá trình khảo sát và phỏng vấn, nhờ sự hợp

tác nhiệt tình của mọi người nên tôi có được những dữ liệu và thông tin cần

thiết để thực hiện đề tài nghiên cứu này.

Cuối cùng, tôi xin nhắc tới người thân, cộng sự và những người bạn với

sự cảm kích sâu sắc vì đã đồng hành cùng tôi trong suốt hành trình đầy khó

khăn vừa qua.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 1

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................ 6

4. Phương pháp chọn mẫu và phương pháp nghiên cứu ................................... 7

5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9

6. Bố cục luận văn ........................................................................................... 10

CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM “VỐN XÃ HỘI” VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ

LIÊN QUAN .................................................................................................. 11

1.1 Thuật ngữ “Vốn xã hội”: Lòng tin và Mạng lưới ..................................... 12

1.2 Một số quan điểm phổ biến về khái niệm vốn xã hội ............................... 16

1.2.1 Quan điểm của Pierre Bourdieu ............................................................ 16

1.2.2 Quan điểm của James Coleman & Robert Putman ............................... 17

1.2.3 Quan điểm của Francis Fukuyama ........................................................ 19

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng .............................................................................. 20

1.4 Các định chế truyền thống trong xã hội Việt ............................................ 23

1.4.1 Ý niệm “gia đình‟‟ trong tâm thức của xã hội Việt ................................ 23

1.4.2 Vai trò của “không gian làng” đối với mạng lưới quan hệ ................... 25

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 26

CHƢƠNG 2. CHUNG CƢ LINH ĐÀM VÀ NGƢỜI GIÚP VIỆC

GIA ĐÌNH ..................................................................................................... 27

2.1 Chung cư Linh Đàm và nhu cầu về lao động giúp việc gia đình ............. 27

2.1.1 Khái niệm nhà chung cư và căn hộ chung cư ........................................ 27

2.1.2 Khu đô thị Linh Đàm: vị trí và đặc điểm ............................................... 29

2.1.3 Nhu cầu về lao động giúp việc gia đình ................................................. 31

2.2 Người giúp việc gia đình và quá trình tìm việc làm.................................. 36

2.2.1 Định nghĩa và một số đặc điểm chung ................................................... 36

2.2.2 Quá trình tìm kiếm việc làm ................................................................... 42

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 52

CHƢƠNG 3: VỐN XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁC GIAI ĐOẠN TRONG QUÁ

TRÌNH TÌM VIỆC LÀM ............................................................................. 53

3.1 Ảnh hưởng đối với lựa chọn, tiếp cận và xác thực thông tin .................... 53

3.2 Ảnh hưởng đối với quá trình thương lượng và đảm bảo quyền lợi .......... 59

3.3 Ảnh hưởng đối với quá trình thay đổi công việc ...................................... 64

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 69

KẾT LUẬN .................................................................................................... 71

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 73

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Các ý nghĩa của “vốn” và “xã hội” khi đứng độc lập .................... 13

Bảng 2.1: Những bước trong quá trình tìm kiếm việc làm............................. 42

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa lòng tin và vốn xã hội ...................................... 15

Sơ đồ 1.2: Vốn xã hội theo quan điểm của Pierre Bourdieu .......................... 17

Sơ đồ 1.3: Vốn xã hội theo Quan điểm của James Coleman & Robert Putman .... 18

Sơ đồ 1.4: Lòng tin và các nhân tố ................................................................. 21

Sơ đồ 1.5: Các định chế và xã hội .................................................................. 22

Sơ đồ 1.6: Các định chế và các nhân tố .......................................................... 23

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH

Hình 2.1: Chung cư truyền thống ................................................................... 28

Hình 2.2: Chung cư hiện đại .......................................................................... 28

Hình 2.3: Bản đồ Khu đô thị Bắc Linh Đàm .................................................. 30

Hình 2.4: Không gian sinh hoạt chung ........................................................... 49

Hình 2.5: Không gian kết nối qua mạng xã hội ............................................. 50

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

JD Job Description

Bản mô tả công việc

OECD Organization for Economic Cooperation and

Development

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

ILO International Labour Organization

Tổ chức Lao động Quốc tế

KDT Khu đô thị

LDGVGD Lao động giúp việc gia đình

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Người giúp việc gia đình là nhóm đối tượng hình thành và phát triển

cùng với quá trình đô thị hóa. Họ di cư góp phần vào sự thay đổi cơ cấu xã hội

đã và đang diễn ra tại các thành phố lớn, đặc biệt là tại Hà Nội. Họ cũng có thể

được xem là một nhóm yếu thế, chịu nhiều thiệt thòi trong quá trình lao động

và có nhiều yếu tố khá đặc thù trong quá trình tìm kiếm công việc. Chính vì

vậy, việc nghiên cứu nhóm đối tượng này không chỉ đem lại những hiểu biết

mới về họ, mà còn đem đến những cách nhìn khác về toàn thể xã hội.

Mặc dù nhóm đối tượng này đã được khai thác bởi một số lượng lớn

các nghiên cứu với các đề tài đa dạng và đã được khai thác nhiều khía cạnh

bằng nhiều phương pháp khác nhau.Tuy nhiên, nhìn chung, các nghiên cứu

tiếp cận từ góc độ ảnh hưởng của vốn xã hội là chưa phổ biến. Nguyên nhân

một phần là do khái niệm vốn xã hội là tương đối mới mẻ và chưa có sự thống

nhất về nội hàm nên còn nhiều tranh luận.

Chính vì vậy, xuất phát từ việc khai thác các quan điểm khác nhau về

vốn xã hội, gắn kết chúng với những nét đặc thù của xã hội Việt và giới hạn

phạm vi nghiên cứu trong một khu vực tương đối đặc trưng là các chung cư

tại Khu đô thị Bắc Linh Đàm, luận văn hi vọng có thể góp thêm một góc nhìn

về quá trình tìm kiếm việc làm của những con người hàng ngày vất vả mưu

sinh với nhiều thiệt thòi và dường như vẫn đang bị bỏ lại phía sau trong quá

trình phát triển của xã hội.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Mọi tri thức đương đại đều là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài với

nhiều đóng góp của các học giả trong những lĩnh vực có liên quan đến nhau.

1

Khái niệm “Vốn xã hội” không phải là ngoại lệ. Quá trình tranh luận về nội hàm

của khái niệm và ứng dụng chúng vào việc khai thác những nhóm đối tượng

khác nhau đã được ghi nhận qua nhiều công trình ở cả trong và ngoài nước.

Theo quan điểm của Robert Putnam, học giả chính trị học Hoa Kỳ,

thuật ngữ “Vốn xã hội” được sử dụng lần đầu tiên trong các công trình của

Lyda J. Hanifan, một nhà giáo dục ở West Virginia từ năm 1916. Tuy nhiên,

sau đó một thời gian dài thuật ngữ này hầu như không được sử dụng một cách

phổ biến mặc dù chúng có được nhắc đến bởi một số học giả khác. Mãi tận

cho tới thập niên 50 trở đi, các nhà nghiên cứu xã hội học Canada mới thực sự

quan tâm đến khái niệm này và đưa chúng vào các công trình của họ. Tiêu

biểu là nhưng nghiên cứu đồ thị của Jane Jacobs trong những năm 60 và

nhưng nghiên cứu kinh tế học của Glenn Loury trong những năm 70.

Khái niệm này bắt đầu thu hút được sự quan tâm của cộng đồng nghiên

cứu quốc tế từ những năm 1980 sau những công trình có tính đột phá của nhà

xã hội học người Pháp Piere Bourdieu và nhà xã hội học người Mỹ Jame

Coleman.

Từ năm 1990, với chương trình của Ngân hàng Thế giới, hàng loạt các

tác giả danh tiếng tham gia vào việc khai thác các khái cạnh của vốn xã hội

như: Narayan (1997), Narayan & Pritchett (1999), Narayan & Parker (1999),

Narayan & Shah (2000), Narayan & Cassidy (2001), Rose (1999, 2000a),

Woolcock (1998), Woolcock & Narayan (2000).

Năm 1995, Robert Putnam cho ra đời tác phẩm “Chơi bowling một

mình: Sự sụp đổ và sự hồi sinh của cộng đồng Hoa Kỳ”. Công trình này đã

đưa “Vốn xã hội” vào trung tâm trong các vấn đề nghiên cứu và tranh luận

của nhiều nhà khoa học trên thế giới. Cho tới hiện tại, cộng đồng các nhà

nghiên cứu dành nhiều mối quan tâm cho khái niệm này đã trở nên đông đảo

với nhiều gương mặt nổi trội như: Putnam, Feldstein, Yoshihiro, Francis

Fukuyama, Kawachi, Knack, Keefer, Nahapiet, Ghoshal, Portes, Nan Lin,

2

Adler, Kwon, Krishna, David Halpern…

Nhiều hội thảo quốc tế đã được tổ chức để các học giả quy tụ đồng thời

cùng thảo luận mà tiêu biểu là hội thảo Le capital do GRIS và Đại học Rouen tổ

chức năm 2003, hội thảo La mesure du capita social do PRP tổ chức năm 2006.

Tại Việt Nam, từ những năm 2000 cho tới nay, các nhà nghiên cứu đã

có nhiều bài viết và công trình có liên quan, trực tiếp thảo luận về khái niệm

“Vốn xã hội”, phân tích các khía cạnh của vốn xã hội tại Việt Nam, mà tiêu

biểu là: Bùi Văn Nam Sơn, Trần Hữu Quang, Lê Minh Tiến, Nguyễn Quý

Thanh, Nguyễn Duy Thắng, Lương Văn Hy, Lê Văn Tiến, Nguyễn Văn Tiến,

Nguyễn Đức Lộc... Hội thảo “Vốn xã hội và phát triển” do Tạp chí Tia Sáng

tổ chức năm 2006 có thể coi là cuộc hội thảo chính thức về chủ đề này tại Việt

Nam. Sau quá trình đó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau có

ứng dụng khái niệm “Vốn xã hội” vào những đối tượng khác nhau.

Về ảnh hưởng của của vốn xã hội đối với quá trình tìm kiếm việc làm,

theo Phạm Huy Cường trong “Mạng lưới quan hệ xã hội với kết quả tìm kiếm

việc làm của sinh viên tốt nghiệp: những tác động không được mong đợi” tác

giả cũng đã chỉ ra rằng: “Sự xuất hiện của khái niệm vốn xã hội và các nghiên

cứu về vốn xã hội nói chung và trong thị trường lao động nói riêng trong

những năm gần đây đã xác nhận vai trò của một nguồn lực mới, nhấn mạnh

ảnh hưởng của các yếu tố niềm tin, sự có đi có lại, và mạng lưới quan hệ xã

hội đến sự thành đạt nghề nghiệp của người lao động. Mặc dù hầu hết các kết

quả nghiên cứu cho đến nay đều xác nhận những tác động tích cực của việc

tận dụng mạng lưới quan hệ xã hội trong quá trình tìm kiếm một công việc.

Điều này tạo nên một ấn tượng rằng tìm kiếm việc làm thông qua các mối

quan hệ là một chiến lược hiệu quả đáp ứng được mọi mong đợi từ các đối

tác trong thị trường. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế tác động hai chiều của

vốn xã hội, trong đó mạng lưới quan hệ xã hội là một thành tố cấu thành nền

tảng, các mối quan hệ xã hội bên cạnh ý nghĩa tích cực còn có những tác

3

động không được mong đợi trong thị trường lao động.” [4, tr. 58]

Nếu xét về khía cạnh lao động nhập cư, trong công trình “Sinh kế của

người nhập cư dưới góc nhìn của lý thuyết vốn xã hội” (Nguyễn Thị Bích

Thủy, 2015) nhấn mạnh các nội dung: “Người nhập cư vào các thành phố

gặp nhiều trở ngại, nhưng bên cạnh đó họ cũng có những lợi thế riêng của

mình, tuy nhiên để có thể vượt qua được mọi thách thức, rào cản cũng như

bất trắc, đòi hỏi người dân nhập cư cần phải sử dụng nhiều loại nguồn lực

khác nhau. Các nguồn lực cần thiết đối với người dân nhập cư có thể kể đến:

vốn tài chính, vốn vật chất, vốn con người, vốn văn hóa và vốn xã hội. Trong

số các loại vốn này, có một loại vốn đặc biệt - là vốn xã hội, không tồn tại

hữu hình mà tồn tại vô hình trong mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân với

nhau, hơn nữa nó không trực tiếp tạo ra lợi ích vật chất củng như tinh thắn,

mà nó là bước trung gian chuyển đổi sang các loại vốn khác nếu như cá nhân

biết cách vận dụng.” [21, tr.66]

Trong luận văn “Vốn xã hội qua sự cố kết cộng đồng ở ven đô Hà Nội

(Nghiên cứu trường hợp xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội”

(Trương Thị Nga, 2013) tác giả đã khai thác sâu việc vốn xã hội được cụ thể

hóa thông qua các hoạt động cố kết cộng đồng và kết luận: “ …thông qua các

hoạt động thờ cúng tổ tiên; thăm hỏi, động viên, hỗ trợ, giúp đỡ nhau khi gia

đình có việc cưới, việc tang; hay tham gia các lễ hội tại địa phương của

người dân ven đô Hà Nội. Phân tích hệ quả tích cực của cố kết cộng đồng

bằng việc người dân ven đô đã khai thác nguồn vốn xã hội thông qua sự tin

tưởng, sự có đi lại trong mạng lưới xã hội để tìm kiếm lợi ích trong các hoạt

động sản xuất nông nghiệp, sản xuất tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh buôn

bán, dịch vụ.” [13, tr.67]

Trong nghiên cứu về nông thôn về miên núi “Vốn xã hội của người

Nùng Phàn Sình ở một xã miền núi trong bối cảnh toàn cầu hóa.” (Lý Viết

4

Trường, 2017), tác giả đã khai thác các dữ liệu về việc tham dự một hoạt động

công đồng rất điển hình là dự đám tang, tác giả cũng đã chỉ rõ: “…mời khách

tham dự đám tang không những chỉ đóng vai trò rất quan trọng đến mức độ

trọn vẹn của đám tang, mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc cố kết cộng

đồng (giữa gia đình tang chủ với họ hàng, hàng xóm, bạn bè, đồng nghiệp).

Thông qua việc mời tang, số lượng khách mời, phạm vi khách mời và số

lượng tiền phúng chúng ta dễ dàng nhận thấy trong bối cảnh toàn cầu hóa

hiện nay mạng lưới xã hội của người dân ngày càng có xu hướng mở rộng về

phạm vi, gia tăng về số lượng và chất lượng. Đây là một trong nhữ ng biểu

hiện rõ ràng nhất của sự gia tăng số lượng và chất lượng vốn xã hội, góp

phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.” [20, tr.54]

Tại địa bàn phường Đại Kim (bao gồm một phần KĐT Bắc Linh Đàm),

nghiên cứu “Vốn xã hội với sự phát triển nguồn nhân lực trẻ thành phố Hà

Nội (Nghiên cứu trường hợp Phường Đại Kim, Quận Hoàng Mai, thành phố

Hà Nội) (Đinh Thị Thu Hường, 2014) cũng chỉ ra: “..lao động việc làm của

nguồn nhân lực trẻ cũng như việc sử dụng vốn xã hội trong phát triển nguồn

nhân lực trẻ tại phường Đại Kim. Kết quả nghiên cứu cho thấy, vốn xã hội

chưa được sử dụng thường xuyên. Vốn xã hội có vai trò tích cực trong tuyển

dụng, thăng tiến. Mặt khác, vốn xã hội trở nên tiêu cực khi tạo sự bất bình

đẳng trong cơ hội tuyển dụng, học tập, thăng tiến.” [12, tr 63]

Trong nghiên cứu “Vốn xã hội trong lựa chọn nghề của thanh niên”

(nghiên cứu trường hợp tại địa bàn phường Bắc Sơn và xã Quang Sơn, thị xã

Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình) (Lương Thị Xuân, 2014) cũng nêu ra ảnh hưởng

của vốn xã hội rằng : “…quá trình lựa chọn nghề, thanh niên có tiếp cận và

sử dụng vốn xã hội từ các nhóm xã hội mà họ là thành viên trước khi đưa ra

quyết định lựa chọn nghề; Đồng thời quá trình tiếp cận, cũng như sử dụng

vốn xã hội của thanh niên ở hai khu vực thành thị và nông thôn có sự khác

5

nhau..” [22, tr 69]

Trong nghiên cứu “Vai trò tạo vốn xã hội của các diễn đàn điện tử ở Việt

Nam hiện nay” (Dương Thị Ngọc, 2014), tác giả đã khai thác sau những khía

cạnh tích cực của mạng xã hội và các hình thức liên lạc online hiện nay trong

việc phát triển vốn xã hội như: Phát triển mạng lưới các mối quan hệ; Thúc đẩy

chia sẻ các nguồn lực; Tăng cường sự đoàn kết, tin cậy; Nâng cao năng lực giải

quyết các vấn đề cá nhân; Hỗ trợ tích lũy vốn văn hóa, vốn kinh tế.

Như vậy, nhìn chung là khái niệm “Vốn xã hội” đã được ứng dụng để

nghiên cứu nhiều đối tượng khác nhau, từ nhiều khía cạnh và tại nhiều địa

phương khác nhau. Tuy nhiên, số lượng các nghiên cứu tập trung khai thác

ảnh hưởng của vốn xã hội nhóm đối tượng là người giúp việc gia đình, đặc

biệt là ảnh hưởng của vốn xã hội đối với quá trình tìm kiếm việc làm của họ là

chưa nhiều. Chính vì vây, luận văn lựa chọn đề này này với hi vọng góp một

phần công sức làm giàu thêm những hiểu biết về nhóm đối tượng này.

3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Mục đích của nghiên cứu, đúng như tên gọi của đề tài là tập trung làm

rõ ảnh hưởng của vốn xã hội đối với quá trình tìm kiếm việc làm của những

người giúp việc gia đình tại Hà Nội. Khách thể hay đối tượng của nghiên cứu

là những người hiện tại đang làm công việc này tại Khu đô thị Bắc Linh Đàm.

Cụ thể hơn, ở đây trong toàn thể các công trình của Khu đô thị bao gồm

chung cư cao tầng – liền kề - biệt thự, luận văn chỉ tập trung khai thác thông

tin bằng phương pháp ghi chép điền dã đối với nhóm đối tượng đang làm việc

các chung cư cao tầng.

Để làm rõ vấn đề hay để đạt được mục đích đã đặt ra, về cơ bản, nghiên

cứu được thực hiện một cách tuần tự theo 3 bước như sau:

Đầu tiên là tổng hợp và phân tích nhằm làm rõ các khía cạnh của khái

niệm “Vốn xã hội” thông qua việc tìm hiểu và so sánh các quan điểm phổ

6

biến và tham khảo một số vấn đề có liên quan. Liên hệ và đối chiếu những

khía cạnh của khái niệm “Vốn xã hội” với những đặc điểm/ diễn biến của xã

hội Việt Nam và ảnh hưởng của chúng đối với những lao động giúp việc gia

đình trong giai đoạn này.

Thứ hai là thực hiện phương pháp điền dã tại Khu đô thị Bắc Linh Đàm

để quan sát những đặc điểm của các chung cư hiện đại với vai trò là một

không gian sống đang trong quá trình hình thành và phát triển, phỏng vấn (trò

chuyện) những người giúp việc gia đình hiện tại đang làm việc tại đây để ghi

chép những câu chuyện thực tế về quá trình tìm kiếm việc làm, thương lượng,

thực hiện công việc, chuyển đổi công việc đã và đang diễn ra tại những tòa

nhà cao tầng này.

Cuối cùng, từ những câu chuyện thực tế, phân tích và đối chiếu với các

kết quả đã thu được ở các bước nghiên cứu trước nhằm đạt được mục tiêu của

nghiên cứu. Đồng thời, các giai đoạn của quá trình tìm việc cũng được đào

sâu tức để làm rõ ảnh hưởng của vốn xã hội đối với một số bước trong quá

trình tìm kiếm việc làm của các khách thể nghiên cứu. Tương ứng với các

bước là nội dung của các chương trong luận văn.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong giai đoạn đầu của nghiên cứu, tương ứng với mục tiêu đã đặt ra

làm rõ các khía cạnh của khái niệm và sự liên quan của chúng với nhau,

phương pháp chủ yếu là tổng hợp và phân tích tài liệu. Tuy nhiên, để có thể đi

đến bản chất của vấn đề, luận văn không chỉ liệt kê các các quan điểm về khái

niệm mà còn nỗ lực chỉ ra sự phát triển có tính kế thừa giữa chúng với nhau.

Đồng thời, gắn kết chúng với những đặc trưng và những biến đổi trong xã hội

Việt Nam, đặc biệt là những sự kiện có ảnh hưởng tới đối tượng của nghiên

cứu là lao động giúp việc gia đình.

