ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN BÍCH NGỌC YẾU TỐ KHẨU NGỮ TRONG
HƯƠNG RỪNG CÀ MAU CỦA SƠN NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên - 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN BÍCH NGỌC YẾU TỐ KHẨU NGỮ
TRONG HƯƠNG RỪNG CÀ MAU CỦA SƠN NAM
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Cao Cương
Thái Nguyên - 2015
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ
ngôn ngữ với đề tài “Yếu tố khẩu ngữ trong Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam”.
Qua đây, tôi xin chân thành bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc
tới thầy giáo, TS. Hoàng Cao Cương đã tâm huyết, chỉ bảo tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài này và là người thầy đã truyền dạy cho tôi những kiến
thức và kinh nghiệm quý báu trong công tác giảng dạy sau này. Tôi cũng xin
chân thành cảm ơn đến BGH, khoa sau Đại học, ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn,
cùng các thầy, cô trực tiếp giảng dạy bộ môn chuyên ngành ngôn ngữ của
Trường ĐHSP Thái Nguyên đã tạo điều kiên thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày 25 thánh 8 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Bích Ngọc
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là do tôi viết. Mọi số liệu, tư liệu cũng
như kết quả nghiên cứu là của riêng tôi.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 8 năm 2015
Người cam đoan
Nguyễn Bích Ngọc
ii
MỤC LỤC
Lời cảm ơn .........................................................................................................i
Lời cam đoan.....................................................................................................ii
Mục lục ............................................................................................................iii
Danh mục các từ viết tắt ...................................................................................iv
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 6
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 6
7. Bố cục luận văn ............................................................................................ 7
Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................... 8
1.1. Dẫn nhập.................................................................................................... 8
1.2. Một số khái niệm ngôn ngữ học và nghiên cứu văn học............................. 8
1.2.1. Ngôn ngữ toàn dân.................................................................................. 8
1.2.2. Tiếng địa phương .................................................................................... 9
1.2.3. Ngôn ngữ văn hóa. Ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ văn chương ............. 10
1.2.4. Khẩu ngữ .............................................................................................. 15
1.2.5. Chủ đề .................................................................................................. 22
1.2.6. Chi tiết nghệ thuật................................................................................. 23
1.2.7. Hình tượng nhân vật ............................................................................. 24
1.3. Nhà văn Sơn Nam và Hương rừng Cà Mau ............................................. 25
1.3.1. Nhà văn Sơn Nam ................................................................................. 25
1.3.2. Hương rừng Cà Mau............................................................................. 26
1.4. Tiểu kết.................................................................................................... 27
Chương 2. TÍNH KHẨU NGỮ THỂ HIỆN TRONG TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG
iii
2.1. Dẫn nhập.................................................................................................. 30
2.2. Danh sách từ ngữ Nam Bộ trong HRCM ................................................. 31
Cơ sở dữ liệu ...................................................Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Nhóm tương ứng ngữ âm với từ toàn dân.............................................. 32
2.2.2. Nhóm không có tương ứng về ngữ âm với từ toàn dân.......................... 39
2.3. Tiểu kết.................................................................................................... 45
Chương 3. TÍNH KHẨU NGỮ THỂ HIỆN TRONG CÁC LỚP TỪ VÀ
TÊN GỌI....................................................................................................... 46
3.1. Dẫn nhập.................................................................................................. 46
3.2. Danh từ .................................................................................................... 46
3.2.1. Danh từ chung: loài cây ........................................................................ 47
3.2.2. Danh từ chung: loài vật......................................................................... 49
3.2.3. Danh từ riêng: tên đất, tên người .......................................................... 54
3.3. Đại từ....................................................................................................... 70
3.4. Tiểu từ cuối câu ....................................................................................... 75
3.5. Cấu trúc vị từ ........................................................................................... 79
3.6. Thành ngữ, quán ngữ ............................................................................... 85
3.6.1. Thành ngữ............................................................................................. 85
3.6.2. Quán ngữ .............................................................................................. 88
3.7. Tiểu kết.................................................................................................... 89
KẾT LUẬN ................................................................................................... 92
THƯ MỤC THAM KHẢO .......................................................................... 95
PHỤ LỤC .................................................................................................... 100
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. HRCM: HƯƠNG RỪNG CÀ MAU
2. TSXH: TẦN SỐ XUẤT HIỆN
3. NAM BÔ: NAM BỘ
4. TD: TOÀN DÂN
5. CTĐD: CẤU TRÚC ĐỊNH DANH
6. YTĐT: YẾU TỐ ĐỨNG TRƯỚC
7. ÝTĐS: YẾU TỐ ĐỨNG SAU
8. TTCC: TIỂU TỪ CUỐI CÂU
9. TTMĐ: TIỂU TỪ MỤC ĐÍCH
10. TTTC: TIỂU TÌNH THÁI CUỐI
11. TNTN: THÀNH NGỮ TỤC NGỮ
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Để giao tiếp và sáng tạo, con người có thể dùng âm thanh hoặc chữ viết,
nhưng giao tiếp và sáng tạo bằng âm thanh vẫn là tự nhiên và phổ dụng hơn, vì
lịch sử giao tiếp bằng âm thanh đã có hàng triệu năm trong khi thói quen dùng
chữ viết mới bắt đầu từ dăm ngàn năm lại đây.
Những năm gần đây, đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về từ
khẩu ngữ và tác dụng của nó được dùng trong các tác phẩm văn chương như
các tác giả: Nguyễn Thị Thanh Nga (2000), Những từ ngữ mang sắc thái khẩu
ngữ trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Nguyễn Thị Điệp (2009), Dấu
ấn văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam, Luận văn Cao học, Đại học
Cần Thơ, Trần Thị Hạnh (2012), Sơn Nam trong tiến trình văn học Nam Bộ,
www.yersin.edu.vn/Uploads/2013/03/Thong_Tin_KH_So_01_091.pdf, Nguyễn
Văn Nở, Nguyễn Thị Tuyết Hoa (2015), Cách vận dụng từ địa phương trong
truyện ngắn của Sơn Nam, http. nguvan. hnue. vn/nghiencuu/
tabid/100/newstab/468/default.aspx, Phạm Thị Thu Thủy (2011), Dấu ấn Nam
Bộ trong tập truyện ngắn "Mùa len trâu" của nhà văn Sơn Nam,
www.tonvinhvanhoadoc.vn, Nguyễn Nghiêm Phương (2009), Màu sắc Nam Bộ
trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam, Luận văn Cao học, ĐHSP Tp Hồ Chí
Minh, Lê Thị Thùy Trang (2003), Đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn
1954-1975, Luận văn Cao học, ĐHSP Tp Hồ Chí Minh. Những tác giả trên đã
nói về tác dụng của khẩu ngữ, về nhà văn Sơn Nam một nhà văn đã mang đậm
chất Nam Bộ. Nối tiếp cách tiếp cận này, chúng tôi chọn đề tài để nghiên cứu :
Yếu tố khẩu ngữ trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam. Mong muốn khắc
sâu hơn nữa giá trị, tác dụng của khẩu ngữ được Sơn Nam sử dụng trong sáng
tác của mình, cụ thể, chúng tôi đi tìm hiểu về yếu tố khẩu ngữ, tác dụng của nó
mà tác giả sử dụng trong tập truyện Hương Rừng Cà Mau.
1
HRCM của Sơn Nam là tuyển tập truyện ngắn về những người nông dân
Nam Bộ sống cách nay năm sáu chục năm. Việc nghiên cứu hệ thống từ ngữ,
cách kết nối cú pháp và kết nối đoạn trong từng tác phẩm có thể giúp chúng ta
hiểu được những dụng công của tác giả trong việc tận dụng các yếu tố khẩu ngữ
cho xây dựng nhân vật và các hoàn cảnh điển hình. Xuất phát từ mong muốn
này, chúng tôi chọn đề tài “Yếu tố khẩu ngữ trong HRCM của Sơn Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Mặc dù xuất hiện rất sớm trên văn đàn Miền Nam, nhưng trước 1975
Sơn Nam ít được giới học giả Sài Gòn nhắc tới. Có lẽ bên cạnh lí do về vấn đề
chính trị, còn có vấn đề về phong cách viết của ông, cái phong cách có phần
ngược với xu thế văn chương thời thượng hồi đó ở vùng tạm chiếm, dưới ách
Mỹ Ngụy.
Sơn Nam chỉ được chú ý và được đánh giá cao sau ngày đất nước được
giải phóng, khi trào lưu trở về nguồn đã trở thành một xu hướng mới của thời
đại. Chỉ khoảng sau 10 năm đất nước thống nhất, nhiều tác phẩm của ông đã
được tái bản, trong đó nổi tiếng nhất là HRCM.
Trong lời tựa cho HRCM tập 1, nhà thơ Viễn Phương coi Sơn Nam là
một cây bút xuất sắc và tiêu biểu cho văn chương Nam Bộ thế kỉ XX. Trong
Các tác gia văn học Việt Nam, viết năm 1992, các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh,
Nguyễn Đình Chú, Nguyên An đã coi HRCM là tác phẩm tiêu biểu nhất, đặc
sắc nhất của Sơn Nam. Từ điển văn học bộ mới in năm 2004 cho tác phẩm này
là "đã đem lại cho nhiều thế hệ người đọc những xúc cảm thẩm mĩ bổ ích,
những gợi ý chân thành cao quý về đất nước và tình người" [27,1566]. Với
Trần Hữu Tá, HRCM đã chứng tỏ được tác giả của nó là "một người cầm bút có
dáng vẻ và hương sắc riêng" [45,72].
Bàn về phong cách nghệ thuật của Sơn Nam trong HRCM, Từ điển văn
học, bộ mới, cho rằng: "Truyện ngắn của Sơn Nam có cốt cách, ý vị riêng …
Tác giả viết hết sức thoải mái, tự nhiên, như lời kể trong bữa nhậu bằng ngôn
2
ngữ đời thường. Phương ngữ được dùng vừa phải, đúng chỗ. Con người và
vùng đất "nê địa" Cà Mau cứ thế hiện lên trên từng trang viết của ông, cuốn
hút, say người." [27, 1566]. Bước sang thế kỉ XXI, các nghiên cứu về Sơn Nam
tiếp tục đi theo hướng này nhưng dưới một tiếp cận mới: nghiên cứu thi pháp.
Phong cách Sơn Nam được các nhà nghiên cứu cụ thể và chi tiết hóa qua
những dụng công của ông trong sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày của người
Nam Bộ. Các công trình nghiên cứu đều có khát vọng chung là mong muốn
cắt nghĩa cho thật khoa học cái gọi là "hương sắc riêng", cách "viết như nói"
của Sơn Nam.
Truyện ngắn Sơn Nam gồm "một thế giới nhân vật phong phú và đa
dạng", từ những người lao động chăm chỉ đến những kẻ quen sống dựa dẫm,
lười biếng; từ những người thật thà, chân chỉ đến những kẻ bịp bợm, sống lang
bạt kì hồ; từ những người còn nặng lòng với đất nước, quê hương đến những kẻ
rắp tâm làm tay sai cho ngoại bang... Ứng với mỗi một loại nhân vật là một loại
tính cách. Theo Lê Thị Thùy Trang, 2003, trong HRCM, các nhân vật đều ít
được mô tả ngoại hình. Thay vào đó là cách mô tả đặc biệt riêng của Sơn Nam:
thông qua lời nói, thái độ, hành động.. Nhưng cái làm nên ấn tượng Sơn Nam nhất
trong lòng người đọc là nghệ thuật sử dụng tiếng địa phương Nam Bộ. "Đó là cách
diễn đạt khéo léo mà không cầu kì, mộc mạc, chân thành, giản dị, dễ hiểu mà
không kém mượt mà, không làm mất đi tính thẩm mĩ của văn học" [56, 113].
"Nhiều tác phẩm trong HRCM mang đậm khẩu khí Nam Bộ. Ở những tác phẩm
này gần như tác giả đã sao chụp nguyên mẫu ngoài cuộc sống" [56, 116].
Nguyễn Văn Nở và Nguyễn Thị Tuyết Hoa, 2015, cho rằng, "Một trong
những yếu tố làm nên sức hấp dẫn trong truyện ngắn của Sơn Nam là cách vận
dụng ngôn ngữ của ông, đặc biệt là phương ngữ Nam Bộ. Lớp từ vựng trong
phương ngữ Nam Bộ được vận dụng để miêu tả trong truyện ngắn Sơn Nam rất
đa dạng.". Theo các tác giả này, " …một số lớp từ sau: lớp từ xưng hô, lớp từ
định danh một số động vật, thực vật, lớp từ chỉ đặc điểm địa hình, hiện tượng
3
tự nhiên, lớp từ chỉ vật thể nhân tạo được dùng phổ biến trong cách nói năng
của người Nam Bộ. Bởi lẽ đây là lớp từ phản ánh trực tiếp đặc điểm vùng đất,
cuộc sống lao động sản xuất, nét sinh hoạt văn hóa cùng cách ứng xử trong giao
tiếp của người Nam Bộ" [39].
Theo Trần Thị Hạnh, "đặc biệt, Sơn Nam trong nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ bình dân đã có những bước tiến đáng ghi nhận" [21, 45]. và bà lí giải điều đó
như sau: "… vẫn là lời ăn tiếng nói của người dân Nam Bộ nhưng nó không làm
cho người đọc các vùng khác khó hiểu. Ông không sử dụng ngôn ngữ quá cũ, mà
thông qua giọng điệu, cách ví dụ vẫn thể hiện được cá tính Nam Bộ" [21, 45].
Tóm lại, việc nghiên cứu Sơn Nam trong những năm đầu của thế kỉ đã
có chiều sâu: đi theo hướng thi pháp. Các tác giả nghiên cứu dần đi tới được
những đồng thuận khi đánh giá nghệ thuật văn chương của ông. Từ phương
diện xây dựng kết cấu và cốt truyện thì thật ra truyện ngắn Sơn Nam không có
những đóng góp thật đặc biệt. Tuy nhiên, cái đặc sắc trong các truyện của ông
lại nằm ở cách sử dụng sáng tạo vốn từ địa phương, cách đặt tên nhân danh và
địa danh độc đáo và lối kể chuyện đượm màu sắc dân gian. Chính cái độc đáo
này đã đưa Sơn Nam vào một vị trí thật đặc biệt của trong tiến trình văn
chương Nam Bộ. Gộp các yếu tố này cho dễ gọi trong một danh từ chuyên môn
chung hơn, ta có thể nói: đó là sự thành công từ chất liệu khẩu ngữ trong từng
sáng tác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Xác định các yếu tố làm nên cái gọi là chất liệu khẩu ngữ trong HRCM
- Làm rõ đặc điểm phân bố của các yếu tố khẩu ngữ trong HRCM. Qua
đó thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các yếu tố ngôn ngữ bình dân và ngôn
ngữ bác học trong một tác phẩm văn chương.
- Tìm hiểu bước đầu tác dụng nghệ thuật của các yếu tố khẩu ngữ trong
HRCM.
4
3.2. Nhiệm vụ
- Xác định đặc điểm cấu trúc khẩu ngữ trong HRCM.
- Tìm hiểu tác dụng nghệ thuật của các yếu tố khẩu ngữ trong HRCM.
Tìm hiểu các mặt tích cực và hạn chế của yếu tố này trong sáng tạo văn
chương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một trong những yếu tố tạo nên giá trị nghệ thuật của một tác phẩm văn
học là chất liệu ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng. Thông thường, chất liệu này là
ngôn ngữ chuẩn mực, ngôn ngữ văn chương, nơi hạn chế đến thấp nhất cách sử
dụng vốn từ địa phương và cách diễn đạt theo ngôn ngữ nói, ngôn ngữ giao tiếp
hàng ngày. Tuy nhiên tiến trình văn học Việt Nam đã từng được chứng kiến
tình trạng có những tác giả dùng ngôn ngữ nói làm phương tiện biểu đạt văn
chương. Những tác giả này có người thành công nhưng cũng có người chưa
thật thành công. Chẳng hạn hiện tượng dùng ngôn ngữ nói của Hồ Xuân Hương
tạo nên dòng thơ Nôm tuyệt tác trong quá khứ là một ví dụ thành công. Còn ở
địa hạt văn xuôi thế kỉ XX người ta cũng đã ghi nhận được hàng loạt các tác giả
có nhiều tìm tòi trong sử dụng ngôn ngữ bình dân như Hồ Biểu Chánh, Bình
Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Bổng, Sơn Nam hoặc các trường hợp Nguyễn
Quang Lập, Nguyễn Ngọc Tư sau này. Để tìm hiểu bí quyết nào giúp nhà văn
sử dụng ngôn ngữ nói trong sáng tác lại gặt hái được thành công, trước hết cần
tìm hiểu sự phân bố các yếu tố khẩu ngữ có trong tác phẩm của họ và cách khai
thác chúng cho mục đích thẩm mĩ. Chúng tôi chọn các tập truyện ngắn của Sơn
Nam cho việc tìm hiểu bước đầu này.
Tên tuổi của nhà văn Sơn Nam gắn liền với tập truyện HRCM. Năm
1962 tập truyện được Nhà xuất bản Phù Sa xuất bản, chỉ gồm 18 truyện, Sau đó
nó được nhiều nhà xuất bản tái bản nhiều lần, cả trước lẫn sau giải phóng. Đến
2001 Nhà xuất bản Trẻ nhân khi tái bản đã tập hợp những truyện ngắn khác nữa
5
của ông và xuất bản thêm 2 tập mới. Ngoài 18 truyện trước đây, HRCM có
thêm 47 truyện ngắn nữa. 18 truyện cũ từ 1962 được đặt tên là HRCM, Tập
Một. Hai tập tiếp sau là HRCM, Tập Hai và Tập Ba.Tập 2: 26 truyện;Tập Ba:21
truyện. Hiện nay dưới tiêu đề HRCM là một tổng tập truyện ngắn dày dặn gồm
65 truyện, gấp hơn 3 lần số truyện xuất bản lần đầu. Trong công trình này cả 3
tập HRCM này là ngữ liệu cơ sở dùng cho phân tích các đặc điểm khẩu ngữ mà
nhà văn đã sử dụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chất khẩu ngữ của HRCM được bộc lộ qua:
a. Vốn từ ngữ địa phương
b. Cấu trúc cú pháp đặc trưng của ngôn ngữ nói theo phong cách Nam Bộ
Hai yếu tố này sẽ được phân tích trong công trình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây::
5.1. Phương pháp thống kê: Những yếu tố khẩu ngữ tiêu biểu xuất hiện trong
HRCM được lên danh sách kèm với tần số xuất hiện (TSXH) của chúng. Nhờ
các phân tích thống kê có thể phát hiện ra dược mức độ sử dụng và hiệu lực
thông tin của chúng trong HRCM.
5.2. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: Các yếu tố khẩu ngữ được tập hợp
theo các dạng đơn vị khác nhau có trong hệ thống ngôn ngữ và xem xét nội
dung biểu đạt chính của chúng theo phương pháp phân tích ngữ nghĩa ở từng
ngữ cảnh có thể.
5.3. Phương pháp phân tích diễn ngôn: Đặt các yếu tố khẩu ngữ vào văn bản
và các hoàn cảnh cụ thể để xem xét tác dụng của các yếu tố này trong liên kết
văn bản và qua đó tìm hiểu các hiệu lực dụng ngôn của chúng.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
6
- Nhằm khẳng định vai trò tích cực của chất liệu khẩu ngữ trong truyện
ngắn Sơn Nam, nói riêng và truyện ngắn Việt Nam, nói chung.
Trong việc xác định phong cách một tác giả, bên cạnh việc quan tâm đến
các yếu tố nghệ thuật liên quan đến xây dựng nhân vật, tính cách nhân vật và
phác họa các hoàn cảnh xuất hiện nhân vật, người nghiên cứu cần có cái nhìn
chi tiết hơn nữa về chất liệu ngôn ngữ mà nhà văn ưa thích dùng trong sáng tác.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
- Bước đầu tìm hiểu đặc điểm cấu trúc của cái gọi là chất liệu khẩu ngữ.
- Khẳng định vai trò ngôn ngữ cá nhân nhà văn trong sáng tác văn chương.
- Giới thiệu thủ pháp phân tích ngôn ngữ cho xác định phong cách.
- Góp thêm tiếng nói khẳng định vị trí của Sơn Nam trong tiến trình
truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
7. Bố cục luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Vốn từ ngữ Nam Bộ trong HRCM
Chương 3: Những lớp từ ngữ đặc biệt
7
Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Dẫn nhập
Như là các khái niệm công cụ cho khảo sát hiện tượng khẩu ngữ trong
HRCM của Sơn Nam, chương này xin trình bày một số khái niệm ngôn ngữ học
và nghiên cứu văn học liên quan trực tiếp với đề tài. Đó là các khái niệm ngôn
ngữ học về loại hình ngôn ngữ chức năng với tư cách là các hệ thống con trong
hệ thống ngôn ngữ một tộc người và các khái niệm sơ giản về cấu trúc nghệ
thuật trong một tác phẩm văn học. Chương cũng dành phần còn lại cho giới
thiệu về Sơn Nam và tác phẩm HRCM.
1.2. Một số khái niệm ngôn ngữ học và nghiên cứu văn học
1.2.1. Ngôn ngữ toàn dân
Trong quá trình tộc người, khi hội đủ các điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định thi tiếng nói tộc người bước sang giai đoạn phát triển trở thành phương
tiện giao tiếp chung cho cả một quốc gia. Đến lượt chúng, những tiếng nói
trong các vùng dân cư khác nhau trở thành phương ngữ (tiếng địa phương) của
quốc gia. Cái ngôn ngữ bao trùm lên, được dùng như phương tiện giao tiếp
chung giữa các địa phương chính là ngôn ngữ toàn dân của một quốc gia.
Mặc dù có những khác biệt nhất định về giọng nói giữa các địa phương,
nhưng nòng cốt một ngôn ngữ toàn dân đã được hình thành trên cơ sở vốn từ
vựng chung. Đó là những từ ngữ được tất cả thành viên nói năng trong một
quốc gia hiểu và sử dụng một cách tự nhiên. Chúng được dùng theo phong cách
trung hòa. Đối lập với vốn từ này là các lớp từ được dùng hạn chế như từ địa
phương, từ nghề nghiệp, tiếng lóng , thuật ngữ… Vốn từ của ngôn ngữ toàn
dân được xây dựng trên lớp từ cơ bản và làm cơ sở thống nhất ngôn ngữ và
quốc gia. Nó cũng chính là nòng cốt của vốn được sử dụng trong ngôn ngữ văn
học, khi tiếng nói của một dân tộc dấn thêm một bước nữa trong tiến trình phát
triển của mình để thành một ngôn ngữ thống nhất và được chuẩn hóa.
8
1.2.2. Tiếng địa phương
Đối lập với ngôn ngữ toàn dân là tiếng địa phương, thứ tiếng nói được
dùng hạn chế trong một vùng nhất định. Những khác biệt về ngữ âm, từ vựng
và ngữ pháp trong so sánh giữa các vùng miền cho phép tách chia các tiếng địa
phương trong cùng một ngôn ngữ. Sự khác biệt về ngữ pháp giữa các tiếng địa
phương thường ít được bộc lộ hoặc nếu có cũng không gây nên những ấn tượng
quá đặc biệt đối với người tiếp nhận. Ấn tượng nổi bật là nằm ở các khác biệt
về ngữ âm và từ vựng.
Giọng nói cùng những biểu hiện âm thanh khác lạ là đặc điểm dễ nhận ra
nhất khi giao tiếp với người ở địa phương khác. Đó chính là các biểu hiện về
mặt ngữ âm của một tiếng địa phương. Những đặc điểm ngữ âm khác biệt này
là biểu hiện bề mặt, còn các đặc điểm âm vị chung cho tất cả các tiếng địa
phương của cùng một ngôn ngữ thì được định vị ở cấu trúc sâu, ở tầng nền cấu
trúc một ngôn ngữ. Chính mối quan hệ này giữa hai tầng cấu trúc đã cho phép
những người nói các tiếng địa phương khác nhau vẫn hiểu nhau được. Ở cấp độ
từ vựng học, ngoài phần chung vốn từ trong ngôn ngữ toàn dân, mỗi tiếng địa
phương đều có những từ ngữ đặc trưng riêng của mình. Đó là những thông tin
quan trọng về địa lí, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và nhất là về phong tục và tập
quán của một địa phương. Theo Dẫn luận ngôn ngữ học, "Từ địa phương là
những từ ngữ dùng hạn chế ở một hoặc vài địa phương. Nói chung, từ địa
phương là bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói hằng ngày của bộ phận nào đó
của dân tộc chứ không phải là từ vựng của ngôn ngữ văn học. Khi dùng vào
sách báo nghệ thuật, các từ địa phương thường mang sắc thái tu từ: diển tả lại
đặc điểm của địa phương, đặc điểm của nhân vật” [20; 14]. Còn Từ điển giải
thích thuật ngữ ngôn ngữ thì đưa ra một định nghĩa ngắn nhưng tổng quát
hơn:“Từ địa phương không ở trong ngôn ngữ văn học mà thuộc về tiếng nói
của một vùng đất nhất định. Chúng mang sắc thái địa phương. Người của địa
phương này không hiểu từ của địa phương khác”. [62; 399].
9
Về nguyên tắc, nói chung, ở những phong cách viết như hành chính công
vụ, chính luận báo chí hoặc khoa học kĩ thuật thì không thể sử dụng vốn từ địa
phương được. Tuy nhiên, trong sáng tác văn chương, đôi khi vốn từ địa phương
lại có tác dụng quan trọng. Nhờ vốn từ địa phương được sử dụng một cách có
chọn lọc, nhà văn có thể mô tả và bộc lộ cụ thể và sinh động hệ thống các tính
cách nhân vật và những môi trường sống khác nhau của họ.
Theo bản chất tín hiệu của từ ngữ, người ta phân vốn từ địa phương
thành hai loại: từ địa phương ngữ âm và từ địa phương từ vựng. Nếu khác biệt
giữa từ địa phương và từ toàn dân chỉ dừng trên bề mặt thì đó là các từ địa
phương ngữ âm. Ví dụ thiệt, lịnh, đờn, thiếm… trong tiếng Nam Bộ tương
đương với các từ toàn dân như thật, lệnh, đàn, thím …Những tương đương này
là có quy luật. Còn khi các từ địa phương không tìm thấy những từ tương ứng
về mặt ngữ âm trong tiếng toàn dân thì đó chính là các từ đặc hữu của địa
phương đó. Chúng là các từ địa phương từ vựng như: bần, măng cụt, len trâu,
càm ràm, mẻ ung, nhậu, lé đé…
Trong các trích dẫn sau:
- “Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu cho họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Mà
mày ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi…”[HRCM.1.131].
- “Mày ăn trộm búa nữa hả? Ráng mà đỡ. Nè!” [HRCM.1.216].
-“Ghiền rồi hả mậy?”[HRCM.1.140].
Những từ địa phương Nam Bộ được in đậm. Trong số này, biểu, nè, ghiền,
mậy là những từ địa phương ngữ âm; còn miệt, ráng là từ địa phương từ vựng.
Trong thực tế, từ địa phương ngữ âm luôn chiếm tỉ lệ áp đảo, còn từ từ
vựng thì thường có số lượng ít hơn rất nhiều. Những từ địa phương từ vựng
cung cấp nhiều thông tin về một vùng đất. Đó là các từ chỉ những sản vật đặc
hữu, lối tư duy và tính cách riêng của một vùng dân cư do điều kiện xã hội-
kinh tế trong tiến trình lịch sử cụ thể đưa lại.
1.2.3. Ngôn ngữ văn hóa. Ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ văn chương
10
Khi một nhà nước đã hình thành thì do áp lực hệ thống chữ viết mà các
thổ ngữ, phương ngữ dần quy tụ thống nhất vào ngôn ngữ toàn dân. Ngôn ngữ
này, đến lượt nó, do những đòi hỏi ngày càng gay gắt của kinh tế - xã hội tất
yếu bị chuẩn mực hóa. Đấy là một quá trình diễn ra lâu dài ở cả bình diện cấu
trúc lẫn bình diện chức năng. Về cấu trúc đó là sự thống nhất giữa các thành
viên trong cộng đồng nói năng về hình thức âm thanh của từ, về hệ thống từ
vựng và về hệ thống từ pháp và cú pháp. Còn về chức năng đó là xuất hiện
những quy định bắt buộc sử dụng ngôn ngữ đã chuẩn hóa cho từng khu vực
giao tiếp nhất định. Những khu vực giao tiếp quen thuộc trước đây bằng ngôn
ngữ viết sẽ được ngôn ngữ chuẩn hóa tiếp quản và mở rộng ra tiếp theo yêu cầu
của xã hội hiện đại.
Theo Trường phái ngôn ngữ học chức năng Praha, ngôn ngữ đã trải qua
quá trình chuẩn hóa như vậy được gọi là ngôn ngữ văn hóa. Thuật ngữ này
tương đương với thuật ngữ ngôn ngữ văn học ở nước ta quen dùng. "Ngôn ngữ
văn học là ngôn ngữ mẫu mực đã được chuẩn hóa, phục vụ cho tất cả các lĩnh
vực giao tiếp giữa người với người, và giữ vai trò to lớn trong việc hình thành
và phát triển tư duy, phát triển tâm lí, trí tuệ và toàn bộ hoạt động tinh thần
của con người, còn gọi là ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ tiêu chuẩn”[35,127].
Tuy nhiên, thuật ngữ ngôn ngữ văn học, mặt khác, lại trùng với khái
niệm "ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học". Để tránh
nhầm lẫn, ở đây chung ta tạm gọi đó là ngôn ngữ văn chương.
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, như màu sắc đối với hội họa,
âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Trong sự sáng tạo của
nhà văn, sự sáng tạo về ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng. Ngôn ngữ của tác
phẩm văn học chính là ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ toàn dân đã được
nâng đến trình độ nghệ thuật. Trong văn chương, ngôn ngữ là một trong những
yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn.
Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là những tấm gương sáng về mặt hiểu biết về
11
ngôn ngữ của nhân dân. Bằng ngôn ngữ, nhà văn cụ thể hóa, vật chất hóa sự
biểu hiện của chủ đề và tư tưởng, tính cách nhân vật và cốt truyện. Lời M.Gorki
“Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với
các sự việc, hiện tượng của cuộc sống là chất liệu văn học.”
Ngôn ngữ hiện thực trong đời sống có những điểm khác biệt quan trọng
với ngôn ngữ văn chương. Theo M. Gorki, ngôn ngữ bình dân là tiếng nói
“nguyên liệu”, còn ngôn ngữ văn chương là thứ tiếng nói đã được nhào luyện
tinh xảo. Mỗi tác phẩm văn chương đều lấy thực tế làm khuôn mẫu để phản
ánh. Đó là những cảnh huống con người thuộc nhiều nhóm xã hội khác nhau,
nhiều mục đích và phương thức sống khác nhau tồn tại thực trong một xã hội.
Để phản ánh được thực tế đa dạng và muôn màu này ngôn ngữ trong tác phẩm
văn chương phải là phương tiện đa giọng điệu. Trong một phương thức phản
ánh đặc thù, ngôn ngữ văn chương là kết quả của môt quá trình lao động và học
tập không mệt mỏi của nhà văn. Nó vừa là kết tinh của truyền thống sử dung
ngôn từ của cả dân tộc lại vừa là kết quả sáng tạo của cá nhân của nhà văn.
Khác với ngôn ngữ trong đời sống thực và cả những dạng ngôn ngữ chức năng
khác nhau được dùng trong các phong cách viết, ngôn ngữ văn chương có
những đặc trưng riêng sau đây:
1. Biểu cảm
Ngôn ngữ trong các môi trường như luật pháp, nhà nước hay trong
ngành nghề, trong khoa học luôn phải khách quan, không phụ thuộc vào tình
cảm thái độ của người dùng. Đó là thứ ngôn ngữ của công việc, của các thuật
ngữ vừa trừu tượng, khái quát vừa trung tính về phong cách. Còn ngôn ngữ
trong môi trường sáng tạo nghệ thuật thì trước hết là thứ ngôn ngữ có thể nói
được thế giới nội tâm của người viết. Người viết có rung cảm thật sự trước thế
giới hiện thực thì mới nạp đầy nguồn cảm hứng cho sáng tạo. Sự rung cảm đó,
suy cho cùng, bắt nguồn từ tình cảm thái độ của tác giả trước cuộc sống. Do
vậy ngôn ngữ văn chương mang tính chủ quan. Ngôn ngữ văn học là phương
12
tiện bộc lộ thế giới quan người viết, thế giới tâm hồn của anh ta và đậm đặc cá
tính riêng có của nhà văn. Và trên hết đó là thứ ngôn ngữ của tình cảm.
Các hình tượng văn học, hệ thống tính cách nhân vật được mô tả một
cách nhân văn, cụ thể, cần là những sản phẩm độc đáo, không vay mượn, do
chính người viết tạo dựng. Chúng có sứ mệnh tác động mạnh mẽ đến người đọc
và kêu gọi sự cảm thông, rung cảm của người đọc trước những số phận, hoàn
cảnh nhân vật mà một tác phẩm xây dựng nên. Để có sức mạnh truyền cảm, sức
lan tỏa như vậy, nhà văn phải chọn được chất liệu ngôn ngữ phù hợp: ngôn ngữ
biểu cảm.
2. Hình tượng
Triết học, chính trị, khoa học là khu vực làm việc với các khái niệm được
xã hội quy định một cách chuẩn xác vì yêu cầu của các giao tiếp ở những khu
vực này là yêu cầu về thông tin trí tuệ. Những khái niệm được thể hiện qua các
thuật ngữ khoa học, đảm bảo mối quan hệ 1 đối 1 giữa cái biểu đạt và cái được
biểu đạt. Những hiện tượng đồng âm, đa nghĩa, đồng nghĩa, những lối nói ví
von so sánh hoặc các biện pháp ẩn dụ hóa trong giao tiếp bằng thuật ngữ, do
vậy, bị loại trừ. Nhưng do vậy, nó cũng loại trừ luôn cả tính biểu cảm ẩn chứa
trong từng từ ngữ. Thay vào đó là tính trừu tượng và khách quan hóa cao độ
của phương tiện giao tiếp.
