Luận văn: Thực trạng và giải pháp phát triển đa dạng hoá sản phẩm ở Công ty CP Dược và TBVTYT Bộ GTVT TRAPHACO
lượt xem 43
download
Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: thực trạng và giải pháp phát triển đa dạng hoá sản phẩm ở công ty cp dược và tbvtyt bộ gtvt traphaco', luận văn - báo cáo, quản trị kinh doanh phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Thực trạng và giải pháp phát triển đa dạng hoá sản phẩm ở Công ty CP Dược và TBVTYT Bộ GTVT TRAPHACO
- Luận văn Thực trạng và giải pháp phát triển đa dạng hoá sản phẩm ở Công ty CP Dược và TBVTYT Bộ GTVT TRAPHACO
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi to lớn về nhiều mặt. Sự chuyển hướng phát triển nền kinh tế đất nước từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường là nền tảng cho những thay đổi tích cực đó. Kinh tế thị trường đã đặt ra trước mắt các doanh nghiệp nhiều thử thách nhưng cũng mang tới những cơ hội để doanh nghiệp có thể tự khẳng định mình. Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải biết áp dụng những kiến thức mới về quản trị doanh nghiệp vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đa dạng hoá sản phẩm là một khuynh hướng phát triển ngày càng phổ biến của doanh nghiệp công nghiệp và là điều kiện để doanh nghiệp thích ứng và phát triển trong môi trường kinh doanh đầy biến động. Trong những khó khăn chung của nền kinh tế mới phát triển, nhiều doanh nghiệp đã vươn lên từ sức mạnh nội lực, luôn duy trì được sản xuất và đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao động. Công ty cổ phần Dược và thiết bị vật tư y tế TRAPHACO là một doanh nghiệp như vậy. Có được thành công này là do doanh nghiệp đã chọn cho mình một hướng đi đúng đắn "Đa dạng hoá sản phẩm mang tính chiến lược tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thương trường " Trong quá trình thực tập tại công ty, cùng với những lý luận được trang bị trong quá trình học tập nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế quốc dân và xuất phát từ thực tế tại công ty, em đã chọn đề tài: "Giải pháp phát triển đa dạng hoá sản phẩm ở Công ty CP Dược và TBVTYT Bộ GTVT TRAPHACO " để thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Nội dung chuyên đề gồm các phần chính sau : Phần I : Những vần đề cơ bản về đa dạng hoá sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp. Phần II : Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại công ty TRAPHACO Phần III : Một số giải pháp về đa dạng hoá sản phẩm ở công ty TRAPHACO -5- Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd Phần I: Những vấn đề cơ bản về đa dạng hoá sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp. I . Thực chất của đa dạng hoá: 1. Sản phẩm : 1.1. Khái niệm sản phẩm công nghiệp : Sản phẩm công nghiệp hiểu theo cách đơn giản nhất chính là yếu tố đầu ra của doanh nghiệp, là kết quả của quá trình biến đổi các yếu tố đầu vào dưới sự tác động của tư liệu sản xuất. Theo quan niệm cổ điển, sản phẩm công nghiệp là tổng hợp các đặc trưng vật lý hoá học có thể quan sát và được tập hợp trong một hình thức đồng nhất là vật mang giá trị sử dụng. Trong nền kinh tế hàng hoá cùng với sự phát triển của các quan hệ trao đổi buôn bán, sản phẩm công nghiệp còn chứa đựng các thuộc tính hàng hoá, không chỉ là vật mang giá trị sử dụng mà còn mang giá trị trao đổi hay giá trị. Theo quan điểm Marketing, sản phẩm được định nghĩa là " mọi thứ có thể chào bán trên thị trường để chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng, có thể thoả mãn được một mong muốn hay nhu cầu ". Như vậy khái niệm về sản phẩm hàng hoá mang tính chất phức tạp bởi lẽ mỗi sản phẩm đều có những nét đặc trưng về vật chất và tâm lý như: chất lượng, mầu sắc, nhãn mác, cách sử dụng, giao hàng và thực hiện thanh toán, dịch vụ sau bán hàng...Sản phẩm với những nhãn hiệu cụ thể tạo ra cho người tiêu dùng một hình ảnh, một tín hiệu để nhận biết về doanh nghiệp và xác nhận sự hiện diện của doanh nghiệp trên thị trường . Mỗi sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp phải đáp ứng một nhu cầu, vì đó là lời hứa hẹn với khách hàng hay người tiêu dùng. Người mua thường quan niệm sản phẩm hàng hoá là của cải vật chất hay dịch vụ mà họ mua để thoả mãn nhu cầu của mình do đó mỗi sản phẩm được coi là lời giải đáp cho một nhu cầu đã tìm thấy trên thị trường, doanh nghiệp phải bán cái mà khách hàng cần chứ không phải cái mình có. Nghiên cứu sản phẩm về thực chất là tìm hiểu thái độ chấp nhận của khách hàng đối với sản phẩm của mình. 1.2. Phân loại sản phẩm : -6- Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd Các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm hàng hoá là để bán và do sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp mang tính chất đa dạng nên phải phân loại để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kinh doanh. Trong thực tiễn người ta phân loại sản phẩm theo rất nhiều cách khác nhau nhưng để phục vụ cho việc tìm hiểu về đa dạng hoá có thể xem xét một số cách phân loại chủ yếu sau. 1.2.1. Phân loại theo tính chất sử dụng : Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: sản phẩm công cộng và sản phẩm cá nhân. - Sản phẩm công cộng là sản phẩm mà việc tiêu dùng của người này không làm ảnh hưởng đến việc tiêu dùng của người khác như đường xá, cầu cống, các công trình văn hoá, các di tích lịch sử... - Sản phẩm cá nhân là sản phẩm mà khi một người đã tiêu dùng thì người khác không thể tiêu dùng sản phẩm đó .Ví dụ như quần áo, thực phẩm... Sản phẩm cá nhân có tính cạnh tranh mạnh mẽ còn sản phẩm công cộng không có tính cạnh tranh. 