Giai đoạn hai, người nghiên cứu trực tiếp thực hiện việc phỏng vấn

7

điền dã tại khu vực đã lựa chọn. Để phù hợp với nội dung và mục tiêu nghiên

cứu, phương pháp phỏng vấn mở được lựa chọn. Một số câu hỏi được chuẩn

bị trước, tuy nhiên tùy thuộc vào hoàn cảnh và mức độ tham gia của đối tượng

phỏng vấn mà các câu hỏi phỏng vấn được nêu lên một cách phù hợp do đó

quá trình phỏng vấn không bị đóng khung theo kịch bản cố định. Do người

nghiên cứu cũng là công dân cư trú tại địa bàn và để tránh những rào cản tâm

lý từ phía người được phỏng vấn, người nghiên cứu tùy vào tình huống cụ thể

mà có thể thông báo cho đối tượng biết về việc phỏng vấn hoặc không thông

báo mà chỉ thực hiện như một cuộc trò chuyện thường ngày. Một số đối tượng

được lựa chọn để thực hiện việc phỏng vấn sâu và có ghi chép, còn lại, phần

lớn các cuộc phỏng vấn sẽ được chép lại theo trí nhớ sau khi trò chuyện.

Về phương pháp chọn mẫu phỏng vấn ở giai đoạn 2, tổng số lượng

phỏng vấn (trò chuyện): hơn 30 cuộc được thực hiện trong khoảng thời gian

từ 3/2018 tới tháng 12/2019, với các đối tượng là người giúp việc gia đình (18

trường hợp), vợ hoặc chồng chủ nhà (7 trường hợp) và những người có liên

quan như người thân chủ nhà, lao công, bảo vệ… (08 trường hợp). Những

cuộc phỏng vấn (trò chuyện) ban đầu được thực hiện tại các căn hộ, sân chơi

trẻ em và một số khu vực khác tại các tòa chung cư của KĐT một cách ngẫu

nhiên. Sau đó, những trường hợp điển hình được lựa chọn để phỏng vấn sâu,

ghi chép chi tiết và đưa vào làm dẫn chứng tiêu biểu trong luận văn là 04

người giúp việc và 03 chủ nhà. 04 trường hợp tiêu biểu điển hình được lựa

chọn để đảm bảo cân đối về cả mặt địa lý và thời gian. Cụ thể, Khu Đô thị

Linh Đàm có thể được chia thành hai khu vực chính là: khu vực “Bán đảo” –

thuộc địa phận phường Hoàng Liệt (bao gồm các tòa nhà HH, VP và tác tòa

nhà thuộc dự án X2) và khu vực “Mở rộng” – thuộc địa phận phường Đại

Kim (Bao gồm các tòa nhà thuộc dự án X1, các tòa nhà thuộc dự án OCT,

cụm tòa nha Ecolake View - 32 Đại Từ), nên mỗi khu vực được lựa chọn 02

8

trường hợp. Trong mỗi khu vực sẽ có 01 trường hợp thuộc các tòa nhà cũ -

tức thuộc dự án xây dựng ở thời kỳ đầu (HUB xây dựng) và 01 trường hợp

thuộc các tòa nhà mới do các đơn vị khác thực hiện.

Giai đoạn ba, kết quả của quá trình điền dã sẽ được kết hợp với đối chiếu

với những lý thuyết thu được từ các bước trước đó để tiến tới việc hoàn tất

nghiên cứu. Trong giai đoạn này, từng giai đoạn trong quá trình tìm kiếm việc

làm sẽ được phân tích riêng để có thể làm rõ và đi đến kết luận về ảnh hưởng

của vốn xã hội đối với quá trình tìm kiếm việc làm của đối tượng nghiên cứu.

Các kết quả của quá trình phỏng vấn trước đó sẽ được sử dụng để phân tích và

kết luận trong giai đoạn này, đặc biệt là những câu chuyện tiêu biểu.

5. Đóng góp của luận văn

Thứ nhất, luận văn góp phần tìm hiểu thêm về khái niệm “Vốn xã hội”

và mối liên quan giữa các cách định nghĩa khác nhau về khái niệm “Vốn xã

hội” với một số đặc thù của xã hội Việt. Ngoài ra, luận văn cũng góp phần

làm rõ mối quan hệ giữa vốn xã hội với lòng tin, vốn xã hội và những nhân tố

có liên quan như đạo đức - luật pháp - lợi ích và tương tứng với chúng là mối

liên hệ giữa các định chế như nhà nước, thị trường và xã hội dân sự với vốn

xã hội.

Thứ hai, thông qua những trường hợp tại Khu đô thị Linh Đàm, luận

văn góp phần phân tích những nhu cầu về người giúp việc gia đình tại các khu

chung cư. Đồng thời, cũng phân tích một số khía cạnh trong công việc giúp

việc gia đình và quá trình tìm kiếm việc làm của họ. Quá trình này cho thấy

ảnh hưởng của mạng lưới những mối quan hệ mà rõ ràng nhất là mạng lưới

quan hệ giữa những người phụ nữ trung niên trong quá trình việc kết nối

người giúp việc với chủ nhà.

Thứ ba, luận văn phân tích và góp phần cho thấy ảnh hưởng của vốn xã

hội đối với các giai đoạn khác nhau trong quá trình tìm kiếm việc làm. Trong

9

đó, trong từng giai đoạn mà những quan điểm khác nhau về vốn xã hội trở

nên rõ ràng và qua đó khẳng định ảnh hưởng mạnh mẽ mang tính quyết định

của vốn xã hội đối với quá trình tìm kiếm việc làm của những người giúp việc

gia đình.

6. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái niệm “Vốn xã hội” và một số vấn đề có liên quan.

Chương 2: Chung cư Linh Đàm và người giúp việc gia đình.

10

Chương 3: Vốn xã hội và các giai đoạn trong quá trình tìm việc làm.

CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM “VỐN XÃ HỘI” VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ

CÓ LIÊN QUAN

Thuật ngữ “Vốn xã hội” đã được giới thiệu và sử dụng trong khoa học

xã hội trong khoảng trên dưới ba thập niên trở lại đây một cách khá thường

xuyên. Một số tổ chức uy tín hoặc học giả danh tiếng đã đưa ra những định

nghĩa nhất định về khái niệm “Vốn xã hội” trong những công trình của họ.

Tuy nhiên, công bằng mà nói, cho đến thời điểm hiện tại giới nghiên cứu vẫn

gặp nhiều khó khăn để có thể đi đến một sự đồng thuận cuối cùng về nội hàm

của khái niệm này.

Tình trạng đã nêu trên phản ánh một thực tế nằm ngay trong nội tại của

thuật ngữ “Vốn xã hội” là nó đang cố gắng mô tả một “(nhóm) đối tượng” –

“thực thể” mang tính đa – chiều – kích liên ngành, bao hàm nhiều yếu tố -

phương diện có mối quan hệ phức tạp khó đo lường và có thể diễn giải theo

nhiều cách khác nhau. Quá trình khảo sát các tài liệu cho thấy các nhà nghiên

cứu thường căn cứ theo bối cảnh, mục tiêu và đối tượng của công trình nghiên

cứu để lựa chọn cách thức tiếp cận và nội hàm của khái niệm một cách phù

hợp. Nhìn chung, dù đôi khi quan điểm của các nhà nghiên cứu có thể có

nhiều khác biệt nhưng các định nghĩa được đưa ra vẫn ít nhiều có sự giao thoa

với nhau.

Trong bài „Tìm hiểu vốn xã hội‟, tác giả Trần Hữu Quang đã nêu ra vấn đề

trước khi nỗ lực khái niệm hóa khái niệm từ cách tiếp cận xã hội học : “Vốn

xã hội là một thuật ngữ… được dùng để chỉ một thực thể bao quát đến mức

khá mơ hồ và khó nắm bắt… có thể nói cho đến nay thuật ngữ này vẫn chưa

được khái niệm hóa một cách đầy đủ, hay nói cách khác, nó chưa trở thành

một khái niệm khoa học thực thụ” Trần Hữu Quang (2006), “Tìm hiểu vốn xã

11

hội”, Tạp chí Khoa học xã hội. Tương tự như thế, nhà kinh tế học Trần Hữu

Dũng cũng đã có nhận định tương tự khi cho rằng vốn xã hội là một ý niệm

rất linh động, thậm chí mập mờ… nhưng hữu ích. Ông cho rằng ý niệm vốn

xã hội là một cầu nối giữa tiếp cận kinh tế và tiếp cận xã hội, nó cho thấy bản

chất và mức độ của sự tương tác giữa các cộng đồng với thể chế có ảnh hưởng

quan trọng đến thành tựu kinh tế như thế nào.

Xuất phát từ đặc điểm liên ngành của chuyên ngành Việt Nam học,

chương 1 sẽ khảo sát chung về một số vấn đề có liên quan và một số quan

điểm về nội hàm của khái niệm “Vốn xã hội” trước khi ứng dụng chúng vào

những chương tiếp theo

1.1 Thuật ngữ “Vốn xã hội” : Lòng tin và Mạng lƣới

Thuật ngữ “Vốn xã hội” được ghép từ hai từ “Vốn” và “Xã hội”. Bảng

1.1 thể hiện các ý nghĩa mà hai từ này được biểu đạt được khi đứng độc lập.

Trước khi đi đến với những nỗ lực khái niệm hóa “Vốn xã hội” thành thuật

ngữ chuyên ngành với nội hàm xác định, từ bảng 1.1, có thể nhận ra nhiều

phương án phối hợp từ hai yếu tố trên để tạo thành các cách hiểu (nội dung)

khác nhau về “Vốn xã hội”, ví dụ:

a. Toàn bộ (nguồn vốn) tài sản vật chất mà loài người tương ứng với

một trình độ phát triển nhất định của loài người.

b. Toàn bộ những gì sẵn có, bao gồm cả vật chất và phi vật chất -

hữu hình và phi hữu hình, tương ứng với một trình độ phát triển nhất định

của loài người.

c. Nguồn vốn – toàn bộ những gì sẵn có, bao gồm cả vật chất và phi

vật chất – hữu hình và phi hữu hình, tương ứng với một xã hội (ở nhiều quy

mô và hình thức khác nhau: khu vực, quốc gia, vùng miền, tỉnh thành, làng

xã…; tầng lớp, giai cấp, hội nhóm… ) ở một thời điểm (thời kỳ lịch sử)

12

nhất định.

Vốn Xã hội

[Danh từ] [Danh từ]

1. Tổng thể nói chung những tài 1. Hình thức sinh hoạt chung có tổ

sản bỏ ra lúc đầu, thƣờng biểu chức của loài ngƣời ở một trình độ

hiện bằng tiền dùng trong sản xuất phát triển nhất định của lịch sử, xây

kinh doanh, nói chung trong hoạt dựng trên cơ sở một phƣơng thức

động sinh lợi. Chung vốn mở một sản xuất nhất định. Xã hội phong

cửa hàng. Đi buôn lỗ vốn. Bán vốn kiến. Xã hội tư bản. Quy luật phát

(bán với giá vốn, giá mua vào, không triển của xã hội .

lấy lãi). Vốn đầu tư. 2. Đông đảo những ngƣời cùng sống

trong một thời (nói tổng quát). Dư 2. Tổng thể nói chung những gì sẵn

luận xã hội. Trong gia đình, ngoài xã có hay tích lũy đƣợc, dùng trong

hội. Làm công tác xã hội. một lĩnh vực hoạt động nào đó, nói

3. (Kết hợp hạn chế). Tập hợp ngƣời về mặt là cần thiết để hoạt động có

hiệu quả. Vốn kiến thức sâu rộng. có địa vị kinh tế - chính trị nhƣ nha;

Vốn từ ngữ của một nhà văn. Người tầng lớp. Xã hội thượng lưu

là vốn quý nhất.

Bảng 1.1: Các ý nghĩa của “vốn” và “xã hội” khi đứng độc lập

[16, tr.1428;1445]

Các phương án a, b và c đã nêu trên được hiểu trong sự mặc định chủ thể là

(toàn thể) “xã hội”. Trong trường hợp “cụ thể hóa” các nội dung bằng cách

xoay chủ thể về “con người” – (các) “cá nhân” thì nhiều phương án khác có

thể được xét đến, ví dụ:

d. Nguồn vốn, bao gồm cả vật chất – phi vật chất và hữu hình – phi hữu

hình, mà một cá nhân tích lũy được trong quá trình xã hội hóa. Chú ý là khái

niệm xã hội hóa ở đây mang ý nghĩa quá trình một cá nhân trưởng thành và

13

hòa nhập vào xã hội

e. Tổng thể những gì có sẵn, bao gồm cả vật chất – phi vật chất và hữu

hình – phi hữu hình, mà một cá nhân được thụ hưởng (và phải chấp nhận), khi

là thành viên của một xã hội nào đó.

Những ví dụ nêu trên cho thấy một “biên độ co dãn” rất lớn trong các ý

nghĩa mà hai yếu tố “vốn” và “xã hội” có thể biểu đạt, dẫn đến tính đa – chiều

– kích của thuật ngữ “vốn xã hội”. Ở cách hiểu đơn giản và phổ biến nhất, có

thể hiểu vốn xã hội là mạng lưới những mối quan hệ của một cá nhân; ở quy

mô lớn nhất, có hiểu vốn xã hội là toàn bộ thực tại đang hiện hữu.

Trong tiếng Anh, từ điển Oxford có một từ mục riêng cho “Social Capital”:

social capital (noun) [uncountable]

The networks of relationships among people who live and work in a

particular society that enable the society to exist and be successful

Building social capital requires trust and participation among

individuals.

The middle-class kid, whose dad knows the company director, is said to

have more social capital.

Corporations transform social capital into economic capital [50, tr.38]

Tạm dịch: (những) mạng lưới (những) mối quan hệ giữa những người

đang sống và làm việc ở một xã hội nhất định mà cho phép xã hội đó có thể

tồn tại và phát triển. Trong cách giải nghĩa này, ta thấy rõ cơ sở cho “Vốn

xã hội” - “Social Capital” chính là mạng lưới mối quan hệ, đồng thời, thuật

ngữ cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng mạng lưới quan hệ trong việc duy trì

xã hội.

Cách hiểu này sẽ được thể hiện rõ hơn khi quan sát kỹ cách chuyển ngữ

thuật ngữ “Capital”, mặc dù trong tiếng Việt được dịch là “Vốn”, nhưng thực

chất mang ý nghĩa là “Tư bản” bởi thuật ngữ “Tư bản”, ngoài các phần có thể

14

lượng hóa, thì còn hàm chứa yêu tố mối quan hệ ở trong đó. Một trong những

cách định nghĩa phổ biến được biết đến là của Karl Marx thì tư bản không

(chỉ) là tiền, không chỉ là máy móc, công cụ, nguyên liệu, hàng hóa, mà là

quan hệ lao động sản xuất của xã hội. Nói cách khác, tư bản (capital) chính là

mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội (social relation) hay

chính là nhân tố chi phối mạng lưới xã hội.

Những mối quan hệ tạo thành mạng lưới xã hội. Cơ sở cho những mối

quan hệ chính là lòng tin, niềm tin, sự tín nhiệm hay sự tin cậy. Có thể hiểu,

lòng tin chính là điểm tựa cho những mối quan hệ, dù là ở kích cỡ bé nhất là

mối quan hệ giữa hai cá nhân hay ở những quy mô lớn như mối quan hệ giữa

các thành viên của một cộng đồng, những công dân của một quốc gia hay của

toàn thể thế giới loài người với nhau. Trong bản báo cáo của OECD đã nêu

rõ: “Ta có thể xem xét sự tin cậy vừa là nguồn gốc của vốn xã hội vừa là kết

quả của loại vốn này. Như một giá trị thay thế rất gần với các chuẩn mực,

niềm tin và giá trị làm nền tảng cho sự hợp tác xã hội” [27, tr.15]. Lòng tin là

điểm tựa cho những mối quan hệ, vậy những gì sẽ là điểm tựa cho lòng tin ?

Lòng tin

Các mạng lưới quan hệ

Vốn xã hội

15

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa lòng tin và vốn xã hội. Nguồn: Tác giả tổng hợp

Những nhân tố là điểm tựa cho niềm tin để tạo thành các mạng lưới,

như trong định nghĩa của khái niệm “social capital” đã nêu lên, sẽ là cơ sở

cho phép xã hội có thể tồn tại và phát triển. Đồng thời, việc lựa chọn quy mô,

mô tả và nhấn mạnh những nhân tố đó cũng chính là quá trình hình thành nên

những quan điểm khác nhau về khái niệm này. Điều này có thể được nhìn

thấy qua những thảo luận trong và ngoài nước.

1.2 Một số quan điểm phổ biến về khái niệm vốn xã hội

1.2.1 Quan điểm của Pierre Bourdieu

Nhà xã hội học người Pháp – Pierre Bourdieu có thể được xem là người

đầu tiên đưa ra định nghĩa về khái niệm Vốn xã hội một cách có hệ thống.

Trong các tác phẩm xuất bản vào tập niên 80, ông đã nhấn mạnh rằng, ngoài

vốn kinh tế (capital economique), cần thiết phải phân biệt và ghi nhận thêm

03 loại vốn khác là vốn văn hóa (capital culturel), vốn biểu tượng (capital

symbolique) và vốn xã hội (capital social). Theo quan điểm của ông, vốn xã

hội là một „„mạng lưới lâu bền bao gồm các mối quan hệ quen biết nhau và

nhận ra nhau, (các mối liên hệ này) ít nhiều được định chế hóa‟‟ [29, tr.120].

Pierre Bourdieu coi vốn xã hội là mạng lưới quan hệ và với một cá nhân thì

„„khối lượng vốn xã hội của một tác nhân cụ thể nào đó phụ thuộc vào mức độ

liên hệ rộng hay hẹp mà anh ta có thể huy động được trong thực tế, đồng thời

cũng phụ thuộc vào khối lượng của vốn kinh tế, vốn văn hóa và vốn biểu

16

tượng‟‟[32, tr.121]

Vốn kinh tế

Vốn văn hóa

Vốn xã hội

Cá nhân

Vốn biểu tượng

Sơ đồ 1.2: Vốn xã hội theo quan điểm của Pierre Bourdieu.

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Như vậy, đối với một cá nhân thì các loại vốn không hề tồn tại độc lập

mà có thể chuyển hóa qua nhau. Điều này khá dễ hiểu và hoàn toàn có thể

quan sát được trên thực tế khi một cá nhân có thể dùng tiềm lực về kinh tế,

phong cách sống hay hiểu biết của bản thân để gia tăng mạng lưới các mối

quan hệ. Ngoài ra, theo quan điểm của Bourdieu, vốn xã hội có thể bị/được

„„định chế/thể chế‟‟ hóa, mang hàm ý các mạng lưới này ngoài những rằng

buộc mang tính cụ thể hay trừu tượng thì cũng ít nhiều được „„quy chuẩn

hóa‟‟ hay „„cưỡng bức‟‟ ở những mức độ khác nhau.

1.2.2 Quan điểm của James Coleman & Robert Putman

Tiếp thu những quan điểm của Bourdieu, nhưng Coleman và Putnam đã

đặt vấn đề khác đi khi nhấn mạnh rằng vốn xã hội bao gồm các mạng lưới xã

hội, các chuẩn mực (norms) và sự tin cậy trong xã hội (social trust), những

nhân tố này chính là những nền tảng giúp các thanh viên có thể hành động

cùng với nhau: “Hiểu một cách tương tự như vốn vật thể hay vốn con người -

đây là những phương tiện và (những kỹ năng) đào tạo (có tác dụng) làm gia

17

tăng năng suất của cá nhân, „vốn xã hội‟ nói tới những khía cạnh đặc trưng

của tổ chức xã hội như các mạng lưới „xã hội‟, các chuẩn mực, và sự tin cậy

trong xã hội vốn tạo điều kiện thuận lợi cho sư phối hợp và sự tương tác

nhằm đạt đến lợi ích tương hỗ” [35, tr.67].

Khác với quan điểm của Bourdieu – vốn nhận diện vốn xã hội như một

thứ tài sản thuộc quyền sở hữu của mỗi cá nhân – quan điểm của Coleman và

Putnam lại coi vốn xã hội như một thứ tài sản chung của một cộng đồng hay

đặc trưng của tổ chức xã hội

Hành động tập thể và Lợi ích tương hỗ

Vốn xã hội

Xã hội

toàn thể xã hội.

Sơ đồ 1.3: Vốn xã hội theo Quan điểm của James Coleman & Robert

Putman. Nguồn: Tác giả tổng hợp

Trong những nỗ lực của minh, Putnam còn đề xuất những yếu tố để đo

lường vốn xã hội như : mức độ tham gia vào các cuộc bầu cử, mức độ tin

tưởng vào những định chế công cộng, tính chất của các hội nhóm trong cộng

đồng… Putnam cũng chỉ ra mối quan hệ giữa vốn xã hội với sự hiệu quả của

các định chế cũng như quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các cộng đồng

mà ông nghiên cứu. Quan điểm này cũng rất gần với quan điểm của Ngân

hàng thế giới hiện này về vốn xã hội : “Vốn xã hội (là một khái niệm) có liên

quan tới những chuẩn mực và mạng lưới xã hội dẫn tới hành động cụ thể.