Ngược lại trong văn chương, ngôn ngữ có đích là để tạo nên một không
gian thẩm mĩ cho việc tiếp thụ của người đọc. Ngôn ngữ được lựa chọn do vậy
phải đầy màu sắc, đa dạng về hình ảnh và đa thanh. Nhờ khắc họa các tính cách
nhân vật một cách cụ thể và chi tiết mà nhà văn đưa đến cho người đọc các khía
cạnh khác nhau của chủ đề và tìm cách để thuyết phục được người đọc. Trong
văn chương, phương thức sáng tạo riêng đó chính là nhờ vào hệ thống các hình
tượng. Chẳng hạn, để mô tả khách quan và lô gic sự cố khô hạn kéo dài, báo
cáo công vụ đưa các số liệu về ngày mưa/ không mưa, số lượng hồ trữ nước đã
cạn trong một địa phương. Còn trong văn chương, thay vì các số liệu, nhà văn
13
dùng ngôn ngữ để hình tượng hóa. Chẳng hạn như dòng thơ sau đây của Xuân
Diệu: "Con đỉa vắt qua mô đất chết...". Hình tượng con đỉa, sinh vật sống dai
dẳng nhất, bất chấp mọi khắc nghiệt đời sống, khi bò qua mô đất khô hạn cũng
bị vắt khô theo. Lời nói có hình tượng đạt tới giá trị thẩm mĩ cao, vì đó mới là
cái đích của văn chương. Do phải phản ánh hiện thực theo cách của hình tượng,
nên tư duy của nhà văn cũng phải là tư duy hình tượng và ngôn ngữ mà họ
dùng cũng phải là ngôn ngữ hình tượng.
3. Chính xác
Khác với thông tin thông qua ý niệm, quan hệ lôgic hình thức như
thường thấy trong khoa học, trong văn chương việc thông tin được diễn ra trên
cơ sở hệ thống hình tượng tác phẩm. Nhà văn, nhờ lịch lãm trong ngôn từ và
kinh lịch trong đời sống, tự tạo nên sở trường riêng trong mô tả các hình tượng.
Chất liệu làm nên các hình tượng bắt nguồn từ các nguyên mẫu trong đời sống
hiện thực. Muốn lột tả các nguyên mẫu này, không có cách nào khác ngoài việc
nhà văn phải có ý thức dùng chính xác từ ngữ.
Chế Lan Viên trong Trời đã lạnh rồi, khi khắc họa cảnh cuối thu, viết:
"Roi trên cành chừng đã đi qua
Chen lá lục quả bàng vàng đã chín
Cỏ có dễ mềm hơn vì sương sớm
Cúc bên đường nghiêng những giọt sương hoa"
Đoạn này cảnh ngụ tình, vì nó nhắc những cảnh trí mà tác giả và người
vợ trẻ đã từng lưu khắc nhiều kỉ niệm lứa đôi. Trong đó có trái roi, trái bàng, có
khóm cỏ, bông cúc cùng những giọt sương đầu mùa là những sản vật, những
chi tiết quen thuộc đất trời Miền Bắc khi sắp sang đông. Tác giả khéo chọn
những màu sắc đứng cạnh nhau, trong đó màu vàng được tôn lên thành màu
chủ đạo, vừa gợi mùa thu vừa ngụ ý về biệt li, xa vắng. Tác giả dùng các từ
chừng, có dễ mô tả chính xác nhận cảm của mình về cảnh chuyển mùa. Thật
gượng nhẹ và tinh tế. Những từ ngữ trong cả đoạn thơ hợp với tư duy hình
14
tượng. Và để đạt được điều đó, từ ngữ phải thật chính xác và hợp lí cả về lượng
lẫn chất.
4. Đa thanh
Ngôn ngữ văn chương không đơn điệu mà đa thanh vì thực tế khách
quan muôn hình, muôn vẻ. Văn chương qua các lớp lang hình tượng phải bộc
lộ được tính đa dạng và phong phú đó. Hệ thống hình tượng được biểu lộ qua
hệ thống tính cách nhân vật. Mỗi nhân vật do hoàn cảnh xuất thân, tuổi tác, giới
tính và đặc điểm thụ đắc ngôn ngữ không như nhau nên ngôn ngữ mà họ dùng
cũng không thể cùng là một ngôn ngữ được. Đó là các giọng nói, ngôn ngữ cá
nhân mà nhà văn phải có nhiệm vụ phản ánh trung thực trong tác phẩm của
mình. Nhà văn hiểu rằng, ngôn ngữ nhân vật cũng là một bộ phận quan trọng
không tách rời của tính cách nhân vật. Hệ thống từ ngữ mà tác giả sử dụng, do
vậy, biểu lộ những giọng điệu khác nhau, của các tính cách khác nhau, ở những
tầng lớp xã hội, ở những vùng miền khác nhau.
Ở những phong cách viết khác, người viết phải tuân theo đặc điểm hành
chức của hệ thống ngôn ngữ chuyên ngành. Đó là lớp từ chuyên dùng cho một
chuyên ngành và đã được chuẩn hóa. Các yếu tố khẩu ngữ, tiếng địa phương,
các từ thông tục, quán ngữ thậm chí cả những yếu tố dân gian đầy trí tuệ và hấp
dẫn như các thành ngữ, tục ngữ cũng không có cơ hội xuất hiện trong các văn
bản "đã được làm sạch" này. Nếu không, văn bản được viết nên sẽ vi phạm
nguyên tắc chuẩn mực hóa của chính ngôn ngữ đang được sử dụng.
1.2.4. Khẩu ngữ
Hai hình thức truyền tải ngôn ngữ, âm thanh và chữ viết, tạo nên hai
dạng ngôn ngữ chính của một ngôn ngữ. Đó là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Chúng khác nhau cả về hình thức lẫn mục đích sử dụng. Nếu ngôn ngữ nói
thường được dùng cho giao tiếp thường nhật vì ưu thế chuẩn bị và đáp ứng
nhanh thì ngôn ngữ viết lại được tận dụng trong giao tiếp "chính thức" vì có các
ưu thế:
15
- Có thể khắc phục được các rào cản không, thời gian mà giao tiếp âm
thanh không thể vượt qua.
- Người phát và người nhận có thời gian chuẩn bị và giải mã thông điệp.
Không nhất thiết họ phải phản ứng tức thì như trong giao tiếp trực tiếp qua âm
thanh.
Dạng phổ biến nhất của ngôn ngữ viết là ngôn ngữ sách vở, còn của
ngôn ngữ nói là khẩu ngữ. Theo Từ điển tiếng Việt, khẩu ngữ "là dạng lời nói
thường, dùng trong cuộc sống hàng ngày, có phong cách đối lập với phong
cách viết” [60, 196]. "Đó là một hệ thống kí hiệu có thể được thể hiện bằng âm
thanh và có chức năng đáp lại một kích thích tố hữu quan (thường đòi hỏi phản
ứng ngay lúc ấy) một cách năng động, tức là sự phản ứng phải hoàn chỉnh và
nêu rõ mặt cảm xúc cũng như nội dung của các sự kiện hữu quan" [60, 70].
Ngay trước công nguyên, vấn đề khẩu ngữ đã được nhắc tới khi Virgile
đưa ra mô hình bánh xe (bánh xe phong cách Virgile) nhằm phân loại các dạng
lời nói. Theo Virgile, lời nói cụ thể tùy theo mục đích và môi trường sử dụng
mà được xếp vào một trong ba phong cách: cao quý (acrolect) như lời nói thi
ca, các anh hùng ca; trung bình (mesolect) như lời nói trong giao tiếp, nhất là
giữa những nông dân; hoặc thấp kém (basilect) như lời nói trong giao tiếp đời
thường. Phong cách thấp kém ngụ ý lời nói không liên quan với những điều cao
quý, cao thượng mà chỉ nhằm đáp ứng những nhu cầu giao tiếp thường nhật mà
dưới con mắt thi nhân là những lời "tầm thường", không ý vị.
Tiếp nối ý tưởng này, nhưng tinh tế và khoa học hơn, vào giữa thế kỉ
XX, Trường phái ngôn ngữ học Praha đưa ra quan niệm về tầng chức năng
ngôn ngữ. Theo họ, tầng chức năng phản ánh nhu cầu con người trong giao tiếp
và vì vậy không có phẩm chất cao quý hay tầm thường tự thân trong các tầng
chức năng. Mỗi một chức năng hóa thân thành một phong cách và lời nói chính
là biểu hiện cụ thể của phong cách đó. Các tầng chức năng càng mở rộng và
phát triển thì ngôn ngữ càng phong phú và càng có cơ sở vững chắc làm nảy
16
sinh các dạng ngôn ngữ khác nhau. Trong các dạng lời nói của một ngôn ngữ,
đáng quan tâm nhất là: ngôn ngữ viết (ngôn ngữ văn hóa, ngôn ngữ văn học) và
ngôn ngữ nói (khẩu ngữ, ngôn ngữ thông tục).
Khẩu ngữ, bao hàm hai thuộc tính:
- Về mặt vật lí: được bộc lộ bằng âm thanh
- Về mặt chức năng: dùng trong giao tiếp đời thường.
Những từ ngữ có trong khẩu ngữ thường trực trong vốn từ của người nói
và xuất hiện ngay tức thì khi người nói cần huy động để đáp ứng hay đưa ra các
thông điệp trong trao đổi bằng lời. Nói cách khác, các từ ngữ thuộc về khẩu
ngữ là các cấu trúc ngôn ngữ tự nhiên nhất. Chúng được thu nạp không qua con
đường học vấn mà qua tích lũy kinh nghiệm trong giao tiếp tự nhiên. Chúng có
trong vốn từ tối thiểu của mọi thành viên cộng đồng nhằm đảm bảo nhu cầu
giao tiếp thiết yếu, mang tính liên nhân của họ. Chính vì nguồn gốc tự nhiên
nên các từ ngữ thuộc khu vực khẩu ngữ thường giàu hình ảnh và biểu cảm.
Chính nhờ mô tả bằng khẩu ngữ mà cảnh và người ở vùng đất phương
Nam, tâm trạng và cảnh ngộ của những người con xa xứ thời mở đất khi còn
"muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh" được bộc lộ ra một cách
trực tiếp và tự nhiên. Chất liệu này được thể hiện rõ nhất qua lối diễn đạt không
màu mè kiểu cách, đặc "dân quê", và qua sự điểm xuyết khéo léo những thành
ngữ, tục ngữ hàm chứa những triết lí dân gian thường thấy trong lời ăn tiếng
nói hàng ngày của người Nam Bộ. Có thể nói HRCM đã tập hợp được tương
đối đầy đủ các không gian điển hình cho khung cảnh sống của người Nam Bộ.
Đó là những khung cảnh đơn sơ từ nông thôn tới đô thị, từ ruộng đồng tới sông
nước, từ xóm ấp tới chợ búa, từ sinh hoạt hàng ngày đến các tụ họp thưởng
thức nghệ thuật hoặc các sinh hoạt tập thể, mang tính cộng đồng. Bất kì không
gian nào trong tập truyện cũng đều khá đặc biệt và thấm đẫm chất Nam Bộ.
Sơn Nam khi thì dùng bút pháp ước lệ, tượng trưng, khi thì dùng cách mô tả
hiện thực để khắc họa những cảnh trí đặc biệt này. Đi với bút pháp ước lệ,
17
tượng trưng, ngôn ngữ được chọn ít nhấn nhá và đặc biệt là thường trở về với
ngôn ngữ toàn dân, ít cảm xúc hơn. Chẳng hạn như cảnh tiến vào rừng sâu của
người ăn ong trong truyện Hương rừng: "Xuồng dừng lại giây lát nghỉ trưa rồi
mái dầm lại tiếp tục khoát dòng nước đỏ ngòm, tuy chảy mạnh nhưng tứ bề gió
khuất nên không gợn sóng. Đôi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình, giao đầu,
bắt tay nhau che kín bóng mặt trời.
Trong đoạn trích, vốn từ địa phương thật nghèo nàn. Các diễn đạt được
xây dựng trên các kết hợp cú pháp chuẩn mực của văn viết; không dùng cách
nói của khẩu ngữ. Có lẽ do vậy mà đoạn tả trên mặc dù có nhiều hình ảnh đẹp
nhưng không lạ và ít gây được xúc cảm đặc biệt cho người đọc. Nó giống một
đoạn văn tả cảnh thông thường hay gặp trong các tác phẩm ưa dùng ngôn ngữ
văn chương, chuẩn hóa.
Sơn Nam thật tung tẩy khi trở về được khẩu khí quen thuộc của mình: lối
nói bình dân. Đó là cách nói tận dụng khẩu ngữ Nam Bộ. Khung cảnh được
phác họa mặc dù đơn sơ, nhưng thật sống động. Và với cung cách đó, phong
cách Sơn Nam mới đặc biệt được tạo ra.
Có nguồn gốc từ trạng thái cổ xưa, khi ngôn ngữ mới chỉ có dạng biểu
đạt là âm thanh, nên mối quan hệ giữa hình thức và nội dung (giữa âm thanh và
ý nghĩa) của vốn từ ngữ này thường đơn giản và tự nhiên. Từ phía người tiếp
nhận, quá trình giải thuyết nghĩa diễn ngôn bằng khẩu ngữ lệ thuộc sâu sắc vào
các đặc điểm ngữ cảnh và ngữ điệu mà người nói sử dụng. Để phù hợp cao nhất
với các ngữ cảnh mà nó xuất hiện, từ ngữ thuộc lớp khẩu ngữ thường được cấu
trúc lỏng lẻo hơn so với cấu trúc từ ngữ trong ngôn ngữ viết. Đó là những cấu
trúc dễ biến đổi và khá linh hoạt, tạo nhiều "đất' cho thể hiện ngữ điệu đi kèm.
Trong lời nói hàng ngày người nói có thể chèn yếu tố phụ hoặc cải biến cấu
trúc để từ một cấu trúc từ ngữ ổn định, chuẩn mực thành những dạng cấu trúc
lỏng hơn, dễ thể hiện các cảm xúc theo ngữ điệu phù hợp hơn:
chồng con: chồng với chả con
18
chồng chồng con con (gì)
học hành: học với chả hành
học học hành hành (gì)
tíu tít: tíu ta tíu tít
tíu tíu tít tít
Ngoài ra, nhằm giảm cách biệt giữa những người giao tiếp và làm tăng
thêm hiệu lực của lời, lối giao tiếp bằng khẩu ngữ thường có những nghi thức
lời nói thân mật, không chính thức. Đó là việc lạm dụng vốn từ địa phương,
việc đa dạng hóa hệ thống đại từ và các yếu tố thông tục trong một ngôn ngữ.
Những yếu tố thông tục này bao gồm cả những từ thô tục mà trong giao tiếp
chính thức không bao giờ được phép xuất hiện. Chẳng hạn như đ. mẹ, mẹ kiếp,
nước mẹ gì, khốn kiếp… Lớp từ khẩu ngữ hoàn toàn khu biệt với ngôn ngữ gọt
giũa, gia công trong ngôn ngữ viết. Sự khác biệt này được ngôn ngữ học xã hội
gọi là sự đối lập giữa vốn từ thuộc giao tiếp chính thức/ phi chính thức.
Cách chêm xen hư từ, từ đệm hoặc cách nói lặp yếu tố, cấu trúc cú pháp
cũng là đặc trưng của cú pháp khẩu ngữ. Đó là chiến lược nói năng phù hợp với
lối giao tiếp vẫn diễn ra hàng ngày: “ vừa nói vừa nghĩ”, "vừa nói vừa thăm dò".
Ví dụ:
"Ông Tư tằng hắng rồi bắt đầu vào chuyện:
- Nói gì bây giờ? Thôi thì nói chuyện sự tích câu hát…"[HRCM, 3, 213]
"Ông Năm hỏi:
- Sao vậy?
- Thì hồi xưa ở đây có chùa, có miếu, điều đó thiên hạ đều biết…"
[HRCM.3. 258]
Cũng do lối giao tiếp trực tiếp, ít chuẩn bị trước khi nói trong hội thoại
thường có nhiều từ ngữ, ý trùng lặp, một cách cố ý hoặc vô ý:
"- Làm sao thịt heo của dì luộc ngon quá vậy? Chỉ cho chúng tôi học với.
19
- Có khó gì đâu. Nhưng … mà khó lắm!" [HRCM.1.92]
Để tăng lực tác động của lời với người nghe, trong khẩu ngữ, người nói
còn thường sử dụng :
- so sánh, ví von. Ví dụ:
"Cái việc hò hát cũng như cái việc luộc thịt heo vậy. Ai làm cũng được.
Cách thức dễ ợt. Nhưng mà công phu lắm." [HRCMM.1.93]
- khuếch đại, khoa trương mà cơ sở của nó là tận dụng thành ngữ, quán
ngữ như: run như cầy sấy. đen như cột nhà cháy, nắng như thiêu như đốt, trắng
như ngó sen…như câu đáp của ông khách ông Cả, bà Cả "từ mạn trên xuống"
trong đoạn thoại sau:
"Bà Cả mừng quýnh:
- Úy! Bộ con Út đẻ năm mộtk sao? Con nhỏ đó thiệt giỏi!
Khách trả lời:
- Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa lôi đầy tháng. Mẹ tròn con
vuông…. [HRCM.1.115]
Mặt khác, khẩu ngữ là hình thức ngôn ngữ cổ xưa nhất của xã hội loài
người, từ khi con người chưa hề biết đến chữ viết. Do vậy, ngay khi người ta có
thể dùng văn tự để thể hiện các nhu cầu cá nhân của mình thì ngôn ngữ mà họ huy
động vẫn mang hình hài tự nhiên, cổ xưa. Đó là những từ ngữ thường xuyên được
sử dụng trong giao tiếp hàng ngày. Chúng có tần suất cao, được sử dụng một cách
tự nhiên, quen thuộc với mọi tầng lớp trong một cộng đồng nói năng.
Theo Trường phái Praha, các thuộc tính này thường tác dụng đồng thời
khi nhận diện một lời nói. Nhưng có khi chúng tác động "lệch pha" nhau thì
đưa đến những sản phẩm lời nói đặc biệt, chẳng hạn như những trao đổi thư từ
giữa các cá nhân hay những phát biểu trước đám đông, hoặc bài giảng trên lớp
học…Do đó, không thể dựa vào biểu hiện vật chất để xác định bản chất dạng
ngôn ngữ của lời nói. Cái có tác dụng quyết định trong phân loại ở đây là mục
đích và tính chất của một hoạt động giao tiếp. Chính chức năng giao tiếp đã
20
quyết định bản chất của lời nói. Khi lời nói được dùng vào việc trao đổi cá
nhân, mang tính đời thường trong đời sống mỗi cá nhân thì nó thuộc về phong
cách sinh hoạt hay đời thường và lời nói phù hợp nhất là ngôn ngữ phi chính
thức, lời nói thông tục, hay gọn hơn là khẩu ngữ. Còn khi ngôn ngữ dùng trong
những giao tiếp cộng đồng thì lời nói thuộc về những phong cách "bậc cao"
như hành chính công vụ, phổ biến kiến thức hoặc sáng tác văn chương. Và
dạng lời nói thích hợp nhất với những phong cách này là ngôn ngữ chính thức,
ngôn ngữ chuẩn mực, hay còn gọi là ngôn ngữ văn học.
Trong tác phẩm văn học tồn tại nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau từ
trang trọng, đài các tới giản dị, bình dân. Người nghệ sĩ tùy theo cái tạng và tùy
theo trường hợp mà lựa chọn hệ thống ngôn ngữ cho phù hợp. Trong các tác
phẩm văn chương hiện đại khẩu ngữ có một vị trí rất đặc biệt. Khẩu ngữ làm
nên màu sắc khó lẫn của những đối thoại giữa các nhân vật, tạo nên cái hồn cho
mỗi tác phẩm.Văn xuôi thông thường là môi trường thuận lợi cho việc sử dụng
khẩu ngữ. Văn xuôi sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày, ngôn ngữ sinh động
như đúng như nó đang diễn tiến để làm chất liệu xây dựng tác phẩm. Đó là một
hiện tượng rất điển hình trong thời hiện đại. Tuy nhiên, hiện tượng này khó có
thể quan sát được trong thi ca truyền thống nước ta. Thi ca truyền thống chịu sự
quy định của hệ thống thi pháp trung đại - coi hệ thống ngôn ngữ là bất biến, là
đã được đặt khuôn thước sẵn. Đó là thứ ngôn ngữ công thức, ước lệ tượng
trưng, sùng cổ và nệ cổ, uyên bác và được cách điệu hóa. Một lí do quan trọng
khác nữa là lực lượng sáng tác cũng như tiếp nhận thi ca truyền thống chủ yếu
tập trung vào tầng lớp trên, tầng lớp “có chữ” của xã hội. Đối với họ, ngôn ngữ
bình dân là thấp kém và xa lạ với các cảm nhận thẩm mĩ của họ.
Chỉ từ sau thế kỷ XV, khẩu ngữ mới bắt đầu có vai trò nhất định trong
sáng tác văn chương. Đó là các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du, và nhiều tác phẩm thơ Nôm khuyết danh.Việc đưa khẩu ngữ vào
21
áng tác đã làm tác phẩm văn học gần gũi, dễ hiểu hơn với người đọc. Do vậy dễ
lan truyền và phổ biến hơn văn chương bác học thời kì trước đó.
Các nhà văn lớn luôn luôn chú ý khai thác vốn ngôn ngữ dân gian để
vươn tới sự gần gũi với hiện thực. Đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng ngôn ngữ
nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật càng gần thực thế giao tiếp ngôn ngữ hàng ngày
bao nhiêu, người ta càng thấy nhân vật đó thật bấy nhiêu. Ngôn ngữ của người
lao động khác ngôn ngữ của trí thức, của nông dân khác của công nhân, của
những người bình thường trong xã hội khác với của giới giang hồ.
Các tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự do nhu cầu miêu tả hiện thực
chân thực, sống động cho phép giữ nguyên sự có mặt của các đơn vị từ vựng
khẩu ngữ trong lời thoại của nhân vật. Vì vậy, các đoạn thoại là nơi chứa đựng
lớn nhất các hình thức khẩu ngữ. Các truyện ngắn thuộc trường phái miêu tả
hiện thực thường rất chú ý tới khả năng biểu đạt của các đơn vị từ vựng khẩu
ngữ, vì thế tần số sử dụng các đơn vị này là rất cao, đặc biệt trong các tác phẩm
nổi tiếng của các nhà văn lớn, trang nào của họ hầu như cũng có vài từ khẩu
ngữ. Các từ này không chỉ nằm trong các đoạn thoại mà còn có cả trong các
đoạn văn miêu tả, nhằm biểu thị thái độ riêng của nhà văn và đạt đến mục đích
gây ấn tượng ở người đọc. Thông qua sự tồn tại của những đơn vị khẩu ngữ
trong các loại hình văn học nghệ thuật mà giá trị của những đơn vị đó đã được
củng cố. Chúng có cơ hội tồn tại lâu dài và một cách có ý nghĩa nhất ngay trong
hình thức ngôn ngữ luôn được xã hội coi trọng là ngôn ngữ viết. Có thể nói,
ngôn ngữ quần chúng là kho của cải vô giá, là nguồn bổ sung vô tận cho nhà
văn trong sáng tác tác phẩm. Bởi hơn ai hết, nhân dân chính là người thầy lớn
về ngôn ngữ, và chính là những người lao động trực tiếp là những người có lối
nói rất sáng tạo. Trong mưu kế sinh nhai, trong công việc làm ăn vật lộn với đất
với trời, “ ngôn ngữ của họ cũng sinh động theo công việc, biến đổi và luôn
sáng tạo” [14,99].
1.2.5. Chủ đề
22
Sự thôi thúc từ bên trong tạo động lực cho tác giả sáng tạo nên những tác
phẩm văn chương. Những thôi thúc này trong lí thuyết nghệ thuật học được gọi
là những động lực tinh thần của một tác phẩm. Một tác phẩm ra đời luôn nhắm
tới một vấn đề gì đó mang tính triết học, đạo đức hoặc ý thức hệ mà đối với
người viết hoặc cả xã hội đang là vấn đề bức bối nhất. Khác với tư tưởng và nội
dung chính hàm chứa trong một công trình khoa học hay một luận đề kinh tế -
xã hội, chủ đề văn chương trong một tác phẩm luôn luôn được tiếp cận một
cách có nghệ thuật. Từ hệ thống đề tài cụ thể đến hệ thống nhân vật, các hoàn
cảnh điển hình sản sinh ra các tính cách nhân vật, chủ đề tác phẩm được bộc lộ
ra. Tác giả không phát biểu trực tiếp về chủ đề mà nhường quyền đó cho các
nhân vật và số phận của họ trong tác phẩm.
1.2.6. Chi tiết nghệ thuật
Các chi tiết trong một tác phẩm văn chương luôn hàm chứa các tiềm
năng bộc lộ về cảm xúc và tư tưởng. Tùy theo sự biểu hiện cụ thể, chi tiết nghệ
thuật có khả năng thể hiện, giải thích làm xác minh cấu tứ nghệ thuật của nhà
văn trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Hình
tượng nghệ thuật cụ thể, gợi cảm và sống động là nhờ các chi tiết về môi
trường, phong cảnh, về cử chỉ, phản ứng nội tâm, hành vi lời nói. Chi tiết nghệ
thuật gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người, với truyền thống
văn hóa nghệ thuật nhất định. Trong tác phẩm có chi tiết nghệ thuật chỉ đóng
vai trò vật liệu xây dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp
lí, nhưng cũng có những chi tiết nghệ thuật thể hiện tập trung cho cấu tứ của tác
giả. Các chi tiết nghệ thuật này thường được tác giả nhấn mạnh, tô đậm, lặp lại
thông qua hàng loạt các biện pháp nghệ thuật khác nhau. Trong truyện ngắn
"Miễu Bà Chúa Xứ" chi tiết: "đứa bé chăn trâu thuở trước là ông Tư Đạt ở Gò
Mả Lạn buổi này" [HRCM.1.124] được tác giả làm như vô tình nhắc đến là một
chi tiết nghệ thuật đắt giá, bởi vì nó làm cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy
hơn: ông Tư Đạt là nhân chứng duy nhất còn sót lại trong vụ càn "đêm mùng
23
bảy tháng chạp" năm xưa của lính Pháp. Hay trong "Cô Út về rừng", chi tiết
"muỗi kêu như sáo thổi" ở miệt Cạnh Đền rốt cuộc lại là chi tiết nghệ thuật qua
trả lời của vợ chồng anh hàng xóm cô Út với ông bà Cả:
"- Dạ ở miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ chồng con cái
rúc vô mùng…nói chuyện. Ít ai đi đâu.
Ai nấy phá lên cười to. Đến lúc bấy giờ, ông Cảbà Cả mới hiểu thêm một
sự bí mật quan trọng của tiếng "muỗi kêu như sáo thổi" ở Cạnh Đền. Nó làm
hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có
muỗi" [HRCM.1.116]
1.2.7. Hình tượng nhân vật
Hình tượng nhân vật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện
và cải tạo hiện thực theo quy luật của hiện thực. Nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm là
để nhận thức, và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm của mình giúp
con người thể nghiệm ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi quan hệ có ý nghĩa
muôn màu muôn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh. Nhưng khác với các
nhà khoa học, người nghệ sĩ- nhà văn không diễn đạt trực tiếp ý nghĩ và tình
cảm bằng khái niêm trừu tượng, bằng công lí, công thức, mà bằng hình tượng,
nghĩa là bằng cách làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc,
những hiện tượng của xã hội đáng để ta suy ngẫm về tính cách và số phận về
tình đời, tình người thông qua nhân vật điển hình.
Như vậy, hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được
nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực
quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình tượng nghệ thuật, đó là hình
tượng con người với những chi tiết biểu hiện cảm tính phong phú. Hình tượng
nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không phải là sao chép y nguyên những
hiện tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông qua trí tưởng
tượng và tài năng của nhà văn, sao cho các hình tượng truyền được tới độc giả
ấn tượng sâu sắc, từng làm cho nhà văn day dứt trăn trở. Hình tượng nghệ thuật
24
vừa có giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, vừa có khả năng
khái quát, làm bộc lộ được của một loại người hay môt quá trình đời sống theo
quan niệm của nhà văn. Hình tượng nghệ thuật không chỉ phản ánh các khách
thể thực tại từ nó, mà phản ánh toàn bộ mối quan hệ sống động giữa chủ thể và
khách thể. Người đọc không chỉ thưởng thức bức tranh hiện thực, mà còn
thưởng thức cả nét vẽ, màu sắc, nụ cười, sự suy tư ẩn đằng sau bức tranh hiện
thực ấy.
Như vậy, cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là sự thống
nhất cao giữa các mặt đối lập: chủ quan và khách quan, lí trí và tình cảm, hiện
thực và lí tưởng… Và chính vì thế hình tượng còn là mối quan hê xã hội - thẩm
mĩ vô cùng phức tạp. Trước hết là quan hệ giữa các yếu tố và chỉnh thể của bức
tranh đời sống đươc tái hiên qua hình tượng. Tiếp theo là quan hệ giữa thế giới
nghệ thuật với thực tại mà nó phản ánh.Về phương diện này, hình tượng không
chỉ tái hiện đời sống mà còn cải biến nó để tạo ra một thế giới mới, chưa từng
có trong hiện thực. Đó là quan hệ giữa tác giả với hình tượng, với cuộc sống,
nhân vật trong tác phẩm. Một mặt hình tượng là hình thức, là kí hiệu của một tư
tưởng, tình cảm. Mặt khác, nó chính là nội dung, là sản phẩm sáng tạo của nhà
văn. Có cuộc sống riêng, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của ai. Và
cuối cùng là mối quan hệ giữa tác giả và, tác phăm với công chúng nghệ thuật,
giữa hình tượng với ngôn ngữ của một nền văn hóa.
Mỗi loại hình nghệ thuật sử dụng một chất liệu riêng biệt để xây dựng
hình tượng. Chất liệu của hội họa là đường nét,màu sắc, của kiến trúc là mảng
khối, của âm nhạc là giai điệu, âm thanh. Còn văn học lấy ngôn từ là chất liệu.
Hình tượng nghê thuật là là hình tượng ngôn từ.
1.3. Nhà văn Sơn Nam và Hương rừng Cà Mau
1.3.1. Nhà văn Sơn Nam
Ông tên thật là Phạm Minh Tài sinh ngày 11 tháng 12 năm 1926, tại làng
Đông Thái, quận An Biên, tỉnh Rạch Giá (nay thuộc xã Đông Thái, huyện An
25
Biên, tỉnh Kiên Giang). Do sự nhầm lẫn của nhân viên hộ tịch, tên khai sinh
của ông bị viết sai thành Phạm Minh Tày. Ông qua đời vào ngày 13 tháng
8 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Thuở nhỏ ông học tiểu học tại quê nhà, rồi học trung học tại Cần Thơ.
Năm 1945, ông tham gia Thanh niên Tiền phong, giành lấy chính quyền ở địa
phương, rồi lần lượt tham gia công tác ở Hội Văn hóa Cứu quốc tỉnh, phòng
Chính trị Quân khu, phòng Văn nghệ Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Bút
danh Sơn Nam ra đời trong thời gian này, để tưởng nhớ người phụ nữ Khơ
Me đã cho ông bú mớm thời thơ ấu (Sơn là một họ lớn của người Khơ Me,
Nam là để nhắc nhớ mình là người phương Nam). Sau Hiệp định Genève 1954,
ông về lại Rạch Giá. Năm 1955, ông lên Sài Gòn cộng tác với các báo: Nhân
loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống... Năm 1960-1961, bị chính
quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam ở nhà lao Phú Lợi (Thủ Dầu Một, Bình
Dương). Ra tù, ông tiếp tục làm báo, viết văn và khảo cứu về Nam Bộ. Sau
1975, ông tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Ông là hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà văn Sơn Nam đã viết nên nhiều tác phẩm dấu ấn, ông được nhiều
người gọi yêu là "ông già Nam Bộ", "ông già Ba Tri", "ông già đi bộ’, "pho từ
điển sống về miền Nam" hay là "nhà Nam Bộ học". Các sáng tác của ông giúp
ích trên nhiều phương diện như: lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, lễ hội
nghệ thuật, ngôn ngữ… Hơn 60 năm cầm bút và để lại gồm 50 đầu sách, ông
xứng đáng là niềm tự hào của vùng đất châu thổ sông Cửu Long. Về những
cống hiến của Sơn Nam.
1.3.2. Hương rừng Cà Mau
Sơn Nam sáng tác theo nhiều thể loại khác nhau, nhưng thành công nhất
là ở thể loại truyện ngắn. Theo ông "Truyện ngắn phải viết linh hoạt, khó che
giấu tư tưởng của mình, độc giả thẳng thắn phê bình nó với cái giọng sổ toẹt:
vô duyên, truyện này chẳng có cái gì cả! Viêt truyện ngắn, phải vận dụng nội
26
lực nhằm toát lên cái phong thái nô đùa, thong dong, thậm chí ngây ngô,
nhưng là cái ngây ngô khổ luyện, có định hướng" [HRCM.3. 6]
Tác phẩm gồm những mẩu truyện ký viết về những mảnh đời thường của
đất, của nước, của rừng, của ruộng và của những số phận con người tưởng
chừng rất tầm thường, nhưng dưới ngòi bút của nhà văn Sơn Nam đã vụt hiện
thành những điểm sáng, lấp lánh trên bức tranh sơn thủy của miền cực Nam Tổ
Quốc. Với cách viết độc đáo, đặc biệt, cách tận dụng khẩu ngữ như chất liệu
chính trong sáng tác, ông đã đưa HRCM lên tầm cao mới của ngôn ngữ văn học
Nam Bộ.
