BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI ---------------------------------
2-
NGHIÊN CỨU, TỔNG HỢP XÚC TÁC PT/MONTMORILLONITE ĐƯỢC CHỐNG BỞI ZrO2/SO4 VÀ ỨNG DỤNG TRONG PHẢN ỨNG ISOME HÓA PHÂN ĐOẠN NAPHTA NHẸ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
NGÀNH: CÔNG NGHỆ HÓA HỌC MÃ SỐ: DƯƠNG VIẾT CƯỜNG Người hướng dẫn khoa học: GS.TS ĐÀO VĂN TƯỜNG HÀ NỘI 2009
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thầy giáo GS.TS. Đào Văn
Tường, người đã trực tiếp giao và hướng dẫn thực hiện đề tài. Tác giả
cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô Bộ môn Công nghệ Hữu cơ- Hoá
Dầu - Khoa Công nghệ Hoá Học, Trường ĐHBKHN. Xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ của TS. Phạm Xuân Núi đã giúp đỡ tác giả trong quá trình
làm thí nghiệm. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các
thầy cô giáo Bộ môn Lọc – Hóa dầu, Trường đại học Mỏ - Địa chất, bạn
bè, đồng nghiệp, gia đình đã tận tình giúp đỡ động viên tác giả trong quá
trình thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 2 tháng 9 năm 2009
Tác giả
Dương Viết Cường
LỜI MỞ ĐẦU
Dầu mỏ và khí tự nhiên là tài nguyên chiến lược dần giữ vai trò quan
trọng trong mọi hoạt động kinh tế và cuộc sống của con người. Chúng có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế, chính trị và xã hội. Trong vài thập kỷ gần
đây, ở nước ta ngành khai thác và chế biến dầu khí không ngừng phát triển,
trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn. Theo đánh giá của các chuyên
gia, trữ lượng khí tự nhiên của Việt Nam còn khá lớn và chủ yếu tập trung ở
bốn bể là: Bể sông Hồng, Nam Côn Sơn, Bể Cửu Long, Bể thềm Tây Nam
với tổng trữ lượng khí khoảng 1.500 tỷ m3 khí. Nguồn khí khai thác được mới
chỉ được sử dụng vào việc phục vụ ngành điện, đạm, công nghiệp và một
phần được chế biến sâu nhằm thu được các sản phẩm lỏng có giá trị kinh tế
cao hơn. Ngoài LPG, Bupro, khí khô thì Condensat là hợp phần mà quá trình
chế biến khí mong muốn. Condensat có hợp phần chủ yếu là nC5 – nC6, là
thành phần quan trọng trong việc pha chế xăng thương phẩm. Tuy nhiên,
condensat có trị số octan (ON, RON) thấp, vì vậy vấn đề đặt ra cho các nhà
khoa học hiện nay là phải chuyển hoá nguồn nguyên liệu này thành các sản
phẩm hoá học có giá trị cao hơn.
Để nâng cao trị số ON của xăng người ta tiến hành pha chế các loại phụ
gia tăng trị số ON. Các phụ gia được sử dụng nhiều chủ yếu là các hợp chất
dạng oxigenat như: TBA(tert-butyl ancol), MTBE(metyl tert-butyl ete),
TAME(tert-amyl metyl ete) và methanol, etanol. Khi thêm các phụ gia này trị
số ON của xăng tăng đáng kể, đáp ứng được hầu hết yêu cầu của các loại
động cơ nhưng lại có nhược điểm là giá thành đắt. Do đó, việc lựa chọn các
cấu tử thay thế vừa đáp ứng đòi hỏi về chỉ số octan mà lại thoả mãn các chỉ
tiêu kinh tế được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Trong xu hướng đó, quá
trình đồng phân hoá các hidrocacbon no mạch thẳng C5-C7 của phân đoạn
Naphta rất được chú ý.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyển hoá các n-prafin thành
iosoprafin. Xúc tác cho quá trình này là những xúc tác mang tính axit để thúc
đẩy quá trình hình thành cacboncation. Việc nghiên cứu tổng hợp ra được
những loại xúc tác có nhiều ưu việt, hoạt tính và độ bền cao mà lại có thể góp
phần vào việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường đang là mối quan tâm
của các nhà khoa học.
Cho đến nay xúc tác dùng cho các quá trình isome hóa, cracking, alkyl
hóa… đã trải qua nhiều thế hệ đồng thể và dị thể khác nhau. Trong đó xúc tác
dị thể ngày càng được quan tâm nhiều hơn vì chúng có nhiều khả năng ưu việt
hơn xúc tác đồng thể. Xúc tác trên cơ sở axit rắn với các tâm axit Bronsted và
tâm axit Lewis có những thuận lợi như không ăn mòn thiết bị, không gây độc
hại cho môi trường và dễ dàng phân tách các sản phẩm. Trải qua 4 thập kỉ, có
trên 300 loại xúc tác axit rắn và bazơ rắn đã được phát triển [89]. Đặc biệt, sự
có mặt của xúc tác zeolit có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong ngành công
nghiệp và đã được đưa vào sử dụng. Trong trường hợp xúc tác lưỡng chức
trên cơ sở axit có một vài xúc tác zeolit đã được thương mại hóa cho hiệu quả
kinh tế cao. Tuy nhiên do kích thước mao quản của zeolit nhỏ nên vật liệu này
bị hạn chế đối với các phân tử có kích thước lớn hơn như các polyxyclo
ankan, các hydrocacbon đơn, đa nhân thơm là những hợp phần của phân đoạn
nặng trong dầu thô. Do đó xu hướng tìm những hệ xúc tác có kích thước mao
quản lớn hơn để phù hợp cho sự chế biến các phân đoạn nặng và vì vậy mà
2-, TiO2/SO4
2-,
vật liệu mao quản trung bình đã ra đời điển hình như M41S, MSU, SBA-15,
2-… hiện nay cũng đang được các nhà khoa học quan tâm vì khả
SBA-16, MCM - 41 rồi tới các superaxit rắn như ZrO2/SO4
Fe2O3/SO4
năng ứng dụng cho nhiều quá trình isome hóa, ankyl hóa, ete hóa …
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học trên thế giới có xu hướng
nghiên cứu các loại xúc tác có nguồn gốc từ sét khoáng vừa giá thành rẻ, mà
biến tính của nó có thể cho hoạt tính xúc tác cao hơn các loại xúc tác trước
đây. Chúng là loại xúc tác rắn vừa có tâm axit Bronsted vừa có tâm axit
Lewis, sét được chống bởi các chất vô cơ cũng như hữu cơ thông qua việc
trao đổi ion làm tăng khoảng cách giữa các lớp sét cho phép các phân tử cồng
kềnh đi vào không gian giữa các lớp vì thế sét chống có nhiều ứng dụng trong
môi trường như hấp phụ các kim loại năng như asen, cađimi, crom, coban,
đồng, sắt, chì, mangan… rồi làm xúc tác cho quá trình oxy hóa sâu benzene,
phenol, aniline… ngoài ra nó còn được sử dụng làm chất mang cho xúc tác
của các quá trình như cracking cumen [52], n-heptan [83], alkyl hóa các
hydrocacbon thơm, isome hóa các hydrocacbon, n-parafin, este hóa axit
cacboxylic với ancol [26], phân bố lại toluene [53], oxi hóa propylene thành
axeton [20]…
Với xu hướng phát triển trên và tầm quan trọng của xúc tác trong quá
trình đồng phân hóa phân đoạn C5-C6 tôi đã lựa chọn đề tài:
“Nghiên cứu, tổng hợp xúc tác Pt/Montmorillonite được chống bởi
2- và ứng dụng của xúc tác trong phản ứng isome hoá phân đoạn
ZrO2/SO4
naphta nhẹ” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Mục lục
Tóm tắt luận văn
Danh mục các bảng, hình vẽ, đồ thị
Lời mở đầu
1 Phần 1: Tổng quan
1 Chương 1: Tổng quan về xúc tác
1.1. Xúc tác đồng thể 1
1.2. Xúc tác dị thể 2
1.3. Clays (đất sét) 3
1.3.1. Giới thiệu về clay 3
1.3.2. Phân loại clay 5
1.3.3. Cấu trúc clay 6
1.3.4. Biến tính clay 10
1.3.4.1. Sự xen vào và sự chống đỡ 10
1.3.4.2. Hoạt hóa axit 13
1.3.4.3. Một số cấu trúc của clay hữu cơ 14
1.4. Montmorillonite (sét trắng) 18
1.4.1. Cấu trúc 18
1.4.2. Các thông số vật lý 21
1.4.3. Tính chất đặc trưng của montmorillonite 22
1.4.4. Sét (montmorillonite) chống và ứng dụng 24
1.4.4.1. Trong lĩnh vực môi trường 25
1.4.4.2. Trong lĩnh vực hóa học – hóa dầu 27
1.5. Tính chất của sét chống Ziconi 30
1.6. Tính chất của Zirconi sunfat hóa 39
2-)
1.6.1. Zirconi sunfat hóa (ZrO2/SO4 39
2-
2-
1.6.2. Tính chất của ZrO2/SO4 39
1.7. Pt/Montmorillonite/ZrO2/SO4 40
46 Chương 2: Tổng quan về quá trình isome hóa
2.1 Tổng quan về quá trình isome hóa 46
2.2 Xúc tác cho quá trình isome hóa 46
2.2.1 Tổng quan về cơ chế của xúc tác trong phản isome hóa 46
2.2.2. Cơ chế isome hoá n-hexan trên xúc tác zirconi sunfat hoá 52
2.2.3. Đặc trưng về nhiệt động học 55
58 Phần 2: Thực nghiệm
58 Chương 3: Phương pháp điều chế và các phương pháp nghiên
cứu đặc trưng xúc tác
3.1. Xúc tác 58
3.1.1. Hóa chất 58
3.1.2. Thiết bị sử dụng 58
3.1.3. Quá trình điều chế xúc tác 58
3.2. Các phương pháp nghiên cứu dặc trưng xúc tác 60
3.2.1. Phương pháp phổ nhiễu xạ Rơnghen (XRD) 60
3.2.2. Phương pháp phân tích nhiệt (DTA/TGA) 62
3.2.3. Phương pháp phổ Raman 63
3.2.4. Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM) 65
3.2.5. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (HRTEM) 67
3.2.6. Phương pháp giải hấp NH3 theo chương trình nhiệt độ (TPD) 67
3.2.7. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp phụ 69
3.2.7.1. Phương pháp xác định diện tích bề mặt (BET) 69
3.2.7.2. Tổng thể tích lỗ và bán kính lỗ trung bình 71
3.2.7.3. Sự phân bố kích thước lỗ (mao quản trung bình) 72
75 Chương 4: Kết quả và thảo luận
4.1. Tổng hợp và đặc trưng xúc tác 75
4.1.1. Tổng hợp và đặc trưng xúc tác 75
4.1.1.1. Phương pháp phổ nhiễu xạ Rơnghen (XRD) 75
4.1.1.2. Phương pháp phân tích nhiệt (TG/ DTA) 76
4.1.1.3. Phương pháp phổ Raman 80
4.1.1.4 Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM) 81
4.1.1.5. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (HRTEM) 82
4.1.1.6. Phương pháp giải hấp NH3 theo chương trình nhiệt độ (TPD) 82
4.1.1.7. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp phụ 83
4.3. Thử hoạt tính xúc tác 86
Kết luận
Danh mục các bảng
Bảng Tên bảng Trang
Bảng 1 Entanpi hình thành các sản phẩm isome hoá n-parafin 55
Bảng 2 Lượng sản phẩm theo % khối lượng thu được khi sử 89
2-
dụng xúc tác Pt/sét montmorillonite chống bởi
ZrO2/SO4
Bảng 3 Thành phần sản phẩm (% khối lượng) quá trình isome 90
hóa C5-C6 với hàm lượng xúc tác khác nhau
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
Hình Tên hình Trang
4-
Hình 1.1 Cấu trúc tứ diện của SiO4 7
Hình 1.2 Mô tả cấu trúc lớp tứ diện 7
Hình 1.3 Cấu trúc bát diện 8
Hình 1.4 Mô tả cấu trúc cầu đôi giữa hai bát diện 8
Hình 1.5 Lớp bát diện trioctahedral và dioctahedral 9
Hình 1.6 Mô hình đơn giản của sét chưa chống và đã chống 11
Hình 1.7 Các cấu trúc của dạng clay hữu cơ khác nhau 15
Hình 1.8 Cấu trúc montmorillonite 19
Hình 1.9 Montmorillonite. 20
Hình 1.10 Sự xâm nhập của các phân tử ngoại lai vào giữa hai lớp 26
sét
Hình 1.11 Kết quả chụp XRD xác định sự ảnh hưởng của thời 32
gian lão hóa đến khoảng cách cơ sở giữa các lớp sét
huyền phù khác nhau
Hình 1.12 Cân bằng giữa dạng Tetramer và Octanmerm đề xuất 33
bởi Singhal
Hình 1.13 Sự phụ thuộc hàm lượng ZrO2 chống sét vào thời gian 34
Hình1.14 Kết quả chụp XRD các mẫu sét chống zirconi sau số 35
lần rửa ở nhiệt độ phòng và 1200C bằng phương pháp
ly tâm
Hình 1.15 Đường cong TG của các mẫu sét chống khi nung trên 36
5000C
Hình1.16 Mối liên hệ giữa hàm lượng ZrO2 trong sét chống và 37
công suất trao đổi ion dư
Hình 2.1 Cơ chế quá trình isome hóa n-parafin thành isoparafin 47
Hình 2.2 Cơ chế isome hoá n-heptan có sự thay đổi bậc cacbon 48
Hình 2.3 Cơ chế isome hoá n-heptan không thay đổi bậc cacbon 48
Hình 2.4 Sơ đồ tạo thành các sản phẩm isome hoá 2-metyl hexan 49
và 3-metyl hexan
Hình 2.5 Sơ đồ tạo thành đimetyl pentan từ 2-metyl hexan 49
Hình 2.6 Sơ đồ tạo thành 3-etyl pentan từ 3-metyl hexan 50
Hình 2.7 Sơ đồ tạo thành các sản phẩm cracking từ 2-metyl 50
hexan và 3-metyl hexan
Hình 2.8 Sơ đồ tạo thành các sản phẩm cracking từ 2,4 và 2,3- 51
đimetyl pentan
Hình 2.9 Cơ chế hình thành sản phẩm cracking và sản phẩm 51
isome hóa n-heptan
Hình 2.10 Cơ chế tấn công của anken vào ion cacbeni 52
Hình 2.11 Sự phân bố nhiệt động trong pha khí của các sản phẩm 56
isome hoá theo nhiệt độ (a) isome hoá n-C5; (b) isome
hoá n-C6
Hình 2.12 Quá trình có và không quay vòng các cấu tử octan thấp 57
Hình 3.1 Sơ đồ tổng hợp Pt/ Zr-MS 59
Hình 3.2 Sự tán xạ tia X từ các mặt phẳng tinh thể 61
2-
Hình 4.1 Giản đồ nhiễu xạ tia X của ZrO2/SO4 75
Hình 4.2 Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của 3 mẫu xúc tác(a) SZ- 76
1;(b) SZ-3 và (c) SZ-8
Hình 4.3 Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của 2 mẫu xúc tác: 77
(a) SZ-1N; (b) SZ-2N.
Hình 4.4 Phổ XRD của mẫu sét ban đầu (a) và mẫu sét chống 78
2-(b)
ZrO2/SO4
Hình 4.5 Phổ XRD góc nhỏ của mẫu sét ban đầu (a) và mẫu sét 78
2-(b)
chống ZrO2/SO4
Hình 4.6 Giản đồ phân tích nhiệt vi sai TG/DTA mẫu sét chống 79
Zr(OH)4 (chưa nung).
Hình 4.7 Phổ Raman của mẫu sét đã chống ZrO2 80
Hình 4.8 Ảnh chụp SEM của mẫu sét ban đầu 81
Hình 4.9 Ảnh chụp SEM của mẫu sét chống 81
Hình 4.10 Ảnh chụp TEM của mẫu sét chống 82
Hình 4.11 Giản đồ giải hấp chương trình nhiệt độ TPD mẫu sét 82
chống
Hình 4.12 Đường đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp N2 mẫu sét chống 83
Hình 4.13 Giản đồ đường phân bố kích thước mao quản mẫu sét 84
chống
Hình 4.14 Quá trình hình thành sét chống 85
Hình 4.15 Sơ đồ thiết bị phản ứng isome hóa n- C5/C6 87
Hình 4.16 Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc độ chuyển hóa và độ 91
chọn lọc vào lượng xúc tác
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
PHẦN 1: TỔNG QUAN
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ XÚC TÁC
Đồng phân hoá là quá trình sắp xếp lại cấu trúc phân tử của các
hidrocacbon và hầu hết đều sử dụng chất xúc tác. Chất xúc tác sử dụng cho
quá trình này là loại chất xúc tác thúc đẩy phản ứng tạo các ion cacboni, nên
trước hết xúc tác phải có tính axit.
Mặt khác, phản ứng đồng phân hoá n – parafin nên thực hiện ở điều
kiện nhiệt độ thấp, điều này cũng thuân lợi cho việc phân tách sản phẩm vì
các isoparafin có nồng độ cao.
Phản ứng xúc tác có khả năng thực hiện phản ứng ở nhiệt độ thấp là các
chất xúc tác ở pha lỏng, song do có nhiều nhược điểm nên chất xúc tác loại này
dần dần được thay thế và ngày nay người ta hay dùng chất xúc tác dị thể và
chất xúc tác thường được sử dụng là chất xúc tác lưỡng chức.
1.1. XÚC TÁC ĐỒNG THỂ
Quá trình sử dụng xúc tác đồng thể là loại phản ứng mà chất xúc tác và
chất phản ứng ở cùng một pha. Các chất xúc tác đồng thể bao gồm các phân
tử đơn giản hoặc các ion như: HF, H2SO4, Mn2+..., hoặc là tổ hợp của các
phân tử như là hợp chất cơ kim, phức, các enzym...[9].
Phản ứng xúc tác đồng thể chỉ diễn ra ở pha lỏng hoặc pha khí. Cơ chế
cơ bản của phản ứng loại này là tạo các hợp chất trung gian giữa các chất
phản ứng và xúc tác dưới dạng phức ion hoặc phức phân tử. Kết thúc quá
1
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
trình phản ứng, xúc tác được hoàn nguyên và tạo ra các sản phẩm mong
muốn.
Xúc tác đồng thể được biết đến nhiều hơn cả trong phản ứng đồng phân
hóa n-parafin như: HF – SbF5, AlCl3 – HCl do chúng có chuyển hoá cao, ở
khoảng nhiệt độ hơn 900C đã hầu như chuyển hoá hoàn toàn các n-parafin.
Mặc dù tốc độ phản ứng tốt, nhưng vấn đề quan tâm chính đối với việc sử
dụng chất xúc tác loại này là ăn mòn thiết bị dữ dội và tính chọn lọc kém, cụ
thể là gây ra phản ứng cracking ở mức độ đáng kể. Việc tái sinh chất xúc tác
sau khi sử dụng là rất đắt do đó người ta phải thay thế bằng lượng chất xúc tác
mới, tạo ra một lượng chất thải lớn mà trong phạm vi công nghiệp gây ô
nhiễm môi trường.
Bởi các hạn chế nêu trên, chất xúc tác đồng thể dần được thay thế bằng
chất xúc tác rắn hay xúc tác dị thể.
1.2. XÚC TÁC DỊ THỂ [9]
Phản ứng xúc tác dị thể là phản ứng trong đó chất xúc tác và chất phản
ứng ở các pha khác nhau. Thông thường chất xúc tác ở pha rắn, còn chất phản
ứng có thể là pha lỏng hoặc pha khí.
Chất xúc tác dị thể được sử dụng trong công nghiệp có thể chỉ có một
thành phần, ví dụ như xúc tác tấm lưới sắt, lưới Pt trong phản ứng tổng hợp
NH3, xúc tác dạng hạt Ag trong phản ứng điều chế formaldehit từ methanol,
hoặc 1 loại oxit như oxit nhôm, oxit titan… Nhưng những loại xúc tác này
hiện nay trong công nghiệp rất hiếm và để tiết kiệm các kim loại quý như Pt,
Ni, Ag, Au… người ta thường cho mang lên chất mang. Chính vì thế mà xúc
tác dị thể là hỗn hợp gồm nhiều thành phần, thường xúc tác chứa 2, 3 thành
phần, nhưng cũng có loại xúc tác phức tạp chứa rất nhiều thành phần. Các
2
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
thành phần đó được chia thành từng nhóm có nhiệm vụ khác nhau: nhóm hoạt
động, nhóm phụ trợ, nhóm chất mang.
Phản ứng xúc tác dị thể có những ưu điểm nổi bật hơn so với xúc tác
đồng thể, do vậy trong công nghiệp người ta đã dần thay xúc tác axit – bazơ
bằng việc sử dụng các xúc tác rắn, bởi một số lý do sau:
- Công nghệ xúc tác dị thể có thể tiến hành liên tục, nên năng suất thiết
bị cao hơn so với phản ứng xúc tác đồng thể.
- Có thể tự động hóa được công nghệ.
- Vấn đề tách xúc tác và sản phẩm dễ dàng.
- Năng lượng hoạt hóa của phản ứng xúc tác dị thể thường nhỏ hơn
năng lượng hoạt hóa của phản ứng xúc tác đồng thể.
- Độ chọn lọc cao, lượng xúc tác ít.
- Ít gây ô nhiễm môi trường, khả năng tái sử dụng cao.
- Ít gây ăn mòn thiết bị, hệ thống công nghệ…
Tuy nhiên so với xúc tác đồng thể, phản ứng xúc tác dị thể có nhược
điểm sau:
- Hoạt tính không cao do diện tích bề mặt tiếp xúc pha bị hạn chế.
- Khó nghiên cứu vì đây là hiện tượng bề mặt diễn ra khá phức tạp ở
mức độ phân tử.
1.3. CLAY (ĐẤT SÉT)
1.3.1. Giới thiệu về clay [50]
Clay là một loại khoáng của đất sét tự nhiên hoặc bentonite tổng hợp
bao gồm những nhóm nhôm, magiê, các ion silic ngậm nước mà có thể chứa
Na+, Ca2+, K+ và những ion khác. Clay được hiểu rộng ra là các loại khoáng
(kích thước < 2 µ) cấu thành phần keo của đất, trầm tích, đá và nước [88] và
có thể gồm hỗn hợp của các hạt clay khoáng mịn và các loại clay khoáng khác
3
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
có kích thước tinh thể như thạch anh, cacbonat, và oxit kim loại. Thông
thường thuật ngữ clay được sử dụng cho các nguyên liệu mà trở thành plastic
khi trộn với một lượng nước. Các nhóm khoáng clay chính bao gồm: cao
lanh, smectit, illit, chlorit và hormit.