18

Ngày càng có nhiều sự kiện chứng minh rằng sự gắn kết xã hội – tức vốn xã

hội – đóng vai trò trọng yếu đối với việc giảm nghèo và sự phát triển con

người và kinh tế một cách bền vững” [44, tr.36].

Như vậy, từ Bourdieu tới Coleman & Putnam có thể thấy được sự thay

đổi về chủ thể xem xét đã dẫn tới sự thay đổi về quy mô, tính chất, cũng như

tầm ảnh hưởng của khái niệm. Đồng thời, cũng có thể nhận ra mối liên hệ

giữa hai quan điểm khi “mạng lưới quan hệ” của mỗi cá nhân vừa góp phần

xây dựng lại cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của “đặc trưng của tổ chức xã

hội” và quá trình chuyển hóa các nguồn vốn khác nhau (vốn kinh tế, vốn văn

hóa, vốn biểu tượng…) của mỗi cá nhân có mối liên hệ chặt chẽ với “những

chuẩn mực và sự tin cậy chung” trong quan điểm của Coleman & Putnam.

1.2.3 Quan điểm của Francis Fukuyama

Nhà chính trị học người Mỹ gốc Nhật Francis Fukuyama nhận thức rõ

ràng về tính trừu tượng và tính liên/đa chủ thể của „vốn xã hội‟ khi ông đưa ra

quan điểm của mình về khái niệm này, ông cho rằng :“Vốn xã hội là một

chuẩn mực phi chính thức được biểu hiện trong thực tế (có tác dụng) thúc đẩy

sự hợp tác giữa hai hay nhiều cá nhân. Các chuẩn mực làm nên vốn xã hội có

thể bao gồm từ chuẩn mực có đi có lại giữa hai người bạn, cho tới những học

thuyết phức tạp và được kết cấu một cách tinh tế như Ki – tô giáo hay Khổng

giáo. Những chuẩn mực này phải được biểu hiện trong thực tế trong mối liên

hệ có thực giữa con người với con người : chuẩn mực có đi có lại tồn tại

trong niềm tin tiềm thể trong mối xử sự của tôi với mọi người, nhưng nó chỉ

được hiện thực hóa khi tôi xử sự với bạn bè của tôi mà thôi. Theo quan điểm

này, sự tin cậy, các mạng lưới xã hội, xã hội dân sự, và những thứ tương tự,

vốn gắn liền với vốn xã hội, đều là những hiện tượng thứ phát, nảy sinh do

(từ) vốn xã hội chứ không phải là bản thân vốn xã hội” [39, tr.36].

Nếu xem xét một cách sâu xa, thì có thể cho rằng Fukuyama đã coi

19

„vốn xã hội‟ chính là nhân tố cấu thành (chỉ định) nên những đặc trưng văn

hóa – tập quán đang chi phối xã hội hay như cách diễn đạt của ông là „thành

tố văn hóa‟ trong quan điểm rằng : “(Vốn xã hội) cấu thành nên thành tố văn

hóa của những xã hội hiện đại – những xã hội mà kể từ thời kỳ Khai Sáng đã

được tổ chức dựa trên cơ sở của các định chế chính thức và trên nhà nước

pháp quyền và lý tính” [39, tr.37].

Như vậy, nếu xuất phát từ quan điểm của Fukuyama thì phải gắn „vốn xã

hội‟ với những đặc điểm đã cấu thành nên thế giới đương đại (hay những

quan điểm về các định chế và các nhà nước) trong tiến trình lịch sử, đồng thời

đặt “vốn xã hội” như một thành tố phi chính thức nhưng vẫn chi phối một

cách tinh tế và mạnh mẽ toàn xã hội lẫn từng cá nhân cụ thể.

1.3 Các nhân tố ảnh hƣởng

Nếu nhìn một cách tổng quát, “lòng tin”, “sự tin cậy” hay “sự tín nhiệm”

có thể được đảm bảo thông qua 03 nhóm yếu tố mà ta tạm gọi tên một cách

đại diện là: “pháp luật”, “lợi ích” và “đạo đức”. Mà ở đây, mỗi yếu tố thực

chất là đại diện cho những nhóm „cơ chế‟ với vai trò và chức năng khác nhau:

-“Pháp luật”: đại diện cho những những cơ chế mang tính bắt buộc phải

thực hiện, có bộ máy tương ứng để thực thi và có sự trừng phạt trực tiếp khi

các thành viên trong xã hội vi phạm. Pháp luật là hoàn toàn khách quan.

-“Lợi ích”: đại diện cho những cơ chế rằng buộc xuất phát từ quyền lợi,

mà cụ thể nhất là những quyền lợi về kinh tế giữa những đối tác trong thỏa

thuận. Nhận định về quyền lợi trong một thỏa thuận mang tính chủ quan giữa

các bên.

-„Đạo đức‟ : đại diện cho nhóm các yếu tố như luân lý phong tục tập quán,

luân lý, truyền thống, tôn giáo… là những cơ chế rằng buộc mang tính vô

hình, vừa mang tính tự nguyện vừa mang tính bắt buộc gián tiếp, ở đây không

có một bộ máy tương ứng chuyên trách thực thi nhưng có nhiều nhân tố vô

20

hình khác để duy trì cơ chế này.

Một lần nữa phải nhấn mạnh là những nhân tố này hoàn toàn có thể nhận

diện một cách độc lập nhưng không bao giờ có thể tách bạch khỏi nhau. Mỗi

cá nhân trong xã hội đều vừa là những người thực thi vừa là đối tượng bị chi

phối của những nhân tố này. Trong trạng thái toàn hảo nhất, cả ba yếu tố phối

hợp nhịp nhàng với nhau để duy trì „lòng tin‟, cả lòng tin giữa các cá nhân lẫn

Đạo đức

Pháp luật

Lợi ích

Lòng tin

„lòng tin‟ chung như là giá trị của một xã hội.

Sơ đồ 1.4: Lòng tin và các nhân tố. Nguồn: Tác giả tổng hợp

Tuy nhiên, trên thực tế không nhất thiết cả ba phải nằm ở vị trí tương

đương nhau mà tùy vào tính huống cụ thể. Ví dụ : Hợp đồng lao động giữa

nhân viên và công ty là một giao dịch được pháp luật bảo hộ và hàm chứa mối

quan hệ đạo đức ở trong đó, tuy nhiên, điều cốt yếu nhất chi phối tất cả lại

chính là yếu tố lợi ích mà mỗi bên có được trong giao kèo này.

Tương ứng với những yếu tố ở trên, ở quy mô xã hội, tồn tại những

định chế tương ứng, như là sự khách thể hóa hoàn toàn các yếu tố trên và đảm

bảo cho những cơ chế trên hoạt động hiệu quả. Ở đây, ta có thể liệt kê vào 03

21

nhóm định chể chủ yếu : nhà nước, thị trường và xã hội dân sự.

Nhà nước

Thị trường

Xã hội dân sự

Xã hội

Sơ đồ 1.5: Các định chế và xã hội. Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Nhà nước với cơ chế chính là pháp luật, đại diện cho mối liên hệ theo

chiều thẳng đứng từ trên xuống dưới giữa cá nhân với xã hội. Thị trường với

cơ chế chính là lợi ích, đại diện cho những liên kết ngang trong xã hội. Xã hội

dân sự là sự mối liên hệ theo cụm mạng lưới, đa chiều, lúc đậm đặc lúc rời rạc

nhưng không đứt đoạn trong xã hội. Không thể nói rằng đạo đức, phong tục

tập quán, truyền thống và các giá trị… nằm hoàn toàn trong định chế xã hội

dân sự, tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể quan sát thấy một vai trò trọng

22

yếu của định chế này trong việc duy trì chúng.

Sơ đồ 1.6: Các định chế và các nhân tố. Nguồn: Tác giả tổng hợp

1.4 Các định chế truyền thống trong xã hội Việt

Những gì đang xảy ra ở hiện tại luôn luôn bao hàm những “trầm tích”

của quá khứ. Với khách thể nghiên cứu là người giúp việc gia đình thì những

nhân tố trong mạng lưới quan hệ và cách thức họ sử dụng nó là biểu hiện rõ

ràng nhất của “Vốn xã hội”. Tuy nhiên, thực tại đó chỉ có thể được thấu hiểu

nếu được kết nối với những phân tích với những trầm tích của quá khứ, đặc

biệt là vai trò của những định chế trong tâm thức của những con người đang

hiện hữu. Những nội dung đã nêu trên là cơ sở để hiểu rõ hơn về hai nhân tố

mang nét đặc trưng của xã hội Việt: gia đình và làng.

1.4.1 Ý niệm “gia đình’’ trong tâm thức của xã hội Việt

Gia đình luôn là một nguồn vốn quan trọng trong bất kỳ nền văn hóa

nào. Nhưng điểm khác biệt mang tính đặc thù của xã hội Việt là sự chi phối

23

có tính bao trùm của ý niệm này lên toàn thể xã hội. Có thể nói, đây vừa là

một thứ vốn lớn lao, vừa là một thứ “của nợ” không thể chối từ đối với mỗi

người Việt.

Một trong những thể hiện rõ ràng nhất là ở trong ngôn ngữ. Việc xưng

hô trong tiếng Việt đòi hỏi một trật tự rất chặt chẽ. Trong đó, mỗi cá nhân khi

tham gia vào hội thoại đều phải lựa chọn cách xưng hô “như thể trong gia

đình” với đối phương, dù họ là người xa lạ. Trong tiếng Việt có từ “đồng bào”

xuất phát từ truyền thuyết về sự khởi đầu từ “bọc trăm trứng” do một mẹ sinh

ra của mọi cộng đồng người Việt.

Ý niệm về “gia đình” chi phối cả lên các định chế nhà nước và các định

chế thị trường. Trong cả những tình huống tranh chấp, cách xử lý “thấu tính

đạt lý” luôn là yêu cầu mà xã hội đặt ra. Các bên tranh chấp luôn hướng tới

việc “đóng cửa bảo nhau” để điều phối lợi ích theo hướng “dĩ hòa vi quý”.

Trong các giao dịch kinh tế, việc có thể kết thân “như anh em” đôi khi còn

quan trọng hơn những hợp đồng chặt chẽ nhất.

Sự chi phối của ý niệm “gia đình” trong xã hội Việt là nhân tố đầu tiên

và mang tính nền tảng cho thấy ảnh hưởng của vốn xã hội đối với quá trình

tìm kiếm việc làm của người giúp việc gia đình, cũng là quá trình tìm kiếm và

tuyển dụng lao động của các chủ nhà theo quan niệm về vốn xã hội của

Fukuyama như “là một chuẩn mực phi chính thức được biểu hiện trong thực

tế (có tác dụng) thúc đẩy sự hợp tác giữa hai hay nhiều cá nhân…”. [40,

tr.33]. Tính chất “phi chính thức” thể hiện một cách rất rõ rệt ở đây do tính

đặc thù của giao dịch. Đây rõ ràng là một giao dịch kinh tế và đòi hỏi sự chi

phối của pháp luật. Nhưng quan niệm về việc tìm kiếm một người lao động

“như là một thành viên trong gia đình” khiến những người tham gia giao dịch

này gần như không quan tâm tới việc văn bản hóa giao dịch từ đó kéo theo

nhiều hệ lụy khác (cả tốt và xấu) sẽ được phân tích kỹ hơn trong những tình

24

huống cụ thể ở những chương tiếp theo.

1.4.2 Vai trò của “không gian làng” đối với mạng lưới quan hệ

Có thể nói, đối với người Việt trong quá khứ, làng như là điểm hội tụ

của cả ba định chế nhà nước – thị trường – xã hội dân sự.

Nếu nhìn từ quan điểm “Khế ước xã hội”, với người Việt mang tâm

thức “phép vua thua lệ làng” thì hương ước có thể còn mang tính “khế ước”

cao hơn rất nhiều so với những điều luật chính thức. Xã hội Việt Nam trong

quá khứ không khuyến khích việc giao thương buôn bán. Những người làm

thương mại thường không được trọng thị trong xã hội theo quan niệm “sĩ –

nông – công – thương‟‟. Trong một xã hội tiểu nông tự cung tự cấp, những

phân tích thị trường mang tính lý thuyết về “bàn tay vô hình‟‟ hầu như là vô

nghĩa. Tuy nhiên, các yếu tố mang tính “xã hội dân sự” lại được gieo mầm và

có nhiều ảnh hưởng, nhất là trong quá trình di cư. “Hội đồng hương những

người cùng làng” có lẽ là hội nhóm phổ biến nhất và hoạt động hiểu quả của

những người lao động phổ thông di cư từ nông thôn ra thành thị.

Không phải vô cớ mà người Việt có câu “Bán anh em xa mua láng

giềng gần”. Điều này phản ánh một niềm tin mạnh mẽ của người Việt với

những người hàng xóm. Niềm tin này bắt nguồn từ quá trình sống chung và

làm việc chung đòi hỏi sự gắn kết mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp.

Ngoài ra, quan niệm “giữ đất” và “trở về” vốn ăn sâu vào tiềm thức của

những người nông dân, cũng là một cơ sở để mỗi người an tâm hơn từ đó gia

tăng niềm tin trong quá trình xây dựng mối quan hệ, dù là mối quan hệ giữa

chủ nhà với người lao động, chủ nhà với những chủ nhà khác và đặc biệt là

25

giữa những người lao động với nhau.

Tiểu kết chƣơng 1

Những khảo sát về mặt lý thuyết ở trên giúp chúng ta đi đến một số

phát hiện cơ bản như sau:

Có nhiều cách hiểu khác nhau về “Vốn xã hội”, nhưng những cách hiểu

này có liên quan với nhau và có thể được sử cùng nhau để phân tích ảnh

hưởng của “Vốn xã hội” – nói chung tới đối tượng nghiên cứu

Mạng lưới quan hệ là biểu hiện rõ ràng nhất của “Vốn xã hội”, tuy

nhiên phân tích về mạng lưới phải được gắn kết với những giá trị và những

định chế để tạo thành một thực tại - tổng thể

Đặc thù của xã hội Việt và đặc thù của đối tượng nghiên cứu ít nhiều

cho thấy ưu thế của định chế như gia đình, làng xã, hội nhóm và những

“chuẩn mực phi chính thức” so với những định chế khác (“nhà nước” và “thị

trường”) và những “chuẩn mực chính thức”.

Những chương tiếp theo, qua những khảo sát thực tế tại không gian

chung cư và quá trình khai thác điền dã với những người đang làm việc tại

Khu đô thị Linh Đàm, sẽ làm rõ hơn ảnh hưởng của Vốn xã hội đối với quá

26

trình tìm kiếm việc làm của người giúp việc gia đình.

CHƢƠNG 2.

CHUNG CƢ LINH ĐÀM VÀ NGƢỜI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH

2.1 Chung cƣ Linh Đàm và nhu cầu về lao động giúp việc gia đình

2.1.1 Khái niệm nhà chung cư và căn hộ chung cư:

Khái niệm nhà chung cư có từ rất lâu ở cả phương Tây và phương

Đông. Đây là giải pháp tận dụng được tối đa quỹ đất, giải quyết được bài toán

tập trung dân số ở các đô thị lớn. Từ thời La Mã cổ đại, thế kỷ thứ VI trước

công nguyên đã sử dụng khái niệm “nhà chung cư” (condominium), trong

tiếng Latin “con” có nghĩa là “của chung” và “dominium” là “quyền sở hữu”

hay “sử dụng”. Ngày nay, “condominium” (được viết tắt là “condo”) là một

hình thức quyền sở hữu chứ không phải là hình thức tài sản nguyên vẹn. Một

condominium được tạo ra dưới một khế ước về quyền sở hữu, đồng thời với

việc ghi nhận khuôn viên khu đất và mặt bằng công trình trên vị trí xây dựng.

Các căn hộ ở được tạo ra đồng thời và nằm bên trong khuôn viên khu đất nhà

chung cư.

Ở Việt Nam trước đây, vào thời kỳ chiến tranh hay những năm đầu

thống nhất đất nước, nhà chung cư được biết dưới một cái tên khác là: khu tập

thể. Các khu tập thể được xây dựng theo phương châm “nhanh, bền, tốt, rẻ”

để phục vụ cán bộ công nhân viên hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Mặc

dù có những công trình xây dựng xen kẽ, phục vụ cho cán bộ của một cơ

quan, đơn vị nhưng chủ yếu các nhà ở tập thể này được xây dựng thành các

khu vực quần thể riêng biệt, tạo thành các tiểu khu nhà ở như các Khu tập thể:

27

Kim Liên, Trung Tự, Thành Công, Giảng Võ, Văn Chương...

Hình 2.1: Chung cư truyền thống. Nguồn: Internet

Hình 2.2: Chung cư hiện đại. Nguồn: Internet

Thiết kế của các khu tập thể này theo đúng nghĩa nhà chung cư với đầy

28

đủ các chức năng được xây dựng đồng bộ kèm theo, đáp ứng yêu cầu và góp

phần ổn định đời sống của cư dân. Dưới cơ chế bao cấp, việc sử dụng nhà ở

tập thể hoàn toàn không mất tiền. Nhà chung cư được coi như là giải pháp tối

ưu cho các bài toán về nhà ở của các tầng lớp lao động có thu nhập cố định ở

ngưỡng từ trung bình tới thấp (như giáo viên, viên chức, công chức nhà

nước…) trong điều kiện sự gia tăng dân số cơ học khiến giá đất trở nên ngày

càng đắt đỏ.

Hiện nay, Việt Nam đang từng bước khẳng định mình trong nền kinh tế

thị trường cùng với sự phát triểnvề kinh tế. Tốc độ đô thị hoá nhanh trong khi

tốc độ phát triển ở nông thôn rất chậm đã kéo theo các vấn đề xã hội như: việc

làm, môi trường, quy hoạch, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội… Vì thế, Nhà

nước chủ trương khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển nhà

ở đặc biệt là phát triển nhà ở chung cư theo dự án.

Đến nay đã xuất hiện nhiều mô hình nhà chung cư mới, nhiều kiểu

dáng đáp ứng một phần nhu cầu ngày càng tăng lên về chất lượng của nhân

dân. Sự phát triển chung cư để tiết kiệm diện tích sử dụng đất, giảm giá thành

xây dựng, tạo cơ hội nhà ở cho nhiều người ở các tầng lớp khác nhau, làm đa

dạng hóa các loại hình nhà ở như: chung cư cao cấp và chung cư cho người

thu nhập thấp, chung cư thấp tầng và chung cư cao tầng, chung cư hỗn hợp…

Sự hình thành của nhà chung cư trong các khu đô thị mới không chỉ giải quyết

được chỗ ở mà còn tạo nên diện mạo mới cho đô thị văn minh với sự đồng bộ

về hạ tầng kỹ thuật, đồng bộ về cảnh quan môi trường.

2.1.2 Khu đô thị Linh Đàm: vị trí và đặc điểm

Được khởi công xây dựng từ năm 1997, khu Linh Đàm vốn trước đây

là đầm lầy và ruộng trũng. Đầu lối vào KĐT là Làng Đại Từ. Địa phận của

KĐT trải dài trên hai phường Đại Kim và Hoàng Liệt. Khu đô thị mới có diện

tích đất dân dụng và chia thành nhiêu khu, bao gồm: Khu dịch vụ tổng hợp và

29

nhà ở Hồ Linh Đàm Khu nhà ở Bắc Linh Đàm Khu nhà ở Bán đảo Linh Đàm,

Khu Bắc Linh Đàm mở rộng (X1,X2). Ngày 22/1/2009, Bộ trưởng Bộ Xây

dựng đã chính thức ký Quyết định số 74/QĐ-BXD công nhận Khu đô thị mới

Linh Đàm là Khu đô thị mới kiểu mẫu.

Hình 2.3: Bản đồ Khu đô thị Bắc Linh Đàm (Nguồn: Google Map)

Tuy nhiên, ở giai đoạn tiếp theo, khu đất ở trung tâm bán đảo dự kiến

xây dựng văn phòng đã bị chuyển đổi thành đất ở, trong đó tòa nhà VP3 và

VP5 với hệ số chiếm đất chiều cao 33 tầng. Thêm vào đó, khu đất 5ha của

trung tâm dịch vụ tổng hợp kết nối giữa bắc Linh Đàm, bán đảo Linh Đàm,

khu Tây nam Linh Đàm và cả khu Nam Linh Đàm trong tương lai đã nhường

chỗ cho khu nhà ở giá rẻ gồm 12 tòa chung cư cao 36 – 42 tầng có ký hiệu

30

HH với mật độ xây dựng và cư trú cao. Bổ sung khoảng 30.000 dân cho khu

bán đảo Linh Đàm, hơn gấp đôi so với dân số dự kiến trong quy hoạch đầu

tiên. Cho tới thời điểm hiện tại, dân số tại KĐT Linh Đàm khoảng 70.000

người, bằng quy mô dân số một khu đô thị loại 3, có 90% cư dân cư trú trong

các căn hộ chung cư cao tầng.

