BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
TRẦN THỊ HỒNG YẾN
XÂY DỰNG QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC TẬP LÂM SÀNG CỦA HỌC VIÊN ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HÀ NỘI – 2013
BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
TRẦN THỊ HỒNG YẾN
XÂY DỰNG QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC TẬP LÂM SÀNG CỦA HỌC VIÊN ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 01 14
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.,TS. NGUYỄN BÁ DƯƠNG
HÀ NỘI – 2013
MỤC LỤC
3
MỞ ĐẦU Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ THỰC TẬP LÂM SÀNG CỦA HỌC
VIÊN ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN
GIA ĐỊNH
15 15
1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.2. Quy trình đánh giá thực tập lâm sàng của học viên điều
dưỡng 19
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ VIỆC XÂY
DỰNG QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC
TẬP LÂM SÀNG CỦA HỌC VIÊN ĐIỀU DƯỠNG
29
TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH Thực trạng về việc đánh giá kết quả thực tập lâm sàng 2.1.
của học viên điều dưỡng hiện nay 29
2.2. Các giải pháp tổ chức xây dựng quy trình đánh giá kết
quả thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng 38
2.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của giải pháp
được đề xuất 56
2.4. Nhận xét đối với học viên, điều dưỡng trưởng khoa và
giáo viên
60 68 73 76
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Hiện nay quy mô dân số của Việt Nam gia tăng hằng năm và sự gia
tăng dân số và già hoá dân số làm tăng nhanh nhu cầu chăm sóc điều dưỡng
và khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu về chăm sóc sức khỏe của người dân
ngày càng cao.Những yếu tố trên đòi hỏi phải có đủ lực lượng điều dưỡng để
thực hiện.
Nhưng hiện nay, tình trạng khủng hoảng nhân lực điều dưỡng đang có
quy mô toàn cầu, đặc biệt ở các nước phát triển và tại Việt Nam còn thiếu rất
nhiều điều dưỡng viên nếu so sánh với các chỉ tiêu đã đề ra trong Quy hoạch
tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, hàng năm số điều dưỡng tốt nghiệp từ 02
trường đào tạo điều dưỡng là Đại học Y dược và Đại học Y Phạm Ngọc
Thạch không đáp ứng đủ nhu cầu về điều dưỡng cho các bệnh viện thành phố.
Chính vì lý do đó, các trường đào tạo nghề ngoài công lập đã được mở và đào
tạo ngành điều dưỡng theo nhu cầu phát triển của các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe của nhân dân, của thị trường xuất khẩu lao động. Theo báo cáo của Sở
Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007, thành phố chỉ có ba
cơ sở đào tạo trung cấp chuyên nghiệp khối ngành y dược với quy mô hạn hẹp
trực thuộc các trường đại học ngành y dược. Đến nay, Thành phố Hồ Chí
Minh có tới 27 cơ sở đào tạo (22 trường ngoài công lập) với quy mô đào tạo
lên đến hơn gần 14.000 học viên. Đáng chú ý là ngành điều dưỡng đa khoa có
đến 3.527 học viên.
Chính việc đào tạo ồ ạt này đã dẫn đến một hệ quả tất yếu đã được
kiểm chứng qua thực tế tuyển dụng điều dưỡng hàng năm của các bệnh viện
Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, hầu hết các thành viên Hội đồng tuyển
4
dụng của Bệnh viện đều cho rằng, đa số các học viên điều dưỡng chưa đạt yêu
cầu về kiến thức chuyên ngành, còn nhiều lúng túng trong thao tác tay nghề
mặc dù các em vừa mới tốt nghiệp cho nên bệnh viện phải tiến hành đào tạo
lại sau tuyển dụng vì đối tượng phục vụ của ngành y, của các bệnh viện, cơ sở
y tế là con người nên dù khó khăn đến mấy cũng cần phải hạn chế tối đa các
sai sót, không để nó xảy ra.
Đối với đào tạo trung cấp nghề thì vấn đề quan trọng nhất là rèn luyện
kỹ năng thực hành cơ bản cho người học. Vì vậy, chúng ta cần phải nhìn lại
quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của các học viên xem hiện trạng
của nó như thế nào ? Có chính xác không ? Có phản ánh đúng kỹ năng thực
hành và kết quả cần đạt đến hay không?
Thực tế thực tập lâm sàng của học viên ở các bệnh viện Thành phố giúp
chúng ta nhìn nhận lại hai vấn đề: thứ nhất, đánh giá đúng chất lượng giảng
dạy của giảng viên và công tác quản lý của Nhà trường; thứ hai, công tác tổ
chức cho học viên thực tập lâm sàng tại bệnh viện và thái độ của người thực
tập. Trong hai vấn đề nêu trên, việc thực hành tại bệnh viện có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc nâng cao tay nghề cho học viên. Ở đây, khâu then
chốt trong quá trình thực hành đối với người hướng dẫn thực tập là “thực
hành mẫu”, hướng dẫn và giám sát giúp học viên làm được việc. Trên cơ sở
đó, đánh giá đúng kết quả thực tập của học viên. Qua đó góp phần tham mưu,
đề xuất, góp ý để bổ sung, hoàn thiện quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm
sàng của học viên hiện nay sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Hơn thế
nữa, cần quan tâm đúng mức việc xây dựng quy trình đánh giá cụ thể đối với
học viên thực tập lâm sàng tại bệnh viện; không nên phụ thuộc hoàn toàn vào
quy trình đánh giá và các tiêu chí của nhà trường đã xác định sẵn một cách
thụ động, không sát với thực tế đã có nhiều thay đổi. Vấn đề xây dựng quy
trình đánh giá kết quả thực tập lâm sàng cần phải đặt ra trong giai đoạn hiện
5
nay khi mà nước ta chưa có một chuẩn đầu ra chung cho các trường đào tạo
điều dưỡng; nhất là khi các trường trung cấp nghề ngoài công lập đang phát
triển ồ ạt, chất lượng đào tạo và quyết định công nhận tốt nghiệp do các
trường tự đánh giá và quyết định chưa đạt chuẩn quốc gia.
Xuất phát từ các lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Xây dựng quy trình
đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng tại Bệnh viện
Nhân dân Gia định” làm đề tài luận văn của mình; qua đó, góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo tay nghề cho học viên điều dưỡng, giúp họ có thêm điều
kiện để hành nghề chăm sóc sức khỏe bệnh nhân ngay sau khi vừa tốt nghiệp,
vào nghề. Đồng thời, nâng cao nhận thức của đội ngũ giáo viên, điều dưỡng
trưởng khoa về vai trò, trách nhiệm của họ trong công tác quản lý, hướng dẫn,
giám sát và đánh giá kết quả học viên thực tập lâm sàng một cách khách quan,
công tâm, trung thực.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn
* Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, việc xây dựng quy trình
đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên không phải là vấn đề quan
trọng cần đặt lên hàng đầu trong quá trình đào tạo vì họ xem bệnh viện là nơi
các học viên thực hiện và rèn luyện các kỹ năng chăm sóc đã được huấn luyện
rất kỹ tại phòng thực hành của nhà trường và việc sau này, các điều dưỡng có
được tuyển dụng vào các bệnh viện hay không chính là do sự nổ lực của các
học viên qua kỳ thi cấp quốc gia cho nên hầu như không có một nghiên cứu
nào về vấn đề này.
Tuy nhiên, các nước có cùng một quan điểm chung, thống nhất về vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng của người điều dưỡng trong hệ thống chăm sóc
sức khỏe và chất lượng thực hành tại bệnh viện.
6
Chăm sóc sức khoẻ toàn diện hiện nay là một vấn đề lớn không những
tại các nước Đông Nam Á mà cả trên thế giới. Hệ thống chăm sóc y tế hoàn
chỉnh phải đạt được cả về chất lượng và số lượng.
Trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu, lực lượng điều dưỡng viên
giữ vai trò nòng cốt với mục tiêu chẩn đoán, điều trị, chăm sóc các nhu cầu thiết
yếu của nhân dân nhằm nâng cao sức khỏe, duy trì, phục hồi và dự phòng bệnh
tật. Muốn vậy, cần nâng cao chất lượng phục vụ bệnh nhân, hệ thống hoá các
chuẩn mực kỹ thuật chăm sóc theo các qui định của quốc gia và quốc tế.
Một trong những chuẩn mực là trình độ chuyên môn của điều dưỡng
viên trong hệ thống y tế quốc dân - một lực lượng không thể thiếu trong chăm
sóc sức khỏe toàn diện (WHO).
Tại châu Á, hệ thống giáo dục điều dưỡng đang có những bước tiến
mạnh mẽ để bắt kịp sự thay đổi về kinh tế - xã hội trong khu vực và trên thế
giới như :
- Để tăng cường chất lượng thực hành điều dưỡng, luật hành nghề của
Thái Lan được ban hành vào năm 1997 với mục đích đảm bảo chất lượng giáo
dục trong lĩnh vực điều dưỡng, các trường đào tạo đều phải đăng ký với Hội
đồng Điều dưỡng Thái Lan và công tác thanh tra, kiểm tra sẽ tiến hành trong
vòng 1-5 năm một lần. Hội đồng này sẽ chịu trách nhiệm kiểm tra về chương
trình đào tạo, chất lượng đào tạo của các khoa, phương pháp dạy và học,
những nghiên cứu và ấn bản đã phát hành, các dịch vụ cộng đồng của nhà
trường, cơ sở hạ tầng, nguồn lực tài chính, hồ sơ tốt nghiệp, cũng như những
hệ thống đảm bảo chất lượng đào tạo.
Thêm vào đó, Thái Lan đang trong tiến trình tái cơ cấu lại hệ thống y
tế, tập trung vào sự công bằng, chất lượng, hiệu quả; đặc biệt tập trung vào
khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế và chất lượng y tế. Điều này đòi hỏi các
nhà giáo dục điều dưỡng phải có trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng sự thay đổi đang diễn ra nhanh chóng.
7
Việc tiếp tục học tập, nâng cao trình độ cho người điều dưỡng cả thực
hành lâm sàng lẫn phục vụ cộng đồng là điều rất quan trọng. Bởi lẽ, những
thay đổi có tính toàn cầu, những tiến bộ về khoa học và công nghệ, mô hình
- Chính phủ Hoa Kỳ quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ về nghề điều
bệnh tật mới liên tục xuất hiện với những diễn biến khó lường.
dưỡng để bảo vệ công chúng. Cá nhân tiểu bang có thẩm quyền đối với thực
hành điều dưỡng. Phạm vi thực hành được xác định bởi pháp luật nhà nước và
các quy định quản lý của hội đồng điều dưỡng quốc gia. Nhiều tiểu bang đã
thông qua đạo luật mô hình thực hành điều dưỡng được xây dựng và quản lý
bởi Hội đồng Điều dưỡng quốc gia Hoa Kỳ.
-Tại Australia: Nghiên cứu của nhiều nhà khoa học cho thấy, lợi ích
của hướng dẫn thực hành lâm sàng đã giúp cho học viên nâng cao trình độ,
kinh nghiệm chăm sóc sức khỏe người bệnh, tự tin trong công tác và tăng sự
hài lòng và tinh thần làm việc của nhân viên.
Tại các nước Đông Nam Á và một số các nước khác, hệ thống quản lý
và đào tạo điều dưỡng của họ khác với nước ta hiện nay, cụ thể là:
- Thời gian đào tạo chuyên ngành dài (3 năm); do đó, họ dành một
khoảng thời gian tương xứng để học viên thực tập tại các bệnh viện.
- Hướng dẫn và đánh giá học viên đều do giáo viên của trường thực
hiện và thường là giáo viên này gắn kết chặt chẽ với bệnh viện và toàn bộ kế
hoạch thực tập đều thông qua một phó giám đốc điều dưỡng phụ trách công
tác đào tạo.
- Ngay tại các bệnh viện của họ đều có phòng thực hành để huấn luyện
nhân viên và ngay cả cho học viên nếu giáo viên thấy cần thiết.
- Điều quan trọng hơn cả là tất cả các học viên điều dưỡng sau khi tốt
nghiệp (trường công lập hay ngoài công lập) đều có một chuẩn đầu ra duy
nhất được thực hiện qua cuộc thi cấp quốc gia để cấp chứng chỉ hành nghề do
8
hội đồng điều dưỡng quốc gia tổ chức. Nếu không đạt thì các điều dưỡng đã
tốt nghiệp vẫn không được tuyển dụng vào làm việc tại các bệnh viện.
Tóm lại, vì các lý do đã nêu trên nên các nước không đặt vấn đề nghiên
cứu việc xây dựng quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên
điều dưỡng.
* Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
về việc xây dựng một quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm sàng, đa số là
các đề tài nghiên cứu về nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao hiệu quả quản
lý công tác thực hành… như các đề tài :
- “Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Cao
đẳng Cộng đồng Hà Nội” của tác giả Nguyễn Khắc Tuệ, Hà Nội 2010.
- “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác thực hành, thực
tập tốt nghiệp của học sinh Điều dưỡng trường Trung cấp kỹ thuật nghiệp vụ
Nam Sài Gòn” của tác giả Phan Kế Thuận, Hà Nội 2012.
Ngày nay, chiến lược quốc gia về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân
cũng được coi là một bộ phận không thể tách rời của Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta. Trên cơ sở kết quả thực hiện Chiến lược chăm
sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001 - 2010 và những vấn đề mới
nảy sinh về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, năm 2011, Bộ Y tế đã trình
Chính phủ dự thảo ‘’Chiến lược quốc gia chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức
khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020 - Tầm nhìn đến năm 2030’’. Trong
chiến lược này, Bộ Y tế đã định hướng rõ sự cần thiết phải can thiệp y tế
nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao tầm vóc, thể lực và trí tuệ của
người Việt Nam, góp phần đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020.
9
Để thực hiện được ’Chiến lược quốc gia chăm sóc, bảo vệ và nâng cao
sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030’’ cần
phải có đầy đủ nguồn nhân lực và điều dưỡng là một trong các trụ cột của hệ
thống dịch vụ y tế, vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính thiết yếu, khách
quan. Điều dưỡng tốt là tiền đề vững chắc cho việc can thiệp kịp thời, điều trị
được an toàn. Các dịch vụ chăm sóc, điều dưỡng có phạm vi rộng lớn từ việc
hỗ trợ chẩn đoán, điều trị, thực hiện các kỹ thuật chuyên môn phức tạp, đến
việc chăm sóc, vệ sinh cơ bản. Trong hoạt động chuyên môn, công tác điều
dưỡng không chỉ diễn ra trước để chuẩn bị cho công tác điều trị, mà còn được
duy trì trong và sau quá trình điều trị, tạo sự an toàn cho hoạt động điều trị
của bác sĩ. Vì vậy, quá trình phát triển của điều dưỡng cần theo kịp sự phát
triển của y học hiện đại.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, hệ thống đào tạo nhân lực điều
dưỡng ngày càng được củng cố và mở rộng
Hệ thống các trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề gồm 67
trường trực thuộc các tỉnh, thành phố, trung ương và Bộ Y tế quản lý ngày
càng hoạt động hiệu quả. Hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước đều đã có cơ
sở đào tạo nhân lực y tế bậc trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
Tuy nhiên, tỷ lệ điều dưỡng, hộ sinh/bác sĩ ở các cơ sở khám, chữa bệnh
còn rất thấp, ước tính hiện nay cả nước còn thiếu khoảng 100.000 điều dưỡng,
hộ sinh làm việc tại các bệnh viện, cơ sở y tế và tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ ở nước
ta mới chỉ đạt 1/1.8 so với khuyến cáo của WHO là 1/4
Do nhu cầu về điều dưỡng tăng nhanh và để đáp ứng các yêu cầu về
chăm sóc sức khỏe trong các cơ sở y tế cũng như cộng đồng theo các chủ
trương, chính sách của ngành y tế hiện nay; song trên thực tế, số lượng điều
dưỡng tốt nghiệp hàng năm của các trường công lập không đáp ứng đủ nhu
cầu của các bệnh viện. Vì vậy, việc các trường trung cấp nghề ngoài công lập
10
tham gia đào tạo điều dưỡng là điều tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế.
Những năm gần đây, số lượng đào tạo của các trường này tăng nhanh đáng
kể. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh có tới 27 cơ sở đào tạo, trong đó có 22
trường ngoài công lập với quy mô đào tạo lên đến hơn gần 14.000 học viên.
Đáng chú ý là ngành điều dưỡng đa khoa có đến 3.527 học viên.
Chính vì sự gia tăng đáng kể số lượng học viên điều dưỡng, nhất là các
trường điều dưỡng ngoài công lập trong khi số lượng giáo viên điều dưỡng
(giáo viên hướng dẫn lâm sàng) lại không đủ nên việc giảng dạy tại trường
cũng như việc hướng dẫn thực tập tại bệnh viện còn nhiều vấn đề phải xem
xét lại một cách nghiêm túc hơn.
Do việc chuẩn bị đội ngũ giáo viên, giảng viên chưa chu đáo (số lượng
và chất lượng ) nên khi gửi học viên điều dưỡng đến các bệnh viện thực tập
thì gần như việc quản lý, hướng dẫn lâm sàng cho học viên điều dưỡng đều
giao khoán cho điều dưỡng trưởng khoa. Mặc dù nhiệm vụ đào tạo, hướng
dẫn học viên là một trong các nhiệm vụ của điều dưỡng trưởng khoa trong
quy chế bệnh viện nhưng do công tác quản lý rất phức tạp nên không thể
giành nhiều thời gian cho học viên. Giáo viên của trường không có hoặc
không đủ sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thực tập lâm sàng của học viên.
Mỗi cuối đợt thực tập điều dưỡng trưởng khoa đánh giá kết quả thực
tập lâm sàng theo các biểu điểm của trường và với cách cho điểm như hiện
nay thì gần như tất cả các học viên đều đạt.
Nếu so sánh một khâu trong việc đào tạo điều dưỡng giữa Việt Nam và
một số nước trong khu vực thì có thể thấy một số điểm giống và khác nhau
sau đây:
- Xét về mặt quan điểm đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học
viên điều dưỡng giữa nước ta và một số nước trong khu vực thì có điểm giống
nhau là không đặt vấn đề nghiên cứu việc xây dựng quy trình đánh giá kết
11
quả thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng, chỉ xem bệnh viện là nơi các
học viên thực hiện và rèn luyện các kỹ năng chăm sóc đã được huấn luyện tại
phòng thực hành của nhà trường.
- Điểm khác nhau cơ bản giữa nước ta so với các nước trong khu vực
thể hiện khá rõ ở chuẩn đầu ra của học viên điều dưỡng. Đây là một điểm
khác nhau rất cơ bản, nó quyết định chất lượng hành nghề của điều dưỡng.
Tại Việt Nam, sau khi đạt kỳ thi tốt nghiệp do trường đào tạo tổ chức,
các điều dưỡng được nhận bằng tốt nghiệp và dùng bằng cấp này xin việc tại
các bệnh viện, cơ sở y tế khác.
Các nước trong khu vực, sau khi đạt kỳ thi tốt nghiệp do trường đào tạo
tổ chức, các điều dưỡng còn phải qua một kỳ thi cấp quốc gia do hội đồng
điều dưỡng quốc gia tổ chức và các điều dưỡng phải qua được kỳ thi này mới
được cấp chứng chỉ hành nghề, khi đó thì người tốt nghiệp mới xin được việc
tại các bệnh viện, cơ sở y tế.
Sự khác biệt này vô cùng quan trọng vì các điều dưỡng được đánh giá
theo một chuẩn thống nhất nên khi được tuyển dụng vào bệnh viện thì trình
độ tương đối đồng bộ, người được tuyển dụng có thể hành nghề được ngay
mà không cần đào tạo lại.
Qua các vấn đề đã nêu trên, chúng ta nhìn lại việc xây dựng quy trình
đánh giá kết quả thực tập lâm sang đang tổ chức thực hiện:
- Do các nước trong khu vực đều xây dựng một chuẩn đầu ra chung của
quốc gia nên việc đánh giá kết quả thực tập lâm sàng họ không đặt ra như một
nội dung đào tạo là có cơ sở khoa học, phù hợp với thực tế.