Bên cạnh đó HRCM còn là nơi bộc lộ ngôn ngữ dân dã giàu sức biểu
cảm, ông đã từng nói “ ..Không phải cứ ghi âm lại cuộc nói chuyện của người
Nam Bộ là thành văn chương được đâu...”. Văn chương Nam Bộ có một nét
đặc trưng riêng, đó là thứ văn chương gần với ngôn ngữ nói, không nặng trau
chuốt mặn mà để làm mất đi vẻ đẹp đời thường và nó còn có những góc cạnh
của nó. Do đó ngôn ngữ được Sơn Nam thể hiện trong tập truyện vừa dân dã
vừa mang tính biểu cảm y như tính cách của con người Nam Bộ vậy. Ông sử
dụng một khối lượng đồ sộ ngôn ngữ Nam Bộ dân dã mà ta có thể bắt gặp ở bất
cứ trang truyện nào: Kinh, rạch, bả, ổng, thiếm, mần, miệt đới...Có thể nói, tập
truyện HRCM bằng tất cả giọng văn chân tình, nhẹ nhàng, đa dạng nhưng nổi
bật nét đẹp xưa bình dị của người Nam Bộ. Do vậy, tìm hiểu về giá trị của khẩu
ngữ được sử dụng trong tập truyện này để thấy được sự gần gũi, mộc mạc của
lời ăn tiếng nói hàng ngày nhưng không mất đi tính nghệ thuât, chất văn trong
sáng tác của nhà văn Sơn Nam.
Ngày nay, cho dù thế giới văn chương hiện lên muôn màu, muôn vẻ,
nhưng trong lòng bạn đọc yêu văn chương khi nghĩ về nhà văn Sơn Nam vẫn
lưu giữ hình ảnh một nhà văn đặc biệt quê mùa, theo lối bác Hai Lúa Nam Bộ.
1.4. Tiểu kết
27
Theo tiến trình tự thân một ngôn ngữ, tiếng nói của cư dân từng khu vực
địa lí trong một quốc gia sẽ hội tụ lại và chung sức dựng nên ngôn ngữ toàn
dân. Khi đã hình thành một ngôn ngữ toàn dân thì xuất hiện thế đối cực giữa
phương ngữ và tiếng phổ thông (toàn dân). Ngôn ngữ toàn dân phát triển đáp
ứng nhu cầu thống nhất quốc gia bên trong một xã hội hiện đại sẽ bước sang
giai đoạn chuẩn mực hóa. Chính quá trình chuẩn mực hóa này mà ngôn ngữ
được phân thân, ra thành nhiều ngôn ngữ chức năng đáp ứng nhu cầu giao tiếp
đa dạng và tinh tế của xã hội. Trong các tầng ngôn ngữ chức năng đáng quan
tâm ở đây là ngôn ngữ văn chương. Do đặc thù là sáng tạo bằng hình tượng và
vươn lên giá trị thẩm mĩ của cộng đồng và nhân loại nên ngôn ngữ văn chương
không bị phân lập cao như những tầng ngôn ngữ chức năng khác, Để đảm bảo
vai trò riêng của mình, ngôn ngữ văn chương có các đặc trưng quan trọng như:
hình tượng, chính xác, biểu cảm và đa thanh. Đây chính là lí do tại sao mặc dù là
kết quả của quá trình chuẩn hóa nghiệt ngã nhưng ngôn ngữ văn chương lại bao
chứa được cả các yếu tố “tiêu cực” như khẩu ngữ, biệt ngữ, tiếng địa phương…
Mỗi một tác phẩm văn chương đều có hệ thống chủ đề, hệ thống hình
tượng riêng của mình. Để khắc họa tính cách nhân vật, nhà văn ngoài việc huy
động các kĩ thuật viết văn còn phải có khả năng chọn lựa chất liệu ngôn ngữ
phù hợp với chủ đề và hệ thống hình tượng của tác phẩm. Trong sự huy động
chất liệu ngôn ngữ cho sáng tác, không loại trừ khả năng nhà văn tận dụng chất
liệu khẩu ngữ và tiếng địa phương cho sáng tác phẩm của mình. Vấn đề là mặc
dù chọn những yếu tố "tiêu cực" của quá trình chuẩn hóa làm chất liệu sáng tác
nhưng nhà văn đã không dùng chất liệu này một cách tự nhiên chủ nghĩa mà có
tính toán trong thiết kế sao cho vừa phát huy được thế mạnh của nó lại vừa
không phương hại đến quyền lợi độc giả.
HRCM của Sơn Nam được chọn làm đề tài do vị trí khá đặc biệt của nó
trong tiến trình văn học Nam Bộ. Sơn Nam là một tác giả có tuyên ngôn thẳng
thắn về phong cách "viết như nói" của mình. Điều mấu chốt làm nên điểm độc
28
sáng của tập truyện là cách huy động vốn từ địa phương, cách gọi tên người,
tên đất cùng hàng loạt các lối nói đặc trưng của người Nam Bộ mà ông đã khéo
léo đưa vào tác phẩm. Thành công lớn nhất của tác giả trong tập truyện là sử
dụng sáng tạo khẩu ngữ Nam Bộ trong tạo dựng hệ thống nhân vật mang tính
cách Nam Bộ.
29
Chương 2
TÍNH KHẨU NGỮ THỂ HIỆN TRONG TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG
2.1. Dẫn nhập
Ở Thay lời tựa trong tập 1, HRCM, Sơn Nam từng viết:
… Hơi Vọng Cổ nương bờ tre bay vút
Điệu hò … ơ theo nước chảy, chan hòa
Năm tháng đã trôi qua
Ray rứt mãi đời ta
Nắng mưa miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…
Những ray rứt ấy theo ông suốt cả đời và thực tế đã góp phần dựng nên
một văn phong "rặt Nam Bộ". Theo Huỳnh Công Tín, trong bài viết mừng
thượng thọ nhà văn (2006), "đó là một thứ văn chương gần với ngôn ngữ nói,
không nặng trau chuốt mượt mà để làm mất đi bản sắc đời thường, với những
"góc cạnh" của nó" [53].
Theo chúng tôi, cụ thể trong HRCM, để trung thành với phong cách văn
chương theo lối riêng này, tác giả đã khai thác một cách sáng tạo từ ngữ và
trung thành với đặc điểm riêng của lối cú pháp Nam Bộ. Những cố gắng này đã
khắc họa phong cách khẩu ngữ trong văn chương của ông.
Trong luận văn này, phân tích yếu tố khẩu ngữ trong HRCM được tiến
hành qua 2 bước.
Bước 1: xây dựng cơ sở dữ liệu khái quát tính khẩu ngữ thể hiện trong từ ngữ
địa phương.
Bước 2: Tính khẩu ngữ thể hiện trong các lớp từ và tên gọi.
Chương 2 phản ánh các kết quả phân tích trong bước 1. Tính khẩu ngữ
được rút ra qua đối chiếu với ngôn ngữ toàn dân về mặt ngữ âm. Chúng được
30
sắp xếp lại theo thứ bậc TSXH. Nội dung thứ hai ở chương 2 là bàn luận về đặc
trưng phân bố từ loại của vốn từ.
Ở bước 2, trọn chương 3, đưa ra những nhận xét liên quan đến một số
đặc điểm từ vựng - ngữ pháp của những nhóm từ ngữ Nam Bộ đặc hữu khiến
trong HRCM có nhiều dấu ấn đặc biệt về khẩu ngữ Nam Bộ.
2.2. Danh sách từ ngữ Nam Bộ trong HRCM
Trong HRCM, theo thống kê sơ bộ, Sơn Nam đã dùng 549 đơn vị từ ngữ
địa phương Nam Bộ với TSXH là 2732 lượt. Những đơn vị từ ngữ này có thể là
từ hoặc cụm từ. Tiêu chuẩn để chọn chúng vào bản danh sách là chúng phải có
tính thành ngữ. Các cụm từ quá lỏng lẻo và tự do bị loại khỏi cơ sở dữ liệu.
Trong bảng danh sách ở Phụ lục, các từ ngữ được sắp xếp theo quy ước
thường dùng trong Ngôn ngữ học thống kê. Trước hết chúng được xếp theo thứ
tự bậc TSXH. Từ cùng một bậc được sắp xếp theo lượng truyện có xuất hiện
chúng; những từ cùng bậc TSXH và lượng truyện thì được xếp theo thứ tự chữ
cái. TSXH cao nhất trong vốn từ ngữ này là từ ổng (161 lần) và thấp nhất là từ
xụ mặt (1 lần). Kết quả khảo sát cho thấy: Bảng 2.1. dưới đây về quan hệ giữa
số lượng từ ngữ Nam Bộ, TSXH và hiệu lực thông tin của chúng:
Bảng 2.1:TSXH từ ngữ Nam Bộ HRCM và phân bậc TSXH theo hiệu lực
thông tin
Từ ngữ TSXH Vùng TSXH
Chiếm % Chiếm % (từ… đến) Số từ ngữ (tổng từ ngữ) (tổng TS) (tần số)
21 -161 17 3.28% 679 24.85%
9 -161 72 13.11% 1366 50.00%
5 -161 176 32.06% 2002 73.28%
3 -161 291 53.01% 2382 87.19%
31
2 -161 383 69.76% 2566 93.92%
1 - 161 549 100% 2732 100.00%
18 đơn vị từ ngữ đầu tiên có TSXH từ 21 đến 161 (chiếm 3.28% danh sách)
mà tổng TS đã lên tới 679, tức chiếm ~ 1/4 tổng lần xuất hiện các từ trong
danh sách. 73 từ ngữ đầu tiên từ TS 9 đến 161, chiếm 13.11% danh sách từ
ngữ, nhưng quét tới 1/2 tổng TS. Để có được số lần xuất hiện các từ trong danh
sách tăng gấp 3.78 lần (93.92% danh sách), số lượng từ của danh sách phải tăng
gấp 21.28 lần (toàn bộ từ ngữ có TSXH từ 2 đến 161).
Để tiện cho việc xem xét một số tương quan lượng gắn với các đặc điểm
từ vựng- ngữ pháp, chúng tôi đã tiến hành tách bảng danh sách tổng quát này ra
hai nhóm nhỏ hơn, dựa trên quan hệ ngữ âm với các từ trong ngôn ngữ toàn dân.
Cụ thể là, tồn tại 2 nhóm từ ngữ Nam Bộ sau đây trong danh sách chung:
1. Các từ ngữ có tương ứng ngữ âm với từ toàn dân
2. Các từ ngữ không có tương ứng ngữ âm với từ toàn dân.
2.2.1. Nhóm tương ứng ngữ âm với từ toàn dân
Trong đoạn: "Chú lục mấy cái hủ để tìm nếp, chú hốt tạm vài nắm lúa, bắt
chảo lên bếp, nhúm lửa mà rang" [HRCM. 1, 246], các từ địa phương Nam Bộ
được đánh dấu bằng in đậm. Những từ này so với tiếng toàn dân, về nghĩa khá
gần nhau, nhưng về âm thanh, thì một bộ phận nào đó có khác biệt. Những
khác biệt này được lặp đi lặp lại trong nhiều cặp từ khác nhau. Ví dụ:
a. Khác thanh điệu giữa hủ (NB) và hũ (TD) còn thấy trong:
ngủn ngơn (NB) ~ cũn cỡn (TD)
thỏm (NB) ~ lõm (TD)
xả (tóc) (NB) ~ xoã (tóc)(TD)
b. Khác âm chính giữa hốt (NB) và hót (TD) còn có ở các cặp:
cua ốp (NB) ~ cua óp (TD)
32
rốc (NB) ~ róc (TD)
xốn (mắt) (NB) ~ xót (mắt)(TD)
c. Khác âm chính giữa nhúm (NB) và nhóm (TD) còn xuất hiện ở các cặp:
chụp (NB) ~ chộp (TD)
cui cút (NB) ~ côi cút (TD)
dũi (NB) ~ dỗi (TD)
d. Khác âm cuối giữa bắt (NB) và bắc (TD) cũng còn thấy ở:
bắt tó (NB) ~ bắc tréo (TD)
chặt áo (vô thùng) (NB) ~ mặc áo bỏ vào quần (TD)
mắc (NB) ~ đắt (TD)
Những khác biệt này đến từ các giai đoạn phát triển lịch sử của tiếng
Việt. Chúng là những biến đổi ngữ âm có quy luật. Ngữ âm học lịch sử gọi đó
là các tương ứng ngữ âm.
Nhóm từ ngữ Nam Bộ ngữ âm chiếm 35.84% tổng số từ trong danh sách;
tổng TSXH của chúng là 989 lượt, chiếm 34.97% tổng số lượt của từ địa
phương nói chung. Bảng 2.2 thể hiện tương quan thống kê giữa TSXH, bậc và
số lượng từ ngữ và hiệu lực thông tin của các từ ngữ trong nhóm này:
Bảng 2.2: TSXH từ ngữ Nam Bộ ngữ âm
TSXH Từ ngữ Nam Bộ Vùng Tổng Chiếm % Chiếm % (từ… đến) Số từ ngữ (tần số) (tổng TS) (tổng từ ngữ)
21 -161 309 31.24% 5 2.60%
9 -161 516 52.17% 21 10.94%
5 -161 692 69.97% 50 26.04%
3 -161 859 86.86% 100 52.08%
2 -161 935 94.54% 138 71.88%
33
1 - 161 989 100.00% 192 100%
Theo Bảng 2.2, lượng từ ngữ có TSXH cao ít hơn rất nhiều so với các từ
ngữ có TSXH thấp. 21 từ đầu tiên, có TSXH từ 9 lần đến 161, hiện diện trong
52,17 % văn bản. Những từ ngữ có TSXH từ 1 đến 2 mặc dù đến 92 đơn vị
(gấp gần 5 lần 21 từ đầu tiên ở trên) nhưng hiệu suất thông tin thì vô cùng thấp,
chỉ làm tăng độ hiểu văn bản thêm được 5%!
Về từ loại, động từ trong nhóm từ ngữ Nam Bộ ngữ âm, chiếm 41.67%.
Các đại từ, phó từ và thành, quán ngữ có tỉ lệ thấp hơn nhiều, lần lượt là 4.
69%, 5.21% và 2.60%. Chiếm tỉ lệ trung bình là danh từ và tính tứ, lần lượt là
24.48% và 21.35%. Như vậy, từ loại xuất hiện trội nhất của nhóm là động từ.
Bảng 2.3: Phân bố từ loại nhóm từ ngữ Nam Bộ ngữ âm
Từ loại Số lượng %
đại từ 9 4.69%
động từ 80 41.67%
danh từ 47 24.48%
tính từ 41 21.35%
phó từ 10 5.21%
tiểu từ 0 0.00%
5 2.60% thành ngữ, quán ngữ
CỘNG 192 100.00%
Tuy nhiên, khi đi vào chi tiết, sự phân biệt từ loại này, phụ thuộc vào bậc
TSXH. Ta lấy 5 bậc đầu tiên, TSXH từ 9 đến 161, như đã nói ở trên chiếm
52.17% văn bản, với số lượng từ đầu tiên trong danh sách là 21. Và tiếp sau lại
lấy 21 từ cuối cùng, có TSXH là 1, để xem sự phân bố từ loại giữa chúng khác
nhau thế nào.
34
Ở 21 từ đầu tiên của nhóm, 52.38% là đại từ; vị từ chiếm 33.33% còn
lại là danh từ (14.28%) (chi tiết các từ, xem Bảng 2.4; chi tiết số liệu, xem
Bảng 2.5).
Bảng 2.4: Danh sách 21 từ đầu tiên của nhóm từ ngữ Nam Bộ ngữ
âm có TSXH cao nhất.
1 2 3 4 51
TT Bậc Từ ngữ TSXH Số truyện
1. 1 ổng 161 32
2. 2 tụi tui 58 36
3. 3 tụi bây 43 36
4. 4 bây 26 8
5. 5 mùng 21 12
6. 6 thủng thỉnh 17 12
7. ngặt hổm rày 17 11
8. 7 nhè 16 7
9. 8 bả 15 11
10. hổm rày 15 8
11. vô 15 7
12. 9 hửi vô 13 11
13. bữa rày 13 7
14. 10 biểu 11 6
15. bọn mầy 11 6
16. chóa lên 11 6
17. từ rày về sau 11 6
18. nhứt 11 5
1 Nội dung các cột trong bảng danh sách: cột 1: STT; cột 2: bậc của TSXH; cột 3: từ ngữ Nam Bộ từ vựng; cột 4: số l ần xuất hiện; cột 5: số truyện mà từ ngữ xuất hiện trong 64 truyện của HRCM.
19. đồn đãi 11 4
35
20. tánh mạng 11 4
21. 11 tánh 9 6
Bảng 2.5: Phân bố từ loại ở 21 từ đầu tiên nhóm từ Nam Bộ ngữ
âm
Từ loại Số lượng %
đại từ 5 23.81%
động từ 6 28.57%
danh từ 6 28.57%
tính từ 1 4.76%
phó từ 1 4.76%
tiểu từ 0 0.00%
th/qngữ 2 9.52%
CỘNG 21 100.00%
Ở 21 từ cuối bảng, thuộc TSXH thấp nhất (=1), các dơn vị như tiểu từ,
đại từ và thành ngữ, quán ngữ không xuất hiện. Chỉ có 4 từ loại động từ, danh
từ, tính từ và phó từ hiện diện ở đây. Trong đó động từ có TSXH cao nhất,
42.86%; kế đến là phó từ, 23.81%; tính từ: 19.05% và danh từ: 14.29% (chi tiết
các từ, xem Bảng 2.6; chi tiết số liệu, xem Bảng 2.7).
Bảng 2.6: Danh sách 21 từ cuối cùng trong nhóm từ ngữ Nam Bộ ngữ
âm có TSXH thấp nhất (=1)
TT Bậc Từ ngữ TSXH Số truyện
172. quến cục 1 1
173. rán 1 1
174. rồn rột 1 1
36
rớt lềnh 1 1 175.
rớt xuống 1 1 176.
sanh nhựt 1 1 177.
sanh tật 1 1 178.
sanh thời 1 1 179.
sát rạt 1 1 180.
sói sọi 1 1 181.
số mạng 1 1 182.
tằng hắng 1 1 183.
thơ thới 1 1 184.
tòn ten 1 1 185.
tốt phước 1 1 186.
trắng phếu 1 1 187.
tróc lên 1 1 188.
un trâu 1 1 189.
vô doan 1 1 190.
xăm xoi 1 1 191.
xụ mặt 1 1 192.
Bảng 2.7: Phân bố từ loại ở 21 từ cuối cùng nhóm từ ngữ Nam Bộ ngữ
âm có TSXH thấp nhất (=1)
Từ loại Số lượng %
đại từ 0 0.00%
động từ 9 42.86%
danh từ 3 14.29%
tính từ 4 19.05%
37
phó từ 5 23.81%
tiểu từ 0 0.00%
thành ngữ, quán ngữ 0 0.00%
CỘNG 21 100.00%
So sánh sự xuất hiện các từ loại trong 2 vùng tần số trên có thể rút ra
nhận xét thú vị. Trong nhóm từ địa phương Nam Bộ ngữ âm, vùng TSXH cao,
ưu tiên cho xuất hiện các yếu tố thường dùng nhiều trong hội thoại, chẳng hạn
như các loại đại từ, thành ngữ, tục ngữ. Còn các từ loại như danh từ, động từ,
tính từ thì TSXH của chúng là như nhau trong cả 2 vùng tần số. Tiểu từ vắng
mặt cả ở hai vùng tần số. Lí do có thể là các tiểu từ thường nằm trong khu vực
các từ đặc hữu Nam Bộ. Chúng là thành viên của nhóm từ địa phương Nam Bộ
từ vựng. Thực tế là không có các tiểu từ nào có tương ứng ngữ âm với từ toàn
dân. Đó là những đặc điểm cấu trúc rất đáng chú ý của nhóm từ địa phương
Nam Bộ ngữ âm nói riêng và từ Nam Bộ nói chung trong HRCM.(xem Bảng
2.8.)
Bảng 2.8: : So sánh vị trí các từ loại 2 vùng TSXH cao và thấp nhóm
từ Nam Bộ ngữ âm
Bậc Vùng TSXH cao Bậc Vùng TSXH thấp
1 động từ động từ 1
danh từ phó từ 2
2 đại từ tính từ 3
3 th/qngữ danh từ 4
4 tính từ đại từ 5
phó từ th/qngữ
5 tiểu từ tiểu từ
38
Về nội dung ngữ nghĩa, các từ có TSXH cao thường không có xu hướng
mở rộng ý nghĩa trong khi những từ ở vùng tần số thấp thì mang ý nghĩa biểu
cảm đậm đặc hơn và nội dung nghĩa trong so sánh với ngôn ngữ toàn dân cũng
phong phú hơn nhiều. Ví dụ: Thủng thỉnh có TSXH cao, trong đoạn trích
"thủng thỉnh tôi nói qua chuyện khác vui hơn [HRCM.1.120] " cho thấy nó chỉ
hàm nghĩa đen như đã có trong ngôn ngữ toàn dân: "thong thả, thủng thẳng, thư
thả". Cũng như nhứt trong hai đoạn dưới đây hoàn toàn tương tự về nghĩa với
"nhất, số một" trong ngôn ngữ toàn dân:
"Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rung. Nhứt là
về đêm khi trăng chiếu, đom đóm bay về đậu khắp nhánh tràm như họp chợ
phiên! [HRCM..1. 137]."
Trong khi đó rớt lềnh là từ địa phương Nam Bộ ngữ âm nhưng có tần số
thấp nhất lại mang thêm nét nghĩa biểu cảm và hình tượng hơn so với từ "rơi"
trong ngôn ngữ toàn dân: "Tư Cò bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời:
- Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói
như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong thếp đèn dầu cá đó. [HRCM. 1.176]".
2.2.2. Nhóm không có tương ứng về ngữ âm với từ toàn dân
Nhóm từ địa phương Nam Bộ từ vựng là những từ không có tương ứng
ngữ âm, thậm chí có thể không có từ tương ứng trong vốn từ ngôn ngữ toàn
dân. Trong đoạn: “Đôi mươi mái nhà lá, vài ba gốc dừa không trái: ngọn Xẻo
Bần xơ rơ như vậy đó. Chung quanh là cánh đồng cò bay thẳng cánh nhưng
đầy năn kim, ô rô, cỏ ống. Cò lông bông, trích, cúm núm bay lượn tối ngày."
[HRCM.1,53], các từ in đậm là các từ địa phương từ vựng. Để hiểu ý nghĩa của
chúng phải tra từ điển tiếng địa phương Nam Bộ. Ví dụ: "Cúm núm: gà nước,
cùng loại với cuốc, loại chim cao cẳng, lông nâu có điểm đen" [1,189]. Theo
Nguyễn Thiện Giáp, "đó là những từ ngữ biểu thị những sự vật, hiện tượng, những
hoạt động, cách sống đặc biệt chỉ có ở địa phương nào đó chứ không phổ biến đối
39
với toàn dân, do đó không có từ song song trong ngôn ngữ văn học toàn dân. Các
nhà ngôn ngữ gọi chúng là từ địa phương dân tộc học" [19, 257].
Trong số 549 từ ngữ Nam Bộ của HRCM, ngoài các từ địa phương ngữ
âm, 192 từ ngữ chiếm 34.97%, 65.03% từ ngữ còn lại là từ Nam Bộ từ vựng.
Rất có thể số lượng áp đảo của nhóm từ này trong HRCM, đã làm cho văn Sơn
Nam có những khác biệt nhiều so với văn chương của các đồng hương.
Nhóm từ địa phương từ vựng có tổng TSXH 1743 lượt, chiếm 63.80% tổng
TSXH vốn từ Nam Bộ. Các từ có TSXH cao nhất là rạch (71 lần) và thấp nhất
là xá xị (1 lần). Tương quan thống kê giữa TSXH, số lượng từ ngữ và hiệu lực
thông tin của nhóm từ vựng này như trong Bảng 2.9
Bảng 2.9: TSXH từ ngữ Nam Bộ từ vựng
TSXH Từ ngữ Nam Bộ Vùng Tổng Chiếm % Chiếm % (từ… đến) Số từ ngữ (tần số) (tổng TS) (tổng từ ngữ)
21 -71 370 21.23% 13 3.64%
9 -71 850 48.77% 51 14.29%
5 -71 1310 75.16% 126 35.29%
3 -71 1523 87.38% 191 53.50%
2 -71 1631 93.57% 245 68.63%
1 - 71 1743 100.00% 357 100%
Theo quy luật, các từ có TSXH cao ít hơn hẳn các từ TSXH thấp. 51 từ
đầu tiên, có TSXH từ 9 đến 71, hiện diện trong 48.77% văn bản. Những từ ngữ
có TSXH từ 1 đến 2 mặc dù có đến 166 đơn vị (gấp 3.25 lần 51 từ đầu tiên)
nhưng hiệu suất thông tin rất thấp. Chúng chỉ làm tăng độ hiểu văn bản thêm
được có 6.43%.
Về từ loại, trong nhóm từ ngữ Nam Bộ từ vựng không xuất hiện một đại
từ nào; danh từ chiếm 32.21%; thành ngữ và quán ngữ: 8.12%; động từ, tính từ
40
và phó từ, lần lượt có TSXH là 27.45%, 17.93% và 11.76%; tiểu từ có tỉ lệ xuất
hiện thấp nhất: 2.52%.
Bảng 2.10: Phân bố từ loại nhóm từ ngữ Nam Bộ từ vựng
Từ loại Số lượng %
đại từ 0 0.00%
động từ 98 27.45%
danh từ 115 32.21%
tính từ 64 17.93%
phó từ 42 11.76%
tiểu từ 9 2.52%
29 8.12% thành ngữ, quán ngữ
CỘNG 357 100.00%
Có thể so sánh hai nhóm từ địa phương ngữ âm và từ vựng thông qua sự
phân bố về từ loại của chúng. Thoáng qua có thể thấy phân bố từ loại của cả hai
nhóm chung nhau ở chỗ: chúng đều chia các từ loại và đơn vị lời nói thành hai lớp:
a. Lớp các danh từ, động từ, tính từ và phó từ
và b. Lớp các đại từ, tiểu từ và thành ngữ, quán ngữ.
Lớp a. luôn nằm ở vị trí trên còn Lớp b. thì ở vị trí cuối bảng. Tức là
lượng từ ngữ Lớp b. nhỏ hơn nhiều so với của Lớp a.
Sự khác nhau của 2 nhóm ở lớp a. chỉ là ở vị trí cụ thể của danh từ và
động từ. Ở nhóm từ Nam Bộ ngữ âm động từ nhiều hơn danh từ. Nhưng ở
nhóm từ Nam Bộ từ vựng thì danh từ lại nhiều hơn so với động từ.
Còn sự khác nhau lớp b. là sự có/ vắng mặt đại từ và tiểu từ. Ở
nhóm từ ngữ âm, chỉ có đại từ hiện diện trong khi ở nhóm từ từ vựng thì lại chỉ
hiện diện mỗi tiểu từ. (Xem từ xuất hiện cao nhất và thấp nhất cho 2 mẫu này
ở phần phụ lục)
41
Trong cả 2 mẫu, đại từ đều không hiện diện. Ở Mẫu 1, danh từ chiếm
41.18%; động từ và tính từ đều chiếm 15.69%; phó từ: 5,88%; tiểu từ 7.84%;
quán ngữ và thành ngữ: 13.73%. Còn ở Mẫu 2, ngoài hai từ loại khiếm diện là
đại từ và tiểu từ, danh từ vẫn chiếm vị trí cao nhất: 29.41%; kế đó là động từ,
tính từ và phó từ, lần lượt chiếm 27.45%, 25.49% và 11.76%. Thành ngữ và
quán ngữ có vị trí thấp nhất: 5.88% (xem Bảng 2.11):
Bảng 2.11: Phân bố từ loại của nhóm từ ngữ Nam Bộ từ vựng ở 2
vùng TSXH cao nhất và thấp nhất
Mẫu 1 Mẫu 2
Từ loại Số lượng % Số lượng %
0 0.00% 0 0.00% đại từ
8 15.69% 14 27.45% động từ
21 41.18% 15 29.41% danh từ
8 15.69% 13 25.49% tính từ
3 5.88% 6 11.76% phó từ
4 7.84% 0 0.00% tiểu từ
13.73% 3 5.88% thành ngữ, quán ngữ 7
51 100.00% 51 100.00% CỘNG
Có thể quan sát trực tiếp tương quan giữa các đơn vị trên đây qua đồ thị
Hình 2.1. Ở cả 2 vùng tần số, ba từ loại danh từ, động từ, tính từ ở vị trí cao
hơn so với các đơn vị còn lại. Trong ba từ loại này thì danh từ ở vị trí cao hơn
động từ và tính từ. Đó là điểm chung giữa 2 mẫu. Còn sự khác biệt giữa chúng
là ở:
a. số lượng thành ngữ và quán ngữ
b. số lượng các phó từ, tiểu từ
42
Thành ngữ, quán ngữ có số lượng lớn ở M1 và giảm đi nhiều ở M2. Điều
này có thể là đặc điểm bút pháp cá nhân Sơn Nam. Ông quen dùng một số
thành, quán ngữ. Chúng được dùng đi dùng lại nhiều lần nên nằm ở M1, nơi
tập hợp từ ngữ TSXH lớn. Còn ở M2 là nơi có các thành, quán ngữ Sơn Nam ít
dùng (dùng chỉ 1 lần). Chúng có đặc điểm vừa ít lại vừa có cách dùng đặc biệt
là các đặc điểm từ ngữ mà Sơn Nam tối kị, vì văn ông là loại văn chương phổ
thông, dành cho số đông độc giả nghèo, ít học.
Hình 2.1. Phân bố từ loại của nhóm từ ngữ Nam Bộ từ vựng ở 2
vùng TSXH cao và thấp nhất
Có thể minh họa nhận xét này khi so sánh hai trích đoạn sau:
a. "- Sao vậy cà? Sao vậy cà? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ đẻ nhiều
quá vậy?
- Dạ ở miệt dưới muối dữ lắm. Chạng vạng chồng con cái rúc vô mùng…
nói chuyện. Ít ai đi đâu." [HRCMM, 1. 115]
và b. " Vô nhà nào mà mình có cảm giác lạnh lẽo, đó là nhà nghèo. Gặp
người bạn, rờ lên vai áo thấy rách, chắc là người ấy đang suy sụp… nghèo rã
bành tô." [HRCM. 1, tr. 234]
Quán ngữ "sao vậy cà" là lối nói thể hiện sự ngạc nhiên mà ta bắt gặp
luôn luôn trong lời nói hàng ngày của người Nam Bộ. Có thể đó là câu hỏi,
nhưng cũng có khi là lối tự vấn không cần người khác đáp lại. Kiểu quán ngữ
như vậy thật là dễ dùng và do vậy là loại đơn vị lời nói mà tác giả hay dùng. Nó
43
nằm ở M1. Trong khi đó, lối nói ví von, phải mượn đến từ nước ngoài "áo bành
tô", cũng là một dạng thành ngữ, quán ngữ nhưng lại dùng khó hơn trong đoạn
trích b., khi ông lão lập luận về cảnh "mù lòa là mắt không thấy, chớ nào phải
vô tri vô giác" [HRCM. 1, tr. 233]. Bối cảnh dùng đã là đặc biệt, lại cộng thêm
với chủ trương "phổ thông hóa văn chương" kiểu Sơn Nam đã làm cho đơn vị
lời nói "rã bành tô" không thể nằm ở M1 mà phải thuộc về M2, nơi tập trung
các từ ngữ ít dùng, có TSXH thấp. "Rã bành tô" không thuộc hệ thống quen
dùng của Sơn Nam!
Còn về tương quan TSXH của phó từ, tiểu từ, ta có thể nhận thấy ngay
rằng, ngay trong tiếng Việt toàn dân, phó từ và tiểu từ cũng là các từ loại có số
lượng thấp nếu so với các từ loại chính như thể từ và vị từ. Các tiểu từ dầu có
một danh sách đặc hữu của người Nam Bộ đi nữa, nhưng vì tỉ lệ của chúng
cũng không thể vượt quá tỉ lệ chuẩn cho phép. Mặt khác, do số lượng ít nên
trong lời nói chúng có tính đều đặn cao hơn, vì phải dùng nhiều lần hơn so với
các thực từ. Chính vì lí do này, tiểu từ chỉ có thể xuất hiện trong M1 mà không
có vết tích nào ở M2. Tuy nhiên, tình hình phân bố của phó từ, yếu tố phụ trong
các kết câu tính ngữ và động ngữ, thì lại khác. Yếu tố trung tâm của động ngữ
và tính ngữ là động từ và tính từ là các từng loại có thể gộp chung trong khái
niệm vị từ, là yếu tố quan trọng trong một kết cấu vị từ trong hầu hết các khuôn
mẫu lời nói có trong thực tế. Kết cấu vị từ trong vai trò hạt nhân ấy của câu nói,
do vậy, cần được mở rộng để bao hết được các sự tình nói năng mà người ta
muốn bộc lộ ra. Có lẽ vì lí do này mà để thể hiện một tính cách năng động và
thiên về trực cảm, câu nói của người Nam Bộ thường được xây dựng trên cơ sở
những kết cấu vị từ mang màu sắc đặc biệt Nam Bộ. Đóng góp vào sự giàu có
đó là danh sách các phó từ trong phương ngữ Nam Bộ và hành vi "thoắt ân,
thoắt hiện" của chúng trong câu nói. Do bị phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh câu
nói cho nên các phó từ Nam Bộ mang tính lâm thời hơn so với các từ loại chính
như danh, động hay tính từ. Đó là lí do tại sao diễn tiến về số lượng của tiểu từ
44
và của phó từ lại ngược nhau: Tiểu từ tăng triển ở M1 trong khi phó từ lại gia
tăng ở M2.
2.3. Tiểu kết
Vốn từ ngữ Nam Bộ trong HRCM gồm 549 từ ngữ. Các từ ngữ được
chia thành hai nhóm: a. Nhóm có tương ứng ngữ âm với từ toàn dân, 192 đơn
vị và b. Nhóm không có tương ứng ngữ âm với từ toàn dân, 357 đơn vị.