1.2.2. Phân loại sản phẩm theo mối quan hệ với thu nhập : Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm hàng hóa thông thường và hàng xa xỉ. - Hàng thông thường là những sản phẩm mà mọi tầng lớp trong xã hội có thể tiêu dùng một cách bình thường như giày dép, chất đốt... - Hàng xa xỉ là những sản phẩm dành cho các đối tượng có thu nhập cao trong xã hội như kim cương, áo lông thú... 1.2.3. Phân loại sản phẩm theo khả năng thay thế lẫn nhau: Theo cách phân loại này, sản phẩm công nghiệp bao gồm: hàng hoá bổ sung và hàng hoá thay thế - Hàng hoá bổ sung là hàng hoá khi tiêu dùng phải theo một cơ cấu và đồng bộ nhau, không thể tách rời nhau đ ược như: ô tô và xăng, thuốc lá và bật lửa.. - Hàng hoá thay thế là hàng hoá tiêu dùng độc lập với nhau và khi cần có thể thay thế cho nhau như: bếp điện và bếp ga, dầu và than.. 1.2.4. Phân loại sản phẩm theo tuổi thọ của sản phẩm: - Hàng hoá lâu bền là hàng hoá có thể sử dụng được trong một thời gian dài như ô tô, xe máy, nhà cửa... -7- Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd - Hàng hoá không lâu bền như những vật rẻ tiền nhanh hỏng: đũa tre, guốc mộc... 1.2.5. Phân loại sản phẩm theo tần số mua: - Hàng mua thường xuyên: là hàng hoá rất cần thiết cho cuộc sống hàng ngày mà người tiêu dùng phải sử dụng thường xuyên như quần áo, giày dép.. - Hàng mua không thường xuyên: là loại hàng hoá mà người tiêu dùng không tiêu dùng chúng thường xuyên như quần áo cưới ... 1.2.6. Phân loại sản phẩm theo mức độ chế biến sản phẩm: - Sản phẩm trung gian: là những sản phẩm còn phải trải qua một số bước chế biến nữa mới trở thành sản phẩm hoàn chỉnh phục vụ cho tiêu dùng như sợi để dệt vải, vải để may quần áo.. - Sản phẩm cuối cùng là những sản phẩm hoàn chỉnh có thể phục vụ cho tiêu dùng như xe máy, văn phòng phẩm.. 1.3. Năm mức độ của sản phẩm: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, khi lập kế hoạch sản phẩm của mình nhà kinh doanh cần suy nghĩ đầy đủ về năm mức độ của sản phẩm. Mức độ cơ bản nhất chính là ích lợi cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ bản mà khách hàng thực sự mua. Ngưòi kinh doanh phải luôn coi mình là người cung ứng ích lợi. Ví dụ như trong trường hợp khách sạn, người khách nghỉ đêm mua " sự nghỉ ngơi và giấc ngủ ". ở mức độ thứ hai, người kinh doanh phải biến lợi ích cốt lõi thành sản phẩm chung chính là dạng cơ bản của sản phẩm đó vì thế khách sạn phải là một toà nhà có các phòng để cho thuê. ở mức độ thứ ba, ngưòi kinh doanh chuẩn bị một sản phẩm mong đợi, tức là tập hợp các thuộc tính và điều kiện người mua thường mong đợi và chấp nhận khi họ mua sản phẩm đó. Ví dụ như khách đến khách sạn mong đợi một cái giường sạch sẽ, xà bông, khăn tắm và một mức độ yên tĩnh tương đối. V ì hầu hết các khách sạn có thể đáp ứng được mong muốn tối thiểu này nên khách du lịch thường không có thiên vị đối với khách sạn nào mà họ sẽ vào bất k ì khách sạn nào thuận tiện nhất . ở mức độ thứ tư, người kinh doanh chuẩn bị một sản phẩm hoàn thiện thêm tức là sản phẩm bao gồm những dịch vụ và ích lợi phụ thêm làm cho sản -8- Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd phẩm của công ty khác với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Ví dụ khách sạn có thể hoàn thiện thêm sản phẩm của mình bằng cách đăng kí khách nhanh chóng, bổ sung sữa tắm, bữa ăn ngon và phục vụ tốt v.v..Cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày nay chủ yếu ở mức độ hoàn thiện sản phẩm. ở mức độ thứ năm là sản phẩm tiềm ẩn, tức là những sự hoàn thiện và biến đổi mà sản phẩm đó cuối cùng có thể nhận được trong tương lai. Trong khi sản phẩm hoàn thiện thể hiện những gì đã được đưa vào sản phẩm ngày hôm nay thì sản phẩm tiềm ẩn lại chỉ nêu ra hướng phát triển khả dĩ của nó. Đây chính là nơi các công ty tìm kiếm tích cực những cách thức mới để thoả mãn khách hàng và tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình. Sự xuất hiện của một số khách sạn thượng hạng mà ở đó khách có thể ở nhiều phòng là một sự đổi mới khách sạn truyền thống. Một số công ty đã bổ sung cho sản phẩm của mình những ích lợi không những thoả mãn mà còn làm cho khách hàng vui lòng bằng cách mang đến những sự ngạc nhiên bất ngờ cho họ khi tiêu dùng sản phẩm của công ty mình 1.4. Danh mục sản phẩm : Một danh mục sản phẩm là tập hợp tất cả những loại sản phẩm và mặt hàng mà một người bán cụ thể đưa ra để bán cho người mua. Danh mục sản phẩm của một công ty sẽ có chiều rộng, chiều dài, chiều sâu và một mật độ nhất định Chiều rộng danh mục sản phẩm thể hiện công ty có bao nhiêu loại sản phẩm khác nhau. Chiều dài danh mục sản phẩm là tổng số mặt hàng của công ty . Chiều sâu danh mục thể hiện có bao nhiêu phương án của mỗi sản phẩm trong một loại. Mật độ của danh mục sản phẩm thể hiện mối quan hệ mật thiết đến mức độ nào giữa các loại sản phẩm khác nhau xét theo cách sử dụng cuối c ùng, thiết bị sản xuất hay kênh phân phối nào khác. Bốn chiều này của danh mục sản phẩm tạo nên những căn cứ để xây dựng chiến lược sản phẩm của công ty. Công ty có thể khuyếch trương doanh nghiệp của mình theo nhiều cách. Công ty có thể mở rộng danh mục sản phẩm bằng cách bổ sung những sản phẩm mới. Công ty có thể kéo dài từng loại sản phẩm. Công ty có thể bổ sung thêm các phương án sản phẩm cho từng sản -9- Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd phẩm và tăng chiều sâu của danh mục. Cuối cùng công ty có thể tiếp tục tăng hay giảm mật độ của loại sản phẩm tùy theo ý đồ của công ty muốn có uy tín vững chắc trong một lĩnh vực hay tham gia vào nhiều lĩnh vực. Việc lập kế hoạch danh mục sản phẩm chủ yếu tùy thuộc vào trách nhiệm của những người hoạch định chiến lược của công ty căn cứ vào những thông tin do người làm công tác marketing của công ty cung cấp. Họ phải đánh giá những loại sản phẩm cần phát triển, cần duy trì, cần thu hoạch và cần loại bỏ. 2. Đa dạng hoá