VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN NAM
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN PHÚ,
TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN NAM
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN PHÚ,
TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số : 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu ghi trong luận văn là hoàn toàn trung thực từ thực tiễn học tập
và công tác tại đơn vị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai và
chưa từng được công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
Học viên
Nguyễn Văn Nam
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ........................................ 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................. 5
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................. 6
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ .......................................................................................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............. 7
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. .................................................. 20
Kết luận chương 1 ........................................................................................... 26
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM NĂM 2015 VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN
PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI ............................................................................... 27
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự .......................................................................................... 27
2.2.Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. . 40
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 57
Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHUẨN BỊ
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................................................... 58
3.2. Nâng cao nhận thức về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............. 58
3.3. Tăng cường tổ chức tập huấn chuyên môn nghiệp vụ về áp dụng quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự. ............................................................................................................ 59
3.4. Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. ........................................................... 59
3.5. Tăng cường khả năng và năng lực của đội ngũ Thẩm phán. .................. 60
3.6. Các giải pháp khác. ................................................................................. 63
Kết luận chương 3 ........................................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
BCA : Bộ công an
CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
HĐXX : Hội đồng xét xử
HTND : Hội thẩm nhân dân
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao :
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 : Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm của một vụ án hình sự thông thường ...................................................................................... 29
Bảng 1.2: Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử của một vụ án hình sự phức tạp ........................................................................................................... 30
Bảng 1.3: Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử của một vụ án hình sự được Tòa án nhận lại sau khi trả lại cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung .. 31
Bảng 2.2 Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm từ năm 2014 đến năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. .................................................. 40
Bảng 2.2.4: Số vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý, trả hồ sơ điều tra bổ sung và kết quả trả hồ sơ của Tòa án trên địa bàn huyện Tân Phú từ năm 2014 đến năm 2018. ........................................................................................................ 51
Bảng 2.2.5: Số vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý sau đó Đình chỉ, Tạm đình chỉ trên địa bàn huyện Tân Phú từ năm 2014 đến năm 2018. ............................... 51
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân và vì nhân
dân, đảm bảo quyền con người và quyền công dân được quy định trong Hiến
Pháp năm 2013. Theo tinh thần cải cách tư pháp được quy định tại Nghị
Quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị thì phán quyết của
Tòa án chủ yếu dựa vào kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa trên cơ sở
nghiên cứu các tài liệu, kết quả thu thập chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để
quyết định. Việc chuẩn bị xét xử, nhất là nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án là yếu tố
quan trọng để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội thẩm tham gia Hội đồng
xét xử nắm vững được nội dung vụ án; chủ tọa phiên tòa chủ động và vững
tin trong điều hành phiên tòa, góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa. Chính vì vậy, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự giữ vai trò
quan trọng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả sự nhận thức chưa
thật đầy đủ và sâu sắc về những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, nên mặc dù đã khắc phục được khá nhiều điểm hạn chế, bất cập
của BLTTHS năm 2003, nhưng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vẫn còn những điểm hạn chế,
bất cập làm ảnh hưởng đến chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Cũng từ nhận thức chưa thật đầy đủ và sâu sắc những vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
mà một số thẩm phán và hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân huyện Tân
Phú, tỉnh Đồng Nai khi chuẩn bị xét xử nghiên cứu không kỹ hồ sơ vụ án, còn
1
lúng túng trong đánh giá tài liệu, chứng cứ, chưa dự báo được hệ quả của các
quyết định được đưa ra khi chuẩn bị xét xử...Tình trạng trên đã ảnh hưởng
không tốt đến chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Để khắc
phục tình trạng nói trên, cần có những công trình nghiên cứu về lý luận về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nghiên cứu các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đánh giá một cách
khách quan thực tiễn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gắn với địa bàn
nhất định.
Từ phân tích trên, tác giả đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
huyện Tân phú, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như đã nhấn mạnh ở phần trên
có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo các quyền tự do, dân
chủ của công dân, đồng thời đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Bởi
tầm quan trọng của mình mà vấn đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
đã được giới khoa học tố tụng hình sự nước ta quan tâm nghiên cứu. Các công
trình nghiên cứu mang tính chất đại cương như: “Bình luận khoa học Bộ luật
tố tụng hình sự” do GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên (2011), Giáo trình
“Luật tố tụng Hình sự Việt Nam” do tác giả Nguyễn Ngọc Chí chủ biên
(2001) và được tái bản có sửa đổi, bổ sung ……năm 2008, Tài liệu “Kỹ năng
xét xử các vụ án hình sự” do tác giả Phạm Minh Tuyên biên soạn (2018),
Giáo trình “Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự” của Học viện Tư pháp (2011),
Giáo trình “Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Học Viện Tư pháp (2011),
Giáo trình “Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Võ
Thị Kim Oanh (2011), Giáo trình “Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của trường
Đại học Luật Hà Nội (2015); các công trình nghiên cứu chuyên sâu như Đề tài
2
nghiên cứu cấp Bộ của tác giả Vũ Đức Khiển (1996) về “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam”); Các đề tài khoa
học khác như: Tác giả Hoàng Đạt Nam (2017) nghiên cứu về: “Một số vấn đề
về quyết định tạm giam và thời hạn tạm giam trong trường hợp Hội đồng xét
xử yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa”. Tác giả Trần Thế Vượng (1999)
về: “Những nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự Việt Nam và yêu cầu của
việc sửa đổi toàn diện Bộ luật tố tụng hình sự”. Tác giả Hoàng Thị Sơn và Bùi
Kiên Điện (1999) về: “Những nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam”. Tác giả Nguyễn Cảnh Hợp (2001) nghiên cứu về: “Các nguyên
tắc của tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền”…...
Để nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể về chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo
pháp luật tố tụng hình sự nói chung và từ thực tiễn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng
Nai nói riêng, nhất là đi sâu nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật
tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, từ đó đưa ra một số các giải pháp, kiến
nghị để hoàn thiện các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói
chung và tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói riêng. Vì vậy việc chọn đề tài
“Chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai” là cần thiết có giá trị về mặt lý luận và
thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và
thực tiễn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng
Nai. Luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ở nước ta nói chung và huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói
riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
Để đạt được mục đích của Luận văn thì cần phải:
- Phân tích những vấn đề lý luận và lịch sử hình thành, phát triển quy
định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn quy định của pháp luật về chuẩn bị xét
xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất một số kiến nghị và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở
nước ta nói chung và huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, thực trạng
pháp luật tố tụng hình sự và thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Bởi
vậy, luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam và thực tiễn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung
nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ Bộ luật Hình sự và
Bộ luật tố tụng Hình sự. Luận văn tập trung nghiên cứu chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự theo thủ tục thông thường, không nghiên cứu các thủ tục
về chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo thủ tục đặc biệt.
- Về không gian, thời gian: Luận văn tập trung đánh giá, khảo sát thực
tiễn áp dụng các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp
4
luật tố tụng hình sự Việt Nam tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai trong khoảng
thời gian 05 năm từ năm 2014 -2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ
Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách pháp luật
của Nhà nước về Nhà nước và pháp luật, tội phạm và hình phạt, bảo vệ quyền
con người, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Đề tài Luận văn còn được nghiên cứu bằng cách tiếp cận đa ngành, liên
ngành khoa học xã hội nói chung và đa ngành, liên ngành luật học nói riêng.
Với phương pháp luận và cách tiếp cận đó, Luận văn làm sáng tỏ bản chất và
đặc điểm của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam; các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến việc chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; những
hạn chế, bất cập, vi phạm trong chuẩn bị xét xử và nguyên nhân của chúng để
đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và các
giải pháp nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng tổng thể các
phương pháp nghiên cứu như: Nghiên cứu tài liệu, văn bản; phân tích và tổng
hợp; so sánh, đối chiếu; diễn dịch, quy nạp… để tổng hợp các luận chứng, tri
thức khoa học và các vấn đề tương ứng trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Với kết quả nghiên cứu về lý luận, thực trạng quy định của pháp luật tố
tụng hình sự và thực tiễn áp dụng trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
5
sự, Luận văn góp phần nhận thức thống nhất về những vấn đề lý luận, về sự
điều chỉnh pháp luật và cách tiếp cận đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật
trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Với việc làm sáng tỏ những vấn đề còn vướng mắc, hạn chế, thiếu sót
trong quy định pháp luật hình sự và trong thực tiễn áp dụng, luận văn góp
phần tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng được tiến hành nhanh chóng,
tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tài sản Nhà nước và công sức của những người
tham gia tố tụng khác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
7. Kết cấu của luận văn
Phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp tố tụng hình sự
Việt Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành
về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại huyện Tân
Phú, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự ở nước ta.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Trong khoa học luật TTHS, vấn đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đúng mức; nhiều vấn đề
của chuẩn bị xét xử, trong đó có khái niệm chuẩn bị xét xử chưa được tiếp cận
nghiên cứu một cách đầy đủ. Các sách, giáo trình và các bài viết khi viết về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chủ yếu dừng lại ở việc phân tích các
quy định của pháp luật mà chưa được nghiên cứu dưới các góc độ và cách tiếp
cận đa chiều, liên ngành đa ngành luật học. Vì vậy, kết quả nghiên cứu còn
nhiều hạn chế.
Để có thể làm sáng tỏ khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
không thể không làm sáng tỏ nội hàm của các khái niệm xét xử và chuẩn bị
xét xử. Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự được hiểu là “Việc Tòa án xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, tài
liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra quyết định khẳng định có hành vi
phạm tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội đó, hình phạt được áp
dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề
khác có liên quan trong vụ án hình sự” [46, tr 335].
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tác giả Đinh Văn Quế xác định “Là
giai đoạn thể hiện tập trung và quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ
án hình sự. Tại phiên tòa, sau khi nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy
đủ các tình tiết của vụ án một cách công khai, Tòa án sẽ ra phán quyết bị cáo
7
có tội hoặc không có tội, phạm tội gì và áp dụng điều khoản nào của Bộ luật
hình sự để tuyên phạt bị cáo” [31, tr 7].
Nhiệm vụ cơ bản nhất của Bộ luật tố tụng Hình sự là “Bộ luật tố tụng
Hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, ……, giáo dục mọi người ý thức tuân theo
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”[5, tr 6].
Những nguyên tắc đặc trưng là: Nguyên tắc xét xử tập thể, nguyên tắc
thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc khi xét xử Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử công
khai; nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa án; nguyên tắc xét xử
trực tiếp, bằng lời nói và liên tục [27, tr 14]. Để phiên tòa xét xử vụ án hình sự
có chất lượng đáp ứng các nguyên tắc nói trên, cần phải tiến hành chu đáo
việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Xét xử sơ thẩm là hoạt động tố tụng theo pháp luật TTHS thực hiện chức
năng của Tòa án. Tại phiên tòa qua phần tranh tụng Hội đồng xét xử đưa ra
phán quyết về hành vi của bị cáo có tội hay không có tội. Phiên tòa sơ thẩm
khi và chỉ khi có cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Đối tượng của phiên tòa
sơ thẩm là quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng của Viện kiểm sát,
Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước truy tố hành vi của bị can về việc đã thực
hiện hành vi phạm tội. Tòa án xem xét những hành vi buộc tội có căn cứ và
hợp pháp hay không và thể hiện quyết định của mình trong bản án.
Để xây dựng được khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, còn
phải làm sáng tỏ thế nào là chuẩn bị. Chuẩn bị được hiểu một cách dung dị là
làm những việc cụ thể cần thiết để thực hiện hoặc chấm dứt một công việc
nhất định nào đó. Từ cách hiểu dung dị đó có thể thấy, chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là việc chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
8
tiến hành những hoạt động cụ thể cần thiết và bắt buộc trước khi mở phiên tòa
xét xử sơ thẩm hình sự vụ án đó.
Xét xử nói chung, xét xử án hình sự, trong đó có xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự nói riêng thuộc thẩm quyền của Tòa án là một quá trình gồm nhiều
hoạt động khác nhau, trong đó có hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Để có
thể mở phiên Tòa xét xử vụ án hình sự mà trước đó Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát đã tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự cần thiết, Tòa án cần phải
tiến hành những công việc chuẩn bị nhất định theo quy định của pháp luật.
Bởi vậy, hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bao gồm việc
chuẩn bị cho việc xét xử về nội dung và thủ tục tố tụng tại phiên tòa, được bắt
đầu từ khi hồ sơ vụ án hình sự cùng với bản cáo trạng và quyết định truy tố do
Viện kiểm sát chuyển sang cho Tòa án. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự có vai trò quan trọng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bởi làm bất cứ
một công việc gì nếu công việc không được chuẩn bị chu đáo, đầy đủ thì khi
thực hiện sẽ không được thành công. Sự thành công của hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tất nhiên phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt
là chất lượng của hoạt động chuẩn bị xét xử cho dù đó là vụ án hình sự đơn
giản hay vụ án hình sự phức tạp. Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, chủ thể thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị xét xử phải rà soát, kiểm tra
các điều kiện cần thiết theo quy định của pháp luật thì mới quyết định đưa vụ
án ra xét xử, nếu không đủ các điều kiện đó thì vụ án không được đưa ra xét
xử hoặc phải lùi lại thời gian để khi có đủ điều kiện mới đưa ra xét xử, không
phải bất cứ một vụ án nào khi đã khởi tố, điều tra, truy tố đều phải đưa ra xét
xử. Chẳng hạn trong khi chuẩn bị xét xử, nếu phát hiện hồ sơ vụ án còn nhiều
thiếu sót, chưa đủ chứng cứ buộc tội hay định tội danh không đúng hoặc quá
trình tiến hành điều tra hay truy tố không đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật
tố tụng hình sự đã quy định, Thẩm phán được phân công chuẩn bị xét xử sơ
9
thẩm vụ án hình sự phải trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát với yêu cầu bổ
sung các tài liệu, chứng cứ hoặc điều tra bổ sung, điều tra lại...Chỉ khi nào vụ
án hình sự bảo đảm các điều kiện về nội dung và thủ tục, thì Thẩm phán được
phân công chuẩn bị mới ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuẩn bị các
điều kiện khác cho việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà mình
đã chuẩn bị. Như vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân
công chuẩn bị và sau đó là chủ tọa phiên tòa không chỉ thực hiện việc nghiên
cứu hồ sơ vụ án hình sự, xử lý các tình huống đưa ra các quyết định tố tụng có
liên quan đến việc đưa vụ án ra xét xử hay không đưa vụ án ra xét xử, mà còn
phải thực hiện những công việc cũng rất quan trọng đó là mời Hội thẩm nhân
dân nghiên cứu hồ sơ vụ án, lên kế hoạch xét hỏi, lên danh sách những người
cần triệu tập ra tòa, chuẩn bị hội trường xét xử... Như vậy, chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là việc Tòa án (Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân) thực
hiện những nhiệm vụ cần thiết để có thể ra quyết định đưa vụ án hình sự ra
xét xử sơ thẩm. Nói cách khác, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
những hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi những chủ thể có thẩm
quyền (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) theo quy định của pháp luật và dựa
trên những quy định của pháp luật hiện hành nhằm bảo đảm cho việc mở
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự để xét xử tội phạm và người bị buộc tội một
cách nhanh chóng kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bởi vậy, chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự được coi là giai đoạn cấu thành của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
Từ những phân tích khái quát trên, tác giả luận văn chia sẻ với quan điểm
cho rằng:“Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khâu đầu tiên, một phần
của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền
tiến hành các hoạt động tố tụng và việc làm cần thiết do pháp luật quy định
10
để bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”. [47, tr
337]
Từ khái niệm trên về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có thể thấy,
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có các đặc điểm:
Thứ nhất, chuẩn bị xét xử là một khâu hay là một phần (tiểu giai đoạn)
của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Vấn đề là ở chỗ, xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự có nội dung và chủ
thể tiến hành cũng như chủ thể tham gia nhất định, gồm các khâu bắt buộc
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có chuẩn bị xét xử vụ án
hình sự. Với tính cách là một khâu của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có chủ thể tiến hành là Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa và Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử vụ
án hình sự cụ thể và nội dung, tức là những nhiệm vụ mà chủ thể tiến hành
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải thực hiện theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự. Bởi là một khâu của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có vị trí và vai trò nhất định trong
giai đoạn quan trọng này của tố tụng hình sự. Nếu không có việc chuẩn bị xét
xử thì việc xét xử sơ thẩm công khai tại phiên tòa sẽ rất khó khăn, chuẩn bị
xét xử sơ thẩm được ví như là một tiểu giai đoạn không thể thiếu trong giai
đoạn lớn là xét xử của Tòa án, thời điểm bắt đầu được tính từ khi vụ án hình
sự sơ thẩm được thụ lý và kết thúc khi phiên tòa sơ thẩm được mở công khai.