Clay cũng là một loại vật liệu có khả năng thay đổi rất lớn về tính chất
cũng như công dụng, sự thay đổi đó ít hay nhiều là phụ thuộc vào thành phần
và các yếu tố khác: thành phần khoáng clay, thành phần phi khoáng clay, sự
hiện diện của các thành phần hữu cơ, loại và lượng các ion trao đổi, muối hòa
tan và kết cấu của chúng.
Clay đóng vai trò quan trọng trong môi trường như một người quét dọn
xử lý các cặn thải tự nhiên gây ô nhiễm do chúng hút các cation và anion khác
lên qua sự trao đổi ion hay hấp thụ hoặc cả hai. Do đó, clay lúc nào cũng có
+, Na+ và
các cation và anion có khả năng trao đổi được sắp xếp trên bề mặt. Các cation
2-, Cl-, PO4
3-, NO3
-. Những ion này trao đổi với các ion khác tương đối dễ
và anion thường thấy trên bề mặt clay là Ca2+, Mg2+, H+, K+, NH4
SO4
dàng mà không ảnh hưởng tới cấu trúc của sét khoáng.
Diện tích bề mặt riêng lớn, có độ bền hóa học và cơ học, có cấu trúc
lớp, năng suất trao đổi cation cao (cation exchange capacity – CEC)… đã
khiến cho clay trở thành nguyên liệu hấp phụ vượt trội. Trong clays tồn tại cả
tâm axit Bronsted và Lewis [49] làm cho khả năng hấp phụ của sét khoáng
tăng lên một phạm vi lớn hơn (khoảng 5 lần). Tâm axit Bronsted xuất hiện do
ion H+ trên bề mặt hình thành bởi sự phân ly của các phân tử nước của các
cation kim loại có thể trao đổi hydroxit trên bề mặt.
[M(H2O)x]n+ → [M(OH) (H2O)x-1](n-1)+ + H+
Các tâm axit Bronsted này cũng có thể phát sinh nếu có một điện tích
âm thực trên bề mặt do sự thay thể Si4+ bằng Al3+ vài vị trí của tứ diện và sự
kết quả của việc thay đổi đó được cân bằng bởi cation H3O+. Độ bền nhóm có
4
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
tính axit Bronsted này phụ thuộc vào thành phần của khoáng sét. Tâm axit
Lewis phát sinh từ việc lộ ra của các cation hóa trị ba, điển hình là Al3+ ở các
+ xuất hiện do sự đứt các liên kết Si – O – Al, hoặc thông qua
đỉnh hoặc Al3
việc dehydroxyl hóa của một vài vị trí tâm axit Bronsted.
Các cạnh và các mặt của hạt sét có thể hấp phụ các anion, cation, không
ion và các tạp chất có cực từ nước tự nhiên. Các tạp chất tích lũy trên bề mặt
sét chính là để giữ cố định chúng thông qua việc trao đổi ion, phối trí hoặc
tương tác ion lưỡng cực. Đôi khi các chất ô nhiễm được giữ thông qua liên kết
với hydro (H-), lực Van der Waals hoặc các liên kết kỵ nước xuất hiện từ các
tương tác mạnh yếu khác nhau. Độ mạnh yếu của tương tác được xác định bởi
các cấu trúc và các đặc điểm khác của sét khoáng. Van Olphen [35] đã trích
dẫn ra một vài dạng tâm hoạt động trong clays:
- Tâm axit Bronsted hay chất nhường proton được tạo bởi sự tương tác
của các phân tử nước bị hấp phụ.
- Tâm axit Lewis hay chất nhận electron xuất hiện do sự dehydro hóa.
- Tâm oxi hóa do sự hiện diện của vài cation (ví dụ như Fe3+) trong các
vị trí bát diện hoặc do sự hấp phụ oxi lên bề mặt.
Tâm khử được tạo ra do vài cation (ví dụ như Fe2+).
Các nhóm hydroxyl bề mặt, phần lớn được tìm thấy ở các đỉnh, giáp
với Si, Al hoặc cation bát diện khác.
1.3.2. Phân loại clay [95]
Dựa trên dạng cấu trúc, clays được phân thành 4 loại chính. Đó là vô
định hình, kết tinh, loại hỗn hợp nhiều lớp và loại cấu trúc chuỗi.
- Vô định hình: Nhóm Allophane (Al2O3. SiO2. nH2O).
- Kết tinh: phân chia theo cấu trúc lớp ta được loại hai lớp và loại ba
lớp.
5
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
+ Loại hai lớp: (một lớp tứ diện silic và một lớp bát diện nhôm):
• Đẳng hướng (equidimensional): Cao lanh (Al2O3.2SiO2.2H2O),
dickite (Al2Si2O5(OH)2), nacrite, kaolinite.
• Hình thon dài (elongate): halloysite (Al2Si2O5(OH)2.2H2O).
+ Loại ba lớp (hai lớp tứ diện silica và một lớp bát diện đôi hay ba ở
giữa): có 2 loại chính: Loại trương được (thuộc nhóm smectite bao gồm: loại
đẳng hướng (montmorillonite, sauconite, vermiculite) và hình thon dài
(nontronite, hectorite)). Loại không trương được như: nhóm illite.
- Loại hỗn hợp nhiều lớp (sự sắp xếp xen kẽ của các lớp khác nhau):
chúng ta có nhóm chlorite.
- Loại cấu trúc chuỗi: chuỗi silica tứ diện liên kết với nhau bởi những
nhóm bát diện của oxy và hydroxyl chứa Al3+ và Mg2+: chúng ta có nhóm
hormite những polygoskite, epolite.
1.3.3. Cấu trúc clay [95]
Sét là loại vật liệu cấu trúc lớp được tạo ra bằng cách xếp chồng lên
nhau các đơn vị cấu trúc hai chiều. Các lớp này liên kết với nhau bằng các lực
không mạnh. Các mặt mạng hai chiều này được tạo thành do sự phối trí của
nguyên tử oxi với các cation như Si4+, Al3+, Mg2+, Fe3+… Sự phối trí của các
cation trong các mạng cận kề nhau tuân theo quy luật: Mạng tứ diện
(tetrahedral) và mạng bát diện (octahedral) được xếp xen kẽ nhau. Sự sắp xếp
tuần tự, lặp lại của các mạng (tứ diện – bát diện hoặc tứ diện – bát diện – tứ
diện) tạo ra một lớp cấu trúc của sét.
4-, do
Cấu trúc tứ diện (tetrahedral) gồm các vòng sáu cạnh và vòng ba cạnh
đôi (ditrigona) của các oxi. Cấu trúc tứ diện thường là cấu trúc của SiO4
thành phần chính của các loại khoáng là SiO2 nên ta có tỉ lệ bán kính giữa hai
6
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
ion O2- và ion Si4+ là 0,3, điều này có nghĩa là ion Si4+ đi vào lỗ trống tứ diện
mà các nút mạng cơ sở là các ion O2- như hình 1.1.
4- ta thấy: với số phối trí 4, tức là diện tích của
4- Hình 1.1: Cấu trúc tứ diệncủa SiO4
Nhìn vào cấu trúc SiO4
ion silicate chia đều cho 4 ion phối tử. Như vậy, mỗi ion O2- sẽ dư ra một điện
tích âm, để cân bằng điện tích, mỗi phối tử phải liên kết với hai cation trung
tâm (Si4+) và số phối trí của Si4+ lúc này chỉ là 4 × 1/2 = 2 phối tử, ta thấy điện
tích được cân bằng.
Hình 1.2: Mô tả cấu trúc lớp tứ diện
Về mặt lý thuyết, ta có hai cách để làm cân bằng điện tích trong ô mạng
cơ sở trên: một là cấu tạo cầu đơn, hai là tạo cầu đôi oxi giữa hai tứ diện. Do
silic có điện tích lớn, nếu hình thành cầu đôi, hai ion silicon ở gần nhau sẽ
tương tác điện mạnh với nhau, chính vì thế các tứ diện nối với nhau bằng cầu
đơn O, hình thành cấu trúc lớp. Các oxi tạo cầu đơn nằm trên cùng một mặt
7
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
phẳng gọi là oxi đáy. Việc tạo cầu đơn trong không gian được thực hiện sao
cho các oxi đáy tạo thành hình lục giác với các đỉnh là O2-.
Cấu trúc thứ hai là cấu trúc bát diện (octahedral), ion trung tâm
thường là Al3+, Fe2+, Mg2+… Ở đây ta xét đại diện Al3+, tỉ lệ bán kính với
anion O2- là 0,41. Với tỉ lệ này Al3+ nằm giữa hai lỗ trống tứ diện và bát
diện, tùy theo số phối trí là bốn hoặc là sáu. Nhưng trong clay thì số phối trí
bền của Al3+ là sáu.
Hình 1.3: Cấu trúc bát diện
Với số phối trí là sáu, cấu trúc đơn vị không thể cân bằng điện tích.
Mỗi ion phối tử sẽ dư ra 1,5 điện tích âm và có sự hình thành cầu đơn hoặc
cầu đôi. Khác với trường hợp của silic ở trên, nếu hình thành cầu đôi, hai
cation Al3+ có điện tích không đủ lớn nên tương tác tĩnh điện giữa chúng vẫn
chưa đủ để làm cho cả hệ thống không bền vững.
Hình 1.4: Mô tả cấu trúc cầu đôi giữa hai bát diện
8
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Như vậy sau khi hình thành cầu đôi, điện tích dư mỗi ion phối tử chỉ
còn là -1, điện tích âm này sẽ được làm bền bởi các proton H+, cấu trúc đơn vị
của bát diện được cân bằng điện tích.
Trong cấu trúc bát diện này, Al3+ chỉ mới chiếm hai phần ba lỗ trống
bát diện với khuynh hướng đặc khít, các cation hóa trị 2 như Mg2+ có khả
năng lấp đầy các lỗ trống bát diện. Nếu lớp bát diện chứa ion hóa trị hai tại tất
cả các vị trí thì được gọi là trioctahedral. Cấu trúc bát diện là dioctahedral khi
hai phần ba các lỗ trống được chiếm bởi các cation hóa trị ba.
Hình 1.5: Lớp bát diện trioctahedral và dioctahedral
Tùy theo cách sắp xếp hai cấu trúc trên mà ta có các loại clay khác
nhau, trong đó Smetite là một phân nhóm của silicat rất được chú ý vì tính
trương nở của nó. Vật liệu này có cấu trúc lớp 2:1, nghĩa là: 2 mạng tứ diện
liên kết với một mạng bát diện ở giữa. Một oxi ở của bát diện nằm ở tâm ở
mỗi vòng sáu cạnh trong mạng tứ diện và được proton hóa thành hydroxyl.
Do sự thay thế đồng hình của các cation trong mạng (ví dụ Al3+ thay
thế cho Si4+ trong mạng tứ diện, Mg2+ thay thế cho Al3+ trong mạng bát diện)
mà bề mặt của lớp thường mang điện tích âm và được bù trừ bởi các cation
như: Na+, Ca2+, K+… nằm ở giữa các lớp. Các cation này thường bị hydrat
hóa và tạo ra tính phân cực (ưu nước, hydrophilic) của silicat lớp.
9
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
1.3.4. Biến tính clay [50]
Có thể nói khoáng sét Montmorillonite được biết đến và ứng dụng
nhiều nhất trong nhóm silicat lớp vì có những tính chất ưu việt sau đây:
- Kích thước hạt sét nằm trong khoảng phân tán cao
- Bề mặt riêng khá lớn
- Tồn tại cả tâm axit Lewis và Bronted.
- Năng suất trao đổi ion lớn.
- Có các nhóm hydroxyl ở các gờ cạnh trong cấu trúc lớp và các bề mặt
của chúng.
Hai tính chất năng suất trao đổi ion lớn và có các nhóm hydroxyl ở bề
mặt và ở các gờ của lớp làm cho vật liệu khoáng sét trở lên ưu nước. Điều
này, nghĩa là để khoáng sét trở lên ưu dầu thay cho ưu nước ta phải làm thay
đổi khả năng phân tán và tính chất tương tác của chúng trong môi trường
không phân cực hoặc phân cực yếu.
Hiện nay, các nhà khoa học đã nỗ lực rất nhiều trong việc cải thiện chất
lượng và đặc tính của đất sét bằng việc biến tính chúng với các công nghệ
khác nhau, có hai công nghệ phổ biến nhất trong vấn đề này, thứ nhất là sự
xen vào và chống đỡ, thứ hai là hoạt hóa axit.
1.3.4.1. Sự xen vào và sự chống đỡ
Sự xen vào là chèn một loại chất trong lớp giữa của sét khoáng song
vẫn bảo toàn cấu trúc ([23], [28]). Nguyên liệu thu được gọi là đất sét biến
tính. Đo XRD chỉ ra rằng biến tính làm tăng khoảng cách giữa các lớp liền kề.
Sự chống của sét khoáng được biết tới bởi rất nhiều chất, hợp chất vô
cơ cũng như hữu cơ [76]. Trong sét chống, chiều dày của hai lớp silic khoảng
1nm nay được tách ra bởi các oxit ceramic với khoảng cách từ nanomet cho
tới những kích thước nhỏ hơn nanomet [36]. Quá trình chống thường được
biết đến như một cách tăng khả năng tiếp cận của các lớp đất sét nhưng có
10
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
quan điểm đan xen lại cho rằng những hạt oxit ổn định làm giãn khoảng cách
giữa các lớp sét ra vài nanomet lại ngăn ngừa việc kết lại của các lớp nhờ lực
tương tác. Các nhóm bề mặt tiếp xúc nhờ những oxit siêu phân tán này có thể
đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự triển vọng về tính chất xúc tác
Sự chống sét
và hấp phụ của các sét chống.
Hình 1.6: Mô hình đơn giản của sét chưa chống và đã chống
Sét chống với các oxit kim loại là rất quan trọng bởi vì chúng có độ bền
nhiệt cao, diện tích bề mặt lớn và bản chất hoạt tính xúc tác cao. Những
nguyên liệu này thường được chuẩn bị bằng cách trao đổi ion của các cation
trong khu vực lớp giữa của đất sét trương nở với các ion alkylammonium, các
ion phức đa nhân mang các phối tử vô cơ (phối tử hydroxo, phối tử chloro),
các ion phức kim loại lớn mang các phối tử vô cơ… Các dạng xen vào có khả
năng ngăn ngừa sự sụp đổ của các không gian lớp giữa, chống đỡ mở các lớp
như các cột, và tạo thành không gian lớp giữa. Ở nhiệt độ cao, các dạng chất
vô cơ xen vào được chuyển hóa từ các cụm oxit kim loại, tạo ra cấu trúc vi
mao quản ổn định với diện tích bề mặt lớn.
Burch và Warburton [72] đã giới thiệu dạng tetra - Zr từ dung dịch
zirconi clorit tinh khiết vào trong montmorillonite. Bên cạnh đó, Ohtsuke et al
11
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
[48] đã chỉ ra rằng các loại zirconi tồn tại một số dạng ion đa nhân trong dung
dịch zirconi oxyclorit và việc chống sét có thể cho 3 dạng đất sét vi mao quản
với không gian lớp giữa lần lượt là 7 A0, 12 A0 và 14 A0. Các dạng chính
trong các dung dịch zirconi oxyclorit ở nhiệt độ phòng đã được chỉ ra như
zirconi tetra, [Zr4(OH)8+x(H2O)16-x](8-x)+, làm cho hợp chất xen vào trong
không gian lớp giữa của sét tạo khoảng cách chống là 7 A0. Sau sự polime
hóa hydrolytic của zirconi tetra trong dung dịch, các dạng zirconi polyme nào
tốt thường được có thể cung cấp các hợp chất xen vào với không gian lớp
giữa đất sét tạo khoảng cách chống là 12 A0 và 14 A0. Hai loại polyme tạo
thành các lớp giữa với khoảng không gian lớp giữa là 12 A0 và 14 A0 gồm ba
cụm kích thước polyme cơ bản dựa trên tetra. Pereira at al. [68] đã sử dụng
zirconi chống montmorillonite bằng cách tương tự. Khác hơn Zr4+, các
polycation như là Al3+, Si4+, Ti4+, Fe3+, Cr3+ hoặc Ga3+… cũng đã được sử
dụng như chất chống vô cơ ([10], [22], [36], [42], [44], [55]). Việc chống
montmorillonite với các cation ammonium bậc 4 của dạng [(CH3)3NR]+ hoặc
[(CH3)3NR2]+, là các cation TMA (tetraethylammonium), TMP
(tetramethylphosphonium) và TMPA (trimethyl - phenylammonium) cũng đã
được báo cáo ([41], [56]). Trong thời gian gần đây, việc sử dụng N, N’-
didodecyl -N, N’-tetramethylethanediammonium (DEDMA) chống
montmorillonite đã được đưa ra [27].
Sét đã chống được phân biệt so với sét xen kẽ thông thường ở chỗ các
mao quản của sét chồng có cấu trúc nội tinh thể, tạo điều kiện cho quá trình
phân tách ngang của các phân tử ngoại lai xen vào giữa các lớp sét. Trong
thực tế, sự xen vào sét sau khi chịu sự nung nóng ở nhiệt độ cao vừa phải
(như 7730C) để chuyển đổi các polycation thành các hạt oxit kim loại liên kết
chéo với lá sét mỏng, do đó ngăn ngừa sự sụp đổ của các không gian lớp giữa
và tạo ra cấu trúc xốp ổn định [10].
12
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
1.3.4.2. Hoạt hóa axit
Việc xử lý sét khoáng với các axit vô cơ có nồng độ khá cao và thường
ở nhiệt độ cao được biết đến là sự hoạt hóa axit. Việc xử lý axit của sét
khoáng là sự điều chỉnh quan trọng lên việc hình thành và phong hóa khoáng
sản ([21], [58]). Việc xử lý đó thường có thể thay thế các cation có khả năng
trao đổi với các ion H+, Al3+ và các cation khác thoát ra khỏi cả các vị trí ở tứ
diện và bát diện, để lại phần lớn nhóm SiO4 nguyên vẹn [16]. Quá trình này
thường làm tăng diện tích bề mặt và tính axit của khoáng sét [38], cùng với sự
loại bỏ một vài tạp chất khoáng và sự hòa tan không hoàn toàn của các lớp
ngoài. Sự thay đổi diện tích bề mặt và cấu trúc của đất sét do hoạt hóa axit
phụ thuộc vào đặc điểm của sét khoáng, phụ thuộc toàn bộ thành phần hóa
học của các loại sét khoáng, dạng của các cation giữa các lớp, các dạng axit,
nhiệt độ quá trình, thời gian quá trình, và với các yếu tố môi trường khác [54].
Sự giảm mật độ lớp bát diện của montmorillonite được đưa ra là dẫn
đến các mức độ phân hủy khác nhau của cấu trúc phụ thuộc vào độ bền riêng
của sét khoáng ban đầu đối với sự tấn công ăn mòn của axit [13]. Với sự ăn
mòn của axit, cấu trúc tinh thể của kaolinit được biến đổi thành cấu trúc meta
- cao lanh vô định hình và bát diện các ion Al3+ được ưu tiên giải phóng tách
ra từ cấu trúc đất sét hình thành thêm liên kết Al – OH và Si – OH, không làm
thay đổi cấu trúc khoáng nguyên bản [32]. Sự hoạt hóa axit theo cách xử lý
nhiệt độ cũng đã được chứng minh là làm tăng khả năng hấp phụ của đất sét ở
mức độ tốt hơn. Do sự biến đổi phức tạp của sét khoáng trong môi trường
axit, tính chất bề mặt của chúng cũng bị thay đổi [31]. Christidis et al. [33] đã
chỉ ra rằng việc xử lý bentonite với axit hydrochloric dẫn đến việc tăng diện
tích bề mặt của các sét thô lên gấp năm lần. Việc tăng diện tích bề mặt này có
thể do sự phân tán mỏng các oxit silicon từ sự phân hủy các cấu trúc khoáng,
sự tách ra của các cấu tử Al và Si vô định hình, bịt kín bề mặt các lỗ xốp hoặc
13
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
các không gian phân lớp, sự hình thành các vết nứt và lỗ trống trong bề mặt.
Sau sự tấn công của axit, một số nhóm chức bề mặt có tính axit yếu giảm trong
khi đó số lượng nhóm chức có đặc tính axit mạnh được chỉ ra là tăng lên.
1.3.4.3. Một số cấu trúc của clay hữu cơ ([95], [3])
Hiện nay, vật liệu sét hữu cơ (oganoclays) đang thu hút sự chú ý của
nhiều nhà khoa học và công nghệ ở nước ta và trên thế giới. Vật liệu này được
điều chế từ các nguồn khoáng sét vô cơ và các tác nhân hữu cơ, nên cũng
thường được gọi tên là vật liệu lai hữu cơ - vô cơ (inorganic- organic hybrid
materials). Đặc điểm nổi bật của sét hữu cơ là khả năng kết hợp các tác nhân
vô cơ và hữu cơ ở mức độ nanomet, do đó người ta có thể tạo ra những dạng
vạt liệu mà có những tính chất rất đặc biệt mà bản thân các vật liệu thuần vô
cơ hoặc thuần hữu cơ không thể có được.
a. Điều chế sét hữu cơ bằng cách chèn ghép (interclation) các tác nhân hữu
cơ vào khoảng giữa các lớp cấu trúc bằng trao đổi ion.
Sự thay thế của cation vô cơ bằng cation hữu cơ trên bề mặt giữa các
lớp của các clay như smectite hay montmorillonite sẽ làm giãn rộng khoảng
cách giữa các lớp. Tùy thuộc vào mật độ điện tích của clay và chất hoạt tính
bề mặt cation mà sự sắp xếp của chúng là khác nhau. Nhìn chung, chiều dài
của chất hoạt tính bề mặt dài hơn và mật độ điện tích của clay cao hơn thì
những lớp clay sẽ bị ép lại. Điều này làm tăng thể tích bị chiếm bởi những
chất hoạt tính bề mặt. Mật độ điện tích của clay khác nhau thì sự định hướng
của các ion onium cũng khác nhau: monolayer, bilayer, pseudo-trilayer, hoặc
cấu trúc parafin nằm nghiêng.