sản phẩm và sự cần thiết của đa dạng hoá sản phẩm trong doanh nghiệp công nghiệp : 2.1. Thực chất của đa dạng hoá sản phẩm: Trong hệ thống mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi doanh nghiệp có hai mục tiêu được coi là cơ bản, tạo tiền đề cho các mục tiêu khác đó là việc tạo ra sản phẩm với chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của thị trường và xã hội và việc đạt được lợi nhuận tối đa sau mỗi chu kỳ kinh doanh trên cơ sở nâng cao hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện có hiệu quả hệ thố ng mục tiêu kinh tế-xã hội nói chung và hai mục tiêu nói riêng mỗi doanh nghiệp phải xác định được cơ cấu sản phẩm hợp lý của mình. Tính hợp lý của mỗi cơ cấu sản phẩm chỉ thích ứng với những điều kiện nhất định trong mỗi kỳ kinh doanh do đó khi những điều kiện ấy có sự thay đổi thì cơ cấu sản phẩm cũng phải thay đổi để đạt tính hợp lý mới điều đó có nghĩa là cơ cấu sản phẩm của công ty phải mang tính " động " để thích ứng với nền kinh tế thị trường cạnh tranh sôi động. Sự hoàn thiện và đổi mới cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp được thực hiện theo nhiều cách khác nhau như : - Thu hẹp danh mục sản phẩm bằng cách loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, những sản phẩm kém sức cạnh tranh và những sản phẩm không có khả năng tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Giữ nguyên chủng loại sản phẩm đang sản xuất nhưng cải tiến, hoàn thiện những sản phẩm ấy về hình thức, về nội dung, tạo thêm nhiều kiểu dáng và thế hệ sản phẩm mới . - Bổ sung thêm vào danh mục sản phẩm những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển của khoa học, công nghệ. - 10 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd - Chuyển hoá vị trí các sản phẩm trong cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp, đưa những sản phẩm ở vị trí hàng thứ lên vị trí hàng đầu hoặc ngược lại bằng cách thay đổi định lượng sản xuất mỗi loại. Trong thực tế, các hướng trên đây được thực hiện xen kẽ lẫn nhau. Nếu cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp thay đổi theo hướng thu hẹp lại, đảm bảo sự tập trung cao hơn về sản xuất thì doanh nghiệp phát triển theo hướng chuyên môn hoá. Ngược lại cơ cấu sản phẩm được mở rộng ra, doanh nghiệp phát triển theo hướng đa dạng hoá...Trong những thời k ì nhất định và trên một thị trường nhất định doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng hoá thông qua hình thức cải tiến , hoàn thiện sản phẩm đã có hoặc là đưa ra những sản phẩm mới hoàn toàn có thể cùng loại hoặc khác biệt so với những sản phẩm cũ nhưng doanh nghiệp cũng có thể kết hợp cả hai hình thức trên nhằm thỏa mãn đáp ứng cao nhất nhu cầu của thị trường. Như vậy đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp là việc mở rộng danh mục sản phẩm, nó gắn liền với quá trình đổi mới và hoàn thiện cơ cấu sản phẩm, nhằm đảm bảo doanh nghiệp thích ứng được với sự biến động của môi trường kinh doanh. Đa dạng hoá sản phẩm là một nội dung cụ thể của đa dạng hoá sản xuất và đa dạng hoá kinh doanh công nghiệp. Khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, doanh nghiệp chỉ mở rộng danh mục các sản phẩm công nghiệp của mình, nghĩa là hoạt động của doanh nghiệp vẫn chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Khi thực hiện đa dạng hoá sản xuất, thì ngoài lĩnh vực truyền thống là sản xuất công nghiệp, doanh nghiệp còn có thể thâm nhập sang các lĩnh vực sản xuất khác. Chẳng hạn, thâm nhập sang các lĩnh vực sản xuất công nghiệp không phải truyền thống, sang lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng cơ bản...Còn khi thực hiện đa dạng hoá kinh doanh ( hay kinh doanh tổng hợp ) doanh nghiệp có thể phát triển sang cả lĩnh vực thương mại, dịch vụ... Mối quan hệ giữa đa dạng hoá sản phẩm và kế hoạch hoá sản xuất - kinh doanh được thể hiện ở chỗ khi xác định phương án đa dạng hoá sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định rõ chủng loại sản phẩm, khối lượng sản phẩm của mỗi loại, thị trường tiêu thụ, khả năng đảm bảo các yếu tố đầu vào, khả năng huy động vốn đầu tư và dự kiến lợi nhuận sẽ đạt được. - 11 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd Đa dạng hoá sản phẩm là một khuynh hướng phát triển ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp công nghiệp. Các tổ chức kinh tế lớn như tập đoàn kinh doanh thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, kinh doanh đa ngành và đa lĩnh vực hoạt động. Số lượng và chủng loại hàng hoá lưu thông trên thị trường thực chất cũng là một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế nói chung. Nhiều doanh nghiệp độc lập với các quy mô khác nhau cũng thực hiện đa dạng hoá sản phẩm và trong thực tế việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm đã không những giúp doanh nghiệp đạt đ ược các mục tiêu kinh tế và phi kinh tế như lợi nhuận hay thế lực trên thị trường mà còn đóng góp rất lớn vào sự phát triển của toàn xã hội nhờ tạo ra nhiều loại hàng hoá mang lại lợi ích và thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. 