intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, quận Bình Thạch, thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Chia sẻ: Ngô Khoai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:107

272
lượt xem
60
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tốt nghiệp "Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, quận Bình Thạch, thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục" có kết cấu nội dung gồm 3 chương. Nội dung luận văn trình bày về cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tiểu học, thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, quận Bình Thạch, thành phố Hồ Chí Minh,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, quận Bình Thạch, thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

  1. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục là sự  nghiệp quan trọng của đất nước và được coi là nền  tảng của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Điều 2 Luật Giáo dục 2005 (sửa  đổi năm 2009) đã ghi: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam   phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ  và nghề   nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình   thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp   ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.  Đất nước chúng ta đang bước vào hội nhập, việc  đào tạo nguồn   nhân lực đáp  ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước là nhiệm vụ  quan trọng của ngành giáo dục và đào tạo. Đề  án “Đổi mới căn bản, toàn  diện Giáo dục và Đào tạo”  của Bộ  Giáo dục và Đào tạo  đã khẳng định:  Đội ngũ nhà giáo và cán bộ  quản lý giáo dục có vai trò quyết định chất  lượng giáo dục, trong đó  đội ngũ các thầy cô giáo  ở  các nhà trường nói  chung và trong trường  tiểu học nói riêng  quyết định  trực tiếp đến chất  lượng giáo dục. Trong những năm qua, đứng trước yêu cầu phát triển đất nước, yêu   cầu đổi mới giáo dục và yêu cầu hội nhập, ngành giáo dục và đào tạo đã có  những bước phát triển, song về quy mô và chất lượng, hiệu quả giáo dục ­  đào tạo còn bộc lộ  những hạn chế, chưa đáp  ứng kịp thời những đòi hỏi  lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội. Về  đội ngũ giáo viên thì: “còn nhiều bất cập về  chất lượng, số  lượng và cơ  cấu; thiếu động lực tự học và đổi mới; chưa bắt kịp yêu cầu của đổi mới  giáo dục” [4, tr. 45]. Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiệm vụ quan trọng cho  ngành GD&ĐT là khắc phục những yếu kém trên. Như  vậy toàn Đảng,  toàn dân phải quan tâm đến ngành giáo dục. Trước tiên phải chăm lo đào  1
  2. tạo và bồi  dưỡng   đội  ngũ  giáo viên, lực  lượng  quyết  định chất lượng   GD&ĐT. Trường học là một tổ  chức sư  phạm được hình thành để  thực hiện  mục đích nhất định.Trường học là tổ  chức cơ  sở  của hệ  thống giáo dục,  nơi tập hợp những người thực hiện nhiệm vụ  chung là dạy học và giáo  dục những nhân cách theo mục tiêu đề  ra. Trong nhà trường, thầy cô giáo  sẽ là lực lượng trực tiếp thực hiện chương trình giáo dục của cấp học. Lao   động sư  phạm là lao động sáng tạo, đòi hỏi người giáo viên phải có kiến   thức sâu và toàn diện, luôn bổ sung cái mới nhằm hoàn thiện nghệ thuật sư  phạm giúp học sinh hình thành và phát triển toàn diện về  nhân cách. Chất  lượng giáo dục của nhà trường phần lớn do đội ngũ giáo viên quyết định.  Tính đa dạng, phức tạp của hoạt động giảng dạy ­ giáo dục đòi hỏi người   cán bộ  lãnh đạo quản lý trong mỗi nhà trường phải thường xuyên chú ý  đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ  lý luận và chuyên môn nghiệp vụ,  đạo đức lối sống của giáo viên. Công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có  tầm quan trọng đặc biệt, nó là mắt xích quan trọng nhất trong hệ  thống   công tác quản lý. Nếu công tác này được cải tiến và đẩy mạnh thì nhất  định chất lượng dạy học và giáo dục của nhà trường sẽ được nâng cao. Trong những năm qua,  Trường Tiểu học Chu Văn An  đã chú trọng  công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho giáo viên, nhưng nhìn chung chất   lượng vẫn chưa đáp  ứng được yêu cầu phát triển GD &ĐT ngày càng cao  theo  xu thế   hiện  đại.  Một bộ   phận  giáo viên  còn  yếu về  chuyên  môn   nghiệp vụ, chưa có trách nhiệm cao, chưa thực sự  tâm huyết với nghề,   chưa  chú trọng  đổi mới phương pháp  dạy học  phù hợp với yêu cầu đổi  mới giáo dục tiểu học hiện nay. Vì vậy, việc phát triển đội ngũ giáo viên  đủ  về  số  lượng, đáp  ứng yêu cầu về  chất lượng  ở  Trường Tiểu học Chu  Văn An là việc làm rất cần thiết. Trăn trở với suy nghĩ đó, tôi đã chọn hướng nghiên cứu với tên đề  tài  2