Song hành với những bổ sung về dân số là sự đa dạng của các hình thức

hỗ trợ tài chính khiến việc sở hữu nhà tại KĐT Linh Đàm trở nên dễ dàng

hơn. Điều này thúc đẩy nhiều cặp vợ chồng trẻ đã tham gia các hình thức mua

trả góp, mua nhà dự án để sớm có thể ổn định cuộc sống. Dự án HH do tập

đoàn Mường Thanh (màu đỏ trên hình) hướng tới phân khúc giá rẻ. Chính vì

vậy đây là mục tiêu vừa sức với những gia đình trẻ mà cả vợ lẫn chồng đều là

những người nhập cư tìm việc bám trụ sau khi học đại học hoặc sau quá trình

buôn bán tích lũy ở thủ đô. Hầu hết trong số họ đều cần đến sự hỗ trợ của cả

hai bên gia đình trong quá trình hoàn thành nghĩa vụ tài chính với chủ đầu tư.

Việc người nhiên cứu lựa chọn KĐT Linh Đàm làm không gian nghiên

cứu xuất phát từ hai nguyên nhân chính mang tính chủ quan và khách quan.

Về mặt chủ quan, do người làm luận văn cũng là cư dân cư trú tại khu đô thị

này và có nhiều mối quan hệ họ hàng bạn bè nên thuận tiện hơn trong việc di

chuyển và tiếp cận đối tượng trong quá trình điền dã. Về mặt khách quan,

KĐT Linh Đàm là một dự án lớn với một quá trình hình thành lâu dài và vẫn

đang được tiếp tục phát triển chính là một trong những điển hình phản ánh xu

hướng định cư tại các đô thị lớn, đặc biệt là ở Hà Nội.

2.1.3 Nhu cầu về lao động giúp việc gia đình

Những thay đổi về quy hoạch tại KĐT Linh Đàm đã khiến phần lớn cư

dân ở đây là những người nhập cư. Bản thân những căn hộ chung cư hướng

tới đối tượng khách hàng mục tiêu là những gia đình hạt nhân với một cặp vợ

chồng và từ 1 đến 3 người con, vì diện tích phổ biến nằm trong khoảng 65 –

31

90m2, với 2 – 3 phòng ngủ và 1 – 2 nhà tắm. Quá trình phỏng vấn điền dã cho

thấy hầu hết các hộ gia đình đều có trẻ con và những cặp vợ chồng có người

thân ở cùng (thường là bà nội hoặc bà ngoại) thể hiện một tâm thức khác hẳn

so với những cặp vợ chồng không nhận được sự hỗ trợ này. Những nhu cầu

về lao động giúp việc gia đình về cơ bản xuất phát từ những yếu tố thiết yếu

sau đây:

Nhu cầu trông trẻ nhỏ

Tình huống khó khăn nhất mà các cặp vợ chồng trẻ phải đối mặt là giai

đoạn con nhỏ sau khi người vợ hết thời gian nghỉ thai sản 06 tháng. Nếu

không có sự hỗ trợ của người thân thì họ ở một thế kẹt rất khó khăn và việc

thuê người giúp việc gia đình gần như là bắt buộc. Câu chuyện của chị

Nguyễn T. L. (25 tuổi, quê Ninh Bình), hiện đang cư trú tại tổ 37 (nay là tổ

13) KĐT Linh Đàm mở rộng là tình huống điển hình: “Nhà em còn ruộng.

Mẹ em làm hàng seo nên ngoài việc tự nuôi lợn, mổ và bán lẻ ngoài chợ thì

bố mẹ em còn nhập lại để đi trả cho một số quan ăn ở quê. Số lượng cũng

không nhiều, lời lãi chả bao nhiêu nhưng nếu nghỉ làm là mất mối làm ăn.

Người khác sẽ lấy mất mối ngay. Mẹ chồng em thì bị tiểu đường biến chứng,

hai mắt rất yếu nên không thể trông trẻ dù rất thương em. Đợt vợ chồng em

mua nhà thì bố mẹ cũng cắm cả sổ đỏ nhà ở quê cho ngân hàng để hỗ trợ.

Ông bà cũng lo mất nhà. Con em mới 6 tháng tuổi nên các nhà trẻ không

nhận. Thường các nhà trẻ có sớm cũng chỉ nhận trẻ 12 tháng, có sớm thì cũng

phải 10 tháng. Nhận trẻ bé tuổi quá các cô phải bế không quản được lớp.

Cũng thương con và xót tiền khi thuê người lắm nhưng không biết làm thế

nào” (Tài liệu thực địa).

Khi khảo sát những thông tin về những trung tâm giới thiệu việc làm có

cung cấp dịch vụ môi giới người giúp việc gia đình trên Facebook, chị L.

32

không ngạc nhiên chút nào nhưng tỏ ra ngần ngại. Đồng thời, cô cũng cho

biết là chồng và cả hai bên phụ huynh đều không đồng tình việc thuê người

qua môi giới.

Những khảo sát thực tế tại các cơ sở trông trẻ cho thấy một câu chuyện

khó khăn từ phía những người quản lý. Mức học phí cao hơn đối với trẻ ít

tháng không đủ bù cho rủi ro khiến giáo viên (các cô trông trẻ) nghỉ việc.

Ngay cả những nơi nhận trẻ 10 tháng tuổi (cá biệt có 1 nơi nhận 6 tháng tuổi)

cũng hạn chế số lượng mỗi trẻ bé tuổi ở các lớp và tùy thuộc vào số lượng trẻ

đang có ở lớp đó. Động cơ lớn nhất khiến các quản lý chấp nhận việc trông trẻ

nhỏ, ngoại trừ những lợi ích kinh tế, là hi vọng các phụ huynh truyền tai nhau

về sự nhiệt tình của nhà trường để nhanh chóng lấp đầy các lớp học. Nếu căn

cứ theo các quy định của pháp luật, các nhà trẻ có nghĩa vụ nhận trẻ từ 03

tháng tuổi. Tuy nhiên, rất hiếm nhà trẻ chấp nhận độ tuổi này, ở KĐT Linh

Đàm là không hề có.

Các cặp vợ chồng trẻ có con nhỏ có một sự lựa chọn thay thế trong tình

huống này là gửi con về quê cho ông bà nội ngoại trông. Những cặp vợ chồng

không lựa chọn giải pháp này có những lý do rất cụ thể:

- Sự gắn bó tình cảm bố mẹ - con và kiến thức về việc nuôi con bằng

sữa mẹ ở những năm đầu là những lựa chọn được ưu tiên. Vì vậy, nếu giải

quyết được các vấn đề về chi phí, người mẹ luôn ưu tiên lựa chọn giữ con

bên mình.

- Sự tự trọng của những cặp vợ chồng trẻ vốn là niềm tự hào trong mắt

dòng họ và chòm xóm. Việc có thể bám trụ ở thủ đô và mua được nhà chung

cư không phải là việc dễ dàng và làm được việc này đem lại một “hào quang”

khá lớn cho cả vợ lẫn chồng. Chính vì vậy, đôi lúc bản thân họ cảm thấy ái

ngại khi gửi con về quê và để bà con chòm xóm nhìn thấy việc đó.

- Sự thiếu thống nhất giữa hai bên gia đình thông gia khiến cho việc gửi

33

về bên nào cũng không thể hài hòa được mọi chuyện. Tình huống hai bên gia

định nêu quan điểm: “bên ngoại không trông được thì gửi về để bên nội trông

cho” là khá phổ biến. Khi đó, các đôi vợ chồng thường đưa ra quyết định cuối

cùng là giữ lại để không làm mất lòng bên nào.

Ở một khía cạnh khácviệc những lao động giúp việc gia đình thường

gắn bó trong khoảng 1 – 3 năm là khá tương ứng với quá trình trưởng thành

của trẻ nhỏ. Độ tuổi các gia đình thường gửi nhà trẻ là 18 tháng và các trường

mẫu giáo công lập nhận trẻ từ 03 tuổi trở lên.

Nhu cầu chăm sóc người già

Một trong những lý do các gia đình lựa chọn hình thức cư trú là chung

cư là việc có người già không thể tự phục vụ trong gia đình. Những thiếu hụt

về năng lực tự phục vụ của người già khá đa dạng như mất ý thức sống thực

vật, ngễnh ngãng đến mức độ bị lẫn, quá yếu đến độ không thể tự di chuyển...

Tựu chung lại là cần thiết sự hỗ trợ của người khác để duy trì việc sinh hoạt

thường ngày.

Trong tình huống này, không gian sống chung cư tỏ ra có nhiều ưu thế

so với nhà đất vì người già sẽ gặp khó khăn trong việc di chuyển qua các tầng

của nhà đất bằng cầu thang. Trong khi đó, khi sống tại một căn hộ chung cư,

mọi thành viên đều cảm nhận được sự hiện diện của những thành viên khác

trong gia đình một cách rõ ràng hơn bởi cùng chung sống trên một mặt sàn,

ngay cả khi mỗi người một phòng đóng kín cửa. Ngoài ra, các tầng của chung

cư thường có từ 6 – 30 hộ, là nơi những người già có môi trường để giao lưu

với nhau.

Nhu cầu thuê người giúp việc chăm sóc người già có phần khác biệt so

với nhu cầu chăm sóc trẻ nhỏ vì đòi hỏi một sự nhẫn nại và có kinh nghiệm.

Nhìn chung, theo như quan sát, nếu một gia đình đã có người già không thể tự

phục vụ thì trẻ con thường đã lớn ít nhất là ở mức độ đi mẫu giáo, có nghĩa là

34

đã có thể tự xúc ăn và tự phục vụ ở mức độ thấp. Người giúp việc ở những gia

đình này thường là những người giầu kinh nghiệm và gắn bó lâu dài với gia

đình, bởi việc chăm người già, đặc biệt là người già yếu lâu năm đòi hỏi một

sự cẩn trọng và những kỹ năng nhất định. Đây là nguyên nhân khiến những

lao động giúp việc gia đình làm công việc chính là chăm sóc người già thường

gắn bó rất lâu, thường là từ 03 – 05 năm, thậm chí là lâu hơn.

Nhu cầu phục vụ việc nấu nướng, dọn dẹp, giặt giũ và những việc không tên

Có một sự thực đang tồn tại khá phổ biến là dù nhu cầu thuê người giúp

việc chủ yếu là để trông trẻ và chăm sóc người già, nhưng luôn tồn tại một

mặc định về việc người giúp việc gia đình như là một người phục vụ tổng hợp

trong gia đình. Ngoài công việc chính, nếu còn thời gian họ thường được giao

nhiều việc khác. Những công việc cụ thể tùy thuộc vào năng lực của lao động,

mức độ tin cậy và tính cách của người thuê. Nhìn chung, quá trình phân phối

công việc là một sự “thương lượng ngầm” giữa người giúp việc và người vợ

trong gia đình.

Điều này phản ánh rất rõ qua đoạn hội thoại mà người viết đã quan sát

được giữa những “bà chủ gia đình” trong một dịp đến dự một bữa tiệc liên

hoan của một người bạn tại khu VP5 – Bán Đảo Linh Đàm (ghi danh những

nhân vật là A – B – C - D, trong đó A là chủ nhà và D là cô giúp việc của gia

đinh đó) :

“ (A): Sấu em gửi các chị đã gọt và ngâm nước chưa ? /(B): Bận quá nên chị

chưa làm được ! /(A): Sao chị không bảo D ( Osin) làm/ (B): Mình dùng thì

mình phải làm thôi. Sai nó (Osin) thì nó cũng làm thôi, nhưng nó có ăn đâu

mà biết nó làm thế nào/C: Chị (A) may nên thuê được cô Osin vừa khéo vừa

có tâm đấy. Chứ như nhà em có 2 đứa trẻ, thuê osin rồi, nhưng mẹ em nghỉ

hưu cái là em vẫn phải nhờ ra trông. Bà làm được gì thì làm chứ cái chính là

35

xem Osin là chính” (Tài liệu thực địa).

Quan hệ “bà chủ gia đình” với “người giúp việc” hàm chứa rất nhiều

yếu tố rất tế nhị. Bản thân giao kèo giữa người giúp việc với gia đình thường

là hợp đồng miệng, “JD - Bản mô tả công việc” hầu như không tồn tại trong

giao kèo này. Tuy nhiên, nhìn chung nếu xuất phát từ sự tôn trọng thì việc

điều hòa là khá dễ dàng đối với cả hai phía.

Sự hình thành những khu đô thị mới với những chung cư hiện đại là

một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của quá trình đô thị hóa. Khu đô thị

Linh Đàm là một trong những điển hình thể hiện cho quá trình đó, bởi đây là

dự án có từ thời kỳ đầu và cho tới hiện tại vẫn đang trong quá trình tiếp tục

phát triển. Trong không gian chung cư, những gia đình hạt nhân chiếm tuyệt

đại đa số, điều này làm phát sinh nhu cầu về người giúp việc gia đình dưới

nhiều hình thức khác nhau. Ngay trong quá trình tìm kiếm lao động để giải

quyết một số nhu cầu thiết yếu các hộ gia đình đã cho thấy những ảnh hưởng

rất sâu sắc của “vốn xã hội” theo ý nghĩa là những “trầm tích‟ còn lại theo

thời gian của truyền thống người Việt.

Đây là tình huống mà dù pháp luật có những quy định đầy đủ (sẽ được

mô tả ở phần tiếp theo) nhưng hiệu lực của chúng là không cao. Đây là nơi

cung và cầu tương tác rất rõ ràng, tuy nhiên, sẽ vô cùng tệ hại nếu nhìn nhận

và điều chỉnh chúng theo những quan điểm thuần túy của thị trường. Ẩn giấu

phía sau tất cả, như là một chỗ dựa lớn nhất cho tất cả các bên, chính là tâm

thức “như là người trong gia đình”, đây chính là yếu tố lớn nhất điều chỉnh

hành vi của các bên tham gia.

2.2 Ngƣời giúp việc gia đình và quá trình tìm việc làm

2.2.1 Định nghĩa và một số đặc điểm chung

Định nghĩa

Trong lịch sử phát triển của thế giới loài người, loại hình lao động giúp

36

việc gia đình (LĐGVGĐ) đã có mặt từ rất sớm. Loại hình LĐGVGĐ được thể

hiện dưới rất nhiều dạng qua các thời kỳ như chiếm hữu nô lệ, phong kiến.

Trong các thời kỳ đó, thì LĐGVGĐ được thấy qua hình ảnh của nô lệ, gia nô.

Vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, nô lệ không được xem là con người, mà chỉ

được xem là một thứ hàng hóa, tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ nô. Đến

thời kỳ phong kiến, gia nô (nô bộc, nô tì) cũng không được coi trọng, họ lại

được xếp vào tầng lớp thấp nhất của xã hội. Công việc của họ là giúp việc nhà

và phục vụ cho gia chủ của mình. Bởi lẽ, gia chủ là những người giàu có và

có thế lực trong xã hội đã bỏ tiền ra thuê người khác làm gia nô để phục vụ họ

hoặc bắt buộc người nợ tiền họ về làm gia nô để trừ nợ. Đây được xem là

nguồn gốc và quá trình hình thành loại hình LĐGVGĐ ngày nay.

Tuy loại hình LĐGVGĐ đã có từ rất lâu đời, nhưng trên thế giới vẫn

chưa có một định nghĩa thống nhất về loại hình lao động này. Mãi cho đến

năm 1951, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về

người lao động giúp việc gia đình. Theo đó, người giúp việc gia đình được

định nghĩa là: “người làm công việc tại nhà riêng, theo các hình thức và thời

gian thanh toán tiền công khác nhau. Người này có thể do một hoặc nhiều

người thuê và người chủ không được tìm kiếm lợi nhuận từ công việc này”

Đến năm 2011, ILO đã thông qua Công ước số 189 về việc làm bền

vững đối với lao động giúp việc gia đình ngày 16/6/2011 tại Geneva, Thụy Sỹ

trong khuôn khổ khóa họp lần thứ 100 của Hội nghị Lao động Quốc tế về việc

làm đã thống nhất:

“(a) Công việc giúp việc gia đình là công việc được thực hiện trong một hoặc

nhiều hộ gia đình;

(b) Người lao động giúp việc gia đình là người thực hiện công việc gia đình

trong mối quan hệ lao động việc làm;

(c) Người thỉnh thoảng hoặc không thường xuyên thực hiện công việc gia đình

và không làm việc đó như một nghề nghiệp thì không phải là người lao động

37

giúp việc gia đình” [29, tr.27].

Còn ở Việt Nam, LĐGVGĐ chỉ được nhắc đến đầu tiên tại Điều 2,

Điều 28 và Điều 139 Bộ luật Lao động năm 1994. Tuy chưa có định nghĩa

chính thức về LĐGVGĐ, nhưng thể hiện sự tồn tại và thừa nhận của pháp luật

về LĐGVGĐ. Mãi đến khi Bộ luật Lao động năm 2012 ra đời, thì định nghĩa

chính thức về LĐGVGĐ mới xuất hiện, theo đó:

“1. Lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên

các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. Các công việc

trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc

người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho

hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại.

2. Người làm các công việc giúp việc gia đình theo hình thức khoán việc thì

không thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật này” [24, tr.5].

Ngoài ra, LĐGVGĐ còn được quy định chi tiết tại Khoản 1 và Khoản

2, Điều 3 Nghị định số 27/2014/NĐ-CP ngày 07 tháng 4 năm 2014 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động

là người giúp việc gia đình như sau:“1. Lao động là người giúp việc gia đình

quy định tại Khoản 1 Điều 179 của Bộ luật Lao động (sau đây gọi chung là

người lao động), bao gồm: Người lao động sống tại gia đình người sử dụng

lao động; người lao động không sống tại gia đình người sử dụng lao động.

2. Công việc khác trong gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động

thương mại quy định tại Khoản 1 Điều 179 của Bộ luật Lao động, gồm các

công việc: Nấu ăn cho các thành viên trong hộ gia đình mà không phải bán

hàng ăn; trồng rau, hoa quả, cây cảnh, chăn nuôi gia súc, gia cầm phục vụ

sinh hoạt của các thành viên trong hộ gia đình mà không phải để bán, trao

đổi hàng hóa; lau dọn nhà ở, sân vườn, bảo vệ nhà cửa, tài sản của hộ gia

đình mà không phải là nhà xưởng, cửa hàng, văn phòng, cơ sở sản xuất, kinh

38

doanh; lái xe đưa đón các thành viên trong hộ gia đình hoặc vận chuyển các

đồ đạc, tài sản của hộ gia đình mà không phải đưa đón thành viên trong hộ

gia đình tham gia sản xuất, kinh doanh, vận chuyển hàng hóa, vật tư, nguyên

liệu cho sản xuất, kinh doanh; kèm cặp thành viên trong hộ gia đình học văn

hóa; giặt quần áo, chăn màn của các thành viên trong hộ gia đình mà không

phải kinh doanh giặt là hoặc không phải giặt quần áo bảo hộ lao động của

những người được thuê mướn sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình; công

việc khác phục vụ đời sống, sinh hoạt của hộ gia đình, các thành viên trong

hộ gia đình và không trực tiếp hoặc góp phần tạo ra thu nhập cho hộ hoặc cá

nhân trong hộ gia đình” [25, tr.3].

Như vậy, nếu xét vể mặt lý thuyết, lao động giúp việc gia đình đã được

pháp luật thừa nhận như một loại hình lao động được pháp luật bảo vệ và xây

dựng những chính sách để hỗ trợ.

Một số đặc điểm chung

Tình trạng kinh tế: Theo kết quả nghiên cứu của ILO, trước khi tham

gia vào thị trường LĐGVGĐ, phần lớn người lao động làm nông nghiệp

hoặc các nghề nghiệp tự do (như phụ xây, buôn bán,…) ở địa phương. Theo

nhận định của người lao động, so với các gia đình xung quanh ở địa phương,

47,3% người có mức sống của gia đình thuộc mức nghèo; 50,4% người có

mức sống gia đình trung bình. Có 65,7% người lao động đi làm LĐGVGĐ vì

lý do muốn có thêm thu nhập cho cuộc sống bản thân và gia đình. Một số lý

do khác được đưa ra là thấy bản thân phù hợp với nghề giúp việc gia đình

(9%), không tìm được việc làm khác (5,7%), không biết làm nghề nào khác

(5,7%), muốn thoát ly nghề nông (5,7%)… Tổng quan cho thấy, LĐGVGĐ

đa số đến từ nông thôn, có cuộc sống khó khăn, đến với nghề với mong

muốn cải thiện cuộc sống” [23, tr.9]. Tình trạng hôn nhân: Theo kết quả

nghiên cứu cho thấy LĐGVGĐ có tỷ lệ “ở góa, ly hôn và ly thân” khá cao

39

(20,7%), và họ ít ràng buộc trong cuộc sống gia đình hơn nên thường lựa

chọn sống cùng gia chủ. Những người đang có vợ hoặc chồng thường lựa

chọn hình thức làm việc theo giờ để thuận tiện hơn trong việc vừa làm việc

vừa chăm lo cho cuộc sống gia đình [23, tr.9]. Về trình độ học vấn: Theo số

liệu điều tra của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới tại Hà Nội và thành phố

Hồ Chí Minh năm 2012 cho thấy:

- LĐGVGĐ có trình độ dưới tiểu học chiếm 22%.