14
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Hình 1.7: Các cấu trúc của dạng clay hữu cơ khác nhau.
Sét hữu cơ thường được điều chế bằng cách biến tính sét với các chất
hoạt động bề mặt (HĐBM) cation nhờ phản ứng trao đổi ion. Việc đó được
thực hiện bằng cách thay thế các cation vô cơ như: Na+, K+ và Ca2+ bên trong
lớp cấu trúc của sét với các cation, amoni bậc 4 như
hexadecyltrlmethylammonium bromide, hexadecylpyndine bromide và 2-
mercapto benzimidazole. Phản ứng trao đối cation được thực hiện một cách
thông thường, ví dụ như trộn một hệ phân tán sét với các dung dịch các chất
HĐBM như muối alkyl amoni hữu cơ (organo alkyl ammonium salts)
Sét hữu cơ được sử dụng để loại bỏ các chất độc gây ô nhiễm môi
trường và để giảm sự phát tán các chất ô nhiễm trong đất, nước và không khí.
Tuy nhiên vì các cation hữu cơ liên kết yếu với các vật liệu sét thông qua lực
tĩnh điện, nên chúng có thể dễ dàng bị tách ra trong môi trường nước, dẫn đến
sự ô nhiễm thứ cấp.
Nhược điểm đó có thể được khắc phục bằng cách tạo ra các liên kết
đồng hóa trị hoặc ion- đồng hóa trị (covalent or ion-covalent linkage)
15
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
b. Điều chế đất sét bằng cách nối ghép (cấy ghép, grafting) các tác nhân hữu
cơ.
Trong phương pháp này, các tác nhân hữu cơ được liên kết với các
nhóm OH bề mặt của sét bằng các liên kết mạnh đồng hóa trị hoặc ion - đồng
hóa trị. Nhờ đó, ngăn ngừa được sự tách thoát (leaching) của các tác nhân hữu
cơ khi vật liệu sét hữu cơ được sử dụng trong môi trường nước.
Như vậy, vật liệu sét hữu cơ điều chế theo phương pháp này sẽ có các
tính chất nổi trội hơn (dung lượng hấp phụ cao, lực liên kết mạnh và độ chọn
lọc cao) so với sét không biến tính hoặc biến hoặc biến tính bằng cách trao
đổi ion trong hấp phụ xử lý các kim loại nặng.
Liên kết đồng hóa trị có thể được tạo ra bằng phản ứng giữa các nhóm
hydroxyl bề mặt (OH)bm và các phân tử hữu cơ thích hợp. Các tác nhân hữu
cơ này có nhiệm vụ làm cho vật liệu sét hữu cơ trở nên bền cấu trúc, bền nhiệt
và hoạt động hóa học hơn .
Chức năng hóa bằng cách nối ghép lên bề mặt hoặc trên các cạnh tinh
thể của vật liệu sét lớp tạo ra vật liệu lai hợp hữu cơ - vô cơ với các tính chất
kết hợp giữa độ bền cơ học của mạng cấu trúc vô cơ và tính chất phản ứng và
chọn lọc cao của các nhóm chức hữu cơ.
Các tác nhân silane rất thích hợp để điều chế các vật liệu lai hợp vô cơ -
hữu cơ. Nhằm cải thiện các tính chất kết dính, thấm ướt và lưu biến của vật
liệu sét vô cơ. Mặc dù sét lai hợp có những ưu điểm nói trên, nhưng kỹ thuật
nối ghép đồng hóa trị vẫn chưa được áp dụng nhiều cho vật hệ silicat lớp so
với kỹ thuật trao đổi ion. Điều đó có thể là do lượng nhóm chức OH trên các
gờ. cạnh hạt sét ít hơn rất nhiều so với nhóm OH trên bề mặt vật liệu. Do đó,
việc chức năng hóa nốt ghép liên kết đồng hóa trị của silicat lớp vẫn chưa đạt
hiệu quả mong muốn vì lượng nhóm OH dễ tiếp cận không lớn, hoặc vì năng
16
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
lượng liên kết giữa các lớp vẫn khá mạnh, cản trở sự thâm nhập của các tác
nhân hữu cơ vào khu vực giữa các lớp.
c. Điều chế sét hữu cơ bằng nối ghép đồng hóa trị với các nhóm aminopropyl.
Khoáng sét vô cơ có thể nối ghép với các nhóm aminopropyl bằng phản
ứng giữa các nhóm silanol (OH) bề mặt và 3- aminopropyl tri-ethoxysilane.
Vì các tác nhân alkylamine có tính chất axit - bazơ, do đó có thể tạo ra các
điện tích dương trên bề mặt của vật liệu sét biến tính bằng cách proton hóa
các nhóm hữu cơ bề mặt. Kết quả này mở ra một lĩnh ứng dụng mới. Vì các
vật liệu sét hữu cơ như thế có khả năng trao đổi anion.
Việc điều chế sét hữu cơ với các nhóm aminopropyl đã làm giảm đáng
kể bề mặt riêng và thể tích mao quản của vật liệu sét, nhưng kích thước trung
bình các mao quản hầu như không thay đổi. Điều đó chứng tỏ rằng, phản ứng
ghép nối chỉ xảy ra ở bề mặt ngoài và trên các cạnh của các phiến sét mỏng,
mà không xảy ra ở giữa các lớp cấu trúc của sét.
Độ bền hóa học của các sét hữu cơ nói chung là không cao trong môi
trường nước và do đó, dẫn tới sự tách thoát các tác nhân hữu cơ khi pH tăng.
Đó là do sự phá vỡ tự xúc tác của các liên kết Si- O - Si. Để ngăn ngừa hiện
tượng đó, khi proton hóa chỉ nên dùng môi trường axit loãng (HCl 0,005M).
Nếu dùng nồng độ cao hơn các tâm Al có thể bị thủy phân làm giảm độ bền
cấu trúc của vật liệu.
Ngoài ra gần đây, người ta sử dung kỹ thuật plasma khô (dry plasma)
để cải thiện chất bề mặt của vật liệu khoáng sét. Các vật liệu khoáng sét có
nhiều đặc điểm về cấu trúc và lớp bề mặt khác nhau đã được xử lý bởi plasma
acetylene lạnh. Kết quả nhận được chúng tỏ rằng:
- Mạng SiO4 bị biến đổi.
- Các nhóm hydrocacbon được nối ghép vào bề mặt vật liệu. Lớp phủ
bề mặt chủ yếu là các nhóm CH2 và CH3 nằm ở bề mặt ngoài của các hạt sét.
17
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
d. Điều chế sét hữu cơ bằng kỹ thuật một giai đoạn (tổng hợp trực tiếp)
Người ta có thể điều chế sét hữu cơ bằng cách tổng hợp trực tiếp các
silicat lớp 2:l với sự có mặt của các cấu tử hữu cơ. Trong quá trình hình thành
vật liệu lớp, các oxit silic trong mạng tứ diện liên kết đồng hóa trị với các
Bằng phương pháp này, người ta đã chế tạo được nhiều sét hữu cơ-
silicat chứa nhiều nhóm chức hữu cơ, với các kim loại khác nhau Mg, Cu, Al,
Ni… Trong các vật liệu này, các nhóm hữu cơ có mặt trong không gian giữa
các lớp và ở bề mặt ngoài của khoáng sét.
1.4. MONTMORILLONITE (SÉT TRẮNG)
Nanoclay [95] còn gọi là nano sét khoáng được cấu tạo từ các lớp
mỏng, mỗi lớp có chiều dày từ một đến vài nanomet, chiều dài từ vài trăm đến
vài nghìn nanomet. Montmorillonite là loại nanoclay đầu tiên được tìm thấy
trên thế giới ở Montmorillon, Pháp năm 1874. Nó thuộc nhóm smectit, cùng
với các loại khoáng khác như cao lanh, palygorskit, sepiolit… là những loại
khoáng quan trọng trong công nghiệp. Khoáng smectite thường được gọi bằng
cái tên betonite, đây là tên một loại sét chứa chủ yếu các loại khoáng này.
Smectite là họ các khoáng trong đó bao gồm hai loại quan trọng nhất là:
* Natri montmorillonite.
* Canxi montmorillonite.
1.4.1. Cấu trúc [50]
Cấu trúc của montmorillonite được đưa ra bởi Marshall [15].
Montmorillonite gồm các đơn vị được tạo thành bởi 2 tấm tứ diện silic và 1
tấm bát diện trung tâm là nhôm. Tấm tứ diện và bát diện nối với nhau theo
cách các đỉnh của tứ diện của tấm silica và một trong các lớp hydroxyl của
tấm bát diện tạo thành một lớp chung (hình 1.8). Các nguyên tử của lớp này
18
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
sẽ chung cho cả hai tấm, trở thành oxy thay thế cho hydroxyl. Do đó nó được
đề cập đến như là một loại khoáng sét có ba lớp với các lớp T–O–T làm nên
a
b
c
cấu trúc đơn vị.
Hình 1.8: Cấu trúc montmorillonite
Các đơn vị Si – Al – Si được xếp liên tục theo hướng tinh thể (a) và (b)
và được xếp chồng một đơn vị lên một đơn vị khác theo hướng tinh thể (c).
Trong việc xếp chồng lên nhau của các đơn vị này, các lớp oxy của mỗi đơn
vị được đặt sát với oxy của các đơn vị liền kề. Đó là nguyên nhân gây ra một
liên kết rất yếu và rất dễ tách ra giữa các đơn vị. Tính năng nổi bật của cấu
trúc clay này là: nước và các phân tử có cực có thể xen vào giữa làm cho
mạng lưới mở rộng ra theo hướng (c). Do đó, kích thước trục ‘c’ trong các
loại montmorillonite có giá trị nhỏ nhất là từ 9,6 A0 khi không có nguyên tử
phân cực xen giữa các lớp đơn vị và các lớp ở trên. Không gian trục ‘c’ (độ
dày của mỗi lớp nanoclay) cũng thay đổi tùy thuộc vào các cation có mặt xen
giữa các lớp silic. Khoảng cách cơ sở (khoảng cách cơ bản) giữa hai lớp
nanoclay chính bằng tổng độ dài của chiều dày một lớp nanoclay với khoảng
19
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
cách giữa hai lớp nanoclay (gọi tắt là khoảng cách d). Độ dày tinh thể từ 300
A0 đến vài µm hoặc lớn hơn, tùy thuộc loại silicate.
Hình 1.9: Montmorillonite
Công thức của montmorillonite là: (Si7,8Al0,2)IV(Al3,4Mg0,6)VIO20(OH)4
và thành phần lý thuyết nguyên liệu là: SiO2 - 66,7%, Al2O3 - 28,3%, H2O -
5% về khối lượng. Công thức trên cho thấy rằng, ở đây có sự thay thế Si4+
bằng Al3+ trong lớp tứ diện và Al3+ bằng Mg2+ trong lớp bát diện. Do đó điện
tích lớp mạng montmorillonite là:
[7,8 (+4)] + [0,2 (+3)] + [3,4 (+3)] + [0,6 (+2)] + [20 (-2)] + [4 (-1)] = - 0,8
điện tích/đơn vị lớp.
Kết quả điện tích âm được trung hòa bởi các cation có khả năng trao
đổi hấp phụ giữa các lớp đơn vị và xung quanh các cạnh của chúng.
Montmorillonite là một loại sét khoáng với sự thay thế các chất đồng
hình. Các cation có khả năng trao đổi chất trong lớp 2:1 có điện tích âm cân
bằng được sinh ra bởi sự thay thế đồng hình. Các lực hấp thụ của các cation
trao đổi là nhanh và các cation như Na+ và Ca2+ tạo thành các phức khối cầu ở
20
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
phía ngoài bề mặt mà rất dễ trao đổi với các ion tan bởi cấu tạo các cation
trong dung dịch hay thay đổi. Thêm vào việc trao đổi cation còn có sự thay
đổi pH phụ thuộc vào sự hấp thụ của các kim loại trên montmorillonie. Quá
trình hấp phụ, các ion hấp thụ là liên kết với bề mặt đất sét bằng cách chia sẻ
một hoặc một vài phối tử (thường là oxy) với các cation hấp thụ như các phức
tách ra. Cùng với sự tăng pH hay nồng độ các cation hấp phụ, kết tủa kim loại
có thể xảy ra [73]. Trong cấu trúc montmorillonite, sự trương lớp giữa xảy ra
khi nó tiếp xúc với nước. Cách thức trương nở phụ thuộc vào hóa trị và bán
kính nguyên tử của các cation trao đổi. Các nguyên tử Al và Si phơi ra ở các
đỉnh tinh thể là một phần thủy phân từ các nhóm silanol (SiOH) và aluminol
(AlOH). Các vị trí đỉnh chưa bão hòa này được phản ứng nhiều hơn nhiều so
với các đỉnh cơ bản bão hòa [14]. Trong montmoriilonite, sự hấp phụ có thể
xảy ra giữa các vị trí đỉnh mà dẫn tới tạo thành các phức cầu kim loại bên
trong, và ở các vị trí bên trong mặt phẳng cuả khoáng sét mà kết quả là phức
cầu kim loại bên ngoài.
1.4.2. Các thông số vật lý [96]
Loại sét được sử dụng trong nghiên cứu của mình là sét của Đức có các
thông số vật lý cơ bản như sau:
- Khối lượng phân tử (g/ mol): 540,46 (g/mol).
- Tỷ trọng trung bình (g/cm3): 2,35
- Hệ tinh thể Monoclinic.
- Diện tích bề mặt (m2/g): 61,9 ± 3.1 [86]
- Diện tích bề mặt BET (m2/g): 35,1 [70]
- Thể tích lỗ xốp (cm3/g): 0,12 ± 0,006 [86]
- Độ cứng Mohs ở 200C: 1,5 – 2,0
- Màu sắc trắng, vàng.
21
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
- Đặc tính: tinh thể trương lên nhiều lần khi hấp thụ nước.
- Khả năng trao đổi cation (CEC): 110 (meq/ 100g)
- Chiều dài hạt: 100 – 150 (nm)
- Công thức hóa học: Mx(Al4-xMgx)Si8O20(OH)4 với x là mức thay thế
đồng hình từ 0,5 – 1,3.
- Theo số liệu của nhà sản xuất thì thành phần về khối lượng các
nguyên tố hóa học của montmorillonite có:
Al = 9,98% ; Si = 20,78% ; H = 4,10% ; O = 65,12%
1.4.3. Tính chất đặc trưng của montmorillonite [95]
- Khả năng chịu bức xạ hạt nhân: Khi chiếu xạ trung tâm hoạt động A
(Si-O) và B (Al – O – Al) xuất hiện ở khoáng montmorillonite thấp hơn ở các
khoáng sét khác. Sự xuất hiện các tâm hoạt động làm khoáng có bề mặt riêng
tăng và thay đổi tính tan. Montmorillonite có cấu trúc 2:1 có ít sự thay đổivà
chịu bức xạ hạt nhân tốt hơn khoáng kaoline có cấu trúc 1:1. Sự phá hủy
montmorillonite khi bị chiếu xạ với bức xạ liều cao chủ yếu do việc mất đi
các ion Si4+ hơn Al3+.
- Kích thước hạt: kích thước hạt của đất sét phụ thuộc vào điều kiện
sấy, được xác định bằng phương pháp BET thông qua hấp thụ khí N2 hoặc tán
xạ laser trong môi trường chân không. Kích thước hạt quyết định diện tích bề
mặt riêng của đất sét, quan trọng hơn là khả năng trao đổi ion.
- Đất sét vừa thể hiện tính axit Bronsted lẫn axit Lewis: Tính axit
Bronsted do các nhóm – OH ở bề mặt gây nên. Tính axit Lewis do ion Al3+
gây nên. Độ bền nhóm cho tính axit Bronsted phụ thuộc vào thành phần sét.
Chỉ số axit luôn thấp hơn giá trị CEC cho thấy dung môi không phân cực
trong các khe hở của lớp sét không là môi trường hiệu quả cho các phản ứng
axit – bazơ. Tính axit ở bề mặt giảm khi lượng nước tự do có trong sét cao.
22
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Các nhóm nhận điện tử hay gây oxy hóa cũng định khu ở bờ cấu trúc tấm tinh
thể sét. Nhóm này do ion Fe3+ trong mặt tinh thể tạo nên. Các cation kim loại
đa hóa trị như Cu2+, Ag+, Fe3+ hay Ru3+ làm tính sét có tính khử. Tương tác bề
mặt rắn của đất sét với phân tử chất hữu cơ phụ thuộc vào tính kỵ nước. Tính
chất ưa hoặc kỵ nước của bề mặt phụ thuộc vào việc chọn lựa hợp lý cation có
thể trao đổi được.
- Khả năng tạo cấu trúc xốp rỗng 3 chiều: Cấu trúc này mang đặc tính
như zeolite. Quá trình thực hiện biến đổi cấu trúc khoáng sét sang cấu trúc
rỗng xốp đước ứng dụng rộng rãi do có cấu trúc 2:1, mật độ điện tương đối
thấp, có cation trao đổi ban đầu có điện tích lớn.
- Khả năng hấp thụ: Nhờ có các nhóm chức ở bờ và bề mặt phân bố
đều, nên nó có khả năng hấp phụ được nhiều chất hữu cơ: họ xeton, kim loại
nặng…
- Khả năng xúc tác: do nó có thể trao đổi các cation khác nhau tạo
thành chất xúc tác cho nhiều quá trình.
- Các hiện tượng vật lý với nước:
+ Sự rã: là hiện tượng đất sét bị mềm ra và cuối cùng tạo thành khối
mềm nhão. Hiện tượng này tạo ra đất sét ở dạng paste (hồ), để rã tốt người ta
dùng nước có khuấy trộn. Sự rã thường kèm theo sự tăng thể tích và nhiệt độ
khối vật liệu.
+ Sự trương nở: là hiện tượng tăng thể tích khi đất sét ngâm trong
nước. Nguyên nhân là do sự hấp thụ nước vào tạo mạng tinh thể, đặc biệt là
đối với mạng tinh thể của khoáng montmorillonite có khả năng trương được.
Lượng sét trương được còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
• Loại và lượng khoáng hiện diện trong đất sét.
• Những ion có khả năng trao đổi kết hợp với đất sét.
• Hình dáng và kích thước hạt.
23
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
• Cấu tạo của khối sét.
• Các muối tan trong nước.
• Các phụ gia thêm vào khối sét đã trương.
Đất sét có thể trương trong các dung môi hữu cơ. Đặc biệt đối với amin
béo thì hiệu quả trương cao hơn do nó có dây alkyl dài từ 10 nguyên tử
cacbon trở lên. Montmorillonite đã giãn nở thì có khả năng hấp thụ cao và có
các đặc điểm, tính chất khác có giá trị.
+ Nhiệt ẩm: là hiện tượng phát sinh nhiệt khi sét trộn với nước hay các
dung môi hữu cơ. Nhiệt ẩm này còn được gọi là hiệu ứng Pouillet.
Ứng dụng của ba hiện tượng rã, trương và sinh nhiệt ẩm là:
Tác dụng tẩy: làm giảm sức căng bề mặt của nước. Ứng dụng của tính
chất này là tạo thành hỗn hợp của đất sét với xà phòng, có cùng tác dụng tẩy
rửa như xà phòng, thêm đất sét vào để hạ giá thành.
Tác dụng chuyển sang thể nhũ tương: đất sét có hoạt tính chuyển thành
thể nhũ tương rất mạnh, nghĩa là hỗn hợp dầu và nước sẽ nhanh chóng tách
pha và duy trì thể nhũ tương khi cho khoảng 1% đất sét vào.
1.4.4. Sét (montmorillonite) chống và ứng dụng
Ngày nay xu hướng nghiên cứu tìm ra xúc tác mới trong công nghiệp là
phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Giá thành rẻ.
- Có hoạt tính xúc tác cao, ổn định.
- Có độ chọn lọc cao.
- Thời gian sống của xúc tác phải dài.
- Có độ bền nhiệt, bền hóa học, cơ học cao.
- Xúc tác phải dễ điều chế và có khả năng tái sinh.
- Xúc tác phải ít độc với người.
24
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Theo như các yêu cầu ở trên thì sét khoáng hoàn toàn đủ khả năng để
làm xúc tác trong công nghiệp do giá thành rẻ tuy có vài chi phí phát sinh như
để hoạt hóa axit thì giá thành nó vẫn rẻ hơn nhiều zeolite, nó có môi trường
tương thích, độ chọn lọc cao, có thể tái sử dụng, hoạt động đơn giản. Tuy nhiên
nó vẫn còn một số những nhược điểm như tổng thể tích lỗ xốp của Na –
montmorillonite nhỏ, chỉ khoảng 0,12 ± 0,006 cm3/g [86] và để cải thiện, ổn
định các lỗ xốp của sét khoáng là ta chống. Sét chống tăng diện tích bề mặt, thể
tích lỗ xốp, tăng độ bền khung của sét, bền nhiệt (tùy thuộc vào chất chống),
cải thiện được hoạt tính xúc tác để tăng khả năng hấp phụ và xúc tác của chúng,
giúp các phân tử ngoại lai dễ thâm nhập vào trong các lớp của sét hơn, nhất là
đối với phản ứng isome hóa thì chúng ta lại càng cần phải chống vì phản ứng
isome hóa là phản ứng mà tạo ra các phân tử mạch nhánh nên để thực hiện
được phản ứng và cho các phân tử iso có thể chui ra được khỏi mao quản.
1.4.4.1. Trong lĩnh vực môi trường
Sét khoáng và biến tính của là chất hấp phụ tốt các kim loại nặng như
As, Cd, Cr, Co, Fe, Pb, Mn, Ni, Zn ở dạng ion ra khỏi nước trung tính do có
tồn tại các tâm hoạt động bề mặt như tâm axit Bronsted, axit Lewis và tâm
trao đổi ion. Chính vì thế nó được sử dụng trong kế hoạch xử lý nước [50].
Benzen là một trong những nguyên liệu gây ô nhiễm và ảnh hưởng tới
sức khỏe con người. Nó là chất dễ bay hơi được sử dụng trong các ngành khác
nhau như hóa chất, hóa dầu, sơn, công nghiệp mạ và sản xuất thép [24]. Vì
thế xúc tác oxi hóa benzene để làm giảm sự bay hơi của chúng là kỹ thuật
triển vọng nhất và được nhiều người nghiên cứu ([34], [45], [77], [93]).