2.2. Sự cần thiết phải đa dạng hoá : 2.2.1. Nhu cầu thị trường ngày càng phong phú, đa dạng và thường xuyên biến đổi : Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, đời sống xã hội cũng ngày càng được nâng cao về nhiều mặt. Trong cuộc sống ngày nay, nhu cầu của con người không chỉ bó gọn ở mức độ thấp như có ăn, có mặc mà phải là ăn ngon mặc đẹp ngoài ra còn có nhu cầu vui chơi, giải trí, nhu cầu thẩm mĩ rất cao. Như vậy so với trước kia trong thời kì kế hoạch hoá tập trung tự cung tự cấp, nhu cầu thị trường mang tính cứng nhắc và bị áp đặt bởi chính các yếu tố cung, giờ đây nhu cầu mới là nhân tố thực sự quyết định sự vận động của thị trường. Các sản phẩm không thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường khi chúng chỉ mang " ích lợi cốt lõi " đơn thuần mà còn phải mang tính thẩm mĩ, sự tiện nghi và phong phú về chủng loại. Việc một loại sản phẩm có c ùng giá trị sử dụng nhưng có thêm một số đặc tính khác để thoả mãn từng đoạn thị trường nhất định chính là một biểu hiện của hoạt động đa dạng hoá sản phẩm. Đa dạng hoá sản phẩm tạo ra nhiều mặt hàng mới phong phú với chất lượng cao tăng phương án sản phẩm để người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn. Theo quy luật tất yếu, thị trường luôn vận động và biến đổi không ngừng làm nảy sinh những nhu cầu mới cao hơn, phong phú hơn tạo ra những thách thức và cũng đồng thời mang đến những cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp. Trong môi trường kinh doanh sôi động mà người thành công là người biết " nắm lấy các cơ hội ", doanh nghiệp phải luôn bám sát các diễn biến của quan hệ cung - 12 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd cầu trên thị trường, xây dựng cơ cấu sản phẩm tối ưu thich ứng với sự linh hoạt của thị trường. Thực tế cho thấy hiện nay các doanh nghiệp luôn cố gắng làm mới và mở rộng danh mục sản phẩm của mình dựa trên sự hoàn thiện không ngừng các sản phẩm hiện có song song với việc đưa vào sản xuất những mặt hàng mới đón đầu nhu cầu thị trường, tạo thế chủ động của doanh nghiệp trên thương trường. Sự phong phú và biến đổi không ngừng của thị trường đã đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động sáng tạo trong việc tạo ra một cơ cấu sản phẩm " động " thông qua hoạt động đa dạng hoá sản phẩm mới có thể tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt " thương trường là chiến trường ". 2.2.2. Do tiến bộ của khoa học công nghệ nên chu kỳ sống của sản phẩm bị rút ngắn Ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra với tốc độ nhanh như vũ bão. Một khối lượng đồ sộ các phát minh sáng chế ra đời đã tạo ra ngày càng nhiều công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên liệu mới. Điều đặc biệt là hàm lượng tri thức hay tỷ trọng phần mềm trong các công nghệ mới này là rất lớn chính vì vậy thời gian tồn tại của các công nghệ này rất ngắn và điều này cũng đồng nghĩa với việc sản phẩm của doanh nghiệp bị đào thải nhanh hơn. Chu kỳ sống của một sản phẩm được chia ra 4 pha: bắt đầu, phát triển, bão hoà, suy thoái. Các thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng ngày càng rộng rãi vào sản xuất làm cho giai đoạn bão hoà và suy thoái của một sản phẩm đến nhanh hơn. Sự lạc hậu nhanh chóng của công nghệ và sản phẩm không cho phép doanh nghiệp tự hài lòng với những gì hiện có mà phải tranh thủ nắm bắt kịp thời những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ và sử dụng những thành tựu ấy như một lợi thế cạnh tranh. Vì vậy doanh nghiệp phải luôn xem xét, đánh giá sản phẩ m đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống nếu đang ở giai đoạn bão hoà doanh nghiệp sẽ tìm cách cải tiến sản phẩm đó để kéo dài tuổi thọ của sản phẩm hoặc chuẩn bị nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trường. Sự xuất hiện của các ngành công nghệ mới vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm mới, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm như một phương thức phát triển của doanh nghiệp. 2.2.3. Xu hướng chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá trong sản xuất kinh doanh: - 13 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd Việc nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp là cơ sở để xác định đúng đắn con đường, phương hướng và điều kiện phát triển các hình thức tổ chức sản xuất tương ứng. Về hình thức, khi mức độ đa dạng hoá sản phẩm càng cao trình độ chuyên môn hoá sản xuất của doanh nghiệp càng thấp nhưng xét về nội dung đó không phải là hai quá trình độc lập mà có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Thứ nhất, bản thân sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp cũng phả i được hoàn thiện, cải tiến về hình thức và nội dung, tăng thêm kiểu cách, mẫu mã để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Theo nội dung này, sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp được đa dạng theo hình thức biến đổi chủng loại. Thứ hai, với nhiều doanh nghiệp việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn hoá thường không sử dụng hết các nguồn lực sẵn có. Bởi vậy trong khi coi nâng cao một cách hợp lý trình độ chuyên môn hoá là phương hướng chủ đạo của phát triển doanh nghiệp, doanh nghiệp vẫn cần mở rộng da nh mục sản phẩm để tận dụng các nguồn lực sản xuất. Với nội dung này, đa dạng hoá sản phẩm tạo thành " tuyến sản phẩm " hỗ trợ quan trọng cho phát triển chuyên môn hoá. Thứ ba, có rất nhiều phương thức thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nhưng đa dạng hóa sản phẩm dựa trên cơ sở nền tảng các điều kiện vật chất kĩ thuật của chuyên môn hoá ban đầu mang lại, sẽ giảm bớt được nhu cầu đầu tư. Đây chính là ràng buộc của chuyên môn hoá đến việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy, để xây dựng cơ cấu sản phẩm động mang tính linh hoạt thì bản thân sản phẩm chuyên môn hoá của doanh nghiệp cũng phải được đa dạng hoá và đây được coi là xu hướng tất yếu đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững trong môi trường kinh doanh thiên biến vạn hoá. 2.2.4. Phân tán rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh : Mục tiêu chính của các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh là lợi nhuận nhưng trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, sự thành công của doanh nghiệp bị đe dọa bởi rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Một cơ hội kinh doanh có khả năng thu lợi càng