- LĐGVGĐ có trình độ tiểu học và trung học cơ sở chiếm 62,6%.

- LĐGVGĐ có trình độ trên trung học cơ sở chiếm 15,4% [23, tr.10].

Nhìn chung, trình độ học vấn của LĐGVGĐ chưa cao, đa số đều có

trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống. Cho nên, họ ít có cơ hội tìm

kiếm và lựa chọn các công việc tốt hơn so với so với các lao động có trình độ

cao hơn. Do có trình độ học vấn thấp và tầm hiểu biết còn hạn chế, nên họ

thường là đối tượng lao động có nguy cơ cao bị ngược đãi, quấy rối tình dục

và cưỡng bức lao động… Trong những năm gần đây, có xuất hiện một số

LĐGVGĐ có trình độ cao hơn như các sinh viên đi làm kiếm thêm thu nhập

để trang trải cho cuộc sống. Cá biệt hơn cả, có những người có trình độ học

vấn đại học và thạc sỹ đi làm nghề giúp việc gia đình, vì không kiếm được

việc làm sau khi tốt nghiệp.

Về trình độ nghề của LĐGVGĐ: Đa số LĐGVGĐ tại Việt Nam chưa

qua đào tạo nghề. Trong đó, chỉ có một số ít LĐGVGĐ được qua lớp đào tại

nghề để đi xuất khẩu lao động hoặc làm cho những gia đình nước ngoài tại

Việt Nam. Nguyên nhân xuất phát từ cả hai phía. Về phía LĐGVGĐ, do hầu

như không hề biết về những khóa đào tạo này trước khi hành nghề. Vì đa số

LĐGVGĐ đều đến từ nông thôn, trình độ hiểu biết còn hạn chế nên ít quan

tâm tìm hiểu để theo học khóa đào tạo nghề này. Về phía người sử dụng

LĐGVGĐ không có sự quan tâm đến việc LĐGVGĐ đã được đào tạo nghề

40

hay chưa. Điều họ quan tâm nhất là sự thật thà của LĐGVGĐ, nhằm tránh

tình trạng bị mất tài sản do LĐGVGĐ gây ra. Còn về công việc chỉ đòi hỏi sự

siêng năng, nếu chưa quên sẽ hướng dẫn sau. LĐGVGĐ chưa qua đào tạo

nghề sẽ thiếu tính chuyên nghiệp, cụ thể như: một số người thì không biết nấu

ăn; số khác dù được người sử dụng LĐGVGĐ hướng dẫn sử dụng các thiết bị

máy móc tiện ích trong gia đình như: máy giặt, máy lạnh, máy hút bụi, lò vi

sóng, bàn ủi hơi nước…, nhưng vẫn không biết cách sử dụng, thậm chí làm

hư hỏng các tài sản đó; LĐGVGĐ không biết cách xử lý khi bị ngược đãi,

quấy rối tình dục và cưỡng bức lao động…

Hình thức lao động, thực tiễn hiện nay cho thấy, LĐGVGĐ làm việc

theo hai hình thức, đó là: làm việc toàn thời gian và làm việc theo giờ.

Về LĐGVGĐ làm việc toàn thời gian, trong trường hợp này, LĐGVGĐ

làm việc và ở chung trong gia đình với người sử dụng LĐGVGĐ. Các công

việc của LĐGVGĐ như: nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người

bệnh, chăm sóc người già. Tuy ở chung trong gia đình và làm việc toàn thời

gian, nhưng không có nghĩa LĐGVGĐ phải làm việc suốt 24 trong một ngày.

Trong khoảng thời gian làm việc đó LĐGVGĐ có thể vừa làm và kết hợp với

nghỉ ngơi, nhưng cũng có khi phải làm việc một cách bất chợt để đáp ứng

theo yêu cầu công việc phát sinh trong gia đình đó. Ưu điểm của LĐGVGĐ

làm việc toàn thời gian là có lương cao hơn so với LĐGVGĐ làm việc theo

giờ. Đồng thời, có thể tiết kiệm được chi phí di chuyển đến nơi làm việc.

Khuyết điểm của LĐGVGĐ làm việc toàn thời gian thường không có thời

gian nghỉ ngơi cố định, do phải đáp các công việc bất chợt trong gia đình nơi

làm việc.

Về LĐGVGĐ làm việc theo giờ, người sử dụng LĐGVGĐ và

LĐGVGĐ được chủ động thỏa thuận với nhau về giờ làm việc. Ưu điểm của

LĐGVGĐ làm việc theo giờ là có thể chủ động sắp xếp thời gian để làm được

41

nhiều nơi. Hạn chế được tối đa xung đột với người sử dụng LĐGVGĐ, do

không phải ở chung nhà. Khuyết điểm của LĐGVGĐ làm việc theo giờ có

tính cạnh tranh cao hơn so với LĐGVGĐ làm việc toàn thời gian. Bởi vì, nếu

trong quá trình làm việc không đạt yêu cầu, thì sẽ dễ dàng bị mất việc.

2.2.2 Quá trình tìm kiếm việc làm

• Phát sinh nhu cầu làm việc

1

• Tìm kiếm và lựa chọn việc làm

2

• Xác thực thông tin và thương lượng lợi ích

3

• Thực hiện công việc

4

• Kết thúc và tìm kiếm công việc mới

5

Quá trình tìm kiếm việc làm mô tả qua bản gồm 05 bước như sau:

Bảng 2.1: Những bước trong quá trình tìm kiếm việc làm

Trong đó, bước 1 – 3 là những bước kết nối người lao động với chủ lao

động, bước 4 – 5 là quá trình kết thúc hoặc chuyển đổi công việc. Xuất phát từ

đặc điểm đã được liệt kê trong tiểu mục 2.2.1 có thể thấy nhu cầu việc làm

(bước 01) chủ yếu xuất phát từ lý do kinh tế khi mà: “Theo nhận định của

người lao động, so với các gia đình xung quanh ở địa phương, 47,3% người

có mức sống của gia đình thuộc mức nghèo; 50,4% người có mức sống gia

đình trung bình. Có 65,7% người lao động đi làm LĐGVGĐ vì lý do muốn có

42

thêm thu nhập cho cuộc sống bản thân và gia đình… Tổng quan cho thấy,

LĐGVGĐ đa số đến từ nông thôn, có cuộc sống khó khăn, đến với nghề với

mong muốn cải thiện cuộc sống” [23, tr.10]. Điều này hoàn toàn phù hợp với

bối cảnh chung của nước ta trong khoảng hơn 30 năm đổi mới vừa qua. Chiến

lược tăng trưởng dựa trên thu hút đầu tư nước ngoài và xuất khẩu hàng hóa đã

tạo ra những bước dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu

vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Không tránh khỏi trong quá trình đó

là một bộ phận bị rớt lại phía sau khi không kịp thích nghi. Những người giúp

việc gia đình có thể coi là điểm giao thoa của những nhóm bị rớt lại phía sau

đó: những người phụ nữ ở nông thôn, lớn tuổi, học vấn thấp và thường đang

trong những tình huống “éo le” nhất định, điều này thể hiện rất rõ quá câu

chuyện của những người phụ nữ khác nhau nhưng đều làm người giúp việc

gia đình tại KĐT Linh Đàm

Công việc giúp việc gia đình như một lối thoát

Tôi tìm gặp lại cô Lê Thị Ngoan (cô cho phép đăng tên thật) ở một

quán bún ngan gần khu vực tổng kho Đức Giang – quận Long Biên vào một

buổi tối. Cô rất thoải mái trao đổi vì quán hôm nay vắng khách. Với người

phụ nữ 47 tuổi xuất thân từ vùng miền núi của tỉnh Thanh Hóa này, thời gian

03 năm làm công việc giúp việc gia đình như là quãng đệm để cô lấy lại tất cả

những gì đã mất: “Cô đã nghỉ học từ lớp 7 vì xuất thân trong một gia đình có

tới 5 anh chị em, nhà đói ăn nên đã phải đi ra ngoài làm thuê và buôn bán.

Quá trình làm ăn đã giúp cô gặp người chồng đầu tiên, vốn là người ở Đông

Anh. Chú học được nghề sửa xe máy. Hai vợ chồng quyết định về quê ngoại,

thị trấn Ngọc Lặc – Thanh Hóa. Hồi đó ít thợ nên cô chú ăn nên làm ra. Ai

ngờ vì thế mà cô chú bị hội nghiện nó để ý. Một đứa thợ học việc nó rủ chú

thử rồi nghiện lúc nào không hay. Chú mất cũng vì ma túy. Cô không nghiện

nhưng đi tù 15 năm vì lúc chú mất cô chẳng biết làm gì rồi cũng tham gia vận

43

chuyển ma túy. Lúc ra tù cô bỡ ngỡ không biết làm gì. Ở lại thị trấn cũng

không thoải mái vì hàng xóm vẫn dị nghị, tính cô cũng không hợp với những

anh trai trong gia đình nên không ở với ai được.

Hồi đó ở huyện có dự án nhà máy giầy do nước ngoài đầu tư nên cô

định chờ để xin làm công nhân. Nhưng chờ mãi mà dự án cũng chưa xong mà

lại nghe đồn là họ không tuyển những ai trên 35 tuổi. Quá tuổi đó muốn được

nhận phải chạy tiền, mà cô làm gì có tiền. Đang chưa biết phải làm thế nào

thì đứa cháu ruột nó sinh con. Chồng nó là người cùng quê, cùng xóm với nhà

cô luôn. Bên nhà đằng nội có phần ái ngại nhưng có lẽ do gấp quá không

chọn được ai nên họ cũng đồng ý. Trước khi đi, chị ruột cô (tức bà ngoại của

đứa trẻ) dặn đi dặn lại chuyện ra đó không được liên hệ với những bạn tù cũ.

Cô ở cùng đứa cháu gần ba năm” (Tài liệu thực địa).

Tìm hiểu thêm tôi được biết cô Ngoan từ giải pháp bất đắc dĩ lại trở

thành một “món quà” cho đôi vợ chồng trẻ vì đã đặt niềm tin đúng chỗ (cho

dù nhiều người sẽ đánh giá đây là một quyết định mạo hiểm), không những

xét về khía cạnh kinh tế mà còn ở nhiều khía cạnh khách. Có lẽ chính vì vậy

mà đôi vợ chồng trẻ rất ủng hộ khi cô đi bước nữa và cùng người chồng mới

mở quán ngan:“Cả hai đứa đều học đại học. Thằng chồng làm xây dựng thu

nhập theo công trình, cháu cô làm ngân hàng lương cũng mỗi tháng hơn chục

triệu. Chúng nó bị vỡ kế hoạch nên sinh con rất sát nhau trong khi vẫn đang

nợ nần chuyện nhà cửa phải trả hàng tháng. Nhiều người khuyên bỏ đứa trẻ

nhưng thằng chồng theo Phật nên nó kiên quyết không cho. Nói không ai tin

chứ nhiều lúc gia đình nó còn phải cầm đồ để kịp nộp tiền điện và phí dịch vụ

ở chung cư. Lương cô hơn 5 triệu một tháng nhưng với cô cứ nuôi ăn là được,

có khi nào trả khi đó, vì cô biết chúng nó lúc nào có lúc nào không.

Chúng nó cũng biết cư xử. Mới ra thằng chồng có tiền cái là mua cho cô cái

điện thoại iPhone để tiện liên lạc. Đứa cháu gái làm gì cũng lôi cô đi cùng.

44

Nhờ đó mà cô dần dà quen được bạn bè và gặp được chú (người chồng mới).

Lúc làm quán trong nhà có gì tận dụng được là chúng nó ủng hộ cô hết, từ

bàn ghế đến cả cái tủ lạnh. Hiện tại, lâu lâu chúng nó lại qua thăm và gửi

dần tiền công cho cô. Thực ra, buôn bán đôi lúc cũng cần vốn, nhưng cô

không giục vì biết trước sau gì chúng nó cũng sẽ trả hết.” (Tài liệu thực địa)

Để hiểu rõ sâu hơn lý do vì sao hai bên có thể có được sự thống nhất và

đi đến một kết quả tốt đẹp như vậy, tôi tìm gặp người chồng trong câu chuyện

là anh T. (33 tuổi, Thanh Hóa) hiện đang cư trú tại KĐT Ecolake View – 32

Đại Từ. Đằng sau câu chuyện của cô Ngoan còn là một câu chuyện nữa từ

phía nhà nội của đôi vợ chồng trẻ: “Nhà bà cố mình chỉ cách nhà mẹ vợ vài

bước chân. Cô Ngoan cũng từng bế mình từ bé. Khi vợ chồng mình vỡ kế

hoạch thì rất khó khăn. Mẹ vợ mình thì rất thương dì nên khăng khăng là chả

có ai làm hại cháu ruột mình nhưng quá khứ của cô vẫn khiến mình phân vân

vì bao năm tháng đã đi qua rồi. Chưa biết con người thay đổi thế nào. Về sau

mình mới biết là cô Ngoan đã từng thân với mẹ mình đến độ cùng nhau đi

đánh ghen. Đồng thời, bà cố mình bảo từ khi ra tù về là hơn 3 tháng không

thấy dấu hiệu gì bất thường hết và cũng do sát ngày bí quá nên mình quyết

định đón cô ra. Hiện tại, nhà mình còn nợ cô hơn hai chục triệu tiền công”

(Tài liệu thực địa)

Hiện tại, nhà anh T. không thuê osin mà tự đưa đón và chăm sóc những

đứa trẻ. Hai người bố trí công việc để thực hiện các công việc gia đình. Trong

những trường hợp cần sự hỗ trợ, đôi vợ chồng trẻ lại nhờ cô qua giúp 1 – 2

ngày. Cô không lấy công những ngày đó (cũng dễ hiểu vì ai cũng thấy đây

như là bà dì qua chăm cháu), còn anh T. cũng tâm sự là ngầm “trả nghĩa”

bằng cách hay kéo những lần tiếp khách hay đãi đội thợ qua quán của cô.

Những rào cản về tâm lý

Thu nhập của một lao động gúp việc gia đình tại KĐT Linh Đàm giao

45

động trong khoảng từ 5 – 7 triệu/tháng, phổ biến là mức 5,5 – 6 triệu/tháng

tùy thuộc vào kinh nghiệm và quá trình thương lượng giữa hai bên. Xét về

mặt thị trường chung, mức lương như vậy không hề thấp đối với một lao động

nữ trên 35 tuổi, chưa học hết cấp 3 và được bao ăn uống cùng chỗ ở. Tuy

nhiên, ở một số phương diện khác, việc phải ăn ở cùng một gia đình khác

24/24 và cảm giác làm “người hầu” cho những người đáng tuổi con tuổi cháu

mình là một cảm giác không hề thoải mái với không ít người.

Có một sự khác biệt rõ ràng ở đây giữa những người như cô Ngoan với

những người có gia đình và con cháu. Với cô Ngoan, công việc mới như một

giải pháp hoàn hảo trong ngắn hạn để cô thoát khỏi những vấn đề khi ở lại địa

phương và nương tượng ở một “gia đình mới” trước khi tính tiếp những bước

tiếp theo trong cuộc đời. Nhưng với những người phụ nữ có gia đình, nhất là

những người phụ nữ trên 45 tuổi, thì những giá trị truyền thống như: tận tay

chăm sóc con cháu, ở bên chồng, tình cảm quan trọng hơn vật chất... vẫn hằn

sâu trong tâm trí họ. Chính vì vậy, trong tình huống này, một mức lương cao

luôn phải đi kèm với sự tôn trọng trong cư xử để duy trì công việc lâu dài.

Cô B. (50 tuổi) xuất thân từ một vùng quê nghèo ở Nam Định. Hai con

cô đều đều đang học đại học, một người học tại Hà Nội. Làm ruộng không đủ

sống, cô chú bán ruộng bằng giấy viết tay rồi cùng nhau lên Hà Nội mưu sinh.

Trong những thời điểm mùa khô, chú làm thợ xây thì xin cho cô làm phụ hồ

hay tạp vụ. Cả gia đình vẫn cùng nhau sống trọ trong một khu công trình trên

đường Nguyễn Trãi, cả nhà vẫn ăn hai bữa trưa và tối cùng nhau. Tuy nhiên,

những giai đoạn mà việc không đều hoặc chủ thầu gặp khó khăn trả lương

không đều thì chi tiêu bắt đầu eo hẹp, đấy là động lực chính khiến cô phải đến

khu Linh Đàm làm giúp việc gia đình. Câu chuyện của cô đến với công việc

này cũng là một quá trình không hề dễ dàng: “Lúc đầu không có việc thì chú

làm xe ôm. Nhưng xe ôm giờ họ toàn chạy Grab chú nhiều tuổi không rành

46

công nghệ không theo được nên thu nhập không bằng làm thợ xây (Lương thợ

xây lành nghề hiện tại là 10 triệu/tháng, bao ăn ở). Mà chú đã có bằng lái

đâu, ngày nào bị bắt phải xin thì coi như chả còn gì con âm vào vốn. Ban đầu

cô thử nhờ một người cô quen vốn là dân thổ cư ở khu Cao Xà Lá nhận làm

em nuôi để bán trà đá. Người ta bảo bán trà đá nhiều tiền thế nào cô chả biết,

chứ cô bán thì vất vả lắm. Tiền làm luật nộp thì cứ nộp, có đợt chúng nó đi

dẹp thì vẫn bị thu đồ như thường.

Bạn học cấp ba của cô có con gái đang sống ở khu Linh Đàm. Vợ

chồng nó có con nhỏ nên cần thuê người trông. Biết cô đang rảnh nên cứ nài

cô mãi. Bình thường cô không nhận lời đâu vì tính chú nhà cô hay “văn nghệ

văn gừng”... nếu không đàn đúm rượu chè thì cũng cờ bạc, chơi nhiều thì

không dám nhưng cũng gọi là ham, nhất là những lúc rảnh việc. Ngoài ra con

gái cô nó nhát, không có cô thì gặp người nó cũng sợ.

Vốn cháu nó cũng thuê được người trông rồi. Nhưng bà gúp việc vốn là

bạn mẹ chồng. Có chuyện gì giữa hai chúng nó bà này cũng mách với mẹ

chồng nên con bé rất khó chịu. Nghe bảo bà mẹ chồng khi ra nhiều lúc còn

dấm dúi cho giúp việc để bà này soi con bạn cô. Thằng chồng nó tính gia

trưởng đẩy hết việc chăm con cho vợ nhưng nhu nhược với mẹ, không biết

đường mà bênh vợ nên lắm lúc nhà cửa cứ loạn cả lên.

Lúc đầu bạn cô bảo lương 5,5 triệu/tháng cô không làm vì ngại cảnh

phải xa chồng xa con. Nhưng tận đến lúc con cô nhập học rồi xin được một

chỗ ở trong ký túc xá thì cô an tâm hơn. Con bé con bạn cô đến tận chỗ cô trọ

nhờ cô giúp, bảo gửi thêm cô 1 triệu nữa, nó hứa Chủ Nhật nhà nó tự trông

con cho cô nghỉ đến tối nên cô nhận lời” (Tài liệu thực địa)

Khi công trình bị đình trệ hẳn chồng cô B. được chủ thầu nhận làm bảo

vệ tòa nhà đang xây dở. Con cô ở cố định trong ký túc xá. Cứ Chủ nhật họ lại

cùng nhau tụ họ ở chỗ trọ. Cô dọn dẹp phòng trọ, giặt giũ quần áo cho chồng

47

rồi buổi tối quay về Linh Đàm. Thi thoảng trong những lần về đó cô cầm theo

quần áo của mà chủ nhà cho để đưa cho chồng và con gái dẫu có cái dùng

được có cái không.

Trong tâm thức những người như cô B. dường như ở nơi nào có chồng

con nơi đó là gia đình và không gì có thể đánh đổi được, dẫu ở nơi làm việc

mới cô được đối đãi rất tốt với những tiện nghi sống hơn hẳn với một phòng

riêng có điều hòa. Cô vẫn duy trì một sự “kiểm soát” chặt chẽ với người

chồng bằng việc nắm giữ toàn bộ tiền lương của chồng và video call bằng

Zalo hoặc Facebook bất kỳ khi nào có thể, đặc biệt là buổi tối.