  3. “Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học   Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi   mới giáo dục”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số  biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường  Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng  yêu cầu đổi mới giáo dục. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1 Khách thể nghiên cứu Hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên Tiểu học  3.2 Đối tượng nghiên cứu Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên  Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh   đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 4. Giả thuyết khoa học Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn  cho  đội ngũ giáo viên Trường  Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố  Hồ  Chí Minh đã đạt  được những thành công nhất định, song còn nhiều hạn chế. Nếu đề  xuất  và áp dụng những  biện  pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn  trong đề  tài này thì sẽ  nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ giáo  viên Tiểu học Nam Hải đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu  5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn   cho giáo viên tiểu học. 5.2. Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động  bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An . 5.3. Đề  xuất một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn  3
  4. cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố  Hồ Chí Minh. 6. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian và không gian: Khảo sát thực trạng hoạt động  quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên ở Trường Tiểu học Chu Văn  An, Quận Bình Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2008 đến nay. 7. Phương pháp nghiên cứu  7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận ­ Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến vấn đề  nghiên cứu. ­ Hệ thống hóa, xác định cơ sở lý luận của đề tài. 7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn  ­ Điều tra, khảo sát các hoạt động quản lý thực tiễn, thống kê, phân   tích số liệu.  ­ Tham vấn chuyên gia, nhà quản lý, đội ngũ giáo viên ­ Quan sát, tổng kết kinh nghiệm. 7.3 Các phương pháp bổ trợ: thống kê, phân tích số liệu, biểu đồ.  8 . Câu  hỏi nghiên cứu           ­ Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tiểu học được diễn  ra như thế nào ?           ­ Quản l ý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên tiểu học   đáp ứng những yêu cầu nào?            ­ Những biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn cho  giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An trong thời gian qua có những tồn  tại gì? 9. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm các phần: Mở  đầu, 3 chương nội dung, kết luận và  4
  5. khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục.  3 chương nội dung bao gồm: Chương 1: Cơ  sở  lý luận về  quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên  môn cho giáo viên TH. Chương  2:  Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn  cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành phố  Hồ Chí Minh.  Chương 3: Một số  biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên   môn cho giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, Quận Bình Thạch, Thành  phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi mới  giáo dục. 5