Người ta dùng Al chống sét tẩm Pd (kim loại quý), sét chống có diện tích bề
mặt lớn dễ phân tán kim loại quý. Chúng được sử dụng làm xúc tác cho phản
ứng oxi hóa sâu benzene ở nồng độ thấp (130 – 160 ppm) với nhiệt độ 2500C,
hoạt tính xúc tác cao, độ chuyển hóa benzene là 90% [86].
25
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Hình 1.10: Sự xâm nhập của các phân tử ngoại lai vào giữa hai lớp sét.
Hiện nay vấn đề nước thải từ các hộ gia đình, nông nghiệp, các hoạt
động công nghiệp đang được kiểm soát rất nghiêm ngặt vì nó gồm nhiều chất
hữu cơ có nguy cơ độc hại cao dưới dạng dung dịch loãng (ví dụ như phenol,
các chất thế của phenol, axit oxalic, axit axetic, thuốc trừ sâu, thuốc diệt
cỏ…). Chính vì thế quá trình Fenton được chứng minh là đáng tin cậy tạo ra
chất oxi hóa mạnh và gốc – OH mà rất có ích trong lĩnh vực cải thiện môi
trường, không có các vi khuẩn gây ô nhiễm. Phản ứng Fenton truyền thống là
sử dụng xúc tác đồng thể với nồng độ Fe cao (thường > 10mg/l) rồi sau đó lại
phải loại bỏ Fe và cũng tạo ra nước thải. Hơn nữa nó yêu cầu điều kiện axit,
điển hình là pH nhỏ hơn 3 mà điều đó bất lợi trong thực tế vì đòi hỏi chi phí
cho sự axit hóa suốt quá trình và trung hòa sau khi xử lý. Vì thế xúc tác Fe cố
26
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
định là một mục tiêu quan trọng phải nghiên cứu để thúc đẩy quá trình Fenton
dị thể dưới điều kiện axit bé hơn. Do đó, xúc tác đất sét không đắt lại có sẵn
nhiều được sử dụng làm chất nền cố định Fe trong không gian cơ bản của cấu
trúc lớp và được sử dụng trong phản ứng oxi hóa Fenton phenol bằng H2O2.
Người ta sử dụng Fe - Al, Fe - Zr chống sét nhằm giảm lượng Fe có trong
nước thải và điều kiện axit bé hơn so với xúc tác đồng thể trong phản ứng
Fenton [60]. Ngoài ra người ta đã tìm ra xúc tác Al và Al – Ce - Fe chống sét
là chất xúc tác có hiệu quả trong việc tăng năng suất oxi hóa. Trong quá trình
oxi hóa ẩm và lần lượt cung cấp các lợi ích lớn hơn. Xúc tác hoạt động mạnh
cho độ chuyển hóa phenol 100% trong giờ đầu tiên của phản ứng và độ chọn
lọc của xúc tác (55% cho CO2) trong cả quá trình oxi hóa phenol tại 200C
dưới áp suất khí quyển [40]. Rồi cả p-nitrophenol là chất gây ô nhiễm nước vì
nó được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp, thuốc nhuộm/ chất nhuộm,
polymer kỹ thuật, dược phẩm, diệt nấm cho da, sản phẩm tổng hợp hữu cơ.
Chất xúc tác sử dụng HDTMA+ (hexadecyl tri methylammonium) chống sét
để hấp phụ p-nitrophenol làm giảm nồng độ của chúng trong nước thải để đạt
tới giới hạn cho phép [71].
1.4.4.2. Trong lĩnh vực hóa học – hóa dầu
Montomorillonite có cấu trúc 2:1 [3] (hai lớp tứ diện silic liên kết với
một lớp bát diện nhôm) rất dễ dàng hình thành với các polime hydroxi kim
loại hay hỗn hợp kim loại để tạo thành sét chống ([3], [29], [43], [46]). Đó là
một loại vật liệu vi xốp, có tính axit như sét và tính xúc tác axit [29]. Về mặt
lý thuyết, khoảng cách lớn giữa các lớp sét thu được bằng cách chống bằng
các polymer hydroxit cation cho phép các phân tử cồng kềnh đi vào trong
không gian giữa các lớp vì thế sét chống có giá trị sử dụng trong lọc hóa dầu
để xử lý các phần dầu nặng [29]. Song cho đến nay, hướng sử dụng này còn
bị hạn chế do độ bền nhiệt của sét chống không cao lắm [29]. Các kết quả
27
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy sự chuyển hóa hữu cơ xảy ra
trong không gian giữa các lớp sét tự nhiên rất phong phú [43]. Người ta thấy
rằng sét chống có khả năng xúc tác cho cracking cumen [52], n-heptan [83],
ankyl hóa hydrocacbon thơm, đồng phân hóa các hydrocacbon n-parafin, este
hóa cacboxylic với ancol [26], phân bố lại toluene [53], oxi hóa propylene
thành axeton [20]… Và montmorillonite đã được nghiên cứu chống bởi các
polymer hydroxit kim loại như Al - Fe, Al – Fe - Cr và Al - Cr nhằm sử dụng
làm xúc tác cho phản ứng chuyển hóa toluene [6].
Ngày nay phản ứng ghép đôi cacbon – cacbon Herk giữa các dẫn xuất
halogen của hydrocacbon thơm với các anken đầu mạch như styrene và dẫn
xuất của nó được xem là một trong những phản ứng quan trọng nhất của
ngành sản xuất dược phẩm, sản xuất hóa chất cao cấp cũng như các vật liệu
kỹ thuật có tính năng cao ([25], [37]). Sử dụng phản ứng này cùng với những
phản ứng ghép đôi carbon – carbon khác, có thể xây dựng được những bộ
khung carbon phức tạp từ những phân tử đơn giản. Phản ứng Heck thường sử
dụng xúc tác Pd ở dạng đồng thể hoặc dị thể trong đó xúc tác Pd dị thể đang
được quan tâm do vấn đề tách và tinh chế sản phẩm dễ dàng hơn cũng như
xúc tác dị thể sẽ có khả năng thu hồi và tái sử dụng tốt hơn [47]. Ngoài ra,
việc sử dụng xúc tác Pd dị thể còn hạn chế được vấn đề sản phẩm bị nhiễm
vết kim loại nặng từ xúc tác, là một yêu cầu nghiêm ngặt của ngành sản xuất
dược phẩm. Do Pd là kim loại quý, rất đắt vì thế cho nên người ta sử dụng
montmorillonite (giá rẻ, sẵn có) làm chất mang trao đổi ion Pd2+ để làm xúc
tác cho phản ứng ghép đôi Heck giữa iodobenzen và styrene. Xúc tác điều chế
được có hoạt tính cao trong phản ứng ghép đôi Heck giữa iodobenzen và
styrene đạt độ chuyển hóa 96% (trong đó tỷ lệ sản phẩm trans-stiben: 1,1-
diphenyl etylen vào khoảng 88:12) sau 6h phản ứng với điều kiện dung môi
phản ứng là DMF (dimetyl formamid), hàm lượng xúc tác là 0,5 mol%, nhiệt
28
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
độ phản ứng 1200C, bazơ sử dụng là Na2CO3. Xúc tác điều chế này còn có
khả năng thu hồi và tái sử dụng [2].
Phản ứng oxi hóa aniline [67] là một phản ứng quan trọng để tổng hợp
các dẫn xuất chứa oxy của nó như hợp chất hydroxylamine, nitoso, nitro, azo
và azoxy. Trong đó nitroso và azoxy có vai trò rất quan trọng đặc biệt như
tổng hợp các hợp chất trung gian hữu ích. Hydrocacbon aromatic nitroso được
sử dụng trong lưu hóa cao su, bền hóa (ổn định) các chất chống oxy hóa trong
dầu nhờn (Zengel, 1983), trong khi đó azoxybenzen được sử dụng làm thuốc
nhuộm, các chất khử, hợp chất ổn định và các chất ức chế quá trình polime
hóa. Vài dẫn xuất của azoxybenzen được sử dụng như thủy tinh lỏng (tinh thể
lỏng) trong màn hình điện tử và thuốc chữa bệnh (Sakuae et al., 1993). Do đó
một loạt các phương pháp oxi hóa (cả đồng thể và dị thể) sử dụng theo các
hướng hệ số tỷ lượng và xúc tác được đưa ra, ví dụ: arylamine có thể oxy hóa
với các chất oxy hóa tỷ lượng như peracetic axit (White and Emmons, 1962)
MnO2 (Wheeler and Gonzalez, 1964), Pb(OAc)4 (Baumgarten et al., 1965) và
Hg(OAc)2 (Wenkert and Wickberg, 1962). Oxi hóa aniline trong phản ứng
đồng thể (trong môi trường trung tính) đã được thực hiện trên sự chuyển hóa
các phức kim loại của titanium, vanadium (Sheldon and Dakka, 1994), sắt
(Huang et al., 2001) và các phức chất của molypđen (Tollari et al., 1993).
Trong phản ứng dị thể trung tính, các dạng phân tử rây (Selvam and
Ramaswamy, 1996 và Waghmode et al., 2001) và mesoporous silic bao gồm
nanometric phân tán oxit titanium (Tuel and Hubert-Pfalzgraf, 2003) đã chỉ ra
ảnh hưởng hoạt tính xúc tác của chúng tới quá trình oxy hóa aniline thành
azoxybenzen. Ti chống sét giảm sự thoái biến quang hóa của các hợp chất
hữu cơ trong nước (Ooka et al., 2003) và các phản ứng oxi hóa (Del Castillo
et al., 1996). Ti chống sét làm xúc tác hoạt động cho phản ứng oxi hóa aniline
ở nhiệt độ phòng bằng H2O2 độ chuyển hóa, sản phẩm phụ thuộc dung môi,
29
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
nồng độ chất oxi hóa, nồng độ chất xúc tác và thời gian phản ứng [66]. Chất
xúc tác này còn được sử dụng cho phản ứng etyl hóa benzene cho độ chọn lọc
etylbenzen 100% loại bỏ các sản phẩm như toluene, xylen, styrene và cumen
so với các chất xúc tác trước đây [65]. Ngoài ra còn có Al chống sét làm xúc
tác cho quá trình hydrotreating (Albertazzi et al., 2005), Fe chống sét cho
phản ứng dehydro hóa etylbenzen (Huerta et al., 2003)…
1.5. TÍNH CHẤT CỦA SÉT CHỐNG ZIRCONI [94]
Sự chèn ghép các cation vô cơ có kích thước lớn xen vào giữa các lớp
của sét cho phép điều chế các chất rắn mao quản trung bình bền nhiệt hơn.
Các chất rắn này hoạt động như các chất chọn lọc hình dáng, một tín chất
tương tự các zeolit. Khác biệt chủ yếu là sự thường trú của nó giữa các lớp sét
đi vào theo hai chiều. Về mặt lý thuyết có thể điều chỉnh cả chiều cao và mật
độ của chất chống, nghĩa là khoảng cách giữa các chất chống. Hơn nữa, bằng
sự lựa chọn đúng thành phần cation dùng để chống sét, sét chống có thể hoàn
toàn bền nhiệt và tính chất hóa học cao (ví dụ như tính axit) của các chất rắn
này. Vì vậy các nguyên liệu mới này là những chất chống hoặc là xúc tác quý
giá, điều này giải thích tại sao chúng được cho là quan trọng và được nghiên
cứu nhiều trong những năm gần đây. Người tiên phong trong các nghiên cứu
này là Vaughan và Brindley.
Sét được sử dụng làm sét chống bao gồm các dạng Montmorillonite,
hectorite và beidellite và chúng có mặt trong hầu hết các loại sét thông
+.
thường. Chúng có thể bão hòa các ion hóa trị 1 như: Na+, K+, hóa trị 2 như:
Ca2+, Mg2+, hoặc hợp chất hữu cơ R – NH3
Tiền chất của các chất chống chủ yếu bao gồm các hydroxilic
oligomers hoặc các polymers như: Al (8,10-14), Zr (15,19), Si (20,22), Fe
30
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
(23-25), Cr (26,27) và Ti (28,29). Những hợp chất cơ kim này, chất mà khi
thủy phân hoặc phân hủy nhiệt cho ra các oxit kim loại.
Có 2 phương pháp điều chế cơ bản sét chống zirconi oxit đã được
nghiên cứu và công bố là:
- Phương pháp điều chế thứ nhất: Sét dạng huyền phù được trộn với
dung dịch ZrOCl2 sạch, oligomer Zr, chất có cấu trúc dạng phức chất được
Clearfield và Vaughan mô tả dưới dạng công thức [Zr4(OH)14(H2O)10]2+, khi
thủy phân chúng có thể bị polyme hóa thành Zr8 hoặc Zr12.
- Phương pháp điều chế thứ hai: Dung dịch ZrOCl2 được tiến hành
chưng cất hồi lưu ở 1000C trước khi cho vào dung dịch sét huyền phù, điều
này thuận lợi hơn cho quá trình polyme hóa phức chất của Zirconi.
Trong phương pháp thứ nhất cho phép điều chế được các chất rắn có
khoảng cách cơ sở là 16,5 A0 ở 5000C nhưng đòi hỏi thời gian phản ứng trao đổi
rất dài. Trong phương pháp điều chế thứ hai lại tiến hành ở điều kiện khắc nghiệt
hơn (pH = 1,5 ở 1000C) dẫn đến sự hình thành các chất rắn không đồng nhất, vô
định hình trong cấu trúc lớp, với khoảng cách cơ sở giữa các lớp gần 15 A0.
Các yếu tố ảnh hưởng chính đến quá trình sự hình thành cũng như các
tính chất cơ bản của sét chống như độ bền nhiệt, cấu trúc sét chống, tính axit
cần được nghiên cứu một cách cẩn thận. Nó phụ thuộc vào bản chất của dung
dịch sét huyền phù, bản chất của chất chèn ghép và dung dịch huyền phù thu
được bao gồm sét và chất chèn ghép.
Đối với bản chất chất huyền phù của sét khoáng, các yếu tố ảnh hưởng
chính đến quá trình điều chế phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố: thời gian lão
hóa, dung môi và năng suất trao đổi ion. Đối với chất chèn chống, các yếu tố
ảnh hưởng chính đến quá trình chủ yếu như: nồng độ cation, tỷ lệ OH-/M+,
nhiệt độ và thời gian lão hóa. Dung dịch thu được từ quá trình trộn sét huyền
31
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
phù với chất chống cũng cần phải được khảo sát các yếu tố cơ bản như: tỷ lệ
sét/cation, pH của dung dịch, thời gian và nhiệt độ phản ứng.
Theo E.M Farfan, E. Sham và P.Grange sự lão hóa của sét phân tán từ
25 - 60 ngày là thuận lợi cho việc điều chế sản phẩm có tính đồng đồng nhất
và có độ ổn định nhiệt cao, như được hiển thị trong hình 1.11.
Hình 1.11 : Kết quả chụp XRD xác định sự ảnh hưởng của thời gian
lão hóa đến khoảng cách cơ sở giữa các lớp sét huyền phù khác nhau.
C: Sét lão hóa trong 60 ngày
A: Mẫu sét không lão hóa B: Sét lão hóa trong 1 ngày
Sự ảnh hưởng của thời gian lão hóa là rất rõ ràng, thể hiện qua thông số
khoảng cách cơ sở của các lớp sét khi đem chụp XRD. Điều này có thể được
32
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
giải thích là do sự trương nở tốt hơn của các lớp sét đồng nhất sẽ thuận lợi
cho sự khuếch tán của các ion vào khoảng trống giữa của các lớp sét.
Sự thủy phân một phần của sét cấu trúc lớp được thực hiện bằng cách
trao đổi proton với nước dẫn đến quá trình tách ra các cation dạng bát diện
(Al, Mg, Fe) và hình thành các hiđrôxít ở mức độ cao của quá trình hydrat
hóa, điều này cũng thuận tiện cho việc trương nở của sét cấu trúc lớp.
Mặt khác, thời gian lão hóa của sét phân tán được xử lý bằng zirconi
phải ngắn (2 - 3 giờ) để tránh phân rã hơn nữa của sét, như được hiển thị
trong hình 1.11. Một cách tương tự, nhiệt độ giữa các lớp sét phải duy trì ở
khoảng 40 - 60°C để thuận lợi cho quá trình polyme của phức chất zirconi.
Nồng độ cao của clorua zirconyl cũng cần phải tránh.
Trong thực tế, tất cả các thông số thực nghiệm (thời gian phản ứng,
nhiệt độ của phản ứng và nồng độ) có thể ảnh hưởng đến mức độ đến quá
trình polyme hóa zirconi hydroxy trong dung dịch nước. Như đã biết, các ion
zirconyl được hiện diện trong oxychloride zirconi rắn dạng tetramer như
[(Zr(OH)2.4H20)4]8+, trong đó bốn ion Zr nằm tại các góc vuông hơi bị biến
dạng và được liên kết bởi cầu OH ở trên và dưới ở mặt phẳng của hình vuông.
Hình 1.12: Cân bằng giữa dạng Tetramer và Octanmerm đề xuất bởi Singhal
Khi hòa tan trong nước, các dung dịch trở nên khá chua do sự thủy
phân ở các góc của tetramers, cuối cùng dẫn đến việc hình thành một tetramer
với công thức [(Zr4(OH)14H20)10]2+. Sự lão hóa của dung dịch sản phẩm điều
33
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
chế dẫn đến sự hình thành của các chất lớn hơn, do quá trình polyme hóa của
các phức cation.
Sự gia nhiệt dung dịch clorua zirconyl cũng thuận lợi cho quá trình
polyme hóa, như đã được chứng minh bởi Clearfield, nhưng nhanh chóng làm
giảm pH của dung dịch. Ví dụ, một dung dịch clorua zirconyl 0,1 M có pH =
2,5, sau hai giờ của chưng cất hồi lưu độ pH của nó là 1,1 và sau 19 giờ nó là
0,9. Điều này lý giải tại sao phản ứng ở nhiệt độ cao và thời gian dài của quá
trình liên quan đến sự biến dạng cấu trúc của sét và thuận lợi cho quá trình
hình thành cấu trúc không trật tự của chất rắn thay vì được sắp xếp theo cấu
trúc của sét chống.
Hình 1.13: Sự phụ thuộc hàm lượng ZrO2 chống sét vào thời gian
Hình 1.13 cũng cho thấy, sau khoảng hai giờ tham gia phản ứng trao,
về cơ bản tất cả các zirconi trao đổi ion và không có sự tăng hàm lượng ZrO2
nếu tăng thời gian phản ứng. Trong cùng một cách, cho tỷ lệ Zr/sét là 4, tỷ lệ
tối đa để ZrO2 có thể xen vào giữa các lớp sét đạt được. Ở nhiệt độ khác nhau,
hàm lượng ZrO2 tăng lên khi thực hiện ở nhiệt độ cao hơn, nhưng lại làm thay
đổi cấu khoáng sét.
34
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Hình1.14 : Kết quả chụp XRD các mẫu sét chống zirconi sau số lần rửa ở
nhiệt độ phòng và 1200C bằng phương pháp ly tâm
A: 0 lần; B: 1 lần; C:2 lần; D: 10 lần
Thông số cuối cùng được xem xét trong quá trình điều chế là số lần rửa
chất rắn trước khi sấy khô. Kết quả phân tích XRD cho thấy sự thay đổi
khoảng cách cơ sở này có thể chỉ ra rằng, sự sắp xếp của cấu trúc chống xen
vào giữa không gian các lớp kết thúc trong khi rửa, bằng cách loại bỏ các loại
có kích thước nhỏ, trung tính (ví dụ, ZrO.H20).
Các ion zirconi cố định sau khi trao đổi là số lượng Zr còn lại tham gia
liên kết với cấu trúc sét sau khi nung, và kết quả là chúng không thể trao đổi
với các cation khác nếu sét chống được phân tán lại trong nước. Năng suất trao
35
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
đổi ion dư có thể cho chúng ta một ý tưởng về số lượng các vị trí ion trao đổi
mà vẫn bị zirconi đã tham gia liên kết với sét giữ lại. Bằng cách này, chúng ta
có thể suy đoán về số lượng phức zirconi hợp thành quá trình chống sét.
Theo lý thuyết, giá trị năng suất trao đổi ion dư phải thay đổi từ 0
(trong trường hợp các ion trao đổi hoàn toàn bị chặn lại) và bằng 86 (khi
không có lực cản nào của các loại chất chống xen giữa các lớp sét). Tuy
nhiên, trong trường hợp của E.M Farfan, E. Sham và P.Grange, các giá trị của
năng suất trao đổi ion dư khá cao so với phần trăm ZrO2 được xác định được
bằng phân tích hóa học. Ví dụ với mẫu nghiên cứu có tỷ lệ Zr/sét = 2, năng
suất trao đổi ion dư gần như là cao hơn năng suất trao đổi ion ban đầu của
montmorillonite.
Trong trường hợp này theo Amphlett có thể là do sự liên quan đến việc
thay đổi các thuộc tính của zirconia ngậm nước. Vì sau khi mẫu được nung ở
5000C, nhóm hiđrôxít vẫn còn gắn liền với cấu trúc cột chống, như được chỉ
ra trên đường cong TG hình 1.15.
Hình 1.15 : Đường cong TG của các mẫu sét chống khi nung trên 5000C
36
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
A: Mẫu Zr/sét = 2; B và C là mẫu sét chống đã sulfat hóa
Mặt khác, có một mối quan hệ trực tiếp giữa tỷ lệ phần trăm ZrO2 phát
hiện trong sét chống zirconi và năng suất trao đổi ion dư đo được, mối quan
hệ này được thể hiện trên hình 1.16.
Hình1.16: Mối liên hệ giữa hàm lượng ZrO2 trong sét chống
và công suất trao đổi ion dư
2-
Các hợp chất này có một cấu trúc vô định hình và Blumenthal phát
triển và đề xuất công thức của sét chống có dạng sau đây: (OH)2ZrO2.SO4
.6H2O với độ chính xác 50% trong môi trường nước. Cấu trúc này được xác
nhận bởi phân tích TG. Sự tồn tại của hợp chất này trong khoảng trống ở giữa
các lớp sét giải thích vì sao khoảng cách giữa các lớp kẹp thấp, diện tích bề
mặt riêng được phát hiện nhỏ.
Hấp phụ pyridin cho thấy sự hiện diện của hai tâm axit là Bronsted và
Lewis. Số lượng các tâm axit Bronsted khá ổn định và phát hiện thấy vẫn còn
các tâm axit này sau khi mẫu đã được nhả hấp ở 400°C. Điều này cũng trùng
khớp với sự hiện diện của zirconia ngậm nước vô định hình trong tham gia
chống sét sau khi nung.