Thứ hai, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hoạt động tố tụng hình
sự được tiến hành một cách chu đáo bởi có mục đích rõ ràng. Mục đích của
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, không ngoài cái gì khác là nhằm bảo
đảm cho việc mở phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự xét xử tội phạm và người
phạm tội một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Việc ban hành một bản án khách quan như đã nhấn mạnh, tùy thuộc vào
11
nhiều yếu tố khác nhau, trong đó vai trò quan trọng thuộc về chất lượng của
các hoạt động tố tụng trong khâu (tiểu giai đoạn) chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
Thứ ba, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước và được tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố
tụng hình sự quy định. Tính quyền lực nhà nước của chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự trước hết thể hiện ở chỗ, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
được tiến hành bởi Tòa án - một trong những hệ thống cơ quan nhà nước.
Tiếp đến nó được tiến hành, như đã nhấn mạnh dựa trên các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự; các quyết định tố tụng được đưa ra trong khâu
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có tính bắt buộc thực hiện đối với cơ
quan, cá nhân liên quan, bởi vậy, trong trường hợp không thực hiện, các biện
pháp có tính chất cưỡng chế nhà nước được áp dụng để bảo đảm thực hiện.
Thứ tư, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động áp dụng
pháp luật, có tính sáng tạo cao. Tính chất áp dụng pháp luật của chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự trước hết thể hiện ở chỗ, đây là hoạt động “đưa các
quy phạm pháp luật (hình sự, tố tụng hình sự, tổ chức…) vào cuộc sống.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa sau đó là HTND phải áp dụng các quy định của pháp
luật hình sự và của pháp luật tố tụng hình sự…để tiến hành các nội dung
(nhiệm vụ) cần chuẩn bị. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động
sáng tạo, bởi mỗi một vụ án hình sự có độ phức tạp khác nhau đòi hỏi chủ thể
chuẩn bị không chỉ phải có kiến thức về luật hình sự, về luật tố tụng hình sự,
nhất là kiến thức về chứng minh, chứng cứ…để có thể kiểm tra, đánh giá
những tình tiết, sự kiện của hành vi phạm tội. Ngoài ra, chủ thể chuẩn bị xét
xử còn phải có khả năng, năng lực, trí tuệ, tư duy, kinh nghiệm và các khả
12
năng, năng lực khác của người áp dụng pháp luật mới có thể chuẩn bị tốt cho
việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.1.2. Chủ thể chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử hình sự là một trong những thẩm quyền, hơn thế là thẩm quyền
chính và quan trọng nhất của quyền tư pháp hình sự chỉ thuộc về Tòa án, Do
vậy, chủ thể chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là Tòa án, nói cụ thể hơn
là Chánh án, Phó Chánh án khi trực tiếp tiến hành giải quyết vụ án hình sự với
chức danh là Thẩm phán; Thẩm phán; Hội thẩm nhân dân. Bởi vậy, khi trực
tiếp tiến hành giải quyết vụ án hình sự, Chánh án, Phó Chánh án cũng phải
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, có trách nhiệm
nghiên cứu hồ sơ vụ án, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như Thẩm
phán, ngoài ra còn thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quy định riêng cho
Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán khi được phân công giải quyết vụ án có
nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa phải căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ những vấn đề cần
chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, không gian, địa
điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành
vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, lỗi cố ý hay vô ý, có năng lực trách
nhiệm hình sự hay không, động cơ, mục đích phạm tội, những tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị cáo, tính chất,
mức độ thiệt hại….những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách
nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Như vậy khi nghiên
cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán cũng cần xem xét về tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá
trình điều tra, truy tố, xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn có đảm bảo đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật không.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán ra một trong các quyết định: Đình chỉ
13
vụ án khi người yêu cầu khởi tố vụ án rút yêu cầu khởi tố, người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, người
mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có
hiệu lực pháp luật, đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội phạm đã
được đặc xá, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, Viện
kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa. Thẩm phán ra
quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị
can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, khi trưng cầu giám định, yêu cầu
định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng
đã hết thời hạn điều tra, khi không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà đã hết
thời hạn chuẩn bị xét xử, chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Tòa án kiến
nghị. Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ
dùng để chứng minh hành vi phạm tội của bị can mà không thể bổ sung tại
phiên tòa được; có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can
còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm; có căn cứ cho
rằng có đồng phạm; việc điều tra, khởi tố, truy tố vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng, VKS có văn bản rút hồ sơ để điều tra bổ sung theo thẩm quyền.
Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử nếu có đủ các chứng cứ để xét
xử vụ án. Trường hợp VKS đã điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và
hoàn trả hồ sơ cho Tòa án, nếu thấy không cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ
sung lần hai, hoặc trường hợp VKS không bổ sung được những vấn đề Tòa án
yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Thẩm phán ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ điểm, khoản,
điều luật và tội danh mà VKS đã truy tố, có những trường hợp Tòa án xét xử
khác với tội danh mà VKS đã truy tố thì Tòa án phải ghi rõ vào quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
14
Để có thể ra những quyết định đúng đắn trong quá trình chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán cần có trình độ, khả năng, kinh nghiệm
nghề nghiệp, ý thức pháp luật, trách nhiệm cao trước Nhà nước, xã hội. Đặc
biệt, bởi quyết định của Thẩm phán liên quan đến số phận của người bị buộc
tội, nên Thẩm phán phải có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần dũng cảm đấu
tranh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, liêm khiết, trung thực, có trình
độ cử nhân luật trở lên, có trình độ lý luận chính trị, được đào tạo nghiệp vụ
xét xử, có thời gian thực tiễn làm công tác tư pháp, có sức khỏe bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ là trách nhiệm của
Thẩm phán (của Chánh án, Phó Chánh án trực tiếp giải quyết vụ án hình sự)
mà còn là trách nhiệm của HTND bởi khi xét xử HTND độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Rõ ràng việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trước khi
mở phiên tòa giúp HTND khi tham gia xét xử, tiến hành các hoạt động tố tụng
và biểu quyết giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐXX được
đầy đủ, khách quan, công bằng và chính xác.
Tuy nhiên, khác với thời điểm bắt đầu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Thẩm phán, thời điểm bắt đầu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự của HTND có muộn hơn, cụ thể là kể từ khi Hội thẩm có tên trong quyết
định đưa vụ án ra xét xử trước Tòa án. Hội thẩm được phân công xét xử vụ án
hình sự, có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa để xem
xét đánh giá toàn diện các tình tiết, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
hình sự để chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, địa điểm, thời
gian, không gian và các tình tiết khác của hành vi phạm tội, chủ thể thực hiện
hành vi phạm tội, mức độ lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ
hậu quả xảy ra, động cơ, mục đích phạm tội, các tình giảm nhẹ, tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự của bị cáo.... Bằng việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi
15
mở phiên tòa, Hội thẩm nắm bắt được nội dung vụ án, đảm bảo tính độc lập
của mình trong hoạt động xét xử của mình, từ đó cùng với HĐXX đưa ra
được những phán quyết chính xác, khách quan đúng sự thật của vụ án đảm
bảo công bằng xã hội.
1.1.3. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu “Là khoảng
thời gian do pháp luật quy định để Tòa án thực hiện các hoạt động tố tụng và
các công việc cần thiết khác bảo đảm cho việc xét xử vụ án tại phiên tòa sơ
thẩm đạt chất lượng và có hiệu quả cao”.[47, tr 337]
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một quá trình song phải được
gắn với thời hạn nhất định. Việc thể chế hóa bằng pháp luật thời hạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cho việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
một mặt bảo đảm cho Thẩm phán, Hội thẩm – chủ thể chuẩn bị xét xử có đủ
thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án, ra được các quyết định cần thiết, đúng pháp luật để không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, mặt khác đáp ứng yêu cầu của xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhằm bảo đảm và bảo vệ tốt nhất
quyền con người của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự. Dựa trên cơ sở và mục đích nói trên, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự bao gồm thời hạn để Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa ra một trong các quyết định cần thiết và thời hạn để mở phiên tòa
theo quyết định đưa vụ án ra xét xử. Những thời hạn đó, dĩ nhiên cần được
luật hóa bao gồm thời hạn thụ lý vụ án tính từ thời điểm Tòa án nhận hồ sơ vụ
án và bản cáo trạng của Viện kiểm sát chuyển đến; thời hạn để Thẩm phán
được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra các quyết định TTHS phụ thuộc vào
tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với những hành vi của bị cáo bị đưa ra
16
xét xử; thời hạn mở phiên tòa tính từ ngày ra quyết định đưa vụ án hình sự ra
xét xử trước Tòa án (sơ thẩm); thời hạn giao các quyết định của Tòa
án…trước khi mở phiên tòa.
Trong thời hạn thụ lý vụ án hình sự, Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa giải quyết vụ án ra một trong các quyết định được quy định của
pháp luật. Thời hạn này được tính kể từ ngày Thẩm phán nhận hồ sơ vụ án
cho đến ngày Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra các quyết định
cụ thể.
Thời hạn để Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra các
quyết định giải quyết vụ án phụ thuộc vào tội danh mà Viện kiểm sát truy tố
đối với những hành vi của bị cáo bị đưa ra xét xử. Đối với những vụ án phức
tạp, Chánh án Tòa án quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử thuộc các
trường hợp sau: Có nhiều bị cáo tham gia, phạm tội có tổ chức hoặc bị cáo
phạm nhiều tội..... Khi gia hạn thời hạn giải quyết vụ án thì cần thông báo cho
VKS biết và tạo điều kiện cho VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc xét xử
và chủ động trong việc tham gia phiên tòa. Trong trường hợp hồ sơ vụ án
được trả lại cho VKS điều tra bổ sung thì khi nhận lại hồ sơ vụ án trong thời
gian nhất định từ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Thời hạn này áp dụng cho tất cả các loại tội phạm
mà không phân biệt tội ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Trong
trường hợp lý do tạm đình chỉ không còn nữa, thời hạn xét xử được tính lại kể
từ ngày Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu
của những người tham gia tố tụng và tiến hành những công việc cần thiết cho
việc mở phiên tòa. Thời điểm kết thúc việc chuẩn bị xét xử là thời điểm Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và Thư ký phiên tòa
17
làm các thủ tục tống đạt để đảm bảo cho việc mở phiên tòa xét xử theo quy
định của pháp luật.
Khi Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì phải hoàn thành
những công việc cần thiết để đảm bảo cho phiên tòa được tiến hành đúng quy
định của pháp luật. Những hoạt động của Tòa án trong thời gian này gồm:
Triệu tập những người tham gia tố tụng đến phiên tòa; giao quyết định đưa vụ
án ra xét xử, tổ chức cho HTND, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự nghiên cứu hồ sơ vụ án; tiến hành thủ tục trích
xuất bị cáo bị tạm giam có mặt tham gia phiên tòa; chuẩn bị cơ sở vật chất
cho việc mở phiên tòa...Trong trường hợp có lý do bất khả kháng hoặc do trở
ngại khách quan thì thời hạn mở phiên tòa cần được kéo dài hơn. Thế nào là
“Lý do bất khả kháng” thật khó là luật hóa, vì vậy tùy thuộc vào sự nhận thức,
cân nhắc của từng Thẩm phán.
Đối với thời hạn giao các quyết định của Tòa án, sau khi Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong thời hạn nhất định, Thư
ký phiên tòa phải tiến hành giao các quyết định của Tòa án như: “Quyết định
đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho người bị buộc tội hoặc người đại diện
hợp pháp của họ; gửi cho người bào chữa, đương sự. Trường hợp xét xử vắng
mặt người bị buộc tội thì quyết định đưa vụ án ra xét xử được giao cho người
bào chữa hoặc người đại diện của bị cáo; quyết định đưa vụ án ra xét xử còn
phải được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi bị cáo
cư trú cuối cùng hoặc cơ quan tổ chức nơi làm việc, học tập cuối cùng của bị
cáo”[5, tr 253, 254].
Đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định
phục hồi vụ án của Tòa án phải được giao cho người bị buộc tội, bị hại, hoặc
người đại diện của họ và người tham gia tố tụng khác trong thời hạn nhất định
kể từ ngày ra quyết định.
18
Các Quyết định tố tụng ...... phải được gửi cho VKS cùng cấp, cơ sở
giam giữ nơi người bị buộc tội đang bị tạm giam trong thời hạn nhất định kể
từ khi ra quyết định [5, tr 253].
1.1.4. Nội dung (nhiệm vụ) của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nội dung của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thể hiện qua những
nhiệm vụ mà chủ thể chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải thực hiện kể
từ khi Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án. Đó là:
Thứ nhất: Nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án;
Thứ hai: Quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam
do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định;
Thứ ba: Giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa. Trong quá
trình chuẩn bị xét xử, có thể có những yêu cầu, đề nghị của những người tiến
hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng được chuyển đến Tòa án.