Không gian kết nối

Tìm kiếm một người giúp việc gia đình ưng ý là điều không dễ dàng

với những chủ nhà, giữ họ lại làm việc lâu dài cùng gia đình (khi chủ nhà có

nhu cầu) cũng là một việc khó khăn. Chủ nhà không chỉ phải đối mặt với

nguy cơ người giúp việc rời đi để làm công việc khác mà còn phải lo lắng cho

việc thay đổi sang làm cho những căn hộ khác ngay trong chung cư. Trong

không gian chung cư, các chủ nhà thường giao tiếp với nhau ở mức tối thiểu,

nhà nào biết nhà đó do sự bận rộn của công việc; nhưng những người giúp

việc lại có rất nhiều cơ hội để giao tiếp với nhau.

Hai địa điểm để những người giúp việc gặp nhau nhiều nhất là hành

lang của mỗi tầng và sân chơi chung của các cụm chung cư. Qua quá trình

điền dã cho thấy, trong một tầng thì thấp nhất là có 06 căn hộ tại cụm chung

cư Linh Đàm mở rộng và cao nhất là 27 căn hộ tại dự án chung cư HH

Mường Thanh – Linh Đàm; để dễ hình dùng, mỗi tầng có quy mô như một

xóm. Các quy định về xây dựng yêu cầu các khu đô thị mới luôn phải có

phòng sinh hoạt cộng đồng và sân chơi chung. Nếu như phòng sinh hoạt cộng

đồng là nơi các cụ hưu trí đánh cờ giao lưu với nhau thì sân chơi chung và

hành lang chung cư là nơi gặp gỡ giữa những người giúp việc gia đình với

48

nhau và với những bậc ông bà nội ngoại của các chủ hộ. Họ gặp nhau khi cho

trẻ đi ăn và trông trẻ khi chúng nô đùa tại sân chơi chung chủ yếu trong khung

giờ 16h30 tới 19h00.

Mức lương luôn là một trong những chủ để được trao đổi hàng đầu.

Không hiếm những trường hợp người giúp việc đổi chủ nhà trong cùng một

tòa nhà chung cư do chênh lệch về mức lương. Điều này là dễ hiểu, vì giữa

mức lương 5 triệu và 6 triệu là sự chênh lệch tới 20%, bản thân số tiền 01

triệu cũng là một mức chênh lệch khiến nhiều người giúp việc dao động.

Trong quá trình thương lượng, nếu không có sự gắn bó cao về mặt tình cảm

thì chủ nhà luôn ở thế bất lợi và thường là phải tăng lương, ít nhất là trong

ngắn hạn, để duy trì sự ổn định trong gia đình trước khi tính tới những giải

pháp khác. Ngoài ra, những bậc ông bà nội ngoại đôi khi cũng khiến vấn đề

trở nên phức tạp vì những tác động theo cảm tính khi họ ưng “một người bạn”

tại sân chơi chung khi đưa cháu đi chơi và đang khó chịu với người giúp việc

hiện tại.

49

Hình 2.4: Không gian sinh hoạt chung. Nguồn: Internet

Hình 2.5: Không gian kết nối qua mạng xã hội. Nguồn: Facebook

Ảnh hưởng của công nghệ đang ngày càng rõ rệt và ít nhiều có tác động

trong tình huống này. Mỗi tòa nhà tại Linh Đàm đều có ít nhất một Group

Facebook hay Group Zalo chung cho toàn bộ cư dân nhưng kết nối trực tuyến

không còn là đặc quyền của những người trẻ. Những người giúp việc gia đình

không chỉ dừng lại ở việc gặp gỡ nói chuyện trực tiếp mà cũng đã kết nối trực

tuyến với nhau qua các ứng dụng. Ở đây Zalo thường được lựa chọn vì tính

đơn giản trong sử dụng. Nhiều chủ nhà cũng đã phải thốt lên trong quá trình

trao đổi với người nghiên cứu là: “Bây giờ các bà giúp việc cũng có group

Zalo riêng. Lương như thế nào, bà nào còn làm bà nào sắp nghỉ họ biết hết.

Không cẩn thận là nhoằng cái xin nghỉ ngay chỉ vì chênh nhau có 500 ngàn

tiền lương” (Tài liệu thực địa)

Nếu xét về tính ổn định trong công việc, không gian sinh hoạt chung và

50

những không gian kết tạo ra hiệu ứng tiêu cực trong ngắn hạn nhưng lại lại có

sự tích cực trong dài hạn. Trong ngắn hạn, việc xuất hiện thông tin về mức

lương cao hơn và việc làm mới thuận lợi hơn thúc đẩy các lao động giúp việc

gia đình thay đổi công việc và gây ra sự xáo trộn và bất tiện trong sinh hoạt,

thậm chí là những bất đồng trong một toà nhà. Tuy nhiên, về mặt dài hạn, sự

trao đổi thông tin một cách khách quan ở cả hai phía lại giúp “bàn tay vô

hình” hoạt động hiệu quả và điều hòa mối quan hệ tất cả các bên. Một mức

lương chung hình thành và sự minh bạch về thông tin kết hợp với sự phê phán

của cộng động “ảo” khiến cả những chủ hộ và những lao động giúp việc gia

đình phải điều chỉnh hành vi của mình nếu không muốn lâm vào những tình

thế bất lợi hơn. Ngoài ra, sự trao đổi thông tin nội bộ cũng giúp thông tin việc

làm (tìm việc và tìm lao động) được kết nối sớm và giải quyết nhanh hơn

51

trong nội bộ tòa nhà.

Tiểu kết chƣơng 2

Những nội dung trong chương hai giúp đi tới những kết luận cơ bản sau

về môi trường chung cư và quá trình tìm kiếm việc làm của những người giúp

việc gia đình

Thứ nhất, sinh sống trong những chung cư là một xu hướng tất yếu của

quá trình đô thị hóa. Đây cũng là giải pháp cư trú phù hợp với những người

nhập cư từ nông thôn về các thành phố lớn trong quá trình phát triển kinh tế.

Kết quả là hình thành nên những khu đô thị mới mà khu đô thị Linh Đàm là

một ví dụ tiêu biểu.

Thứ hai, những gia đình trong các chung cư chủ yếu là các hộ gia đình

trẻ. Nhu cầu về người giúp việc gia đình thường liên quan đến các công việc

như chăm sóc trẻ nhỏ, chăm sóc người già, thực hiện việc dọn dẹp nhà cửa và

một số công việc khác. Trong một số trường hợp các đôi vợ chồng trẻ sẽ nhận

được sự hỗ trợ của người thân mà thường là ông bà nội ngoại để giải quyết

nhu cầu này. Tuy nhiên, khi không nhận được sự hỗ trợ thì nhu cầu tìm kiếm

người giúp việc gia đình trở nên cấp thiết.

Thứ ba, công việc giúp việc gia đình thường được đảm nhận bởi những

người phụ nữ trung niên tại các nông thôn. Có nhiều động cơ khác nhau trong

quyết định di cư ra thành phố của họ nhưng ít nhiều đều có liên quan đến các

vấn đề về kinh tế và gia đình. Đôi khi đây là một lối thoát cho cuộc sống của

họ nhưng đôi khi họ cũng phải vượt qua những rào cản nhất định để thực hiện

công việc này. Quá trình sống tại chung cư cũng là một quá trình họ bước vào

một không gian mới với nhiều mối quan hệ mới bao gồm cả không gian sinh

52

hoạt chung và những không gian ảo hình thành từ sự tiến bộ của công nghệ.

CHƢƠNG 3: VỐN XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁC GIAI ĐOẠN

TRONG QUÁ TRÌNH TÌM VIỆC LÀM

Những câu chuyện thực tế trong chương 02 cho thấy nhiều khía cạnh trong

quá trình tìm kiếm công việc và thực hiện công việc của những người giúp

việc gia đình tại các khu chung cư của Khu đô thị Bắc Linh Đàm. Trong

chương 03, ảnh hưởng của vốn xã hội sẽ được làm rõ hơn khi phân tích 03

khía cạnh: tiếp cận thông tin và lựa chọn việc làm, thương lượng và thực hiện

cam kết, kết thúc công việc và tìm kiếm công việc mới

3.1 Ảnh hƣởng đối với lựa chọn, tiếp cận và xác thực thông tin

Từ những trường hợp phỏng vấn trong quá trình điền dã cho thấy tính

bị động trong quá trình lựa chọn việc làm của những người giúp việc gia đình

tại Bắc Linh Đàm. Nếu chia quá trình lựa chọn công việc giúp việc gia đình

thành hai bước bao gồm: bước một là lựa chọn di cư – quyết định việc ở lại

địa phương hay tìm kiếm việc làm ở các đô thị lớn, bước hai là là lựa chọn

công việc – làm giúp việc gia đình hay làm công việc khác, thì hầu hết các

trường hợp cho thấy là những lao động đều bị động ở ít nhất là một trong hai

bước và những trường hợp bị động ở cả hai bước là rất phổ biến. Sự bị động

còn thể hiện ở một khía cạnh khác tiếp theo xuất phát từ nguyên nhân của lựa

chọn và ảnh hưởng có tính quyết định của những nhân tố khách quan. Trong

phần lớn các trường hợp, những người lao động đều quyết định di cư vì một

lý do không từ bản thân họ và được người khác lựa chọn cho công việc giúp

việc gia đình thay vì chủ động tìm đến nó. Thậm chí, đối với cả những trường

hợp đã làm công việc này trong một thời gian dài thì tính bị động này cũng

không bị mất đi.

Trong quá trình diền dã, đối với những trường hợp có trò chuyện sâu,

53

người nghiên cứu gặp được duy nhất một lao động giúp việc gia đình làm việc

tại khu đô thị Linh Đàm hơn 10 năm, từ năm 2009 cho tới thời điểm hiện tại.

Trong thời gian đó cô làm việc tại 02 tòa nhà, trải qua 02 lần thay đổi chủ nhà.

Mỗi lần thay đổi công việc với cô là một kỷ niệm và cô vẫn giữ mối quan hệ

với những chủ cũ như những người trong gia đình. Động lực lớn nhất của cô

H. (55 tuổi, Hòa Bình) gắn bó với công việc này là để chăm lo cho người con

học đại học:“Năm 2009 con trai cô đỗ trường Y Hà Nội. Nhà cô ở miền núi,

cô và chú đều là người Mường, cả hai đều chỉ học hết tiểu học. Lúc con cô

báo đỗ đại học cô vừa mừng vừa lo vì nhà làm nông chỉ đủ ăn. Là người dân

tộc ở miền núi nên con trai cô cũng được trường cho hưởng nhiều ưu đãi

nhưng vẫn cần tiền để sinh hoạt. Chú là đàn ông nhưng còn hiền hơn cô nên

khi có hàng xóm bảo cần tìm người làm osin để thay thế cho mình (chuyển

sang làm công việc khác) ở Hà Nội là cô nhận lời ngay vì vừa có tiền lại vừa

được gần con‟‟ (Tài liệu thực địa)

Trong số 03 chủ nhà mà cô làm việc cùng thì công việc đâu tiên cô gắn

bó lâu nhất : hơn 05 năm. Lý do chính một phần có lẽ vì chủ nhà cũng là

người Mường nên việc hiểu nhau giữa hai bên trở nên thuận lợi hơn. Gia đình

có 02 cháu bé, cô gắn bó với gia đình khi đứa lớn mới chỉ gần 12 tháng cho

tới khi đủ 06 tuổi đi học tiểu học còn đứa thứ hai cũng đã hơn 03 tuổi.

Thu nhập của cô tăng từ 3,5 triệu/tháng tại năm 2009 lên tới 5,5

triệu/tháng vào năm 2015 và hiện tại là 7 triệu/tháng. Cô được trả cao hơn

mức bình quân do cô rất chịu khó và sẵn lòng nhận những nhà có nhiều trẻ

con vốn là tình huống mà nhiều người giúp việc thường tránh. Đó cũng là lý

do cô có việc mới tại một căn hộ khác trong tòa nhà ngay sau khi kết thúc

công việc đầu tiên. Đáng chú ý ở đây là công việc thứ hai cũng là do chủ nhà

tự tìm đến cô ngay sau khi công việc đầu tiên kết thúc, chủ nhà đã chủ động

54

xin số của cô từ trước và gọi cho cô gần như ngay lập tức sau khi cô kết thúc

công việc đầu tiên. Tương tự như thế, chủ nhà thứ ba cũng chủ động liên lạc

với cô sau khi cô kết thúc công việc thứ hai.

Khi được hỏi cụ thể về quá trình có được thông tin về công việc thì cô

H. vẫn nhớ khá rõ về buổi trò chuyện đã khiến cô chuyển ra thủ đô làm việc

gần 10 năm sau đó : „„Trong xóm có nhà bà N. bán hàng tạp hóa, lâu lâu cô

cũng hay qua đó mua mắm mua muối. Ngày trước nhà bà N. cũng làm ruộng

như nhà cô thôi, hàng xóm với nhau nên khi có việc thì cũng hay đỡ đần hay

đổi công cho nhau. Về sau bà có con gái đỗ đại học rồi ở lại thủ đô làm việc

rồi lấy chồng cũng người Mường nhưng cũng đang làm việc ngoài đó thì giàu

lên hẳn. Bà N. chuyển sang bán hàng, ruộng không làm nữa mà thuê người

làm. Khi con trai cô đỗ đại học thì cô mừng lắm. Mọi người biết thì cũng chúc

mừng cô nhưng cũng nói là lên Hà Nội học tốn kém lắm làm cô lo vì cả đời cô

đã ra đến thủ đô bao giờ đâu. Hôm đó khi mua hàng ở sạp nhà bà N. cô cũng

định bụng nhân tiện hỏi chuyện đưa con đi học ngoài thủ đô như thế nào. Khi

đó cô không ngờ đi học lại tốn kém thế. Bà N. bảo đúng là người Mường ở

miền núi đi học đại học thì được miễn học phí và có tiêu chuẩn ở ký túc xá

nhưng không được nấu ăn, còn tiền sách vở, tiền đi thực hành… khiến cô lo

lắm vì nhà chỉ đủ ăn làm gì có nhiều tiền thế. Lúc đó bà N. cũng tâm sự là

đang tìm osin cho con gái nếu cô biết ai thì giới thiệu vì người Mường với

nhau ở với nhau vẫn cứ hơn. Lúc đó cô mới hỏi luôn là làm có khó không và

cô làm có được không thì bà N. đồng ý luôn‟‟ (Tài liệu thực địa)

Tương tự như thế, việc cô H. có được công việc thứ hai ngay trong tòa

nhà cũng khá bị động dù khi đó cô đã sinh sống được 5 năm ở khu chung cư

đó: „„Từ đầu, bà N. cũng nói với cô là cố gắng làm việc lâu dài cho tới khi

đứa út đi học tiểu học thì mới an tâm được. Lúc cháu nó bắt đầu đi học thì cô

đã nghĩ là về quê làm nông. Thực ra thời điểm đó cô cũng đã an tâm về thằng

55

con trai hơn rồi, vì thi thoảng nó tự đi làm thêm cũng đã tự lo được ít tiền.

Nhưng về sau có người bảo cô học y là năm cuối đi thực tập nhiều và nên

toàn tâm toàn ý học hành thì mới tốt. Thế là khi có người gọi nhờ là cô lại ra

khu đó làm việc. Chủ mới quen với cô vì khi làm việc ở nhà thứ nhất vì mỗi

buổi chiều cô hay đưa bọn trẻ xuống sân chơi để dỗ cho chúng nó ăn được

nhiều, khi đó cũng hay nói chuyện và có số điện thoại của nhau. Nhà đó đẻ

đứa thứ hai khi đứa lớn được hơn 2 tuổi, khi cô sắp nghỉ ở nhà thứ nhất thì

con vợ đã chửa vượt mặt rồi. Cô về quê được khoảng hai tuần thì nhà đó gọi.

Nghĩ đến cảnh chăm bà đẻ cô cũng ngại nhưng được cái chủ mới cũng hiểu

chuyện nên tăng lương cho cô nên cô đồng ý‟‟ (Tài liệu thực địa)

Điều này cũng tương tự như trường hợp của cô B. hay cô Ngoan. Vì

ngay từ đầu họ đã không coi đây là một nghề nghiệp thực sự có thể làm suốt

đời nên làm “osin” không phải là lựa chọn hàng đầu khi quyết định tìm kiếm

việc làm. Với những công việc khác như làm công nhân, làm người bán hàng

rong hay lao động phổ thông khác, các lao động có thể chủ động tìm kiếm

thông qua mạng lưới quen biết xung quanh họ. Rất khác với những công việc

trên, ngay cả khi đã lựa chọn và đã từng có kinh nghiệm với công việc này

nhưng nếu đã rời khỏi môi trường chung cư những lao động nhàn rỗi ở nông

thôn có rất ít phương cách để phát hiện ra ai đang có nhu cầu thuê “osin”.

Điều này hoàn toàn có thể hiểu được nếu nhìn từ quan điểm của vốn xã

hội của Pierre Bourdieu là một „„mạng lưới lâu bền bao gồm các mối quan hệ

quen biết nhau và nhận ra nhau, (các mối liên hệ này) ít nhiều được định chế

hóa‟‟. Các nguồn vốn có thể được chuyển hóa cho nhau, nhưng rõ ràng các

nguồn vốn khác (vốn văn hóa, vốn kinh tế hay vốn biểu tượng) của những

trường hợp này đều ở mức thấp nên không hỗ trợ được họ trong việc tìm kiếm

và lựa chọn việc làm. Nguồn vốn xã hội, dưới dạng mạng lưới các mối quan

56

hệ, gần như là yếu tố duy nhất phát huy tác dụng ở tình huống này. Những

người có nhu cầu đã “nhận ra” và “lựa chọn” các giúp việc gia đình nếu như

những lao động này có ở trong “mạng lưới” của họ.

Việc xác thực thông tin giữa hai bên cũng mang nhiều yếu tố đặc thù.

Ngày nay, tồn tại nhiều hình thức để những nhà tuyển dụng có thể gặp gỡ với

các lao động, từ trung tâm môi giới tới sàn giao dịch việc làm hay những hình

thức xác thực thông tin việc làm trên các nền tảng số. Những công cụ trên đã

giúp ích rất nhiều để tăng tính hiệu quả của thị trường lao động. Tuy nhiên,

giữa chủ nhà và người giúp việc thì những công cụ trên có rất ít tác dụng. Qua

quá trình trao đổi cho thấy cả chủ nhà và người giúp việc đều không thực sự

tin tưởng với các trung gian môi giới việc làm. Từ phía chủ nhà, họ không tin

các trung tâm giới thiệu việc làm vì “…sơ yếu lý lịch hay chứng minh thư cả

có ý nghĩa gì vì ngày nay cái gì cũng giả được, trong khi các trung tâm cứ

chăm chăm giới thiệu lấy được để ăn tiền môi giới còn lại có chuyện gì thì

làm thế nào mà bắt họ chịu trách nhiệm được, kể cả khi họ cam kết này nọ

bằng văn bản” (Tài liệu thực địa). Từ phía những lao động ở nông thôn thì lại

càng phức tạp hơn như: tâm lý ngại làm việc một cách chính quy bằng thủ tục

giấy tờ, những câu chuyện bị lừa rồi ép buộc phải làm việc như nô lệ, cảm

giác bị lấy mất tiền khi trung tâm lấy tiền môi giới (kể cả khi trung tâm không

lấy tiền của lao động mà chỉ lấy tiền từ chủ nhà)… khiến họ ngại ngùng khi

phải làm việc với các công ty môi giới. Ngay cả khi đầu quân cho các công ty,

những người lao động cũng hầu như chỉ làm việc trong những công ty mà ở

đó họ “ít nhiều có người quen”.

Việc thiếu nhưng công cụ để xác thực thông tin khiến việc gặp trực tiếp

giữa chủ nhà và người giúp việc gần như là bắt buộc để có thể hình thành thỏa

thuận. Ngoài ra, người giới thiệu và mạng lưới xung quanh cũng được tận

dụng tối đa để cả hai bên có thêm được thông tin trước khi quyết định. Trong

57

hầu hết các trường hợp, người giúp việc gia đình nếu không phải là “họ hàng

xa gần”, thì cũng là “người cùng làng cùng xóm” với chủ nhà hay ít nhất là

với người giới thiệu. Điển hình như trường hợp của cô Ngoan, mối quan hệ

huyết thống gần gũi và sự xác nhận của mạng lưới quen biết xung quanh

trong đó có tiếng nói mang tính quyết định từ bà cố ngoại là cơ sở để chủ nhà

(tức người cháu rể) đủ niềm tin là những rủi ro mà quá khứ của cô có thể đem

lại nếu chung sống cùng gia đình sẽ không xảy ra.