- Ở Việt Nam, do chưa có chuẩn đầu ra thống nhất nên học viên điều
dưỡng tốt nghiệp từ các trường đào tạo khác nhau nên có chất lượng khác
nhau .Do đó, chúng ta cần phải nhìn lại phương thức đánh giá kết quả thực tập
lâm sàng của học viên điều dưỡng sao cho chính xác hơn vì xét cho cùng,
12
giáo dục chuyên nghiệp là lĩnh vực trang bị kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và
hình thành nghề nghiệp chuyên môn cho người lao động. Học sinh, sinh viên
sau khi tốt nghiệp đào tạo nghề (theo trình độ, bậc đào tạo) yêu cầu phải có
năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề
nghiệp và tự lập nghiệp, có ý thức kỷ luật, tác phong lao động chuyên nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu xây dựng quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của
học viên điều dưỡng tại Bệnh viện Nhân dân Gia định
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng quy trình
đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
trong quản lý và đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng.
- Đề xuất quy trình chuẩn đánh giá kết quả thực tập lâm sàng để việc
đánh giá này được chính xác, khách quan và trung thực hơn, góp phần thúc
đẩy, nâng cao chất lượng đào tạo điều dưỡng, có y đức, có kiến thức vững
vàng và tay nghề cao, phục vụ tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân và
xã hội.
4. Khách thể ,đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý, đánh giá chất lượng thực tập
lâm sàng của học viên điều dưỡng.
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xây dựng quy trình đánh giá kết quả
thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng tại Bệnh viện Nhân dân Gia định.
Phạm vi nghiên cứu :Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý
và quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm sàng cho học viên điều dưỡng năm
thứ nhất tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định.
13
Tài liệu, số liệu sử dụng phục vụ công tác nghiên cứu luận văn các năm
gần đây, chủ yếu là năm 2012 - 2013.
5. Giả thuyết khoa học của luận văn
Thực tập lâm sàng của học viên là quá trình vận dụng những kiến thức,
kỹ năng đã lĩnh hội trong nhà trường vào giải quyết các nhiệm vụ khám, điều
trị, chăm sóc sức khỏe bệnh nhân. Nếu theo dõi, giám sát, quản lý tốt hoạt
động thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng bằng các công cụ quản lý
như nhật ký thực tập, bảng kiểm tra thực hành, thống nhất được quy trình và
tiêu chí đánh giá kết quả hướng dẫn thực tập của điều dưỡng trưởng khoa thì
sẽ quản lý chặt chẽ và đánh giá chính xác hơn quá trình thực tập của học viên
nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là rèn luyện, nâng cao tay
nghề cho học viên.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về giáo dục - đào tạo và quản lý giáo dục - đào tạo. Đồng thời, đề tài dựa
trên các đường lối, chiến lược phát triển về đào tạo của ngành y tế Việt Nam
và xuất phát từ thực tiễn công tác quản lý học viên thực tập lâm sàng tại Bệnh
viện để phân tích những vấn đề liên quan.
*Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài. Trong nhóm này có các phương pháp cụ thể sau:
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liê ̣u;
+ Phương pháp khái quát hoá các nhận định.
Thực hiện phương pháp này, tác giả luận văn đã bám sát và dựa chắc
vào các văn kiện, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và
14
Chiến lược phát triển của ngành y tế; các tài liệu liên quan về quản lý và quản
lý thực hành.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Dựa vào nhóm phương pháp này, tác giả luận văn đã thu thập các thông
tin thực tiễn, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm (ưu - khuyết điểm); đề
xuất giải pháp thích hợp, khả thi nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, đánh giá
kết quả thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng. Nhóm này có các phương
pháp cụ thể sau đây:
+ Phương pháp quan sát;
+ Phương pháp điều tra;
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiê ̣m giáo dục;
+ Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
+ Phương pháp khảo nghiệm.
- Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng phần mềm để xử lý số liệu, thông tin thu được.
7. Ý nghĩa của luận văn
Xây dựng các khái niệm công cụ và khái niệm trung tâm của luận văn.
Đánh giá thực trạng và định hướng cho giáo viên, giảng viên, điều
dưỡng trưởng khoa lên kế hoạch hướng dẫn học viên phù hợp đối với từng
đối tượng cụ thể.
Xây dựng quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên
điều dưỡng tại Bệnh viện Nhân dân Gia định.
8. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của đề tài luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (06 tiết), kết luận
và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
15
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC TẬP LÂM SÀNG CỦA HỌC VIÊN ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
1. 1. Các khái niệm cơ bản
Khái niệm lâm sàng: Lâm sàng (clinique) là thuật ngữ y học dùng để chỉ
hành động thăm, khám, điều trị cho bệnh nhân trực tiếp tại giường bệnh qua đó
xác định phác đồ chăm sóc và chữa trị cho bệnh nhân. Nói cách khác, lâm sàng
là nơi thực hành y khoa và là nơi để quan sát và điều trị người bệnh. Vì vậy, nó
có nhiều điểm khác so với hoạt động của các ngành khoa học, nhất là khoa học
lý thuyết. “Clinical (or bedside) medical practice, based on observation and
treatment of patients as opposed to theory or basic science” (wiki).
Lâm sàng là một mắt khâu quan trọng trong quá trình khám, chữa bệnh,
chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân. Vì vậy, nó là khâu vừa dễ vừa khó. Dễ là
vì nó không đòi hỏi máy móc, thiết bị cồng kềnh và ai cũng có thể dựa vào
các lý thuyết đã học, kinh nghiệm bản thân đã tích lũy để thực hiện lâm sàng.
Khó là vì trên thực tế, mỗi bệnh nhân là một cá thể riêng biệt, có cuộc sống,
tính cách, bệnh tình khác nhau; do đó, điều dưỡng cần tiến hành lâm sàng
theo phương cách khác nhau.
Thực tập lâm sàng là quá trình vận dụng kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng
trong việc thực hiện kỹ thuật chuyên ngành, điều trị, chăm sóc sức khỏe cho
bệnh nhân.
Thực hành là khái niệm rèn luyện, củng cố tay nghề của người học trong
quá trình đào tạo, thành thục hành nghề nhằm giúp học viên có những kỹ năng
cơ bản, cần thiết của nghề được đào tạo; đồng thời là quá trình người học đem
áp dụng kiến thức đã học vào thực tế khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe
bệnh nhân. Thực hành có thể tiến hành ngay sau bài học lý thuyết hoặc có thể
tách ra thành một môn học riêng, tiến hành vào một thời gian nhất định. Vì
16
vậy, trong giáo trình đào tạo, các nhà biên soạn thường tách nội dung giáo trình
thành 2 phần: phần lý thuyết và phần thực hành. Học viên sau khi học xong
phần lý thuyết thì thực hành, vận dụng lý thuyết vào thực tế công việc. Vì vậy,
thực chất của thực hành là nhằm củng cố lý thuyết để sau này vận dụng tốt nhất
lý thuyết đó trong khám, chữa trị, chăm sóc sức khỏe bệnh nhân.
Thực hành diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình đào tạo.
Về mặt nội dung, thực hành là quá trình bắt buộc, chứa đựng trong nó hầu hết
các nội dung, từ kiến thức về đại cương đến các kiến thức về chuyên ngành,
về nghiệp vụ nghề. Điều này có điểm giống và khác với thực tập. Bởi lẽ, thực
tập cũng hàm chứa nội dung thực hành, nhưng chưa thật rõ khuynh hướng
nghề nghiệp mà chủ yếu nhằm tăng cường kỹ năng của chuyên ngành được
đào tạo, vận dụng các kiến thức lý thuyết để giải quyết vấn đề cụ thể mà môn
học đặt ra. Về mặt nội dung, thực tập không gắn với các kiến thức về đại
cương mà gắn liền với các phần kiến thức thuộc chuyên ngành, chuyên môn
được đào tạo. Trong quá trình thực tập, kỹ năng trở nên thuần thục, dần dần
trở thành kỹ xảo. Thông thường, thực hành hướng đến rèn dũa tay nghề tại
các phòng thực hành của Nhà trường trên mô hình “người” nhất định, còn
thực tập là rèn luyện tay nghề trên thực tế tại các cơ sở hoạt động chuyên
ngành (bệnh viện, cơ sở y tế), tiến hành thao tác trên người bệnh. Vì vậy, thực
tập lâm sàng được định nghĩa là một mô hình thực tập có liên quan đến các
hoạt động đã hoàn thành trong sự hiện diện của bệnh nhân và với sự hợp tác
chặt chẽ giữa bệnh nhân và điều dưỡng.
Công tác thực hành là việc tổ chức triển khai nội dung học tập sau khi
đã hoàn thành phần lý thuyết. Còn công tác thực tập là tổ chức thực hiện tất
cả nội dung lý thuyết liên quan, kế hoạch thực tập (chỉ tiêu thực tập, số lượng
học viên, giáo viên, giảng viên hướng dẫn trong thời gian và địa điểm nhất
định). Công tác thực hành là bước chuẩn bị cho việc thực tập ở bệnh viện
được thuận lợi và đạt hiệu quả.
17
Quy trình là những quy định, hướng dẫn chi tiết về một công việc nào
đó có hệ thống, giúp tổ chức và mỗi người thực hiện công việc theo một trình
tự thống nhất, chặt chẽ. Nói cách khác, quy trình là một trình tự có tổ chức
các hoạt động để hoàn thành công việc nào đó và nó được xác định là một bản
lộ trình, yêu cầu các thành viên tham gia phải tuân theo từng bước một, rất
nghiêm ngặt với vai trò và trách nhiệm cao, được xác định rõ ràng cho tổ
chức và từng thành viên.
Muốn quản lý, thực hiện tốt công việc thì nhất thiết khi xây dựng quy
trình, mọi người cần tuân tuân thủ các bước sau:
- Hình dung và liệt kê đầy đủ các bước thực hiện tuần tự công việc đó.
- Đánh số thứ tự công việc ưu tiên tùy theo tầm quan trọng.
- Tham chiếu với mỗi công việc để chỉ rõ người phối hợp và những tài
liệu cần thiết. Xác định rõ người chịu trách nhiệm chính và người chịu trách
nhiệm phụ, những người có liên quan cần phối hợp.
Đánh giá (evaluation) là đưa ra nhận định tổng quát về một vấn đề cụ
thể dựa trên các dữ kiện đo lường được qua các kỳ kiểm tra/lượng giá
(assessement) thông qua việc xem xét tính quá trình và kết thúc bằng cách đối
chiếu, so sánh kết quả thực hiện với những tiêu chuẩn đã được xác định trước
đó. Nói cách khác, đánh giá là một hoạt động nhằm nhận định, xác nhận giá trị
thực tế về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng, hiệu quả công việc; trình
độ, sự phát triển, những kinh nghiệm được hình thành ở thời điểm hiện tại đang
xem xét so với mục tiêu hay những chuẩn mực đã được xác lập trước đó.
Đánh giá đúng là việc đưa ra những kết luận, nhận định, phán xét chuẩn
xác về trình độ học viên thông qua kết quả họ thực hiện. Muốn đánh giá kết
quả thực tập lâm sàng của học viên một cách chính xác, khách quan, trung
thực, việc đầu tiên là phải kiểm tra, soát xét lại các kiến thức cơ bản của học
viên, sau đó tiến hành đo lường cẩn trọng, chi tiết để thu thập những thông tin
cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra quyết định phù hợp.
18
Do vậy, kiểm tra và đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên là
hai khâu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin để
đánh giá và đánh giá thông qua kết quả kiểm tra để phân loại, xếp đúng
người, đúng việc, phù hợp với sở trường, sở đoản mà họ vốn có, giúp công tác
khám, chăm sóc sức khỏe bệnh nhân tốt hơn. Vì vậy, trong đánh giá học viên
thực tập lâm sàng nên sử dụng nhiều phương pháp và hình thức khác nhau
nhằm tăng độ tin cậy và chính xác với từng căn bệnh của người bệnh.
Kiểm tra, đánh giá là một bộ phận hợp thành của quá trình giáo dục đào
tạo. Nó là khâu cuối cùng, đồng thời là khởi đầu cho một chu trình khép kín
tiếp theo với chất lượng cao hơn. Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình xác
định mức độ thực hiện được các mục tiêu trong chương trình giáo dục đào
tạo; trong đó có việc thực hành lâm sàng của học viên.
Kiểm tra, đánh giá có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao chất
lượng đào tạo nói chung, đào tạo tay nghề của điều dưỡng, hộ sinh nói riêng.
Kết quả của kiểm tra, đánh giá là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy - học và
quản lý giáo dục. Nếu kiểm tra, đánh giá sai, tất yếu sẽ dẫn đến nhận định sai
về chất lượng đào tạo, gây tác hại lớn đến việc sử dụng nguồn nhân lực. Kiểm
tra, đánh giá đúng, chính xác, khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say
làm việc, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập và hành nghề.
Hơn thế nữa, kiểm tra, đánh giá có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập
không ngừng phát triển. Qua kết quả kiểm tra, học viên tự đánh giá mức độ
đạt được của bản thân, để từ đó, có phương pháp điều chỉnh thái độ, hành vi
cho phù hợp; tự mình ôn tập, củng cố, bổ sung những kiến thức thiếu hụt
nhằm củng cố, phát triển, hoàn thiện học vấn bằng phương pháp tự học với
việc mài sắc tư duy, thu nạp, bổ sung lượng kiến thức cần có cho công việc
của mình.
19
Từ kết quả kiểm tra, đánh giá, mỗi giáo viên, giảng viên sẽ tự đánh giá
quá trình giảng dạy và nghiên cứu khoa học của mình. Trên cơ sở đó, không
ngừng nâng cao và hoàn thiện bản thân, nhất là quyết tâm nâng cao trình độ
học vấn, tay nghề, phương pháp giảng dạy; làm tấm gương để người học noi
theo, làm theo. Đó là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy - học cho phù hợp với
tình hình thực tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, uy tín nhà giáo.
Đối với các cấp quản lý, kiểm tra, đánh giá là biện pháp hữu hiệu để
đánh giá kết quả đào tạo cả về định lượng và định tính; đồng thời là cơ sở để
xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên; đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động dạy - học, v.v., bảo đảm thực
hiện tốt mô hình, mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục, đào tạo.
Trong thực hành lâm sàng, kiểm tra, đánh giá học viên thực tập, rất cần
sự cẩn thận, công phu, nghiêm túc của giáo viêng, giảng viên. Đó là cách tốt
nhất để giúp họ đạt được mục tiêu, chỉ tiêu, vững chắc tay nghề trong thực
hành khám, điều trị, chăm sóc sức khỏe bệnh nhân một cách an toàn, thiết
thực, hiệu quả.
1.2. Quy trình đánh giá thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng
1.2.1. Quy định chung
Hệ thống đào tạo điều dưỡng ở nước ta bao gồm các trường trung cấp,
cao đẳng và đại học, phân bố khá đều ở các tỉnh, thành trong cả nước và
Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ đổi mới, các trường trung cấp, cao
đẳng và đại học đều đào tạo điều dưỡng nên số lượng học viên tốt nghiệp, ra
trường, hành nghề điều dưỡng ngày càng đông. Những năm gần đây, các
trường đào tạo điều dưỡng ngoài công lập được Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và
Đào tạo cho phép thành lập, quy mô ngày càng mở rộng. Vì vậy, số lượng
cán bộ, điều dưỡng, hộ sinh cả nước cũng như ở Thành phố Hồ Chí Minh tăng
lên không ngừng; nhờ đó đã góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc, bảo
vệ sức khỏe của người dân.
20
Vào thời điểm hiện tại, Thành phố Hồ Chí Minh có 27 cơ sở đào tạo
điều dưỡng; trong đó có 22 cơ sở ngoài công lập. Tất cả các cơ sở đào tạo
điều dưỡng đều thực hiện theo các quy định của Nhà nước và của Thành phố.
Mục tiêu đào tạo điều dưỡng là đào tạo điều dưỡng đa khoa có kiến
thức, kỹ năng thực hành điều dưỡng từ trung cấp trở lên, có y đức, sức khỏe
tốt; có lương tâm nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần trách
nhiệm trước sức khoẻ và tính mạng người bệnh, không ngừng học tập để nâng
cao trình độ [Quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế số 24/2003/QĐ-BYT ngày 6
tháng 1 năm 2003].
Căn cứ chương trình khung và điều kiện, khả năng cho phép, một số
trường đã xây dựng đề án xin mở mã ngành và các hợp đồng liên kết đào tạo
với các bệnh viện, cơ sở y tế dựa trên các văn bản pháp quy, quy định tại thời
điểm thực hành (tại trường), thực tập nghề và thực tập tốt nghiệp (tại bệnh
viện và cơ sở y tế), chỉ tiêu thực hành các phương sách điều dưỡng, đối
tượng, số lượng học viên, giáo viên hướng dẫn thực hành lâm sàng.
Các bước thực hành, thực tập tại trường cũng như tại bệnh viện được
phân chia theo các tuần, tháng, học kỳ của năm học, được thể hiện rõ ràng
trong tiến độ của từng học kỳ và cả khóa học, theo quy trình liên kết, bổ sung
cho nhau. Vì vậy, việc tổ chức các lớp học, khóa học diễn ra đúng ý định;
đúng mục tiêu, nội dung chương trình, kế hoạch đã xác lập.
Trên cơ sở đó, các nhà trường đào tạo điều dưỡng đã bố trí đủ lực
lượng giáo viên hướng dẫn thực hành, thực tập tại bệnh viện, tổ chức quản lý
học viên thực tập và chấm điểm một cách nghiêm túc. Việc chấm điểm thực
hành do giáo viên bộ môn giảng dạy, hướng dẫn thực hiện, trực tiếp chấm
điểm. Các trường hợp thực tập tại bệnh viện thì giáo viên hướng dẫn kết hợp
với điều dưỡng trưởng khoa chấm điểm theo bảng chấm điểm đã chuẩn bị sẵn
theo quy định của từng trường.
21
1.2.1.1.Mục tiêu thực tập
Mục tiêu thực hành, thực tập tại bệnh viện của học viên là vận dụng lý
thuyết chuyên môn đã học vào thực tế, hình thành kỹ năng nghề nghiệp ở
trình độ trung cấp chuyên nghiệp, đồng thời rèn luyện y đức (đạo đức lương
tâm nghề y), ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công tác, khả năng giao tiếp
ứng xử, tính chuyên nghiệp cao trong thao tác tay nghề.
Thực tập lâm sàng là điều không thể thiếu đối với học viên, sinh viên
ngành y và phần thực tập lâm sàng tại các bệnh viện là một trong những phần
quan trọng nhất trong chương trình đào tạo điều dưỡng đa khoa, góp phần
hình thành kỹ năng thành thạo nghề nghiệp, nâng cao tay nghề cho điều
dưỡng viên.
Đây là phần “cứng”, có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình học tập
của học viên. Qua thực tập trên người bệnh, học viên có thể kiểm chứng
những điều mình đã được học, tay nghề thành thục hơn, đồng thời giúp các
học viên nắm vững kiến thức; xử lý các mâu thuẫn, tình huống phát sinh
nhanh nhạy, kịp thời hơn.
1.2.1.2. Nội dung thực tập
Nội dung thực tập lâm sàng bao gồm hệ thống những phương sách kỹ
thuật kèm theo cách thức thực hiện các chỉ tiêu thực hành tại bệnh viện, trong
từng học kỳ đến khi hoàn tất chương trình, chứa đựng đầy đủ khối lượng kiến
thức cơ bản, chuyên sâu, chuyên ngành và đa ngành, bao gồm các giá trị văn
hóa, tinh thần, đạo đức.
Trong nội dung quản lý thực hành, thực tập bệnh viện còn bao hàm cả
kế hoạch đào tạo, chương trình môn học, tài liệu giảng dạy, v.v..
1.2.1.3. Các bảng điểm thực tập lâm sàng
Đối với quá trình thực tập lâm sàng, từng trường có những bảng biểu
chấm điểm khác nhau với các tiêu chí khác nhau nhưng đều giống nhau một
điểm là tập trung vào chuyên môn, thể hiện qua các nội dung cụ thể.
22
Bảng theo dõi học tập của học viên thực tập:
- Chấp hành nội quy;
- Tinh thần học hỏi;
- Tay nghề;
- Kế hoạch chăm sóc;
- Kỹ năng giao tiếp;
- Thực hiện chỉ tiêu tay nghề;
- Y đức.
Bảng đánh giá dưới đây phản ánh rõ hơn quá trình thực tập.