Về phân bố từ loại, trong nhóm ngữ âm không xuất hiện tiểu từ. Động từ là từ
loại trội nhất, 41,67%. Đại từ, phó từ và thành, quán ngữ chiếm tỉ lệ rất thấp.
Danh từ và tính có tỉ lệ trung bình. Ở nhóm từ vựng, trội nhất là danh từ.
Chiếm vị trí trung bình là động từ, tính từ và phó từ. Chiếm tỉ lệ thấp nhất là
tiểu từ, còn đại từ thì hoàn toàn vắng mặt. So với nhóm ngữ âm, tỉ lệ thành,
quán ngữ và phó từ ở nhóm này cao hơn nhiều.
Nếu coi hai nhóm từ địa phương là kết quả phân cực của tiến trình
phương ngữ Nam Bộ, thì nhóm từ ngữ ngữ âm đại diện cho xu hướng hội tụ,
còn nhóm từ ngữ từ vựng là cho xu hướng phân lập. Nhìn từ quan điểm này thì
việc tăng số lượng danh từ, phó từ, tiểu từ và thành, quán ngữ ở nhóm từ ngữ từ
vựng là một dấu hiệu "đặc trưng hóa" vốn từ ngữ Nam Bộ. Để đáp ứng nhu cầu
định danh sự vật và sự tình ở vùng đất mới, một mặt tiếng NB tận dụng các từ
ngữ chung trong khối ngôn ngữ toàn dân nhưng mặt khác sáng tạo ra các cấu
trúc từ ngữ mới. Ở khu vực danh từ, đó là cách tăng thêm các từ ngữ và tổ hợp
định danh. Ở khu vực phó từ, đó là sự tăng thêm các yếu tố phụ trong các cụm
vị từ. Còn để tăng thêm các nhu cầu biểu lộ tình thái, tiếng Nam Bộ tự làm giàu
thông qua việc tăng số lượng các tiểu từ và các tổ hợp thành ngữ tính như thành
ngữ và quán ngữ.
45
Chương 3
TÍNH KHẨU NGỮ THỂ HIỆN TRONG CÁC LỚP TỪ VÀ TÊN GỌI
3.1. Dẫn nhập
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Việc chọn lựa chất liệu ngôn ngữ có
vai trò quan trọng trong phương pháp sáng tác của từng nhà văn. Lấy khẩu ngữ
làm chất liệu chủ yếu trong sáng tác truyện ngắn ở HRCM, nhà văn đã đem lại
hiệu ứng cảm thụ tươi mới cho người đọc trước những đề tài đôi khi rất truyền
thống. Và quan trọng hơn, ông đã tạo ra được một ấn tượng tin cậy nơi người
đọc là những điều có trong tác phẩm là có thực trong đời sống thường nhật của
người Nam Bộ. Để tôn vinh chất liệu khẩu ngữ trong sáng tác văn chương, Sơn
Nam đã tận dụng và sáng tạo lời ăn tiếng nói người Nam Bộ khi kể chuyện. Cụ
thể là ông đã sử dụng tài tình một số lớp từ ngữ và tên gọi kết hợp cú pháp đặc
hữu trong tiếng Nam Bộ. Nhờ đó, các đặc điểm về hoàn cảnh và tính cách Nam
Bộ đã được nổi lên. Dưới đây là vài nhận xét chính về khả năng khai thác đó
của Sơn Nam trong HRCM.
3.2. Danh từ
Trong phương ngữ Nam Bộ, những cấu trúc định danh (CTĐD) chỉ các
thực thể đôi khi là từ, nhưng đa phần là cụm từ, theo nghĩa nghiêm ngặt của
thuật ngữ này. Nếu chỉ dừng lại ở cái gọi là từ thì dường như vấn đề phương
ngữ rất ít các thông tin cần khai thác cho văn phong một tác giả. Hầu hết các từ
đơn chỉ các sự vật và hiện tượng có trong hiện thực đời sống Nam Bộ đều có
cội rễ chung trong tiếng Việt toàn dân. Vấn đề là khi các yếu tố đơn nhất ấy kết
hợp với các yếu tố phụ khác tạo nên một CTĐD có kích thước lớn hơn thì cấu
trúc mới này biến thành một loại đơn vị lời nói rất được chuộng dùng trong đời
sống phương ngữ. Và cũng từ lúc đó màu sắc khẩu ngữ mới trở nên thật ấn
tượng. Ranh giới giữa cái gọi là từ và ngữ khi nghiên cứu vốn từ địa phương rất
bấp bênh và không có gì đảm bảo chắc chắn là đã được vạch ra một cách
46
nghiêm ngặt như ngôn ngữ học lí thuyết mong chờ. Do vậy, cái cần quan tâm ở
đây thật ra là khả năng đảm nhiệm chức năng định danh của một số lớp từ ngữ
đặc biệt của một phương ngữ. Trong trường hợp này là của tiếng Nam Bộ.
Trong mục danh từ, ta sẽ bàn về khả năng định danh của một số lớp từ
ngữ với cương vị hoặc là danh từ chung chỉ các sản vật địa phương hoặc là các
danh từ riêng có chức năng gọi tên đất, tên người.
3.2.1. Danh từ chung: loài cây
Sơn Nam rất có ý thức dùng các danh từ chỉ sản vật địa phương để khắc
họa môi trường sống của người Nam Bộ dân quê. Đó chính là nơi những lưu
dân trong quá khứ "phá rừng, lập rẫy" để có được hạnh phúc như hôm nay. Đó
cũng là nơi chở che và cộng sinh lí tưởng của người Nam Bộ đầy khí phách,
lãng mạn và hào sảng.
Khúc thơ về cảnh bàu, đìa đầy ắp nước rất quen thuộc Tây Nam Bộ, mặc
dầu rất hay:
Lền khên rong đuôi chồn,
Đặc nước, bông súng bông.
Ô rô và ráng, sập,
Mọc đầy theo mé lung.
Mắm đen chen dà diệp,
Che khuất mấy cánh đồng.
Nơi đây, nơi giáp giới,
Ba ngã, một đường lung. [HRCM.1.236].
Nhưng mới chỉ liệt kê được lèo tèo vài giống cây mọc trong nước, trong
khi thực tế thì phong phú hơn nhiều. Mỗi truyện của HRCM cho ta làm quen
thêm một vài loài cây cối mà nếu tra trong từ điển toàn dân thì chẳng bao giờ
tìm thấy. Nam Bộ có bao nhiêu loại đất, ruộng, rừng thì có bằng ấy những cây
cối riêng phụ họa theo làm nên một vùng sinh thái cây xanh đặc biệt. Điều mà
người đọc thu hoạch được sâu sắc qua những trang sách của Sơn Nam là nhờ
47
cây cối là lần theo dấu vết chúng có thể thấy được bóng dáng người xưa, những
"bước chân lưu dân" từ ngày đầu phiêu dạt đến lúc thành tựu: định cư xóm ấp,
từ người không nhà biến thành "dân cựu". Miền Tây Nam Bộ, đặc biệt đất nước
Cà Mau, là nơi sinh sôi ba loài cây cối rất khác nhau sau đây:
a. Loài cây đặc trưng nhất cho vùng mới khẩn hoang: mù u, bình bát,
choại, ô rô, cóc kèn, gừa, bàng,…
b. Loài cây tạo hệ sinh thái rừng ngập mặn ổn định và sinh nguồn lợi sau
khi khẩn hoang: tràm, đước, vẹt, dừa nước, mắm,…
c. Loài cây hứa hẹn cho những sản phẩm chất lượng, nổi tiếng, mà người
lập vườn hằng mơ đến ngày thu hoạch: lúa, đậu, bắp, mận, dưa hường, bí rợ, ổi
xá lỵ, chuối, sầu riêng, chôm chôm, măng cụt…
Loài thực vật thuộc lớp a. là những cây dại, mọc hoang, đi đến đâu trong
vùng đất này cũng có thể bắt gặp. Chúng mọc tràn lan ở miệt rừng, miệt đồng
nước, những nơi chưa từng in dấu chân người. Cùng với bàu, lung, ao, núi đất,
kênh, rạch, chúng tạo nên không gian hoang sơ, đôi khi trữ tình và thân thiện.
Cũng có lúc như vô tình chúng lại là chứng nhân cho bao nỗi nhọc nhằn, bất
hạnh trong đời sống tự cấp tự túc của người dân. Người ta có thể tận dụng
chúng để chế ra những vật dụng, đồ dùng đơn sơ hàng ngày như: "Nắm rễ gừa
ngún cháy, khói bay đều" [HRCM.1.213]; "dây cóc kèn trói thúc ké hai chân
sau của nó lại [HRCM. 1, 228]; "miếng kèo bằng cây nhum"[HRCM.1.215]…
Cũng có khi chúng biến thành nguồn nguyên liệu chính cho sản xuất từ lúc ai
đó phát hiện ra rằng chúng có thể đem đến nguồn lợi. Bỗng dưng chúng trở
thành mắt xích đầu tiên cho chuỗi dây sản xuất hàng hóa nghiệt ngã kiểu như
cây bàng trong "Ông Bang cà ròn". Giống cây được tận dụng để "đươn cà
ròn". Và vợ chồng ông Bang nhanh chóng nắm lấy cơ hội "ngàn năm" làm giàu
từ thứ cây tưởng như vô dụng như năn lác đó. Công nghệ "đươn cà ròn" mở
rộng và rồi cũng đến lúc "bàng mọc không kịp". Người nhổ bàng phiêu lưu tiến
sâu vào những cánh đồng hoang hóa, ngập nước tìm kiếm, những nơi "bàng
48
nhiều thì muỗi nhiều" [HRCM. 2. 261]. Rồi đến nước người nhổ bàng phải cất
công đi xa hàng tuần, hàng tháng, phải sa vào những chốn bê tha, cờ bạc, để
những đứa trẻ lại quê nhà "trần truồng đang bốc cơm nguội ăn ngon lành"
[HRCM. 2. 257].
Trong các loài cây cối thuộc lớp b., tràm, đước, mắm là những giống
được trồng ngay từ những ngày đầu khi những lưu dân từ miền Bắc, miền
Trung bỏ quê vào đây lập nghiệp. Ba giống cây có tên "rặt phương Nam" này là
những người bạn thân thiết của lưu dân, giúp họ lấn biển, giữ và bồi đắp nên
đất rừng và đất ruộng cho những cánh đồng phì nhiêu sau này. Chúng là những
loài cây có khả năng chịu đựng phi thường những tấn công của sóng gió từ đại
dương táp đến. Người dân nơi đây coi tràm là loài cây biểu tượng cho sức bền
bỉ, dẻo dai, sự chịu đựng gian khổ của mình. Không dừng lại chỉ là biểu tượng
của nghị lực đơn thuần, trong thực tế, nói đến tràm là nghĩ ngay tới nghề ăn ong
nổi tiếng : "Thằng quỉ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao? Tràm chớ giống
gì! Muôn ngàn hủ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng
như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh thức
được…" [HRCM.1.208]. Và cũng không chỉ vậy, tràm còn là biểu tượng cho
cái đẹp đến nao lòng của vùng U Minh Hạ, nơi hệ thống kênh, rạch chằng chịt
liền kề bên nhau lặng lẽ cùng rừng tràm tươi tốt theo năm tháng:“rừng tràm
xanh đậm rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh. Nhất là về ban đêm khi
trăng chiếu, đom đóm về đậu khắp nhánh tràm như họp chợ phiên”
[HRCM.1.137]; “rừng tràm không có mùa hạ hay mùa thu rõ rệt. Mãn năm
luôn luôn lá xanh tươi và lấm tấm vài chiếc lá vàng sắp rụng”[HRCM.2.88]…
3.2.2. Danh từ chung: loài vật
Màu xanh của cây cối quanh năm làm nền thực tế cho sự phong phú về
tên các loài vật của HRCM. Những con vật này khi thì xuất hiện thoáng qua
trong dạng liệt kê, khi thì được bộc lộ cá tính qua quan hệ với môi trường tự
nhiên và nhất là với con người. Ngoài những tên con vật tương ứng với ngôn
49
ngữ toàn dân, còn nhiều danh từ chỉ xuất hiện trong phương ngữ Nam Bộ,
thuộc nhóm từ ngữ địa phương từ vựng. Ngoài tên gọi theo danh từ chung,
cũng có khi chúng còn được đặt tên riêng hoặc gắn thêm các từ đặc trưng như
lối gọi tên của con người. Cũng có thể nói rằng Sơn Nam nói về loài vật ngụ ý
nói về con người. Ngôn từ mà ông sử dụng, do vậy, ở đâu cũng nhuốm màu
trần thế và chứa chất sự khoáng đạt pha chút hài hước nhẹ nhàng đặc biệt của
những người con đất Mũi.
Sống trong môi trường tự nhiên, người Nam Bộ hòa điệu cùng đời sống
của muôn loài. Họ tận hưởng từ thiên nhiên nên ra sức bảo vệ và không lãng
phí nó. Trong đời sống tự nhiên đó, con người chịu đựng bao nhiêu nỗi đau và
mất mát. Nhưng chưa khi nào họ quay lưng lại với nó, vì biết rằng sống được là
vì luôn có mẹ thiên nhiên bao bọc. Thiên nhiên và con người tựa vào nhau mà
sống. Đó là quan hệ sinh thái mà không chờ đến tận thế kỉ 21 người nơi đây
mới giác ngộ ra. Đó là mối quan hệ tương sinh tương khắc mà người Nam Bộ
đã biết, đã nằm lòng ngay từ thuở hồng hoang. Ta nghe ông Tư Huỳnh "luận"
có phần dí dỏm về vòng tròn sinh thái để cổ vũ ông khách ăn thêm món cá sặc
rằn:"…Bà con xứ này nhờ ăn cá mà khỏi chết vì bịnh rét rừng. Muỗi cắn, sanh
bịnh rét. Nhưng nhờ muỗi mà cá được mập mạp. Cơ sở U Minh lớn con nhờ ăn
muỗi, ăn lăng quăng quá nhiều. Mình ăn cá, tức là ăn thịt muỗi. Tóm lại, vì
muỗi mà mình mang bịnh, vì muỗi mà mình có đủ cá ăn để ngừa bệnh"
'[HRCM.2.72,73]. Còn đối với một người nhiều thế hệ trụ trong rừng, sống dựa
vào "huê lợi" từ rừng, như ông Hai Khị, thì cá lại bị chê, mà những con thú trên
rừng mới là cái đích cần tới. Nhưng ở đây, muốn tồn tại thì vẫn cần cái vòng
tròn sinh thái vĩnh cửu ấy của mẹ thiên nhiên: "Người Việt Nam đến U Minh
tìm huê lợi thiên nhiên. Họ chê cá tôm vì cá tôm bán rẻ giá hơn cọp và khỉ. Bấy
giờ, cọp, khỉ và rừng rậm nuôi dưỡng cho nhau. Khỉ ăn trái rừng, lớn lên khỉ
làm mồi cho cọp, cây sanh trái làm thức ăn cho khỉ" [HRCM.2.79].
50
Thiên nhiên và con người là mối quan hệ hỗ tương, có ân, có oán như
một vòng luân hồi, kiếp nọ tới kiếp kia, trả trả vay vay như thuyết lí của nhà
Phật. Đến với thiên nhiên đâu chỉ vì lí do thuần vật chất, hưởng lợi như hai ông
Tư Huỳnh và Hai Khị, mà có khi lại là một nghĩa cử tinh thần như trường hợp
ông Năm Hên trong "Bắt sấu rừng U Minh Hạ": "Nghề bắt sấu có thể làm giàu
được ngặt tôi không mang thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con: cha mẹ tôi
sanh ra chỉ có hai anh em tụi tui. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập
rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay: Ảnh bị sấu ở Ngã Ba
Đình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh…" [HRCM.1.226].
Như là một nhà Từ điển Bách khoa về đời sống các loài vật vùng Tây
Nam Bộ, Sơn Nam có cách riêng trong mô tả chúng. Trong HRCM, ngoài các
tri thức sâu sắc về cá qua lời ông lão giăng câu, Sơn Nam còn dành nhiều trang
viết sinh động khác cho những con vật đã tạo nên màu sắc riêng của miền đất
cực Nam. Đó là chim trên trời, rắn và cá sấu dưới đầm lầy và cọp, heo nơi rừng
xanh núi thẳm.
Thế giới loài chim, trong HRCM, dường như được quây tụ về mảnh đất
cuối cùng của Tổ Quốc - đất Mũi Cà Mau. Nơi đây tập hợp hàng trăm loài
chim, hàng ngàn những sân chim, lớp nọ chưa hết đã dồn tới lớp kia. Nơi đây,
các loài chim “…sinh sôi, nảy nở , tạo lập một một thế giới riêng biệt náo nhiệt,
ở khắp nhành cây, mặt đất. Dân chúng kéo đến các sân chim này để bắt chim,
nhổ lông bán cho ghe buôn từ Hải Nam đến..”[HRCM. 2.279].… “Làm ổ trên
cây có chim chàng bè, chim già sói, chim chó đồng… Làm ổ dưới đất thì có
chim bồ nông là đáng kể”[HRCM.2.279]. Còn ở những ao, đầm, đìa gừa… thì
"nào chim, cò, trích, cúm núm. Hàng trăm con le le bay lên từng chặp, từ mấy
cái lung đầy sen bạch, nở muộn..” [HRCM. 2.164]. Sự phong phú, đa dạng của
các sân chim đã biến vẻ đẹp hoang sơ vùng đất Cực Nam trở nên sinh động,
không còn đơn điệu nữa. Những loài chim sống trong bầu không khí trong lành
51
ấy kết gắn với vẻ hoang dã của những bụi ô rô, cóc kèn, những đìa nước đầy
bông súng, bông sen làm nên bức tranh thiên nhiên lung linh, đẹp lạ lùng.
Sơn Nam chẳng những am hiểu về đời sống hoang dã của loài chim mà
còn biết thưởng thức thật tinh tế những giống chim quý đã được thuần hóa nhờ
lòng yêu mến và chăm sóc kĩ lưỡng của con người như trích, chim cu... Trong
truyện "Con trích ré", mặc dù đề tài hướng về một nội dung xã hội khác,
nhưng chỉ sơ mấy dòng về loài chim này, Sơn Nam đã cho thấy những hiểu biết
sâu sắc của ông đến thế nào về loài chim này: "Con trích, gọi nôm na là con
"trích ré", thuộc vào lớp chim rừng đẹp nhứt...Nhiều người nuôi trích để giữ
nhà. Mỗi khi gặp người lạ, trích ré lên inh ỏi để báo động rồi chạy tới, vừa cắn,
vừa đá, vừa bay…" [HRCM.2.148]. Còn về cu đất, trong "Bốn cái ngu" ông ca
ngợi cái thú bẫy chim cu bằng lưới lụp:…"Theo tiếng lóng của nhà nghề, mấy
tiếng cúc cù cu, gọi là tiếng cốt. ....Lát nữa, con cu trống sẽ ra tranh cắn, đánh
đuổi con cu mồi này để rồi bị lưới chụp xuống." [HRCM.2. 27].
Nếu với cây, chim, cá, âm hưởng chủ đạo của HRCM là bản tình ca của
người đam mê vùng đất trước thiên nhiên giàu có và bao dung, thì với các động
vật bốn chân hung dữ, cảm hứng của Sơn Nam lại thiên về anh hùng ca. Cọp,
sấu, heo rừng đại diện cho thế lực hắc ám, mang lại chết chóc và tàn phá đời
sống thanh bình của con người. Chúng là những ám ảnh về nỗi bất an bắt
nguồn từ thuở hồng hoang của dân Nam Bộ, khi đơn thân chống chọi lại thiên
nhiên hoang dã, đi tìm cái lí cho sự tồn tại vĩnh viễn của mình trên vùng đất
mới. "Đất giữa đồng khai thác hết. Bấy giờ chỉ còn là đất rừng sát mé sông,
nơi cọp ở. Đó là hồi nguy nan nhất cho dân mình và cũng cho cọp. Nhiều
người làm gan cất nhà sát mé rừng. Ban đầu, đôi ba nhà, sau, năm mười
nhà"[HRCM.2.224]. Trong cuộc giành đất ấy, có lúc người dân "tức mình cầm
mác rượt theo tận giữa rừng chém cọp rớt một cẳng", nhưng rồi lại có lúc phải
"cất miễu thờ cọp". Cuộc chiến dai dẳng rồi cũng đến hồi kết thúc vì "cọp sợ
con người". "Khi dân mình phá động rừng, cọp tản mác, kiếm nơi khác mà
52
hùng cứ". [HRCM.2.224]. "Người nay nhớ công ơn người xưa đã đánh cọp để
tạo lập nên làng nên xóm. Họ không phải là thầy nghề võ, thầy bùa. Chẳng qua
là họ muốn sống nên phải ráng sức cùng nhau, mỗi người ráng một ít."
[HRCM.2.227]
Thuở khai cõi ấy, đất này "toàn là rừng. Trên bờ có cọp, dưới sông có
sấu. Mình chèo ghe ban ngày, chừng vài trăm thước là thấy sấu nổi trước mũi
ghe" [HRCM.2.221]. Việc tiễu trừ sấu cũng cấp bách như diệt cọp vậy. Trong
"Sông Gành Hào", cha con chú Tư Đức dùng vịt câu sấu lửa. Khi sấu mắc câu
chú bình tĩnh "lặn xuống đáy sông, đi vô bờ, ghịt đầu dây vào gốc cây" rồi
phóng những mũi lao "xuống lưng con sấu". Con trai chú "đứng kế bên gõ vào
mõ lia lịa". Hình ảnh chiến thắng sấu lửa thật đột ngột: "Mấy cây lao còn lại
trong ống tre đã lần lượt phóng xuống, sấu ta không còn đủ sức để hất mấy cái
mũi sắt đó nữa. Hắn lắc lư cái đầu rồi khuất dạng như chiếc tàu chìm"
[HRCM.2.258]. Trong "Bắt sấu rừng U Minh Hạ", ông Năm Hên bắt sấu hàng
phục chỉ bằng tay không và mưu mẹo đã tích lũy được trong cả đời: "…bị khói
bay cay mắt, ngộp thở, phần vì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường
đào sẵn… Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp
ổng. Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp...chừa hai chân trước để nó bơi tiếp
với mình" [HRCM.2.228]. HRCM là khúc ca của con người chế ngự sức mạnh
hung hãn của thiên nhiên. Trong số những con vật cần phải tiêu diệt cho bằng
mọi giá ấy có heo khịt. Đó là con heo nặng "một trăm bảy chục kí lô. Cái nanh
dài hai tấc…khi đổ quạu là sôi bọt mồm, khịt lên một tiếng lớn... Nội một đêm,
nó ủi phá gần hai chục công rẫy khoai mì. Củ lớn ăn đã đành, củ nhỏ cũng
không chừa". Khác với những cuộc khác, cuộc chiến này có "binh chủng" đặc
biệt: bầy chó săn nhà ông Năm Tự. Trước lúc lâm trận, ông Năm căn dặn chúng
như những người lính:" Hồi nào tới giờ, tụi bây ở nhà, chưa bao giờ ra trận đủ
bốn đứa. Mai này, Vực một, Vực hai phải ứng phó cho lanh: "Vực là cánh, mỗi
đứa là một cánh quân. Vực ba, Vực tư cũn vậy. Dưỡng sức di. Thôi, đi ngủ
53
sớm, mùa nắng khó săn heo lắm. Đây là thể diện của ta."[HRCM.2.97]. Không
uổng công "dạy dỗ", chúng đã rất tận tụy, "bầy chó xáp lại hiểu rằng con Khịt
đã đỏ máu quá nhiều… Chó bao vây con Khịt… Lúc con Khịt bối rối, ông Năm
Tự đến trước mặt nó cắm một mũi giáo vào ngực. Khịt gào thét nhóng lên…"
[HRCM.2.103].
Tóm lại, những danh từ chỉ loài cây, loài vật trong HRCM rất phong phú.
Hệ tên gọi này được chia thành hai nhóm: nhóm từ ngữ chung hoặc có tương
ứng với ngôn ngữ toàn dân và nhóm từ ngữ chỉ riêng có ở địa phương. Ở loài
cây, do đặc thù của vùng đất mới, phần lớn các tên gọi đều thuộc nhóm từ ngữ
chỉ riêng có ở miền Tây. Ở loài vật, tên đặc hữu miền Tây xuất hiện nhiều trong
các đơn vị định danh loài chim, loài cá. Đối với loài thú bốn chân sinh sống
trong rừng rậm và đầm lầy, các CTĐD chỉ tên chúng sẽ mang thêm được màu
sắc địa phương nhờ kết hợp thêm yếu tố phụ vào danh từ chung. Chẳng hạn,
heo khịt, sấu lửa,… Cũng nhờ phương thức như vậy, những tên gọi loài chim,
loài rắn mặc dù đã có độ phân biệt rất cao với các từ ngữ toàn dân được khoác
thêm màu sắc đặc biệt của địa phương, chẳng hạn như rắn bông súng, rắn ri
voi,… trích ré, cu mồi, cu rừng… Và đặc biệt, đối với những con vật cực kì
thân thiết, có khi chúng còn được mang tên riêng như người như trường hợp
bầy chó nhà ông Năm Tự: Vực Một, Vực Hai…, hay bầy trâu nhà ông Trần Văn
Lén: Pháo, Bướm, Điệp, Mẫm…
3.2.3. Danh từ riêng: tên đất, tên người
3.2.3.1. Tên đất
Các nhân vật trong HRCM không hoạt động trong không gian nhàm
chán, đơn điệu, mà luôn gắn với một địa hình, địa danh cụ thể, linh hoạt theo
biến động của thiên nhiên. Mỗi một địa danh đưa người đọc về một vùng miền
với những đặc trưng cơ bản của vùng sông nước Nam Bộ và cũng gắn với bao
kỉ niệm buồn vui của đời người: “Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miền
Rạch Giá, Cà Mau này có bao nhiêu con rạch, ngã ba, mang tên Đầm Sấu,
54
Lưng Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm…”
[HRCM.1.226]. Môi trường sinh thái tự nhiên của Nam Bộ là sông nước, kênh
rạch theo từng mùa như mùa mưa, mùa khô, nước lên, nước xuống quy định
nhịp sống của con người trong quá trình sinh hoạt của người dân nơi đây. Từng
con nước, từng kiểu gió, từng con rạch gắn chặt với đời sống của người dân
vùng sông nước. Người dân có kinh nghiệm tính giờ qua con nước, nhìn ngọn
gió đoán thời tiết, nhìn màu nước kênh tính được thời điểm ra khơi. Hàng năm
nước thay đổi theo mùa. Những địa hình, địa vật liên quan chặt chẽ với các
hiện tượng tự nhiên, đặc biệt với vận động của gió, của nước: nước ròng, nước
nổi, nước dậy, nước đứng, nước giựt, nước lên, nước lớn, nước lụt, nước
ngập,… Khi nước về, Nam Bộ bắt đầu vào mùa nước nổi:“Núi Ba Thê bên này,
núi Cấm trước mặt, Hòn Sóc, Hòn Đất bên kia bình thường xem hùng vĩ thơ
mộng thì nay trở thành lè tè, bé bỏng trong cảnh bao la trời nước”
[HRCM.1.129]. “Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt ruộng mớ đất cày mềm
nhũn, trở mình dậy men thành bùn non…gió thổi mạnh, trôi nhà trôi cửa nhưng
lúa vẫn gan lì đứng chịu. Cứ qua ngày đêm, nước ngập lên một tấc, thân lúa
đuối sức cố nằm dài trên mặt nước vừa hấp hối ngột thở..” [HRCM.1.130].
Con nước bất thường lên xuống xáo trộn cuộc sống người nghèo. Cuộc sống
thực sự khốn đốn khi "nước tràn bờ sông Hậu. Nước trên trời tuôn xuống. Gió
biển triền miên thổi lộng về" …“Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà
mà ở” [HRCM. 1.134]. Nước có khi “ngập cả đồng ruộng, sâu cỡ hai thước,
mênh mông không bờ bến như biển khơi” [HRCM.1.133], nhưng không vì thế
mà họ nản chí, tiêu tan hết thói quen nhìn đời qua đôi mắt hài hước, lạc quan.
Giữa khúc lặng của hai cơn mưa, ông Tư Đinh "lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm
cười khi thấy từ chân trời một cơn mưa to hơn sắp kéo đến: "Ừ! Mưa hoài đi.
Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết!" [HRCM.1.130]. Sự phong
phú về tên gọi các trạng thái của nước, cũng như tên các khu trũng, chứa nước,
các dải đất vùng ven khiến cho ấn tượng trùm lên tất cả đối với người đọc là
55
nước. Địa thế sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt tác động và ảnh
hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt của con người Nam Bộ. Nó góp phần hình
thành nên những tập quán sinh hoạt lao động sản xuất, lối sống, tính cách,…
của những con người của nền “văn minh sông nước”. Để chỉ vùng nước có
mảng lớn gồm nhiều loại dây hoang, cỏ dại, bám thành giề nổi dày trên mặt
nước có các từ như: vũng, lạch, bàu, đìa…Khi một vạt đất ven sông có địa hình
lồi lõm, tự nhiên lại có dòng nước chảy qua có từ xẽo, vàm… Một khoảnh đất
tự nhiên nổi lên giữa vùng sông sâu nước chảy thì quen gọi là giồng, mỏm….
Chúng xác định cho ta cái tên đất cụ thể ấy bắt nguồn từ đặc điểm sinh thái tự
nhiên.
Bên cạnh nhóm tên đất khắc họa hoàn cảnh sống tự nhiên, còn một nhóm
khác biểu lộ mối dây ràng buộc cố kết giữa những lưu dân nơi đây. Nhóm tên
riêng này phản ánh tính xã hội, ý chí khẳng định, muốn thoát li ra khỏi tình
trạng man sơ, "du canh, du cư" có từ thuở hồng hoang. Chúng cho thấy tính
cộng đồng làng xóm cùng những đường nét sơ phác của một thiết chế xã hội –
nhân văn kiểu làng xã. Những cộng đồng ấy thuở "ban sơ" có khi chỉ gồm "đôi
mươi mái nhà lá, vài ba gốc dừa không trái", như ở xóm Xẻo Bần, nơi mà
người ta "sanh sống bằng hai nghề: phá rừng lấy củi, và khi tiết trời thuận tiện
họ ra biển đánh lưới tôm…. Chung quanh là cánh đồng cò bay thẳng cánh
nhưng đầy năn kim, ô rô, cỏ ống. Cò lông bông, trích, cúm núm bay lượn tối
ngày" [HRCM. 1.52].Thế nhưng, đã có con người thì dần sẽ có tất cả. Này là
thú mua sắm vật dụng, ngay đến những xóm thôn không gần chợ búa, như xóm
"Tà Lốc nằm trơ vơ", "sống biệt lập: bắt cá đốn củi đủ ăn ngày nào hay ngày
ấy … vẫn hàng ngày "chờ đợi chú Huê Kiều. Chú ta quảy gánh gồng, bán nào
kim chỉ, lưỡi búa, đường thẻ, thuốc rê" [HRCM.1.169]; này là thú xem hát bội
giữa rừng sâu cùng những việc phải chuẩn bị đón đoàn hát bội "nay mai có hát
bội tới, trước mua vui sau làm nghĩa, mỗi nhà nên tùy hỉ góp vài vùa gạo, để
nuôi họ. Đồng thời, tất cả những thanh niên trai tráng phải vô rừng đốn tràm,
56
vạt nhọn dướigốc sẵn" [HRCM.1.187]; này là giết được thú dữ bảo vệ tính
mạng và mùa màng rồi thì phải biết "cất một cái miễu lá, thờ cái đầu con sấu
nọ. Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, thì
mình nên thờ." [HRCM.1.261]; này là chuyện vợ chồng già bàn tính việc "gả
con Út về rừng", hay cho thằng Nhi đi len trâu theo tằn khạo mong sao "dịp này
để nó học nghề với người ta" [HRCM.1.133]…Cộng đồng làng xóm là cái nôi
không thể thiếu trong đời sống mỗi con người dân đất Việt. Ông Tư Đạt, người
duy nhất sống sót trong trận càn năm xưa, tự lập miễu để thờ những người đã
chết trong trận càn ấy: "Bởi vậy cháu hiểu vì đâu mà tôi giữ nhang khói ở miếu
này, vì sao ở sát Gò Mả Lạn mà tôi không sợ ma. Ba bốn mươi năm nay, ruộng
nương thất bát, có một lần bỏ xứ mà đi nhưng buồn bực quá, tôi trở về nền nhà
cũ. Tôi nghĩ: mình ở đây nghèo, nhưng mà vui. Nhiều đêm tôi nằm nói thơ Vân
Tiên một mình mà không đỡ buồn. Tôi đứng nhìn trời đất đồng ruộng ở ngoài.
Tối thui vậy mà vui quá" [HRCM.1. 126].
Tóm lại, trong HRCM, tác giả đã đinh ninh một chân lí này: nếu môi
trường tự nhiên cấp những điều kiện tối thiểu để sinh tồn thì để trụ lại được
người Nam Bộ từ thuở "mang gươm đi mở cõi" đã biết sống trong cộng đồng
và vì cộng đồng. Vế trên tạo ra môi trường sinh thái tự nhiên còn vế dưới xây
nên môi trường sinh thái nhân văn. Các yếu tố đứng trước (YTĐT) xác định
kiểu địa hình mà tên riêng đề cập, theo lẽ tự nhiên, trong tiếng Nam Bộ ở
HRCM, là những thành phần thường trực trong một CTĐD chỉ tên đất, địa thế
tự nhiên hoặc những công trình nhân tạo. Nghiêm ngặt mà nói, chính ra yếu tố
đồng vị ngữ đi sau bộ phận thứ nhất đó mới là tên riêng chỉ vùng và địa điểm.