  6. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG  CHUYÊN MÔN CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC   1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 1.1.1.Trên thế giới Hầu hết các quốc gia trên thế  giới đều coi hoạt động bồi dưỡng  chuyên môn giáo viên là vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục. Việc tạo   mọi điều kiện để mọi người có cơ hội học tập, học tập thường xuyên, học  tập suốt đời để kịp thời bổ sung kiến thức và đổi mới phương pháp giảng  dạy để  phù hợp với sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội là phương châm hành  động của các cấp quản lý giáo dục. Ở   Ấn độ  vào năm 1988 đã quyết định thành lập hàng loạt các trung   tâm học tập trong cả  nước nhằm tạo cơ  hội học tập suốt  đời cho mọi   người. Việc bồi dưỡng giáo viên được tiến hành  ở  các trung tâm này đã   mang lại hiệu quả rất thiết thực. Hội nghị UNESCO tổ chức tại Nepal vào năm 1998 về tổ chức quản   lý nhà trường đã khẳng định: “Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là  vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục”. Đại đa số các trường sư phạm ở Úc, New Zeland, Canada … đã thành  lập các cơ sở chuyên bồi dưỡng giáo viên để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo   viên tham gia học tập nhằm không ngừng nâng cao trình độ  chuyên môn  nghiệp vụ. Tại Pakistan, nhà nước đã xây dựng chương trình bồi dưỡng về  sư  phạm cho đội ngũ giáo viên và quy định trong thời gian 3 tháng cần bồi  dưỡng những nội dung gồm: giáo dục nghiệp vụ  dạy học; cơ  sở  tâm lý  giáo viên; phương pháp nghiên cứu, đánh giá và nhận xét HS…đối với đội  ngũ giáo viên mới vào nghề chưa quá 3 năm. Ở  Philippin, công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên không   6
  7. tiến hành tổ  chức trong năm học mà tổ  chức bồi dưỡng thành từng khóa   học trong thời gian HS nghỉ  hè. Hè thứ  nhất bao gồm các nội dung môn  học, nguyên tắc dạy học, tâm lý học và đánh giá giáo dục; Hè thứ hai gồm  các môn về  quan hệ  con người, triết học giáo dục, nội dung và phương   pháp giáo dục; Hè thứ ba gồm nghiên cứu giáo dục, viết tài liệu trong giáo   dục và hè thứ tư gồm kiến thức nâng cao, kỹ năng nhận xét, lập kế hoạch  giảng dạy, viết tài liệu giảng dạy, viết sách giáo khoa, viết sách tham  khảo. Tại Nhật Bản, việc bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ giáo viên,   cán bộ  quản lý giáo dục là nhiệm vụ  bắt buộc đối với người lao động sư  phạm. Tùy theo thực tế của từng đơn vị, từng cá nhân mà cấp quản lý giáo  dục đề  ra các phương thức bồi dưỡng khác nhau trong một phạm vi theo  yêu cầu nhất định. Cụ  thể  là mỗi cơ  sở  giáo dục cử  từ  3 đến 5 giáo viên  được đào tạo lại một lần theo chuyên môn mới và tập trung nhiều vào đổi  mới phương pháp dạy học. Tại Thái Lan, từ năm 1998 việc bồi dưỡng giáo viên được tiến hành ở  các trung tâm học tập cộng đồng nhằm thực hiện giáo dục cơ  bản, huấn  luyện kỹ năng nghề nghiệp và thông tin tư vấn cho mọi người dân trong xã  hội. Tại Triều Tiên một trong những nước có chính sách rất thiết thực về  bồi dưỡng và đào tạo lại cho đội ngũ giáo viên. Tất cả  giáo viên đều phải   tham gia học tập đầy đủ  các nội dung về  chương trình nâng cao trình độ  chuyên môn nghiệp vụ theo quy định. Nhà nước đã đưa ra “Chương trình bồi  dưỡng giáo viên mới” để bồi dưỡng đội ngũ giáo viên được thực hiện trong   10 năm và “Chương trình trao đổi” để  đưa giáo viên đi tập huấn  ở  nước   ngoài. Tại   Liên   Xô   (cũ)   các   nhà   nghiên   cứu   quản   lý   giáo   dục   như:  7
  8. M.I.Kônđacốp, P.V. Khuđominxki…đã rất quan tâm tới việc nâng cao chất  lượng dạy học thông qua các biện pháp quản lý có hiệu quả. Muốn nâng cao   chất lượng dạy học phải có đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn. Họ  cho rằng kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào  việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác quản lý bồi dưỡng, phát triển đội   ngũ. 1.1.2. Ở Việt Nam   Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nguồn lực con người là nhân tố  quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện   đại hoá. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có Chỉ thị số  40 CT/TW ngày 15/6/2004 về “Xây dựng, nâng cao chất lượng nhà giáo và  đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục”. Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên  đã được Chủ  tịch Hồ  Chí Minh chỉ  ra trong thư  gửi các cán bộ, các thầy  giáo, cô giáo, công nhân viên, HS, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới  ngày 16 tháng 10 năm 1968 rằng: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế   tục sự  nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành   các cấp Đảng, chính quyền địa phương phải thực sự  quan tâm đến sự   nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục   của ta những bước phát triển mới”[38, tr. 76]. Kể từ sau cách mạng tháng Tám thành công và các cuộc cải cách  giáo  dục năm 1950, 1956, 1979 và trong những năm “Đổi mới” nhiều công trình  nghiên cứu đã để lại những bài học quý giá về  xây dựng và phát triển đội  ngũ GV như: Nguyễn Thị  Phương Hoa [27], Đặng Quốc Bảo, Đỗ  Quốc  Anh, Đinh Thị Kim Thoa [5]; Bùi Văn Quân, Nguyễn Ngọc Cầu [43],…Các  công trình này nghiên cứu phát triển đội ngũ theo 3 hướng:  a) Nghiên cứu phát triển đội ngũ GV dưới góc độ  phát triển nguồn   8