Bảng 1.1. Đánh giá quá trình thực hành bệnh viện của Trường A
Ghi tổng Điểm tối Điểm điểm bằng TT Nội dung đánh giá đa đánh giá chữ
Chuyên cần Kỹ năng giao tiếp Y đức Thực hiện chỉ tiêu tay nghề Kỹ năng thực hành Kiến thức 1 1 1 3 2 2
1 2 3 4 5 6 Điểm môn học (tổng cộng 6 điểm 10 thành phần)
Nguồn: Bảng điểm thực hành của trường A, năm 2013
23
Bảng 1.2. Đánh giá quá trình thực hành bệnh viện của Trường B
Ghi tổng Điểm tối Điểm điểm bằng TT Nội dung đánh giá đa đánh giá chữ
1 2 3 4 5 6 Chuyên cần Kỹ năng giao tiếp Đạo đức nghề nghiệp Thực hiện chỉ tiêu tay nghề Kỹ năng thực hành Kiến thức 1 1 1 2 3 2
Điểm môn học (tổng cộng 6 điểm 10 thành phần)
Nguồn: Bảng điểm thực hành của trường B, năm 2013
* Bảng theo dõi chỉ tiêu thực hành tại bệnh viện đã liệt kê các kỹ thuật
cần thực hiện (tùy theo nội dung của đợt thực tập kèm theo chỉ tiêu phải thực
hiện để đánh giá kết quả chung).
* Các học viên phải có sổ tay thực hành lâm sàng với đầy đủ nội dung
theo dõi công việc đã làm.
1.2.1.4. Đánh giá kết quả cuối đợt thực tập lâm sàng
Kết quả cuối đợt thực tập lâm sàng được thể hiện bằng điểm số là tổng
các hạng mục điểm trong bảng theo dõi học viên thực tập (hoặc phiếu đánh
giá quá trình thực hành tại bệnh viện). Căn cứ vào quá trình học viên tham gia
thực tập và kết quả đạt được trên tổng điểm và từng điểm thành phần, giáo
viên, giảng viên và điều dưỡng trưởng khoa đưa ra nhận xét chung kết quả
thực tập lâm sàng của học viên.
1.2.2. Quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm sàng hiện nay tại
Bệnh viện Nhân dân Gia định
24
Bệnh viện Nhân dân Gia định là bệnh viện đa khoa loại 1, trực thuộc
Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh, nằm phía Đông Bắc thành phố với số giường
kế hoạch là 1.500 giường; nhiệm vụ chính của Bệnh viện là khám, chữa
bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân sinh sống trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh; trực tiếp là nhân dân sinh sống trên địa bàn các quận: Bình Thạnh,
Gò Vấp, Phú Nhuận, một phần Quận I và các quận ngoài tuyến: Thủ Đức,
Quận 2, 12, 9. Ngoài ra, Bệnh viện còn tiếp nhận, chữa trị bệnh nhân từ các
tỉnh, thành lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu và một số tỉnh
miền Trung. Bệnh viện có đủ các chuyên khoa, với nhiều phân khoa chuyên
sâu. Những năm gần đây, Bệnh viện được trang bị khá đầy đủ trang thiết bị y
tế hiện đại; nhờ đó đã góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị và
chăm sóc sức khỏe bệnh nhân, đáp ứng khá tốt nhu cầu khám, chữa bệnh,
chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân Thành phố và trong vùng.
Hiện tại, Bệnh viện có 26 khoa lâm sàng và 06 khoa cận lâm sàng với
số lượng bệnh nhân nội trú trung bình 1.600/ngày. Khoa Khám bệnh tiếp nhận
khoảng 3.000 lượt bệnh nhân đến khám/ngày. Khoa Cấp cứu tiếp nhận
khoảng 300 ca cấp cứu/ngày. Ngoài ra, Bệnh viện còn là nơi thực tập của
hàng trăm học viên ngành y dược (Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh,
Đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch và một số trường đào tạo điều dưỡng ngoài
công lập). Hàng năm, Bệnh viện nhận khoảng 1.600 học viên thực tập lâm
sàng điều dưỡng của các trường ngoài công lập với nhiều đối tượng: học viên
năm thứ nhất, thứ hai; học viên thực tế tốt nghiệp.
Trong quá trình thực tập, Bệnh viện thu nhận các phản hồi từ các điều
dưỡng trưởng khoa về tình hình thực tập của học viên điều dưỡng; trong đó,
nhận thấy vấn đề nổi cộm là những kiến thức cơ bản cũng như khả năng thực
hành các kỹ thuật cơ bản của học viên còn có nhiều hạn chế khi đến thực tập
tại Bệnh viện, mặc dù họ đã hoàn thành chương trình lý thuyết cũng như thực
25
hành tại trường; đã đi thực tập tại một số bệnh viện trong thành phố. Điều đó
đặt ra và buộc Bệnh viện phải suy nghĩ, tìm giải pháp khả thi để giúp các học
viên thực tập lâm sàng đạt kết quả tốt, đánh giá được khả năng thật sự và chất
lượng thực tập lâm sang của học viên.
Theo nhận xét của một số điều dưỡng trưởng khoa: học viên đến Bệnh
viện thực tập có nhiều trình độ khác nhau nên làm gì và làm như thế nào để
định hướng cho giáo viên cũng như điều dưỡng trưởng khoa trong quá trình
hướng dẫn thực tập lâm sàng để họ đạt chất lượng, hiệu quả tốt nhất và Bệnh
viện nhận xét, đánh giá kết quả thực tập lâm sàng chính xác hơn cho từng học
viên là một vấn đề cần được đặt ra nghiêm túc để tìm kiếm giải pháp thực
hiện đồng bộ, khả thi. Trên thực tế, thường cuối mỗi đợt thực tập lâm sàng,
đại đa số học viên đều đạt điểm từ khá trở lên, rất ít trường hợp học viên
không đạt vì yếu kém, trừ những trường hợp không đủ điều kiện đánh giá
do vắng mặt quá nhiều. Tuy nhiên, khi tốt nghiệp ra trường và được các
bệnh viện tuyển dụng thì hội đồng tuyển dụng cũng như ban lãnh đạo khoa
tại các bệnh viện lại có nhận xét, đánh giá khác, thậm chí trái ngược với kết
quả thực tập lâm sàng. Họ cho rằng, phần lớn học viên tốt nghiệp đến khoa
thử việc, song không đạt yêu cầu về kiến thức chung cũng như kỹ năng
thực hành, thao tác trên người bệnh.
Về chấm điểm thực tập lâm sàng, các điều dưỡng trưởng khoa sử
dụng mẫu của các trường đã xây dựng để cho điểm. Tuy mẫu chấm điểm
của các trường có các tiêu chí khác nhau, song đều xác định tổng số điểm
là 10; trong đó, tiêu chí về đánh giá kỷ năng thực hành chỉ từ 2 đến 3
điểm/10 điểm tùy theo mỗi trường. Vì vậy, mặc dù kỹ năng thực hành của
học viên có yếu kém, song do điểm của các tiêu chí khác choàng qua nên
tổng điểm môn học của học viên vẫn cao. Đây là điểm căn cốt nhất làm
cho học viên không thật sự chú ý đến việc thực hành lâm sàng; không
26
chấp hành nghiêm nền nếp thực tập mà Bệnh viện quy định về đảm bảo
ngày giờ tham gia thực tập lâm sàng; thậm chí không quan tâm đến việc
rèn luyện thao tác tay nghề sẽ làm trong tương lai trên cương vị điều
dưỡng. Vì lẽ đó, sau khóa thực hành, kỹ năng, tay nghề của học viên vẫn
không được nâng cao.
Để đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên được chính xác,
khách quan và công bằng, nhất thiết cần có thang điểm thống nhất giữa nhà
trường và bệnh viện; đồng thời, có tiêu chí đánh giá cụ thể cho từng nội
dung thực tập buộc học viên phải chấp hành nghiêm túc.
Qua điều tra, khảo sát thực tế học viên thực tập lâm sàng tại Bệnh
viện, chúng tôi thấy rằng, do đào tạo liên kết với các bệnh viện, đôi khi
không có sự hướng dẫn và đánh giá trực tiếp của giáo viên cơ hữu, hoặc có
nhưng giáo viên còn yếu tay nghề, chưa có trình độ sư phạm nên việc
hướng dẫn, đánh giá kết quả học viên thực tập thường giao cho điều dưỡng
trưởng khoa. Vì vậy, kết quả thực tập của học viên chưa được phản ánh
trung thực và thường là cao hơn khả năng thực tế vì các điều dưỡng trưởng
khoa hay “châm chước” học viên, do sợ ảnh hưởng đến kết quả chung của
học viên, của nhà trường và do không có nhiều thời gian dành cho công
việc này nên việc đánh giá cũng làm “cho xong việc” nên không được cụ
thể và “do nhiễm bệnh thành tích khá nặng”.
Xuất phát từ thực tiễn khảo sát , ghi nhận các thông tin về chất lượng
thực tập lâm sàng cũng như việc đánh giá kết quả thực tập lâm sàng thời
gian qua tại bệnh viện và mong muốn nâng cao chất lượng đào tạo, đem lại
giá trị đích thực; đặc biệt là nâng cao chất lượng thực tập lâm sàng , đánh
giá đúng năng lực của học viên các trường y dược trong tình hình hiện nay,
tác giả chọn đề tài này làm tiêu đề luận văn thạc sĩ Khoa học Giáo dục -
Chuyên ngành Quản lý giáo dục.
27
*
* *
Điều dưỡng là một nghề thực hành dựa trên các tiêu chuẩn hành nghề
để cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đảm bảo sự bình an và đem lại niềm
vui cuộc sống cho người dân. Trong quá trình học tập, thực tập lâm sàng của
học viên đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành kỹ xảo, kỹ năng nghề
nghiệp điều dưỡng, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe người dân với từng trường hợp
bệnh cảnh cụ thể. Chất lượng thực tập lâm sàng , công tác quản lý nâng cao
chất lượng dạy học lâm sàng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà giáo dục,
điều dưỡng.
Thông qua quá trình thực tập lâm sàng, học viên có niềm tin trong
khẳng định mục đích, động cơ, xu hướng nghề nghiệp, an tâm rèn đức, luyện
tài, thành thạo, thuần thục tay nghề trị bệnh, cứu người. Trên cơ sở xác định
tốt mục tiêu, chương trình, nội dung, nhiệm vụ và phương pháp đào tạo, học
viên có thái độ đúng đắn, tích cực đối việc việc học, nhất là việc củng cố kiến
thức, rèn luyện tay nghề; có hứng thú, say mê học tập, rèn luyện thành tài;
đồng thời, hình thành lương tâm và trách nhiệm đối với công việc, thực hiện ý
đức “lương y phải như từ mẫu” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Việc
trau dồi những phẩm chất đạo đức nhân cách của người điều dưỡng vừa là
nhiệm vụ, vừa là sự chuẩn bị tâm lý nghề nghiệp để học viên tự tin, an tâm
bước vào nghề, hành nghề.
Cùng với những phẩm chất nhân cách người cán bộ y tế cần có, thông
qua thực tập lâm sàng, học viên bồi dưỡng, làm giàu hơn chất lượng y đức
của mình; đồng thời, hiểu biết thêm về thực tiễn khám, chữa bệnh, cũng như
tính đa dạng, phong phú, phức tạp của các căn bệnh, người bệnh để có cách
ứng xử cho phù hợp. Qua đó, củng cố tri thức, tích lũy vốn sống, kinh
nghiệm, phương pháp chăm sóc bệnh nhân của điều dưỡng nhằm đáp ứng tốt
28
hơn nhu cầu của người bệnh và thân nhân của họ. Trên cơ sở vận dụng các
kiến thức và kỹ năng đã học vào công việc của điều dưỡng chăm sóc bệnh
nhân, học viên từng bước khẳng định chất lượng tay nghề của mình. Đây là
cơ sở cho quá trình tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách “lương y như từ
mẫu”. Thông qua quá trình thực tập lâm sàng, học viên sẽ biết so sánh, tự
thấy rõ hơn mặt mạnh, mặt yếu về kiến thức, kỹ năng tay nghề và phẩm chất,
nhân cách điều dưỡng viên để đề ra kế hoạch, biện pháp tự học hỏi, tự rút
kinh nghiệm; khắc phục hạn chế, vươn lên, tiến bộ, trưởng thành. Chính vì
các lợi ích chi phối xoay quanh việc thực tập lâm sàng nên việc đánh giá kết
quả thực tập lâm sàng của học viên cần phải thực hiện nghiêm túc hơn, dựa
trên quy trình đánh giá nghiêm ngặt, phù hợp, thích đáng. Có như vậy, học
viên mới thật sự để tâm, trí học tập, rèn luyện và phát huy tốt khả năng vốn có
của mình. Theo đó, kết quả mà học viên đạt được qua điểm số sẽ phản ánh
chính xác hơn phẩm chất, năng lực của người học. Do đó, công tác quản lý
học viên thực tập lâm sàng của các cấp, ngành có liên quan cần nghiêm túc
nhìn lại những công việc đã và đang làm để có sự điều chỉnh, bổ sung cần
thiết, thực hiện tốt phương châm: “Tất cả vì học viên thân yêu”, tất cả vì chất
lượng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe con người.
Chương 2
29
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ VIỆC XÂY DỰNG QUY TRÌNH
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC TẬP LÂM SÀNG CỦA HỌC VIÊN
ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
2.1. Thực trạng về việc đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học
viên điều dưỡng hiện nay
2.1.1. Cơ sở thực tiễn để đánh giá
Như đã đề cập ở chương 1, quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm
sàng của các bệnh viện hiện nay là theo biểu điểm có sẵn của các trường với
các tiêu chí đã nêu ở bảng 1.2 và 1.3 và việc đánh giá này chưa được quan
tâm đúng mức. Việc giám sát để đánh giá chất lượng thực tập lâm sàng của
học viên chủ yếu là do giáo viên hướng dẫn nhưng trên thực tế, hiện nay chủ
yếu là do các điều dưỡng trưởng khoa thực hiện. Do nhiều yếu tố chủ quan
cũng như khách quan tác động, việc đánh giá này chưa phản ánh chính xác
khả năng thực hành của học viên điều dưỡng.
Kiến thức chuyên ngành cũng như khả năng thực hành của học viên
điều dưỡng bắt đầu được chú ý qua các đợt phỏng vấn tuyển dụng điều dưỡng
của bệnh viện: Tuy vừa mới tốt nghiệp nhưng khi được hỏi về chuyên môn
thì các học viên đã tốt nghiệp rất lúng túng và không đạt yêu cầu. Tác giả là
một thành viên trong hội đồng tuyển dụng đã tự đặt cho mình nhiều câu hỏi
xoay quanh vấn đề này. Câu trả lời đang còn ở phía trước. Chúng ta hãy phân
tích quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm sàng hiện thời thì có thể nhìn
thấy rõ hơn những nguyên nhân chủ quan (về phía học viên, giáo viên và điều
dưỡng trưởng khoa) cũng như nguyên nhân khách quan (số lượng, đối tượng,
môi trường…) tác động đến quy trình này, làm cho nó không phản ánh chính
xác kết quả thực tập lâm sàng của học viên.
2.1.1.1. Số lượng học viên thực tập
30
Trước năm 2008, Bệnh viện Nhân dân Gia Định không có học viên các
trường điều dưỡng đến thực tập lâm sàng. Từ năm 2008 đến nay, với nhu cầu
chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân ngày càng tăng; một số trường công
lập đào tạo điều dưỡng của Thành phố Hồ Chí Minh không đáp ứng đủ nhân
lực điều dưỡng cho các bệnh viện nên các trường trung cấp nghề ngoài công
lập được sự cho phép của các cấp có thẩm quyền đã mở mã ngành đào tạo
điều dưỡng trung cấp chuyên nghiệp. Vì vậy, Bệnh viện Nhân dân Gia định
có thêm chức năng, nhiệm vụ mới là đón học viên các trường đào tạo điều
dưỡng đến thực tập chuyên môn, rèn luyện tay nghề, bồi dưỡng y đức và do
đó, số lượng học viên đến Bệnh viện thực tập lâm sàng nhìn chung, ngày một
tăng lên không ngừng.
Bảng 2.3. Thống kê số lượng học viên thực tập hàng năm
Năm học 2008 2009 2010 2011 2012
Số lượng 650 1687 1700 1820 1289
Nguồn: Quản lý học viên thực tập - phòng ĐD, năm 2013
2.1.1.2. Phân bổ học viên - Thời gian thực tập
Bệnh viện Nhân dân Gia định có 26 khoa lâm sàng và 01 khoa khám
bệnh nên việc phân bổ học viên thực tập không hề giản đơn. Bệnh viện Nhân
dân Gia định đã cố gắng sắp xếp học viên thực tập ở mỗi khoa theo mục tiêu,
yêu cầu đào tạo, đảm bảo tính vừa sức, tức là đảm bảo cho các học viên có đủ
các phương tiện kỹ thuật và điều dưỡng trưởng khoa hướng dẫn thực hành mà
không làm ảnh hưởng nhiều đến không gian của bệnh nhân, công việc của
Bệnh viện. Tuy nhiên, có những thời điểm mà sự sắp xếp học viên thực tập
giữa các trường có sự trùng lặp nên số lượng học viên đôi lúc cũng tăng cao
và điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực tập cũng như công tác
quản lý và đánh giá học viên thực tập.
31
Thời gian thực tập tại bệnh viện cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc
hướng dẫn và đánh giá học viên. Việc thực tập liên tục trong một bệnh viện
( chỉ chuyển khoa) ít nhất là sáu đến tám tuần thì việc học tập và đánh giá kết
quả thực tập lâm sàng mới tương đối chính xác. Trên thực tế đã không ít Nhà
trường có kế hoạch thực tập tại bệnh viện rất ngắn, đổi nhóm mỗi 2 tuần nên
việc quản lý và đánh giá có khó khăn học viên thực tập rất khó khăn.
(Xem Bảng 2.4. Thống kê số liệu phân bổ học viên điều dưỡng thực tập
tại các khoa năm 2012 - Phụ lục 1)
2.1.1.3. Công tác quản lý thực tập lâm sàng của giáo viên các trường
Về mặt lý thuyết và theo quy định hiện hành, giáo viên hướng dẫn thực
tập phải là người có nhiều kinh nghiệm trong nghề y, có khả năng truyền thụ
vốn sống, kinh nghiệm, tay nghề cho học viên thực tập tại bệnh viện, nhất là
việc giúp đỡ học viên củng cố kiến thức, rèn luyện tính chuyên nghiệp,
chuyên khoa trong thực hành nghề.
Vì vậy, họ phải là những giáo viên cơ hữu hoặc cán bộ điều dưỡng
thuộc bộ phận huấn luyện của bệnh viện đang công tác tại các khoa lâm sàng,
nơi học viên thực tập. Tuy nhiên, hiện tại đa số giáo viên hướng dẫn học viên
của các trường chưa có kinh nghiệm thực tế trên lâm sàng, thường là các điều
dưỡng mới tốt nghiệp được giữ lại trường mới vào nghề, nên một số vẫn còn
lúng túng khi hướng dẫn học viên thực tập tại bệnh viện, thậm chí một số giáo
viên chưa đủ độ linh hoạt xử lý các tình huống khó, phức tạp, nhất là việc
truyền thụ kiến thức, tay nghề; vì vậy, họ chưa thể hiện được chức năng của
người giáo viên trong hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng. Chính vì thế,
giáo viên chưa tạo được niềm tin đối với học viên về chuyên môn, nghiệp vụ
ngành y mà tương lai gần họ sẽ đảm nhiệm “khám, chữa bệnh, cứu người”;
quan hệ giữa học viên - giáo viên có lúc, có nơi chưa thật tốt.
Tình hình chung hiện nay là số lượng giáo viên chuyên ngành điều
dưỡng còn hạn chế, điều này có ảnh không nhỏ đến hiệu quả quản lý công tác
32
thực hành, thực tập của học viên. Mặt khác, do không đủ giáo viên để trực
tiếp giám sát học viên khi thực tập tại bệnh viện nên việc hướng dẫn lâm sàng
không được đầy đủ, không đúng quy trình. Thêm vào đó, phần lớn giáo viên
hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng xuất thân từ trường y và từng làm việc
tại bệnh viện chứ không phải từ trường sư phạm hoặc đã qua lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm nên dù có ít nhiều kinh nghiệm về chăm sóc nhưng họ vẫn
còn thiếu kỹ năng sư phạm. Mặt khác, đôi lúc giáo viên lại là bác sĩ khi dạy
về điều dưỡng vẫn nghiêng về điều trị nên kỹ năng điều dưỡng, làm cho học
viên dễ bị ảnh hưởng theo chuyên môn của thầy. Điều đó khiến cho công tác
quản lý thực hành, thực tập của học viên vốn đã khó khăn lại thêm nhiều khó
khăn, phức tạp.