Thứ tư: Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các
trường hợp thiếu chứng cứ để chứng minh .......
Thứ năm: Quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường
hợp: khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, …….[5, tr 250].
Thứ sáu: Quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:
Không có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự; Không có sự việc phạm tội, .........
[5, tr 250, 251].
Thứ bảy: Phục hồi vụ án khi có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ
vụ án hoặc có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ vụ án nếu chưa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [ 5, tr 251].
Thứ tám: Yêu cầu VKS bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét thấy cần bổ
sung tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà không cần trả
hồ sơ để điều tra bổ sung [5, tr 252].
19
Thứ chín: Quyết định đưa vụ án ra xét xử;
Thứ mười: Giao các quyết định tố tụng cho các cơ quan, cá nhân có liên
quan;
Như vậy, nội dung chuẩn bị xét xử mà chủ thể chuẩn bị xét xử rất phong
phú. Việc thực hiện đầy đủ các nội dung nói trên (tùy từng vụ án) là bảo đảm
cho việc xét xử sơ thẩm nhanh chóng, kịp thời, ........, tăng cường chất lượng
của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, uy tín của Tòa án, của Nhà nước,
bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Giá trị xã hội của chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự chính là chỗ đó.
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945
đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời phải đối mặt với những muôn vàn khó khăn về kinh tế do
bọn thực dân và phát xít khai thác triệt để trong Chiến tranh thế giới thứ II,
nạn ngoại xâm của quân Tưởng và đồng minh Nhật, như Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói “Khó khăn như ngàn cân treo sợi tóc...”. Ở miền Nam thực dân
Anh và Pháp tiếp tục chiếm giữ Sài Gòn mở rộng chiến tranh xâm chiếm ra
các tỉnh Nam bộ và Nam Trung bộ.
Thời kỳ này, thẩm quyền truy tố, xét xử đều do Tòa án thực hiện. Điều
1 Sắc lệnh số 10/SL ngày 01/10/1946 quy định: “Tòa án có quyền truy tố một
việc tiểu hình và đại hình là Tòa án cấp tỉnh nơi xảy ra trọng tội hoặc khinh
tội hoặc Tòa án nơi cư trú của người cam phạm hoặc Tòa án nơi mà người
cam phạm ấy bị bắt”.
Sắc lệnh số 185/SL ngày 26/5/1948, Điều 6 quy định: “Về phương diện
tư pháp công an, thẩm phán sơ cấp có quyền, sau khi hỏi ý kiến của chủ tịch
UBKC huyện quyết định giam cứu bị can đến 45 ngày nếu là việc tiểu hình,
20
hoặc đến 4 tháng nếu là việc đại hình, hạn giam cứu ấy không thể gia thêm
được. Khi hết hạn tự nhiên bị can phải được thả ngay”. Đây là những quy
định về thời hạn tạm giam và là cơ sở để pháp điển hóa cho việc ban hành
quyết định đưa vụ án ra xét xử trong tố tụng hình sự hiện nay.
Ngày 09/11/1946 Quốc hội Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
thông qua bản Hiến Pháp đầu tiên. Hiến pháp ghi nhận những nguyên tắc tố
tụng cơ bản như; Nguyên tắc xét xử có HTND tham gia, nguyên tắc xét xử
công khai, nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 99 Hiếp pháp
1959). Điều 6 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 quy định Tòa án xét xử công
khai.
Thời hạn xét xử vụ án quy định tại Điều 10 Nghị định số 301-TTg ngày
10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ; Chương II Thông tư số 001-NCPL ngày
15/01/1962 của TANDTC giải thích về thời hạn tạm giam để điều tra của
Công an và VKSND; tạm giam để xét xử của TAND: “Khi vụ án đã chuyển
sang Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân phúc thẩm hoặc Tòa án binh để
xét xử thì, kể từ ngày nhận được hồ sơ, các Tòa án trên phải xét xử trong thời
hạn hai tháng đối với những vụ án mà luật pháp phạt từ năm năm tù trở
xuống và trong thời hạn bốn tháng đối với những vụ án mà luật pháp phạt
trên năm năm tù”. Thông tư này đã quy định rõ thời hạn xét xử tùy thuộc vào
mức độ nghiêm trọng, tính chất phức tạp hay đơn giản của vụ án. Đặc biệt
pháp luật thời kỳ này đã có quy định về trả hồ sơ cho Viện công tố điều tra bổ
sung, khẳng định trách nhiệm điều tra bổ sung là do Viện công tố đảm nhiệm.
Ngày 29/12/1961 TANDTC đã ban hành Thông tư 2421-TC hướng dẫn
thực hiện chế độ Hội thẩm nhân dân trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm một vụ án,
đối với những vụ án quan trọng Thẩm phán có quyền họp trước với Hội thẩm
nhân dân và có quyền quyết định như: Đề nghị với Viện công tố điều tra
thêm, tạm tha cho bị cáo bị giam cứu, bắt bị cáo đã bị truy tố nhưng còn được
21
tại ngoại, xử công khai hay xử kín, có chỉ định người bào chữa cho bị cáo hay
không, những nhân chứng nào cần mời đến phiên tòa, thời gian, địa điểm mở
phiên tòa…
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 16/TATC ngày
27/9/1974 về trình tự sơ thẩm hình sự trong những trường hợp khi yêu cầu
điều tra bổ sung hoặc cần thay đổi biện pháp ngăn chặn, tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ tố tụng thì Tòa án phải họp trù bị trước với Viện kiểm sát rồi mới ra
quyết định.
Do chưa có điều kiện tổ chức phiên tòa, nên trong cuộc họp trù bị, nếu
Viện kiểm sát nhất trí với những vấn đề do Chánh án hoặc Thẩm phán đề xuất
thì tùy từng trường hợp, Tòa trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung, tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án hoặc đưa ra phiên tòa để Hội đồng xét xử quyết
định căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa.
Luật đã quy định rõ trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải ra
một trong các quyết định: Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Quyết
định tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử
cũng như làm những công việc khác.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Tại Điều 9 của Nghị định số 301-
TTG ban hành ngày 10/7/1957 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử: “Khi hồ sơ
vụ án đã được chuyển sang Tòa án nhân dân hoặc thành phố, Tòa phúc thẩm
hoặc tòa án... để xét xử thì kể từ ngày nhận được hồ sơ, các tòa án phải xét xử
trong thời hạn 02 tháng đối với những vụ án mà pháp luật phạt từ 5 năm tù
trở xuống và trong thời hạn 4 tháng đối với những vụ án mà pháp luật quy
định phạt trên 05 năm tù”
Ngày 24/4/1976 nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc
hội.
22
Ngày 28/6/1988, Quốc hội thông qua BLTTHS và có hiệu lực từ ngày
01/01/1989. BLTTHS năm 1988 đã quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử đối
với tội ít nghiêm trọng là 45 ngày, tội nghiêm trọng là 03 tháng.
Ngày 08/12/1988 TANDTC, VKSNDTC đã ban hành Thông tư liên
ngành số 01/TTLN hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS,
trong đó có quy định nội dung họp trù bị.
BLTTHS năm 1988 là Bộ luật tố tụng Hình sự đầu tiên của nước ta, đã
có những quy định cụ thể về thời hạn chuẩn bị xét xử, là cơ sở pháp lý để Tòa
án áp dụng thống nhất trong cả nước.
Sau 15 năm thi hành BLTTHS năm 1988, đất nước ta có nhiều thay
đổi. Các cơ quan tư pháp được tổ chức, quy định về chức năng, nhiệm vụ và
cơ chế hoạt động ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được củng
cố, kiện toàn. Nhưng chỉ là những chuyển biến bước đầu và mới tập trung giải
quyết những vấn đề bức xúc. Công tác tư pháp hình sự vẫn còn bộc lộ nhiều
bất cập, hạn chế. Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003 ra đời trên cơ sở kế thừa
và phát triển những quy định của pháp luật tố tụng hình sự và có nhiều điểm
tiến bộ hơn so với nhu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
BLTTHS 2003 khi được ban hành, trong điều kiện đội ngũ cán bộ, cơ
sở vật chất của Cơ quan điều tra, VKS và TAND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh chưa được tăng cường đầy đủ, nên việc giao thẩm quyền xét
xử theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS 2003 được thực hiện theo lộ
trình đảm bảo từ khi công bố ngày 01/7/2004 đến ngày 01/7/2009 tất cả Tòa
án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự trong cả nước thực hiện thống nhất
thẩm quyền xét xử (Nghị quyết số 509/2004/NQ-UBTVQH11 ngày
29/4/2004). Đồng thời Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết
số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 Hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS 2003, hướng dẫn
23
những quy định về: Người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành
tố tụng, thẩm quyền của Chánh án. Phó Chánh án khi được Chánh án ủy
quyền, ban hành các biểu mẫu trong tố tụng hình sự.
Tại Điều 176 BLTTHS 2003 quy định về chuẩn bị xét xử như sau: Sau
khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm
vụ nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người
tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên
tòa; Trong thời hạn 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội
phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng….Đối với
những vụ án phức tạp thì Chánh án cấp trên có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị
xét xử nhưng cũng không quá 30 ngày. Khi đã ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử thì phải mở phiên tòa trong thời hạn 15 ngày, trường hợp có lý do chính
đáng thì thời hạn là 30 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Để áp dụng thống nhất pháp luật. Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban
hành Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 Hướng dẫn thi hành
một số quy định trong phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS 2003,
trong đó hướng dẫn chi tiết về “Nhận hồ sơ vụ án và thụ lý hồ sơ vụ án”,
“Thời hạn chuẩn bị xét xử” “Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử”, “các quy
định về áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam” ….. Đây là văn
bản pháp lý giúp cho các Tòa án thực hiện thống nhất trong áp dụng pháp luật
TTHS 2003 về xét xử sơ thẩm, trong đó có những vấn đề liên quan đến chuẩn
bị xét xử của Tòa án.
Nước ta trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khoa học - công nghệ và hội nhập quốc
tế, tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp với tính chất và hậu quả
ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tội
phạm tham nhũng chưa được ngăn chặn hiệu quả, loại tội phạm có tổ chức,
24
tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm trong lĩnh
vực tin học…có xu hướng ngày càng gia tăng, gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Do đó, yêu cầu của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với hoạt động tư pháp ngày
càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm
pháp luật. Trước tình hình đó, đổi mới thủ tục tố tụng hình sự là một tất yếu
khách quan, một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc cải cách tư
pháp hiện nay, được Đảng và Nhà nước rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Vì
vậy BLTTHS năm 2015 được ban hành với nhiệm vụ đảm bảo hoạt động tố
tụng hình sự diễn ra dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch chặt chẽ nhưng
thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân; nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại Tòa án làm
căn cứ quan trọng để phán quyết… góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
25
Kết luận chương 1
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tạo ra những điều kiện cần thiết
cho phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có kết quả, chất lượng và hiệu
quả. Bởi vậy, việc nhận thức những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, trong chương 1
của luận văn này, tác giả luận văn đã phân tích được:
Thứ nhất, trên cơ sở các quan điểm khoa học về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đã được nêu trong khoa học LTTHS nước ta, bản chất, mục
đích của chuẩn bị XXST vụ án hình sự; các quy định của pháp luật TTHS
nước ta đến trước khi ban hành BLTTHS 2015, tác giả luận văn đã xây dựng
khái niệm khoa học về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, làm sáng tỏ
đặc điểm của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; làm rõ các vấn đề về chủ
thể, thời hạn, nội dung của chuẩn bị xét xử. Theo đó, chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là những hoạt động tố tụng của Tòa án mà cụ thể là Chánh án,
Phó Chánh án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa và HT tham gia
HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự thực hiện quyền hạn về trách nhiệm pháp lý của
mình trong việc giải quyết vụ án hình sự một cách hợp pháp và đúng đắn.
Thứ hai, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, tác giả luận văn còn phân tích làm rõ quá trình lập pháp
tố tụng hình sự của nước ta đến trước khi ban hành BLTTHS hiện hành về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, qua đó làm sáng tỏ tính kế thừa, tính
phát triển có tiếp thu kinh nghiệm lập pháp nước ngoài trong lập pháp tố tụng
hình sự nước ta về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Những kết quả nghiên cứu lý luận và lập pháp tố tụng hình sự nước ta về
chuẩn bị xét xở sơ thẩm vụ án hình sự là tiền đề để tác giả luận văn nghiên
cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của các chương tiếp theo của luận
văn này.
26
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM
2015 VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH
ĐỒNG NAI
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.1.1. Quy định về nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án
Điều 276 BLTTHS năm 2015 quy định: Khi VKS giao bản cáo trạng,
hồ sơ vụ án và vật chứng kèm theo (nếu có), Tòa án phải kiểm tra và xử lý:
a/Trường hợp tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo
(nếu có) đã đầy đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng và bản cáo trạng đã được
giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì nhận hồ sơ vụ án;
b/ Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có)
không đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng hoặc bản cáo trạng chưa được giao
cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ vụ án và yêu
cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, vật chứng; yêu cầu giao bản cáo trạng cho
bị can hoặc người đại diện của bị can.
Tòa án phải thụ lý vụ án khi đã nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng theo
đúng quy định pháp luật. Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa giải quyết vụ án trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý
vụ án.
BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể thành một điều luật mới, quy định cụ
thể các căn cứ về nhận hồ sơ, bản cáo trạng và thụ lý vụ án, thời hạn Chánh
án phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.
2.1.2. Quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử
27
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khoảng thời gian
theo quy định của pháp luật, để Tòa án tiến hành những hoạt động tố tụng và
những công việc cần thiết đảm bảo cho việc xét xử vụ án diễn ra đúng thời
gian quy định, đạt được hiệu quả cao trong giải quyết vụ án.
Điều 277 BLTTHS 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính
từ ngày Tòa án thụ lý vụ án hình sự cụ thể: 30 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng; 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng; 02 tháng đối với tội
phạm rất nghiêm trọng; 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Chánh án Tòa án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không
quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; 30
ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đối
với những vụ án phức tạp.
