VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN NAM

CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN PHÚ,

TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI - 2019

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN NAM

CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TÂN PHÚ,

TỈNH ĐỒNG NAI

Ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự

Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết

quả nghiên cứu ghi trong luận văn là hoàn toàn trung thực từ thực tiễn học tập

và công tác tại đơn vị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai và

chưa từng được công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.

Học viên

Nguyễn Văn Nam

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ........................................ 5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................. 5

7. Kết cấu của luận văn ................................................................................. 6

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ .......................................................................................................... 7

1.1. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............. 7

1.2. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi

ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. .................................................. 20

Kết luận chương 1 ........................................................................................... 26

Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT

NAM NĂM 2015 VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN

PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI ............................................................................... 27

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chuẩn bị xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự .......................................................................................... 27

2.2.Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. . 40

Kết luận chương 2 ........................................................................................... 57

Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHUẨN BỊ

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................................................... 58

3.2. Nâng cao nhận thức về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............. 58

3.3. Tăng cường tổ chức tập huấn chuyên môn nghiệp vụ về áp dụng quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự. ............................................................................................................ 59

3.4. Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về

chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. ........................................................... 59

3.5. Tăng cường khả năng và năng lực của đội ngũ Thẩm phán. .................. 60

3.6. Các giải pháp khác. ................................................................................. 63

Kết luận chương 3 ........................................................................................... 65

KẾT LUẬN .................................................................................................... 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

BCA : Bộ công an

CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

HĐXX : Hội đồng xét xử

HTND : Hội thẩm nhân dân

TAND : Tòa án nhân dân

TANDTC Tòa án nhân dân tối cao :

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1 : Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm của một vụ án hình sự thông thường ...................................................................................... 29

Bảng 1.2: Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử của một vụ án hình sự phức tạp ........................................................................................................... 30

Bảng 1.3: Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử của một vụ án hình sự được Tòa án nhận lại sau khi trả lại cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung .. 31

Bảng 2.2 Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm từ năm 2014 đến năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. .................................................. 40

Bảng 2.2.4: Số vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý, trả hồ sơ điều tra bổ sung và kết quả trả hồ sơ của Tòa án trên địa bàn huyện Tân Phú từ năm 2014 đến năm 2018. ........................................................................................................ 51

Bảng 2.2.5: Số vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý sau đó Đình chỉ, Tạm đình chỉ trên địa bàn huyện Tân Phú từ năm 2014 đến năm 2018. ............................... 51

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân và vì nhân

dân, đảm bảo quyền con người và quyền công dân được quy định trong Hiến

Pháp năm 2013. Theo tinh thần cải cách tư pháp được quy định tại Nghị

Quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị thì phán quyết của

Tòa án chủ yếu dựa vào kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa trên cơ sở

nghiên cứu các tài liệu, kết quả thu thập chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để

quyết định. Việc chuẩn bị xét xử, nhất là nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án là yếu tố

quan trọng để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội thẩm tham gia Hội đồng

xét xử nắm vững được nội dung vụ án; chủ tọa phiên tòa chủ động và vững

tin trong điều hành phiên tòa, góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại

phiên tòa. Chính vì vậy, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự giữ vai trò

quan trọng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả sự nhận thức chưa

thật đầy đủ và sâu sắc về những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự, nên mặc dù đã khắc phục được khá nhiều điểm hạn chế, bất cập

của BLTTHS năm 2003, nhưng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vẫn còn những điểm hạn chế,

bất cập làm ảnh hưởng đến chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Cũng từ nhận thức chưa thật đầy đủ và sâu sắc những vấn đề lý luận và quy

định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

mà một số thẩm phán và hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân huyện Tân

Phú, tỉnh Đồng Nai khi chuẩn bị xét xử nghiên cứu không kỹ hồ sơ vụ án, còn

1

lúng túng trong đánh giá tài liệu, chứng cứ, chưa dự báo được hệ quả của các

quyết định được đưa ra khi chuẩn bị xét xử...Tình trạng trên đã ảnh hưởng

không tốt đến chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Để khắc

phục tình trạng nói trên, cần có những công trình nghiên cứu về lý luận về

chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nghiên cứu các quy định của pháp luật

tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đánh giá một cách

khách quan thực tiễn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gắn với địa bàn

nhất định.

Từ phân tích trên, tác giả đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Chuẩn bị xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn

huyện Tân phú, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như đã nhấn mạnh ở phần trên

có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo các quyền tự do, dân

chủ của công dân, đồng thời đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Bởi

tầm quan trọng của mình mà vấn đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

đã được giới khoa học tố tụng hình sự nước ta quan tâm nghiên cứu. Các công

trình nghiên cứu mang tính chất đại cương như: “Bình luận khoa học Bộ luật

tố tụng hình sự” do GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên (2011), Giáo trình

“Luật tố tụng Hình sự Việt Nam” do tác giả Nguyễn Ngọc Chí chủ biên

(2001) và được tái bản có sửa đổi, bổ sung ……năm 2008, Tài liệu “Kỹ năng

xét xử các vụ án hình sự” do tác giả Phạm Minh Tuyên biên soạn (2018),

Giáo trình “Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự” của Học viện Tư pháp (2011),

Giáo trình “Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Học Viện Tư pháp (2011),

Giáo trình “Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Võ

Thị Kim Oanh (2011), Giáo trình “Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của trường

Đại học Luật Hà Nội (2015); các công trình nghiên cứu chuyên sâu như Đề tài

2

nghiên cứu cấp Bộ của tác giả Vũ Đức Khiển (1996) về “Những vấn đề lý

luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam”); Các đề tài khoa

học khác như: Tác giả Hoàng Đạt Nam (2017) nghiên cứu về: “Một số vấn đề

về quyết định tạm giam và thời hạn tạm giam trong trường hợp Hội đồng xét

xử yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa”. Tác giả Trần Thế Vượng (1999)

về: “Những nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự Việt Nam và yêu cầu của

việc sửa đổi toàn diện Bộ luật tố tụng hình sự”. Tác giả Hoàng Thị Sơn và Bùi

Kiên Điện (1999) về: “Những nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự

Việt Nam”. Tác giả Nguyễn Cảnh Hợp (2001) nghiên cứu về: “Các nguyên

tắc của tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền”…...

Để nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể về chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo

pháp luật tố tụng hình sự nói chung và từ thực tiễn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng

Nai nói riêng, nhất là đi sâu nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật

tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, từ đó đưa ra một số các giải pháp, kiến

nghị để hoàn thiện các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói

chung và tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói riêng. Vì vậy việc chọn đề tài

“Chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực

tiễn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai” là cần thiết có giá trị về mặt lý luận và

thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Từ việc phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và

thực tiễn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng

Nai. Luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự ở nước ta nói chung và huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói

riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

3

Để đạt được mục đích của Luận văn thì cần phải:

- Phân tích những vấn đề lý luận và lịch sử hình thành, phát triển quy

định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự.

- Phân tích, đánh giá thực tiễn quy định của pháp luật về chuẩn bị xét

xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong chuẩn bị xét

xử sơ thẩm tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

- Đề xuất một số kiến nghị và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện

pháp luật và nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở

nước ta nói chung và huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, thực trạng

pháp luật tố tụng hình sự và thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về

chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Bởi

vậy, luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam và thực tiễn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại

huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung

nghiên cứu của đề tài.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ Bộ luật Hình sự và

Bộ luật tố tụng Hình sự. Luận văn tập trung nghiên cứu chuẩn bị xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự theo thủ tục thông thường, không nghiên cứu các thủ tục

về chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo thủ tục đặc biệt.

- Về không gian, thời gian: Luận văn tập trung đánh giá, khảo sát thực

tiễn áp dụng các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp

4

luật tố tụng hình sự Việt Nam tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai trong khoảng

thời gian 05 năm từ năm 2014 -2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ

Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách pháp luật

của Nhà nước về Nhà nước và pháp luật, tội phạm và hình phạt, bảo vệ quyền

con người, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa. Đề tài Luận văn còn được nghiên cứu bằng cách tiếp cận đa ngành, liên

ngành khoa học xã hội nói chung và đa ngành, liên ngành luật học nói riêng.

Với phương pháp luận và cách tiếp cận đó, Luận văn làm sáng tỏ bản chất và

đặc điểm của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật

tố tụng hình sự Việt Nam; các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến việc chuẩn bị

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; những

hạn chế, bất cập, vi phạm trong chuẩn bị xét xử và nguyên nhân của chúng để

đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và các

giải pháp nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng tổng thể các

phương pháp nghiên cứu như: Nghiên cứu tài liệu, văn bản; phân tích và tổng

hợp; so sánh, đối chiếu; diễn dịch, quy nạp… để tổng hợp các luận chứng, tri

thức khoa học và các vấn đề tương ứng trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn

Với kết quả nghiên cứu về lý luận, thực trạng quy định của pháp luật tố

tụng hình sự và thực tiễn áp dụng trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình

5

sự, Luận văn góp phần nhận thức thống nhất về những vấn đề lý luận, về sự

điều chỉnh pháp luật và cách tiếp cận đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật

trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Với việc làm sáng tỏ những vấn đề còn vướng mắc, hạn chế, thiếu sót

trong quy định pháp luật hình sự và trong thực tiễn áp dụng, luận văn góp

phần tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng được tiến hành nhanh chóng,

tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tài sản Nhà nước và công sức của những người

tham gia tố tụng khác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

7. Kết cấu của luận văn

Phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận

văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp tố tụng hình sự

Việt Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành

về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại huyện Tân

Phú, tỉnh Đồng Nai.

Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự ở nước ta.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự

Trong khoa học luật TTHS, vấn đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đúng mức; nhiều vấn đề

của chuẩn bị xét xử, trong đó có khái niệm chuẩn bị xét xử chưa được tiếp cận

nghiên cứu một cách đầy đủ. Các sách, giáo trình và các bài viết khi viết về

chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chủ yếu dừng lại ở việc phân tích các

quy định của pháp luật mà chưa được nghiên cứu dưới các góc độ và cách tiếp

cận đa chiều, liên ngành đa ngành luật học. Vì vậy, kết quả nghiên cứu còn

nhiều hạn chế.

Để có thể làm sáng tỏ khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,

không thể không làm sáng tỏ nội hàm của các khái niệm xét xử và chuẩn bị

xét xử. Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự được hiểu là “Việc Tòa án xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, tài

liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra quyết định khẳng định có hành vi

phạm tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội đó, hình phạt được áp

dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề

khác có liên quan trong vụ án hình sự” [46, tr 335].

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo tác giả Đinh Văn Quế xác định “Là

giai đoạn thể hiện tập trung và quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ

án hình sự. Tại phiên tòa, sau khi nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy

đủ các tình tiết của vụ án một cách công khai, Tòa án sẽ ra phán quyết bị cáo

7

có tội hoặc không có tội, phạm tội gì và áp dụng điều khoản nào của Bộ luật

hình sự để tuyên phạt bị cáo” [31, tr 7].

Nhiệm vụ cơ bản nhất của Bộ luật tố tụng Hình sự là “Bộ luật tố tụng

Hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp

thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội

phạm, không làm oan người vô tội, ……, giáo dục mọi người ý thức tuân theo

pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”[5, tr 6].

Những nguyên tắc đặc trưng là: Nguyên tắc xét xử tập thể, nguyên tắc

thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, nguyên tắc khi xét xử Thẩm

phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử công

khai; nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa án; nguyên tắc xét xử

trực tiếp, bằng lời nói và liên tục [27, tr 14]. Để phiên tòa xét xử vụ án hình sự

có chất lượng đáp ứng các nguyên tắc nói trên, cần phải tiến hành chu đáo

việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

Xét xử sơ thẩm là hoạt động tố tụng theo pháp luật TTHS thực hiện chức

năng của Tòa án. Tại phiên tòa qua phần tranh tụng Hội đồng xét xử đưa ra

phán quyết về hành vi của bị cáo có tội hay không có tội. Phiên tòa sơ thẩm

khi và chỉ khi có cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Đối tượng của phiên tòa

sơ thẩm là quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng của Viện kiểm sát,

Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước truy tố hành vi của bị can về việc đã thực

hiện hành vi phạm tội. Tòa án xem xét những hành vi buộc tội có căn cứ và

hợp pháp hay không và thể hiện quyết định của mình trong bản án.

Để xây dựng được khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, còn

phải làm sáng tỏ thế nào là chuẩn bị. Chuẩn bị được hiểu một cách dung dị là

làm những việc cụ thể cần thiết để thực hiện hoặc chấm dứt một công việc

nhất định nào đó. Từ cách hiểu dung dị đó có thể thấy, chuẩn bị xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự là việc chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật

8

tiến hành những hoạt động cụ thể cần thiết và bắt buộc trước khi mở phiên tòa

xét xử sơ thẩm hình sự vụ án đó.

Xét xử nói chung, xét xử án hình sự, trong đó có xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự nói riêng thuộc thẩm quyền của Tòa án là một quá trình gồm nhiều

hoạt động khác nhau, trong đó có hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Để có

thể mở phiên Tòa xét xử vụ án hình sự mà trước đó Cơ quan điều tra và Viện

kiểm sát đã tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự cần thiết, Tòa án cần phải

tiến hành những công việc chuẩn bị nhất định theo quy định của pháp luật.

Bởi vậy, hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bao gồm việc

chuẩn bị cho việc xét xử về nội dung và thủ tục tố tụng tại phiên tòa, được bắt

đầu từ khi hồ sơ vụ án hình sự cùng với bản cáo trạng và quyết định truy tố do

Viện kiểm sát chuyển sang cho Tòa án. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự có vai trò quan trọng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bởi làm bất cứ

một công việc gì nếu công việc không được chuẩn bị chu đáo, đầy đủ thì khi

thực hiện sẽ không được thành công. Sự thành công của hoạt động xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự tất nhiên phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt

là chất lượng của hoạt động chuẩn bị xét xử cho dù đó là vụ án hình sự đơn

giản hay vụ án hình sự phức tạp. Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự, chủ thể thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị xét xử phải rà soát, kiểm tra

các điều kiện cần thiết theo quy định của pháp luật thì mới quyết định đưa vụ

án ra xét xử, nếu không đủ các điều kiện đó thì vụ án không được đưa ra xét

xử hoặc phải lùi lại thời gian để khi có đủ điều kiện mới đưa ra xét xử, không

phải bất cứ một vụ án nào khi đã khởi tố, điều tra, truy tố đều phải đưa ra xét

xử. Chẳng hạn trong khi chuẩn bị xét xử, nếu phát hiện hồ sơ vụ án còn nhiều

thiếu sót, chưa đủ chứng cứ buộc tội hay định tội danh không đúng hoặc quá

trình tiến hành điều tra hay truy tố không đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật

tố tụng hình sự đã quy định, Thẩm phán được phân công chuẩn bị xét xử sơ

9

thẩm vụ án hình sự phải trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát với yêu cầu bổ

sung các tài liệu, chứng cứ hoặc điều tra bổ sung, điều tra lại...Chỉ khi nào vụ

án hình sự bảo đảm các điều kiện về nội dung và thủ tục, thì Thẩm phán được

phân công chuẩn bị mới ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuẩn bị các

điều kiện khác cho việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà mình

đã chuẩn bị. Như vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân

công chuẩn bị và sau đó là chủ tọa phiên tòa không chỉ thực hiện việc nghiên

cứu hồ sơ vụ án hình sự, xử lý các tình huống đưa ra các quyết định tố tụng có

liên quan đến việc đưa vụ án ra xét xử hay không đưa vụ án ra xét xử, mà còn

phải thực hiện những công việc cũng rất quan trọng đó là mời Hội thẩm nhân

dân nghiên cứu hồ sơ vụ án, lên kế hoạch xét hỏi, lên danh sách những người

cần triệu tập ra tòa, chuẩn bị hội trường xét xử... Như vậy, chuẩn bị xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự là việc Tòa án (Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân) thực

hiện những nhiệm vụ cần thiết để có thể ra quyết định đưa vụ án hình sự ra

xét xử sơ thẩm. Nói cách khác, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là

những hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi những chủ thể có thẩm

quyền (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) theo quy định của pháp luật và dựa

trên những quy định của pháp luật hiện hành nhằm bảo đảm cho việc mở

phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự để xét xử tội phạm và người bị buộc tội một

cách nhanh chóng kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ

lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bởi vậy, chuẩn bị xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự được coi là giai đoạn cấu thành của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự.