lớn thì mức độ rủi ro kinh - 14 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd doanh xảy ra đối với doanh nghiệp càng cao. Các nguyên nhân gây ra rủi ro có thể đến từ các yếu tố nội tại của doanh nghiệp như máy móc thiết bị không đồng bộ, công nghệ lạc hậu, thiếu vốn...hay từ môi trường kinh doanh như sự thay đổi đột ngột nhu cầu, chính sách kinh tế của nhà nước, thiên tai...Rủi ro kinh doanh xảy ra có thể gây thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp về nhiều mặt v ì vậy khi xây dựng các phương án kinh doanh, doanh nghiệp rất quan tâm đến việc ngăn ngừa rủi ro đảm bảo độ an toàn cao nhất cho doanh nghiệp. Một trong những biện pháp giúp doanh nghiệp giảm thiểu những rủi ro là thực hiện đa dạng hoá sản phẩm để tạo ra các tuyến sản phẩm với nhiều thang, dòng bổ sung lẫn nhau thay vì chỉ tập trung sản xuất một sản phẩm khi các yếu tố khách quan biến động có thể dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp. 2.2.5. Đa dạng hoá góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp : Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh. Một hiện tượng có tính phổ biến tồn tại trong các doanh nghiệp hiện nay là các nguồn lực không được tận dụng hết mức sản xuất thực tế mà thường nằm dưới đường giới hạn khả năng sản xuất. Sự lãng phí nguồn lực có thể do: đầu tư không đúng mục đích, đọng vốn lớn, không sử dụng hết công suất thiết bị máy móc hay không tận dụng hết chất có ích của nguyên liệu...Việc đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực sẵn có cho phép doanh nghiệp tăng năng lực sản xuất, đạt được lợi nhuận tối đa ngoài ra còn tăng thêm thu nhập cho người lao động, giải quyết việc làm và các mục tiêu xã hội khác. Tóm lại, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm được coi là một xu hướng tất yếu khách quan đối với các doanh nghiệp công nghiệp giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển vững chắc trong nền kinh tế thị trường hiện hay. II. Các hình thức đa dạng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng hoá sản phẩm : 1. Các hình thức đa dạng hoá sản phẩm : Trong quá trình mở rộng kinh doanh các doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng hoá sản phẩm với những hình thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại đa dạng hoá sản phẩm. - 15 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd 1.1. Xét theo sự biến đổi danh mục sản phẩm : có các hình thức đa dạng hoá sau đây: 1.1.1. Biến đổi chủng loại : Đó là quá trình hoàn thiện và cải tiến các loại sản phẩm đang sản xuất đang sản xuất để giữ vững thị trường hiện tại và thâm nhập vào thị trường mới, nhờ sự đa dạng về kiểu cách, cấp độ hoàn thiện của sản phẩm thoả mãn thị hiếu, điều kiện sử dụng và khả năng thanh toán của những khách hàng khác nhau. Sự hoàn thiện ấy có thể thuần tuý về hình thức sản phẩm ( kiểu dáng, mẫu mã ) hoặc về nội dung sản phẩm ( chất lượng, cấp độ hoàn thiện về kỹ thuật ) hoặc cả về hình thức và nội dung sản phẩm. 1.1.2. Đổi mới chủng loại: Loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, những sản phẩm khó tiêu thụ và bổ sung những sản phẩm mới vào danh mục sản phẩm của doanh nghiệp. Những sản phẩm được bổ sung này có thể là sản phẩm mới tuyệt đối ( đối với doanh nghiệp và với thị trường ) hoặc sản phẩm mới tương đối ( mới với doanh nghiệp nhưng không mới với thị trường ). Việc thực hiện hình thức đa dạng hoá sản phẩm này gắn liền với việc doanh nghiệp rời bỏ một số thị trường cũ và gia nhập những thị trường mới. 1.1.3. Hình thức hỗn hợp: Kết hợp một số nội dung của hình thức thứ nhất và thứ hai vừa nêu. Nghĩa là doanh nghiệp vừa cải tiến, hoàn thiện một số sản phẩm đang sản xuất, vừa loại bỏ những sản phẩm không sinh lợi, vừa bổ sung những sản phẩm mới vào danh mục sản phẩm của mình. 1.2. Xét theo tính chất của nhu cầu sản phẩm: 1.2.1. Đa dạng hoá theo chiều sâu nhu cầu mỗi loại sản phẩm: Đó là việc tăng thêm kiểu cách, mẫu mã của cùng một loại sản phẩm để đáp ứng toàn diện nhu cầu của các đối tượng khác nhau về cùng một loại sản phẩm. Ví dụ như doanh nghiệp sản xuất kem đánh răng có thể có kem đánh răng chống sâu răng cho trẻ em, kem đánh răng muối.. Việc thực hiện hình thức đa dạng hoá sản phẩm này gắn liền với việc phân đoạn thị trường sản phẩm. 1.2.2. Đa dạng hoá theo bề rộng nhu cầu các loại sản phẩm: thể hiện ở việc doanh nghiệp chế tạo một số sản phẩm có kết cấu, công nghệ sản xuất và giá trị - 16 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd sử dụng cụ thể khác nhau, để thoả mãn đồng bộ một số nhu cầu có liên quan với nhau của một đối tượng tiêu dùng. Ví dụ như doanh nghiệp không chỉ sản xuất kem đánh răng mà còn sản xuất bàn chải đánh răng. Việc thực hiện hình thức đa dạng hoá sản phẩm này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực lớn về tài chính, công nghệ để xây dựng doanh nghiệp quy mô lớn, cơ cấu sản xuất phức tạp. 1.2.3. Đa dạng hoá theo hướng thoát ly sản phẩm gốc, đưa sản phẩm mới vào danh mục của doanh nghiệp: Nếu hai hình thức đa dạng hoá sản phẩm nêu trên vẫn lấy một loại sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu làm cơ sở để mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp thì ở hình thức này sản phẩm được mở rộng không có liên quan đến sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu cả về giá trị sử dụng và công nghệ sản xuất. 1.3. Xét theo mối quan hệ với sử dụng nguyên liệu chế tạo sản phẩm: 1.3.1. Sản xuất những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có chung chủng loại nguyên liệu gốc. Ví dụ, nhà máy sứ vừa sản xuất sứ dân dụng, sứ mỹ nghệ, sứ điện, vừa sản xuất sứ vệ sinh. Các sản phẩm này có giá trị sử dụng khác nhau nhưng đều sử dụng cao lanh và các loại men xương làm nguyên liệu chính. 