Tuy nhiên phải gộp luôn cả YTĐT vào CTĐD vì trong đa số các trường hợp
trong giao tiếp thực tế khó tách nó ra được. Chỉ còn lại yếu tố riêng, người ta
không thể định hướng được khu vực định danh mà tên riêng hướng tới. Chẳng
hạn như chợ Gò Quao, có YTĐT là chợ còn Gò Quao là yếu tố riêng để "riêng
hóa", chỉ đích danh đối tượng được gọi tên. Tuy nhiên, nếu chỉ có mỗi yếu tố
57
riêng, thì ta không thể xác định được vùng (khu vực) định danh mà nó sẽ tác
động, vì Gò Quao có thể là chợ, là xóm và thậm chí có thể là sông nữa.
Sơn Nam đã nói đến rất nhiều vùng đất khác nhau ở Cà Mau và lân cận.
Bảng tổng hợp các tên đất, tên công trình nhân tạo tiêu biểu trong HRCM được
đính kèm trong Phụ lục.
Trong 166 CTĐD tên đất trên có 46 YTĐT. Đó là những yếu tố chung có
chức năng chỉ dẫn đặc điểm địa hình chung hoặc chỉ ra đặc điểm đại diện cho
một CTĐD cụ thể. Chúng xuất hiện ở vị trí đầu tiên trong một CTĐD. Ví dụ,
chùa Sóc Ven, xóm Cây Gáo, vàm Bàng, ngã ba Đình…
Ở Bảng 3.12, xóm, rạch, làng, chợ, hòn là các YTĐT chiếm tỉ lệ cao nhất.
Chúng thường xuyên có mặt trong các CTĐD chỉ tên đất Nam Bộ. Xóm, làng,
chợ là các yếu tố nhân văn, chỉ đặc trưng cấu trúc xã hội trong các đơn vị hành
chính địa phương, còn rạch, hòn là các yếu tố tự nhiên, biểu thị đặc điểm cấu
trúc địa hình. Chúng ta có thể đưa chúng vào hai vùng sinh thái lớn mà các chủ
nhân CTĐD này đã tựa vào để sống và làm việc. Theo cách lưỡng phân tương
đối từ hai vùng sinh thái này có thể tách ra được 9 loại YTĐT như
Yếu tố đứng trước
Sinh thái nhân văn Sinh thái tự nhiên
tĩnh động đất nước
địa cộng hoạt đất sông biển phương đồng động liền
A B C D E F G H I
Hình 3.2: Sơ đồ phân loại YTĐT trong CTĐD tên đất ở HRCM
58
Một cách tình cờ, hai nhóm YTĐT đặc trưng cho môi trường sinh thái mà
các nhân vật trong HRCM sống và làm việc có tỉ lệ tương đối cân bằng. Môi
trường sinh thái nhân văn có phần nhỉnh hơn một chút (53.01% : 46.99%). Phải
chăng đó là một phản ánh vô tình nhưng khá khách quan của Sơn Nam về công
cuộc chinh phục tự nhiên của những người con đất Việt trong gần 300 năm
chăng?
Hình 3.3: Tương quan về TSXH giữa các nhóm Sinh thái trong Tên
đất trong HRCM
Trong các YTĐT chỉ sinh thái nhân văn, các yếu tố biểu thị khu vực ở
chiếm tới hơn 1/3 danh sách. Thấp nhất trong nhóm sinh thái này thuộc về nơi
sản xuất, canh tác. Kế sau là đến nhóm chỉ nơi sinh hoạt tâm linh và nơi diễn ra
hoạt động giao thông. Ở sinh thái tự nhiên, chiếm tỉ lệ cao nhất là cảnh quan
sông nước. Vùng đầm lầy và các khu vực địa lí liên quan trong cảnh quan đất
liền chỉ đứng thứ hai. Chiếm tỉ lệ thấp nhất là cảnh quan biển đảo. Những tỉ lệ
và tương quan giữa các YTĐT trong địa danh Nam Bộ thâu lượm được từ
HRCM nói lên nhiều ý nghĩa sâu xa về con người và tính cách Nam Bộ ở vùng
cực Nam này.
Như đã nói, một CTĐD tên đất gồm 2 yếu tố: YTĐT khắc họa chung môi
trường sinh thái và yếu tố đứng sau (YTĐS) phân biệt từng đối tượng gọi tên.
Chính nhờ YTĐS này mà từng vùng đất mới có tên để gọi trong các môi trường
59
giao tiếp khác nhau. Đó cũng chính là lí do tồn tại hàng ngàn đời của cái gọi là
tên riêng. Xem xét chất liệu tạo nên yếu tố đặc biệt của tên riêng này từ danh
sách tên đất có trong HRCM có thể thấy lịch sử đã trải qua của vùng cư dân.
Những YTĐS gồm nhiều dạng khác nhau. Có những CTĐD đơn giản kiểu như
Vàm Bàng, Ngã Tư, Ngã Năm, Ngã Bảy, Núi Dài, Núi Cấm, Đìa Gừa, Rộc
Lá… Ở đó, YTĐS, chữ in đậm, là từ đơn. Nhưng cũng có thể đó là một cấu trúc
phức tạp, đa tầng, nảy sinh do nhu cầu đặt tên và sự phát triển ngày càng phức
tạp lên của đời sống. Chẳng hạn, Ngã Năm Bình Hòa, Ngọn Xẻo (Xẽo) Bần,
Chợ Xóc Soài, Giống cát Sóc Xoài, Sông Ngã Ba Đình, Kinh Xáng Rạch Giá -
Hà Tiên,…Ở những tên gọi phức tạp này, YTĐS thường có 2 lớp: Lớp gốc là
một tên đất nguyên thủy, nhân của cấu trúc; lớp 2 là yếu tố đứng trước hay
đứng sau hạt nhân này để chỉ rõ ra cái đối tượng vừa mới được đặt tên.
YTĐS như vậy có thể bao gồm 2 loại đơn và phức, phụ thuộc vào số lần
nó xuất hiện và được sử dụng trong khi tạo nên CTĐD. Khi chỉ xuất hiện đơn
nhất, một lần khi sản sinh ra CTĐD, nó được coi là yếu tố đơn. Ngược lại khi
xuất hiện nhiều lần, mỗi lần lại sinh ra một cái tên mới, "hút" thêm yếu tố mới,
thì nó trở thành một cấu trúc phức hợp. Và đó là con đường tạo nên yếu tố phức
có trong một CTĐD. Lưu ý rằng YTĐS có đơn cấu trúc vẫn có thể là một cấu
trúc đa tiết, không nhất thiết phải là từ đơn tiết. Chẳng hạn, YTĐS trong Xóm
Thuồng Luồng là một đơn cấu trúc do một từ song tiết tạo thành. Tiêu chí quan
trọng để nhận ra YTĐS là đơn hay phức chính là số lần tham gia vào cấu tạo
CTĐD. Những CTĐD có YTĐS đơn là CTĐD đơn. Ngược lại, là CTĐD phức.
Trong các tên đất ở HRCM, CTĐD đơn chiếm 71.08%.
Xét về nguồn gốc, YTĐS trong tên đất ở HRCM có thể thuộc về một
trong năm gốc: Hán Việt, Khơ Me, Pháp, Tiếng Việt toàn dân và Tiếng địa
phương Nam Bộ:
Bảng 3.12: Tổng quan về xuất xứ của YTĐS trong tên đất ở HRCM
Hán Việt Khơ Me Pháp Toàn dân Nam Bộ Cộng
60
42 21 2 50 51 166
25.30% 12.65% 1.20% 30.12% 30.72% 100.00%
Bảng 3.12 cho thấy:
a. YTĐS hầu hết có gốc là tiếng Việt, hoặc từ ngôn ngữ toàn dân hoặc từ
phương ngữ. Chúng chiếm tới 60.84% danh sách, trong đó nguồn gốc địa
phương có cao hơn chút ít so với nguồn gốc tiếng Việt chung, nhưng chênh
lệch không đáng kể.
b. Thấp nhất là YTĐS có nguồn từ tiếng Pháp. Nguồn từ tiếng Khơ Me
cũng khá thấp, chỉ 12.65%. So sánh hai môi trường sinh thái, tỉ lệ các CTĐD có
gốc từ Khơ Me là tương đối ổn định. Như vậy, tác động của tiếng Khơ Me đối
với việc đặt tên đất của người Nam Bộ là không đáng kể. Điều này trái với
nhiều nhận định trước đây cho rằng vì Nam Bộ, đặc biệt là vùng Cà Mau, Rạch
Giá, Hà Tiên là vùng đất cũ xa xưa của người Khơ Me nên khi người Việt tiếp
quản đất thì đồng thời sử dụng lại các tên đất đã có.
c. Gốc là từ Hán Việt chiếm tỉ lệ trung bình. So sánh hai vùng sinh thái,
thấy rằng tỉ lệ CTĐD gốc Hán Việt cao ở vùng sinh thái nhân văn, nhưng thấp
ở vùng sinh thái tự nhiên. Điều này cho thấy, giai đoạn khai phá có tác động
đến việc đặt tên địa hình, địa mạo và đi trước giai đoạn ổn định dân sinh. Việc
đặt tên cho ngọn núi, con sông, bờ đìa sớm hơn nhiều so với việc đặt tên ấp, tên
làng. Việc đặt tên cho sinh thái tự nhiên ít dùng từ Hán Việt mà trực tiếp rút ra
từ bản ngữ là tiếng Việt. Còn để phản ánh những ước mơ hạnh phúc, cuộc sống
đủ đầy và yên bình sau đó, khi đã có mái nàh, xóm ấp, thì người ta sử dụng từ
Hán Việt. Do vậy ở khu vực sinh thái nhân văn gốc YTĐS là từ Hán Việt cao
hơn nhiều so với ở khu vực sinh thái tự nhiên.
Bảng 3.13: Tương quan giữa các nhóm YTĐS trong tên đất HRCM
về xuất xứ
Yếu tố YẾU TỐ ĐỨNG SAU
61
đứng trước Khơ Toàn Nam
Hán Việt Cộng % Me Pháp dân Bộ
0 2 5 12 13.64% 4 1 A
0 4 11 39 44.32% 18 6 B
0 3 7 15 17.05% 4 1 C
I
0 1 2 6 6.82% 1 2 D
0 1 3 5 5.68% 0 1 E
N Ă V N Â H N Á H T H N I S
0 7 1 11 12.50% 3 0 F
0 100.00% Cộng 30 11 18 29 88
34.83% 12.36% 0.00% 20.22% 32.58% 100.00% %
0 8 9 26 33.33% 5 4 G
2 16 12 37 47.44% 3 4 H
0 8 1 15 19.23% 4 2 I
N Ê I H N Ự T I Á H T S
2 32 22 100.00% Cộng 12 10 78
% 15.38% 12.82% 2.56% 41.03% 28.21% 100.00%
Trên đây là những nhận xét khái quát về đặc điểm tên đất trong HRCM.
Chi tiết và cụ thể hơn về tương quan xuất xứ giữa các nhóm sinh thái có thể
tham khảo toàn bộ số liệu ở phần phụ lục)
Tóm lại, tên riêng chỉ vùng đất và các công trình nhân tạo trong HRCM
rất phong phú do đặc điểm lịch sử của vùng đất mới được khai thác. Một
CTĐD có trong HRCM bao gồm 2 yếu tố: đi trước và đi sau. YTĐT cho thông
tin về địa hình khái quát. Trong HRCM có 46 yếu tố này. Chúng được tách ra
thành 9 nhóm, 6 nhóm chỉ môi trường sinh thái nhân văn và 3 nhóm chỉ môi
trường sinh thái tự nhiên. Các YTĐT, mặc dầu số lượng chênh lêch giữa hai
nhóm lớn, nhưng các tên riêng chúng tạo ra ở hai nhóm là khá cân bằng. Điều
này cho thấy sự gần gũi của người Cà Mau với môi trường sinh thái mà họ
đang sống. Điều đó cũng cho thấy sự phụ thuộc vào thiên nhiên ở đây trong
62
sống và làm việc là rất cao. Con người và thiên nhiên hòa quyện vào nhau và
nương vào nhau để tồn tại. Những YTĐS có thể có cấu trúc đơn hoặc phức tùy
thuộc vào khả năng xuất hiện của chúng trong một CTĐD. Các tên riêng có cấu
trúc đơn chiếm tới 71.08% danh sách các tên riêng về đất trong HRCM. Xét
về nguồn gốc, 60.84% các YTĐS lấy từ tiếng Việt, có thể là từ ngôn ngữ toàn
dân hay từ tiếng địa phương. 12.65% là từ tiếng Khơ Me. Chiếm tỉ lệ trung
bình là gốc Hán Việt, chủ yếu trong các tên về làng, xóm và nơi cư ngụ. Tiếng
Pháp để lại dấu vết trong tên đất Nam Bộ rất ít ỏi. Chúng có tỉ lệ thấp nhất
trong tên đất ở HRCM. Những đặc điểm về tên đất này qua lăng kính Sơn Nam
đã nêu bật lên nét địa phương và bản địa và vô hình trung cường điệu hóa chất
khẩu ngữ trong các câu chuyện kể của ông.
3.2.3.2. Tên người
Những tên nhân vật thu thập được từ ba tập HRCM gồm 7 kiểu CTĐD
như sau: (xem danh sách ở Bảng 14).
a. Đầy đủ cả Họ và Tên, chẳng hạn như:
- Trần Văn Lén [HRCM.2.13]
-Trần Ngọc Kỳ [HRCM.3.124]…
b. Tên lót + Tên riêng, kiểu như:
- Kim Em [HRCM.2.49]
- Tri Khách [HRCM.2.225]
- Kỳ Phong [HRCM.3.63]
c. Tên riêng, kiểu như:
- Mít , Lựu [HRCM.3.87]
- Mịn [HRCM.2.243]….
d. Biệt hiệu thay cho Tên. Ví dụ:
- Tây Đầu Đỏ [HRCM.3.186]
- Quan Tư Ca Rê [HRCM.3.27]...
63
e. Thứ + Tên. Ví dụ:
- Năm Hên [HRCM.1.225]
- Tư Lập [HRCM.1.209]...
f. Nghề + Tên
- Cặp Rằng Hực [HRCM.2.315]
- Tằn Khạo Bảy [HRCM.3.254]
- Bang Cà Ròn [HRCM.2.250].....
g. Chức vụ + Tên
- Hội Đồng Tần [HRCM.2.195]
- Cai Tổng Bầu [HRCM.2.144]
- Hương Cả An [HRCM.3.101]
- Hương Quản Sum [HRCM.3.75]
- Xã Tư [HRCM.2.208] …
CTĐD kiểu a) đầy đủ cả họ lẫn tên. Trong giao tiếp công sở, mang tính
sự vụ, người ta phải dùng dạng này. Các câu chuyện của Sơn Nam thường diễn
ra bên ngoài khu vực giao tiếp công sở, nên dạng này rất ít xuất hiện. Nhân vật
trong Ăn to xài lớn, "trong giấy thuế thân, tên anh ta là Nguyễn Hùng Dõng,
nhưng dân xóm Tân Bằng, ven rừng U Minh gọi anh ta là thầy giáo Trích,
chẳng ai hiểu vì sao! [HRCM.3.169]. Còn trong Anh hùng rơm, thanh tra rởm
Nguyễn Hữu Hăng Ri ra mắt Phó Hương Quản với cái "cạc" bằng tiếng Pháp
đầy đủ họ và tên và khi "vào việc" thì "nâng ống vố lên, rít một hơi dài rồi nói
từng tiếng một: Trần Văn Lắm! Ai tên Trần Văn Lắm?". Lời nói và cử chỉ kiểu
này cốt đưa (những) người bị nạn vào môi trường giao tiếp chính thức, có tính
"nhà nước", "sự vụ" cho gã có cơ hội bịp bợm, dễ làm tiền. Trường hợp Đơn
Hùng Tín, một "đại ca, điều khiển một số tay giết người cướp của không gớm
tay" [HRCM.2.181] giải thích cho Giáo Phép cái tên lạ hoắc của mình: "Xem
qua truyện Tống, truyện Đường, tôi thích có một người … Đó là Đơn Hùng
Tín, người tận trung với chúa." [HRCM.2.185]… Những trường hợp sử dụng
64
kiểu CTĐD này ở HRCM đều rất không bình thường và ở đây có sự phân biệt
giữa tên Hán Việt và ngoại lai với tên quê mùa, bình dị: người lao động, đáng
thương mang tên bình dân, thuần Việt như Trần Văn Lắm, Trần Văn Lén…,
còn kẻ lừa bịp, khoa trương thì thường có tên mĩ miều, ngoại lai như Nguyễn
Hùng Dõng, Nguyễn Hữu Hăng Ri…
CTĐD Kiểu b) chỉ có tên lót và tên trong HRCM cũng rất ít. Cô Kim
Em, Mỹ Huê đều có xuất thân từ gia đình khá giả; Kỳ Phong trong Người bạn
triệu phú có cuộc sống khá nhàn tản, không phải bươn trải như những người
cần lao. Sau khi đến chơi nhà Mộc, anh ta "về nhà đọc sách, uống cà phê, quên
mất cái tin số độc đắc nọ…."[HRCM.3.72]
CTĐD Kiểu c) chỉ có mỗi cái tên. Sơn Nam thường dùng kiểu này gọi
tên nhân vật đầy tớ, nghèo khổ như (ông) Lanh, Hùng, Cứ, Tiến, Sa Đơn. Ví
dụ, Trong Bang Cà Ròn, ông Lanh "là người Miên lai, tuổi hơn sáu mươi, lãnh
trách nhiệm giữ kho, ăn ngủ tại chỗ" thường xuyên bị Bang Lình quở trách: "
Mướn ông giữ kho mà ông cứ ngủ, uổng tiền quá…" [HRCM. 2.253, 254].
CTĐD kiểu d). Những biệt hiệu trong HRCM giúp tác giả bộc lộ tính
cách, hoàn cảnh xuất thân, nghề nghiệp, và nhiều đặc điểm khác nữa về nhân
vật. Qua cách gọi tên nhân vật, ngoài việc để đánh dấu, phân biệt nhân vật này
với nhân vật khác, có khi còn bộc lộ cả thái độ của tác giả đối với nhân vật và
chủ đề câu chuyện.
CTĐD Kiểu e) kết hợp giữa thứ và tên. Thứ trong tên gọi khởi đầu từ thứ
hai, và kết thúc là Út. Anh Hai trong các tên của người Nam Bộ tương đương
với anh Cả phương ngữ Bắc Bộ. Nguyên nhân nào dẫn đến cách gọi này đến
nay vẫn còn là một đề tài tranh luận.
Cách gọi tên kết hợp với thứ rất phổ biến ở miền Tây. Trong thứ và tên
riêng, thì thứ là gần như là yếu tố bắt buộc khi giao tiếp phi chính thức, thân
mật. CTĐD kiểu này gạt sang một bên những cách bực xã hội về gia thế, địa vị,
nghề nghiệp và tình trạng kinh tế trường hợp khi đối thoại. Nó được ưa chuộng
65
trong cộng đồng luôn lấy tính thân quen, tình tương thân, tương ái làm trọng.
Trong hoàn cảnh giao tiếp giữa những người thân, chỉ cần dùng thứ không kèm
với tên, vẫn có thể nhận ra được nhau, không xảy ra nhầm lẫn.
CTĐD Kiểu f): Nghề + Tên trội lên là các nghề làm thầy, tiểu chủ, kép
hát, bầu gánh hát, cai, đội. Nhóm "thầy" phủ lên một diện khá rộng. Đó là thầy
dạy chữ, thầy thuốc, thầy võ và cả thầy cúng nữa. Quan niệm ông thầy rộng
như vậy là do những người này đều ít nhiều có chữ nghĩa, đã trải qua một thời
kì trau dồi học vấn, khác với những nông phu, ngư phủ, tiều phu, thợ săn, thợ
câu là những người hoàn toàn vô sản. Cũng có thể được gọi là thầy nếu họ có
thể dạy cho người khác một nghề gì đó. Trường hợp này thì không nhất thiết
phải có chữ nghĩa.
CTĐD Kiểu g): Chức vụ + Tên. Đa phần các truyện ngắn của HRCM
phản ánh Nam Bộ thời thuộc Pháp và giai đoạn đầu dân ta kháng Pháp. Tên
nhiều nhân vật có đính kèm các vai vế trong hệ thống quyền lực cả chính quyền
lẫn tôn giáo như: Quan Phó Tham Biện: quan đầu tỉnh,Quan Kiểm Lâm: quan
coi về các sản phẩm từ rừng , Quan Chủ Quận: quan đầu huyện..
TSXH của các tên theo 7 kiểu CTĐD vừa nói ở trên được thể hiện trong
Bảng 3. 14
Bảng 3.14: Tỉ lệ các kiểu CTĐD Tên người trong HRCM
Đủ Lót Biệt hiệu Tên Thứ + (Tên) Nghề + Tên Chức vụ + Tên Cộng + Tên thay Tên Họ Tên
15 5 34 7 69 27 33 190
7.89% 2.63% 17.89% 3.68% 36.32% 14.21% 17.89% 100.00%
66
Các kiểu Tên Nhân vật trong HRCM
40.00%
35.00%
30.00%
25.00%
20.00%
15.00%
10.00%
Hình 3.4. Tương quan giữa các kiểu CTĐD tên nhân vật trong
HRCM
Theo bảng này, trong HRCM, kiểu Thứ + Tên được ưa dùng nhất, chiếm
tới 36,62% danh sách tên riêng. Các kiểu Lót + Tên và Biệt hiệu thay Tên
chiếm tỉ lệ thấp nhất. Chiếm vị trí trung bình là 2 kiểu Tên và Chức vụ + Tên
(đều khoảng 17.89%). Kiểu Nghề + Tên có tỉ lệ không cao (14.21%).
Về gốc gác, những cái tên ở bản danh sách tên riêng của HRCM có thể
thuộc về 1 trong 6 gốc sau đây:
a. Gốc Hán Việt, ví dụ như: Nguyễn Văn Bình, Kỳ Phong, (lão) Bích,
(ông) Bác Vật Xà Bông, Bảy Đăng, (ông) Chủ Tân, Hương Cả Ban …
b. Gốc Hán Việt nói trại đi, như: Nguyễn Hùng Dõng, (ông) Bảy Do
c. Gốc Phương ngữ Hán hiện đại, cụ thể là tiếng Quảng Đông, như: Xìn
Phóc, A Lẩu, (ông) Bang Xình …
d. Gốc Pháp, như: Quan Tư Ca Rê, Nguyễn Hữu Hăng Ri…
e. Gốc Khơ Me, như: Lục Che, Sa Đơn…
f. Gốc thuần Việt, như: Trần Văn Lén, Kim Em, Một,Tây Đầu Đỏ, Tư
Hít, Giáo Chích, Xã Mực…
Bảng 3.15: Tỉ lệ xuất xứ tên nhân vật trong HRCM
Hán Hán Việt Phương Thuần Pháp Khơ Me Cộng Việt nói trại ngữ Hán Việt
67
71 4 11 2 5 97 190
37.37% 2.11% 5.79% 1.05% 2.63% 51.05% 100.00%
Các tên riêng có gốc thuần Việt chiếm 1/2 bản danh sách. Chúng được
dùng phổ biến nhất. Sau đó là gốc Hán Việt, chiếm 37.37%. Gốc Phương ngữ
Hán hiện đại chiếm tỉ lệ 5.79%. Các gốc khác như Hán Việt nói trại, Pháp, Khơ
Me có tỉ lệ rất thấp. Xin xem Bảng 3.22 và đồ thị biểu diễn ở Hình 3.5
Xuất xứ Tên Nhân vật trong HRCM
37.37%
5.79%
Hình 3.5. Tương quan về xuất xứ tên nhân vật trong HRCM
Tỉ lệ xuất xứ này không như nhau ở từng kiểu CTĐD tên người (xin xem
Bảng 3.16 và đồ thị kèm theo ở Hình 3.5). Đi vào chi tiết ta thấy ở ba kiểu Biệt
hiệu thay Tên, Thứ + Tên và Nghề + Tên, CTĐD Thuần Việt cao hơn nhiều so
với Hán Việt, trong khi ở CTĐD Đủ Họ và Tên và Lót + Tên, các tên có nguồn
gốc Hán Việt lại cao hơn hẳn tên Thuần Việt. Ở CTĐD Tên và Chức + Tên,
hai gốc này có tỉ lệ khá gần nhau, nhưng theo hướng ngược nhau: ở Tên, từ
thuần Việt cao hơn một chút so với từ Hán Việt còn ơt Chức + Tên thì ngược
lai. Như vậy, ở ba CTĐD như Đủ Họ và Tên, Lót + Tên, Chức + Tên từ Hán
Việt chuộng được sử dụng hơn từ thuần Việt, trong khi ở bốn CTĐD còn lại
Tên, Biệt hiệu thay Tên, Thứ + Tên, Nghề + Tên thì từ thuần Việt lại trội hơn từ
Hán Việt. Ta biết bốn CTĐD này thường được dùng trong môi trường giao tiếp
thường nhật, mang tính khẩu ngữ, trong khi ba CTĐD nói ở trên lại thường được
dùng trong môi trường giao tiếp công sở hay trong các hình thức chính thức hơn.
68
Bốn CTĐD nghiêng về giao tiếp bằng khẩu ngữ chiếm 71.58% danh sách các tên
người trong HRCM trong khi 3 CTĐD còn lại chỉ chiếm có 28.42%. Điều này
cho thấy sự huy động ngôn từ ở khu vực tên riêng chỉ người của Sơ Nam là có chủ
đích: ông đã xác lập một môi trường hoạt động của các nhân vật của mình theo
giao tiếp đời thường và tận dụng khẩu ngữ. Điều đó lí giải tại sao khi đọc Sơn
Nam ta cảm thấy ấm áp, tin cậy hơn nhiều tác giả cùng thời với ông đến vậy. Bí
quyết là ở khả năng tận dụng các yếu tố khẩu ngữ trong khi sáng tác của ông.
Bảng 3.16: Tỉ lệ xuất xứ tên nhân vật theo từng kiểu CTĐD trong
HRCM
Đủ Họ Lót + Bhiệu Thứ + Nghề + Chức + Tên TrBình Tên Tên (Tên) Tên Tên thay Tên
Hán Việt 66.67% 60.00% 44.12% 14.29% 30.43% 19.23% 47.06% 37.37%
Hán Việt nói trại 6.67% 0.00% 0.00% 0.00% 2.90% 3.85% 0.00% 2.11%
Phương ngữ Hán 13.33% 0.00% 5.88% 28.57% 0.00% 15.38% 2.94% 5.79%
Pháp 6.67% 0.00% 0.00% 14.29% 0.00% 0.00% 0.00% 1.05%
Khơ Me 0.00% 0.00% 2.94% 0.00% 0.00% 7.69% 5.88% 2.63%
Thuần Việt 6.67% 40.00% 47.06% 42.86% 66.67% 53.85% 44.12% 51.05%
Cộng 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100%
TrBình 7.89% 2.63% 17.89% 3.68% 36.32% 13.68% 17.89% 100%
69
Hình 3.6. Tương quan về xuất xứ tên nhân vật ở các kiểu CTĐD
trong HRCM
Tóm lại, tên người trong HRCM được xây dựng trên 7 CTĐD là Đầy
đủ Họ Tên, Lót + Tên, Tên, Biệt hiệu thay Tên, Thứ + Tên, Nghề + Tên, Chức
+ Tên. CTĐD Thứ + Tên là được dùng phổ biến hơn cả. Kiểu Lót + Tên và
Biệt hiệu thay Tên ít được dùng nhất.Về xuất xứ, tên người trong HRCM được
cấu tạo nên từ 5 nguồn chất liệu là Hán Việt, Hán Việt nói trại, Phương ngữ
Hán hiện đại, Pháp, Khơ Me và Thuần Việt. Trong các nguồn gốc này, tên
người ở Nam Bộ chủ yếu tận dụng từ ngữ thuần Việt. Các gốc như Hán Việt
nói trại, Pháp, Khơ Me ít được sử dụng. Các CTĐD tên nhân vật như Tên, Biệt
hiệu thay Tên, Thứ + Tên, Nghề + Tên được dùng nhiều trong giao tiếp hàng
ngày nên nghiêng về khẩu ngữ và chất thuần Việt cao hơn hẳn các CTĐD ưa
dùng trong môi trường giao tiếp chính thức, trong hành chính công vụ như Đủ
Họ và Tên, Lót + Tên, Chức + Tên. Ở ba kiểu này, từ ngữ gốc Hán Việt lại
chiếm ưu thế.
3.3. Đại từ
Đại từ xưng hô trong HRCM xuất hiện với tần số rất cao. Trong vốn từ
địa phương chúng chỉ nằm ở nhóm từ ngữ âm, bởi vì có thể tìm ra các tương
ứng giữa chúng với ngôn ngữ toàn dân về mặt âm thanh. Ở nhóm từ vựng
70
không phát hiện thấy một đại từ đặc hữu của riêng tiếng địa phương Nam Bộ
nào. Tuy nhiên, đại từ được sử dụng trong HRCM có khác biệt với ngôn ngữ
toàn dân trong cách dùng. Đặc biệt là nó đưa lại hiệu quả cao trong xây dựng
một lối diễn đạt thiên về khẩu ngữ của Sơn Nam.
Các nhân vật trong HRCM sử dụng từ xưng hô tùy theo vai vế, tuổi tác
và địa vị xã hội như cách thông thường của người Việt vẫn áp dụng trong giao
tiếp thường nhật. Điều khác biệt lớn giữa cách dùng chúng trong tiếng địa
phương Nam Bộ và ngôn ngữ toàn dân là ở xu hướng "đại từ hóa danh từ"
nhằm làm cho không khí kể chuyện và hội thoại trở nên thân thiết và mang tính
gia đình hơn. Đặc điểm này do ảnh hưởng của khẩu ngữ, của cách giao tiếp đời
thường đem lại. Các nhân vật trong HRCM khi giao tiếp với nhau thường xưng
hô tùy theo điều kiện cụ thể của môi trường "gia đình hóa". Người Nam Bộ nói
chung, và các nhân vật trong HRCM, nói riêng, rất ít khi dùng lối xưng hô
trung hòa hóa, theo quy ước xã hội trong sử dụng đại từ xưng gọi.
Trở về với lối xưng hô thân mật của khấu ngữ Nam Bộ, trong quan hệ vợ
chồng, tùy theo độ tuổi mà nhân vật của Sơn Nam có cách gọi "nửa mình còn
lại" rất khác nhau như: má mày, má nó, nhà tôi, ông nó… “Má nó ngủ hay
thức? Nảy giờ có nghe không? Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ
rồi...” [HRCM.1.135]'; "Tôi đây. Ảnh đâu rồi chị? Nhà tôi đi “đốc tờ”.
[HRCM.3.63]; “Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu cho họ len đi miệt khác kiếm
cỏ. Má mày ngăn cản.” [HRCM.1.131].
Lối sống đô thị hóa đã làm biến đổi nhiều cách xưng hô giữa vợ và
chồng kiểu miệt vườn này. Chẳng hạn như Mộc sai vợ đi mua bao thuốc: "-
Mình mua gói "thuốc Bách Tô" đỏ về hút." [HRCM.3.66] hay lời Tư Cồ nói
với vợ trên đường về nhà ông Hai Don: " Sao em nín thinh vậy? Hay là em
muốn bỏ anh? Chán thằng chồng nghèo này hả?" [HRCM.2.276]
Trong quan hệ cha mẹ/ con cái, trong văn chương chính thống, cha mẹ
thường gọi con cái là anh, chị, cô, cậu, mày, chúng mày. Còn ở môi trường đậm
71
đặc khẩu ngữ như HRCM này, thì thường được gọi bình dân hơn như bây, tụi
bây, mầy, mậy, bầy trẻ, sắp nhỏ, con, thằng,...
…- Mầy Hưng! Tao cùi rồi nhưng tao đủ gan tự tử…[HRCM.3.97-98]
Ở môi trường giao tiếp bên ngoài gia đình, người nhỏ tuổi được coi như
con cháu trong nhà, nên xưng hô cũng như trong gia đình. Ví dụ: Tư Cồ được
ông Hai Don chỉ bảo:
- Được rồi. Tao tính cho tụi bây…Nói thiệt cho mày nghe, Tư Cồ
Tư Cồ im lặng. Ông Hai Don lên tiếng thị oai:
- Tao kêu mà mày không dạ hả?
Tư Cồ giựt mình:
- Dạ, thưa bác…
- Mày có sức lực, có tài. Nếu mày bớt phách lối thì nên nhà, nên cửa,
bằng không thì mãn đời mày cứ như vậy hoài." [HRCM.2.268]
Ông Năm Tự và thằng Đống trên núi Ba Thê:
"Ông Năm Tự đưa ra một đồng bạc. Thằng bé tỏ dấu cảm động, nhận
tiền rồi tự giới thiệu:
- Tôi là thằng Đống, mỗi năm mỗi tới đây….
…- Ừ, mầy là thằng Đống, tao tin mầy lắm. Mầy biết tao tới đây làm gì
không?" [HRCM.3.254]
Trong quan hệ họ hàng, để gọi những người thân hai bên nội ngoại như:
cô, cậu, dì, bác, chú, thím... người Nam Bộ thường xưng hô theo vai và thứ
bậc, trong đó yếu tố chỉ vai như: cô, cậu, dì,... với tư cách là thành phần chính
và gắn thêm thành phần phụ để chỉ thứ bậc. Cách xưng hô kiểu này rất phổ
biến, vừa rất thân thiết, đậm đà tình gia đinh lại vẫn đảm bảo được độ chính
xác, rõ ràng cần có. Ông Bác Vật Xà Bông trong truyện Bác Vật Xà Bông tự
giới thiệu với bà con Xẻo Bần "Bà con cứ bình đẳng, đừng nên gọi tôi bằng
ông, tôi còn nhỏ tuổi lắm. Cứ gọi tôi bằng dượng Hai. Đất này của bên vợ; vợ
tôi thứ hai." .[HRCM.1.53]. Trong truyện Mùa len trâu, vì đã gọi cha Nhi là
72
chú Tư (Đinh), nên theo thói quen nói có đăng có đối, có thưa gửi trước sau của
người Việt, tác giả gọi vợ chú là thiếm Tư, còn con chú thiếm là thằng Nhi.
“Thiếm Tư trầm ngâm suy nghĩ, nhìn đôi trâu đã mỏng sức, be sườn lòi ra rõ
rệt..” [HRCM.1.132]."Bên kia sàn nhà, thiếm Tư bắt đầu thở nhẹ rồi ngáy pho
pho. Chú Tư mỉm cười, không chút hờn giận.". [HRCM.1.136]…." Bà nó ơi! Coi
thằng con của bà nè! Nó giống hệt tôi hồi nhỏ quá chừng." [HRCM.1.140].
Trong giao tiếp hàng ngày, đôi khi người ta có thể gọi theo chức vụ,
nghề nghiệp, thậm chí còn kèm cả đặc điểm về ngoại hình, quê quán như: Cậu
Xã Nê, bà Bầu, ông Hội đồng Tần, chú Biện, thầy Thông ngôn, Hương Ấp
Thum, quan Tư Ca Rê, Giáo Trích, Hai Đẹt, Giáo Phép, ông Bang Lình, Tư
Bình Thủy, Hai Cờ Đỏ … Trong các đoạn đối thoại sau đây, Hương Ấp Thum
lúc thì được gọi theo chức, lúc thì chỉ với mỗi cái tên không:
"Dân chúng nói một câu thòng:
- Thầy Hương Ấp cứ vui đi. Tụi tui leo lên nóc nhà, hoặc trèo lên ngọn
cây để coi tàu của Tây chơi, cho biêt…
Hương Ấp Thum quày quả trở lại:
- Tôi không dám bảo đảm à. Đừng thậm thò thậm thụt như vậy…
- Thầy đừng lo…
… Hương Ấp Thum im lặng thở hổn hển. Một ông kỳ lão với giọng đàn
anh kể cả:
- Cái gì vậy mầy Thum?
- Dạ … Dân xóm Tà Lốc chưa làm phận sự…". [HRCM.2. 172 -177].
Hiện tượng đại từ hóa danh từ thân tộc chỉ ngôi thứ ba rất phổ biến trong
phương ngữ Nam Bộ cũng thấy xuất hiện khá dày đặc trong HRCM. Đó là các
đại từ kiểu ổng, bả, chỉ, thẩy, cổ,…. Trong ngôn ngữ toàn dân các từ ngữ như
ông ấy, bà ấy, cha ấy, chị ấy… thầy đó, cô đó … biến thành ổng, bả,chả, chỉ…
thẩy, cổ…trong tiếng Nam Bộ. Thậm chí, ông bà ấy cũng có thể biến thành ổng
73
bả. Và xa hơn nữa, các từ xác định vị trí không gian như bên ấy, đằng ấy, trên
ấy… cũng biến thành bển, đẳng, trển … trong HRCM. Sau đây là vài ví dụ:
“Không chừng ổng bả chưa thấy đèn điện hoặc chiếc xe hơi” [HRCM.2. 34].
“Không hiểu ảnh làm gì ở trển, không hiểu ảnh tới núi không. Năm sau
ảnh trở về với cái quần xà lỏn dính da. Hỏi công chuyện làm ăn, ảnh
cườI”[HRCM.2.287].
Trong HRCM còn xuất hiện một loạt từ khá đặc biệt như: cha nội, thằng
cha, mấy cha, thằng chả, con mẻ, đại ca,... trong xưng gọi ngôi thứ hai và ba.
Tùy thuộc vào đối tượng mà những đơn vị lời nói đặc biệt này cho hiệu quả
"âm tính" khác nhau. Có thể chúng làm tăng thêm tính suồng sã, thân mật, bạn
bè của câu chuyện. Ví dụ: Dư luận bàn tán về ông Từ Thông, một nhân vật đầy
bí ân với lời thán phục nhưng suồng sã:“ Nè cha nội sành sỏi lắm! Cây đèn
“Măng sông” của Chệt Kỵ hư “béc” đốt không cháy, vậy mà cha nội sửa lại
trong nhấp nháy..[HRCM.1. 22]. Nhưng cũng có thể chúng đưa lại một hàm ý
có tính châm chọc, diễu cợt, chê bai. Chẳng hạn lời Hai Tâm trả đũa cái nguýt
dài khinh bỉ của bà chủ quán: “Con mẻ đó chưa biết ái tình là gì (..). Hai ba
đời chồng rồi mà chẳng ai ở bền với con mẻ hoặc sanh con với con
mẻ...”[HRCM.3.131]. Còn đây là lời tán tụng, bốc một tấc đến trời của Hai
Khoánh trước một người mà anh ta không làm chủ được tình thế:“ Tôi cũng
nghĩ như “đại ca” vậy. Dè đâu còn người thứ hai là.. “đại ca”. Đại ca tới đây
hồi nào?”[HRCM.2.61]. Cách xưng hô gây nên cảm giác hài hước ở người
đọc. Cuối cùng, từ "tôn ông" trong lời Năm Tiết khi đang gắp miếng thịt gà lại
cho người đọc thấy một lối bỡn cợt, đùa dai của anh chàng có tài "xuất quỷ
nhập thần" trước hương quản Sum: "Tôn ông cứ hỏi. Ở đây vắng vẻ, tôi sẵn
sàng thổ lộ tất cả tâm sự nhà nghề, gọi là đền đáp tấm thạnh tình?"
[HRCM.3.81].
Tóm lại, cùng với danh từ riêng, lớp đại từ xưng hô trong HRCM
nghiêng về khẩu ngữ. Đó là lối xưng hô mang tính gia đình ngay cả trong giao
74
tiếp nơi công cộng. Trong giao tiếp thường nhật đôi khi người ta dùng loại đại
từ trung tính nhưng đó là lối giao tiếp công vụ hoặc của vài cá nhân đang bị
"Tây" hóa. HRCM chủ yếu đề cập đến những người cùng khổ nên các đại từ
kiểu này trong xưng hô rất ít khi xuất hiện. Các nhân vật của Sơn Nam quen lối
dùng từ xưng gọi kiểu thân mật của giao tiếp không chính thức. Chính cách
xưng hô này đã làm tăng thêm chất khẩu ngữ trong văn Sơn Nam.
3.4. Tiểu từ cuối câu
Tiểu từ cuối câu (TTCC) nằm ở cuối phát ngôn, biểu thị nghĩa tình thái
và mục đích phát ngôn. TTCC thường được đi kèm với đường nét ngữ điệu đặc
trưng. Chúng được nhận biết rõ nhất trong môi trường khẩu ngữ.Trong HRCM,
các tiểu từ cuối câu được Sơn Nam sử dụng linh hoạt mang lại màu sắc Nam
Bộ ở các đoạn đối thoại giữa các nhân vật.
Có thể chia TTCC thành 2 nhóm:
a) TTCC thể hiện mục đích phát ngôn (TTMĐ)
b) TTCC thể hiện ý nghĩa tình thái của phát ngôn (TTTC)
Trong nhóm TTMĐ, đa số TTCC tương ứng hoàn toàn với ngôn ngữ
toàn dân.
Trong nhóm TTMĐ, các tiểu từ sau đây thường được Sơn Nam sử dụng:
1. à: Tiểu từ này tương ứng hoàn toàn với ngôn ngữ toàn dân: hỏi để xác
nhận thông tin. Ví dụ: " Chàng ở xứ lạ mới đến à? [HRCM.1.87]. Tiểu từ à yêu
cầu người nghe xác nhận đúng/ sai thông tin trong câu "Chàng ở xứ lạ mới
đến". Người trả lời chỉ có 2 khả năng để chọn trong trả lời: hoặc xác nhận hoặc
phủ định. Nội dung ý nghĩa câu hỏi Hòn Cổ Tron à? [HRCM.1.27] cũng tương
tự như vậy.
2. Câu có chứa tiểu từ ư là loại hỏi để xác nhận thông tin hàm ý ngạc
nhiên. Ví dụ: "Tại vì nhân tâm rối loạn ư?" [HRCM.1.66]. Đạo sĩ trong đoạn
này đặt ra nhiều câu hỏi liên tiếp và rồi ông lại tự trả lơi "Khá khen cho con.
Hiềm vì con có chí mà thiếu tài. Nghe con nói, bần dạo vui vẻ biết mấy như
75
giữa trưa nắng hè mà uống được nước Cam Lồ. Mạt pháp có nghãi là thời kì
giáo pháp suy đồi, đạo đức của tiền nhân không còn được thịnh. Tại vì nhân
tâm rối loạn ư? Cũng phải. Tại vì bọn Phú Lang Sa ư? Thậm phải…Con hiểu
sai nhưng mà đúng." [HRCM.1.66].
3. Hả: Phát ngôn chưa tiểu từ này mang màu sắc suồng sã, thân mật.
Thường được dùng trong đối thoại đời thường giữa những người thân, người
cùng trang lứa hoặc giữa kẻ trên với người dưới. Trong HRCM nó được dùng
thường xuyên, khác với tiểu từ ư hiếm khi gặp.
Ví dụ: Xã Nê muốn phá tan cách bức với bà con làng Đông Thái do đột
ngột xuất hiện của mình, anh ta đặt câu hỏi: "Đờn địch vui quá hả?"
[HRCM.1.30]. Nó xuất hiện trong tình thế: "Cậu xã tươi cười, khoát tay như
bảo ai ấy cứ ngồi xuống, đừng đứng dậy chào.
- Được! Được! Phiền bà con quá. Tết năm nay đầy đủ không? Đờn địch
vui quá hả?" [HRCM.1.30].
Ví dụ khác, Mộc và Kỳ Phong là đôi bạn. Mộc hỏi Kỳ Phong: "Bữa nay
ngày mấy rồi hả?" [HRCM.3.68].
4. Đi: cho ý nghĩa cầu khiến một phát ngôn. Các ví dụ:
- Thôi, bỏ qua chuyện cũ đi [HRCM.3.127]
- Cứ nói thiệt đi! [HRCM.3.166]
- Anh ca luôn trớn đi! [HRCM.3.229]
Tiểu từ này cho sắc thái thân mật và gần gũi. Trong HRCM, vì vậy, nó
cũng luôn được dùng. Đối lập với nó có lẽ là hãy đứng ở đầu câu. Câu chưa hãy
có tính mệnh lệnh, bắt buộc.
Trong nhóm TTTC, các tiểu từ sau đây thường xuất hiện trong HRCM:
1. Mà: Đưa lại sắc thái mềm mại, nhẹ nhàng cho câu nói. Nó khẳng định thông
tin trong câu nói với ý cho rằng đó là một thông tin được nhiều người biết và
công nhận. Nó có tác dụng gây dựng một ý thòng, chờ người nghe tự suy ra,
giúp người nghe dễ dàng chấp nhận thông tin hơn vì lập luận giản dị. Ví dụ
76
"Anh ở đây với em mà." [HRCM.3.175] là câu của Giáo Trích nói với cô Tư
Hạnh, người yêu hờ, như dỗ dành cô vì hắn muốn cùng cô tính chuyện "tày
trời" lúc Nhật và Pháp xảy ra đụng độ. Việc ở lại là hắn đã hứa với Hạnh và
không thay đổi. Cũng tiểu từ này được bà Neo dùng lại có mục đích giải thích
cho chồng lí do nào mà bà lại chuẩn bị đồ ăn hơi nhiều: "Ăn sáng rồi còn bận
về, mình ăn chiều. Mấy chục năm qua, mình sống bằng nghề nuôi gà vịt, bữa
nay ăn một bữa thỏa thuê. Tốn kém gì? Cây nhà lá vườn mà!" [HRCM.2.38].
Lập luận của bà lí do là vì của nhà trồng được và dùng cho hai bữa. Ý "cây nhà
lá vườn" ở cuối đoạn nói đi với tiểu từ mà tăng sức nặng lập luận. Bà tế nhị nói
như vậy với mong muốn ông tự hiểu ra được, không cần tranh luận.
2. À: Trong câu kể biểu lộ tình cảm thân mật của người nói với người
nghe. Chứng tỏ sự tin cậy của người nói với người nghe. Ví dụ: Dì ở góa hàng
chục năm rồi mấy cháu à [HRCM.1.92]. Cô Bảy đưa đò dùng tiểu từ này mong
muốn người nghe tin là cô nói thực vì tiểu từ tạo nên được cái không khí quá
thân mật và tin cậy giữa cô và những người trẻ tuổi. Thực ra là cô áy chưa bao
giờ lấy chồng cả. Ví dụ khác, dưới ánh trăng thằng Tặc và ông Từ Thông đều
thấy sợ lúc một kép hát bội nhô lên trên mặt biển. Tặc đánh bài chuồn: "Về, ông
ơi! Tôi lội xuống biển, bỏ ghe cho ông à!" Ông Từ Thông đáp lại: "Thằng này
thiệt! Tao nghe lời mày một phen. Đủ rồi. Chèo vô bãi nấu cháo cá. Một con
nấu cháo, một co nướng"[HRCM.3.268]. Tiểu từ à đem lại ý nghĩa chân thành
và tin cậy trong câu đề nghị của Tặc.
3. Chớ: Tương ứng hoàn toàn với chứ trong ngôn ngữ toàn dân. Sơn
Nam lúc thì dùng chứ, lúc thì chớ. Khi dùng chớ, hiệu ứng màu sắc Nam Bộ
trong câu nói hiện lên rõ nét hơn. Trong câu kể, tiểu từ này mang ý nghĩa khẳng
định thêm, nhấn mạnh thêm điều vừa nói. Chẳng hạn:
"- Thiệt không?
- Thiệt chứ." [HRCM.1.27]
- Anh hò hay hơn em chớ. [HRCM.1.87]
77
4. Ta: Làm câu nói mang ý nghĩa thân mật, suồng sã. Người nói tỏ ra cởi
mở và có chút phóng khoáng, không chấp nhặt.
"- Cha này coi vậy mà gan ta!" [HRCM.1.30]
5. Đa: Nhấn mạnh khẳng dịnh trong câu nói hoặc câu cầu khiến, yêu cầu,
đề nghị. Ví dụ:
- Đó đa! Đó đa! Anh Tư nhớ kĩ quá… [HRCM.1.179]
- Để đó đa! [HRCM.3.243]
6. Hé, hén: Có thể xuất hiện cuối cả 3 câu: kể, hỏi và cầu khiến. Trong
câu kể là khẳng định nhưng khẳng định này có ý mong muốn cũng được người
đối thoại chia sẻ cùng.Trong câu cầu khiến thì mang sắc thái giảm nhẹ đề nghị.
Còn trong câu hỏi thì người hỏi mong có sự đồng tình của người nghe. Còn
trong câu " Phía chợ vui quá hé?" [HRCM.2.173], người hỏi cho rằng phía chợ
rất vui và mong người nghe cũng chấp nhận nhận định ấy. Hay đơn giản dịch
ra là "tôi cho là phái chợ vui còn anh thế nào?"
7. Hè: Biểu thị ý nhấn mạnh lời khẳng định. Dùng trong câu kể và câu
cầu khiến. Chẳng hạn: "Tôi muốn uống hè !"[HRCM.2.39]
8. Kìa: Gợi chú ý của người nghe về sự kiện mới xuất hiện, tuy xa nhưng
quan sát rõ rệt được. Có thể đứng ở cả đầu câu lẫn cuối câu. Tương tự với từ
kìa, cơ mà trong ngôn ngữ toàn dân. Ví dụ:
- Người ở trên bờ còn bị sấu táp nữa kìa. [HRCM.1.248]
- Mình coi kìa! [HRCM.2.40]
- Nó mới vô sân đây nè! Nó chạy ra kìa! [HRCM.3.206]
8. Cà: Tương tự với ý nghĩa của kìa, nhưng được người Nam Bộ ưa sử
dụng hơn kìa. Cà thường dùng trong câu hỏi, trong khi kìa trong câu kể. Ví dụ:
“ Bữa nay họ làm cái gì vậy cà?”[HRCM1.13]. Trong câu này ngoài ý nghãi
của kìa còn có sắc thái ngạc nhiên của người nói khi đặt câu hỏi.
78
9. Nè: Cũng như kìa, nè có thể đứng cả ở đầu lẫn cuối câu. Nghĩa mang
lại là nhấn mạnh khẳng định và gây chú ý đặc biệt cho người nghe vì cho là
người nghe có vẻ xao lãng câu chuyện. Tương tự với này trong ngôn ngữ toàn
dân.Ví dụ:
- Áp khẩu tay tôi nè. [HRCM.1.43]
- Ở đây nè, bà con ơi! Nhà vợ thằng Quỳnh ở đây nè. [HRCM.1.109]
10. Nghe: Tương tự nhé trong ngôn ngữ toàn dân. Tiểu từ này thường
dùng trong câu cầu khiến. Ý nghãi mang lại là sắc thái nhẹ nhàng của đề nghị,
đôi khi như là một lời khuyên hay căn dặn. Ví dụ: "Đi theo tao, đừng chạy bất
tử nghe" [HRCM.1.213]
11. Lận: Cho ý nghĩa khẳng định điều đang nói. Sắc thái bổ sung là thái
độ ngạc nhiên vì cho là vượt quá tầm dự phòng và đoán trước của cả người nói
lẫn người nghe. Ví dụ: "Ở xóm Cà Bây Ngợp lận!" [HRCM.1.171] có nghĩa là
ở xứ rất xa, ít người lui tới.
Tóm lại, TTCC được tách thành 2 nhóm theo chức năng của chúng
trong câu. Đó là TTMĐ và TTTC. Các từ này thường kết hợp với ngữ điệu
riêng trong khi nói. Việc sử dụng dấu câu không nêu hết được các ý nghĩa phụ
mà chúng mang lại cho câu. Chính vì vậy chúng là yếu tố khẩu ngữ chân chính
trong tiếng địa phương Nam Bộ. Những từ này thường có cách dùng tương tự
với các tiểu từ trong ngôn ngữ toàn dân, nhưng những ý nghĩa phụ mà chúng
mang lại thì rất đa dạng và phong phú. Đó chính là sự phù hợp giữa các đặc
điểm cấu trúc của tiểu từ với các nhiệm vụ cụ thể của chúng trong phương ngữ
này. HRCM đã đưa được vào gần hết các tiểu từ có trong tiếng Nam Bộ, nhưng
chúng phần lớn đều thuộc về nhóm từ địa phương có tương ứng với từ toàn dân
về mặt âm thanh.
3.5. Cấu trúc vị từ
Vị từ như là một khái niệm gộp lại từ động từ và tính từ đã được nhiều nhà
ngữ pháp thừa nhận do thuộc tính ngữ pháp của chúng ở ngôn ngữ đơn lập khá
79
gần gũi nhau. Khảo sát chất khẩu ngữ trong văn Sơn Nam có thể đi sâu vào một
số cấu trúc điển hình của vị từ. Theo chúng tôi, cấu trúc nổi bật nhất ở đây là sự
kết hợp của tính từ, động từ với một số phó từ mang lại sự sinh động trong mô
tả đất nước và con người Nam Bộ. Những kết hợp kiểu này xuất hiện rất nhiều
trong HRCM, nhưng hiếm gặp trong các phong cách công vụ hoặc trong ngôn
ngữ văn chương dòng bác học.. Nói cách khác đó là các cấu trúc xuất hiện
trong giao tiếp đời thường, và chúng thuộc về các yếu tố khẩu ngữ.
Trong đoạn sau đây của truyện Miễu Bà Chúa Xứ:
“ Trời đã quá chạng vạng. Ánh nắng thoi thóp, đỏ khè, trong giây phút
trở sang mầu tím bầm. Muỗi dậy ổ, kêu vo vo khắp gần xa. Loài ếch nhái, côn
trùng bắt đầu lên tiếng, chào mừng bóng tối đang tràn ngập qua nhanh chóng.
Cô đơn làm sao, căn nhà giữa đồng này! Gió thổi lành lạnh'" [HRCM.1.119],
tác giả đã cho ta một cảnh cô liêu, ma quái và hoang vu, nơi tọa lạc Miễu Bà
Cháu Xứ. Để đạt được tác dụng nghệ thuật như vậy, Sơn Nam đã chủ động hòa
phối màu sắc và âm thanh. Đặc biệt là sự hòa phối của màu sắc giữa ngày và
đêm. Hai từ màu sắc chủ đạo là đỏ khè và tím bầm. Các phó từ khè và bầm có
gốc từ các từ khò khè và bầm dập đã được tách ra và gắn vào tính từ đỏ và tím
để tạo nên hai CTĐD mới chỉ màu sắc. Nhưng đó không phải là màu sắc vật lí
khách quan mà là màu sắc tâm lí, chủ quan cho hợp với cụm từ "ánh nắng thoi
thóp" và từ "chạng vạng" ở câu trên. Cách kết hợp giữa các tính từ có trong
ngôn ngữ toàn dân với các yếu tố được tách ra từ các cụm hoặc từ chỉ mức độ
như vậy đã tạo nên một đặc điểm riêng cho tiếng địa phương Nam Bộ mà
HRCM đã tận dụng được.
Có tác giả cố chứng minh những tổ hợp này là từ. Tuy nhiên, không nhất
thiết khi bàn về tiếng địa phương người ta nhất thiết phải làm việc với các đơn
vị từ. Có khi từ cơ bản thì như nhau giữa các phương ngữ nhưng khi thể hiện ra
thành lời nói trong giao tiếp thì chúng lại khác biệt. Đó là vì khi nói năng người
ta có thể sử dụng cả từ lẫn ngữ cho các mục đích giao tiếp thực tế. Sự khác
80
nhau và khu biệt giữa các tiếng địa phương có khi lại nằm ở các kiểu kết hợp
trội của cụm từ và câu. Nói khác đi, để tìm ra các đặc trưng phương ngữ cần
phải làm việc chủ yếu với các đơn vị trên từ. Nghĩa là các đơn vị lời nói tham
gia trực tiếp vào giao tiếp của người bản xứ. HRCM sở dĩ được xếp vào văn
chương khẩu ngữ độc đáo chính bởi vì các yếu tố của đơn vị lời nói như các
CTĐD, các cấu trúc vị từ và các đại từ, tiểu từ, quán ngữ đã tham gia trực tiếp
vào sự sáng tạo văn chương của tác giả.
Trong cấu trúc vị từ, ta có thể bắt gặp kiểu cấu trúc phổ biến là các tính
từ chỉ tính chất, đặc điểm, trạng thái kết hợp với một số yếu tố phó từ đặc trưng
để tạo nên các CTĐD chỉ thang độ đặc điểm và tính chất của sự vật, đặc biệt là
các tính từ chỉ màu sắc. Trong các kết hợp này, nhiều yếu tố làm phó từ chỉ
mức độ không đủ tư cách là một đơn vị độc lập, nhưng có sức sản sinh cao.
Sau đây là danh sách kết hợp đó, xếp theo thứ tự chữ cái:
Bảng 3.17: Vị từ đi với các phó từ chỉ mức độ
STT Cấu trúc vị từ Ví dụ
“ Càng nhắc tới, chú Tư càng thích chí, thím Tư
1. buồn xo trái lại ngồi buồn xo, không tin nơi lời
chồng”[HRCM.1.135].
Trong dạ buồn điếng, nhưng được khuây khỏa ít 2. buồn điếng nhiều. [HRCM 1.150]
“Chú Tư, thím Tư mừng quýnh, tốc mùng chạy ra:
3. cao nghệu thằng Nhi về đó coi bộ dị hợm hơn mọi ngày, mang
trên vai một đống gì cao nghệu”[HRCM.1.138].
“Nhứt là đêm có trăng, mấy ổng le lưỡi dài thòn,
4. dài thòn như nhớ tiếc bao nhiêu con mồi ngon, bao nhiêu
tiếng kèn, tiếng trống” [HRCM.1.194].
5. đen ngòm Từng đàn chim sắc đen ngòm như bầy quạ bay
81
lượn quanh hòn Cổ Tron…[HRCM. 1.13]
Tục truyền rằng loại sâu ấy lớn bằng cườm tay, mặt
6. đỏ hói đỏ hói, mình mẩy vằn vện, có đuôi dài ngoe nguẩy"
.[HRCM.2.220]
Ánh nắng thoi thóp, đỏ khè, trong giây phút trở 7. đỏ khè sang mầu tím bầm. [HRCM.1.119]
Xung quanh đây hết cỏ rồi. làm sao bây giờ hả ba?
8. đổ ghèn Trâu đói nữa, con mắt nó đổ ghèn hoài"
[HRCM.1.131]
Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu 9. đỏ ngầu rung rinh. .[HRCM.1.137]
Trong khi đó, con đường từ thềm đìa ra lộ cái trở 10. mòn lẵn nên mòn lẵn vì dấu chân….[HRCM.1.123]
Hàng trăm cặp sừng cong vòng, nhọn lễu nhô lên
11. nhọn lễu bộ mặt ngơ ngác ba góc, giống hệt những trái ấu
khổng lồ [HRCM.1.149]
Ong mật đi ăn bông. Bay rề qua rề lại, thấy chưa, 12. thấp chủn thấp chủn trên đọt cây kìa. [HRCM.1.212]
Và muôn vì sao trên dải Ngân Hà sa xuống đậu lấm 13. trắng bạc tấm khắp nhánh san hô trắng bạc [HRCM. 1.12]
Từ hòn đảo mới nổi ấy, một đốm trắng 14. trắng ngời ngời….[HRCM. 1.14]
Tiếng đồn không sai: nanh dài trên một tấc, con
15. vàng hực heo Khịt như con bò nhỏ, mớ lông gáy dựng lên
vàng hực, lấp lánh [HRCM.2.99]
Nắng lên chui vào vòm cây lộ ra những đốm vàng 16. vàng tươi tươi" [HRCM. 2.99]
17. xanh đậm Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu
82
rung rinh. .[HRCM.1.137]
Đằng xa kia, ẩn hiện trên ngọn sóng ngọn lúa xanh 18. xanh rì rì. [HRCM.1.145]
Chân trời lại hiện ra, lúa nằm dài xanh rờn, nhấp 19. xanh rờn nhô trên ngọn sóng [HRCM.1.136]
Đến cuối tháng, mặt ruộng lộ ra, cỏ non nhú mọc 20. xanh tươi xanh tươi đến tận chân trời [HRCM. 1.138]
Các yếu tố phụ trong các cấu trúc vị từ có tác dụng mô tả và tách biệt hóa
yếu tố chính và đến lượt nó cả khối này lại tham gia vào cấu trúc lớn hơn với tư
cách các định ngữ của hoặc danh từ hoặc động từ đứng trước chúng. Với một
cấu trúc chặt chẽ như vậy, chúng đương nhiên cũng có thể tham gia vào câu với
tư cách những vị ngữ. Điều đặc biệt là nhờ có các yếu tố phụ chỉ mức độ như
vậy mà các đối với từ ngữ này giúp mô tả được chân thực hơn đối tượng đáp
ứng nhu cầu phản ánh hiện thực của văn chương. Trong HRCM, màu xanh có
thể hiện thực hóa thành nhiều loại xanh khác nhau phù hợp với màu sắc có
thực của đối tượng trong thực tế. Rừng tràm thì xanh đậm, cỏ mới mọc thì xanh
tươi, còn lúa thì xanh rì hay xanh rờn. Sự tinh tế ấy vừa mô tả hiện thực chính xác
vừa phản ánh được cảm xúc của người viết. Những yếu tố như vậy làm cho lời nói
sống động, thích hợp với lời nói kiểu khẩu ngữ có trong đời sống hàng ngày.
Các cấu trúc vị từ trong kết hợp với các yếu tố phụ làm cụ thể hóa các
chi tiết của đối tượng còn có thể đi với nhiều yếu tố khác như cụm phó từ, quán
ngữ và thành ngữ và đặc biệt với từ láy. Các từ láy trong các cấu trúc này gây
ấn tượng đặc biệt do chúng bị đảo ngược vị trí so với lối nói thông thường: bạc
lốm đốm lốm đốm bạc, cười chúm chím chúm chím cười, (cái) đầu gục
gạc gục gạc đầu, chờ đợi phập phồng phập phồng chờ đợi… Trong lời
nói bằng khẩu ngữ, các lối cấu trúc kiểu này được người nói rất ưa dùng vì nó
tạo nên tiết tấu câu nói và gây chú ý đối với người nghe.
83
Bảng 3.18: Kết hợp trong vị từ kiểu khẩu ngữ
STT Cấu trúc vị từ Ví dụ
1. lốm đốm bạc Tóc của ông lốm đốm bạc [HRCM.1.11]
Nhiều khi năm ba tháng liên tiếp ông phơi lưng 2. phơi lưng trần trần với nắng [HRCM.1.11]
chúm chím cười Nghe qua, họ vẫn chúm chím cười [HRCM.1.35] 3.
bằng lòng đi Họ bằng lòng đi[HRCM.1.35] 4.
Lúc họ uống nước trà, rắn nằm vắt vẻo trên đòn 5. gục gạc đầu dông nhà, nhìn xuống gục gặc đầu. [HRCM.1.40]
phập phồng chờ Ai nấy phập phồng chờ đợi[HRCM.1.43] 6. đợi
Hai tai chú nghe lùng bùng tiếng cồn, tiếng rống, 7. nghe lùng bùng tiếng hò reo[HRCM.1.98]
Con cái lũ khũ cả bầy, chắc vợ chồng cậu Quỳnh 8. lũ khũ cả bầy khó đi xa [HRCM.1.116]
lo tay làm hàm Năm rồi thất bát, ai cũng lo tay làm hàm nhai để 9. nhai nuôi con [HRCM.1.116]
Ba cái lu, cái hũ trôi lểnh nghểnh trong hà rồi, ba 10. trôi lểnh nghểnh nó chưa hay sao? Gạo hết, tiền hết. [HRCM.1.130]
Sau hè nhà, nước dậy đùng đùng, sóng gợn từng 11. vỗ lát chát lượn lớn, vỗ lát chát vào vách [HRCM.1.130]
Đôi trâu trên nền chuồng trâu lúc trước, tuy đã đắp
12. leo lên lé đé cao thêm gần một thước vậy mà nước leo lên lé đé
[HRCM.1.131]
Đôi trâu nhà đứng khúm núm đó, trên nền chuồng,
13. đứng khúm núm như hai pho tượng bằng đồng đen dựng lên mặt
nước. [HRCM.1.132]
14. chạy ầm ầm Trâu chạy ầm ầm [HRCM.1.137]
84
Không mấy chốc, tràm gãy rôm rốp ngã liệt xuống, 15. gãy rôm rốp lõm rừng trở thành cái đầm rộng lớn [HRCM.1.137]
…thằng Nhi đang chụp gói thuốc rê trên bàn; nó
16. hút phì phà mở ra, xé giấy vấn hút phì phà một cách tự nhiên,
ngon lành [HRCM.1.140]
Cuối cùng, để có được những mô tả sinh động sát với hiện thực như
HRCM, tác giả thường cho xuất hiện trong cùng một câu hàng loạt các vị từ.
Mỗi vị từ lại có một cấu trúc riêng biệt. Cách sử dụng chuỗi động từ như thế
chỉ thấy trong phong cách khẩu ngữ khi tự nhiên nói và trao đổi với nhau.
Trong các câu có độ dài bất thường như vậy, ngữ điệu là yếu tố quan trọng giữ
cho câu không bị mơ hồ và người nghe dễ tiếp nhận.
- “Cô Út thở phập phồng, tay mân mê tà áo, nhụy bông tràm vương lấm
tấm vào suối tóc hơi rối của nàng” [HRCM.3.47]
-“ Bỗng nhiên anh Mộc ngồi dậy, cởi áo, sờ trong túi hồi lâu, rồi mở
bóp, nói một câu…rất xa khơi.”[HRCM.3.66].
Tóm lại, do lấy khẩu ngữ làm chất liệu sáng tác nên cấu trúc vị từ cũng
phải mang đặc điểm của khẩu ngữ. Đó là lối cấu trúc giữa vị từ và phó từ mức
độ; giữa trung tâm vị từ với đơn vị lời nói đa dạng, đặc biệt là với các từ láy;
giữa nhiều vị từ với nhau để tạo nên chuỗi vị từ trong câu. Các cấu trúc vị từ
này thường có cách sắp xếp các yếu tố theo trật tự đảo gược so với lối nói
thông thường có trong các phong cách bậc cao như hành chính công vụ hoặc
trong văn chương theo lối bác học.
3.6. Thành ngữ, quán ngữ
3.6.1. Thành ngữ
HRCM có 162 thành ngữ, tục ngữ (TNTN) (kể cả 24 đơn vị đã được Sơn
Nam cải biến). Như vậy trung bình cứ 13,62 trang sách lại xuất hiện một TNTN
và mỗi truyện có 2,53 đơn vị lời nói kiểu này.
85
Các truyện có mật độ thành ngữ, tục ngữ dày nhất là:
Bảng 3.19: Truyện có TNTN xuất hiện nhiều nhất
STT Truyện ngắn TSXH TNTN
1. Người tình của cô đào 11
hát
2. Đơn Hùng Tín chào đời 11
3. Cái va li bí mật 9
Các TNTN có TSXH cao nhất là:
Bảng 3.20: TNTN có TSXH cao nhất
STT TNTN TSXH
nhanh như chớp 12 1.
2. tai vách mạch rừng 8
3. xuất quỷ nhập thần 7
4. khỉ ho cò gáy 7
5. ăn chưa no lo chưa 6
tới
6. ăn năn hối cải 6
7. dầm sương dãi nắng 6
Một số TNTN còn được Sơn Nam tận dụng để đặt tên truyện như: Anh
hùng rơm, Ăn to xài lớn, Đồng thanh tương ứng, Xuất quỷ nhập thần…
Qua bản thống kê trên cho chúng ta thấy, Sơn Nam đã sử dụng đều đặn
số thành ngữ trong HRCM. Trong đó nhiều nhất là tần số sử dụng trong HRCM
tập 2, trong tập 2 tác giả tập trung nhiều đến việc miêu tả cuộc sống diễn ra
trong sinh hoạt đời thường của người dân Nam Bộ. Phần lớn đó là những câu
chuyện về mối quan hệ giữa bà con hàng xóm láng giềng nên ngôn ngữ của các
nhân vật thường là lối ví von so sánh quen thuộc rất gần với đời sống lao động
86
ngày thường nên đây cũng là lý do khiến tác giả sử dụng nó để tác phẩm gần
gũi hơn đối với bạn đọc. Phát huy được điều đó nên văn chương của Sơn Nam trở
nên nhẹ nhàng, giản dị, hàm súc hơn. Có những khi ta lại thấy tác giả lại có cách
sử dụng thành ngữ rất đặc biệt, sử dụng liên kết cùng một lúc ba bốn thành ngữ
trong một câu văn, trong lời của nhân vật để nhấn mạnh, nổi bật vấn đề:
Ví dụ: “Ừ, trời cao có mắt, “cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị”, trèo cao
té nặng, ngó cao đau ót”[HRCM.1. 94].