37
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Như đã nói ở trên, pha vô định hình và tứ diện được ổn định vào các
lớp đất sét. Bằng phương pháp phân tích TG cho thấy liên tiếp có sự sự mất
nước và dehydroxy hóa xảy ra giữa 1200C và 7000C. Phổ XRD cũng cho thấy
kết tinh của ZrO2 trong đất sét chống thu được ở nhiệt độ cao hơn nhiều với
số lượng lớn ZrO2. Blumenthal gợi ý rằng ZiO2 ngậm nước được tích điện
dương và đề xuất các trạng thái cân bằng sau đây:
(a) ZrO2.xH2O ↔ ZrO2(x-y)H2O.yH+ + yOH-
Sự xuất hiện pha vô định hình cho chúng ta cơ sở để đề xuất sự hình
thành của các tâm acis Bronsted trên chất rắn khi nung ở 4000C.
Mặt khác, sulfat hóa sét chống zirconi làm tăng độ axít của sét chống.
Tanabe et al. giải thích tính siêu axit của oxit sulfat không được chống bằng
cách thay đổi điện tử của hệ S-O- kim loại liên kết. Với nước hấp thụ, sự
2-/Zr02
phân cực của cấu trúc và sự tạo thành proton tạo ra axit Bronsted. Tuy nhiên,
giả thuyết rất thú vị này không giải thích được sự tăng độ axít với SO4
2- hoặc OH- được đưa vào cấu trúc một lượng lớn
tỷ lệ thấp.
Trong thực tế, SO4
ZrO2 gây ra sự ổ định như nhau. Khi bổ sung các ion bên ngoài vào các dung
dịch zirconyl, độ pH của các dung dịch tăng. Một số phân tử nước được thay
thế bởi các ion tạp chất như đã giải thích ở trạng thái cân bằng sau đây:
ZrO2.xH2OzAn ↔ ZrO2(x-y’)H2O.y’H+.zAn + y’OH- (b)
Nếu y’>zn thì hằng số cân bằng của b lớn hơn a.
Các nghiên cứu về độ hoạt hóa axit của xét đếu đưa ra rằng, những
đóng góp để tạo thành độ axit có thể do sự tương tác của sulfat với SiO-Si hay
Al3+ xuất hiện ở các lớp bề mặt và các cạnh của đất sét phải được loại bỏ.
38
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
1.6. TÍNH CHẤT CỦA ZIRCONI SUNFAT HÓA
2-)
1.6.1. Zirconi sunfat hóa (ZrO2/SO4
Zirconi sunfat hóa là một loại superaxit rắn. Superaxit rắn được định
nghĩa là một vật liệu rắn có cường độ axit mạnh hơn cả H2SO4 100% (H0 ≤ -
2- có cường độ axit cao nhất được đo theo phương pháp sử
11,9), ZrO2/SO4
dụng chất chỉ thị tương ứng là: H0 ≤ -16,0, nó có tiềm năng sử dụng trong
2- được điều chế chủ yếu theo phương pháp sunfat hóa
công nghiệp cho quá trình đồng phân hóa các hydrocacbon, ankyl hóa, ete
hóa… ZrO2/SO4
Zr(OH)4 ở dạng vô định hình, sau khi nung ở nhiệt độ thích hợp sẽ thu được
zirconi sunfat hóa hoạt tính. Zr(OH)4 khi nung mất nước ở nhiệt độ cao sẽ tạo
ra ZrO2 có cả hai dạng cấu trúc pha tứ diện nghiêng và đơn nghiêng (có diện
2-
tích bề mặt riêng nhỏ không thích hợp làm xúc tác). Sự có mặt của ion SO4
trong cấu trúc tinh thể làm bền hóa pha tứ diện nghiêng, hạn chế sự chuyển
sang dạng đơn nghiêng, do đó người ta thường sử dụng Zr(OH)4 để sunfat hóa
trước khi nung mà không sử dụng ZrO2. Hơn nữa, nhiều công trình nghiên
cứu cũng đã chỉ ra rằng khi sunfat hóa trên nền Zr(OH)4 sẽ cho diện tích bề
mặt riêng lớn và sự mất mát lưu huỳnh trong quá trình nung nhỏ hơn so với
khi được thực hiện trên nền ZrO2.
1.6.2. Tính chất của ZrO2/SO4
2-
Theo một số tác giả thì tâm axit Lewis đóng vai trò quan trọng và liên
quan trực tiếp đến hoạt tính axit. Tỷ lệ giữa tâm axit Bronsted và tâm Lewis
2- có ảnh hưởng lớn đến chất lượng xúc tác. Gần đây,
trên xúc tác ZrO2/SO4
một số kết quả nghiên cứu cho biết tỷ lệ tâm axit Bronsted/Lewis phụ thuộc
vào phương pháp điều chế, mức độ hydrat hóa, tỷ lệ % axit trên chất mang và
quan trọng nhất là chế độ nung. Nhiều tác giả cũng chứng minh rằng ZrO2
được điều chế từ quá trình nung Zr(OH)4 ở 5500C sẽ tạo nên các cặp axit-
39
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
bazơ Lewis này, và khi được hoạt hóa bởi các ion sunfat giàu electron cùng
với quá trình nung sẽ tạo ra các tâm Lewis mạnh.
2-, tuy nhiên kết quả nhận được lại không phù hợp với
Người ta dùng phương pháp giải hấp Piridin nhằm khảo sát bản chất
tâm axit của ZrO2/SO4
kết quả thực nghiệm thu được. Do đó không thể dùng phương pháp hấp phụ
2-.
và giải hấp Piridin để đánh giá chính xác cường độ axit mạnh của ZrO2/SO4
Bằng kỹ thuật phân tích TPD- hấp phụ và giải hấp NH3 đã đánh giá
2-cho thấy tâm axit rất mạnh và đồng nhất xuất hiện ở nhiệt độ giải
được tổng số tâm axit mạnh và cường độ axit rắn. Kết quả NH3-TPD của
ZrO2/SO4
2- có hoạt tính
hấp xấp xỉ 5420C. Mối quan hệ giữa số tâm axit mạnh và hoạt tính xúc tác
trong quá trình isome hóa cho thấy thành phần xúc tác ZrO2/SO4
cao, độ chọn lọc tốt, phù hợp với quá trình isome hóa nói chung.
2-
1.7. PT/MONTMORILLONITE/ZRO2/SO4
Isome hóa là quá trình sắp xếp lại cấu trúc phân tử và hầu hết đều sử
dụng chất xúc tác. Chất xúc tác sử dụng cho quá trình isome hóa là loại chất
xúc tác thúc đẩy phản ứng tạo các ion cacboni, nên trước hết nó phải có tính
axit. Mặt khác, nhiệt độ thấp thích hợp cho phản ứng isome hóa n- parafin,
nên thực hiện phản ứng ở điều kiện nhiệt độ thấp là mong muốn đồng thời
tách sản phẩm đơn giản vì các iso – parafin có nồng độ cao.
Chất xúc tác có khả năng thực hiện phản ứng ở nhiệt độ thấp là các chất
xúc tác ở pha lỏng, song do có nhiều nhược điểm nên chất xúc tác loại này
dần dần được thay thế và ngày nay người ta hay dùng xúc tác lưỡng chức.
- Chất xúc tác pha lỏng:
Chất xúc tác pha lỏng là hệ xúc tác đồng thể (HF-SbF5, AlCl3-HCl) có
khả năng phản ứng ở nhiệt độ thấp (dưới 1500C) và có độ chuyển hóa cao, ở
khoảng nhiệt độ hơn 900C đã hầu như chuyển hóa hoàn toàn các n-parafin.
40
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Mặc dù tốc độ phản ứng tốt, vấn đề quan tâm chính đối với việc sử dụng chất
xúc tác loại này là ăn mòn thiết bị dữ dội và tính chọn lọc kém, cụ thể là gây
ra phản ứng cracking ở mức độ đáng kể. Hơn nữa, việc tái sinh chất xúc tác
sau khi sử dụng là rất đắt do đó người ta phải thay thế bằng lượng chất xúc tác
mới, tạo ra một lượng chất thải lớn mà trong phạm vi công nghiệp vấn đề môi
trường không thể chấp nhận được. Bởi những hạn chế đó mà xúc tác đồng thể
dần được thay thế bằng xúc tác rắn.
- Chất xúc tác rắn:
Qua nhiều nghiên cứu cải tiến người ta đã sử dụng chất xúc tác rắn để
thay thế xúc tác pha lỏng , các chất xúc tác rắn đó là những oxit có tính axit
như:
+ Al2O3-V2O5, BeO: dùng để chuyển hóa xyclohexen thành metyl
xyclopenten ở 4500C.
+ Cr2O3: chuyển hóa hexa - 1,5 - dien thành hexa - 2,4 - đien ở 2250C
cho tới 2500C.
+ Al2O3-Mo2O3: chuyển hóa isopentan ở 4600C.
Chất xúc tác oxit có các ưu điểm là dễ điều chế, rẻ tiền, bền nhiệt tới
7000C. Bản chất dị thể cho phép tách sản phẩm phản ứng đơn giản, dễ dàng
thu hồi chất xúc tác nên an toàn cho môi trường. Tuy nhiên chúng có nhược
điểm là độ chuyển hóa không cao, nhanh bị mất hoạt tính do dễ bị ngộ độc. Vì
thế, chúng đã nhanh chóng nhường chỗ cho chất xúc tác mới có hoạt tính và
thời gian sử dụng cao hơn, đó là chất xúc tác lưỡng chức.
- Chất xúc tác lưỡng chức:
Chất xúc tác lưỡng chức gồm có hai tâm hoạt động: tâm kim loại và
tâm axit. Tâm kim loại có chức năng xúc tác cho phản ứng đề hydro hóa và
hydro hóa, còn tâm axit có nhiệm vụ xúc tác cho sự hình thành ion cacboni và
isome hóa. Đầu tiên các phân tử n-parafin được đề hydro hóa trên tâm kim
41
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
loại tạo ra các n-olefin. Sau đó khuếch tán sang tâm axit, được proton hóa
hình thành nên cacbocation. Do có sự khuếch tán các hợp chất trung gian từ
tâm axit sang tâm kim loại và ngược lại. Do vậy, yêu cầu đối với loại xúc tác
này là tâm axit và tâm kim loại phải ở gần nhau. Để xảy ra phản ứng isome
hóa đòi hỏi độ axit của xúc tác phải thích hợp, kim loại phân tán trên xúc tác
càng tốt thì hoạt tính của xúc tác càng cao ([82], [85]).
Chất xúc tác lưỡng chức thường gồm 3 thành phần sau [61]:
- Chất mang: thường là oxit kim loại như γ-Al2O3, ZrO2, TiO2, đất sét…
2-, BO3
3-, PO4
3-… Mỗi một chất xúc tác chỉ
- Chất tăng cường tính axit (enhancer): là các chất cải thiện tính axit khi
tương tác với chất mang, như SO4
chứa một chất tăng cường axit và phần trăm của chúng thường nằm trong
khoảng 0,5 - 30% khối lượng tùy vào mục đích sử dụng.
- Chất xúc tiến (promoter): thường là những kim loại chuyển tiếp như
Pt, Pd, Ce, Nb, Sn, Ni, Mn… Chúng thường được đưa vào với những mục
đích khác nhau:
+ Tăng hoạt tính và độ chọn lọc của phản ứng isome hóa.
+ Giảm sự hình thành các cốc.
+ Cải thiện khả năng chống ngộ độc xúc tác.
Hàm lượng mỗi kim loại thường nằm trong khoảng 0,5 - 6% khối
lượng.
Đối với các chất mang là oxit của một số kim loại như: Ti, Si, B, Mo,
Zr… Nhiều nghiên cứu [62] đã cho thấy nếu quá trình tổng hợp không sunfat
hóa thì diện tích bề mặt riêng của chất mang rất bé, nhưng nếu sulfat hóa sẽ
vừa tăng diện tích bề mặt riêng vừa cải thiện được tính axit.
Tình hình sử dụng chất xúc tác cho quá trình isome hóa trên thế giới hiện
nay rất đa dạng với nhiều loại khác nhau. Tập đoàn BP dùng chất xúc tác Pt/η-
Al2O3, Nga thì dùng Pt/γ-Al2O3 và cả hai loại trên đều phải hoạt hóa bằng clo
42
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
trước khi sử dụng, UOP dùng chất xúc tác Pt/γ- Al2O3-AlCl3 còn tập đoàn Shell
sử dụng chất xúc tác Pt/H-Mordenit [92]. Kim loại quý Pt cho hoạt tính xúc tác
khá cao, nhưng giá thành của Pt cũng cao vì thế cho nên nếu thay thế hoặc
thêm một hay nhiều kim loại khác nhau vào trong xúc tác sẽ giảm thiểu được
chi phí. Qua nhiều công trình nghiên cứu, chất xúc tác đa kim loại với tỷ lệ
thích hợp thường có hoạt tính cao hơn so với chất xúc tác đơn kim loại.
Trên thế giới cũng như trong nước đã có nhiều nghiên cứu về hệ xúc
tác khác nhau cho phản ứng isome hóa n-parafin như sau:
- Hệ xúc tác Pt/CaY-80, Pd/CaY-80 và Pd/CaHY-80 cho độ chuyển
hóa chung là 28% ở 3150C [69].
- Hệ chất xúc tác Pt/H-Mordenit cho độ chuyển hóa là 40% ở nhiệt độ
2700C – 2800C [17].
- Hệ chất xúc tác Pt-Zn/γ-Al2O3 của hãng UOP (Mỹ) phản ứng thực
hiện ở khoảng nhiệt độ 4900C – 5400C, tốc độ thể tích là 1,5 h-1.
Tuy nhiên các hệ xúc tác trên có nhược điểm là dễ bị ngộ độc bởi nước
và nhiệt độ phản ứng cao nên độ chọn lọc thấp. Vì vậy hướng nghiên cứu gần
đây là tìm ra chất xúc tác mới có khả năng làm việc ở nhiệt độ thấp hơn so với
zeolit và có khả năng chống ngộ độc tốt. Người ta đã nghiên cứu xúc tác
2- cho kết quả tốt và có thể khắc phục được một số nhược điểm của
ZrO2/SO4
các chất xúc tác trên do có tâm axit mạnh, có khả năng tạo ra cac ion cacboni
ở nhiệt độ thấp thích hợp xúc tác cho phản ứng isome hóa n- parafin nhưng nó
lại có nhược điểm là bề mặt riêng nhỏ nên khả năng phân bố tâm kim loại trên
chất mang kém, hoạt tính ban đầu rất cao không ổn định và giảm nhanh theo
thời gian, nhanh mất hoạt tính và độ ổn định không cao. Do đó hướng nghiên
cứu nhằm cải thiện diện tích bề mặt giúp tăng khả năng phân tán tâm kim loại
trong khi vẫn đảm bảo độ axit phù hợp và đáp ứng chỉ tiêu khác của xúc tác
43
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
công nghiệp như rẻ, có độ bền cơ, bền nhiệt, bền thủy động… đang được các
nhà khoa học đặc biệt quan tâm.
Sét chống với các hợp chất vô cơ phức tạp đã được các nhà khoa học
quan tâm và nghiên cứu nhiều trong 2 thập niên gần đây. Các nghiên cứu thu
được từ montmorillonite bằng cách trao đổi cation với polication thu được
qua sự điều chỉnh Al(OH)3 ([64], Zr [72], [84]) hay Cr3+ ([59], [74]).
Tính axit của vật liệu vi mao quản này được chỉ ra là có khả năng làm
xúc tác trong các phản ứng hữu cơ [75]. Theo Shabtai et al. [39] sét chống này
có hoạt tính mạnh hơn Zeolite Y trong quá trình chuyển hóa các phân đoạn
của dầu mỏ. Những sét này được sử dụng làm xúc tác cho quá trình cracking
do chúng có hoạt tính và độ ổn định nhiệt cao. Bên cạnh tính axit của lớp sét
này, oxit kim loại chống cũng chỉ ra một đặc tính axit, đó là nhóm – OH của
lớp sét này có tâm axit của Bronsted trong khi đó vật liệu chống lại tồn tại tâm
axit Lewis. Tuy nhiên, theo Bodoardo et al. [81], số tâm axit Bronsted xuất
hiện sau. Do đó, vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để tăng và điều khiển tính axit
của sét chống, đặc biệt là dạng “matrix” (chất nền) và tiền chất hóa học cấu
thành nên chất chống. Chúng ta sử dụng zirconi oxit (ZrO2) làm chất chống.
2-, tại đây do ảnh hưởng
Sự biến đổi của oxit bởi các hợp phần mang điện tích âm để tạo nên các tâm
axit mạnh. Đây chính là trường hợp của ZrO2/ SO4
(lôi kéo) của nhóm S = O tăng lên sẽ làm thay đổi vùng lân cận của Zr4+ và
tạo nên tính axit Lewis cao. Điều cần thiết là tăng tính hoàn thiện của tâm axit
Bronsted để thúc đẩy phản ứng isome hóa ankan nặng hơn như n-heptan. Do
2- Montmorillonite mang lại hiệu quả cho phản
đó, việc tẩm 1%Pt/ZrO2/SO4
2- tẩm Pt (1%wt) có diện tích bề
ứng chuyển hóa n-parafin.
Sét montmorillonite chống ZrO2/SO4
mặt cao, cấu trúc ổn định, bền với các tác nhân cơ học và hóa học, độ axit lớn,
44
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
các tâm kim loại được phân tán đều trên bề mặt xúc tác, giảm sự tạo cốc, dễ
tái sinh, cho độ chuyển hóa cao.
Xúc tác thường được điều chế bằng cách cho sét đã trao đổi ion với Na+
hoặc Ca2+ với dung dịch muối zirconi là ZrOCl2. Hydroxyl zirconi sẽ được tạo
2- rồi nung ở khoảng
thành giữa các lớp sét, sau đó mẫu được tẩm với SO4
2-. Sự có mặt của SO4
2- còn
4000C. Sau khi nung, Zr(OH)4 mất nước tạo tinh thể ZrO2, tinh thể này có cấu
trúc tứ diện nghiêng do đã được ổn định bởi SO4
làm tăng độ axit của xúc tác và phân tán đều tâm kim loại Pt được tẩm sau đó.
45
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH ISOME HÓA
2.1 TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH ISOME HÓA
Phản ứng isome hóa hay phản ứng đồng phân hóa nhằm biến đổi các
hydrocacbon mạch thẳng thành các hydrocacbon mạch nhánh. Quá trình này
thường được áp dụng để nâng cao trị số octan của xăng và các cấu tử pha
xăng. Vì phân đoạn xăng nhẹ và condensat C5 – C6 (sản phẩm thu được từ quá
trình chế biến khí tự nhiên và khí đồng hành) có trị số octan thấp (RON = 60 -
70). Về cơ bản không thể reforming C5, khó và không nên reforming C6 nên
người ta thường làm tăng ON phân đoạn này bằng cách đồng phân hóa n-
parafin thành isoparafin, vì isoparafin có On cao hơn nhiều. Bên cạnh việc thu
được xăng hoặc hợp phần pha xăng có trị số ON cao, quá trình đồng phân hóa
còn có thể nhận được các cấu tử riêng biệt làm nguyên liệu cho quá trình tổng
hợp hóa dầu như: isobuten, isopentan phục vụ cho quá trình tổng hợp MTBE,
cao su isopren…
2.2 XÚC TÁC CHO QUÁ TRÌNH ISOME HÓA
2.2.1 Tổng quan về cơ chế của xúc tác trong phản isome hóa.
Xúc tác sử dụng cho quá trình isome hóa thuộc loại xúc tác thúc đẩy
phản ứng tạo thành ion cacboni, tức là các xúc tác có tính axit. Trước đây,
người ta hay sử dùng xúc tác Lewis như AlCl3, được hoạt hóa bằng HCl. Gần
đây người ta dùng xúc tác trên cơ sở AlBr3 và hỗn hợp AlCl3 + SbCl3. Ưu
điểm của các loại xúc tác này là tính hoạt hóa cao, ở nhiệt độ thấp đã chuyển
hóa hoàn toàn. Nhược điểm là mau mất hoạt tính, độ chọn lọc thấp và dễ tự
phân hủy, gây ăn mòn thiết bị.
46
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Xúc tác axit rắn cũng thường được sử dụng cho quá trình isome hóa.
Xúc tác loại này chủ yếu là các oxit của kim loại như: Al, Cr, Be, Ti, Mo… và
zeolit. Tuy nhiên khi sử dụng xúc tác loại này đòi hỏi nhiệt độ cao.
Hiện nay, người ta thường sử dụng các loại xúc tác lưỡng chức. Đó là
xúc tác tương tự với xúc tác của quá trình refoming. Với hệ xúc tác này phản
ứng có thể diễn ra ở nhiệt độ tương đối thấp (50 – 2500C), độ chọn lọc và độ
chuyển hóa cao.
Trên xúc tác lưỡng chức phản ứng isome hóa xảy ra có sự tham gia của
các tâm kim loại và tâm axit, dẫn đến hoạt tính xúc tác tăng và hiệu suất sản
phẩm cao hơn. Với xúc tác này ankan được đehiđro hoá trên tâm kim loại và
anken hình thành được proton hoá tại các tâm axit Bronsted tạo ra các ion
cacbeni. Sau đó có sự sắp xếp lại liên kết C – C và cuối cùng là sự phân tách
các sản phẩm isome hoặc giải hấp các ion cacbeni phân nhánh tạo các sản
phẩm anken, các anken này được hiđro hoá tại tâm kim loại tạo ra sản phẩm
isoankan. Weisz là người đầu tiên đề xuất cơ chế của quá trình isome hoá n-
M M
M M
H+
Sù ®ehi®ro ho¸
Sù hÊp phô
axit
axit
axit
-H2
trªn t©m axit
Sù h×nh thµnh ion cacbeni
+
Qu¸ tr×nh isome ho¸
+ axit
+ axit
axit
Sù gi¶i hÊp
M M
H+
tíi t©m kim lo¹i
hi®ro ho¸
axit
axit
+H2
Hình 2.1: Cơ chế quá trình isome hóa n-parafin thành isoparafin
pentan trên xúc tác lưỡng chức theo cơ chế được mô tả trên hình 2.1
47
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Quá trình hình thành ion cacbeni đóng vai trò rất quan trọng để giải
thích cơ chế của phản ứng isome hóa. Quá trình tạo thành ion cacbeni của n-
H
+
H
CH
+H+
+ CH
H2 +
heptan có thể mô tả như sau:
CH2
+H+
CH +
Hoặc ion cacbeni được hình thành từ anken trên các tâm axit Bronsted:
Sự sắp xếp lại liên kết C – C của ioncacbeni không vòng và quá trình
Sù nh¶y H+
Sù ®ãng vßng
+
+
+
tõ gãc ®Õn
Sù më vßng
H
Sù di chuyÓn
+
+
hi®rua
isome hoá diễn ra theo sơ đồ hình===:
Hình 2.2: Cơ chế isome hoá n-heptan có sự thay đổi bậc cacbon.