1.3.2. Sử dụng tổng hợp các chất có ích chứa đựng trong một loại nguyên liệu để sản xuất một số loại sản phẩm coa giá trị sử dụng khác nhau. Chẳng hạn trong công nghiệp mía đường, người ta sử dụng không những tổng hợp cây mía để sản xuất ra đường mà còn để sản xuất ra cồn công nghiệp, ván ép... 1.4. Xét theo phương thức thực hiện : 1.4.1. Đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực hiện có của doanh nghiệp : Bằng việc áp dụng hình thức này, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được đầu tư, giảm bớt thiệt hại do rủi ro khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tận dụng được khả năng sản xuất hiện có. Tuy nhiên sự tận dụng này lại hạn chế khả năng mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp. 1.4.2. Đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở nguồn lực hiện có kết hợp với đầu tư bổ sung : - 17 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd Nghĩa là việc mở rộng danh mục sản phẩm đòi hỏi phải có đầu tư, nhưng đầu tư này chỉ giữ vị trí bổ sung nhằm khắc phục khâu yếu hoặc khâu sản xuất mà doanh nghiệp còn thiếu. So với hình thức trên, khả năng mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp được nâng cao hơn 1.4.3. Đa dạng hoá sản phẩm bằng đầu tư mới: Hình thức này thường được áp dụng khi doanh nghiệp đang triển khai sản xuất những sản phẩm mới, mà khả năng sản xuất hiện tại không thể đáp ứng được. Trong trường hợp này nhu cầu đầu tư thường lớn và xác suất rủi ro sẽ cao hơn, nhưng khả năng sản xuất được mở rộng hơn. Tóm lại, từ các hình thức đa dạng hoá sản phẩm nêu trên ta thấy, trong phạm vi hoạt động sản xuất-kinh doanh của mỗi doanh nghiệp có thể có nhiều hình thức đa dạng hoá sản phẩm, các hình thức này đan xen cùng tồn tại và bổ sung cho nhau, ưu điểm của mỗi hình thức đa dạng hoá sản phẩm chỉ được thể hiện khi doanh nghiệp bảo đảm cho nó những điều kiện thích hợp mà hình thức này đòi hỏi. Dù áp dụng một hay nhiều hình thức đa dạng hoá sản phẩm thì cũng làm cho danh mục sản phẩm của mỗi doanh nghiệp được mở rộng, cơ cấu sản phẩm trở nên phức tạp hơn và mỗi doanh nghiệp sẽ có thêm nhiều thang, dòng và mặt hàng sản phẩm. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng hoá sản phẩm: 2.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp: 2.1.1. Nhu cầu thị trường: Trong điều kiện cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp phải bám sát nhu cầu của thị trường và đưa ra thị trường những sản phẩm và dịch vụ mà thị trường cần. Việc điều tra phân tích nhu cầu thị trường phải được coi là một trong những công tác quan trọng hàng đầu trong quản lý doanh nghiệp và quản lý ngành công nghiệp. Trong chiến lược đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp, yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng lớn nhất đến phương hướng và mức độ đa dạng hoá chính là nhu cầu thị trường. - Kiểu cách mẫu mã, kích cỡ mỗi loại sản phẩm mà thị trường đòi hỏi. Việc phân khúc nhu cầu thị trường có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích nhu cầu thị trường về mỗi loại sản phẩm. Vì vậy để cung cấp một hàng hoá, dịch vụ với một số lượng, chất lượng, giá cả, thời gian cung ứng cụ thể theo - 18 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd đúng yêu cầu của khách hàng thì việc xác định đúng phân đoạn thị trường sẽ quyết định sự thành công của doanh nghiệp. - Nhu cầu sản phẩm có liên quan đến người tiêu dùng, nghĩa là phân tích bề rộng nhu cầu các sản phẩm. Để xác định phương hướng đa dạng hoá sản phẩm cũng cần phải xem xét điều kiện để sản xuất các sản phẩm, kết cấu và tính chất sản phẩm. - Các loại sản phẩm có thể thay thế. Việc nghiên cứu phân tích này nhằm hạn chế rủi ro trong khi phát triển đa dạng hoá sản phẩm. - Sự vận động của sản phẩm trong chu kỳ sống của nó. Việc đa dạng hoá nếu nhằm vào sản phẩm đang ở pha suy thoái thì sẽ làm tăng rủi ro kinh doanh. - Đối với các doanh nghiệp thực hiện đa dạng hoá bằng sản phẩm không mới đích thực ( đã có trên thị trường ) thì một việc làm không thể thiếu là phải xem xét đánh giá phần thị trường còn lại của một sản phẩm mà doanh nghiệp có thể xâm nhập. Nhu cầu TT Dung lượng _ Phần TT mà các DN khác về SP của DN thị trường có khả năng cung ứng Tóm lại việc nghiên cứu, phân tích sự ảnh hưởng của nhân tố chủng loại và dung lượng nhu cầu trên thị trưòng để xác định phương hướng và mức độ đa dạng hoá sản phẩm không chỉ ở mặt lượng mà còn ở cả tính chất, nhu cầu và quan hệ với các sản phẩm liên quan khác. 2.1.2. Bản quyền công nghiệp: Một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp đầu tư rất lớn cho hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm mới nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ nhưng sản phẩm của họ nhiều khi không mang lại lợi nhuận như mong muốn. Nguyên nhân chủ yếu là các đối thủ cạnh tranh thông qua các kênh thông tin khác nhau có thể sao chép và nhái lại sản phẩm của doanh nghiệp một cách nhanh chóng khi doanh nghiệp còn chưa thu hồi vốn đầu tư. Vấn đề bản quyền công nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đa dạng hoá của công ty vì hầu hết các công ty đều thực hiện đa dạng hoá sản phẩm mới với công ty nhưng không mới với thị trường. Bản quyền công nghiệp xác nhận quyền sở hữu của một doanh nghiệp đối với nhãn hiệu, bí quyết công nghệ..của một sản phẩm. Vì vậy khi xây dựng chiến lược đa dạng hoá công ty - 19 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd phải hết sức quan tâm đến vấn đề này nhằm bảo vệ chính sản phẩm và uy tín của mình và tránh vi phạm bản quyền công nghiệp. 