Nếu nhìn từ góc độ chủ lao động – chủ nhà, khi đã xác định “tuyển

dụng” qua “mạng lưới những người quen biết” thì truyền miệng dường như là

hình thức “thông tin việc làm” duy nhất họ sử dụng. Ở đây, vai trò của bà nội

và bà ngoại đặc biệt quan trọng. Việc các đôi vợ chồng trẻ tận dụng mối quan

hệ của bà nội và bà ngoại là hoàn toàn dễ hiểu vì những người phụ nữ lớn tuổi

này thường có một quá trình cư trú lâu dài tại nông thôn và có sự gắn bó thân

thiết với những “lao động tiềm năng” chính là những người cùng nơi cư trú,

cùng độ tuổi hay cùng công việc với họ. Bất chấp việc các phương tiện giao

tiếp online đã trở nên phổ biến tại nông thôn thì những người phụ nữ lớn tuổi

này vẫn giữ thói quen trò chuyện trực tiếp với mọi người hàng ngày, vô hình

chung, thói quen này lại giúp thúc đẩy thông tin lạn truyền nhanh hơn. Như

trường hợp của cô H. (Hòa Bình), cô không chủ động tìm việc mà có thông

tin khi trò chuyện cùng bà ngoại của chủ nhà đầu tiên vốn là bán hàng tạp hóa

trong xóm.

Như vậy, có thể hiểu là trong tương quan với với “vốn văn hóa”, “vốn

kinh tế‟ hay “vốn biểu tượng” thì trong tình huống này “vốn xã hội” theo cách

hiểu của Pierre Bourdieu vẫn giữ vai trò có tính then chốt trong việc lựa chọn,

tiếp cận và xác thực thông tin việc làm để chủ nhà và người giúp việc gia đình

58

có thể kết nối được với nhau và đi đến thỏa thuận về công việc.

3.2 Ảnh hƣởng đối với quá trình thƣơng lƣợng và đảm bảo quyền lợi

Nếu quan điểm của Pierre Bourdieu giúp chúng ta làm sáng tỏ vai trò

của vốn xã hội trong việc tiếp cận và xác thực thông tin để chủ nhà và người

giúp việc gia đình có thể kết nối được với nhau thì quan điểm của nhà chính

trị học người Mỹ gốc Nhật Francis Fukuyama lại giúp chúng ta có thể lý giải

quá trình thương lượng và đảm bảo quyền lợi của cả hai bên trong thỏa thuận

về việc làm khi ông cho rằng: “Vốn xã hội là một chuẩn mực phi chính thức

được biểu hiện trong thực tế (có tác dụng) thúc đẩy sự hợp tác giữa hai hay

nhiều cá nhân. Các chuẩn mực làm nên vốn xã hội có thể bao gồm từ chuẩn

mực có đi có lại giữa hai người bạn, cho tới những học thuyết phức tạp và

được kết cấu một cách tinh tế như Ki – tô giáo hay Khổng giáo. Những chuẩn

mực này phải được biểu hiện trong thực tế trong mối liên hệ có thực giữa con

người với con người: chuẩn mực có đi có lại tồn tại trong niềm tin tiềm thể

trong mối xử sự của tôi với mọi người, nhưng nó chỉ được hiện thực hóa khi

tôi xử sự với bạn bè của tôi mà thôi...” [39, tr.37].

Mặc dù không hoàn toàn đồng ý với Fukuyama khi ông nhấn mạnh

tính “phi chính thức” của vốn xã hội, tuy nhiên, phân tích của ông là một cơ

sở rất hữu hiệu để có thể đi sâu vào bản chất của quá trình thương lượng giữa

chủ nhà và người giúp việc gia đình.

Như đã liệt kê tại chương 2, xét về mặt lý thuyết thì mối quan hệ giữa

hai bên của thỏa thuận được pháp luật công nhận và tồn tại những văn bản

luật để điều chỉnh mối quan hệ này một cách chính thức. Tuy nhiên, trên thực

tế, những “chuẩn mực phi chính thức” đã “thao túng” sâu sắc quá trình

thương lượng giữa hai bên. Bối cảnh “sống như một gia đình” trong tương lai

khiến cả hai bên đều ý thức được việc thương lượng về quyền lợi là hết sức tế

nhị. Ngoài ra, mối quan hệ “cùng làng cùng xóm” ẩn chứa nhiều rùi ro nếu có

59

sự mích lòng giữa các bên trong tam giác chủ nhà – người giới thiệu – người

giúp việc gia đình. Thêm vào đó, tâm lý ngại mặc cả một cách thẳng thắn về

“tiền bạc” khiến cho việc “thương lượng” và “thông báo tuyển dụng” phải

được diễn ra theo những cách thức “phi chính thức” sao cho hài hòa dù kết

quả thực sự có thế nào đi chăng nữa.

Cô H. đã kể lại về buổi gặp gỡ giữa cô và vợ chồng có bà ngoại bán tạp

hóa 10 năm trước để “xem mặt”: “Cô đi mua đồ thì bà N. (bà ngoại của chủ

nhà) nói chuyện bảo đang tìm osin cho nhà con gái ngoài thủ đô, biết ai thì

giới thiệu vì cũng hơi gấp. Cô bảo là cô cũng đang lo vì thằng con ra học

ngoài đó một mình nên hỏi lại là cô làm có được không. Bà N. nói luôn là nếu

cô làm thì an tâm quá, mời cô cuối tuần sang nhà ăn cơm. Hôm đó, vợ chồng

nhà đó về mang theo bọn trẻ. Cô sang sớm phụ làm cỗ rồi thử bế thì may quá

bọn trẻ lại theo. Ăn xong bữa cơm thì ngồi uống nước nói chuyện rồi khi về

cái L. (chủ nhà – con gái bà N.) đưa cho cô một cái bao lì xì. Cô về mở ra

thấy có 3,5 triệu là cô biết là cái L. cũng ưng rồi. Cô tự hiểu là họ ứng trước

cho mình tháng lương đầu để thu xếp mọi chuyện ở nhà trước khi đi. Nhà bà

N. bán hàng nên họ rất khéo. Khi cô ra trò chuyện thì biết những người làm

như cô ở khu đó lương thường là 3 triệu/tháng, nhưng nhà đó có hai bé nên

họ trả thêm 500 ngàn.” (Tài liệu thực địa)

Trong quá trình thương lượng, việc tặng quà, ứng trước lương, “tạo

điều kiện đặc biệt” và “ tự thấu hiểu” nhu cầu của đối tác là một điều gì đó rất

quan trọng, có ảnh hưởng mạnh mẽ đối việc đi đến thống nhất giữa hai bên.

Món quà hay việc “tạo điều kiện” không thuần túy là bản thân chúng nữa còn

là sự biểu hiện cho việc “có thể cùng chung sống” với nhau giữa hai bên. Việc

nhận quà hay ứng trước lương thường được hiểu như một sự xác nhận cho

việc thảo thuận đã thành công ở bước đầu tiên.

Như trong trường hợp của Cô B. (50 tuổi) người Nam Định đã kể:

60

“…Lúc đầu bạn cô bảo lương 5,5 triệu/tháng cô không làm vì ngại cảnh phải

xa chồng xa con. Nhưng tận đến lúc con cô nhập học rồi xin được một chỗ ở

trong ký túc xá thì cô an tâm hơn. Con bé con bạn cô đến tận chỗ cô trọ nhờ

cô giúp, bảo gửi thêm cô 1 triệu nữa, nó hứa Chủ Nhật nhà nó tự trông con

cho cô nghỉ đến tối nên cô nhận lời”. (Tài liệu thực địa) Tình huống cho

thấy, trong quá trình thương lượng, việc chủ nhà tìm đến tận nơi và đảm bảo

cho cô có thể được gặp gia đình vào mỗi cuối tuần cũng không kém phần

quan trọng việc tăng lương để cô có thể vượt qua các rào cản về mặt tâm lý.

Có những nguyên nhân cụ thể khiến những lao động giúp việc gia đình

lại chú ý nhiều đến những vấn đề khác ngoài lương. Một trong những nguyên

nhân sâu xa là họ mang sẵn trong mình tâm lý của những người yếu thế. Hoàn

cảnh xuất thân, điều kiện sống và trình độ hiểu biết hạn chế khiến họ không ý

thức được hết quyền lợi để bảo vệ bản thân. Mặc dù về lý việc không ký kết

hợp đồng giúp họ có thể chấm dứt công việc bất kỳ lục nào, nhưng “một trăm

cái lý không bằng một tí cái tình”, cảm giác “bỏ rơi những đứa trẻ” hay “làm

hỏng việc của người ta” khi chấm dứt công việc một cách đột ngột là điều

không mong muốn với những người phụ nữ ở nông thôn vốn thấm đẫm những

giá trị truyền thống. Họ không thoải mái nếu phải “thẳng thắn” bộc hộ những

đòi hỏi về quyền lợi và hầu hết đều không có kỹ năng mềm để thực hiện việc

đó một cách khéo léo. Chính vì vậy, họ lựa chọn giải pháp im lặng hoặc biểu

lộ một cách gián tiếp hoặc nói thông qua trung gian. Trong tình huống sống ở

chung cư, khi mà mặt bằng chung về lương ít nhiều đã được quy định thì việc

ứng trước lương, tặng quà và những quyền lợi khác ngoài lương sẽ được

người lao động hiểu là một sự nhượng bộ, từ đó những người giúp việc sẽ có

cảm giác an toàn rằng quyền lợi của mình sẽ được đảm bảo nếu làm việc với

chủ nhà.

Nhìn từ phía chủ nhà, thương lượng cũng là một quá trình khó khăn

61

mặc dù họ ít nhiều là ở trạng thái chủ động hơn. Một trong những nguyên

nhân lớn nhất thường là do sự thúc ép về mặt thời gian khi mà hầu hết chủ

nhà sống ở chung cư đều là những người bận rộn với công việc. Nhịp sống đô

thị khiến cho các đôi vợ chồng trẻ kiệt sức cả về thể trạng và tâm lý mỗi ngày.

Chính vì vậy, họ luôn muốn những giúp việc gia đình sớm có thể bắt đầu

công việc để họ có thể giải tỏa áp lực mỗi khi ở nhà.

Nguyên nhân khác là rủi ro về mặt an ninh, dù có áp dụng các biện

pháp như lắp camera hay kiểm tra đột ngột thì chủ nhà luôn đứng trước nguy

cơ bị mất đồ nếu lựa chọn sai người. Tuy nhiên, quan trọng nhất có lẽ vẫn liên

quan đến những đứa trẻ. Bản thân các đôi vợ chồng trẻ cũng rất e ngại việc

làm mích lòng “osin” trong quá trình thương lượng khiến cho “tình cảm bị

sứt mẻ” và dẫn tới việc trẻ con là nạn nhân. Ngoài ra, do không thể có “mô tả

công việc” hay “KPI” để đánh giá hiệu quả công việc của osin một cách rõ

ràng nên phương pháp “thỏa hiệp và tạo thiện cảm ngay từ đầu” thường được

các chủ nhà lựa chọn để kích thích tinh thần làm việc của những người giúp

việc gia đình.

Như vậy, quá trình thương lượng thực ra chính là quá xây dựng lòng tin

giữa hai bên. Cả hai phía đều phải cố gắng hết mức để gây dựng niềm tin với

đối phương ở giai đoạn này vì đều hiểu rõ là sẽ bị đặt vào trạng thái “buộc

phải tin nhau dù muốn hay không” khi công việc bắt đầu. Nếu đối chiếu với

tình huống “lưỡng nan người tù” của Lý thuyết trò chơi thì rõ ràng ở đây cả

hai phía đều thiệt hai nặng nếu vi phạm cam kết. Chính vì vậy, cả hai phía đều

phải hết sức nỗ lực để đưa về trạng thái tối ưu trong quá trình thương lượng.

Quá trình thực hiện những cam kết cũng là một cậu chuyện hết sức sinh

động và cả hai phía đều phải khéo léo để mối quan hệ không bị đổ vỡ trong

những tình huống tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Thông thường, những cam kết về

lương thường rất hiếm khi bị vi phạm nhưng những quyền lợi khác thì sẽ có

62

nhiều biến đổi trong quá trình sống. Câu chuyện của chủ nhà nơi cô B. làm

việc, đã cho thấy quá trình chung sống đòi hỏi một sự nỗ lực và thấu hiểu của

cả hai bên: “ Lương mặt bằng chung cho Osin ở khu này có 5 – 6 triệu thôi,

nhưng khi đó người giúp việc cũ nghỉ gấp quá mà cô B. được khen là có sức

khỏe và biết việc nên mình cũng cắn răng trả thêm cho cô. Osin bây giờ

lương cao hơn cả sinh viên mới ra trường. Mà ngoài lương ra còn nhiều cái

khác nữa chứ. Áo váy của mình cũ một chút là cô lại xin cho con gái. Đồ của

chồng mình cô cũng hay xin cho bác trai. Trong nhà mà dư ra cái gì cô cũng

xin luôn, khi thì đem cho con khi thì đem cho chồng hoặc đôi khi còn bán lấy

tiền. Cứ rảnh ra cái là cô lại thấy gọi điện hỏi chồng. Chủ Nhật nghỉ thì tối

thứ Bảy cô toàn tranh thủ nấu nướng đến tận khuya để đem đồ về cho chồng

con. Nhiều lúc cũng thấy bực những nghĩ cũng không đáng mấy, lại là chỗ

quen biết với bà ngoại nên mình cũng bỏ qua. Được cái phải thừa nhận là cô

biết việc. Làm việc chu đáo và vệ sinh sạch sẽ. Nấu ăn ngon và giỏi nhất là

khoản dỗ cho con nhà mình ăn. Ở với bà con nhà mình tăng cân thấy rõ nên

mình không nghĩ đến chuyện đổi người” (Tài liệu thực địa)

Trong khi những quyền lợi như trên được đề cập đến rất nhiều, thì cả

chủ nhà và “osin” đề tỏ ra khá ngạc nhiên nếu quá trình phỏng vấn nhắc tới

những thủ tục để văn bản hóa giao kèo hay những quyền lợi “chính thức

khác” như: điều kiện về nơi ăn ở, đóng bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm thất

nghiệp hay những trợ cấp khác... Đối với họ, dường như đây là một điều gì đó

không những “xa lạ” mà còn là “kỳ quặc” nếu làm như vậy. Trong 10 năm

làm việc với ba chủ nhà, cô H. không ký một văn bản giấy tờ nào, cô cũng

không có khái niệm gì về những quyền lợi kiểu như bảo hiểm xã hội. Khi

được hỏi về việc có lo ngại về việc quyền lợi của mình không được đảm bảo

không, thì cô trả lời rất đơn giản là “nếu không tin thì đã không ra thủ đô làm”

63

và nghĩ rằng, “cùng làng cùng xóm thì sẽ không làm thế với nhau đâu”.

Như vậy, trong mối quan hệ giữa chủ nhà và người giúp việc gia đình,

những chuẩn mực phi chính thức dù chỉ được ngầm định nhưng đã “thao

túng” và “thúc đẩy” mạnh mẽ để hai bên có thể hợp tác với nhau. Chúng chi

phối cả ở quá trình thương lượng ban đầu đến việc đảm bảo quyền lợi của cả

hai bên trong quá trình cộng tác. Thực trạng này vừa mang tính tiêu cực vừa

mang tính tích cực nhưng nhìn chung mặt tích cực là nhiều hơn vì nó tương

ứng nhận thức của các bên, phù hợp với không gian làm việc và đặc biệt là

giúp giải quyết nhanh những vấn đề cấp bách của cả hai phía.

3.3 Ảnh hƣởng đối với quá trình thay đổi công việc

Quá trình thay đổi công việc ở đây được xét đến ở đây bao gồm 02 khía

cạnh: thay đổi nơi làm việc và kết thúc công việc giúp việc gia đình để làm

những công việc khác.

Ở chương 2, chúng ta đã thấy không gian sinh hoạt chung của chung cư

và sự phát triển về công nghệ đã giúp cho sự liên kết giữa những người sống ở

đây có trở nên thuận lợi hơn. Như vậy, rõ ràng là quá trình này đã giúp mở

rộng mối quan hệ của những người giúp việc gia đình. Các mối quan hệ sẽ

dần hình thành bao gồm: người giúp việc – người giúp việc, người giúp việc –

người thân của chủ nhà (mà phổ biến là bà nội hoặc bà ngoại) và người giúp

việc – chủ nhà khác (thường là người phụ nữ trong gia đình). Tất cả những

mối quan hệ trên đều hình thành một cách rất tự nhiên qua nhiều tình huống

như: đưa trẻ đi chơi tại sân chơi trẻ em, đi chung thang máy hay được các chủ

nhà giới thiệu... Tất cả những mối quan hệ đó sẽ tạo ra cơ hội để người giúp

việc gia đình có thể thay đổi công việc từ nhà này sang người khác một cách

thuận lợi hơn. Ở đây, câu chuyện của cô H. lại là một dẫn chứng điển hình.

„„Từ đầu, bà N. cũng nói với cô là cố gắng làm việc lâu dài cho tới khi

đứa út đi học tiểu học thì mới an tâm được. Lúc cháu nó bắt đầu đi học thì cô

64

đã nghĩ là về quê làm nông. Thực ra thời điểm đó cô cũng đã an tâm về thằng

con trai hơn rồi, vì thi thoảng nó tự đi làm thêm cũng đã tự lo được ít tiền.

Nhưng về sau có người bảo cô học y là năm cuối đi thực tập nhiều và nên

toàn tâm toàn ý học hành thì mới tốt. Thế là khi có người gọi nhờ là cô lại ra

khu đó làm việc. Chủ mới quen với cô vì khi làm việc ở nhà thứ nhât mỗi buổi

chiều cô hay đưa bọn trẻ xuống sân chơi để dỗ cho chúng nó ăn được nhiều,

khi đó cũng hay nói chuyện và có số điện thoại của nhau. Nhà đó đẻ đứa thứ

hai khi đứa lớn được hơn 2 tuổi, khi cô sắp nghỉ ở nhà thứ nhất thì con vợ đã

chửa vượt mặt rồi. Cô về quê được khoảng hai tuần thì nhà đó gọi. Nghĩ đến

cảnh chăm bà đẻ cô cũng ngại nhưng được cái chủ mới cũng hiểu chuyện nên

tăng lương cho cô nên cô đồng ý‟‟ (Tài liệu thực địa)

Về phía các chủ nhà, nếu tuyển được một người giúp việc đã từng làm

việc tại cùng khu chung cư cũng đem đến nhiều sự an tâm hơn. Sẽ rất đơn

giản nếu mọi chuyện như trường hợp cô H. (Hòa Bình), khi cả hai đứa trẻ

cứng cáp thì chủ nhà quyết định cho cả hai đứa đi học và tự bố trí việc đưa

đón, cô H. chuyển sang nhà khác ở cùng khu. Chủ cũ và chủ mới biết nhau.

Thậm chí, chủ mới vẫn tương đối thoải mái khi tạo điều kiện mỗi khi cô H.

muốn nhận việc lau chùi dọn dẹp và đón trẻ khi chủ cũ muốn thuê trong

những dịp đột xuất.

Tuy nhiên, tình huống này cũng hàm chứa những yếu tố rất tế nhị nếu

như quá trình “chia tay” giữa chủ cũ và lao động không thực sự suôn sẻ. Đặc

biệt là trong trường hợp một số chủ nhà chủ động “tăng lương” để lôi kéo

những “osin” ưng ý về nhà mình và gây xáo trộn trong cuộc sống của gia đình

chủ cũ. Quan niệm về việc dùng tiền lương để lôi kéo và vì tiền mà tìm nơi

làm việc khác sẽ dễ đem tới những “tai tiếng” cho cả chủ mới lần người giúp

việc. Đứng trước tình huống này, thông thường người giúp việc sẽ phải khá tế

nhị và người chủ hiện tại thường lựa chọn giải pháp tăng lương để giữ người.

65

Quá trình phỏng vấn cho thấy trong một vài trường hợp đổi chủ nhà trong

cùng một tòa nhà một cách không khéo léo đã gây ra tâm lý khá bức xúc cho

chủ cũ.

Trong trường hợp người giúp việc gia đình chấm dứt công việc để

chuyển sang làm việc khác thì các bên có vẻ thoải mái hơn rất nhiều. Tình

trạng này do 2 đặc điểm: thứ nhất, ngay từ khi bắt đầu công việc thì các lao

động đã mang suy nghĩ công việc giúp việc gia đình chỉ là tạm thời; thứ hai,

khi nghỉ để chuyển sang làm công việc khác thì những người giúp việc cũng

thường có thông tin sớm để chủ nhà có phương án thay thế phù hợp. Như

trường hợp của cô Ngoan (Thanh Hóa), việc cô mở quán bún ngan nhận được

sự ủng hộ nhiệt tình của những người thân sau một quá trình sinh sống thuận

hòa và cô cũng tâm sự là chỉ bắt đầu công việc mới sau khi đứa cháu có thể đi

nhà trẻ và cảm thấy đôi vợ chồng trẻ có thể tự quán xuyến được gia đình.