Hay: “…cây có cội. Nước có nguồn. Chim có tổ. Cá có hang..”[HRCM.1.17].
Trong quá trình sử dụng TNTN, Sơn Nam đã biến hóa chúng rất linh
hoạt, có khi ông giữ nguyên mẫu, cũng có khi ông lại theo cách sáng tạo của
riêng mình. Nhờ đó nhiều TNTN có gốc từ ngôn ngữ toàn dân đã trở nên có
dáng vẻ một TNTN xuất xứ bản địa. Ví dụ trong Mùa len trâu tác giả viết “tấn
thoái lưỡng nan” thay cho “tiến thoái lưỡng nan”; “vạn sự bằng an” thay cho “
vạn sự bình an”. Trong “ Đồng thanh tương ứng” tác giả sử dụng “ Tay lấm
chơn bùn” thay cho “ Tay lấm chân bùn”… Có khi ông còn đề cập đến những
câu nói của nhà nho những bậc hiền triết để diễn giải vấn đề cho sinh động. Ví
dụ trong “ Nhất phá sơn lâm” để diễn đạt sự khó khăn trong cuộc sống của
người dân Nam Bộ ở xứ rừng U Minh, nhân vật Hai Cờ đỏ đã nhắc lại lời của
vua Gia Long khi đến xứ này: “ Tôi nói ông vua Gia Long ngóng vô bờ, dòm
dáo dác cái cụm rừng của tụi mình đương đứng bây giờ. Rồi ổng day qua nói
với đình thần tả hữu “sơn bất cao, thủy bất thâm, phù sa chi địa nhơn tác bất
thành tu hú giả. Nhứt phá sơn lâm, nhì đâm hà bá, cao phi diễn tẩu giả nan
tàng” [HRCM.2. 242].
Trong 162 TNTN thì đơn vị có cấu tạo 4 âm tiết chiếm tới đa số thành
ngữ có 4 âm tiết là chiếm khoảng 60%.
Bảng 3.21: TNTN 4 âm tiết trong HRCM
Tổng số TNTN HRCM % TNTN 4 âm
87
tiết
Tập 1 30 18 60.00%
Tập 2 67 41 61.19%
Tập 3 65 38 58.46%
162 Cộng 97
TrBình: 59.88%
Nhà văn vận dụng TNTN ở nhiều dạng khác nhau. Tùy từng trường hợp
mà ông có thể sử dụng nguyên dạng chúng hay cải biến chút ít. TNTN trong
HRCM gồm loại đối xứng và phi đối xứng. TNTN đối xứng trội hơn về số
lượng so với loại kia. Ví dụ: gần đất xa trời, ăn to xài lớn, tán gia bại sản;
sanh nghề, tử nghiệp; môn đăng hộ đối; chia cơm xẻ áo, ghen bóng, ghen gió;
đơn thương độc mã; thắt lưng buộc bụng, mua khế bán chanh…Cũng lưu ý thêm
rằng ở loại TNTN phi đối xứng có một tiểu loại đặc biệt là thành ngữ so sánh.
Nhưng số lượng loại này trong HRCM rất thấp, chỉ có 4 đơn vị là: đỉa lềnh như
bánh canh; sự tử như sự sanh; sự vong như sự tồn; giữ khẩu như bình.
3.6.2. Quán ngữ
Trong HRCM có khoảng hơn một trăm quán ngữ thường được dùng khi
các nhân vật tiến hành hội thoại. Trong số này quán ngữ gồm hai âm tiết trội
nhất. Nội dung của các quán ngữ quyết định cách sử dụng chúng. Chúng được
sử dụng thường xuyên như một yếu tố lời nói để đưa đẩy hoặc tạo không khí
cho cuộc trò chuyện. Chúng mang màu sắc tình cảm và có cách thể hiện riêng
theo kiểu người Nam Bộ cùng với ngữ điệu đặc trưng. Chúng thường đưứng ở
đầu câu trongi vai trạng ngữ. Các ví dụ:
- “Ác không! Hổm rày tôi bị cậu Bấy giam lỏng trong cái tiệm hớt tóc
này!” [HRCM.3.32].
- “Té ra, họ sợ giặc, mất tất cả sự trầm tĩnh của con người…công dân”
[HRCM.3.106].
88
- “Cơ khổ, hết trà rồi, cháu uống nước đậu rang cho ấm bụng”
[HRCM.3.13].
- “Khổ thay, mười lăm cây số bận về là cả một điều khổ nhục” [HRCM.2.
179]. Dưới đây là một số quán ngữ tiêu biểu: (xếp theo thứ tự chữ cái):
Bảng 3.22: Một số qán ngữ thường gặp trong HRCM
STT Quán ngữ STT Quán ngữ
Ăn thua gì 1. 13. Ối thôi
Bậy nè 2. 14. Rốt cuộc
Coi bộ 3. 15. Rủi bề gì
Coi chừng 4. 16. Rủi thay
Cơ khổ 5. 17. Sau rốt
Dè đâu 6. 18. Té ra
Đ. M. 7. 19. Thậm phải
Đồ mắc dịch 8. 20. Tổ cha
Đồ trời đánh 9. 21. Trời thần ơi
10. Hí 22. Úy trời
Khổ thay 11. 23. Úy trời đất
Lần hồi 12.
Số lượng thành ngữ và quán ngữ trong HRCM rất lớn. Sơn Nam vừa triệt
để khai thác các đơn vị lời nói này, vừa sáng tạo ra những lối nói mới, gần với
lời bình dân mà ông đã tích lũy và khám phá ra trong suốt cuộc đời làm văn,
làm báo của mình. Việc tận dụng thành ngữ và quán ngữ qua lời các nhân vật
làm văn chương Sơn Nam thanh thoát, gần gũi với đời thường hơn.
3.7. Tiểu kết
Nhằm xác định danh sách các yếu tố và tác dụng của chúng đã làm nên
chất khẩu ngữ trong văn Sơn Nam, ngoài vốn từ ngữ địa phương như đã mô tả
ở chương 2, chương này tiếp tục phân tích sâu vào một số lớp từ ngữ và cấu
89
trúc tiêu biểu xuất hiện trong HRCM. Cụ thể đó là các lớp danh từ chỉ cây cối
và con vật, chỉ tên riêng người và đất, lớp đại từ xưng hô, lớp tiểu từ cuối câu,
lớp thành ngữ và quán ngữ và những cấu trúc vị từ đặc biệt. Đa phần tên loài
cây, do đặc thù của vùng đất mới, phần lớn các tên gọi đều thuộc nhóm từ ngữ
chỉ riêng có ở miền Tây. Ở loài vật, tên đặc hữu miền Tây xuất hiện nhiều trong
các đơn vị định danh loài chim, loài cá. Đối với loài thú bốn chân sinh sống
trong rừng rậm và đầm lầy, các CTĐD chỉ tên chúng sẽ mang thêm được màu
sắc địa phương nhờ kết hợp thêm yếu tố phụ vào danh từ chung. Một số tên
chim và rắn và nhất là những con vật có liên quan đến đời sống (riêng tư) của
con người còn có các phụ danh hoặc định ngữ đi kèm để tăng độ phân biệt. Một
CTĐD tên riêng vùng đất thường gồm 2 yếu tố: đi trước và đi sau. YTĐT cho
thông tin về địa hình khái quát. Trong HRCM có 46 yếu tố như vậy. Chúng
được tách ra thành 9 nhóm, 6 nhóm môi trường sinh thái nhân văn và 3 nhóm
môi trường sinh thái tự nhiên. Tên riêng do các YTĐT tạo ra gần bằng nhau
giữa hai nhóm sinh thái. Điều đó chứng tỏ độ gần gũi và liên quan mật thiết
giữa người và cảnh nơi đây. Những YTĐS có thể là đơn hay phức tùy vào khả
năng sản sinh nhiều lần của chúng trong một CTĐD. Đa phần tên đất đều có
cấu trúc đơn. Về nguồn gốc, hơn một nửa các tên đất là thuần Việt. Nguồn Hán
Việt cung cấp các tên riêng làng xã. Các gốc ngoại lai khác chiếm tỉ lệ thấp.
Tên người có 7 kiểu cấu tạo, trong đó kiểu Thứ + Tên được ưa dùng hơn
cả. hai kiểu Lót + Tên và Biệt hiệu thay tên có tỉ lệ thấp nhất. Về xuất xứ, tên
người Nam Bộ nảy sinh từ 5 gốc, trong đó gốc thuần Việt được ưa dùng nhất.
Các gốc như Hán Việt nói trại, Pháp, Khơ Me ít được sử dụng. Các kiểu Tên,
Biệt hiệu thay Tên, Thứ + Tên, Nghề + Tên trong giao tiếp hàng ngày được
dùng phổ biến trong giao tiếp hàng ngay. Chất khẩu ngữ của chúng vì vậy cao
hơn các kiểu Đủ Họ và Tên, Lót + Tên, Chức + Tên. Ba kiểu này gốc Hán Việt
chiếm ưu thế và thường được dùng trong giao tiếp công vụ, không phải môi
trường khẩu ngữ.
90
Đại từ xưng hô trong HRCM nghiêng về khẩu ngữ. Đó là lối xưng hô
mang tính gia đình ngay cả trong giao tiếp nơi công cộng. Các nhân vật của Sơn
Nam quen lối dùng từ xưng gọi kiểu thân mật của giao tiếp không chính thức.
Chính cách xưng hô này đã làm tăng thêm chất khẩu ngữ trong văn Sơn Nam.
Trong HRCM hầu hết các TTCC có trong tiếng Nam Bộ đều có mặt.
TTCC gồm TTMĐ và TTTC. Chúng thường đi với ngữ điệu riêng trong lời
nói. Cách dùng của chúng tương tự với cách dùng trong ngôn ngữ toàn dân,
nhưng đa dạng và phong phú về các ý nghĩa phụ. Chúng là yếu tố khẩu ngữ
chân chính trong tiếng địa phương Nam Bộ.
Các cấu trúc vị từ mang đặc điểm khẩu ngữ rất rõ. Đó là lối cấu trúc giữa
vị từ và phó từ mức độ; giữa trung tâm vị từ với đơn vị lời nói đa dạng, đặc biệt
là với các từ láy; giữa nhiều vị từ với nhau để tạo nên chuỗi vị từ trong một
phát ngôn. Các yếu tố trong cấu trúc vị từ thường sắp xếp theo trật tự đảo
ngược so với trật tự thông thường có trong các phong cách bậc cao như hành
chính công vụ hoặc trong văn chương theo dòng bác học.
Sơn Nam đã sử dụng một khối lượng thành ngữ và quán ngữ khổng lồ
trong HRCM. Ông vừa triệt để khai thác các đơn vị lời nói này, vừa sáng tạo ra
những lối nói mới, gần với lời bình dân mà ông đã tích lũy và khám phá ra
được trong đời sông. Việc tận dụng thành ngữ và quán ngữ qua lời các nhân vật làm
văn chương Sơn Nam thanh thoát, gần gũi với đời thường hơn. Đó chính là một
trong những nhân tố làm nên dáng vẻ riêng của văn chương khẩu ngữ Sơn Nam.
91
KẾT LUẬN
1. Vốn từ ngữ Nam Bộ trong HRCM gồm 549 từ ngữ. Các từ ngữ được
chia thành hai nhóm: a. Nhóm có tương ứng ngữ âm với từ toàn dân, 192 đơn
vị và b. Nhóm không có tương ứng ngữ âm với từ toàn dân, 357 đơn vị. Về
phân bố từ loại, tiểu từ không xuất hiện trong nhóm ngữ âm. Động từ xuất hiện
trội nhất, 41,67%. Đại từ, phó từ và thành, quán ngữ chiếm tỉ lệ rất thấp. Danh
từ và tính từ có tỉ lệ trung bình. Ở nhóm từ vựng, trội nhất là danh từ. Chiếm vị
trí trung bình là động từ, tính từ và phó từ. Chiếm tỉ lệ thấp nhất là tiểu từ, còn
đại từ thì hoàn toàn vắng mặt. So với nhóm ngữ âm, tỉ lệ thành, quán ngữ và
phó từ ở nhóm này cao hơn nhiều.
2. Nếu coi hai nhóm từ địa phương là kết quả phân cực của tiến trình
phương ngữ Nam Bộ, thì nhóm từ ngữ ngữ âm đại diện cho xu hướng hội tụ,
còn nhóm từ ngữ từ vựng là cho xu hướng phân lập. Nhìn từ quan điểm này thì
việc tăng số lượng danh từ, phó từ, tiểu từ và thành, quán ngữ ở nhóm từ ngữ từ
vựng là một dấu hiệu "đặc trưng hóa" vốn từ ngữ Nam Bộ. Để đáp ứng nhu cầu
định danh sự vật và sự tình ở vùng đất mới, một mặt tiếng Nam Bộ tận dụng
các từ ngữ chung trong khối ngôn ngữ toàn dân nhưng mặt khác sáng tạo ra các
cấu trúc từ ngữ mới. Đa phần tên loài cây, do đặc thù của vùng đất mới, phần
lớn các tên gọi đều thuộc nhóm từ ngữ chỉ riêng có ở miền Tây. Ở loài vật, tên
đặc hữu miền Tây xuất hiện nhiều trong các đơn vị định danh loài chim, loài
cá. Đối với loài thú bốn chân sinh sống trong rừng rậm và đầm lầy, các CTĐD
chỉ tên chúng sẽ mang thêm được màu sắc địa phương nhờ kết hợp thêm yếu tố
phụ vào danh từ chung. Một số tên chim và rắn và nhất là những con vật có liên
quan đến đời sống (riêng tư) của con người còn có các phụ danh hoặc định ngữ
đi kèm để tăng độ phân biệt.
3. Một CTĐD tên riêng vùng đất thường gồm 2 yếu tố: đi trước và đi
sau. YTĐT cho thông tin về địa hình khái quát. Trong HRCM có 46 yếu tố như
vậy. Chúng được tách ra thành 9 nhóm, 6 nhóm môi trường sinh thái nhân văn
92
và 3 nhóm môi trường sinh thái tự nhiên. Tên riêng do các YTĐT tạo ra gần
bằng nhau giữa hai nhóm sinh thái. Điều đó chứng tỏ độ gần gũi và liên quan
mật thiết giữa người và cảnh nơi đây. Những YTĐS có thể là đơn hay phức tùy
vào khả năng sản sinh nhiều lần của chúng trong một CTĐD. Đa phần tên đất
đều có cấu trúc đơn. Về nguồn gốc, hơn một nửa các tên đất là thuần Việt.
Nguồn Hán Việt cung cấp các tên riêng làng xã. Các gốc ngoại lai khác chiếm
tỉ lệ thấp.
4. Tên người có 7 kiểu cấu tạo, trong đó kiểu Thứ + Tên được ưa dùng
hơn cả. hai kiểu Lót + Tên và Biệt hiệu thay tên có tỉ lệ thấp nhất. Về xuất xứ,
tên người Nam Bộ nảy sinh từ 5 gốc, trong đó gốc thuần Việt được ưa dùng
nhất. Các gốc như Hán Việt nói trại, Pháp, Khơ Me ít được sử dụng. Các kiểu
Tên, Biệt hiệu thay Tên, Thứ + Tên, Nghề + Tên trong giao tiếp hàng ngày
được dùng phổ biến trong giao tiếp hàng ngay. Chất khẩu ngữ của chúng vì vậy
cao hơn các kiểu Đủ Họ và Tên, Lót + Tên, Chức + Tên. Ba kiểu này gốc Hán
Việt chiếm ưu thế và thường được dùng trong giao tiếp công vụ, không phải
môi trường khẩu ngữ.
5. Đại từ xưng hô trong HRCM nghiêng về khẩu ngữ. Đó là lối xưng hô
mang tính gia đình ngay cả trong giao tiếp nơi công cộng. Các nhân vật của
Sơn Nam quen lối dùng từ xưng gọi kiểu thân mật của giao tiếp không chính
thức. Chính cách xưng hô này đã làm tăng thêm chất khẩu ngữ trong văn Sơn
Nam. Trong HRCM hầu hết các TTCC có trong tiếng Nam Bộ đều có mặt.
TTCC gồm TTMĐ và TTTC. Chúng thường đi với ngữ điệu riêng trong lời
nói. Cách dùng của chúng tương tự với cách dùng trong ngôn ngữ toàn dân,
nhưng đa dạng và phong phú về các ý nghĩa phụ. Chúng là yếu tố khẩu ngữ
chân chính trong tiếng địa phương Nam Bộ.
6. Các cấu trúc vị từ mang đặc điểm khẩu ngữ rất rõ. Đó là lối cấu trúc
giữa vị từ và phó từ mức độ; giữa trung tâm vị từ với đơn vị lời nói đa dạng,
đặc biệt là với các từ láy; giữa nhiều vị từ với nhau để tạo nên chuỗi vị từ trong
93
một phát ngôn. Các yếu tố trong cấu trúc vị từ thường sắp xếp theo trật tự đảo
ngược so với trật tự thông thường có trong các phong cách bậc cao như hành
chính công vụ hoặc trong văn chương theo dòng bác học.
7. Sơn Nam đã sử dụng một khối lượng thành ngữ và quán ngữ khổng lồ
trong HRCM. Ông vừa triệt để khai thác các đơn vị lời nói này, vừa sáng tạo ra
những lối nói mới, gần với lời bình dân mà ông đã tích lũy và khám phá ra được
trong đời sông. Việc tận dụng thành ngữ và quán ngữ qua lời các nhân vật làm văn
chương Sơn Nam thanh thoát, gần gũi với đời thường hơn. Đó chính là một trong
những nhân tố làm nên dáng vẻ riêng của văn chương khẩu ngữ Sơn Nam.
8. Như vậy, qua phân tích của chúng tôi, các yếu tố khẩu ngữ trong
HRCM của Sơn Nam bao gồm:
a.Vốn từ địa phương, đặc biệt vốn từ địa phương từ vựng
b. Cách cấu tạo và nguồn gốc tên các loài cây cỏ, loài vật vùng đất mới
c. Cách cấu tạo và nguiồn ốc các tên đất và người
e. Cách sáng tạo trong sử dụng hệ thống đại từ và tiẻu từ cuối câu
f. Cách cấu tạo và sử dụng cấu trúc vị từ
g. Tần suất cao đột biến của thành ngữ và quán ngữ./.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Ái ( 1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Tp Hồ Chí Minh.
2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (2003) Giao tiếp - Văn bản - Mạch lạc - Liên kết - Đoạn
văn, Khoa học xã hội.
4. G, Brown,G. Yule (2002) , Phân tích diễn ngôn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Văn học.
6. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương Ngôn ngữ học, T.2: Ngữ dụng học. Giáo dục.
8. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2005), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Giáo dục.
9. Hoàng Cao Cương (2000), Sự phát triển ngôn ngữ và ngôn ngữ đã phát
triển: Trường hợp tiếng Việt, (Số 1), Tr. 36-45, Ngôn ngữ.
10. Hoàng Cao Cương (2002), “Bảo vệ và phát triển tiếng Việt trong thời kì
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Ngôn ngữ quốc gia và đặc điểm
tiến trình của nó ở nước ta, Nxb tp Hồ Chí Minh.
11. Hoàng Cao Cương (2007), Cơ sở kết nối lời tiếng Việt I, Ngôn ngữ, (Số 8), tr.
1-13.
12. Hoàng Cao Cương (2007), Cơ sở nối kết lời tiếng Việt. II, ( Số 9), Tr. 32-49,
Ngôn ngữ.
13. Nguyễn Đức Dân, Đặng Thái Minh (1998), Nhập môn thống kê Ngôn ngữ
học, Nxb Giáo dục.
14. Chu Xuân Diên (2008), Nghiên cứu văn hóa dân gian, Nxb Giáo dục.
15. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Khoa học xã hội.
16. Nguyễn Thị Điệp (2009), Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn
Nam, Luận văn Cao học, Đại học Cần Thơ.
17. Hà Minh Đức (2000), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
95
18. Bằng Giang (1998), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930,Nxb Tp
Hồ Chí Minh.
19. Nguyễn Thiện Giáp (2003), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
20. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2005), Dẫn
luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
21. Trần Thị Hạnh (2012), Sơn Nam trong tiến trình văn học Nam Bộ,
www.yersin.edu.vn/Uploads/2013/03/Thong_Tin_KH_So_01_091.pdf.
22. K. Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, Nxb Hà Nội.
23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục.
24. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Viêt - Văn Việt - Người Việt, Nxb Giáo dục.
25. Cao Xuân Hạo (2006), Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Khoa
học xã hội.
26. B. Havranek (1997), Những nhiệm vụ của ngôn ngữ học và việc trau dồi
nó, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học từ Nhóm ngôn ngữ học Praha.
27. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ
điển văn học, Bộ mới, Thế giới.
28. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục.
29. Nguyễn Thái Hòa (2006), Từ điển: Tu từ - Phong cách - Thi pháp học, Nxb
Giáo dục.
30. M B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận văn học, Lại Nguyên Ân
dịch, Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
31. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội, Nxb Khoa học xã hội.
32. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (1995), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo
dục.
96
33. IU. Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
34. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên An (1992), Tác gia văn
học Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục,
35. V. Mathesius (1975), Ngôn ngữ và phong cách, Lê Xuân Thại dịch từ
Nhóm ngôn ngữ học Praha, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học.
36. Nguyễn Thị Thanh Nga (2000), Những từ ngữ mang sắc thái khẩu ngữ
trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn.
37. Hoàng Kim Ngọc, Hoàng Trọng Phiến (2011), Ngôn ngữ văn chương, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
38. Vương Trí Nhàn (1998), Sổ tay truyện ngắn, Hội nhà văn.
39. Nguyễn Văn Nở, Nguyễn Thị Tuyết Hoa (2015), Cách vận dụng từ địa
phương trong truyện ngắn của Sơn Nam, http. nguvan. hnue. vn/nghiencuu/
tabid/100/newstab/468/default.aspx.
40. D. Nunan (1998), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, Hồ Mỹ Huyền, Trúc
Thanh dịch, Nxb Giáo dục.
41. Nguyễn Nghiêm Phương (2009), Màu sắc Nam Bộ trong ngôn ngữ truyện
ký Sơn Nam, Luận văn Cao học, ĐHSP Tp Hồ Chí Minh.
42. G. Pospelov (1976), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.
43. F. de Saussure (1980), Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp.
44. Trần Đình Sử (2003), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
45. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb Tp Hồ Chí
Minh.
46. Đào Thản (1988), “Thử tìm hiểu vấn đề tiêu chí nhận dạng các đơn vị từ
vựng đặc trưng cho khẩu ngữ”, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt
từ ngữ, Nxb Khoa học xã hội.
47. Đào Thản (1990), Lối nói phóng đại trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, Số 4.
97
48. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
49. Lưu Khánh Thơ (2006), Văn học Việt Nam hiện đại - Tác giả, tác phẩm.,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
50. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (2005), Câu và thành phần câu
tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
51. L.Timôfeev (1976) , Nguyên l ý l ý luận văn học, Nxb Giáo dục.
52. Phạm Thị Thu Thủy (2011), Dấu ấn Nam Bộ trong tập truyện ngắn "Mùa
len trâu" của nhà văn Sơn Nam, www.tonvinhvanhoadoc.vn .
53. Huỳnh Công Tín (2006), Nhà văn Sơn Nam, nhà Nam Bộ hoc,
http:/namkyluctinh.org.a-vhbkhao/hcongtin-sonnsm.html.
54. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội.
55. T. Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi., ĐSQ Pháp & Đại học Sư phạm Hà
Nội.
56. Lê Thị Thùy Trang (2003), Đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn
1954-1975, Luận văn Cao học, ĐHSP Tp Hồ Chí Minh.
57. Cù Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
58. UBKHXH VN (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
59. G. Vegner (1979), Đọc từ văn bản đến ý nghĩa, Paris.
60. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt. Ngôn ngữ, Tung tâm Từ điển
học, Nxb Đà Nẵng.
61. Nguyễn Như Ý, Đặng Ngọc Lê, Phan Xuân Thành (2000), Từ điển đối
chiếu từ địa phương, Nxb Giáo dục.
62. Nguyễn Như Ý (2003), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo
dục.