Theo cơ chế isome hoá này, mức độ phân nhánh thay đổi và dẫn đến sự
thay đổi vị trí của các nhóm metyl trong phân tử, cơ chế này có thể đưa ra như
+
Sù ®ãng vßng
Sù chuyÓn vÞ
+
hi®rua
+
H
Sù më vßng
H
+
Sù chuyÓn vÞ
+
hi®rua
hình 2.3.
Hình 2.3: Cơ chế isome hoá n-heptan không thay đổi bậc cacbon.
48
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Các sản phẩm chính thu được khi thực hiện quá trình isome hóa phân
đoạn C5 – C6 bao gồm các isoparafin như: Isopentane, 2-2-Dimetylbutane, 2
Metylpentane, 3 Metylpentane, Dimetylpentane, Metylcyclopentane… Dựa
trên cơ chế tổng quá ở trên, chúng ta có thể diễn tả quá trình hình thành các
+
+
+
+
+
+
+
+
+
sản phẩm này qua các hình 2.4:
Hình 2.4: Sơ đồ tạo thành các sản phẩm isome hoá 2-metyl hexan
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
và 3-metyl hexan
Hình 2.5: Sơ đồ tạo thành đimetyl pentan từ 2-metyl hexan
49
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
Hình 2.6: Sơ đồ tạo thành 3-etyl pentan từ 3-metyl hexan
Việc hình thành các sản phẩm nhẹ như: n-butan, propan và etan có thể
do sự phân cắt β của cation metylhexyl và 2,3- dimetylpentyl được biểu diễn
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
như sơ đồ hình 2.7:
Hình 2.7: Sơ đồ tạo thành các sản phẩm cracking từ 2-metyl hexan
và 3-metyl hexan
Cũng có thể biểu diễn quá trình hình thành isobutan, và 2-metylbutan
do sự phân cắt β của cation đimetylpentyl như sơ đồ hình 2.8:
50
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
+
+
+
+
+
+
Hình 2.8: Sơ đồ tạo thành các sản phẩm cracking từ 2,4
và 2,3-đimetyl pentan
Ngoài ra, sự tạo thành các sản phẩm nhẹ cũng xảy ra đồng thời với quá
Sù di chuyÓn hi®rua
+
Sù di chuyÓn hi®rua
+
+
C¸c s¶n phÈm isome ho¸
+
Sù ph©n c¾t
+
+
+
chuyÓn vÞ hi®rua
H
Sù di chuyÓn hi®rua
C¸c s¶n phÈm cracking
trình isome hoá như sơ đồ hình 2.9:
Hình 2.9: Cơ chế hình thành sản phẩm cracking
và sản phẩm isome hóa n-heptan
51
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Mặt khác, quá trình isome hoá n-heptan có thể do sự tấn công của
anken vào ion cacbeni bậc 3 và xảy ra sự phân cắt β. Có thể mô tả cơ chế theo
-H2
+
X¶y ra sù hÊp phô
+
Qu¸ tr×nh isome ho¸
+
Sù ph©n c¾t beta
+
+H2
sơ đồ hình 2.10:
Hình 2.10: Cơ chế tấn công của anken vào ion cacbeni
hình thành 2-metylhexan
2.2.2. Cơ chế isome hoá n-hexan trên xúc tác zirconi sunfat hoá
Xúc tác lưỡng chức truyền thống kim loại Pt trên chất mang zeolit cho
quá trình isome hoá n-hexan được thực hiện ở 2500C. Nguyên nhân ảnh
hưởng của hiđro đã được làm sáng tỏ thông qua giai đoạn đề hiđro hoá thành
anken tạo cacbocation, hoặc cacbocation được tạo thành từ ankan qua hợp
chất ion cacboni trung gian và hiđro được hình thành như đã đề cập ở phần cơ
chế trên.
Tuy nhiên, kết quả từ quá trình isome hoá n-hexan cho thấy, quá trình
diễn ra phản ứng ở giai đoạn đầu hoàn toàn không phù hợp với tốc độ cân
bằng. Mặt khác, các tâm Lewis cũng được tạo thành nhanh chóng trong suốt
52
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
quá trình hoạt hoá SZ. Chính vì vậy, theo cơ chế này các hiđrua được tạo ra từ
n-hexan dựa trên sự phối trí chưa bão hoà của các nguyên tử zirconi tạo ra
+
CH3-CH-CH2-CH2-CH2-CH3
CH3-CH-CH2-CH2-CH2-CH3
O
H
Zr
Zr
H-
O
O
O
Zr
Zr
S
O
O
O
O
S
O
O
cacbocation:
Cacbocation này hấp phụ trên tâm bazơ Lewis, tâm này được tạo bởi
cầu liên kết của các nguyên tử oxi. Giai đoạn này có sự sắp xếp lại
CH3
+
Sù s¾p xÕp l¹i
CH3-CH-CH2-CH2-CH2-CH3
CH3-C+-CH2-CH2-CH3
O
O
Zr
Zr
Zr
Zr
H- O
O
H- O
O
S
S
O
O
O
O
cacbocation trung gian:
Cacbocation hấp phụ và tạo thành các sản phẩm iso, sau đó giải hấp các
nhóm hiđrua:
53
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
CH3
CH3
CH3-C+-CH2-CH2-CH3
CH3-CH-CH2-CH2-CH3
O
O
Zr
Zr
Zr
Zr
H- O
O
O
O
S
S
O
O
O
O
CH3
CH3
+
CH3-CH2-CH-CH2-CH3
CH3-C.........CH2-CH2-CH2-CH3
O
Zr
Zr
H- O
O
S
O
O
Ảnh hưởng của hiđro đến tốc độ isome hoá có thể giải thích bằng sự
phân tách hiđro trên bề mặt Pt, sau đó các nguyên tử hiđro được di chuyển và
định vị trên các tâm axit SZ. Trên các tâm này, nguyên tử hiđro được trải ra
2Pt - H
2Pt + H2
O
O
H+
Zr
Zr
+ 2Pt - H
+ 2Pt
Zr
Zr
O
O
H- O
O
S
S
O
O
O
O
và tạo thành các nhóm hiđrua và các proton (O – H+):
54
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
2.2.3. Đặc trưng về nhiệt động học
Về mặt nhiệt động học, quá trình isome hoá không có sự biến đổi về số
mol. Do vậy, áp suất không ảnh hưởng đến chuyển dịch cân bằng. Các phản
ứng isome hoá đều toả nhiệt nhẹ, do vậy nhiệt độ cao không thuận lợi cho quá
trình phản ứng.
Bảng 1 cho thấy nhiệt tạo thành của các sản phẩm isome hoá n-parafin
ở các nhiệt độ khác nhau. Mặt khác, quá trình isome hoá là quá trình thuận
nghịch, không có sự tăng thể tích, do vậy quá trình cân bằng chỉ phụ thuộc
vào nhiệt độ.
Entanpi hình thành ∆H (kcal/mol)
Chất đầu
Sản phẩm
ở các nhiệt độ khác nhau (K)
300
400
500
600
700
n-butan
Isobutan
-1,64
-1,67
-1,65
-1,64
-1,63
n-pentan
2-metyl butan
-1,92
-1,95
-1,92
-1,87
-1,83
(isopentan)
2-metyl pentan
-1,70
-1,75
-1,70
-1,72
-1,67
(isohexan)
n-hexan
3-metylpentan
-1,05
-1,04
-0,96
-0,89
-0,87
2,3-đimetyl butan
-2,52
-2,55
-2,50
-2,40
-2,40
2,2- đimetyl butan
-4,39
-4,40
-4,38
-4,25
-4,20
Bảng 1: Entanpi hình thành các sản phẩm isome hoá n-parafin [1].
Sự phụ thuộc giữa phần trăm mol của các isoparafin vào nhiệt độ của
quá trình isome hoá n-pentan và n-hexan được xây dựng từ cách tính lí thuyết
và thực nghiệm [8].
55
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Pha hơi
5
100
iC iC C+ 5
5
90 80
l o m %
Pha lỏng
70
0 50 100 150 200 250
(a) Nhiệt độ (0C)
70
Pha hơi
100.MCP MCP CH+
2,2-DMB
2-MP
Pha lỏng
3-MP
l o m % g n ằ b n â c n ầ h p h n à h T
2,3-DMB
n-C6
60 50 40 30 20 10 00
50 100 150 200 250
(b) Nhiệt độ (0C)
Hình 2.11: Sự phân bố nhiệt động trong pha khí của các sản phẩm isome hoá
theo nhiệt độ (a) isome hoá n-C5; (b) isome hoá n-C6.
Từ đồ thị có thể nhận thấy khi tăng nhiệt độ, tỉ lệ phần trăm mol của
các sản phẩm isoparafin đều giảm, và phần trăm mol của n-parafin tăng. Cũng
từ đồ thị có thể thấy, khi nhiệt độ thấp hơn 2000C sẽ thiết lập được một hỗn
hợp cân bằng tương ứng với vùng có trị số octan cao.
56
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
92
90
CÓ TUẦN HOÀN n-PARAFIN
88 86
ISOME HOÁ MỘT CHIỀU
84
n a t c O g n ằ b n â C
Nguyên liệu PARAFIN C5 – 60% PARAFIN C6 – 30% Tuần hoàn C6 –10%
00 200 300 400 500 600 700
NHIỆT ĐỘ PHẢN ỨNG, 0F
82 80
Hình 2.12: Quá trình có và không quay vòng các cấu tử octan thấp.
Từ đồ thị trên có thể nhận thấy, khi quá trình isome hoá kèm theo quay
vòng liên tục, cân bằng octan được duy trì và hoàn toàn ổn định, nhiệt độ đầu
và nhiệt độ cuối có sự giảm không đáng kể. Nếu quá trình isome hoá chỉ được
thực hiện theo 1 chiều, khi đó cân bằng octan giảm rất nhanh theo nhiệt độ.
57
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
PHẦN 2: THỰC NGHIỆM
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHẾ VÀ
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG XÚC TÁC
3.1. XÚC TÁC
3.1.1. Hóa chất
- Sét montmorillonite của Merck (Đức).
- ZrOCl2.8H2O 0,1M.
- H2SO4 0,1N.
- H2PtCl6.
- Nước cất
- NaCl 1M.
3.1.2. Thiết bị sử dụng
- Máy khuấy từ
- Lò nung
- Tủ sấy
- Máy ly tâm
- Sinh hàn hồi lưu, bình ba cổ.
- Bình nón, ống nghiệm, cốc chịu nhiệt, cốc nung, nhiệt kế…
3.1.3. Quá trình điều chế xúc tác
Loại sét được sử dụng là sét montmorillonite Merck từ Đức với kích
thước hạt nhỏ hơn 2µm. Trước khi sử dụng, sét đã được loại bỏ đất đá và các
tạp chất cơ học khác bằng phương pháp lắng ([78], [79]).
Cân 20g sét sau đó khuấy đến khi bão hòa trong dung dịch NaCl 1M
trong vòng 48h thu được natri – montmorillonite (ký hiệu là MNa). Trong quá
58
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
trình này xảy ra sự trao đổi ion giữa Na+ và các cation hydroxyl kim loại có
trong mẫu sét ban đầu.
MNa sau đó được lọc, rửa vài lần cho hết ion Cl- rồi thêm ZrOCl2.8H2O
0,1M sao cho tỷ lệ của Zr trên 1g sét là 4 mmol. Mẫu được khuấy trong 24h ở
500C sau đó được lọc, rửa vài lần cho hết ion Cl- rồi sấy khô ở 1100C trong
24h ta thu được sét chống bởi zirconi (ký hiệu là Zr-M).
Montmorillonite + NaCl 1M
khuấy 48h
M-Na
Rửa hết Cl-
MNa + ZrOCl2.8H2O
khuấy 24h, ở 500C, rồi lọc, rửa Cl-, sấy 1100C trong 24h
Zr-M
H2SO4 0,1N
Zr-MS (nung 4000C)
H2PtCl6
Pt/ Zr-MS (nung 5500C)
Quy trình tổng hợp được biểu diễn theo sơ đồ hình 3.1:
Hình 3.1. Sơ đồ tổng hợp Pt/ Zr-MS
Zr-M sau đó được ngâm tẩm với dung dịch H2SO4 0,1N sao cho tỷ lệ
2-/ Zr là 0,35 để thu được sét chống bởi zirconi sulfat hóa (ký hiệu là
giữa SO4
59
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Zr- MS) ta để ổn định qua đêm và sấy khô. Sau đó Zr- MS được nung ở
4000C trong 6h trước khi được ngâm tẩm với H2PtCl6 (với 1%Pt về khối
lượng). Sau khi ngâm tẩm ta để ổn định sau đó đem sấy khô ở 1000C rồi đem
nung ở 5500C trong 4h thì thu được xúc tác Pt/ Montmorillonite được chống
2-.
bởi ZrO2/SO4
3.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG XÚC TÁC
3.2.1. Phương pháp phổ nhiễu xạ Rơnghen (XRD)
3.2.1.1. Nguyên tắc
Chùm tia X đơn sắc chiếu vào tinh thể tạo với mặt tinh thể một góc θ,
khoảng cách giữa các mặt tinh thể là d. Chùm tia X tương tác với các electron
trong lớp vỏ nguyên tử sẽ tán xạ đàn hồi và truyền ra mọi hướng. Do các
nguyên tử trong tinh thể sắp xếp một cách có quy luật, tuần hoàn vô hạn trong
không gian nên có những hướng mà theo hướng đó, các tia tán xạ từ các
nguyên tử khác nhau sẽ giao thoa. Hiện tượng chùm tia song song, tán xạ từ
các nút mạng, khi chồng chập tạo ra vân giao thoa có biên độ tăng cường là
hiện tượng nhiễu xạ.
Theo Bragg, sự nhiễu xạ của tia X được xem như là sự giao thoa của
các tia X phản xạ từ các mặt phẳng nút của mạng tinh thể.
Giả sử có hai mặt phẳng nút liên tiếp (1) và (2) thuộc mặt (hkl), nằm
cách nhau một khoảng dhkl. Giả sử chùm tia X chiếu lên tinh thể tạo thành
với các mặt này một góc θ. Chùm tia X là đơn sắc, với độ dài sóng λ và gồm
các tia song song. Hai tia M1B1N1 và M2BN2 là cogeren cho nên chúng sẽ
giao thoa với nhau nếu hiệu số đường đi của chúng bằng một số nguyên lần
độ dài sóng:
M2BN2 - M1B1N1 = nλ (với n là số nguyên) (2.1)
Mặt khác, từ các quan hệ hình học ta có:
60
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
M2BN2 - M1B1N1 = AB + BC = 2AB = 2dsinθ (2.2)
Kết hợp (2.1) và (2.2) ta có:
M1
N1
B1
M2
N2
2dsinθ = nλ (2.3)
Hình 3.2: Sự tán xạ tia X từ các mặt phẳng tinh thể.
Dựa vào các cực đại nhiễu xạ trên giản đồ tìm được góc 2θ thay vào
công thức Vulf–Bragg tìm được dhkl. Kết quả thu được một dãy các giá trị đo
được dTN liên quan với cường độ các vạch ITN. Dãy (dTN, ITN) thu được đặc
trưng cho loại mạng tinh thể, dãy các ITN đặc trưng cho cấu trúc tinh thể. So
sánh giá trị ddkl tìm được với dhkl chuẩn sẽ xác định được cấu trúc mạng tinh
thể của vật liệu ([1], [11], [19], [51]).
Nói chung các vạch nhiễu xạ tia X từ các mạng tinh thể là các vạch
hẹp. Tuy nhiên đối với các mẫu đa tinh thể có kích thước hạt nhỏ hơn 10-7 m
hoặc có ứng suất tế vi và một số khuyết tật mạng, thì đường nhiễu xạ tia X bị
nhòe rộng trong phạm vi góc ∆ (2θ) xác định. Trong trường hợp, hạt có kích
thước nano mét nên ảnh hưởng của ứng suất tế vi là không đáng kể. Do đó,
nếu có sự mở rộng vạch nhiễu xạ, thì nguyên nhân chủ yếu là do kích thước
của hạt nhỏ. Độ bán rộng của vạch nhiễu xạ cực đại và kích thước trung bình
của hạt liên hệ với nhau theo biểu thức Scherrer:
= (2.4) D λ 0,9. θ β .cos
Trong đó:
61
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
- D là kích thước tinh thể
- λ là bước sóng tia X
- β là độ bán rộng của vạch nhiễu xạ cực đại
3.2.1.2. Thực nghiệm
Giản đồ nhiễu xạ XRD của mẫu nghiên cứu được ghi trên máy nhiễu xạ
Rơnghen Siemen D - 5000 (Đức) tại Khoa lý, Trường Đại học Tổng hợp. Ống
phát tia X bằng Cu với bước sóng Kα = 1,540 A0, điện áp 30KV, cường độ
dòng ống phát 0,01A, góc quét 2θ thay đổi từ 10 đến 700, tốc độ quét 0,03
độ/phút, thời gian 0,5 s, ở nhiệt độ phòng 250C.
3.2.2. Phương pháp phân tích nhiệt (DTA/TGA)
3.2.2.1. Nguyên tắc
Phương pháp phân tích nhiệt được sử dụng để xác định sự thay đổi tính
chất vật lí và hoá học của vật liệu theo nhiệt độ. Thông thường có 2 phương
pháp phân tích nhiệt đó là phương pháp phân tích nhiệt vi sai DTA
(differential thermal analysis) và phân tích nhiệt trọng lượng TGA
(thermogravimetric analysis). Các phương pháp này thường được dùng để xác
định nhiệt độ chuyển pha, khối lượng mất đi, năng lượng chuyển pha, thay
đổi về kích thước, ứng suất, độ đàn hồi…của vật liệu. Ngoài ra, phương pháp
nhiệt vi sai quét DSC (differential scanning calorimetry), được thực hiện ở
nhiệt độ cao hơn, mẫu có thể là kim loại, vật liệu gốm, thuỷ tinh và vật liệu
polime. Thông tin thu được từ các phép phân tích trên cũng có thể suy ra được
thành phần hoá học của mẫu [1].
3.2.2.2. Thực nghiệm
Giản đồ TG - DTA được ghi trên máy 2960 instrument trong môi
trường không khí nhiệt độ từ 300C đến 10000C tại Khoa lý, Trường Đại học
Tổng hợp, khối lượng mẫu 76,55 mg với tốc độ gia nhiệt 100C/phút.
62
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
3.2.3. Phương pháp phổ Raman [7]
3.2.3.1. Nguyên tắc
Khi chiếu chùm bức xạ tán xạ vào một tấm kính ảnh thì nhận được một
dải vạch khác nhau, gọi là phổ Raman. Trong phổ Raman có một vạch đậm ở
giữa có tầm số ν0 bằng tần số của bức xạ kích thích, còn hai bên là các vạch
đối xứng nhau có tần số lớn hơn hoặc nhỏ hơn. Các vạch có tần số ν < ν0 gọi
là Stokes còn vạch có tần số ν > ν0 gọi là antiStokes.
Quang phổ xuất hiện là do sự tương tác giữa ánh sáng với các phân tử.
Qua sự tương tác này mà lớp vỏ electron của các nguyên tử trong phân tử bị
biến dạng tuần hoàn và sẽ dẫn đến làm sai lệch vị trí của các hạt nhân nguyên
tử trong phân tử. Hay nói cách khác là các nguyên tử bị dao động. Sự dao
động này cần năng lượng lấy ra từ năng lượng của bức xạ kích thích ban đầu,
nhưng khi dao động thì đồng thời nó cũng bức xạ năng lượng trở lại, nhưng
năng lượng bức xạ có thể bằng hoặc lớn hơn hay nhỏ hơn năng lượng mà bức
xạ kích thích cung cấp cho nó. Hiện tượng này có thể giải thích như sau: theo
quan điểm nhiệt động học, thì ở trạng thái cơ bản bao giờ cũng có một số
phân tử nằm ở trạng thái kích thích nhiệt động bên cạnh các phân tử nằm ở
−
ν h KT
trạng thái cơ bản, tỷ lệ phân tử này tuân theo định luật phân bố Boltzmann:
= N N .e
0
a
(2.5)
Trong đó: Na – số phân tử nằm ở trạng thái kích thích nhiệt động
No – số phân tử nằm ở trạng thái cơ bản
T – nhiệt độ tuyệt đối
63
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
ν - tần số dao động
Người ta tính rằng ở 3000K, với tần số dao động là 1000 cm-1 thì có
khoảng 1% số phân tử nằm ở trạng thái kích thích nhiệt động.
Như vậy khi chiếu ánh sáng ban đầu với năng lượng hν0 thì phần lớn
các phân tử nằm ở trạng thái cơ bản (có mức năng lượng E0) sẽ tiếp nhận năng
lượng này và chuyển lên trạng thái kích thích mức 1, sau đó phần lớn trong
chúng sẽ nhảy trở lại mức ban đầu và bức xạ trở lại năng lượng hν0 dưới dạng
ánh sáng tán xạ có tần số ν0; ngoài ra một số ít trong số chúng lại nhảy trở về
trạng thái kích thích nhiệt động, do đó sẽ bức xạ ra một lượng năng lượng nhỏ
hơn năng lượng ban đầu hấp thụ, giả dụ phần năng lượng lấy thêm đó là hνd
thì năng lượng của phần tử bức xạ ra là:
(2.6) E1 = hν0 - hνd = h(ν0 - νd)
Bây giờ đến lượt các phân tử nằm sẵn ở trạng thái kích thích nhiệt
động, sẽ hấp thụ năng lượng của ánh sáng hν0 và nhảy lên trạng thái kích
thích mức 2, sau đó một phần trong chúng nhảy trở lại, nhưng không trở về
trạng thái kích thích nhiệt động nữa mà về hẳn trạng thái cơ bản, do đó nó sẽ
bức xạ một lượng năng lượng lớn hơn năng lượng mà nó hấp thụ ban đầu,
tức là:
E2 = hν0 + hνd = h(ν0 + νd) (2.7)
Do đó trong phổ Raman bên cạnh có tần số ν0 còn nhận được các vạch
có tần số ν0 ± νd tức là các vạch Stokes và antiStokes.
Về cường độ của các vạch trong phổ Raman cũng khác nhau. Vạch
Rayleigh có cường độ mạnh nhất bởi vì đại bộ phận phân tử nằm ở trạng thái
dao động cơ bản, sau khi hấp thụ năng lượng chuyển lên trạng thái kích thích,
lại nhảy về trạng thái dao động cơ bản ban đầu và bức xạ trở lại năng lượng
hν0 bằng năng lượng đã hấp thụ. Cường độ của vạch Stokes và anti-Stokes
64
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
yếu hơn vạch Rayleigh nhiều, đồng thời chúng cũng khác nhau, tỷ lệ cường
độ giữa hai vạch này cũng tuân theo sự phân bố Boltzmann. Nếu gọi Is, Ia là
cường độ vạch Stokes và anti-Stokes, Ns, Na là số phân tử tương ứng với vạch
−
a
ν h RT
Stokes và antiStokes thì:
s
s
= (2.8) e I a I N N
Do đó số phân tử nằm ở trạng thái kích thích ban đầu nhỏ hơn số phân
tử nằm ở trạng thái cơ bản nên vạch antiStokes có cường độ nhỏ hơn vạch
Stokes nhiều. Khi tăng nhiệt độ T lên cao, số phân tử nằm ở trạng thái kích
thích sẽ tăng lên cao và tỷ số Ia/Is → 1, khi đó mới có thể quan sát được vạch
antiStokes trong phổ ngang với vạch Stokes.
3.2.3.2. Thực nghiệm
Chúng ta đo phổ Raman của mẫu sét chưa chống và đã chống thành
công ở máy Nicolet 6700 NRX FT-Raman Module Spectrometer (tại phòng
thí nghiệm Công nghệ Lọc hóa dầu và Vật liệu xúc tác, Khoa Công nghệ hóa
học, Trường Đại học Bách Khoa) với bước sóng 100 - 1300 cm-1.
3.2.4. Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM)
3.2.4.1. Nguyên tắc
Hiện nay, kính hiển vi điện tử quét đã được sử dụng rộng rãi trong việc
nghiên cứu hình thái bề mặt mẫu, nhất là với nghiên cứu mẫu màng mỏng.
Một chùm tia điện tử đi qua các thấu kính điện từ tiêu tụ thành một
điểm rất nhỏ chiếu lên bề mặt mẫu nghiên cứu. Khi các điện tử của chùm tia
tới va chạm với các nguyên tử ở bề mặt vật rắn thì có nhiều hiệu ứng xảy ra.
Từ điểm ở bề mặt mẫu mà chùm điện tử chiếu đến, có nhiều loại hạt,
loại tia được phát ra gọi chung là các loại tín hiệu. Mỗi loại tín hiệu phản ánh
một đặc điểm của mẫu tại thời điểm được điện tử chiếu đến (số lượng điện tử
65
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
thứ cấp phát ra phụ thuộc độ lồi lõm ở bề mặt mẫu, số điện tử tán xạ ngược
phát ra phụ thuộc nguyên tử số Z, bước sóng tia X phát ra phụ thuộc nguyên
tử ở mẫu là nguyên tố nào…). Cho chùm điện tử quét lên mẫu, và quét một
cách đồng bộ một tia điện tử trên một màn hình. Thu và khuếch đại một loại
tín hiệu nào đó từ mẫu phát ra để làm thay đổi cường độ sáng của tia điện tử
quét trên màn hình, ta thu được ảnh. Nếu thu tín hiệu ở mẫu là điện tử thứ cấp
ta có kiểu ảnh điện tử thứ cấp, độ sáng tối trên ảnh cho biết độ lồi lõm trên bề
mặt mẫu. Với các mẫu dẫn điện, chúng ta có thể thu trực tiếp điện tử thứ cấp
của mẫu phát ra, còn với các mẫu không dẫn điện chúng ta phải tạo trên bề
mặt mẫu một lớp kim loại (thường là vàng hoặc platin).
Trong kính hiển vi điện tử quét có dùng các thấu kính, nhưng chỉ để tập
trung chùm điện tử thành điểm nhỏ chiếu lên mẫu chứ không dùng thấu kính
để phóng đại. Cho tia điện tử quét trên mẫu với biên độ nhỏ d (cỡ micromet)
còn tia điện tử quét trên màn hình với biên độ lớn D (tuỳ theo kích thước màn
hình), ảnh có độ phóng đại D/d. ảnh được phóng đại theo phương pháp này
thì mẫu không cần phải cắt lát mỏng và phẳng, cho phép quan sát được mẫu
kể cả khi bề mặt mấp mô ([18], [67]).
Độ phóng đại của kính hiển vi điện tử quét thông thường từ vài chục
ngàn đến vài trăm ngàn lần, năng suất phân giải phụ thuộc vào đường kính
của chùm tia chiếu hội tụ trên mẫu. Với sóng điện tử thông thường (dây sợi
đốt hình chữ V), năng suất phân giải là 5 nm đối với ảnh bề mặt bằng cách thu
điện tử thứ cấp, do đó cho ta thấy được các chi tiết thô trong công nghệ nano.
3.2.4.2. Thực nghiệm
Chúng tôi sử dụng máy hiển vi điện tử quét (SEM) Jeol 5410 LV, với
độ phóng đại 200000 lần, tại Phòng hiển vi điện tử quét thuộc Khoa lý,
Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Hà Nội và Phòng Vật liệu chất rắn, Viện
khoa học công nghệ.
66
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
3.2.5. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (HRTEM)
3.25.1. Nguyên tắc
Phương pháp dựa trên việc sử dụng chùm tia điện tử để tạo ảnh mẫu
nghiên cứu. Chùm tia được tạo ra từ catot qua hai “tụ quang”, điện tử sẽ được
hội tụ lên mẫu nghiên cứu. Một số chùm tia điện tử đập vào mẫu, một số chùm
tia điện tử truyền qua. Các điện tử truyền qua này được đi qua điện thế gia tốc
rồi vào phần thu và biến đổi thành tín hiệu ánh sáng, tín hiệu được khuếch đại,
đưa vào lưới điều khiển tạo độ sáng trên màn ảnh. Phương pháp HRTEM được
sử dụng trong việc đặc trưng bề mặt và cấu trúc vật liệu ([18], [67]).
3.2.5.2. Thực nghiệm
Với kính hiển vi điện tử truyền qua độ phân giải cao Jeol HRTEM 3010
(phòng thí nghiệm hiển vi điện tử, Viện vệ sinh dịch tễ Trung Ương, số 1 –
Yersin – Hà Nội) có điện thế từ 80 ÷ 300 kV, cho độ phân giải đối với điểm
ảnh là 0,17 nm và đối với ảnh mạng tinh thể là 0,14 nm, độ phóng đại từ 50
đến 1.000.000 lần. Ảnh hiển vi điện tử truyền qua cho biết được nhiều chi tiết
nano của mẫu nghiên cứu: hình dạng, kích thước hạt, biên giới hạt…
3.2.6. Phương pháp giải hấp NH3 theo chương trình nhiệt độ (TPD)
3.2.6.1. Nguyên tắc
Phương pháp giải hấp NH3 theo chương trình nhiệt độ (TPD-
Temperature Programmed Desorption) được tìm ra vào năm 1960 để xác định
lực axit và lượng các tâm axit tương ứng trên xúc tác. Người ta sử dụng NH3
như là một chất dò, được hấp phụ bão hoà trên các tâm axit của bề mặt xúc
tác. Các mẫu xúc tác sau khi hấp phụ cân bằng khí NH3 dưới điều kiện xác
định sẽ được gia nhiệt theo chương trình nhiệt độ. Khi năng lượng nhiệt cung
cấp lớn hơn năng lượng hấp phụ, các phân tử NH3 sẽ giải hấp khỏi bề mặt
67
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
chất hấp phụ và được khí mang đưa qua detector để xác định định lượng
([80], [90], [91]).
Mối quan hệ giữa nhiệt độ giải hấp và năng lượng (hay nhiệt) giải hấp
β = −
+
được biểu diễn theo phương trình sau:
2 log(T / ) p
E / 2,303RT p
d
log(E A / RC) d
(2.9)
Trong đó: β - tốc độ gia nhiệt tuyến tính
Tp - nhiệt độ của pik
Ed - năng lượng giải hấp
A - lượng chất bị hấp phụ bão hoà
C - hằng số tốc độ giải hấp
2/β) theo 1/Tp sẽ là đường thẳng chỉ quan hệ
Như vậy, đồ thị log (Tp
tuyến tính giữa hai đại lượng này trong quá trình giải hấp theo chương trình
nhiệt độ và từ đó có thể xác định giá tri Ed từ độ dốc của đồ thị.
Dựa vào diện tích pic giải hấp tại các nhiệt độ khác nhau ta có thể xác
định được lượng NH3 tiêu thụ và từ đó đánh giá được lực axit và số lượng các
tâm axit tương ứng. Các tâm axit yếu sẽ giải hấp NH3 ở nhiệt độ thấp và
ngược lại các tâm axit mạnh hơn giải hấp NH3 ở nhiệt độ cao hơn [11].
Các tâm axit yếu giải hấp tại nhiệt độ ≤ 2000C
Tâm axit trung bình giải hấp ở nhiệt độ từ 200 - 4000C
Các tâm axit mạnh giải hấp ở nhiệt độ ≥ 4000C
3.2.6.2. Thực nghiệm
Phương pháp giải hấp NH3 theo chương trình nhiệt độ được xác định
trên máy AutoChem II 2920 (phòng thí nghiệm Công nghệ lọc hóa dầu và Vật
liệu xúc tác, Khoa công nghệ hóa học, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội).
Nâng nhiệt độ với tốc độ 100C/phút đến 4500C, hoạt hoá 3 giờ trong dòng oxi,
sau đó thổi qua bằng khí heli và hạ xuống 250C với tốc độ hạ nhiệt 100C/phút
trong dòng heli để làm sạch mẫu. Cho hấp phụ NH3 trong 30 phút, sau đó thổi
68
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
sạch khí NH3 dư bằng khí heli trong vòng 1 giờ với vận tốc 6 lít/giờ. Tiến
hành giải hấp NH3 bằng cách nâng dần nhiệt độ với tốc độ gia nhiệt 100C/phút
cho đến khi hết khí hấp phụ qua quan sát đồ thị ở máy sắc ký. NH3 giải hấp
được định lượng trên máy sắc ký khí, detector TCD, khí mang là heli.
Lập đường phụ thuộc của lượng NH3 giải hấp theo nhiệt độ, lực của
tâm axit được đánh giá dựa vào nhiệt độ Tmax. Tại đó lượng NH3 giải hấp là
cực đại, các tâm axit mạnh sẽ có Tmax lớn và ngược lại. Tổng diện tích pic
NH3 cho biết lượng khí bị hấp phụ và từ đó có thể tính được nồng độ H+ (số
tâm axit) trên một đơn vị khối lượng xúc tác. Tuy nhiên, phương pháp TPD–
NH3 không cho phép phân biệt các tâm axit Bronsted và tâm Lewis của các
vật liệu xúc tác.
3.2.7. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp phụ [9]
3.2.7.1. Phương pháp xác định diện tích bề mặt (BET)
Phương pháp xác định diện tích bề mặt của các vật liệu rắn dựa trên giả
thuyết của Brunauer – Emmett - Teller và phương trình mang tên tác giả này
(phương trình BET (2.10)). Phương trình này được sử dụng rộng rãi để xác
định diện tích bề mặt vật liệu rắn:
− 1 1 + (2.10) −
]
[
m
m
0
C 1 P = W (P / P) 1 W C W C P 0
Trong đó: W là khối lượng của khí bị hấp phụ tại áp suất tương đối P/P0
Wm là khối lượng của khí bị hấp phụ tạo nên một đơn lớp trên
bề mặt vật liệu rắn.
C là hằng số BET, liên quan đến năng lượng hấp phụ trong đơn
lớp hấp phụ đầu tiên và kết quả là giá trị đó được đưa ra khả năng tương tác
qua lại giữa chất hấp phụ và chất bị hấp phụ.
Phương pháp BET đa điểm
69
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Đối với phần lớn chất rắn, khi dùng nitơ làm khí bị hấp phụ thì phương
trình BET cho ta đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của 1/[W(P0/P) – 1] theo P/P0
có dạng tuyến tính trong vùng giới hạn đẳng nhiệt hấp phụ – thông thường
trong vùng này P/P0 = 0,05 – 0,35.
Phương pháp BET đa điểm yêu cầu tối thiểu 3 điểm trong vùng áp suất
tương đối thích hợp. Sau đó khối lượng của một lớp khí bị hấp phụ được thu
=
lại từ hệ số góc s và hệ số tự do i của đồ thị BET:
s
− C 1 W C m
=
(2.11)
i
1 W C m
(2.12)
Do vậy, khối lượng đơn lớp hấp phụ Wm có thể thu được bởi sự kết hợp
=
biểu thức (2.20) và (2.21):
W m
1 + s 1
(2.13)
cs
=
Từ Wm có thể xác định được diện tích bề mặt chất rắn theo phương trình:
S
t
W NA m M
(2.14)
Trong đó: Acs: là tiết diện ngang của phân tử hấp phụ
N: là số avogađro (6,023.1013 phân tử/mol)
M: là phân tử khối của chất bị hấp phụ
Khí nitơ được sử dụng rộng rãi để xác định diện tích bề mặt vì từ khí cho
giá trị trung bình của hằng số C (50 ÷ 250) đối với phần lớn bề mặt chất rắn.
Đối với sự hấp phụ đơn lớp của N2 ở 77K, tiết diện ngang của N2 là 16,2 (A0)2.
Diện tích bề mặt riêng S của chất rắn có thể tính được từ toàn bộ diện
=
tích bề mặt St và khối lượng mẫu, theo biểu thức (2.24):
S
tS W
(2.15)
70
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Phương pháp BET đơn điểm
Đối với phép đo diện tích bề mặt thông thường, phương pháp đơn giản
thường được sử dụng là chỉ dùng một điểm trên đường đẳng nhiệt hấp phụ
trong vùng tuyến tính của đồ thị BET. Khi dùng N2 làm chất hấp phụ thì giá
trị hằng số C luôn đủ lớn để đảm bảo cho giả thiết rằng hằng số tự do trong
phương trình BET bằng 0. Do vậy, phương trình BET có dạng:
m
(2.16) = W W 1 P P 0 −
=
Bằng cách xác định lượng N2 hấp phụ tại một áp suất tương đối
0,3
P P 0
, có thể xác định khối lượng hấp phụ đơn lớp Wm khi dựa vào biểu
=
thức (2.16) và phương trình khí lí tưởng:
W m
PVM RT
P P 0
− 1
(2.17)
=
Toàn bộ diện tích bề mặt sau đó có thể thu được từ biểu thức (2.23). Đó là:
S
t
− PVNA (1 P / P ) 0 cs RT
(2.18)
3.2.7.2. Tổng thể tích lỗ và bán kính lỗ trung bình
Tổng thể tích lỗ được suy ra từ lượng hơi bị hấp phụ ở áp suất tương
đối bằng đơn vị, bằng cách coi các lỗ xốp được lấp đầy bằng chất bị hấp phụ
ở dạng lỏng. Nếu chất rắn không chứa các lỗ xốp lớn thì đường đẳng nhiệt
gần như là đường thẳng khi áp suất tương đối P/P0 tiến tới đơn vị. Tuy nhiên,
nếu có mặt của các lỗ lớn thì đường đẳng nhiệt tăng rất nhanh dốc gần xuống
vùng P/P0 = 1. Thể tích N2 bị hấp phụ (Vads) có thể được suy ra từ thể tích N2
lỏng (Vliq) chứa trong lỗ xốp khi sử dụng phương trình:
liq
= (2.19) V P V V ads m a RT
71
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Trong đó: Pa; T là áp suất và nhiệt độ tương ứng bao quanh
Vm: là thể tích phân tử hấp phụ lỏng (34,7 cm3/mol N2)
Vì áp suất tương đối P/P0 nhỏ hơn 1 nên nhiều lỗ chưa được lấp đầy, do
vậy toàn bộ thể tích và diện tích bề mặt của mẫu không đáng kể. Kích thước
lỗ xốp trung bình có thể được đánh giá từ thể tích lỗ xốp. Ví dụ, giả thiết rằng
lỗ xốp hình trụ (đường trễ kiểu A) thì bán kính lỗ xốp trung bình rp được tính
2V
liq
=
từ công thức:
r p
S
(2.20)
Trong đó: Vliq: thu được từ biểu thức (2.19)
S: là diện tích bề mặt BET.
3.2.7.3. Sự phân bố kích thước lỗ (mao quản trung bình)
Sự phân bố thể tích mao quản liên quan đến kích thước mao quản được
gọi là sự phân bố kích thước mao quản. Thông thường, đường đẳng nhiệt giải
hấp được sử dụng để tính toán sự phân bố kích thước lỗ xốp của chất hấp phụ
hơn là đường đẳng nhiệt hấp phụ. Đối với cùng một thể tích khí, đường đẳng
nhiệt giải hấp ở áp suất thấp tương ứng với năng lượng tự do thấp. Do khí N2
được dùng rộng rãi để nghiên cứu sự hấp phụ, nó có những đặc trưng riêng và
là chất bị hấp phụ phổ biến nhất cho việc xác định sự phân bố kích cỡ mao
quản. Do vậy, những công thức tiếp theo sử dụng N2 như là chất bị hấp phụ.
Nếu giả thiết rằng các lỗ xốp có dạng hình trụ thì có thể tính toán kích
− γ
=
thước mao quản trung bình bằng cách sử dụng phương trình Kenvin:
r K
2 V m RT ln(P / P ) 0
(2.21)
Trong đó:
- γ : là sức căng bề mặt của N2 tại điểm sôi của nó (8,85 ergs/cm2
ở 77K)
72
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
- Vm: là thể tích phân tử của N2 lỏng (34,7cm3/mol)
- R: là hằng số khí (8,314.107)
- T: là điểm sôi của N2
- P/P0: là áp suất tương đối của N2
- rK: là bán kính của lỗ xốp theo Kenvin
=
Thay các hằng số đối với trường hợp của N2, biểu thức (2.21) được rút gọn:
0 r (A) K
4,15 log(P / P) 0
(2.22)
Bán kính Kenvin rK là bán kính của lỗ mà quá trình ngưng tụ xảy ra ở
áp suất tương đối P/P0. Vì trước khi ngưng tụ, một số quá trình hấp phụ xảy ra
trên thành mao quản, do đó rK không thể hiện bán kính thực của lỗ xốp.
Ngược lại, trong suốt quá trình giải hấp lớp bị hấp phụ duy trì trên thành khi
xuất hiện sự bay hơi. Bán kính mao quản thực rP được đưa ra:
rP = rK + t (2.23)
Trong đó: t là chiều dày của lớp bị hấp phụ
Để xác định sự phân bố kích thước mao quản, giá trị t được tính theo
phương pháp Boer và được đưa ra trong biểu thức (2.24):
0 t(A)
13,99 + log(P / P) 0,034
0
=
1/ 2
(2.24)
Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp được sử dụng để đặc trưng
cho cấu trúc của vật liệu mao quản trung bình. Đường đẳng nhiệt hấp phụ –
giải hấp của vật liệu mao quản trung bình thuộc kiểu IV. Dựa vào các số liệu
đo được để xác định các thông số cấu trúc như: bề mặt riêng, thể tích mao
quản, sự phân bố kích thước mao quản.
3.2.7.4. Thực nghiệm
Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ–giải hấp N2 được ghi trên máy
Micromerictics ASAP 2010. Quá trình hấp phụ ở nhiệt độ -1960C (77 K); áp
73
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
suất 770 mmHg; lưu lượng khí mang 25 ml/phút. Mẫu được xử lí chân không
ở 2000C trong 6h trước khi đo. Đường đẳng nhiệt hấp phụ trong vùng P/P0
nhỏ (0,05 ÷ 0,35) được ứng dụng để đo diện tích bề mặt riêng, còn toàn bộ
đường đẳng nhiệt hấp phụ dùng để xác định phân bố kích thước lỗ xốp.
Đường phân bố kích thước này được tính theo công thức Barrett – Joyner –
Halenda (BJH).
74
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. TỔNG HỢP VÀ ĐẶC TRƯNG XÚC TÁC
Chất xúc tác Pt/Montmorillonite được chống bởi zirconi sunfat hóa
2-) đã được tổng hợp theo phương pháp đã trình bày ở phần 2,
(ZrO2/ SO4
chương 3 và tiến hành đặc trưng xúc tác bằng các phương pháp: Phương pháp
nhiễu xạ Rơnghen (XRD), phương pháp phổ Raman, phương pháp phân tích
nhiệt (DTA), phương pháp giải hấp NH3 theo phương trình nhiệt độ (TPD),
phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM), và phương pháp hiểm vi điện tử
truyền qua (HRTEM).
4.1.1. Tổng hợp và đặc trưng xúc tác
4.1.1.1. Phương pháp phổ nhiễu xạ Rơnghen (XRD)
2- ta thấy, các pic đặc trưng
Đo phổ nhiễu xạ tia X của mẫu ZrO2/SO4
ZrO2, (t)
ZrO2, (t)
ZrO2, (t)
ZrO2, (m)
ZrO2, (t)
2-
của tại góc 2θ bằng 300, 350, 500 và 600 (hình 4.1) [5].
Hình 4.1: Giản đồ nhiễu xạ tia X của ZrO2/SO4
75
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Trên giản đồ nhiễu xạ Rơnghen hình 4.1 nhận thấy, chất tạo thành là
hỗn hợp của 2 dạng thù hình là tứ diện nghiêng (t) và đơn nghiêng (m) và tỉ lệ
2-/ZrO2 thì pha ZrO2 tứ diện nghiêng (t) là quan trọng nhất và
t/m thay đổi rất lớn theo phương pháp điều chế khác nhau. Tuy nhiên, đối với
trường hợp SO4
tồn tại chủ yếu, còn sự xuất hiện pha đơn nghiêng chiếm tỉ lệ rất thấp trong
mẫu xúc tác thu được.