Ở đây có một mối quan hệ hai chiều giữa vốn xã hội và công việc giúp

việc gia đình. Công việc giúp cho vốn xã hội của họ tăng lên và chính điều đó đã

góp phần khiến cho họ có nhiều cơ hội hơn, có thể tìm kiếm được những công

việc khác và cái thiện đời sống, không chỉ cho bản thân mà cho cả gia đình. Việc

gặp gỡ và giao lưu với những hàng xóm, việc sinh hoạt trong môi trường đô thị

và những cơ hội kết bạn mới đôi khi mở ra những lối thoát thực sự cho những

con người sinh ra và lớn lên ở nông thôn và dường như là đang bị bỏ lại phía sau

trong quá trình phát triển kinh tế. Điều này thể hiện rất rõ ràng qua quá trình phát

triển các mối quan hệ và dẫn tới việc mở quán của cô Ngoan.

“Một năm đầu tiên cô hầu như không liên lạc với ai cả. Những liên hệ

hồi còn ở trong trại bị người thân xóa hết. Cô cũng chưa quen với cuộc sống

nên hầu như chỉ ở nhà chăm cháu, lâu lâu có nói chuyện với những người

cùng tầng hoặc xuông sân chơi chung. Có một dạo cháu gái cô ngoài làm

ngân hàng còn bán thêm bảo hiểm nên hay đi họp đội nhóm, nó rủ cô đi cùng

66

thì cô bắt đầu quen biết với nhiều người hơn. Trong quá trình đó thì có một

chị rủ cô đi theo đạo Tin Lành, cô đi vài lần thấy hợp thì cô theo. Mấy đứa

cháu cô cũng không phản đối chuyện đó. Trong một dịp thì cô gặp chú (người

chồng hiện tại). Hằng tuần, gặp nhau nói chuyện thấy hợp nên cô chú cũng

tin tưởng và tâm sự nhiều hơn. Cứ như vậy tầm hơn một năm thì chú bảo về

sống với chú và cùng mở quán ăn vì chú đã từng mở nhà hàng. Cô cũng có

cảm tình với chú và bọn trẻ cũng ủng hộ nên cô quyết định xây dựng cuộc

sống mới với chú” (Tài liệu thực địa)

Mặc dù những người lao động giúp việc gia đình thường không có một

sự chủ tâm hay chiến lược cụ thể cho việc phát triển các mối quan hệ. Nhưng

quá trình sinh hoạt tại chung cư và đặc thù của công việc đôi khi giúp họ có

một công việc khác từ những mối quan hệ nhhư trong câu chuyện của cô T.

(Thái Bình): “Mỗi tuần cô được đưa tiền để đi chợ. Cả nhà chủ ngủ dậy muộn

nhưng cô hay dậy sớm đi chợ từng ngày vì cô quen dậy sớm ở quê rồi. Mỗi

lần cô đi chợ về thì hay gặp bà lao công nhận việc lau dọn sàn ở hành lang

mỗi buổi sáng. Lúc đầu thì chỉ chào hỏi bình thường thôi nhưng về sau thì

biết là đồng hương nên cũng hay nói chuyện rồi lấy số điện thoại của nhau.

Khi đó nhà chủ chuyển vào Nam sống nên cô không đi theo được dù vẫn đang

muốn làm việc ở Hà Nội để kiếm tiền nhưng cũng chưa biết làm gì. Khi định

về quê cô có gọi điện chào bà ấy thì được bà ấy hỏi là muốn làm cùng bà ấy

không. Cũng là đi chùi hành lang ở mấy nhà chung cu ở Linh Đàm gần đó

thôi. Cô chưa biết ở đâu thì bà ấy bảo cho ở trọ cùng ở chỗ làng Đại Từ. Vậy

là cô lại ở lại Hà Nội. Lúc đầu cũng chỉ là đi làm tính công hàng ngày trả

lương thôi, được ngày nào biết ngày ấy, nhưng về sau công ty cũng cho ký

hợp đồng thì cũng thêm được vài trăm trợ cấp. Làm dần thành quen thì công

ty cho làm tổ trưởng, vẫn đi lau chùi nhưng thêm việc chấm công cho các bà

cùng làm ở tòa nhà đó, thế là lại có thêm một ít trợ cấp. Thực ra, lương đi

67

làm lao công thấp hơn làm “osin”, lại tốn tiền ăn và thuê trọ chứ không được

ăn ở cùng nhà chủ như xưa. Nhưng được cái thời gian tự do hơn, ngoài giờ

cô còn nhận đi lau chùi ở mấy biệt thự nữa nên cũng có đồng ra đồng vào.

Vẫn còn hơn về quê thì cũng chưa biết làm gì vì còn ruộng đâu” (Tài liệu

thực địa)

Mặc dù quan niệm chung về cuộc sống ở chung cư là “nhà nào biết nhà

nấy”, nhưng thực ra mô tả đó là không đầy đủ vì chỉ phản ánh mối quan hệ

giữa những chủ nhà với nhau; trên thực thế, có một “thế giới song song” khác

đang cùng tồn tại, đó là “chung cư của osin – lao công – bảo vệ” của những

người mang tâm thức “làng quê”. Trong thời điểm hiện tại hiện tại mỗi chung

cư đều có ban quan lý và các bên làm nhiều dịch vụ khách cho không gian

chung của tòa nhà như bảo vệ, lau dọn, tưới cây, bảo dưỡng các thiết bị... Các

mối kết nối đó hình thành dần dần theo thời gian qua những cuộc trò chuyện

tình cờ. Mối quan hệ sẽ phát triển dần dần theo thời gian và sẽ phát triển

nhanh hơn, đôi khi là trở nên vô cùng thân thiết nếu có những nhân tố chung

như cùng đi chợ, cùng có con đang làm việc hoặc học tập ở hà nội và đặc biệt

là cùng quê. Những mối quan tâm chung kết hợp với nhu cầu sẻ chia trong

thời gian rỗi vừa giúp cho những người trong cuộc vơi bớt đi nỗi buồn khi

phải xa gia đình, đồng thời vừa giúp những thông tin khác như các cơ hội việc

làm, mức lương, tính tình của chủ nhà... nhanh chóng được lan tỏa trong

68

mạng lưới và tạo ra cơ hội cho những thành viên trong mạng lưới đó.

Tiểu kết chƣơng 3

Như vậy, sau khi phân tích sau hơn về ảnh hưởng của vốn xã hội của

đối với quá trình tìm kiếm việc làm của người giúp việc gia đình qua những

trường hợp cụ thể tại các tòa nhà chung cư Khu đô thị Bắc Linh Đàm, nghiên

cứu đã làm rõ các đặc điểm chủ đạo sau:

Thứ nhất, trong hầu hết các trường hợp, những người giúp việc đều

không chủ động tiếp cận thông tin mà ngược lại nhu cầu về tuyển dụng tự tìm

đến với họ thông qua mạng lưới thân thuộc – tức vốn xã hội theo quan điểm

của Bourdieu. Trong đó, phổ biến nhất là qua mối quan hệ họ hàng huyết

thống và mối quan hệ hàng xóm làng giềng. Trung gian để kết nối giữa chủ

nhà với những người phụ nữ trung niên tại nông thôn thường là bà nội hoặc

bà ngoại của chủ nhà thông qua hình thức truyền miệng. Mạng lưới này đồng

thời cũng giúp cho các hai phía xác thực thông tin về nhau thuận tiện hơn để

từ đó kết nối nhanh chóng hơn.

Thứ hai, quá trình thương lượng bị chi phối mạnh mẽ bới các nguyên

tắc ứng xử “phi chính thức” – vốn xã hội theo quan điểm của Fukuyama; thể

hiện ra ở đây các giao kèo thường không được văn bản hóa thành hợp đồng

mà ở dạng thỏa thuận miệng và các quyền lợi thường được đề cập dưới những

hình thức “gián tiếp” và “tế nhị” để dù thương lượng thành công hay thất bại

thì cả hai bên đều giữ được mối quan hệ. Những quyền lợi khác phổ biến ở

đây thường là: được gặp gỡ người thân, được tặng đồ dùng, được nhận thêm

việc ở nhà khác để tăng thu nhập… cũng được đề cập đến và thường là cơ sở

để cả hai bên xem xét việc có thể cùng “chung sống như một gia đình” với

nhau được không. Niềm tin và cảm nhận từ phía ban đầu với nhau là cơ sở để

cả hai phía nhận định là quyền lợi của mình được đảm bảo về sau, điều này có

69

liên quan đến thực tế là những “công cụ” để kiểm soát trong trường hợp đối

phương vi phạm giao kèo của cả hai phía cũng chỉ là những “chuẩn mực phi

chính thức”.

Bên cạnh đó, sống ở môi trường chung cư cũng có những đặc điểm

giúp cho những người giúp việc gia đình mở rộng mạng lưới quen biết của họ.

Ngoài mối quan hệ với chủ nhà, hàng xóm của chủ nhà hay người thân của

chủ nhà; những người giúp việc gia đình cũng dần dần hình thành những mối

quan hệ thân thuộc với những đối tượng khác như lao công – người lau dọn

hành lang hàng ngày, bảo vệ hay nhưng người làm công việc chăm sóc cây

cảnh ở không gian chung… Những mối quan hệ giúp cho vòng kết nối của họ

được mở rộng và hỗ trợ họ trong quá trình thay đổi công việc, bao gồm cả

70

tình huống thay đổi qua nghề nghiệp khác.

KẾT LUẬN

Thứ nhất, có nhiều cách hiểu khác nhau về “Vốn xã hội”, nhưng những

cách hiểu này có liên quan với nhau và có thể được sử cùng nhau để phân tích

ảnh hưởng của “Vốn xã hội” – nói chung tới đối tượng nghiên cứu. Mạng lưới

quan hệ là biểu hiện rõ ràng nhất của “Vốn xã hội”, tuy nhiên phân tích về

mạng lưới phải được gắn kết với những giá trị và những định chế để tạo thành

một thực tại - tổng thể. Đặc thù của xã hội Việt và đặc thù của đối tượng

nghiên cứu ít nhiều cho thấy ưu thế của định chế như gia đình, làng xã và hội

nhóm và những “chuẩn mực phi chính thức” so với những định chế khác

(“nhà nước” và “thị trường”) và những “chuẩn mực chính thức”.

Thứ hai, những khu đô thị mới như khu đô thị Linh Đàm là một ví dụ

tiêu biểu cho quá trình đô thị hóa và phát triển kinh tế. Những gia đình trong

các chung cư chủ yếu là các hộ gia đình trẻ giúp hình thành nên nhu cầu

người giúp việc gia đình mà. Công việc này được đảm nhận bởi những người

phụ nữ trung niên tại các nông thôn. Có nhiều động cơ khác nhau trong quyết

định di cư ra thành phố của họ nhưng ít nhiều đều có liên quan đến các vấn đề

về kinh tế. Đôi khi đây là một lối thoát cho cuộc sống của họ nhưng trong một

số trường hợp khác lao động phải vượt qua những rào cản nhất định để thực

hiện công việc này. Quá trình sống tại chung cư cũng là một quá trình họ

bước vào một không gian mới với nhiều mối quan hệ mới bao gồm cả không

gian sinh hoạt chung và những không gian ảo hình thành từ sự tiến bộ của

công nghệ.

Thứ ba, trong giai đoạn tiếp cận và xác thực thông tin, trong hầu hết các

trường hợp, những người giúp việc đều không chủ động tiếp cận thông tin mà

ngược lại nhu cầu về tuyển dụng tự tìm đến với họ thông qua mạng lưới thân

thuộc – tức vốn xã hội theo quan điểm của Bourdieu. Trong đó, phổ biến nhất

71

là qua mối quan hệ họ hàng huyết thống và mối quan hệ hàng xóm láng giềng.

Trung gian để kết nối giữa chủ nhà với những người phụ nữ trung niên tại

nông thôn thường là bà nội hoặc bà ngoại của chủ nhà thông qua hình thức

truyền miệng. Mạng lưới này đồng thời cũng giúp cho các hai phía xác thực

thông tin về nhau thuận tiện hơn để từ đó kết nối nhanh chóng hơn.

Quá trình thương lượng bị chi phối mạnh mẽ bới các nguyên tắc ứng xử

“phi chính thức” – vốn xã hội theo quan điểm của Fukuyama; ở đây các giao

kèo thường không được văn bản hóa thành hợp đồng mà ở dạng thỏa thuận

miệng và các quyền lợi thường được đề cập dưới những hình thức “gián tiếp”

và “tế nhị” để dù thương lượng thành công hay thất bại thì cả hai bên đều giữ

được mối quan hệ. Niềm tin và cảm nhận từ phía ban đầu với nhau là cơ sở để

cả hai phía nhận định là quyền lợi của mình được đảm bảo về sau, điều này có

liên quan đến thực tế là những “công cụ” để kiểm soát trong trường hợp đối

phương vi phạm giao kèo của cả hai phía cũng chỉ là những “chuẩn mực phi

chính thức”. Bên cạnh đó, sống ở môi trường chung cư cũng có những đặc

điểm giúp cho những người giúp việc gia đình mở rộng mạng lưới quen biết

của họ. Những mối quan hệ giúp cho vòng kết nối của họ được mở rộng và hỗ

trợ họ trong quá trình thay đổi công việc, bao gồm cả tình huống thay đổi qua

72

làm nghề nghiệp khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Đặng Nguyên Anh (1998), Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình

di cư”, Tạp chí Xã hội học.

2. Nguyễn Tuấn Anh (2016), Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ

phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Luận án Tiến

sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Hồi Loan, Nguyễn Kim Hoa đồng chủ biên

(2016), Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

4. Phạm Huy Cường (2015), “Mạng lưới quan hệ xã hội với kết quả tìm

kiếm việc làm của sinh viên tốt nghiệp: những tác động không được mong

đợi”, Luận án tiến sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội.

5. Trần Hữu Dũng (2000), Vốn xã hội và kinh tế, Tạp chí Thời Đại, số 8,

tháng 7/2000.

6. Trần Hữu Dũng (2006), Vốn xã hội và phát triển kinh tế , Tạp chí Tia

Sáng, số 13, tháng 7/2006.

7. Đoàn Thuỳ Dương (2016), Sinh viên và mạng xã hội Facebook: Một phân

tích về sự tiến triển vốn xã hội, khảo sát tại Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn và Học viên Công nghệ Bưu chính Viễn thông.

8. Vương Hồng Hà, Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ ở Hà

Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

9. Cao Thị Bắc Hải (2016), Tính đối xứng và bất đối xứng của quan hệ giúp

đỡ trong vốn xã hội của người Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học

73

khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

10. Lê Ngọc Hùng (2003), Lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng lưới xã

hội: Trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên, Tạp chí Xã hội học,

2;67 – 75.

11. Phạm Thị Huyền (2016) Tạo dựng và phát triển vốn xã hội của nguồn lực

trẻ thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học khoa

học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Đinh Thị Thu Hường (2014), Vốn xã hội với sự phát triển nguồn nhân lực

trẻ thành phố Hà Nội (Nghiên cứu trường hợp Phường Đại Kim, Quận

Hoàng Mai, thành phố Hà Nội), Luận án tiến sĩ, Đại học Quốc Gia Hà

Nội.

13. Trương Thị Nga, Vốn xã hội qua sự cố kết cộng đồng ở ven đô Hà Nội,

nghiên cứu trường hợp xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, thành phố Hà

Nội, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

14. Trần Lê Hữu Nghĩa (2018), Đôi điều về lý thuyết vốn nhân lực trong mối

quan hệ với giáo dục và vốn xã hội , Bản tin số 213, Đại học Quốc gia Hà

Nội.

15. Dương Thị Ngọc Nhạc (2015) Vai trò tạo vốn xã hội của các diễn đàn

điện tử ở Việt Nam hiện nay Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học khoa học

Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

16. Hoàng Phê chủ biên (2016), Từ điển tiếng Việt, NXB Hồng Đức.

17. Trần Hữu Quang (2016), Từ lòng tin trong xã hội tới xã hội dân sự , Thời

báo Kinh tế Sài Gòn.

18. Nguyễn Quý Thanh chủ biên (2016), Phép đạc tam giác về vốn xã hội của

người Việt Nam: Mạng lưới quan hệ - Lòng tin – Sự tham gia, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội.

19. Nguyễn Quý Thanh và Appold Stephen (2003), The Prevalence of Social

74

Capital Among Small Busnesses in Viet Nam, Working Paper.

20. Lý Viết Trường (2019), Tương trợ cộng đồng trong nghi lễ vòng đời của

người Nùng Phàn Slình: Nghiên cứu ở xã Thạch Đạn, huyện Cao Lộc,

tỉnh Lạng Sơn, Luận văn Thạc sĩ chuyện ngành Lịch sử văn hoá Việt

Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia

Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Bích Thủy (2015), “Sinh kế của người nhập cư dưới góc nhìn

của lý thuyết vốn xã hội”, Luận án tiến sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội.

22. Lương Thị Xuân (2020), Vốn xã hội trong lựa chọn nghề của thanh niên:

nghiên cứu trường hợp tại địa bàn phường Bắc Sơn và xã Quang Sơn, thị

xã Tam Điệp, Tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

23. Công ước số 189, Hội nghị quốc tế về việc làm.

24. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nan, Điều 179 Bộ luật

Lao động năm 2012.

25. Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Khoản 1 và

Khoản 2, Điều 3 Nghị định số 27/2014/NĐ-CP ngày 07 tháng 4 năm

2014.

26. Nghị định số 27/2014/NĐ-CP ngày 07 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ.

27. OECD (2001), “Sự sung túc của các quốc gia - vai trò của vốn con

người và vốn xã hội”, Báo cáo thường niên.

28. Thủ tướng chính phủ (2014), Nghị định số 27/2014/NĐ-CP quy định chi

tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động

29. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (2011), Việc làm bền vững đối với

LĐGVGĐ ở Việt Nam.

30. Bộ Xây Dựng, Quyết định số 74/QĐ-BXD, về việc “Công nhận Khu đô

75

thị mới Linh Đàm, Quận Hoàng Mai”

Tài liệu tiếng nƣớc ngoài

31. A. Ports (1994) , “Social capital: its origins and applications in modern

sociology”, Annual Review of Sociology, vol 24, p 1 – 24.

32. Pirre Bourdieu, Le sens pratiquie (1980), Paris, Ed. Minuit.

33. Wool Cock, M., (1998), Social Capital and Economic Development:

Towards a Theoretical Synthesis and Policy Framework, Theory an

Society, 27: 151-208, p.192

34. Wool Cock, M. and D. Narayan (2000), Social Capital: Implication for

Development Theory, Reasearch and Policy, in World Bank Research

Observer, Vol 15, n.2 August.

35. James Coleman (1990), Fuoundations of Social Theory, Cambridge

(Massachusetts), Harvard University Press.

36. Coleman, J (1998), Social Capital in the Creatioan of Human Capital,

American Journal of Sociology, 94: S95 –S120

37. Feldman, Tine Rossing and Assaf, Sussan (1999) Social Capital

Conceptual Framework and Empirical Evidence. Social Capital Initiative

Working Paper No.5

38. Paul Frijters, Dirk J. Bezemer, and Uwe Dulleck, (2003,) Contact, Social

Capital and Market Institutions – A Theory of Development, Working

Paper

39. Francis Fukuyama, Social Capital and civil socity, IMF Working paper

WP/2000/74

40. Francis Fukuyama, Social capital and civil society , IMF Working Paper

WP/2000/74

41. Fulo, Liz and Richards D (2002), Connection, Culture and Contect:

Business Relationship and Networks in the Asia-Pacific Region, in Harvie,

Charles and Lee, Boo Chye (eds) 2002a. Globalization and SMEs in East

76

Asia. Edward Elgar Publishing Ins; Volume I pp 274 – 297

42. Jonathan Isham (2002), Social capital and economic development: Well –

being in developing contries, Edward Elgar, USA

43. Putnam, R. D. (1993), The Properous Community. Social Capital and

Public Life, in Americam Propect, vol.13, pp 35 – 42

44. Robert Putnam (1995), Bowling alone: American‟s declining social

capital, Journal of Democracy, (01/1995),

45. Nan Lin (2001), Social capital: A Theory of social structure and action,

Cambrige University Express.

46. Scott, J (1991), Social network analysis: a handbook, London: SAGE

publications

47. Martti Siisiainen (2000), Two Concepts of Social Capital: Bourdieu vs.

Putnam”, ISTR Fourth International Conference “The third sector: for

what and for whom? Trinity College, Dublin, Ireland, July 5 – 8,2000

48. V. Vella, D. Narajan ( 2006), Building indices of social capital, Journal of

Sociology, vo 1, p 1 – 23

49. Lemieux, V ( 2001), “Le capital social dans les situations de cooperation

et de conflit”, http://www. Isumua.net/v02n01/Lemieux/Lemieux.pdf

Tài liệu từ internet

50. https://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/social-

capital

77

51. http://web.worldbank.org