Rõ ràng là, nguồn nhân lực giáo viên trong các trường đào tạo điều
dưỡng chưa hợp lý về cơ cấu, thiếu về số lượng, chưa đạt chuẩn về chất
lượng. Hiện nay, số giảng viên chuyên ngành điều dưỡng có trình độ sau đại
học mới chỉ đạt 0,47%, trình độ đại học là 4,1%, trình độ trung cấp là 22,4%,
trong khi đó, số giảng viên là bác sĩ lại chiếm tới 68%. Tỷ lệ giáo viên so với
học viên còn bất hợp lý, đa số các trường có tỷ lệ giáo viên/học viên là 1/18.
Trong đội ngũ giáo viên, số người chưa được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ
sư phạm hoặc sư phạm y học chiếm 16,13%.
Tuy đã rất cố gắng nhưng nhìn chung chất lượng đào tạo điều dưỡng chưa
đáp ứng được các chuẩn năng lực nghề nghiệp, đặc biệt là năng lực thực hành,
kỹ năng giao tiếp với người bệnh và người nhà người bệnh. Hiện nay, do còn
thiếu giáo viên, giảng viên chuyên ngành điều dưỡng, hộ sinh có trình độ và kỹ
năng lâm sàng, nên các nhà trường và bệnh viện buộc phải sử dụng giáo viên,
giảng viên các chuyên ngành khác để giảng dạy cho điều dưỡng, hộ sinh.
Trang thiết bị, phương tiện dạy - học ngành điều dưỡng còn quá thiếu.
Kết quả điều tra, khảo sát thực tế cho thấy: hiện tại, số trường thiếu tài liệu
33
dạy - học chiếm 50%; trong đó, số lượng giáo viên, giảng viên giảng bài bằng
projector chiếm 13,8%. Thư viện chưa cung cấp đủ sách, tài liệu tham khảo
học tập cho học viên điều dưỡng. Đại đa số các trường chưa có phòng thực
hành tiền lâm sàng, mà chủ yếu là phòng thực tập ở các môn học. Vì vậy, kỹ
thuật thực hành chăm sóc người bệnh chưa được chuẩn hoá và xây dựng
thành những qui trình chuẩn mực.
Để nâng cao chất lượng thực tập lâm sàng cho học viên điều dưỡng,
các trường đào tạo điều dưỡng cần có đủ giáo viên, giảng viên hướng dẫn
thực hành, thực tập bệnh viện để quản lý học viên thực tập, đánh giá và
chấm điểm. Hiện tại, chấm điểm thực hành của học viên do giáo viên bộ
môn trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn và cho điểm. Nếu học viên thực tập tại
bệnh viện thì giáo viên hướng dẫn nên kết hợp với điều dưỡng trưởng khoa
chấm điểm theo bảng chấm điểm quy định của từng trường nhưng cần được
thống nhất với Phòng điều dưỡng Bệnh viện và công bố cho học viên biết
trước khi đi thực tập. Tuy nhiên, số lượng giáo viên, giảng viên hướng dẫn
thực tập lâm sàng thường không đủ hoặc không có mặt thường xuyên tại
bệnh viện vì nhiều lý do khác nhau nên việc quản lý học viên thực tập hầu
như do điều dưỡng trưởng khoa phụ trách. Công việc này rất khó đảm bảo
việc hướng dẫn, giám sát học viên chu đáo vì công tác quản lý khoa đã
chiếm rất nhiều thời gian, nhất là trong những giai đoạn mà số lượng học
viên thực tập tăng cao. Mặt khác, yêu cầu về chất lượng theo dõi, chăm sóc
bệnh nhân đối với điều dưỡng ngày càng cao thì việc điều dưỡng trưởng
khoa phải giám sát chặt chẽ hơn hoạt động chuyên môn của điều dưỡng
viên trong khoa cũng là cả một vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, tìm biện
pháp giải quyết.
2.1.1.4. Điều dưỡng trưởng khoa với công tác đánh giá kết quả thực
tập lâm sàng của học viên
34
Điều dưỡng trưởng khoa là người chịu trách nhiệm về chuyên môn kỹ
thuật thuộc lĩnh vực điều dưỡng, chịu trách nhiệm trong việc chủ trì, tổ chức,
chỉ đạo các kỹ thuật chăm sóc, kiểm soát nhiễm khuẩn, quản lý, giảng dạy,
nghiên cứu và đề xuất các chính sách phát triển chuyên ngành điều dưỡng
trong bệnh viện.
Bệnh viện Nhân dân Gia Định có 26 khoa lâm sàng và trong đó có 22
khoa là cơ sở thực hành cho học viên điều dưỡng các trường thực tập. Đội
ngũ điều dưỡng trưởng khoa của bệnh viện có những người có thâm niên
công tác và thâm niên về quản lý lâu năm; song cũng có nhiều người mới
được bổ nhiệm với chức danh điều dưỡng trưởng khoa lần đầu. Vì vậy, tính
đồng bộ về nhận thức cũng như chuyên môn chưa cao mặc dù đội ngũ điều
dưỡng trưởng khoa có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình, trách nhiệm, yêu
nghề và có ý thức phấn đấu vươn lên hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Vai trò của điều dưỡng trưởng khoa là một trong những nhân tố cơ bản
quyết định chất lượng thực hành lâm sàng của học viên. Hoạt động của điều
dưỡng trưởng khoa không những góp phần quan trọng vào thành tích chung
của khoa, nhất là thành tích trong xây dựng nền nếp hoạt động chuyên môn,
quản lý hành chính và quản lý tài sản, nhân sự của khoa mà còn góp phần vào
việc tổ chức, phân công cán bộ, giảng dạy hướng dẫn thực hành lâm sàng cho
học viên. Hầu hết các điều dưỡng trưởng khoa đều rất bận; song đều bố trí
thời gian, công việc hợp lý để truyền đạt phương pháp giảng dạy lâm sàng
cho giáo viên, đồng nghiệp; đồng thời, trực tiếp kiểm tra, đôn đốc giáo viên
thực hiện tốt quy trình vận dụng lý thuyết vào thực tế công tác hướng dẫn lâm
sàng cho học viên; khắc phục sự bất hợp lý, tính chưa đồng bộ, sự hạn chế về
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề cho học viên. Mặc dù đã
cố gắng rất nhiều nhưng hầu hết các điều dưỡng trưởng khoa đều “lực bất
35
tòng tâm” vì công việc quản lý khoa, phòng đã chiếm rất nhiều thời gian nên
thời gian còn lại dành cho học viên thực tập không nhiều.
Do hiện nay các trường đều thiếu giáo viên hướng dẫn học viên thực
tập lâm sàng nên việc đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên thường
do điều dưỡng trưởng khoa, nơi học viên thực tập đảm nhiệm. Vì vậy, việc
đánh giá kết quả thực tập của học viên có lúc bị chi phối bởi nhiều yếu tố
khách quan nên độ chính xác, chuẩn mực trong đánh giá chưa thật cao. Điều
này đôi lúc gây những bức xúc không đáng có trong học viên cần được tháo
gỡ, giải quyết.
Mặt khác, những hạn chế, bất cập trong đánh giá kết quả thực tập lâm
sàng của học viên còn do số lượng học viên tham gia thực tập lâm sàng
thường xuyên thay đổi, thời gian thực tập tại khoa lại ngắn, học viên của
nhiều trường thực tập cùng lúc với những mục tiêu khác nhau (năm thứ nhất,
thứ hai, thực tập tốt nghiệp) nên có lúc, có nơi, điều dưỡng trưởng khoa đánh
giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên chưa được chính xác.
Ngoài ra, vấn đề tâm lý cũng là một trong những nhân tố tác động đến
kết quả thực tập lâm sàng của học viên; đó là sự lo sợ ảnh hưởng đến kết quả
học tập chung của học viên nên điều dưỡng trưởng khoa thường đánh giá kết
quả thực tập cao hơn so với khả năng, thực lực hiện có của học viên .
Việc đánh giá này mặc dù đã được Phòng Điều dưỡng nhắc nhở nhiều
lần và có hướng dẫn cụ thể nhằm giúp giáo viên đánh giá đúng thực tế tay
nghề của học viên tham gia thực tập lâm sàng nhưng do ngại bị nhắc đến và
tâm lý “trung bình chủ nghĩa” đã khiến hầu hết điều dưỡng trưởng khoa chọn
phương án “an toàn”: tất cả học viên thực tập đều hoàn thành nhiệm vụ; giáo
viên và khoa hoàn thành nhiệm vụ.
2.1.1.5. Hoạt động thực tập lâm sàng của học viên
36
Nhìn chung, các học viên chưa tích cực và năng động trong quá trình
thực tập lâm sàng. Mặt khác, do thiếu giáo viên hướng dẫn và điều dưỡng
trưởng khoa lại không có nhiều thời gian dành cho công việc này nên việc
hướng dẫn học viên thực tập chưa thật sự chu đáo, tỷ mỉ. Do ý thức tự học, tự
rèn của phần lớn học viên còn kém, cộng thêm sự tác động của các yếu tố
khách quan nêu trên nên khá nhiều học viên tự “thả lỏng mình”, chưa tích cực
tự học, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn; thậm chí có một số học viên
tham gia thực tập không có sổ sách để ghi chép những nội dung cần thiết, phần
lớn học viên ngại đọc sách, bỏ lãng phí thời gian có thể dành cho học tập, tìm
tòi, nghiên cứu bệnh án hay học hỏi kinh nghiệm từ các điều dưỡng có kinh
nghiệm trong khoa.
Mặc dù là như thế nhưng với quy trình đánh giá kết quả thực tập lâm
sàng hiện nay (mà các học viên đều biết) thì dù các học viên không tích cực
học tập, rèn luyện tay nghề thì họ vẫn “qua được” đợt thực tập nếu đi học đầy
đủ và không gây ra vấn đề gì nổi cộm, không mắc khuyết điểm trong quá trình
thực tập. Chính vì thế, việc phát sinh tâm lý tiêu cực “đi là đến”, “vào được ra
được” đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng rèn luyện tay nghề sau này của
điều dưỡng.
2.1.2. Nhận xét chung
Qua điều tra, khảo sát, đánh giá kết quả thực tập lâm sàng tại bệnh viện và
cơ sở lý luận của đề tài luận văn, chúng tôi đã rút ra một số kết luận như sau:
- Mặt mạnh là cơ bản: Lãnh đạo bệnh viện và các khoa, phòng rất quan
tâm đến công tác đào tạo, giảng dạy chuyên môn, thực hành lâm sàng của học
viên; luôn tạo điều kiện thuận lợi cho điều dưỡng trưởng khoa tham gia hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho học viên.
37
Công tác xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch đã vạch ra cũng
như công tác tổ chức tiếp nhận, phân bổ học viên điều dưỡng của các trường
đến thực tập tại các khoa lâm sàng thuộc bệnh viện tương đối tốt.
Trang thiết bị, dụng cụ y tế, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc tương
đối đầy đủ, phục vụ khá tốt công tác thực tập lâm sàng của học viên và hướng
dẫn thực tập của giáo viên, điều dưỡng viên.
Công tác tổ chức, phối hợp giữa các khoa, phòng và các điều dưỡng
trong hướng dẫn, giám sát và đánh giá học viên thực tập lâm sàng đúng kế
hoạch, đúng tiến độ thời gian.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý học viên và giúp học
viên thực tập lâm sàng được bảo đảm chu đáo, thiết thực, hiệu quả.
Bệnh viện giao việc quản lý học viên về cho các khoa thông qua kế
hoạch, các mục tiêu, nhiệm vụ thực tập lâm sàng khá cụ thể, rõ ràng. Đây là
điều kiện thuận lợi giúp các khoa chủ động làm tốt công tác quản lý chuyên
môn và các điều dưỡng trưởng khoa chủ động hơn trong hướng dẫn học viên
thực tập lâm sàng.
Đội ngũ cán bộ, điều dưỡng trưởng khoa nhiệt tình, có phẩm chất đạo
đức tốt, say sưa, tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức trách nhiệm cao trong
việc đào tạo, bồi dưỡng học viên - những cán bộ, điều dưỡng viên tương lai
một cách tận tâm, tận lực. Đa số điều dưỡng trưởng khoa được đào tạo cơ
bản về phương pháp giảng dạy lâm sàng, được tập huấn, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, rất nhiệt tình, có trách nhiệm, tâm huyết, tận
tụy với nghề.
- Mặt hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục
Bên cạnh những điểm mạnh là cơ bản, đội ngũ điều dưỡng trưởng
khoa, giáo viên, giảng viên hướng dẫn cũng có những hạn chế nhất định, nhất
là việc chưa dành nhiều thời gian quan tâm, chăm lo công tác đào tạo bồi
38
dưỡng học viên thực tập lâm sàng; một số ít điều dưỡng trưởng khoa chưa đủ
vốn sống, kinh nghiệm, vững tay nghề; thậm chí một số công việc còn làm
“qua loa, chiếu lệ, làm ”cho xong việc, chất lượng, hiệu quả chưa cao, một số
điều dưỡng trưởng khoa chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ vị trí, ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng nên việc đánh giá
kết quả thực tập lâm sàng của học viên chưa thật sự nghiêm túc và chính xác.
Một số điều dưỡng trưởng khoa chưa được trang bị về phương pháp
giảng dạy lâm sàng, chưa nghiêm túc trong việc nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, nên hạn chế nhiều trong hoạt động dạy học, thiếu nhiệt tình
trong giảng dạy, chưa hăng hái tham gia nghiên cứu khoa học; vì vậy chất
lượng đào tạo chưa cao. tính “trung bình chủ nghĩa” còn có ở một số ít điều
dưỡng trưởng khoa.
Đa số điều dưỡng trưởng khoa chưa thực sự say mê với công tác giảng
dạy, hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng, nghiên cứu khoa học, tham gia
sinh hoạt chuyên môn, nhất là việc cập nhật thông tin khoa học chuyên ngành,
kiến thức chuyên môn, chuyên sâu.
Công tác tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc quản lý,
hướng dẫn và đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên chưa được thực
hiện bài bản.
Quản lý việc tự học của học viên chưa sâu sát.
Thời gian thực tập tại bệnh viện của một số Nhà trường còn ít, không đủ
để có sự đánh giá chất lượng học viên thực tập đầy đủ, chính xác.
2.2. Các giải pháp tổ chức xây dựng quy trình đánh giá kết quả
thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng
2.2.1. Các nguyên tắc đề xuất giải pháp
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở các phần trên, tác giả
luận văn đề xuất giải pháp tổ chức xây dựng, thực hiện quy trình đánh giá kết
39
quả thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng tại bệnh viện Nhân dân Gia
Định. Điểm xuất phát để đề xuất các giải pháp, trước hết là quán triệt, thực
hiện các nguyên tắc sau:
2.2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu
Tất cả các giải pháp tác động đến việc xây dựng và thực hiện quy trình
đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng tại bệnh viện
Nhân dân Gia Định phải nhất quán, hướng vào việc nâng cao chất lượng thực
tập lâm sàng của học viên điều dưỡng, phù hợp với nhu cầu đào tạo của nhà
trường, với yêu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Để thực hiện
được mục tiêu nghiên cứu, cần nghiên cứu, đề xuất các biện pháp cụ thể, khả
thi để triển khai thực hiện chủ đích đã đặt ra. Vì vậy, mọi việc làm có liên
quan đến thực tập lâm sàng của học viên tại Bệnh viện cần quán triệt và triển
khai thực hiện tốt nguyên tắc này.
2.2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Việc đề xuất các giải pháp tổ chức xây dựng và thực hiện quy trình đánh
giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng phải phù hợp với điều
kiện thực tế của bệnh viện và phải xuất phát từ nhu cầu cần thiết của công tác
quản lý chất lượng thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng. Theo đó, cuộc
sống đòi hỏi gì phải nhằm trúng nó để định ra chủ trương, biện pháp thực hiện
cho tốt. Vì vậy, cái đích cần đạt đến của học viên thực tập lâm sàng tại bệnh
viện là học để làm việc, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của điều dưỡng.
Trong đó, việc đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học viên là một mắt
khâu quan trọng để củng cố, nâng cao trình độ tay nghề của học viên.
2.2.1.3. Nguyên tắc bảo đảm tính hiệu quả
Nguyên tắc này đòi hỏi các giải pháp được đề xuất phải đem lại tính thiết
thực, hiệu quả. Việc đề xuất giải pháp không những phải bám sát hiện thực, phù
hợp với điều kiện cụ thể, khả năng vốn có của học viên mà quan trọng hơn phải
40
hướng đến tính hiệu quả; giảm bớt thời gian, công sức, tiền của, số lượng cán bộ
quản lý mà vẫn đạt chất lượng, hiệu quả như mong muốn. Đây là một nguyên tắc
cần quán triệt thật kỹ để triển khai thực hiện tốt hơn, tránh tình trạng lãng phí về
mọi mặt như thời gian qua. Có làm như vậy mới góp phần thiết thực trong việc
nâng cao chất lượng thực tập lâm sàng của học viên tại Bệnh viện.
2.2.1.4. Nguyên tắc bảo đảm tính khả thi
Các giải pháp tổ chức xây dựng và thực hiện quy trình đánh giá kết quả
thực tập lâm sàng của học viên điều dưỡng phải đảm bảo tính khả thi, nghĩa là
có khả năng áp dụng vào thực tiễn hoạt động nâng cao chất lượng thực tập
lâm sàng của học viên điều dưỡng một cách thuận lợi, trở thành hiện thực và
đạt hiệu quả cao; tránh tình trạng giải pháp thì hay, là tốt nhưng chỉ để trên
“giấy”, khó triển khai, không có điều kiện thực hiện
2.2.2. Các giải pháp
Đứng trước hiện trạng nhận thức, diễn biến tâm lý của một số học viên,
điều dưỡng trưởng khoa, giáo viên hướng dẫn...về việc đánh giá kết quả thực
tập lâm sàng, nhất thiết chúng ta cần phải xây dựng một quy trình đánh giá cụ
thể, phản ánh tương đối chính xác khả năng thật sự, vốn có của mỗi học viên
và đồng thời với cách đánh giá này, buộc mỗi học viên phải tăng cường ôn
tập, bổ sung kiến thức, chuẩn bị tâm thế trước khi đến bệnh viện thực tập và
phải tăng cường tính tự học, tự rèn trong suốt thời gian thực tập tại bệnh viện
nếu không thì điểm thực tập sẽ rất thấp và học viên sẽ phải thực tập lại.
Căn cứ để tác giả luận văn đề nghị đổi mới quy trình thực tập lâm sàng
của học viên:
Thứ nhất, dựa vào tổng số điểm học viên đạt được trong quá trình
thực tập lâm sàng, gồm điểm kiểm tra đầu vào, điểm thực tập, điểm kiểm
tra đầu ra, cộng thêm một số tiêu chí khác như chấm điểm chuyên cần, giao
tiếp, điểm sổ tay lâm sàng.. Các tiêu chí này cần bổ sung vào bảng điểm
41
của nhà trường trên cơ sở thống nhất giữa tập thể giáo viên và các điều
dưỡng trưởng khoa.
Thứ hai, đề nghị thống nhất trình tự đánh giá như sau:
Bước 1: Kiểm tra kiến thức chuyên môn đầu vào;
Bước 2: Kiểm tra kỹ năng thực hành đầu vào;
Bước 3: Hướng dẫn theo chương trình huấn luyện đã xây dựng;
Bước 4: Kiểm tra kiến thức đầu ra;
Bước 5: Kiểm tra kỹ năng thực hành đầu ra;
Bước 6: Đánh giá, nhận xét của giáo viên hướng dẫn và điều dưỡng
trưởng khoa về kết quả của học viên trong đợt thực tập lâm sàng.
Bảng điểm dự kiến :
Nội dung đánh giá Điểm tối đa Điểm đánh giá T T Ghi tổng điểm bằng chữ
1 2 3 5 6 7 8 9 0.5 0.5 1 2 1 2 2 1
Chuyên cần Kỹ năng giao tiếp Thực hiện chỉ tiêu tay nghề Kiểm tra kiến thức đầu vào Kiểm tra thực hành đầu vào Kiểm tra kiến thức đầu ra Kiểm tra thực hành đầu ra Sổ tay lâm sàng Điểm thực tập (tổng cộng 9 10 điểm thành phần)
Để thực hiện được quy trình đánh giá trên cần thực hiện một số các giải
pháp sau đây:
2.2.2.1. Đánh giá kiến thức và kỹ năng thực hành đầu vào của học viên
điều dưỡng
- Mục tiêu của giải pháp: Xác định cơ sở lý luận, thực tiễn vững chắc
để định hướng cho việc hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng của điều dưỡng
42
trưởng khoa cũng như của giáo viên hướng dẫn học viên thực tập (vì trình độ
của mỗi học viên khác nhau) để đạt hiệu quả cao nhất.
- Nguyên nhân : Trong quá trình tiếp nhận và hướng dẫn học viên điều
dưỡng thực tập lâm sàng, Phòng Điều dưỡng nhận được các thông tin phản
hồi (bằng lời nói) từ một số điều dưỡng trưởng khoa. Tuy các luồng thông tin
khá đa dạng, khác nhau; song có điểm chung là:
- Phần đông học viên không nắm vững kiến thức cơ bản, không hiểu
chức trách, nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhân của điều dưỡng viên; còn có học
viên coi thường việc thực tập.
- Do nắm kiến thức cơ bản, chuyên ngành không tốt nên nhiều học viên
còn lúng túng trong thao tác công việc, thực hiện các chỉ dẫn của giáo viên
không đạt yêu cầu; các kỹ thuật cơ bản của điều dưỡng viên không đáp ứng
mức tối thiểu.
- Phần lớn học viên chưa say mê tìm hiểu, nghiên cứu chuyên ngành,
không ham học, lười đọc sách, chưa có tinh thần học hỏi, cầu tiến bộ, không
năng động, sáng tạo và chưa thể hiện rõ nét thái độ, mục đích đối với nghề
nghiệp tương lai..
Để nắm bắt các thông tin phản hồi từ điều dưỡng trưởng khoa một cách
đầy đủ và chính xác, Phòng Điều dưỡng đã tiến hành một khảo sát nhỏ xoay
quanh các ý kiến phản hồi của điều dưỡng trưởng khoa ở tất cả các khoa lâm
sàng có học viên thực tập. Nhìn chung, ý kiến nhận xét của điều dưỡng trưởng
khoa về đánh giá chất lượng thực tập của học viên là rất khác nhau, khen chê
không thống nhất. Vì vậy, việc xây dựng, đề xuất các giải pháp phải tính đến
nhân tố này. Có thể tham khảo bảng khảo sát dưới đây qua ý kiến của 18 điều
dưỡng trưởng khoa.
(Bảng 2.5. Khảo sát ý kiến điều dưỡng trưởng khoa - Phụ lục 2)
Nhận xét
43
Qua kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả luận văn cho thấy, có
67% ý kiến của điều dưỡng trưởng khoa cho rằng, kiến thức cơ bản về bệnh
lý, chăm sóc sức khỏe bệnh nhân của học viên điều dưỡng chỉ đạt mức trung
bình. Hầu hết ý kiến của các điều dưỡng trưởng khoa đều khẳng định: bằng
mọi cách, nhà trường và bệnh viện cần có biện pháp đổi mới công tác thực tập
lâm sàng của học viên, trước hết giúp họ nắm vững lý thuyết trước khi đi thực
tập; phải coi đây là cơ sở, nền tảng để học viên tiếp thu ý giáo viên hướng dẫn
khi thực tập lâm sàng, nhất là lý thuyết môn học và các môn chuyên ngành có
liên quan trực tiếp. Nếu học viên không nắm vững lý thuyết thì khi đứng
trước bệnh nhân, đương nhiên, họ sẽ không biết cách hỏi bệnh nhân những gì,
không biết phối hợp, vận dụng lý thuyết với thực hành; lúng túng khi giải
thích bệnh tình, và hệ lụy tất yếu, không thực hiện được việc chăm sóc sức
khỏe, hướng dẫn y tế cho bệnh nhân; không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ
điều dưỡng viên.
Đánh giá kỹ năng thực hành kỹ thuật cơ bản của học viên điều dưỡng,
có 56% ý kiến được hỏi của điều dưỡng trưởng khoa thừa nhận rằng, kỹ năng
thực hành các kỹ thuật cơ bản của học viên điều dưỡng chỉ đạt mức trung
bình vì phần lý thuyết của kỹ thuật hầu hết các học viên chưa nắm vững nên
thật sự lúng túng khi thực hành hoặc không thực hành được.
Về thái độ đối với nghề nghiệp, có 12% ý kiến điều dưỡng trưởng khoa
cho rằng, các học viên không có hứng thú với công việc điều dưỡng; 35% học
viên chưa định hướng rõ nghề nghiệp điều dưỡng. Về vấn đề này, có 5% ý
kiến điều dưỡng trưởng khoa cho rằng, tinh thần vượt khó, vươn lên của các
học viên nhìn chung là kém; đồng thời, có 18% ý kiến điều dưỡng trưởng
khoa cho rằng, các học viên không năng động, không tự tìm việc mà làm hoặc
tranh thủ thời gian tiếp xúc với bệnh nhân, nghiên cứu bệnh tình của họ. Vì
vậy, những học viên thuộc dạng này không phát huy được khả năng tuyên
44
truyền, giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân trong phạm vi hiểu biết về y học, rơi
vào trạng thái “trung bình chủ nghĩa”, “nước chảy bèo trôi”; “thứ nhất ngồi ỳ,
thứ nhì đồng ý, thứ ba ra về”.
- Để kiểm chứng các ý kiến phản ánh của điều dưỡng trưởng khoa, tác
giả đã tiến hành khảo sát về kiến thức chuyên môn cũng như kỹ năng thực
hành như sau :
+ Kết quả khảo sát kiến thức đầu vào: các nhóm học viên năm thứ nhất
của 03 trường (A , B và C) sau khi học viên đã hoàn tất chương trình lý thuyết
và chương trình thực hành tại nhà trường với 40 câu hỏi dưới dạng trắc
nghiệm, nội dung bao gồm: kiến thức cơ bản về kỹ thuật điều dưỡng, thời
gian làm bài là 30 phút.
Kết quả như sau:
- Tổng số học viên: 229
- Tỷ lệ:
+ Giỏi (trên 8 điểm): 1,3%
+ Khá (trên 6 điểm - 8 điểm): 31,4 %
+ Trung bình (từ 5 điểm - 6 điểm): 46,7%
+ Dưới 5 điểm: 20,6%
Trong 03 trường được khảo sát trên, có trường có đến 27,8% học viên
chỉ đạt điểm 0 - 4. Đây là một trong những khó khăn thực tế đã và đang đặt ra
găy gắt đối với mỗi nhà trường và bệnh viện khi thực hiện mục tiêu, chương
trình đã xác định và nó đòi hỏi phải xem xét tổng thể để tìm ra nguyên nhân;
từ đó đề xuất biện pháp thực tế, hữu hiệu để khắc phục tình trạng này.
+ Khảo sát đầu vào thực hành lâm sàng
Khảo sát học viên năm thứ nhất của trường A sau khi học viên đã hoàn
tất chương trình thực hành tại các phòng lab của nhà trường và trong thực tế
45
học viên đã được đi thực tập tại bệnh viện khác trước khi đến Bệnh viện Nhân
dân Gia định (học viên trường A nằm trong nhóm 229 học viên đã nêu trên).
Thao tác được chọn để khảo sát là những thao tác kỹ thuật cơ bản nhất
và cũng là thao tác tối thiểu, bắt buộc phải thực hiện hàng ngày, thường xuyên
liên tục đối với mọi bệnh nhân đến khám, điều trị tại Bệnh viên Nhân dân Gia
định; trong đó chú trọng các kỹ thuật điều dưỡng. Bảng kiểm chứng về thực
hành được thống nhất trong ban khảo sát gồm 05 điều dưỡng trưởng khoa.
Kết quả như sau:
- Tổng số học viên: 47
- Tỷ lệ đạt từ 8 điểm trở lên: 10,6%
- Tỷ lệ đạt từ 5 đến dưới 8 điểm: 74,4%
- Tỷ lệ dưới 5 điểm: 14,8%
Nhận xét
Khi đến bệnh viện thực tập, các học viên đã hoàn tất chương trình lý
thuyết về chăm sóc điều dưỡng cũng như các kỹ thuật điều dưỡng theo
chương trình đã xác định; đồng thời đã hoàn thành thực tập tại các phòng thực
hành của nhà trường nhưng trên thực tế, kết quả kiểm tra đầu vào thực tập
lâm sàng của học viên tại Bệnh viện Nhân dân Gia định cho thấy: còn một bộ
phận không nhỏ học viên chưa đạt yêu cầu về mặt kiến thức cơ bản cũng như
thực hành tay nghề; trong số này, đáng chú ý là có 27,5% học viên đến thực
tập lâm sàng tại Bệnh viện chưa đạt yêu cầu khi kiểm tra kiến thức cơ bản.
Về kết quả thực hành: có 14,8% học viên đạt điểm dưới trung bình; cá
biệt có một số ít học viên rất kém (gần như không thực hiện được) dù chỉ thực
hành thao tác cơ bản và đơn giản nhất là tiêm thuốc.
Qua kết quả điều tra, khảo sát đầu vào thực tập lâm sàng tại Bệnh viện
thì vấn đề đặt ra rất đáng quan tâm và bắt buộc phải giải quyết là bổ sung, cập
nhật kiến thức, hướng dẫn thật kỹ các kỹ thuật điều dưỡng cho học viên qua
46
việc thực tập lâm sàng cho họ. Bởi lẽ, xét cho cùng, đối với điều dưỡng thì kỹ
năng thực hành là quan trọng nhất, học xong phải làm được nghề điều dưỡng.
Mâu thuẫn chủ yếu ở đây là kết quả thực tập lâm sàng của các học viên
thường đạt từ khá trở lên (do nhiều nội dung đánh giá cộng lại như đã trình
bày trong chương 1), song học viên không làm được kỹ thuật, không thể bố trí
thực hiện nhiệm vụ điều dưỡng. Trong khi đó, học viên vẫn được tốt nghiệp
ra trường.
Đây cũng là nguyên nhân mà một số bệnh viện trong Thành phố Hồ
Chí Minh không tuyển dụng điều dưỡng tốt nghiệp từ các trường ngoài công
lập. Theo tác giả Nguyễn Hiến (báo mới.com ngày 26.05.2013): “Một nghịch
lý là, hiện tại lực lượng điều dưỡng ở các bệnh viện trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh đang thiếu trầm trọng, trong khi đó, các học viên sau khi tốt
nghiệp diều dưỡng tại các trường trung cấp lại thất nghiệp hoặc chấp nhận
làm trái nghề đã được đào tạo. Vậy đâu là nguyên nhân chính?
Các bệnh viện đưa ra lý do là hầu hết học viên tốt nghiệp và những
trường này không có được kiến thức nền tảng, không đạt cơ bản về nghề
điều dưỡng. Minh chứng của việc này là trong nhiều cuộc phỏng vấn, khi
được hỏi đến nguyên tắc cơ bản nhất là “sát trùng”, các ứng viên đều
không biết, cho làm một thao tác nào đó thì lúng túng, thậm chí không thể
thực hiện. Vì vậy, dù rất thiếu điều dưỡng viên, song các bệnh viện vẫn
không thể tuyển được người nên hồ sơ các ứng viên từ các trường trung cấp
nêu trên thường bị loại ngay từ đầu. Và các nhà tuyển dụng đều đặt ra câu
hỏi: Trong hai năm học tập tại trường, các học viên được học những gì và
tại sao họ không thể hành nghề?”
- Nội dung của giải pháp: Đánh giá kiến thức chuyên môn đầu vào thật
nghiêm túc và lấy kết quả đánh giá làm cơ sở định hướng cho việc hướng dẫn
đối với từng học viên. Qua đó, thông báo kết quả kiểm tra cho giáo viên và
47
điều dưỡng trưởng khoa nơi học viên đến thực tập biết để định hướng, hướng
dẫn học viên cụ thể hơn, sát thực hơn. Việc đánh giá này do Phòng Điều
dưỡng của Bệnh viện thực hiện ngay ngày đầu tiên, khi các học viên đến các
khoa thực tập lâm sàng.
Đồng thời, chú trọng đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kỹ năng thực
hành lâm sàng tại khoa của học viên để qua đó, xác định tay nghề thực tế của
từng học viên cho chính xác hơn. Việc kiểm tra, đánh giá này do điều dưỡng
trưởng khoa thực hiện tại khoa mình phụ trách trên cơ sở thống nhất các tiêu
chí đánh giá của nhà trường, bệnh viện và thực tế thực tập lâm sàng của học
viên, chính kiến của điều dưỡng trưởng khoa.
Quá trình thực tập tại nhà trường và bệnh viện là một trong những khâu
quan trọng, có ý nghĩa quyết định chất lượng kỹ năng thực hành nghề của học
viên và qua đó, giúp nhà trường, bệnh viện có thể đánh giá sát đúng chất
lượng đào tạo; có biện pháp xây dựng chương trình, quy trình, kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng tay nghề cho học viên một cách phù hợp hơn.
-Điều kiện để thực hiện giải pháp:
+ Bộ câu hỏi kiểm tra kiến thức cơ bản về chăm sóc và thực hành lâm
sàng phải theo mục tiêu, chương trình đào tạo thống nhất (tùy đối tượng).
+ Bảng kiểm tra thực tập dùng để kiểm tra chất lượng học viên thực tập
lâm sàng phải thống nhất giữa nhà trường và bệnh viện.
+ Các điều dưỡng trưởng khoa tham gia chấm thực hành phải được tập
huấn kỹ lưỡng dựa trên bảng kiểm tra thống nhất, chuẩn mực.
2.2.2.2. Huấn luyện bổ sung ngay thời gian đầu khi học viên đến thực
tập tại bệnh viện theo chương trình bệnh viện xây dựng
Mục tiêu của giải pháp: Giúp các học viên ôn lại các kỹ thuật chăm sóc
bệnh nhân;
48
Nguyên nhân : Qua kết quả khảo sát đầu vào về kiến thức và thực hành
đã cho ta thấy có 27,5% học viên chưa đạt yêu cầu khi kiểm tra kiến thức cơ
bản và về thực hành có 14,8% học viên có điểm dưới trung bình .
Do đối tượng để học viên thực hành là người bệnh, là con người bằng
xương, bằng thịt, đang sống. Chính vì thế, cần phải hướng dẫn lại cho học
viên một số kiến thức và kỹ năng thực hành cơ bản để tránh các sai sót xảy ra
cho bệnh nhân do chưa có kinh nghiệm thực hiện các kỹ thuật chăm sóc sức
khỏe và giúp học viên dễ tiếp cận, thiện cảm với bệnh nhân.
Nội dung của giải pháp: Xây dựng kế hoạch bài giảng theo đối tượng
học viên; Nội dung các bài giảng cần lồng ghép chặt chẽ giữa lý thuyết chăm
sóc sức khỏe và thực tế lâm sàng.
Điều kiện để thực hiện giải pháp: Các bài giảng được soạn phải dựa
trên tài liệu chuyên môn chính thức của Bộ Y tế đã ban hành; Một số kỹ thuật
hướng dẫn cho học viên đã được thực hiện thống nhất trong toàn bệnh viện;
Tất cả các điều dưỡng trưởng khoa phải nắm vững chắc toàn bộ kỹ thuật lâm
sàng mà học viên thực hiện.
2.2.2.3. Phát huy vai trò giáo viên hướng dẫn thực tập lâm sàng
Dạy kỹ năng thực hành lâm sàng là một trong những nội dung quan
trọng của đào tạo điều dưỡng. Nhờ nắm vững các kỹ năng lâm sàng, học viên
hôm nay - điều dưỡng viên ngày mai có thể lồng ghép các kiến thức của mình
để đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời, chính xác trong khám, điều trị và
chăm sóc sức khỏe bệnh nhân.
Trong đào tạo điều dưỡng, dạy và học lâm sàng đúng là một mắt khâu
rất quan trọng trong việc cung cấp kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng, thái độ nghề
nghiệp đối với học viên điều dưỡng về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bệnh nhân.
49
Kiến thức lâm sàng, thực hiện thủ thuật lâm sàng giúp học viên điều dưỡng
hình thành rõ nét kỹ năng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho người bệnh.
Dạy và học tại bệnh phòng là phương pháp hữu hiệu để nâng cao kỹ năng
thực hành lâm sàng cho học viên. Vì vậy, phát huy vai trò của giáo viên, hướng
dẫn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Dạy và học lâm sàng đạt chất lượng tốt đồng
nghĩa với việc người học được giải đáp kịp thời mọi khó khăn, vướng mắc trong
thực hành cũng như trong việc củng cố tay nghề trên cơ sở nắm vững kiến thức
sống động, thường trực một cách trực quan, khả thi, hiệu quả nhất từ tri thức,
vốn sống, kinh nghiệm của thầy.
Mục tiêu của giải pháp: Giúp giáo viên thấy rõ hơn và luôn phát huy tốt
vai trò của mình trong việc quản lý, hướng dẫn, đánh giá kết quả học viên
thực tập lâm sàng; qua đó, giáo viên hướng dẫn thấy rõ hơn trách nhiệm của
mình trong việc đào tạo, truyền nghề thế hệ tương lai. Đây cũng là biện pháp
tối ưu để giáo viên tự tin hơn khi giao tiếp với nhân viên trong bệnh viện (BS,
ĐD) và nâng cao trình độ tay nghề của mình qua từng ca lâm sàng.
Nguyên nhân: Hiện nay, số lượng giáo viên hướng dẫn của các trường
còn rất thiếu; trong khi đó, việc xé lẻ học viên thành từng nhóm, từng tốp nhỏ
cũng là một khó khăn đối với giáo viên hướng dẫn thực tập lâm sàng.
Thực tế chỉ ra rằng, hiện nay các trường gửi học viên đến bệnh viện
thực tập thì trung bình số giáo viên là 02/45 học viên; có trường không có
giáo viên hoặc giáo viên chỉ có mặt vào ngày đầu tiên khi đưa học viên đến
bệnh viện và sau đó, công tác quản lý, hướng dẫn và đánh giá kết quả thực tập
lâm sàng của học viên đều do điều dưỡng trưởng khoa thực hiện.
Việc hướng dẫn kỹ thuật tại bệnh phòng rất quan trọng, chỉ có giáo
viên hướng dẫn mới có toàn thời gian cho việc hướng dẫn .Trong thời gian
này, học viên thực tập lâm sàng đứng đúng vai là một nhân viên điều dưỡng
thực thụ, mọi công việc nhất thiết phải thực hiện theo quy chế chuyên môn,
50
nội quy, quy trình điều dưỡng tại bệnh viện và các cơ sở thực tập khác. Công
việc thực tế đã giúp họ hình thành rõ nét thái độ, trách nhiệm, hành vi ứng xử
trong giao tiếp, chăm sóc người bệnh như thế nào cho đúng mực; đồng thời
biết đối chiếu với kế hoạch, chỉ tiêu thực tập và những công việc của điều
dưỡng trung cấp cần làm để điều chỉnh, thích nghi, từng bước đáp ứng yêu
cầu công việc đặt ra. Do đó chỉ có giáo viên mới là người hướng dẫn, giám sát
và đánh giá đúng nhất năng lực của học viên.
Nội dung của giải pháp: Xây dựng kế hoạch hướng dẫn lâm sàng cho
học viên tùy theo mục tiêu đợt thực tập; Lồng ghép kỹ năng thực hành và lý
thuyết chăm sóc đã dạy ở trường trong thực tập; Tổ chức phân công, hướng
dẫn và giám sát học viên thực tập hàng ngày;
Điều kiện để thực hiện giải pháp: Đổi mới nâng cao công tác xây dựng
và triển khai thực hiện kế hoạch dạy - học lâm sàng; Quản lý chặt chẽ việc tự
học tập, rèn luyện của học viên; Tham dự giao ban khoa; Bổ sung quy chế,
quy định phối hợp tốt với điều dưỡng trưởng khoa và Phòng Điều dưỡng của
bệnh viện; Tăng cường công tác động viên, khen thưởng và xử lý kịp thời đối
với các học viên; Bố trí đầy đủ cơ số giáo viên so với số học viên thực tập.
2.2.2.4. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của điều dưỡng trưởng khoa
Mục tiêu của giải pháp: Giúp điều dưỡng trưởng khoa thấy rõ hơn vai
trò của mình trong việc quản lý, hướng dẫn, đánh giá học viên thực tập (là 1
trong 14 nhiệm vụ của điều dưỡng trưởng khoa đã được quy định trong Quy
chế Bệnh viện do Bộ Y tế ban hành năm 2003).
Nội dung của giải pháp: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm hướng dẫn
và đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của điều dưỡng trưởng khoa đối với
học viên thực tập lâm sàng. Muốn vậy cần làm tốt một số nội dung sau:
- Tổ chức cho điều dưỡng trưởng khoa quán triệt sâu sắc chức năng,
nhiệm vụ của bệnh viện theo quy chế của Bộ Y tế ban hành, trong đó có
51
nhiệm vụ “đào tạo cán bộ y tế”; giúp học viên nhận thức đúng vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mình trong thực hiện nghiêm các quy
chế, quy định hiện hành. Điều cốt lõi là điều dưỡng trưởng khoa truyền cho
học viên tinh thần, ý thức trách nhiệm học tập tốt để hành nghề tốt, góp phần
chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Thông qua việc tham gia sinh hoạt
chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề, nắm bắt nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của
học viên, điều dưỡng trưởng khoa cùng với giáo viên hướng dẫn tìm ra biện
pháp giúp học viên khắc phục hạn chế, từng bước nâng cao trình độ. Ngoài ra,
điều dưỡng trưởng khoa cần dành thời gian hướng dẫn lâm sàng chuyên biệt,
huấn luyện, hỗ trợ và giúp học viên cá biệt sớm thích nghi với điều kiện, hoàn
cảnh môi trường lâm sàng. Đồng thời, điều dưỡng trưởng khoa cần chú trong
công tác rèn luyện phẩm chất đạo đức (y đức), trình độ chuyên môn và
phương pháp sư phạm. Muốn vậy, bản thân điều dưỡng trưởng khoa phải là
tấm gương mẫu mực về đạo đức nhân cách và giỏi chuyên môn nghiệp vụ...,
để học viên noi theo, làm theo, từ đó xác định rõ trách nhiệm cá nhân trước
học viên, trước tập thể bệnh viện và nhà trường; luôn tự học, tự rèn về mọi
mặt, đặc biệt là y đức.
Điều kiện để thực hiện giải pháp: Dựa vào văn bản quy phạm pháp luật
của Bộ Y tế, của bệnh viện, của thành phố, kết hợp chặt chẽ với các khoa,
phòng; tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và tinh thần cho đội ngũ điều
dưỡng trưởng khoa trong các hoạt động chuyên môn và công tác sư phạm của
mình. Chú trọng đảm bảo lợi ích vật chất, tiền lương, tiền thưởng, chế độ làm
việc, nghỉ ngơi, sinh hoạt văn hóa, tinh thần có liên quan.
2.2.2.5. Tăng cường quản lý hoạt động học, tự học của học viên
Tự học là hoạt động mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
viên, tự mình tìm tòi, nghiên cứu, tích lũy kiến thức, tri thức, vốn sống, kinh
nghiệm để biến tri thức nhân loại thành tài sản tri thức của riêng mình. Tự học
là tự đặt mình vào tình huống học tập, vào vị trí nghiên cứu, xử lý các tình
52
huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá
trình cá nhân hóa việc học, gắn liền với công tác nghiên cứu khoa học.
Mục tiêu của giải pháp: giúp học viên ý thức rõ ràng trách nhiệm học tập,
tìm kiếm, tích lũy, trau dồi kiến thức, hình thành kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp;
Tạo cho học viên nền nếp, thói quen học tập, làm việc khẩn trương, nghiêm túc;
có phương pháp tư duy khoa học đúng đắn; luôn chủ động, tích cực, sáng tạo
trong các khâu, các bước của quá trình học tập, từng bước vươn lên, hoàn thành
tốt nhiệm vụ học tập, rèn luyện; tự tin vào đời, lập thân, lập nghiệp. Đồng thời,
giúp cán bộ quản lý của nhà trường và bệnh viện nắm bắt được khả năng tự học
của học viên để có biện pháp giúp đỡ họ tiến bộ, trưởng thành.
Nội dung của giải pháp: Tăng cường và đổi mới công tác giáo dục tinh
thần, thái độ học tập cho học viên; Xây dựng động cơ, kế hoạch học tập cho
họ; Chỉ đạo kiểm tra, đánh giá kỹ năng xây dựng kế hoạch học tập của học
viên, đôn đốc họ thực hiện nền nếp kế hoạch học tập; Tăng cường tổ chức,
quản lý, nâng cao chất lượng tự học của học viên. Chú trọng kiểm tra, giám
sát công tác tự học của học viên một cách hệ thống, thường xuyên (kiểm tra
học tập, sổ tay lâm sàng của học viên).
Phương pháp tự học là một chu trình khép kín, gồm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Tự nghiên cứu.
- Giai đoạn 2: Tự thể hiện.
- Giai đoạn 3: Tự kiểm tra, tự điều chỉnh.
Nội dung của quá trình tự học: Xây dựng động cơ học tập; Xây dựng
kế hoạch học tập; Tự mình nắm vững nội dung tri thức; Tự kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập; Nắm vững lý thuyết trước khi đi lâm sàng; Chủ động tích cực
trong học lâm sàng; Phát huy kết quả học tập và thảo luận nhóm, đặt câu hỏi
và giải quyết vấn đề; Tăng cường tiếp súc và học qua bác sĩ khám bệnh, trực
53
đêm, giao ban; Phát huy vai trò, tác dụng của việc học qua ghi chép sổ tay
lâm sàng; Học mọi lúc qua người bệnh.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Đảm bảo điều kiện vật chất cần thiết
cho điều dưỡng trưởng khoa hướng dẫn học viên tự học; Đổi mới phương
pháp dạy học, lấy người học làm trung tâm; Chú ý đến vị trí trung tâm của
người học viên trong hoạt động tập thể để khai thác triệt để những tiềm năng
vốn có của người học, phát huy tính tự giác của học viên; Quan tâm chỉ đạo,
kiểm tra thường xuyên của giáo viên hoặc của điều dưỡng trưởng khoa đối
với học viên thực tập lâm sàng.
2.2.2.6. Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên
Kiểm tra, đánh giá là một bộ phận hợp thành của quá trình giáo dục và
là khâu cuối cùng của quá trình ấy. Đồng thời là sự khởi đầu cho một chu
trình khép kín tiếp theo với một chất lượng mới, cao hơn. Quá trình đánh giá
chủ yếu là quá trình xác định mức độ thực hiện được các mục tiêu trong
chương trình giáo dục .
Kiểm tra, đánh giá có vai trò rất to lớn đối với việc nâng cao chất lượng
đào tạo nói chung, thực tập lâm sàng của học viên nói riêng. Kết quả kiểm
tra, đánh giá là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy - học và quản lý giáo dục.
Nếu kiểm tra, đánh giá sai sẽ dẫn đến những nhận định, đánh giá sai về chất
lượng đào tạo, gây tác hại lớn trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Kiểm tra,
đánh giá nghiêm túc, đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp người
học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập.
Đối với học viên: kiểm tra, đánh giá có tác dụng thúc đẩy quá trình học
tập phát triển không ngừng. Qua kết quả kiểm tra, học viên tự đánh giá mức
độ đạt được của bản thân, rà soát lại hành trang, vốn liếng hiện có để điều
chỉng phương pháp tự ôn tập, củng cố, bổ sung kiến thức nhằm hoàn thiện
54
chương trình, nội dung môn học; nâng cao trình độ học vấn thông qua hệ
thống thao tác tư duy sáng tạo của mình.
Đối với giáo viên: từ kết quả kiểm tra, đánh giá học viên của nhà
trường, bệnh viện, mỗi giáo viên hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng sẽ tự
đánh giá quá trình lao động sư phạm của mình, đặc biệt là phương pháp
truyền dẫn, hướng nghiệp cho học viên. Trên cơ sở đó, không ngừng bổ sung
những mảng kiến thức còn thiếu hụt, quyết tâm nâng cao trình độ và hoàn
thiện bản thân, điều chỉnh phương pháp giảng dạy và phương pháp hướng dẫn
thực tập lâm sàng đối với học viên.
Đối các cấp quản lý: kiểm tra, đánh giá là biện pháp đánh giá kết quả
xây dựng kế hoạch, bố trí thời gian biểu, phân công phân nhiệm cán bộ, giáo
viên và rà soát quy trình triển khai thực tập của học viên; mối quan hệ giữa
nhà trường và bệnh viện, giữa giáo viên với điều dưỡng trưởng khoa cả định
lượng và định tính. Đó là cơ sở để xây dựng đội ngũ giáo viên, điều dưỡng
trưởng khoa ngày càng chuẩn mực; đồng thời, đề xuất các phương án đổi mới
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, v.v., bảo đảm
thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
Trong thực hành lâm sàng, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
viên và giáo viên hướng dẫn học viên thực tập cần phải cẩn trọng. Người đánh
giá phải hết mực công tâm, khách quan, trung thực để mỗi kết luận, nhận định
đưa ra đều được mọi người “tâm phục, khẩu phục”, thấy rõ ưu điểm để phát
huy, khuyết điểm để sửa chữa; tránh nghi kỵ, phàn nàn; thậm chí gây bất bình
trong các đối tượng được đánh giá. Điều đó là góp phần thiết thực hướng đến
thực hiện mục tiêu, mô hình, nội dung chương trình đào tạo điều dưỡng chăm
sóc sức khỏe bệnh nhân một cách an toàn, tiết kiệm, hiệu quả.
Mục tiêu của giải pháp: Giúp học viên bổ sung, củng cố, hoàn thiện
kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp và bồi dưỡng y đức qua thực tập lâm
55
sàng tại bệnh viện; Đồng thời, giúp điều dưỡng trưởng khoa thực hiện tốt hơn
chức trách, nhiệm vụ của mình; giúp cán bộ quản lý đánh giá kết quả đào tạo (cả
về định lượng và định tính) một cách chính xác; từ đó thực hiện tốt hơn chức
năng quản lý nhà nước về hoạt động này.
Nội dung của giải pháp: Xác lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá phù hợp
với mục tiêu, nội dung, chương trình, quy trình, thời gian, phương thức thực
tập với từng nội dung kiểm tra cụ thể, thiết thực. Tổ chức kiểm tra, đánh giá kết
quả cuối đợt thực tập về kỹ thuật thao tác tay nghề dựa vào bảng kiểm tra kỹ
thuật một cách nghiêm túc, chính xác, đúng quy định hiện hành. Kiểm tra, đánh
giá phải mang tính khách quan, toàn diện, có hệ thống và công khai. Đồng thời,
đảm bảo tính thuận tiện của việc sử dụng công cụ đánh giá. Chú trọng kiểm tra
việc thực hiện nền nếp, kỷ luật, ý thức tự học, tự rèn của học viên.
Điều kiện để thực hiện giải pháp:
- Giáo viên và điều dưỡng trưởng khoa thường xuyên tổ chức các buổi
định kỳ để trao đổi, rút kinh nghiệm xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch
hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá học viên thực tập phù hợp với mục tiêu chương
trình, nội dung, phương pháp đào tạo. Đồng thời, đánh giá năng lực thực
hành, thao tác tay nghề của học viên để có biện pháp điều chỉnh cho hợp lý
hơn. Qua đó, đổi mới nhận thức và nâng cao năng lực quản lý học viên thực
tập cho điều dưỡng trưởng khoa và giáo viên về công tác hướng dẫn và
phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên.
2.2.2.7. Hợp đồng với Nhà trường về thời gian thực tập của học viên
Muốn cho quy trình trên đạt hiệu quả cao thì nhất thiết phải có thời
gian thực hiện các bước của quy trình. Bệnh viện Nhân dân Gia định là một
bệnh viện đa khoa nên có nhiều thuận lợi trong việc bố trí học viên thực tập
gần đủ các chuyên khoa nên vấn đề là phải bàn bạc thống nhất về thời gian
thực tập giữa Nhà trường và Bệnh viện trước khi đưa học viên đến thực tập.
Theo dự kiến thì thời gian thực tập tối thiểu của học viên là từ 6 đến 8 tuần.
56
2.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của giải pháp được
đề xuất
Để thực hiện một khảo nghiệm hoàn chỉnh, tác giả luận văn chọn
trường A để thực hiện quy trình (theo từng bước đã đề ra). Trường A gồm 47
học viên năm thứ nhất đã đi thực tập tại 01 bệnh viện khác.
2.3.1. Kết quả kiểm tra kiến thức và thực hành đầu vào
2.3.1.1. Kết quả kiểm tra kiến thức
Tổng số học viên: 47
- Tỷ lệ đạt từ 8 điểm trở lên: 12,7%;
- Tỷ lệ đạt từ 5 đến dưới 8 điểm: 72,4%;
- Tỷ lệ đạt từ 0 đến dưới 5 điểm: 14,9%.
2.3.1.2. Kết quả kiểm tra thực hành
Tổng số học viên: 47
- Tỷ lệ đạt từ 8 điểm trở lên: 10,6%;
- Tỷ lệ đạt từ 5 đến dưới 8 điểm: 74,4%;
- Tỷ lệ đạt từ 1 đến dưới 5 điểm: 14,8%.
2.3.2. Kết quả huấn luyện sau khi kiểm tra đầu vào
2.3.2.1. Chương trình huấn luyện bệnh viện
Chương trình huấn luyện bệnh viện gồm một số bài học về các kỹ thuật
cơ bản có lồng ghép giữa lý thuyết và thực hành.
( Xem Bảng 2.6. Chương trình huấn luyện học viên điều dưỡng năm
thứ nhất, trường...năm 2013 - Phụ lục số 03 )
2.3.2.2. Chương trình huấn luyện tại khoa
Chương trình huấn luyện tại khoa do điều dưỡng trưởng khoa tiến
hành. Điều dưỡng trưởng khoa căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và phân loại
57
học viên qua kiểm tra kiến thức đầu vào thực tập để tiến hành các nội dung
hướng dẫn học viên thực hành lâm sàng. Trong đó, chú trọng:
- Hướng dẫn học viên thực hiện nội dung bảng kiểm tra thực hành 02
kỹ thuật cơ bản thường gặp: tiêm thuốc và truyền dịch.
- Thao tác mẫu để học viên quan sát và làm theo mẫu.
- Quan sát, uốn nắn các học viên thao tác kỹ thuật thực hành.
- Giám sát, nhắc nhở, điều chỉnh hành vi của học viên.
- Đánh giá, nhận xét kết quả đợt thực tập về kỹ năng thực hành.
Những công việc nêu trên do điều dưỡng trưởng khoa thực hiện tại khoa
mình phụ trách dưới sự trợ giúp đắc lực của các điều dưỡng viên khác.
2.3.3. Kết quả kiểm tra kiến thức và thực hành đầu ra
2.3.3.1. Kết quả kiểm tra kiến thức
Tổng số học viên: 47
- Tỷ lệ đạt từ 8 điểm trở lên: 63,8%;
- Tỷ lệ đạt từ 5 đến dưới 8 điểm: 36,2%;
- Tỷ lệ đạt từ điểm 0 đến dưới 5 điểm: 0%.
2.3.3.2. Kết quả kiểm tra thực hành
Tổng số học viên: 47
- Tỷ lệ đạt từ 8 điểm trở lên: 51,1%;
- Tỷ lệ đạt từ 5 đến dưới 8 điểm: 44,6%
- Tỷ lệ đạt từ điểm 0 đến dưới 5 điểm: 4,3%
2.3.4. Biểu đồ so sánh kết quả đầu vào và đầu ra
Từ sự phân tích trên và kết quả của nó được biểu hiện trên biểu đồ, có
thể nhận thấy khá rõ sự chênh lệch ở mức độ nhất định kết quả kiểm tra chất
lượng đầu vào và đầu ra trên hai mặt cơ bản: kiến thức và thực hành của học
viên. Quan sát 02 biểu đồ dưới đây, có thể chứng thực nhận định nêu trên.
Biểu đồ 2.7. So sánh kết quả kiểm tra kiến thức đầu vào, đầu ra
58
Nguồn: Kết quả kiểm tra lý thuyết đầu vào tại BV, tháng 05/2013
Kết quả kiểm tra lý thuyết đầu ra tại BV, tháng 06/2013
Biểu đồ 2.8. So sánh kết quả kiểm tra thực hành đầu vào, đầu ra
Nguồn: Kết quả kiểm tra thực hành đầu vào tại BV, tháng 05/2013
Kết quả kiểm tra thực hành đầu ra tại BV, tháng 06/2013
59
2.3.5. Hoạt động học của học viên và bảng khảo sát ý
kiến của học viên
Sau một tháng thực tập lâm sàng, điều dưỡng trưởng khoa và Bệnh viện
tiến hành thu thập ý kiến của các học viên trường A (trường đưa vào khảo
nghiệm, gồm 47 học viên). Kết quả thu được như sau (xem Bảng 2.9. Ý kiến
học viên sau 01 tháng thực tập - Phụ lục 4 )
Sau 02 tháng thực tập, điều dưỡng trưởng khoa và Bệnh viện tiến hành
thu thập thêm một số thông tin từ 46 học viên (xem Bảng 2.10. Ý kiến học
viên sau 02 tháng thực tập - Phụ lục 5)
2.3.6. Ý kiến nhận xét của giáo viên các trường
Qua tham khảo ý kiến của giáo viên một số trường đào tạo điều dưỡng
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy, đa số các ý kiến
của giáo viên đều cho rằng, họ rất đồng tình và rất hoan nghênh những điểm
mới trong thực hiện quy trình này; bởi lẽ, nó có các ưu điểm nổi trội:
- Học viên ý thức rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ học tập.
- Giúp cho giáo viên nắm bắt đầy đủ thông tin cần thiết về học viên
thực tập ngay từ đầu, nhất là hiểu rõ trình độ, kiến thức, năng lực của từng
học viên, qua đó giáo viên có sự điều chỉnh, bổ sung các biện pháp cần thiết,
sát thực; giúp học viên thực tập tiến bộ từng ngày.
- Tạo được mối quan hệ gần gũi, thân thiết giữa giáo viên - học viên.
Kiến thức, tay nghề của giáo viên và học viên đều có bước phát triển, tiến bộ,
trưởng thành.
2.3.7. Ý kiến nhận xét của các điều dưỡng trưởng khoa
Cùng với việc tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn học viên
thực tập, chúng tôi đồng thời tranh thủ ý kiến của các điều dưỡng trưởng
khoa , kết quả cho thấy, đa số ý kiến của các điều dưỡng trưởng khoa cho
60
rằng, họ cơ bản đồng ý với quy trình đang tổ chức thực hiện, bởi vì, nó có
một số ưu điểm:
- Giúp học viên ý thức rõ ràng hơn nhiệm vụ học tập và đề cao tinh thần
trách nhiệm của họ đối với nghề nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
- Giúp giáo viên cũng như điều dưỡng trưởng khoa nắm bắt được ngay
từ đầu trình độ của từng học viên để có biện pháp hướng dẫn họ thực tập một
cách thiết thực, phù hợp, hiệu quả.
- Giáo viên cũng như điều dưỡng trưởng khoa tự ý thức rõ hơn về giá trị
y đức, tay nghề và tầm quan trọng của việc đổi mới công tác hướng dẫn học
viên thực tập lâm sàng, giúp họ phát triển xu hướng nghề nghiệp, củng cố tay
nghề điều dưỡng.
Tuy nhiên, không ít điều dưỡng trưởng khoa vẫn còn băn khoăn về quy
trình đánh giá này; có thể nêu cụ thể một số điểm họ còn băn khoăn là:
- Số lượng giáo viên hướng dẫn học viên thực tập của các nhà trường
như hiện tại là quá ít nên việc kiểm tra, đôn đốc, theo dõi các học viên trong
quá trình thực tập còn gặp nhiều khó khăn.
- Công tác quản lý khoa của các điều dưỡng trưởng khoa thường quá
bận nên thời gian dành cho việc quản lý, hướng dẫn học viên không được
nhiều, trong khi đó số lượng học viên thực tập lại đông và không ngừng tăng
lên. Nếu áp dụng quy trình này thì phải bàn tính thêm sự phối kết hợp chặt
chẽ hơn giữa các điều dưỡng trưởng khoa của Bệnh viện và các giáo viên,
giảng viên của các Nhà trường sao cho thực tế, thiết thực, hiệu quả hơn; tránh
tình trạng “giao khoán cho một bên”.
2.4. Nhận xét đối với học viên, điều dưỡng trưởng
khoa và giáo viên
2.4.1. Đối với học viên
61
Thực tập lâm sàng là một “công đoạn bắt buộc” của học viên trong quá
trình đào tạo điều dưỡng. Về thực chất, thực tập lâm sàng là học tập trong
thực tiễn, một mắt khâu tất yếu để kiểm nghiệm chất lượng, hiệu quả học tập
lý thuyết của học viên và kết quả giảng dạy của đội ngũ giáo viên, điều dưỡng
trưởng khoa. Thực tập lâm sàng giúp học viên nhận thức đầy đủ hơn, sáng rõ
hơn lý thuyết; vị trí, vai trò, tầm quan trọng của người điều dưỡng và chức
năng, nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Đây cũng là công việc
cần thiết để rèn luyện tay nghề cho học viên; đặc biệt là giúp họ tự tin hơn khi
tiến hành các thao tác điều dưỡng trên người bệnh. Đồng thời, qua thực tế
chăm sóc bệnh nhân, học viên rèn luyện cách giao tiếp, quan hệ với mọi
người, tự tin hơn khi giao tiếp với người bệnh, thấy rõ giá trị của lao động và
ý nghĩa cuộc sống. Hơn thế nữa, thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân đối
với sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Về ý kiến của các học viên sau 01 tháng thực tập: Có 68% ý kiến học
viên được hỏi cho rằng, họ cảm nhận rất rõ ràng sự khác biệt giữa việc dạy kỹ
thuật thực hành tại bệnh viện với học lý thuyết tại trường. Khảo sát này cơ
bản trùng hợp với khảo sát, đánh giá của các tác giả công trình do Nguyễn
Lương Thao làm chủ nhiệm “Khảo sát sự hài lòng của học sinh, sinh viên
trường Cao đẳng y tế Đồng Nai về quá trình thực tập tại trường và bệnh viện
năm học 2012 - 2013”.
Tuy nhiên, 55% ý kiến học viên cho rằng, thời gian thực tập tại Bệnh
viện 01 tháng là đủ (không nên tăng thêm). Trong khi đó, các tác giả của đề
tài do Nguyễn Lương Thao làm chủ nhiệm lại khẳng định: có 77,8% ý kiến
học viên cho rằng, họ hài lòng về kết quả thực tập tại Bệnh viện và mong
muốn tăng thêm thời gian thực tập thì tốt hơn. Tuy chỉ là một “kênh” tham
khảo, song những người có trách nhiệm cần cân nhắc kỹ lưỡng các luồng
62
thông tin để có biện pháp điều chỉnh kế hoạch thực tập lâm sàng của học viên
sao cho phù hợp, thiết thực, hiệu quả.
Đánh giá thái độ và hiệu quả sự giúp đỡ của điều dưỡng trưởng khoa
đối với học viên thực tập, có 11% ý kiến học viên cho rằng, các điều dưỡng
trưởng khoa tận tâm, tận lực và dành nhiều thời gian hướng dẫn học viên thực
hành lâm sàng; 64% ý kiến học viên đề xuất: Nhà trường và Bệnh viện cần
cải tiến hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo hướng sát thực tế
hơn. Theo đó, 57% ý kiến học viên mong muốn Nhà trường và Bệnh viện cần
hướng dẫn kỹ thuật thực hành cho học viên kỹ hơn. Nhìn chung, tuyệt đại đa
số học viên đều khẳng định: chương trình huấn luyện của bệnh viện trong 01
tháng là rất cần thiết đối với học viên; trong đó có 45% ý kiến học viên đề
nghị tăng thêm thời gian thực tập lâm sàng tại Bệnh viện .
Như vậy, sau khi kết thúc 01 tháng thực tập và hoàn tất chương trình
huấn luyện của bệnh viện, các học viên thực tập lâm sàng tại khoa đều đạt
chất lượng trung bình trở lên. Sau 02 tháng thực tập, chúng tôi khảo sát lại và
rất vui mừng, phấn khởi vì có đến 80,4% ý kiến học viên khẳng định: họ đã tự
tin hơn khi thực hiện kỹ thuật lâm sàng, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp, tiếp xúc
với bệnh nhân. Trong đó có 8,6% ý kiến học viên cho rằng, sau thực tập, họ
rất tự tin khi thực hiện các kỹ thuật điều dưỡng trên bệnh nhân và biết cách
“động viên” bệnh nhân.
Điều đáng lưu tâm đối với các cấp quản lý là 84,8% ý kiến học viên
cho rằng, công việc thường làm nhất khi thực tập tại Bệnh viện là thực hiện
kỹ thuật và nên tăng thời gian làm kỹ khâu này; 15,2% ý kiến học viên cho
rằng, công việc thường làm của học viên khi thực tập ở bệnh viện là tiếp
xúc với bệnh nhân, nâng cao trình độ giao tiếp, ứng xử; động viên sức khỏe
bệnh nhân.
63
Đa số học viên cho rằng, nếu được thực tập lâm sàng nhiều hơn thì kỹ
năng nghề nghiệp sẽ thành thạo hơn. Có 19,6 % ý kiến của học viên mong
muốn được đi lâm sàng với điều dưỡng trưởng khoa. Điều này đặt ra vấn đề:
tai sao không có nhiều học viên mong muốn đi lâm sàng cùng với điều dưỡng
trưởng khoa, mặc dù các điều dưỡng trưởng khoa có nhiều kinh nghiệm nghề
nghiệp và tay nghề cao?
Sổ tay lâm sàng là một “công cụ”, “phương tiện” cần thiết để ghi chép
thông tin hàng ngày, kiến thức thực tập lâm sàng, theo dõi công việc và kết
quả thực hiện; đồng thời, ghi chép lại những điều hay, cái mới mà mình chưa
biết qua giao ban khoa, qua bạn bè, bác sĩ, điều dưỡng bệnh phòng, qua bệnh
nhân và các công việc, kỹ thuật đã thực hiện trong ngày. Quyển sổ này khá
quan trọng không chỉ trong quá trình thực tập lâm sàng mà còn có tác dụng
tham khảo sau này cho điều dưỡng viên. Thế nhưng, qua khảo sát thực tế,
chúng tôi nhận thấy: có 89,1 % học viên có sổ tay lâm sàng và trong số đó,
chỉ có 19,5% học viên có sổ tay ghi chép đạt yêu cầu; 14,7 % sổ tay ghi chép
sơ sài, chất lượng ghi chép rất kém. Đây là vấn đề mà giáo viên và điều
dưỡng trưởng khoa cần phải lưu tâm hướng dẫn tỷ mỉ hơn và kiểm tra sổ tay
lâm sàng của học viên hàng ngày để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục thiếu sót
mà học viên mắc phải.
2.4.2. Đối với điều dưỡng trưởng khoa
Kết quả điều tra, khảo sát thực tế đã chỉ ra rằng, hiện nay vẫn còn một
bộ phận không nhỏ điều dưỡng trưởng khoa chưa dành nhiều thời gian, công
sức, trí tuệ hướng dẫn học viên thực tập hoặc chưa có kế hoạch hướng dẫn cụ
thể đối với các nhóm học viên. Những điều dưỡng trưởng khoa thuộc diện
này cần tự phê bình nghiêm túc, kịp thời rút ra bài học kinh nghiệm bổ ích để
khắc phục những hạn chế, bất cập; xây dựng hình ảnh tốt đẹp của điều dưỡng
trưởng khoa trước học viên. Muốn vậy, điều dưỡng trưởng khoa cần xác định
64
cụ thể hơn mục tiêu hướng dẫn, truyền nghề cho học viên, nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng và có kế hoạch chi tiết để dạy cho từng loại đối tượng học viên
cụ thể. Đây là một công việc cần dành nhiều thời gian, công sức, trí tuệ; song
làm đựoc như thế, nó sẽ giúp điều dưỡng trưởng khoa đưa công tác hướng
dẫn học viên thực tập dần dần đi vào nền nếp; theo đó, việc đánh giá chất
lượng học viên thực tập sẽ chính xác và công bằng hơn.
Một trong những công việc đang làm nhưng cần đổi mới, cải cách để
tăng tính hiệu quả là, điều dưỡng trưởng khoa cần phổ biến kỹ lưỡng nội qui
bệnh viện và bệnh phòng cũng như yêu cầu, nhiệm vụ và công việc cụ thể mà
học viên phải thực hiện ngay từ ngày đầu tiên khi họ nhập học. Có kế hoạch
giảng dạy từng đối tượng học viên và phối hợp tốt với các giáo viên trong thời
gian học viên đi thực tập. Điều quan trọng là nắm bắt những điểm yếu nhất
của học viên để tập trung khắc phục cho được; tránh chạy theo, chạy hết
chương trình đã vạch sẵn như “cái máy”. Giải quyết tốt điều này sẽ tránh
được dồn ép, sai lệch mục tiêu hướng dẫn và nâng cao được chất lượng thực
tập của học viên.
Mặt khác, điều dưỡng trưởng khoa cần tạo không khí thân mật, gần gũi,
thông cảm, tránh những chỉ trích làm tổn thương học viên. Công việc này là
cần thiết vì nó giúp giáo viên, điều dưỡng trưởng khoa khắc phục dần khoảng
cách giữa thầy và trò; tạo cơ hội để học viên gần gũi thầy. Cần coi việc khắc
phục “bức tường ngăn cách giáo viên - học viên” tồn tại lâu nay là khâu đột
phá để nâng cao chất lượng hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng tốt hơn.
Có như vậy, giáo viên, điều dưỡng trưởng khoa mới khuyến khích học
viên tham gia thực hành với sự nhiệt tình cao, trách nhiệm, chất lượng tốt. Đó
cũng là cách tốt nhất để khắc phục những hạn chế, thiếu sót do giáo viên, điều
dưỡng trưởng khoa mắc phải trong quá trình công tác, thực hiện nhiệm vụ
hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng.
65
2.4.3. Đối với giáo viên
Trong mọi trường hợp, giáo viên, giảng viên cần thông báo đầy đủ, rõ
ràng kế hoạch dạy học ngay từ đầu năm học cho học viên biết, chỉ cho họ rõ
mục tiêu, cái đích cần đến, những việc cần làm. Đó là sự cần thiết để cả thầy
và trò sớm thống nhất với nhau về phương thức, nội dung học tập, thực tập
lâm sàng.
Hơn ai hết, giáo viên là người biết khá rõ tâm lý học tập của học viên,
không phải lúc nào họ cũng tích cực tham gia thực tập. Vì vậy, giáo viên cần
quản lý chặt chẽ và tạo mọi điều kiện để học viên tham gia đầy đủ, nghiêm
túc các thực tập, cần hiểu gần gũi học viên để hiểu hơn tâm tư, nguyện vọng
của họ, không nên chỉ trích họ vì những kiến thức và kỹ năng mà học viên
chưa đạt được như mình mong muốn, đặc biệt là đối với những học viên năm
đầu tiên khi đi thực tập tại bệnh viện. Không nên gây sức ép để họ luôn cảm
thấy căng thẳng khi tiếp xúc với môi trường bệnhn tình, với việc luôn bị quan
sát chặt chẽ của bác sĩ, điều dưỡng, hộ lý trong khoa.
Cuối đợt thực hành, cần dựa vào bảng chỉ tiêu lâm sàng để tổ chức họp
nhóm, lớp; có nhận xét cụ thể những công việc đã làm, những việc chưa làm
được so với chỉ tiêu của nhà trường đề ra, lý do vì sao chưa làm được, có kiến
nghị để nhà trường kịp thời điều chỉnh, bổ sung các nội dung còn thiếu, chưa
phù hợp để lần sau tiến hành tốt hơn.
Giáo viên nên thường xuyên có mặt sớm tại khoa để làm công tác chuẩn
bị, kịp thời hướng dẫn hoặc giải đáp các thắc mắc của học viên cũng như giải
quyết các vấn đề phát sinh, có liên quan đến công việc thực tập của học viên.
của bệnh viện và nhà trường.
*
* *
66
Điều dưỡng là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe nhân dân của các bệnh viện, trung tâm y tế. Ngày nay, vai trò
của điều dưỡng đã được nâng cao trong việc quản lý các cơ sở chăm sóc ban
đầu, bệnh viện, tham gia khám và điều trị, chăm sóc sức khỏe bệnh nhân theo
chuyên ngành của điều dưỡng.
Kỹ năng thực hành lâm sàng là một phần đặc biệt quan trọng trong giảng
dạy y khoa, nhờ các kỹ năng lâm sàng mà học viên có thể lồng ghép các kiến
thức đã học với thực tế bệnh tình của bệnh nhân để ra các quyết định đúng đắn,
chính xác, hiệu quả trong thăm khám, chăm sóc sức khỏe bệnh nhân.
Vì vậy, điều chỉnh, cải tiến quy trình nâng cao chất lượng đào tạo điều
dưỡng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Lãnh đạo thành phố, các cơ quan chức
năng đã có chủ trương không phân biê ̣t đối với trường công và trường ngoài
công lâ ̣p trong đào tạo điều dưỡng, hộ sinh, nhưng yêu cầu các nhà trường phải
có chuẩn đầu vào và đầu ra để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Thành
phố sẽ xúc tiến thành lập Hội đồng chuyên gia gồm các thành viên của các cơ
sở đào tạo khối ngành sức khỏe trên địa bàn; đồng thời, các trường phối hợp
với các bệnh viện để xây dựng chuẩn đầu vào, đầu ra các ngành, kết hợp chặt
chẽ bệnh viện - nhà trường, các cơ sở đào tạo trong giảng dạy, nghiên cứu,
hướng dẫn thực hành, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành
y của thành phố; trong đó có chất lượng đào tạo điều dưỡng, hộ sinh.
Một trong những mắt khâu có ý nghĩa quyết định việc nâng cao chất
lượng đào tạo điều dưỡng là đổi mới quy trình hướng dẫn học viên thực tập
lâm sàng, đánh giá kết quả thực tập của họ; giúp họ rèn luyện kỹ năng tay
nghề điều dưỡng, Vì vậy, việc đổi mới quy trình hướng dẫn và đánh giá kết
quả thực tập lâm sàng cần theo hướng gợi mở về nội dung, đồng thời tăng
cường công tác quản lý về chấp hành kỹ luật học tập, rèn y đức. cần đưa vào
quy chế, quy định những điều khoản “cứng”, bắt buộc các học viên phải tham
67
gia thực tập đầy đủ, nghiêm túc, phải ôn tập, xem lại bài trước khi đi thực tập
bệnh viện; phải rèn kỹ y đức, tinh thần, trách nhiệm của “lương y như từ mẫu”,
đặc biệt là rèn đức tính chu đáo, cẩn trọng, khiêm tốn. Loại bỏ quan niệm xấu
đang tồn tại trong học viên “học sao cũng được, rồi cũng sẽ tốt nghiệp”, “vào
được ra được”. Đổi mới quy trình đánh giá chất lượng thực tập lâm sàng của học
viên. Muốn vậy, cần thực hiện nghiêm túc quy trình đánh giá kết quả thực tập
lâm sàng như sau:
Bước 1: Kiểm tra kiến thức tổng quát đầu vào
Bước 2: Kiểm tra kỹ năng thực hành đầu vào.
Bước 3: Tổ chức lớp hướng dẫn song song với thời gian thực tập và bắt
đầu ngay sau khi đã có những đánh giá ban đầu theo chương trình huấn luyện
đã được xây dựng. Kiên quyết loại bỏ những học viên không đạt yêu cầu;
không “châm chước” bất cứ trường hợp nào quá non yếu.
Bước 4: Kiểm tra kiến thức đầu ra.
Bước 5: Kiểm tra kỹ năng thực hành đầu ra.
Bước 6:
-Phối hợp sự đánh giá, nhận xét của giáo viên hướng dẫn và điều dưỡng
trưởng khoa để đi đến đánh giá cuối đợt thực tập. Kiên quyết không hạ thấp
tiêu “chuẩn” đầu ra, nhất là những học viên vi phạm thời gian thực tập, vi
phạm kỹ luật và chất lượng thực hành non kém.
- Sử dụng bảng chấm điểm thực tập lâm sàng mới gồm 9 tiêu chí (đã
nêu trong phần 2.2.2.).
68
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Ngày nay, khi cuộc sống vật chất, tinh thần của xã hội và mức sống của
nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt thì nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe cho họ theo đó cũng tăng lên không ngừng. Vì vậy, vai trò của người
điều dưỡng ngày càng được đề cao, quý trọng trong việc theo dõi, chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe người dân. Điều này đã và đang được Đảng, Nhà nước, các
cơ quan, ban ngành của Trung ương và địa phương quan tâm, có nhiều chủ
trương, chính sách an sinh xã hội. Trong đó có các chính sách về chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe nhân dân. Các bệnh viện, nhà trường và các khoa điều dưỡng
và đội ngũ cán bộ, điều dưỡng viên theo đó cũng được quan tâm về mọi mặt,
nhất là quan tâm về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ điều dưỡng, hộ sinh;
cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng, đảm bảo tốt hơn nhu cầu dịch vụ,
chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Để đào tạo được đội ngũ điều dưỡng có y đức tốt, tay nghề cao, đáp
ứng nhu cầu dịch vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày càng tốt, đòi
hỏi công tác đào tạo điều dưỡng phải được chuẩn hóa và hiện đại hóa và xã
hội hóa. Góp phần thực hiện nhiệm vụ này, tác giả luận văn với nhiều năm
công tác trong ngành điều dưỡng, trực tiếp hướng dẫn học viên thực tập lâm
sàng, trong luận văn của mình, xin được kết luận:
69
- Tăng cường công tác quản lý học viên thực tập lâm sàng, nhất là quản
lý nội dung, chương trình và đánh giá chính xác kết quả thực tập của học viên
điều dưỡng có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là một mắt khâu mang tính đột phá
để nâng cao trình độ tay nghề điều dưỡng và rèn luyện các phẩm chất y đức
của học viên.
- Cơ sở khoa học của việc đánh giá kết quả thực tập lâm sàng của học
viên cần phải đổi mới, trên cơ sở kế thừa, bổ sung, cập nhật và hoàn thiện quy
trình đánh giá sao cho quy trình này đạt chuẩn mực đầu vào và chuẩn đầu ra.
Qua nghiên cứu, tác giả luận văn đề xuất bổ sung, cập nhật và hoàn thiện quy
trình đánh giá gồm sáu bước như sau :
Bước 1: Kiểm tra kiến thức tổng hợp đầu vào
Bước 2: Kiểm tra kỹ năng thực hành đầu vào
Bước 3: Hướng dẫn chương trình huấn luyện đã được xây dựng.
Bước 4: Kiểm tra kiến thức đầu ra
Bước 5: Kiểm tra kỹ năng thực hành đầu ra
Bước 6: Phối hợp sự đánh giá, nhận xét của giáo viên hướng dẫn
và điều dưỡng trưởng khoa - Sử dụng bảng chấm điểm thực tập lâm
sàng với 9 tiêu chí đã xác định.
Nếu áp dụng quy trình nêu trên thì giáo viên và điều dưỡng trưởng
khoa có thể nắm vững chắc khả năng thực tế của học viên. Trên cơ sở đó,
phân loại học viên, bổ sung các nội dung cần thiết, xác định phương pháp,
hình thức hướng dẫn học viên thực hành một cách phù hợp; đồng thời, qua đó
học viên biết rõ hơn khả năng thực tế của mình, những kiến thức thiếu hụt và
các mảng kiến thức cần bổ sung trong thời gian thực tập; có ý thức phấn đấu
vươn lên. Nhờ đó mà tạo sự đồng thuận giữa người dạy và người học trong
việc triển khai các công việc rèn y đức, luyện tay nghề; thống nhất việc nhận
xét, đánh giá; khắc phục được tình trạng “ngộ nhận”, đánh giá quá cao bản
70
thân của học viên; dùng các quan hệ để gây sức ép đối với giáo viên, điều
dưỡng trưởng khoa về việc chấm điểm, “cho điểm”.
Quy trình này đã được khảo nghiệm và nó đã chứng tỏ tính khoa học,
tính thực tiễn và tính khả thi qua kết quả đã thu nhận được. Tác giả luận văn
tin tưởng rằng, nếu áp dụng đồng bộ hệ thống giải pháp nêu trong luận văn thì
chất lượng thực tập lâm sàng của học viên tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định
từng bước nhất định sẽ được nâng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân Thành phố.
2. Kiến nghị
Để triển khai thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, tác giả luận văn xin
có một số các kiến nghị như sau:
2.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Hiện nay, chương trình khung giáo dục trung học chuyên nghiệp ngành
điều dưỡng đa khoa có thời gian đào tạo là 2 năm giống như một số trường
trung cấp nghề khác. Thời gian đào tạo như vậy là quá ngắn đối với ngành y,
không tương đương với chuẩn của khu vực ASEAN, chưa đạt chuẩn theo
khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, của Hội đồng điều dưỡng và của Liên
đoàn hộ sinh quốc tế.
Điều dưỡng là một nghề đặc biệt vì đối tượng hành nghề là cơ thể người
sống nên phải hết sức thận trọng. Trước thực trạng tay nghề của các điều
dưỡng hiện nay thì việc nên tăng thời gian đào tạo cho họ; trong đó, tăng thời
gian thực tập lâm sàng cho các học viên, giúp họ luyện tập thuần thục các kỹ
năng có ý nghĩa rất quan trọng. Điều này phù hợp với chương trình đào tạo
điều dưỡng của khối ASEAN hiện nay.
Chính phủ Việt Nam đã ký kết với đại diện các nước năm 2006 và có
hiệu lực thực hiện cam kết kể từ năm 2009 về Thỏa thuận khung thừa nhận
lẫn nhau về dịch vụ điều dưỡng giữa các nước ASEAN; trong đó Tổ chức Y
tế thế giới, Hội đồng điều dưỡng thế giới, Liên đoàn hộ sinh thế giới đã đưa ra
chuẩn đào tạo cho điều dưỡng, hộ sinh tối thiểu là cao đẳng với thời gian đào
71
tạo chuyên ngành 3 năm. Khuyến cáo này đã được chính phủ của nhiều quốc
gia thừa nhận; trong đó có các nước ASEAN. Việt Nam cần nghiên cứu và
thực hiện những điều khoản đã cam kết và những công việc mà các nước đã
và đang thực hiện đối với đào tạo điều dưỡng.
Mười quốc gia ở khu vực Đông Nam Á đã ký các thỏa thuận khung về
công nhận dịch vụ y, điều dưỡng và nha khoa. Theo đó, cho phép công dân
của các nước thành viên có chứng chỉ hành nghề hợp pháp được hành nghề y,
điều dưỡng, nha khoa ở các nước thành viên. Đây vừa là cơ hội để đào tạo
điều dưỡng, hộ sinh theo các chuẩn quốc tế để chuẩn bị nguồn nhân lực điều
dưỡng, hộ sinh có tay nghề cao phục vụ trong nước và khi có điều kiện, Việt
Nam có thể đưa điều dưỡng đi xuất khẩu lao động, đặc biệt nhu cầu này ở các
nước phát triển rất cao.
2.2. Đối với nhà trường
- Căn cứ vào số lượng học viên đưa đến Bệnh viện thực tập để bố trí,
sắp xếp đủ số lượng giáo viên làm công tác quản lý học viên và phối hợp tốt
với Phòng Điều dưỡng, các điều dưỡng trưởng khoa của Bệnh viện để hướng
dẫn học viên thực tập lâm sàng. Phối hợp với Bệnh viện để bổ sung các
phương tiện kỹ thuật hiện đại, tạo điều kiện để học viên tiếp cận với kỹ thuật
mới, tiên tiến về điều dưỡng. Khắc phục tình trạng thực tập “chay” hoặc thực
tập trên máy móc, phương tiện cũ kỹ, lạc hậu.
- Cần thống nhất qui trình kỹ thuật giữa giáo viên của nhà trường và
phòng điều dưỡng của bệnh viện. Trọng tâm là hướng vào đổi mới phương
pháp hướng dẫn thực hành, giúp học viên tự tin, có hứng thú, hăng say trong
quá trình thực tập tại bệnh viện.
- Nên sắp xếp thời gian thực tập tại bệnh viện phù hợp với từng đối tượng.
- Tăng thời gian thực tập lâm sàng cho học viên, nhất là thực tập kỹ
thuật vì kỹ năng thường đòi hỏi sự lặp đi lặp lại nhiều lần mới đạt đến sự
thuần thục và bước đầu, học viên tích lũy được kinh nghiệm cũng như sự
thành thạo nhất định các thao tác của nghề.
72
- Bệnh viện Nhân dân Gia định là một bệnh viện đa khoa với đầy đủ các
chuyên khoa Nội, Ngoại, Sản, Nhi… Nhà trường nên sắp xếp cho các học
viên năm thứ nhất thực tập các kỹ thuật cơ bản của các chuyên ngành trong
thời gian dài tại bệnh viện sẽ giúp cho quá trình hướng dẫn và đánh giá học
viên được thuận lợi hơn, tay nghề của học viên vững vàng hơn.
- Tạo điều kiện thuận lợi về nơi làm việc, các phương tiện vật chất và
2.3. Đối với Bệnh viện
thời gian cho đội ngũ điều dưỡng trưởng khoa; giúp họ được thường xuyên
tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề, nghiệp vụ quản lý, bổ sung,
cập nhật kiến thức khoa học quản lý giáo dục trong và ngoài nước. Đồng thời,
luân phiên tổ chức hàng năm các đợt đi khảo sát thực tế, thăm quan học tập
công tác của điều dưỡng ở các bệnh viện phía Bắc nước ta và một số bệnh
- Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học chuyên
viện nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Á, thế giới.
đề, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn và công tác quản lý học viên
thực tập lâm sàng giữa các bệnh viện và các nhà trường đào tạo điều dưỡng
tại thành phố Hồ Chí Minh với các nhà trường, bệnh viện cả nước.
- Đổi mới chính sách tiền lương, tiền thưởng, tiền làm ngoài giờ, tham
gia các công việc độc hại, v.v., cũng như cải tiến chế độ khen thưởng, phong
tăng các danh hiệu ngành y, ngành giáo dục đào tạo; đi thăm quan, công tác
trong và ngoài nước...; tạo động lực mới, góp phần động viên, khuyến khích
điều dưỡng trưởng khoa mang hết tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm, tài năng,
tâm đức hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng.
- Phối hợp với các cơ quan quản lý của Thành phố, các Nhà trường đào
tạo điều dưỡng gửi học viên đến thực tập tại Bệnh viên để đầu tư mở rộng
phòng học, phòng họp; bổ sung, mua sắm mới một số trang thiết bị tiên tiến
hiện đại phục vụ học viên thực tập lâm sàng.
2.4. Đối với đội ngũ điều dưỡng trưởng khoa của bệnh viện
73
- Làm tốt hơn nữa công tác nêu gương, mô phạm, mẫu mực về y đức.
Tích cực hơn nữa trong việc hướng dẫn học viên thực tập lâm sàng.
- Thường xuyên học tập, bổ sung tri thức mới về chuyên môn nghiệp
vụ. Áp dụng các phương pháp giảng dạy lâm sàng tiên tiến, hiện đại vào công
tác huấn luyện học viên.
- Xây dựng bầu không khí thân mật, hiểu biết, giúp đõ lẫn nhau giữa
thầy và trò. Tạo điều kiện thuận lợi để học viên thực tập đạt kết quả tốt hơn,
có tâm thế tốt trước khi bước vào nghề và hành nghề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tiếng Việt
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo
giai đoạn 2006 - 2020, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Bộ Y tế (2011), Chương trình hành động quốc gia về tăng cường công tác
điều dưỡng, hộ sinh từ nay đến năm 2020.
3. Chỉ thị số 46/2008/CT - BGD&ĐT ngày 05/8/2008 về việc tăng cường
công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục.
4. Nguyễn Kim Dung, Phạm Xuân Thanh Bộ, Về một số khái niệm thường
dùng trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, Tạp chí Giáo dục, số
66, tháng 9/2003 .
5. Nguyễn Bá Dương, Thực trạng và giải pháp tiếp tục đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, đáp ứng nhu cầu
mới, Tạp chí Giáo dục Lý luận Chính trị quân sự; số 4, năm 2007
6. Phạm Minh Hạc (2001), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Vi Nguyệt Hồ và Phạm Đức Mục (2005), “Hiện trạng nguồn nhân lực Điều
dưỡng, những thách thức và tương lai của người điều dưỡng Việt
Nam”, Thông tin Điều dưỡng số 24 tháng 3, trang 5 - 11.
74
8. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi bổ sung
năm 2009 )
9. Phạm Thị Lộc, Võ Thanh Vân, Thực trạng và giải pháp về phương pháp
học lâm sàng của học sinh ngành Y sĩ đa khoa trường Cao đẳng Y tế
Đồng nai 2012.
10. Luật Giáo dục, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005
11. Nguyễn Bích Lưu (2010), “Điều dưỡng với công tác chăm sóc toàn diện
tại Việt Nam”, Hội Điều dưỡng Việt Nam.
12.Lưu Xuân Mới (1999), Kiểm tra thanh tra, đánh giá trong giáo dục, Đề
cương bài giảng lớp cao học quản lý giáo dục, Hà Nội .
13.Phạm Đức Mục (2004), “Điều dưỡng học và các nguyên lư cơ bản về Điều
dưỡng”, Thông tin Điều dưỡng số 20 tháng 3, trang 12-15.
14. Nghị quyết số 05/2005/NQ - CP ngày 18/4/2005 về việc đẩy mạnh xã hội
hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao.
15. Nghị quyết số 46/NQ-TƯ của Bộ Chính trị ngày 23 tháng 5 năm 2005 về
Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình
hình mới.
16. Bùi Thị Phương, Thực trạng dạy/học lâm sàng của điều dưỡng trung học
khóa 38 trường cao đẳng y tế Hà nội 2007-2008
17. Quyết định số 12/2001/QĐ - BGD&ĐT ngày 26/4/2001 về việc ban hành
khung các ngành đào tạo đại học, cao đẳng thuộc nhóm ngành khoa học
sức khỏe.
18. Quyết định số 29/2002/QĐ-BGD&ĐT về việc ban hành quy chế kiểm tra, thi,
xét lên lớp và công nhận tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chính quy.
19. Quyết định số 24/2003/QĐ-BYT ngày 6/1/2003 về việc ban hành chương
trình khung ngành đào tạo điều dưỡng đa khoa thuộc nhóm ngành khoa
học sức khỏe.
75
20. Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2006 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế
Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020
21. Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27 tháng 07 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và
cao đẳng giai đoạn 2006-2020.
22. Quyết định số 41/2005/QĐ-BNV ngày 22 tháng 4 năm 2005 về việc Ban
hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức y tế ĐD.
23. Quyết định số 1352/QĐ-BYT ngày 21 tháng 4 năm 2012 của Bộ trưởng
Bộ Y tế về việc phê chuyệt tài liệu “Chuẩn năng lực cơ bản của Điều
dưỡng Việt Nam”.
24. Nguyễn Văn Thanh (2006), “Đào tạo Điều dưỡng ở các nước Đông Nam
Á”, Thông tin Điều dưỡng số 31 tháng 12, trang 49-52.
25. Nguyễn Lương Thao, “ Khảo sát mức độ hài lòng của học sinh sinh viên
Trường Cao đẳng Y tế Đồng Nai về quá trình thực tập tại Trường và
Bệnh viện năm học 2012 - 2013”
26. Phạm Kế Thuận, Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác
thực hành, thực tập tốt nghiệp của học sinh Điều dưỡng trường Trung
cấp kỹ thuật và nghiệp vụ Nam Saigon
27. Thông tư số 07/2011/TT-BYT ngày 26 tháng 01 năm 2011 của Bộ trưởng
Bộ Y tế Hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong
bệnh viện;
28. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) và nhóm tác giả (1997), Quá trình dạy - tự
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Từ điển Tiếng Việt thông dụng (2003), Nxb Giáo Dục - Hà Nội.
30. Lê Anh Việt, Phương pháp xây dựng quy trình
76
31. Vụ Khoa học và Đào tạo - Bộ Y tế (2005), “Phương hướng phát triển
công tác đào tạo nguồn nhân lực Điều dưỡng Việt Nam 2005 - 2010 và
tầm nhìn 2020”, Thông tin Điều dưỡng số 26/10, tr. 46 -50.
32. Lê Minh Vụ, Tổ chức quá trình dạy học các môn khoa học xã hội và nhân
văn ở đại học quân sự. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007.
* Tiếng nước ngoài
33. American Nurse Today Journal, October, 2006.
35. Yvonne (2009), Applying Competency Standards in developing surving
34. Dorland Medical Dictionary, Edition 30 , 2006.
curriculum, Viet Nam - QUT project.
77
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Bảng 2.4. PHÂN BỐ HỌC VIÊN CÁC KHOA NĂM 2012
Tổng cộng Khoa
Thực tế tốt nghiệp 24 32 26 27 24 17 8 36 39 27 37 22 8 44 48 40 4 7 3 473 Năm thứ 1 và năm thứ 2 34 49 31 43 50 42 0 82 90 69 88 8 0 63 54 47 56 0 10 816 58 81 57 70 74 59 8 118 129 96 125 30 8 107 102 87 60 7 13 1289 Nội tim mạch Nội tiêu hóa Nội thần kinh Nội thận Nội hô hấp Lão khoa HSTCCĐ Ngoại niệu Ngoại tiêu hóa Ngoại lồng ngực Ngoại CTCH Ngoại thần kinh Hồi sức ngoại Sản bệnh Sản thường Sản phụ Nhi Cấp cứu Khám sản Tổng cộng
Nguồn: Tác giả điều tra, khảo sát tại Bệnh viện, tháng 3 năm 2013
Phụ lục 2
Bảng 2.5. KHẢO SÁT Ý KIẾN ĐIỀU DƯỠNG TRƯỞNG KHOA
STT
NỘI DUNG
ĐÁNH GIÁ % TỐT KHÁ
1 Kiến thức cơ bản về chăm sóc bệnh lý 5 28 TB 67 KÉM 0
2 của học viên ĐD Kỹ năng thực hành các kỹ thuật cơ 0 44 56 0
78
3
bản của học viên ĐD Thái độ đối với nghề nghiệp Thích thú với công việc ĐD Tinh thần học hỏi Năng động 0 5 5 66 62 44 22 28 33 12 5 18
4 Điểm thực tập lâm sàng Bạn đã cho,
theo Bạn là :
31.Cao hơn so với khả năng thực 18
tế của học viên
32.Vừa phải 82
33.Thấp hơn
Nguồn: Tác giả điều tra, khảo sát tại Bệnh viện, tháng 6 năm 2013
Phụ lục 3
Bảng 2.6. CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN HỌC VIÊN ĐIỀU DƯỠNG NĂM THỨ NHẤT, TRƯỜNG A, NĂM 2013
ST
THỜI
NỘI DUNG
GIÁO VIÊN
ĐỊA ĐIỂM
T
Sinh hoạt lớp - Kiểm tra
GIAN 10.6.2013 Hội
PHÒNG ĐIỀU DƯỠNG
01
02 đầu khóa Lý thuyết và thực hành CNĐD… 11.06.201 trường A Hội
-Rửa tay nội khoa trường A 3
-Rửa tay thủ thuật
79
-Rửa tay thường quy Hút đàm nhớt mũi, miệng, 26.06.201 Hội
qua NKQ trường A 3 03 CNĐD… Thở oxy 1,2 nhánh, qua
mask Quy trình tiêm an toàn 14.06.201 Hội
CNĐD… 04 Xử lý vật sắc nhọn trường A 3
Xử lý sau phơi nhiễm Phân loại chất thãi 17.06.201 Hội
CNĐD… 05 Ghi chú ĐD trường A 3
Thông tư 07 CSNB Sốt xuất huyết trẻ 19.06.201 Hội CNĐD… 06
em - Người lớn Các kỹ thuật tiêm thuốc 3 18.06.201 trường A Hội CNĐD… 07
KT rút thuốc trẻ em Kỹ thuật truyền dịch 3 25.06.201 trường A Hội CNĐD… 08
Kt Truyền máu Lý thuyết Chăm sóc rốn 3 2.7.2013 trường A Hội
09 Quy trình CS rốn CNĐD… trường A
Thực hành Kỹ thuật thông tiểu thường 21.06.201 Hội CNĐD… 10
Kỹ thuật thông tiểu liên tục Thay băng thường 3 12.06.201 trường A Hội
3 11 Thay băng có dẫn lưu CNĐD… trường A
25.06.201 Hội Thay băng cắt chỉ. Tổng quan điện tim
3 12 Kỹ thuật đo ECG CNĐD… trường A
Thực hành đo ECG Tổng quan về phun khí 13 CNĐD… 26.06.201 Hội
3 trường A dung
Kỹ thuật thực hành
80
01.07.201 Hội VLTL thoái hóa cột sống 14 CNVLTL... trường A 3 lưng, cổ
Trị liệu bằng Điện - Ánh 03.07.201 Hội 15 CNVLTL... sáng - Nhiệt trường A 3
Nguồn: Tác giả điều tra, khảo sát tại Bệnh viện, tháng 4 năm 2013
Phụ lục 4 Bảng 2.9. Ý KIẾN HỌC VIÊN SAU 01 THÁNG THỰC TẬP
Không Có Nội dung % %
87 13
Bạn có hài lòng về việc thực hành tại BV Thực tập tại BV có đạt được yêu cầu về mục 66 34
87 13
tiêu thực hành lâm sàng của Bạn Phương pháp giảng dạy của PĐD có dễ hiểu ĐDT có dành nhiều thời gian dạy thực hành 11 89
lâm sàng cho Học viên Bạn có được làm kỹ thuật ĐD trong thời gian 98 2
thực tập tại BV Bạn có ghi chép sổ tay lâm sàng khi thực tập 98 2
tại BV Thiết bị, dụng cụ y tế của bệnh viện có đáp ứng đủ 83 17
cho thực hành lâm sàng Có sự khác biệt giữa việc dạy kỹ thuật thực hành tại 68 32
81
bệnh viện với học tại trường Việc đánh giá cuối mỗi đợt thực tập theo Bạn có 91 9
nghiêm túc, công bằng, chính xác Có cần cải tiến hình thức kiểm tra, đánh giá kết 64 36
55 45
quả học tập của Học viên hiện nay Theo Bạn thời gian thực tập tại BV có đủ không Theo Bạn kỹ thuật thực hành tại trường đã được 43 57
hướng dẫn đầy đủ chưa Chương trình huấn luyện của BV trong 01 tháng qua 100 00
theo Bạn có cần thiết không Nguồn: Tác giả điều tra, khảo sát tại Bệnh viện, tháng 6 năm 2013
Phụ lục 5
Bảng 2.10. Ý KIẾN HỌC VIÊN SAU 02 THÁNG THỰC TẬP
tự
1
NỘI DUNG Sự tự tin về kỹ năng thực hành
Tỷ lệ % Rất tự tin 8,6
Tự tin 80,4 Không tự tin 2,1
Chưa tin 8,6
Sổ tay lâm sàng
2
Có 89,1 Không 10,8
Ghi chép STLS
3
Tốt 19,5 Khá 26,8 TB 39 Kém 14,7
4
Tiếp xúc BN Đi lâm sàng với ĐDTK
Công việc thường làm nhất khi đi BV Ghi hồ sơ Đi duyệt hồ sơ Thực hiện kỹ thuật Đi lâm sàng với GV
15,2 84,8
Khác
5
Tiếp xúc BN
Công việc mong muốn thực hiện nhất khi đi BV Ghi hồ sơ Đi lâm sàng với ĐDTK
Thực hiện kỹ thuật
2,1 Đi lâm sàng với GV 19,6
82
78,2
Đi duyệt hồ sơ
6
Có 84,8 Không 15,2
Bạn có hài lòng khi đi thực tập tại NDGĐ BV không ?
Nguồn: Tác giả điều tra, khảo sát tại Bệnh viện, tháng 6 năm 2013