ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

PHAN THỊ MAI LAN

ĐẶC ĐIỂM HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA Ở CÁC ĐỐI

TƯỢNG ĐƯỢC QUẢN LÝ TẠI BAN BẢO VỆ, CHĂM SÓC

SỨC KHỎE CÁN BỘ TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

PHAN THỊ MAI LAN

ĐẶC ĐIỂM HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA Ở CÁC ĐỐI

TƯỢNG ĐƯỢC QUẢN LÝ TẠI BAN BẢO VỆ, CHĂM SÓC

SỨC KHỎE CÁN BỘ TỈNH CAO BẰNG

Chuyên ngành: Nội khoa

Mã số: 8720107

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

Hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH XUÂN TRÁNG

THÁI NGUYÊN - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

và kết quả trong Luận văn là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kì

hình thức nào.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019

Tác giả

Phan Thị Mai Lan

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình hoàn thành luận văn thạc sỹ Nội khoa, tôi được sự giúp

đỡ tận tình của các Thầy, Cô, bạn bè và gia đình.

Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên,

phòng Đào tạo - bộ phận đào tạo sau đại học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và

giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô trong bộ môn Nội đã truyền

thụ cho tôi những kiến thức quý báu và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi

hoàn thành luận văn.

Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Trịnh Xuân

Tráng, người thầy đã chỉ bảo rất tận tình và trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành

luận văn.

Tôi xin cảm ơn chân thành đến Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ

tỉnh Cao Bằng đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu.

Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, những người đã luôn cổ vũ, động viên

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Sau cùng tôi xin dành tình cảm và lòng biết ơn vô hạn tới gia đình đã

luôn bên tôi những lúc thuận lợi cũng như khó khăn trong quá trình học tập và

hoàn thành luận văn.

Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019

Tác giả

Phan Thị Mai Lan

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BMI Body mass index: Chỉ số khối cơ thể

BVSKCB Bảo vệ sức khỏe cán bộ

Đái tháo đường ĐTĐ

EGIR European Group for Study of Insulin Resistance: Nhóm nghiên

cứu kháng insulin của châu Âu

HA Huyết áp

HATT Huyết áp tâm thu

HATTr Huyết áp tâm trương.

HCCH Metabolic syndrome: Hội chứng chuyển hóa

HDL-C High Density Lipoprotein cholesterol: Lipoprotein tỉ trọng cao

IDF International Diabetes Federation: Liên đoàn Đái tháo đường

Quốc tế

JNC Joint National Committee: Uỷ ban tăng huyết áp quốc tế của Hoa

Kỳ

LDL-C Low Density Lipoprotein cholesterol: Lipoprotein tỉ trọng thấp

NCEP - National Cholesterol Education Program, Adult Treatment Panel

ATP III III (Chương trình giáo dục Cholesterol của Hoa Kỳ, kênh điều

trị dành cho người trưởng thành)

TBMMN Tai biến mạch máu não

Triglyceride TG

Tăng huyết áp THA

RLGMLĐ Rối loạn glucose máu lúc đói

Vòng eo VE

Vòng mông VM

WHO World Health Organization: Tổ chức Y tế Thế giới

WHR Waist hip ratio: Tỉ lệ vòng bụng/vòng mông

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................. 1

Chương 1: TỔNG QUAN ............................................................................... 3

1.1. Một số đặc điểm hội chứng chuyển hóa .................................................. 3

1.2. Một số yếu tố liên quan đến HCCH .................................................... 12

1.3. Tình hình mắc hội chứng chuyển hóa trên thế giới và ở Việt Nam ......... 16

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 20

2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 20

2.2. Địa điểm nghiên cứu ........................................................................20

2.3. Thời gian nghiên cứu ..........................................................................20

2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 20

2.5. Chỉ tiêu nghiên cứu ................................................................................. 21

2.6. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................... 22

2.7. Một số tiêu chuẩn được áp dụng trong nghiên cứu .................................. 27

2.8. Phương tiện nghiên cứu .......................................................................... 28

2.9. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu ................................................... 29

2.10. Đạo đức nghiên cứu ............................................................................... 30

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 32

3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu .................................................... 32

3.2. Một số yếu tố liên quan với hội chứng rối loạn chuyển hóa .................... 36

Chương 4: BÀN LUẬN .................................................................................. 43

4.1. Đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở các đối tượng được quản lý tại Ban bảo

vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh Cao Bằng. ................................................ 43

4.2. Một số yếu tố liên quan với hội chứng rối loạn chuyển hóa .................... 48

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58

KIẾN NGHỊ .................................................................................................... 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Tiêu chuẩn xác định béo bụng theo vòng eo của IDF – 2005 ........ 7

Bảng 2.1. Đánh giá BMI áp dụng cho người châu Á ...................................... 27

Bảng 2.2. Phân độ THA của Hội tim mạch Việt Nam năm 2018 ................... 28

Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi và giới .................. 32

Bảng 3.2. Giá trị một số chỉ tiêu nhân trắc của đối tượng nghiên cứu ở hai giới

......................................................................................................................... 33

Bảng 3.3. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu theo BMI ..................................... 34

Bảng 3.4. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu theo phân độ THA của Hội tim mạch

Việt Nam năm 2018 ........................................................................................ 34

Bảng 3.5. Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo giới .................................... 35

Bảng 3.6.Tỷ lệ mắc các yếu tố chẩn đoán Hội chứng chuyển hóa xếp theo

nhóm tuổi ......................................................................................................... 35

Bảng 3.7. Tỷ lệ mắc từng yếu tố chẩn đoán HCCH theo giới ........................ 36

Bảng 3.8. Mối liên quan giữa chỉ số BMI và hội chứng chuyển hóa .............. 36

Bảng 3.9. Mối liên quan giữa giới và hội chứng chuyển hóa.......................... 37

Bảng 3.10. Mối liên quan giữa độ tuổi và hội chứng chuyển hóa ................... 37

Bảng 3.11. Mối liên quan giữa mức độ hoạt động thể lực với HCCH ........... 38

Bảng 3.12. Mối liên quan giữa hút thuốc lá với HCCH ................................. 38

Bảng 3.13. Mối liên quan giữa stress với HCCH ........................................... 39

Bảng 3.14. Mối liên quan giữa thói quen ăn mặn với HCCH.........................

......................................................................................................................... 39

Bảng 3.15. Mối liên quan giữa thói quen ăn nhiều đạm với HCCH ............... 40

Bảng 3.16. Mối liên quan giữa tiền sử tăng huyết áp với HCCH ................... 40

Bảng 3.17. Mối liên quan giữa tiền sử đái tháo đường với HCCH ................ 41

Bảng 3.18. Mối liên quan giữa tiền sử gan nhiễm mỡ với HCCH ................. 41

Bảng 3.19. Mối liên quan giữa tiền sử bệnh tim mạch với HCCH ................. 42

Bảng 3.20. Mối liên quan giữa tiền sử tai biến mạch máu não với HCCH .... 42

Hình 1.1. Cơ chế vận chuyển glucose trong kháng insulin ............................ 10

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Phân loại đối tượng nghiên cứu theo giới .................................. 32

Biểu đồ 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo dân tộc ............................... 33

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hội chứng chuyển hóa là một trong những vấn đề sức khỏe cộng đồng

được quan tâm nhất trong thiên niên kỷ XXI. Theo Hiệp hội đái tháo đường thế

giới (IDF) HCCH là một tập hợp các yếu tố nguy cơ tim mạch như béo phì

bụng, kháng Insulin, rối loạn lipid máu, dung nạp glucose bất thường và tăng

huyết áp, ảnh hưởng đến chất lượng sống của con người và tốn kém đáng kể

ngân sách về y tế toàn dân của nhiều nước trên thế giới [33], [42]. Hội chứng

chuyển hóa ngày càng tăng trên thế giới, tỷ lệ này ở các nước phát triển khá cao

và đang có xu hướng gia tăng báo động ở các nước đang phát triển cùng với sự

phát triển của kinh tế xã hội [77].

Trên thế giới có khá nhiều những nghiên cứu về HCCH như ở châu Âu,

tỷ lệ HCCH trong cộng đồng khoảng 24% dân số song nếu chỉ tính ở lứa tuổi

trên 50 thì tỷ lệ đó là 40% [85]. Tại Hoa Kỳ theo tiêu chuẩn NCEP - ATP III

thì tỷ lệ hội chứng chuyển hóa ở nam là 22,8% và nữ là 22,6%. Còn trên đối

tượng là cán bộ nhân viên trong trường đại học Putra Maylaysia thì tỷ lệ HCCH

cũng theo NCEP - ATP III là 33,5% [60].

Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyên Văn Thành và cộng sự tại Bạc Liêu

nhận thấy tỷ lệ HCCH ở đối tượng cán bộ tỉnh ủy quản lý chiếm 24% [31]. Còn

theo Trang Mộng Hải Yến (2014) nghiên cứu ở đối tượng cán bộ tỉnh ủy quản

lý tại Long An, HCCH chiếm 30,34% [39]. Nghiên cứu của Nguyễn Cảnh Phú

và CS (2012) cho thấy tỷ lệ cán bộ hưu trí bị HCCH trên địa bàn tỉnh Nghệ An

là 35,1% [14].

Nhiều nghiên cứu cho thấy người mắc HCCH thường có nguy cơ bị tai

biến tim mạch gấp 3 lần và có nguy cơ tử vong gấp 2 lần, nguy cơ phát triển

đái tháo đường (ĐTĐ) gấp 5 lần so với những người không bị hội chứng này

[1]. Có nhiều yếu tố góp phần vào HCCH như thói quen ăn uống, chế độ sinh

hoạt, lối sống tĩnh tại,… việc kiểm soát được các yếu tố góp phần làm giảm

nguy cơ bị HCCH.

2

Ban bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ ( BVCSSKCB) Cao Bằng là nơi

khám, chữa bệnh, theo dõi và quản lý sức khỏe các cán bộ trung cao cấp trên

địa bàn đặc biệt là đối tượng cán bộ hưu trí trong tỉnh. Họ là những người khi

còn công tác luôn phải làm việc trong tình trạng áp lực, cường độ lao động trí

óc cao, dinh dưỡng không hợp lý, ít hoạt động thể lực…từ đó hình thành những

nguy cơ mắc rối loạn chuyển hóa cao.

Nghiên cứu đặc điểm HCCH ở đối tượng cán bộ hưu là việc làm rất quan

trọng trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhằm phòng chống một số

bệnh liên quan đến HCCH, từ đó đưa ra giải pháp và kiến nghị phù hợp và hiệu

quả trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cán bộ hưu. Chính vì vậy

chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở

các đối tượng được quản lý tại Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh

Cao Bằng” với 02 mục tiêu:

1. Mô tả một số đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở các đối tượng được

quản lý tại Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh Cao Bằng.

2. Phân tích một số yếu tố liên quan với đặc điểm của hội chứng chuyển

hóa ở các đối tượng trên.

3

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Một số đặc điểm hội chứng chuyển hóa

1.1.1. Khái niệm hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa không phải là một bệnh lý xa lạ. Tulp Nicolaes

và cộng sự (1593 - 1674) ghi nhận mối liên quan giữa tăng lipid máu, béo phì

và khuynh hướng chảy máu. Eskil Kylin (1920), người Thụy Điển đề xuất một

hội chứng bao gồm “Tăng huyết áp, tăng glucose và tăng acid uric” và

Maranon, người Tây Ban Nha sau đó cũng đề cập. Vague (1947) cho rằng béo

phì dạng nam là loại béo phì thường phối hợp với những rối loạn chuyển hóa

đó là ĐTĐ type 2 và bệnh tim mạch. Gerald Reaven (1988) giới thiệu lại khái

niệm hội chứng X bao gồm các yếu tố nguy cơ như THA, bất thường dung

nạp glucose, tăng triglyceride (TG), giảm HDL-Cholesterol. Sau đó Stout đề

nghị hội chứng đề kháng insulin vì muốn nhấn mạnh đề kháng insulin là

nguyên nhân trực tiếp trong bệnh mạch vành (BMV) và nguyên nhân của các

tiêu chí trong hội chứng [90].

Các chuyên gia ĐTĐ tại Áo đã đặt tên hội chứng là CHAOS: Coronary

heart disease, Hypertension and Hyperlipidemia, Adult-onset diabetes,

Obesity, Stroke. Sau này có những bất thường chuyển hóa khác được quy cho

nhiều hội chứng như béo phì, Microlbumine niệu (MAU), bất thường về tiêu

sợi huyết và rối loạn đông máu. Ngoài ra còn có các yếu tố khác như tăng acid

uric máu, gia tăng khuếch tán ngược Na+ - Lithium, gia tăng PAI -1

(Plasminogen activator inhibitor-1).

- Nhiều thuật ngữ đồng nghĩa HCCH bao gồm:

- Hội chứng chuyển hóa (Metabolic Syndrome).

- Hội chứng X chuyển hóa (Metabolic X Syndrome).

- Hội chứng đa chuyển hóa (Plurimetabolic Syndrome).

- Hội chứng rối loạn chuyển hóa (Dysmetabolic Syndrome).

4

- Hội chứng kháng insulin (Insuline Resistance Syndrome).

- Hội chứng Reaven (Reaven Syndrome).

- Tứ chứng chết người (Deadly Quarter)

- Tăng huyết áp có rối loạn lipid máu (Dyslipidemic Hypertension).

Đến năm 1998, Tổ chức Y tế Thế giới đã tổng kết hội thảo của chuyên

gia thế giới và thống nhất gọi hội chứng này là Hội chứng chuyển hóa

(Metabolism syndrom) và đề nghị HCCH như một công cụ cho đánh giá thực

hành lâm sàng và nghiên cứu. Hội chứng chuyển hóa được định nghĩa là một

nhóm các rối loạn liên quan đến chuyển hóa bao gồm rối loạn lipid máu, béo

trung tâm, tăng huyết áp, rối loạn glucose máu khi đói [41].

1.1.2. Các dấu hiệu của Hội chứng chuyển hóa [33]

Hội chứng chuyển hóa bao gồm một nhóm các yếu tố nguy cơ tập hợp

lại trên một người bệnh:

- Tình trạng béo bụng: biểu hiện qua số đo vòng eo.

- Rối loạn lipid máu: là tình trạng rối loạn các chất béo trong máu như

triglycerid máu cao, HDL-C máu thấp, LDL-C cao, tạo nên mảng xơ vữa ở

thành động mạch.

- Tăng huyết áp: được định nghĩa là khi huyết áp (huyết áp tâm thu

và/hoặc huyết áp tâm trương) cao hơn mức bình thường. (Theo Tổ chức Y tế

Thế giới, tăng huyết áp khi huyết áp tâm thu từ 140 mmHg và/hoặc huyết áp

tâm trương từ 90 mmHg đối với người trưởng thành, và khi huyết áp tâm thu

hoặc huyết áp tâm trương ≥ 95th percentile đối với trẻ em).

- Tình trạng kháng insulin hoặc không dung nạp đường: là tình trạng cơ

thể không thể sử dụng đường và insulin một cách hiệu quả. Khi thức ăn hấp thụ

vào máu, chúng sẽ được biến chế thành đường (glucose). Đây là một loại đường

đơn và cũng là nhiên liệu chính cung cấp cho mỗi tế bào trong cơ thể. Tuy

nhiên, để hấp thụ đường từ máu vào bên trong tế bào, cơ thể cần một chất gọi

là insulin. Insulin được sản xuất từ tế bào beta của tuyến tụy và được coi là chìa

5

khóa mở những ổ khóa trên thành của tế bào. Một khi những cánh cửa này mở

rộng, đường (Glucose) sẽ đi vào tế bào để nuôi dưỡng cơ thể. Kháng insulin

xảy ra khi những “ổ khóa” (insulin receptors) bị “rỉ sét” hoặc những “chìa khóa”

(insulin) bị “bẻ gẫy”. Cơ thể bây giờ, phải chế ra nhiều insulin hơn để đáp ứng

với một môi trường mới. Nói một cách dễ hiểu, thay vì chỉ cần một chìa khóa

để mở một cánh cửa, bây giờ cơ thể cần nhiều chìa khóa hơn để “chỉ” mở một

cánh cửa. Ban đầu cơ thể còn đủ khả năng sản xuất insulin cần thiết. Lâu dần,

càng ngày càng nhiều “ổ khóa” bị hư hỏng hơn. Tụy tạng không còn sức thích

ứng nữa. Trong máu tuy số lượng insulin rất cao, nhưng vẫn không đủ để mở

những ổ khóa đã mỗi ngày một hư hại hơn. Thiếu insulin, đường không vào

trong tế bào được dẫn đến mức đường trong máu tăng dần.

- Tình trạng tiền đông máu: tăng fibrinogen và chất ức chế hoạt hóa

plasminogen -1 (PAI-1) cao trong máu. Bình thường, trong cơ thể, máu lưu

thông trong lòng mạch ở trạng thái thể dịch nhờ sự cân bằng giữa hệ thống hoạt

hoá và ức chế đông máu. Khi xảy ra một tổn thương mạch máu, các yếu tố đông

máu (trong đó có fibrinogen) sẽ cùng với nội mạc mạch máu và tiểu cầu phối

hợp xảy ra một loạt các phản ứng để tạo nút cầm máu là cục đông tại vị trí tổn

thương. Hệ thống kiểm soát đông máu sẽ đảm bảo sao cho cục đông không lan

rộng mà chỉ khu trú và đủ để cầm máu ở vị trí tổn thương. Tình trạng tăng đông

máu xảy ra khi mất cân bằng giữa hệ thống hoạt hoá và ức chế đông máu do

tăng hoạt hoá đông máu hoặc do giảm ức chế đông máu, tiêu sợi huyết dẫn đến

cục máu đông lan rộng quá giới hạn cần thiết, gây tắc nghẽn mạch.

- Tình trạng tiền viêm: Protein phản ứng C (CRP) tăng cao trong máu.

Protein phản ứng C (C reactive protein - CRP) là một glycoprotein được gan

sản xuất có đặc điểm là kết tủa với polysaccharid C của phế cầu. Bình thường,

không thấy protein này trong máu. Tình trạng viêm cấp với phá huỷ mô trong

cơ thể gây giải phóng các interleukin 1 và 6 sẽ kích thích sản xuất protein này

và gây tăng nhanh nồng độ protein phản ứng C trong huyết thanh. Khi tình

6

trạng viêm cấp kết thúc, protein phản ứng C (CRP) nhanh chóng mất đi. Vì vậy,

protein C phản ứng được coi như một chỉ dấu phản ánh sự hoạt hóa phản ứng

viêm hệ thống.

1.1.3. Các tiêu chuẩn chẩn đoán HCCH ở người trưởng thành

Chẩn đoán hội chứng chuyển hóa theo tiêu chuẩn của WHO (1999): [41].

Theo WHO thì HCCH được xác định khi có tăng glucose máu khi đói

(glucose máu ≥ 6,1 mmol/l) hoặc insulin tăng cao trong máu hoặc đã được chẩn

đoán đái tháo đường cộng với ít nhất 2 trong các yếu tố sau:

- Béo phì (BMI ≥ 30 hoặc tỷ số VE/VM > 0,9 đối với nam và > 0,85 đối

với nữ).

- Rối loạn lipid máu: triglyceride ≥ 1,7 mmol/l hoặc HDL - C < 0,9

mmol/l đối với nam và < 1,0 mmol/l đối với nữ.

- Huyết áp ≥ 140/90 mmHg hoặc đã được chẩn đoán tăng huyết áp.

- Microalbumin niệu: tốc độ bài tiết ≥ 20 µg/phút .

Chẩn đoán HCCH theo NCEP - ATP III (2001): [95]

Hội chứng chuyển hóa được xác định theo tiêu chuẩn của chương

trình giáo dục cholesterol quốc gia Mỹ, kênh điều trị cho người lớn (NCEP -

ATP III - National Cholesterol Education Program Adult Treatment Panel III)

khi có từ 3 trong 5 yếu tố:

- Rối loạn Glucose máu khi đói (Glucose máu ≥ 5,6 mmol/l).

- Béo bụng (vòng eo >102 đối với nam và > 88 cm đối với nữ).

- Triglycerid máu cao ( ≥ 1,7 mmol/l).

- HDL - C thấp (< 1mmol/l ở nam và < 1,3 mmol/l ở nữ).

- Huyết áp ≥ 130/85 mmHg.

Chẩn đoán HCCH theo Nhóm tư vấn kháng Insuin châu Âu

(EGIR - 2003): [45]

Bắt buộc phải có tăng Insulin máu cộng thêm với 2 yếu tố khác:

- Vòng eo ≥ 94 cm đối với nam và ≥ 80 cm đối với nữ.

7

- Tryglicerid máu ≥ 2,0 mmol/L hoặc HDL cholesterol < 1,0 mmol/L

hoặc đang điều trị rối loạn lipid máu.

- Huyết áp tâm thu ≥ 140 hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90 mmHg hoặc

đang dùng thuốc huyết áp.

- Glucoza máu lúc đói ≥ 6,1 mmol/l.

Chẩn đoán HCCH theo IDF ( 2005): [87]

IDF đã đưa ra một tiêu chuẩn về HCCH trong đó điều kiện tiên quyết là

béo bụng cộng với từ 2 yếu tố trở lên trong 4 yếu tố:

- Glucose máu khi đói cao ( 5,6 mmol/l); hoặc đã được chẩn đoán và

điều trị đái tháo đường typ 2 trước đó.

- Triglycerid máu cao ( 1,7 mmol/l); hoặc đã được chẩn đoán, điều trị

các rối loạn lipid bằng thuốc.

- HDL - C thấp ( <1mmol/l ở nam và <1,3 mmol/l ở nữ); hoặc đã điều trị

các rối loạn lipid máu bằng thuốc.

- Huyết áp 130/85 mmHg hoặc đã được chẩn đoán cao huyết áp.

Bảng 1.1. Tiêu chuẩn xác định béo bụng theo vòng eo của IDF - 2005

Số đo xác định béo bụng (cm)

Nhóm các quốc gia Châu Âu

Các nước Nam Á và Trung Quốc

Nhật Bản

Nam ≥ 94 Nữ ≥ 80 Nam ≥ 94 Nữ ≥ 80 Nam ≥ 90 ≥ 85 Nữ Giống tiêu chuẩn Nam Á Giống tiêu chuẩn châu Âu Giống tiêu chuẩn châu Âu

Nam Trung Mỹ Người châu Phi khu vực Sahara Vùng Trung Đông và Địa Trung Hải 1.1.4. Cơ chế bệnh sinh HCCH

Cho đến nay cơ chế bệnh sinh của HCCH còn chưa được hiểu biết đầy đủ,

nhưng béo phì (nhất là béo bụng), kháng insulin, rối loạn lipid máu, sự bất

thường glucose máu và THA là những biểu hiện cơ bản của HCCH.

8

* Béo phì và phân phối mỡ bất thường

Béo bụng liên quan các yếu tố nguy cơ chuyển hoá gồm: Tăng nồng độ

apolipoprotein B huyết thanh, tăng LDL – C và tăng khả năng PAI – 1 với tình

trạng suy giảm tiêu sợi huyết [74]. HCCH không những chỉ ảnh hưởng tới béo

toàn thân mà còn đối với những người có trọng lượng bình thường song có tăng

chu vi vòng bụng hay còn gọi là béo bụng (béo trung tâm). Cơ chế bệnh sinh

và tương tác giữa các yếu tố tạo ra HCCH chưa sáng tỏ song kháng insulin được

coi là giả thuyết có cơ sở nhất về cơ chế của hội chứng [90]. Kết quả từ những

đối tượng không bị ĐTĐ của nghiên cứu Framingham Offspring kháng insulin

không phải là yếu tố duy nhất và độc lập tạo ra HCCH. Béo bụng có liên quan

rất rõ với kháng insulin. Người ta nhận thấy giữa độ dày lớp mỡ dưới da bụng

và kháng insulin có mối liên quan tuyến tính thuận với nhau [54].

ATP III coi béo phì như một yếu tố chính làm tăng hội chứng chuyển

hóa, ít nhất là khía cạnh dịch tễ. Béo phì còn là yếu tố thuận lợi góp phần làm

tăng huyết áp, tăng nồng độ cholesterol máu, hạ thấp nồng độ HDL-cholesterol,

làm tăng nồng độ glucose máu. Tất cả những yếu tố này kết hợp lại làm tăng

nguy cơ bệnh lý tim mạch.

Trong các thể loại béo phì, thể béo bụng có liên quan với hội chứng

chuyển hóa chặt chẽ hơn cả. Các mô mỡ dư thừa là nguồn phóng thích vào

tuần hoàn các acide béo không este hóa (NEFA: nonesterified fatty acid) các

cytokin; PAI-1 (plasiminogen activator inhibitor-1) và adiponectin. Các yếu

tố này đã làm tăng sự đề kháng insulin, tăng tạo khả năng gây viêm của lớp

tế bào nội mô mạch máu, tạo thuận lợi cho mảng xơ vữa hình thành và phát

triển [55], [56].

* Kháng insulin

Tế bào β đảo tụy là nơi tiết ra insulin và insulin lưu hành trong máu đến

các tế bào đích truyền tín hiệu và thực hiện nhiệm vụ của mình, insulin là

hormone đóng vai trò quan trọng trong chuyển hóa carbonhydrat với cơ chất

9

chính là glucose, vì vậy khi có bất thường về insulin sẽ gây lên các rối loạn

trong chuyển hóa carbonhydrat. “Kháng insulin là một tình trạng (của tế bào,

cơ quan, hay cơ thể) cần một lượng insulin nhiều hơn bình thường để đạt được

đáp ứng sinh học bình thường” [36].

Insulin truyền tín hiệu bằng cách gắn vào các receptor đặc hiệu trên màng

tế bào, các thụ thể này thuộc nhóm tyrosine kinase receptor, giống như receptor

cho các yếu tố tăng trưởng. Các receptor hoạt động nhờ sự kết hợp của 2 tiểu

đơn vị. Các thông tin của insulin sẽ không bị thay đổi khi chúng được truyền

qua các receptor đặc hiệu nhưng cũng có thể thay đổi khi truyền tin qua các

receptor được hình thành bởi 1 tiểu đơn vị của thụ thể insulin và 1 tiểu đơn vị

của các yếu tố phát triển giống insulin (IGF1). Insulin có ái lực với receptor đặc

hiệu cao gấp 100 đến 150 lần so với các receptor của IGF1, chính vì vậy ở nồng

độ insulin sinh lý thì sự gắn của insulin với thụ thể IGF1 sẽ không có ý nghĩa

[67].

Sự gắn insulin và receptor của màng tế bào là hiện tượng truyền tín hiệu

để thực hiện quá trình phosphoryl hóa và dephosphoryl hóa, 4 loại protein từ

IRS1 đến IRS4 được phát hiện trong cấu trúc của receptor insulin. Tín hiệu của

insulin được đưa vào tế bào khi quá trình phosphoryl hóa ở receptor được thực

hiện [73], [94]. Có 2 cách truyền tín hiệu của insulin vào tế bào: [67], [78], [94].

+ Cách 1: Thông quá các chất truyền tin: AKT/PKB

+ Cách 2: Thông qua các Protein tín hiệu: Ras/Raf/MAP

Kháng insulin có thể do giảm hiệu quả của chất truyền tin, các protein

tín hiệu chính. Sự giảm này làm xáo trộn quá trình truyền tín hiệu của insulin

dẫn đến kết quả là kháng insulin ở tế bào đích. Tùy thuộc vào khiếm khuyết tín

hiệu của insulin do giảm hiệu quả của chất truyền tin, protein tín hiệu dẫn đến

sự đề kháng insulin sẽ ở các mức độ khác nhau [49], [88].

Sự truyền tín hiệu của insulin gây nên quá trình chuyển glucose vào tế

bào và sự vận chuyển glucose qua các chất vận chuyển từ nội bào tới màng

10

plasma trên bề mặt [59], [67]. Có ít nhất 12 loại protein vận chuyển khác nhau ở

các loại tế bào khác nhau [64]. GLUT - 4 là chất vận chuyển glucose thông qua

insulin gặp ở hầu hết các loại tế bào (tế bào gan, não, cơ, mỡ …). GLUT-1 gặp

nhiều ở tế bào não, GLUT - 2 gặp nhiều ở tế bào gan, GLUT-3 gặp chủ yếu ở

đường tiêu hóa. Một số nghiên cứu trên tế bào cơ, mỡ cho thấy sự khiếm khuyết

gây kháng insulin ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có liên quan đến chất vận chuyển

Recetor tiếp nhận insulin

Protein vận chuyển GLUT4

Protein vận chuyển GLUT4

Tín hiệu insulin thông qua PI3 kinase, PDK1 AKT/PKB

Tín hiệu insulin thông qua PI3 kinase, PDK1 AKT/PKB

Kích hoạt hệ thống vận chuyển

Thiếu hụt hệ thống vận chuyển

glucose GLUT - 4 trong con đường vận chuyển glucose phụ thuộc insulin.

Hình 1.1. Cơ chế vận chuyển glucose trong kháng insulin

Nguồn: Diabetes in cardiovascular Disease 2013

* Rối loạn lipid máu

Tăng acid béo tự do sẽ làm tăng nồng độ insulin trong máu và gây nhiễm

độc mỡ tế bào beta tụy làm tế bào này sẽ chết nhanh hơn so với chết theo

chương trình. Khi acid béo tự do và TG tích luỹ trong tế bào beta tụy làm tăng

tổng hợp NO gây ra rối loạn chức năng tế bào và hậu quả của hiện tượng này

làm các tế bào beta tụy bị tổn thương, giảm số lượng tế bào beta tụy sẽ làm mất

khả năng duy trì tiết insulin. Khi sự kháng insulin được thiết lập, có sự giải

phóng acid béo đến gan làm tăng quá trình tổng hợp TG, tuy nhiên dưới điều

kiện insulin ngăn cản sự tăng bài tiết LDL-C vào tuần hoàn, đồng thời

11

lipoprotein lipase cũng được tiết ra ở các mô ngoại vi. Sự tăng TG là yếu tố

quan trọng biểu hiện sự kháng insulin và là một trong những tiêu chuẩn chẩn

đoán của HCCH. Ngoài ra, còn có sự rối loạn một loại lipoprotein nữa trong

HCCH, đó là sự giảm HDL-C do rối loạn của cholesterol ester transferase. Vì

vậy, sự kết hợp tăng TG và giảm HDL-C có mối liên quan mật thiết đến HCCH.

Do đó trong chẩn đoán HCCH các nghiên cứu thường lấy TG và HDL-C làm

tiêu chuẩn chấn đoán HCCH [7], [25], [66], [75].

* Sự bất thường glucose máu

Sự bất thường glucose máu [gồm ĐTĐ typ 2, RLGMLĐ và giảm dung nạp

glucose] có mối liên quan mật thiết đến cơ chế bệnh sinh trong HCCH. Nhiều

nghiên cứu thấy rằng có nối liên quan giữa RLGMLĐ với sự đề kháng insulin ở

người, động vật có vú, và cả loài gặm nhấm. Ở những người được dự đoán là sẽ

tiến triển thành ĐTĐ typ 2 thì sự đề kháng insulin, rối loạn chức năng tế bào beta

tụy là những nguyên nhân của sự bất thường glucose máu này. Có sự phối hợp

giữa RLGMLĐ và giảm dung nạp glucose máu với nguy cơ bệnh tim mạch và

tiến triển thành ĐTĐ typ 2. Trong đó, có vai trò tích luỹ chất AGE (advanced

glycation end products) kết hợp với tăng đường máu có mối liên quan đến bệnh

tim mạch bằng sự tác động lên thụ cảm thể AGE ở thành động mạch gây ra một

phản ứng viêm làm tăng sinh tế bào và hình thành mảng vữa xơ động mạch. Sự

tác động của AGEs được giải thích theo cơ chế sau: AGEs tác động trực tiếp như

một cytokine với thành mạch máu bằng cách gắn kết với proteoglycans của tế

bào nội mạc thành mạch và tạo ra một phản ứng viêm [2], [91].

* Tăng huyết áp

Mặc dù mối liên quan giữa sự đề kháng insullin với huyết áp ở nhiều

nghiên cứu vẫn còn chưa được thống nhất trong cơ chế bệnh sinh của HCCH.

Một số nghiên cứu còn thấy sự hạn chế của mối liên quan giữa kháng insulin với

bệnh tim mạch. Tuy nhiên, cơ chế bệnh sinh hiện nay cho rằng mối liên quan giữa

kháng insulin với huyết áp được giải thích là do tăng hoạt động của hệ thần kinh

12

giao cảm, làm tăng hoạt động tế bào cơ trơn thành mạch, tăng vận chuyển ion Ca++

và tăng sự giữ muối trong lòng mạch. Sự tăng hoạt động thần kinh giao cảm cũng

có nghĩa là tăng sự kích thích của adrenergic receptor hay có mối liên quan giữa

sự kích thích beta adrenergic receptor với đề kháng insulin [29], [63], [93].

1.2. Một số yếu tố liên quan đến HCCH

1.2.1. Khẩu phần ăn và thói quen ăn uống.

Chế độ ăn có mối liên hệ mật thiết với HCCH. Khi chế độ ăn không cân

đối, dư thừa năng lượng sẽ dẫn đến vượt quá nhu cầu của cơ thể làm cơ thể tích

lũy quá mức. Việc tích lũy này diễn ra trong thời gian dài sẽ làm cơ thể mất cân

bằng, hệ thống chống nhiễm mỡ của cơ thể sẽ mất khả năng tự cân bằng. Khi

đó lượng triacylglycerol sẽ lắng đọng và tích lũy dần dần tại các mô không phải

mô mỡ [83].

Các nghiên cứu chỉ ra rằng chỉ cần ăn dư 70 calo mỗi ngày sẽ dẫn tới

tăng cân trong khi cơ thể chúng ta không nhận ra đặc biệt là khi ăn những thức

ăn giàu năng lượng. Các thức ăn giàu chất béo sẽ làm cho người ta trở nên ngon

miệng, dẫn đến việc ăn thừa mà không biết. Mỡ động vật có đậm độ năng lượng

cao gấp 2 lần đường, lại cần ít calo để tích lũy dưới dạng triglycerid. Vì vậy

khẩu phần nhiều mỡ dễ dẫn đến thừa calo và tăng cân.

Ngoài ra, các chất sinh năng lượng có trong thức ăn như protid, lipid,

glucid khi vào cơ thể đều có thể chuyển hóa thành chất béo dự trữ. Như vậy

một khẩu phần ăn không chỉ nhiều lipid mới gây béo mà ăn quá thừa các thức

ăn khác như bột, đường, đồ ngọt... đều có thể gây béo. Các thói quen ăn nhiều

vào bữa tối, ăn nhiều bữa, ăn thức ăn nhiều năng lượng, thích ăn xào rán đã

được chứng minh trong một số nghiên cứu trên đối tượng người trưởng thành

bị thừa cân, béo phì [14], [20], [16].

Khi chế độ ăn cung cấp năng lượng vượt quá nhu cầu, nếp sống làm việc

tĩnh tại, ít tiêu hao năng lượng sẽ làm cân nặng của cơ thể tăng lên [68]. Như vậy

HCCH sẽ có xu hướng gia tăng cùng với sự gia tăng tỷ lệ thừa cân, béo phì. Mặt

13

khác, theo Hales và Barker, những người bị suy dinh dưỡng lúc nhỏ mà khi trưởng

thành bị béo phì thì khả năng mắc HCCH rất lớn [46]. Trong khi đó Việt Nam lại

là một đất nước trải qua nhiều năm chiến tranh, là nước đang phát triển, năm 2009

có tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi là 29,3%; suy dinh dưỡng

nhẹ 17,5%; suy dinh dưỡng gày còm 7,1% [37].

Vì vậy nguy cơ mắc HCCH ở người béo phì ở Việt Nam là rất cao. Tuy

nhiên HCCH vẫn có thể xuất hiện ở cả người có cân nặng bình thường. Một số

nghiên cứu dịch tễ cho thấy chế độ ăn nhiều quả chín, rau và nhiều chất xơ làm

giảm nguy cơ mắc bệnh mạn tính.

1.2.2. Hoạt động thể lực

Nghiên cứu của Kruk J (2007), và một số nghiên cứu dịch tễ học chỉ ra

rằng: hoạt động thể lực có thể ngăn ngừa sự phát triển của các bệnh tim mạch

và ung thư [69]. Nghề nghiệp là một trong những yếu tố liên quan đến hoạt

động thể lực. Nghiên cứu gần đây của Lê Bạch Mai (2008) cho thấy, có sự

phân bố dịch tễ học về thừa cân, béo phì giữa các nhóm nghề nghiệp ở người

trưởng thành. Nhóm cán bộ làm văn phòng có tỷ lệ cao nhất (34,6%), thấp nhất

ở nhóm làm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (11,8%). Tư thế lao động

cũng ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng. So sánh với nhóm họat động đứng,

đi lại trong nhà, người làm những công việc ở tư thế ngồi tăng 20% nguy cơ

thừa cân - béo phì. Nghiên cứu của Zeitina LJ (2006) cho thấy, khoảng cách đi

lại gần như không có liên quan đến thừa cân - béo phì. Tuy nhiên người sử dụng

phương tiện cơ giới làm phương tiện di chuyển giao thông liên quan đến thừa

cân - béo phì cao hơn 70% so với người đi bộ hoặc đạp xe đạp [58].

Theo nghiên cứu của Trương Tuyết Mai và Nguyễn Thị Lâm (2014) cho

thấy đối tượng thừa cân, béo phì có hoạt động tích cực là rất thấp, hầu hết các

đối tượng có thời gian hoạt động tĩnh tại cao [21].

Như vậy, cùng với yếu tố ăn uống, sự gia tăng tỷ lệ béo phì và các rối

loạn chuyển hóa thường đi song song với giảm hoạt động thể lực trong lối sống

14

tĩnh tại. Do đó, việc thay đổi lối sống năng động, tăng cường hoạt động thể lực

trong lối sống sẽ làm giảm tỷ lệ mắc HCCH và các rối loạn liên quan khác. Nên

hoạt động thể lực thường xuyên với cường độ thích hợp để duy trì sức khỏe tốt,

nhất là những người có công việc tĩnh tại, ít hoạt động thể lực.

Các yếu tố về gen: Ngày nay, người ta đã biết hội chứng chuyển hóa là

hậu quả tương tác giữa bệnh lý gen và yếu tố môi trường. Những phát hiện của

Stride và Hattersley năm 2002 đã nói lên tính phức tạp, đa dạng của các tổn

thương gen trong hội chứng chuyển hóa [3].

1.2.3. Yếu tố kinh tế xã hội

Ở các nước phát triển, khi thiếu ăn không còn phổ biến nữa thì tỷ lệ béo

phì lại cao hơn ở tầng lớp nghèo, ít học hơn so với các tầng lớp trên và béo phì

tồn tại song song với thiếu dinh dưỡng, gặp nhiều ở đô thị hơn ở nông thôn

[61]. Tại châu Âu, bệnh béo phì và các bệnh liên quan được phổ biến trong

nhóm người có tình trạng kinh tế và xã hội thấp. Nhóm người có thu nhập trên,

có xu hướng tiêu thụ nhiều thịt, chất béo và chất bột đường, còn những người

có thu nhập cao thì tiêu thụ nhiều trái cây và rau quả. Ngoài ra những người

nghèo thường có ít điều kiện vào phòng tập thể dục - thể thao được trang bị

nhiều tiện nghi. Bệnh béo phì ở giới trẻ thường xuyên tiếp tục tăng cao, nó

mang lại cho xã hội một gánh nặng lớn về người khuyết tật và tử vong, cũng

như những thách thức về kinh tế [62].

1.2.4. Tuổi

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tuổi là một yếu tố liên quan đến HCCH.

Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa tăng theo tuổi. Tỷ lệ này tăng nhanh ở lứa

tuổi trung niên. Nghiên cứu National Health anh Nutrition Examaination

Survey III (NHANES III, 1988 đến 1994) khi đánh giá 8814 người trưởng thành

ở Mỹ cho thấy: tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo tiêu chuẩn ATP III - 2001

ở lứa tuổi 20 đến 29 là 6,7% đã tăng vọt lên 43,5% ở lứa tuổi 60 đến 69, và

42% ở lứa tuổi trên 70), tỷ lệ chung là 22% [53].

15

1.2.5. Giới

Nhiều tác giả cho rằng béo trung tâm là một yếu tố quan trọng cấu thành

hội chứng chuyển hóa. Béo trung tâm lại thường gặp ở nam nhiều hơn nữ, vì

thế hội chứng chuyển hóa cũng gặp ở nam nhiều hơn. Nhận xét này đã được

chứng minh bởi nhiều nghiên cứu. Wilson PW, D'Agostino RB, Parise H,

Sullivan L, Meigs JB, 2005 khi nghiên cứu hội chứng chuyển hóa theo tiêu

chuẩn ATP III cập nhật năm 2005 báo trước sự xuất hiện của bệnh tim mạch

và đái tháo đường cho thấy, tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa là 26,8% đối với

nam và 25% đối với nữ ở 3323 người có tuổi từ 22 đến 81 không mắc bệnh

tim mạch và đái tháo đường tại thời điểm nghiên cứu [96].

1.2.6. Hút thuốc lá và bia rượu

Thuốc lá và bia rượu là những thói quen có ảnh hưởng không nhỏ tới rối

loạn dinh dưỡng Lipid cung như tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa. Nhiều nghiên

cứu cho thấy: mối liên quan chặt chẽ giữa hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia với

việc gia tăng tỷ lệ hội chứng chuyển hóa. Điều này có thể lý giải một phần nguyên

nhân tỷ lệ mắc bệnh của nam giới trong một số cộng đồng khác nhau thường cao

hơn ở nữ giới. Hút thuốc lá là nguồn sản sinh ra các gốc tự do, tăng độ kết dính

tiểu cầu và làm giảm HDL-C [61].

Rượu làm tăng triglycerid máu đáng kể trên các bệnh nhân có tăng

tryglycerid nguyên phát hay thứ phát. Rượu được chuyển thành triglycerid, gây

ra tình trạng nhiễm mỡ và tăng sản xuất Lipoprotein tỷ trọng thấp(VLDL) từ

gan. Ở một số người bệnh, do cơ chế thích ứng làm tăng thanh thải triglycerid

nên hàm lượng tryglycerid vẫn bình thường. Khi cơ chế thích ứng bị tổn thương

do uống rượu kéo dài sẽ gây tăng rất nhiều tryglycerid [50].

Tổ chức Y tế thế giới đã định nghĩa đối tượng được coi là lạm dụng

rượu khi lượng rượu tiêu thụ trên 3 đơn vị/ngày đối với nam và trên 2 đơn

vị/ngày đối với nữ (1 đơn vị rượu tương đương 10g etanol) [27].

16

1.3. Tình hình mắc hội chứng chuyển hóa trên thế giới và ở Việt Nam

* Trên thế giới

Tổ chức Y tế thế giới coi béo phì là đợt sóng đầu tiên của một nhóm bệnh

rối loạn chuyển hóa ở các nước đã và đang phát triển. Người ta gọi đó là “Hội

chứng thế giới mới” (New world syndrome) gây nên các gánh nặng về kinh tế

- xã hội và chăm sóc sức khỏe ở các nước nghèo. Đi liền với thừa cân, béo phì

là các bệnh mạn tính khi bước vào độ tuổi trưởng thành. Đó là biểu hiện của

HCCH ở các mức độ, trong đó có vai trò quan trọng của yếu tố dinh dưỡng.

HCCH như là một vấn đề thời sự được quan tâm do sự gia tăng về tần suất

trong dân số chung cũng như ở một số đối tượng nguy cơ cao như tăng huyết

áp, béo phì, phụ nữ mạn kinh, đái tháo đường [15], [27]. Người ta ước tính có

khoảng 20-25% người trưởng thành trên thế giới mắc hội chứng chuyển hóa và

những người này có nguy cơ tử vong cao hơn gấp 2 lần và nguy cơ bị cơn đau

tim hay đột qụy tăng gấp 3 lần và nguy cơ bị đái tháo đường cao gấp 5 lần [22].

Trên thế giới đã có khá nhiều nghiên cứu về HCCH. Theo tiêu chuẩn của

NCEP thì HCCH được ước tính là 24% người trưởng thành ở Mỹ, trong đó tỷ

lệ này nguời có dộ tuổi trên 50 chiếm tới 44%. Với định nghĩa của WHO,

HCCH có mặt ở 5-22% phụ nữ tuổi từ 40-45 [95], [57].

Một nghiên cứu cắt ngang ở Venezuela đã nghiên cứu ở đối tượng từ 20

tuổi trở lên cho biết tỷ lệ mắc HCCH theo NCEP là 31,2% trong đó tỷ lệ này ở

nam cao hơn ở nữ. Tỷ lệ mắc HCCH cũng tăng theo tuổi cùng mức độ béo phì.

Tỷ lệ này có sự khác biệt giữa các nhóm đàn ông chủng tộc khác nhau, đàn ông

da đỏ có tỷ lệ mắc thấp nhất (17%) so với người da đen (27,2%) và người da

trắng (33,3%) nhưng không có sự khác biệt giữa các nhóm phụ nữ. Các yếu tố

HDL - C (65,3%), béo bụng (42,9%) và yếu tố huyết áp (38,1%) là thường gặp

nhất trong HCCH. Cách sống không lành mạnh cũng làm tăng nguy cơ của hội

chứng này [44].

17

Nghiên cứu tại Hồng Kông đã xác định tỷ lệ HCCH ở các đối tượng trong

độ tuổi lao động theo ba tiêu chuẩn chẩn đoán của WHO, NCEP và EGIR cho

thấy tỷ lệ mắc HCCH dao động từ 8,9% đến 13,4% tùy theo tiêu chuẩn chẩn

đoán [71].

Một nghiên cứu khác ở Hồng Kông, theo định nghĩa của NCEP đã xác

định tỷ lệ mắc HCCH tăng từ 3,1% ở lứa tuổi 25-29 đến 41% ở độ tuổi trên 70.

Còn tỷ lệ mắc chung trong nghiên cứu sau khi điều chỉnh tuổi và giới theo định

nghĩa béo phì đối với người chấu Á là 21,2% [68].

Nghiên cứu trên dân cư thành thị ở Ấn Độ sử dụng tiêu chuẩn của NCEP

thì tỷ lệ HCCH là 41,1%, trong đó yếu tố HDL-C thấp chiếm tỷ lệ cao nhất

(65,5%), sau đó là yếu tố huyết áp (55,4%), thấp nhất là yếu tố rối loạn glucose

máu khi đói (26,7%) [84].

Nghiên cứu của Heng KS và cộng sự (2013) trên đối tượng là đội ngũ

nhân viên trường Đại học Putra Malaysia từ 20 đến 65 tuổi cho biết tỷ lệ HCCH

của nhóm đối tượng này theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Harmonised, IDF và

NCEP ATP III lần lượt là 38,3%, 38,8% và 33,5%.

Tỷ lệ HCCH tăng theo nhóm tuổi, ở nam cao hơn ở nữ ở dưới độ tuổi 50

nhưng trên độ tuổi 50 tỷ lệ này ở nữ lại cao hơn ở nam [60]. Trước đó một

nghiên cứu khác cũng tại Malaysia của Mohamud và cộng sự (2012) cho tỷ lệ

HCCH ở người dân Malaysia theo tiêu chuẩn Harmonised, IDF và NCEP ATP

III lần lượt là 42,5%, 37,2% và 34,3% [81].

* Tại Việt Nam

Cùng với xu hướng chung của thế giới và khu vực, Việt Nam đang bước

vào thời kì hiện đại hóa, công nghiệp hóa, kinh tế đang có bước tăng trưởng

nhanh, đời sống xã hội đã được cải thiện và tăng lên, đây là điều kiện thuận lợi

để HCCH xuất hiện đặc biệt là đối tượng cán bộ công chức.

Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Linh ở người cao tuổi có gan

nhiễm mỡ không do rượu cho thấy tỷ lệ HCCH là 42,5% [17].

18

Theo nghiên cứu của Nguyên Văn Thành và cộng sự ở đối tượng cán bộ

thuộc diện quản lý của ban BVCSSKCB tỉnh Bạc Liêu cho thấy kết quả HCCH

chiếm tỷ lệ 24% trong đó ở nhóm tuổi < 60 là 29,4%, ở nhóm tuổi ≥ 60 là

20,9%, nam chiếm tỷ lệ 21,8% nữ chiếm 32% [31].

Nghiên cứu của Trang Mộng Hải Yên và cộng sự năm 2014 ở đối tượng

cán bộ tỉnh ủy quản lý tại Long An cho thấy HCCH chiếm 30,34%, nhóm tuổi

50 - <60 chiếm 65,96% và 89,39% cán bộ bị thừa cân béo phì. Tình trạng thừa

cân béo phì làm tăng nguy cơ mắc HCCH lên 12,14 lần, và có chỉ số WHR tăng

sẽ có nguy cơ mắc HCCH tăng gấp 4,57 lần [39].

Nghiên cứu của Lê Nguyễn Trung Đức Sơn và cộng sự năm 2000 đã chỉ

ra tỷ lệ HCCH ở nội thành thành phố Hồ Chí Minh là 12%, có liên quan đến

tuổi, tỷ lệ phần trăm mỡ và nghề nghiệp [92].

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Trung Thu năm 2015 cho thấy tỷ lệ mắc

HCCH ở người trung niên bị tiền đái tháo đường là 46,7% (41,5% ở nam và

49,8% ở nữ) [32].

Năm 2007, Nguyễn Hữu Toản và cộng sự đã công bố nghiên cứu về

tình trạng dinh dưỡng của cán bộ công chức tại Thành phố Hồ Chí Minh

trên tạp chí Y học thực hành. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ béo

phì của cán bộ công nhân viên bệnh viện Chợ Rẫy chiếm 32,5% và tỷ lệ

này không hề thua kém bất kỳ một quốc gia nào trong khu vực như Malaysia

(21%), Singapore (30,44%), thậm chí ngang với các nước công nghiệp như Đức

(47,3%), Anh (31,5%), Mỹ (44,4%). Mức độ thừa cân béo phì liên quan đến

tốc độ phát triển bệnh tim mạch và làm tăng tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch,

đặc biệt là ở những người trẻ và béo bụng [29].

Kết quả nghiên cứu của Trần Văn Huy cho biết tỷ lệ mắc HCCH ở người

trưởng thành tại Khánh Hòa là 15,7% theo định nghĩa của NCEP - ATP III,

trong đó độ tuổi > 54 có tỷ lệ cao nhất là 21,5% và yếu tố HDL - C thấp gặp

nhiều nhất là 37% [33].

19

Nghiên cứu của Nguyễn Viết Quỳnh Thư và cộng sự năm 2007 trên 504

nhân viên y tế cho biết tỷ lệ mắc HCCH ở nhân viên ngành y tế thành phố Hồ

Chí Minh theo tiêu chuẩn IDF (International Diabetes Federation) và ATP III

lần lượt là 22% và 13% [35].

Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Việt, Tạ Văn Bình và cộng sự nghiên cứu

về HCCH ở khu vực nội thành Hà Nội trong 2 năm 2008 – 2009 trên 550 đối

tượng của 4 quận nội thành Hà Nội theo tiêu chuẩn IDF 2005 chiến 28,9% trong

đó nữ cao hơn nam có ý nghĩa thống kê [38].

Năm 2012, nghiên cứu của Nguyễn Cảnh Phú trên cán bộ hưu trí tỉnh

Nghệ An cho biết tỷ lệ mắc HCCH theo ATP III là 35,1%, chủ yếu gặp ở nữ

chiếm 70,1% cao gấp 2,5 lần ở nam chỉ chiếm 29,9% [24].

Một nghiên cứu khác của Võ Thị Dễ trên tạp chí Y học thực hành năm

2013 nghiên cứu về tần suất và đặc điểm HCCH trong cộng đồng tỉnh Long

An năm 2010 cho thấy tỷ lệ mắc HCCH theo IDF, NCEP ATP III và NCEP

ATP III điều chỉnh lần lượt là 10,4%; 12,4% và 17,2%. Tỷ lệ mắc HCCH tăng

dần theo tuổi [10].

20

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Gồm 183 cán bộ hưu trí diện BVCSSK đang được quản lý sức khỏe tại

Ban bảo vệ chăm sóc sức khỏe tỉnh Cao Bằng.

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

- Đang bị bệnh nhiễm trùng cấp tính nặng

- Bệnh nhân mắc bệnh ác tính hay suy tim, suy gan, suy thận nặng

- Bệnh nhân mắc các bệnh ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và lipid

máu: Thận hư nhiễm mỡ, Cushing, to đầu chi...

- Bệnh nhân đang dùng các loại thuốc ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose,

lipid máu: corticoid, thuốc ức chế miễn dịch...

- Những cán bộ không sẵn sàng tham gia nghiên cứu và không có khả năng

cung cấp thông tin sau khi đã giải thích mục đích nghiên cứu.

- Tất cả các đối tượng tham gia nghiên cứu muốn bỏ cuộc có thể chấm dứt

trong bất kỳ thời gian nào.

2.2. Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành tại phòng khám Ban bảo vệ, chăm sóc sức

khỏe cán bộ tỉnh Cao Bằng.

2.3. Thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 08/2018 đến tháng 2/2019.

2.4. Phương pháp nghiên cứu

2.4.1. Thiết kế nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu mô tả, thiết kế cắt ngang.

2.4.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

- Cỡ mẫu: Cán bộ diện BVSKCB được khám lâm sàng, cận lâm sàng.

Chọn toàn bộ các bệnh nhân có HCCH và không có HCCH không phân biệt

giới tính đồng ý tham gia vào nghiên cứu.

21

- Phương pháp chọn mẫu

Áp dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích: chọn toàn bộ các cán bộ

diện BVCSSK thực hiện khám sức khỏe định kỳ trong thời gian nghiên cứu.

2.5. Chỉ tiêu nghiên cứu

2.5.1. Một số thông số chung

+Tuổi

+ Giới

+ Dân tộc

+ Các yếu tố nguy cơ ( ăn mặn, ăn nhiều đạm, ít hoạt động thể lực)

+ Tiền sử tăng huyết áp

+ Tiền sử đái tháo đường

+ Tiền sử tim mạch

+ Tiền sử gan nhiễm mỡ

+ Tiền sử tai biến mạch máu não

+ Tiền sử và/ hoặc đang sử dụng rượu

+ Tiền sử và/ hoặc đang hút thuốc

2.5.2. Chỉ tiêu lâm sàng

+ Chỉ số huyết áp HATT

+ Chỉ số HATTr

+ Cân nặng

+ Chiều cao

+ Chỉ số vòng eo

+ Chỉ số vòng mông

+ Chỉ số BMI

+ Chỉ số WHR

2.5.3. Chỉ tiêu cận lâm sàng

* Xét nghiệm máu:

22

+ Định lượng cholesterol

+ Định lượng triglyceride

+ Định lượng HDL-C

+ Định lượng glucose máu lúc đói

+ Định lượng Ure

+ Định lượng Creatinin

2.6. Phương pháp thu thập số liệu

- Lập danh sách cán bộ đang được quản lý, chăm sóc sức khỏe tại Ban

BVCSSK tỉnh Cao Bằng.

- Chuẩn bị dụng cụ đo chiều cao cân nặng, vòng eo, vòng mông; tập huấn

cho cán bộ y tế thực hiện đo.

2.6.1. Hỏi bệnh, thăm khám lâm sàng

Tất cả các cán bộ thoả mãn tiêu chuẩn trên đều được hỏi bệnh, thăm khám

theo mẫu bệnh án nghiên cứu thống nhất. Xác định các thông tin về:

- Tuổi đời, giới, dân tộc.

- Khám lâm sàng: toàn thân, đo HA, khám tim, phổi...

* Phỏng vấn các hành vi nguy cơ

Các hành vi nguy cơ ( hút thuốc lá, uống rượu bia, ăn mặn, hoạt động thể

lực) thu thập bằng cách phỏng vấn các đối tượng. Kỹ năng phỏng vấn của cán

bộ y tế bảo đảm tính chính xác của thông tin, nên phải được tập huấn kỹ.

- Đánh giá thói quen hút thuốc lá: Bằng cách hỏi đối tượng xem họ có hút

thuốc không, thời gian bắt đầu hút, số lượng hút hiện tại và trước kia. Cũng chú

ý cả việc hút thuốc thụ động, hút thuốc lào và nhai thuốc lào khi ăn trầu. Người

có thói quen hút thuốc lá: là người thường xuyên, liên tục, ngày nào cũng hút,

mỗi ngày ít nhất là 10 điếu thuốc lá.

- Thói quen uống rượu: khai thác đầy đủ thông tin về loại rượu thường

uống, số lượng, tần suất sử dụng. Sử dụng đơn vị uống chuẩn để tính lượng

ethanol đã uống. Đơn vị uống chuẩn là lượng đồ uống có rượu bao gồm 10

23

gram rượu nguyên chất (ethanol). Đó là lượng rượu mà một người bình thường

có thể chuyển hoá được trong một giờ.

Cách tính một đơn vị uống chuẩn ở các loại đồ uống có rượu:

+ Bia 6-12% 285 ml

+ Rượu vang 15-17% 120 ml

+ Rượu ngọt 20-25% 60 ml

+ Rượu trắng 40-45% 30 ml

Uống rượu an toàn:

+ Với nam giới: dưới 04 đơn vị uống chuẩn / ngày

+ Với nữ giới: dưới 02 đơn vị uống chuẩn / ngày

+ Một tuần có 2 ngày không uống rượu

- Khẩu phần ăn: chủ yếu quan tâm đến thói quen ăn mặn, lượng rau xanh,

quả chín.

Thói quen ăn mặn khá phổ biến trong chế biến thức ăn hàng ngày và sử

dụng muối, nước mắm, bột canh để chấm thức ăn. Việc đánh giá tương đối khó

khăn, do đó chủ yếu thông qua phỏng vấn đối tượng. Người có thói quen ăn

mặn: là người ăn thích ăn mặn hơn người trong gia đình (ăn mặn liên tục từ 4 -

7 ngày/tuần).

Để lượng hoá được rau xanh, quả chín ta dùng đơn vị chuẩn tương đương

với 80 gram rau xanh, quả chín (1/2 bát con rau xanh; 01 quả kích thước trung

bình các loại quả: táo Trung Quốc, lê, cam, dứa; 03 quả chuối; 01 cốc nước quả

tươi hoặc sinh tố...). Ngày điều tra là các ngày trong tuần kể cả những ngày mà

bữa ăn có thể được cải thiện hơn ngày thường (ngày nghỉ...).

- Đánh giá về hoạt động thể chất bao gồm về loại công việc, phương tiện

đi lại, thể thao, vui chơi giải trí thường xuyên của các đối tượng trong 12 tháng

qua.

+ Hoạt động nặng: đào đất, cày ruộng, tập tạ, chạy nhanh, khuân vác, gánh

đất, cưa xẻ, chạy đường dài, thể thao gắng sức, đạp xe ≥ 16 km/giờ ...

24

+ Hoạt động vừa: làm ruộng, đạp xe, đi bộ vừa phải, lau chùi nhà cửa, bơi

lội, leo cầu thang, chơi cầu lông, bóng chuyền, công nhân điện nước ...

+ Hoạt động nhẹ: tập thể dục nhẹ, đi bộ chậm, tập dưỡng sinh, bán hàng,

làm thủ công, làm vườn cắt hoa/tỉa cành, cán bộ văn phòng...

+ Nghỉ hoặc không hoạt động: xem tivi, đọc sách báo, ngồi/nằm nghỉ thư

giãn...

2.6.2. Đo huyết áp

Đo HA bằng máy HA kế đồng hồ được kiểm chuẩn và đo lại bằng HA kế

cột thuỷ ngân LPK2 sản xuất tại Nhật Bản.

- Các điều kiện về đối tượng khi đo HA:

+ Không được hoạt động mạnh trước khi đo 1 giờ.

+ Nghỉ ngơi, thoải mái ít nhất 5-10 phút trước khi đo HA.

+ Không uống cà phê, các loại đồ uống có cafein 30 phút trước khi đo,

không uống rượu trước khi đo.

+ Không hút thuốc lá 30 phút trước khi đo.

+ Không dùng các loại kích thích giao cảm ngoại lai (như: thuốc chống

ngạt mũi, thuốc nhỏ mắt làm giãn đồng tử).

+ Khi đo đối tượng cần được yên tĩnh, dễ chịu, thoải mái, không lạnh,

không mót tiểu, không tức giận hoặc xúc động.

- Tư thế đối tượng: ngồi trên ghế, lưng được nâng thẳng, tay để trần và nâng

ngang tim.

- Đo 2 lần cách nhau hai phút rồi lấy trung bình của hai lần đo. Nếu 2 lần đo

chênh lệch >10mHg thì đo lần 3 và lấy số trung bình của lần đo thứ 2 và thứ 3.

- Một số lỗi thường gặp khi đo HA: không biết đối tượng đã uống cafein

trong vòng 30 phút trước đó hay không, không đo đúng tư thế, không đo HA 2

lần hoặc đo lại ngay dưới 1 phút, làm tròn số khi đọc kết quả.

25

Khai thác tiền sử bệnh tật liên quan đến HCCH: Tăng huyết áp, ĐTĐ,

gout, rối loạn lipid máu, tiền sử gia đình (bố, mẹ, anh chị em ruột mắc các bệnh

liên quan đến HCCH).

2.6.3. Đo chiều cao, cân nặng, vòng eo, vòng mông

Đo VE, vòng mông theo phương pháp đo nhân trắc học thông thường

bằng thước dây không giãn FIGURE FINDER, độ chính xác tính bằng mm. Đo

chiều cao bằng thước gắn vào cân SMIC độ chính xác tính bằng cm. Cân nặng:

dùng cân SMIC sản xuất tại Trung Quốc, độ chính xác tính bằng 0,1kg.

Các mốc đo:

+ Cân nặng: Dùng cân SMIC sản xuất tại Trung Quốc, độ chính xác tính

bằng 0,1kg. Trọng lượng cơ thể được ghi theo kg với một số lẻ. Cân đối tượng:

khi cân chỉ mặc quần áo gọn nhất và trừ bớt cân nặng quần áo khi tính kết quả.

Đối tượng được đứng giữa bàn cân, không cử động, mắt nhìn thẳng, trọng lượng

phân bố đều cả hai chân. Cân được đặt ở vị trí ổn định và bằng phẳng.

+ Vòng eo: Đo vòng eo bằng thước dây không co giãn, kết quả được ghi

theo cm với một số lẻ. Vòng eo đo tương ứng với điểm giữa ở bờ dưới xương

sườn cuối với bờ trên mào chậu trên đường nách giữa.

+ Đo vòng mông: Ở mức nhô nhất phía sau mấu chuyển lớn xương đùi

chiếu ngang gò mu. Nếu khó xác định, để đối tượng cử động khớp háng rồi sờ

vào mấu chuyển lớn để xác định mấu chuyển. Khi đó, đối tượng đứng thẳng,

cơ mông chùng, bỏ hết vật dụng trong túi quần để đo chính xác từng mm.

+ Đo chiều cao: Chiều cao được ghi theo cm và 1 số lẻ. Đối tượng bỏ

giầy, dép, đi chân không, đứng quay lưng vào thước đo. Gót chân, mông, vai,

chẩm theo một đường thẳng áp sát vào thước đo đứng, mắt nhìn thẳng theo một

đường thẳng nằm ngang. Hai tay buông thõng hai bên mình. Kéo thước từ dưới

lên, khi áp sát đến đỉnh đầu nhìn vào thước đọc kết quả.

+ Cân nặng: Đặt cân ở vị trí ổn định trên một mặt phẳng, đối tượng chỉ

mặc quần áo mỏng, không đi giầy dép, không đội mũ hoặc cầm một vật gì.

26

Chỉnh cân ở vị trí thăng bằng. Đối tượng đứng trên bàn cân, tay buông thõng,

nhìn thẳng về phía trước. Ghi số đo trên bàn cân chính xác tới từng mức 0,1kg.

Tất cả các số đo nhân trắc đều được đo 2 lần và ghi vào hồ sơ.

2.6.4. Các kỹ thuật xét nghiệm

* Sinh hóa: Định lượng nồng độ glucose, cholesterol, HDL-C, TG, ure

và creatinin máu lúc đói:

Định lượng nồng độ glucose, choleaterol, HDL-C và TG máu lúc đói được

tiến hành tại phòng xét nghiệm Hóa sinh - Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán

bộ tỉnh Cao Bằng bằng phương pháp enzyme trên máy hoá sinh bán tự động của

Hoa Kỳ. Các mẫu xét nghiệm được lấy máu tĩnh mạch lúc đói vào buổi sáng (qua

1 đêm không ăn cách xa bữa ăn ít nhất 8 giờ).

* Điện tâm đồ:

- Sử dụng máy ghi điện tâm đồ (ECG) 3 cần của Nhật.

- Ghi trên 12 chuyển đạo thông dụng, 3 chuyển đạo mẫu (DI, DII, DIII), 3

chuyển đạo đơn cực chi (aVR, aVL, aVF), 6 chuyển đạo trước tim (V1, V2, V3,

V4, V5, V6).

- Máy chạy tốc độ 25 mm/s, test mV là biên độ N (10 mm/V) hoặc N/2

khi biên độ vượt quá giới hạn.

- Đọc kết quả điện tâm đồ: Do bác sỹ chuyên khoa thực hiện.

- Xác định tần số tim, trục điện tim, góc anpha, các sóng điện tim, đoạn

ST, sóng T, tình trạng dầy thất, block nhánh, rối loạn nhịp tim...

- Chẩn đoán dầy thất trái trên ĐTĐ: Chỉ số Sokolow - Lyon:

SV1 + RV5/RV6 > 35 mm

- Tình trạng thiếu máu cơ tim.

- Xác định nhồi máu cơ tim:

+ Dấu hiệu “trực tiếp”: sóng Q hoặc QS, ST chênh lên, T(-)

+ Dấu hiệu “gián tiếp”: ST chênh xuống, T(+).

+ Xác định vị trí của nhồi máu cơ tim trên điện tâm đồ: Trước bên, trước

vách, trước vách rộng, sau dưới, dưới nội tâm mạc.

27

2.7. Một số tiêu chuẩn được áp dụng trong nghiên cứu

* Đánh giá tình trạng dinh dưỡng

- Chỉ số khối cơ thể BMI: Chỉ số khối cơ thể BMI (kg/m2) được tính

bằng tỷ lệ cân nặng (CN) tính theo kg chia cho chiều cao (CC) bình

phương tính theo mét:

Tính chỉ số khối cơ thể (BMI: Body Mass Index).

Trọng lượng cơ thể ( kg)

BMI ( Kg/m2) =

[ Chiều cao cơ thể ( m)]2

Bảng 2.1: Đánh giá BMI áp dụng cho người châu Á

Phân loại BMI (kg/m2)

Thiếu cân < 18,5

Bình thường 18,5 – 22,9

Dư cân 23 – 24,9

Béo độ 1 25 – 29,9

Béo độ 2 ≥ 30

*Tiêu chuẩn đánh giá vòng eo, chỉ số WHR

Theo WHO áp dụng VE cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương (2000):

- Bình thường: < 90 cm (nam); < 80 cm (nữ).

- Béo bụng khi: Vòng bụng nam ≥ 90 cm.

Vòng bụng nữ ≥ 80 cm.

- Chỉ số vòng bụng/ vòng mông (WHR: Waist Hip Ratio).

Áp dụng công thức Vague. P ( 1991):

Vòng bụng ( cm)

WHR =

Vòng mông ( cm)

Tăng chỉ số WHR được tính khi: WHR ≥ 0,95 (nam); WHR ≥ 0,85 (nữ).

28

Theo chương trình phòng chống một số bệnh không lây nhiễm của Bộ Y tế

Việt Nam việc phân loại THA được quy định như sau:

* Tiêu chuẩn chẩn đoán tăng huyết áp

Bảng 2.2. Phân độ THA của Hội tim mạch Việt Nam năm 2018

Phân loại THA

HATT (mmHg)

HATTr (mmHg)

HA tối ưu

< 80

< 120

HA bình thường

< 85

< 130

HA bình thường cao

85-89

130-139

THA độ 1 ( nhẹ)

90-99

140-159

THA độ 2 ( trung bình)

100-109

160-179

THA độ 3 ( nặng)

≥ 110

≥ 180

THA tâm thu đơn độc

< 90

≥ 140

Tiền tăng huyết áp: Kết hợp HA bình thường và Bình thường cao, nghĩa là HATT từ

120- 139 mmHg và HATTr từ 80-90 mmHg.

* Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa được xác định dựa theo tiêu chuẩn của tổ chức

NCEP ATP III, có điều chỉnh tiêu chuẩn đánh giá béo bụng đối với người Châu

Á. HCCH được xác định khi có từ 3 yếu tố trở lên trong 5 yếu tố [30]:

- Béo bụng (vòng eo ≥ 90 cm đối với nam và ≥ 80 cm đối với nữ)

- Rối loạn Glucose máu khi đói (Glucose máu ≥ 5,6 mmol/l).

- Triglycerid máu cao (≥ 1,7 mmol/l).

- HDL - C thấp (< 1mmol/l ở nam và < 1,3 mmol/l ở nữ).

- Huyết áp ≥ 130/85 mmHg.

2.8. Phương tiện nghiên cứu

- Mẫu bệnh án nghiên cứu - Cân bàn

- Máy đo huyết áp - Thước đọc điện tim

- Ống nghe - Compa 2 đầu nhọn

- Thước dây - Máy điện tâm đồ

29

- Týp đựng máu

- Cân SMIC của trung Quốc, có gắn thước đo chiều cao. Độ chính xác tính

bằng 0,1kg và 1mm được kiểm tra độ chính xác của cân và chiều cao. (thường

2 lần trong ngày là đầu mỗi buổi đo).

- Thước dây nhựa không giãn FIGURE FINDER, độ chính xác tới 1mm

và được đối chiếu chuẩn đúng với thước chuẩn kim loại Thuỵ Sỹ vào đầu mỗi

buổi đo.

- HA kế cột thuỷ ngân LPK2 sản xuất tại Nhật Bản; băng cuốn dành cho

người bình thường (chiều dài x chiều rộng: 12 x 26 cm) và người lớn quá khổ

(chiều dài x chiều rộng: 12 x 40 cm).

- Máy điện tim 3 cần Fukuda 7102 của Nhật Bản, thước đọc điện tim, compa

2 đầu nhọn

- Máy xét nghiệm hoá sinh máu được tiến hành trên máy xét nghiệm sinh

hoá tự động tại Nhà điều dưỡng thuộc Ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh

Cao Bằng.

* Sai số và cách khống chế sai số.

Sai số:

- Do cân đo không chính xác.

- Do nhập và xử lý số liệu.

Cách khống chế sai số:

- Sau mỗi ngày kiểm tra lại số liệu thu thập.

- Chuẩn hóa kỹ thuật đo chiều cao, trọng lượng cơ thể, vòng eo và

phương pháp ghi chép.

2.9. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu

- Làm sạch số liệu trước khi nhập vào máy tính.

- Các số liệu thu thập, làm sạch; được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1.

Số liệu của nghiên cứu được xử lý theo các thuật toán thống kê y học trên

30

máy vi tính bằng chương trình phần mềm SPSS 22.0. Tỷ suất chênh OR (Odd

- ratio), OR > 1 là có yếu tố nguy cơ.

+ Tính tỷ lệ phần trăm.

+ Nhận định sự khác biệt (có ý nghĩa thống kê) khi: P < 0,05.

2.10. Đạo đức nghiên cứu

- Nghiên cứu sẽ thực hiện khi được Hội đồng đạo đức trường Đại học Y

Dược Thái Nguyên thông qua.

- Đối tượng nghiên cứu được giải thích rõ mục tiêu và phương pháp nghiên

cứu, tự nguyện tham gia vào nghiên cứu và có quyền rút khỏi nghiên cứu mà

không cần giải thích.

- Các thông tin về đối tượng nghiên cứu được đảm bảo giữ bí mật.

- Kết quả thông tin thu thập được chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu

nhằm đưa ra khuyến cáo cho cộng đồng để kiểm soát các yếu tố nguy cơ.

31

SƠ ĐỒ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Đối tượng NC

Khám Xét nghiệm Phỏng vấn

Tổng hợp

Xác định HCCH theo NCEP - ATP III

Có HCCH Không có HCCH

So sánh

Kiến nghị

32

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

24.1

Nam

Nữ

75.9

3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 3.1. Phân loại đối tượng nghiên cứu theo giới

Nhận xét: Tỉ lệ nam giới trong nghiên cứu chiếm 75,9%, cao hơn tỉ lệ nữ

giới chiếm 24,1%.

Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi và giới

Nam Nữ Tổng số Giới

Nhóm tuổi n % n % n %

50 - 59 5 2,7 14 7,7 19 10,4

60 - 69 70 38,3 15 8,2 85 46,5

70 - 79 48 26,2 12 6,5 60 32,7

≥ 80 16 8,7 3 1,7 19 10,4

75,9 44 Tổng số 139 24,1 183 100,0

Nhận xét: Số đối tượng nghiên cứu trong độ tuổi từ 60-69 chiếm cao

nhất (46,5%); tiếp theo đó là nhóm tuổi từ 70-79 (32,7%), số đối tượng thuộc

nhóm tuổi từ 50 - 59 và nhóm ≥ 80 chiếm 10,4%.

80.0%

70.0%

70.0%

60.0%

50.0%

40.0%

30.0%

17.5%

20.0%

11.4%

10.0%

1.1%

0.0%

Kinh

Tày

Nùng

Khác

33

Biểu đồ 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo dân tộc

Nhận xét: Phần lớn đối tượng nghiên cứu là người dân tộc Tày (70%);

số đối tượng nghiên cứu là người dân tộc Kinh chiếm 17,5%, Nùng chiếm

11,4% và các dân tộc khác chiếm 1,1%.

Bảng 3.2. Giá trị một số chỉ tiêu nhân trắc của đối tượng nghiên cứu

ở hai giới

Nam Nữ Chỉ số nhân trắc (X±SD) (X±SD)

63,9±8,9 56,0±10,3 Cân nặng (kg)

162,3±5,6 153,9±4,6 Chiều cao (cm)

24,2±2,9 23,6±3,8 BMI (kg/m2)

86,3±6,9 76,9±6,4 Vòng eo (cm)

94,3±4,3 94,3±4,1 Vòng mông (cm)

Chỉ số vòng bụng/vòng mông (WHR) 0,91±0,06 0,82±0,67

Nhận xét: Cân nặng, chiều cao, BMI, vòng eo trung bình, vòng mông và

chỉ số WHR của cán bộ nam lần lượt là 63,9±8,9 kg, 162,3±5,6 cm, 24,2±2,9

kg/m2 , 86,3±6,9 cm, 94,3±4,3 cm, 94,3±4,3. Nhìn chung các chỉ số nhân trắc

ở nam cao hơn ở nữ.

34

Bảng 3.3. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu theo BMI

Nam (n ) Nữ (n ) Tổng (n ) BMI n % n % n %

5 2,7 2 1,1 7 3,8 Thiếu cân

42 22,9 17 9,3 59 32,2 Bình thường

43 23,5 12 6,6 55 30,1 Thừa cân

49 26,8 13 7,1 62 33,9 Béo phì

44 139 75,9 24,1 183 100,0 Tổng

(Thiếu cân: BMI < 18,5, Bình thường: 18,5 ≤ BMI < 23;

Thừa cân: 23 ≤ BMI < 25; Béo phì: BMI ≥ 25).

Nhận xét: Qua kết quả bảng 3.4 tỷ lệ nhóm BMI béo phì chiếm cao nhất

33,9%, tiếp theo là nhóm BMI bình thường chiếm 32,2%, nhóm BMI thừa cân

chiếm 30,1%, nhóm BMI thiếu cân chiếm tỷ lệ thấp nhất 3,8%.

Bảng 3.4. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu theo phân độ THA của Hội tim

mạch Việt Nam năm 2018

Nam (n ) Nữ (n ) Tổng (n ) Phân độ n % n % n %

Bình thường 6 3,3 5 2,7 11 6,0

Tiền THA 52 28,4 24 13,1 76 41,5

THA độ I 59 32,2 10 5,5 69 37,7

THA độ II 22 12,1 5 2,7 27 14,8

Tổng 139 76,0 44 24,0 183 100,0

(Tiền tăng huyết áp: Kết hợp HA bình thường và Bình thường cao, nghĩa

là HATT từ 120- 139 mmHg và HATTr từ 80-90 mmHg.)

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân tiền THA chiếm cao nhất 41,5%, tiếp theo

là nhóm bệnh nhân THA độ I chiếm 37,7%, nhóm THA độ II chiếm 14,8%,

nhóm HA bình thường chiếm 6,0%.

35

Bảng 3.5. Tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa theo giới

Nam Nữ Chung HCCH n(%) n(%) n(%)

Có HCCH 47 (33,8%) 8 (18,2%) 55 (30,1%)

Không có HCCH 92 (66,2%) 36 (81,8%) 128 (69,9%)

p < 0,05

Nhận xét: Tỷ lệ mắc HCCH của nhóm đối tượng nghiên cứu chiếm

30,05%. Trong đó tỷ lệ mắc HCCH ở nam cao hơn nữ (nam 33,8%; nữ 18,2%),

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,05.

Bảng 3.6.Tỷ lệ mắc các yếu tố chẩn đoán Hội chứng chuyển hóa xếp theo

nhóm tuổi

Yếu tố chẩn đoán

Nhóm tuổi 0 1 2 ≥ 3

n % n % n % n %

1 5,3 6 31,6 8 42,1 4 21,1 50 - 59

4 4,7 22 25,9 27 31,8 32 37,6 60 - 69

7 11,7 25 41,7 13 21,7 15 25,0 70 - 79

2 10,5 5 26,3 8 42,1 4 21,1 ≥ 80

14 7,7 58 31,7 56 30,6 55 30,1 Tổng

Nhận xét: Tỷ lệ cán bộ hưu thuộc ban BVCSSK được chẩn đoán là có

HCCH theo tiêu chuẩn NCEP - ATP III (có từ 3 yếu tố trở lên) là 30,1%. Tỷ lệ

không mắc yếu tố nào chiếm 7,7%, mắc 1 yếu tố chẩn đoán chiếm 31,7%, mắc

2 yếu tố chẩn đoán chiếm 30,6%.

Tỷ lệ mắc HCCH cao nhất ở nhóm tuổi từ 60 – 69 chiếm 37,6%, thấp

nhất ở hai nhóm tuổi từ 50 -59 và ≥ 80 tuổi chiếm 21,1%.

Với tỷ lệ mắc 2 yếu tố chẩn đoán HCCH thì cao nhất là nhóm tuổi từ 50 - 59

và ≥ 80 tuổi chiếm 42,1%, tiếp theo là nhóm 60 -69 tuổi chiếm 31,8%, thấp

nhất là nhóm từ 70 - 79 tuổi chiếm 21,7%.

36

Bảng 3.7. Tỷ lệ mắc từng yếu tố chẩn đoán HCCH theo giới

Nam Nữ Tổng Yếu tố n % n % n %

Béo bụng * 58 41,7 21 47,7 79 43,2

Rối loạn glucose máu* 37 26,6 6 13,6 43 23,5

Yếu tố triglycerid* 31 22,3 8 18,2 39 21,3

Yếu tố HDL - C* 31 22,3 14 31,8 45 24,6

Yếu tố huyết áp* 27 112 80,6 61,4 139 76,0

* Sự khác biệt giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)

Nhận xét: Trong các yếu tố chẩn đoán HCCH, yếu tố huyết áp chiếm tỷ

lệ cao nhất 76%, tiếp theo là yếu tố béo bụng chiếm 43,2%, thấp nhất là yếu tố

Triglycerid chiếm 21,3%. Tỷ lệ tăng huyết áp ở nam cao hơn nữ ( nam 80,6%,

nữ 61,4%), tỷ lệ rối loạn glucose máu, yếu tố triglycerid ở nam (26,6%; 22,3%;

) cao hơn nữ (13,6%; 18,2%), tỷ lệ béo bụng, yếu tố HDL-C ở nữ (47,7%;

31,8%) cao hơn nam ( 41,7%; 22,3%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<

0,05.

3.2. Một số yếu tố liên quan với hội chứng rối loạn chuyển hóa

Bảng 3.8. Mối liên quan giữa chỉ số BMI và hội chứng chuyển hóa

HCCH BMI OR 95% CI p n(%)

BMI ≥ 23kg/m2 46(39,3) 4,1 1,9-9,1 0,00

BMI < 23kg/m2 9(13,6)

Nhận xét: Tỷ lệ đối tượng có BMI ≥ 23 có nguy cơ mắc HCCH cao

gấp 4,1 lần so với đối tượng có BMI < 23 có ý nghĩa thống kê với p <

0,01.

37

Bảng 3.9. Mối liên quan giữa giới và hội chứng chuyển hóa

HCCH Giới OR 95%CI P n(%)

Nam (n=139) 47(33,8) 2,3 0,9-5,3 0,049

Nữ (n=44) 8(18,2)

Nhận xét : Tỷ lệ mắc HCCH theo tiêu chuẩn NCEP - ATP III nam

và nữ lần lượt là 33,8% và 18,2%, nam có nguy cơ cao gấp 2,3 lần so với

nữ với p < 0,05.

Bảng 3.10. Mối liên quan giữa độ tuổi và hội chứng chuyển hóa

HCCH Có HCCH Không HCCH p Độ tuổi

4(21,1) 15(78,9) 50 - 59

32(37,6) 53(62,4) 60 - 69

15(25,0) 45(75,0) 0,21 70 - 79

4(21,1) 15(78,9) ≥ 80

Tổng cộng 55(30,1) 128(69,9)

Nhận xét: Tỷ lệ mắc HCCH cao nhất ở độ tuổi 60 - 69 (37,6%), 70-79

(25%), 50-59 và ≥ 80 (21,1%). Mối liên quan giữa độ tuổi và HCCH chưa có ý

nghĩa thống kê, p>0,05.

38

Bảng 3.11. Mối liên quan giữa mức độ hoạt động thể lực với HCCH

HCCH

Ít vận động Không Có

(n,%) (n,%)

Có 44(56,4) 34(43,6)

Không 84(80,0) 21(20,0)

OR(CI95%), p 3,1(1,6-5,9), p=0,001

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân không mắc HCCH có hoạt động thể lực chiếm

56,4% cao hơn tỷ lệ có hoạt động thể lực mắc HCCH 43,6% có ý nghĩa thống

kê p < 0,001; với tỉ suất chênh OR = 3,1 (Cl: 1,6-5,9).

Bảng 3.12. Mối liên quan giữa hút thuốc lá với HCCH

HCCH

Hút thuốc lá Không Có

(n,%) (n,%)

Có 25(52,1) 23(47,9)

Không 103(76,3) 32(23,7)

OR(CI95%), p 2,96(1,5-5,9), p=0,002

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân không có HCCH có hút thuốc (52,1%) cao

hơn tỷ lệ có HCCH có hút thuốc (47,9%) có ý nghĩa thống kê p < 0,002; với tỉ

suất chênh OR = 2,96 (Cl: 1,5-5,9).

39

Bảng 3.13. Mối liên quan giữa stress với HCCH

HCCH

Stress Có Không

(n,%) (n,%)

Có 22(33,3) 44(66,7)

Không 33(28,2) 84(71,8)

OR(CI95%), p 1,3(0,7-2,4), p=0,467

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân không có HCCH không có stress (66,7%) cao

hơn tỷ lệ có HCCH có stress (33,3%) không có ý nghĩa thống kê p > 0,05.

Bảng 3.14. Mối liên quan giữa thói quen ăn mặn với HCCH

HCCH

Ăn mặn Có Không

(n,%) (n,%)

27(38,0) 44(62,0) Có

28(25,0) 84(75,0) Không

OR(CI95%), p 1,8(0,96-3,5), p=0,061

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân không có HCCH có ăn mặn (62,0%) cao hơn

tỷ lệ có HCCH có ăn mặn (38%) không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

40

Bảng 3.15. Mối liên quan giữa thói quen ăn nhiều đạm với HCCH

HCCH

Ăn nhiều đạm Không Có

(n,%) (n,%)

35(61,4) 22(38,6) Có

93(73,8) 33(26,2) Không

OR(CI95%), p 1,8(0,9-3,4), p=0,09

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân không có HCCH có ăn nhiều đạm (61,4%)

cao hơn tỷ lệ có HCCH có ăn nhiều đạm (38,6%) không có ý nghĩa thống kê

với p > 0,05.

Bảng 3.16. Mối liên quan giữa tiền sử tăng huyết áp với HCCH

HCCH

Tiền sử tăng huyết áp Có Không

(n,%) (n,%)

Có 25(54,3) 21(45,7)

Không 30(21,9) 107(78,1)

OR(CI95%), p 4,2(2,1-8,6), p=0,000

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có HCCH cóTHA (54,3%) cao hơn tỷ lệ

không có HCCH có THA (45,7%) có ý nghĩa thống kê p < 0,05; với tỉ suất

chênh OR = 4,2 (Cl: 2,1-8,6).

41

Bảng 3.17. Mối liên quan giữa tiền sử đái tháo đường với HCCH

HCCH

Tiền sử đái tháo đường Có Không

(n,%) (n,%)

Có 12(52,2) 11(47,8)

Không 43(26,9) 117(73,1)

OR(CI95%), p 2,9(1,2-7,2), p=0,013

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có HCCH có tiền sử ĐTĐ (52,2%) cao hơn

tỷ lệ không có HCCH có tiền sử ĐTĐ (47,8%) có ý nghĩa thống kê p < 0,05;

với tỉ suất chênh OR = 2,9 (Cl: 1,2 - 7,2).

Bảng 3.18. Mối liên quan giữa tiền sử gan nhiễm mỡ với HCCH

HCCH

Tiền sử gan nhiễm mỡ Có Không

(n,%) (n,%)

Có 20(45,5) 24(54,5)

Không 35(25,2) 104(74,8)

OR(CI95%), p 2,5(1,2-5,0), p=0,011

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân không có HCCH có tiền sử gan nhiễm mỡ

(54,5%) cao hơn tỷ lệ có HCCH có tiền sử gan nhiễm mỡ (45,5%) có ý nghĩa

thống kê p < 0,05; với tỉ suất chênh OR = 2,5 (Cl: 1,2-5,0).

42

Bảng 3.19. Mối liên quan giữa tiền sử bệnh tim mạch với HCCH

HCCH

Tiền sử tim mạch Có Không

(n,%) (n,%)

7(31,8) 15(68,2) Có

48(29,8) 113(70,2) Không

OR(CI95%), p 1,1(0,4-2,9), p=0,847

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân không có HCCH có tiền sử tim mạch (68,2%)

cao hơn tỷ lệ có HCCH có tiền sử tim mạch (31,8%) không có ý nghĩa thống

kê p > 0,05.

Bảng 3.20. Mối liên quan giữa tiền sử tai biến mạch máu não với HCCH

HCCH

Tiền sử TBMMN Có Không

(n,%) (n,%)

Có 8(57,1) 6(42,9)

Không 47(27,8) 122(72,2)

OR(CI95%), p 3,5(1,1-10,5), p=0,02

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có HCCH có tiền sử tai biến (57,1%) cao hơn

tỷ lệ không có HCCH có tiền sử tai biến (42,9%) có ý nghĩa thống kê p < 0,001;

với tỉ suất chênh OR = 3,5 (Cl: 1,1 - 10,5).

43

Chương 4

BÀN LUẬN

Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên 183 cán bộ chủ yếu là cán

bộ hưu trí ở đang được quản lý sức khỏe tại Ban bảo vệ sức khỏe tỉnh Cao

Bằng. Đây là đối tượng cần phải được quan tâm nghiên cứu vì ở họ có nhiều

yếu tố nguy cơ của các bệnh lý tim mạch, thần kinh, những bệnh lý nếu xảy ra

sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người bệnh, là gánh nặng cho gia đình và xã

hội. Nghiên cứu của chúng tôi đã thu được kết quả như sau:

4.1. Đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở các đối tượng được quản lý tại Ban

bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh Cao Bằng.

4.1.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở biểu đồ 3.1 cho thấy, đối tượng

nghiên cứu chủ yếu là nam giới chiếm 75,9%; nữ giới chiếm 24,1%. Tỷ lệ mắc

HCCH theo giới cũng khác nhau theo các nghiên cứu khác nhau, kết quả của

chúng tôi cũng phù hợp so với các nghiên của Trang Mộng Hải Yến, tác giả

tiến hành nghiên cứu trên 379 cán bộ diện tỉnh ủy quản lý tại Long An, kết quả

cho thấy nam giới chiếm 87,07% và nữ giới chỉ chiếm 12,93% [39]. Tuy nhiên,

theo nghiên cứu của nhóm tác giả ở Hàn Quốc thì lệ mắc HCCH ở nam và nữ

gần tương đương nhau [72]. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Cảnh

Phú trên đối tượng cán bộ hưu trí tỉnh Nghệ An năm 2012 cho thấy tỷ lệ nữ giới

chiếm 57,1% cao hơn so với nam giới chiếm 42,9%; tuy nhiên sự khác biệt

không có ý nghĩa thống kê [24]. Kết quả này cũng tương tự với kết quả nghiên

cứu của tác giả Ngô Đình Châu năm 2010 [8].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, số đối tượng nghiên cứu trong độ tuổi

từ 60 - 69 chiếm cao nhất (46,5%); tiếp theo đó là nhóm tuổi từ 70 - 79 (32,7%),

nhóm tuổi từ 50 - 59 và nhóm ≥ 80 chiếm tỷ lệ thấp nhất là 10,4%. Trong kết

quả của Nguyễn Văn Thành (2013), độ tuổi 60 - 69 cũng chiếm tỷ lệ cao nhất

trong số đối tượng nghiên cứu, tuy nhiên thấp hơn so với của chúng tôi (25,3%).

44

Tỷ lệ độ tuổi 60 - 69 của nghiên cứu này thấp vì nghiên cứu của tác giả có số

lượng lớn n= 683 và độ tuổi rộng từ dưới 40 tuổi đến trên 80 tuổi [31]. Tuy

nhiên trong nghiên cứu của Trang Mộng Hải Yến thì số lượng cán bộ mắc

HCCH chiếm tỷ lệ cao ở độ tuổi 50 - 60 (65,96%), còn độ tuổi 60 - 70 có tỷ lệ

thấp (1,06%) [39]. Trong một nghiên cứu về mối liên quan giữa HCCH với

tuổi, tác giả Alexander CM (2003) cũng nhận thấy lứa tuổi 50 - 60 tỷ lệ HCCH

theo tiêu chuẩn NCEP - ATP III là 43,5%, nhóm tuổi 60 - 70 tỷ lệ > 50% [43].

Nghiên cứu HCCH ở người trưởng thành, tuổi trung niên tại Hàn Quốc, thì tỷ

lệ HCCH thay đổi theo tuổi: nhóm tuổi 40 - 49 có 21,15%, nhóm tuổi 50 - 59

có 16,3%, nhóm tuổi 60 - 69 có 16,95% và nhóm >70 tuổi là 12,8%. Trong các

nghiên cứu trên dân số chung thì tỷ lệ HCCH cũng tăng dần theo lứa tuổi và

tập trung nhiều nhất ở nhóm tuổi >60 [70].

Phần lớn đối tượng nghiên cứu là người dân tộc Tày (70%); số đối tượng

nghiên cứu là người dân tộc Kinh chiếm 17,5%, Nùng chiếm 11,4% và các dân

tộc khác chiếm 1,1%.Tỷ lệ mắc HCCH khác nhau ở các nhóm dân tộc phụ

thuộc vào yếu tố phân bố sinh sống dân tộc theo vùng miền, ở Cao Bằng thì tỷ

lệ dân tộc Tày chiếm chủ yếu.

Ngày nay, tỷ lệ thừa cân và béo phì đang gia tăng đến mức báo động ở

các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, ở thành phố cũng như

ở những vùng nông thôn. Béo là kết quả của lối sống ít vận động và chế độ ăn

quá nhiều năng lượng hàng ngày. Nhiều nghiên cứu đều thống nhất rằng, béo

là thang điểm cao nhất trong sự đề kháng insulin, THA, sự bất thường glucosse

máu, rối loạn lipid máu và nó có mối liên quan mật thiết đến sự tiến triển của

bệnh tim mạch. Trong kết quả nghiên cứu cho thấy cân nặng, chiều cao, BMI,

vòng eo trung bình, vòng mông và chỉ số WHR của cán bộ nam lần lượt là 63,9

± 8,9 kg ; 162,3 ± 5,6cm ;24,2 ± 2,9 kg/m2 ; 86,3 ± 6,9 cm ; 94,3 ± 4,3 cm ;

94,3 ± 4,3. Nhìn chung các chỉ số nhân trắc ở nam cao hơn ở nữ. Các chỉ số

45

nhân trắc trong nghiên cứu của chúng cũng tương so với các nghiên cứu về

HCCH ở người lớn tuổi [30].

Trong nghiên cứu của chúng tôi: nhóm béo phì chiếm tỷ lệ cao nhất

(33,9%), các nhóm còn lại tỷ lệ giảm dần là bình thường (32,2%), thừa cân

(30,1%) và thiếu cân (3,8%); nhóm nam giới có tỷ lệ BMI cao hơn so với nữ

giới. Theo nghiên cứu của Lê Nguyễn Trung Đức Sơn (2001) phát hiện thấy

béo bụng và tỷ lệ mỡ cơ thể cao ở người Việt Nam ngay cả khi BMI bình

thường, đồng thời thấy nữ giới ở Việt Nam tỷ lệ béo trung tâm cao hơn nam

giới. Trần Thị Hồng Loan và CS (2004) thấy ở người phương Tây mỡ cơ thể

và vòng bụng thường chỉ tăng khi tăng chỉ số BMI tăng cao, trong khi ở người

Việt Nam BMI bình thường đã có béo bụng với tỷ lệ béo bụng là 33,3% ở người

có chỉ số BMI bình thường [28].

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.4 cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân tiền THA chiếm

cao nhất 41,5%, tiếp theo là nhóm bệnh nhân THA độ I chiếm 37,7%, nhóm

THA độ II chiếm 14,8%, nhóm HA bình thường chiếm 6,0%. Theo tác giả Đỗ

Thị Phương Hà cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp tại Việt Nam đang gia tăng một

cách nhanh chóng. Theo tổng điều tra toàn quốc về yếu tố nguy cơ bệnh không

lây nhiễm ở Việt Nam năm 2015, có 18,9% người trưởng thành trong độ tuổi

từ 18 đến 69 tuổi bị tăng huyết áp; tỷ lệ tăng huyết áp ở nhóm tuổi từ 30 đến 69

tuổi là 30,6% [12] [6]. Điều này có thể giải thích do đối tượng nghiên cứu của

chúng tôi từ 50 tuổi trở lên, trong đó chỉ có 10,4% từ 50 đến 59 tuổi, còn lại

chủ yếu là từ 60 tuổi trở lên (89,6%); Theo báo cáo chung tổng quan ngành y

tế năm 2016 sau khi tổng hợp kết quả một số nghiên cứu về tỷ lệ mắc tăng huyết

áp ở người cao tuổi Việt Nam cho thấy tỷ lệ mắc tăng huyết áp thường cao hơn

tỷ lệ người cao tuổi đã được chẩn đoán trước và tự khai bệnh, do nhiều người

mắc tăng huyết áp chưa được chẩn đoán. Tuy nhiên, so sánh năm 2001 với năm

2015, tỷ lệ người cao tuổi biết là mắc tăng huyết áp đã tăng đáng kể. Tỷ lệ

mắc tăng huyết áp tăng theo tuổi. Hầu hết các nghiên cứu về tăng huyết áp ở

46

người cao tuổi ở Việt Nam cho thấy tỷ lệ gần 50%, tức là khoảng một nửa số

người cao tuổi mắc bệnh tăng huyết áp đang cần quản lý bệnh hằng ngày [5].

4.1.2 Đặc điểm hội chứng chuyển hóa

Hội chứng chuyển hóa là một trong những vấn đề sức khỏe cộng đồng

được quan tâm nhất trong thiên niên kỷ XXI. Hội chứng chuyển hóa ngày càng

tăng trên thế giới, tỷ lệ này ở các nước phát triển khá cao và đang có xu hướng

gia tăng báo động ở các nước đang phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế

xã hội [77]. Theo hiệp hội đái tháo đường thế giới (IDF) hội chứng chuyển hóa

là tập hợp những yếu tố nguy cơ của hại đại dịch lớn đó là bệnh tim mạch và đái

tháo đường type 2 ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống con người và tốn kém

đàng kể ngân sách về y tế toàn dân của nhiều nước trên thế giới.

Chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn NCEP - ATP III để chẩn đoán HCCH trong

nhóm đối tượng nghiên cứu. Theo tiêu chuẩn này thì chỉ cần có từ 3 tiêu chuẩn

trở lên trong 5 tiêu chuẩn là béo bụng, huyết áp, glucose lúc đói, tăng

triglycerid, giảm HDL - C là đủ để chẩn đoán HCCH. Kết quả nghiên cứu của

chúng tôi cho thấy tỷ lệ cán bộ hưu thuộc ban BVCSSK được chẩn đoán là có

HCCH theo tiêu chuẩn NCEP - ATP III (có từ 3 yếu tố trở lên) là 30,1%. Tỷ lệ

không mắc yếu tố nào chiếm 7,7%, mắc 1 yếu tố chẩn đoán chiếm 31,7%, mắc

2 yếu tố chẩn đoán chiếm 30,6%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương

tự với các nghiên cứu trong và ngoài nước.

Trong nghiên cứu của chúng tôi thu được kết quả tỷ lệ mắc HCCH là

30,05%. Tỷ lệ mắc HCCH ở nam giới cao hơn ở nữ giới ( nam 33,8%; nữ

18,2%). Trên thế giới đã có khá nhiều nghiên cứu về HCCH. Theo tiêu chuẩn

của NCEP thì HCCH được ước tính là 24% người trưởng thành ở Mỹ, trong đó

tỷ lệ này nguời có dộ tuổi trên 50 chiếm tới 44%. Với định nghĩa của WHO,

HCCH có mặt ở 5 - 22% phụ nữ tuổi từ 40 - 45 [95], [57]. Một nghiên cứu cắt

ngang ở Venezuela đã nghiên cứu ở đối tượng từ 20 tuổi trở lên cho biết tỷ lệ

mắc HCCH theo NCEP là 31,2% trong đó tỷ lệ này ở nam cao hơn ở nữ. Tỷ lệ

47

mắc HCCH cũng tăng theo tuổi cùng mức độ béo phì. Tỷ lệ này có sự khác biệt

giữa các nhóm đàn ông chủng tộc khác nhau, đàn ông da đỏ có tỷ lệ mắc thấp

nhất (17%) so với người da đen (27,2%) và người da trắng (33,3%) nhưng

không có sự khác biệt giữa các nhóm phụ nữ. Các yếu tố HDL - C (65,3%), béo

bụng (42,9%) và yếu tố huyết áp (38,1%) là thường gặp nhất trong HCCH.

Cách sống không lành mạnh cũng làm tăng nguy cơ của hội chứng này [44].

Nghiên cứu của Heng KS và cộng sự (2013) trên đối tượng là đội ngũ

nhân viên trường Đại học Putra Malaysia từ 20 đến 65 tuổi cho biết tỷ lệ HCCH

của nhóm đối tượng này theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Harmonised, IDF và

NCEP ATP III lần lượt là 38,3%, 38,8% và 33,5% [60]. Trước đó một nghiên

cứu khác cũng tại Malaysia của Mohamud và cộng sự (2012) cho tỷ lệ HCCH

ở người dân Malaysia theo tiêu chuẩn Harmonised, IDF và NCEP ATP III lần

lượt là 42,5%, 37,2% và 34,3% [81].

Theo nghiên cứu của Nguyên Văn Thành và cộng sự ở đối tượng cán bộ

thuộc diện quản lý của ban BVCSSKCB tỉnh Bạc Liêu cho thấy kết quả HCCH

chiếm tỷ lệ 24% trong đó ở nhóm tuổi < 60 là 29,4%, ở nhóm tuổi ≥ 60 là

20,9%, nam chiếm tỷ lệ 21,8% nữ chiếm 32% [31].

Nghiên cứu của Trang Mộng Hải Yến và cộng sự năm 2014 ở đối tượng

cán bộ tỉnh ủy quản lý tại Long An cho thấy HCCH chiếm 30,34%, nhóm tuổi

50 - <60 chiếm 65,96% và 89,39% cán bộ bị thừa cân béo phì. Tình trạng thừa

cân béo phì làm tăng nguy cơ mắc HCCH lên 12,14 lần, và có chỉ số WHR tăng

sẽ có nguy cơ mắc HCCH tăng gấp 4,57 lần [39].

Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Trung Thu, Trần Quang Bình

trên 368 người bị tiền đái tháo đường từ 40 đến 64 tuổi tại tỉnh Hà Nam cho

thấy tỉ lệ mắc HCCH trên người bị tiền đái tháo đường lên tới 46,7% [32]. Theo

nghiên cứu của tác giả Nguyễn Cảnh Phú cho thấy tỷ lệ kết hợp 3 yếu tố trong

HCCH chiếm tỷ lệ cao nhất là 63,1%; kết quả này cao hơn so với kết quả nghiên

cứu của chúng tôi, điều này có thể giải thích do sự khác nhau về phạm vi nghiên

48

cứu do tác giả Nguyễn Cảnh Phú tiến hành nghiên cứu trên nhóm đối tượng cán

bộ hưu trí [24]. Bên cạnh đó theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Thủy

trên 500 cán bộ công chức, viên chức thuộc các cơ quan đóng trên địa bàn thị

xã Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ năm 2012 cho thấy tỷ lệ mắc HCCH là 13,2% [34]

thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi và một số nghiên cứu khác;

có thể do đối tượng nghiên cứu ở đây có độ tuổi dưới 60 tuổi, còn trong nghiên

cứu của chúng tôi từ trên 50 tuổi.

Theo tác giả Lê Hữu Lợi, Nguyễn Văn Sang và cộng sự nghiên cứu đặc

điểm HCCH và một số yếu tố liên quan ở 95 bệnh nhân là cán bộ trung cao

thuộc diện Ban thường vụ Tỉnh ủy quản lý tại tỉnh Kon Tum cho thấy tỷ lệ mắc

HCCH là 27,36% [18].

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, tỷ lệ mắc HCCH cao

nhất ở nhóm tuổi từ 60 - 69 chiếm 37,6%, thấp nhất ở hai nhóm tuổi từ 50 - 59

và ≥ 80 tuổi chiếm 21,1%. Với tỷ lệ mắc 2 yếu tố chẩn đoán HCCH thì cao nhất

là nhóm tuổi từ 50 - 59 và ≥ 80 tuổi chiếm 42,1%, tiếp theo là nhóm 60 -69 tuổi

chiếm 31,8%, thấp nhất là nhóm từ 70 - 79 tuổi chiếm 21,7%. Trong các yếu tố

chẩn đoán HCCH, yếu tố huyết áp chiếm tỷ lệ cao nhất 76%, tiếp theo là yếu

tố béo bụng chiếm 43,2%, thấp nhất là yếu tố Triglycerid chiếm 21,3%. Tỷ lệ

tăng huyết áp ở nam cao hơn nữ ( nam 80,6%, nữ 61,4%), tỷ lệ rối loạn glucose

máu, yếu tố triglycerid ở nam (26,6%; 22,3%; ) cao hơn nữ (13,6%; 18,2%), tỷ

lệ béo bụng, yếu tố HDL-C ở nữ (47,7%; 31,8%) cao hơn nam ( 41,7%; 22,3%).

Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,05.

4.2. Một số yếu tố liên quan với hội chứng rối loạn chuyển hóa

* BMI

Chỉ số BMI được khuyến cáo như là một phương pháp đánh giá thừa cân,

béo phì ở người lớn và được sử dụng trong nhiều nghiên cứu. Theo Tổ chức Y

tế thế giới năm 2000, các ngưỡng giá trị của BMI của người châu Á trưởng

thành để chẩn đoán thừa cân là BMI ≥ 23 và béo phì BMI ≥ 25. Kết quả ở bảng

49

3.8 cho thấy tỷ lệ đối tượng có BMI ≥ 23 có nguy cơ mắc HCCH cao gấp 4,1

lần so với đối tượng có BMI < 23 và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với

p < 0,001. Đi liền với thừa cân, béo phì là các bệnh mạn tính khi bước vào độ

tuổi trưởng thành. Đó là biểu hiện của HCCH ở các mức độ, trong đó có vai trò

quan trọng của yếu tố dinh dưỡng. HCCH như là một vấn đề thời sự được quan

tâm do sự gia tăng về tần suất trong dân số chung cũng như ở một số đối tượng

nguy cơ cao như tăng huyết áp, béo phì, phụ nữ mạn kinh, đái tháo đường [15],

[27]. Hiểu biết về mối liên quan giữa béo phì và hội chứng chuyển hóa ngày

càng rõ ràng nhờ phát hiện nhiều sản phẩm giải phòng từ tế bào mỡ. Khi béo

phì, các chất này được giải phóng một lượng bất thường và mỗi chất đều có

liên quan đến nguyên nhân của một trong những yếu tố nguy cơ chuyển hóa.

Kết quả nghiên cứu của tác giả Ngô Đình Châu cho thấy, tỷ lệ HCCH cao nhất

ở các đối tượng có BMI > 28 chiếm 88,1% tiếp đến là BMI từ 26,8 đến 28 với

tỷ lệ mắc HCCH là 75,8% và BMI từ 25 đến 26,7 là 67,7% sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê với p<0,05 [8]. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Hữu

Dàng cho thấy ở nhóm người mắc HCCH có chỉ số BMI là 22,63 ± 3,08 cao

hơn so với nhóm không mắc HCCH (20,88 ± 4,53) [9]. Kết quả nghiên cứu của

tác giả Đỗ Văn Lương, Nguyễn Đỗ Huy và cộng sự cũng cho thấy nhóm thừa

cân béo phì có nguy cơ mắc HCCH cao gấp 2,92 lần so với nhóm có BMI bình

thường và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001 [19]. Bên cạnh đó Hội

chứng chuyển hóa ở người có chỉ số khối cơ thể (BMI) bình thường chưa được

quan tâm nghiên cứu nhiều. Một nghiên cứu ở những người có BMI bình

thường tại Hà Nam cho thấy có tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hoá là 12,3% [4].

*Giới

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ mắc HCCH theo tiêu

chuẩn NCEP - ATP III nam và nữ lần lượt là 33,8% và 18,2%, nam có nguy cơ

cao gấp 2,3 lần so với nữ với p < 0,05. Wilson PW, D'Agostino RB, Parise H,

Sullivan L, Meigs JB khi nghiên cứu hội chứng chuyển hóa theo tiêu chuẩn

50

ATP III cập nhật năm 2005 báo trước sự xuất hiện của bệnh tim mạch và đái

tháo đường cho thấy, tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa là 26,8% đối với nam

cao hơn so với nữ (25,0%) ở 3323 người có tuổi từ 22 đến 81 không mắc bệnh

tim mạch và đái tháo đường tại thời điểm nghiên cứu [96]. Một nghiên cứu cắt

ngang ở Venezuela đã nghiên cứu ở đối tượng từ 20 tuổi trở lên cho biết tỷ lệ

mắc HCCH theo NCEP là 31,2% trong đó tỷ lệ này ở nam cao hơn ở nữ [44].

Tương tự như vậy, theo kết quả nghiên cứu của tác giả Heng K.S và cộng sự

năm 2013 cho thấy tỷ lệ HCCH ở nam cao hơn ở nữ ở dưới độ tuổi 50 nhưng

trên độ tuổi 50 tỷ lệ này ở nữ lại cao hơn ở nam [60]. Theo nghiên cứu của tác

giả Trang Mộng Hải Yến và cộng sự cũng cho thấy không có sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê giữa tỷ lệ mắc HCCH và giới tính nam - nữ [39]. Tương tự như

vậy, kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Trung Thu, Trần Quang Bình

cũng cho thấy tỷ lệ mắc HCCH không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về

giới [32].

Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tác giả Mohammad Ziaul Islam

Chowdhury,corresponding author1 Ataul Mustufa Anik và cộng sự năm 2018

với phân tích tổng hợp từ 491 tài liệu, nghiên cứu độc lập cho thấy tỷ lệ mắc

hội chứng chuyển hóa ở nữ giới là 32,0% cao hơn so với nam giới (25,0%) mặc

dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p=0,434>0,05 [80]. Theo nghiên

cứu của tác giả P. Ranasinghe và cộng sự năm 2017 quan phân tích tổng hợp

757 bài báo, cuối cùng lựa chọn được 15 nghiên cứu phù hợp với điều kiện để

đưa vào nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc HCCH cao hơn ở phụ nữ và cư dân

thành thị [89].Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Thành cũng chỉ ra tỷ lệ mắc

HCCH ở nữ giới là 32,0% cao hơn so với nam giới 21,8% [31]. Kết quả này

tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Quốc Việt, Tạ Văn Bình và cộng sự

nghiên cứu về HCCH ở khu vực nội thành Hà Nội trong 2 năm 2008 - 2009

trên 550 đối tượng của 4 quận nội thành Hà Nội theo tiêu chuẩn IDF 2005 chiến

28,9% trong đó nữ cao hơn nam có ý nghĩa thống kê [38]. Theo tác giả Đỗ Văn

51

Lương, Nguyễn Đỗ Huy và cộng sự cho thấy nguy cơ mắc HCCH gặp ở nữ

giới cao hơn so với nam giới với OR=20,1 và p<0,001 [19].

Có thể thấy, qua các nghiên cứu mối liên quan giữa giới và tỷ lệ mắc

HCCH chưa đi đến thống nhất, có sự khác nhau giữa các nghiên cứu.

* Tuổi

Ở những nước phát triển, tuổi thọ ngày càng tăng trong suốt những thập

kỷ qua, song song với việc gia tăng những bệnh và tàn phế liên quan đến tuổi.

Bên cạnh tuổi tác, tần suất cao của thừa cân, béo phì và các bệnh kèm theo có

liên quan được xem là các vấn đề về y tế chủ yếu cũng ảnh hưởng đến nhóm

dân số cao tuổi.

Kết quả ở bảng 3.10 cho thấy, Tỷ lệ mắc HCCH cao nhất ở độ tuổi từ 60

đến 69 tuổi (37,6%), tiếp đến là 70 - 79 (25%), và thấp nhất ở độ tuổi từ 50 đến

59 tuổi và từ 80 tuổi trở lên ; tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê

với p=0,21 >0,05. Riêng ở nhóm từ 80 tuổi trở lên tỷ lệ mắc HCCH lại thấp

hơn so với các nhóm khác, điều này có thể giải thích do các đối tượng nghiên

cứu trong diện khá ít so với các nhóm tuổi khác vì vậy cho nên sẽ ảnh hưởng

đến kết quả tỷ lệ mắc HCCH trong nhóm này.

Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Heng K.S và cộng sự năm 2013 cho

thấy tỷ lệ HCCH tăng theo nhóm tuổi [60]. Kết quả nghiên cứu của tác giả

Mojgan Gharipour, Masoumeh Sadeghi, Mohsen Hosseini và cộng sự năm

2015 cho thấy tỷ lệ mắc HCCH ở nhóm tuổi từ 18 đến 34 tuổi là thấp nhất

(8,3%), cao nhất là nhóm tuổi từ 65 tuổi trở lên (48,6%) [82].

Một nghiên cứu khác của Võ Thị Dễ trên tạp chí Y học thực hành năm

2013 nghiên cứu về tần suất và đặc điểm HCCH trong cộng đồng tỉnh Long An

năm 2010 cho thấy tỷ lệ mắc HCCH theo IDF, NCEP ATP III và NCEP ATP

III điều chỉnh lần lượt là 10,4%; 12,4% và 17,2%. Tỷ lệ mắc HCCH tăng dần

theo tuổi [10]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Quang Bình, Phạm Tuấn

Phương năm 2014 cũng cho thấy khi tiến hành phân tích đa biến phát hiện các

52

yếu tố dự báo HCCH có yếu tố tuổi [4]. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên

cứu của tác giả Đỗ Văn Lương, Nguyễn Đỗ Huy và cộng sự cho thấy tỷ lệ mắc

hội chứng chuyển hoá ở nhóm tuổi dưới 40 là 30,3%, tăng dần theo nhóm tuổi

cao nhất ở nhóm tuổi 65 - 74 là 72,5% và nhóm tuổi 55 - 64 là 72,3% [19].

*Thói quen

Các hoạt động thể lực không chỉ nhằm nâng cao sức khỏe mà còn ngăn

ngừa, điều trị bệnh tật. Tăng cường tập luyện thể lực là một trong những phương

pháp mang lại lợi ích lớn nhất lên sức khỏe của người dân. Nếu mỗi người đều

tuân theo những lời khuyên về việc tập luyện thể lực trong cuộc sống hằng

ngày, sức khỏe của toàn dân sẽ được cải thiện đáng kể, chi phí chăm sóc y tế

sẽ giảm hẳn. Tập thể dục thường xuyên đã được ghi nhận có tác dụng phòng

ngừa và điều trị một số bệnh, ví dụ đái tháo đường, bệnh lý tim mạch, ung thư

đại tràng và trầm cảm. Gánh nặng bệnh tật liên quan đến lối sống thiếu các hoạt

động thể lực làm thiệt hại cho xã hội về kinh tế do làm tăng giá thành dịch vụ

y tế và giảm năng suất sản xuất [11].

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.11 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân

mắc HCCH ở nhóm ít vận động là 43,6% cao hơn so với nhóm có nhiều hoạt

động thể lực (20,0%); hay nói cách khác nhóm ít hoạt động thể lực có nguy cơ

mắc HCCH cao gấp 3,1 lần so với nhóm có nhiều hoạt động thể lực và sự khác

biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,001. Theo nghiên cứu của tác giả Trương

Tuyết Mai, Nguyễn Thị Lâm trên đối tượng người trưởng thành thừa cân béo

phì tuổi từ 45 đến 59 tuổi đang làm việc tại một số cơ quan thuộc quận Đống

Đa, Hà Nội với mục tiêu đánh giá hiệu quả của tư vấn chế độ ăn, hoạt động thể

lực cho người trưởng thành đối với tình trạng dinh dưỡng và chỉ số hóa sinh

liên quan đến chuyển hóa glucose và lipid cho thấy sau 12 tuần can thiệp, cân

nặng trung bình giảm từ 63,2 kg xuống còn 61,8 kg, p<0,05. Tỷ lệ thừa cân béo

phì đã giảm được 26,7%, p>0,05. Vòng eo cả ở nam và nữ giới đều giảm rõ rệt

sau 12 tuần, p<0,05; giảm 30% tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa [21].

53

Như vậy, cùng với yếu tố ăn uống, sự gia tăng tỷ lệ béo phì và các rối

loạn chuyển hóa thường đi song song với giảm hoạt động thể lực trong lối sống

tĩnh tại. Do đó, việc thay đổi lối sống năng động, tăng cường hoạt động thể lực

trong lối sống sẽ làm giảm tỷ lệ mắc HCCH và các rối loạn liên quan khác. Nên

hoạt động thể lực thường xuyên với cường độ thích hợp để duy trì sức khỏe tốt,

nhất là những người có công việc tĩnh tại, ít hoạt động thể lực.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở bảng 3.12 cho thấy, ở nhóm có hút

thuốc lá có tỷ lệ mắc HCCH là 47,9% cao hơn so với nhóm không hút thuốc lá

23,7% hay nói cách khác ở nhóm hút thuốc lá có tỷ lệ mắc HCCH cao gấp 2,96

lần so với nhóm không hút thuốc lá và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với

p=0,002. Thuốc lá và bia rượu là những thói quen có ảnh hưởng không nhỏ tới

rối loạn dinh dưỡng Lipid cung như tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa. Nhiều

nghiên cứu cho thấy: mối liên quan chặt chẽ giữa hút thuốc lá, lạm dụng rượu

bia với việc gia tăng tỷ lệ hội chứng chuyển hóa. Điều này có thể lý giải một phần

nguyên nhân tỷ lệ mắc bệnh của nam giới trong một số cộng đồng khác nhau

thường cao hơn ở nữ giới. Hút thuốc lá là nguồn sản sinh ra các gốc tự do, tăng

độ kết dính tiểu cầu và làm giảm HDL - C [61]. Kết quả nghiên cứu của tác giả

Đỗ Văn Lương và cộng sự cũng đưa đến kết luận nguy cơ mắc hội chứng

chuyển hoá có liên quan chặt chẽ với giới tính, tuổi, tình trạng thừa cân - béo

phì, tính chất công việc, thói quen sử dụng thuốc lá, rượu, bia và đặc điểm ăn

một số loại thực phẩm [19].

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy, tỷ lệ mắc HCCH ở

nhóm stress; nhóm có thói quen ăn mặn; nhóm ăn nhiều đạm cao hơn so với

nhóm còn lại, tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi sự khác biệt chưa rõ

ràng với p>0,05. Vì vậy cần có các nghiên cứu tiếp theo, chuyên sâu hơn về

các thói quen này để làm sáng tỏ mối liên quan giữa chúng với HCCH. Theo

nghiên cứu của Miroslaw Janczura, Grazyna Bochene và cộng sự năm 2015

cũng cho thấy stress làm tăng tỷ lệ mắc HCCH, cụ thể tăng gấp 1,07 lần so với

54

bình thường với p=0,003 [79]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Cảnh

Phú cũng cho thấy có tới 70,7% đối tượng có thói quen hút thuốc mắc HCCH,

ở nhóm uống rượu là 46,1%, nhóm ăn nhiều đạm là 57,2%, nhóm hay ăn mỡ là

52,4% và nhóm có thói quen ăn mặn là 36,2% [24]. Các nghiên cứu trên thế giới

cũng chỉ ra chế độ ăn có mối liên hệ mật thiết với HCCH. Khi chế độ ăn không

cân đối, dư thừa năng lượng sẽ dẫn đến vượt quá nhu cầu của cơ thể làm cơ thể

tích lũy quá mức. Việc tích lũy này diễn ra trong thời gian dài sẽ làm cơ thể mất

cân bằng, hệ thống chống nhiễm mỡ của cơ thể sẽ mất khả năng tự cân bằng. Khi

đó lượng triacylglycerol sẽ lắng đọng và tích lũy dần dần tại các mô không phải

mô mỡ [83]. Khi chế độ ăn cung cấp năng lượng vượt quá nhu cầu, nếp sống làm

việc tĩnh tại, ít tiêu hao năng lượng sẽ làm cân nặng của cơ thể tăng lên [68].

* Tiền sử bệnh tật

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ mắc HCCH ở nhóm có

tăng huyết áp là 54,3% cao hơn so với nhóm không tăng huyết áp; nói cách

khác tỷ lệ mắc HCCH ở nhóm có tăng huyết áp cao gấp 4,2 lần so với nhóm

không tăng huyết áp và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Hội

chứng chuyển hóa là một trong những vấn đề sức khỏe cộng đồng được quan

tâm, đặc biệt là hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân tăng huyết áp. Kết quả

nghiên cứu trong và ngoài nước cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của

chúng tôi, cụ thể theo nghiên cứu của tác giả Bernard M.Y Cheung và cộng sự

cho thấy tăng huyết áp có mối liên quan khá chặt chẽ với số lượng các yếu tố

thành phần của hội chứng chuyển hóa (trừ tăng huyết áp) [47].Theo nghiên cứu

của tác giả Phan Hải Phương trên 532 bệnh nhân THA cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân

THA có HCCH rất cao lên đến 58,6% [26], kết quả nghiên cứu của tác giả

Trần Quang Bình và Phạm Trần Phương cũng chỉ ra các yếu tố liên quan đối

với với hội chứng chuyển hoá ở người có BMI bình thường là nơi cư trú, tỷ lệ

mỡ cơ thể, tỷ số eo - hông, và tăng huyết áp [4].Tương tự như vậy theo kết quả

nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thế Hoàng, Lã Ngọc Quang năm 2016 trên

55

300 bệnh nhân tăng huyết áp được chọn ngẫu nhiên tại Gio Linh, Quảng trị.

Kết quả cho thấy tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa chung là 62%, bệnh nhân có

tiền sử gia đình về bệnh tim mạch, THA cao gấp 2,0 lần nhóm gia đình không

có tiền sử bệnh này. [13].

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.17 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có HCCH có

tiền sử ĐTĐ (52,2%) cao hơn tỷ lệ không có HCCH có tiền sử ĐTĐ (47,8%) có

ý nghĩa thống kê p < 0,05; với tỉ suất chênh OR = 2,9 (Cl: 1,2 - 7,2). Theo kết quả

nghiên cứu của tác giả Đỗ Văn Lương, Nguyễn Đỗ Huy và cộng sự trên 846 bệnh

nhân đái tháo đường type 2 đang được quản lý và điều trị ngoại trú tại bệnh viện

đa khoa Vũ Thư - tỉnh Thái Bình cho thấy tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa rất cao

lên tới 67,6%, trong số các yếu tố thành phần của hội chứng chuyển hoá, tỷ lệ mắc

cao nhất là tăng triglycerid 62,3%, tiếp theo là tăng huyết áp 57,3%, giảm HDL -

C 38,9%, vòng eo cao 36,3% [19]. Tương tự như vậy theo nghiên cứu của tác giả

Trần Quang Bình, Phạm Trần Phương ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 cho thấy

tỷ lệ bị HCCH khá cao lên đến 74,2%, tác giả khẳng định bệnh nhân bị đái tháo

đường type 2 tại cộng đồng có tỷ lệ cao kèm theo hội chứng chuyển hoá và các

rối loạn thành phần nhất là rối loạn chuyển hoá lipid máu [4]. Tác giả Lê Hữu Lợi,

Nguyễn Văn Sang và cộng sự cũng chỉ ra có sự tương quan thuận giữa độ tuổi và

nồng độ glucose máu (r = 0,4) [18]. Sự bất thường glucose máu trong đó có đái

tháo đường type 2 có mối liên quan mật thiết đến cơ chế bệnh sinh trong HCCH.

Nhiều nghiên cứu thấy rằng có nối liên quan giữa RLGMLĐ với sự đề kháng

insulin ở người, động vật có vú, và cả loài gặm nhấm. Ở những người được dự

đoán là sẽ tiến triển thành ĐTĐ typ 2 thì sự đề kháng insulin, rối loạn chức năng

tế bào beta tụy là những nguyên nhân của sự bất thường glucose máu này. Có sự

phối hợp giữa RLGMLĐ và giảm dung nạp glucose máu với nguy cơ bệnh tim

mạch và tiến triển thành đái tháo đường type 2.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ mắc HCCH ở nhóm có

tiền sử gan nhiễm mỡ cao gấp 2,5 lần so với nhóm không có tiền sử gan nhiễm

56

mỡ với p=0,011 <0,05. Các nghiên cứu cũng chỉ ra HCCH có mối liên quan

chặt chẽ với gan nhiễm mỡ do sự tẩm nhuộm mỡ tại gan bỏi sự đề kháng insulin.

Khoảng ½ số người thừa cân có đề kháng insulin và gần 25,0% dân số Hoa Kỳ

có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch do các nguyên nhân trên mà có lẽ gan nhiễm

mỡ có HCCH đi kèm là đóng góp quan trọng cho sự tạo thành nguy cơ đó. Xác

định HCCH trên bệnh nhân gan nhiễm mỡ có thể dự đoán được bệnh lý mạch

vành và đái tháo đường type 2; các nghiên cứu cũng chỉ ra sẽ gia tăng tỉ lệ bệnh

tật, tử vong ở những bệnh nhân gan nhiễm mỡ có HCCH và cũng tăng gáng

nặng cho gia đình và xã hội trong việc điều trị những bệnh nhân này [86]; sự

kết hợp tăng TG và giảm HDL - C có mối liên quan mật thiết đến HCCH. Do

đó trong chẩn đoán HCCH các nghiên cứu thường lấy TG và HDL - C làm tiêu

chuẩn chấn đoán HCCH [7], [25], [66], [75].

Mối liên quan giữa HCCH và các bệnh lý tim mạch cũng được đề cập

đến trong các y văn, trong nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm có tiền sử bệnh lý

tim mạch có tỷ lệ mắc HCCH là 31,8% cao hơn so với nhóm không có tiền sử

bệnh lý tim mạch, tuy nhiên sự khác biệt chưa rõ ràng với p=0,847 > 0,05.

Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra có mối liên quan giữa tiền sử tai biến mạch

máu não với HCCH, cụ thể ở nhóm có tiền sử tai biến mạch máu não có tỷ lệ

mắc HCCH cao gấp 3,5 lần so với nhóm không có tiền sử tai biến mạch máu

não và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,02 < 0,05. Theo nghiên

cứu của tác giả Ngô Đình Châu cho thấy có mối tương quan có ý nghĩa thống

kê giữa các yếu tố thành phần của hội chứng chuyển hóa và một số chỉ điểm

nguy cơ tim mạch [8]. Kết quả nghiên cứu của tác giả José A Gimeno Orna và

cộng sự sau khi tiến hành phân tích đa biến cho thấy sự hiện diện đồng thời của

cả bốn thành phần hội chứng chuyển hóa làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh

tim mạch (RR = 5,0; 95% CI, 1,6-15,9; P = 0,06) và nguy cơ mắc bệnh tim

mạch vành (RR = 7,4 ; 95% CI, 1.3-41.1; P = .02), nhưng không có nguy cơ

đột quỵ [65]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Eduardo Alegría Ezquerra, José

57

M Castellano Vázquez và Ana Alegría Barrero cho thấy béo phì, hội chứng

chuyển hóa và đái tháo đường týp 2 là ba tình trạng liên quan đến nhau có chung

một số cơ chế sinh lý bệnh và thường được quan sát thấy dẫn đến các biến

chứng tim mạch [51]. Tương tự như vậy, tác giả J Akpalu, A Akpalu và F Ofei

tiến hành nghiên cứu và cho kết quả: sự có mặt của HCCH là một trong những

yếu tố dự báo quan trọng về bệnh lý tim mạch và đóng vai trò là một công cụ

lâm sàng đơn giản để xác định các cá nhân có nguy cơ phát triển bệnh lý tim

mạch tương đối cao [40]. Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy mỗi liên quan

giữa bệnh lý tim mạch và HCCH, nghiên cứu của tác giả Fereshteh Ashtari,

Mehri Salari, Ashraf Aminoroaya, Behnaz Khademi Deljoo và cộng sự cho

thấy tỷ lệ mắc HCCH ở nhóm đột quỵ là 62,0% và đưa đến kết luận tỷ lệ mắc

HCCH phổ biến hơn ở nhóm bệnh nhân đột quỵ so với nhóm không bị đột quỵ

[52]; điều này cũng được khẳng định trong nghiên cứu của tác giả Li X, Lin H,

Fu X và cộng sự năm 2017, tác giả tiến hành phân tích tổng hợp (Meta -

analysis) sau khi xác định được 16 nghiên cứu bao gồm 116.496 đối tượng

nghiên cứu cho thấy những người mắc HCCH có nguy cơ đột quỵ cao hơn 1,7

lần so với nhóm không mắc HCCH [76];theo nghiên cứu của tác giả cho thấy

tỷ lệ mắc bệnh tim mạch cao hơn ở những bệnh nhân mắc HCCH, khiến họ có

thêm nguy cơ mắc bệnh tim mạch; cụ thể tỷ lệ mắc bệnh tim mạch cao hơn ở

những bệnh nhân mắc HCCH (21,8% so với 13,1%, p <0,001). Bệnh tim thiếu

máu cục bộ (9,8% so với 5,3%, p <0,001), bệnh động mạch ngoại biên (6,8%

so với 3,7%, p <0,001) và suy tim (5,4% so với 1,8%, p <0,001) thường gặp

hơn ở bệnh nhân mắc HCCH [48].

58

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu 183 đối tượng thuộc diện bảo vệ sức khỏe tỉnh Cao Bằng

chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

1. Đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở các đối tượng được quản lý tại Ban

bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh Cao Bằng

Tỷ lệ mắc HCCH chung là 30,05%, nam chiếm 33,8% cao hơn nữ là

18,2% có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Tỷ lệ mắc HCCH cao nhất ở nhóm tuổi từ 60 - 69 chiếm 37,6%, thấp

nhất ở hai nhóm tuổi từ 50 -59 và ≥ 80 tuổi chiếm 21,1%.

Trong các yếu tố chẩn đoán HCCH, yếu tố huyết áp chiếm tỷ lệ cao nhất

76%, tiếp theo là yếu tố béo bụng chiếm 43,2%, thấp nhất là yếu tố triglycerid

chiếm 21,3%.

Tỷ lệ tăng huyết áp ở nam cao hơn nữ ( nam 80,6%, nữ 61,4%), tỷ lệ rối

loạn glucose máu, yếu tố triglycerid ở nam (26,6%; 22,3%; ) cao hơn nữ

(13,6%; 18,2%), tỷ lệ béo bụng, yếu tố HDL - C ở nữ (47,7%; 31,8%) cao hơn

nam ( 41,7%; 22,3%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,05.

2. Một số yếu tố liên quan với hội chứng rối loạn chuyển hóa

Tỷ lệ nhóm ít hoạt động thể lực có nguy cơ mắc HCCH cao gấp 3,1 lần

so với nhóm có nhiều hoạt động thể lực, có ý nghĩa thống kê với p=0,001.

Tỷ lệ nhóm hút thuốc lá có HCCH cao gấp 2,96 lần so với nhóm không

hút thuốc, với p=0,002.

Tỷ lệ mắc HCCH ở nhóm THA cao gấp 4,2 lần so với nhóm không THA,

với p<0,001.

Tỷ lệ mắc HCCH có tiền sử ĐTĐ cao gấp 2,9 lần so với nhóm không có

HCCH có tiền sử ĐTĐ.

Tỷ lệ mắc HCCH ở nhóm có tiền sử gan nhiễm mỡ cao gấp 2,5 lần so

với nhóm không có tiền sử gan nhiễm mỡ, với p=0,011.

Nhóm có tiền sử TBMMN có tỷ lệ mắc HCCH cao gấp 3,5 lần so với

nhóm không có tiền sử TBMMN, với p=0,02.

59

KIẾN NGHỊ

Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề xuất những kiến nghị sau:

1.Tăng cường thông tin giáo dục sức khỏe về HCCH, các yếu tố nguy cơ

dẫn đến HCCH. Cần hướng dẫn các đối tượng thuộc diện bảo vệ sức khỏe thực

hiện chế độ ăn kiêng, tập luyện, thay đổi lối sống nhằm phòng chống béo phì

và thừa cân để hạn chế rối loạn chuyển hóa.

2. Những nghiên cứu về HCCH trên đối tượng thuộc diện bảo vệ sức khỏe

còn hạn chế, nghiên cứu đề xuất cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn về tình

hình mắc HCCH và các vấn đề sức khỏe có liên quan đến HCCH ở đối tượng

thuộc diện quản lý sức khỏe.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Đào Duy Anh (2006), "Tỷ lệ hội chứng chuyển hóa và các rối loạn liên quan

ở bệnh nhân tăng huyết áp tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kontum", Tạp chí Y học

thực hành, 523, 163-168.

2. Tạ Văn Bình (2006)," Bệnh đái tháo đường-tăng glucose máu", Nhà xuất bản

Y học, Hà Nội.

3. Tạ Văn Bình (2007)," Những nguyên lý nền tảng bệnh đái tháo đường tăng

glucose máu", Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

4. Trần Quang Bình, Phạm Trần Phương (2015), "Hội chứng chuyển hoá ở

người có chỉ số khối cơ thể bình thường tại cộng đồng tỉnh Hà Nam", Tạp chí

Y học dự phòng, 8 (168).

5. Bộ Y tế (2018), "Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2016 - Hướng tới

mục tiêu già hóa khỏe mạnh ở Việt Nam", N. x. b. Y. học, Hà Nội.

6. Cục Y tế Dự phòng (2016)," Điều tra quốc gia yếu tố nguy cơ không lây nhiễm

năm 2015", Bảng thông tin tóm tắt kết quả điều tra, Hà Nội.

7. Phạm Chí Cường (2003), "Nghiên cứu những biến đổi hình ảnh điện tâm đồ và

một số yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân tăng huyết áp tại bệnh viện Đa khoa tỉnh

Tuyên Quang", Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

8. Ngô Đình Châu (2010)," Nghiên cứu hội chứng chuyển hóa và một số chỉ điểm

nguy cơ tim mạch ở người béo phì", Luận án tiến sỹ y học, Đại học Huế, Huế.

9. Trần Hữu Dàng (2014), "Nghiên cứu hội chứng chuyển hóa trên bệnh nhân

tăng huyết áp tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam - Cu Ba - Đồng Hới", Đề tài

cấp tỉnh, Đồng Hới.

10. Võ Thị Dễ, Lê Thanh Liêm (2012), "Tần suất và đặc điểm hội chứng

chuyển hóa trong cộng đồng tỉnh Long An năm 2010", Y học thực hành,

856 (1), 13 - 16.

11. Đại học Y Hà Nội (2011), "Dự án Hoạt động thể lực trong phòng chống và

điều trị bệnh không lây nhiễm tại Việt Nam", Journal, Hà Nội.

12. Đỗ Thị Phương Hà (2018), "Thực trạng và xu hướng tăng huyết áp và bệnh

tim mạch trên thế giới và ở Việt Nam", Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia,

va-benh-tim-mach-tren-the-gioi-va-o-viet-nam.html>.

13. Nguyễn Thế Hoàng, Lã Ngọc Quang (2017), "Thực trạng hội chứng chuyển

hóa và yếu tố liên quan ở bệnh nhân tăng huyết áp được quản lý tại huyện Gio

Linh, tỉnh Quảng Trị năm 2016", Tạp chí Y học dự phòng, 27 (5).

14. Hà Thị Kim Thanh (2013), "Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, tình

trạng kháng insulin và hiệu quả can thiệp ở người cao tuổi mắc hội

chứng chuyển hóa," Luận văn tiến sĩ, Trường Đại học Y Hà Nội.

15. Hà Huy Khôi (2006), "Một số vấn đề dinh dưỡng cộng đồng ở Việt Nam",

NXB Y học, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Lâm (2002), "Đánh giá mức độ và nguy cơ của béo phì", Tạp

chí Y học thực hành, 418, 15 - 19.

17. Nguyễn Thị Thùy Linh, Trần Bảo Nghi (2012), "Nghiên cứu hội chứng

chuyển hóa ở người cao tuổi có gan nhiễm mỡ không do rượu", Tạp chí

Nghiên cứu y học, 16, 97 - 100.

18. Lê Hữu Lợi, Nguyễn Văn Sang, Võ Thị Ngọc Thúy (2017), "Đặc điểm hội

chứng chuyển hóa và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân trung cao tại tỉnh

Kon Tum", Tạp chí Y học dự phòng, 27 (3).

19. Đỗ Văn Lương, Nguyễn Đỗ Huy, Lê Danh Tuyên và cộng sự (2018), "Một

số yếu tố nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa ở người bệnh đái tháo đường

typ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đa khoa huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình",

Tạp chí Y học dự phòng, 28 (6).

20. Lê Bạch Mai (2004), "Tình hình thừa cân – béo phì, các yếu tố nguy cơ ở

người 30 – 59 tuổi tại Hà Nội và bước đầu đánh giá hiệu quả của tư vấn chế

độ ăn kết hợp tập luyện trên người thừa cân béo phì", Đề tài nhánh thuộc đề

tài khoa học công nghê trọng điểm cấp nhà nước KC 10-05: 22-30.

21. Trương Tuyết Mai, Nguyễn Thị Lâm (2014), "Tình trạng kháng Insulin và

hội chứng rối loạn chuyển hóa ở người trưởng thành 40 – 59 tuổi thừa cân

béo phì tại một phường nội thành Hà Nội", Tạp chí Y tế công cộng,, 33, 47.

22. Lê Hoài Nam, Châu Ngọc Hoa (2011), "Tần suất mắc đái tháo đường ở phụ

nữ mạn kinh có hội chứng chuyển hóa", Tạp chí Y học Tp. Hồ Chí Minh, 15

(1), 227-230.

23. Trần Thị Phúc Nguyệt, Wha Young Kim (2011), "Đánh giá tình trạng dinh

dưỡng bằng các chỉ số hoá sinh và nhân trắc ở người trưởng thành tại một

vùng nông thôn Việt nam", Y học thực hành, 11 (792), 24 - 30.

24. Nguyễn Cảnh Phú (2013), "Nghiên cứu tình trạng mắc hội chứng chuyển

hóa ở cán bộ hưu trí tỉnh Nghệ An năm 2012", Y học thực hành, 873 (Số

6/2013), 7-10.

25. Đặng Vạn Phước (2006), "Khuyến cáo về các bệnh lý tim mạch và chuyển

hóa, giai đoạn 2006-2010", Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

26. Phan Hải Phương (2011), "Hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân tăng huyết

áp có tuổi", Tạp chí Y học thực hành, Số 2/2011 (751), 60-62.

27. Lê Văn Sơn (1996), "Chuyển hóa vật chất và năng lượng trong lao động", Bài

giảng sinh lý học sau đại học, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 370-395.

28. Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Đức Công (2005), "Nghiên cứu mối liên quan

giữa béo vùng bụng với một số yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch ở bệnh nhân

tăng huyết áp nguyên phát", Tạp chí Tim mạch học, số 42, 49-54.

29. Nguyễn Cảnh Toàn, Lương Trung Hiếu, Nguyễn Đức Công (2007),

"Nghiên cứu vai trò của kháng Insulin trong hội chứng chuyển hóa ở bệnh

nhân tăng huyết áp", Tạp chí tim mạch học, 47, 310 - 316.

30. Lê Quốc Tuấn (2012), "Đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân tăng

huyết áp tại bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh PHÚ THỌ", Luận văn thạc sĩ,

Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, Thái Nguyên.

31. Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đức Công, Trương Thiện Niềm (2013), "Đặc

điểm hội chứng chuyển hóa ở đối tượng cán bộ thuộc diện quản lý của ban

BVCSSK tỉnh Bạc Liêu", Tạp chí Nghiên cứu y học, 17, 104 - 107.

32. Nguyễn Thị Trung Thu, Trần Quang Bình (2017), "Hội chứng chuyển hóa

và yếu tố nguy cơ ở người trung niên bị tiền đái tháo đường", Tạp chí khoa

học, 33 (1), 67 - 73.

33. Trần Văn Huy, Trương Tấn Minh (2005), “Nghiên cứu hội chứng

chuyển hóa ở người lớn, Khánh hòa, Việt Nam. Những tiêu chuẩn nào

phù hợp với người Việt Nam Châu Á”. Tạp chí tim mạch học Việt Nam,

(40), tr. 9 – 22.

34. Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Anh Vũ, Lê Thị Tài và cộng sự (2013), "Thực

trạng hội chứng chuyển hóa ở cán bộ công chức, viên chức thị xã Phú Thọ -

tỉnh Phú Thọ năm 2012 và một số yếu tố liên quan", Tạp chí Y học thực hành,

893, 100-102.

35. Nguyễn Viết Quỳnh Thư, Lâm Vĩnh Niên, Trang Mộng Hải Yến (2008),

"Đánh giá hội chứng chuyển hóa ở nhân viên ngành Y tế thành phố Hồ Chí

Minh", Tạp chí Y học thực hành, 2 (597), 54-55.

36. Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007), "Hội chứng chuyển hóa, Nội tiết

học đại cương", Nhà xuất bản y học, Hà Nội, 503 – 507.

37. Viện dinh dưỡng (2010), "Báo cáo tóm tắt tổng điều tra dinh dưỡng 2009 –

2010".

38. Nguyễn Quốc Việt, Tạ Văn Bình (2012), "Nghiên cứu Hội chứng chuyển

hóa tại một số khu vực nội thành Hà Nội (theo tiêu chuẩn IDF - 2005)", Tạp

chí Y học thực hành, 825 (6), 129-132.

39. Trang Mộng Hải Yên, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Tuấn Quang (2014),

"Đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở đối tượng cán bộ thuộc diện quản lý của

ban BVCSSK tỉnh Long An", Tạp chí Nghiên cứu y học, 18 (62 - 66).

TIẾNG ANH

40. Akpalu J, Akpalu A, Ofei F (2011), "The Metabolic Syndrome Among

Patients With Cardiovascular Disease in Accra, Ghana", Ghana Med J, 45

(4), 161-166.

41. Alberti K.G , Zimmet P.Z (1998), "Definition, diagnosis and classification

of diabetes mellitus and its complications. Part 1: diagnosis and classification

of diabetes mellitus provisional report of a WHO consultation", Diabet Med,

15 (7), 539-553.

42. Alberti KGMM , Zimmet P.Z, Shaw JE (2005), "The metabolic syndrome-

a new world-wide definition from the International Diabetes Federation

Consensus", Lancet, 366, 1059-1062.

43. Alexander CM, Landsman P.B, Teutsch S.M et al (2003), "NCEP-defined

metabolic syndrome, diabetes, and prevalence of coronary heart disease

among NHANES III participants age 50 years and older", Diabetes, 52 (5),

1210-1214.

44. Azizi F, Salehi P, Etemadi A et al (2003), "Prevalence of metabolic

syndrome in an urban population: Tehran Lipid and Glucose Study", Diabetes

Res Clin Pract, 61 (1), 29-37.

45. Balkau B, Charles M.A (1999), "Comment on the provisional report from

the WHO consultation. European Group for the Study of Insulin Resistance

(EGIR)", Diabet Med, 16 (5), 442-443.

46. Barker D.J, Hales C.N, Fall C.H et al (1993), "Type 2 (non-insulin-

dependent) diabetes mellitus, hypertension and hyperlipidaemia (syndrome

X): relation to reduced fetal growth", Diabetologia, 36 (1), 62-67.

47. Bernard M.Y Cheung, Nelson M.S Wat, Man Y.B et al (2008),

"Relationship Between the Metabolic Syndrome and the Development of

Hypertension in the Hong Kong Cardiovascular Risk Factor Prevalence

Study-2", American Journal of Hypertension, 21 (1), 17-22.

48. Cinza-Sanjurjo S, S. Freire, Yáñez,, Fernández J et al (2018), " Prevalence

of cardiovascular disease in patients with metabolic syndrome in the Iberican

study", Journal of Hypertension, 36 (26).

49. Cusi K, Maezono K, Osman A et al (2000), "Insulin resistance differentially

affects the PI 3-kinase- and MAP kinase-mediated signaling in human

muscle", J Clin Invest, 105 (3), 311-320.

50. Cheung B.M, Wat N.M, Man Y.B et al (2007), "Development of diabetes in

Chinese with the metabolic syndrome: a 6-year prospective study", Diabetes

Care, 30 (6), 1430-1436.

51. Eduardo Alegría Ezquerra, José M Castellano Vázquez, Ana Alegría

Barrero (2008), "Obesity, Metabolic Syndrome and Diabetes:

Cardiovascular Implications and Therapy", Rev Esp Cardiol, 61 (07).

52. Fereshteh Ashtari, Mehri Salari, Ashraf Aminoroaya et al (2012),

"Metabolic syndrome in ischemic stroke: A case control study", J Res Med

Sci, 17 (2), 167-170.

53. Ford E.S, Giles W.H, Dietz W.H (2002 ), "Prevalence of the metabolic

syndrome among US adults: findings from the third National Health and

Nutrition Examination Survey", Jama, 287, 356.

54. Frayn K.N (2000), "Visceral fat and insulin resistance--causative or

correlative?", Br J Nutr, 83 Suppl 1, S71-77.

55. Fumeron F, Aubert R, Sides A (2004), "Adiponectin gene polymorphisms

and adiponectin levels are independently associated with the development of

hyperglycemia during a 3-year period: the epidemiologic data on the Insulin

resistance syndrome prospective study", Diabetes, 53, 1150-1157.

56. Garg A, Misra A (2004), "Lipodystropies : rare causing metabolic

syndrome", Endocrinal Me tab Clin North Am, 33, 305-331.

57. Grundy S.M, Brewer H.B, Cleeman J.I et al (2004), "Definition of

metabolic syndrome: report of the National Heart, Lung, and Blood

Institute/American Heart Association conference on scientific issues related

to definition", Arterioscler Thromb Vasc Biol, 24 (2), e13-18.

58. Hansson P.O, Eriksson H, Welin L et al (1999), "Smoking and abdominal

obesity: risk factors for venous thromboembolism among middle-aged men:

the study of men born in 1913", Arch Intern Med, 159 (16), 1886-1890.

59. Haring H.U (1991), "The insulin receptor: signalling mechanism and

contribution to the pathogenesis of insulin resistance", Diabetologia, 34 (12),

848-861.

60. Heng K.S, Hejar A.R, Rushdan A.Z et al (2013), "Prevalence of metabolic

syndrome among staff in a Malaysian public university based on Harmonised,

International Diabetes Federation and National Cholesterol Education

Program Definitions", Malays J Nutr, 19 (1), 77-86.

61. Hu F.B, Manson J.E, Stampfer M.J et al (2001), "Diet, lifestyle, and the

risk of type 2 diabetes mellitus in women", N Engl J Med, 345 (11), 790-797.

62. Huang Z, Hankinson S.E, Colditz G.A et al (1997), "Dual effects of weight

and weight gain on breast cancer risk", Jama, 278 (17), 1407-1411.

63. Jiang X, Srinivasan S.R, Bao W et al (1993), "Association of fasting insulin

with blood pressure in young individuals. The Bogalusa Heart Study", Arch

Intern Med, 153 (3), 323-328.

64. Joost H.G, Bell G.I, Best J.D et al (2002), "Nomenclature of the

GLUT/SLC2A family of sugar/polyol transport facilitators", Am J Physiol

Endocrinol Metab, 282 (4), E974-976.

65. José A Gimeno Orna, Luis M Lou Arnal, Edmundo Molinero Herguedas

et al (2004), "Metabolic Syndrome as a Cardiovascular Risk Factor in

Patients With Type 2 Diabetes", Rev Esp Cardiol, 57 (6), 507-513.

66. Kabakci G, Koylan N, Kozan O et al (2007), "Evaluation of the metabolic

syndrome in hypertensive patients: results from the ICEBERG Study", J

Cardiometab Syndr, 2 (3), 168-173.

67. Kellerer M, Lammers R, Haring H.U (1999), "Insulin signal transduction:

possible mechanisms for insulin resistance", Exp Clin Endocrinol Diabetes,

107 (2), 97-106.

68. Ko G.T, Cockram C.S, Chow C.C et al (2005), "High prevalence of

metabolic syndrome in Hong Kong Chinese--comparison of three diagnostic

criteria", Diabetes Res Clin Pract, 69 (2), 160-168.

69. Kruk J (2007), "Association of lifestyle and other risk factors with breast

cancer according to menopausal status: a case-control study in the Region of

Western Pomerania (Poland)", Asian Pac J Cancer Prev, 8 (4), 513-524.

70. Kwon H.S, Park Y.M, Lee H.J et al (2005), "Prevalence and clinical

characteristics of the metabolic syndrome in middle-aged Korean adults",

Korean J Intern Med, 20 (4), 310 - 316.

71. Lawlor D.A, Smith G.D, Ebrahim S (2004), "Hyperinsulinaemia and

increased risk of breast cancer: findings from the British Women's Heart and

Health Study", Cancer Causes Control, 15 (3), 267-275.

72. Lee SE, Han K, Kang M et al (2018), "Trends in the prevalence of metabolic

syndrome and its components in South Korea: Findings from the Korean

National Health Insurance Service Database (2009-2013)", PLoS One, 13

(3).

73. Lee Y.H, White M.F (2004), "Insulin receptor substrate proteins and

diabetes", Arch Pharm Res, 27 (4), 361-370.

74. Lemieux I, Pascot A, Couillard C et al (2000), "Hypertriglyceridemic waist:

A marker of the atherogenic metabolic triad (hyperinsulinemia;

hyperapolipoprotein B; small, dense LDL) in men?", Circulation, 102 (2),

179-184.

75. Lewis G.F, Uffelman K.D, Szeto L.W et al (1995), "Interaction between free

fatty acids and insulin in the acute control of very low density lipoprotein

production in humans", J Clin Invest, 95 (1), 158-166.

76. Li X, Lin H, Fu X et al (2017), "Metabolic syndrome and stroke: A meta-

analysis of prospective cohort studies", J Clin Neurosci, 40, 34-38.

77. Malik S, Wong N.D, Franklin S.S et al (2004), "Impact of the metabolic

syndrome on mortality from coronary heart disease, cardiovascular disease,

and all causes in United States adults", Circulation, 110 (10), 1245-1250.

78. Matthaei S, Stumvoll M, Kellerer M et al (2000), "Pathophysiology and

pharmacological treatment of insulin resistance", Endocr Rev, 21 (6), 585-618.

79. Miroslaw Janczura, Grazyna Bochene, Jerzy Dropinski et al (2015), "The

Relationship of Metabolic Syndrome with Stress, Coronary Heart Disease and

Pulmonary Function - An Occupational Cohort-Based Study", PLoS One, 10

(8).

80. Mohammad Ziaul Islam Chowdhury, Ataul Mustufa Anik, Zaki Farhana et al

(2018), "Prevalence of metabolic syndrome in Bangladesh: a systematic review

and meta-analysis of the studies", BMC Public Health, 18 (308).

81. Mohamud W.N, Ismail A.A, Sharifuddin A et al (2011), "Prevalence of

metabolic syndrome and its risk factors in adult Malaysians: results of a

nationwide survey", Diabetes Res Clin Pract, 91 (2), 239-245.

82. Mojgan Gharipour, Masoumeh Sadeghi, Mohsen Hosseini et al (2015),

"Effect of age on the phenotype of metabolic syndrome in developing country",

Adv Biomed Res, 4 (103).

83. Onge MP, Janssen I, Heymsfield S.B (2004), "Metabolic syndrome in

normal-weight Americans: new definition of the metabolically obese, normal-

weight individual", Diabetes Care, 27 (9), 2222-2228.

84. Panagiotakos D.P, Pitsavos C, Chrysohoon C (2004), "Impact of lifestyle

habits on the prevalence of the metabolic syndrome among Greek adults from

the ATTICA study", American Heart Jornal, 147, 106-112.

85. Park Y, Zhu S, Palaniappan L (2003), "The metabolic Syndrome.

Prevalence and associated risk factor findings in the US population from the

third. International Health and Nutrition Examination Survey 1988 - 1994",

Arch Intern Med, 163, 427 – 436.

86. Paschos P, Paletas K (2009), "Non alcoholic fatty liver disease and metabolic

syndrome", Hippokratia, 13 (1), 9-19.

87. Paul Zimmet, George Alberti, Manuel serrano rios (2006), "A new IDF

worldwide definition of the metabolic syndrome: the rationale and the

results", Diabetes Voice, 50 (3).

88. Pollak M (2008), "Insulin and insulin-like growth factor signalling in

neoplasia", Nat Rev Cancer, 8 (12), 915-928.

89. Ranasinghe P, Mathangasinghe Y, Jayawardena R et al (2017),

"Prevalence and trends of metabolic syndrome among adults in the asia-

pacific region: a systematic review", BMC Public Health, 17 (101).

90. Reaven G.M (1988), "Banting lecture 1988. Role of insulin resistance in

human disease", Diabetes, 37 (12), 1595-1607.

91. Reaven G.M, Laws A (1994), "Insulin resistance, compensatory

hyperinsulinaemia, and coronary heart disease", Diabetologia, 37 (9),

948-952.

92. Son Le N.T, Kunii D, Hung N.T et al (2005), "The metabolic syndrome:

prevalence and risk factors in the urban population of Ho Chi Minh City",

Diabetes Res Clin Pract, 67 (3), 243-250.

93. Takahashi K, Bokura H, Kobayashi S et al (2007), "Metabolic syndrome

increases the risk of ischemic stroke in women", Intern Med, 46 (10), 643-648.

94. Taniguchi C.M, Emanuelli B, Kahn C.R (2006), "Critical nodes in

signalling pathways: insights into insulin action", Nat Rev Mol Cell Biol, 7

(2), 85-96.

95. Thomas G.N, Ho S.Y, Janus E.D et al (2005), "The US National Cholesterol

Education Programme Adult Treatment Panel III (NCEP ATP III) prevalence

of the metabolic syndrome in a Chinese population", Diabetes Res Clin Pract,

67 (3), 251-257.

96. Wilson P.W, D'Agostino R.B, Parise H et al (2005), "Metabolic syndrome

as a precursor of cardiovascular disease and type 2 diabetes mellitus",

Circulation, 112(20), 3066.

ĐẠI HỌC Y - DƯỢC THÁI NGUYÊN Số phiếu:………

BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU

I. Hành chính:

- Họ và tên: ……………………………... Tuổi:……Giới: 1. Nam 2. Nữ

- Nghề nghiệp: ……………………………………. Dân tộc: ………………..

- Địa chỉ: ………………………………………...……………………………..

II. Tiền sử

1. Tiền sử bệnh mạn tính

- Tăng huyết áp Có Không

- ĐTĐ Có Không

- Gan nhiễm mỡ Có Không

- Tim mạch Có Không

- TBMMN Có Không

- Bệnh lý khác Có Không

Cụ thể ……………………………………….........................................

………………………………………………………………………………….

2. Các yếu tố liên quan

- Uống rượu: Có Không

- Ít vận động: Có Không

- Hút thuốc lá: Có Không

- Stress: Có Không

- Ăn mặn: Có Không

- Ăn nhiều đạm: Có Không

III. Lâm sàng

1. Chiều cao: ……………. (cm) Cân nặng: ……...… (kg).

2. Vòng bụng:......................(cm) Vòng mông:...............(cm).

3. HATT/HATTr: ……/.......(mmHg) Mạch: ………….. lần/phút.

4. Đau đầu: Có Không

5. Khó thở: Có Không

6. Đau tức ngực trái: Có Không

7. Ran ở phổi Có Không

8. RLNT: Có Không

Cụ thể:.........................................................................................................

Các triệu chứng khác:...................................................................................

IV. Cận lâm sàng

1. Kết quả xét nghiệm sinh hóa

TT Chỉ số Đơn vị Kết quả Ghi chú

1. Cholesterol mmol/L

2. Triglycerid mmol/L

3. HDL-C mmol/L

4. Glucose máu mmol/L

5. Ure máu mmol/L

6. Creatinin máu mmol/L

7. Protein niệu 24h g/dl

2. Các chỉ số điện tim

TT Tên chỉ số Kết quả Ghi chú

1. Trục điện tim

2. Nhịp tim

3. Chỉ số Sokolow - Lion

4. Dày thất trái

5. TMCT

4. Xét nghiệm khác:

.......................................................................................................................

.......................................................................................................................

.......................................................................................................................

Kết luận chẩn đoán:

.......................................................................................................................

.......................................................................................................................

.......................................................................................................................

Cao Bằng, ngày ........ tháng ........ năm 201

Người thu thập số liệu

Phan Thị Mai Lan