Từ những phân tích khái quát trên, tác giả luận văn chia sẻ với quan điểm

cho rằng:“Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khâu đầu tiên, một phần

của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền

tiến hành các hoạt động tố tụng và việc làm cần thiết do pháp luật quy định

10

để bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”. [47, tr

337]

Từ khái niệm trên về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có thể thấy,

chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có các đặc điểm:

Thứ nhất, chuẩn bị xét xử là một khâu hay là một phần (tiểu giai đoạn)

của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Vấn đề là ở chỗ, xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự có nội dung và chủ

thể tiến hành cũng như chủ thể tham gia nhất định, gồm các khâu bắt buộc

theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có chuẩn bị xét xử vụ án

hình sự. Với tính cách là một khâu của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có chủ thể tiến hành là Thẩm phán

được phân công chủ tọa phiên tòa và Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử vụ

án hình sự cụ thể và nội dung, tức là những nhiệm vụ mà chủ thể tiến hành

chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải thực hiện theo quy định của pháp

luật tố tụng hình sự. Bởi là một khâu của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có vị trí và vai trò nhất định trong

giai đoạn quan trọng này của tố tụng hình sự. Nếu không có việc chuẩn bị xét

xử thì việc xét xử sơ thẩm công khai tại phiên tòa sẽ rất khó khăn, chuẩn bị

xét xử sơ thẩm được ví như là một tiểu giai đoạn không thể thiếu trong giai

đoạn lớn là xét xử của Tòa án, thời điểm bắt đầu được tính từ khi vụ án hình

sự sơ thẩm được thụ lý và kết thúc khi phiên tòa sơ thẩm được mở công khai.

Thứ hai, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hoạt động tố tụng hình

sự được tiến hành một cách chu đáo bởi có mục đích rõ ràng. Mục đích của

chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, không ngoài cái gì khác là nhằm bảo

đảm cho việc mở phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự xét xử tội phạm và người

phạm tội một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật. Việc ban hành một bản án khách quan như đã nhấn mạnh, tùy thuộc vào

11

nhiều yếu tố khác nhau, trong đó vai trò quan trọng thuộc về chất lượng của

các hoạt động tố tụng trong khâu (tiểu giai đoạn) chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự.

Thứ ba, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động mang tính

quyền lực nhà nước và được tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố

tụng hình sự quy định. Tính quyền lực nhà nước của chuẩn bị xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự trước hết thể hiện ở chỗ, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

được tiến hành bởi Tòa án - một trong những hệ thống cơ quan nhà nước.

Tiếp đến nó được tiến hành, như đã nhấn mạnh dựa trên các quy định của

pháp luật tố tụng hình sự; các quyết định tố tụng được đưa ra trong khâu

chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có tính bắt buộc thực hiện đối với cơ

quan, cá nhân liên quan, bởi vậy, trong trường hợp không thực hiện, các biện

pháp có tính chất cưỡng chế nhà nước được áp dụng để bảo đảm thực hiện.

Thứ tư, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động áp dụng

pháp luật, có tính sáng tạo cao. Tính chất áp dụng pháp luật của chuẩn bị xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự trước hết thể hiện ở chỗ, đây là hoạt động “đưa các

quy phạm pháp luật (hình sự, tố tụng hình sự, tổ chức…) vào cuộc sống.

Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán được phân

công chủ tọa phiên tòa sau đó là HTND phải áp dụng các quy định của pháp

luật hình sự và của pháp luật tố tụng hình sự…để tiến hành các nội dung

(nhiệm vụ) cần chuẩn bị. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động

sáng tạo, bởi mỗi một vụ án hình sự có độ phức tạp khác nhau đòi hỏi chủ thể

chuẩn bị không chỉ phải có kiến thức về luật hình sự, về luật tố tụng hình sự,

nhất là kiến thức về chứng minh, chứng cứ…để có thể kiểm tra, đánh giá

những tình tiết, sự kiện của hành vi phạm tội. Ngoài ra, chủ thể chuẩn bị xét

xử còn phải có khả năng, năng lực, trí tuệ, tư duy, kinh nghiệm và các khả

12

năng, năng lực khác của người áp dụng pháp luật mới có thể chuẩn bị tốt cho

việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

1.1.2. Chủ thể chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Xét xử hình sự là một trong những thẩm quyền, hơn thế là thẩm quyền

chính và quan trọng nhất của quyền tư pháp hình sự chỉ thuộc về Tòa án, Do

vậy, chủ thể chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là Tòa án, nói cụ thể hơn

là Chánh án, Phó Chánh án khi trực tiếp tiến hành giải quyết vụ án hình sự với

chức danh là Thẩm phán; Thẩm phán; Hội thẩm nhân dân. Bởi vậy, khi trực

tiếp tiến hành giải quyết vụ án hình sự, Chánh án, Phó Chánh án cũng phải

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, có trách nhiệm

nghiên cứu hồ sơ vụ án, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như Thẩm

phán, ngoài ra còn thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quy định riêng cho

Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán khi được phân công giải quyết vụ án có

nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa phải căn cứ vào các

tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ những vấn đề cần

chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, không gian, địa

điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành

vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, lỗi cố ý hay vô ý, có năng lực trách

nhiệm hình sự hay không, động cơ, mục đích phạm tội, những tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị cáo, tính chất,

mức độ thiệt hại….những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách

nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Như vậy khi nghiên

cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán cũng cần xem xét về tính hợp pháp của các hành

vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá

trình điều tra, truy tố, xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp

ngăn chặn có đảm bảo đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật không.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán ra một trong các quyết định: Đình chỉ

13

vụ án khi người yêu cầu khởi tố vụ án rút yêu cầu khởi tố, người thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, người

mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có

hiệu lực pháp luật, đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội phạm đã

được đặc xá, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, Viện

kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa. Thẩm phán ra

quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị

can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, khi trưng cầu giám định, yêu cầu

định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng

đã hết thời hạn điều tra, khi không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà đã hết

thời hạn chuẩn bị xét xử, chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Tòa án kiến

nghị. Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ

dùng để chứng minh hành vi phạm tội của bị can mà không thể bổ sung tại

phiên tòa được; có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can

còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm; có căn cứ cho

rằng có đồng phạm; việc điều tra, khởi tố, truy tố vi phạm nghiêm trọng thủ

tục tố tụng, VKS có văn bản rút hồ sơ để điều tra bổ sung theo thẩm quyền.

Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử nếu có đủ các chứng cứ để xét

xử vụ án. Trường hợp VKS đã điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và

hoàn trả hồ sơ cho Tòa án, nếu thấy không cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ

sung lần hai, hoặc trường hợp VKS không bổ sung được những vấn đề Tòa án

yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Thẩm phán ra quyết định

đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ điểm, khoản,

điều luật và tội danh mà VKS đã truy tố, có những trường hợp Tòa án xét xử

khác với tội danh mà VKS đã truy tố thì Tòa án phải ghi rõ vào quyết định

đưa vụ án ra xét xử.

14

Để có thể ra những quyết định đúng đắn trong quá trình chuẩn bị xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán cần có trình độ, khả năng, kinh nghiệm

nghề nghiệp, ý thức pháp luật, trách nhiệm cao trước Nhà nước, xã hội. Đặc

biệt, bởi quyết định của Thẩm phán liên quan đến số phận của người bị buộc

tội, nên Thẩm phán phải có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần dũng cảm đấu

tranh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, liêm khiết, trung thực, có trình

độ cử nhân luật trở lên, có trình độ lý luận chính trị, được đào tạo nghiệp vụ

xét xử, có thời gian thực tiễn làm công tác tư pháp, có sức khỏe bảo đảm hoàn

thành nhiệm vụ được giao.

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ là trách nhiệm của

Thẩm phán (của Chánh án, Phó Chánh án trực tiếp giải quyết vụ án hình sự)

mà còn là trách nhiệm của HTND bởi khi xét xử HTND độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật. Rõ ràng việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trước khi

mở phiên tòa giúp HTND khi tham gia xét xử, tiến hành các hoạt động tố tụng

và biểu quyết giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐXX được

đầy đủ, khách quan, công bằng và chính xác.

Tuy nhiên, khác với thời điểm bắt đầu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự của Thẩm phán, thời điểm bắt đầu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự của HTND có muộn hơn, cụ thể là kể từ khi Hội thẩm có tên trong quyết

định đưa vụ án ra xét xử trước Tòa án. Hội thẩm được phân công xét xử vụ án

hình sự, có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa để xem

xét đánh giá toàn diện các tình tiết, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án

hình sự để chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, địa điểm, thời

gian, không gian và các tình tiết khác của hành vi phạm tội, chủ thể thực hiện

hành vi phạm tội, mức độ lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ

hậu quả xảy ra, động cơ, mục đích phạm tội, các tình giảm nhẹ, tiết tăng nặng

trách nhiệm hình sự của bị cáo.... Bằng việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi

15

mở phiên tòa, Hội thẩm nắm bắt được nội dung vụ án, đảm bảo tính độc lập

của mình trong hoạt động xét xử của mình, từ đó cùng với HĐXX đưa ra

được những phán quyết chính xác, khách quan đúng sự thật của vụ án đảm

bảo công bằng xã hội.

1.1.3. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu “Là khoảng

thời gian do pháp luật quy định để Tòa án thực hiện các hoạt động tố tụng và

các công việc cần thiết khác bảo đảm cho việc xét xử vụ án tại phiên tòa sơ

thẩm đạt chất lượng và có hiệu quả cao”.[47, tr 337]

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một quá trình song phải được

gắn với thời hạn nhất định. Việc thể chế hóa bằng pháp luật thời hạn chuẩn bị

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cho việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,

một mặt bảo đảm cho Thẩm phán, Hội thẩm – chủ thể chuẩn bị xét xử có đủ

thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ

sơ vụ án, ra được các quyết định cần thiết, đúng pháp luật để không bỏ lọt tội

phạm, không làm oan người vô tội, mặt khác đáp ứng yêu cầu của xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ

lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhằm bảo đảm và bảo vệ tốt nhất

quyền con người của người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự. Dựa trên cơ sở và mục đích nói trên, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự bao gồm thời hạn để Thẩm phán được phân công chủ tọa

phiên tòa ra một trong các quyết định cần thiết và thời hạn để mở phiên tòa

theo quyết định đưa vụ án ra xét xử. Những thời hạn đó, dĩ nhiên cần được

luật hóa bao gồm thời hạn thụ lý vụ án tính từ thời điểm Tòa án nhận hồ sơ vụ

án và bản cáo trạng của Viện kiểm sát chuyển đến; thời hạn để Thẩm phán

được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra các quyết định TTHS phụ thuộc vào

tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với những hành vi của bị cáo bị đưa ra

16

xét xử; thời hạn mở phiên tòa tính từ ngày ra quyết định đưa vụ án hình sự ra

xét xử trước Tòa án (sơ thẩm); thời hạn giao các quyết định của Tòa

án…trước khi mở phiên tòa.

Trong thời hạn thụ lý vụ án hình sự, Thẩm phán được phân công chủ tọa

phiên tòa giải quyết vụ án ra một trong các quyết định được quy định của

pháp luật. Thời hạn này được tính kể từ ngày Thẩm phán nhận hồ sơ vụ án

cho đến ngày Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra các quyết định

cụ thể.

Thời hạn để Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra các

quyết định giải quyết vụ án phụ thuộc vào tội danh mà Viện kiểm sát truy tố

đối với những hành vi của bị cáo bị đưa ra xét xử. Đối với những vụ án phức

tạp, Chánh án Tòa án quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử thuộc các

trường hợp sau: Có nhiều bị cáo tham gia, phạm tội có tổ chức hoặc bị cáo

phạm nhiều tội..... Khi gia hạn thời hạn giải quyết vụ án thì cần thông báo cho

VKS biết và tạo điều kiện cho VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc xét xử

và chủ động trong việc tham gia phiên tòa. Trong trường hợp hồ sơ vụ án

được trả lại cho VKS điều tra bổ sung thì khi nhận lại hồ sơ vụ án trong thời

gian nhất định từ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết

định đưa vụ án ra xét xử. Thời hạn này áp dụng cho tất cả các loại tội phạm

mà không phân biệt tội ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Trong

trường hợp lý do tạm đình chỉ không còn nữa, thời hạn xét xử được tính lại kể

từ ngày Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Thẩm phán được phân công chủ tọa

phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu

của những người tham gia tố tụng và tiến hành những công việc cần thiết cho

việc mở phiên tòa. Thời điểm kết thúc việc chuẩn bị xét xử là thời điểm Thẩm

phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và Thư ký phiên tòa

17

làm các thủ tục tống đạt để đảm bảo cho việc mở phiên tòa xét xử theo quy

định của pháp luật.

Khi Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì phải hoàn thành

những công việc cần thiết để đảm bảo cho phiên tòa được tiến hành đúng quy

định của pháp luật. Những hoạt động của Tòa án trong thời gian này gồm:

Triệu tập những người tham gia tố tụng đến phiên tòa; giao quyết định đưa vụ

án ra xét xử, tổ chức cho HTND, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự nghiên cứu hồ sơ vụ án; tiến hành thủ tục trích

xuất bị cáo bị tạm giam có mặt tham gia phiên tòa; chuẩn bị cơ sở vật chất

cho việc mở phiên tòa...Trong trường hợp có lý do bất khả kháng hoặc do trở

ngại khách quan thì thời hạn mở phiên tòa cần được kéo dài hơn. Thế nào là

“Lý do bất khả kháng” thật khó là luật hóa, vì vậy tùy thuộc vào sự nhận thức,

cân nhắc của từng Thẩm phán.

Đối với thời hạn giao các quyết định của Tòa án, sau khi Thẩm phán chủ

tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong thời hạn nhất định, Thư

ký phiên tòa phải tiến hành giao các quyết định của Tòa án như: “Quyết định

đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho người bị buộc tội hoặc người đại diện

hợp pháp của họ; gửi cho người bào chữa, đương sự. Trường hợp xét xử vắng

mặt người bị buộc tội thì quyết định đưa vụ án ra xét xử được giao cho người

bào chữa hoặc người đại diện của bị cáo; quyết định đưa vụ án ra xét xử còn

phải được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi bị cáo

cư trú cuối cùng hoặc cơ quan tổ chức nơi làm việc, học tập cuối cùng của bị

cáo”[5, tr 253, 254].

Đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định

phục hồi vụ án của Tòa án phải được giao cho người bị buộc tội, bị hại, hoặc

người đại diện của họ và người tham gia tố tụng khác trong thời hạn nhất định

kể từ ngày ra quyết định.

18

Các Quyết định tố tụng ...... phải được gửi cho VKS cùng cấp, cơ sở

giam giữ nơi người bị buộc tội đang bị tạm giam trong thời hạn nhất định kể

từ khi ra quyết định [5, tr 253].

1.1.4. Nội dung (nhiệm vụ) của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Nội dung của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thể hiện qua những

nhiệm vụ mà chủ thể chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải thực hiện kể

từ khi Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án. Đó là:

Thứ nhất: Nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án;

Thứ hai: Quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,

biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam

do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định;

Thứ ba: Giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa. Trong quá

trình chuẩn bị xét xử, có thể có những yêu cầu, đề nghị của những người tiến

hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng được chuyển đến Tòa án.

Thứ tư: Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các

trường hợp thiếu chứng cứ để chứng minh .......

Thứ năm: Quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường

hợp: khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, …….[5, tr 250].

Thứ sáu: Quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:

Không có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự; Không có sự việc phạm tội, .........

[5, tr 250, 251].

Thứ bảy: Phục hồi vụ án khi có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ

vụ án hoặc có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ vụ án nếu chưa hết thời

hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [ 5, tr 251].

Thứ tám: Yêu cầu VKS bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét thấy cần bổ

sung tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà không cần trả

hồ sơ để điều tra bổ sung [5, tr 252].

19

Thứ chín: Quyết định đưa vụ án ra xét xử;

Thứ mười: Giao các quyết định tố tụng cho các cơ quan, cá nhân có liên

quan;

Như vậy, nội dung chuẩn bị xét xử mà chủ thể chuẩn bị xét xử rất phong

phú. Việc thực hiện đầy đủ các nội dung nói trên (tùy từng vụ án) là bảo đảm

cho việc xét xử sơ thẩm nhanh chóng, kịp thời, ........, tăng cường chất lượng

của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, uy tín của Tòa án, của Nhà nước,

bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Giá trị xã hội của chuẩn bị xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự chính là chỗ đó.

1.2. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn

bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945

đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa ra đời phải đối mặt với những muôn vàn khó khăn về kinh tế do

bọn thực dân và phát xít khai thác triệt để trong Chiến tranh thế giới thứ II,

nạn ngoại xâm của quân Tưởng và đồng minh Nhật, như Chủ tịch Hồ Chí

Minh nói “Khó khăn như ngàn cân treo sợi tóc...”. Ở miền Nam thực dân

Anh và Pháp tiếp tục chiếm giữ Sài Gòn mở rộng chiến tranh xâm chiếm ra

các tỉnh Nam bộ và Nam Trung bộ.

Thời kỳ này, thẩm quyền truy tố, xét xử đều do Tòa án thực hiện. Điều

1 Sắc lệnh số 10/SL ngày 01/10/1946 quy định: “Tòa án có quyền truy tố một

việc tiểu hình và đại hình là Tòa án cấp tỉnh nơi xảy ra trọng tội hoặc khinh

tội hoặc Tòa án nơi cư trú của người cam phạm hoặc Tòa án nơi mà người

cam phạm ấy bị bắt”.

Sắc lệnh số 185/SL ngày 26/5/1948, Điều 6 quy định: “Về phương diện

tư pháp công an, thẩm phán sơ cấp có quyền, sau khi hỏi ý kiến của chủ tịch

UBKC huyện quyết định giam cứu bị can đến 45 ngày nếu là việc tiểu hình,

20

hoặc đến 4 tháng nếu là việc đại hình, hạn giam cứu ấy không thể gia thêm

được. Khi hết hạn tự nhiên bị can phải được thả ngay”. Đây là những quy

định về thời hạn tạm giam và là cơ sở để pháp điển hóa cho việc ban hành

quyết định đưa vụ án ra xét xử trong tố tụng hình sự hiện nay.

Ngày 09/11/1946 Quốc hội Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã

thông qua bản Hiến Pháp đầu tiên. Hiến pháp ghi nhận những nguyên tắc tố

tụng cơ bản như; Nguyên tắc xét xử có HTND tham gia, nguyên tắc xét xử

công khai, nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 99 Hiếp pháp

1959). Điều 6 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 quy định Tòa án xét xử công

khai.

Thời hạn xét xử vụ án quy định tại Điều 10 Nghị định số 301-TTg ngày

10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ; Chương II Thông tư số 001-NCPL ngày

15/01/1962 của TANDTC giải thích về thời hạn tạm giam để điều tra của

Công an và VKSND; tạm giam để xét xử của TAND: “Khi vụ án đã chuyển

sang Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân phúc thẩm hoặc Tòa án binh để

xét xử thì, kể từ ngày nhận được hồ sơ, các Tòa án trên phải xét xử trong thời

hạn hai tháng đối với những vụ án mà luật pháp phạt từ năm năm tù trở

xuống và trong thời hạn bốn tháng đối với những vụ án mà luật pháp phạt

trên năm năm tù”. Thông tư này đã quy định rõ thời hạn xét xử tùy thuộc vào

mức độ nghiêm trọng, tính chất phức tạp hay đơn giản của vụ án. Đặc biệt

pháp luật thời kỳ này đã có quy định về trả hồ sơ cho Viện công tố điều tra bổ

sung, khẳng định trách nhiệm điều tra bổ sung là do Viện công tố đảm nhiệm.

Ngày 29/12/1961 TANDTC đã ban hành Thông tư 2421-TC hướng dẫn

thực hiện chế độ Hội thẩm nhân dân trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm một vụ án,

đối với những vụ án quan trọng Thẩm phán có quyền họp trước với Hội thẩm

nhân dân và có quyền quyết định như: Đề nghị với Viện công tố điều tra

thêm, tạm tha cho bị cáo bị giam cứu, bắt bị cáo đã bị truy tố nhưng còn được

21

tại ngoại, xử công khai hay xử kín, có chỉ định người bào chữa cho bị cáo hay

không, những nhân chứng nào cần mời đến phiên tòa, thời gian, địa điểm mở

phiên tòa…

Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 16/TATC ngày

27/9/1974 về trình tự sơ thẩm hình sự trong những trường hợp khi yêu cầu

điều tra bổ sung hoặc cần thay đổi biện pháp ngăn chặn, tạm đình chỉ hoặc

đình chỉ tố tụng thì Tòa án phải họp trù bị trước với Viện kiểm sát rồi mới ra

quyết định.

Do chưa có điều kiện tổ chức phiên tòa, nên trong cuộc họp trù bị, nếu

Viện kiểm sát nhất trí với những vấn đề do Chánh án hoặc Thẩm phán đề xuất

thì tùy từng trường hợp, Tòa trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung, tạm

đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án hoặc đưa ra phiên tòa để Hội đồng xét xử quyết

định căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa.

Luật đã quy định rõ trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải ra

một trong các quyết định: Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Quyết

định tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử

cũng như làm những công việc khác.

Kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Tại Điều 9 của Nghị định số 301-

TTG ban hành ngày 10/7/1957 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử: “Khi hồ sơ

vụ án đã được chuyển sang Tòa án nhân dân hoặc thành phố, Tòa phúc thẩm

hoặc tòa án... để xét xử thì kể từ ngày nhận được hồ sơ, các tòa án phải xét xử

trong thời hạn 02 tháng đối với những vụ án mà pháp luật phạt từ 5 năm tù

trở xuống và trong thời hạn 4 tháng đối với những vụ án mà pháp luật quy

định phạt trên 05 năm tù”

Ngày 24/4/1976 nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc

hội.

22

Ngày 28/6/1988, Quốc hội thông qua BLTTHS và có hiệu lực từ ngày

01/01/1989. BLTTHS năm 1988 đã quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử đối

với tội ít nghiêm trọng là 45 ngày, tội nghiêm trọng là 03 tháng.

Ngày 08/12/1988 TANDTC, VKSNDTC đã ban hành Thông tư liên

ngành số 01/TTLN hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS,

trong đó có quy định nội dung họp trù bị.

BLTTHS năm 1988 là Bộ luật tố tụng Hình sự đầu tiên của nước ta, đã

có những quy định cụ thể về thời hạn chuẩn bị xét xử, là cơ sở pháp lý để Tòa

án áp dụng thống nhất trong cả nước.

Sau 15 năm thi hành BLTTHS năm 1988, đất nước ta có nhiều thay

đổi. Các cơ quan tư pháp được tổ chức, quy định về chức năng, nhiệm vụ và

cơ chế hoạt động ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được củng

cố, kiện toàn. Nhưng chỉ là những chuyển biến bước đầu và mới tập trung giải

quyết những vấn đề bức xúc. Công tác tư pháp hình sự vẫn còn bộc lộ nhiều

bất cập, hạn chế. Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003 ra đời trên cơ sở kế thừa

và phát triển những quy định của pháp luật tố tụng hình sự và có nhiều điểm

tiến bộ hơn so với nhu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.

BLTTHS 2003 khi được ban hành, trong điều kiện đội ngũ cán bộ, cơ

sở vật chất của Cơ quan điều tra, VKS và TAND huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh chưa được tăng cường đầy đủ, nên việc giao thẩm quyền xét

xử theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS 2003 được thực hiện theo lộ

trình đảm bảo từ khi công bố ngày 01/7/2004 đến ngày 01/7/2009 tất cả Tòa

án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự trong cả nước thực hiện thống nhất

thẩm quyền xét xử (Nghị quyết số 509/2004/NQ-UBTVQH11 ngày

29/4/2004). Đồng thời Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết

số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 Hướng dẫn thi hành một số quy định

trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTHS 2003, hướng dẫn

23

những quy định về: Người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành

tố tụng, thẩm quyền của Chánh án. Phó Chánh án khi được Chánh án ủy

quyền, ban hành các biểu mẫu trong tố tụng hình sự.

Tại Điều 176 BLTTHS 2003 quy định về chuẩn bị xét xử như sau: Sau

khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm

vụ nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người

tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên

tòa; Trong thời hạn 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội

phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng….Đối với

những vụ án phức tạp thì Chánh án cấp trên có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị

xét xử nhưng cũng không quá 30 ngày. Khi đã ra quyết định đưa vụ án ra xét

xử thì phải mở phiên tòa trong thời hạn 15 ngày, trường hợp có lý do chính

đáng thì thời hạn là 30 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Để áp dụng thống nhất pháp luật. Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban

hành Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 Hướng dẫn thi hành

một số quy định trong phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS 2003,

trong đó hướng dẫn chi tiết về “Nhận hồ sơ vụ án và thụ lý hồ sơ vụ án”,

“Thời hạn chuẩn bị xét xử” “Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử”, “các quy

định về áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam” ….. Đây là văn

bản pháp lý giúp cho các Tòa án thực hiện thống nhất trong áp dụng pháp luật

TTHS 2003 về xét xử sơ thẩm, trong đó có những vấn đề liên quan đến chuẩn

bị xét xử của Tòa án.

Nước ta trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cơ chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khoa học - công nghệ và hội nhập quốc

tế, tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp với tính chất và hậu quả

ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tội

phạm tham nhũng chưa được ngăn chặn hiệu quả, loại tội phạm có tổ chức,

24

tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm trong lĩnh

vực tin học…có xu hướng ngày càng gia tăng, gây hậu quả rất nghiêm trọng.

Do đó, yêu cầu của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với hoạt động tư pháp ngày

càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến

pháp và pháp luật, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,

bảo vệ quyền con người, đấu tranh hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm

pháp luật. Trước tình hình đó, đổi mới thủ tục tố tụng hình sự là một tất yếu

khách quan, một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc cải cách tư

pháp hiện nay, được Đảng và Nhà nước rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Vì

vậy BLTTHS năm 2015 được ban hành với nhiệm vụ đảm bảo hoạt động tố

tụng hình sự diễn ra dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch chặt chẽ nhưng

thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân; nâng cao chất

lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại Tòa án làm

căn cứ quan trọng để phán quyết… góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền

tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa.

25

Kết luận chương 1

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tạo ra những điều kiện cần thiết

cho phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có kết quả, chất lượng và hiệu

quả. Bởi vậy, việc nhận thức những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, trong chương 1

của luận văn này, tác giả luận văn đã phân tích được:

Thứ nhất, trên cơ sở các quan điểm khoa học về chuẩn bị xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự đã được nêu trong khoa học LTTHS nước ta, bản chất, mục

đích của chuẩn bị XXST vụ án hình sự; các quy định của pháp luật TTHS

nước ta đến trước khi ban hành BLTTHS 2015, tác giả luận văn đã xây dựng

khái niệm khoa học về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, làm sáng tỏ

đặc điểm của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; làm rõ các vấn đề về chủ

thể, thời hạn, nội dung của chuẩn bị xét xử. Theo đó, chuẩn bị xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự là những hoạt động tố tụng của Tòa án mà cụ thể là Chánh án,

Phó Chánh án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa và HT tham gia

HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự thực hiện quyền hạn về trách nhiệm pháp lý của

mình trong việc giải quyết vụ án hình sự một cách hợp pháp và đúng đắn.

Thứ hai, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự, tác giả luận văn còn phân tích làm rõ quá trình lập pháp

tố tụng hình sự của nước ta đến trước khi ban hành BLTTHS hiện hành về

chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, qua đó làm sáng tỏ tính kế thừa, tính

phát triển có tiếp thu kinh nghiệm lập pháp nước ngoài trong lập pháp tố tụng

hình sự nước ta về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Những kết quả nghiên cứu lý luận và lập pháp tố tụng hình sự nước ta về

chuẩn bị xét xở sơ thẩm vụ án hình sự là tiền đề để tác giả luận văn nghiên

cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của các chương tiếp theo của luận

văn này.

26

Chương 2

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM

2015 VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC

TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH

ĐỒNG NAI

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chuẩn bị

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

2.1.1. Quy định về nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án

Điều 276 BLTTHS năm 2015 quy định: Khi VKS giao bản cáo trạng,

hồ sơ vụ án và vật chứng kèm theo (nếu có), Tòa án phải kiểm tra và xử lý:

a/Trường hợp tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo

(nếu có) đã đầy đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng và bản cáo trạng đã được

giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì nhận hồ sơ vụ án;

b/ Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có)

không đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng hoặc bản cáo trạng chưa được giao

cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ vụ án và yêu

cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, vật chứng; yêu cầu giao bản cáo trạng cho

bị can hoặc người đại diện của bị can.

Tòa án phải thụ lý vụ án khi đã nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng theo

đúng quy định pháp luật. Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa giải quyết vụ án trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý

vụ án.

BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể thành một điều luật mới, quy định cụ

thể các căn cứ về nhận hồ sơ, bản cáo trạng và thụ lý vụ án, thời hạn Chánh

án phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.

2.1.2. Quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử

27

Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khoảng thời gian

theo quy định của pháp luật, để Tòa án tiến hành những hoạt động tố tụng và

những công việc cần thiết đảm bảo cho việc xét xử vụ án diễn ra đúng thời

gian quy định, đạt được hiệu quả cao trong giải quyết vụ án.