Để nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian đến sự kết tủa Zr(OH)4. Chúng
2-/ZrO2 ở các thời gian khác nhau.
tôi tiến hành điều chế 3 mẫu xúc tác SO4
ộ đ g n ờ ư C
10 20 30 40 50 60 2θ (độ)
Kết quả đưa ra ở hình 4.2.
Hình 4.2: Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của 3 mẫu xúc tác(a) SZ-1;(b) SZ-3
và (c) SZ-8.
2-/ZrO2 với thời gian kết tủa 1h mới bắt đầu
Có thể nhận thấy trên hình 4.2, thời gian kết tủa Zr(OH)4 có ảnh hưởng rất
lớn đến cấu trúc của tinh thể SO4
xuất hiện mầm tinh thể và hầu như vẫn ở dạng vô định hình (hình 4.2 a).
Chúng ta có thể nhận thấy rằng, khi tăng thời gian kết tủa từ 3h lên đến 8h đã
2-/ZrO2. Việc giảm bớt sự xuất hiện
làm tăng độ ổn định của pha tứ diện SO4
của pha đơn nghiêng trong vùng 2θ = 180 chính là do thời gian kết tủa của
Zr(OH)4 tăng lên.
76
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
2-.
2- tăng,
Mặt khác, hoạt tính xúc tác của vật liệu còn phụ thuộc vào nồng độ SO4
Các nghiên cứu hiện nay vẫn đang còn tranh luận là khi nồng độ SO4
cấu trúc có liên kết S-O-S tương tự với pyrosulfuric hoặc axit polysulfuric sẽ
tồn tại trên bề mặt. Để kiểm soát cấu trúc và hoạt tính xúc tác, chúng tôi tiến
2- lắng đọng trên bề mặt ZrO2 ở các nồng độ
hành bằng cách cho lượng SO4
2- thay đổi
khác nhau. Kết quả chỉ ra ở hình 4.3. Có thể nhận thấy nồng độ SO4
ZrO2 (t)
(t)
(t)
(t)
ộ đ g n ờ ư C
10 20 30 40 50 60 2θ (độ)
không ảnh hưởng đến cấu trúc của tinh thể ZrO2.
Hình 4.3: Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của 2 mẫu xúc tác:
(a) SZ-1N; (b) SZ-2N.
Hình 4.4, trình bày giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu sét chưa chống ban
đầu và mẫu sét sau khi đã chống ZrO2. Trên giản đồ có thể thấy mẫu sét chưa
chống ban đầu được đặc trưng bởi các pic với góc 2θ bằng 200, 250 và 350.
Mẫu sét sau khi chống ZrO2 có xuất hiện thêm 1 pic ở góc 2θ bằng 280, đây
chính là pic đặc trưng cho pha tinh thể của ZrO2 như trên ta đã tìm hiểu, pic
này chứng minh sự có mặt của ZrO2 giữa các lớp sét.
77
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
ZrO2
b
a
2-(b)
.
2 4 9 7 1
Hình 4.4 : Phổ XRD của mẫu sét ban đầu (a) và mẫu sét chống ZrO2/SO4
Hình 4.5: Phổ XRD góc nhỏ của mẫu sét ban đầu (a) và mẫu sét chống
2-(b)
ZrO2/SO4
78
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Hình 4.5 là kết quả chụp XRD góc nhỏ của mẫu sét chưa chống và mẫu
sét đã tham gia chống ZrO2. Khi chống sét làm khoảng cách d001 tăng lên, cụ
thể trong trường hợp này, sau khi chống d001 của mẫu sét chống (đã nung ở
4000C ) là 17.942 A0. Điều này cũng cho thấy, ngoài việc làm tăng khoảng
cách cơ sở d001, sét chống khá bền nhiệt.
2- vào giữa các lớp sét Montmorillonite.
Kết quả chụp XRD đã chứng tỏ bước đầu đã chống thành công
ZrO2/SO4
Figure:
4.1.1.2. Phương pháp phân tích nhiệt (TG/ DTA)
Experiment:L-H
Crucible:PT 100 µl
Atmosphere:Air
11/12/2008
Mass (mg): 67.55
Procedure: 30 ----> 1000C (10C.min-1) (Zone 2)
Labsys TG
TG/%
HeatFlow/µV
d TG/% /min 0
Exo
20
20
15
-2
10
0
5
Peak :135.72 °C
0
-4
-20
-5
Mass variation: -15.67 %
-10
-6
-40
-15
Mass variation: -6.28 %
-20
100
300
500
700
900
Furnace temperature /°C
Hình 4.6: Giản đồ phân tích nhiệt vi sai TG/DTA mẫu
sét chống Zr(OH)4 (chưa nung).
Hình 4.6, cho thấy kết quả phân tích nhiệt vi sai TG/ DTA của mẫu sét
MZ (mẫu sét sau khi khuấy với dung dịch ZrOCl2 chưa nung). Nhận thấy
được ở khoảng nhiệt độ 135,720C có xuất hiện pic thể hiện sự giảm khối
lượng 15,67%, đây là sự giảm khối lượng do sự mất nước hấp phụ của mẫu.
79
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Tiếp theo đến khoảng từ 5000C trở đi là sự mất nước bên trong Zr(OH)4 để
tạo thành tinh thể ZrO2 (sự chuyển pha từ vô định hình sang tứ diện nghiêng
của tinh thể ZrO2 [5]). Các pic thu nhiệt xuất hiện không rõ ràng lắm có thể là
do tỷ lệ Zr(OH)4 chống giữa các lớp sét thấp, với sự mất nước này khối lượng
mẫu giảm 6,28%.
4.1.1.3. Phương pháp phổ Raman
Hình 4.7: Phổ Raman của mẫu sét đã chống ZrO2.
Hình 4.7 là kết quả phổ Raman của mẫu sét đã chống ZrO2. Các pic đặc
trưng của tinh thể ZrO2 nằm trong khoảng bước sóng từ 150 đến 700 cm-1. Ở
đây xuất hiện hai dải pic của cả hai pha tinh thể ZrO2 đơn nghiêng và pha tinh
thể tứ diện nghiêng của ZrO2. Pha ZrO2 đơn nghiêng được đặc trưng bởi các
pic ở 174, 229, 361 và 497 cm-1, pha ZrO2 tứ diện nghiêng được đặc trưng bởi
pic ở 300 và 650 cm-1 [87]. Điều này cho thấy trong mẫu xúc tác của chúng ta
pha đơn nghiêng chiếm ưu thế hơn so với pha tứ diện nghiêng.
80
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
4.1.1.4 Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM)
Hình 4.8 và 4.9 cho thấy ảnh SEM của mẫu sét ban đầu và sau khi đã
2-. Mẫu sét chưa chống ZrO2/SO4
2- có dạng vô định hình rất
2- có
chống ZrO2/ SO4
rõ ràng. Còn đối với hình ảnh chụp SEM của mẫu sét đã chống ZrO2/SO4
thể thấy rất rõ khoảng cách giữa các lớp sét là khác nhau, kết hợp với kết quả
2- đã được chống thành công vào giữa hai lớp sét
phổ XRD chứng tỏ ZrO2/SO4
của xúc tác. Tuy nhiên, các hình ảnh trên vẫn chưa thể hiện rõ cấu trúc tinh
thể của mẫu xúc tác.
Hình 4.8. Ảnh chụp SEM của mẫu sét ban đầu.
Hình 4.9: Ảnh chụp SEM của mẫu sét chống.
81
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
a
b
4.1.1.5. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (HRTEM)
Hình 4.10: Ảnh chụp TEM của mẫu sét chống.
2-. Ta có thể thấy được các chấm đen trên hình a có sự phân bố rất đồng
Hình 4.10, ảnh chụp HRTEM của mẫu xúc tác đã tẩm Pt sau khi chống
ZrO2/SO4
đều, đó chính là tâm kim loại Pt phân bố trên bề mặt chất xúc tác. Hình b cho ta
biết được kích thước của Pt khá lớn có tâm lên đến 8,67 nm và 14,5 nm. Điều đó
chứng tỏ rằng tâm kim loại Pt đã được hình thành trên xúc tác lưỡng chức.
4.1.1.6. Phương pháp giải hấp NH3 theo chương trình nhiệt độ (TPD)
Kết quả đo giải hấp TPD-NH3 đã được chỉ ra trên hình 4.11
Hình 4.11: Giản đồ giải hấp chương trình nhiệt độ TPD mẫu sét chống
82
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
2- ta nhận thấy mẫu xúc tác xuất hiện trong ba khoảng nhiệt độ. Một
Qua giản đồ giải hấp chương trình nhiệt độ TPD mẫu sét đã chống
ZrO2/SO4
pic nhọn cường độ mạnh, chủ đạo ở nhiệt độ giải hấp là Tmax= 4500C, và hai
pic có cường độ yếu hơn giải hấp tại nhiệt độ 203,50C và 525,50C. Pic có
nhiệt độ giải hấp T > 4000C chứng tỏ là có lực axit mạnh, còn pic kia thể hiện
lực axit trung bình. Kết quả TPD đã chứng tỏ rằng mẫu xúc tác lực axit đủ
mạnh để thỏa mãn điều kiện sử dụng làm xúc tác cho phản ứng isome hóa n-
parafin nhẹ.
4.1.1.7. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ – giải hấp phụ
Để xác định diện tích bề mặt, thể tích lỗ xốp, đường kính mao quản
chúng ta sử dụng phương pháp hấp thụ N2 theo BET, đường đẳng nhiệt hấp
phụ được đưa ra ở hình 4.12.
Hình 4.12: Đường đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp N2 mẫu sét chống
83
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Diện tích bề mặt được xác định bằng phép đo trong vùng tuyến tính của
đường cong BET. Kết quả được trình bày ở hình 4.12 là đường đẳng nhiệt hấp
phụ – giải hấp. Nhìn vào vòng trễ ta có thể xác định đây là loại vật liệu có
mao quản trung bình, nhìn vào hình dáng vòng trễ có thể biết được mao quản
hình trụ [9]. Ta có thể xác định được diện tích bề mặt BET là 47,95 m2/g tăng
hơn so với diện tích bề mặt BET của montmorillonite ban đầu (35,1 m2/g), thể
tích lỗ xốp 0,073 cm3/g và đường kính mao quản trung bình là 60,92 A0 (hình
4.13)
Hình 4.13: Giản đồ đường phân bố kích thước mao quản mẫu sét chống
84
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Dựa vào kết quả nghiên cứu tài liệu và các phổ cùng ảnh chụp hiển vi
2- như hình 4.14.
trình bày ở trên, ta có thể đưa ra một cơ chế cho quá trình chống sét
montmorillonite bằng ZrO2/SO4
Hình 4.14: Quá trình hình thành sét chống
Đầu tiên sét được khuấy bão hòa với Na+ để trao đổi ion với các cation
có trong cấu trúc của sét. Quá trình khuấy này làm sét trương ra và xuất hiện
các khoảng trống giữa các lớp sét (xem hình 1.10). Tiếp theo sau khi được
2-
khuấy với ZrOCl2 giữa các lớp sét xuất hiện Zr(OH)4 vô định hình, ion SO4
sau đó được tẩm lên trên Zr(OH)4. Sau khi nung ở nhiệt độ cao, Zr(OH)4 mất
2- không những có tác dụng làm tăng tính axit của xúc tác mà còn làm
nước trở thành ZrO2 có cấu trúc tinh thể dạng tứ diện nghiêng. Sự có mặt của
ion SO4
ổn định cấu trúc tinh thể của ZrO2 mới tạo thành, ngăn cản sự chuyển sang
cấu trúc tinh thể dạng đơn nghiêng. Cuối cùng kim loại Pt được phân tán đều
lên trên bề mặt của sét, đóng vai trò là tâm kim loại cho xúc tác.
85
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
4.3. THỬ HOẠT TÍNH XÚC TÁC
Ở quy mô phòng thí nghiệm thường sử dụng phương pháp dòng để
nghiên cứu hoạt tính xúc tác. Thiết bị phản ứng được sử dụng thông dụng
nhất là loại “tầng cố định”. Ống phản ứng chứa lớp chất xúc tác có khối lượng
1g ở áp suất khí quyển. Trong một thiết bị phản ứng như thế, một hỗn hợp khí
hoặc hơi có thành phần không thay đổi theo thời gian đi qua lớp chất xúc tác
giữ ở nhiệt độ đã chọn. Các chất phản ứng được chuyển hóa một phần hoặc
toàn bộ, hỗn hợp sản phẩm được phân tích bằng sắc kí khí.
Nếu thiết bị phản ứng có đường kính bên trong là 10 mm, chiều cao lớp
chất xúc tác là 50 mm thì đường kính hạt phải từ 1 ÷ 1,5 mm để thiết bị phản
ứng hoạt động tốt trong chế độ dòng. Do vậy, thường ép bột chất xúc tác, sau
đó, giã và rây để chọn cỡ hạt có kích thước đáp ứng theo tiêu chuẩn nói trên.
Khi tuân theo các điều kiện đó, người ta tránh được hiện tượng chảy xoáy
trong ống phản ứng.
Trong ống phản ứng, dòng khí – hơi liên tục đi qua lớp chất xúc tác cố
định, nếu các điều kiện cho trước thoả mãn thì độ giảm hoạt tính xúc tác theo
thời gian làm việc trong dòng phản ứng được xác định bởi sự giảm của độ
chuyển hóa theo thời gian.
Chất xúc tác được ép viên, rây lấy cỡ hạt thích hợp và đưa vào ống
phản ứng bằng thạch anh đường kính trong 10 mm. Ống phản ứng được đặt
trong lò. Trước khi tiến hành phản ứng, chất xúc tác được hoạt hoá bằng
không khí trong thời gian 3 giờ ở 5500C, áp suất của hệ là 1 atm, tốc độ thể
tích 1h-1 không có sự có mặt của H2.
86
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Hình 4.15: Sơ đồ thiết bị phản ứng isome hóa n- C5/C6
1. Kim bơm mẫu 10. Bộ phận điều chỉnh nhiệt độ
2. Ống phản ứng 11. Máy thổi khí
3. Lớp xúc tác 12. Bộ phận điều chỉnh lưu lượng khí
4,5. Lớp thạch anh 13. Sinh hàn
6. Dây điện trở 14. Ống cổ chuyền
7. Lớp cách nhiệt 15. Cốc làm lạnh
8. Bộ phận điều chỉnh nhiệt độ 16. Bình quả nhót
9. Pin nhiệt điện 17. Bộ phận điều chỉnh tốc độ bơm
87
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
2- bước đầu
Hoạt tính của xúc tác sét montmorillonite chống ZrO2/SO4
đã được kiểm tra trong phản ứng isome hóa n-ankan. Phép kiểm tra được tiến
hành trên thiết bị phản ứng lớp xúc tác cố định, nguyên liệu ban đầu có thành
phần chủ yếu là phân đoạn xăng nhẹ n-C5/C6 với tỷ lệ của từng cấu tử lần lượt
là 7:13. Nguyên liệu n-C5/C6 được đưa vào ống phản ứng thông qua máy điều
chỉnh tốc độ thể tích tự động.
Sản phẩm phản ứng được phân tích bằng phương pháp sắc kí khí GC –
MS (phòng thí nghiệm Bộ môn Địa sinh thái – Trường Đại học Mỏ - Địa chất
và Phòng thí nghiệm Lọc hóa Dầu - Đại học Khoa Học Tự Nhiên Hà Nội).
Hoạt tính chất xúc tác được đánh giá qua hàm lượng nguyên liệu và sản
phẩm trong hỗn hợp nguyên liệu trước và sau phản ứng:
C,% =
× 100
% Sản phẩm % Nguyên liệu - Độ chọn lọc S của cấu tử i xác định theo công thức:
% Sản phẩm i
Si ,% =
× 100
% Tổng sản phẩm
- Độ chuyển hóa được tính theo công thức :
Chúng tôi tiến hành thực hiện phản ứng isome hóa C5/C6 dưới áp suất
khí quyển, nhiệt độ phản ứng là 260 - 2800C với tốc độ thể tích 1h-1. Kết quả
phản ứng được thể hiện qua bảng 2.
88
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
2-.
Bảng 2: Lượng sản phẩm theo % khối lượng thu được khi sử dụng xúc tác
Pt/sét montmorillonite chống bởi ZrO2/SO4
Nhiệt độ 2600C 2800C
Butane 0,79 9,904
n-Pentane 16,91 15,47
Isopentane 1,67 4,896
2-2-Dimetylbutane 4,42 2,742
2 Metylpentane 1,37 5,516
3 Metylpentane 9,92 12,095
Hexene 3,38 1,45
n-Hexane 44,63 41,44
Dimetylpentane 7,24 2,703
Metylcyclopentane 3,85 2,602
Benzene 5,64 1,168
Độ chuyển hóa, % 38,28 43,08
Độ chọn lọc, % 74,5 71,0
Phản ứng isome hóa có hiệu quả ở nhiệt độ 2600C và 2800C với độ
chọn lọc và độ chuyển hóa khá cao trong điều kiện thực hiện thí nghiệm. Tỷ
lệ n-pentan, n-hexan còn lại chưa phản ứng lần lượt là 15,47%, 41,44% ở
2800C, trường hợp ở 2600C thì tỷ lệ n-pentan, n-hexan còn lại chưa phản ứng
là 16,91% và 44,63%. Độ chuyển hóa ở 2800C cao hơn so với 2600C có thể là
do ở nhiệt độ cao xảy ra sự phân cắt β các cacbocation, điều này dễ nhận thấy
dựa vào tỷ lệ các sản phẩm nhẹ (sản phẩm của quá trình cracking bẻ mạch
cacbon).
Chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát sự ảnh hưởng của hàm lượng chất
xúc tác đến độ chuyển hóa và độ chọn lọc của sản phẩm của quá trình isome
89
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
hóa phân đoạn naphtha nhẹ trong cùng điều kiện nhiệt độ 2800C và tốc độ thể
tích 1h-1.Theo đó, hàm lượng xúc tác phù hợp trong điều kiện thí nghiệm là
1,2g chất xúc tác. Điều này được chứng minh thể hiện qua bảng 3 và hình 4.16.
Bảng 3: Thành phần sản phẩm (% khối lượng) quá trình isome hóa C5-C6 với
hàm lượng xúc tác khác nhau
Hàm lượng xúc tác 0,8 g 1,0 g 1,2 g 1,4 g Sản phẩm, %
Sản phẩm iso chính 1,69 1,67 30,554 21,465
Các sản phẩm nhẹ khác 0,024 0,015 9,904 8,714 (xycloankan, ankan nhẹ)
Aromat 0 0,001 1,168 2,61
Độ chuyển hóa, % 1,82 2,6 43,08 31,65
Độ chọn lọc, % 91,75 85 71,0 67,82
+ Sản phẩm iso chính bao gồm: iso-pentan; neo-pentan; 2-metylpentan;
3-metylpetan; 2,2-dimetylpentan; 2,3- dimetylpentan; 1,2-dimetylxiclopentan;
1,3-dimetylxiclopentan;
+ Sản phẩm nhẹ khác: xiclopentan, xiclohexan.
+ Aromat: benzen, toluene.
2- trong phản
Kết quả thử hoạt tính xúc tác Pt/Montmorillonite/Zr2O/SO4
ứng đồng phân hóa phân đoạn naphtha nhẹ mặc dù độ chuyển hóa chưa cao
nhưng trong sản phẩm đã xuất hiện các sản phẩm mong muốn của quá trình
isome hóa là isopentan, 2-2DMB, 2MP, 3MP, DMP và MCP.
90
Dương Viết Cường
Luận văn cao học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Độ chuyển hóa, %
Độ chọn lọc, %
90
.
.
80
40
.
* .
70
60
30
. *
50
40
20
30
20
10
10
* 0,8
* 1,0
1,2
1,4
Lượng xúc tác, g
Hình 4.16: Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc độ chuyển hóa và
Độ chuyển hóa:
Độ chọn lọc: độ chọn lọc vào lượng xúc tác * .
* . Như vậy, từ các kết quả phân tích ở trên chứng minh rằng, chúng tôi đã
2- vào giữa các lớp sét làm tăng tính axit
chống sét thành công bằng ZrO2/SO4
của xúc tác, khi tẩm Pt thì ta có thêm các tâm kim loại phân bố khá tốt trên bề
mặt xúc tác làm tăng độ bền của xúc tác. Như vậy, chất xúc tác tổng hợp được
vừa có lực axit, vừa có tâm kim loại, bước đầu thỏa mãn điều kiện làm xúc tác
cho quá trình isome hóa n-parafin nhẹ.
91
Dương Viết Cường
KẾT LUẬN
2- ứng dụng làm xúc tác cho quá
Với mục đích nghiên cứu tổng hợp đặc trưng xúc tác Pt/
Montmorillonite được chống bởi ZrO2/SO4
trình isome hóa n-parafin, kết quả thu được:
1. Tổng hợp thành công xúc tác Pt/ Montmorillonite được chống bởi
2- từ sét montmorillonite (Merck, Đức) với cỡ hạt nhỏ hơn 2µm.
ZrO2/SO4
2. Qua các phương pháp phân tích đặc trưng hóa lý bằng phương pháp
nhiễu xạ tia X, phân tích nhiệt vi sai TG/DTA, chụp hiển vi điện tử SEM,
TEM, phân tích quang phổ Raman, phân tích hấp phụ giải hấp NH3 theo
chương trình nhiệt độ đã cho kết quả bước đầu thỏa mãn làm xúc tác cho quá
trình isome hóa n-parafin do vừa có lực axit, vừa có tâm kim loại.
3. Đưa ra được cơ chế của quá trình chống sét montmorillonite bởi tinh
thể ZrO2 đồng thời đưa ra được đánh giá ban đầu về loại xúc tác mới này. Xúc
tác tổng hợp tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có, đây hứa hẹn sẽ là một
loại xúc tác có tiềm năng lớn trong tương lai.
4. Kiểm tra hoạt tính xúc tác bằng phản ứng isome hóa hỗn hợp n-C5/C6
cho thấy có khả năng isome hóa n-parafin cho những sản phẩm đồng phân
mạch nhánh mong muốn có trị số octan cao. Tìm được các điều kiện tối ưu
cho phản ứng isome hóa là:
- Tỷ lệ dòng nguyên liệu C5/C6: 7/13
- Nhiệt độ phản ứng isome hóa: 2800C
- Hàm lượng chất xúc tác: 1,2 g
- Tốc độ thể tích: 1h-1
- Áp suất phản ứng: khí quyển