  9. nhân lực.  b) Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới  giáo dục.   c) Nghiên cứu đề  xuất hệ  thống các giải pháp xây dựng phát triển   đội ngũ giáo viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.  Tuy nhiên, các công trình kể  trên hầu hết vẫn còn để  lại khoảng  trống nghiên cứu về quản lý đội ngũ giáo viên trong nền kinh tế thị trường   định hướng xã hội chủ nghĩa, về chính sách tuyển dụng, sử dụng và về vai   trò, vị  trí mới của đội ngũ giáo viên trong tiến trình phát triển nhà trường  Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa.             Bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động để duy trì,  nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, là điều kiện quyết định để  nhà trường có thể đứng vững, thắng lợi trong môi trường cạnh tranh và hội  nhập quốc tế. Vì vậy, công tác bồi dưỡng và phát triển nhân sự  cần phải  thực hiện một cách có tổ  chức, có kế  hoạch và luôn đổi mới cho phù hợp  với yêu cầu thực tiễn. Việc đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ giáo  viên là toàn bộ  những hoạt động học tập được tổ  chức bởi nhà trường,  ngành giáo dục và các tổ chức khác… Các hoạt động đó có thể  được cung  cấp trong vài giờ, vài ngày, vài tháng, thậm trí tới vài năm, suốt trong quá  trình công tác..., tùy thuộc vào mục tiêu học tập nhằm tạo ra sự  thay đổi   hành vi nghề  nghiệp theo hướng đi lên, nhằm nâng cao khả  năng làm việc   nghề nghiệp của họ.  Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên giúp nhà  trường không chỉ giải quyết những vấn đề hiện tại mà còn chuẩn bị để đáp  ứng những yêu cầu tương lai. Trong những năm qua, giáo dục đã không ngừng phát triển cả  về  số  lượng và chất lượng. Nước ta đang bước vào thế kỷ XXI với một nền giáo  9
  10. dục tiểu học đã được phổ cập, đã và đang hoàn thành phổ cập Trung học cơ  sở, tiến tới phổ cập Trung học phổ thông. Nhà trường đang từng bước đổi   mới để vừa đáp ứng nhu cầu trước mắt phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại  hóa đất nước, vừa chuẩn bị những điều kiện cho một nhà trường hoàn thiện  hơn, vươn tới ngang tầm các nước trong khu vực và quốc tế  trong một  tương lai không xa. Những thành tựu mà giáo dục đạt được có nhiều nguyên nhân, một  trong   những   nguyên   nhân   quan   trọng   hàng   đầu   là   sự   trưởng   thành   của  ĐNGV. Đây là nhân tố nội sinh đã, đang và sẽ tạo nên những kết quả, chất   lượng của nền giáo dục Việt Nam. Giáo dục nước ta đang bước vào giai đoạn hết sức quan trọng và  mang tính quyết định ­ đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế. Vấn đề  đặt  ra là: để đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục và hội nhập cần có những   nhà giáo như thế nào? Những phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và   nghiệp vụ  sư  phạm của giáo viên như  thế  nào để  đảm bảo cho đổi mới   giáo dục và hội nhập thành công? Với vai trò to lớn như vậy, công tác đào  tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ giáo viên hiện nay là công việc hết   sức quan trọng. Công việc này không phải chỉ của riêng ngành giáo dục mà  đang được sự quan tâm lớn của Đảng, nhà nước và của toàn xã hội. Đối với nhà trường, đơn vị trực tiếp quản lý và sử dụng đội ngũ giáo  viên, thì công tác bồi dưỡng phải được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và tổ  chức thực hiện tốt. Chúng ta đặc biệt chú trọng đến hoạt động bồi dưỡng   của nhà trường vì vai trò, ý nghĩa lớn lao của công việc này: ­ Việc bồi dưỡng giáo viên mang tính chiến lược, đây là công việc  phải làm thường xuyên, liên tục, lâu dài để xây dựng một đội ngũ giáo viên   đủ  về  số  lượng, phù hợp về  cơ  cấu và có chất lượng cao, phục vụ  cho   chiến lược phát triển lâu dài của nhà trường, của ngành. Mặt khác, công tác  10
  11. bồi dưỡng còn mang tính cấp bách bởi nhà trường phải thực hiện ngay   những yêu cầu của năm học, những chỉ đạo của ngành nhằm nâng cao chất   lượng giáo dục như  đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp  dạy học,… ­ Công tác bồi dưỡng sẽ  đẩy mạnh sự  phát triển về  chuyên môn,   nghiệp vụ của tất cả mọi giáo viên, nâng cao chất lượng hoạt động dạy và   học trong nhà trường. Sau nhiều năm đổi mới, các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển  đội ngũ giáo viên  ở  các cấp học, bậc học đã được nghiên cứu và áp dụng   rộng rãi. Đặc biệt từ khi có chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc  hội về  đổi mới chương trình giáo dục phổ  thông thì một số  dự  án, công  trình nghiên cứu khoa học lớn liên quan đến đội ngũ GV  ở  tất cả  các cấp  học, bậc học đã được thực hiện. Căn cứ  Chỉ  thị  40­CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư  về  việc  “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ  quản lý giáo  dục” và thực hiện  Quyết định số  1216/QĐ­TTg ngày 22/7/2011 của Thủ  tướng Chính phủ “Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai  đoạn 2011­2020”,  Thành phố  Hồ  Chí Minhđã  cụ  thể  hoá các chỉ  thị, nghị  quyết của Trung  ương, triển khai thực hiện trong toàn ngành giáo dục.  Công tác đào tạo, bồi dưỡng GV, CBQL giáo dục đã được ngành GD&ĐT  Thành phố  Hồ  Chí Minhtập trung đầu tư. Nhiều CBQL giáo dục, GV đã  được cử đi đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ ở trong và  ngoài nước. Tổ chức BDTX theo chu kỳ cho GV theo hình thức bồi dưỡng   tập trung hoặc tại chỗ. Cử GV tập huấn theo chuyên đề  của từng bộ môn  theo dự  án TH. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá và kiểm định chất  lượng các nhà trường. Thành phố tập trung chỉ đạo các chương trình mục tiêu, xây dựng đề  11
  12. án đào tạo Thạc sỹ, Tiến sỹ, đào tạo Tin học và Ngoại ngữ cho CBQL giáo  dục, GV, nhân viên tạo nền tảng cho giáo dục hội nhập. 1.2. Một số khái niệm 1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục 1.2.1.1.Quản lý   Quản lý: Trong từ  điển tiếng Việt “quản lý” là tổ  chức điều khiển  hoạt động của một đơn vị, một cơ quan [47, tr.1363]. Lịch sử  phát triển của xã hội loài ngườ i từ  xưa cho đế n nay, có 3  yếu tố  cơ  bản là: nền tảng tri thức, sức lao độ ng và quả n lý. Trong đó,  quản lý là sự kết hợp giữa tri th ức v ới s ức lao độ ng. Khái niệm quản lý   đã xuất hiện từ  lâu và ngày càng hoàn thiện cùng với lịch sử  hình thành  và phát triển của xã hội loài ngườ i.  Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm “quản lý”. Dưới đây là  một số quan niệm chủ yếu. Henri Fayol (1841­1925), người Pháp, người đặt nền móng cho lý  luận tổ chức cổ điển, cho rằng: “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ  huy, phối hợp và kiểm tra”. Đây là khái niệm mang tính khái quát về chức   năng quản lý [25, tr. 87]. Theo tác giả  Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là những tác động có  định hướng, có kế  hoạch của chủ  thể  quản lý đến đối tượng bị  quản lý  trong tổ  chức để  vận hành tổ  chức, nhằm đạt mục đích nhất định” [41,   tr.10]. Xét với tư  cách là một hành động, theo các tác giả  Bùi Minh Hiền  [26], Vũ Ngọc Hải [24], Đặng Quốc Bảo [4]: Quản lý là tác động có tổ  chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt  mục tiêu đề ra. Có rất nhiều tác giả với những định nghĩa khác nhau về  quản lý tùy  theo cách tiếp cận dưới các góc độ khác nhau như: góc độ tổ chức, quản lý,   12
  13. hành động… Như vậy theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con  người, có thể hiểu quản lý là sự  tác động chỉ  huy, điều khiển, hướng dẫn  các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, phát triển phù hợp   với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra. Cần phải hiểu khái niệm quản lý đầy đủ, bao hàm những khía cạnh sau: ­  Đối tượng tác động của quản lý là một hệ  thống hoàn chỉnh. Hệ  thống đó được cấu tạo liên kết hữu cơ từ nhiều yếu tố, theo một quy luật   nhất định; phù hợp với điều kiện khách quan. ­ Quản lý bao giờ  cũng là hoạt động hướng đích, có mục tiêu xác  định. ­ Hệ thống quản lý gồm có 2 phân hệ. Đó là sự liên kết giữa chủ thể  quản lý và đối tượng quản lý, đây là quan hệ  ra lệnh – phục tùng, không  đồng cấp và có tính bắt buộc. Tuy nhiên, quản lý có khả  năng thích nghi   giữa chủ thể với đối tượng quản lý và ngược lại. ­ Tác động của quản lý thường mang tính chất tổng hợp, hệ  thống   tác động quản lý gồm nhiều giải pháp khác nhau nhằm đưa hệ  thống tiếp  cận mục tiêu, và nếu xét về mặt công nghệ là sự vận động thông tin. ­ Cơ  sở  của quản lý là các quy luật khách quan và điều kiện thực   tiễn của môi trường. ­ Mục tiêu cuối cùng của quản lý là tạo ra, tăng thêm và bảo vệ  lợi   ích của con người, bởi thực chất của quản lý là quản lý con người và vì lợi   ích của con người. 1.2.1.2. Quản lý giáo dục  QLGD là một loại hình quản lý xã hội, tức là quản lý hoạt động giáo   dục trong xã hội. Đã có một số định nghĩa tiêu biểu về QLGD như sau:  ­ Khuđôminxki P.V. cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có hệ  thống, có kế hoạch, có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau   13
  14. đến tất cả các khâu của hệ  thống giáo dục nhằm mục đích đảm bảo việc   giáo dục cộng sản chủ  nghĩa cho thế  hệ  trẻ, đảm bảo sự  phát triển toàn   diện và hài hòa của họ” [34, tr.50]; còn M.I.Kônđakôp khẳng định: “Quản  lý giáo dục là tập hợp những biện pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch  hoá, tài chính, cung tiêu nhằm đảm bảo sự  vận hành bình thường của các  cơ  quan trong hệ  thống giáo dục, bảo đảm sự  tiếp tục phát triển và mở  rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [35, tr.17]. ­ Theo Đặng Quốc Bảo “Quản lý giáo dục  theo nghĩa tổng quan là  điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ  trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo   dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho  mọi người. Cho nên, QLGD được hiểu là sự  điều hành hệ  thống giáo dục  quốc dân” [4, tr.31]; còn theo Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục là  hệ  thống những tác động có mục đích, có kế  hoạch, hợp quy luật của chủ  thể  quản lý (hệ  giáo dục) nhằm làm cho hệ  vận hành theo đường lối và  nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường   xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ  là quá trình dạy học, giáo   dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới   về chất” [41, tr.7]. Như  vậy,  QLGD là  hệ  thống những tác  động có mục  đích, có kế   hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống giáo dục   được quản lý, vận hành theo đúng đường lối, quan điểm giáo dục của   Đảng, thực hiện được các mục tiêu giáo dục đề ra. 1.2.2. Quản lý trường học  Trường học là tế bào cơ sở, chủ chốt của bất kỳ hệ thống giáo dục   ở  cấp nào (từ trung  ương đến địa phương). Trường học là đối tượng cuối  cùng và cơ  bản nhất của quản lý giáo dục. Nó là tổ  chức giáo dục cơ  sở  trực tiếp làm công tác đào tạo, thực hiện việc giáo dục con người. Trường  14
  15. học là thành tố  khách thể  cơ  bản của tất cả  các cấp quản lý nói trên, lại  vừa là một hệ thống độc lập tự quản của xã hội. Các cấp quản lý giáo dục   tồn tại không phải vì bản thân chúng, mà trước hết là phải vì chất lượng và  hiệu quả hoạt động của trường học. Thành tích thực chất của trường học   làm nên chất lượng giáo dục. Như vậy, chất lượng của giáo dục chủ  yếu  do chất lượng của trường học tạo nên. Chúng tôi thống nhất khái niệm  quản lý trường học của Phạm Minh Hạc như sau: “Quản lý trường học là   tác động có ý thức, có kế  hoạch và hướng đích của chủ  thể quản lý (hiệu  trưởng) đến khách thể quản lý (tập thể giáo viên. học sinh và các bộ phận   khác), đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận   hành tối ưu về các mặt KT­XH , tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và  giáo dục thế hệ trẻ và thực hiện tốt sứ mạng của nhà trường”[22, tr.35 ].  Ở  cấp độ  vi mô, quản lý giáo dục trong phạm vi nhà trường có thể  xem đồng nghĩa với quản lý nhà trường: “Quản lý giáo dục được hiểu là  hệ  thống những tác động có hướng đích của hiệu trưởng đến các hoạt   động giáo dục, đến con người (Cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh),   đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin v.v…), đến các ảnh  hưởng ngoài nhà trường một cách hợp quy luật (quy luật quản lý, quy luật   kinh tế, quy luật giáo dục, quy luật tâm lý, quy luật xã hội v.v…) nhằm  thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường [24,   tr.102]. Trong các nhà trường nói chung, nhà trường TH nói riêng, các hoạt  động chủ yếu là: hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của HS, các   hoạt động phục vụ hoạt động dạy ­ học như: tổ  chức nhân sự, huy động,  sử  dụng các nguồn lực và xây dựng các mối quan hệ. Do đó, quản lý nhà   trường nói chung và quản lý trường TH nói riêng là quản lý một quá trình   gồm các bộ phận chủ yếu là: Dạy ­ Học, tổ chức các nguồn lực và các mối   15
  16. quan hệ; trong đó lấy quá trình dạy ­ học là trọng tâm. Quản lý nhà trường   là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của   mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để  tiến tới  mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, đối với thế hệ  trẻ và với từng học sinh. Trọng tâm của việc quản lý nhà trường phổ thông   là quản lý hoạt động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ  trạng  thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục. Mục tiêu quản lý nhà trường thường được cụ thể hóa trong kế hoạch  năm học, những mục tiêu này là các nhiệm vụ  chức năng mà tập thể  nhà  trường thực hiện suốt năm học. Trên cơ sở hoạch định mục tiêu một cách cụ thể, quản lý nhà trường   phải cụ  thể  hóa cho từng mục tiêu. Những nội dung này là sức sống cho  mục tiêu, là điều kiện để mục tiêu trở thành hiện thực. Tóm lại, quản lý trường học được thực hiện trong phạm vi xác định  của một đơn vị  giáo dục nhà trường, thực hiện nhiệm vụ giáo dục thế  hệ  trẻ theo yêu cầu của xã hội. Hiện nay các nhà quản lý trường học quan tâm  nhiều đến các thành tố  mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ  chức quản lý  và kết quả; đó là các thành tố trung tâm của quá trình sư phạm, nếu quản lý  và tác động hợp quy luật sẽ  đảm bảo cho một chất lượng tốt trong nhà  trường. Một trong các nội dung quản lý trường học là quản lý bồi dưỡng   đội ngũ giáo viên. 1.2.3. Bồi dưỡng giáo viên, bồi dưỡng chuyên môn 16
  17. 1.2.3.1. Chuyên môn Theo từ  điển Tiếng Việt [47, tr. 44]: Chuyên môn là lĩnh vực riêng,  những kiến thức riêng nói chung của một ngành khoa học, kỹ thuật. Một số đặc điểm chuyên môn của giáo viên tiểu học Cấp tiểu học tiếp nối giáo dục mầm non và mở đầu cho quá trình giáo   dục trong nhà trường phổ thông gồm: hình thức tổ chức, nội dung, phương  pháp. Có thể nói,  ở  đây diễn ra sự kế  thừa và phát triển kết quả  giáo dục  mẫu giáo, đảm bảo dạy học được liên thông từ  mẫu giáo lên tiểu học. Ở  bậc học này, học sinh phải học cách học. Nhờ biết cách học mà trẻ có thể  lĩnh hội được những khái niệm khoa học, kĩ năng, kĩ xảo được chọn lọc từ  nền văn minh nhân loại.  Ở  lớp 1­ 2­ 3 học sinh được hình thành cách học  với những thao tác trí óc cơ bản. Học sinh lớp 4 – 5 các em đã có thể  định  hình được cách học. Giáo viên tiểu học phải dạy các môn học bắt buộc của cấp học: Khối   lớp 1 ­ 2 ­ 3 gồm toán, tiếng việt, đạo đức, tự nhiên xã hội, thủ công; khối  lớp 4 – 5 gồm toán, tiếng việt, khoa học, lịch sử, địa lý, kĩ thuật, đạo đức.   Chứng tỏ nhiệm vụ của giáo viên tiểu học có nhiệm vụ dạy học toàn diện  các môn bắt buộc cho một lớp học được phân công giảng dạy. Đảm đương khối lượng công việc như  vậy sẽ  giúp người giáo viên   hiểu rõ hơn đối tượng lao động của mình những hứng thú học tập, tư duy,   nhận thức của trẻ. Để  từ  đó giáo viên sẽ  định lượng được đơn vị  kiến  thức, biện pháp để giúp các em lĩnh hội tri thức nhanh nhất. Nhưng vì khối   lượng công việc nhiều như vậy, đòi hỏi phải mất thời gian nghiên cứu nội  dung môn học trong khi năng lực của mỗi người lại có hạn chứ không thể  “giỏi” đều các lĩnh vực nên cũng hạn chế  chất lượng dạy học.  Để  khắc   phục những khó khăn trên một số  trường giữa cố  định tổ  chuyên môn để  giáo viên tích lũy   kiến thức, kinh nghiệm dạy học cho một khối lớp đó.  17
  18. Nhưng làm như vậy, thì giáo viên lại không nắm được kiến thức liên thông  toàn cấp học. Với đặc trưng trên thì giáo viên tiểu học “người thầy tổng thể” nắm  vững lượng kiến thức các môn học, phương pháp, hình thức tổ chức tương   ứng, đặc trưng môn học. Dạy học tiểu học theo phương châm “thầy tổ  chức, trò hoạt động” sao cho phát huy tính độc lập, tự giác và tích cực học   tập. Công cụ  lao động của người giáo viên là trí tuệ  và phẩm chất của  chính mình.  Công cụ này sẽ tác động có hiệu quả khi người thầy có uy tín  cao ­ phẩm chất và năng lực, đức và tài của thầy càng cao thì sức thuyết  phục của học sinh càng lớn­. Giáo viên tiểu học là “thần tượng” của học  sinh đang dạy. Vì vậy, các em luôn nghe theo thầy. Trong tâm trí các em  người thầy là “đúng nhất” nên lao động của giáo viên tiểu học phải có tính   khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo. 1.2.3.2. Bồi dưỡng + Bồi: Nghĩa chữ Hán là vun bón; nghĩa bóng là dưỡng dục nhân tài. + Dưỡng: Nuôi lớn. Theo quan niệm của UNESCO: “Bồi dưỡng có ý nghĩa là nâng cao   nghề  nghiệp, quá trình này chỉ  diễn ra khi cá nhân và tổ  chức có nhu cầu  nâng cao kiến thức hoặc kỹ  năng chuyên môn ­ nghiệp vụ  cho bản thân  nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp”. Theo Từ điển Tiếng Việt [47, tr.126]: Bồi dưỡng theo nghĩa rộng : Quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình  thành nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định  hướng mục đích đã chọn. Thí dụ  : bồi dưỡng cán bộ, bồi dưỡng chí khí   chiến đấu, bồi dưỡng các đức tính cần kiệm, liêm chính, v.v…   Nghĩa hẹp :  Trang bị  thêm các kiến thức, kỹ  năng nhằm mục đích  18
  19. nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ  thể. Thí   dụ  : bồi dưỡng kiến thức, bồi dưỡng lý luận, bồi dưỡng nghiệp vụ  sư  phạm, v.v…  Như vậy, mục đích của bồi dưỡng là nhằm nâng cao năng lực phẩm   chất và năng lực chuyên môn để  người lao động có cơ  hội củng cố, mở  rộng và nâng cao hệ  thống tri thức, kỹ năng, kỹ  xảo chuyên môn ­ nghiệp   vụ  đã có, từ  đó nâng cao chất lượng, hiệu quả  công việc đang làm. Trong   hoạt động bồi dưỡng thì yếu tố  quyết định đến chất lượng các hoạt động  vẫn là vai trò chủ thể của người được bồi dưỡng thông qua con đường tự  học, tự đào tạo, tự bồi dưỡng nhằm phát huy nội lực cá nhân. 1.2.3.3. Bồi dưỡng chuyên môn Là bồi dưỡng kiến thức chuyên môn; kỹ  năng tay nghề; kiến thức, kỹ  năng thực tiễn. Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên có thể coi là việc đào  tạo lại, đổi mới, cập nhật kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nâng cao trình  độ cho giáo viên, là sự nối tiếp tinh thần đào tạo liên tục trước và trong khi  làm việc của người giáo viên. Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn đối với  mọi giáo viên là thường xuyên, liên tục. Hoạt động bồi dưỡng nhằm tạo  điều kiện cho người giáo viên và cán bộ  quản lý giáo dục có cơ  hội củng  cố và mở rộng một cách có hệ thống những tri thức, kĩ năng chuyên môn và   nghiệp vụ sư phạm hoặc quản lý giáo dục sẵn có để lao động nghề nghiệp  một cách có hiệu quả  hơn; mặt khác cũng qua bồi dưỡng người học biết   chọn lọc, tiếp thu phát huy các mặt mạnh, khắc phục bổ  sung những mặt  còn hạn chế, bồi dưỡng kịp thời, động viên họ  làm việc tự  giác với tinh   thần trách nhiệm đạt hiệu suất cao. 1.2.4. Biện pháp, biện pháp quản lý *  Biện pháp: Theo từ điển Tiếng Việt “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một   vấn đề cụ thể” [47, tr. 89]. 19
  20. * Hoạt động: Theo Từ điển Tiếng Việt: “Hoạt động là tiến hành những việc làm có  quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã  hội” [47, tr. 65]. * Biện pháp quản lý: Là cách làm, cách giải quyết của chủ thể quản   lý đến khách thể quản lý (thông qua các chức năng quản lý) một cách hợp   quy luật nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi  trường. * Biện pháp quản lý giáo dục: Cách làm, cách giải quyết những vấn  đề  giáo dục của người quản lý giáo dục tác động đến khách thể  quản lý  giáo dục (thông qua các chức năng quản lý) nhằm đạt được mục tiêu giáo  dục đã đề ra. * Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn là: Cách làm,  cách giải quyết của người quản lý (thông qua các chức năng quản lý : lập  kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) về các hoạt động bồi dưỡng chuyên  môn cho khách thể quản lý (đội ngũ) nhằm đạt đư ợc mục tiêu đã đề ra (về  nâng cao năng lực chuyên môn). 1.3. Giáo dục tiểu học 1.3.1. Vị trí, vai trò, mục tiêu, nội dung, phương pháp của giáo dục TH 1.3.1.1.Vị trí Giáo dục TH là một cấp tương đối độc lập, là một bộ phận trong hệ  thống giáo dục quốc dân, cùng với Trung học cơ  sở  và Trung học phổ  thông hình thành một nền giáo dục thống nhất, chất lượng, hiệu quả, hội   nhập với nền giáo dục các nước trong khu vực và trên thế giới Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến   lớp năm. Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi (Khoản 1, Điều 26, Luật GD 2005 sửa đổi 2009). 1.3.1.2.Vai trò 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2