98
99
PHỤ LỤC
1.Vốn từ địa phương Nam Bộ trong Hương rừng Cà Mau
TT Bậc Từ ngữ TSXH S.Truyện ĐPNÂ ĐPTV
1. 1 ổng 161 32 1
2. 2 rạch 71 43 1
3. 3 tụi tui 58 36 1
4. 4 tụi bây 43 36 1
5. 5 ghe 35 26 1
6. 6 hèn gì 28 18 1
7. 7 úy trời 26 17 1
8. rủi bề gì 26 15 1
9. bây 26 8 1
10. 8 lận 25 15 1
11. uổng 25 14 1
12. 9 ủa 24 18 1
13. lần hồi 24 8 1
14. 10 ăn thua 22 18 1
15. kinh xáng 22 12 1
16. 11 mùng 21 12 1
17. trời thần ơi 21 12 1
18. ảnh 21 8 1
19. láng 12 19 12 1
20. bậy nè 13 18 15 1
21. sau rốt 14 17 12 1
22. thủng thỉnh 17 12 1
23. đìa gừa 17 11 1
24. ngặt hổm rày 17 11 1
100
15 dè đâu 11 25. 16 1
26. rốt cuộc 16 9 1
27. chập sau 16 8 1
28. rủi thay 16 8 1
29. nhè 16 7 1
30. 16 bả 15 11 1
31. dè chừng 15 11 1
32. mớ 15 9 1
33. hổm rày 15 8 1
34. vô 15 7 1
35. 17 nói dóc 14 5 1
36. 18 hửi vô 13 11 1
37. khoảnh (đất) 13 11 1
38. té 13 11 1
39. mai mốt 13 9 1
40. day mặt 13 7 1
41. bữa rày 13 7 1
42. từng chập 13 7 1
43. xài dư giả 13 1 1
44. 19 lai rai 12 7 1
45. rảnh 12 7 1
46. xây xài 12 5 1
47. trích ré 12 2 1
48. 20 rủi 11 9 1
49. chặp sau 11 8 1
50. sao vậy cà 11 8 1
51. nhảy nhổm 11 7 1
101
11 xuồng 52. 7 1
11 biểu 53. 6 1
11 bọn mầy 54. 6 1
11 chóa lên 55. 6 1
11 chộn rộn 56. 6 1
11 đui 57. 6 1
11 từ rày về sau 58. 6 1
11 dây choại 59. 5 1
11 miệt 60. 5 1
11 nhứt 61. 5 1
11 đồn đãi 62. 4 1
11 heo 63. 4 1
11 tánh mạng 64. 4 1
11 thẩy 65. 4 1
9 21 ta 66. 7 1
9 ngộ 67. 7 1
9 mé 68. 6 1
9 tánh 69. 6 1
9 coi bộ 70. 5 1
9 mòng 71. 5 1
9 len 72. 2 1
8 22 nội (gtừ) 73. 7 1
8 coi chừng 74. 6 1
8 coi thử 75. 6 1
8 đây nè 76. 6 1
8 giề 77. 5 1
8 hồi nào tới giờ 78. 5 1
102
79. mí mùng 8 5 1
80. ba 8 4 1
81. bển 8 4 1
82. cổ 8 4 1
83. kêu 8 4 1
84. khổ thay 8 4 1
85. xả xui 8 4 1
86. cá lóc 8 3 1
87. mắc cỡ 8 3 1
23 cha 88. 7 6 1
ấp 89. 7 5 1
90. buồn so 7 5 1
91. lỡ bề gì 7 5 1
92. sanh nhai 7 5 1
93. thố lộ 7 5 1
94. úy 7 5 1
95. bữa hổm 7 4 1
96. chấp chóe 7 4 1
97. mùa nước 7 4 1
98. ngoải 7 4 1
99. ăn ong 7 3 1
100. giăng mùng 7 3 1
101. hươi 7 3 1
102. không chừng 7 3 1
103. lục bình 7 3 1
104. lung 7 3 1
105. mèm 7 3 1
103
106. mùng mền 7 3 1
107. tanh rình 7 3 1
108. tất tả 7 3 1
109. bà con 7 2 1
110. giăng câu 7 2 1
111. làm biếng 7 2 1
112. thứ thiệt 7 2 1
113. tịch thâu 7 2 1
114. chỉ 7 1 1
115. 24 sanh bệnh 6 6 1
116. chòi 6 5 1
117. mắc dịch 6 5 1
118. ngó lui 6 5 1
119. trật 6 5 1
120. ui da 6 5 1
121. nầy 6 4 1
122. ôi thôi 6 4 1
123. chàng bè 6 3 1
124. đồ mắc dịch 6 3 1
125. nhứt định 6 3 1
126. tuân lịnh 6 3 1
127. ụa mửa 6 3 1
128. mậy 6 2 1
129. ngải mọi 6 2 1
130. nín 6 2 1
131. dì 6 1 1
5 132. 25 nóp 5 1
104
133. bậy bạ 5 4 1
134. hoan nghinh 5 4 1
135. má 5 4 1
136. phen đó 5 4 1
137. bài kía 5 3 1
138. bịnh 5 3 1
139. bợm nhậu 5 3 1
140. bữa đó 5 3 1
141. chồm hổm 5 3 1
142. coi 5 3 1
143. cục cựa 5 3 1
144. cườm tay 5 3 1
145. day lại 5 3 1
146. dòm 5 3 1
147. gan ta 5 3 1
148. hén 5 3 1
149. hên 5 3 1
150. hồi giờ 5 3 1
151. may thay 5 3 1
152. ngọn kinh 5 3 1
153. nhởn nhơ 5 3 1
154. ót 5 3 1
155. phò hộ 5 3 1
156. rảnh rỗi 5 3 1
157. sanh nghi 5 3 1
158. sát nhơn 5 3 1
159. thỏn mỏn 5 3 1
105
160. tối thui 5 3 1
161. bảnh quá 5 2 1
162. (cái) bóp 5 2 1
163. cha nội 5 2 1
164. châu đáo 5 2 1
165. con mẻ 5 2 1
166. con nít 5 2 1
167. dượng 5 2 1
168. hưỡn binh 5 2 1
169. kỳ cục 5 2 1
170. làm mai 5 2 1
171. nhột 5 2 1
172. nuốt lệ 5 2 1
173. quày quả 5 2 1
174. sanh sống 5 2 1
175. đươn 5 1 1
176. xổ ra 5 1 1
4 4 177. 26 bậy quá 1
178. nhơn mạng 4 4 1
179. nước lớn 4 4 1
180. ốm 4 4 1
181. coi kìa 4 3 1
182. cổi 4 3 1
183. để coi 4 3 1
184. đờn ca 4 3 1
185. hơ hãi 4 3 1
186. Huê kiều 4 3 1
106
187. nhúm lửa 4 3 1
188. nước ròng 4 3 1
189. ráng sức 4 3 1
190. rảnh rang 4 3 1
191. rầy la 4 3 1
192. tiểu nhơn 4 3 1
193. tui 4 3 1
194. ái ôi 4 2 1
195. bịnh tật 4 2 1
196. bông súng 4 2 1
197. câu sấu 4 2 1
198. đông nghẹt 4 2 1
199. huê tình 4 2 1
200. hườn 4 2 1
201. mồi nhậu 4 2 1
202. nghe lóm 4 2 1
203. nhang 4 2 1
204. nhơn lực 4 2 1
205. rắn rít 4 2 1
206. thậm phải 4 2 1
207. thây 4 2 1
208. thấy mẹ rồi 4 2 1
209. trái mận 4 2 1
210. trển 4 2 1
211. xui xẻo 4 2 1
3 3 212. 27 chớ gì 1
3 3 213. dơ dáy 1
107
214. hôi thúi 3 3 1
215. hửi 3 3 1
216. lũ khũ 3 3 1
217. mai chiều 3 3 1
218. nạp 3 3 1
219. rẫy 3 3 1
220. sình lầy 3 3 1
221. sồn sột 3 3 1
222. thánh nhơn 3 3 1
223. vui vẽ 3 3 1
224. xài 3 3 1
225. bàn chưn 3 2 1
226. bận quần 3 2 1
227. bất nhơn 3 2 1
228. bênh cùi 3 2 1
229. bịnh hoạn 3 2 1
230. bỏ mạng 3 2 1
231. cao nghệu 3 2 1
232. chun vô nóp 3 2 1
233. cỡi 3 2 1
234. cười ngất 3 2 1
235. dòm ngó 3 2 1
236. dụm chân 3 2 1
237. đàng kia 3 2 1
238. đẩm máu 3 2 1
239. đen mốc 3 2 1
240. đen nghẹt 3 2 1
108
241. đùa giỡn 3 2 1
242. gièm xiểm 3 2 1
243. giỏi thiệt 3 2 1
244. hé nóp 3 2 1
245. hó hé 3 2 1
246. hòm 3 2 1
247. hư 3 2 1
248. hươi nanh 3 2 1
249. khuất dạng 3 2 1
250. la mắng 3 2 1
251. lẫm lúa 3 2 1
252. lểnh nghểnh 3 2 1
253. lủng lớp da 3 2 1
254. mai hậu 3 2 1
255. mai kia mốt nọ 3 2 1
256. mích lòng 3 2 1
257. móp méo 3 2 1
258. nạn nhơn 3 2 1
259. ngộp thở 3 2 1
260. nhơn đạo 3 2 1
261. nhỡn nhơ 3 2 1
262. nói thiệt 3 2 1
263. nước miếng 3 2 1
264. ông cha mồ tổ 3 2 1
265. ở trần 3 2 1
266. ở truồng 3 2 1
267. phì phà 3 2 1
109
268. quơ chân 3 2 1
269. ruộng sạ 3 2 1
270. sủa bậy 3 2 1
271. té ngửa 3 2 1
272. thảnh thót 3 2 1
273. thâu hoạch 3 2 1
274. thối lui 3 2 1
275. tội chết 3 2 1
276. trái 3 2 1
277. trái cây 3 2 1
278. xe đò 3 2 1
279. xơ rơ 3 2 1
280. chánh phạm 3 1 1
281. chụp hình 3 1 1
282. coi mạch 3 1 1
283. dọ 3 1 1
284. đánh hơi 3 1 1
285. nhơn từ 3 1 1
286. rô ti 3 1 1
287. siêng 3 1 1
288. sổ sữa 3 1 1
289. tanh ói 3 1 1
290. thúc hối 3 1 1
291. tổ cha 3 1 1
2 2 292. 28 bạc mạng 1
293. bàu 2 2 1
294. bày đặt 2 2 1
110
295. bổn xứ 2 2 1
296. buộc giò 2 2 1
297. chàng ràng 2 2 1
298. chóa 2 2 1
299. chùm nhum 2 2 1
300. chưn 2 2 1
301. chưn trời 2 2 1
302. coi mê quá 2 2 1
303. cú rũ 2 2 1
304. cùi cụi 2 2 1
305. cưng 2 2 1
306. dài thòn 2 2 1
307. đèn cầy 2 2 1
308. đèn sáp 2 2 1
309. đỏ hói 2 2 1
310. đọt 2 2 1
311. đút 2 2 1
312. giựt mình 2 2 1
313. hé 2 2 1
314. hít hà 2 2 1
315. hông nhà 2 2 1
316. hươi chân 2 2 1
317. lào xào 2 2 1
318. lé đé 2 2 1
319. lẽo lự 2 2 1
320. lép xẹp 2 2 1
321. lêu bêu 2 2 1
111
322. lóm thóm 2 2 1
323. lở lói 2 2 1
324. lú 2 2 1
325. lua láo 2 2 1
326. lục lạo 2 2 1
327. lui cui 2 2 1
328. mĩm cười 2 2 1
329. nài nỉ 2 2 1
330. neo đậu 2 2 1
331. ngột thở 2 2 1
332. nhơ bợn 2 2 1
333. nhựt bổn 2 2 1
334. nhựt trình 2 2 1
335. quần cụt 2 2 1
336. rãi rác 2 2 1
337. rày đây mai đó 2 2 1
338. rọi 2 2 1
339. rổn rảng 2 2 1
340. rượt 2 2 1
341. sanh bịnh 2 2 1
342. sanh đẻ 2 2 1
343. sanh linh 2 2 1
344. sanh mạng 2 2 1
345. sập sận 2 2 1
346. tay mặt 2 2 1
347. thằng chả 2 2 1
348. thấp chủn 2 2 1
112
349. xớ rớ 2 2 1
350. xụi lơ 2 2 1
351. be sườn 2 1 1
352. bọt mồm 2 1 1
353. chánh trị 2 1 1
354. chó đồng 2 1 1
355. chun vô bụng 2 1 1
356. coi hình 2 1 1
357. danh tánh 2 1 1
358. dọ thám 2 1 1
359. đức tánh 2 1 1
360. heo nái 2 1 1
361. kim tỉnh 2 1 1
362. lanh lẹ 2 1 1
363. lồm cồm 2 1 1
364. ngán lắm 2 1 1
365. nghinh đón 2 1 1
366. nhụy bông 2 1 1
367. phơn phớt 2 1 1
368. quậy 2 1 1
369. quơ 2 1 1
370. sanh ly 2 1 1
371. sanh hoạt 2 1 1
372. sanh tử 2 1 1
373. tấn thối 2 1 1
374. thiếm 2 1 1
375. thiềng thị 2 1 1
113
376. 1 tróc vỏ 2 1
377. 1 tròng đỏ 2 1
378. 1 trúng số 2 1
379. 1 uổng công 2 1
380. 1 ừ hử 2 1
381. 1 ướt mèm 2 1
382. 1 xà lỏn 2 1
383. 1 xóc cây tréo 2 1
384. 29 ăn kết 1 1 1
385. 1 ẩn thân 1 1
386. 1 bạc phếu 1 1
387. 1 ban sơ 1 1
388. 1 báo hại 1 1
389. 1 binh vực 1 1
390. 1 bổn chánh 1 1
391. 1 bổng dưng 1 1
392. 1 bụm lại 1 1
393. 1 cấp bực 1 1
394. 1 cây dao 1 1
395. 1 cha chả 1 1
396. 1 chàng hảng 1 1
397. 1 chánh thức 1 1
398. 1 chắt lưỡi 1 1
399. 1 chén cơm 1 1
400. 1 chết ngộp 1 1
401. 1 co rút 1 1
402. 1 cù cưa cù nhằng 1 1
114
403. cự nự 1 1 1
404. dông dổng 1 1 1
405. dở ẹt 1 1 1
406. dùng bữa 1 1 1
407. dưa leo 1 1 1
408. đám nói 1 1 1
409. đậu phộng 1 1 1
410. đổ ghèn 1 1 1
411. đổ quạu 1 1 1
412. đứt néo 1 1 1
413. gởi 1 1 1
414. ham ăn 1 1 1
415. hảo hớn 1 1 1
416. háo thắng 1 1 1
417. hăm he 1 1 1
418. hè hụi 1 1 1
419. hỉ mũi 1 1 1
420. hiếm hiệm 1 1 1
421. hinh hỉnh 1 1 1
422. hỉnh lỗ mũi 1 1 1
423. hổn hể 1 1 1
424. hông mui 1 1 1
425. hộp quẹt 1 1 1
426. hốt xương 1 1 1
427. hủ tiếu 1 1 1
428. hùi hụi 1 1 1
429. kết tóc 1 1 1
115
430. khảy đàn 1 1 1
431. khinh khi 1 1 1
432. kiếng 1 1 1
433. la hoảng 1 1 1
434. lả ngọn 1 1 1
435. lãng nhách 1 1 1
436. láo liên 1 1 1
437. lắc léo 1 1 1
438. lập dập 1 1 1
439. lâu mau 1 1 1
440. leo lẻo 1 1 1
441. lều bều 1 1 1
442. linh đinh 1 1 1
443. ló dạng 1 1 1
444. loi ngoi 1 1 1
445. loi nhoi 1 1 1
446. lóng nhóng 1 1 1
447. lòng thòng 1 1 1
448. lỏng bỏng 1 1 1
449. lồ ô 1 1 1
450. lợn cợn 1 1 1
451. lum khum 1 1 1
452. lụm khụm 1 1 1
453. lụp 1 1 1
454. lượm 1 1 1
455. mái lá 1 1 1
456. mãn 1 1 1
116
mạt vận 457. 1 1 1
mịt mùng 458. 1 1 1
mòn lẳn 459. 1 1 1
mù u 460. 1 1 1
mụ bà 461. 1 1 1
mùa hạn 462. 1 1 1
mùa nực 463. 1 1 1
múa men 464. 1 1 1
mướn 465. 1 1 1
mượn tiền 466. 1 1 1
mướt rượt 467. 1 1 1
neo 468. 1 1 1
nghèo mạt 469. 1 1 1
nhát ma 470. 1 1 1
nhảy phóc 471. 1 1 1
nhằm bữa 472. 1 1 1
nhậu 473. 1 1 1
nhẹp xác 474. 1 1 1
nhìn xéo 475. 1 1 1
nhỏ rí 476. 1 1 1
nhỏ thó 477. 1 1 1
nhọn lễu 478. 1 1 1
nhồn nhột 479. 1 1 1
nhủi 480. 1 1 1
như vầy 481. 1 1 1
nóc chòi 482. 1 1 1
nóc đầu 483. 1 1 1
117
484. nói hớt 1 1 1
485. nói nhảm 1 1 1
486. nổi sình 1 1 1
487. ốm o 1 1 1
488. ống vố 1 1 1
489. phách lối 1 1 1
490. phẩn heo 1 1 1
491. phổi phèo 1 1 1
492. phổng tay trên 1 1 1
493. phú quới 1 1 1
494. quến cục 1 1 1
495. rã bành tô 1 1 1
496. rác rến 1 1 1
497. rán 1 1 1
498. rầu 1 1 1
499. rèn rẹt 1 1 1
500. riu ríu 1 1 1
501. rối nùi 1 1 1
502. rôm rốp 1 1 1
503. rồn rột 1 1 1
504. rớt lềnh 1 1 1
505. rớt xuống 1 1 1
506. rửa hận 1 1 1
507. rừng khô nước 1 1 1
508. sanh nhựt 1 1 1
509. sanh tật 1 1 1
510. sanh thời 1 1 1
118
511. sát rạt 1 1 1
512. sói sọi 1 1 1
513. số mạng 1 1 1
514. tằn khạo 1 1 1
515. tằng hắng 1 1 1
516. tâm bịnh 1 1 1
517. tấm thớt 1 1 1
518. tèm hem 1 1 1
519. tệ 1 1 1
520. thao láo 1 1 1
521. thằng quỷ 1 1 1
522. thẳng giấc 1 1 1
523. thẳng thớm 1 1 1
524. thỏa thuê 1 1 1
525. thọc huyết heo 1 1 1
526. thỏi thịt 1 1 1
527. thơ thới 1 1 1
528. thường bữa 1 1 1
529. tòn ten 1 1 1
530. tốt phước 1 1 1
531. trai tơ 1 1 1
532. trao tráo 1 1 1
533. trắc nết 1 1 1
534. trắng phếu 1 1 1
535. tróc lên 1 1 1
536. trối chết 1 1 1
537. trơn láng 1 1 1
119
538. 1 tùm lum 1 1
539. 1 tư bề 1 1
540. 1 un trâu 1 1
541. 1 vàng hực 1 1
542. 1 vàng lườm 1 1
543. 1 vặn họng 1 1
544. 1 vô doan 1 1
545. 1 vồ đá 1 1
546. 1 vững bụng 1 1
547. 1 xá xị 1 1
548. 1 xăm xoi 1 1
549. 1 xụ mặt 1 1
2743 192 357 Cộng
% 100% 34.85% 65.03%
2. Tên đất trong Hương rừng Cà Mau
STT Tên đất STT Tên đất
1. (ấp) Cà Bây Ngọp 84. (ngã) Năm
2. (ấp) Đông Bình 85. (ngã) Năm Bình Hòa
3. (ấp) Tây Sơn 86. (ngã) Tư
4. (bàu) Sấu 87. (ngọn) Cái Cau
5. (cầu) Chữ Y(SG) 88. (ngọn) Xẻo Bần
6. (cầu) Đúc 89. (núi) Tà Lơn
7. (chợ) Châu Đốc 90. (núi) Ba Thê
8. (chợ) Cần Giọt 91. (núi) Dài
9. (chợ) Gò Quao 92. (núi) Cấm
10. (chợ) Long Xuyên 93. (núi) Ông Cấm
11. (chợ) Ngã Năm 94. (núi) Sam
120
12. (chợ) Ô Môn 95. (núi) Sập
13. (chợ) Rạch Giá 96. (núi) Thất Sơn
14. (chợ) Sóc Xoài 97. (phá) Đại Ngãi
15. (chợ) T.B 98. (quận) An Biên
16. (chợ) Thới Bình 99. (quận) Gò Quao
17. (chợ) Vàm 100. (quận) Châu Thành
18. (chợ) Vĩnh Kim 101. (rạch) Bình Thủy
19. (chợ) Xẽo (Xẻo) Rô 102. (rạch) Cà Bơ He
20. (chùa) Sóc Ven 103. (rạch) Cái Bần
21. (cửa) Bồ Đề 104. (rạch) Cái Cam
22. (đầm) Sấu 105. (rạch) Cái Cau
23. (đìa) Gừa 106. (rạch) Cái Mau
24. (điện) Cán Dù 107. (rạch) Cái Tàu
25. (đình) Cái Dầu (AG) 108. (rạch) Chắc Băng
26. (đồn) Cái Côn 109. (rạch) Cóc
27. (đồn) Thứ Ba 110. (rạch) Giá
28. (đường) Bàng 111. (rạch) Giồng
(đường) Huỳnh Quang Tiên 112. (rạch) Ruộng 29. (SG)
30. (đường) Trần Hưng Đạo (SG) 113. (rạch) Sậy
31. (gành) Đá Trắng 114. (rạch) Thuồng Luồng
32. (giồng cát) Sóc Xoài 115. (rạch) Thứ Năm
33. (giồng) Riềng 116. (rạch) Thứ Sáu
34. (gò) Cây Thị 117. (rạch) Thứ Tư
35. (gò) Mả Lạn 118. (rộc) Lá
36. (hang) Cây Gừa 119. (ruộng) Lò Bom
37. (hòn) Cổ Tron 120. (rừng) Ngã Bát
121
38. (hòn) Cổ Sơn 121. (rừng) U Minh
39. (hòn) Dài 122. (rừng) U Minh Hạ
40. (hòn) Đá Bạc 123. (rừng) U Minh Thượng
41. (hòn) Đất 124. (sân chim) Cái Nước
42. (hòn) Mẫu 125. (sân chim) Thầy Quơn
43. (hòn) Móng Tay 126. (sân chim)) Thứ Nhất
44. (hòn) Nam Du 127. (sông) Cái
45. (hòn) Sóc 128. (sông) Cái Lớn
46. (hòn) Sơn Rái 129. (sông) Cửa Lớn
47. (hòn) Rái 130. (sông) Gành Hào
48. (hòn) Tre 131. (sông) Ngã Ba Đình
49. (khu) Đìa 132. (sông) Ông Đốc
50. (kinh) Dài 133. (sông) Trèm Trẹm
51. (kinh) Mười Lăm 134. (sông) Cầu Ông Lãnh
52. (kinh) Thầy Cai Hanh 135. (thôn) An Hòa
53. (kinh) Xáng Lái Hiếu 136. (vàm) Cái Cau
(kinh) Xáng Rạch Giá– Hà 137. (vàm) Răng 54. Tiên
55. (làng) Bình An 138. (vịnh) Xiêm La
56. (làng) Đông Hòa 139. (vồ) Cẩm Thạch
57. (làng) Đông Hưng 140. (vùng) Ba Láng
58. (làng) Đông Thái 141. (vùng) Thất Sơn
59. (làng) Đông Yên 142. (vùng) Trà Ban
60. (làng) Khánh Lâm 143. (xẻo) Gừa
61. (làng) Long Tuyền 144. (xẻo) Quao
62. (làng) Mỹ Lâm 145. (xóm) Bánh Tầm
63. (làng) Sóc Sơn 146. (xóm) Bòn Bon
122
64. (làng) Tam Giang 147. (xóm) Cái Côn
65. (làng) Tây Yên 148. (xóm) Cái Nước
66. (làng) Thạnh Hòa 149. (xóm) Cán Gáo
67. (làng) Vân Khánh Đông 150. (xóm) Cây Gáo
68. (làng) Vĩnh Hòa 151. (xóm) Cù Là
69. (bờ) (sông/kinh) Na Rộn 152. (xóm) Đình
70. (lộ) Thầy Cai Hanh 153. (xóm) Khoen Tà Tưng
71. (lung) Cây Kè 154. (xóm) Lê Trì
72. (lung) Sấu 155. (xóm) Ngã Bát
73. (miễu) Bà Chúa Sứ 156. (xóm) Ngan Trâu
74. (miễu) Ông Tà 157. (xóm) Ngọn
75. (miễu) Thổ Địa 158. (xóm) Rau Dừa
76. (miệt) Bảy Núi 159. (xóm) Sậy Níu
77. (miệt) Hóc Môn 160. (xóm) Sóc Xoài
78. (miệt) Long Hưng 161. (xóm) Tà Lốc
79. (miệt) Vũng Liêm 162. (xóm) Tân Bằng
80. (mũi) Hà Bá 163. (xóm) Thuồng Luồng
81. (mương) Vàm 164. (xóm) Vàm
82. (ngã) Bảy 165. (xóm) Ngọn Xẽo Bần
83. (ngã) Bảy Chợ Lớn 166. (xứ) Cạnh Đền
3. Một số tương ứng ngữ âm giữa từ Nam Bộ và từ toàn dân
STT Từ Từ Ví dụ
Nam Bộ toàn dân
[ư] [â] nhứt là về đêm [HRCM.1.137] 1.
[i] [e] binh vực cho xứ Cạnh Đền [HRCM.1.110] 2.
[a] (ngắn) [i] đáp lại thạnh tình ấy [HRCM.1.54] 3.
[e] [ăj] ở đây nè [HRCM.1.115] 4.
123
rồi kiếu từ lập tức [HRCM.1.62] 5. [ie] [a]
cũng đủ ghim miểng nát bấy [HRCM.1.55] 6. [ie] [(cid:0)]
(ngắn)
nhiểu vài giọt trên giấy [HRCM.1.59] 7. [iew] [(cid:0)]
tên thiệt của tôi [HRCM.1.75] 8. [ie] [(cid:0)]
(ngắn)
9. [u] [(cid:0)] núp ở gần bờ đìa [HRCM.1. 123]
(ngắn)
để xác tổng Hanh hui thúi … [HRCM.2.297] 10. [u] [o]
bên trong lú ra một vật khác [HRCM.1.58] 11. [u] [(cid:0)]
để tụi tui về nấu thử [HRCM.1.57] 12. [u] [o]
quẹt máy nhúm lửa.. [HRCM.3.122] 13. [u] [(cid:0)]
14. [o] [aw] rủi chìm xuồng thì lội vô [HRCM.1.146]
cổi cái áo...[HRCM.1.131] 15. [o] [(cid:0)]
chế tạo xà bông bổn xứ [HRCM.1.57] 16. [o] [a]
vói tay lên [HRCM.1.104] 17. [(cid:0)] [(cid:0)]
anh đến thọ giới [HRCM.1.65] 18. [(cid:0)] [u]
chấp tay chào [HRCM.1.146] 19. [(cid:0)] [ă]
nạn nhơn dầu lội giỏi…[HRCM.1.146] 20. [(cid:0)] [(cid:0)]
(ngắn)
không còn gởi qua [HRCM.1.59] 21. [(cid:0)] [(cid:0)]
chốn thiềng thị [HRCM.1.165] 22. [ie] [(cid:0)]
(ngắn)
[(cid:0)] 23. [ie] nước tro mới hiệp với dầu dừa[HRCM.1.59]
[a] 24. [(cid:0)(cid:0)] cũng đương làm mướn[HRCM.1.74]
25. [wat] [uo] hạ dầm xuống khoát nước[HRCM.1.101]
124
26. [we] [wa] để được huề [HRCM.1.102]
27. [a] người bạc mạng [HRCM.1.154] [e]
28. [ă] được cạy miệng [HRCM1.61] [(cid:0)]
(ngắn)
29. [ă] [(cid:0)] ghi lằn mặt nước ấy [HRCM1.61] (ranh)
(ngắn)
30. [(cid:0)] [l] ngồi ì ở nhà [HRCM1.75]
[(cid:0)n] 31. [(cid:0)] chỉ cần thanh niên lanh lẹ [HRCM1.76]
[kw] 32. [v] đã vấn chiếc khăn nhiễu [HRCM1.100]
[s] 33. [t'] đường về trơn như thoa mỡ [HRCM1.164]
[l] 34. [b] năm bảy bận [HRCM1.101]
[(cid:0)] 35. [l] chỉ cần thanh niên lanh lẹ [HRCM1.76]
[(cid:0)] 36. [l] ghi lằn mặt nước ấy [HRCM1.61]
[z] 37. [(cid:0)] Sao không nhốt nó lại [HRCM.2.19]
[(cid:0)] 38. [z] nhìn dáo dác [HRCM.1.69]
[n] 39. [(cid:0)] mấy ngày rày [HRCM.1.205]
[s] 40. [z] day mặt qua một bên [HRCM.1.143]
[(cid:0)] 41. [l] muốn biết mặn hay lạt [HRCM.1.58]
[l] 42. [c] không làm chóa mắt [HRCM.1.129]
[(cid:0)] 43. [(cid:0)] nhảy nhót, gờn gờn trên lá [HRCM.1.108]
[ŋ] 44. [(cid:0)] bao nhiêu trai làng gấm ghé [HRCM.1.81]
[ăt] 45. [ăk] có chất sắc thêm vô, [HRCM.2.139]
46. [(cid:0)n] [(cid:0)n] cái chưn vịt tàu [HRCM.2.139]
47. [un] [uj] …rồi chun vô nóp..[HRCM.2.139]
48. [u] [(cid:0)w] ….bầy muỗi bu quanh nó [HRCM.1.205]
125
49. [(cid:0)w] [u] kế hoạch châu đáo [HRCM.1.61]
50. Thanh [6] Thanh [3] không lẽ tôi tự vận [HRCM.1.76]
51. Thanh [3] Thanh [6] thiên hạ đồn đãi nhiều [HRCM.1.120]
52. Thanh [6] Thanh [2] tự sáu tháng nay [HRCM.1.73]
53. Thanh [4] Thanh [3] hai thứ ấy cứ lỏng bỏng [HRCM.1.59]
54. Thanh [4] Thanh [5] không dám hở môi thố lộ ra [HRCM.1.54]
55. Thanh [5] Thanh [1] nào ai dám hó hé [HRCM.1.123]
56. Thanh [5] Thanh [2] nhắm hướng hòn Đá Bạc [HRCM.1.71]
4. Từ ngữ Nam Bộ từ vựng có TSXH cao nhất và thấp nhất
TT Bậc Từ ngữ TSXH Số truyện
1 1. rạch 71 43
2 2. ghe 35 26
3 3. hèn gì 28 18
4 4. úy trời 26 17
5. rủi bề gì 26 15
5 6. lận 25 15
7. uổng 25 14
6 8. ủa 24 18
9. lần hồi 24 8
7 10. ăn thua 22 18
11. kinh xáng 22 12
8 12. trời thần ơi 21 12
13. ảnh 21 8
14. láng 9 19 12
15. bậy nè 10 18 15
16. sau rốt 11 17 12
126
17. đìa gừa 17 11
18. 12 dè đâu 16 11
19. rốt cuộc 16 9
20. chập sau 16 8
21. rủi thay 16 8
22. dè chừng 15 11
23. mớ 15 9
24. 13 nói dóc 14 5
25. 14 khoảnh (đất) 13 11
26. té 13 11
27. mai mốt 13 9
28. day mặt 13 7
29. từng chập 13 7
30. xài dư giả 13 1
31. 15 lai rai 12 7
32. rảnh 12 7
33. xây xài 12 5
34. trích ré 12 2
35. 16 rủi 11 9
36. chặp sau 11 8
37. sao vậy cà 11 8
38. nhảy nhổm 11 7
39. xuồng 11 7
40. chộn rộn 11 6
41. đui 11 6
42. dây choại 11 5
43. miệt 11 5
127
44. heo 11 4
45. thẩy 11 4
46. 17 ta 9 7
47. ngộ 9 7
48. mé 9 6
49. coi bộ 9 5
50. mòng 9 5
51. len 9 2
Từ ngữ Nam Bộ từ vựng có TSXH thấp nhất (=1)
TT Bậc Từ ngữ TSXH Số .tuyện
307. nhảy phóc 1 1
308. nhằm bữa 1 1
309. nhậu 1 1
310. nhìn xéo 1 1
311. nhỏ thó 1 1
312. nhồn nhột 1 1
313. như vầy 1 1
314. nóc chòi 1 1
315. nóc đầu 1 1
316. nói hớt 1 1
317. nói nhảm 1 1
318. nồi sình 1 1
319. ốm o 1 1
320. ống vố 1 1
128
321. phách lối 1 1
322. phổi phèo 1 1
323. rã bành tô 1 1
324. rác rến 1 1
325. rầu 1 1
326. rèn rẹt 1 1
327. riu ríu 1 1
328. rối nùi 1 1
329. rôm rốp 1 1
330. rửa hận 1 1
331. rừng khô nước 1 1
332. tằn khạo 1 1
333. tâm bịnh 1 1
334. tấm thớt 1 1
335. tèm hem 1 1
336. tệ 1 1
337. thao láo 1 1
338. thằng quỷ 1 1
339. thẳng giấc 1 1
340. thẳng thớm 1 1
341. thỏa thuê 1 1
342. thọc huyết (heo) 1 1
343. thỏi thịt 1 1
344. thường bữa 1 1
345. trai tơ 1 1
346. trao tráo 1 1
347. trắc nết 1 1
129
348. trối chết 1 1
349. trơn láng 1 1
350. tùm lum 1 1
351. tư bề 1 1
352. vàng hực 1 1
353. vàng lườm 1 1
354. vặn họng 1 1
355. vồ đá 1 1
356. vững bụng 1 1
357. xá xị 1 1
5.Tổng quan xuất xứ YTĐS trong CTĐD Tên đất Nam Bộ trong HRCM
chia theo nhóm
YẾU TỐ ĐỨNG SAU YẾU TỐ ĐỨNG TRƯỚC Hán Việt Khơ Me Pháp Toàn dân Nam Bộ CỘNG
1 miệt 1 1 2
xứ 2 1
1 vùng 3 1 1
A 2 4 quận 1
khu 5 1
N Ă V N Â H N
I
4 1 2 5 12 0 Cộng
33.33% 8.33% 0.00% 16.67% 41.67% 100.00% %
Á H T H N I S
1 1 thôn B
2 2 ấp 1
1 3 xóm 5 4 11
4 làng 14
18 6 4 11 39 0 Cộng
130
46.15% 15.38% 0.00% 10.26% 28.21% 100.00% %
đồn 1 1 1
chợ 4 2 2 1 6 C 4 3 1 0 15 7 Cộng
26.67% 6.67% 0.00% 20.00% 46.67% 100.00% %
điện 1 1 D
đình 2 1
chùa 3 1
4 miễu 1 1 1
1 1 2 0 6 2 Cộng
16.67% 33.33% 0.00% 16.67% 33.33% 100.00% %
giồng 1 2
gò 2 1 1 E ruộng 3 1
0 1 1 0 6 3 Cộng
0.00% 20.00% 0.00% 20.00% 60.00% 100.00% %
lộ 1 1
đường 2 2 1
cầu 3 2 F 1 ngã 4 4
3 7 11 1 0 0 Cộng
27.27% 0.00% 0.00% 63.64% 9.09% 100.00% %
I
bàu 1 1
đầm 2 1
G N Ê I H N Ự T
Á H T H N I S
đìa 3 1
lung 4 1 1
131
vàm 5 1 1
xẻo 6 2
rừng 3 7 1
núi 1 8 3 4
vồ 1 9
10 hang 1
11 sân chim 1 2
5 4 0 8 9 26 Cộng
19.23% 15.38% 0.00% 30.77% 34.62% 100.00% %
bờ 1 1
cửa 1 2
kinh 3 2 3
4 mương 1
rạch 1 5 2 7 7 H rộc 6 1
sông 7 5 3
ngọn 8 2
phá 1 9
3 4 2 37 16 12 Cộng
8.11% 10.81% 5.41% 43.24% 32.43% 100.00% %
gành 1 1
vịnh 1 2
hòn 2 3 2 7 1 I 1 4 mũi
Cộng 4 2 0 8 1 15
% 26.67% 13.33% 0.00% 53.33% 6.67% 100.00%
6. Thành ngữ, Tục ngữ và biến thể trong Hương rừng Cà Mau
132
Hương rừng Cà Mau tập 1.
STT Thành ngữ, tục ngữ STT Thành ngữ, tục ngữ
1. Ẩn sĩ quy điền 16. Ngồi không sanh bất thiện
2. Bốn biển là nhà 17. Ngũ hồ tứ hải giai huynh đệ
3. Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị 18. Nhà xẹc đông nghẹt dân nghèo
4. Chém ruồi ai dụng gươm 19. Nói mười tin một
vàng làm chi
5. Chọn bạn mà chơi 20. Nuôi quân ba tháng, dụng quân
một ngày.
6. Đứa ăn thôi nôi, đứa nôi đầy 21. Nước chảy đá mòn
tháng
7. Gan ruột cùng mình 22. Sanh bất phùng thời
8. Gần đất xa trời 23. Sợi dây cưa mãi cũng đứt
9. Gần mực thì đen 24. Tay làm hàm nhai
10. Kiến tha lâu cũng đầy tổ 25. Tấn thối lưỡng nan
11. Mai danh ẩn tích 26. Thực lục chi thê
12. Mẹ tròn con vuông 27. Trăng trong gió mát
13. Môn đăng hộ đối 28. Treo bông kết nuột
14. Nghèo rã bành tô 29. Trèo cao té nặng
15. Ngó cao đau ót 30. Vạn sự bằng an
Hương rừng Cà Mau tập 2.
STT Thành ngữ, tục ngữ STT Thành ngữ, tục ngữ
Biết chết nhưng cũng nhào vô 35. Mình đồng da sắt 1.
Cá gặp nước, rồng gặp mây 36. Ném đá giấu tay 2.
Cao bay xa chạy 37. Ngày lành hơn, tháng tốt hơn 3.
Chém ruồi ai dụng gươm 38. Ngọc lành chờ đôi giá cao 4.
vàng làm chi
133
5. Chia cơm xẻ áo 39. Ngồi lê đôi mách
6. Chiêu quân mãi mã 40. Người đời muôn sự của chung
7. Chim trời cá nước 41. Ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục
8. Cò bay thẳng cánh 42. Nước đổ lá môn
9. Có tiếng mà không có miếng 43. Ốm o gầy mòn
10. Con chim ghét nhau vì tiếng 44. Phất cờ gióng trống
gáy
11. Cơm không lành canh chẳng 45. Quân tử tham tài, tiểu nhân tham
thực ngọt
12. Cùng đường cùng xá Sanh nghề tử nghiệp 46.
13. Đa mưu đa trí Sanh sau đẻ muộn 47.
14. Đại phú do thiên, tiểu phú 48. Tai nghe mắt thấy
do cần
15. Đạp tuyết tầm mai 49. Tai vách mạch rừng
16. Đất bằng sóng dậy 50. Tài hèn đức kém
17. Đeo bông kết nuột 51. Tán gia bại sản
18. Điếc con ráy 52. Tanh rình tanh ói
19. Điệu hổ ly sơn 53. Tay lấm chơn bùn
20. Được kiện như sọ trâu khô, 54. Thắt lưng buộc bụng
thất kiện như mồ ma chết
21. Gái ngoan làm quan cho chồng 55. Thời thế tạo anh hùng
22. Giả đò mua khế bán chanh 56. Thủ khẩu như bình
23. Giá trong tuyết sanh 57. Thua me gở bài cào
24. Ghen bóng ghen gió 58. Thuốc dạy thầy, cây dạy thợ
25. Họa vô đơn chí 59. Tích thiện phùng thiện
26. Hô phong phán võ 60. Tiền mất tật còn
27. Khẩy đờn vào tai trâu 61. Tiếng bấc tiếng chì
134
28. Khôn nhà dại chợ 62. Tu nhân tích đức
29. Lá thắm chỉ hông 63. Tương kế tựu kế
30. Lấy độc trị độc 64. Vàng thiệt không sợ lửa
31. Liên tu bất tận 65. Việc gì đến sẽ đến
32. Lỡ khóc, lỡ cười 66. Voi một ngà, heo một nanh,
người một mắt đều là thú dữ
33. Mai kia mốt nọ 67. Vong gia thất thế
34. Mắng chó mắng mèo
Hương rừng Cà Mau tập 3.
STT Thành ngữ, tục ngữ STT Thành ngữ, tục ngữ
Bá phát bá trúng 34. Nam nữ thọ thọ bất thân 1.
Bận rộn thê nhi 35. Ngàn năm một thuở 2.
Biến đổi tang thương 36. Nghĩa hiệp anh hùng 3.
Cá nước chim trời 37. Ngồi mát ăn bát vàng 4.
Cám treo để heo nhịn đói 38. Nhát như thỏ đế 5.
Cắm sào đợi nước 39. Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy 6.
khúc
Có trời mà cũng có ta 40. Nhứt bến đò, nhì lò rèn 7.
Cóc mà bày đặt trèo thang 41. Sanh bất phùng thời 8.
Công thành danh toại Sanh nghề tử nghiệp 42. 9.
10. Dòi trong xương dòi ra Sôi kinh nấu sử 43.
11. Đâm heo chuốc chó Tai nghe mắt thấy 44.
12. Đầu đội trời chân đạp đất Tai vách mạch rừng 45.
13. Tam cung lục diện 46.
14. Được voi đòi tiên Tham phú phụ bần 47.
15. Gà đẻ gà cục tác Tham sanh úy tử 48.
16. Gần chầu diêm chúa Thanh thiên bạch nhật 49.
135
17. Già kén kẹn hom 50. Thẫn thờ như mất hồn
18. Giữa đám người đui thằng 51. Thớt có tanh tao ruồi mới đến
chột làm vua
19. Hiền nhơn quân tử Thù nhơ oán chạ 52.
20. Hồn ai nấy giữ Thừa cơ nước đục thả câu 53.
21. Khỉ ho cò gáy Thương người như thể thương thân 54.
22. Khóc hổ ngươi, cười ra 55. Tiên vi chủ, hâu vi khách
nước mắt
23. Khôn sống mống chết Tiền mất tật còn 56.
24. Lá lành đùm lá rách Trai tơ gái lứa 57.
25. Làm nhu để chờ vác cái lu 58. Tri âm tri kỷ
mà chạy
26. Long bản hổ cứ 59. Trong thì trống đánh rập rình
Ngoài thì trai gái tự tình với nhau
27. Long vĩ xà đầu 60. Tu nhân tích đức
28. Lương tâm cắn rứt 61. Vừa đánh trống vừa ăn cắp
29. Mạng ai nấy lo 62. Vàng thau lẫn lộn
30. Mẹ góa con côi 63. Vàng thiệt đâu sợ lửa
31. Mò kim đáy bể 64. Vô tri vô giác
32. Môn đăng hộ đối 65. Vô ơn bạc nghĩa
33. Một miếng thịt làng bằng
một sàng thịt chợ
136