2.1.3. Tình hình cạnh tranh: Hoạt động trong kinh tế thị trường, doanh nghiệp bị chi phối bởi quy luật cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải có một cơ cấu sản phẩm hợp lý để có thể tạo ra vũ khí cạnh tranh hiệu quả xác định vị trí của mình trên thương trường. Hiện nay trong bất kì ngành kinh doanh nào sự cạnh tranh về nhiều phương diện giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước đều đang diễn ra rất mạnh mẽ. Sản phẩm của doanh nghiệp có thể bị các đối thủ cạnh tranh sao chép một cách nhanh chóng thông qua hệ thống thông tin rất phát triển.Thực tế đã cho thấy nếu như trước kia các doanh nghiệp chủ yếu thực hiện đa dạng hoá đồng tâm tức là thêm vào cơ cấu sản phẩm những sản phẩm mới có liên hệ với nhau và phù hợp với công nghệ hiện tại của công ty thì ngày nay các doanh nghiệp đã chuyển sang hình thức đa dạng hoá kết khối là hình thức đa dạng hoá mà một doanh nghiệp sản xuất các loại mặt hàng rất khác biệt nhau thuộc nhiều nhóm đòi hỏi đầu tư nhiều nguồn lực. Đây chính là kết quả của sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, nó đã thúc đẩy đa dạng hoá lên một mức cao hơn. Ví dụ như tập đoàn LG sản xuất 2 loại mặt hàng chủ yếu là điện tử và điện lạnh ngoài ra LG còn được biết đến là một nhà sản xuất thiết bị văn phòng và các loại mỹ phẩm. Một trong những nguyên nhân của sự mở rộng này là do LG phải đối đầu với sự cạnh tranh rất gay gắt của DAEWOO, SAMSUNG...và phát triển mạnh đa dạng hoá là một điều kiện cần thiết để tồn tại. 2.1.4. Quá trình hội nhập khu vực và quốc tế: Hội nhập khu vực và quốc tế là một quá trình tất yếu để đưa các doanh nghiệp vào con đường phát triển.Tiến trình này đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều thách thức, song đây cũng là cơ hội lớn tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp công nghiệp thâm nhập vào thị trường quốc tế để tiếp thu phương pháp quản lý, công nghệ tiên tiến... và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm đa dạng hoá. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì quá trình gia nhập Khu vực tự do mậu dịch Châu á AFTA có tác động tương đối lớn đến tính chất và phương hướng của đa dạng hoá sản phẩm. Do AFTA chú trọng đến các mặt hàng công - 20 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd nghiệp chế tạo nên các doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được xu hướng này. Các doanh nghiệp sẽ tập trung vào đa dạng hoá sản phẩm bằng những mặt hàng công nghiệp chế tạo đã có ở Việt nam và tích cực nghiên cứu sản xuất những mặt hàng mới. Mặt khác khi sự giao lưu quốc tế và khu vực tăng lên mạnh mẽ các doanh nghiệp sẽ nắm bắt được thêm nhiều nhu cầu sản phẩm mới, khai thác được nhiều nguyên nhiên vật liệu mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp. 2.1.5. Chính sách kinh tế - xã hội: Trong cơ chế thị trường mỗi doanh nghiệp công nghiệp là một chủ thể kinh doanh độc lập vì vậy doanh nghiệp có quyền thực sự trong việc xác định phương hướng sản xuất kinh doanh của mình thông qua việc xây dựng một cơ cấu và danh mục sản phẩm có hiệu quả. Nhưng như vậy không có nghĩa là doanh nghiệp có thể sản xuất bất cứ sản phẩm, tham gia kinh doanh bất kì lĩnh vực nào miễn là mang lợi nhuận. Chính sách kinh tế của nhà nước có thể mang lại thuận lợi cho hoạt động đa dạng hoá khi doanh nghiệp sản xuất loại sản phẩm được nhà nước khuyến khích và ngược lại có thể mang đến sự thất bại cho doanh nghiệp khi sản phẩm đó bị hạn chế hoặc nghiêm cấm sản xuất. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện vai trò chủ thể kinh doanh của mình, mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp có thể mâu thuẫn với các mục tiêu xã hội, điều quan trọng là doanh nghiệp phải biết dung hoà các lợi ích để vừa đạt được các mục tiêu của mình vừa góp phần phát triển xã hội. 2.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp: 2.2.1. Tính chất nguyên vật liệu và sản phẩm của doanh nghiệp: Đặc điểm sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đa dạng hoá sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận, vòng quay vốn... Nguyên nhiên vật liệu mà mỗi doanh nghiệp sử dụng rất phong phú và đa dạng, chúng đựoc gọi là đối tượng lao động - một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất, thiếu nguyên vật liệu thì quá trình sản xuất bị gián đoạn không thực hiện được. Trong quá trình sản xuất con người sử dụng tư liệu lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hóa của đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm công nghiệp với chất lượng ngày càng cao, thoả mãn đầy đủ nhu cầu của thị trường. - 21 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd Chủng loại nguyên vật liệu đơn giản hay phức tạp đều có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến hiệu quả việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm và do đó ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại mức độ đa dạng hoá trong doanh nghiệp cao hay thấp theo hình thức nào đi nữa thì cũng đòi hỏi việc cung ứng phải đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, số lượng, thời gian giao hàng mà điều này lại phụ thuộc rất lớn vào tính chất nguyên vật liệu. Nhìn chung mối quan hệ giữa đa dạng hoá sản phẩm và tính chất nguyên liệu đưa vào sản xuất thay đổi tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất từng ngành và phương hướng sản xuất kinh doanh. V ì vậy để có được phương án đa dạng hoá sản phẩm hợp lý và có hiệu quả mỗi doanh nghiệp phải xác định được mức độ ảnh hưởng của nguyên vật liệu hạn chế tác động tiêu cực của nó đến đa dạng hoá nói riêng và quá trình kinh doanh nói chung c ủa doanh nghiệp. 