Điều 277 BLTTHS 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính

từ ngày Tòa án thụ lý vụ án hình sự cụ thể: 30 ngày đối với tội phạm ít

nghiêm trọng; 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng; 02 tháng đối với tội

phạm rất nghiêm trọng; 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Chánh án Tòa án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không

quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; 30

ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đối

với những vụ án phức tạp.

Khi thời hạn quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 277 của BLTTHS gần

hết (thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại không quá 05 ngày) mà Thẩm phán được

phân công chủ tọa phiên tòa thấy rằng vụ án phức tạp nên chưa đưa ra được

một trong những quyết định quy định của BLTTHS, thì cần báo cáo ngay với

Chánh án Tòa án để ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Việc gia

hạn thời hạn chuẩn bị xét xử thực hiện theo đúng quy định tại khoản 1 Điều

277 BLTTHS.

Theo quy tại Điều 277 Mục II Chương XXI của BLTTHS năm 2015,

quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau:

28

Bảng 1.1 : Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm của một vụ án hình sự thông thường

Các loại thời hạn Thời hạn chuẩn bị

xét xử tối đa

Loại tội phạm Thời hạn Thời hạn mở phiên Không Có lý

Thẩm tòa có lý do do

phán ra Không Có lý do

quyết định có lý do

2 3 4 5= 2+3 6= 2+4 1

Ít nghiêm trọng 30 ngày 15 ngày 30 ngày 45 ngày 02

tháng

Nghiêm trọng 45 ngày 15 ngày 30 ngày 02 tháng 02

tháng

15 ngày

Rất nghiêm trọng 02 tháng 15 ngày 30 ngày 02 tháng 03

15 ngày tháng

Đặc biệt nghiêm 03 tháng 15 ngày 30 ngày 03 tháng 04

15 ngày tháng trọng

Nguồn: [5, tr 246, 247]

29

Bảng 1.2: Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử của một vụ án hình sự phức tạp

Các loại thời hạn Thời hạn chuẩn bị

xét xử tối đa

Thời Thời Thời hạn mở phiên Không Có lý

Loại tội hạn hạn gia tòa có lý do do

phạm Thẩm hạn thời Không Có lý

phán ra hạn có lý do

quyết chuẩn

định bị xét

xử

1 2 3 4 5 6=2+3+4 7=2+3+

5

Ít nghiêm 30 ngày 15 ngày 15 ngày 30 ngày 02 tháng 02

trọng tháng

15 ngày

Nghiêm 45 ngày 15 ngày 15 ngày 30 ngày 02 tháng 03

trọng 15 ngày tháng

Rất nghiêm 02 30 ngày 15 ngày 30 ngày 03 tháng 04

trọng tháng 15 ngày tháng

Đặc biệt 03 30 ngày 15 ngày 30 ngày 04 tháng 05

15 ngày tháng nghiêm tháng

trọng

Nguồn:[5, tr 246, 247]

30

Bảng 1.3: Thống kê các loại thời hạn chuẩn bị xét xử của một vụ án hình sự được Tòa án nhận lại sau khi trả lại cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung

Các loại thời hạn Thời hạn chuẩn bị

Loại tội phạm xét xử tối đa

Thời hạn Thời hạn mở phiên Không Có lý

Thẩm tòa có lý do do

phán ra Không có Có lý

quyết định lý do do

1 2 3 4 5=2+3 6=2+4

Ít nghiêm trọng 15 ngày 15 ngày 30 ngày 30 ngày 45 ngày

Nghiêm trọng 15 ngày 15 ngày 30 ngày 30 ngày 45 ngày

Rất nghiêm trọng 15 ngày 15 ngày 30 ngày 30 ngày 45 ngày

Đặc biệt nghiêm 15 ngày 15 ngày 30 ngày 30 ngày 45 ngày

trọng

Nguồn:[5, tr 246, 247]

Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải

căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ những

vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự như quy định tại Điều 85

BLTTHS 2015 như sau:

“1. Hành vi phạm tội có xảy ra hay không, địa điểm, thời gian và tình

tiết khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do

cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ

phạm tội;

3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can,

bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

31

4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;

6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự,

miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt” [5, tr 86].

Theo tinh thần của cải cách tư pháp được quy định tại Nghị quyết số

08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị thì phán quyết của Tòa án chủ

yếu dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu,

kết quả thu thập chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, nghiên cứu kỹ hồ sơ

vụ án là yếu tố quan trọng để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nắm vững được

nội dung vụ án, tạo được tính chủ động trong điều hành phiên tòa. Trong thực

tiễn xét xử cho thấy, quá trình tranh tụng tại phiên tòa có nhiều tình tiết của

vụ án cũng như các chứng cứ được điều tra, bổ sung tại phiên tòa khác với kết

quả điều tra đồng thời cũng làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề cần chứng minh

trong vụ án, dẫn đến việc phán quyết của Tòa án có sự khác biệt hoặc khác

biệt lớn với kết quả điều tra thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra có trong

hồ sơ vụ án, dẫn đến phán quyết của HĐXX khác biệt với kết luận điều tra

hoặc cáo trạng của VKS, nhiều vụ án thông qua hoạt động xét xử kiểm tra,

đánh giá chứng cứ tại phiên tòa đã phát hiện những tình tiết, chứng cứ mới

dẫn đến việc HĐXX phải hoãn phiên tòa để yêu cầu điều tra bổ sung.

Xét thấy có đủ chứng cứ sau khi đã nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hồ sơ

thì Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong

trường hợp VKS đã điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và hoàn trả hồ

sơ. Đồng thời, xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ sung lần hai,

hoặc trường hợp VKS không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu

và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Khi ban hành quyết định đưa vụ án ra

xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 255

32

BLTTHS 2015. Theo quy định tại Điều 255 BLTTHS 2015 thì quyết định đưa

vụ án ra xét xử là cơ sở để bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo,

bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, luật sư bào chữa có thể đề xuất

thêm những người cần triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa hoặc vật chứng cần

đưa ra xem xét, đồng thời là cơ sở để họ thực hiện quyền đề nghị thay đổi

người tiến hành tố tụng, bảo đảm cho việc xét xử được khách quan.

Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều

255 BLTTHS 2015 quy định: “Ngày, tháng, năm ra quyết định; tên Tòa án ra

quyết định; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa; Xét xử công khai

hay xét xử kín; Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư

trú của bị cáo; Tội danh và điểm, khoản, điều của BLHS mà VKS truy tố đối

với bị cáo; Họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ tên Thẩm phán

dự khuyết, Hội thẩm dự khuyết, Thư ký Tòa án dự khuyết (nếu có); Họ tên

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; họ tên

kiểm sát viên dự khuyết (nếu có); Họ tên người bào chữa (nếu có); Họ tên

người phiên dịch (nếu có); Họ tên những người khác được triệu tập đến phiên

tòa” [5, tr 228, 229].

Khoản 3 Điều 277 BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án phải mở phiên

tòa trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Trong trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa

án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày [5, tr 247].

2.1.3.Quy định về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,

biện pháp cưỡng chế

Theo quy định tại khoản 1 Điều 278 BLTTHS năm 2015, Thẩm phán

được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ quyết định việc áp dụng, thay

đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay

đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết

33

định. Tại khoản 2 Điều 278 BLTTHS 2015 nhà làm luật quy định: Thời hạn

tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy

định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật này và tại khoản 3 Điều 278 BLTTHS

2015, nhà làm luật quy định: Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày

mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để

hoàn thành việc xét xử thì HĐXX ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên

tòa.

Theo quy định tại Điều 177 BLTTHS 2003: Nếu xét thấy cần tiếp tục

tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi

kết thúc phiên tòa khi mà bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa

thời hạn tạm giam đã hết. Như vậy quy định tại Điều 278 BLTTHS 2015 đã

có sự thay đổi về chủ thể quyết định tạm giam so với quy định tại Điều 177

BLTTHS 2003. Cụ thể là, theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì về thẩm

quyền tạm giam, chỉ có Chánh án, Phó Chánh án TAND các cấp mới có thẩm

quyền ra quyết định tạm giam. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ nếu

thấy thời hạn tạm giam của bị cáo đã hết, mà cần thiết tạm giam bị cáo để

đảm bảo cho việc xét xử thì Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ

án phải đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án ký quyết định tạm giam. Theo

quy định của BLTTHS năm 2015, thẩm quyền ra lệnh tạm giam đó thuộc về

HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự. Về thời hạn tạm giam, tại khoản 2 Điều 278

BLTTHS 2015 nhà làm luật quy định: Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử

không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của

Bộ luật này và tại khoản 3 Điều 278 BLTTHS 2015.

2.1.4. Quy định về giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa

Khoản 1 Điều 279 BLTTHS năm 2015 quy định: Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa phải giải quyết các yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố

tụng.

34

Ngoài ra, phải giải quyết đề nghị của bị cáo về việc có hay không việc

thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Mặt khác, phải

giải quyết đề nghị của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về việc xét xử

theo thủ tục rút gọn, xét xử công khai hoặc xét xử kín cũng như về việc vắng

mặt tại phiên tòa [5, tr 248].

2.1.5. Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Một trong những nhiệm vụ và cũng là thẩm quyền của Thẩm phán chủ

tọa phiên tòa là ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung thuộc

những trường hợp mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Theo Điều 280

BLTTHS năm 2015, đó là những trường hợp:

Thứ nhất, do không thể bổ sung tại phiên tòa được những chứng cứ để

chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này. Đó

là “ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, không gian, thời gian, nơi thực

hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác của hành vi phạm tội…….;”[ 5,

tr 86].

Thứ hai, Bộ luật hình sự quy định là tội phạm mà có căn cứ cho rằng,

ngoài hành vi mà VKS đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác.

Thứ ba, trong trường hợp BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ

án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can mà có căn cứ cho rằng có

đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi;

Thứ tư, Trong giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố có vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng;[5, tr 249].

Trường hợp VKS phát hiện có căn cứ để điều tra bổ sung thì VKS có

văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ.

Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần

điều tra bổ sung và gửi cho VKS kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn luật

định.

35

Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì VKS ra

quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án trong thời hạn luật quy

định.

VKS ban hành cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó khi mà

kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố.

Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án nếu VKS không bổ sung được những

vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố.

Điều 280 BLTTHS 2015 đã bổ sung được những bất cập của Điều 179

BLTTHS 2003, đã pháp điển hóa hướng dẫn của TTLT số 01/2010 ngày

27/8/2010 của VKSNDTC, BCA, TANDTC về trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS 2015 đã khẳng định phải trả

hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh…..còn điểm

a khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2003 thì quy định khi cần xem xét thêm những

chứng cứ quan trọng ….dẫn đến việc Tòa án cho là thiếu chứng cứ quan trọng

không thể bổ sung tại phiên tòa còn VKS lại cho rằng chỉ là xem xét thêm và

những chứng cứ đó không quan trọng nên không đồng ý bổ sung; Bổ sung

những điểm mới tại khoản 2, khoản 3 Điều 280 BLTTHS 2015 về trường hợp

VKS có văn bản để nghị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung và nếu kết quả điều

tra bổ sung phải ra quyết định đình chỉ vụ án thì phải thông báo cho Tòa án

trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định; còn nếu kết quả điều tra bổ

sung có thay đổi thì phải ban hành bản cáo trạng mới thay thế cáo trạng trước

đó. Điều này giúp hạn chế được việc VKS mượn lại hồ sơ một cách tùy tiện

nhưng vẫn không thay thế cáo trạng. Khi chưa có quyết định đưa vụ án ra xét

xử đã sử dụng thuật ngũ bị cáo là chưa đúng, không phù hợp.

2.1.6. Quy định về tạm đình chỉ vụ án

36

Điều 281 BLTTHS 2015 quy định về tạm đình chỉ vụ án. Thẩm phán

chủ tọa phiên tòa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các

trường hợp:

a/ Có căn cứ quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 229 của Bộ

luật này;

b/ Không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà hết thời hạn chuẩn bị xét

xử, trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị

can, bị cáo trước khi tạm đình chỉ vụ án.

c/ Chờ kết quả kiến nghị của Tòa án về việc xử lý văn bản pháp luật.

Trong vụ án có nhiều bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ vụ án đối

với từng bị can, bị cáo nếu căn cứ để tạm đình chỉ không liên quan đến tất cả

các bị can, bị cáo.

Phải ghi rõ lý do tạm đình chỉ và những nội dung theo quy định tại

khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này khi ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án [5, tr

250].

BLTTHS 2015 đã quy định riêng một điều luật về những căn cứ để tạm

đình chỉ vụ án rõ ràng và dễ hiểu hơn như quy định tại khoản 1 Điều 160

BLTTHS 2003.

2.1.7. Quy định về đình chỉ vụ án

Điều 282 BLTTHS 2015 quy định về đình chỉ vụ án. Thẩm phán chủ

tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:

a/ Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 hoặc các

điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 của Bộ luật này.

b/ Trước khi mở phiên tòa VKS rút toàn bộ quyết định truy tố. Trong

vụ án có nhiều bị can, bị cáo có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo

nếu xét thấy có căn cứ để đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can,

bị cáo.

37

Phải ghi rõ lý do đình chỉ và các nội dung theo quy định tại khoản 2

Điều 132 của Bộ luật này trong Quyết định đình chỉ vụ án [5, tr 250, 251].

Điều 282 BLTTHS 2015 về đình chỉ vụ án cơ bản vẫn giữ nguyên

những căn cứ đình chỉ vụ án như quy định của Điều 180 BLTTHS 2003, tuy

nhiên đã khắc phục được bất cập của BLTTHS 2003 và bổ sung tại khoản 3

Điều 155 BLTTHS 2015 ngoài chủ thể là bị hại thì người đại diện của bị hại

cũng là chủ thể rút yêu cầu khởi tố là căn cứ để đình chỉ vụ án, bổ sung thêm

quyết định đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do đình chỉ.

2.1.8. Quy định về phục hồi vụ án

Điều 283 BLTTHS 2015 phục hồi vụ án. Đây là một điều luật mới

được quy định trong BLTTHS 2015. Nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách

nhiệm hình sự thì Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án ra

quyết định phục hồi vụ án khi có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ vụ

án hoặc có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ vụ án.

Chánh án ra quyết định phục hồi vụ án trong trường hợp Thẩm phán đã

ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án không thể thực hiện được.

Trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ đối với từng bị can, bị cáo thì ra

quyết định phục hồi đối với từng bị can, bị cáo.

Quyết định phục hồi vụ án phải nêu rõ lý do phục hồi vụ án và các nội

dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.

Khi phục hồi vụ án, Tòa án có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện

pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này.

Trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam

thì thời hạn tạm giam để phục hồi vụ án không được quá thời hạn chuẩn bị xét

xử [5, tr 251, 252].

2.1.9. Quy định về việc giao, gửi quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

38

Điều 286 BLTTHS 2015 quy định việc giao, gửi quyết định của Tòa án

cấp sơ thẩm.

Chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, Tòa án phải giao quyết

định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo hoặc người đại diện của họ; gửi cho người

bào chữa, đương sự…. nếu xét xử vắng mặt thì phải được niêm yết tại trụ sở

Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú cuối cùng hoặc cơ

quan tổ chức nơi làm việc, học tập cuối cùng của bị cáo.

Tòa án phải giao cho bị can, bị cáo, bị hại hoặc người đại diện hợp

pháp của họ và gửi cho người tham gia tố tụng khác trong thời hạn 03 ngày kể

từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định

phục hồi vụ án.

Tòa án phải gửi cho VKS cùng cấp trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày

ra quyết định Quyết định phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, quyết

định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án,

quyết định phục hồi vụ án…

Bị can, bị cáo, VKS cùng cấp, cơ sở giam giữ nơi bị can, bị cáo đang bị

tạm giam được giao Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn

chặn, biện pháp cưỡng chế trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định [5, tr

253, 254].

Điều 286 BLTTHS 2015 đã sửa đổi, bổ sung khắc phục được những

bất cập của Điều 182 BLTTHS 2003, ngay trong tên của điều luật đã quy định

rõ những quyết định của Tòa án ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự phải thực hiện việc giao, gửi, quy định cụ thể thời hạn giao, gửi của

từng loại quyết định cho những người tham gia tố tụng, VKS cùng cấp và

VKS cấp trên trực tiếp để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đối với các

quyết định đó.

39

2.2.Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng

Nai.

Trong 05 năm qua, từ năm 2014 đến năm 2018. TAND huyện Tân Phú,

tỉnh Đồng Nai đã giải quyết tổng cộng 3.992 vụ án các loại, trong đó có 590

vụ án hình sự với 968 bị cáo theo trình tự sơ thẩm, đình chỉ xét xử 06 vụ với

12 bị cáo, tạm đình chỉ 3 vụ, 03 bị can, trả hồ sơ để điều tra bổ sung 77 vụ với

148 bị can và xét xử sơ thẩm 504 vụ với 805 bị cáo.

Bảng 2.2 Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm từ năm 2014 đến năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

Số bị Số bị cáo Số bị Số bị Số bị Số Số bị

Năm cáo bị bị xử phạt cáo bị xử cáo bị cáo bị cáo là

xử phạt tù nhưng phạt xử phạt là cáo người

tù giam cho hưởng CCKGG tiền nam là dưới 18

án treo nữ tuổi

2014 127 13 04 15 149 10 06

2015 111 19 04 08 159 04 09

2016 138 14 02 35 180 09 07

2017 103 17 10 04 127 08 16

2018 126 26 02 27 168 13 09

( Báo cáo tổng kết từ năm 2014 đến năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện

Tân Phú, tỉnh Đồng Nai)

Thực tiễn, cho thấy có một số vụ án vi phạm quy định của pháp luật tố

tụng hình sự về áp dụng các loại thời hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Có

thể kể đến một số vi phạm điển hình như sau:

Theo hồ sơ vụ án thì việc thụ lý và phân công Thẩm phán chủ tọa phiên

tòa giải quyết vụ án đúng theo quy định tuy nhiên trên thực tế Tòa án không

40

tiến hành thụ lý vụ án ngay sau khi nhận hồ sơ vụ án và cũng không tiến hành

phân công Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án hình sự ngay sau khi thụ lý hồ

sơ vụ án mà sau một thời gian Chánh án mới tiến hành xem xét phân công

cho Thẩm phán giải quyết vụ án. Khi Thẩm phán nhận hồ sơ vụ án thì việc

nghiên cứu hồ sơ cũng không thực hiện ngay với nhiều nguyên nhân khách

quan có, chủ quan có dẫn đến vụ án phải hoãn nhiều lần dẫn đến vi phạm về

thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

Có một số trường hợp do thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định không

đủ để nghiên cứu hết hồ sơ vụ án, do yếu tố khách quan hay chủ quan, dẫn

đến Tòa án phải hoãn phiên tòa nhiều lần để kéo dãn thời gian nghiên cứu giải

quyết vụ án điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian tạm giam bị cáo để

chuẩn bị xét xử.

2.2.1.Thực tiễn áp dụng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử.

Trong 5 năm qua, với biên chế ít, Thẩm phán thiếu nhưng với số lượng

án như trên là rất nhiều so với công việc của từng thẩm phán được phân công

giải quyết án. Qua thực tiễn áp dụng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử tại

Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xét thấy có nhiều vụ án vi phạm về thời hạn

chuẩn bị xét xử đó là:

Điển hình như vụ án Nguyễn Văn Công và 07 đồng phạm bị VKSND

huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố về tội “Cố ý gây thương tích” theo

khoản 3 Điều 104 của BLHS năm 1999. Hành vi của các bị cáo là rất nguy

hiểm cho xã hội, gây thương tích cho bị hại với thương tật 73%, hung khí mà

các bị cáo sử dụng là hung khí nguy hiểm. Trong vụ án này có tổng cộng 08

bị cáo và 01 bị hại và 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ án liên quan với tổng

số hơn 800 bút lục trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo có nhiều mâu

thuẫn, có bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Vụ án này,

TAND huyện Tân Phú thụ lý vụ án lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 11 năm

41

2015, đến ngày 16 tháng 02 năm 2016 (02 tháng 29 ngày kể từ ngày thụ lý vụ

án) thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ nhất. Tòa án thụ lý lần hai

vào ngày 05 tháng 8 năm 2016, đến ngày 22 tháng 9 năm 2016 (01 tháng 17

ngày kể từ ngày thụ lý lại vụ án) Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần thứ

hai. Ngày 13/4/2017, Tòa án thụ lý lại lần thứ ba, đến ngày 05/9/2017 (05

tháng 21 ngày kể từ ngày thụ lý lại vụ án) Tòa án ra quyết định xét xử và ấn

định thời hạn mở phiên tòa vào ngày 25/9/2017 (Trong thời hạn 20 ngày kể từ

ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử).

Tính từ ngày Tòa án nhận hồ sơ vụ án lần thứ ba cũng là ngày Tòa án

thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật là ngày 13 tháng 4 năm 2017 đến

ngày kết thúc việc giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là ngày 25 tháng 9

năm 2017, vụ án được giải quyết trong thời gian tổng cộng là 05 tháng 12

ngày. Như vậy theo quy định của Điều 277 BLTTHS 2015 thì thời Tòa án

phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung là 15

ngày, tối đa không quá 30 ngày, nhưng vụ án này, Thẩm phán đã vi phạm tố

tụng 04 tháng 12 ngày.

Cùng với việc kéo dài thời hạn giải quyết vụ án nêu trên, thì thời hạn

tạm giam đối với các bị cáo cũng bị kéo dài.

Hoặc như vụ án Khưu Lê Sang bị VKSND huyện Tân Phú, tỉnh Đồng

Nai truy tố về tội “Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao

thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 của Bộ luật hình sự năm 1999. Tòa

án thụ lý vụ án lần đầu ngày 05/9/2016, đến ngày 29/9/2016 Tòa án trả hồ sơ

lần thứ nhất cho VKS điều tra bổ sung. Ngày 14/10/2016 Tòa án thụ lý vụ án

lần hai. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, gây tai nạn giao thông

làm chết 01 người, bị thương 01 người, hư hỏng 01 xe Môtô, 01 xe Ôtô. Qua

nghiên cứu hồ sơ, xét thấy, bị cáo hành nghề lái xe Ôtô vận chuyển bưu kiện

cho công ty chuyển phát nhanh, bị cáo điều khiển xe Ôtô từ Thành Phố Hồ

42

Chí Minh đi Lâm Đồng, khi xe đến khu vực rừng Giá tỵ do buồn ngủ nên bị

cáo dừng xe để ngủ, lúc này khoảng hơn 4 giờ sáng, khi đang mơ màng thì

phát hiện có người thò tay vào capin xe lấy điện thoại của bị cáo do đó bị cáo

nổ máy xe Ôtô đuổi theo, khi chạy được khoảng 4-5 km phát hiện phía trước

có 01 xe Môtô đang chạy sát lề đường, nghi ngờ cho rằng là đối tượng lấy

điện thoại của mình vì vậy bị cáo đã tông thẳng xe Ôtô vào xe Môtô dẫn đến

gây tai nạn giao thông, xe Ôtô của bị cáo trượt dài trên đường 73 mét mà

không có vết thắng, hậu quả, 01 người chết, 01 người bị thương, hư hỏng 01

xe Ôtô, 01 xe Môtô. Bị cáo khai cố ý tông vào xe Môtô với mục đích cho chết

vì cướp điện thoại của bị cáo, sau đó thay đổi lời khai, vì nghi ngờ bị hại cướp

điện thoại của bị cáo nên bị cáo ép xe dẫn đến va quẹt gây tai nạn giao thông.

Đại diện hợp pháp của bị hại cho rằng bị cáo phạm tội giết người, không đồng

ý với kết luận và cáo trạng truy tố của VKS. Tòa án cho rằng bị cáo phạm tội

với lỗi cố ý vì vậy trả hồ sơ cho VKS lần hai ngày 08/12/2016 để điều tra bổ

sung hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý, có dấu hiệu của tội “Giết

người”. VKS giữ nguyên quan điểm truy tố và chuyển hồ sơ cho Tòa án.

TAND huyện Tân Phú thụ lý vụ án lần ba vào ngày 26 tháng 12 năm 2016,

đến ngày 05 tháng 4 năm 2017 Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung lần ba (03

tháng 09 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án) theo quy định của Điều 176 BLTTHS

2003 thì thời hạn tối đa là 30 ngày, nhưng vụ án này Thẩm phán chủ tọa phiên

tòa đã vi phạm thời hạn xét xử quá thời hạn là 02 tháng 09 ngày. Ngày

01/8/2017, Tòa án thụ lý lại lần thứ tư, đến ngày 05/9/2017 Tòa án ra quyết

định xét xử và ấn định thời hạn mở phiên tòa vào ngày 21/9/2017 (Trong thời

hạn 16 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử).

Tính từ ngày Tòa án nhận lại hồ sơ vụ án và cũng là ngày Tòa án thụ lý

vụ án theo quy định của pháp luật là ngày 01 tháng 8 năm 2017 đến ngày kết

thúc việc giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là ngày 21 tháng 9 năm 2017,

43

vụ án được giải quyết trong thời gian tổng cộng là 01 tháng 20 ngày. Như vậy

theo quy định của Điều 277 BLTTHS 2015 thì thời hạn là 15 ngày, nhưng vụ

án này, Thẩm phán đã vi phạm tố tụng 01 tháng 05 ngày. Vụ án trên sau khi

xét xử sơ thẩm, VKS kháng nghị về hình phạt, đại diện hợp pháp bị hại kháng

cáo về tội danh cho rằng hành vi của bị cáo phạm tội giết người, bị cáo kháng

cáo xin giảm nhẹ hình phạt, TAND huyện Tân Phú kiến nghị cấp có thẩm

quyền xem xét lại hành vi của bị cáo với lỗi cố ý có dấu hiệu của tội giết

người. Tại cấp phúc thẩm, VKS tỉnh xin rút kháng nghị của VKS cấp huyện,

đề nghị hủy án để điều tra lại với hành vi phạm tội của bị cáo có lỗi cố ý, có

dấu hiệu của tội giết người. Cấp phúc thẩm đã xét xử hủy bản án sơ thẩm và

trả hồ sơ cho VKS điều tra lại theo thủ tục chung. Vụ án đã được Cơ quan

điều tra cấp tỉnh điều tra và VKSND tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Khưu Lê

Sang về tội “Giết người” và TAND tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Giết người”

và xử phạt bị cáo 14 năm tù.

Điển hình như vụ án Đỗ Hoàng Linh cùng đồng phạm bị VKSND

huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố về tội “Cướp tài sản” theo khoản 2

Điều 133 của BLHS năm 1999 do số tiền chiếm đoạt có giá trị lớn. Hồ sơ hơn

400 bút lục trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo có nhiều mâu thuẫn.

Vụ án này, TAND huyện Tân Phú thụ lý vụ án lần đầu vào ngày 05 tháng 10

năm 2016, đến ngày 16 tháng 02 năm 2017 (04 tháng 11 ngày) Tòa án trả hồ

sơ lần thứ nhất, yêu cầu đối chất làm rõ trong lời khai của bị cáo, bị hại có

nhiều mâu thuẫn mà chưa đối chất làm rõ. Sau khi điều tra làm rõ theo yêu

cầu của Tòa án, VKS chuyển hồ sơ sang Tòa vào ngày 03/5/2017, Tòa án thụ

lý vụ án lần hai và đến ngày 10/6/2017 Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét

xử vào ngày 27/6/2017. Như vậy quá thời hạn quy định tại Điều 277

BLTTHS 2015 là 01 tháng 12 ngày. Vụ án trên giữa Tòa án và VKS không

thống nhất quan điểm về tội danh, VKS truy tố bị cáo tội “ Cướp tài sản”, Tòa

44

án xét xử bị cáo tội “Cưỡng đoạt tài sản”, sau khi xét xử sơ thẩm, VKS kháng

nghị về tội danh và hình phạt, ở cấp phúc thẩm, VKS tỉnh đã rút kháng nghị

của VKS cấp huyện và đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, phúc thẩm xét xử

giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Điển hình như vụ án Bùi Thị Bích Thủy bị VKS truy tố về tội “Cưỡng

đoạt tài sản”, Tòa án thụ lý ngày 02/8/2017, sau khi phân công Thẩm phán

giải quyết, xét xử vụ án, đến ngày 26/10/2017 Thẩm phán trả hồ sơ yêu cầu

điều tra bổ sung vì cho rằng còn có đồng phạm khác, sau khi nhận hồ sơ, VKS

đã yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung nhưng vụ án để kéo

dài quá thời hạn, đến ngày 06/3/2019, VKS mới ban hành cáo trạng truy tố bổ

sung và chuyển hồ sơ sang Tòa án, Tòa án thụ lý lần hai ngày 06/3/2019, hiện

nay đang trong quá trình giải quyết vụ án. Luật quy định thời hạn điều tra bổ

sung ở Cơ quan điều tra là 01 tháng (Điều 174 BLTTHS 2015) nhưng trong

vụ án này Cơ quan điều tra và VKS đã để vụ án kéo dài 01 năm 05 tháng mới

ra cáo trạng truy tố và chuyển hồ sơ sang Tòa án để thụ lý giải quyết.

Nguyên nhân vụ án bị kéo dài chủ yếu là do nhận thức pháp luật của

người tiến hành tố tụng chưa đúng, đặc biệt là Điều tra viên và Kiểm sát viên.

Việc giao các quyết định tố tụng của VKS cho các bị cáo, cũng còn xảy

ra một vài trường hợp sai sót như khi có quyết định truy tố bổ sung cáo trạng

thì không giao cho các bị cáo, việc công bố các quyền, nghĩa vụ của các bị

can trong quá trình điều tra, truy tố vẫn chưa được thực hiện, do đó tại phiên

tòa các bị cáo mới có đề nghị, yêu cầu và Tòa án phải giải quyết theo quy

định pháp luật bằng cách trả hồ sơ để điều tra bổ sung và quá trình điều tra bổ

sung cũng không thực hiện triệt để nên dẫn đến Tòa án tiếp tục phải trả hồ sơ

nhiều lần.

2.2.2.Thực tiễn áp dụng quy định về nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự.

45

TAND huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, trong những năm 2014 đến

2016 chỉ có 04 Thẩm phán, năm 2017 đến 2018 được bổ nhiệm mới thêm 04

Thẩm phán nâng số lượng hiện nay là 08 Thẩm phán, với số lượng án nhiều

như đã thống kê ở phần 2.2, với số lượng như trên thì trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ của Thẩm phán như nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị

xét xử sau khi được Chánh án phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự đã

có nhiều cố gắng đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên ít nhiều cũng

có sai sót, vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử theo luật định.

Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ vụ án với mục đích để nắm rõ những tình

tiết của vụ án. Trên cơ sở đó xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ

án, để nghiên cứu hồ sơ vụ án, thứ nhất nghiên cứu những tài liệu mang tính

tố tụng như: Các quyết định khởi tố vụ án, bị can. Các quyết định phê chuẩn

của VKS, kết luận điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn, Cáo trạng.

Thứ hai nghiên cứu những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như:

Vật chứng của vụ án, lời khai, bản tự khai, bản cung của bị can và

những người tham gia tố tụng khác như bị hại, người liên quan, người làm

chứng..... xác minh nhân thân, lai lịch của bị can.

Thực tiễn qua nghiên cứu hồ sơ do VKS truy tố, tại TAND huyện Tân

Phú đã xác định có nhiều sai sót như bỏ lọt tội phạm, thiếu các tài liệu chứng

cứ, sai sót về nhân thân, lai lịch của bị can vì vậy mà trong 05 năm từ 2014

đến 2018 Tòa án đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là 77 vụ với 148 bị can.

Kết quả được VKS chấp nhận là 55 vụ, đạt tỷ lệ 71,42%, có một số vụ VKS

có xác minh bổ sung thêm các tài liệu chứng cứ nhưng vẫn giữ nguyên quan

điểm truy tố.

Điển hình như: Vụ án Nguyễn Văn Đồng và đồng phạm bị VKS truy tố

về tội “Đánh bạc” Tòa án thụ lý ngày 08/4/2016, sau khi nghiên cứu hồ sơ xét

thấy hành vi của các bị cáo tham gia đánh bạc dưới 5 triệu đồng, do thay đổi

46

chính sách pháp luật, vì vậy trả hồ sơ cho VKS để đình chỉ vụ án và yêu cầu

Cơ quan điều tra ra quyết định xử phạt hành chính đối với các bị can.

Hoặc vụ án Phạm Quốc Duy bị VKS truy tố tội “Vô ý làm chết người”,

sau khi nhận hồ sơ, Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án

đã nghiên cứu hồ sơ và xét thấy hành vi của bị cáo sau khi dừng xe trong khu

vực cây xăng để đi vệ sinh sau đó điều khiển xe chuyển hướng quay đầu

không bật đèn báo rẽ, không chú ý quan sát dẫn đến va quẹt với người bán vé

số ngồi trước cách đầu xe 4-5 mét làm bị hại bị xe Ôtô va quẹt ngã xuống

gầm xe gây thương tích gãy xương sườn bị tràn dịch màng phổi do bị xương

sườn đâm phải dẫn đến tử vong. Sau khi trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung,

VKS đã thay đổi tội danh xác định bị can phạm tội “Vi phạm quy định về

điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

2.2.4.Thực tiễn thực hiện quy định về áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện

pháp ngăn chặn.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 278 BLTTHS: Thời hạn tạm giam để

chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1

Điều 277 của Bộ luật này.

Khoản 3 Điều 278 BLTTHS 2015 quy định: Trong trường hợp, xét thấy

đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết nhưng cần tiếp tục tạm giam

bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử thì ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc

phiên tòa [5, tr 248]. Đây là một quy định mới trong BTTHS 2015, trên thực

tế tại TAND huyện Tân Phú ít xảy ra trường hợp này, tuy nhiên thời gian vừa

qua có 01 vụ án Bùi Văn Bích và đồng phạm bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản” và tội “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tòa án

thụ lý lần thứ nhất ngày 28/6/2018, đến ngày 22/8/2018 trả hồ sơ lần thứ nhất.

Ngày 24/9/2018 Tòa án thụ lý lần hai và HĐXX trả hồ sơ điều tra bổ sung vào

ngày 19/10/2018. Tòa án thụ lý lần ba ngày 16/11/2018, trong quá trình

47

nghiên cứu hồ sơ vụ án, ngày 28/12/2018 Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã ra

quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 15/01/2019, trong khi đó thời hạn

tạm giam của các bị cáo đã hết, vì vậy Hội đồng xét xử đã ra quyết định tạm

giam đối với các bị cáo cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm.

Về thẩm quyền tạm giam thì chỉ có Chánh án, Phó Chánh án Tòa án

mới có thẩm quyền ra quyết định tạm giam. Do vậy, trong quá trình nghiên

cứu hồ sơ nếu thấy thời hạn tạm giam của bị cáo đã hết, mà cần thiết tạm

giam bị cáo để đảm bảo cho việc xét xử thì Thẩm phán được phân công giải

quyết, xét xử vụ án phải đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án ký quyết định

tạm giam. Tại điểm c, khoản 1 Điều 113 cũng có quy định thẩm quyền bắt và

tạm giam của HĐXX.

Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này đảm bảo cho việc xét xử đúng

thời hạn luật định, tránh trường hợp thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị

cáo nhưng đến ngày mở phiên tòa thì bị cáo vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.

Trong thời gian 05 năm từ 2014 đến năm 2018, TAND huyện Tân Phú,

thụ lý giải quyết 590 vụ án hình sự với 968 bị can, trong đó theo đề xuất của

Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án, Chánh án đã áp dụng

biện pháp tạm giam thay cho biện pháp bảo lãnh là 41 bị cáo. Số bị cáo còn

lại đã bị tam giam từ giai đoạn điều tra, một số bị cáo được tại ngoại do đang

nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ

ràng nên được áp dụng biện pháp cho gia đình bảo lãnh. Việc thực hiện biện

pháp tạm giam thay cho biện pháp bão lĩnh khi có Lệnh bắt tạm giam của Tòa

án, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú thực hiện tốt và đúng quy định

của tố tụng, đảm bảo được thời hạn tố tụng và đảm bảo tốt cho Tòa án xét xử

vụ án đúng thời hạn.

Thực tế đối với việc thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo

lĩnh khi hồ sơ do Tòa án thụ lý là rất ít hoặc không có, bởi vì đối với những bị

48

can có đủ các điều kiện được tại ngoại thì ở giai đoạn điều tra, Cơ quan điều

tra đã thực hiện hoặc đến khi hồ sơ chuyển đến VKS thì VKS đã thay đổi biện

pháp ngăn chặn bằng biện pháp bảo lĩnh.

2.2.4. Thực tiễn áp dụng quy định về các quyết định tố tụng của Tòa án

trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Về quyết định đưa vụ án ra xét xử: Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án

ra xét xử khi xét thấy có đủ chứng cứ để xét xử mà không có căn cứ trả hồ sơ

để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Trường hợp VKS đã

điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và hoàn trả hồ sơ, nếu thấy không

cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ sung lần hai, hoặc trường hợp VKS không

bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định

truy tố, thì Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án cũng ra quyết

định đưa vụ án ra xét xử. Từ thực tiễn áp dụng, khi ban hành quyết định đưa

vụ án ra xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án về

nguyên tắc phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 255 BLTTHS 2015.

Tuy nhiên thực tế vẫn có nhiều trường hợp khi Thẩm phán ban hành quyết

định đưa vụ án ra xét xử còn rất sơ sài, thiếu một số thông tin theo quy định

nhưng cũng chỉ là trường hợp cá biệt như: Quyết định đưa vụ án ra xét xử ghi

không đầy đủ nơi sinh, nghề nghiệp của bị cáo, không có Thẩm phán dự

khuyết, Hội thẩm dự khuyết, Thư ký, Kiểm sát viên dự khuyết. Khắc phục

tình trạng trên, Lãnh đạo đơn vị đã kiểm tra và yêu cầu các Thẩm phán phải

thực hiện đúng nguyên tắc được quy định tại Điều 255 BLTTHS 2015 để bị

cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan, luật sư bào chữa có thể đề xuất thêm những người cần

triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa hoặc vật chứng cần đưa ra xem xét, đồng thời

là cơ sở để họ thực hiện quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, bảo

đảm cho việc xét xử được khách quan.

49

Về quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung: Do áp lực công việc nhiều, có

Thẩm phán khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án nghiên cứu hồ sơ

không kỹ và khi mới nghiên cứu qua bản cáo trạng và bản kết luận điều tra

phát hiện phát hiện thấy có thiếu sót về một số các tài liệu chứng cứ như nhân

thân lý lịch bị can nên đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, sau khi VKS

khắc phục bổ sung chuyển hồ sơ sang Tòa án thụ lý, Chánh án phân công

Thẩm phán giải quyết vụ án tiến hành nghiên cứu tiếp và tiếp tục phát hiện lời

khai của bị can có nhiều điểm mâu thuẫn mà chưa tiến hành đối chất giữa bị

can và bị hại vì vậy lại tiếp tục trả hồ sơ lần thứ hai, lẽ ra Thẩm phán phải

nghiên cứu kỹ toàn bộ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để yêu cầu

trả hồ sơ điều tra tất cả những nội dung cần điều tra. Ngoại trừ có Thẩm phán

do được giao giải quyết nhiều hồ sơ vụ án và không có kế hoạch cụ thể nên

khi hồ sơ gần hết hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng chưa kịp nghiên cứu do

đó đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử dẫn đến tại phiên tòa qua lời khai báo

của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác thấy có nhiều mâu

thuẫn, thiếu sót dẫn đến phải hoãn phiên tòa và trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ

sung. Trường hợp này trả hồ sơ là HĐXX trả hồ sơ nhưng lại là trả hồ sơ lần

đầu là không phù hợp với quy định của BLTTHS, theo quy định của BLTTHS

thì việc trả hồ sơ như trên là không đúng quy định (khoản 2 Điều 174

BLTTHS 2015). Điển hình có vụ án Tòa án trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ

sung 04 lần như vụ án Khưu Lê Sang (như đã phân tích ở phần 2.2.1 chương

2 của Luận văn).

50

Bảng 2.2.4: Số vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý, trả hồ sơ điều tra bổ sung và kết quả trả hồ sơ của Tòa án trên địa bàn huyện Tân Phú từ năm 2014 đến năm 2018.

Năm Số vụ đã Số vụ THS Tỷ lệ THS Số vụ THS Tỷ lệ chấp

thụ lý điều tra bổ điều tra bổ được chấp nhận THS

sung sung nhận

114 vụ 13 vụ 11,40% 10 vụ 2014 76%

110 vụ 19 vụ 17,27% 15 vụ 2015 78,9%

128 vụ 10 vụ 7,81% 7 vụ 2016 70%

105 vụ 16 vụ 15,23% 9 vụ 2017 56,25%

133 vụ 19 vụ 14,28% 12 vụ 2018 63,15%

Nguồn: Báo cáo thống kê hàng năm từ năm 2014 đến năm 2018 của TAND

huyện Tân Phú.

Về số vụ án mà Tòa án ra quyết định Tạm đình chỉ, Đình chỉ vụ án:

Bảng 2.2.5: Số vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý sau đó Đình chỉ, Tạm đình chỉ trên địa bàn huyện Tân Phú từ năm 2014 đến năm 2018.

Năm Số vụ đã Số vụ Tạm Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ

thụ lý đình chỉ Đình chỉ

2014 114 vụ 00 vụ 0% 02 vụ 1,754%

2015 110 vụ 00 vụ 0% 00 vụ 0%

2016 128 vụ 01 vụ 0,781% 03vụ 2,343%

2017 105 vụ 01 vụ 0,952% 01vụ 0,952%

2018 133 vụ 01 vụ 0,751% 00 vụ 0%

Nguồn: Báo cáo thống kê hàng năm từ năm 2014 đến năm 2018 của TAND

huyện Tân Phú.

Từ số liệu thống kê thực tiễn, tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án hình sự sơ

thẩm trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tại TAND huyện Tân Phú 05

51

năm qua xét thấy tương đối ít so với số vụ án đã thụ lý giải quyết, điều đó thể

hiện trong quá trình điều tra, truy tố đã tiến hành thu thập đầy đủ các tài liệu

chứng cứ của vụ án. Qua nghiên cứu 03 quyết định tạm đình chỉ vụ án, 06

quyết định đình chỉ vụ án mà Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử

vụ án ra quyết định xét thấy: Các quyết định đình chỉ vụ án thuộc trường hợp

khởi tố theo yêu cầu của bị hại, sau khi Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án, giữa bị cáo

và bị hại đã thương lượng thỏa thuận bồi thường xong và bị hại rút yêu cầu

khởi tố trước ngày mở phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định

đình chỉ vụ án (theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 282 BLTTHS 2015).

Các quyết định tạm đình chỉ vụ án thuộc trường hợp có kết luận giám

định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần, hạn chế khả năng nhận thức và

không thể làm việc được với các cơ quan pháp luật nên bắt buộc phải chữa

bệnh, Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án ra quyết định tạm

đình chỉ vụ án (theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 229 BLTTHS 2015),

đồng thời báo cáo Chánh án ra quyết định bắt buộc chữa bệnh đối với bị can.

2.2.5. Nguyên nhân những hạn chế, vi phạm trong chuẩn bị xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

Việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thời hạn chuẩn

bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về cơ bản không có vi phạm nhiều, cá biệt có

vi phạm điều đó cho thấy các quy định về thời hạn xét xử sơ thẩm theo

BLTTHS năm 2003 là ổn định. BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung và quy

định về thời hạn thụ lý, thời hạn Thẩm phán được phân công giải quyết, xét

xử vụ án theo hướng thống nhất về thời điểm xác định thời hạn và quy định

thời hạn mang tính cụ thể. Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và phương

hướng, nhiệm vụ công tác năm 2018, Hội nghị triển khai công tác Tòa án năm

2018 ngành Tòa án, Chánh án TANDTC đã báo cáo có liên quan tới tổ chức

và hoạt động của ngành Tòa án, nhất là Luật Tổ chức Tòa án và các văn bản

52

có liên quan, chấn chỉnh các vi phạm trong ngành để các đơn vị trực thuộc

khắc phục vi phạm trong thời gian tới.

Nguyên nhân khách quan: Do vụ án có nhiều bị cáo trong đó có bị cáo

bị truy tố nhiều tội, hành vi xảy ra ở nhiều địa bàn khác nhau, vì vậy khi trích

xuất bị cáo để xét xử thì phải thực hiện các thủ tục bắt buộc theo quy định của

tố tụng, dẫn đến có trường hợp đến ngày mở phiên tòa nhưng công tác trích

xuất bị cáo của Công an vẫn chưa thực hiện được, Tòa án phải hoãn phiên tòa

dẫn đến quá thời hạn chuẩn bị xét xử. Điển hình vụ án Diệp Lương Toàn bị

VKS truy tố về tội “Trộm cắp tài sản và Cố ý làm hư hỏng tài sản” Tòa án thụ

lý ngày 03/4/2018, sau đó Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ

án nghiên cứu hồ sơ và ngày 03/5/2018 Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án

ra xét xử vào ngày 28/5/2018, tuy nhiên ngày 28/5/2018 do không trích xuất

được bị cáo vì hiện nay bị cáo đang bị đang bị tạm giam về hành vi vi phạm

tại Lâm Đồng, Tòa án phải hoãn phiên tòa và ấn định lại ngày xét xử vào

ngày 12/6/2018.

Nguyên nhân chủ quan: Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử

còn chủ quan, đơn giản hóa vấn đề thời hạn chuẩn bị xét xử, xem đây là vấn

đề tố tụng không quan trọng, có Thẩm phán làm việc theo thói quen không để

ý đến thời hạn, quá hạn rồi mới phát hiện ra, có vụ án sau khi thụ lý vụ án

hình sự Chánh án đã không phân công ngay cho Thẩm phán để nghiên cứu hồ

sơ, đến khi giao thì gần hết thời hạn. Có Thẩm phán nhiều việc nhưng không

đề ra kế hoạch cụ thể nên lúng túng trong việc bố trí thời gian nghiên cứu cho

bản thân, Hội thẩm, cho người bào chữa và thực hiện các công việc chuẩn bị

khác nên vi phạm về thời hạn, còn nếu đảm bảo thời hạn thì lại không đảm

bảo về nội dung và chất lượng của công tác chuẩn bị xét xử…..Cá biệt có

Thẩm phán do trình độ nhận thức không đúng các quy định về thời hạn mà

dẫn đến vi phạm, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án ở giai đoạn chuẩn bị xét

53

xử, khi gần hết thời hạn giải quyết vụ án thì quyết định đưa vụ án ra xét xử,

khi mở phiên tòa thì thiếu các tài liệu chứng cứ mà lẽ ra Thẩm phán phải yêu

cầu VKS bổ sung như biên bản giao nhận vật chứng, tang vật của vụ án, tống

đạt triệu tập những người tham gia tố tụng không đúng địa chỉ của họ dẫn đến

họ không đến tham gia phiên tòa được, phải hoãn phiên tòa dẫn đến quá thời

hạn xét xử.

Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc.

Thứ nhất, BLTTHS 2015 chưa xem xét, đánh giá hết các yếu tố có thể

ảnh hưởng trực tiếp đến việc áp dụng các quy định pháp luật, chưa dự liệu

được các tình huống khó khăn, phức tạp khi tiến hành việc giao các văn bản

tố tụng........ có các tình huống xảy ra trong giai đoạn trước khi mở phiên tòa

cần phải giải quyết các yêu cầu, kiến nghị, đề nghị của người tham gia tố tụng

.......bên cạnh đó không quy định chế tài về việc chậm trễ trong việc để hồ sơ

quá hạn của Cơ quan điều tra, Viên kiểm sát, có một số thuật ngữ trong pháp

luật còn chung chung khiến cho các cơ quan tố tụng hiểu chưa thống nhất, có

nhiều cách khác nhau .…

Thứ hai, Về áp lực chỉ tiêu giải quyết án đối vứi thừng thẩm phán cùng

với việc quy định tỷ lệ số lượng án bị hủy, sửa để làm căn cứ bình xét thi đua,

xem xét việc tái bổ nhiệm khi hết nhiệm kỳ; việc thiếu tinh thần trách nhiệm

còn có tư tưởng ngại xét xử những vụ án khó, phức tạp của Thẩm phán khi

được phân công giải quyết.... đã tạo nên tâm lý e ngại cho Thẩm phán vì nếu

đưa ra xét xử có khả năng bị Tòa án cấp trên hủy, sửa án ảnh hưởng đến thi

đua, tái bổ nhiệm. Trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ của một số

Thẩm phán còn hạn chế; thiếu kinh nghiệm giải quyết án, phải mất nhiều thời

gian cho việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu hơn so với Thẩm phán đã có nhiều

kinh nghiệm. Ngoài ra, không thể không kể đến nguyên nhân các Thẩm phán

còn tâm lý ngại va chạm nên không quan tâm đến việc phải đưa vụ án ra xét

54

xử trong thời hạn luật định mà kéo dài thời hạn xét xử đối với những vụ án

tương đối nhạy cảm, liên quan đến cán bộ quản lý ở địa phương; trường hợp

này thường rơi vào những vụ án thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý

kinh tế và nhóm tội phạm về chức vụ. Đây là một trong những nguyên nhân

dẫn đến tình trạng các Thẩm phán đã cố tình kéo dài thời hạn giải quyết vụ án

bằng những biện pháp trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Một trong những nguyên nhân khách quan nhưng rất quan trọng đó là

tình trạng thiếu Thẩm phán. Theo định mức của TANDTC quy định mỗi

Thẩm phán hàng tháng giải quyết từ 04 đến 06 vụ nhưng thực tế tỷ lệ án bình

quân giao cho mỗi Thẩm phán vẫn còn rất cao, tại TAND huyện Tân Phú,

tỉnh Đồng Nai là 12 vụ/tháng do đó áp lực rất lớn dẫn đến chất lượng giải

quyết các vụ án tất nhiên là không được đảm bảo, cơ sở vật chất thiếu thốn,

máy móc cũ kĩ và lạc hậu chưa đáp ứng được tình hình mới, chế độ tiền lương

vẫn còn rất thấp so với đặc thù của ngành Tòa án…

Thứ ba, trình độ năng lực, ý thức trách nhiệm của một số Điều tra viên,

Kiểm sát viên chưa cao, sự phối kết hợp giữa các cơ quan tố tụng vẫn chưa

đồng bộ trong việc trích xuất bị cáo, chưa làm hết trách nhiệm của mình trong

việc thu thập chứng cứ...; chưa cung cấp đầy đủ kịp thời, hồ sơ, tài liệu; Kiểm

sát viên chưa chủ động yêu cầu điều tra trong quá trình kiểm sát điều tra vụ

án, còn thụ động chờ kết thúc điều tra vụ án chuyển đến VKS mới nghiên cứu

hồ sơ, nên không phát hiện kịp thời những thiếu sót về tố tụng, chứng cứ

trong vụ án...

Thứ tư, công tác quản lý, điều hành của người đứng đầu đơn vị đôi khi

chưa thật sự có hiệu quả, chưa có sự quản lý chặt chẽ trong công tác chuyên

môn nên chưa có kế hoạch, biện pháp cụ thể; thiếu sự đôn đốc, kiểm tra, chưa

chỉ đạo quyết liệt để cán bộ đơn vị phải tuân thủ một cách triệt để các quy

định của pháp luật trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

55

Để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới, nâng cao

hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng về chuẩn bị xét xử sơ

thẩm, giải quyết các loại án cần hoàn thiện các quy định của BLTTHS về

chuẩn bị xét xử nói chung, về thời hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng;

tăng cường năng lực pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm của

người giữ các chức danh tư pháp.

Thực hiện công tác quản lý, điều hành của mình có hiệu quả, Chánh án

TANDTC đã ban hành Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19 tháng 6

năm 2017 quy định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp, đối

với Thẩm phán, Thư ký nếu để xảy ra các sai phạm thì sẽ bị xử lý theo quy

định của pháp luật.

Đối với người đứng đầu nếu để xảy ra sai phạm tại đơn vị sẽ bị xử lý

trách nhiệm vi phạm trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.

Việc áp dụng Quyết định số 120/QĐ-TANDTC trong xử lý những vi

phạm đối với Thẩm phán và Thư ký có vi phạm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm

trong thời gian qua thì chất lượng và hiệu quả công tác đã được nâng lên rõ

rệt, công tác xét xử được đảm bảo, các vụ án đều được giải quyết trong thời

hạn luật định. Các bản án hình sự được tuyên đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật.

Tòa án đã tăng cường tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp,

yêu cầu mỗi Thẩm phán hàng năm phải đăng ký ít nhất một phiên tòa rút kinh

nghiệm, tại phiên tòa, Lãnh đạo đơn vị và các Thẩm phán, HTND, Thư ký

tham dự. Sau khi kết thúc phiên tòa, lãnh đạo đơn vị tổ chức họp toàn thể để

kiểm điểm rút kinh nhiệm những ưu điểm, tồn tại và thiếu sót của TPCTPT,

đồng thời rút kinh nghiệm chung cho các Thẩm phán trong đơn vị. Trường

hợp Thẩm phán trong năm không đăng ký phiên tòa rút kinh nghiệm thì

không xét thi đua. Tại phiên tòa xét xử không hạn chế thời gian tranh tụng,

56

tiến hành kiểm tra đánh giá toàn bộ quá trình khởi tố, truy tố đối với hành vi

của bị cáo.

Kết luận chương 2

Qua thực tiễn áp dụng việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố

tụng hình sự tại TAND huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói riêng và cả nước

nói chung, luận văn đã làm rõ được những hạn chế, vướng mắc trong thực

tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với các quy định về

chuẩn bị xét xử sơ thẩm cũng như xác định nguyên nhân khách quan và chủ

quan. Thực trạng việc thi hành các quy định của BLTTHS về chuẩn bị xét xử

sơ thẩm ở huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai qua số liệu thống kê 05 năm (2014-

2018) cho thấy có vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tuy nhiên qua

công tác kiểm tra, giám sát của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và các cơ

quan có liên quan đều có kết luận để kiểm điểm rút kinh nghiệm khắc phục

những thiếu sót…

Trên thực tế có những vi phạm như trên, một phần là do những nguyên

nhân khách quan, nhưng cũng phải xác định có nguyên nhân chủ quan của

Thẩm phán cũng như Kiểm sát viên, Điều tra viên.

Trên cơ sở xác định nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, luận

văn đưa ra những kiến nghị, những giải pháp để hoàn thiện quy định của pháp

luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự

như: Kiến nghị hoàn thiện quy định chung về chuẩn bị xét xử sơ thẩm; kiến

nghị đối với các quy định về chuẩn bị xét xử, thời hạn thụ lý vụ án, thời hạn

tạm giam để chuẩn bị xét xử…; kiến nghị về việc tăng cường năng lực, ý thức

pháp luật và nâng cao trách nhiệm cá nhân của người giữ chức danh tư pháp

trong TAND về việc áp dụng pháp luật mà cụ thể Chánh án, Phó Chánh án,

Thẩm phán, Thư ký tòa án.

57

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ

THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

Trước yêu cầu tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy

nhà nước nói chung và hệ thống Tòa án nói riêng; bảo đảm ngày càng tốt hơn

quyền con người trong tố tụng hình sự; tăng cường hội nhập quốc tế, trong đó

có lĩnh vực tư pháp hình sự...cần có những giải pháp có tính khả thi nhằm

nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Xét về nguyên

tắc, chất lượng của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tùy thuộc vào tổng

thể các giải pháp khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật

học và kết quả nghiên cứu của các chương 1, 2 tác giả luận văn kiến nghị một

số giải pháp chủ yếu sau đây:

3.2. Nâng cao nhận thức về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự trên cơ sơ lý luận và các quy định của BLTTHS hiện hành. Mỗi Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án muốn nâng cao nghiệp vụ chuyên

môn phải không ngừng học tập, nghiên cứu các quy định pháp luật, thường

xuyên cập nhật các văn bản pháp luật có liên quan. Đặc biệt là việc nghiên

cứu và nắm vững các điều luật được sửa đổi bổ sung và những quy định mới

trong BLTTHS trong đó chú trọng nguyên tắc suy đoán vô tội, chứng cứ, thủ

tục tố tụng về giải quyết và xử lý các vấn đề trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự đúng theo quy định của pháp luật.

Thực hiện cải cách tư pháp, BLTTHS vừa mới ban hành, yêu cầu bảo

vệ công lý, bảo vệ quyền con người, hội nhập quốc tế thì việc nâng cao trình

độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị là tất yếu, các Thẩm phán

muốn thực hiện tốt vai trò của mình và hoàn thành nhiệm vụ theo quy định

của pháp luật thì làm việc phải có kế hoạch, sắp xếp một cách khoa học và

58

hợp lý trong việc chuẩn bị xét xử đối với vụ án hình sự khi được lãnh đạo

phân công để giải quyết vụ án được đúng quy định của pháp luật đạt hiệu quả

cao.

Luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, có tinh thần trách

nhiệm, vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án.

3.3. Tăng cường tổ chức tập huấn chuyên môn nghiệp vụ về áp

dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chuẩn bị xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự.

TANDTC, Tòa án nhân dân tỉnh nên có kế hoạch, chương trình thường

xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, giáo dục chính

trị, tư tưởng và ý thức trách nhiệm cho các Thẩm phán, HTND, Thư ký Tòa

án.

Tăng cường tập huấn nghiệp vụ xét xử cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân, Thư ký Tòa án là rất quan trọng. TANDTC qua thực tiễn công tác cần

tổng hợp các ý kiến thắc mắc để giải đáp, hướng dẫn thi hành pháp luật, qua

các báo cáo tổng kết hàng năm ban hành những văn bản pháp quy làm tài liệu

giải đáp, hướng dẫn pháp luật cho TAND địa phương để áp dụng thống nhất.

Đổi mới công tác tập huấn, tăng cường trao đổi nghiệp vụ, tổ chức các hội

thảo chuyên đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm, lấy ví dụ thực tiễn để phân tích và

minh họa thì chất lượng và hiệu quả tập huấn sẽ cao hơn.

3.4. Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự

hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Các cơ quan chủ quản TANDTC, VKSNDTC, BCA cần tổ chức rà soát

các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến BLTTHS 2003 và

các hướng dẫn có liên quan khác để bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn

bản mới hoặc đề xuất Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội bãi bỏ, sửa đổi,

59

bổ sung hoặc ban hành văn bản mới hướng dẫn thi hành BLTTHS 2015 bảo

đảm tính kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả.

Tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số Điều của BLTTHS 2015 để hoàn thiện

hơn và có tính khả thi cao như: Điều 284 BLTTHS 2015 về yêu cầu VKS bổ

sung tài liệu, chứng cứ tại khoản 3 trường hợp VKS không bổ sung thì phải

nêu rõ lý do không bổ sung; Kiến nghị cần quy định rõ trách nhiệm của VKS

phải tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.

Theo quy định tại Điều 287 thì không xác định được chính xác những

người tham gia tố tụng nào được quyền yêu cầu Tòa án triệu tập những người

được xét hỏi đến phiên tòa. Vì nếu chỉ quy định chung “người tham gia tố

tụng” thì người làm chứng cũng là người tham gia tố tụng quy định tại Điều

55 cũng được quyền triệu tập những người được xét hỏi tại phiên tòa; cần quy

định rõ chỉ bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự mới có quyền đề

nghị. BLTTHS 2015 chỉ bổ sung thêm có thể dẫn giải đối với bị hại, Cần bổ

sung thêm cả nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan đến vụ án; người chứng kiến (trừ người dưới 18 tuổi) đều có thể bị

dẫn giải nếu cố ý không chấp hành quyết định, yêu cầu của người tiến hành tố

tụng, vì sự có mặt của những người này làm cho việc giải quyết vụ án được

khách quan hơn.

3.5. Tăng cường khả năng và năng lực của đội ngũ Thẩm phán.

Biên chế của TAND huyện Tân Phú được phân bổ là 16 cán bộ, công

chức, 04 hợp đồng lao động. Trong đó 02 Thẩm phán trung cấp, 06 Thẩm

phán sơ cấp, 01 Thẩm tra viên, 07 thư ký. So với biên chế được phân bổ hiện

nay Tòa án nhân dân huyện Tân Phú đã đủ biên chế.

Công tác chuyên môn nghiệp vụ là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của

Tòa án nhân dân huyện Tân Phú mà chủ thể chính là đội ngũ cán bộ Thẩm

phán và Thư ký. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương

60

Đảng khóa VIII về chiến lược thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước cũng đã nhấn mạnh: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại

của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ là

khâu then chốt trong xây dựng Đảng”.

Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 Tòa án được xác định là trung tâm của hệ

thống tư pháp, trong đó hoạt động xét xử giữ vị trí trung tâm, có vai trò quan

trọng nhất. Hoạt động này tiến hành trên cơ sở tư duy của Thẩm phán, đó là

người có trách nhiệm cầm cân công lý với phương châm “Phụng công, thủ

pháp, chí công vô tư”. Do vậy cần phải có đội ngũ Thẩm phán trong sạch, có

năng lực chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có trình độ lý luận chính trị, ý

thức pháp luật, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp….và các kiến thức bổ trợ

khác như kinh tế, xã hội, ngoại ngữ, tin học, đặc biệt chú trọng đào tạo, bồi

dưỡng nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về tư pháp quốc tế để đáp ứng yêu

cầu của hội nhập khu vực và quốc tế.

BLTTHS 2015 và Luật tổ chức TAND 2014 đã cụ thể hóa những tư

tưởng, đường lối, tạo sự thống nhất trong pháp luật trên tinh thần Hiến pháp

2013 về bổ sung một số nguyên tắc tư pháp tiến bộ và làm rõ hơn nhiệm vụ

của TAND, VKSND khi thực hiện chức năng Hiến định.., cụ thể:

Đã góp phần tháo gỡ những vướng mắc từ thực tiễn với nhiều nội dung

quan trọng như những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, đến các quy

định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan và người tiến hành tố tụng, trình tự,

thủ tục từng giai đoạn tố tụng.

Quy định chặt chẽ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công

dân; đổi mới chế định chứng cứ và chứng minh, bảo đảm nguyên tắc suy đoán

vô tội và quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bảo đảm

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử…….

61

Với những yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, đòi hỏi Thẩm phán và

các chức danh tư pháp phải không ngừng rèn luyện bản thân, tư học tập để

nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và luôn vững vàng trước những khó khăn

thách thức, cám dỗ trong đời sống xã hội để hoàn thành tốt nhiệm vụ được

Đảng và Nhà nước phân công.

Đáp ứng nhu cầu cấp thiết của Tòa án các cấp trong việc nghiên cứu và

áp dụng pháp luật trong xét xử thì vào ngày 28/10/2015 Hội đồng Thẩm phán

TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/HĐTP – TANDTC về quy

trình lựa chọn công bố án lệ và áp dụng án lệ và bắt đầu có hiệu lực thi hành

từ ngày 16/12/2015.

Đồng thời, đối với những vụ án có những tình tiết tương tự với án lệ

khi mà án lệ được công bố sẽ phần nào giúp người dân biết và hiểu được quan

điểm, đường lối giải quyết, điều này góp phần không nhỏ vào việc thương

lượng, tự thỏa thuận của người dân. Về phía Tòa án, tham khảo án lệ để phân

tích những thiếu sót trong những vụ án xét xử trước đó sẽ giúp Thẩm phán rút

kinh nghiệm, khắc phục những sai sót trong chuẩn bị xét xử để trên cơ sở đó

nghiên cứu kỹ hơn, sâu hơn và xác định được những chứng cứ nào là chứng

cứ quan trong trong vụ án để phân tích, đánh giá, tổng hợp trong việc giải

quyết vụ án, hạn chế việc kết án oan, sai.

Cán bộ, công chức, người lao động ngành Tòa án, đặc biệt là người giữ

chức danh Thẩm phán cần kịp thời nắm bắt, cập nhật những quy định pháp

luật mới để phục vụ cho công tác xét xử đúng trình tự, thủ tục.

BLTTHS 2015 được Quốc hội thông qua được xem là bước cải tiến

mới trong tiến trình cải cách tư pháp và Luật tổ chức TAND là một bước đệm

quan trọng của toàn hệ thống ngành Tòa án. Điều này mang tầm vóc quan

trọng, ý nghĩa sâu sắc trong việc “thay áo mới”, phù hợp với tinh thần cải

62

cách tư pháp của Bộ chính trị cho toàn ngành Tòa án Việt Nam nói chung và

Tòa án huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nói riêng.

Với mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chuẩn bị xét xử sơ

thẩm và hạn chế được những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong thời gian

vừa qua thì cần đề xuất những giải pháp sau đây:

Tiếp tục nâng cao nhận thức về lý luận và thực tiễn trong chuẩn bị xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự theo hướng thực chất, đảm bảo dân chủ, công khai,

đúng quy định của pháp luật.

Luôn đổi mới và nâng cao hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức giữ các chức danh tư pháp, làm

cho cán bộ, công chức thấy rõ được tầm quan trọng trong việc chuẩn bị xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự là nhân tố quyết định đến chất lượng xét xử vụ án hình

sự, quyết định đến sự thành công của phiên tòa sơ thẩm để phán quyết và ra

một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Song song với những giải pháp trên, cần đẩy mạnh việc đổi mới thủ tục

hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án các cấp, làm cho mọi công

dân khi có công việc liên hệ đến Tòa án cảm thấy Tòa án là nơi mà họ cần đến

để giải quyết những khó khăn, bức xúc trong đời sống xã hội mà họ không tự

giải quyết được.

Cán bộ, công chức ngành Tòa án cần được trang bị cho mình phẩm chất

chính trị, đạo đức cùng với năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm trong

công tác, tính kỷ cương, kỷ luật công vụ. Đồng thời, với những thành tích

được ghi nhận thì cần kịp thời vinh danh và khen thưởng, tạo động lực phấn

đấu trong công tác chuyên môn nghiệp vụ.

Triển khai thực hiện tốt BLHS, BLTTHS có hiệu lực từ ngày 01/7/2016

và các Nghị quyết có liên quan, trong đó có Luật tổ chức TAND năm 2014 để

hoàn thiện hệ thống TAND 4 cấp; đẩy mạnh việc bổ sung, kiện toàn đội ngũ

63

cán bộ, công chức có chức danh tư pháp đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán

TAND địa phương đủ về số lượng, đảm bảo phẩm chất đạo đức, bản lĩnh

chính trị, trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Với mục tiêu tạo nguồn

thẩm phán có chất lượng thì việc đào tạo nghiệp vụ xét xử luôn được xem

trọng và thực hiện tốt. Thường xuyên thực hiện và cập nhật những nội dung

mới của Luật để trau dồi, bồi dưỡng kiến thức cho HTND thông qua những

chương trình đào tạo và tập huấn nghiệp vụ.

Để góp phần khắc phục cũng như kịp thời phát hiện những sai sót và xử

lý cán bộ công chức có hành vi vi phạm thì cần đẩy mạnh và thực hiện có

hiệu quả công tác thanh, kiểm tra nghiệp vụ. Đồng thời, phải thực hiện

nghiêm túc, đúng chuẩn mực công vụ của cán bộ, công chức ngành Tòa án.

Nhằm phát huy thủ tục cải cách hành chính tư pháp trong hoạt động

Tòa án cần nâng cao số lượng, chất lượng điều kiện - cơ sở vật chất, môi

trường làm việc. Đồng thời, quán triệt từng bước thực hiện có hiệu quả mô

hình Tòa án điện tử trong cả nước.

Xây dựng quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng luôn được chú trọng và thường xuyên được thực hiện. Tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương để triển khai thực hiện tốt các

mặt công tác của Tòa án. Đặc biệt lưu tâm đến việc phối, kết hợp với VKSND

các cấp để tổ chức thực hiện tốt tranh tụng tại Tòa án, trên cơ sở đó, rút ra

được những bài học, kinh nghiệm trong việc xét xử nói chung và việc chuẩn

bị xét xử sơ thẩm nói riêng.

Để điều chỉnh và áp dụng pháp luật Hình sự và tố tụng Hình sự một

cách tốt nhất tại Việt Nam thì một phần không thể thiếu đó là nghiên cứu,

phân tích, so sánh pháp luật tương tự của nước ngoài. Mặt khác, nhằm hoàn

thiện những quy phạm, chế định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm sao cho phù hợp

với tình hình dân trí, điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta qua từng giai đoạn

64

cần phải học hỏi, tiếp thu nhưng có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa tiến bộ

trên thế giới.

Kết luận chương 3

Vấn đề hoàn thiện và yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định

của BLTTHS nói chung và về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng

trong tình hình hiện nay là một nhu cầu tất yếu khách quan. Kể từ ngày

BLTTHS 2003 có hiệu lực cũng như các quy định pháp luật có liên quan và

được áp dụng trong thực tiễn, đã cho thấy được việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm

gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc từ kỹ thuật lập pháp cho đến nội dung

được thực thi trong thực tiễn. Trong thực tiễn áp dụng của ngành Tòa án nói

chung và TAND huyện Tân Phú nói riêng gặp một số vướng mắc ảnh hưởng

không nhỏ đến quá trình thực thi pháp luật. Thực tế cho thấy, mặc dù

BLTTHS 2015 đã khắc phục được một số hạn chế, bất cập, tuy nhiên vẫn còn

tồn tại những vướng mắc. Vì vậy, trên hết cần có những giải pháp mang tính

tối ưu để pháp luật tố tụng hình sự cũng như công tác của Tòa án được thực

hiện có hiệu quả và đảm bảo chất lượng.

Để thực hiện tốt những nội dung trên, Ngành cấp trên cần phải tổ chức

nhiều hội thảo khoa học, chuyên ngành, đa ngành về nhiều lĩnh vực khác nhau

trong đó có quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự để làm phong

phú hơp những yêu cầu thực tiễn đặt ra cho tiến trình cải cách tư pháp hiện

nay.

65

KẾT LUẬN

Chất lượng xét xử vụ án hình sự tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó

có chất lượng của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Thực tiễn xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự ở nước ta nói chung và tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai

nói riêng cho thấy nguyên nhân của những hạn chế, sai phạm xuất phát từ

việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chưa tốt. Với mong muốn góp

phần công sức bé nhỏ của mình vào vào việc tăng cường chất lượng chuẩn bị

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, học viên lựa chọn đề tài “ Chuẩn bị xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn

thạc sĩ luật học của mình.

Để đạt được mục đích, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và

các giải pháp khác nâng cao chất lượng chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự, trước hết luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý luận về chuẩn bị

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, chủ thể tiến

hành, thời hạn và nội dung chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Luận văn

cũng dành một dung lượng cần thiết để nghiên cứu làm sáng tỏ lịch sử lập

pháp tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đến

trước khi ban hành BLTTHS 2015, qua đó khẳng định tính kế thừa và phát

triển trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta về chuẩn bị xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Luận văn cũng tập trung phân tích nội dung các quy định của BLTTHS

2015 của nước ta về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và phân tích, đánh

giá qua thực tiễn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú,

tỉnh Đồng Nai từ năm 2014 đến năm 2018, chỉ ra nguyên nhân của những hạn

chế vi phạm trong hoạt động này.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng

pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn đề xuất các giải

66

pháp nâng cao chất lượng của hoạt động nói trên ở nước ta. Luận văn đã đưa

ra được những giải pháp để góp phần thực hiện có hiệu quả công tác chuẩn bị

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai và ngành Tòa

án Việt Nam.

Quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn không thể tránh sự sai sót.

Xin trân trọng ghi nhận sự đánh giá, góp ý và các ý kiến từ quý thầy cô cũng

như các độc giả để giúp tác giả chỉnh sửa hoàn chỉnh làm cho đề tài hoàn

thiện hơn.

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Bảo An (2012), Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ

Chí Minh

2. Nguyễn Hòa Bình (chủ biên) (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

3. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ- TW ngày 02 tháng 01 năm

2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp trong thời gian

tới

4. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ - TW ngày 02 tháng 06 năm

2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020

5. Bộ tư pháp (2017), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb chính trị quốc gia sự thật,

Hà Nội

6. Bộ tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2001), Bình luận khoa

học bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

7. Bộ tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Bách

khoa – Nxb Tư pháp, Hà Nội

8. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2016), Quyết định số 345/2016/QĐ-

CA ngày 07 tháng 04 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tổ

chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

9. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2018), Hội nghị triển khai công

tác Tòa án năm 2018, Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và phương hướng,

nhiệm vụ công tác năm 2018

68

10. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

11. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

12. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của

Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020, Hà Nội

13. Đỗ Thị Hòa (2016), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật

tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận),

Luận văn Thạc sỹ Luật học, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam

14. Học viện Tư pháp (2011), Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

15. Học viện Tư pháp (2011), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb

Tư pháp, Hà Nội

16. Nguyễn Cảnh Hợp (2001), Các nguyên tắc của tố tụng hình sự trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, Tạp chí Luật học (số 1), tr.10

17. Cao Văn Hiếu (2014), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp

luật tố tụng hình sự Việt Nam (số liệu từ thực tiễn Thành Phố Đà Nẵng), Luận

văn Thạc sĩ Luật học, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam

18. Vũ Đức Khiển (1996), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố

tụng hình sự Việt Nam, Viện khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội

19. Huỳnh Anh Kiệt (2007), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Lý luận

và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ

Chí Minh

20. Hoàng Đạt Nam (2017), Một số vấn đề về quyết định tạm giam và thời

hạn tạm giam trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung tại

phiên tòa, Tạp chí Tòa án nhân dân, (Số 20), tr.31

69

21. Ngôn ngữ Việt Nam (2012), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh Niên

22. Võ Thị Kim Oanh ( 2011), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam,

Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

23. Lê Quang Phong (2003), Bắt tạm giữ, tạm giam trong Luật tố tụng hình

sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ

Chí Minh

24. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 (luật số

29/2003-QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003)

25. Quốc hội (2012), Bộ luật lao động Việt Nam năm 2012 (luật số 10/2012-

QH13 ngày 18 tháng 06 năm 2012)

26. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013

27. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 (luật số

62/2014-QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2014)

28. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015 (luật số

92/2015-QH13 ngày 18 tháng 06 năm 2015)

29. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 (luật số

101/2015-QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015)

30. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (luật số 100/2015-

QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015)

31. Đinh Văn Quế (2000), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Luật tố tụng Hình sự

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội

32. Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện (1999), Những nguyên tắc cơ bản của

Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

33. Nguyễn Sỹ Thành (2015), Xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt

Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đăk Lăk), Luận văn thạc sĩ,

Đại học Quốc gia Hà Nội

70

34. Vũ Thị Thủy Tiên (2001), Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự

Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ

Chí Minh

35. Tòa án nhân dân tối cao ( 2004), Nghị quyết 04/2004/NQ - HĐTP ngày 05

tháng 11 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc

hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba“Xét xử sơ thẩm”của

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

36. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Tài liệu tập huấn các Bộ luật, luật được

Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua (2016), Tòa án nhân dân tối cao,

Hà Nội

37. Tòa án nhân dân tối cao (năm 2017), Quyết định số 120/QĐ-TANDTC

ngày 19 tháng 6 năm 2017 quy định về xử lý trách nhiệm người giữ chức

danh tư pháp

37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

38. Phạm Minh Tuyên (2018), Kỹ năng xét xử các vụ án hình sự, Nxb Thanh

Niên

39. Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật tố

tụng hình sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức

40. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.265

41. Hàng Lâm Viện (2013), Các quyết định của Thẩm phán khi chuẩn bị xét

xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luật văn Thạc sĩ Luật học,

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

42. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm

thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 số 11/ BC -VKSTC ngày 19 tháng

01 năm 2015 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

71

43. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo và tiếp thu, giải trình ý

kiến đóng góp của chính phủ, các bộ, ngành đối với Dự thảo Bộ luật tố tụng

hình sự, Hà Nội

44. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Thuyết minh dự thảo Bộ luật tố

tụng hình sự, Hà Nội

45. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Tài liệu tập huấn về những nội

dung mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội

46. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội

47. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng

hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội

48. Trần Thế Vượng (1999), Những nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự

Việt Nam và yêu cầu của việc sửa đổi toàn diện Bộ luật tố tụng hình sự, Kỷ

yếu hội thảo của Ủy ban pháp luật - Quốc hội, tr.12 .

72