Khi thời hạn quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 277 của BLTTHS gần
hết (thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại không quá 05 ngày) mà Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa thấy rằng vụ án phức tạp nên chưa đưa ra được
một trong những quyết định quy định của BLTTHS, thì cần báo cáo ngay với
Chánh án Tòa án để ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Việc gia
hạn thời hạn chuẩn bị xét xử thực hiện theo đúng quy định tại khoản 1 Điều
277 BLTTHS.
Theo quy tại Điều 277 Mục II Chương XXI của BLTTHS năm 2015,
quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau:
28
Bảng 1.1 : Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm của một vụ án hình sự thông thường
Các loại thời hạn Thời hạn chuẩn bị
xét xử tối đa
Loại tội phạm Thời hạn Thời hạn mở phiên Không Có lý
Thẩm tòa có lý do do
phán ra Không Có lý do
quyết định có lý do
2 3 4 5= 2+3 6= 2+4 1
Ít nghiêm trọng 30 ngày 15 ngày 30 ngày 45 ngày 02
tháng
Nghiêm trọng 45 ngày 15 ngày 30 ngày 02 tháng 02
tháng
15 ngày
Rất nghiêm trọng 02 tháng 15 ngày 30 ngày 02 tháng 03
15 ngày tháng
Đặc biệt nghiêm 03 tháng 15 ngày 30 ngày 03 tháng 04
15 ngày tháng trọng
Nguồn: [5, tr 246, 247]
29
Bảng 1.2: Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử của một vụ án hình sự phức tạp
Các loại thời hạn Thời hạn chuẩn bị
xét xử tối đa
Thời Thời Thời hạn mở phiên Không Có lý
Loại tội hạn hạn gia tòa có lý do do
phạm Thẩm hạn thời Không Có lý
phán ra hạn có lý do
quyết chuẩn
định bị xét
xử
1 2 3 4 5 6=2+3+4 7=2+3+
5
Ít nghiêm 30 ngày 15 ngày 15 ngày 30 ngày 02 tháng 02
trọng tháng
15 ngày
Nghiêm 45 ngày 15 ngày 15 ngày 30 ngày 02 tháng 03
trọng 15 ngày tháng
Rất nghiêm 02 30 ngày 15 ngày 30 ngày 03 tháng 04
trọng tháng 15 ngày tháng
Đặc biệt 03 30 ngày 15 ngày 30 ngày 04 tháng 05
15 ngày tháng nghiêm tháng
trọng
Nguồn:[5, tr 246, 247]
30
Bảng 1.3: Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử của một vụ án hình sự được Tòa án nhận lại sau khi trả lại cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung
Các loại thời hạn Thời hạn chuẩn bị
Loại tội phạm xét xử tối đa
Thời hạn Thời hạn mở phiên Không Có lý
Thẩm tòa có lý do do
phán ra Không có Có lý
quyết định lý do do
1 2 3 4 5=2+3 6=2+4
Ít nghiêm trọng 15 ngày 15 ngày 30 ngày 30 ngày 45 ngày
Nghiêm trọng 15 ngày 15 ngày 30 ngày 30 ngày 45 ngày
Rất nghiêm trọng 15 ngày 15 ngày 30 ngày 30 ngày 45 ngày
Đặc biệt nghiêm 15 ngày 15 ngày 30 ngày 30 ngày 45 ngày
trọng
Nguồn:[5, tr 246, 247]
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải
căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ những
vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự như quy định tại Điều 85
BLTTHS 2015 như sau:
“1. Hành vi phạm tội có xảy ra hay không, địa điểm, thời gian và tình
tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do
cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ
phạm tội;
3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can,
bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
31
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt” [5, tr 86].
Theo tinh thần của cải cách tư pháp được quy định tại Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị thì phán quyết của Tòa án chủ
yếu dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu,
kết quả thu thập chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, nghiên cứu kỹ hồ sơ
vụ án là yếu tố quan trọng để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nắm vững được
nội dung vụ án, tạo được tính chủ động trong điều hành phiên tòa. Trong thực
tiễn xét xử cho thấy, quá trình tranh tụng tại phiên tòa có nhiều tình tiết của
vụ án cũng như các chứng cứ được điều tra, bổ sung tại phiên tòa khác với kết
quả điều tra đồng thời cũng làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề cần chứng minh
trong vụ án, dẫn đến việc phán quyết của Tòa án có sự khác biệt hoặc khác
biệt lớn với kết quả điều tra thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra có trong
hồ sơ vụ án, dẫn đến phán quyết của HĐXX khác biệt với kết luận điều tra
hoặc cáo trạng của VKS, nhiều vụ án thông qua hoạt động xét xử kiểm tra,
đánh giá chứng cứ tại phiên tòa đã phát hiện những tình tiết, chứng cứ mới
dẫn đến việc HĐXX phải hoãn phiên tòa để yêu cầu điều tra bổ sung.
Xét thấy có đủ chứng cứ sau khi đã nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hồ sơ
thì Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong
trường hợp VKS đã điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và hoàn trả hồ
sơ. Đồng thời, xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ sung lần hai,
hoặc trường hợp VKS không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu
và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Khi ban hành quyết định đưa vụ án ra
xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 255
32
BLTTHS 2015. Theo quy định tại Điều 255 BLTTHS 2015 thì quyết định đưa
vụ án ra xét xử là cơ sở để bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo,
bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, luật sư bào chữa có thể đề xuất
thêm những người cần triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa hoặc vật chứng cần
đưa ra xem xét, đồng thời là cơ sở để họ thực hiện quyền đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng, bảo đảm cho việc xét xử được khách quan.
Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều
255 BLTTHS 2015 quy định: “Ngày, tháng, năm ra quyết định; tên Tòa án ra
quyết định; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa; Xét xử công khai
hay xét xử kín; Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư
trú của bị cáo; Tội danh và điểm, khoản, điều của BLHS mà VKS truy tố đối
với bị cáo; Họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ tên Thẩm phán
dự khuyết, Hội thẩm dự khuyết, Thư ký Tòa án dự khuyết (nếu có); Họ tên
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; họ tên
kiểm sát viên dự khuyết (nếu có); Họ tên người bào chữa (nếu có); Họ tên
người phiên dịch (nếu có); Họ tên những người khác được triệu tập đến phiên
tòa” [5, tr 228, 229].
Khoản 3 Điều 277 BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án phải mở phiên
tòa trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa
án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày [5, tr 247].
2.1.3.Quy định về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế
Theo quy định tại khoản 1 Điều 278 BLTTHS năm 2015, Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ quyết định việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết
33
định. Tại khoản 2 Điều 278 BLTTHS 2015 nhà làm luật quy định: Thời hạn
tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy
định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật này và tại khoản 3 Điều 278 BLTTHS
2015, nhà làm luật quy định: Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày
mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để
hoàn thành việc xét xử thì HĐXX ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên
tòa.
Theo quy định tại Điều 177 BLTTHS 2003: Nếu xét thấy cần tiếp tục
tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi
kết thúc phiên tòa khi mà bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa
thời hạn tạm giam đã hết. Như vậy quy định tại Điều 278 BLTTHS 2015 đã
có sự thay đổi về chủ thể quyết định tạm giam so với quy định tại Điều 177
BLTTHS 2003. Cụ thể là, theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì về thẩm
quyền tạm giam, chỉ có Chánh án, Phó Chánh án TAND các cấp mới có thẩm
quyền ra quyết định tạm giam. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ nếu
thấy thời hạn tạm giam của bị cáo đã hết, mà cần thiết tạm giam bị cáo để
đảm bảo cho việc xét xử thì Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ
án phải đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án ký quyết định tạm giam. Theo
quy định của BLTTHS năm 2015, thẩm quyền ra lệnh tạm giam đó thuộc về
HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự. Về thời hạn tạm giam, tại khoản 2 Điều 278
BLTTHS 2015 nhà làm luật quy định: Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử
không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của
Bộ luật này và tại khoản 3 Điều 278 BLTTHS 2015.
2.1.4. Quy định về giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa
Khoản 1 Điều 279 BLTTHS năm 2015 quy định: Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa phải giải quyết các yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố
tụng.
34
Ngoài ra, phải giải quyết đề nghị của bị cáo về việc có hay không việc
thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Mặt khác, phải
giải quyết đề nghị của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về việc xét xử
theo thủ tục rút gọn, xét xử công khai hoặc xét xử kín cũng như về việc vắng
mặt tại phiên tòa [5, tr 248].
2.1.5. Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Một trong những nhiệm vụ và cũng là thẩm quyền của Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa là ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung thuộc
những trường hợp mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Theo Điều 280
BLTTHS năm 2015, đó là những trường hợp:
Thứ nhất, do không thể bổ sung tại phiên tòa được những chứng cứ để
chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này. Đó
là “ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, không gian, thời gian, nơi thực
hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác của hành vi phạm tội…….;”[ 5,
tr 86].
Thứ hai, Bộ luật hình sự quy định là tội phạm mà có căn cứ cho rằng,
ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác.
Thứ ba, trong trường hợp BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ
án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can mà có căn cứ cho rằng có
đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi;
Thứ tư, Trong giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng;[5, tr 249].
Trường hợp VKS phát hiện có căn cứ để điều tra bổ sung thì VKS có
văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ.
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần
điều tra bổ sung và gửi cho VKS kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn luật
định.
35
Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì VKS ra
quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án trong thời hạn luật quy
định.
VKS ban hành cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó khi mà
kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố.
Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án nếu VKS không bổ sung được những
vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố.
Điều 280 BLTTHS 2015 đã bổ sung được những bất cập của Điều 179
BLTTHS 2003, đã pháp điển hóa hướng dẫn của TTLT số 01/2010 ngày
27/8/2010 của VKSNDTC, BCA, TANDTC về trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015 đã khẳng định phải trả
hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh…..còn điểm
a khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 thì quy định khi cần xem xét thêm những
chứng cứ quan trọng ….dẫn đến việc Tòa án cho là thiếu chứng cứ quan trọng
không thể bổ sung tại phiên tòa còn VKS lại cho rằng chỉ là xem xét thêm và
những chứng cứ đó không quan trọng nên không đồng ý bổ sung; Bổ sung
những điểm mới tại khoản 2, khoản 3 Điều 280 BLTTHS 2015 về trường hợp
VKS có văn bản để nghị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung và nếu kết quả điều
tra bổ sung phải ra quyết định đình chỉ vụ án thì phải thông báo cho Tòa án
trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định; còn nếu kết quả điều tra bổ
sung có thay đổi thì phải ban hành bản cáo trạng mới thay thế cáo trạng trước
đó. Điều này giúp hạn chế được việc VKS mượn lại hồ sơ một cách tùy tiện
nhưng vẫn không thay thế cáo trạng. Khi chưa có quyết định đưa vụ án ra xét
xử đã sử dụng thuật ngũ bị cáo là chưa đúng, không phù hợp.
2.1.6. Quy định về tạm đình chỉ vụ án
36
Điều 281 BLTTHS 2015 quy định về tạm đình chỉ vụ án. Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các
trường hợp:
a/ Có căn cứ quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 229 của Bộ
luật này;
b/ Không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà hết thời hạn chuẩn bị xét
xử, trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị
can, bị cáo trước khi tạm đình chỉ vụ án.
c/ Chờ kết quả kiến nghị của Tòa án về việc xử lý văn bản pháp luật.
Trong vụ án có nhiều bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ vụ án đối
với từng bị can, bị cáo nếu căn cứ để tạm đình chỉ không liên quan đến tất cả
các bị can, bị cáo.
Phải ghi rõ lý do tạm đình chỉ và những nội dung theo quy định tại
khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này khi ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án [5, tr
250].
BLTTHS 2015 đã quy định riêng một điều luật về những căn cứ để tạm
đình chỉ vụ án rõ ràng và dễ hiểu hơn như quy định tại khoản 1 Điều 160
BLTTHS 2003.
2.1.7. Quy định về đình chỉ vụ án
Điều 282 BLTTHS 2015 quy định về đình chỉ vụ án. Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:
a/ Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 hoặc các
điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 của Bộ luật này.
b/ Trước khi mở phiên tòa VKS rút toàn bộ quyết định truy tố. Trong
vụ án có nhiều bị can, bị cáo có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo
nếu xét thấy có căn cứ để đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can,
bị cáo.
37
Phải ghi rõ lý do đình chỉ và các nội dung theo quy định tại khoản 2
Điều 132 của Bộ luật này trong Quyết định đình chỉ vụ án [5, tr 250, 251].
Điều 282 BLTTHS 2015 về đình chỉ vụ án cơ bản vẫn giữ nguyên
những căn cứ đình chỉ vụ án như quy định của Điều 180 BLTTHS 2003, tuy
nhiên đã khắc phục được bất cập của BLTTHS 2003 và bổ sung tại khoản 3
Điều 155 BLTTHS 2015 ngoài chủ thể là bị hại thì người đại diện của bị hại
cũng là chủ thể rút yêu cầu khởi tố là căn cứ để đình chỉ vụ án, bổ sung thêm
quyết định đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do đình chỉ.
2.1.8. Quy định về phục hồi vụ án
Điều 283 BLTTHS 2015 phục hồi vụ án. Đây là một điều luật mới
được quy định trong BLTTHS 2015. Nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự thì Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án ra
quyết định phục hồi vụ án khi có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ vụ
án hoặc có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ vụ án.
Chánh án ra quyết định phục hồi vụ án trong trường hợp Thẩm phán đã
ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án không thể thực hiện được.
Trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ đối với từng bị can, bị cáo thì ra
quyết định phục hồi đối với từng bị can, bị cáo.
Quyết định phục hồi vụ án phải nêu rõ lý do phục hồi vụ án và các nội
dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
Khi phục hồi vụ án, Tòa án có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam
thì thời hạn tạm giam để phục hồi vụ án không được quá thời hạn chuẩn bị xét
xử [5, tr 251, 252].
2.1.9. Quy định về việc giao, gửi quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
38
Điều 286 BLTTHS 2015 quy định việc giao, gửi quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm.
Chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, Tòa án phải giao quyết
định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo hoặc người đại diện của họ; gửi cho người
bào chữa, đương sự…. nếu xét xử vắng mặt thì phải được niêm yết tại trụ sở
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú cuối cùng hoặc cơ
quan tổ chức nơi làm việc, học tập cuối cùng của bị cáo.
Tòa án phải giao cho bị can, bị cáo, bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của họ và gửi cho người tham gia tố tụng khác trong thời hạn 03 ngày kể
từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định
phục hồi vụ án.
Tòa án phải gửi cho VKS cùng cấp trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày
ra quyết định Quyết định phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, quyết
định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án,
quyết định phục hồi vụ án…
Bị can, bị cáo, VKS cùng cấp, cơ sở giam giữ nơi bị can, bị cáo đang bị
tạm giam được giao Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định [5, tr
253, 254].
Điều 286 BLTTHS 2015 đã sửa đổi, bổ sung khắc phục được những
bất cập của Điều 182 BLTTHS 2003, ngay trong tên của điều luật đã quy định
rõ những quyết định của Tòa án ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự phải thực hiện việc giao, gửi, quy định cụ thể thời hạn giao, gửi của
từng loại quyết định cho những người tham gia tố tụng, VKS cùng cấp và
VKS cấp trên trực tiếp để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đối với các
quyết định đó.
39
2.2.Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng
Nai.
Trong 05 năm qua, từ năm 2014 đến năm 2018. TAND huyện Tân Phú,
tỉnh Đồng Nai đã giải quyết tổng cộng 3.992 vụ án các loại, trong đó có 590
vụ án hình sự với 968 bị cáo theo trình tự sơ thẩm, đình chỉ xét xử 06 vụ với
12 bị cáo, tạm đình chỉ 3 vụ, 03 bị can, trả hồ sơ để điều tra bổ sung 77 vụ với
148 bị can và xét xử sơ thẩm 504 vụ với 805 bị cáo.
Bảng 2.2 Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm từ năm 2014 đến năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
Số bị Số bị cáo Số bị Số bị Số bị Số Số bị
Năm cáo bị bị xử phạt cáo bị xử cáo bị cáo bị cáo là
xử phạt tù nhưng phạt xử phạt là cáo người
tù giam cho hưởng CCKGG tiền nam là dưới 18
án treo nữ tuổi
2014 127 13 04 15 149 10 06
2015 111 19 04 08 159 04 09
2016 138 14 02 35 180 09 07
2017 103 17 10 04 127 08 16
2018 126 26 02 27 168 13 09
( Báo cáo tổng kết từ năm 2014 đến năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện
Tân Phú, tỉnh Đồng Nai)
Thực tiễn, cho thấy có một số vụ án vi phạm quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về áp dụng các loại thời hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Có
thể kể đến một số vi phạm điển hình như sau:
Theo hồ sơ vụ án thì việc thụ lý và phân công Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa giải quyết vụ án đúng theo quy định tuy nhiên trên thực tế Tòa án không
40
tiến hành thụ lý vụ án ngay sau khi nhận hồ sơ vụ án và cũng không tiến hành
phân công Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án hình sự ngay sau khi thụ lý hồ
sơ vụ án mà sau một thời gian Chánh án mới tiến hành xem xét phân công
cho Thẩm phán giải quyết vụ án. Khi Thẩm phán nhận hồ sơ vụ án thì việc
nghiên cứu hồ sơ cũng không thực hiện ngay với nhiều nguyên nhân khách
quan có, chủ quan có dẫn đến vụ án phải hoãn nhiều lần dẫn đến vi phạm về
thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Có một số trường hợp do thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định không
đủ để nghiên cứu hết hồ sơ vụ án, do yếu tố khách quan hay chủ quan, dẫn
đến Tòa án phải hoãn phiên tòa nhiều lần để kéo dãn thời gian nghiên cứu giải
quyết vụ án điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian tạm giam bị cáo để
chuẩn bị xét xử.
2.2.1.Thực tiễn áp dụng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử.
Trong 5 năm qua, với biên chế ít, Thẩm phán thiếu nhưng với số lượng
án như trên là rất nhiều so với công việc của từng thẩm phán được phân công
giải quyết án. Qua thực tiễn áp dụng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử tại
Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xét thấy có nhiều vụ án vi phạm về thời hạn
chuẩn bị xét xử đó là:
Điển hình như vụ án Nguyễn Văn Công và 07 đồng phạm bị VKSND
huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố về tội “Cố ý gây thương tích” theo
khoản 3 Điều 104 của BLHS năm 1999. Hành vi của các bị cáo là rất nguy
hiểm cho xã hội, gây thương tích cho bị hại với thương tật 73%, hung khí mà
các bị cáo sử dụng là hung khí nguy hiểm. Trong vụ án này có tổng cộng 08
bị cáo và 01 bị hại và 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ án liên quan với tổng
số hơn 800 bút lục trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo có nhiều mâu
thuẫn, có bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Vụ án này,
TAND huyện Tân Phú thụ lý vụ án lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 11 năm
41
2015, đến ngày 16 tháng 02 năm 2016 (02 tháng 29 ngày kể từ ngày thụ lý vụ
án) thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ nhất. Tòa án thụ lý lần hai
vào ngày 05 tháng 8 năm 2016, đến ngày 22 tháng 9 năm 2016 (01 tháng 17
ngày kể từ ngày thụ lý lại vụ án) Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ
hai. Ngày 13/4/2017, Tòa án thụ lý lại lần thứ ba, đến ngày 05/9/2017 (05
tháng 21 ngày kể từ ngày thụ lý lại vụ án) Tòa án ra quyết định xét xử và ấn
định thời hạn mở phiên tòa vào ngày 25/9/2017 (Trong thời hạn 20 ngày kể từ
ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử).
Tính từ ngày Tòa án nhận hồ sơ vụ án lần thứ ba cũng là ngày Tòa án
thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật là ngày 13 tháng 4 năm 2017 đến
ngày kết thúc việc giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là ngày 25 tháng 9
năm 2017, vụ án được giải quyết trong thời gian tổng cộng là 05 tháng 12
ngày. Như vậy theo quy định của Điều 277 BLTTHS 2015 thì thời Tòa án
phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung là 15
ngày, tối đa không quá 30 ngày, nhưng vụ án này, Thẩm phán đã vi phạm tố
tụng 04 tháng 12 ngày.
Cùng với việc kéo dài thời hạn giải quyết vụ án nêu trên, thì thời hạn
tạm giam đối với các bị cáo cũng bị kéo dài.
Hoặc như vụ án Khưu Lê Sang bị VKSND huyện Tân Phú, tỉnh Đồng
Nai truy tố về tội “Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 của Bộ luật hình sự năm 1999. Tòa
án thụ lý vụ án lần đầu ngày 05/9/2016, đến ngày 29/9/2016 Tòa án trả hồ sơ
lần thứ nhất cho VKS điều tra bổ sung. Ngày 14/10/2016 Tòa án thụ lý vụ án
lần hai. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, gây tai nạn giao thông
làm chết 01 người, bị thương 01 người, hư hỏng 01 xe Môtô, 01 xe Ôtô. Qua
nghiên cứu hồ sơ, xét thấy, bị cáo hành nghề lái xe Ôtô vận chuyển bưu kiện
cho công ty chuyển phát nhanh, bị cáo điều khiển xe Ôtô từ Thành Phố Hồ
42
Chí Minh đi Lâm Đồng, khi xe đến khu vực rừng Giá tỵ do buồn ngủ nên bị
cáo dừng xe để ngủ, lúc này khoảng hơn 4 giờ sáng, khi đang mơ màng thì
phát hiện có người thò tay vào capin xe lấy điện thoại của bị cáo do đó bị cáo
nổ máy xe Ôtô đuổi theo, khi chạy được khoảng 4-5 km phát hiện phía trước
có 01 xe Môtô đang chạy sát lề đường, nghi ngờ cho rằng là đối tượng lấy
điện thoại của mình vì vậy bị cáo đã tông thẳng xe Ôtô vào xe Môtô dẫn đến
gây tai nạn giao thông, xe Ôtô của bị cáo trượt dài trên đường 73 mét mà
không có vết thắng, hậu quả, 01 người chết, 01 người bị thương, hư hỏng 01
xe Ôtô, 01 xe Môtô. Bị cáo khai cố ý tông vào xe Môtô với mục đích cho chết
vì cướp điện thoại của bị cáo, sau đó thay đổi lời khai, vì nghi ngờ bị hại cướp
điện thoại của bị cáo nên bị cáo ép xe dẫn đến va quẹt gây tai nạn giao thông.
Đại diện hợp pháp của bị hại cho rằng bị cáo phạm tội giết người, không đồng
ý với kết luận và cáo trạng truy tố của VKS. Tòa án cho rằng bị cáo phạm tội
với lỗi cố ý vì vậy trả hồ sơ cho VKS lần hai ngày 08/12/2016 để điều tra bổ
sung hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý, có dấu hiệu của tội “Giết
người”. VKS giữ nguyên quan điểm truy tố và chuyển hồ sơ cho Tòa án.
TAND huyện Tân Phú thụ lý vụ án lần ba vào ngày 26 tháng 12 năm 2016,
đến ngày 05 tháng 4 năm 2017 Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung lần ba (03
tháng 09 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án) theo quy định của Điều 176 BLTTHS
2003 thì thời hạn tối đa là 30 ngày, nhưng vụ án này Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa đã vi phạm thời hạn xét xử quá thời hạn là 02 tháng 09 ngày. Ngày
01/8/2017, Tòa án thụ lý lại lần thứ tư, đến ngày 05/9/2017 Tòa án ra quyết
định xét xử và ấn định thời hạn mở phiên tòa vào ngày 21/9/2017 (Trong thời
hạn 16 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử).
Tính từ ngày Tòa án nhận lại hồ sơ vụ án và cũng là ngày Tòa án thụ lý
vụ án theo quy định của pháp luật là ngày 01 tháng 8 năm 2017 đến ngày kết
thúc việc giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là ngày 21 tháng 9 năm 2017,
43
vụ án được giải quyết trong thời gian tổng cộng là 01 tháng 20 ngày. Như vậy
theo quy định của Điều 277 BLTTHS 2015 thì thời hạn là 15 ngày, nhưng vụ
án này, Thẩm phán đã vi phạm tố tụng 01 tháng 05 ngày. Vụ án trên sau khi
xét xử sơ thẩm, VKS kháng nghị về hình phạt, đại diện hợp pháp bị hại kháng
cáo về tội danh cho rằng hành vi của bị cáo phạm tội giết người, bị cáo kháng
cáo xin giảm nhẹ hình phạt, TAND huyện Tân Phú kiến nghị cấp có thẩm
quyền xem xét lại hành vi của bị cáo với lỗi cố ý có dấu hiệu của tội giết
người. Tại cấp phúc thẩm, VKS tỉnh xin rút kháng nghị của VKS cấp huyện,
đề nghị hủy án để điều tra lại với hành vi phạm tội của bị cáo có lỗi cố ý, có
dấu hiệu của tội giết người. Cấp phúc thẩm đã xét xử hủy bản án sơ thẩm và
trả hồ sơ cho VKS điều tra lại theo thủ tục chung. Vụ án đã được Cơ quan
điều tra cấp tỉnh điều tra và VKSND tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Khưu Lê
Sang về tội “Giết người” và TAND tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Giết người”
và xử phạt bị cáo 14 năm tù.
Điển hình như vụ án Đỗ Hoàng Linh cùng đồng phạm bị VKSND
huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố về tội “Cướp tài sản” theo khoản 2
Điều 133 của BLHS năm 1999 do số tiền chiếm đoạt có giá trị lớn. Hồ sơ hơn
400 bút lục trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo có nhiều mâu thuẫn.
Vụ án này, TAND huyện Tân Phú thụ lý vụ án lần đầu vào ngày 05 tháng 10
năm 2016, đến ngày 16 tháng 02 năm 2017 (04 tháng 11 ngày) Tòa án trả hồ
sơ lần thứ nhất, yêu cầu đối chất làm rõ trong lời khai của bị cáo, bị hại có
nhiều mâu thuẫn mà chưa đối chất làm rõ. Sau khi điều tra làm rõ theo yêu
cầu của Tòa án, VKS chuyển hồ sơ sang Tòa vào ngày 03/5/2017, Tòa án thụ
lý vụ án lần hai và đến ngày 10/6/2017 Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử vào ngày 27/6/2017. Như vậy quá thời hạn quy định tại Điều 277
BLTTHS 2015 là 01 tháng 12 ngày. Vụ án trên giữa Tòa án và VKS không
thống nhất quan điểm về tội danh, VKS truy tố bị cáo tội “ Cướp tài sản”, Tòa
44
án xét xử bị cáo tội “Cưỡng đoạt tài sản”, sau khi xét xử sơ thẩm, VKS kháng
nghị về tội danh và hình phạt, ở cấp phúc thẩm, VKS tỉnh đã rút kháng nghị
của VKS cấp huyện và đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, phúc thẩm xét xử
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Điển hình như vụ án Bùi Thị Bích Thủy bị VKS truy tố về tội “Cưỡng
đoạt tài sản”, Tòa án thụ lý ngày 02/8/2017, sau khi phân công Thẩm phán
giải quyết, xét xử vụ án, đến ngày 26/10/2017 Thẩm phán trả hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung vì cho rằng còn có đồng phạm khác, sau khi nhận hồ sơ, VKS
đã yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung nhưng vụ án để kéo
dài quá thời hạn, đến ngày 06/3/2019, VKS mới ban hành cáo trạng truy tố bổ
sung và chuyển hồ sơ sang Tòa án, Tòa án thụ lý lần hai ngày 06/3/2019, hiện
nay đang trong quá trình giải quyết vụ án. Luật quy định thời hạn điều tra bổ
sung ở Cơ quan điều tra là 01 tháng (Điều 174 BLTTHS 2015) nhưng trong
vụ án này Cơ quan điều tra và VKS đã để vụ án kéo dài 01 năm 05 tháng mới
ra cáo trạng truy tố và chuyển hồ sơ sang Tòa án để thụ lý giải quyết.
Nguyên nhân vụ án bị kéo dài chủ yếu là do nhận thức pháp luật của
người tiến hành tố tụng chưa đúng, đặc biệt là Điều tra viên và Kiểm sát viên.
Việc giao các quyết định tố tụng của VKS cho các bị cáo, cũng còn xảy
ra một vài trường hợp sai sót như khi có quyết định truy tố bổ sung cáo trạng
thì không giao cho các bị cáo, việc công bố các quyền, nghĩa vụ của các bị
can trong quá trình điều tra, truy tố vẫn chưa được thực hiện, do đó tại phiên
tòa các bị cáo mới có đề nghị, yêu cầu và Tòa án phải giải quyết theo quy
định pháp luật bằng cách trả hồ sơ để điều tra bổ sung và quá trình điều tra bổ
sung cũng không thực hiện triệt để nên dẫn đến Tòa án tiếp tục phải trả hồ sơ
nhiều lần.
2.2.2.Thực tiễn áp dụng quy định về nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự.
45
TAND huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, trong những năm 2014 đến
2016 chỉ có 04 Thẩm phán, năm 2017 đến 2018 được bổ nhiệm mới thêm 04
Thẩm phán nâng số lượng hiện nay là 08 Thẩm phán, với số lượng án nhiều
như đã thống kê ở phần 2.2, với số lượng như trên thì trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ của Thẩm phán như nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sau khi được Chánh án phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự đã
có nhiều cố gắng đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên ít nhiều cũng
có sai sót, vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử theo luật định.
Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ vụ án với mục đích để nắm rõ những tình
tiết của vụ án. Trên cơ sở đó xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án, để nghiên cứu hồ sơ vụ án, thứ nhất nghiên cứu những tài liệu mang tính
tố tụng như: Các quyết định khởi tố vụ án, bị can. Các quyết định phê chuẩn
của VKS, kết luận điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn, Cáo trạng.
Thứ hai nghiên cứu những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như:
Vật chứng của vụ án, lời khai, bản tự khai, bản cung của bị can và
những người tham gia tố tụng khác như bị hại, người liên quan, người làm
chứng..... xác minh nhân thân, lai lịch của bị can.
Thực tiễn qua nghiên cứu hồ sơ do VKS truy tố, tại TAND huyện Tân
Phú đã xác định có nhiều sai sót như bỏ lọt tội phạm, thiếu các tài liệu chứng
cứ, sai sót về nhân thân, lai lịch của bị can vì vậy mà trong 05 năm từ 2014
đến 2018 Tòa án đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là 77 vụ với 148 bị can.
Kết quả được VKS chấp nhận là 55 vụ, đạt tỷ lệ 71,42%, có một số vụ VKS
có xác minh bổ sung thêm các tài liệu chứng cứ nhưng vẫn giữ nguyên quan
điểm truy tố.
Điển hình như: Vụ án Nguyễn Văn Đồng và đồng phạm bị VKS truy tố
về tội “Đánh bạc” Tòa án thụ lý ngày 08/4/2016, sau khi nghiên cứu hồ sơ xét
thấy hành vi của các bị cáo tham gia đánh bạc dưới 5 triệu đồng, do thay đổi
46
chính sách pháp luật, vì vậy trả hồ sơ cho VKS để đình chỉ vụ án và yêu cầu
Cơ quan điều tra ra quyết định xử phạt hành chính đối với các bị can.
Hoặc vụ án Phạm Quốc Duy bị VKS truy tố tội “Vô ý làm chết người”,
sau khi nhận hồ sơ, Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án
đã nghiên cứu hồ sơ và xét thấy hành vi của bị cáo sau khi dừng xe trong khu
vực cây xăng để đi vệ sinh sau đó điều khiển xe chuyển hướng quay đầu
không bật đèn báo rẽ, không chú ý quan sát dẫn đến va quẹt với người bán vé
số ngồi trước cách đầu xe 4-5 mét làm bị hại bị xe Ôtô va quẹt ngã xuống
gầm xe gây thương tích gãy xương sườn bị tràn dịch màng phổi do bị xương
sườn đâm phải dẫn đến tử vong. Sau khi trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung,
VKS đã thay đổi tội danh xác định bị can phạm tội “Vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
2.2.4.Thực tiễn thực hiện quy định về áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 278 BLTTHS: Thời hạn tạm giam để
chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1
Điều 277 của Bộ luật này.
Khoản 3 Điều 278 BLTTHS 2015 quy định: Trong trường hợp, xét thấy
đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết nhưng cần tiếp tục tạm giam
bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử thì ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc
phiên tòa [5, tr 248]. Đây là một quy định mới trong BTTHS 2015, trên thực
tế tại TAND huyện Tân Phú ít xảy ra trường hợp này, tuy nhiên thời gian vừa
qua có 01 vụ án Bùi Văn Bích và đồng phạm bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tòa án
thụ lý lần thứ nhất ngày 28/6/2018, đến ngày 22/8/2018 trả hồ sơ lần thứ nhất.
Ngày 24/9/2018 Tòa án thụ lý lần hai và HĐXX trả hồ sơ điều tra bổ sung vào
ngày 19/10/2018. Tòa án thụ lý lần ba ngày 16/11/2018, trong quá trình
47
nghiên cứu hồ sơ vụ án, ngày 28/12/2018 Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 15/01/2019, trong khi đó thời hạn
tạm giam của các bị cáo đã hết, vì vậy Hội đồng xét xử đã ra quyết định tạm
giam đối với các bị cáo cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm.
Về thẩm quyền tạm giam thì chỉ có Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
mới có thẩm quyền ra quyết định tạm giam. Do vậy, trong quá trình nghiên
cứu hồ sơ nếu thấy thời hạn tạm giam của bị cáo đã hết, mà cần thiết tạm
giam bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử thì Thẩm phán được phân công giải
quyết, xét xử vụ án phải đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án ký quyết định
tạm giam. Tại điểm c, khoản 1 Điều 113 cũng có quy định thẩm quyền bắt và
tạm giam của HĐXX.
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này đảm bảo cho việc xét xử đúng
thời hạn luật định, tránh trường hợp thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị
cáo nhưng đến ngày mở phiên tòa thì bị cáo vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.
Trong thời gian 05 năm từ 2014 đến năm 2018, TAND huyện Tân Phú,
thụ lý giải quyết 590 vụ án hình sự với 968 bị can, trong đó theo đề xuất của
Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án, Chánh án đã áp dụng
biện pháp tạm giam thay cho biện pháp bảo lãnh là 41 bị cáo. Số bị cáo còn
lại đã bị tam giam từ giai đoạn điều tra, một số bị cáo được tại ngoại do đang
nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ
ràng nên được áp dụng biện pháp cho gia đình bảo lãnh. Việc thực hiện biện
pháp tạm giam thay cho biện pháp bão lĩnh khi có Lệnh bắt tạm giam của Tòa
án, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú thực hiện tốt và đúng quy định
của tố tụng, đảm bảo được thời hạn tố tụng và đảm bảo tốt cho Tòa án xét xử
vụ án đúng thời hạn.
Thực tế đối với việc thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo
lĩnh khi hồ sơ do Tòa án thụ lý là rất ít hoặc không có, bởi vì đối với những bị
48
can có đủ các điều kiện được tại ngoại thì ở giai đoạn điều tra, Cơ quan điều
tra đã thực hiện hoặc đến khi hồ sơ chuyển đến VKS thì VKS đã thay đổi biện
pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo lĩnh.
2.2.4. Thực tiễn áp dụng quy định về các quyết định tố tụng của Tòa án
trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Về quyết định đưa vụ án ra xét xử: Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử khi xét thấy có đủ chứng cứ để xét xử mà không có căn cứ trả hồ sơ
để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Trường hợp VKS đã
điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và hoàn trả hồ sơ, nếu thấy không
cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ sung lần hai, hoặc trường hợp VKS không
bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định
truy tố, thì Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án cũng ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Từ thực tiễn áp dụng, khi ban hành quyết định đưa
vụ án ra xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án về
nguyên tắc phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 255 BLTTHS 2015.
Tuy nhiên thực tế vẫn có nhiều trường hợp khi Thẩm phán ban hành quyết
định đưa vụ án ra xét xử còn rất sơ sài, thiếu một số thông tin theo quy định
nhưng cũng chỉ là trường hợp cá biệt như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử ghi
không đầy đủ nơi sinh, nghề nghiệp của bị cáo, không có Thẩm phán dự
khuyết, Hội thẩm dự khuyết, Thư ký, Kiểm sát viên dự khuyết. Khắc phục
tình trạng trên, Lãnh đạo đơn vị đã kiểm tra và yêu cầu các Thẩm phán phải
thực hiện đúng nguyên tắc được quy định tại Điều 255 BLTTHS 2015 để bị
cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, luật sư bào chữa có thể đề xuất thêm những người cần
triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa hoặc vật chứng cần đưa ra xem xét, đồng thời
là cơ sở để họ thực hiện quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, bảo
đảm cho việc xét xử được khách quan.
49
Về quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung: Do áp lực công việc nhiều, có
Thẩm phán khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án nghiên cứu hồ sơ
không kỹ và khi mới nghiên cứu qua bản cáo trạng và bản kết luận điều tra
phát hiện phát hiện thấy có thiếu sót về một số các tài liệu chứng cứ như nhân
thân lý lịch bị can nên đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, sau khi VKS
khắc phục bổ sung chuyển hồ sơ sang Tòa án thụ lý, Chánh án phân công
Thẩm phán giải quyết vụ án tiến hành nghiên cứu tiếp và tiếp tục phát hiện lời
khai của bị can có nhiều điểm mâu thuẫn mà chưa tiến hành đối chất giữa bị
can và bị hại vì vậy lại tiếp tục trả hồ sơ lần thứ hai, lẽ ra Thẩm phán phải
nghiên cứu kỹ toàn bộ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để yêu cầu
trả hồ sơ điều tra tất cả những nội dung cần điều tra. Ngoại trừ có Thẩm phán
do được giao giải quyết nhiều hồ sơ vụ án và không có kế hoạch cụ thể nên
khi hồ sơ gần hết hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng chưa kịp nghiên cứu do
đó đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử dẫn đến tại phiên tòa qua lời khai báo
của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác thấy có nhiều mâu
thuẫn, thiếu sót dẫn đến phải hoãn phiên tòa và trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
sung. Trường hợp này trả hồ sơ là HĐXX trả hồ sơ nhưng lại là trả hồ sơ lần
đầu là không phù hợp với quy định của BLTTHS, theo quy định của BLTTHS
thì việc trả hồ sơ như trên là không đúng quy định (khoản 2 Điều 174
BLTTHS 2015). Điển hình có vụ án Tòa án trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ
sung 04 lần như vụ án Khưu Lê Sang (như đã phân tích ở phần 2.2.1 chương
2 của Luận văn).
50
Bảng 2.2.4: Số vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý, trả hồ sơ điều tra bổ sung và kết quả trả hồ sơ của Tòa án trên địa bàn huyện Tân Phú từ năm 2014 đến năm 2018.
Năm Số vụ đã Số vụ THS Tỷ lệ THS Số vụ THS Tỷ lệ chấp
thụ lý điều tra bổ điều tra bổ được chấp nhận THS
sung sung nhận
114 vụ 13 vụ 11,40% 10 vụ 2014 76%
110 vụ 19 vụ 17,27% 15 vụ 2015 78,9%
128 vụ 10 vụ 7,81% 7 vụ 2016 70%
105 vụ 16 vụ 15,23% 9 vụ 2017 56,25%
133 vụ 19 vụ 14,28% 12 vụ 2018 63,15%
Nguồn: Báo cáo thống kê hàng năm từ năm 2014 đến năm 2018 của TAND
huyện Tân Phú.
Về số vụ án mà Tòa án ra quyết định Tạm đình chỉ, Đình chỉ vụ án:
Bảng 2.2.5: Số vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý sau đó Đình chỉ, Tạm đình chỉ trên địa bàn huyện Tân Phú từ năm 2014 đến năm 2018.
Năm Số vụ đã Số vụ Tạm Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ
thụ lý đình chỉ Đình chỉ
2014 114 vụ 00 vụ 0% 02 vụ 1,754%
2015 110 vụ 00 vụ 0% 00 vụ 0%
2016 128 vụ 01 vụ 0,781% 03vụ 2,343%
2017 105 vụ 01 vụ 0,952% 01vụ 0,952%
2018 133 vụ 01 vụ 0,751% 00 vụ 0%
Nguồn: Báo cáo thống kê hàng năm từ năm 2014 đến năm 2018 của TAND
huyện Tân Phú.
Từ số liệu thống kê thực tiễn, tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án hình sự sơ
thẩm trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tại TAND huyện Tân Phú 05
51
năm qua xét thấy tương đối ít so với số vụ án đã thụ lý giải quyết, điều đó thể
hiện trong quá trình điều tra, truy tố đã tiến hành thu thập đầy đủ các tài liệu
chứng cứ của vụ án. Qua nghiên cứu 03 quyết định tạm đình chỉ vụ án, 06
quyết định đình chỉ vụ án mà Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử
vụ án ra quyết định xét thấy: Các quyết định đình chỉ vụ án thuộc trường hợp
khởi tố theo yêu cầu của bị hại, sau khi Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án, giữa bị cáo
và bị hại đã thương lượng thỏa thuận bồi thường xong và bị hại rút yêu cầu
khởi tố trước ngày mở phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định
đình chỉ vụ án (theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 282 BLTTHS 2015).
Các quyết định tạm đình chỉ vụ án thuộc trường hợp có kết luận giám
định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần, hạn chế khả năng nhận thức và
không thể làm việc được với các cơ quan pháp luật nên bắt buộc phải chữa
bệnh, Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án ra quyết định tạm
đình chỉ vụ án (theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 229 BLTTHS 2015),
đồng thời báo cáo Chánh án ra quyết định bắt buộc chữa bệnh đối với bị can.
2.2.5. Nguyên nhân những hạn chế, vi phạm trong chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
Việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời hạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về cơ bản không có vi phạm nhiều, cá biệt có
vi phạm điều đó cho thấy các quy định về thời hạn xét xử sơ thẩm theo
BLTTHS năm 2003 là ổn định. BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung và quy
định về thời hạn thụ lý, thời hạn Thẩm phán được phân công giải quyết, xét
xử vụ án theo hướng thống nhất về thời điểm xác định thời hạn và quy định
thời hạn mang tính cụ thể. Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và phương
hướng, nhiệm vụ công tác năm 2018, Hội nghị triển khai công tác Tòa án năm
2018 ngành Tòa án, Chánh án TANDTC đã báo cáo có liên quan tới tổ chức
và hoạt động của ngành Tòa án, nhất là Luật Tổ chức Tòa án và các văn bản
52
có liên quan, chấn chỉnh các vi phạm trong ngành để các đơn vị trực thuộc
khắc phục vi phạm trong thời gian tới.
Nguyên nhân khách quan: Do vụ án có nhiều bị cáo trong đó có bị cáo
bị truy tố nhiều tội, hành vi xảy ra ở nhiều địa bàn khác nhau, vì vậy khi trích
xuất bị cáo để xét xử thì phải thực hiện các thủ tục bắt buộc theo quy định của
tố tụng, dẫn đến có trường hợp đến ngày mở phiên tòa nhưng công tác trích
xuất bị cáo của Công an vẫn chưa thực hiện được, Tòa án phải hoãn phiên tòa
dẫn đến quá thời hạn chuẩn bị xét xử. Điển hình vụ án Diệp Lương Toàn bị
VKS truy tố về tội “Trộm cắp tài sản và Cố ý làm hư hỏng tài sản” Tòa án thụ
lý ngày 03/4/2018, sau đó Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ
án nghiên cứu hồ sơ và ngày 03/5/2018 Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án
ra xét xử vào ngày 28/5/2018, tuy nhiên ngày 28/5/2018 do không trích xuất
được bị cáo vì hiện nay bị cáo đang bị đang bị tạm giam về hành vi vi phạm
tại Lâm Đồng, Tòa án phải hoãn phiên tòa và ấn định lại ngày xét xử vào
ngày 12/6/2018.
Nguyên nhân chủ quan: Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử
còn chủ quan, đơn giản hóa vấn đề thời hạn chuẩn bị xét xử, xem đây là vấn
đề tố tụng không quan trọng, có Thẩm phán làm việc theo thói quen không để
ý đến thời hạn, quá hạn rồi mới phát hiện ra, có vụ án sau khi thụ lý vụ án
hình sự Chánh án đã không phân công ngay cho Thẩm phán để nghiên cứu hồ
sơ, đến khi giao thì gần hết thời hạn. Có Thẩm phán nhiều việc nhưng không
đề ra kế hoạch cụ thể nên lúng túng trong việc bố trí thời gian nghiên cứu cho
bản thân, Hội thẩm, cho người bào chữa và thực hiện các công việc chuẩn bị
khác nên vi phạm về thời hạn, còn nếu đảm bảo thời hạn thì lại không đảm
bảo về nội dung và chất lượng của công tác chuẩn bị xét xử…..Cá biệt có
Thẩm phán do trình độ nhận thức không đúng các quy định về thời hạn mà
dẫn đến vi phạm, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án ở giai đoạn chuẩn bị xét
53
xử, khi gần hết thời hạn giải quyết vụ án thì quyết định đưa vụ án ra xét xử,
khi mở phiên tòa thì thiếu các tài liệu chứng cứ mà lẽ ra Thẩm phán phải yêu
cầu VKS bổ sung như biên bản giao nhận vật chứng, tang vật của vụ án, tống
đạt triệu tập những người tham gia tố tụng không đúng địa chỉ của họ dẫn đến
họ không đến tham gia phiên tòa được, phải hoãn phiên tòa dẫn đến quá thời
hạn xét xử.
Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc.
Thứ nhất, BLTTHS 2015 chưa xem xét, đánh giá hết các yếu tố có thể
ảnh hưởng trực tiếp đến việc áp dụng các quy định pháp luật, chưa dự liệu
được các tình huống khó khăn, phức tạp khi tiến hành việc giao các văn bản
tố tụng........ có các tình huống xảy ra trong giai đoạn trước khi mở phiên tòa
cần phải giải quyết các yêu cầu, kiến nghị, đề nghị của người tham gia tố tụng
.......bên cạnh đó không quy định chế tài về việc chậm trễ trong việc để hồ sơ
quá hạn của Cơ quan điều tra, Viên kiểm sát, có một số thuật ngữ trong pháp
luật còn chung chung khiến cho các cơ quan tố tụng hiểu chưa thống nhất, có
nhiều cách khác nhau .…
Thứ hai, Về áp lực chỉ tiêu giải quyết án đối vứi thừng thẩm phán cùng
với việc quy định tỷ lệ số lượng án bị hủy, sửa để làm căn cứ bình xét thi đua,
xem xét việc tái bổ nhiệm khi hết nhiệm kỳ; việc thiếu tinh thần trách nhiệm
còn có tư tưởng ngại xét xử những vụ án khó, phức tạp của Thẩm phán khi
được phân công giải quyết.... đã tạo nên tâm lý e ngại cho Thẩm phán vì nếu
đưa ra xét xử có khả năng bị Tòa án cấp trên hủy, sửa án ảnh hưởng đến thi
đua, tái bổ nhiệm. Trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ của một số
Thẩm phán còn hạn chế; thiếu kinh nghiệm giải quyết án, phải mất nhiều thời
gian cho việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu hơn so với Thẩm phán đã có nhiều
kinh nghiệm. Ngoài ra, không thể không kể đến nguyên nhân các Thẩm phán
còn tâm lý ngại va chạm nên không quan tâm đến việc phải đưa vụ án ra xét
54
xử trong thời hạn luật định mà kéo dài thời hạn xét xử đối với những vụ án
tương đối nhạy cảm, liên quan đến cán bộ quản lý ở địa phương; trường hợp
này thường rơi vào những vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế và nhóm tội phạm về chức vụ. Đây là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng các Thẩm phán đã cố tình kéo dài thời hạn giải quyết vụ án
bằng những biện pháp trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Một trong những nguyên nhân khách quan nhưng rất quan trọng đó là
tình trạng thiếu Thẩm phán. Theo định mức của TANDTC quy định mỗi
Thẩm phán hàng tháng giải quyết từ 04 đến 06 vụ nhưng thực tế tỷ lệ án bình
quân giao cho mỗi Thẩm phán vẫn còn rất cao, tại TAND huyện Tân Phú,
tỉnh Đồng Nai là 12 vụ/tháng do đó áp lực rất lớn dẫn đến chất lượng giải
quyết các vụ án tất nhiên là không được đảm bảo, cơ sở vật chất thiếu thốn,
máy móc cũ kĩ và lạc hậu chưa đáp ứng được tình hình mới, chế độ tiền lương
vẫn còn rất thấp so với đặc thù của ngành Tòa án…
Thứ ba, trình độ năng lực, ý thức trách nhiệm của một số Điều tra viên,
Kiểm sát viên chưa cao, sự phối kết hợp giữa các cơ quan tố tụng vẫn chưa
đồng bộ trong việc trích xuất bị cáo, chưa làm hết trách nhiệm của mình trong
việc thu thập chứng cứ...; chưa cung cấp đầy đủ kịp thời, hồ sơ, tài liệu; Kiểm
sát viên chưa chủ động yêu cầu điều tra trong quá trình kiểm sát điều tra vụ
án, còn thụ động chờ kết thúc điều tra vụ án chuyển đến VKS mới nghiên cứu
hồ sơ, nên không phát hiện kịp thời những thiếu sót về tố tụng, chứng cứ
trong vụ án...
Thứ tư, công tác quản lý, điều hành của người đứng đầu đơn vị đôi khi
chưa thật sự có hiệu quả, chưa có sự quản lý chặt chẽ trong công tác chuyên
môn nên chưa có kế hoạch, biện pháp cụ thể; thiếu sự đôn đốc, kiểm tra, chưa
chỉ đạo quyết liệt để cán bộ đơn vị phải tuân thủ một cách triệt để các quy
định của pháp luật trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
55
Để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới, nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm, giải quyết các loại án cần hoàn thiện các quy định của BLTTHS về
chuẩn bị xét xử nói chung, về thời hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng;
tăng cường năng lực pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm của
người giữ các chức danh tư pháp.
Thực hiện công tác quản lý, điều hành của mình có hiệu quả, Chánh án
TANDTC đã ban hành Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19 tháng 6
năm 2017 quy định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp, đối
với Thẩm phán, Thư ký nếu để xảy ra các sai phạm thì sẽ bị xử lý theo quy
định của pháp luật.
Đối với người đứng đầu nếu để xảy ra sai phạm tại đơn vị sẽ bị xử lý
trách nhiệm vi phạm trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.
Việc áp dụng Quyết định số 120/QĐ-TANDTC trong xử lý những vi
phạm đối với Thẩm phán và Thư ký có vi phạm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
trong thời gian qua thì chất lượng và hiệu quả công tác đã được nâng lên rõ
rệt, công tác xét xử được đảm bảo, các vụ án đều được giải quyết trong thời
hạn luật định. Các bản án hình sự được tuyên đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
Tòa án đã tăng cường tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp,
yêu cầu mỗi Thẩm phán hàng năm phải đăng ký ít nhất một phiên tòa rút kinh
nghiệm, tại phiên tòa, Lãnh đạo đơn vị và các Thẩm phán, HTND, Thư ký
tham dự. Sau khi kết thúc phiên tòa, lãnh đạo đơn vị tổ chức họp toàn thể để
kiểm điểm rút kinh nhiệm những ưu điểm, tồn tại và thiếu sót của TPCTPT,
đồng thời rút kinh nghiệm chung cho các Thẩm phán trong đơn vị. Trường
hợp Thẩm phán trong năm không đăng ký phiên tòa rút kinh nghiệm thì
không xét thi đua. Tại phiên tòa xét xử không hạn chế thời gian tranh tụng,
56
tiến hành kiểm tra đánh giá toàn bộ quá trình khởi tố, truy tố đối với hành vi
của bị cáo.
Kết luận chương 2
Qua thực tiễn áp dụng việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố
tụng hình sự tại TAND huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói riêng và cả nước
nói chung, luận văn đã làm rõ được những hạn chế, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với các quy định về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm cũng như xác định nguyên nhân khách quan và chủ
quan. Thực trạng việc thi hành các quy định của BLTTHS về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm ở huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai qua số liệu thống kê 05 năm (2014-
2018) cho thấy có vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tuy nhiên qua
công tác kiểm tra, giám sát của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và các cơ
quan có liên quan đều có kết luận để kiểm điểm rút kinh nghiệm khắc phục
những thiếu sót…
Trên thực tế có những vi phạm như trên, một phần là do những nguyên
nhân khách quan, nhưng cũng phải xác định có nguyên nhân chủ quan của
Thẩm phán cũng như Kiểm sát viên, Điều tra viên.
Trên cơ sở xác định nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, luận
văn đưa ra những kiến nghị, những giải pháp để hoàn thiện quy định của pháp
luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự
như: Kiến nghị hoàn thiện quy định chung về chuẩn bị xét xử sơ thẩm; kiến
nghị đối với các quy định về chuẩn bị xét xử, thời hạn thụ lý vụ án, thời hạn
tạm giam để chuẩn bị xét xử…; kiến nghị về việc tăng cường năng lực, ý thức
pháp luật và nâng cao trách nhiệm cá nhân của người giữ chức danh tư pháp
trong TAND về việc áp dụng pháp luật mà cụ thể Chánh án, Phó Chánh án,
Thẩm phán, Thư ký tòa án.
57
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Trước yêu cầu tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung và hệ thống Tòa án nói riêng; bảo đảm ngày càng tốt hơn
quyền con người trong tố tụng hình sự; tăng cường hội nhập quốc tế, trong đó
có lĩnh vực tư pháp hình sự...cần có những giải pháp có tính khả thi nhằm
nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Xét về nguyên
tắc, chất lượng của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tùy thuộc vào tổng
thể các giải pháp khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật
học và kết quả nghiên cứu của các chương 1, 2 tác giả luận văn kiến nghị một
số giải pháp chủ yếu sau đây:
3.2. Nâng cao nhận thức về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trên cơ sơ lý luận và các quy định của BLTTHS hiện hành. Mỗi Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án muốn nâng cao nghiệp vụ chuyên
môn phải không ngừng học tập, nghiên cứu các quy định pháp luật, thường
xuyên cập nhật các văn bản pháp luật có liên quan. Đặc biệt là việc nghiên
cứu và nắm vững các điều luật được sửa đổi bổ sung và những quy định mới
trong BLTTHS trong đó chú trọng nguyên tắc suy đoán vô tội, chứng cứ, thủ
tục tố tụng về giải quyết và xử lý các vấn đề trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự đúng theo quy định của pháp luật.
Thực hiện cải cách tư pháp, BLTTHS vừa mới ban hành, yêu cầu bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, hội nhập quốc tế thì việc nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị là tất yếu, các Thẩm phán
muốn thực hiện tốt vai trò của mình và hoàn thành nhiệm vụ theo quy định
của pháp luật thì làm việc phải có kế hoạch, sắp xếp một cách khoa học và
58
hợp lý trong việc chuẩn bị xét xử đối với vụ án hình sự khi được lãnh đạo
phân công để giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật đạt hiệu quả
cao.
Luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, có tinh thần trách
nhiệm, vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án.
3.3. Tăng cường tổ chức tập huấn chuyên môn nghiệp vụ về áp
dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
TANDTC, Tòa án nhân dân tỉnh nên có kế hoạch, chương trình thường
xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, giáo dục chính
trị, tư tưởng và ý thức trách nhiệm cho các Thẩm phán, HTND, Thư ký Tòa
án.
Tăng cường tập huấn nghiệp vụ xét xử cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, Thư ký Tòa án là rất quan trọng. TANDTC qua thực tiễn công tác cần
tổng hợp các ý kiến thắc mắc để giải đáp, hướng dẫn thi hành pháp luật, qua
các báo cáo tổng kết hàng năm ban hành những văn bản pháp quy làm tài liệu
giải đáp, hướng dẫn pháp luật cho TAND địa phương để áp dụng thống nhất.
Đổi mới công tác tập huấn, tăng cường trao đổi nghiệp vụ, tổ chức các hội
thảo chuyên đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm, lấy ví dụ thực tiễn để phân tích và
minh họa thì chất lượng và hiệu quả tập huấn sẽ cao hơn.
3.4. Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Các cơ quan chủ quản TANDTC, VKSNDTC, BCA cần tổ chức rà soát
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến BLTTHS 2003 và
các hướng dẫn có liên quan khác để bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn
bản mới hoặc đề xuất Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội bãi bỏ, sửa đổi,
59
bổ sung hoặc ban hành văn bản mới hướng dẫn thi hành BLTTHS 2015 bảo
đảm tính kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả.
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số Điều của BLTTHS 2015 để hoàn thiện
hơn và có tính khả thi cao như: Điều 284 BLTTHS 2015 về yêu cầu VKS bổ
sung tài liệu, chứng cứ tại khoản 3 trường hợp VKS không bổ sung thì phải
nêu rõ lý do không bổ sung; Kiến nghị cần quy định rõ trách nhiệm của VKS
phải tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 287 thì không xác định được chính xác những
người tham gia tố tụng nào được quyền yêu cầu Tòa án triệu tập những người
được xét hỏi đến phiên tòa. Vì nếu chỉ quy định chung “người tham gia tố
tụng” thì người làm chứng cũng là người tham gia tố tụng quy định tại Điều
55 cũng được quyền triệu tập những người được xét hỏi tại phiên tòa; cần quy
định rõ chỉ bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự mới có quyền đề
nghị. BLTTHS 2015 chỉ bổ sung thêm có thể dẫn giải đối với bị hại, Cần bổ
sung thêm cả nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án; người chứng kiến (trừ người dưới 18 tuổi) đều có thể bị
dẫn giải nếu cố ý không chấp hành quyết định, yêu cầu của người tiến hành tố
tụng, vì sự có mặt của những người này làm cho việc giải quyết vụ án được
khách quan hơn.
3.5. Tăng cường khả năng và năng lực của đội ngũ Thẩm phán.
Biên chế của TAND huyện Tân Phú được phân bổ là 16 cán bộ, công
chức, 04 hợp đồng lao động. Trong đó 02 Thẩm phán trung cấp, 06 Thẩm
phán sơ cấp, 01 Thẩm tra viên, 07 thư ký. So với biên chế được phân bổ hiện
nay Tòa án nhân dân huyện Tân Phú đã đủ biên chế.
Công tác chuyên môn nghiệp vụ là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của
Tòa án nhân dân huyện Tân Phú mà chủ thể chính là đội ngũ cán bộ Thẩm
phán và Thư ký. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương
60
Đảng khóa VIII về chiến lược thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước cũng đã nhấn mạnh: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ là
khâu then chốt trong xây dựng Đảng”.
Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 Tòa án được xác định là trung tâm của hệ
thống tư pháp, trong đó hoạt động xét xử giữ vị trí trung tâm, có vai trò quan
trọng nhất. Hoạt động này tiến hành trên cơ sở tư duy của Thẩm phán, đó là
người có trách nhiệm cầm cân công lý với phương châm “Phụng công, thủ
pháp, chí công vô tư”. Do vậy cần phải có đội ngũ Thẩm phán trong sạch, có
năng lực chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có trình độ lý luận chính trị, ý
thức pháp luật, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp….và các kiến thức bổ trợ
khác như kinh tế, xã hội, ngoại ngữ, tin học, đặc biệt chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về tư pháp quốc tế để đáp ứng yêu
cầu của hội nhập khu vực và quốc tế.
BLTTHS 2015 và Luật tổ chức TAND 2014 đã cụ thể hóa những tư
tưởng, đường lối, tạo sự thống nhất trong pháp luật trên tinh thần Hiến pháp
2013 về bổ sung một số nguyên tắc tư pháp tiến bộ và làm rõ hơn nhiệm vụ
của TAND, VKSND khi thực hiện chức năng Hiến định.., cụ thể:
Đã góp phần tháo gỡ những vướng mắc từ thực tiễn với nhiều nội dung
quan trọng như những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, đến các quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan và người tiến hành tố tụng, trình tự,
thủ tục từng giai đoạn tố tụng.
Quy định chặt chẽ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công
dân; đổi mới chế định chứng cứ và chứng minh, bảo đảm nguyên tắc suy đoán
vô tội và quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử…….
61
Với những yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, đòi hỏi Thẩm phán và
các chức danh tư pháp phải không ngừng rèn luyện bản thân, tư học tập để
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và luôn vững vàng trước những khó khăn
thách thức, cám dỗ trong đời sống xã hội để hoàn thành tốt nhiệm vụ được
Đảng và Nhà nước phân công.
Đáp ứng nhu cầu cấp thiết của Tòa án các cấp trong việc nghiên cứu và
áp dụng pháp luật trong xét xử thì vào ngày 28/10/2015 Hội đồng Thẩm phán
TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/HĐTP – TANDTC về quy
trình lựa chọn công bố án lệ và áp dụng án lệ và bắt đầu có hiệu lực thi hành
từ ngày 16/12/2015.
Đồng thời, đối với những vụ án có những tình tiết tương tự với án lệ
khi mà án lệ được công bố sẽ phần nào giúp người dân biết và hiểu được quan
điểm, đường lối giải quyết, điều này góp phần không nhỏ vào việc thương
lượng, tự thỏa thuận của người dân. Về phía Tòa án, tham khảo án lệ để phân
tích những thiếu sót trong những vụ án xét xử trước đó sẽ giúp Thẩm phán rút
kinh nghiệm, khắc phục những sai sót trong chuẩn bị xét xử để trên cơ sở đó
nghiên cứu kỹ hơn, sâu hơn và xác định được những chứng cứ nào là chứng
cứ quan trong trong vụ án để phân tích, đánh giá, tổng hợp trong việc giải
quyết vụ án, hạn chế việc kết án oan, sai.
Cán bộ, công chức, người lao động ngành Tòa án, đặc biệt là người giữ
chức danh Thẩm phán cần kịp thời nắm bắt, cập nhật những quy định pháp
luật mới để phục vụ cho công tác xét xử đúng trình tự, thủ tục.
BLTTHS 2015 được Quốc hội thông qua được xem là bước cải tiến
mới trong tiến trình cải cách tư pháp và Luật tổ chức TAND là một bước đệm
quan trọng của toàn hệ thống ngành Tòa án. Điều này mang tầm vóc quan
trọng, ý nghĩa sâu sắc trong việc “thay áo mới”, phù hợp với tinh thần cải
62
cách tư pháp của Bộ chính trị cho toàn ngành Tòa án Việt Nam nói chung và
Tòa án huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói riêng.
Với mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chuẩn bị xét xử sơ
thẩm và hạn chế được những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong thời gian
vừa qua thì cần đề xuất những giải pháp sau đây:
Tiếp tục nâng cao nhận thức về lý luận và thực tiễn trong chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự theo hướng thực chất, đảm bảo dân chủ, công khai,
đúng quy định của pháp luật.
Luôn đổi mới và nâng cao hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức giữ các chức danh tư pháp, làm
cho cán bộ, công chức thấy rõ được tầm quan trọng trong việc chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự là nhân tố quyết định đến chất lượng xét xử vụ án hình
sự, quyết định đến sự thành công của phiên tòa sơ thẩm để phán quyết và ra
một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Song song với những giải pháp trên, cần đẩy mạnh việc đổi mới thủ tục
hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án các cấp, làm cho mọi công
dân khi có công việc liên hệ đến Tòa án cảm thấy Tòa án là nơi mà họ cần đến
để giải quyết những khó khăn, bức xúc trong đời sống xã hội mà họ không tự
giải quyết được.
Cán bộ, công chức ngành Tòa án cần được trang bị cho mình phẩm chất
chính trị, đạo đức cùng với năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm trong
công tác, tính kỷ cương, kỷ luật công vụ. Đồng thời, với những thành tích
được ghi nhận thì cần kịp thời vinh danh và khen thưởng, tạo động lực phấn
đấu trong công tác chuyên môn nghiệp vụ.
Triển khai thực hiện tốt BLHS, BLTTHS có hiệu lực từ ngày 01/7/2016
và các Nghị quyết có liên quan, trong đó có Luật tổ chức TAND năm 2014 để
hoàn thiện hệ thống TAND 4 cấp; đẩy mạnh việc bổ sung, kiện toàn đội ngũ
63
cán bộ, công chức có chức danh tư pháp đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán
TAND địa phương đủ về số lượng, đảm bảo phẩm chất đạo đức, bản lĩnh
chính trị, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Với mục tiêu tạo nguồn
thẩm phán có chất lượng thì việc đào tạo nghiệp vụ xét xử luôn được xem
trọng và thực hiện tốt. Thường xuyên thực hiện và cập nhật những nội dung
mới của Luật để trau dồi, bồi dưỡng kiến thức cho HTND thông qua những
chương trình đào tạo và tập huấn nghiệp vụ.
Để góp phần khắc phục cũng như kịp thời phát hiện những sai sót và xử
lý cán bộ công chức có hành vi vi phạm thì cần đẩy mạnh và thực hiện có
hiệu quả công tác thanh, kiểm tra nghiệp vụ. Đồng thời, phải thực hiện
nghiêm túc, đúng chuẩn mực công vụ của cán bộ, công chức ngành Tòa án.
Nhằm phát huy thủ tục cải cách hành chính tư pháp trong hoạt động
Tòa án cần nâng cao số lượng, chất lượng điều kiện - cơ sở vật chất, môi
trường làm việc. Đồng thời, quán triệt từng bước thực hiện có hiệu quả mô
hình Tòa án điện tử trong cả nước.
Xây dựng quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng luôn được chú trọng và thường xuyên được thực hiện. Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương để triển khai thực hiện tốt các
mặt công tác của Tòa án. Đặc biệt lưu tâm đến việc phối, kết hợp với VKSND
các cấp để tổ chức thực hiện tốt tranh tụng tại Tòa án, trên cơ sở đó, rút ra
được những bài học, kinh nghiệm trong việc xét xử nói chung và việc chuẩn
bị xét xử sơ thẩm nói riêng.
Để điều chỉnh và áp dụng pháp luật Hình sự và tố tụng Hình sự một
cách tốt nhất tại Việt Nam thì một phần không thể thiếu đó là nghiên cứu,
phân tích, so sánh pháp luật tương tự của nước ngoài. Mặt khác, nhằm hoàn
thiện những quy phạm, chế định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm sao cho phù hợp
với tình hình dân trí, điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta qua từng giai đoạn
64
cần phải học hỏi, tiếp thu nhưng có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa tiến bộ
trên thế giới.
Kết luận chương 3
Vấn đề hoàn thiện và yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của BLTTHS nói chung và về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng
trong tình hình hiện nay là một nhu cầu tất yếu khách quan. Kể từ ngày
BLTTHS 2003 có hiệu lực cũng như các quy định pháp luật có liên quan và
được áp dụng trong thực tiễn, đã cho thấy được việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm
gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc từ kỹ thuật lập pháp cho đến nội dung
được thực thi trong thực tiễn. Trong thực tiễn áp dụng của ngành Tòa án nói
chung và TAND huyện Tân Phú nói riêng gặp một số vướng mắc ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình thực thi pháp luật. Thực tế cho thấy, mặc dù
BLTTHS 2015 đã khắc phục được một số hạn chế, bất cập, tuy nhiên vẫn còn
tồn tại những vướng mắc. Vì vậy, trên hết cần có những giải pháp mang tính
tối ưu để pháp luật tố tụng hình sự cũng như công tác của Tòa án được thực
hiện có hiệu quả và đảm bảo chất lượng.
Để thực hiện tốt những nội dung trên, Ngành cấp trên cần phải tổ chức
nhiều hội thảo khoa học, chuyên ngành, đa ngành về nhiều lĩnh vực khác nhau
trong đó có quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự để làm phong
phú hơp những yêu cầu thực tiễn đặt ra cho tiến trình cải cách tư pháp hiện
nay.
65
KẾT LUẬN
Chất lượng xét xử vụ án hình sự tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
có chất lượng của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Thực tiễn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ở nước ta nói chung và tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai
nói riêng cho thấy nguyên nhân của những hạn chế, sai phạm xuất phát từ
việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chưa tốt. Với mong muốn góp
phần công sức bé nhỏ của mình vào vào việc tăng cường chất lượng chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, học viên lựa chọn đề tài “ Chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
Để đạt được mục đích, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và
các giải pháp khác nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, trước hết luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý luận về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, chủ thể tiến
hành, thời hạn và nội dung chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Luận văn
cũng dành một dung lượng cần thiết để nghiên cứu làm sáng tỏ lịch sử lập
pháp tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đến
trước khi ban hành BLTTHS 2015, qua đó khẳng định tính kế thừa và phát
triển trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta về chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Luận văn cũng tập trung phân tích nội dung các quy định của BLTTHS
2015 của nước ta về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và phân tích, đánh
giá qua thực tiễn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú,
tỉnh Đồng Nai từ năm 2014 đến năm 2018, chỉ ra nguyên nhân của những hạn
chế vi phạm trong hoạt động này.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn đề xuất các giải
66
pháp nâng cao chất lượng của hoạt động nói trên ở nước ta. Luận văn đã đưa
ra được những giải pháp để góp phần thực hiện có hiệu quả công tác chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai và ngành Tòa
án Việt Nam.
Quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn không thể tránh sự sai sót.
Xin trân trọng ghi nhận sự đánh giá, góp ý và các ý kiến từ quý thầy cô cũng
như các độc giả để giúp tác giả chỉnh sửa hoàn chỉnh làm cho đề tài hoàn
thiện hơn.
67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Bảo An (2012), Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh
2. Nguyễn Hòa Bình (chủ biên) (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
3. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ- TW ngày 02 tháng 01 năm
2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp trong thời gian
tới
4. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ - TW ngày 02 tháng 06 năm
2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
5. Bộ tư pháp (2017), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb chính trị quốc gia sự thật,
Hà Nội
6. Bộ tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2001), Bình luận khoa
học bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
7. Bộ tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Bách
khoa – Nxb Tư pháp, Hà Nội
8. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2016), Quyết định số 345/2016/QĐ-
CA ngày 07 tháng 04 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tổ
chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
9. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2018), Hội nghị triển khai công
tác Tòa án năm 2018, Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và phương hướng,
nhiệm vụ công tác năm 2018
68
10. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
11. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
12. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020, Hà Nội
13. Đỗ Thị Hòa (2016), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận),
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam
14. Học viện Tư pháp (2011), Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
15. Học viện Tư pháp (2011), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
Tư pháp, Hà Nội
16. Nguyễn Cảnh Hợp (2001), Các nguyên tắc của tố tụng hình sự trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, Tạp chí Luật học (số 1), tr.10
17. Cao Văn Hiếu (2014), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam (số liệu từ thực tiễn Thành Phố Đà Nẵng), Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam
18. Vũ Đức Khiển (1996), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố
tụng hình sự Việt Nam, Viện khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội
19. Huỳnh Anh Kiệt (2007), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Lý luận
và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh
20. Hoàng Đạt Nam (2017), Một số vấn đề về quyết định tạm giam và thời
hạn tạm giam trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung tại
phiên tòa, Tạp chí Tòa án nhân dân, (Số 20), tr.31
69
21. Ngôn ngữ Việt Nam (2012), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh Niên
22. Võ Thị Kim Oanh ( 2011), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam,
Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
23. Lê Quang Phong (2003), Bắt tạm giữ, tạm giam trong Luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh
24. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 (luật số
29/2003-QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003)
25. Quốc hội (2012), Bộ luật lao động Việt Nam năm 2012 (luật số 10/2012-
QH13 ngày 18 tháng 06 năm 2012)
26. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013
27. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 (luật số
62/2014-QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2014)
28. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015 (luật số
92/2015-QH13 ngày 18 tháng 06 năm 2015)
29. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 (luật số
101/2015-QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015)
30. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (luật số 100/2015-
QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015)
31. Đinh Văn Quế (2000), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Luật tố tụng Hình sự
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội
32. Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện (1999), Những nguyên tắc cơ bản của
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
33. Nguyễn Sỹ Thành (2015), Xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đăk Lăk), Luận văn thạc sĩ,
Đại học Quốc gia Hà Nội
70
34. Vũ Thị Thủy Tiên (2001), Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ
Chí Minh
35. Tòa án nhân dân tối cao ( 2004), Nghị quyết 04/2004/NQ - HĐTP ngày 05
tháng 11 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc
hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba“Xét xử sơ thẩm”của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
36. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Tài liệu tập huấn các Bộ luật, luật được
Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua (2016), Tòa án nhân dân tối cao,
Hà Nội
37. Tòa án nhân dân tối cao (năm 2017), Quyết định số 120/QĐ-TANDTC
ngày 19 tháng 6 năm 2017 quy định về xử lý trách nhiệm người giữ chức
danh tư pháp
37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
38. Phạm Minh Tuyên (2018), Kỹ năng xét xử các vụ án hình sự, Nxb Thanh
Niên
39. Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức
40. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.265
41. Hàng Lâm Viện (2013), Các quyết định của Thẩm phán khi chuẩn bị xét
xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luật văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
42. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm
thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 số 11/ BC -VKSTC ngày 19 tháng
01 năm 2015 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
71
43. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo và tiếp thu, giải trình ý
kiến đóng góp của chính phủ, các bộ, ngành đối với Dự thảo Bộ luật tố tụng
hình sự, Hà Nội
44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Thuyết minh dự thảo Bộ luật tố
tụng hình sự, Hà Nội
45. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Tài liệu tập huấn về những nội
dung mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội
46. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội
47. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng
hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội
48. Trần Thế Vượng (1999), Những nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự
Việt Nam và yêu cầu của việc sửa đổi toàn diện Bộ luật tố tụng hình sự, Kỷ
yếu hội thảo của Ủy ban pháp luật - Quốc hội, tr.12 .
72