2.2.2. Yếu tố lao động: Giống như yếu tố nguyên vật liệu, lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất, trực tiếp tác động tới thành quả kinh doanh của doanh nghiệp Khi thực hiện đa dạng hoá trên cơ sở chuyên môn hoá, doanh nghiệp đã có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhưng điều quan trọng hơn cả để thực hiện thành công đa dạng hoá là cơ cấu lao động trong công ty được tổ chức như thế nào. Lực lượng lao động bảo đảm được số lượng, chất lượng, giới tính và lứa tuổi được sử dụng đúng chỗ là một điều kiện thuậ n lợi khi mở rộng sản xuất những mặt hàng mới. Để quản lý một danh mục sản phẩm với nhiều chủng loại phức tạp thì yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ lãnh đạo cũng rất cao. Mặt khác chính những nhà quản lý cũng là những người vạch ra chiến lược đa dạng hoá cho công ty vì vậy họ phải có sự hiểu biết, kinh nghiệm và một tầm nhìn xa. Tuy vậy một cơ cấu lao động tối ưu không đủ để mang đến thành công cho doanh nghiệp khi nó không được đặt trong một môi trường làm việc lành mạnh có văn hoá và khuyến khích người lao động có trách nhiệm với công việc, không ngừng sáng tạo vươn lên vì bản thân và vì sự phát triển của doanh nghiệp. 2.2.3. Vốn: - 22 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
- khoa qtkd cn & xdcb trêng ®hktqd Một nguồn lực quan trọng để thực hiện đa dạng hoá sản phẩm là tiềm năng vốn của doanh nghiệp vì vậy phải đánh giá đầy đủ về nguồn vốn, tính chất và khả năng khai thác các nguồn. Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm liệu doanh nghiệp có phải đầu tư thêm không hay đầu tư mới ? Đầu tư vốn cố định hay vốn lưu động ? Tỉ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động là bao nhiêu ?. Liệu kết quả thực hiện đa dạng hoá sản phẩm có bù đắp được chi phí hay không ?. Sau đa dạng hoá mức doanh lợi là bao nhiêu, vòng quay vốn cố định, vốn lưu động như thế nào ?. 2.2.4. Đặc điểm công nghệ, máy móc thiết bị của doanh nghiệp: Máy móc thiết bị có vai trò rất quan trọng trong sản xuất, nó không chỉ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn doanh nghiệp mà còn quyết định điều kiện và khả năng sản xuất kinh doanh. Khả năng khai thác tối đa công suất thiết bị máy móc là điều kiện cần để thực hiện đa dạng hoá hiệu quả. Các đặc điểm công nghệ của doanh nghiệp như : đơn giản hay phức tạp, chuyển giao dọc hay ngang trình độ cao hay thấp ...cũng là một nhân tố quyết định mức độ đa dạng hoá. Kỹ thuật công nghệ kém sẽ khó nâng cao năng lực sản xuất, khó sản xuất những mặt hàng có cùng công nghệ sản xuất với sản phẩm đang được sản xuất, kết quả là đa dạng hoá sản phẩm sẽ không thực hiện được. Mặt khác nó cũng ảnh hưởng đến công tác định mức, tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành, đẩy mạnh tiêu thụ, mở rộng thị trường, khó cạnh tranh với các đối thủ của mình. Tóm lại, trong môi trường cạnh tranh sôi động, các doanh nghiệp phải luôn năng động và nhạy bén nắm bắt các cơ hội kinh doanh phản ánh trong cơ cấu sản phẩm mỗi thời kỳ. Trong quá trình ấy phải đánh giá đúng khả năng hiện có và có thể có của doanh nghiệp .Việc phân tích khả năng của doanh nghiệp được thực hiện trên nhiều góc độ khác nhau: khả năng các yếu tố của quá trình sản xuất ( nhân tài , vật lực ...), khả năng của các tài sản hữu hình và vô hình...Như vậy việc đánh giá khả năng của doanh nghiệp đã vượt ra khỏi phạm vi từng doanh nghiệp cá biệt, mà được xem xét trong mối quan hệ với các doanh nghiệp có liên quan. Để thực hiện việc này,việc thu thập thông tin và việc đưa doanh nghiệp tham gia các tổ chức liên kết thích ứng có tầm quan trọng đặc biệt. III. Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ và hiệu quả đa dạng hoá : - 23 - Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp trÇn ngäc v©n
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đối với tín dụng trung - dài hạn tại chi nhánh Ngân Hàng No&PTNT Đông Hà Nội
68 p | 399 | 171
-
luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng tại huyện Yên Dũng – tỉnh Bắc Giang
59 p | 553 | 166
-
LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN của công ty xuất nhập khẩu INTIMEX
72 p | 437 | 115
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện kỹ năng mềm cho Sinh viên tại Trường Đại học Thương mại
77 p | 1318 | 98
-
LUẬN VĂN “Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN của công ty xuất nhập khẩu INTIMEX”
78 p | 297 | 90
-
Luận văn: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
41 p | 559 | 71
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của công ty TNHH Volex Việt Nam trong tiến trình hội nhập Kinh tế Quốc tế
48 p | 196 | 47
-
LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà nội
68 p | 307 | 37
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đầu tư phát triển ngành Thuỷ Sản Việt Nam
58 p | 170 | 33
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường ASEAN của công ty xuất nhập khẩu INTIMEX
78 p | 210 | 33
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp cho hoạt động xuất khẩu giầy dép của công ty giầy Thuỵ Khuê
34 p | 193 | 29
-
LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp trong phân bổ hạn ngạch
51 p | 142 | 25
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp triển khai công tác chi trả Bảo hiểm xã hội ở huyện Cẩm xuyên Hà Tĩnh giai đoạn 2000-2002
46 p | 188 | 23
-
LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
38 p | 159 | 20
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005
73 p | 145 | 20
-
LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại
92 p | 139 | 18
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp sử dụng hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách cho đầu tư phát triển trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh (tỉnh Hà trê địa thị (tỉ Tĩnh) giai đoạn 2000 - 2010
67 p | 121 | 11
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm nông sản Việt Nam vào thị trường Mỹ
40 p | 158 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn