BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
I
HUỲNH KIM TƯỜNG VI
H U Ỳ N H K M T Ư Ờ N G V I
ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ NAM BỘ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA SƠN NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Đ Ặ C Đ I Ể M T Ừ N G Ữ N A M B Ộ T R O N G T R U Y Ệ N N G Ắ N C Ủ A S Ơ N N A M
K H Ó A 2 0 0 9
-
VINH, 2011
2 0 1 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
HUỲNH KIM TƯỜNG VI
ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA SƠN NAM
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC Mã số: 60. 22. 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN HOÀI NGUYÊN
Vinh, 2011
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………
1
NỘI DUNG ……………………………………………………………
12
Chƣơng 1. NHỮNG GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
12
1.1. Vùng đất Nam Bộ …………………………………………………
12
1.2. Phương ngữ Nam Bộ ……………………………………………...
23
1.3. Nhà văn Sơn Nam …………………………………………………
38
1.4. Tiểu kết ……………………………………………………………
43
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA LỚP TỪ ĐỊA PHƢƠNG NAM BỘ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA SƠN NAM
2.1. Lớp danh từ riêng ………………………………………………….
44
2.2. Lớp từ xưng hô …………………………………………………….
51
2.3. Lớp từ chỉ sông nước ………………………………………………
54
2.3.1. Từ định danh địa hình sông nước ………………………..........
56
2.3.2. Từ miêu tả vận động của dòng nước …………………….........
58
2.3.3. Từ chỉ phương tiện di chuyển trên sông nước ………………...
65
2.3.4. Từ chỉ hoạt động của người dân miền sông nước ……….........
63
2.3.5. Từ chỉ sản vật vùng sông nước ………………………………..
65
2.4. Lớp từ khẩu ngữ ……………………………………………………
71
2.5. Tiểu kết …………………………………………………………….
75
Chƣơng 3. TÁC DỤNG CỦA TỪ ĐỊA PHƢƠNG NAM BỘ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA SƠN NAM
3.1. Làm nổi bật cảnh sắc của thiên nhiên Nam Bộ ……………………
76
3.2. Miêu tả cuộc sống, con người Nam Bộ ……………………………
79
3.2.1. Miêu tả cuộc sống Nam Bộ ……………………………………
79
3.2.2. Miêu tả con người Nam Bộ ……………………………………
85
3.2.3. Thể hiện phong tục Nam Bộ ……………………………..........
95
3.2.4. Thể hiện văn hóa ứng xử ……………………………………...
97
3.3. Tiểu kết …………………………………………………………….
104
KẾT LUẬN ……………………………………………………………
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học của mỗi vùng miền có một đặc sắc riêng, trong đó, văn học
Nam Bộ đã để lại cho độc giả những ấn tƣợng rất đậm đà. Nói đến văn học Nam
Bộ trƣớc 1945, ta thƣờng nhắc tới các tên tuổi nhƣ Trƣơng Vĩnh Ký, Huỳnh
Tịnh Của, Trƣơng Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Trƣơng Duy Toản, Trần
Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh, Lê Hoàng Mƣu, Phi Vân, Nguyễn Chánh Sắt,
Tân Dân Tử, Bửu Đình, Phú Đức,… Sau năm 1945, những tác giả nổi bật
thƣờng đƣợc nhắc đến là Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Anh Đức,
Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng… Những tác giả này sống ở Nam Bộ và
chuyên viết về phƣơng Nam. Họ là kho tư liệu sống về con ngƣời, văn hóa, địa
lý, lịch sử của vùng đất phƣơng Nam. Thông qua truyện, ký cũng nhƣ những
công trình khảo cứu về đất và ngƣời phƣơng Nam của họ, chúng ta hiểu biết
thêm về một thời oanh liệt của ông cha ta trong quá trình khai phá vùng đất mới
này. Các tác giả đã có góc nhìn về vùng đất và con ngƣời phƣơng Nam tạo một
dấu ấn sâu đậm cho độc giả hôm nay và mai sau. Các nhà văn phƣơng Nam đã
vƣợt ra ngoài khuôn khổ của một quốc gia, dân tộc, tạo đƣợc tiếng vang lớn, làm
cho độc giả trong và ngoài nƣớc phải ngƣỡng mộ.
1.2. Nghiên cứu về các nhà văn của văn học Nam Bộ, chúng tôi thấy có
nhiều công trình viết về các tác giả nhƣ Anh Đức, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang
Sáng và đặc biệt là Sơn Nam. Sơn Nam nổi tiếng với truyện ngắn Hương
rừng Cà Mau, xuất bản năm 1962, tập truyện đƣợc nhiều độc giả đánh giá rất
cao. Hương rừng Cà Mau đã chính thức khẳng định tên tuổi của nhà văn Sơn
Nam, góp thêm cho văn học miền Nam một tiếng nói riêng. Sơn Nam đã hoàn
thành bốn tập hồi kí, hơn 30 chục đầu sách văn học và khảo cứu; số lƣợng
truyện ngắn khoảng 300 truyện; sự nghiệp sáng tác đó chính là những khám
phá về vùng đất Nam bộ, những trang viết mang hơi thở của thiên nhiên, văn
hóa và con ngƣời Nam Bộ.
2
Tác phẩm của ông có nhiều giá trị đặc sắc, đặc biệt về mặt ngôn ngữ. Do
đó, ông không chỉ đƣợc biết đến nhƣ một nhà văn hóa, nhà Nam Bộ học, mà
còn là cuốn từ điển sống về Nam Bộ.
1.3. Lâu nay, nhiều bài nghiên cứu, nhiều công trình khoa học, khi chọn
Sơn Nam làm đối tƣợng nghiên cứu, dƣờng nhƣ đều tập trung khai thác
những giá trị văn hóa Nam Bộ, thiên nhiên Nam Bộ mà ít nghiên cứu về đặc
điểm ngôn ngữ Sơn Nam - một thứ ngôn ngữ đặc Nam bộ.
1.4. Tiếp xúc với những tác phẩm của Sơn Nam không chỉ mở ra cho
chúng ta một thế giới mới về vùng đất cực Nam của Tổ quốc mà còn có một
thế giới ngôn ngữ đƣợc mở ra vừa quen vừa lạ. Quen bởi nó là tiếng nói Nam
Bộ hàng ngày chúng ta dùng, lạ vì nó mang nhiều đặc trƣng của vùng đất với
những con ngƣời đặc thù, việc làm đặc thù (bắt rắn, bắt cá sấu, đốt than lậu,
ăn ong, …) với giang hồ tứ xứ, với hảo hớn kì lạ, huyền bí là một thứ ngôn
ngữ đặc sệt miền Nam. Những trang văn của tác giả thắm đƣợm hơi thở của
sông nƣớc, rừng cây, những câu chuyện có cả thực có cả kỳ bí của thiên nhiên
Nam Bộ hoang sơ và truyền đƣợc hơi thở ấy cho độc giả. Những tác phẩm ấy
đã phổ biến trong giới học sinh, sinh viên, mà cả đối với độc giả khắp nơi trên
mọi miền đất nƣớc, họ xem nó nhƣ một áng văn về con ngƣời và vùng đất
Nam Bộ khá điển hình. Có đƣợc điều đó, không những là nhờ tình yêu của tác
giả đối với miền đất Nam Bộ quê hƣơng mà còn thể hiện ở óc quan sát tỉ mỉ,
tinh tế, lối văn kể chuyện hấp dẫn đƣợc thể hiển trong tác phẩm của mình. Có
thể nói, tất cả các sáng tác của các nhà văn Sơn Nam đều gắn liền với đời
sống nông thôn Nam Bộ. Đọc tác phẩm, chúng ta có thể cảm nhận đƣợc bối
cảnh nông thôn trên một vùng đất bao la một cách khái quát, sâu rộng, đủ mọi
sắc thái và diện mạo, ta nhƣ sống trong một bầu không khí dân dã, quê mùa
nhƣng bao giờ cũng thiết tha tình cảm, một thứ tình cảm rất đậm đà sâu lắng
giữa ngƣời với ngƣời, giữa ngƣời với thiên nhiên, một thiên nhiên hoang sơ,
xa vắng rất Nam Bộ.
3
Từ những lý do trên, chúng tôi muốn đi sâu khám phá thế giới ngôn ngữ
này trong giới hạn Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Sau khi đã tập hợp nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài, ngƣời viết nhận
thấy đã có không ít những nhà ngôn ngữ học, khoa học, văn hóa nổi tiếng
trong nƣớc lẫn nƣớc ngoài có mối quan tâm chung về vấn đề phƣơng ngữ.
Không những thế, trong số họ còn có ngƣời đặc biệt quan tâm đến việc nghiên
cứu, thống kê, tập hợp những từ rặt miền Nam để soạn thảo ra những quyển
từ điển từ địa phƣơng Nam Bộ có giá trị. Đây là những bƣớc tiến khá mới
trong quá trình nghiên cứu ngôn ngữ vào những năm 1990 trở lại đây khi
ngƣời ta dần dần nhận ra tầm quan trọng của phƣơng ngữ, phƣơng ngữ Nam
Bộ trong tiến trình chuẩn hóa ngôn ngữ tiếng Việt. Trong việc đào sâu nghiên
cứu, thấy đƣợc vẻ đẹp về cả hình thức lẫn nội dung của những cây bút đặc sệt
chất Nam Bộ nhƣ Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Quang Sáng, Trang Thế Hy, Hồ
tĩnh Tâm, Đoàn Giỏi và đặc biệt là Sơn Nam ở khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long, nhờ vào việc vận dụng tinh tế vốn phƣơng ngữ vào sáng tác văn học.
Nó mang theo dấu ấn văn hóa riêng đậm chất Nam Bộ .
2.1. Trƣớc hết chúng tôi đề cập đến công trình Phương ngữ học tiếng Việt
của Hoàng Thị Châu. Ở công trình này, tác giả thể hiện quan niệm của mình về
sự khác biệt từ vựng - ngữ âm giữa hai miền Nam - Bắc với tƣ cách là hai hệ
thống (phần II): biến đổi ngữ âm là sự biến đổi diễn ra đồng loạt trong mọi từ có
âm ấy không ngoại trừ một ngoại lệ nào [7, 70]. Những biến đổi ngữ âm thường
là những âm tố nằm trong giới hạn của hai âm vị kế cận nhau trong hệ thống âm
vị của một ngôn ngữ... các biến thể ngữ âm có thể xuất hiện trong những bối
cảnh ngữ âm phân bố bổ túc... hoặc ở thế không phân bố bổ túc... [7, 71], biến
thể do quy luật ngữ âm có tính chất đều đặn, nhất loạt [7, 72]
Hay tác giả Nguyễn Kim Thản trong Nguyễn Kim Thản tuyển tập đã đề
cập trực tiếp đến phƣơng ngữ Nam Bộ trong bài Thử bàn về một vài đặc điểm
trong phương ngữ Nam Bộ. Ở bài viết này, tác giả đã chỉ ra đƣợc những đặc
4
điểm về từ vựng, ngữ âm đặc trƣng của phƣơng ngữ Nam Bộ. Đặc biệt, bài
viết có sự so sánh giữa phƣơng ngữ Nam Bộ và phƣơng ngữ Bắc Bộ. Từ đó,
giúp độc giả hiểu rõ hơn đặc trƣng của phƣơng ngữ Nam Bộ về biến đổi ngữ
âm: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu.
Đặc biệt, Đoàn Thiện Thuật trong Ngữ âm tiếng Việt (1999), Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội, trong phần giới thiệu âm đầu cũng có đề cập đến biến thể âm
đầu. Tuy nhiên, tác giả nghiêng về biến thể ngữ âm âm đầu trong phƣơng ngữ
Bắc Bộ nhiều hơn. Các vấn đề khác thuộc về biến thể ngữ âm trong một âm tiết
nằm trong hệ thống các phƣơng ngữ nhƣ biến thể ngữ âm - âm chính, biến thể ngữ
âm - âm cuối... không đƣợc tác giả đề cập nhiều. Tác giả khẳng định: Những biến
thể địa phương của các âm vị rất đa dạng, cần được nghiên cứu riêng [65, 161].
Kế tiếp là công trình Phương ngữ Nam Bộ - những khác biệt về từ
vựng- ngữ nghĩa với phương ngữ Bắc Bộ (1995) của Trần Thị Ngọc Lang.
Đây là một trong những chuyên luận giúp ngƣời viết nhận ra có nhiều vấn đề
liên quan đến đề tài. Tác giả không chỉ đƣa ngƣời đọc đến những khái niệm
lịch sử hình thành đặc điểm của phƣơng ngữ Nam Bộ mà còn giúp họ phân
biệt đƣợc sự tƣơng đồng và dị biệt giữa phƣơng ngữ hai miền Nam - Bắc. Tác
giả đặc biệt nhấn mạnh bình diện từ vựng - ngữ nghĩa với những dẫn chứng
đƣợc phân tích hết sức rõ ràng, cụ thể. Đây là những đóng góp quý báu của
tác giả ở chuyên luận này. Trong các kiểu khác biệt về từ vựng - ngữ nghĩa
giữa hai phƣơng ngữ Bắc - Nam, ở phần I, tác giả giới thiệu sơ lƣợc về biến
thể ngữ âm và xếp biến thể ngữ âm vào kiểu thứ 6 trong phần này: Các biến
thể ngữ âm này có thể do hệ thống ngữ âm của từng phương ngữ tạo nên
hoặc do biến đổi lịch sử của từng vùng mà có sự sai khác. Những sai khác
này không đáng kể hoặc ở âm đầu... [27, 59], hoặc âm chính... [27, 60] hoặc ở
thanh điệu... [27,60], những biến thể ngữ âm đó chắc hẳn vốn bị chi phối bởi
một lĩnh vực nào đó, nhƣ qui luật chuyển đổi các phụ âm có cùng vị trí cấu
âm. Cũng có một số vần biến trại do kỵ húy (trùng với tên trong hoàng tộc
triều Nguyễn), phƣơng ngữ Nam Bộ ít chịu sự tác động này. Chuyên luận này
5
chủ yếu nghiên cứu quá trình hình thành cũng nhƣ thời gian xuất hiện vốn từ
phƣơng ngữ và chỉ ra đƣợc các nơi phát sinh nguồn gốc xuất xứ của phƣơng
ngữ từ các thứ tiếng.
Năm 2009, tác giả Trần Thị Ngọc Lang tiếp tục cho ra mắt bạn đọc bài
viết Chức năng văn hóa xã hội của tiếng Việt ở Nam Bộ. Tác giả không chỉ
xem xét phƣơng ngữ Nam Bộ trên bình diện từ vựng mà còn ngữ âm. Đây là
một bƣớc chuyển biến mới, mở rộng hƣớng nghiên cứu cho những ai quan
tâm đến phƣơng ngữ Nam Bộ nói chung. Tác giả bàn trực tiếp đến vấn đề
phát âm của ngƣời Nam Bộ trong ngôn ngữ nói hàng ngày (khẩu ngữ). Tác
giả viết: Ở Nam Bộ do môi trường sống không quá khó khăn, khắc nghiệt nên
cách phát âm khá thoải mái, không có sự cố gắng phân biệt, do vậy số lượng
âm và vần trùng nhau khá nhiều.
Tác giả còn chỉ ra nguyên nhân chính yếu của việc hình thành phƣơng
ngữ Nam Bộ trong sáng tác văn học là do xuất thân của ngƣời sáng tác cùng
với điều kiện địa lí mà họ sinh sống. Từ đó góp phần tạo nên hƣơng vị đặc
biệt và một nét đẹp mộc mạc, dân dã. Mức độ sử dụng các yếu tố của phƣơng
ngữ Nam Bộ cũng thay đổi qua các thời kì. Tác giả viết: Thời kì đầu, do việc
tiếp xúc phương ngữ còn hạn chế nên giọng văn của các tác giả còn đặc sệt
chất Nam Bộ với một phong cách “viết như nói”.
2.2. Gần đây nhất, trên các ấn phẩm nhƣ Ngôn ngữ, Ngữ học trẻ xuất hiện
các bài viết của nhiều nhà nghiên cứu có sự quan tâm sâu sắc đến tầm quan
trọng của phƣơng ngữ nói chung, phƣơng ngữ Nam Bộ nói riêng đƣợc sử
dụng trong những trƣờng hợp cụ thể.
Tác giả Huỳnh Công Tín trong bài Một số đặc điểm phát âm tiếng Việt
của người Khơ-me Nam Bộ vùng đồng bằng châu thổ (Ngữ học trẻ 1996) đã
bỏ nhiều tâm sức nghiên cứu trƣờng hợp những biểu hiện ngữ âm ở thành
phần phụ âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu. Cùng năm này,
tác giả lại tiếp tục ra mắt bạn đọc bài viết Tiếng Việt và vấn đề phân vùng
phương ngữ [67,30-33]. Đến năm 1997, tác giả lại bàn về Một số hiện tượng
6
ngôn từ của phương ngữ Nam bộ trong tiến trình chuẩn hóa tiếng Việt [68,65-
68], ông đã đƣa ra nhiều trƣờng hợp nhầm lẫn trong cách phát âm có tính phổ
thông do xu hƣớng thích sự đơn giản và hiện tƣợng biến thanh ở các lớp từ,
đại từ hóa chỉ đối tƣợng, không gian, thời gian, mức độ (...). Bên cạnh đó, tác
giả còn đƣa ra một số trƣờng hợp cụ thể về hiện tƣợng một số từ toàn dân và
từ địa phƣơng có nét chung, tƣơng tự hoặc không giống nhau.
Đến Ngữ học trẻ 1998, tác giả Huỳnh Công Tín lại một lần nữa ra mắt
độc giả bài viết Tính chất bán phương ngữ của phương ngữ Sài Gòn [69, 27-
31] xét trên bình diện ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp.
Đến năm 2009, Huỳnh Công Tín đã cho ra đời cuốn Từ điển từ ngữ
Nam Bộ. Soạn giả Huỳnh Công Tín đã nghiên cứu về từ ngữ Nam Bộ ở các
bình diện từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ âm, ngữ pháp và phong cách diễn đạt. Nhƣ
vậy, cảm nhận bản sắc Nam Bộ, TS. Huỳnh Công Tín đã cho ra đời gồm 27
bài báo đƣợc viết trong khoảng mƣời năm, trong đó: có 7 bài về văn chƣơng
Nam Bộ, 6 bài về những con ngƣời, tác giả, cũng nhƣ những nhân vật lịch sử
ở vùng đất Nam Bộ, 3 bài về địa danh, phong tục tập quán của ngƣời Nam Bộ
và đặc biệt có tới 11 bài về phƣơng ngữ Nam Bộ. Tác giả của cuốn sách đã
chú ý tới những vấn đề chung nhƣ sự tác động qua lại giữa ngôn ngữ, tƣ duy
và văn hóa Nam Bộ, mối quan hệ giữa ngôn ngữ chuẩn và các phƣơng ngữ.
Đến năm 2001, trên Ngữ học trẻ lại có một bài nghiên cứu liên quan
trực tiếp đến phƣơng ngữ Nam Bộ với tiêu đề: Nhìn lại việc dùng từ địa
phương trong văn học Nam Bộ qua một số thế kỉ của Nguyễn Tài Thái. Nếu
nhƣ những bài viết trƣớc, các tác giả quan tâm đến việc nghiên cứu phƣơng
ngữ, phƣơng ngữ Nam Bộ ở nhiều phƣơng diện tổng thể nghiêng về lĩnh vực
ngôn ngữ học, thì đến đây, lần đầu tiên tác giả đã đƣa ra những nhận định
khái quát nhƣng sâu sắc, đề cập trực tiếp việc vận dụng phƣơng ngữ Nam Bộ
vào trong sáng tác văn học (văn học Việt Nam) trong thế kỉ XX. Điều này có
ý nghĩa quan trọng giúp độc giả thấy đƣợc sự biến động của vốn từ ngữ địa
phƣơng trong một thế kỉ qua; thấy đƣợc thực tế sử dụng và quan niệm về cách
7
dùng từ địa phƣơng trong quá trình chuẩn hóa ngôn ngữ dân tộc. Tác giả đi
vào khai thác các từ địa phƣơng ở từng giai đoạn đƣợc phản ánh trong văn
học cùng với thực trạng và quan niệm về cách dùng từ địa phƣơng trong văn
học thế kỉ XX. Cuối bài viết tác giả tổng kết: Trên đây chúng tôi vừa sơ lược
trình bày về mức độ và quan niệm của việc sử dụng từ địa phương trong văn
học Nam Bộ từ đầu thế kỉ XX đến nay. Qua đó có thể thấy rằng phương ngữ
trong sáng tác văn học Nam Bộ trong suốt một thế kỉ qua đã phát triển và có
những biến đổi rõ rệt, tạo nên một xu hướng chung là hướng tới chuẩn hóa
ngôn ngữ. Xu hướng này thể hiện rất rõ trong việc dùng từ có chọn lọc và hạn
chế hiện tượng sai lỗi chính tả như đã phân tích ở trên [36, 474]. Điều này
cho thấy, tác giả có sự quan tâm đặc biệt về mặt từ vựng phƣơng ngôn trong
tác phẩm văn học với ƣu, nhƣợc điểm của nó trong quá trình chuyển tải nội
dung, nhất là tạo mạch cảm xúc đến ngƣời đọc.
Cuốn sách Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam do Hội khoa học lịch
sử Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Thế giới xuất bản, trên cơ sở tổng
hợp các kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học liên quan nhƣ sử học,
khảo cổ học, dân tộc học, văn hóa học, luật học... ở trong và ngoài nƣớc đã
trình bày một cách khách quan, có hệ thống và cô đọng những tƣ liệu, chứng
cứ cơ bản về lịch sử phát triển của vùng đất Nam Bộ.
2.3. Đáng lƣu ý là các vấn đề: Thiên nhiên và con người Nam Bộ qua
truyện ngắn Sơn Nam, luận văn cử nhân Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh của Đoàn Trần Ái Thi, năm 1996; Đặc
điểm truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn 1954 - 1975, luận văn thạc sĩ của Lê
Thị Thùy Trang, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh, năm
2003; Đinh Thị Thanh Thủy với đề tài Văn hóa và con người NamBộ trong
truyện của Sơn Nam, luận văn thạc sĩ tại Trƣờng Đại học khoa học xã hội và
nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Hồng với Nghệ thuật kể
chuyện của Sơn Nam, luận văn thạc sĩ, Trƣờng đại học Vinh, đã đánh giá rất
cao diện mạo, phong cách văn chƣơng của Sơn Nam.
8
2.4. Năm 2008, nhà văn Sơn Nam đi vào cõi vĩnh hằng, đã có nhiều bài
viết nghiên cứu về ông, đăng trên hàng loạt các trang báo trong và ngoài
nƣớc. Chu Văn Sơn trên http://www.phongdiep.net có bài Sơn Nam, Sẽ là
trồng cây đước tiền kiếp trên châu thổ, đánh giá cao tài năng của Sơn Nam;
Đặng Tiến trên một website nhận xét: Sơn Nam, nhà văn, tác giả hàng đầu
trong nền văn học Việt Nam đương đại. Trên báo điện tử
http//www.dantri.com có bài viết của Lê Phƣơng, Lê Bá Lƣ, Sơn Nam - Nhà
văn, nhà khảo cứu văn hóa, đã đánh giá cao vị thế, phong cách của Sơn
Nam… Một số tác giả khác cũng có bài viết đánh giá, nhận xét về nhà văn
Sơn Nam. Tác giả Nguyễn Mạnh Trinh với bài viết Sơn Nam, ông già Ba Tri
của đồng bằng Nam Bộ đã có cách nhìn bao quát, ấn tƣợng đầy chiêm
nghiệm: Sinh hoạt một thuở của những ngƣời di dân Nam Bộ đƣợc sống lại
trong Hương rừng Cà Mau. Những câu hò trong Con Bảy đƣa đò mang tâm
tình của ngƣời đi khai hoang. Mùa nƣớc nổi những đàn trâu bò phải di chuyển
lên vùng cao, một nét đặc thù của ngƣời miền đồng bằng trong Mùa len trâu.
Cũng nhƣ với Một cuộc biển dâu, ngƣời chết trong mùa lụt phải thủy táng chứ
không thể chôn đƣợc dƣới ba thƣớc đất. Rồi, đóng gông ông thầy Quýt, rồi
cây huê xà, ngƣời ác với những mƣu mô lẫn lộn ở cạnh ngƣời hiền và rốt
cuộc cũng là lẽ trả vay của trời đất tuần hoàn.
Những nhân vật như ông Từ Thông, như lục cụ Tăng Liên, như bác Vật
Xà Bông, như cậu xã Nê, như ông Tư Đức, như Ông Tiên sư tổ giăng câu,…
có nhiều nét sống thực nhưng cũng có nhiều nét của những chuyện kể của
những tò mò muốn tìm những nét đặc sắc của một thời đã được ghi dấu trên
lịch sử… Nhân vật của Sơn Nam có nét dân gian, gần cận với sinh hoạt bình
dân nên người đọc dễ hòa mình vào tâm cảm của họ…
Trong khi đó, theo nhà thơ Hoài Anh: Không cứ biên khảo, nghiên cứu
ngay cả truyện ngắn ông cũng viết bằng giọng kể giản dị như có người ngồi
nghe trước mặt mình. Điều này ta thấy rõ trong Hương rừng Cà Mau. Vùng
đất lục tỉnh với Sơn Nam như đất vườn quê ông. Ông là một lão nông dân cày
9
ruộng văn chương, hiểu cặn kẽ ngóc ngách thửa ruộng của mình. Tức là, nhà
thơ đã nhìn nhận Hương rừng Cà Mau với góc nhìn gần với thi pháp truyện
ngắn hiện đại mà cụ thể là giọng kể.
Sau khi Sơn Nam mất, một nhà báo lão thành nguyên là Trƣởng ban
văn nghệ Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, đã có lời tri ân về những
tác phẩm của Sơn Nam, mà hiển nhiên với Hương rừng Cà Mau là chính:
Đọc Sơn Nam người ta kinh ngạc về sự độc đáo của văn phong. Ông viết như
nói, như một ông già Nam Bộ kể chuyện đời trong quán cà phê. Nhưng sức
nặng của thông tin và cảm xúc của người viết khiến lời văn biến hóa khôn
lường. Đừng có ai đi tìm thể loại hay bố cục trong một truyện ngắn, hay một
cuốn sách của Sơn Nam. Nhưng cầm nó là phải đọc đến trang cuối vì càng
đọc càng thấy yêu nhân vật của ông, càng thấy yêu mảnh đất Nam Bộ, miền
cực Nam của tổ quốc.
Còn TS. Chu Văn Sơn lại nhìn truyện của Sơn Nam đầy chất thơ: Ông
đã tích tụ vào mình cả một nền văn minh mà chính ông đặt là văn minh miệt
vƣờn cả một nền văn hóa mà chính ông đã gọi văn hóa sông nƣớc để làm trữ
lƣợng cho một đời cầm bút. Vì thế, khi ông thả những dòng chữ trên trang
giấy, thì đó không còn là những nét mực, mà đó sự thực là những ngọn sóng
Cửu Long sóng sánh phù sa. Hơi thở Nam Bộ, không khí miệt vƣờn thấm
đƣợm chan hòa đến từng dòng văn, từng lời chú thích.
Không ngọt ngào nhƣ TS. Chu Văn Sơn, Hà Văn Thƣơng nhận xét
kiểu đặc sệt Nam Bộ: Sơn Nam là ông già kể chuyện xƣa, lối kể cũng xƣa.
Văn ông giản dị, ngắn gọn có khi cộc lốc, ông nói cho ngƣời ta hiểu chứ
không cốt làm văn. Đấy là cái chất của ông.
Qua những cách nhìn nhận đánh giá trên, ta thấy tất cả các nhà văn,
nhà phê bình đều nhìn nhận và đánh giá cao các tác phẩm của Sơn Nam, đặc
biệt là sự đóng góp của ông về mặt nội dung, mà nội dung này lại không hoàn
toàn giống nhƣ những loại truyện ngắn khác mà chúng ta vẫn quen thấy nơi
những nhà văn hiện đại: không dữ dội, không giật gân, không ủy mị.
10
3. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm các lớp
từ trong một số truyện ngắn của nhà văn Sơn Nam, cụ thể là trong tập truyện
ngắn Hương rừng Cà Mau tập 1, tập 2 và tập 3 (65 truyện)
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Thống kê các lớp từ địa phƣơng Nam Bộ đƣợc nhà văn Sơn Nam sử dụng
trong tác phẩm nhƣ: danh từ riêng chỉ tên nhân vật, từ định danh địa hình
sông nƣớc, từ miêu tả vận động của dòng nƣớc, từ chỉ phƣơng tiện di chuyển
trên sông nƣớc, từ chỉ hoạt động của ngƣời dân miền sông nƣớc, từ chỉ sản
vật vùng sông nƣớc…
- Tập trung làm nổi bật những nét đặc sắc về cách dùng từ ngữ Nam Bộ
trong truyện ngắn của Sơn Nam.
4. Phạm vi tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Tư liệu khảo sát
Trong đề tài này, chúng tôi khảo sát ngôn ngữ của 65 truyện trong
Hương rừng Cà Mau (3 tập) nhằm góp phần thấy đƣợc đóng góp của tác giả
về mặt ngôn ngữ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề ra, chúng tôi sử dụng những
phƣơng pháp chủ yếu sau:
- Phƣơng pháp thống kê ngôn ngữ học để thu thập và phân loại tƣ liệu.
- Dùng các thủ pháp phân tích, miêu tả và tổng hợp để làm nổi bật đặc
sắc ngôn ngữ truyện ngắn của Sơn Nam.
- Dùng phƣơng pháp so sánh đối chiếu để nhận diện cá tính ngôn ngữ
truyện ngắn của Sơn Nam.
5. Đóng góp của đề tài
11
Qua nghiên cứu ngôn ngữ trong truyện ngắn của Sơn Nam, luận văn nhằm
khẳng định giá trị to lớn, vị trí vai trò của truyện ngắn trong toàn bộ sự nghiệp
sáng tác của Sơn Nam, truyện ngắn Việt Nam. Từ việc tìm hiểu một số đặc ngôn
ngữ trong 65 truyện ngắn của Sơn Nam, luận văn nhằm khẳng định đóng góp
của ông đối với văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam, khẳng định vai trò to lớn trong
việc thể hiện đặc trƣng văn hoá - xã hội của phƣơng ngữ Nam Bộ.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có ba chƣơng:
Chƣơng 1: Những giới thuyết liên quan đến đề tài
Chƣơng 2: Đặc điểm từ địa phƣơng Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam
Chƣơng 3: Vai trò của từ địa phƣơng Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam
12
Chƣơng 1. NHỮNG GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Vùng đất Nam Bộ
1.1.1. Về địa lí
Nam Bộ nằm ở phía Nam của nƣớc Việt Nam là một vùng đồng bằng
sông nƣớc rất đặc trƣng thuộc hạ lƣu sông Mê Kông, sông Vàm Cỏ và sông
Đồng Nai, tiếp giáp với biển Đông. Vùng đất Nam Bộ mang đặc điểm chung
của thiên nhiên Việt Nam: bán đảo, nhiệt đới, gió mùa. Là một vùng đất mở
và động, đa dạng về sinh thái, thiên nhiên vừa ƣu đãi lại vừa khắc nghiệt.
Vùng đất Nam Bộ có độ phì nhiêu cao nhất trong tất cả các đồng bằng nƣớc
ta. Toàn vùng có đến 4.000 kinh rạch, dài tổng cộng 5. 00 km [32], với hai hệ
thống sông lớn nhất của vùng là hệ thống sông Đồng Nai và hệ thống sông
Cửu Long. Hệ thống sông Đồng Nai ở khu vực Đông Nam Bộ có lƣợng phù
sa khá thấp, tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm, nhƣng nhờ lòng sông sâu nên
đây là nơi tập trung các cảng chính của khu vực nhƣ cảng Sài Gòn, cảng Cát
Lái, cảng Hiệp Phƣớc, cảng Phú Mỹ... Hệ thống sông Cửu Long đã đóng vai
trò rất quan trọng trong quá trình hình thành đồng bằng sông Cửu Long mà
diện tích lên tới 39. 34 km² [32]. Nam Bộ là nơi gặp gỡ của các tuyến giao
thông đƣờng biển quốc tế, Việt Nam với Đông Nam Á, Việt Nam với phƣơng
Tây, ngã ba đƣờng Thái Bình Dƣơng - Ấn Độ Dƣơng. Nam Bộ là nơi gặp gỡ
của những điều kiện tự nhiên thuận tiện, gần xích đạo nhƣng mùa hè không
quá nóng và ẩm nhƣ miền Bắc ở sâu trong lục địa, không quá khô và quanh
năm không bao giờ bị bão lớn nhƣ miền Trung.
Khí hậu Nam Bộ mang tính chất nhiệt đới gió mùa, thời tiết có hai
mùa: mùa mƣa và mùa nắng. Ở Nam Bộ, từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa mƣa,
những tháng còn lại không mƣa gọi là mùa khô nên hầu nhƣ nơi đây nóng
quanh năm và không có mùa đông. Riêng đồng bằng sông Cửu Long, từ tháng
8 trở đi thƣờng có lũ lụt, ngập khoảng 25% diện tích (Đồng Tháp, An
13
Giang,…) và nhiệt độ trung bình cả năm là 260C. Các ngành kinh tế nhƣ
nông, lâm, ngƣ nghiệp, nhất là nông nghiệp trồng lúa nƣớc phát triển rất thuận
lợi nhờ đất đai màu mỡ, thời tiết điều hòa. Bên cạnh phèn chua, nhiễm mặn,
ngập úng vào mùa mƣa, thiếu nƣớc vào mùa nắng luôn luôn là những thách
thức cho vùng đất nơi đây.
Hiện nay, vùng đất Nam Bộ có thế mạnh về nông nghiệp, công
nghiệp, thƣơng mại - dịch vụ, thủy sản lớn nhất nƣớc ta với 19 tỉnh thành.
Vùng đất hơi cao ở vùng phía Đông Bắc, thƣờng đƣợc gọi là miền Đông Nam
Bộ, độ cao trung bình từ vài chục mét đến khoảng 200 nét trên mực nƣớc
biển. Miền Đông Nam Bộ có 6 tỉnh thành là Bình Phƣớc, Bình Dƣơng, Tây
Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh. Còn miền
Tây Nam Bộ có 13 tỉnh thành nhƣ: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng
Tháp, An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ và hàng trăm đảo lớn nhỏ, có đƣờng biên giới bộ
giáp với Campuchia dài gần 880 km. Dân số toàn vùng Nam Bộ hiện nay có
trên 30 triệu ngƣời, chiếm hơn 1/3 dân số của cả nƣớc (cả nƣớc trên 80 triệu
ngƣời), trong đó, ngƣời Khmer khoảng 1,3 triệu ngƣời, ngƣời Hoa trên
600.000 ngƣời, ngƣời Chăm trên 14.000 ngƣời, ngƣời Kinh gần 28 triệu
ngƣời và một số dân tộc khác sinh sống ở vùng này nhƣng với số lƣợng ít.
1.1.2. Về lịch sử
Tiến trình lịch sử của Nam Bộ khác với những vùng đất khác, nó không
phát triển liên tục mà bị đứt quãng, điển hình là trên vùng đất này đã từng có
vƣơng quốc Phù Nam cổ xƣa với nền văn hóa Óc Eo một thời phát triển rực rỡ.
Những gì mà ngƣời ta nói về Nam Bộ ngày nay thƣờng chỉ giới hạn trong phạm
vi trên dƣới ba trăm năm. Ngƣời Việt di dân vào Nam có thể nói bắt đầu khi
cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn nổ ra và sau đó là cuộc di dân thực sự vào thời
nhà Nguyễn đầu thế kỷ XVIII khi nhà Nguyễn nắm đƣợc chính quyền Đàng
Trong và kêu gọi những ngƣời giàu có vào khai khẩn trên đất Đồng Nai, Gia
Định. Trong mấy trăm năm định hình và phát triển, Nam Bộ đã tạo nên cho
14
mình một lịch sử với giá trị văn hóa vật chất và tinh thần vô cùng phong phú,
độc đáo và một bản sắc rất riêng so với các vùng miền khác.
Cách nay khoảng 4000 năm đến 2500 năm, những cƣ dân bản địa của
văn hóa Đồng Nam từ vùng miền Đông Nam Bộ nhƣ Stiêng, Chơ Ro, Mạ...
đã di cƣ xuống đồng bằng sông Cửu Long và định cƣ ở đó. Từ thế kỷ I đến
thế kỷ thứ VII, hình thành vƣơng quốc Phù Nam, chủ nhân của nền văn hóa
Óc Eo. Từ thế kỷ thứ VII, Phù Nam bị Chân Lạp xâm chiếm sau đó
chia thành Lục Chân Lạp (địa phận Campuchia hiện nay) và Thủy Chân Lạp
(địa phận Nam Bộ hiện nay). Thủy Chân Lạp hoang vắng từ thế kỷ VIII đến
thế kỷ XIII. Chỉ khoảng thế kỷ XIII, ngƣời Khmer mới từ Campuchia đến cƣ
trú rải rác tạo thành những nhóm nhỏ tại Thủy Chân Lạp. Từ thế kỷ thứ XVI
đến XVII, cƣ dân Việt từ Đàng Trong (sau đó từ miền Bắc, miền Trung) di
cƣ vào lập nghiệp ngày càng đông. Năm 1698, Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu
Cảnh vào lập phủ Gia Định; Chúa Nguyễn là ngƣời bảo hộ cho quá trình khai
phá và thiết lập chủ quyền ở Nam Bộ một cách hòa bình hữu nghị.
Trên vùng đất Nam Bộ, Chúa Nguyễn đã thi hành chính sách khuyến
khích đặc biệt đối với việc khai phá đất hoang, cho phép ngƣời dân biến
ruộng đất khai hoang đƣợc thành sở hữu tƣ nhân. Trƣớc làn sóng tự phát di cƣ
vào Nam tìm đất sinh sống của đông đảo những ngƣời nông dân Thuận -
Quảng, Chúa Nguyễn cho ngƣời đứng ra tổ chức các cuộc di cƣ này và lập
thành các xã, thôn, phƣờng, ấp của ngƣời Việt. Chúa Nguyễn đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho những địa chủ giàu có ở Thuận - Quảng đem tôi tớ và chiêu
mộ nông dân lƣu vong vào đây khai hoang lập ấp, chính sách này đƣợc thực
thi lâu dài và nhất quán nhƣ một phƣơng thức khai hoang chủ yếu ở Nam Bộ.
Lực lƣợng khai hoang chủ yếu là lƣu dân ngƣời Việt và một bộ phận những
ngƣời dân gốc Chăm Pa, Chân Lạp. Ngoài ra, một số lính đồn trú, một số
ngƣời Trung Quốc, ngƣời dân tộc thiểu số khác cũng đƣợc sử dụng vào việc
khai khẩn và canh tác.
15
Trải qua quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc lâu dài của dân tộc, lãnh thổ
và biên giới của Việt Nam ngày càng đƣợc củng cố và từ lâu đã trở thành thực
thể thống nhất từ Bắc chí Nam, trong đó có vùng đất Nam Bộ. Với truyền
thống kiên cƣờng, bất khuất và tinh thần lao động cần cù của cả dân tộc, các
thế hệ ngƣời Việt đã viết nên những trang sử hào hùng trong quá trình xây
dựng, bảo vệ và phát triển vùng đất Nam bộ, góp phần làm rạng rỡ non sông,
đất nƣớc Việt Nam.
Trong cuốn sách Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam, các tác giả đã
nghiên cứu lịch sử Nam Bộ bắt đầu từ văn hóa Óc Eo và nƣớc Phù Nam,
nghĩa là từ khi nhà nƣớc đầu tiên ra đời trên vùng đất này vào đầu Công
nguyên. Cuốn sách đã trình bày quá trình nƣớc Phù Nam suy sụp, vùng đất
Nam Bộ thuộc lãnh thổ nƣớc Chân Lạp từ thế kỷ VII cho đến thế kỷ XVI, rồi
sự xuất hiện những nông dân ngƣời Việt, ngƣời Hoa vào khai phá lập nghiệp
từ thế kỷ XVII. Từ đây, cƣ dân bản địa ngƣời Khmer, ngƣời Chăm và một số
tộc ngƣời thiểu số khác cùng ngƣời Việt, ngƣời Hoa mở rộng công cuộc khẩn
hoang, phát triển kinh tế. Ở thế kỷ XIII, cƣ dân ở vùng đất Nam Bộ còn thƣa
thớt. Chu Đạt Quan, một ngƣời Trung Quốc có dịp đến Chân Lạp vào năm
1296 - 1297, đã mô tả vùng đất này nhƣ sau: Từ chỗ vào Chân Bồ trở đi, hầu
hết là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo dài mấy trăm dặm, cổ thụ
rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau ở trong đó. Đến
nửa cảng mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một tấc cây. Nhìn xa
chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà thôi. Trâu rừng họp nhau thành từng đàn trăm
ngàn con, tụ tập ở đấy. Lại có giồng đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm dặm.
Loại tre đó, đốt có gai, măng rất đắng [22, 25]. Trong suốt quá trình lịch sử
đó, cộng đồng cƣ dân các dân tộc trên đất Nam Bộ ngày càng gắn bó với nhau
trong vận mệnh chung của quê hƣơng và đất nƣớc với nghĩa vụ xây dựng và
bảo vệ vùng đất Nam Bộ.
Trên cơ sở thực tế lịch sử và các văn bản pháp lý mang tính quốc tế,
Nam Bộ là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Cuốn sách
16
dành một phần thích đáng trình bày về cuộc sống của cộng đồng cƣ dân Nam Bộ
và mối quan hệ đoàn kết, giao thoa văn hóa mật thiết giữa các dân tộc Việt,
Khmer, Hoa, Chăm cùng các dân tộc ít ngƣời khác và những nét đặc trƣng của
không gian lịch sử, văn hóa Nam Bộ. Các tác giả nhấn mạnh truyền thống đoàn
kết dân tộc của cộng đồng các dân tộc ở Nam Bộ trong lao động sáng tạo, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội cũng nhƣ trong đấu tranh kiên cƣờng, bất khuất bảo
vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Có thể khẳng
định rằng chân lý Nam Bộ là đất Việt Nam [22, 51], Đồng bào Nam Bộ là dân
nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ
thay đổi [22, 59] đã đƣợc làm sáng tỏ trong cuốn sách Lƣợc sử vùng đất Nam Bộ
- Việt Nam do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Thế
giới xuất bản, phát hành cuối năm 2006.
Khi thực dân Pháp xâm lƣợc Việt Nam năm 1858, đánh chiếm Nam Bộ,
ngƣời dân Nam Bộ đã đoàn kết kháng chiến chống ngoại xâm. Đặc biệt, từ khi có
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo (1930), nhân dân Nam Bộ đã kiên cƣờng chiến
đấu góp phần vào thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám và tiến hành hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đi đến thắng lợi hoàn toàn, cùng nhân dân
cả nƣớc xây dựng Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ từ ải Nam quan đến mũi Cà Mau và văn bản các hiệp ƣớc quốc tế cũng đã
khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Nhƣ vậy, là đến năm 1945 các nƣớc láng giềng với Việt Nam, trong đó
có Campuchia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng đất Nam
Bộ là của Việt Nam. Đến năm 1949, vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn
nhượng cho Pháp đã đƣợc trả lại bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Chính phủ
Pháp đã khẳng định những cơ sở lịch sử và luật pháp của văn bản này với Vƣơng
quốc Campuchia. Từ đó về sau chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam bộ đƣợc
tất cả các hiệp định có giá trị pháp lý quốc tế thừa nhận nhƣ Hiệp định Giơneve
(1954) giữa nƣớc ta và Pháp ký, Hiệp định Pari (1973) giữa nƣớc ta và Mỹ ký
cũng đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận. Như vậy, bằng bao xương máu, hy
17
sinh, nhân dân Nam bộ và cả nước đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của
Mỹ; giữ vững độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, thống nhất
giang sơn. Trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, biết bao thế hệ và hàng
triệu người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã đổ máu hy sinh để bảo vệ độc
lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trước mọi âm mưu xâm chiếm hoặc chia
cắt đất nước, dù chỉ là một tấc đất, trong đó có vùng đất Nam bộ, toàn thể cộng
đồng dân tộc Việt Nam đều không tiếc máu xương cầm súng đứng lên bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình [22, 61].
Vùng đất miền Nam màu mỡ đã sản sinh ra rất nhiều tác gia chuyên
viết về cảnh vật và con ngƣời trên quê hƣơng của họ nhƣ: Hồ Biểu Chánh, Phi
Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Anh Đức, Nguyễn Quang
Sáng,… Họ xứng đáng đƣợc xem nhƣ những cây bút tiêu biểu, góp tiếng nói
khẳng định những giá trị của văn chƣơng Nam Bộ, làm cho nền văn học Việt
Nam có thêm những thành tựu mới ở thế kỷ XX.
1.1.3. Về văn hóa
Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì
mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và
phong phú. Nam Bộ tuy là vùng đất mà tổ tiên ta mới khai phá và lập nghiệp
hơn 300 năm, nhƣng văn hóa của nông thôn Nam Bộ bắt nguồn từ nền văn
hóa chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Nam Bộ vốn là miền đất hoang vu, cỏ mọc thành tinh, rắn đồng biết
gáy, nhiều sông rạch, đầm lầy, muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh,
trên rừng có nhiều thú dữ, rắn độc và động vật quý, dƣới nƣớc tôm cá bạt
ngàn, còn có rùa, cá sấu,... Ngƣời nông dân Nam Bộ thì lao động cần cù, dũng
cảm, thế hệ sau tiếp nối thế hệ trƣớc để cải tạo thiên nhiên, phòng chống thú
dữ để sản xuất. Ðể tồn tại và phát triển giống nòi, sản xuất và bảo vệ sản xuất
tất yếu các gia đình nông dân trong họ tộc, trong xóm làng liên kết nhau trong
lao động, phá rừng làm ruộng rẫy, đào sông rạch, làm đƣờng giao thông, săn
bắn thú dữ, vừa cƣu mang đùm bọc lẫn nhau, sống theo đạo lí thương người
18
như thể thương thân, giúp đỡ nhau chén cơm manh áo, con giống, hạt giống.
Đúng với câu ca truyền miệng gần nhƣ nông dân Nam Bộ ai cũng thuộc lòng
một miếng khi đói bằng cả gói khi no, trong sản xuất cũng nhƣ trong đời sống.
Tuy cuộc sống vô cùng cơ cực, ngày ngày phải lao động trên đồng ruộng,
đêm đêm nam nữ quây quần giã gạo, chày đôi, chày ba, rồi ca hát hoặc hò đối
đáp dƣới ánh trăng, tình quê tuy mộc mạc nhƣng thấm đậm nghĩa tình.
Những ngƣời nông dân có mặt ở vùng đất Nam Bộ là những ngƣời
nông dân đến từ miền Trung, miền Bắc. Tuy buổi đầu lập nghiệp trên vùng
đất hoang sơ trăm đắng ngàn cay, bởi rừng thiêng nƣớc độc, ngƣời nông dân
thiếu cả công cụ, phƣơng tiện lao động... nhƣng mọi ngƣời đều kiên cƣờng
bám trụ đến đây thì ở lại đây/ trăm năm bám rễ xanh cây không về. Bám rễ
xanh cây không chỉ có nghĩa là lao động sáng tạo ra của cải vật chất, mà sự
xanh cây bám rễ còn chỉ mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời từ bốn phƣơng hội
tụ trên mảnh đất Nam Bộ ấm áp tình ngƣời. Tấm lòng ngƣời nông dân Nam
Bộ xƣa nay luôn đức độ bao dung, sẵn sàng tha thứ cho những ai biết hối cải
lỗi lầm, nhƣng cũng không tha thứ cho kẻ gian ác, điêu ngoa. Họ coi trọng
nhân nghĩa, với lòng thƣơng ngƣời bao la vô tận, nhƣng họ cũng rất ghét bọn
gian tà, xu nịnh, những kẻ tham phú phụ bần. Nếu ai là ngƣời lƣơng thiện có
đạo đức, sống trung thực, nhân nghĩa dẫu từ nơi đâu đến với xóm làng Nam
bộ thì cũng đƣợc ngƣời nông dân đón tiếp thân tình theo đúng nghĩa tứ hải
giai huynh đệ, sẵn sàng cƣu mang giúp đỡ ngƣời đói rét, bệnh tật anh em như
thể tay chân hay là Bầu ơi thương lắy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn nhƣ dân gian ta thƣờng nói.
Nam Bộ là vùng đất của sự tiếp xúc văn hóa. Khi nghiên cứu về Nam
Bộ, dễ nhận thấy diện mạo văn hóa hết sức đặc sắc của Nam Bộ đƣợc biểu
hiện ra ở chỗ: một mặt, xuất hiện những hiện tƣợng, những đặc điểm riêng chỉ
có ở Nam Bộ, không thấy ở bất cứ vùng miền nào; nhƣng mặt khác, những
hiện tƣợng, những đặc điểm ấy vẫn là sự tiếp nối, hơn nữa, còn là một sự tiếp
nối làm sâu sắc, phong phú thêm truyền thống văn hoá Việt. Cái đặc sắc ấy là
19
do Nam Bộ đi đầu trong tiếp xúc văn hóa, xét trong tƣơng quan với cả nƣớc.
Ngay từ thời kỳ khai phá vùng đất mới này ở các thế kỷ XVII - XVIII, những
truyền thống văn hoá Việt, Khmer, Hoa, Chăm,... đã gặp gỡ nhau, đan xen và
hòa trộn với nhau. Do vậy, Nam Bộ là nơi gặp gỡ của cƣ dân nhiều tộc ngƣời
(Việt, Hoa, Chăm, Khmer…), đến từ khắp mọi miền của đất nƣớc (Bắc –
Trung – Nam) và khu vực. Mức độ tứ xứ cao nhất nƣớc. Văn hóa Nam Bộ là
sản phẩm của quá trình dƣơng tính hóa trong không gian và thời gian. Nó là
khâu cuối cùng trong quá trình dƣơng tính hóa trong không gian: từ Bắc qua
Trung vào Nam. Nó cũng là khâu cuối cùng trong quá trình dƣơng tính hóa
theo thời gian: từ lớp văn hóa bản địa qua lớp văn hóa giao lƣu với Trung Hoa
đến lớp văn hóa giao lƣu với phƣơng Tây. Trong công cuộc tiếp xúc với văn
hóa phƣơng Tây ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nam Bộ cũng đi trƣớc cả
nƣớc. Chính từ miền đất này, những cuộc cách tân đã khởi phát, sau đó lan ra
cả nƣớc: sản xuất hàng hóa lớn và thƣơng mại quốc tế, văn học quốc ngữ, ăn
uống (đồ Tây), mặc (âu phục), âm nhạc (tân nhạc, cải lƣơng), nghề in và xuất
bản, nghề báo... Đó là những lĩnh vực quan trọng đã làm thay đổi cách nghĩ,
cách cảm của cả dân tộc. Ngày nay, Nam Bộ cũng đang dẫn đầu trong công
cuộc đổi mới và tái hội nhập của đất nƣớc với thế giới.
Nhƣ vậy, công cuộc khai phá Nam Bộ xét về mặt văn hóa đã mở ra
cho cả dân tộc con đƣờng trở về với Đông Nam Á cội nguồn, đồng thời cũng
là con đƣờng đến với thế giới. Ðiều này vô cùng quan trọng, vì nhiều thế kỷ
trƣớc đây, thế giới với ngƣời Việt Nam chỉ là Trung Hoa. Và Nam Bộ lẽ ra đã
có thể đƣa cả nƣớc vào con đƣờng cách tân và hiện đại hóa sớm hơn rất nhiều
nếu cơ hội lịch sử không bị bỏ qua chỉ vì triều đình nhà Nguyễn khƣ khƣ ôm
giữ những giáo điều cổ hủ, sợ sự thay đổi có thể đe dọa đến địa vị thống trị
của họ. Ngày nay, Nam Bộ đang đi tiên phong trong tiếp xúc văn hóa hẳn sẽ
đóng vai trò to lớn xứng đáng của nó trong công cuộc hiện đại hóa của dân
tộc. Về mặt tôn giáo cũng không phải ngoại lệ, Nam Bộ trở thành nơi khởi
phát của phong trào chấn hƣng Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX, là nơi nảy sinh
20
và phát triển các phong trào tôn giáo lớn theo xu hƣớng cách tân và mang
đậm dấu ấn địa phƣơng nhƣ Bửu Sơn Kỳ Hƣơng, Cao Đài, Phật giáo Hòa
Hảo. Các hiện tƣợng này chính là những đối tƣợng thích hợp nhất cho sự
phân tích nhằm lý giải vì sao những truyền thống văn hóa có gốc gác khác
nhau có thể kết hợp đƣợc với nhau nhuần nhuyễn đến nhƣ vậy. Công việc đó
chẳng những góp phần giúp ta hiểu thêm về con ngƣời và văn hóa Nam Bộ,
hiểu thêm sức mạnh của truyền thống văn hóa Việt, đồng thời còn gợi cho
chúng ta suy nghĩ thêm về con đƣờng hội nhập với thế giới hôm nay. Góc
nhìn mới về văn hóa vùng đất mới, quyển Nho giáo ở Gia Định đã lý giải
đƣợc điều đó một cách tƣờng minh. Nho giáo ở Gia Định xuất phát từ con
người Việt Nam ở Nam Bộ thời Đàng Trong đã mang trong hành trang Nam
tiến của mình một loại Nho giáo được dân tộc hóa qua ba thế kỷ... Cũng phải
kể tới bộ phận được du nhập theo chân những di thần nhà Minh Trung Hoa
tìm tới tị nạn chính trị [37]. Từ đó, Nho giáo ở Nam Bộ có bản sắc riêng, có
giá trị riêng và song hành với sự phát triển của địa phƣơng và dân tộc.
Nho giáo đƣợc xem nhƣ mạch chủ đạo để đối chiếu, phân tích với ảnh
hƣởng của Phật giáo, văn hóa Đông Nam Á, văn hóa Tây phƣơng, văn hóa
các dân tộc bản địa trong cuộc sống hỗn dung của cộng đồng các dân tộc ở
Gia Định và Đàng Trong nói chung. Từ phƣơng pháp tiếp cận đó, tác giả cuốn
sách Nho giáo ở Gia Định đã phát hiện và lý giải nhiều hiện tƣợng văn hóa
thú vị của vùng đất phía Nam nhƣ: tìm hiểu truyền thuyết về các ông đạo ở
miền Tây Nam Bộ mà đặc biệt là các nhân vật có liên quan với giáo phái Bửu
Sơn Kỳ Hƣơng từ nửa sau thế kỷ XIX đến 1945, có thể tìm thấy vô số ví dụ
về bùa ngải phù phép, nhƣng nhìn chung loại ma thuật này thƣờng có nguồn
gốc Đông Nam Á, chứ ít có liên hệ với pháp thuật của các đạo sĩ Trung
Hoa… Chẳng hạn, dƣới thời Pháp thuộc, khi các mâu thuẫn kinh tế - xã hội
thuộc địa đã định hình vẫn còn sự xuất hiện các tôn giáo nhƣ đạo Cao Đài
năm 1926, rồi Phật giáo Hòa Hảo năm 1939, trong đó, Cao Đài mang dáng
dấp một hội đoàn có khuynh hƣớng chính trị ôn hòa của tầng lớp trên nhƣng
21
lùi lại vị trí một tôn giáo để thu hút hội viên, còn Phật giáo Hòa Hảo giống
nhƣ một phong trào vận động tƣ tƣởng trong quần chúng tầng lớp dƣới nhƣng
đƣợc nâng lên thành một tôn giáo để tránh bị đàn áp.
Về không gian văn hoá, thì vùng văn hoá này bao gồm địa bàn 19 tỉnh
thành: Đồng Nai, Bình Dƣơng, Bình Phƣớc, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang,
Bạc Liêu, Cà Mau. Có thể chia thành ba tiểu vùng văn hoá: tiểu vùng Đông
Nam Bộ, tiểu vùng Tây Nam Bộ, và tiểu vùng Sài Gòn. Hiện nay, Nam Bộ là
nơi cƣ trú của ngƣời Việt và các tộc ngƣời thiểu số là cƣ dân bản địa: Stiêng,
Chrau, Mạ, hoặc di dân: Khmer, Hoa, Chăm, Tày, Nùng, Mƣờng, Thổ... Các
tộc ngƣời khác thì di dân vào Nam Bộ theo ba đợt chính: di dân có tổ chức
vào các năm 1954, 1975, và di dân tự do ồ ạt từ năm 1994. Do đó, Nam Bộ
cũng là một vùng đất đa tộc ngƣời sinh sống. Bởi vì, Nam Bộ đƣợc hình
thành trên một vùng đồng bằng sông nƣớc và trên một vùng đất đa tộc ngƣời.
Văn hoá Nam Bộ có hai đặc trƣng chủ đạo là đặc trƣng đồng bằng sông nƣớc
và sự tiếp biến các yếu tố văn hoá của ngƣời Chăm, ngƣời Khmer, ngƣời Hoa
vào văn hoá Việt trong vùng. Xét về mức độ, những đặc trƣng chủ đạo này
cũng là những nét đặc thù của vùng văn hoá Nam Bộ. Bởi vì, đặc trƣng đồng
bằng sông nƣớc cũng có mặt trong các vùng văn hoá đồng bằng ở Bắc Bộ và
Trung Bộ, nhƣng chỉ ở Nam Bộ yếu tố sông nƣớc mới nổi lên thành một đặc
trƣng chủ đạo, chi phối toàn diện cuộc sống cũng nhƣ các thành tố văn hoá
của các cộng đồng cƣ dân. Mặc dù, các vùng văn hoá đồng bằng ở Bắc Bộ và
Trung Bộ đều có tiếp biến văn hoá của các tộc ngƣời khác nhau, nhƣng chỉ ở
Nam Bộ, văn hoá các tộc ngƣời thiểu số cộng cƣ mới đủ sức khúc xạ văn hoá
của cƣ dân Việt trong vùng đến mức làm cho nó trở nên vừa quen vừa lạ đối
với chính ngƣời Việt đến từ miền Bắc, miền Trung. Cho nên, không ở đâu có
nhiều từ ngữ để chỉ các loại hình và hoạt động sông nƣớc nhƣ ở vùng này:
sông, lạch, kinh, rạch, xẻo, ngọn, rọc, tắt, mương, rãnh, ao, hồ, đìa, hào,
22
láng, lung, bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng, vịnh, bàu...;
nước lớn, nước ròng, nước đứng, nước nhửng, nước rông, nước rặc, nước
lên, nước xuống, nước nhảy, nước chụp, nước rút, nước nổi, nước lụt, nước
lềnh, nước cạn, nước xiết, nước xoáy, nước ngược, nước xuôi... Vì vậy, sông
nƣớc đã trở thành một yếu tố cấu thành đặc trƣng của văn hoá nơi đây.
Về tín ngƣỡng, Nam Bộ là vùng đất phong phú nhất về tín ngƣỡng tôn
giáo ở Việt Nam, ngƣời Việt Nam Bộ cũng dành ƣu tiên cho đạo Phật, kết hợp
với tín ngƣỡng vạn vật hữu linh và thờ cúng tổ tiên. Nam Bộ là một vùng đất
mới, nhƣng Nam Bộ cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử - văn hoá nhƣ Văn miếu
Trấn Biên, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai, di tích Rạch Gầm - Xoài
Mút, di tích Ấp Bắc, luỹ Pháo Đài, lăng Hoàng Gia, lăng Trƣơng Định, lăng Tứ
Kiệt ở Tiền Giang, Văn Miếu ở Vĩnh Long,... Gần đây, một số địa phƣơng ở
Nam Bộ đã tiến hành phục dựng, trùng tu các di tích này để tôn vinh những
ngƣời có công đối với lịch sử và văn hoá của vùng đất phƣơng Nam.
Nam Bộ cũng là một vùng đất mà giao lƣu, tiếp biến văn hoá đã và
đang diễn ra với tốc độ rất nhanh. Hệ quả là hầu nhƣ không có hiện tƣợng văn
hoá nào ở nơi đây còn nguyên chất thuần Việt mà luôn có bóng dáng của
những nền văn hoá khác, đã hội tụ nơi đây trong hơn ba thế kỷ qua. Có thể
nói, giao thoa văn hoá chính là một trong những bản sắc của văn hoá Nam Bộ,
nó khiến cho văn hoá Nam Bộ vừa tƣơng đồng, lại vừa khác biệt với cội
nguồn của nó là văn hoá Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là văn hoá Nam bộ chỉ là con số
cộng các luồng văn hoá đã hội tụ nơi đây. Trong quá trình giao thoa văn hoá,
cƣ dân Việt nơi đây đã không tiếp thu trọn gói các nền văn hoá khác mà chỉ
những yếu tố đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần để bổ sung vào hành
trang văn hoá mang theo. Vì vậy, văn hoá Việt nơi đây không tự đánh mất
mình mà chỉ tái tạo các giá trị văn hoá mà vùng đất này thu nạp đƣợc theo
hƣớng làm cho nó thích ứng với văn hoá Việt, với nhu cầu của ngƣời Việt
23
trên vùng đất mới. Có thể nói, sự tái tạo các giá trị văn hoá đó cũng là một
bản sắc của văn hoá nơi đây.
Bên cạnh đó văn hoá Nam Bộ còn mang đặc trƣng của đồng bằng
sông nƣớc. Hai đặc trƣng văn hoá chủ đạo này của vùng đất Nam Bộ đã buộc
tất cả các nền văn hoá sinh tụ nơi đây đều phải tự cấu trúc lại, lƣợc bỏ những
giá trị không còn phù hợp với môi trƣờng mới, phát triển hoặc sáng tạo những
giá trị mới giúp con ngƣời có thể tồn tại và phát triển trên một vùng đồng
bằng sông nƣớc, đan xen những tộc ngƣời khác biệt nhau về văn hoá. Vì
vậy, uyển chuyển, linh động, phóng khoáng, bao dung, dần dần đã trở thành
bản sắc của văn hoá Việt ở Nam Bộ và văn hoá Nam bộ nói chung.
1.2. Phƣơng ngữ Nam Bộ
1.2.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1.1. Từ địa phương
Tiếng nói của mọi quốc gia trên thế giới đều là một thể thống nhất
về mặt bản chất nhƣng lại hết sức đa dạng về mặt biểu hiện. Nghĩa là, trong
cái thống nhất đó vẫn có những khác biệt giữa các địa phƣơng: có thể là khác
biệt về ngữ âm (cách phát âm), lối dùng từ của ngƣời dân ở từng địa phƣơng
hoặc cũng có thể là sự khác biệt về mặt cấu tạo ngữ pháp. Do đó, mỗi vùng
địa lí - dân cƣ sẽ hình thành một phƣơng ngữ mà địa phƣơng đó sử dụng.
Tiếng Việt cũng là một ngôn ngữ thống nhất, song trong quá trình
phát triển lịch sử đất nƣớc, tiếng Việt dần dần phân chia thành nhiều tiếng địa
phƣơng, đặc biệt là trong thời đại phong kiến. Kết quả là, tiếng Việt tồn tại
dƣới dạng những tiếng địa phƣơng và giữa tiếng địa phƣơng này với tiếng địa
phƣơng khác có những sự khác nhau nhất định dẫn đến tình trạng cùng một
ngôn ngữ nhƣng không thật sự thống nhất. Tuy nhiên, sự khác biệt này không
lớn, chủ yếu là khác biệt ở một số yếu tố về mặt ngữ âm và từ vựng.
Về khái niệm từ địa phƣơng, vì có liên quan đến đề tài nên chúng tôi
xin nêu ra một vài định nghĩa của các nhà nghiên cứu với những cách hiểu và
lí giải khác nhau. Theo tác giả Nguyễn Văn Tu thì: Từ địa phương không ở
24
trong ngôn ngữ văn học mà thuộc về tiếng nói của một vùng nhất định, chúng
mang sắc thái địa phương, người của địa phương này không hiểu những từ
của địa phương khác [24, 129]. Ở đây, tác giả đã chỉ ra rằng, chính sắc thái
riêng của từ địa phƣơng đã tạo ra sự khác biệt trong ngôn ngữ các vùng miền
dẫn đến ngƣời của địa phƣơng này, đôi khi không hiểu đƣợc từ của địa
phƣơng khác. Còn theo ý kiến của nhà nghiên cứu Phạm Văn Hảo thì từ địa
phƣơng là: Khác với một số biến thể vốn là đơn vị trong cùng một hệ thống,
từ ngữ địa phương là loại biến thể gắn với một hệ thống nằm ngoài hệ thống
từ vựng tiếng Việt văn hóa. Điều đó đảm bảo cho một phương pháp định
nghĩa phù hợp với chúng. Định nghĩa qua từ có nghĩa tương đương (trong
tiếng Việt văn hóa) [16, 59]. Theo định nghĩa này, nghĩa của những từ địa
phƣơng có giá trị ngang hàng với nghĩa của từ trong ngôn ngữ văn hóa. Hiểu
một cách đơn giản là từ địa phƣơng và từ toàn dân phải có chung nét nghĩa
tƣơng đƣơng. Tuy nhiên, trong thực tế ta thấy có một số từ địa phƣơng ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long nhƣ: măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, bòn bon,…
không có nghĩa tƣơng ứng với từ trong ngôn ngữ toàn dân.
Một hƣớng định nghĩa khác của tác giả Nguyễn Thiện Giáp: Từ địa
phương là những từ được dùng hạn chế ở một hoặc vài địa phương. Nói chung
từ địa phương là bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói hàng ngày của bộ phận nào
đó của dân tộc, chứ không phải là từ vựng của ngôn ngữ văn học. Khi dùng vào
sách báo nghệ thuật, các từ địa phương thường mang sắc thái tu từ: diễn tả lại
đặc điểm của từ địa phương, đặc điểm của nhân vật… [17, 293]. Với định nghĩa
này, tác giả đã chỉ ra đƣợc giới hạn phạm vi sử dụng của từ địa phƣơng.
Còn theo nhóm tác giả: Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng
Trọng Phiến trong Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (1990) cho rằng: Những
từ thuộc một phương ngữ (tiếng địa phương) nào đó của ngôn ngữ dân tộc và
chỉ phổ biến trong phạm vi lãnh thổ của địa phương đó, thì được gọi là từ địa
phương. Qua định nghĩa này, nhóm tác giả đã chỉ ra rằng từ địa phƣơng là
25
những biến thể từ ngôn ngữ dân tộc đồng thời chỉ ra đƣợc giới hạn phạm vi sử
dụng của từ địa phƣơng.
Phƣơng ngữ là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học thuộc phân môn
Phƣơng ngữ học, chuyên ngành Ngôn ngữ học. Trong lịch sử nghiên cứu hơn
một trăm năm, nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu phƣơng ngữ tiếng
Việt. Vì thế, trong suốt quá trình nghiên cứu, đã có không ít cách hiểu về khái
niệm phƣơng ngữ. Ngƣời viết xin điểm qua cách hiểu khái niệm phƣơng ngữ
của một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Văn Khang trong Ngôn ngữ học xã hội những vấn
đề cơ bản cho rằng: Phƣơng ngữ hay phƣơng ngôn, tiếng địa phƣơng là các
cách gọi khác nhau trong tiếng Việt của cùng một thuật ngữ dialect trong
tiếng Anh (dialecte trong tiếng Pháp, dialectus trong tiếng Latinh, Fangyan
trong tiếng Hán). Thuật ngữ dialect có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp dialektos,
đây là khái niệm dùng để chỉ các biến thể ngôn ngữ sách vở có cùng nguồn
gốc. Liên quan đến khái niệm phƣơng ngữ, trong tiếng Pháp có hai từ dialecte
và patois: để chỉ cả phƣơng ngữ có chữ viết lẫn không có chữ viết, cả biến thể
địa lí lẫn biến thể xã hội của phƣơng ngữ. Trong cách nhìn của ngƣời Anh,
phƣơng ngữ là biến thể không thống nhất, chỉ dùng trong các tầng lớp thấp
hoặc ở nông thôn. Kết hợp với cách nhìn nhận của ngôn ngữ học truyền
thống, tác giả đƣa ra cách hiểu riêng về phƣơng ngữ. Điều này đƣợc xem xét
từ hai mặt cấu trúc và chức năng. Tác giả cho rằng: Nếu nhìn từ góc độ cấu
trúc, gọi là phương ngữ của một ngôn ngữ, một khi các phương ngữ này tuy
có hệ thống cấu trúc riêng, nhưng vẫn có thể chứng minh được mối quan hệ
cội nguồn giữa các phương ngữ đó với ngôn ngữ(…). Nếu nhìn từ góc độ
chức năng, thì phương ngữ là một loại biến thể ngôn ngữ mà chức năng giao
tiếp chịu sự hạn chế mang tính địa phương và sự phát triển của nó chưa đạt
đến mức tiêu chuẩn hóa [39,109].
Tác giả Nguyễn Kim Thản thì cho rằng: Tuy thế, như mọi người đều
biết, trên mấy vùng lớn của đất nước chúng ta, tiếng nói của mỗi vùng vẫn có
26
một số sắc thái riêng về ngữ âm và từ ngữ. Tiếng nói của dân tộc ở một vùng
rộng lớn mang sắc thái riêng như vậy gọi là phương ngôn [55, 122].
Theo Hoàng Thị Châu: Phương ngữ là thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự
biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác
biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác [7, 29]
Còn theo Nguyễn Văn Ái, ngƣời đã biên soạn ra quyển Từ điển phương
ngữ Nam Bộ thì đƣa ra cách hiểu: Có thể nói nôm na phương ngữ là một chuỗi
các nét biến dạng địa phương của một ngôn ngữ chung toàn dân [3, 9].
Tác giả Nguyễn Nhƣ Ý trong Từ điển đối chiếu từ địa phương đƣa
ra cách hiểu về PN nhƣ sau: Phương ngữ (dialect) hay còn gọi là tiếng địa
phương là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong cộng đồng dân cư tại một
vùng miền nhất định trên lãnh thổ một nước [68, 3].
Trần Thị Ngọc Lang lại quan niệm rằng: Phương ngữ là phương
tiện diễn đạt và giao tiếp của một địa bàn dân cư [27, 10]
Nhƣ vậy, có rất nhiều ý kiến xoay quanh vần đề khái niệm về
phƣơng ngữ. Mỗi tác giả đều có cách hiểu riêng. Chúng tôi xin phép đƣa ra
cách hiểu của mình nhƣ sau: Phương ngữ là ngôn ngữ riêng của một vùng,
một khu vực dân cư với những nét khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân.
1.2.1.2. Khái quát về phương ngữ Nam Bộ
Nam Bộ là một vùng đất mới đƣợc hình thành trên 300 năm, kể từ
năm 1698 là năm chúa Nguyễn lập phiên Trấn dinh. Phƣơng ngữ Nam Bộ
(PNNB) cũng đƣợc hình thành và phát triển từ mốc này. Đây là quá trình hội
tụ của nhiều dạng tiếng nói địa phƣơng khác nhau mà ngƣời Việt từ các nơi
khác mang lại. Bên cạnh đó, còn có sự tiếp xúc vay mƣợn các ngôn ngữ của
các dân tộc cùng sinh sống ở vùng này. Trong các công trình nghiên cứu về
phƣơng ngữ Nam Bộ, chúng tôi thấy có các ý kiến sau đây:
Theo Nguyễn Kim Thản: Phương ngữ Nam Bộ sử dụng từ Thuận
Hải trở vào, phương ngữ này trẻ nhất, mới hình thành dần dần từ thế kỉ 18,
tuổi đời ấy khiến nó thuần nhất hơn cả [55, 16]. Qua đó, chúng tôi nhận thấy,
27
tác giả Nguyễn Kim Thản quan niệm rằng PNNB đƣợc phân vùng ở một khu
vực địa lí khá cụ thể (từ Thuận Hải trở vào). Điều này cũng có nghĩa là:
PNNB là tiếng nói riêng của ngƣời dân Nam Bộ trong một ranh giới xác định
về mặt địa lý.
Đến tác giả Nguyễn Văn Ái, khi nghiên cứu về PN và có hẳn một
quyển từ điển dùng để tra cứu PNNB thì cũng không đƣa ra một khái niệm cụ
thể nào. Tác giả chỉ phát biểu rằng: Tập hợp các nét biến dạng địa phương
của tiếng Việt lại, chúng ta có nhận xét chung là tiếng Việt có bốn phương
ngữ ở bốn vùng như sau: Phương ngữ Bắc Bộ từ các tỉnh biên giới phái Bắc
đến Thanh Hóa, phương ngữ Bắc Trung Bộ từ Nghệ Tĩnh đến Bình Trị Thiên,
phương ngữ Nam Trung Bộ từ Quảng Nam-Đà Nẵng đến Thuận Hải, phương
ngữ Nam bộ từ Đồng Nai, Sông Bé đến mũi Cà Mau [3, 10]. Qua nhận định
trên, chúng ta nhận ra cách hiểu của tác giả về PNNB không gì khác hơn
chính là tập hợp các nét biến dạng địa phƣơng của tiếng Việt ở khu vực Đồng
Nai, Sông Bé đến mũi Cà Mau.
Còn tác giả Trần Thị Ngọc Lang thì đƣa ra cách hiểu chung về PNNB
nhƣ sau: Phương ngữ là phương tiện diễn đạt và giao tiếp của một địa bàn
dân cư [27, 10]. Nhƣ cách hiểu này, PNNB chính là tiếng nói của ngƣời dân
Nam Bộ. Điều này cũng gần với cách hiểu của tác giả Nguyễn Kim Thản và
Nguyễn Văn Ái. Về cơ bản, cả ba tác giả đều cho rằng PNNB chính là ngôn
từ đƣợc sử dụng trong một địa bàn khu vực dân cƣ nhất định. Tuy nhiên, giới
hạn địa lí khi phân vùng phƣơng ngữ của ba tác giả còn chƣa đồng nhất. Tác
giả Nguyễn Kim Thản phân chia PNNB tính từ Thuận Hải trở vào trong khi
Nguyễn Văn Ái và Trần Thị Ngọc Lang thì cho rằng nó nằm trong giới hạn
vùng Nam Bộ nghĩa là từ Đồng Nai, Sông Bé đến mũi Cà Mau.
Tiếp bƣớc những ngƣời nghiên cứu trƣớc, tác giả Huỳnh Công Tín cũng
đƣa ra một cách hiểu khá ngắn gọn, đơn giản về khái niệm phƣơng ngữ. Tác giả
viết: Phương ngữ Nam Bộ là tiếng nói của người dân Nam Bộ. Hay nói cách khác:
Phương ngữ Nam Bộ được hiểu là biến thể địa lí của ngôn ngữ toàn dân [61]
28
Nhìn chung, các tác giả dù có cách diễn đạt khác nhau nhƣng về cơ
bản cũng có sự nhất trí: PNNB là tiếng nói của ngƣời dân ở khu vực Nam Bộ.
Xuất phát từ cách hiểu của mình, chúng tôi xin đƣa ra kiến giải về khái niệm
PNNB. Đó là ngôn ngữ mang đặc trƣng của miền đất Nam Bộ đƣợc sử dụng
trong cộng đồng ngƣời Nam Bộ trên lãnh thổ Việt Nam. Hay PNNB chính là
những biến thể địa phƣơng của tiếng Việt trên bình diện ngữ âm, từ vựng và
ngữ pháp ở khu vực Nam Bộ. Tuy nhiên, do tính chất bán phƣơng ngữ giữa
hai vùng phƣơng ngữ giao nhau, chúng ta khó xác định ranh giới chính xác
của PNNB. Ở bài viết này, chúng tôi thống nhất theo ý kiến của đa số nhà
nghiên cứu tạm lấy mốc từ Đồng Nai, Sông Bé trải dài xuống mũi Cà Mau
làm vị trí khu biệt vùng PNNB.
1.2.2. Sự hình thành phương ngữ Nam Bộ
Hầu hết các nhà nghiên cứu về phƣơg ngữ ngữ đều thừa nhận các
đơn vị ngôn ngữ tiếng Việt từ Đồng Nai, Sông Bé (Nay thuộc Bình Dƣơng,
Bình Phƣớc) kéo dài đến mũi Cà Mau thuộc vùng phƣơng ngữ Nam Bộ, và
đƣơng nhiên, nội tại bản thân của phƣơng ngữ này có nhiều nét khác biệt với
phƣơng ngữ vùng miền khác bởi những đặc trƣng nhƣ ta đã nói ở phần trên.
Ngôn ngữ luôn vận động, phát triển theo qui luật tiến hóa riêng.
Nhƣng không phải mỗi vùng, mỗi địa phƣơng, ngôn ngữ đều có điều kiện
thay đổi, biến đổi với mức độ khác nhau. Chính vì vậy, ngôn ngữ ở vùng này
với vùng kia theo thời gian có sự khác biệt nhất định, từ đó hình thành nên
những vùng phƣơng ngữ tiếng Việt. Các phƣơng ngữ này khác nhau chủ yếu
ở cách phát âm, từ ngữ, phong cách, ngữ pháp. Các mặt khác nhau này không
đồng đều; ở bình diện ngữ pháp ít có sự biến đổi so với các bình diện còn lại.
Riêng bình diện từ vựng - ngữ âm có sự khác biệt khá lớn trong các ngôn ngữ
của tiếng Việt. Sự khác nhau này không ở nguồn gốc ngôn ngữ mà do điều
kiện địa lí, điều kiện xã hội hình thành. Cho nên, phƣơng ngữ là một chuỗi
các biến dạng địa phƣơng so với ngôn ngữ toàn dân do những tác động về địa
lí, xã hội mà dần hình thành. Sự cách trở về địa lí với những ngọn núi cao,
29
những con sông lớn và những quả đồi chạy dọc theo chiều dài địa hình từ Bắc
chí Nam đã làm cho sự giao lƣu, tiếp xúc giữa ngƣời dân bị hạn chế. Tiếng
Việt toàn dân một thời bị cô lập giao tiếp trong các vùng miền nhỏ. Và đây
cũng chính là điều kiện đƣa tiếng Việt đến sự thống nhất, phát triển theo
những hƣớng khác nhau.
Bên cạnh đó, ý thức làng, xóm đã tạo tâm lí ngại đi lại, tiếp xúc của
ngƣời dân giữa các vùng miền dẫn đến tình trạng tiếng Việt bị chia cắt thành
các vùng phƣơng ngữ. Cho nên, phƣơng ngữ Nam Bộ gắn liền với lịch sử
hình thành của miền đất Nam Bộ.
Nam Bộ là một vùng đất mới đƣợc thành lập trên ba thề kỉ qua, kể
từ 1698 là năm chúa Nguyễn lập phiên trấn dinh. Phƣơng ngữ Nam Bộ cũng
hình thành và phát triển từ đây. Lịch sử phát triển vùng đất Nam Bộ gắn liền
với nhiều cuộc nội chiến và ngoại xâm. Thêm vào đó, địa hình đất nƣớc kéo
dài hơn 3000km, đã cắt đứt và hạn chế con đƣờng giao lƣu giữa các vùng
trong cả nƣớc, làm yếu đi sự giao tiếp giữa các dân cƣ trong cộng đồng dân
tộc thống nhất, tạo nên những phƣơng thức sinh hoạt vật chất và tinh thần
mang ít nhiều nét biến dạng khác nhau. Theo dòng chảy của thời gian, ngôn
ngữ dần hình thành nên những biến thể địa phƣơng hay nói cách khác sẽ xuất
hiện nhiều vùng phƣơng ngữ. Về lịch sử, nƣớc ta có cuộc phân tranh Trịnh –
Nguyễn ở Đàng Ngoài và Đàng Trong kéo dài hơn hai thến kỉ từ khi chúa
Nguyễn Hoàng đƣợc lệnh vào Nam đến ngày Nguyễn Ánh lấy Phú Xuân và
thống nhất đất nƣớc 1802. Rồi những năm tháng cai trị ngắn ngủi của vua
chúa nhà Nguyễn chƣa thể thống nhất xã hội thì đất nƣớc lại rơi vào họa
ngoại xâm. Năm 1858, Pháp xâm lƣợt Việt Nam, chúng chia đất nƣớc ra làm
ba miền: Bắc kì – Trung kì – Nam kì. Ba miền này đều khác nhau về thể chế
hành chính và luật lệ góp phần tô đậm thêm sự chia cắt về ngôn ngữ. Sau
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp 1954, đất nƣớc lại bị chia hai
trong một thời gian tƣơng đối dài cũng ảnh hƣởng không nhỏ đối với sự thống
30
nhất của tiếng Việt. Chúng ta lại tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cho
đền ngày thống nhất đất nƣớc 30/04/1975.
Mặt khác, từ đầu thế kỉ XVII trở đi, do tình hình lịch sử biến động,
từng đoàn ngƣời lánh nạn từ miền Trung và Bắc bắt đầu di cƣ về phía Nam.
Họ chính là những bậc tiền nhân có công lớn khi biến Nam Bộ từ vùng đất
hoang sơ, rừng rậm thành ruộng vƣờn, ao cá. Họ đến mảnh đất này với nhiều
tiếng nói khác nhau của nhiều địa phƣơng Bắc, Trung. Do cuộc sống tha
phƣơng, nhất là phải đối phó với thiên nhiên khắc nghiệt, ẩn chứa nhiều nguy
hiểm đòi hỏi họ phải liên kết lại, phải sống quần tụ, hợp tác với nhau trong lao
động sản xuất và giao lƣu tình cảm. Do đó, tiếng nói của họ dần đi đến sự
thống nhất do sự tiếp xúc thƣờng xuyên của cộng đồng dân cƣ nơi đây cùng
với sự tiếp xúc thƣờng xuyên của cộng đồng dân cƣ nơi đây cùng với sự tiếp
xúc vay mƣợn giữa tiếng Việt mới du nhập vào ngôn ngữ các dân tộc sinh
sống lân cận vùng này. Theo thời gian, ngôn ngữ có sự biến đổi và chọn lọc,
mất đi và thêm vào một bộ phận ngôn từ, hình thành tiếng nói chung mang
màu sắc Nam Bộ nhƣ ngày nay. Vậy, sự phân chia lãnh thổ chính trị - hành
chính do lịch sử để lại là nhân tố chính hình thành nên phƣơng ngữ Nam Bộ.
Trong quá trình phát triển hơn 300 năm, vốn từ ngữ Nam Bộ có sự giao
thoa giữa tiếng nói của nhiều dân tộc, đặc biệt là ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer
(trong số này, ta thấy có ngôn ngữ miền Trung , miền Bắc do luồng di dân chiến
tranh phong kiến hay những cuộc khẩn hoang, ngôn ngữ ngƣời Khmer sinh sống
tại chỗ, ngƣời Việt tại chỗ và cả luồng dân cƣ chạy nạn từ Trung Quốc mà chủ
yếu là Triều Châu, Phúc Kiến trong thời Minh – Thanh…).
Tiếng Việt dù có sự thống nhất cao, nhƣng vấn đề phân vùng phƣơng
ngữ không thể tránh khỏi. Dựa trên thực tế ngôn ngữ: trên bình diện từ ngữ,
ngữ pháp, nhất là bình diện ngữ âm, có thể chia phƣơng ngữ ra các vùng lớn.
Trong đó, vùng phƣơng ngữ Nam Bộ bao gồm ba khu vực là miền Đông Nam
Bộ, Sài Gòn và Tây Nam bộ, tính từ Bình Phƣớc, Tây Ninh đến mũi Cà Mau.
31
Nhƣ vậy, chúng ta thấy vốn từ ngữ Nam Bộ có ba luồng chính để
hình thành là luồng di cƣ từ miền Trung, Bắc, luồng di cƣ từ Trung Quốc và
ngôn ngữ bản địa cho thấy tính đa dạng và sáng tạo của ngƣời Việt ở phƣơng
Nam này. Từng đặc điểm cụ thể của vốn từ ngữ Nam bộ là cơ sở cho chúng
tôi tìm hiểu vấn đề, giải thích trong mối liên hệ với các tác phẩm trong Hương
rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam.
1.2.3. Đặc điểm phương ngữ Nam Bộ
Phƣơng ngữ Nam Bộ hiểu nôm na là tiếng Việt của ngƣời dân Nam
Bộ. Nó phân biệt với tiếng Việt của các vùng khác ở khu vực Bắc và Trung
Bộ. Căn cứ để phân biệt chủ yếu dựa trên bốn bình diện: ngữ âm, từ vựng –
ngữ nghĩa, ngữ pháp và bình diện phong cách diễn đạt. Điều này đã góp phần
làm phong phú thêm vốn từ vựng tiếng Việt.
1.2.3.1. Bình diện ngữ âm
Khi tiếp xúc với những ngƣời thuộc các vùng miền khác nhau, ngƣời
ta dễ dàng nhận ra ngƣời Nam Bộ nhờ vào nét khác biệt về mặt ngữ âm. Theo
ghi nhận của tác giả Nguyễn Văn Ái: Nhiều người có cảm giác chung là
“giọng Nam bộ dịu nhẹ”… cái chính cần nói là cách phát âm nhẹ nhàng,
động tác phát âm tương đối thư giãn, không căng thẳng các cơ thịt ở bộ máy
phát âm nhiều như ở phương ngữ Bắc, không rít, sít hay nghẹn nhiều (các
nhà ngôn ngữ gọi là xát, tắc và yết hầu hóa) [3,14]
Tại sao lại có sự khác biệt này? Quá trình tìm hiểu cho thấy: chất
giọng miền Nam khác hẳn so với các vùng miền khác là do hiện tƣợng sai biệt
ở các thành phần âm tiết: bộ phận phụ âm đầu, phần vần và thanh điệu. Ở
Nam Bộ, do môi trƣờng sống không quá khắc nghiệt nên cách phát âm khá
thoải mái, không có sự cố gắng phân biệt, vì vậy số lƣợng âm và vần trùng
nhau khá nhiều.
Với thành phần phụ âm đầu, một bộ phận ngƣời Nam Bộ phát âm
không phân biệt /s/ và /ş/, /ţ/ và /c/, /z/, /v/ > /j/ hoặc /z/ > /y/. Ví dụ nhƣ vô
giáo dục thành dô dáo dục. Trƣớc đây, âm đầu /v/ ở phƣơng ngữ Nam Bộ chỉ
32
tồn tại trong chữ viết, không tồn tại trong phát âm. Các âm đƣợc thể hiện trên
chữ viết là “v, d, gi” đều có chung cách phát âm là /j/. Tuy nhiên, ngày nay,
hiện tƣợng ấy có sự chuyển biến tích cực. Sống trong thời kì hội nhập, cách
phát âm đúng [v] đã tƣơng đối phổ biến từ thành thị đến nông thôn Nam Bộ.
Thành phần âm đệm trong phƣơng ngữ Nam Bộ hầu nhƣ vắng mặt.
Âm đệm /-w-/, vốn là một âm lƣớt nhẹ, lơi, do đó khi phát âm ở phƣơng ngữ
này, xảy ra hai trƣờng hợp hoặc bị lƣớt bỏ, hoặc bị nhấn mạnh thành một âm
chính cho nên mất luôn vai trò âm đệm. Chẳng hạn, trƣờng hợp nhƣ loan
thành lan; luyến phát âm thành liến, hay thƣờng nhấn mạnh lan > lon… hay ở
một số từ khác nhƣ: lòe loẹt, ra tòa, làm toán, đường thủy, chung thủy…thì
ngƣời miền Nam phát âm thành lè lẹt, ra tò, làm tán, đường thỉ, chung
thỉ…với khuôn vần “oa”. Ngƣời Nam Bộ có khuynh hƣớng phát âm thành /o/
giống ngƣời lớn tuổi phát âm không còn âm đệm, tức là “oa” thành “a”. Hay
với vần “uâ”, cƣ dân khu vực này lại phát âm thành ”ƣ”. Sự kết hợp âm đệm
với hai phụ âm đầu: thanh hầu /h-/ hoặc gốc lƣỡi /k-/ đều đƣợc phát thành âm
xát, hữu thanh, môi nhƣ trƣờng hợp đường thủy, lòe loẹt, ra tòa.
Kế đó là các nguyên âm đôi IÊ, ƢƠ, UÔ và các âm đơn O, Ô, Ơ khi
đứng trƣớc các âm cuối -m, -p thì các âm đôi mất yếu tố sau nhƣ trƣờng hợp
phát âm tiêm- tim, tiếp- típ, lượm- lựm, luộm thuộm- lụm thụm…còn các
nguyên âm đơn đều phát âm thành ÔM, ỐP.
Đây có thể xem là hiện tƣợng nói gộp các khuôn vần của phƣơng
ngữ Nam Bộ. Ngoài trƣờng hợp ÔM, ỐP còn có trƣờng hợp khác cũng tƣơng
tự nhƣ ĂM, ẮP và ÂM, ẤP có cách phát âm gần giống nhau. Chẳng hạn nhƣ
nắm tay - nấm tay; ngăn nắp - ngăn nấp (…). Bên cạnh đó, phải kể đến
trƣờng hợp chuyển đổi /-e/ thành /-i-/ trong hầu hết các khuôn vần /ênh/, /êm/,
/ếp/ nhƣ: chuyển từ kênh ra kinh, mênh mông - minh mông, nề nếp - nề níp
(…), hay một sai biệt khác nữa là phần vần của phƣơng ngữ Nam Bộ là việc
phát âm chuyển đổi khuôn vần ưu, ươu thành u nhƣ con hươu phát thành con
hu, về hưu thành về hu.
33
Thêm nữa là cách phát âm không phân biệt các cặp âm cuối nhƣ:
/n/-/ƞ /; /t/-/k/ nhƣ tang - tác, tác - tát…
Riêng về thanh điệu, cách phát âm của ngƣời Nam không phân biệt
hai thanh hỏi, ngã nhƣ các từ: nghỉ ngơi, suy nghĩ, thủ quỹ…Theo Huỳnh
Công Tín, trƣờng hợp này là do: Xu hướng phát âm thanh hỏi, ngã thành một
thanh trung gian, mà nhiều người cho là thanh hỏi [62, 55]
Nhìn chung, các hiện tƣợng khác biệt trong cách phát âm của
phƣơng ngữ Nam Bộ so với các vùng khác là do khuynh hƣớng thích sự dễ
dãi, thoải mái trong phát âm. Các bộ phận cơ thể (môi, lƣỡi, lợi, răng, hầu…)
tham gia vào quá trình phát âm không phải xê dịch nhiều. Một số động tác
khó trong phát âm đƣợc đơn giản hóa nhƣ hiện tƣợng quặt lƣỡi, môi hóa, yết
hầu…song song với sự biến đổi này còn do ảnh hƣởng bởi tính cách của
ngƣời Nam bộ trong quá trình sinh sống ở vùng đất mới tạo nên.
1.2.3.2. Bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
Sức mạnh của một phƣơng ngữ hay của một ngôn ngữ không chỉ ở
cách phát âm nhƣ thế nào mà còn ở vốn từ vựng của nó. Vốn từ ngữ càng dồi
dào bao nhiêu thì sức biểu hiện của phƣơng ngữ đó, ngôn ngữ đó càng mạnh
bấy nhiêu. Ngôn ngữ phát triển ở mặt từ ngữ bao gồm các dạng nhƣ: tăng
thêm từ mới và bổ sung, biến đổi nghĩa của từ cũ. Từ đó, góp phần nâng cao
hiệu quả diễn đạt của ngôn từ trên tất cả mọi phƣơng diện. Ở bình diện này,
vốn từ của phƣơng ngữ Nam Bộ vô cùng phong phú. Nó bao gồm nhiều lớp
từ. Thứ nhất, phải kể đến phƣơng ngữ Nam Bộ còn giữ lại lớp từ cổ mà cho
đến ngày nay tiếng Việt chuẩn hiếm hoặc không sử dụng nữa nhƣ từ: mầng
(mừng), ngộ (dể nhìn), coi (xem), mần (làm)…
Thứ hai, lớp từ vay mƣợn từ các dân tộc khác cùng sinh sống trên
một lãnh thổ nhƣ Hoa, Khmer, Chăm nhƣ các từ: cà rá, thốt nốt, tía, số dách
(…). Bên cạnh đó, từ vựng Nam Bộ còn có trƣờng hợp vay mƣợn ngôn ngữ
của nƣớc ngoài (Pháp) do có quá trình tiếp xúc lâu dài nhƣ: từ savon thành xà
phòng, salade thành sà lách.
34
Kế tiếp, phải đề cập đến lớp từ vựng có đƣợc do việc biến âm tạo
nên. Sự biến âm này do tính cách của ngƣời Nam thích sự tự do, phóng
khoáng trong giao tiếp, sự đơn giản trong phát âm nhƣ từ: minh mông (mênh
mông), hường (hồng), phước (phúc)…, hoặc do khuynh hƣớng kiêng kị: kiểng
(cảnh), huỳnh (hoàng), qưới (quý), nhơn (nhân)…
Bên cạnh lớp từ vựng do biến âm, phƣơng ngữ Nam Bộ còn có lớp từ
phản ánh địa hình, cây cối mang ấn tƣợng của một vùng sông nƣớc Cửu Long
với mạng lƣới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Về đặc điểm địa hình có các từ
nhƣ: sông, rạch, xẻo, kinh, mương, láng, lung, bàu, đìa (…); về thực vật có các
từ nhƣ: tràm, đước, bần, mù u, trâm bầu, điên điển, (…); về phƣơng tiện có các
từ nhƣ: ghe, ghe chài, ghe bầu, xuồng ba lá, tam bản, vỏ lãi, tắc rán (…), còn
về sản vật, từ ngữ cũng khá đa dạng. Theo thống kê của Nguyễn Văn Ái, riêng
loài tôm cũng có nhiều loại đƣợc phân biệt rất tỉ mỉ nhƣ tôm bạc, tôm càng,
tôm chấu, tôm chông, tôm chục, tôm đá, tôm đất, tôm rộng,…[3, 22].
Không những thế, ấn tƣợng về một Nam Bộ sông ngòi dày đặc, cây
cối um tùm còn thể hiện ở lối diễn đạt bằng một lớp từ mang đậm màu sắc sông
nƣớc nhƣ chìm xuồng, ngâm tôm, cá nhảy hầm, mò tôm, lặn hụp, cù lao, cầu
khỉ, râu cá chốt, đầu cá sặc, công tử Bạc Liêu, cải lương, rành sáu câu,… [64,
25]. Điểm đặc biệt ở lớp từ này chính là sự sáng tạo của ngƣời dân Nam Bộ khi
định danh cho một sự vật, hiện tƣợng bất cập trong đời sống hàng ngày. Chẳng
hạn nhƣ nói đồ cùi bắp thì có thể hiểu cụm từ này là một sự liên tƣởng thú vị.
Ngƣời Nam gọi ngô là bắp. Cùi bắp: (dt) lõi ngô, phần cứng nằm ở giữa mang
hạt ngô xung quanh [64, 41]. Cùi này không còn giá trị sử dụng nữa, ngƣời ta
ném bỏ. Vì thế, nói đồ cùi bắp tức là đồ bỏ đi, thứ đồ dùng không còn giá trị sử
dụng hoặc có giá trị thấp, xuống cấp. Chẳng hạn trong ngữ cảnh sau: Ba cái cùi
bắp đổ vào chuồng heo nó nhai đi con [64, 70]; …hôm mình quay phim tụi nó
bằng cái máy ảnh cùi bắp [64, 90]. Hoặc khi dùng cho đối tƣợng là ngƣời thì
với ý chỉ ngƣời không thể chơi đƣợc. Nó mang ý nghĩa tiêu cực. Cho nên,
ngƣời Nam Bộ mới liên tƣởng mà sáng tạo nên cụm từ trên. Điều này còn góp
35
phần hình thành nên các thành ngữ, tục ngữ vững bền cho đến ngày nay: ăn
như sáng múc, làm như lục bình trôi; bắt cá hai tay, (…).
Chỉ có trạng thái thay đổi của dòng nƣớc mà ngƣời Nam đã tạo ra
một lƣợng từ kha khá và có xu thế chuyển vào kho từ vựng toàn dân nhƣ:
nước lớn, nước ròng, nước rong, nước đứng, nước ròng sát, nước ròng cạn,
(…). Hiện tƣợng này có đƣợc là do quá trình quan sát thiên nhiên của cƣ dân
địa phƣơng trong sinh hoạt. Đây là một trong số nhiều nguyên nhân góp phần
làm cho kho tàng ngôn từ của tiếng Việt ngày càng đa dạng, phong phú về số
lƣợng lẫn chất lƣợng. Trong Đồng quê Nam Bộ thập niên 40, Vƣơng Liêm có
nhắc đến một trƣờng hợp khá thú vị mà gần gũi với chúng ta liên quan đến
vấn đề sáng tạo này. Đó là việc xuất hiện cụm từ bìm bịp kêu nước lớn. Theo
ông, con bìm bịp là loài động vật không có linh cảm nhƣ câu nói trên. Nhƣng
theo quan sát, khi dòng sông cạn nƣớc thì bìm bịp thƣờng xuống mé sông để
bắt cá, tôm tép ăn. Đến khi nƣớc lên, con bìm bịp nào hay thì kêu vang cho
các con còn lại nghe mà bay lên khỏi mặt nƣớc. Do đó, ngƣời dân khu vực
này thấy mỗi lần bìm bịp kêu là nƣớc bắt đầu lớn cho nên mới có câu tục ngữ:
bìm bịp kêu nước lớn.
1.2.3.3. Bình diện ngữ pháp
Ở bình diện này, không có sự khác biệt lớn giữa các phƣơng ngữ.
Ngƣời Nam Bộ có khuynh hƣớng gắn bó với cộng đồng, gia đình nên cách
xƣng hô của họ đƣợc xem là một hiện tƣợng khác biệt so với các vùng miền
khác. Ngƣời Nam Bộ có thói quen dùng thứ để gọi nhƣ: hai, ba, bốn,
năm…út… Xƣng gọi trong quan hệ họ hàng thƣờng dùng các từ nhƣ: cậu,
mợ, chú, thím, dì, dượng… Hoặc do ảnh hƣởng cách xƣng hô của đồng bào
ngƣời Hoa cùng sinh sống trên lãnh thổ, ngƣời Nam Bộ nảy sinh thêm cách
gọi úm, tía, hia, số, củ, ý, kiểm… đƣợc dùng rộng rãi trong các gia đình, và cả
những ngƣời có quan hệ thân - sơ. Điều đặc biệt, trong cách xƣng hô của
ngƣời Nam Bộ còn là cách gọi ở ngôi thứ ba có tính giản ƣớc nhƣ: ổng (ông
ấy), bả (bà ấy), ảnh (anh ấy), bả (bà ấy), chỉ chị ấy). Lối xƣng hô này đƣợc
36
đánh giá là có tính thân mật, chân chất. Nó thể hiện thái độ bình đẳng trong
giao tiếp, không thích sự tôn ti, trang trọng, phân biệt giai tầng của ngƣời
Nam bộ. Riêng trong gia đình, cƣ dân nơi đây yêu chuộng cách nói theo thứ
bậc nhƣng chừng mực và không nặng nghi thức. Với ngƣời lớn tuổi thì xƣng
ông, gọi ông là cao nhất, hiếm khi sắp xếp treo trình tự lớn, nhỏ nhƣ: cụ;
cố,…với những ngƣời có thứ bậc lớn nhƣ: cha, mẹ, cô, chú,… bậc nhỏ hơn có
thể dùng thứ để xƣng hô. Còn đối với bậc nhỏ hơn (con cháu), dù đã lớn tuổi,
địa vị xã hội có cao sang thì vẫn đƣợc ngƣời lớn hơn gọi là thằng, con nhƣ
thuở nhỏ. Lớp từ này đã mang lại hiệu quả bất ngờ khi phản ánh cách nhìn,
cách nghĩ của ngƣời Nam Bộ trong quá trình sáng tác văn chƣơng. Chúng tôi
sẽ trở lại vấn đề này ở chƣơng hai của luận văn khi nghiên cứu đặc điểm của
phƣơng ngữ Nam bộ ở lớp từ xƣng hô.
Bên cạnh các trƣờng hợp trên, hiện tƣợng nói lái cũng rất phổ biến,
quen thuộc trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của cƣ dân miệt sông nƣớc. Cách
nói này tạo sự liên tƣởng thú vị, dí dỏm, thể hiện lối sống lạc quan, yêu đời
trong cá tính của ngƣời dân Nam. Tác giả Huỳnh Công Tín cũng đƣa ra một
số trƣờng hợp cụ thể về việc nói lái này. Ông viết: Nói: “ít li”cứ nghĩ ai đó
uống rượu ít, không được nhiều; nhưng, nghĩa lái thì khác hoàn toàn: “y lít”
là tửu lượng vô song, không có đối thủ;…nói “lộng kiếng” trang trọng nhưng
được hiểu “liệng cống” thì tệ quá. Trẻ rủ nhau “đi tắm” ngang qua nhà
nhau, nói lái: “đâm tí đi! Đâm tí đi!”. Trẻ hiểu nhưng người lớn đôi khi chậm
hiểu hơn thành thử bị chúng “qua mặt”; uống “trà Thái Đức” cứ tưởng là
trà ngon, nào dè lại là “trà thức đái”! [64, 164]. Cùng mối quan tâm chung
về hiện tƣợng nói lái, ngƣời viết xin đƣa ra thêm một số trƣờng hợp khác
thƣờng bắt gặp trong giao tiếp của ngƣời dân Nam bộ với nhau. Vốn thích sự
sòng phẳng, ngƣời Nam bộ hay dùng từ chai hia. Trƣờng hợp này mới nghe
qua cứ tƣởng là họ mƣợn ngôn ngữ của ngƣời Tàu để diễn đạt ý. Nhƣng thực
ra là cách nói ví von, tạo màu sắc, thu hút ngƣời nghe. Chai hia có nghĩa là
chia hai. Hoặc câu quýt xơ măng, võng xưa, ọt măng trong một dịp nói chơi,
37
ngƣời ta dễ hiểu nhầm là anh này, cô này biết tiếng nƣớc ngoài nhƣng thật ra
là quăng xơ mít, giữa sông, ăn mót. Điều này có tác dụng tạo ra tiếng cƣời
thoải mái trong dân gian.
Tất cả những đặc điểm trên đã tạo cho phƣơng ngữ Nam Bộ có một
nét đặc trƣng riêng, mang đặc thù của vùng sông nƣớc Cửu Long. Điều đó
còn góp phần làm phong phú và đa dạng kho tàng ngôn ngữ dân tộc và văn
hóa ngƣời Việt.
1.2.3.4. Trên bình diện phong cách diễn đạt
Ngôn ngữ của ngƣời Nam Bộ phản ánh đƣợc lối tƣ duy của họ. Đó là
một tƣ duy phóng khoáng, nặng tình nghĩa nhƣng không nặng quy tắc, khuôn
luật. Có thể khái quát đặc trƣng của phƣơng ngữ Nam Bộ trên bình diện
phong cách diễn đạt ở một số điểm sau:
Cách diễn đạt của ngƣời Nam Bộ không cầu kì, trau chuốt nhƣng rất dễ
tiếp nhận do lối so sánh, liên tƣởng dễ hiểu. Sống trong môi trƣờng thoáng
đạt, ruộng đồng mênh mông, cây trái bốn mùa, chim muông phát triển, mọi
vật đều sinh sôi đã hình thành trong tƣ duy con ngƣời nặng về dấu ấn của
thiên nhiên. Ca dao - dân ca Nam Bộ đã chở đấy ắp những hình tƣợng ấy. Đó
có thể là hình ảnh quen thuộc về cây bần, mù u, bông điên điển…, chiếc
xuồng ba lá lênh đênh trên sông rạch. Nó dầm sâu, bám rễ vào tiềm thức con
ngƣời: Linh đinh một chiếc xuồng ba lá / Anh cảm thương nàng mẹ góa con
côi. Hay: Bên bờ điên điển hai hàng/ Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng
Đây chính là những hình ảnh thiên nhiên cụ thể, sinh động. Nó tạo ấn
tƣợng gợi nhớ đến vùng đất Nam Bộ trù phú với nhiều sản vật trong thời kì
khai khẩn. Hình ảnh ấy đã in sâu vào lòng ngƣời mà nhất là những ai đang lìa
quê xa xứ. Họ không thể nào quên đƣợc quê hƣơng với những hàng điên điển
nở hoa vàng rực ven sông, cũng nhƣ làm sao quên đƣợc những đêm trăng hò
hẹn, với chiếc xuồng ba lá bơi trên dòng kênh xanh, vƣơng vấn lòng ai bởi
giọng hò trong trẻo của những chàng trai, cô gái: Bằng lòng đi em anh về quê
rước má lên liền/ ngày mai đám cưới rước dâu bằng xuồng ba lá…. Những
38
điều quen thuộc ấy đã đi vào ca dao, dân ca với lòng kính yêu trân trọng của
ngƣời Nam Bộ khi nhìn về xứ sở.
Do đặc điểm địa hình nơi đây có những con sông lớn, những cánh rừng
ngút ngàn nên khi đƣợc ngƣời dân diễn đạt cần phải dùng đến lớp từ phản ánh
địa hình, cây cối, sông nƣớc miền Nam nhƣ: sông, kinh, rạch, mương, xuồng
ba lá, ao, bàu, ghe, vỏ lãi, bình bát, trâm bầu (…). Ngoài ra, phƣơng ngữ Nam
Bộ còn có một lớp từ phản ánh đƣợc sản vật. Chẳng hạn khi nói đến tôm thì có
đa dạng các chủng loại: tôm lóng, tôm thẻ, tôm rong (…), khi diễn tả trạng thái
của dòng nƣớc, ngƣời Nam Bộ không chỉ phân biệt đƣợc nƣớc lớn (thủy triều
dâng) và nƣớc ròng (thủy triều hạ) mà còn thêm nhiều từ ngữ khác: nước trồi,
nước rong, nước kém, nước sụt, nước nhửng, nước ương, nước chết, nước
sát,…[1, 22]. Điều này phản ánh hiệu quả tri giác của con ngƣời với hiện thực
khách quan. Khi con ngƣời nhận thức đƣợc thực tiễn một cách sâu sắc với
những sự vật đa dạng họ sẽ cảm thấy cần phân biệt chúng bằng những từ ngữ
khác nhau. Nhìn chung, phƣơng ngữ Nam Bộ có xu hƣớng cố gắng vƣơn tới sự
tối đa các hình thức cấu trúc của ngôn ngữ để biễu thị những khái niệm hay
những sắc thái ý nghĩa khác nhau mà con ngƣời nhận thức đƣợc.
1.3. Nhà văn Sơn Nam
1.3.1. Vài nét về tác giả
Sơn Nam sinh ngày 11.12.1926, tên thật Phạm Minh Tài (Một số tài
liệu ghi Phạm Minh Tày, có thể vì tên khai sinh tên Phạm Minh Tày) chữ Tài
đúng hơn vì cha ông đặt tên hai con là Tài và Trí. Nguyên quán làng Đông
Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay là tỉnh Kiên Giang. Bút hiệu Sơn
Nam là kỉ niệm ngƣời vú nuôi gốc Miền Thoại Sơn, còn Nam là Việt Nam,
Sơn Nam còn là một địa danh lịch sử, có từ thời Trần.
Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghiệp chủ khá giả trong
làng. Thuở nhỏ học tiểu học ở quê, học trung học ở Cần Thơ. Ông tốt nghiệp
cũng là lúc cách mạng tháng Tám thành công, cùng nhân dân tham gia cƣớp
chính quyền. Sau đó, ông đƣợc làm Tỉnh ủy viên, Phó bí thƣ tỉnh đoàn thanh
39
niên Rạch Giá, sau đó chuyển sang công tác ở Hội văn hóa cứu quốc tỉnh rồi
về Phòng chính trị quân khu IX. Năm 1950, ông đƣợc chuyển về Phòng văn
nghệ thuộc Ban tuyên huấn.
Xứ ủy Nam Bộ chính những năm tháng chống Pháp, ông có điều
kiện đi khắp nơi, chủ yếu là đi bộ, hoặc đi xa thì quá giang ghe của khách
thƣơng hồ để tìm hiểu kĩ về thiên nhiên lịch sử, văn hóa con ngƣời đồng bằng
sông Cửu Long, đặc biệt là vùng U Minh, mảnh đất cực Nam của tổ quốc.
Ông viết nhiều trên báo Tiếng súng kháng địch và tạp chí văn nghệ Lá lúa.
Hai tác phẩm Bên rừng cù lao (truyện ngắn) và Tây đầu đỏ (Kí sự) đƣợc giải
thƣởng Văn nghệ Cửu Long của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ váo
các năm 1951- 1952 và 1952- 1954 vì nó đã khắc họa hình ảnh về những
ngƣời nông dân tham gia kháng chiến bằng lối hành văn giản dị, gần gũi với
phƣơng ngữ Nam bộ, phong cách đó đƣợc ông gìn giữ và hoàn thiện trong
những sáng tác sau này.
Sau hiệp định Giơnevơ 1954, ông rời quê Rạch Giá lên Sài Gòn theo
sự phân công ở lại của cùng các nhà văn khác nhƣ Lí Văn Sâm, Dƣơng Tử
Quang, Lê Vĩnh Hòa… tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực báo chí văn chƣơng.
Ông viết cho các báo chí Công lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống…Đặc biệt
trên tuần báo Nhân loại, một tờ báo tập hợp nhiều cây bút cách mạng, đƣợc sự
chỉ đạo của thành ủy Sài Gòn - gần nhƣ số nào cũng có bài của Sơn Nam.
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm (1901-1963) công bố luật
10/59 tăng cƣờng khủng bố các phong trào đấu tranh đòi thi hành hiệp định
Giơnevơ thống nhất đất nƣớc đàn áp những ngƣời kháng chiến cũ, Sơn Nam
cũng nhƣ nhiều nhà văn khác bị bắt và bị giam vì cái gọi là trung tâm cải huấn
tại nhà tù Phú Lợi gần hai năm (1960- 1961). Ra tù, ông tiếp tục viết cho các
báo có xu hƣớng thân cộng. Đây là thời kỳ ông chọn con đƣờng mới cho sáng
tác của mình với những đề tài giả sử để né tránh sự đàn áp của chính quyền
mà vẫn gửi gấm đƣợc tình cảm yêu nƣớc và ngợi ca chí khí dân tộc.
40
Sau năm 1975, Sơn Nam vẫn bền bỉ hoạt động trên lĩnh vực văn nghệ,
ông viết nhiều sách khảo cứu về Sài Gòn, rộng ra về Nam Bộ và đƣợc coi là nhà
Nam Bộ học có uy tín. Ông từng nói rằng Lịch sử Nam Bộ và là lịch sử của công
cuộc khẩn hoang trường kì và tự lực. Ý thức khẩn hoang mở đất ăn sâu vào máu
thịt tôi. Đời ông nội với đời cha tôi lo khẩn hoang mở đất, nên những trang viết
của tôi dành cho việc khẩn hoang mở đất là sở trường của tôi.
Đi nhiều và tìm hiểu nhiều nên dƣờng nhƣ bất cứ một điều gì, một
sự vật hiện tƣợng nào của Nam Bộ thì ông đều rành rọt từng chân tơ kẻ tóc.
Ông là vị cố vấn không thể thiếu cho bất kì công trình văn hóa nghệ thuật nào
liên quan đến mảnh đất miền Nam thân yêu này. Cuốn từ điển sống Nam Bộ
ấy vẫn viết vẫn cặm cụi với bao nhiêu ấp ủ trong đầu, ngày ngày vẫn uống cà
phê lề đƣờng, vẫn lang thang bằng đôi chân trên mọi ngóc ngách của Sài Gòn
phồn hoa đô hội ông vẫn làm việc không mệt mỏi dù tuổi cao sức yếu.
Năm 2005, sau một tai nạn giao thông, ông phải ngồi xe lăn và việc
viết văn giảm đáng kể nhƣng ông vẫn rất nhiệt tình nếu có ai hỏi về mảnh đất
Nam Bộ cũng nhƣ những tác phẩm của mình. Sau một cơn đột quỵ vào trƣa
ngày 30.07.2008, ông đƣợc chăm sóc rất đặc biệt tại bệnh viện nhân dân Nam
bộ nhƣng vì tuổi cao sức yếu, ông đã ra đi vào hồi 13 giờ ngày 13.8.2008, sự
ra đi của ông đã để lại nỗi tiếc thƣơng vô hạn đối với những ngƣời yêu văn
trong khắp cả nƣớc.
1.3.2. Đặc sắc truyện ngắn Sơn Nam
82 tuổi đời với hơn 55 năm cầm bút, nhà văn Sơn Nam tâm sự: Tôi
sinh ra ở vùng đất U Minh, nơi đó là những rừng tràm bạt ngàn kéo dài từ
Rạch Giá qua Sóc Trăng, Bạc Liêu và đến tận Cà Mau. Tôi bắt đầu sự nghiệp
viết sách bằng những truyện ngắn vào đầu năm 1955 trên văn đàn Sài Gòn để
từ đó, Mùa len trâu, Hương rừng Cà Mau…được viết ra từ kí ức quê nhà mãi
mãi không bao giờ phai nhạt. Trời sinh cây tràm thật kỳ diệu, nó bám chặt rễ
trong sình, chìm ngập trong nước mà vẫn mạnh khỏe, vẫn sinh sôi nảy nở để
giữ những mảnh đất bồi cho quê hương và giữ người cho đất. Chẳng nơi nào
41
có được những ngày rừng tràm nở rộ hoa trắng xóa mênh mông, trùng trùng,
điệp điệp quyến rũ hàng vạn bầy ong làm tổ trên cành hút nhụy hương rừng
làm mật ban tặng cho loài người như ở đất U Minh. (Trích theo Nguyễn
Mạnh Trinh - Sơn Nam, ông già “Ba tri” của đồng bằng Nam Bộ). Thật vậy,
Sơn Nam có lẽ cũng nhƣ thân tràm kia giữa bao nhiêu xô bồ, thăng trầm của
cuộc đời mà ông vẫn đứng vững để tạo ra hàng chục tác phẩm, hàng ngàn
trang viết lấp lánh sắc hƣơng về vùng đất và con ngƣời Nam Bộ để hàng ngàn
ngƣời tìm đến. Đó là những tác phẩm khảo cứu: Nói về miền Nam (1967),
Thiên địa hội và cuộc minh tân (1971), lịch sử khẩn hoang miền Nam (1973),
Tìm hiểu đất Hậu Giang (1974), Gia Định xưa (1984), Nguyễn Trung Trực (
viết chung vớn Lê Đình Ký 1984), lịch sử An Giang (1988), Lăng ông bà
Chiểu và lễ hội dân gian (1990), Đình miếu và lễ hội dân gian (1992), Văn
minh miệt vườn (1992), Bến Nghé xưa (1992), Đồng Bằng sông Cửu Long –
Nét sinh hoạt xưa (1993), Biển cò miền Tây (1993), Người Sài Gòn (1994).
Về lĩnh vực sáng tác, ông viết tiểu thuyết và truyện ngắn. Những
tiểu thuyết chính Chim quyên xuồng đất (1963), Vọc nước vờn trăng (1965),
Hai cõi U Minh (1965), Ngôi nhà nặt tiền (1992), Âm dương cách trở
(1993)…không có tiếng vang gì đáng kể, Ngƣợc lại, ông là cây bút truyện
ngắn xuất sắc. Giai đoạn sáng tác truyện ngắn sung sức nhất của Sơn Nam là
mấy năm 54-59 đƣợc đăng trên các báo thời ấy ở Sài Gòn nhiều nhất là trên
tờ Nhân loại. Năm 1962, tác giả tập hợp 18 truyện in thành Hương rừng Cà
Mau. Năm 2001, ngoài việc tái bản, đƣợc ghi là Hương rừng Cà Mau, tập 1,
NXB Trẻ (Tp. Hồ Chí Minh) tiếp tục tuyển lựa in thêm Hương rừng Cà Mau
tập 2 (26 truyện), và Hương rừng Cà Mau, tập 3 (21 truyện). Đây có thể coi là
thành tựu tiêu biểu của Sơn Nam. Khi nhắc về ông, không ai lại không biết
đến tác phẩm này.
Sau cụ Vƣơng Hồng Sển thì Sơn Nam là một cây bút sắc sảo về
đồng bằng Nam Bộ với con ngƣời, thiên nhiên, cỏ cây sông nƣớc vùng đất
phƣơng Nam này. Văn ông giản dị, tinh tế, hài hƣớc và rất nhiều tƣ liệu quý.
42
Không cứ liệu nghiên cứu, biên khảo, ngay cả truyện ngắn ông cũng
viết bằng giọng kể giản dị như có người ngồi nghe trước mặt mình…Ông là
một lão nông dân cày ruộng văn chương, hiểu cặn kẻ ngóc ngách thửa ruộng
của mình (nhà thơ Hoài Anh).
Sơn Nam là ông già kể truyện xưa, lối kể cũng xưa. Văn ông ngắn
gọn, giản dị có khi cộc lốc nói cho người ta hiểu chứ không cốt làm văn, sống
và viết theo cách riêng của mình không lẫn với ai, Sơn Nam cũng là hiện tƣợng
riêng của văn chƣơng đƣơng đại… Có lẽ Sơn Nam là ngƣời cuối cùng còn lại
của dòng Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, ông lặng lẽ sống cuộc đời dân dã, dân gian.
Bƣơn bả viết rồi quên đi ông không tự ngắm mình… Không ít ngƣời nghĩ rằng,
nhƣ rƣợu nồng, nhƣ đò cổ, văn ông càng để lâu càng giá. Với sự đảo lộn ghê
gớm của cuộc sống hiện đại, văn ông sẽ là bảo tàng chữ mà con cháu mai sau
tìm về để biết một thời mở đất và hiểu về văn hóa lƣu dân.
Ông đã tích tụ vào mình cả một nền văn minh và chính ông đã đặt tên
là Văn minh miệt vườn; cả một nền văn hóa mà chính ông gọi là Văn hóa sông
nước để làm chủ lương cho một đời cầm bút. Vì thế, khi ông thả những dòng
chữ lên giấy thì đó không còn là những nét mực mà đó thật sự là những gợn
sóng Cửu Long sóng sánh phù sa. Hơi thở Nam bộ, không khí miệt vườn thắm
đượm, chan hòa đến từng dòng văn (TS Chu Văn Sơn - Viện Văn học).
Chúng tôi xin mƣợn những lời đánh giá trên, từ những ngƣời chúng
ta biết đến những ngƣời chúng ta không biết. Nhƣng cũng nhƣ chúng ta họ
đều dành cho Sơn Nam một sự trân trọng, một sự kính nể đáng tự hào về một
con ngƣời của vùng đất chín rồng. Hẳn ai từng quen biết ông, từng một lần
gặp ông ngoài đời hay trong trang nét thì đều thừa nhận con ngƣời có hình
dáng gầy gò, ăn mặc hết sức bình dân ấy lại có một nội lực sáng tác vô cùng
thâm hậu. Có lẽ, những giá trị văn chƣơng của ông tập trung vào cả Hương
rừng Cà mau. Nơi mà con ngƣời Nam Bộ, tính cách Nam Bộ, văn hóa Nam
Bộ, thiên nhiên Nam Bộ nhƣ những thƣớc phim sống động hiện ra trƣớc mắt
mọi ngƣời, đặc biệt là những ngƣời ham hiểu biết về mảnh đất phƣơng Nam.
43
1.4. Tiểu kết
Sơn Nam từng nói Truyện ngắn là thể loại mà tôi tạm so sánh như một
cái cành, với lá, hoa linh tinh hoặc cái đọt non, trong khi tiểu thuyết là cái cột
cây toàn vẹn truyện ngắn phải viết linh hoạt, khó che dấu tư tưởng của mình,
đọc giả thường phê bình với cái giọng sổ toẹt; vô duyên, truyện này chẳng có
cái gì cả! Viết truyện ngắn phải vận dụng mọi lực nhằm toát lên cái phong
thái nô đùa, thong dong, thậm chí ngây ngô, nhưng là cái ngây ngô khổ luyện
có định hướng (Lời tâm sự- Hương rừng Cà Mau tập 3, trang 6). Truyện ngắn
Sơn Nam có cốt cách ý vị riêng, đúng nhƣ ông nói. Tác giả viết hết sức thoải
mái, tự nhiên nhƣ lời kể trong buổi nhậu bằng ngôn ngữ đời thƣờng. Phƣơng
ngữ đƣợc dùng vừa phải, đúng chỗ, con ngƣời và vùng đất nê địa Cà Mau cứ
thể hiện trên từng trang viết của ông cuốn hút, say lòng ngƣời. Có thể khẳng
định, ngoài mảng nghiên cứu thì bên cạnh một số hình thức ta vừa bàn trên
đây thì phần nội dung trong Hương rừng Cà Mau chính là mạch nội dung
xuyên suốt các tác phẩm của ông. Nội dung ấy đã đƣợc ông khéo léo tinh vi
thâm canh bằng vốn hiểu biết thấu đáo của mình, và đƣơng nhiên năng suất
và chất lƣợng của nó thì khỏi phải bài cãi. Với những đóng góp đó, ông xứng
đáng là nhà văn hàng đầu của Nam Bộ không chỉ hôm nay mà cả mai sau.
44
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA LỚP TỪ ĐỊA PHƢƠNG NAM BỘ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA SƠN NAM
2.1. Danh từ riêng
2.1.1. Tên nhân vật
Danh từ là những từ dùng để định danh. Từ xƣa đến nay, đặc biệt là
trong thời hiện đại thì ngƣời Việt thƣờng sử dụng từ Hán Việt để đặt tên bởi
sắc thái cổ điển và quí phái của lớp từ này: Nhân, Lễ, Nghĩa, Tín, Trí, Dũng,
Văn… nếu là nam và Hồng, Cúc, Trúc, Duyên,… nếu là nữ. Rõ ràng, trong
những cái tên đó, ngoài việc đẹp và trang trọng thì còn gửi gắm vào đó bao
mơ ƣớc, kì vọng của bậc làm cha mẹ với những đứa con thân yêu của mình.
Nhƣng mảnh đất miền Nam, do những đặc trƣng về lịch sử địa phƣơng,
không chịu ách đô hộ thống trị, ít tiếp xúc với chữ Hán, với Nho giáo, những
con ngƣời có quá khứ đặc biệt trong công cuộc khai phá sơn lâm, họ đã hình
thành nên một cách đặt tên độc nhất vô nhị, cái tôi làm nên cuộc sống và cũng
chính cái tôi đã làm cho văn học Nam Bộ nói chung và nhà văn Sơn Nam nói
riêng không lẫn vào đâu đƣợc.
Trong 65 truyện ngắn của 3 tập Hương rừng Cà Mau thì có 117 nhân
vật. Tên gọi của các nhân vật này, dù chính hay phụ, cũng đều thể hiện nét
riêng của chính nhân vật. Và có thể rút ra một số đặc điểm chính trong cách
đặt tên nhân vật của Sơn Nam nhƣ sau:
2.1.1.1. Đặt tên theo chức + tên
Cách đặt tên này theo chừng mực nào đó, giống nhƣ cách gọi chung
của cả miền Nam lẫn miền Bắc, nhƣng ta thấy một điều là ngƣời miền Bắc
thƣờng thêm các đại từ nhân xƣng, chỉ ý nghĩa tôn kính trƣớc chức danh của
ngƣời đƣợc gọi tên nhƣ: cụ Nghị, cụ Báo, cụ Chánh… Còn trong Hương rừng
45
Cà Mau, Sơn Nam chỉ đơn giản gọi theo chức vụ + tên (không kèm theo tiếng
lót trong cấu trúc từ gồm họ + tiếng lót + tên).
Tuyến này gồm có 39 nhân vật: Hương trưởng Neo (Bức tranh con
heo), Hương trưởng Tạc (Cậu bảy Tiểu), Phó hương quản Hem (Chiếc ghe
ngo), Hương cả Bình (Con heo đất), Biện Tống, Cò lơ Hia (Con rắn ri voi),
Cai tổng Hy (Con sấu cuối cùng), Cai tổng Báu (Con trích ré), Hương cả Ba
(Cô út về rừng), Hội đồng Tần (Hai viên ngục), Hội đồng Hai, cai tổng Ba
(Một kiểu anh hùng), xã Nê (Ông hai xay lúa), Hương quản Sun (Xuất quỷ
nhập thần)… Nhƣ vậy, cái hay trong cách gọi tên này là dù mới tiếp xúc với
nhân vật đƣợc nhắc đến trong ngữ cảnh của văn bản hay đã biết tƣờng tận thì
vẫn sẽ thu đƣợc những thông tin cơ bản nhƣ chức vụ, tên và thậm chí là thứ
bậc trong dòng tộc theo cách gọi của ngƣời miền Nam.
Tuy nhiên, trong cách đặt tên này có một trƣờng hợp đặc biệt, đây
không phải là những ngƣời có chức quyền, có vai vế trong làng, thậm chí họ
rất nghèo nhƣng vẫn đƣợc ngƣời dân U Minh nói riêng và ngƣời dân Nam Bộ
nói chung gọi là thầy, là cụ (xuất hiện trong tên gọi của 8 nhân vật)
Thầy giáo Trích lồm cồm ngồi dậy, tắt ngọn đèn dầu cá rồi nằm xuống
mặt đất. Gió thổi rào rào, sương lùa vào, gian nhà lạnh lẽo. Bàn tay thầy giáo
mê man cái mền rách nát, còn tạm dùng được nhưng đầy rận rệp (Hai ông già)
Trong giấy thuế thân anh ta tên là Nguyễn Hùng Dũng nhưng dân ở
xóm Tân Bằng ven rừng U Minh quen gọi anh là giáo Trích (Ăn to xài lớn)
Nhƣ vậy, thầy không hẳn là ngƣời đứng lớp dạy học trò theo nghĩa mà
chúng ta suy nghĩ hiện nay mà theo cách suy nghĩ thật thà, chân chất và kính
trọng của ngƣời dân U Minh đối với những ngƣời có học, có trình độ kiến
thức (dù thấp nhƣng vẫn hơn họ rất nhiều). Đó có thể coi là một trong nhũng
nét đặc trƣng thể hiện cái riêng của văn hóa và con ngƣời Nam Bộ.
46
Cũng với cách đặt tên đó, không chỉ có giáo Trích, giáo Phép mà còn có
cụ cử Trị, cụ cử Hoành, lục cụ Tăng Liên. Ngoài ra, còn cách dùng chức vụ để
xƣng gọi, nhƣ: thầy phó hương quản, bà Hương trưởng, Thầy đội, kiểm lâm...
2.1.1.2. Gọi tên theo thứ + tên
Có lẽ, chỉ có ngƣời miền Nam mới có cách gọi tên này và đến nay vẫn
còn tồn tại. Trong 201 tên riêng thì cách gọi này chiếm đến 62 tên. Cách gọi
này cho ta thấy đƣợc tính cách đơn giản mộc mạc, không cầu kỳ, hình thức
của con ngƣời Nam Bộ trong mối quan hệ giao tiếp lẫn nhau, bất luận đó là
già trẻ lớn bé. Cách gọi này xem ra rất gần gũi thân tình nhƣng cũng mang
một cái gì đó ngang ngang hơi thô kệch của những con ngƣời giang hồ hảo
hán và đó cũng là một nét riêng trong tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau.
Mà thật ra, tác giả cũng có khi gọi tên đầy đủ của nhân vật, đó là những khi
những nhân vật này tiếp xúc với chính quyền cai trị, nhƣ trƣờng hợp Trần Văn
Lén (trong Anh hùng rơm). Còn lại là những Tư Hạnh, Tám Theo, Hai Tước,
Năm Hên, Tư Hưng, Hai Kiểm, Tư Mét…
2.1.1.3. Gọi tên theo tên + đặc điểm cá nhân
Trong trƣờng hơp gọi tên này, ta thấy có sự khác biệt so với hai cách đặt
tên trên. Đó là cách gọi tên bằng thứ tự trong dòng họ nhƣng lại kết hợp với
những đặc điểm cá nhân. Đó là già Hiệt (vì cao tuổi), là Tây Đầu đỏ (dựa vào
màu tóc), Hai Rắn (làm nghề bắt rắn, thứ hai trong gia đình), con Bảy đưa đò (cô
gái trẻ làm nghề đƣa đò, sau này lớn tuổi thì nhân vật này đƣợc gọi là Dì Bảy
đưa đò), thầy Râu (vì nhân vật này có nhiều râu), Tư Đờn Kìm (vì có nghề đờn
kìm), Tư Bình Thủy, Hai Cờ Đỏ (vì nhân vật này có quê ở Bình Thủy và Cờ Đỏ,
đây là hai địa danh thuộc thành phố Cần Thơ), Chệt Kỵ (vì là ngƣời Khmer).
Nhƣ vậy, cách đặt tên thứ ba này, thoạt nhiên thì thấy khá đa dạng nhƣng
tựu trung lại vẫn thấy đƣợc cái mộc mạc trong cách gọi tên của con ngƣời Nam
47
Bộ, gọi tên không phải để hay để đẹp mà gọi sao để cho dễ nhớ, dễ nhận dạng
trong giao tiếp là đƣợc, không cầu kì, không màu mè, không ƣớc vọng rƣờm rà.
Tóm lại, các tên nhân vật của Sơn Nam là do nhà văn tự đặt dựa vào
những đặc điểm mà con ngƣời dễ nhận ra bằng những giác quan hƣớng ngoại
nhƣ đặc điểm ngoại hình, nghề nghiệp, quê quán...
Bên cạnh sự mộc mạc, chân quê, bên cạnh những từ ngữ thuần chất
Nam Bộ, trong cách diễn đạt của các nhân vật trong tác phẩm Hương rừng Cà
Mau ta còn bắt gặp rất nhiều từ ngữ Nam Bộ đƣợc vay mƣợn từ tiếng Pháp
theo cách riêng của ngƣời Nam Bộ: Anh học sinh trường cô-le, người trong
ban tiếp tế đã cho tôi theo thuyền từ Hậu Giang đến đây bảo tôi…. Cô-le
(collège: trƣờng trung học) – cách diễn đạt ấy phần nào phản ánh đƣợc sự pha
trộn về mặt văn hóa ở vùng đất Nam Bộ. Nam Bộ là vùng đất thuộc Pháp khá
lâu. Cho đến thời điểm tác phẩm ra đời thì đã có khoảng hơn 100 năm thuộc
Pháp. Để diễn tả những thực tại mới, ngƣời dân Nam Bộ sử dụng nhiều từ
ngữ vay mƣợn hết sức độc đáo: rô – dê, xép – phi –ca, ác – xơ – nan, pô – lít,
xanh – tuya – rông, ba – toong, kê – pi, ga – lông, Gờ - ra – xây, Hui – bon –
hoa, gô – loa, lách – xê – pát xê,… Ngôn ngữ trong Hương rừng Cà Mau với
chất liệu chủ yếu đƣợc nhà văn góp nhặt từ vùng đất mà ông đang sinh sống
và trải nghiệm, đã mang lại cho tác phẩm một dấu ấn riêng, một ấn tƣợng về
vùng quê sông nƣớc mà tác giả đã giới thiệu tới bạn đọc hôm nay.
2.1.2. Tên địa danh
Với 87 địa danh (xuất hiện 104 lần) đƣợc nhắc đến trong 65 truyện
ngắn có thể nói là khá dày đặc. Điểm đặc biệt là có những địa danh đƣợc lặp
đi lặp lại đến 6 lần nhƣ làng Đông Thái nơi tác giả đƣợc sinh ra, đúng nhƣ
cách kể chuyện mà nhà văn từng quan niệm rằng Mảnh đất quê hương luôn
luôn là mạch nguồn liên tục bất tận về chuyện mà ông kể không bao giờ hết,
không bao giờ nhàm chán. Từ cách dùng những địa danh trong các truyện
ngắn ta thấy rõ đƣợc những đặc trƣng về cách dùng từ của nhà văn Sơn Nam.
48
Nam Bộ từ miền đất hoang vu, rừng thẳm, nhiều sông rạch, đầm lầy,
muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tợ bánh canh. Đặc trƣng của vùng đất Nam
Bộ đƣợc hiện lên rõ nét qua việc sử dụng những hình ảnh Nam Bộ rất đắt, rất
thích hợp của nhà văn Sơn Nam. Lớp từ vựng phƣơng ngữ Nam Bộ phản ánh
rõ nét tƣ duy của ngƣời đồng bằng Nam Bộ, là lớp từ đặt tên đất, tên làng, tên
sông, tên chợ… gọi chung là những từ chỉ địa danh hay những từ định danh
có liên quan tới địa danh. Những cách định danh này phản ánh khá rõ nét đặc
điểm, tình hình của vùng đồng bằng sông nƣớc; đồng thời, nó cũng nêu bật
đƣợc tâm trạng và cách suy nghĩ của ngƣời Nam Bộ. Tên gọi của các địa danh
xuất hiện trong Hương rừng Cà Mau mang nhiều chất Nam Bộ. Đó là những
địa danh có thành tố Cái: Cái Keo, Cái Chanh, Cái Bèo; những địa danh có
thành tố gắn với địa hình của vùng sông nƣớc miền Tây Nam bộ nhƣ Rạch,
Vàm, Chợ: Rạch Giá, Rạch Kiến, Vàm Xáng, Vàm Láng, Vàm Cỏ Đông, Vàm
Cỏ Tây, Chợ Lớn, Chợ Đệm,…; một số địa danh Hán Việt, có thành tố biểu
thị một ý nghĩa tích cực, nhƣ An, Bình, Long, Thạnh, Tân, Phú, Mỹ nhƣ: Tân
An, Phú Lâm, Mỹ Tho,…; và một lớp địa danh có thể có nguồn gốc từ tiếng
Khmer, nhƣ lớp địa danh có thành tố Sóc, Tà, Ôi nhƣ: Sóc Trăng.
Hầu nhƣ trong truyện nào ta cũng thấy xuất hiện những sông, rạch,
kinh, vàm, lung, mũi… đó là những dạng địa hình phổ biến, đi sâu vào đời
sống ngƣời dân và chắc rằng cũng chỉ có mảnh đất Nam Bộ mới sinh ra
những phân biệt tinh tế và rạch ròi đến thế. Những danh từ chung này kết hợp
với những tên riêng thật đặc biệt tạo ra những cái tên cũng rất đặc biệt. Đó là
những cách đặt tên không theo âm Hán Việt mà dựa vào những đặc điểm tự
nhiên tại chỗ mà gọi tên. Thế nên, khi nghe tên ta đã có ngay ấn tƣợng về địa
danh ấy. Ví nhƣ hình ảnh con sông cái quanh năm nƣớc chảy cuồn cuộn gắn
liền tuổi thơ của nhà văn đi vào tác phẩm trở thành một thách thức của thiên
nhiên, một trở ngại của tình cảm . Nhƣ hai ông bà già muốn đi thăm cha mẹ
nhƣng không thể đi đƣợc vì lo tay làm hàm nhai để nuôi con, vì sông cái lớn
mấy năm nay, lại mưa nắng thất thường (Cô Út về rừng). Gọi là bàu sấu, lung
49
sấu vì nơi ấy chỉ toàn là sấu… Cũng chính nhờ những cánh đặt tên giản dị đó
mà trong các tác phẩm của Sơn Nam xuất hiện dày đặc những địa danh đặc
trƣng của miền cực Nam của Tổ quốc nhƣ Xẻo Bần, rạch Cái Tàu, sông Ông
Đốc, rạch Giồng, kinh Mười Lăm, kinh Xáng Lái Thiêu, vàm Cái Cau, rạch
Ruộng, xẻo Rô, xẻo Quao, xẻo Bần, mũi Hà Bá… Ngoài địa danh làng Đông
Thái đƣợc nhắc đến rất nhiều lần thì cách làng khác, địa danh khác cũng hiện
ra với tật cả sự chân phƣơng, mộc mạc của có, nhƣ chợ Ngã Năm, chợ Canh
Đền, xóm Bánh Tàm, đường Bàng, làng Bình An…
Ngoài ra, còn có một số địa danh tiếng Khmer đƣợc đƣa vào Hương
rừng Cà Mau nhƣ: xóm Cà Bây Ngóp, xóm Tà Lốc, chợ Sóc Xoài, Na Rộn…
cũng cho thấy công cuộc khai phá đất Nam bộ mang dấu ấn rất lớn của các
dân tộc anh em, đặc biệt là ngƣời Khmer.
Bên cạnh những địa danh mang tên gọi đặc trƣng của vùng đất Nam Bộ
thì chính cách phát âm của nhà văn Sơn Nam - hay cũng chính là cách phát
âm của những ngƣời nông dân Nam Bộ - về tên riêng nƣớc ngoài một cách
khá đặc biệt, tạo nên sự thú vị cho ngƣời đọc ngƣời nghe. Cách phát âm mà
một lần nữa có thể khẳng định đặc trƣng đơn giản, hồn nhiên mà chỉ có vùng
đất cực Nam của Tổ quốc mới có thể có đƣợc.
Cách đọc thông thƣờng Cách đọc theo ngôn ngữ Sơn Nam
(đọc dựa vào cách phát âm)
Nhật Bản Nhựt Bổn
Thái Lan Xiêm La
Pháp Lang Sa
Xingapore Sanh Ga Po
Anh Ăng Lê
50
Myanmar Miến Điện
(ngục) Pati (ngục) Bách Ti
Indonesia Nam dƣơng
Cũng nhƣ con ngƣời Nam Bộ, ngôn ngữ Nam Bộ rất chân quê, giản dị
trong cả tên sông, tên đất mà Sơn Nam cũng đã nói trong tác phẩm của mình.
Ở đây, ngƣời ta gọi tên đất, tên sông không phải bằng cái tên mỹ lệ, mà cứ theo
đặc điểm riêng biệt của nó mà gọi thành tên. Chẳng hạn nhƣ gọi rạch Mái
Giầm, vì hai bên bờ rạch mọc toàn những cây mái giầm cọng tròn xốp nhẹ, trên
chỉ xoà ra độc một cái lá xanh hình chiếc bơi thuyền nhỏ; gọi kênh Bọ Mắt vì ở
đó tụ tập không biết cơ man nào là bọ mắt đen nhƣ hạt vừng, chúng cứ bay
theo thuyền từng bầy nhƣ những đám mây nhỏ, ta bị nó đốt vào da thịt chỗ nào
là chỗ đó ngứa ngáy, nổi mẩn đỏ tấy lên; gọi kênh Ba Khía vì ở đó hai bên bờ
tập trung toàn những con ba khía, chúng bám đặc sệt quanh các gốc cây… Còn
nhƣ xã Năm Căn thì nghe nói ngày xƣa trên bờ sông chỉ có độc một cái lán
năm gian của những ngƣời tới đốn củi hầm than dựng nên; cũng nhƣ Cà Mau
là nói trại đi theo chữ Tức khơ mâu, tiếng Miên gọi là nước đen.
Qua các truyện ngắn của mình, Sơn Nam nhƣ đƣa ngƣời đọc đến thăm
những địa danh của vùng đất Nam Bộ từ sông Tiền, sông Hậu trải dài đến
Rạch Giá, Kiên Giang, rồi xuống tận vùng U Minh, sau đó dừng lại ở Năm
Căn, Cà Mau, Sài Gòn, Phú Lâm, Chợ lớn, Tân An, Định Tường, Mỹ Tho,
Trung Lương, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Vàm Láng, Chắc Băng, Bình
Xuyên, Rạch Kiến, Thới Bình, Gò Cát, Bến Tranh, Gò Công, Cai Lậy, Cái Bè,
Đồng Tháp Mười, Cao Lãnh, Mỹ An, Cái Bèo, Bến Tre, U Minh thượng, U
Minh hạ,… đến thăm những con sông mang hƣơng vị phù sa tƣới mát bao
cánh đồng cò bay thẳng cánh: Tiền Giang, Hậu Giang, sông Cửu Long, sông
Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây,…
51
Từ ngữ trong truyện ngắn Sơn Nam mà cụ thể là các danh từ riêng trong
tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau là một lớp từ hết sức đặc trƣng của sông
nƣớc Nam Bộ. Nó không chỉ đơn thuần là cách gọi tên một con ngƣời, một
vùng miền mà đó còn là văn hóa, lối sống, tâm tình của con ngƣời Nam Bộ.
Lớp từ ấy mang tính bình dân, uyển chuyển, tinh tế pha chút hóm hỉnh ngang
tàng rất đặc trƣng của con ngƣời miền Nam. Cũng chính các danh từ riêng
mang sắc thái Nam bộ trên đã khiến Sơn Nam trở thành ngƣời dẫn đƣờng tài
hoa đƣa ta về với những miền đất mới xa lạ, âm u, thậm chí huyền bí nhƣng
cũng không kém phần hấp dẫn, thú vị.
Cách sử dụng danh từ riêng trong truyện ngắn Hương rừng Cà Mau có
thể coi là một nét đặc sắc của nhà văn Sơn Nam. Ở đây, trong chừng mực nào đó
vẫn thấy có sự khác biệt với các danh từ riêng trong Đất rừng Phƣơng Nam của
Đoàn Giỏi. Cũng những cảnh vật ở miền cực Nam tổ quốc với cây trâm, cây
đƣớc, xứ U Minh cùng những con ngƣời của buổi đầu mở cõi chạy nạn và bóng
dáng của thực dân nhƣng cách dùng từ, hay cụ thể hơn cách dùng danh từ riêng
của nhà văn Sơn Nam có phần đặc biệt và chân xác nhất của ngôn từ Nam Bộ.
2.2. Từ xƣng hô
Lớp từ xƣng hô, chủ yếu là đại từ nhân xƣng. Đại từ nhân xƣng là
những từ dùng để xƣng hô trong giao tiếp. Làm cho cuộc giao tiếp đƣợc diễn
ra trôi chảy (hay không trôi chảy) theo phán đoán và mục đích của từng
ngƣời. Các đại từ này vừa thể hiện vai giao tiếp, mục đích và đối tƣợng giao
tiếp cũng nhƣ mang sắc thái biểu cảm rất rõ (trong trƣờng hợp này nó gần nhƣ
đóng vai trò của một tình thái từ).
Bên cạnh các từ xƣng hô trong tiếng Việt, Sơn Nam còn đƣa cho
chúng ta thấy ngƣời dân Nam Bộ còn dùng nhiều từ khác mà chúng tôi xin
tạm gọi là những di tích của lớp từ thuộc nhóm giang hồ hảo hán ở vùng đất
U Minh, dẫu trong một chừng mực nào đó nó hơi khập khiễng.
Chúng ta biết rằng: Ở vùng U Minh bấy giờ hầu như vô chánh phủ, ai
cũng có lá bùa hộ mạng riêng, mỗi người một chiếu riêng. Có kẻ đã hai lần
52
sát nhơn, thả bè vượt ngục tù Côn Đảo. Có kẻ giả bộ cuốc rẫy, mặc áo rách
nhưng kỳ thật là một chúc Đảng cướp (Ăn to xài lớn)
Hàng trăm mái nhà cất san sát thành một xóm lớn, trong bản đồ tự
hồi nào đến giờ chưa có ghi vào. Chừng điều tra lại thì ô hô! Đó là một số
người lén lút vào đây cất nhà, phá rừng để bán củi lậu thuế đã ba năm qua
mà nhà cầm quyền không bao giờ hay biết (Chuyện rừng tràm)
Chính cái cách sống theo phƣơng châm Dọc ngang nào biết trên
đầu có ai (Truyện Kiều) đó đã sản sinh ra những tính cách ngang tàng, bộc
trực, phóng khoáng, không câu nệ hình thức và đã hình thành nên những cách
gọi mà thiết nghĩ chỉ có ngƣời Nam bộ dùng.
Bảng thống kê từ Nam bộ trong cách hiểu toàn dân
Ngôi Số ít Số nhiều
I Bổn (bản, tôi) Tụi tui (chúng tôi)
Tao, ngƣời ta (tôi) Tụi tôi (chúng tôi)
II Mày, chế (chị) Tụi bây (các bạn) các
Dƣợng, anh xui (thông gia) cha, tụi nó
Ổng (ông ây) Bọn này, ổng bả (ông ấy
Con mẹ, cổ (cô ấy) cùng với bà ấy)
III Ông, dƣợng, con (+ tên) đám
Thằng (+ rể), ảnh (anh ấy)
Thằng cha, y, cha nội, bả
Đƣơng nhiên, đây không phải là tất cả những đại từ nhân xƣng trong
phƣơng ngữ Nam Bộ nhƣng chúng ta cũng đủ nhận thấy đƣợc cái ngang tàng
trong cách nói, sự ngắn gọn trong lời xƣng hô. Sự xƣng hô gần nhƣ hoàn toàn
không trau chuốt, nhẹ nhàng nhƣ ở phƣơng ngữ Bắc Bộ. Thậm chí, nhƣ sự
phân tích ở phần trên, ngƣời Nam Bộ chỉ đơn giản gọi thứ rồi kèm theo tên
hay đặc điểm cá nhân là đƣợc. Chúng ta có thể thấy tính cách Nam Bộ, cái
hảo hán tự do của ngƣời U Minh qua những chi tiết Đây là Hai Đẹt, người đã
từng nhậu ba lít rượu đế với ba yến khô cá sặc rằn. Đây là Bảy Vĩnh, người
53
hồi tháng trước đã ăn một lượt ba kí lô heo mỡ... Lại còn Tư Cần đối thủ lợi
hại của Bảy Vĩnh.... Cái cách nói chuyện trỏng trỏng nhƣ thế chúng ta rất khó
xác định đƣợc mối quan hệ, vai giao tiếp, không phải thằng hai, chú hai hay
ông hai mà chỉ đơn giản là Hai Đẹt đó mới thực chất là cách xƣng hô trong
buổi đầu đi khai hoang mở cõi: những anh hùng hảo hán.
Nhƣ nhiều lớp từ ngữ khác của tiếng Việt, từ xƣng hô chiếm một vị trí
quan trọng gắn liền với văn hóa giao tiếp. Theo Trần Ngọc Thêm, từ xƣng hô
của ngƣời Việt có khoảng 60 từ trên cơ sở do những đặc tính của nền văn hóa
chi phối. Tác giả viết: Người Việt nam có một hệ thống NGHI THỨC LỜI
NÓI rất phong phú. Trước hết, đó là sự phong phú trong HỆ THỐNG XƯNG
HÔ tiếng Việt trong khi các ngôn ngữ khác chỉ sử dụng đại từ nhân xưng thì
tiếng Việt ngoài các đại từ nhân xưng (mà số lượng cũng rất phong phú do
có nhiều biến thể), còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ
hàng (anh, chị, em, ông, bà, bác. Cô, dì, chú, cháu, con…) và một số danh từ
chỉ nghề nghiệp, chức vụ (thầy, cô, bác sĩ, ông cai, ông lí, ông huyện, ông
đội…) để thay thế cho đại từ, chúng trở thành các đại từ hóa, những đại từ
này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng [64, 283]. Nhƣ vậy, hệ thống từ
nhân xƣng của tiếng Việt rất phong phú và đa dạng. Nó không chỉ đƣợc vận
dụng vào thực tiễn giao tiếp mà còn đƣợc ngƣời Việt ứng dụng vào sáng tác
văn chƣơng nhằm phản ánh mối quan hệ thân-sơ giữa ngƣời với ngƣời. Tùy
vào mỗi tác giả ở vùng miền nào mà lớp này đƣợc vận dụng linh hoạt ở
những mức độ khác nhau. Chẳng hạn một bộ phận ngƣời Nam Bộ gọi chế
trong khi số còn lại gọi chị, hoặc một số ngƣời Nam Bộ gọi anh/ chị lớn nhất
trong gia đình là anh hai, chế hai thì ngƣời Bắc lại dùng từ anh cả/ chị cả.
Tuy nhiên, do giới hạn đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu vào nhóm từ xƣng hô của
phƣơng ngữ Nam Bộ xuất hiện trong sáng tác của Sơn Nam đặt trong mối
quan hệ với từ xƣng hô của tiếng Việt.
Sáng tác của Sơn Nam luôn tồn tại nhiều cách xƣng hô, ở đây chúng
tôi phân biệt giữa hai nhóm: xƣng hô trong quan hệ gia đình và xƣng hô trong
54
quan hệ xã hội. Trong đó, từ xƣng hô tuân thủ theo những nguyên tắc nhất
định. Chẳng hạn, trong xã hội tồn tại cách xƣng hô: thứ bậc, vai vế trong gia
đình kết hợp với tên riêng nhƣ chú út Hơn, ông già Chín Vũ, chú Tư, tư Trực,
dì Thấm, ông mười Hưng…; vai xƣng hô kết hợp với thứ nhƣ anh hai, chị
Hai, chú Út, anh Chín, chú thím Mười Ba…; vai xƣng hô, nghề nghiệp kết
hợp với tên riêng nhƣ đào Hồng, kép thường Khanh, chú bác sĩ…; chức vụ
kết hợp với tên gọi nhƣ: trưởng ấp Tư Mốt. Đặc biệt là cách xƣng hô phản
ánh quá trình giao lƣu văn hóa giữa các dân tộc cùng chung sống trên mảnh
đất Nam Bộ nhƣ sử dụng từ chế, má, ba, tía, ý, củ, qua.
* Từ xưng hô trong quan hệ gia đình
So với các nhóm từ vựng khác, nhóm từ xƣng hô trong phạm vi gia
đình thuộc phƣơng ngữ Nam Bộ tuy không nhiều nhƣng có giá trị sử dụng rất
lớn: Chúng có tần số xuất hiện cao và đƣợc sử dụng thƣờng xuyên trong giao
tiếp. Có thể nói có giao tiếp là có xƣng gọi. Sáng tạo của Sơn Nam thể hiện ở
sự linh hoạt khi vận dụng một lƣợng từ xƣng hô hữu hạn, uyển chuyển nó cho
phù hợp với từng ngữ cảnh (Nam Bộ), tạo ra sự đa dạng trong cách xƣng hô
với dụng ý nghệ thuật riêng.
* Từ xưng hô trong quan hệ xã hội
Sáng tác của Sơn Nam có nhiều cách xƣng hô ngoài xã hội mang
sắc thái Nam Bộ. Với lối sống trọng tình, ngƣời Nam Bộ luôn xem mọi ngƣời
dù lạ hay quen) là ngƣời thân của mình. Mặt khác, văn hóa ngƣời Việt hay
chú trọng mối quan hệ huyết thống một giọt máu đào hơn ao nước lã nên
trong ứng xử với xã hội ngƣời Nam có xu hƣớng chuyển danh từ chỉ thân tộc
thành từ xƣng hô trong xã hội. Đây là một nghệ thuật giúp ngƣời Nam Bộ dễ
dàng kết bạn và tạo nhiều thiện cảm với đối tƣợng khi gặp lần đầu. Từ xƣng
hô lúc này giữ một vai trò quan trọng giúp cho đối tƣợng giao tiếp thu hẹp
dần khoảng cách tình cảm để ngày càng trở nên gần gũi, gắn bó.
2.3. Từ chỉ sông nƣớc
55
Sơn Nam đƣợc cả nƣớc biết đến nhƣ một tài năng văn chƣơng Nam
Bộ. Ông không những là một nhà văn, mà ông còn là một nhà Nam Bộ học,
một nhà văn hoá. Tuổi thơ của Sơn Nam đƣợc tắm mình trong hƣơng sắc của
rừng U Minh với muôn vàn cỏ cây, hoa lá, chim muông. Ðó cũng chính là
vốn sống và nguồn cảm hứng sáng tác đƣợc ông thể hiện trên các trang viết
sau này. Ngoài truyện dã sử, truyện ngắn, nhà văn Sơn Nam còn thành công
cả ở những công trình biên khảo có hệ thống nhƣ Lịch sử khẩn hoang miền
Nam, Văn minh miệt vƣờn Gia Ðịnh xƣa, Bến Nghé xƣa... và đây cũng là
những đề tài mà ông đeo đuổi suốt sự nghiệp. Ý thức khẩn hoang mở đất đã
ăn sâu vào máu thịt ông, những trang viết của ông dành cho việc khẩn hoang
mở đất, đây cũng là đề tài mà ngƣời dân Nam Bộ rất quan tâm, bởi trong ký
ức của những ngƣời Sài Gòn cũ, ngƣời Nam Bộ cũ vẫn còn lƣu giữ nhiều ấn
tƣợng trong việc vật lộn với thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên trong những
ngày đầu mở đất, mở nƣớc. Những sáng tác của Sơn Nam đã quay về cội
nguồn văn hoá dân tộc, với văn hoá Nam Bộ bằng lối văn mộc mạc, bằng chữ
nghĩa giản dị, gần gũi với đời sống thực tế.
Quê hƣơng của Sơn Nam cũng là quê hƣơng của những con kinh, con
rạch chằng chịt. Do đó, sông rạch Nam Bộ là một hình tƣợng không thể thiếu
trong truyện ngắn của ông. Hương rừng Cà Mau có rất nhiều đoạn miêu tả rất
đặc sắc về hình ảnh sông nƣớc nhƣ vậy. Hình tƣợng sông rạch trong truyện
ngắn của Sơn Nam xuất hiện nhƣ là một cách ứng xử của con ngƣời trƣớc tự
nhiên. Đó là khi sông rạch mang đến cho con ngƣời những nguồn lợi thủy, hải
sản thì con ngƣời tận dụng thiên nhiên để làm phong phú thêm cho đời sống
của mình, khi sông rạch gây khó khăn cho con ngƣời thì con ngƣời ở đây
cũng có cách ứng xử linh hoạt trƣớc những khó khăn do thiên nhiên gây ra.
Yếu tố sông rạch trong truyện ngắn của Sơn Nam còn gắn liền với nét sinh
hoạt văn hóa tinh thần của những tiền nhân thời mở đất.
56
Qua khảo sát 65 truyện ngắn của ba tập truyện Hương rừng Cà Mau,
chúng tôi phân loại đƣợc các nhóm từ thuộc các lớp từ chỉ môi trƣờng, cảnh
quan sông nƣớc Nam Bộ, gồm năm loại:
- Từ định danh địa hình sông nƣớc
- Từ miêu tả vận động của dòng nƣớc
- Từ chỉ phƣơng tiện di chuyển trên sông nƣớc
- Từ chỉ hoạt động của ngƣời dân miền sông nƣớc
- Từ chỉ sản vật vùng sông nƣớc
2.3.1. Từ định danh địa hình sông nước
Nhà văn Sơn Nam bằng tình yêu quê hƣơng của mình đã đƣa ngƣời đọc
đến với những tên vùng, tên đất, tên sông, đến với những địa hình đặc thù của
Nam Bộ qua những từ chỉ địa hình, gắn với một vùng sông nƣớc nhƣ: sông,
rạch, kênh, mương, láng, lung, bàu, đầm lầy… đƣợc sử dụng trong tác phẩm
mang đậm chất Nam Bộ, nó phản ánh đƣợc đặc trƣng riêng của miền đất này.
Có thể nói, Sơn Nam đã phác họa thành công địa hình nơi tác giả đang sống
không phải bằng nét cọ của một họa sĩ mà bằng nghệ thuật ngôn từ của một
nhà văn tài hoa. Những ngôn từ nghệ thuật ấy không phải ở đâu xa lạ mà nó
xuất phát từ cuộc sống, trong cuộc sống mà bất cứ một ngƣời Nam Bộ nào khi
đọc tác phẩm đều có thể dễ dàng nhận ra.
Địa hình là một nhân tố quan trọng ảnh hƣởng lớn đến cuộc sống của
ngƣời Nam Bộ. Nó chi phối con ngƣời trong công cuộc cải tạo thiên nhiên
cũng nhƣ góp phần không nhỏ vào tiến trình tạo ra của cải vật chất. Chúng ta
biết rằng Đồng bằng sông Cửu Long trải dài từ sông Vàm Cỏ đến chót mũi Cà
Mau. Đây là vùng đất có nhiều sông, rạch, kênh, mƣơng đƣợc cắt ngang, xẻ
dọc chằng chịt. Nhƣng đáng kể là hai con sông Tiền – sông Hậu trong dòng
Cửu Long. Nó là hai mạch chính tạo ra muôn nghìn ngã rẽ thông thƣơng nhau
57
trong hệ thống sông ngòi ở vùng đất này. Trong quá trình lao động do nhu cầu
của con ngƣời nên hình thành thêm một nhóm từ nữa chỉ địa hình phục vụ cho
sản xuất nhƣ: ao, bàu, đìa,… là sản phẩm nhân tạo của con ngƣời.
Với 96 lần xuất hiện trong 65 truyện ngắn, từ sông trong nhóm này có
tầng số sử dụng nhiều nhất. Đây là điều chứng minh cho tên gọi của vùng
Đồng bằng Nam Bộ là vùng sông nƣớc khi mà yếu tố sông góp mặt hầu nhƣ
xuyên suốt mạch suy nghĩ, mạch sống của ngƣời dân nơi đây.
Bên cạnh đó, còn có những từ định danh cho các dòng nƣớc. Đây là
nhóm từ gọi tên cho các dòng nƣớc kể cả những dòng nƣớc thoát và dòng
nƣớc tù nhƣ: rạch, xẻo, kinh, đìa, lung, láng, lạch, vuông, vàm. Các từ thuộc
nhóm này thƣờng đƣợc cấu tạo gồm: yếu tố chính cộng với tên riêng do cƣ
dân địa phƣơng đặt ra. Sáng tác của Sơn Nam có một số từ địa danh đƣợc cấu
tạo từ các yếu tố chính xẻo, lung, lạch, kinh, rạch, vàm, đìa, vuông …+ với
một yếu tố phụ nhƣ: xẻo Bần, lung Sấu, bàu Sấu…
Rạch là từ định danh cho những dòng nƣớc nhỏ chảy từ sông dẫn vào
ruộng. Nó là một nhánh của sông. Ở Nam Bộ có rất nhiều rạch. Khảo sát sáng
tác của Sơn Nam, ta thấy có các tên nhƣ: rạch Cái Tàu, rạch Bà Bơ He, rạch
Thuồng Luồng, rạch Cái Cau, rạch Giồng, rạch Thứ Ba, rạch Cái Mau…
Ngoài ra, còn dùng yếu tố rạch thành tên gọi: Rạch Mồ Côi, Xóm Rạch, Rạch
Vàm Mấm, Xóm Rạch Chùa, Rạch Bộ Tời, Rạch Rập, Rạch Sỏi, Rạch Gốc,
Rạch Miễu, Rạch Giá, Rạch Mũi, Rạch Bàu Mốp…
Nếu rạch, xẻo, vàm là những danh từ định danh cho dòng chảy tự nhiên
thì kinh lại định danh cho dòng chảy nhân tạo đƣợc ngƣời dân đào bằng xáng
múc. Bên cạnh rạch, xẻo, kinh, lạch, vàm là định danh cho những dòng nƣớc
thoát thì đìa, lung lại là từ định danh cho những dòng nƣớc tù, nó gọi tên cho
những chỗ trũng quanh năm (tự nhiên đối với lung và nhân tạo với đìa). Tuy
nhiên, lung thƣờng ở giữa đầm hoặc giữa rừng, còn đìa thì chủ yếu ở gần nhà
đƣợc nông dân đào để nuôi cá, trồng rau.
58
Bên cạnh đó, từ dùng để định danh cho địa hình còn bao hàm những từ
dùng để gọi tên cho các vùng đất, tên đất. Ngƣời Nam Bộ có thói quen hay
dùng những từ nhƣ miệt, luống, bờ mẫu, mí, mé, gò. Mặc dù những từ này
không phải là từ chuyên dụng để chỉ các vùng đất mang tính đặc trƣng của địa
hình nhƣ cù lao, cồn, bưng … nhƣng nó cũng góp phần khơi gợi trí tƣởng
tƣợng của ngƣời đọc về vùng đất mới.
2.3.2. Từ miêu tả vận động của dòng nước
Đối với ngƣời dân miền sông nƣớc thì phƣơng tiện di chuyển chủ yếu là
phƣơng tiện đƣờng thủy. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất có nhiều sông,
kênh, rạch, mương…, ngƣời dân nơi đây đã tạo ra những phƣơng tiện ấy với
nhiều tên gọi khác nhau đã góp phần vào vốn từ vựng Nam Bộ với các từ chỉ
phƣơng tiện di chuyển trên sông rạch nhƣ ghe, xuồng, tam bản, ….
Đi xuồng trên sông ngƣời ta có thể bơi hoặc chèo đều đƣợc. Nhƣng nói đến
chống xuồng thì chúng ta nghĩ ngay đến việc đi xuồng rất khó khăn, hoặc do điều
kiện xuồng quá lớn, chở nhiều hàng hóa quá, hoặc cũng có thể do nƣớc quá cạn,
hoặc do đƣờng sông hẹp, có nhiều lùm dừa nƣớc khó đi nhƣ Sơn Nam đã miêu tả.
Để diễn tả đƣợc những hiện tƣợng của vùng sông nƣớc, từ ngữ dùng của ngƣời dân
rất phong phú, nó đƣợc phân định trong nhận thức tinh vi mà ngƣời dân đồng bằng
sông nƣớc ít khi nhầm lẫn. Ngƣời dân vùng đồng bằng sông nƣớc diễn đạt sự vận
động của nƣớc bằng hàng loạt từ ngữ, trong đó có những từ ngữ có tính phổ cập
nhƣng cũng không ít từ mà ngƣời dân vùng khác khó mà cảm nhận đƣợc sự khác
biệt tinh tế giữa chúng, nhƣ: nước lên, nước xuống, nước lớn, nước ròng, nước
rong, nước kém, nước đứng, nước ương, nước đổ, nước ngập, nước nổi, nước lũ,
nước lụt, nước giựt, nước rút, nước chảy, nước trôi, nước nhảy, nước bò… rồi thì
nƣớc ròng đƣợc phân biệt nước ròng sát, nước ròng cạn, nước ròng rặc, nước ròng
kiệt và cả những cách nói nước sát, nước cạn, nước rặc, nước kiệt… Trong tác
phẩm, Sơn Nam đã sử dụng rất nhiều những từ ngữ nước giật ròng, nước ròng,
triều lên, triều xuống.
59
Nói nƣớc mới ròng ta hiểu đó là khi nƣớc thủy triều mới hạ xuống,
nƣớc xuống theo con nƣớc hàng ngày, thƣờng có sự dời đổi thời gian chậm lại
khoảng một tiếng. Nhƣng nói nƣớc giật ròng thì một ngƣời dân khác không
phải là dân Nam bộ ắt sẽ khó biết đƣợc. Giật ròng hay giựt ròng thì cũng nhƣ
nhau, đều biểu thị mực nƣớc đã hạ thấp xuống do nước ròng và phần nào biểu
thị ý nghĩa mực nƣớc hạ xuống nhanh đến mức không ngờ.
Nhƣ các nhà văn Nam Bộ khác, Sơn Nam khi miêu tả thiên nhiên và
con ngƣời Nam bộ cũng lấy chất liệu từ chính hiện thực. Sự có mặt của các từ
chỉ sự vận động của dòng nƣớc góp phần tạo cho văn phong của ông mang
đậm phong vị miền Nam.
Con ngƣời có mặt ở vùng đất Nam Bộ khá lâu từ 4000-5000 năm trƣớc.
Nhƣng phần châu thổ Đồng bằng sông Cử Long vẫn còn chìm trong biển
nƣớc, mãi đến thế kỷ thứ V trƣớc công nguyên vùng này mới nổi lên trên mặt
nƣớc biển. Bề mặt vùng này còn chịu ảnh hƣởng mạnh của các dòng thủy
triều do đó mà bị chia cắt thành những lạch nƣớc nhỏ, đan cắt nhau, tiền thân
của kênh rạch mà chúng ta thấy ngày nay. Ngay từ buổi đầu đi mở cõi, con
ngƣời ở vùng đất này đã sống chung với nƣớc vì thế đòi hỏi con ngƣời phải
thông hiểu sự vận động của tự nhiên, của dòng chảy mới thích ứng và sản
xuất ngay trên chính mảnh đất hoang sơ, sình lầy còn nhiều điều bí ẩn hiểm
nguy này. Chính những điều kiện trên kết hợp với kinh nghiệm thực tế từ môi
trƣờng lao động đã giúp ngƣời Nam Bộ hình thành những khái niệm: nước
ròng, nước lớn, nước rông, nước đứng, nước giựt, nước nằm, (…). Không
biết chính xác những khái niệm này có từ bao giờ nhƣng qua nó, chúng ta
thấy tự hào về những bậc tiền nhân. Họ có khả năng quan sát tỉ mỉ, tinh tế, có
thể nắm bắt đƣợc từng khoảnh khắc biến đổi của tự nhiên hình thành nên một
nhóm từ chuyên dụng chỉ trạng thái vận động của dòng nƣớc. Các khái niệm
này chủ yếu lấy yếu tố nước làm gốc kết hợp thêm một yếu tố phụ miêu tả sự
vận động của dòng nƣớc ở những thời điểm nhất định.
60
Trong sáng tác của mình, Sơn Nam cũng vận dụng những khái niệm
này khi miêu tả thiên nhiên Nam Bộ gắn với khung cảnh đời thƣờng của cuộc
sống lao động. Nước ròng dùng để miêu tả dòng nƣớc lúc thủy triều hạ xuống
(tính theo ngày), nƣớc xuống theo con nƣớc hàng ngày, thƣờng có sự dời đổi
thời gian chậm lại khoảng một tiếng con nước ròng đang dâng lé đé thềm
nhà. Ngƣợc lại, nước lớn chỉ trạng thái nƣớc dâng theo con nƣớc hàng ngày.
Chính trạng thái này mà ở Nam Bộ phát sinh ra những câu ca dao nhƣ: Bìm
bịp kêu nước lớn anh ơi/ Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê hay cụm từ
bìm bịp kêu nước lớn. Sơn Nam đã mang hình ảnh nƣớc lớn với tiếng bìm bịp
kêu vào văn cảnh nhƣ một chi tiết chấm phá cho cảnh vật miền Nam.
Hay nƣớc còn ở những trạng thái khác, nước kém chỉ nƣớc dâng chƣa
đầy sông thì đã rút, nƣớc lớn nhƣng không nhiều nhƣ mọi ngày, hoặc không
nhiều nhƣ mọi tháng: xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước rông;
Nước rông là trạng thái nƣớc thủy triều dâng cao hơn ngày thƣờng, có thể
ngập ở một số nơi mà nƣớc lớn không ngập, thƣờng là vào ngày 14, 15 tháng
9 và 10 âm lịch bắt đầu con nước rông.
Chính nhờ sự định danh khá chính xác này, ngƣời dân Nam Bộ có thể
tận dụng điểm mạnh, yếu của dòng nƣớc vào lao động sản xuất. Họ chủ động
hơn trong công việc của mình. Tùy theo trạng thái của dòng nƣớc, con ngƣời
có thể lựa chọn công việc thích hợp, giảm bớt sức lao động của con ngƣời hay
tiến hành công việc thuận lợi. Chẳng hạn nƣớc lớn thì câu giăng, câu cắm,
còn nƣớc ròng thì đào ao, vét bùn,… hoặc theo chế độ dòng chảy mà cho
thuyền xuôi ngƣợc giảm sức chèo chống,… và cũng nhờ vậy mà cuộc sống
của họ ngày càng thịnh vƣợng hơn. Với hệ thống kênh rạch chằng chịt nhƣ
thế, qua kinh nghiệm thực tiễn, ngƣời dân vùng châu thổ này còn sáng tạo ra
các phƣơng tiện đi lại trên sông nƣớc phù hợp với đặc trƣng địa hình.
2.3.3. Từ chỉ phương tiện di chuyển trên sông nước
61
Hiếm có nơi nào trên mảnh đất hình chữ S này mà lại có nhiều tên gọi
để chỉ những phƣơng tiện giao thông thủy triều nhƣ ở Nam Bộ. Đó là cái ghe
ngo – hiện thân của rắn thần Naga theo tín ngƣỡng của ngƣời Khmer. Đó là
tàu đò, là ghe bầu, là xuồng, là chẹc... mỗi một thứ đƣợc sử dụng khác nhau
tùy theo mục đích sử dụng cũng nhƣ loại địa hình mà nó di chuyển. Đi trên
sông cái có phà, có ghe bầu; nhƣng trên những địa hình nhỏ nhƣ kênh rạch
ngƣời ta dùng xuồng ba lá, ghe tam bản... Tất nhiên, để có những loại phƣơng
tiện nhƣ thế thì đất Nam bộ này cũng vô địch về các loại địa hình có liên quan
đến nước hay sông nước nói chung: sình lầy, kinh xáng, khúc, rạch, xứ, doi,
bờ đìa, mương, mé rạch, ngọn kinh, mé sông, ao, vũng, hòn, xẻo, bàu... nó tạo
ra một sự tinh tế trong cách gọi tên của ngƣời Nam bộ đối với sự vật, hiện
tƣợng đang tồn tại xung quanh, đồng thời nó cũng tạo một mê hồn trận về
ngữ nghĩa không chỉ với những ngƣời không phải dân Nam Bộ mà thậm chí
còn cả những con ngƣời sinh ra và lớn lên tại đây nhƣng thiếu cái nhìn tinh tế,
sâu sắc. Chính cái đặc biệt này mà hầu nhƣ ngƣời dân Nam Bộ nào khi xa quê
hƣơng thì những gì lƣu luyến trong đầu họ không phải là cây đa, bến nƣớc,
mái đình với con đò lững lờ nhƣ ca dao xứ Bắc mà là hình ảnh của những
rặng tràm, rặng dừa, cây bần... soi bóng bên bờ kinh, những chiếc cầu khỉ
bắc qua những con rạch nhỏ... Do đó, có thể khẳng định nhớ về Nam Bộ, nhớ
về ngôn ngữ miền Nam là nhớ về một miền ngôn ngữ sông sâu nƣớc biếc êm
mát biết bao nhiêu.
Đồng hành với những nhóm từ định danh cho địa hình, từ miêu tả sự
vận động của dòng nƣớc là nhóm từ định danh cho các phƣơng tiện đi lại.
Nhƣ đã nói, Đồng bằng sông Cử Long vốn có hệ thống sông ngòi chằng chịt
gắn bó bao đời với sinh hoạt của ngƣời dân, đã là đối tƣợng để con ngƣời tìm
hiểu, sử dụng. Chính bởi yếu tố địa hình đã qui định phƣơng tiện đi lại của
khu vực dân cƣ này nhất là về đƣờng thủy.
62
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn từ hai phƣơng tiện chính ghe, xuồng, ngƣời
Nam Bộ còn phát minh ra những loại phƣơng tiện mới khắc phục dần những hạn
chế mà xuồng, ghe sơ khai chƣa hữu dụng trong những địa hình khác nhau. Ứng
với mỗi tên gọi là đặc điểm, công dụng riêng của các phƣơng tiện đó.
Bên cạnh đó, tùy địa hình của con sông, khúc sông mà ngƣời Nam Bộ
thiết kế ra những loại ghe khác nhau để di chuyển thuận lợi. Và hình ảnh
chiếc ghe bầu đã trở nên quen thuộc với cƣ dân Nam Bộ khi nhớ về nguồn cội
của mình. Có khi nó trở thành biểu tƣợng để nhận dạng ngƣời chủ ghe.
Ngoài việc sử dụng các loại ghe thông dụng, ngƣời Nam Bộ còn sử
dụng các loại xuồng khác nhau để di chuyển trên sông nƣớc. Xuồng tức
thuyền nhỏ, phƣơng tiện vận chuyển nhỏ đƣợc dùng đi lại trên kênh rạch.
Trong một vài trƣờng hợp, xuồng còn mang nét nghĩa là vật dụng hình ống
tròn dùng để xúc bùn đất mềm, không nhão ở các đáy mƣơng, ao bằng cách
xắn từng lớp để cho đáy mƣơng, ao đƣợc sâu thêm. Xuồng có nhiều loại
nhƣng riêng ở miền Nam có thể kể nhƣ: xuồng be chín, xuồng be mười, xuồng
ba lá. Đây là hình ảnh quen thuộc mà chúng tôi đã thống kê đƣợc trong sáng
tác của Sơn Nam. Nổi bật trên hết phải kể đến chiếc xuồng ba lá. Sở dĩ ngƣời
Nam gọi là xuồng ba lá vì nó đƣợc cấu tạo từ ba tấm ván đóng ghép lại với
nhau. Khi nhắc đến Tây Nguyên, ta nhớ đến chiếc thuyền độc mộc độc đáo
làm xao xuyến khách phƣơng xa thì đến ĐBSCL chiếc xuồng ba lá lại gây
đƣợc ấn tƣợng. Đây là hình ảnh đẹp trên dòng Cửu Long đã đi vào ca dao
Nam bộ tự thuở nào: Linh đinh một chiếc xuồng ba lá/ Anh trộm thương nàng
mẹ góa con côi. Có lúc nó trở thành một phƣơng tiện hữu dụng đƣợc ngƣời
Nam Bộ chọn vào dịp quan trọng nhƣ ngày đám cƣới. Hình ảnh ấy còn vang
mãi trong câu hát Bằng lòng đi em anh về quê rước má lên liền, ngày vui đám
cưới rước dâu bằng xuồng ba lá… mà bất cứ ai từng sống trên mảnh đất này
đều đã thuộc nằm lòng. Có lẽ vì thế nó trở thành một hình ảnh văn hóa độc
đáo của miền sông nƣớc Nam Bộ đƣợc ngƣời dân xa xứ lƣu giữ vào kí ức của
63
mình với đôi bờ thương nhớ khôn nguôi và với tình yêu quê sâu nặng nên
những vật bình thƣờng đã hóa quê hƣơng, nó trở thành hình ảnh biểu trƣng
mà những ngƣời xa quê luôn muốn dựng lại trong niềm nhớ.
Cùng với chiếc ba lá, xuồng be chín, be mười thì tam bản, vỏ lãi cũng
đi vào văn chƣơng tạo cho cảnh vật sông nƣớc thêm phần sinh động. So với
ba lá, tam bản lớn hơn một chút, chở đƣợc từ 15 đến 20 giạ lúa. Trƣớc đây
xuồng chỉ có một chèo, sau này để đi lại nhanh, ngƣời dân sáng chế thêm một
chiếc chèo nữa, mỗi xuồng tam bản phổ biến là hai chiếc chèo. Xuồng tam
bản khác xuồng ba lá ở chỗ: đáy của xuồng tam bản cong, còn xuồng ba lá
đáy bằng, xuồng tam bản mũi tròn, nhiều mảnh ván be lại thƣờng từ 5, 7, 9 lá
ván đóng kết lại. Đây là một loại thuyền nhỏ, nhƣng ít lắc đƣợc cƣ dân phía
Nam dùng làm phƣơng tiện đi lại trên sông: những chiếc đò đóng theo kiểu
tam bản vững chải. Nhỏ hơn tam bản, ba lá nhƣng vỏ lãi cũng rất tiện ích khi
di chuyển trên sông rạch. Nó có chiều dài khoảng 5, 6 mét; chiều ngang tƣơng
đối nhỏ, chỉ rộng vừa khoảng hai ngƣời ngồi. Do hình dạng nhỏ và dài nên tốc
độ của nó khá nhanh khi lƣớt nƣớc và nhất là có thể len lách vào những con
rạch nhỏ mà không sợ chƣớng ngại vật. Chính vì thế, nó trở nên khá phổ biến
ở miệt sông Tiền, sông Hậu Những chiếc vỏ lãi cao tốc lướt băng băng trên
sóng làm con đường vốn xa ròng rã gần lại.
Nhìn chung, ghe, xuồng là phƣơng tiện đi lại ở vùng sông nƣớc Nam Bộ có
từ lâu đời cư dân Việt sinh sống theo từng ấp tạo thành những ốc đảo xanh tươi
giữa vùng nước mênh mông, phương tiện đi lại chủ yếu là ghe, xuồng. Vì thế, nó
đã gắn kết cả cộng đồng ngƣời Việt ở Nam Bộ trong sự nghiệp khẩn hoang.
2.3.4. Từ chỉ hoạt động của người dân miền sông nước
Nhà văn Sơn Nam đã cho chúng ta thấy đƣợc những hình ảnh trong
cuộc đời của ngƣời dân miền Nam mà ngƣời đọc phải xót xa cho ngƣời ở
cảnh ngộ không lối thoát, sống trong rừng thiêng nƣớc độc, nỗi lo âu sinh kế
và đối đầu với những con thú rừng nguy hiểm, chực chờ lấy mạng của họ bất
64
cứ lúc nào, nhƣng họ vẫn nhẫn nhục chịu đựng, không một chút nao núng,
chùn bƣớc, hay động lòng… Họ sống bằng đủ nghề, ngoài việc bắt cá, nuôi
ong, bắt sấu, ruộng nông, họ lƣu lạc nay đây mai đó qua nghề len trâu, kiếm
cỏ cho đàn trâu ăn giữa rừng hoang. Đọc Hương Rừng Cà Mau cho ta hình
dung lại những cảnh sinh hoạt của một thời khẩn hoang xa xƣa của ông cha
chúng ta. Nhớ đến một miền Nam chỉ còn phảng phất trong tâm tƣởng của kẻ
lƣu lạc xứ ngƣời, nhƣng bản sắc canh chua, nước mắm, cá kho... thì không
bao giờ phai trong lòng ngƣời đọc.
Thiên nhiên luôn luôn là đối tƣợng, tạo cảm xúc để các nhà văn miêu
tả, đối với những trang văn dựng cảnh thiên nhiên Nam bộ kỳ lạ, kỳ vĩ,
nhiều lúc ta cảm thấy các nhà văn Nam Bộ thích kể và tả về thiên nhiên phía
Nam Tổ quốc ta hơn các nhà văn ở các vùng khác khi kể và tả về vùng quê
của họ. Cái kỳ lạ trong văn xuôi Nam Bộ đƣơng đại cũng thƣờng đƣợc biểu
hiện ở một khía cạnh nữa là sự có mặt của những phong tục, tập quán, những
cách thức làm lụng, kiếm sống thƣờng có rất nhiều trong các truyện ngắn và
tiểu thuyết. Văn xuôi Nam Bộ đậm chất phong tục, tập quán, điều này thể
hiện rõ nhất trong truyện ngắn của Sơn Nam, nghề làm ruộng trong Ruộng
Lò Bom, nghề giăng câu trong Người mù giăng câu, nghề bắt rắn trong Cây
huê xà, nghề bắt sấu trong truyện Bắt sấu rừng U Minh hạ, Con sấu cuối
cùng… Sơn Nam đã dẫn dắt chúng ta về một thế giới hoang sơ, tận ngọn
nguồn sông rạch, với tinh thần trƣợng nghĩa, gan góc, dũng cảm: Nghề bắt
sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không màng thứ phú quý đó. Nói thiệt với
bà con: cha mẹ tôi sinh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò
Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay:
ảnh bị sấu ở Ngã Ba Đình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Ông bắt
sấu nhƣ thần nhƣng không màng đến công cán mà chỉ rửa mối thù với loài
thú dữ. Trong một truyện khác, truyện Con sấu cuối cùng, càng tô đậm thêm
vẻ đẹp trong tính cách này của ông thợ bắt sấu tài ba – Năm Hên, với tấm
lòng hiệp nghĩa, Năm Hên xuất hiện và tình nguyện làm cái việc nguy hiểm
65
đến tính mạng: Xin phép bắt con sấu đó, không ăn một đồng xu nào hết”,
“nhanh như chớp, ông nhảy lên lưng sấu mà cỡi… Trong phút giây, người
và sấu chỉ là một đống đen thui. Đó là những tác phẩm không chỉ hấp dẫn
ngƣời đọc bằng cái lạ của cảnh quan, phong tục, sự việc… mà còn hấp dẫn
bởi chiều sâu tƣ tƣởng. Có thể nói rất nhiều truyện ngắn Nam Bộ có cốt
truyện lạ, kỳ lạ, đôi khi tƣởng nhƣ kiểu chuyện Ba Phi, nhƣng có đọc đi đọc
lại mới thấy là hoàn hảo chân thực nhƣ cuộc đời vậy.
Những hoạt động sinh hoạt của ngƣời dân miền sông nƣớc: bơi xuồng, gài
bẫy, giăng câu, săn cá sấu, ăn ong,… cũng thật đa dạng và phong phú. Điều đó
đƣợc thể hiện khá rõ qua việc sử dụng nhiều từ ngữ diễn tả cho một hoạt động ở
những khía cạnh, mức độ khác nhau. Chẳng hạn, diễn tả hoạt động di chuyển trên
sông ngƣời dân dùng hàng loạt các từ ngữ: chèo, kìm lái, chống xuồng, bơi xuồng,
lái xuồng, khua giầm,… với vốn sống, khả năng nắm bắt, Sơn Nam hiểu và đã sử
dụng các từ ngữ ấy một cách tinh tế, sâu sắc.
2.3.5. Từ chỉ sản vật vùng sông nước
Mọi ngƣời đều nghĩ rằng đồng bằng Nam Bộ xƣa nay là nơi dễ làm ăn
bởi thiên nhiên nơi đây rất ƣu đãi với nhiều sản vật quí giá. Hương rừng Cà
Mau hiện lên thật giàu có, trù phú với hàng loạt cây: tràm, bần, đước, mắm,
vẹt, dừa nước, dừa, mù u, ô rô, gừa, chà là, sen, lục bình. Sản vật địa phƣơng
là một trong những điểm nội bật làm nên lòng tự hào của mỗi ngƣời dân tại
vùng đất mà mình sinh ra và lớn lên. Mảnh đất Nam Bộ thành đồng từ thuở
khẩn hoang đã nổi tiếng trong cả nƣớc là nơi rừng thiêng nƣớc độc, nơi sƣơng
lam chƣớng khí bủa giăng với trăm ngàn con kinh thiên tạo có, nhân tạo có
chằn chịt ruộng đồng. Nhƣng đồng thời, miền đất ấy cũng có những sản vật
trù phú, những sản vật gắn chặt với mảnh đất đồng bằng này. So với các vùng
địa phƣơng khác thì Nam bộ là vùng đất có nhiều sản vật và tên gọi sản vật
mang đặc trƣng của địa phƣơng nhất. Trong Hương rừng Cà Mau ta thấy nào
là: cua biển, ba khía, nghêu, sò, ếch, tôm càng, tôm tít, cá thòi lòi, cá lia thia,
66
cá bống, cá mặt quỉ, cá ăn tía, cá lóc, cá trê,… rắn hổ đất, rắn nước, rắn ri
voi, rắn hổ đất, rắn mái gầm, rắn bông súng, rồi còn: con cò, con vạc, ếch
nhái… Ta thấy Sơn Nam đƣa vào hết sức tự nhiên, duyên dáng và hóm hỉnh
trong truyện của mình qua cuộc trò chuyện của đôi lứa.
... kìa, chiếc xuồng của thằng Lợi bơi lướt tới, vạch ra hai lần bọt nước
lốm đốm trắng như con bạch hoa xà... lập tức nó xuống bến...
... Thằng Lợi day lại cười:
- Đi đâu vậy cô Hai rắn bông súng?
Con Lai sực nhìn chiếc áo có bông đang mặc.
Nó e thẹn liếc thằng Lợi
- Em giống như con rắn bông súng. Còn anh áo đen mốc như con rắn
hổ đất. Cười em làm chi.
... dây bong bóng giống như con rắn lục, nó xanh tươi. Còn đám co bồn
bồn đằng kia, nó dẹp lép quả thật là rắn lá... Nhánh củi khô kế đó, anh thấy
không anh Lợi?
- Nó là con rắn nẹp nia, da nó xù xì... (Cây huê xà)
Vậy đó, chỉ qua một đoạn văn ngắn mà tác giả đã cho chúng ta biết
đƣợc những khái niệm cơ bản, hay chí ít cũng là hình dáng bên ngoài của một
số loài rắn một cách đơn giản, dễ hiểu. Đó chính là Sơn Nam.
Nhƣng Nam Bộ, U Minh đâu chỉ có rắn. Hàng loạt những sản vật địa
phƣơng hiện lên ngồn ngộn trong mắt ngƣời đọc. Có thể kể sản vật đầu tiên
không thể thiếu đối với lƣu dân trong buổi đầu đi khai hoang đó chính là rượu
đế. Ngƣời xƣa thƣờng bảo: vô tửu bất thành lễ. Nhƣng đối với ngƣời Nam bộ,
rƣợu không chỉ dùng trong các buổi lễ hay trong các đám tiệc nhƣ giỗ chạp,
thôi nôi, đầy tháng, đám nói... mà còn là mối dây liên kết giữa ngƣời cõi dƣơng
và cõi âm, giữa con cháu với ông bà tổ tiên. Quan trọng hơn và chắc cũng chỉ
67
có ở Nam bộ, đó là ly rƣợu đế trong những buổi chiều tà, sau một ngày làm
việc mệt nhọc, anh em bạn làng xóm lại cùng nhau lai rai vài xị, bàn chuyện
nghề, chuyện đời hay hứng chí làm một câu vọng cổ kể chuyện buồn nơi nảo
nơi nao ngọt xới mà nghe da diết cả cõi lòng. Đi kèm với rƣợu đế là những
món cá chủ yếu là nƣớng nhƣ cá lóc, cá trê, cá chạch, cá sặc rằn. Cây trái thì
mênh mông. Là những thứ dân dã nhƣ: khóm, bình bát, bần, khoai mì...
Đặc biệt, có một thứ mà ngƣời dân Nam Bộ tự hào, đó là khi cá tôm
nhiều quá ăn không hết, ngƣời ta mới nảy ra sáng kiến hoặc đem phơi để
thành khô hoặc ủ với muối tạo thành mắm. Đó là cách mà con ngƣời ta biết
hòa hợp với thiên nhiên, biết cách tạo cho cuộc sống sự cân bằng: lúc dƣ dã
phải đề phòng khi đói kém, có lẽ vì thế mà trong suốt một thời gian dài ngƣời
Nam bộ, đặc biệt là vùng Cà Mau, con ngƣời nép mình vào thiên nhiên một
cách hoàn hảo và vì thế thiên nhiên lúc nào cũng che chở và không ngừng
cung cấp những sản vật nuôi sống con ngƣời.
Về thực vật, nói đến Nam bộ ta nghĩ ngay đến hình ảnh cây tràm, đƣớc,
mắm bao năm giữ đất cho ngƣời. Nó ví nhƣ hình ảnh của ngƣời nông dân Nam
bộ lam lũ vất vả, đầy nghị lực và ý chí: ông nói cho nó biết sống làm sao như
cây đước thẳng thuột ưỡn ngực giữa sình lầy ...; rừng mắm xanh non rào rạt tiến
về phía trước giữ đất lại cho người; xa xa là những vạt rừng tràm xanh thẫm.
Đây là những cây chịu mặn chịu phèn nên phát triển mạnh ở vùng đất Nam bộ.
Chúng đƣợc xem là bộ ba trong công cuộc giữ đất. Đến Nam Bộ nhất là những
tỉnh giáp biển nhƣ Bạc Liêu, Cà Mau chúng ta dễ dàng nhìn thấy rừng mắm bạt
ngàn quanh mé biển gọi là rừng ngập mặn dùng để giữ đất, lấn biển. Hay đi sâu
vào cõi U Minh chúng ta sẽ còn ngạc nhiên hơn với rừng đƣớc, rừng tràm xanh
thẫm. Đây là những loài cây có giá trị lớn về mặt kinh tế.
Bên cạnh đó, thiên nhiên Nam Bộ còn đƣợc điểm tô bởi hình ảnh cây
tra, cây còng, bần, mù u cùng những loại thực vật đặc trƣng khác nhƣ hàng
dừa nƣớc ven sông, những cây thốt nốt, dây khổ qua, đậu rồng, chôm chôm
68
rồi những bông súng tím nở rộ ngoài ao (…) tạo cho Nam Bộ một vẻ đẹp
riêng mà không một vùng đất nào có đƣợc.. Cũng nhƣ các sự vật khác
(phƣơng tiện, công cụ), khi định danh các loài thực vật ngƣời Nam Bộ cũng
dựa trên đặc điểm, tính chất của chúng (dừa nƣớc, chuối chát, chanh giấy,
chanh núm, mai tứ quý, ngò gai, tràm bông vàng, …). Họ lấy tên của loài
làm yếu tố chính (chuối, chanh, mai, tràm, ngò) kết hợp với yếu tố phụ chỉ
tính chất, đặc trƣng của loài (chát, núm, tứ quý, vàng, gai). Ngoài ra, ngƣời
Nam bộ còn vay mƣợn từ vựng của các dân tộc khác để định danh cho một
số loài thực vật nhƣ chuối xiêm, thốt nốt, chầm đóp, chôm chôm, … Chính
các loài thực vật quen thuộc này đã điểm xuyến cho bức tranh quê thêm đậm
màu sắc Nam bộ. Đây chỉ là những sự vật rất bình thƣờng gắn với đời sống
sinh hoạt của ngƣời dân quê, nhƣng chính cái bình thường ấy đã ăn sâu vào
tiềm thức con ngƣời để mỗi khi nghĩ về quê hƣơng họ lại bùi ngùi thƣơng
nhớ. Sự tinh tế của tác giả cũng chính ở điểm này. Tác giả biết khai thác
hiện thực, biết chọn cho mình những chi tiết đắt giá của cuộc sống để khơi
gợi cảm xúc của ngƣời đọc. Chính vì vậy văn phong Sơn Nam đƣợc xem là
đặc sản miền Nam với thế mạnh khai thác phƣơng ngữ.
Về động vật, do ảnh hƣởng của điều kiện tự nhiên nên hệ động vật ở Nam
bộ cũng khá đa dạng. Qua sáng tác của Sơn Nam, chúng tôi thống kê đƣợc một
số loài sau: ba khía, cá sặc, cá lóc, cá rô mề, cúm núm, cá sặc rằn, cá chốt, ốc
lác, rắn mối, rắn bông súng, tôm bạc, tép đất, thòi lòi, thác lác, trê vàng, vọp, …
Đây hầu hết là những sản vật của miền sông nƣớc Cửu Long, trên
đồng ruộng vào mùa nƣớc nổi cá nhiều vô số nào là cá trê vàng, cá sặc, sặc
rằn, rô mề, cá lóc, … nhất là những lúc lúa trổ đòng đòng, cá trở nên mập
hơn, chiều chiều nghe cá lóc táp dƣới ruộng, cúm núm kêu vang ngoài đồng
con ngƣời thi vị cảm nhận về cuộc sống ấm no. Đó thật dự là một phần diện
mạo cuộc sống Nam Bộ đƣợc tác giả phản ánh vào trang viết mà chất liệu
chính là những từ, cụm từ phƣơng ngữ định danh cho các loài động vật gặp
69
cảnh cả nhà nhường nhau củ khoai lùi, giề cơm cháy, con cá sặc kho khô”;
“chi tiết gồm cả trái ổi đèo nghịch mùa, buồng dừa nước, con cá lóc nướng,
… ; ...mớ cá rô mề mới giăng lưới được sáng nay” ; mớ cá kèo mua đằng
đầu xóm. Điều này cho thấy Sơn Nam khá am hiểu cuộc sống nông thôn.
Thay vì miêu tả cảnh sắc thiên nhiên bằng cách dùng các cụm từ phƣơng
ngữ, ông còn dùng chất liệu này gắn với bối cảnh sinh hoạt gia đình - xóm
ấp ở Nam Bộ để khơi gợi ngƣời đọc mƣờng tƣợng về cảnh sinh hoạt nông
thôn. Đó là cảnh những gia đình nghèo khó phải nhƣờng nhau từng củ khoai
lùi, con cá sặc kho, cảnh ngƣời dân bán từng trái hủ qua đắng đổi lấy bó cải
bẹ xanh, con cá rô mề về nấu canh, cảnh ngƣời Nam Bộ bùi ngùi nghĩ về
quê hƣơng với món cúm núm nƣớng rơm làm nôn nao trong dạ, cảnh ngƣời
dân xách chai rƣợu cùng mớ khô cá kèo giao thiệp với hàng xóm … tất cả
tạo cho nông thôn Nam Bộ một ấn tƣợng riêng mang màu sắc sông nƣớc.
Thêm vào đó, do địa hình chằng chịt, thủy triều lên xuống tạo do dòng
nƣớc có nhiều trạng thái vận động khác nhau. Đây là nguyên nhân chính yếu
mà Nam Bộ giàu có về nguồn lợi thủy sản. Trƣớc hết là sự đa chủng loại các
loài tôm, tép, ngƣời nông dân Nam Bộ có thể phân biệt từng loài khác nhau:
bao nhiêu tép bạc, tép đất, đặt đó ở dưới sông; một mớ tôm bạc, tôm càng,
một con cá dứa…. Chính những sản vật này đã làm phong phú thêm vốn
ngôn ngữ của ngƣời Việt. Ngƣời ta có thể sáng tạo ra ngôn ngữ mới để định
danh chính xác hơn cho mỗi loài. Cũng nhƣ cách gọi tên các loài tôm, tép,
ngƣời Nam Bộ cũng phân biệt đƣợc các loài cá khác nhau trong cùng một
loài nhƣ cá sặc thì lại còn có sặc rằn, sặc bỏi…, cá rô thì còn có rô mề, rô
tôm tích… và họ cũng gọi tên chúng bằng cách lấy yếu tố cá làm gốc rồi
cộng thêm một yếu tố phụ chỉ loài cá nhƣ rô, sặc… rồi tiếp tục cộng thêm
một yếu tố nữa miêu tả đặc điểm của loài cá đó. Chẳng hạn, ngƣời Nam Bộ
gọi là cá sặc rằn tức là lấy cá làm gốc, sau đó cộng thêm chủng loại sặc và
tiếp đó là rằn vì loại cá này trên vảy có vằn đen mua hai kí khô cá sặc rằn.
70
Về ẩm thực, đi đôi với hệ động - thực vật phong phú ấy, Nam Bộ đã
sản sinh ra những món ăn dân dã mang hƣơng vị của miền đất khẩn hoang
tiêu biểu nhƣ món mắm. Đây là món ăn rất đặc trƣng của miền đất Nam Bộ
đã đƣợc dân gian ghi nhận qua câu chuyện kể về anh chàng công tử lấy vợ
Đầm - công tử Bạc Liêu. Do phong tục tập quán của mỗi phƣơng mỗi khác
nên ngƣời phƣơng Tây (vợ công tử) cho rằng mắm là con cá đã bị ƣơng nên
có mùi thối và không thể ăn đƣợc.
Ở Nam Bộ, những ngày mới khai hoang do sự phong phú của cá tôm
nên ngƣời dân mới nghĩ ra cách xử lí cá tôm sao cho có thể dự trữ lâu dài.
Họ mang cá đi phơi khô hoặc làm mắm. Lúc đầu chỉ có ý định chế biến làm
thức ăn dự trữ nhƣng khi ăn, họ cảm thấy ngon miệng và ƣa thích. Món ăn
này đƣợc ăn kèm với nhiều loài thực vật quen thuộc nhƣ khế, chuối chát hết
khế chua chuối chát cặp với mắm lòng. Trong quá trình chế biến, ngƣời ta đã
biết làm cho nó ngày càng đa dạng hơn, tăng độ hấp dẫn của món ăn nhƣ
dùng ruột cá lóc để chế biến ra món mắm lòng. Cách gọi này lấy từ mắm làm
gốc cộng thêm yếu tố phụ chỉ chất liệu. Theo đà này, thế hệ này tiếp thế hệ
khác, hầu hết ngƣời Nam đều thích ăn mắm. Vì vậy, nó trở thành món ăn
đặc trƣng của Nam bộ đƣợc nhiều miền khác biết tới.
Trong Hương rừng Cà Mau những từ Nam Bộ đƣợc thể hiện rất rõ
nhƣng có một lớp từ khác mà theo TS. Huỳnh Công Tín, (Trƣờng đại học Cần
Thơ) thì nó chỉ xuất hiện một nơi duy nhất, xuất hiện từ chính môi trƣờng
thiên nhiên, văn hóa vùng đất đó qui định, hình thành và chỉ có ở vùng đất đó
mà ít tồn tại ở vùng ngôn ngữ khác (nếu có thì đó chỉ là sự giao lƣu, vay
mƣợn không đáng kể) lớp từ này nếu xét về mặt cấu tạo là sự tổng hợp của
nhiều kiểu từ loại, qua đó cũng cho thấy đƣợc sự lan tỏa trong tất cả các lĩnh
vực, tâm tƣ tình cảm của đời sống con ngƣời Nam Bộ.
Tóm lại, từ địa phƣơng Nam Bộ, mà cụ thể là lớp từ chỉ môi trƣờng,
cảnh quan sông nƣớc Nam Bộ trong tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau của
71
Sơn Nam đã đƣợc vận dụng vào sáng tác góp phần thể hiện cảnh sắc thiên
nhiên Nam Bộ nói chung, thiên nhiên ĐBSCL nói riêng với vẻ đẹp tự nhiên
vốn có của nó, cùng con ngƣời Nam Bộ trong đời sống sinh hoạt với những cá
tính, phẩm chất đa dạng. Ở đó, thiên nhiên luôn có sự hòa quyện với con
ngƣời trong sinh hoạt đời thƣờng, cùng xuất hiện với con ngƣời tạo đƣợc ấn
tƣợng về đất và ngƣời Nam Bộ với một dáng vẻ riêng.
2.4. Từ khẩu ngữ
Sự thoải mái, phóng khoáng trong cuộc sống cũng nhƣ trong cách nói,
cách dùng từ của ngƣời dân Nam Bộ đã sáng tạo ra những từ ngữ Nam Bộ hết
sức độc đáo, để chỉ việc ăn cơm mà vốn từ của ngƣời dân thật phong phú.
Trong mỗi trƣờng hợp sử dụng thể hiện sắc thái biểu cảm khác nhau, diễn tả
cái đói đến mức kiến cắn bụng thì ắt hẳn cồn cào lắm, khó chịu lắm đây,
nhƣng con ngƣời trong cái đói tột độ đó cũng chỉ ăn ở mức làm ba hột, ăn chỉ
để lấy hƣơng, lấy hoa. Trong cái đói nhƣng ngƣời ta không thấy miếng ăn là
to tát, dằn bụng là ăn cốt chỉ để lót dạ. Ăn để tránh cho cái bụng trống rỗng,
không có lợi khi làm lụng và thậm chí là khi lai rai với bè bạn. Ăn để dằn cái
bụng, Sơn Nam đã sử dụng từ ngữ này thật hay và hợp lí. Chính từ nếp sống,
cách suy nghĩ và nói năng của ngƣời Nam Bộ, cũng nhƣ sự bộc trực, thẳng
thắn, ít thích văn chƣơng rào đón, mà ngƣời dân Nam Bộ thƣờng dùng những
từ rất giàu hình tƣợng, nhƣng cũng rất phóng khoáng.
Ngay từ nhậu bản thân nó đã đắt nghĩa vô cùng, nhậu là cả uống, cả
ăn, cả ăn lẫn uống, bên nào cũng trọng nhƣ nhau, nhƣng cán cân có vẻ nghiêng
về bên uống. Nói nhậu, trƣớc tiên phải có rƣợu, nhƣng chỉ có rƣợu mà không có
mồi thì chƣa thành nhậu, mới chỉ dám mời nhau uống rƣợu mà thôi. Nói nhậu là
phải có mồi, trái cóc, trái ổi, trái chuối chát hay dĩa chùm ruột cũng đƣợc. Nhƣng
mồi non nhƣ vậy chữ nhậu buông ra không mạnh miệng. Vớ đƣợc con rùa, con
rắn, con cua đinh, con chuột cống nhum,… chữ nhậu bung ra mới đắt. Nhậu
khác xa lắc với nhậu nhẹt (ăn nhậu say sƣa, say xỉn tối ngày - từ dùng mang ý
nghĩa xấu) một trời một vực. Ngƣời ác tâm ác ý mới nói dân nhậu là dân nhậu
72
nhẹt. Lai rai là nhậu dài, có khi từ sáng tới trƣa, từ trƣa tới chiều, từ chiều tới tối,
từ tối tới khuya,… Cứ lai rai mà uống, không vội vàng, ta thấy rõ điều đó qua
việc miêu tả lão Ba Ngù trong tác phẩm: Dường như lúc nào cũng có lão túc
trực trong quán. Nói cho đúng thì lão ta cũng không phải là tay mạnh rượu.
Nhưng lão có thể lai rai uống được suốt ngày [24, 20-21].
Trong Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, TS. Huỳnh Công Tín cũng đã có ý
kiến rất hay: “Uống rƣợu mà nghiêm túc quá thì không thể gọi là “nhậu”, nó thành
lễ hay tiệc mất rồi, mà có bia rƣợu vào thì sao có thể nghiêm túc đƣợc. Từ “nhậu”
có lẽ đƣợc dùng với nghĩa một cuộc ăn uống mà cần phải có đƣợc sự thoải mái
trong ứng xử, không cần phải giữ lễ và phép tắc với nhau nhiều quá. Không bị câu
thúc cả trong vấn đề thời gian thì mới có thể “lai rai” đƣợc” [64, 16].
Bên cạnh đó, trạng từ trong cách sử dụng của nhà văn Sơn Nam
cũng thể hiện sắc thái địa phƣơng của ngƣời Nam Bộ. Trong Hương rừng Cà
Mau, cách nhìn nhận về thời gian của Sơn Nam khá tinh tế. Để nói về “sáng
sớm” Sơn Nam có hai khái niệm hừng đông và hừng sáng. Hừng đông là
quãng thời gian diễn ra trƣớc hừng sáng theo sự phân biệt của ngƣời Nam Bộ,
lúc đó mặt trời chƣa nhô hẳn lên, màn đêm vẫn còn bao phủ. Còn hừng sáng
là quãng thời gian mặt trời đã lên, ánh sáng đã có thể giúp ta nhìn thấy con
đƣờng làng quen thuộc và ngƣời nông dân đã ra đồng rồi.
Hay một cách dùng từ khi nói về quá khứ, Sơn Nam dùng mới đây,
nãy giờ, ban nãy. Nãy giờ là thời gian xảy ra hành động trong quá khứ nhƣng
vẫn còn đang tiếp diễn; còn ban nãy chỉ thời gian đã xảy ra trong quá khứ vừa
kết thúc. Hay nhƣ buổi chiều thì ông có lại có xế chiều, chạng vạng…
Cũng cùng cách sử dụng trên, Hương rừng Cà Mau còn đƣa ngƣời
đọc đến những từ ngữ vừa lạ lẫm vừa thân quen trong cách sử dụng lời ăn
tiếng nói hàng ngày của ngƣời Nam Bộ nhƣ: bên mặt (bên phải), hồi lâu, hổm
rày (mấy ngày nay), chập sau (một lúc sau), ban nãy, bên hông, ở bển, hồi
xưa, miệt, mé sau chót, mí, bệ phen, ở trển, đàng kia…
73
Chính những khái niệm đó đã thể hiện lối suy nghĩ trực quan, có
nghĩa là thấy gì nói đó. Những ngƣời dân Nam Bộ phản ánh những sự vật
hiện tƣợng xung quanh mình bằng sự chiêm ngiệm thực tế những gì mà họ
nhìn thấy, rồi đặt tên và phân biệt chúng. Qua đó ta thấy sự tinh tế trong cách
nhìn nhận của ngƣời Nam Bộ hay nói cụ thể hơn chính là nhà văn Sơn Nam.
Đây không hẳn là những sản vật, địa danh hay danh từ riêng nhƣ chúng ta đã
đề cặp ở trên. Lớp từ này là những từ ngữ đƣợc ngƣời Nam Bộ sử dụng trong
lời ăn tiếng nói hằng ngày. Không màu mè, cầu kì hay chải chuốt, nó thể hiện
rõ cái chân phƣơng, chất phác của ngƣời dân, ta bắt gặp ở đây những từ
những tiếng khi giao tiếp. Cần chú ý rằng những từ ngữ này (tính từ, danh từ,
động từ, phụ từ…..). Có thể chỉ xuất hiện ở mảnh đất này nhƣng cũng có thể
đƣợc du nhập từ vùng đất khác (nhƣ miền Trung chẳng hạn). Trong luồng
sóng di cƣ về sinh học hay là do giao thoa ngôn ngữ - một quy luật tất yếu
trong sự phát triển của ngôn ngữ học.
Những từ ngữ này phần lớn xuất phát từ ngôn ngữ toàn dân, nhƣng
khi vào đến phƣơng ngữ Nam Bộ, bộ phận ngữ nghĩa có thể không thay đổi
nhiều lắm so với nghĩa gốc (có tính chất tƣơng đối), nhƣng vỏ ngữ âm thì rõ
ràng là có sự biến đổi (biến đổi phần âm chính là chủ yếu). Lớp từ này còn
gọi là biến âm. Có thể liệt kê những trƣờng hợp sau đây:
* ê /e/ <-> i /i/. Chẳng hạn: bệnh -> bịnh, bệnh nhân ->binh nhơn, binh
hoạn, sanh bịnh, hoan nghinh,….
* â / / <-> ơ / /. Chẳng hạn: nhân -> nhơn: nhơn dịp, nhơn nghĩa, bất
nhơn, tiểu nhơn, nhơn đạo, nạn nhơn, bịnh nhơn, nhơn lực, nhơn chứng, nhơn
tài, sát nhơn, thánh nhơn,…
* â / / <-> ƣ / /. Chẳng hạn: thứ nhất -> thứ nhứt, Nhựt hoàng, giải nhứt,
nhứt trí, độ nhựt, cấp bực, chưn vịt, từng dưới, bực thánh, giựt mình, giựt,..
74
* a /a/ <-> i, y /i/. Chẳng hạn: tài chính -> tài chánh, tánh tình, bình sanh,
sanh đẻ, sanh bịnh, sanh sống, sanh sôi, sanh nghi,….
* u /u/ <-> ô /o/. Chẳng hạn: tung tích > tông tích, hôi thối > hôi thúi
* u /u/ < -> ƣa, ƣơ / /. Chẳng hạn: phúc -> phước.
* u /u/ < -> âu / /. Chẳng hạn: thu hoạch > thâu hoạch
* a /a/ <-> ơ / /. Chẳng hạn: đàn > đờn, cây đờn
Nhƣ vậy, cách phát âm này rất đa dạng, uyển chuyển, vừa làm cho khả
năng diễn đạt khá ngộ nghĩnh tinh tế nhƣng đồng thời cũng làm giàu thêm
kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt. Lý giải hiện tƣợng này, ta thấy có thể đầu tiên
là do tính cách ngƣời miền Nam ăn nói tự nhiên, không gọt giũa, dần dần ảnh
hƣởng đến ngôn ngữ sử dụng (mà chúng tôi tin chắc rằng phần lớn những từ
bị biến âm thuộc lí giải này). Nhƣng khi đọc truyện “Hai con cá” ta có thể đƣa
ra một cách lí giải khác:
“Hôm sau, lão từ thông giải thích:
- Đêm rồi, tôi rắn mắt đi câu cá tại mũi Hà Bá, là vùng thiêng liêng của
ông hoàng tử Cảnh. Hai con cá đó là binh tướng, là gia nhân của ông
Hoàng” (Hai con cá).
Chúng ta đều biết rằng trong xã hội phong kiến ngày trƣớc, việc một
tôi thần hay một thần dân khi nói chuyện hay luận đàm mà khi nói đến tên của
vua hoặc hoàng tộc nhà vua thì phải nói chệch âm đi nếu không sẽ bị ghép
vào tội “phạm húy” và bị trừng trị rất nặng nhƣ hoàng đọc trại ra là huỳnh;
chu > châu nên việc đọc cảnh > kiểng; phúc > phƣớc là nằm trong cách lí giải
này và dần dần trở về sau, những từ có âm chính tƣơng tự đều đƣợc ngƣời
Nam Bộ tự động biến đổi một cách vô thức.
Dù cách lí giải thế nào thì trong tiếng Việt ta vẫn có những từ rất độc
đáo nhờ cách đọc chệch âm/ trại âm của ngƣời Nam Bộ.
75
Ngoài những từ bị biến âm nhƣ trên, ta còn bắt gặp trong Hương rừng
Cà Mau một hệ thống từ đƣợc dùng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày. Những
từ ngữ này khá đa dạng và nói chung là mang sắc thái hơi bổ bả, thậm chí có
những từ hơi không đƣợc văn chƣơng cho lắm nhƣ: nước đái...đặc biệt là kiểu
tính từ hay động từ, danh từ: quê, lui cui, hàn gì, công (đất), con nít, be sườn,
thuốc rê, bùa, rùm beng, bắp vế, đui mù, nước đái, bận, lần chót, lằn, mức,
trớn (sông), giề (lục bình), thiếu điều, xiêm lụa, nước miếng, tỉnh lị, tô, tiền
mọn, trai tư, tầm bậy, bồ nhà, trật, hàng ba, đám rẫy, bộ ván, bộ vạt, đèn cầy,
xé phai, say mềm, lại rái, ngô, ngắt, mũi tẹt, êm ru, ngon lành, khát, tàn mạt,
bá rơ, tanh rình, lãng nhách, nát bấy, giạ (lúa), mớ, tờ cớ, mặt mốc, râu ria,
coi mòi, chợ búa, chái (bếp), guốc, vái trời, dằn bụng...
2.5. Tiểu kết
Chƣơng này, luận văn tập trung miêu tả các lớp từ đặc sắc đƣợc nhà
văn Sơn Nam sử dụng trong Hương rừng cà Mau. Các lớp từ gồm danh từ
riêng (tên nhân vật và tên địa danh), từ xƣng hô (xƣng hô trong quan hệ gia
đình, trong quan hệ xã hội), từ chỉ sông nƣớc (gồm các từ chỉ địa hình sông
nƣớc, sự vận động của dòng nƣớc, phƣơng tiện di chuyển trên sông nƣớc,
hoạt động của ngƣời dân vùng sông nƣớc, sản vật vùng sông nƣớc) và lớp từ
khẩu ngữ. Các lớp từ này có số lƣợng rất lớn, tần số xuất hiện cao, đƣợc nhà
văn sử dụng đúng lúc, đúng chỗ nhằm tạo nên màu sắc địa phƣơng Nam Bộ
về mặt biểu hiện. Qua các lớp từ mà Sơn Nam sử dụng trong Hương rừng Cà
Mau, chúng ta sẽ nhận thấy phƣơng ngữ Nam Bộ có vốn từ vựng hết sức
phong phú, đa dạng. Các đơn vị từ ngữ Nam Bộ không chỉ sử dụng rộng rãi
trong giao tiếp hàng ngày trên từ vựng địa phƣơng mà còn xuất hiện nhiều
trong các truyện ngắn của Sơn Nam. Khi trở thành ngôn từ trong tác phẩm
văn học, từ ngữ Nam Bộ thực hiện nhiều chức năng, trong đó chủ yếu là chức
năng thể hiện. Ở chƣơng tiếp theo, chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích và lí giải vai
trò của từ ngữ Nam Bộ trong Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam.
76
Chƣơng 3. TÁC DỤNG CỦA TỪ ĐỊA PHƢƠNG NAM BỘ
TRONG TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
3.1. Làm nổi bật cảnh sắc thiên nhiên Nam Bộ
Trƣớc khi lƣu dân ngƣời Việt đến, miền hạ lƣu sông Mê Kông phần
lớn là rừng rậm hoang vu, nhiều thú dữ, khí hậu ẩm thấp, đƣợc xem là nơi khó
làm ăn và làm nản lòng không ít ngƣời đã từng đến. Nhƣng với ngƣời Việt,
những khó khăn của tự nhiên không làm họ sờn lòng. Bởi vì thiên nhiên nơi
đây trù phú, một bức tranh hầu nhƣ chỉ toàn màu xanh: xanh của da trời, xanh
của rừng, xanh của sông nƣớc hiền hòa... nhìn ngợp mắt nhƣ muốn lôi cuốn
con ngƣời đặt chân đến mảnh đất này sinh sống và khám phá: Đôi mươi mái
nhà lá, vài ba gốc dừa không trái, ngọn Xẻo Bần xơ rơ như vậy đó. Chung
quanh là cánh đồng cò bay thẳng cánh nhưng đầy năng kim, ô rô, cỏ ống, cỏ
lông bông, trích, cúm núm bay lượn tối ngày. (Bác Vật xà bông)
Xuồng dừng lại giây lát nghỉ trưa rồi mái dầm lại tiếp tục khoát
dòng nước đỏ ngòm, tuy chảy mạnh nhưng tứ bề gió khuất nên không gợn
sóng. Đôi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình, giao đấu, bắt tay nhau che kín
bóng mặt trời.
Khách đi đường ngỡ mình lạc lối trong hang, thứ hang thiên nhiên,
bất tận. Có tiếng vượn hú. Từ bên này, con vượn bồng con, nắm sợi dây rau
câu, lấy trớn đu mình sang nhánh ở bờ bên kia để hái trái vừng. Trái quả
chát, vỏ quả dày, vượn nhăn mặt, bực tức ném mạnh. Trái vừng sa vào giữa
hai lưới nhện giăng hờ, lơ lửng. Lưới rung rinh không đứt hẳn; con nhện
hoảng hốt, thả sợi tơ dài sa xuống. Chợt thấy mặt nước, nó toan rút trở lên.
Nhưng trễ quá rồi! Con cá bông phóng mỏ theo, táp mạnh. Thằng Kìm ngỡ đó
là con trăn. Cá lớn bằng cột nhà vảy xanh trắng thuê từng vòng ngời lên khắp
thân mình. No mồi, cá lặn sát đáy, lội nhanh. Bầy cá con lấm tấm như rắc
77
cườm đầy mặt nước, mất dạng trong bóng mát đằng kia. Bờ sông im lìm, mặt
nước thẫn thờ trả lại bóng dáng hiền hòa của cây chồi mọc sát mé bãi: bông
vừng buông thõng xuống từng xâu chuỗi, chen lấn, nối tiếp nhau như bức
mành mành. Nhánh vừng khô cằn, lá vàng rụng như mất hẳn. Đôi đọt non
nhú lên, mỏng mịn, chưa nhuốm được màu xanh vì thiếu nắng; ở xa, trông
như những cánh bướm khổng lồ đang phập phồng, ngứa ngáy, chưa đậu yên
chỗ là đã muốn bay”.
Đó là những bức tranh thiên nhiên cực là diễm lệ, không kiêu sa bồng
bềnh nhƣ chốn bồng lai nhƣng bản thân nó cũng mang nhiều huyền thoại,
huyền thoại về những con hổ dữ, những đầm sấu, bàu sấu và cũng chính từ
những trù phú đó Cà Mau hay cụ thể hơn là U Minh trở thành vùng đất mà
ông trời tạo cho nhiều sản vật nhất. Nếu nói về sản lƣợng thì vùng đất này
đứng thứ hai thì sẽ không có vùng đất nào đứng thứ nhất. Cứ nhìn cái cách ăn
của các nhân vật trong truyện ngắn của Sơn Nam chúng ta sẽ càng hiểu rõ hơn
cuộc sống của ngƣời dân nơi đây.
Thầy hai bỏ cuộc rồi sao? Ăn thêm nữa chớ. Rừng U Minh thiếu gì cá
Từ phía nhà bếp, con gái ông Tư Huỳnh lui cui nướng cá. Chúng tôi đã ăn tuốt
năm con cá lóc nái, mỗi con nướng chín thơm phức, nằm trên miếng lá chuối tươi.
Sau khi dùng đũa xẻ một lằn dưới bụng cá, chúng tôi trải con cá ra, gắp chừng ba
bốn đũa là quăng bỏ cái xương sống cá, mặc dầu trong xương còn dính khá nhiều
thịt. Ông Tư Huỳnh lãnh phần thanh toán bộ ruột, nuốt gan và mật cá:
- Ồ! Cái mật cá đắng thiệt nhưng vị đắng đó ngọt xớt, trị bệnh yếu mật.
Còn cái đầu cá, ngon lắm, thầy Hai ăn đi. Cứ gắp hai cục thịt ở gò má con cá là đủ.
Nghe đâu ở Biển Hồ Nam Vanh, người ta đem thứ gò má ấy phơi khô, nhậu rượu
ngon lắm.
Chập sau, tôi lại ngán ngẩm, sợ mang chứng trúng thực. Ông Tư Huỳnh nói:
- Chưa hết. Bây giờ mình ăn qua món cá sặc rằn...
Mỗi gắp là bốn hoặc năm con cá, mỗi con sặc to bằng bàn tay xòe tròn,
tươm mỡ. Ông Tư Huỳnh mời mọc:
78
- Ăn thêm nữa đi
Tôi cầm đũa, chưa gắp miếng cá nào đã nghe ông nói to với con gái:
- Nướng thêm một chục con cá nữa. Nghe chưa con:
Tôi vội cản ngăn:
- Thưa ông đủ rồi.
- Chưa đủ đâu, thầy Hai. Ăn nhiều cho đủ sức lực. Bà con xứ này nhờ ăn
cá mà khỏi chết vì bịnh rét rừng. Muỗi cắn, sanh bịnh rét. Nhưng nhờ muỗi mà cá
được mập mạp. Cá U Minh lớn con nhờ ăn muỗi, ăn lăng quăng quá nhiều. Mình
ăn cá, tức là ăn thịt muỗi. Tóm lại, vì muỗi mà mình mang bịnh, vì muỗi mà mình
có đủ cá để ngừa bịnh...
Vừa rồi, ôngTư Huỳnh vừa dạy tôi cách ăn cá sặc rằn nướng, “mỗi con
ăn hai đũa”. Ta cứ cầm đũa, giẽ một bên, đưa vào miệng rồi thì trở con cá, giẻ
thêm đũa nữa, giẻ xong, cứ quăng xương cá... Tôi ngậm ngùi đống xương cá vun
lên khá cao, nếu rỉa cho kĩ, trong đống xương cá đó còn dính chừng một kí lô cá.
Và cũng chính từ cái thiên nhiên hùng vĩ đó, có một cảnh mà theo
chúng tôi mà không thể tìm thấy ở đâu ngoài vùng đất Nam Bộ trong mùa
nƣớc nổi. Đó là cảnh len trâu hàng năm, khi đến mùa nƣớc, trâu không có nơi
cao ráo để ở, không đủ cỏ để ăn nên ngƣời ta phải thuê ngƣời khác len trâu
lên vùng cao ráo. Hình ảnh một đi không trở lại này chắc chắn sẽ còn lƣu
trong văn hóa dân tộc nhƣ một bức tranh kì vĩ.
Từ Ba Thê, cả bầy trâu len qua miệt Bảy Núi. Oai vệ lắm kìa! Voi đi một
lần chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều; cảnh đó miệt rừng ai cũng
thấy, đàn trâu lội nước năm ba trăm con, đen ngầu, đặc nước. Kiếm bạc trăm
dễ chứ muốn thấy được cảnh đó không phải dễ, giống như hồi thiên hạ sơ
khai, càn khôn hỗn độn. Mấy ông thầy chùa, bà vãi ẩn mình trong cốc trên
núi, chán cảnh trần tục vậy mà họ còn bước ra ngóng mắt theo bầy trâu len
dữ dội. (Mùa len trâu)
Cảnh này đã đƣợc dựng thành phim và đạt rất nhiều giải thƣởng
quốc tế. Có lẽ nhờ cảnh len trâu hùng vĩ này chăng?
79
Đất Nam Bộ, ngoài những cảnh hùng vĩ của cảnh len trâu thì thiên
nhiên cũng ban tặng cho mảnh đất này một nguồn lợi rất lớn là lắm chim, nhiều
cá. Điều đáng nói trƣớc tiên đó là giá trị về mặt tinh thần khi con ngƣời và thiên
nhiên nhƣ hòa quyện với nhau, phụ thuộc vào nhau. Chính màu xanh hiền hòa
của mảnh đất này là nơi trú ngụ lí tƣởng cho các loài chim về đây sinh sống và tụ
tập lại thành những sân chim với một số lƣợng rất lớn và cũng là nơi để ngƣời
dân tìm đƣợc nguồn sống cho mình và họ đã hình thành nên những phƣờng nghề
nhƣ bạn giữ sân, bạn giết, bạn nhổ. Bạn giữ sân có nhiệm vụ cất trại hai vòng
thành bằng tre để gom chim vào. Khi cửa tre hạ xuống, đuốc lửa đƣợc quơ rực
sáng bên ngoài, bên trong bạn giết dùng hai tay không nắm cổ vặn lọi đầu chim.
Tiếp đến bạn nhổ sẽ làm việc, phân loại lông, thịt..., bó lại rồi giao cho chủ sân.
Ứng xử tàn bạo với chim trời trên các sân chim Hà Tiên qua bao nhiêu năm
tháng con ngƣời đang phải trả giá cho cơn cuồng nộ của thiên nhiên. Những kẻ
gài bẫy chim, bắt cu rừng, cúm núm, trích lửa... đang trở nên cô độc và đau đớn
nhƣ chính lũ chim chịu cảnh cá chậu chim lồng (Đảng xâm mình). Ông Hai
Kiểm ngồi gác cu giữa lùm cây, ngoài bờ bụi với con cu mồi trong lụp. Ngƣời
gác cu biết lợi dụng tiếng gáy nhiều cốt của chim mồi để bắt cu, xong cuối cùng
cũng bị liệt vào hàng thứ ba trong bốn cái ngu của con ngƣời (Bốn cái ngu). Cá
nƣớc, chim trời là của tự nhiên, sống thích hợp, thích nghi với với văn hóa sông
nƣớc Nam bộ để cùng tồn tại là thuận tự nhiên. Thái quá vƣợt qua qui luật tự
nhiên thì luôn bị phản ứng ngƣợc.
3.2. Miêu tả cuộc sống, con ngƣời Nam Bộ
3.2.1. Miêu tả cuộc sống Nam Bộ
Mảnh đất Nam Bộ mà cụ thể là miền đất Cà Mau hiện ra với những
bức tranh cuộc sống thật đa dạng phong phú nhƣng cũng rất đặc trƣng. Đó là
nơi có những nghề nghiệp thật đặc biệt, mà chỉ vùng này mới sinh ra đƣợc
những con ngƣời tài hoa để làm những nghề nhƣ thế.
Bắt sấu, chuyện hùm tha sấu là chuyện quá quen thuộc với ngƣời dân
U Minh, mảnh đất này còn hoang vu với những cánh rừng bạc ngàn, những
80
con kinh, con rạch chằng chịt. Con ngƣời muốn sống đƣợc, muốn tồn tại thì
phải không ngừng đấu tranh để giành sự sống và nghề bắt sấu ra đời từ đó.
Trong Hương rừng Cà Mau có ít nhất ba truyện nói về bắt sấu rừng U Minh
Hạ. Trong Con sấu cuối cùng, điểm độc đáo của những ngƣời bắt sấu là chỉ
với kinh nghiệm của mình họ đã dùng tay không mà chiến thắng đƣợc sự
hung tợn, khỏe khoắn của những lực sĩ vùng đầm lầy. “Tới ao sấu, ông Năm
Hên đi vòng dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với
tôi lấy xuổng đào một đường nhỏ, ngày một cạn từ bờ ai lên rừng chừng mười
thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng
thì lo đốn một cây mốp tươi, chặt ra từng khúc chừng ba tấc.
Lửa châm vô, sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy
đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần vì nước sôi nóng,
sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời ông Năm Hên chạy
lại. Sấu hả miệng hung hăng đòi táp ổng. Ổng đút vô miệng sấu một khúc
mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch nha
quá lớn, muốn hả miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị khúc
mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm xách cây mác, nhắm
ngay sau tấm lưng cá sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị tê liệt.
Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại: chừa
hai chân trước để nó bơi tiếp với mình”.
Lời ca của ông Năm Hên vừa ảo, vừa ma quái.
“Hồn ở đâu đấy?
Hồn ơi hồn hỡi
Xa cây xa cối
Đầu bãi cuối ghềnh
Hùm tha sấu bắt
Bởi vì thắt ngặt
Manh áo chén cơm
U Minh đỏ ngòm
81
Rừng tràm xanh biếc
Ta thương ta tiếc
Lập đàn giải oan”.
Đây là tâm trạng chung của nhiều ngƣời tham gia bắt sấu. Bắt sấu
không vì tiền bạc mà là do tình nghĩa ở đời. “Họ biết rằng những kẻ bị hùm
tha sấu bắt chẳng bao giờ trở về nhà hưởng nhang khói nếu con sấu, con cọp
sát nhân kia còn sống”. Họ hiểu cặn kẽ về đời sống tâm linh, về thói quen của
loài sấu nhƣng chƣa bao giờ họ chủ động làm hại nó, chƣa bao giờ tận diệt
loài vật hung dữ này. Đó chính là triết lí, biết ta biết mình, sống hòa hợp với
thiên nhiên, điều mà đời nay con cháu họ không làm đƣợc.
Ngoài bắt sấu, ngƣời dân U Minh còn nhiều nghề khác cũng khá đặc biệt
là đốt củi lấy than (mà phần lớn là làm lậu, trốn thuế nhà nƣớc) vì rừng U Minh
bạt ngàn những cây mắm và đƣớc, nghề ăn ong, tận dụng từ thiên nhiên với
những khoảng rừng tràm rộng thênh thang, bắt rắn, bắt heo rừng… nói chung là
những nghề nghiệp do thiên nhiên qui định, những nghề lắm hiểm nhiều nguy
nhƣng con ngƣời chiến thắng đƣợc là nhờ cái tình, nhờ kinh nghiệm.
Bên cạnh những nghề nghiệp đặc biệt lúc rãnh rỗi, ngƣời U Minh còn
tạo ra cho mình hàng loạt những thú vui văn hóa để làm cho cuộc sống mềm
hơn, vui vẻ hơn để có sức khỏe mà làm việc. Nhƣ sinh hoạt trong Kì Yên cầu
cho mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt, hay những buổi nhậu lai rai với vài
ba câu vọng cổ nghe bùi tai cùng tiếng đờn kìm réo rắc, ảo não, nghe da diết
nhƣng mát cả cõi lòng. Nhƣng độc đáo nhất, theo chúng tôi là hình ảnh xem hát
bội giữa rừng và đua ghe ngo trong lễ hội Okombok của ngƣời Khmer.
Ngƣời Nam bộ vốn mê văn nghệ điều đó thì ai cũng biết rõ nhƣng cái
thời mà cọp, cá sấu luôn rình rập thì ngƣời ta làm sao mà yên tâm thƣởng thức
văn nghệ? Thế là sáng kiến đƣợc đƣa ra khi ngƣời ta cho làm sân khấu nổi ở
trên sông để tránh cọp, rồi làm hàng rào xung quanh sân khấu để tránh sấu, rồi
tha hồ mà xem thâu đêm suốt sáng trên xuồng. Theo chúng tôi, đây là hình
ảnh đẹp, thậm chí rất đẹp. Nó thể hiện sự sáng tạo trong cuộc sống, niềm lạc
82
quan yêu đời, yêu cái đẹp. Đẹp hơn nữa chính là chiếc ghe ngo lƣớt sóng trên
sông sâu hiện thân của rắn thần Naga trên sông nƣớc.
Ghe đẩy xuống nước, bao nhiêu trai tráng trong làng hò reo vang dậy
như… lân thấy pháo. Sáu mươi bốn cây dầm nhỏ phân phát ra, mỗi người mỗi
cây. Trước mũi ghe, cây lọng đỏ giương lên che một cái khai đầy rượu, hương,
trầu, hoa quả và một ông Phật bằng vàng lớn cỡ ngón tay cái.
Chao ôi! Ngoài sông cái lớn hai chiếc ghe ngo biến thành hai con rắn
thần bay trên mặt nước. Kìa, phó Hương quản Hem đỏ rực nhe cây đuốc: khăn
đỏ, mắt đỏ, da thịt đỏ vì rượu, vì máu nóng, vì ý chí bảo tồn danh dự của chùa
mình. Kìa! Ghe của đối phương đang liều mạng xắn vào hông ghe bên này để
được huề vì hai bên đều chìm. Nhưng người coi lái bên này nhanh tay, lách qua
được. Phó Hương quản Hem vội chụp lấy cây dầm nhỏ, nâng cao lên, bơi trên gió
thu hút tất cả sưc mạnh của trời, của đất. Ghe vượt qua.
Đoàn dũng sĩ ôm cán dầm sát vào ngực, ngã mạng tới, chuyển tất cả sức
lực vào mái dầm. Nước bay trắng xóa. Sau cùng, phó Hương quản vội cầm ông
Phật vàng trong khay, bỏ vào miệng và ngậm.
Hình ảnh hùng dũng của chiếc ghe ngo với bao nhiêu trai tráng tràn
trề sức lực phải chăng chính là một cuộc sống trù phú, sung túc đang hiện
diện ngay trên vùng đất này?
Trên cái nền của những sinh hoạt văn hóa, con ngƣời U Minh hiện
lên với bao nét đẹp về tâm hồn. Đó là những con ngƣời có đời sống tâm linh
phong phú. Có thể nói đời sống tâm linh là một thứ đặc sản không thể thiếu
trong đời sống tinh thần của một dân tộc, cho dù đó là một dân tộc giàu có
hay nghèo nàn, nó là sợi dây liên kết giữa hiện tại với quá khứ, là sự tri ân của
ngƣời hiện tại với các bậc tiền nhân, là chỗ dựa tinh thần bậc nhất của họ,
nhất là trong những ngày tháng đầu dấn thân vào chốn rừng thiêng nƣớc độc,
sƣơng lam chƣớng khí mịt mờ. Ở đó thiên nhiên vừa là đối tƣợng để con
ngƣời chinh phục, là ngƣời bạn để con ngƣời dựa lƣng nhƣng cũng là một đối
thủ lợi hại trong cuộc sống. Đất có thổ công, sông có hà bá, đâu đâu cũng có
83
thần thánh chứng giám. Trong Thời oanh liệt ngƣời ta bàn nhau nhiều cách
khác nhau để đánh cọp nhƣ thành lập đội binh, dùng tre tầm vông vạt nhọn
nhƣng cũng có ngƣời nói bằng cách đó không đƣợc, bàn tới bàn lui, họ quyết
định cất miễu thờ chúng tôi là người làm ăn, không dám đả động tới ông, xin
ông cứ ở trong rừng cho chúng tôi yên. Nhờ thờ cúng nên cọp không còn đến
phá nữa. Hay trong những lần đi bắt sấu, ông Năm Hên cặp mắt đỏ ngầu nhƣ
lên đồng cúng vái các bậc hiền nhân đi trƣớc cho phải lẽ trời. Họ tin vào
nhiều thứ, họ tin vào các đạo không chính thống, tin vào thầy bói toán, tin
rằng con ngƣời có kiếp số, tin trên đời có ma, có thế giới âm phủ (Miễu bà
chúa xứ) và tin cả chuyện con ngƣời bị “ma bắt” nhƣ trong dân gian vẫn
thƣờng đồn đại. Năm Kiểu tỉnh dậy lũ trẻ chăn trâu, các ngưởi trong xóm thì
thầm “ma bắt”. Chúng nó đứng bao vây. Bấy giờ anh ta mới hiểu rằng mình
bị “ma bắt” từ hai ngày nay, rồi ma đem giấu tại bãi tha ma này. Quả thật
vậy! Chung quanh anh ta toàn những gò mả, mới có, cũ có. Miệng anh bị nhét
đầy nào cỏ, nào đất sét. Tay anh cầm một khúc mía lau. Trong túi anh nào đá
sỏi, nào vỏ chai dầu gió, nào vỏ chuối (Giấc mơ ngoài bãi tha ma)
Bên cạnh đời sống tâm linh phong phú, ngƣời U Minh luôn biết
sống hòa hợp với thiên nhiên. Nhƣ trên đã nói, do cuộc sống phụ thuộc gần
nhƣ hoàn toàn vào thiên nhiên nên họ không thể khai thác một cách tận diệt.
Lập miếu thờ cọp là một hình thức, hay trong Sông Gành Hào khi diệt đƣợc
một con sấu, ông kiểm lâm Rốp yêu cầu phải giết con còn lại thì Tƣ Đức nói
giọng trầm: Ông lớn nói đúng. Nhưng mình giết một con là đủ rồi, giết hết
mình có tội với trời đất.
- Tội gì vậy, chú Tư?
- Tội sát sanh. Để con còn lại cho nó đi tu. Đạo Phật của ông bà có
nói lại như vậy đó.
Ông Rốp suy nghĩ mãi, vuốt râu:
- Dân An Nam giỏi quá, hiền từ quá. (Sông Gành Hào)
84
Và sau đó, khi ông Rốp muốn thƣởng tiền, Tƣ Đức chỉ xin cất một
cái miễu để thờ con sấu đó vì bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình
giết. Hễ giết được rồi thì nên thờ, vì phải để nó tu tâm dương tánh trong kiếp
sau. Thật đúng là phong cách ngƣời Nam Bộ.
Sống bằng đời sống tâm linh, hòa hợp với thiên nhiên hoang sơ,
ngƣời U Minh trở nên sống rất có tình, có nghĩa. Có nghĩa với ngƣời sống đã
đành vì cần phải nƣơng náu, yêu thƣơng nhau để cùng tồn tại trong môi
trƣờng khắc nghiệt mà ngay cả ngƣời chết, họ cũng không quên bao giờ. Với
ngƣời sống, họ san sẽ với nhau tất cả những gì mình kiếm đƣợc từ rừng, họ
giúp đỡ nhau những khi cần thiết. Ngƣời Nam bộ thƣờng căm ghét bọn quan
lại thực dân, nhƣng nếu không phải là ngƣời xấu, không phải ác ôn, họ vẫn
thƣơng, vẫn kính trọng. Với Bác vật X, họ coi nhƣ ngƣời trong làng nên gọi là
Dƣợng Hai Đi rừng bắt được rùa, săn được heo rừng là bà con nghĩ đến ông,
đem lại tặng (Bác Vật xà bông)
Ngay cả với ngƣời chƣa từng quen biết, họ sẵn sàng giúp đỡ mà không
nề hà chuyện gì, kể cả của cải nhà mình nhƣ ông Hai Tích trong “Một cuộc biển
dâu”. Dẫu chƣa gặp nhau lần nào nhƣng trƣớc cái chết của cha thằng Kìm, ông
vẫn nhiệt tình giúp đỡ, lo hậu sự cho lão Bích đúng nghĩa. Đó là cái tình, dẫu sao
ngƣời Việt Nam vẫn quen có lời nói cửa miệng “nghĩa tử là nghĩa tận” với ngƣời
đã khuất. Họ giết cọp, giết sấu để hƣơng hồn ngƣời quá cố yên tâm hƣởng
hƣơng khói của ngƣời nhà. Thậm chí còn cất cái miếu thờ để sớm hôm cúng
kiến nhƣ ông Tƣ Đạt trong Miễu bà chúa xứ. Đây là một trong những đặc điểm
rất đáng quí, đáng trân trọng của ngƣời dân miệt U Minh.
Ngƣời dân U Minh do quanh năm sống với rừng sâu ruộng cả, ít giao
tiếp bên ngoài cùng với sự thật thà, dễ tin ngƣời nên họ dễ bị lừa nhƣ chuyện
cái bài kia trong Anh hùng rơm. Câu chuyện dỡ khóc dỡ cƣời đó càng làm
cho chúng ta thấy đƣợc họ ham hiểu biết. Cái sự ham hiểu biết ấy thể hiện rõ
qua việc họ gọi tất cả những ngƣời có trình độ, có kinh nghiệm hơn ngƣời là
“thầy”. Luôn tôn trọng và hỏi ý kiến họ khi cần thiết. Phó Hƣơng quản lúc
85
nào cũng cung kính trƣớc Lục cụ Tăng Liên, bởi cụ là ngƣời có kiến thức.
Anh nhà báo đi đòi nợ độc giả không muốn mở miệng đòi mà ngƣợc lại còn
tặng thêm báo vì anh đã tìm đƣợc một tri âm từ cuốn giáo khoa thƣ. Hình ảnh
quê hƣơng, con ngƣời lần lƣợt hiện lên qua cuộc trò chuyện của hai con ngƣời
mới quen nhƣng tƣởng chừng là tri kỉ vậy! Bởi vì, cái chung của hai ngƣời là
niềm đam mê kiến thức. Chính kiến thức đã đƣa họ đến gần nhau hơn và
đƣơng nhiên trong các làng xóm ở U Minh thì ngƣời có học, có kiến thức bao
giờ cũng đƣợc đƣa lên ngang hàng với các hƣơng chức hội tề.
Tuy nhiên, trong Hương rừng Cà Mau, ngƣời dân vẫn sống chung với
nhiều bi kịch: bi kịch của cuộc sống, bi kịch của tình yêu dang dở. Lão Bích
chết trong mùa lũ nên phải thủy táng nơi đất khách quê ngƣời, phải lấy cây
cối đè xuống Mắt thằng Kìm mở rộng, trừng trừng. Cả mặt nước hiển hiện
giờ như con mãnh thú khổng lồ há miệng ra nuốt trọn thân xác của cha nó,
rồi ngậm miệng, giận dữ vì chưa no. Nhưng chỉ giây phút thôi! Mặt nước trở
lại yên tĩnh (Một cuộc biển dâu)
3.2.2. Miêu tả con người Nam Bộ
Con ngƣời là chủ thể tác động đến thiên nhiên, chính con ngƣời đã
khiến cho thiên nhiên phải phục vụ cho cuộc sống của chính mình. Trong quá
trình tác động đó thiên nhiên cũng bắt con ngƣời phải trả những cái giá nhất
định. Mảnh đất Nam Bộ, mảnh đất U Minh từ thuở hoang vu đã đƣợc nhiều
lƣu dân tìm đến. Họ nép mình bên những tán rừng tràm, rừng đƣớc để đƣợc
những cánh rừng bao la kia che chở nuôi nấng. Trong quá trình ấy, hình ảnh
con ngƣời miền Nam hiện ra thật đẹp, thật bình dị nhƣng cũng không ít những
dữ dội khắc nghiệt.
Trƣớc tiên là những ngƣời phụ nữ. Thật ra ngƣời phụ nữ trong Hương
rừng Cà Mau xuất hiện không phải là những nhân vật chính, nhân vật trung
tâm để làm nên hình hài của câu chuyện. Nhƣng họ cũng không hoàn toàn là
màn sƣơng, họ hiện ra dẫu thấp thoáng nhƣng cũng lộ rõ đƣợc sự tinh tế tài
hoa của ngƣời phụ nữ.
86
Đó là vợ của phó Hƣơng quản trong Anh hùng rơm. Trong khi dân
làng đang sốt vó, đang lo lắng vì bỗng nhiên trâu của mình trở thành trâu ăn
trộm từ cái “bài kía” của một ông nào đó xa lơ xa lắc, nếu muốn yên thân thì
phải đóng cho hắn ta một số tiền khá lớn, nếu không thì hắn sẽ đƣa ra chính
quyền. Trong lúc cánh tu mi nam tử đang vò đầu, bức tóc rối bời thì chính sự
tinh tế, đề cao cảnh giác của vợ thầy phó Hƣơng quản đã giúp ích cho tất cả.
Hổm rày, vợ tôi với tôi theo dõi hắn. Hắn dự trữ sẵn trong cặp da một số “bài
kia”, đóng dấu giả. Hắn coi “bài kia” của trâu bò lối xóm rồi sau đó y điền vô
khoảng trống trong bài kía giả của hắn. Xong xuôi hắn... ăn gian ngày tháng. Thí dụ
như trâu của bọn mình vô bộ năm 1935 thì hắn ghi 1934. Vợ tôi thấy rõ ràng hắn
đang “sao y bản chánh” lúc tôi vắng mặt. Hắn tưởng vợ tôi dốt (Anh hùng rơm)
Không tinh tế nhƣ bà phó Hƣơng quản kia, nhƣng chúng tôi lại thích
vô cùng cô gái đƣa đò trên sông trong “Con Bảy đưa đò”. Rõ ràng cách nói
năng là dành cho những ngƣời tài tử lang bạc kì hồ nhƣng cô gái này có một
thứ rất đặc biệt mà ai cũng nể phục đó là hò, hò trên sông.
Nó xa lạ nhưng thân quen, ấm áp khi cất lên thì cao hơn tầm bay bổng
của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh, giọng ấy lúc buông
trầm xa khuất. Nó trở thành một lớp mù sương mờ ảo che lấp bóng dáng
người hát.
Nếu quan sát kĩ lời nói trong Hương rừng Cà Mau thì rõ ràng hiếm có
truyện nào mà Sơn Nam lại trau chuốt, gọt giũa từ ngữ đến nhƣ thế, mƣợt mà
đến nhƣ thế. Có lẽ giọng hò của cô gái này tuyệt vời quá, hoàn hảo quá đến
mức ngòi bút kể chuyện dân dã của Sơn Nam cũng phải thay đổi. Bởi thế cho
nên khách ngẩn ngơ nhìn theo không thấy gì nữa, tâm trí bâng khuâng giữa
cảnh sông rạch âm u với nhánh bần gie con đậu sáng ngời
Giọng hò ấy vừa cao, vừa hay nhƣng hay hơn là cách cô hò, là lời cô đáp
vừa tình tứ hơi tự ý thức bản thân một chút nhƣng cũng rất đổi thông minh.
Nhƣng cô Bảy cũng nhƣ bao nhiêu ngƣời con gái có tên, lẫn không tên
trong Hương rừng Cà Mau đều phải sống một cuộc đời buồn, với bao éo le
87
oan trái mà ông trời dành cho ngƣời phụ nữ. Dƣờng nhƣ không cô gái nào
trong tập truyện này đƣợc sống cuộc sống với niềm vui trọn vẹn. Ông trời trêu
ngƣời chăng, khi con gái có chồng xa, vƣợt qua con sông cái về miệt Cạnh
Điền “muỗi kêu nhƣ sáo thổi” để rồi em phải ngậm lòng với câu ca dao xƣa:
“Chồng gần không lấy em lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa bộ kỷ trà ai dâng”
Cô Út về rừng hay cô Hoàng Mai phải dang dở mối tình của mình, chỉ
vì cô bị căn bệnh cùi hành hạ mà không một lời oan thán, hờn giận... Có thể
cách kể chuyện của Sơn Nam khiến ngƣời ta mủi lòng về ngƣời phụ nữ trong
buổi đầu tìm đến vùng đất U Minh. Nhƣng chúng ta vẫn thấy ông đặt cả vào
đó một tấm lòng thƣơng yêu con ngƣời.
Một kiểu ngƣời khác, khá đặc biệt trong Hương rừng Cà Mau là
những bậc giang hồ hảo hớn. Chúng tôi nghĩ họ sinh ra một phần là do thời
cuộc. Khi mảnh đất U Minh còn hoang sơ, rừng còn là chúa tể của trời đất khi
bóng dáng kẻ thù xâm lƣợc đang hiện diện khắp nơi, đang hàng ngày hàng
giờ đang chà đạp lên cuộc sống bình yên của ngƣời dân thì cái chất khảng
khái “nhớ câu kiến ngãi bất vi” của ngƣời phƣơng Nam lại trỗi dậy. Đƣơng
nhiên ở đây, ở cái xứ lắm đạo, lắm đảng này thì chuyện họ tồn tại là chuyện
bình thƣờng, nhƣng cái không bình thƣờng chỉ có vùng đất này là những đảng
đó đa phần đƣợc nhân dân ủng hộ. Đó là Đảng Cánh buồm đen của Tƣ Hiền
hùng cứ từ hải phận Cà Mau đến Hà Tiên, chuyên giúp những kẻ sức yếu thế
cô, đánh những tên cƣớp biển, trừng trị bọn Tây, vang lừng một cõi. Là những
con ngƣời xăm mình trông dữ tợn nhƣng thật ra sống tự nhiên, rất trọng tình
nghĩa. Tƣ Hiền dũng mãnh với đƣờng quờn lƣu thủy khiến bất cứ tên giang
hồ nào gặp cũng phải khiếp sợ, nhƣng thủy chung với ngƣời mình yêu và ân
hận, xót xa đến giải nghệ chỉ vì giết oan một ngƣời không có tội: Kim Thoa!
Em nghe lời anh nói lại chưa? Đây là lần đầu tiên trong đời mà anh đau đớn
nhứt. Anh giết oan người ta. Ngọn roi này, anh xuống tay nặng quá, ô uế rồi.
88
Tội nghiệp chết không nhắm mắt mà ngón tay hắn còn chỉ về phía biển khơi,
nơi quê vợ, con thấy phận người mà nhớ phận mình (Đảng Cánh buồm đen)
Hay có những con ngƣời không thành lập đảng, nhƣng họ sống ngang
nhiên giữa đất trời, hồn nhiên nhƣ cỏ cây hoa lá. Đó là những thanh niên tứ xứ về
miệt Cà Mau làm nghề đốt than lậu. Họ không phải là một, mà là một tập đoàn
ngƣời sống không lén lút, không sợ sệt vì đã có thiên nhiên bạt ngàn che chở. Hễ có
cái ăn là họ mời gọi nhau, không dè sẻn, không tƣ lợi, ích kỉ. Đó thật sự là những
con ngƣời đã phát huy mức cao cái khẳng khái của ông cha ta ngày trƣớc.
Lớp ngƣời thứ ba xuất hiện trong tác phẩm chính là ngƣời nông dân. Ở
đây chúng tôi cho rằng ngƣời nông dân bao gồm những vị “chức việc” trong
làng. Nói thế bởi trong hầu hết các truyện, chúng ta thấy rằng, mặc dù là những
ngƣời có vai vế trong làng nhƣ: hƣơng trƣởng, hƣơng cả, hƣơng quản nhƣng
thực chất, họ vẫn là bản chất nông dân quanh năm chân lắm tay bùn. Cũng làm
lụng cực nhọc, vất vả để có miếng ăn. Nhƣ ông hƣơng trƣởng Neo làm ăn quanh
năm không hở tay, ông thì đốn củi trong rừng, bà thì nuôi heo nọc để gầy giống
trong làng. Hễ đến khi heo đẻ thì bà đƣợc con heo khỏe nhất. Khi khấm khá thì
đóng tiền mua chức hƣơng trƣởng, đƣợc ăn trên ngồi trƣớc trong làng.
“Nhưng có tiền nhiều để làm gì? Trong làng Thạnh Hòa, từ mấy năm qua,
thiên hạ đàm tiếu:
- Vợ chồng Hương trưởng Neo khờ khạo quá. Có tiền mà sống như người
nhà quê, thời “đàng cựu” không chừng ổng bả chưa thấy đèn điện hoặc một chiếc
xe hơi.
Bà Hương trưởng nhiều lần tỉ tê với chồng:
- Bữa nào mình ra chợ… một lần cho thiên hạ biết mặt. Tôi sợ tốn tiền,…”
(Bức tranh con heo đất)
Hình ảnh Hƣơng trƣởng Neo chính là một phần nào đó trong làng vốn
dĩ ít dân, toàn ngƣời nghèo, ngƣời lang thang tứ xứ nên có chuyện họ thƣờng
bị những kẻ khác hà hiếp mà không dám có bất cứ một sự phản kháng nào,
hay đứng ra bênh vực quyền lợi cho ngƣời nông dân, những ngƣời đồng cảnh
89
ngộ nhƣ họ (trong các truyện Anh hùng rơm, Cậu Bảy Tiểu, Chiếc ghe ngo,
Chuyện năm xưa,…)
Tất nhiên trong những kẻ chức việc đó, vẫn có những kẻ dựa hơi Tây,
khôn ranh mà chèn ép đồng bào mình, đem lại cái hại nhiều hơn cái lợi nhƣ
Cậu bảy Tiểu vốn dĩ là một đảng cƣớp ô hợp mà thành một lực lƣợng xƣng
hùng xƣng bá, làm mƣa làm gió trong làng, mất cả tình làng nghĩa xóm, mất
cả nhân tính, đối lập hẳn với những nhân vật đƣợc nói đến ở trên.
“Cậu Bảy Tiểu quát to:
- Hay lắm. Đi bắt thằng Lê Hữu Vĩnh. Nó là thầy nghề võ của tôi.
Tôi phải đền ơn nó!
Rồi cậu ta day lại nói với một ông hương chức hội tề:
- Nè, ông hương thân ơi! Coi chừng cậu này nghe không! Lát nữa ôi
giải quyết sau. Nếu cậu Ba này chạy trốn thì tôi tru di tam tộc… tất cả các
ông hương chức hội tề…”
Cái bản chất lưu manh côn đồ của hắn quả thật như diều gặp gió,
như rồng thêm cánh khi gặp chế độ vô nhân tính của thục dân. Qua cách kể
của Sơn Nam như là “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” mà ông bà ta thường lắc
đầu, chắc lưỡi vậy”
Ngƣời nông dân U Minh trong cách nhìn và cách kể của Sơn Nam,
quả thật mang lại cho ngƣời đọc, ngƣời nghe đi từ bất ngờ này tới bất ngờ
khác. Ngay cả với ngƣời sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này chắc cũng khó
lòng tƣởng tƣợng ra nổi về cái tài năng kì lạ mà họ có. Mảnh đất đầy huyền
bí, âm u vốn đã có rất nhiều chuyện lạ kì.
-Hôm qua tôi nghe đồn ở xóm Đình, thiên hạ trổ tài ăn nhiều. Anh
nọ ăn một hơi hai mươi kí lô bún nước lèo. Ngộ quá.
…
- Dạ tui đâu thưa thiên hạ! Tui dám ăn trọn một con vịt mập sau khi
nhổ lông, ăn luôn xương và bộ đồ lòng.
…
90
Tư Hít nói như một nhát kiếm chặt xuống sợi tơ mành.
- Nhưng tôi lột vỏ trái dừa khô ở dưới nước, tôi nín thở lặn xuống
đáy sông, lột xong rồi mới trồi lên (Bà đầm Phô Xi Đông)
Nếu hành động lột dừa bằng tay bằng miệng dƣới nƣớc có thể đƣợc
coi là do kĩ năng, kĩ xảo đƣợc rèn luyện đến mức cao độ trong quá trình lao
động hàng ngày của ngƣời nông dân khiến ngƣời ta nể phục thì việc ăn
nguyên con vịt sống với cả xƣơng và bộ đồ lòng thì cứ giống nhƣ Võ Tòng
của thời xƣa vậy. Nhƣng Hương rừng Cà Mau đâu chỉ có ngƣời ăn một lƣợt
hai mƣơi kí lô bún nƣớc lèo hay cả con vịt mà còn nhiều “biệt tài khác”:
Đây là Hai Đẹt, người từng nhậu ba lít rượu đế với ba yến khô cá
sặc rằn.
Đó là Bảy Vĩnh, người hồi tháng trước ăn một lượt ba kí lô mỡ heo
luộc chín, chấm với muối ớt. Sau khi ăn xong, anh ta còn đòi uống thêm bốn
gáo nước lạnh.
Còn lại Tư Cần, đối thủ lợi hại của Bảy Vĩnh. Chính Tư Cần đã ăn
bốn chục viên bánh xôi nước và một con vịt luộc. Bảy Vĩnh đáp lại, sẵn sàng
ăn tám kí lô sầu riêng. Thứ trái cây này khó kiếm ở rừng Cà Mau, phải gửi
tàu đò ra chợ Rạch Giá mua về. (Chuyện rừng tràm)
Đúng là những chuyện chỉ có ở U Minh này, khi nghe qua có thể
nhiều ngƣời cho rằng đó là hiện tƣợng nói quá, những câu chuyện bông đùa
trong lúc trà dƣ, tửu hậu nhằm mua vui cho mọi ngƣời, nhƣng theo chúng tôi,
đó là những câu chuyện rất dễ xảy ra. Dễ lắm chứ khi con ngƣời ta dấn thân
vào xứ hoang vu, âm u, nhiều sản vật nhƣng đồng thời cũng có biết bao nhiêu
nguy hiểm đang rình rập thì cái ngƣời ta mang theo nhất định phải là lòng
dũng cảm, là sự phi thƣờng tiềm tàng trong mỗi con ngƣời để chống chọi với
những khắc nghiệt đó.
Nhƣng ngƣời nông dân ở đây đâu chỉ có những tài phiếm dùng để
mua vui nhƣ vậy. Họ còn có những tài phục vụ cho cuộc sống của chính mình
nhƣ có thể dùng tay không hoặc dụng cụ thô sơ để có thể hạ đƣợc hổ, bắt
91
đƣợc cá sấu, lợn rừng bảo vệ bình yên cho cuộc sống của mình và của mọi
ngƣời. Tại sao họ làm đƣợc những việc thần kì ấy? Đó là nhờ kinh nghiệm.
Chính kinh nghiệm làm cho con ngƣời ta chủ động hơn, to lớn hơn trong thế
đứng trƣớc thiên nhiên. Kho ngôn ngữ của Sơn Nam trong Hương rừng Cà
Mau cũng chính là một kho tri thức dân gian mà cha ông ta đã tích lũy trong
một thời gian dài, đã trả giá, đánh đổi bằng cả xƣơng máu và tính mạng của
mình. Đây là kinh nghiệm làm nhà để làm sao vừa an toàn, vừa có thể làm ăn
đƣợc giữa rừng già U Minh đầy cọp dữ:
Mình ngu dại gì vô rừng già cất nhà ở. Cứ lựa mấy vàm rạch nhỏ, chèo
ghe vô tuốt trong ngọn cùng mà cất chòi làm như vậy có hai điều lợi. Một là trong
mấy ngọn rạch không có rừng già. Rừng chỉ ăn dài theo mé sông cái, bề sâu vô
chừng hai ba ngàn thước… Phía trong toàn lá sậy, đế, cây nếp, rừng chồi. Mình
có thể phá gấp sậy đước đó để làm ruộng trước, có lúa gạo mà ăn liền. Điều lợi
thứ hai là ở xa cọp. Lúc mới xuống làm ăn, mình cần sự yên ổn. Hơi đâu mà lo
chuyện đánh cọp trong khi mình không rành võ nghệ (Hết thời oanh liệt)
Còn đây là kinh nghiệm câu cá của một ông già mù mà mọi ngƣời
đều nể phục gọi là “sƣ tổ giăng câu”:
Phải có kinh nghiệm mới đỡ cực nhọc. “Con cá trương vi quạt đuôi
ra biển Bắc còn mong gì con cá ấy trở lại chốn ao nhà”. Câu vọng cổ đó sai.
Cá có hang ở sông cái. Mùa nưa cá tìm đường lên ruộng, vào rừng mà đẻ.
Bắt đầu mùa hạn, cá bỏ ruộng, bờ rừng trở về hang cũ ở sông. Sự khôn ngoan
của con người là chặn tuyến về của cá. Chặn cho đúng nơi đúng lúc.
Vào đầu mùa, cá Hường ăn mỗi khi nước lớn. Giữa mùa, cá ăn lúc
chạng vạng, lúc trăng sửa soạn mọc. Hừng sáng, chừng mây đâm ngang, cá
trở lại ăn lần chót.
Khó nhứt là chọn nơi để giăng câu. Cá sợ ngọn nước ngoài biển đổ
tràn vào sông. Gặp nước mặn, cá hết nhớt ngoài da, con mắt xốn xang nhưng
nơi nước quá ngọt lại ít có cá vì cá chưa đi tới. Cá tập trung tại lằn ranh
nước lờ lợ và nước ngọt.
92
Tại lằn ranh đó, nên biết chọn từng điểm nhỏ. Rạch nào lắm ghe
xuồng đi lại cá ở sát bờ. Rạch nào im lặng, cá lội ngay giữa dòng. Trước khi
giăng cá trê phải quậy cho nước đục. Mỗi chỗ cá chỉ ăn một lần. Vì nó lưu
động nên mình khéo dời chỗ.
Gió bấc thổi ròng rã, cá lần về sông cái. Nếu bỗng nhiên trời trở
nực chuyển mưa, cá lui trở lại rừng và không ăn mồi. Những ngày ấy đi giăng
câu cũng hoài công. (Ngƣời mù giăng câu)
Quả thật với một lƣợng kiến thức nhƣ thế không phải ai cũng có đủ
thời gian cũng nhƣ sự tinh tế để cảm nhận. Chính cái kinh nghiệm lâu năm
cộng thêm khả năng thiên phú mà ông trời đã bù đắp cho, khi đã lấy đi đôi
mắt của ông, làm ông trở thành ngƣời câu cá giỏi nhất miệt U Minh, Cà Mau.
Nếu nói về những kinh nghiệm của ngƣời U Minh trong công việc
khẩn hoang phát triển thì chúng tôi thiết nghĩ phải có hẳn một công trình
nghiên cứu riêng biệt mới có thể nói hết, liệt kê hết, kể hết, bởi vì cuộc sống
mới thì cái gì con ngƣời ta cũng cần phải học hỏi, phải chiêm nghiệm ăn ong
trong những cánh rừng tràm bạt ngàn, kinh nghiệm bắt cọp, đuổi cọp, bắt
chim, và đặc biệt là kinh nghiệm bắt sấu bằng tay không.
Từ những kinh nghiệm trên, con ngƣời U Minh thể hiện sự thông minh,
tháo vát, thích nghi với những điều kiện thực tại (thậm chí đôi lúc hơi khôn
lanh). Đƣơng nhiên chúng ta thấy rằng có những lúc họ vận dụng rất chính
đáng nhƣng cũng có lúc họ vận dụng vào những việc không hợp lẽ cho lắm.
Nhƣ chàng trai trong Yêu cho được, tìm đủ mọi cách để đƣợc gần ngƣời yêu
mà không bị cha cô ta ngăn cấm. Hay nhƣ cách ngƣời dân sáng tạo ra cách nấu
xà bông từ than cây mắm, cây đƣớc mà không cần những hóa chất hay khoa
học kĩ thuật của ngƣời phƣơng Tây, khiến cho cả ông dƣợng hai, Bác Vật cũng
phải ngỡ ngàng. Họ cũng bắt chƣớc nấu xà bông từ than, từ nƣớc nhƣng do độ
mặn không đều nhau nên chỉ có lớp mặt thì cứng còn lớp dƣới thì hoàn toàn
nƣớc. Một ngƣời trong nhóm đòi đi ăn cắp ống thủy của dƣợng Hai nhƣng lại
sợ bị ở tù. Họ nảy ra sáng kiến là lấy một ít nƣớc tro đƣợc coi là chuẩn sau khi
93
dƣợng hai đã cân xong. Sau đó về lấy chai dầu gió, bỏ dằn vào đó một hộp chì
rồi đậy nút lại để chai nọ không nằm ngang khi nổi trên mặt nƣớc. Hễ chai
chìm đến mức nào thì ghi vào hông chai và đem đo nƣớc tro. Vậy là họ có
đƣợc dụng cụ đo nƣớc tro hữu hiệu và chế tạo đƣợc xà bông.
Ngoài ra, ngƣời nông dân còn vận dụng sự nhanh trí, thông minh
của mình để làm nhiều việc nhƣ làm cho da một con rắn ri voi từ một tấc
thành ba tấc để đƣợc nhiều tiền bằng cách bơm nƣớc vào trong rắn, hay làm
kiểu sân khấu dã chiến ba gian hai chái vừa để dùng làm sân khấu, vừa để đào
kép ăn cơm, chung quanh sân khấu nọ, xốc cừ làm vòng thành, gốc cừ này
khít gốc kia chừng một gang tay. Ai muốn coi cứ việc bơi xuồng vô vòng rào
nọ. Xong xuôi đóng cửa lại. Cọp phải bơ vơ ngồi trên rạch, sấu thì đành
ngóng mỏ ngoài vòng. Trong vòng mình ngồi sáng đêm ăn thua.
Vậy ta có thể hỏi rằng, ngƣời nông dân ở đâu trong cuộc kháng
chiến thần thánh chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Do chƣa có đảng, hay nói
chính xác hơn là Đảng Cộng sản chƣa xuyên qua đƣợc những con sông lớn
hay rừng tràm U Minh nên ngƣời nông dân ở đây có nhiều thái độ khác nhau
khi đứng trƣớc kẻ thù. Tinh thần chung là không hợp tác, không làm tay sai
cho giặc để chịu tiếng nhơ muôn đời là bán nƣớc, là Việt gian nhƣ cách mà
ngƣời ta vẫn thƣờng nói. Vậy họ làm gì? Phần lớn là phản kháng. Cách phản
kháng đơn sơ, ấu trĩ là cùng nhau ở trần truồng trên bãi biển để cho chính
quyền phải hoảng sợ, phải mắc cỡ mà may quần áo cho họ.
Vụ này tôi nghe nhiều lần phong phanh. Tôi hồ nghi đó là mưu đồ
của một số người nào đó ở gần chợ Rạch Giá. Vì thiếu quần áo - nên nhớ
năm đó là khổ lắm - họ liều thân làm xấu để xin quần áo nhà nước. Nhà nước
lo sợ: họ đã thành công. Dễ gì đi làm mướn một buổi sáng mà sắm được bộ
quần áo, hồi năm quần áo bao bố đó! (Ông già xay lúa)
Nếu xét về tính chất thì rõ ràng thì đây là hành động tự phát, hết sức
ấu trĩ mang hơi hƣớng quyền lợi cá nhân hơn là tƣ tƣởng chính trị nhƣng đây
chính là mầm mống rất quan trọng cho sự nhận thức sau này khi Đảng tìm
94
đến họ. Chắc chắn là họ sẽ tiếp nhận niềm tin và lí tƣởng mà Đảng sẽ mang
tới. Chính ngƣời thành lập các đảng phái họ không có đƣờng lối rõ ràng, sách
lƣợc cụ thể nhƣng lại có ý tƣởng có mục đích là “chặt đầu Tây” nhƣ Tƣ Hiền
lùng Đảng Cánh buồm đen hay Đơn Hùng nói trong “Đơn Hùng Tín chào
đời”: Gọi là chức vị chặt đầu Tây. Con nghe chưa? Con nghe chưa? Xưa kia
đức Nguyễn Trung Trực phá Kiên Giang. Lúc sa cơ, Người không mảy may
tử. Trước Pháp tướng giặc khuyến dụ trăn điều, húa hẹn cho... ôi thôi bao
nhiêu là vàng bạc chức vị! Người cả cười, chỉ xin lãnh thọ một chức vị: chức
nào mà Người có quyền chặt đầu tất cả bọn Tây.
Giọng đạo sĩ như nghẹn ngào:
- Hỡi ơi! Dũng tướng đã rơi đầu mà lời vàng ngọc nọ mãi rền vang.
Trong lòng người, khắp non cao biển rộng... chặt đầu Tây, chặt đầu Tây!
(Đảng Cánh buồm đen)
Từ đó Tƣ Hiền nghe lời thầy thành lập Đảng để trƣợng nghĩa, để giúp
ngƣời sức yếu thế cô nhƣ bấy lâu nay ngƣời trƣợng phu trƣợng nghĩa vẫn
quen làm, ở mức độ nhận thức cao hơn, ngƣời ta thành lập những đội thanh
niên cứu quốc nhƣng đội quân này cũng ô hợp, dễ tan rã do không có sự lãnh
đạo đúng đắn cũng nhƣ tổ chức chặt chẽ - khi gặp Pháp tấn công thì bọn này
cũng bỏ chạy, cũng đi sơ tán nhƣ bao nhiêu ngƣời nông dân khác ở miệt U
Minh vậy thôi.
Thành phần thứ hai của ngƣời nông dân yêu nƣớc là những ngƣời cam
chịu chứ không hợp tác hay phản kháng lại thực dân Pháp. Âu đó cũng đúng
là nét tính cách xƣa nay của ngƣời Việt quen sống với cuộc sống yên bình.
Yên bình đấy nhƣng thật ra họ cũng có nhiều day dứt, nhiều suy nghĩ trong
tận sâu thẳm lòng mình. Nhƣ lục cụ Tăng Liên trong Chiếc ghe ngo chẳng
hạn, cụ đã phân vân rất lâu khi chính quyền bắt phải đem chiếc ghe thiêng
liêng của ngƣời Khmer tham dự một giải đấu mừng ngày lễ 14/7 – ngày quốc
khánh nƣớc Pháp.
95
Lục cụ Tăng Liên nghiêm mặt lại đem ghe ngo của nhà chùa để ăn
mừng một ngày lễ chẳng liên quan gì đến dân mình nghĩ cũng khó xử thật
không tham dự là chống lại nhà nước Lang Sa, còn tham dự thì mất cả ý
nghĩa thiêng liêng.
Và khi biết phần thưởng hạng nhất cho đội chiến thắng là một lá cờ
tam sắc to tướng của nhà nước Pháp thì Lục cụ không nói nửa tiếng, nuốt
nước miếng như cố nén chút gì tủi nhục xót xa. Hồi lâu cụ lắc đầu, cười xòa
rồi đỡ chú hương quản đứng dậy. (Chiếc ghe ngo)
Lại lặng im, cái cƣời xót xa của cụ là tiếng thở dài của dân tộc trong
thời buổi đất nƣớc không còn là đất nƣớc của mình, mảnh đất của cha ông
không còn dành riêng cho con cháu. Đau lắm chứ!
Ngoài ra, ngƣời nông dân trong Hương rừng Cà Mau còn nhiều điểm
nổi bật khác nhƣng trong khuôn khổ giới hạn của một đề tài chúng tôi không
tìm hiểu hết, hi vọng sẽ có dịp quay trở lại trong một chuyên đề khác.
3.2.3. Thể hiện phong tục Nam Bộ
Tác phẩm Hương rừng Cà Mau thành công ở chỗ nó phần nào dựng lại
đƣợc phong tục, lối sống, suy nghĩ và tình cảm của ngƣời dân miền Nam ở buổi
đầu đi khẩn hoang, mở đất, một giai đoạn đầy gian truân, khổ ải của cha ông ta,
nhƣng cũng rất vinh quang, rất đẹp và dạt dào tình cảm. Câu chuyện về những
ngƣời đi khẩn hoang mở đất gợi lên đƣợc cái tình của ngƣời dân dã, keo sơn, cái
tình quê hƣơng đồng bào khắc khoải. Là truyện thì tất nhiên phải hƣ cấu chút
đỉnh, nhƣng cái cốt lõi là chất sử liệu chân thực mà nhà văn cố gắng thể hiện
trong truyện đã mang lại sức sống lâu dài của tác phẩm. Nhà văn Sơn Nam đã
nói về hoàn cảnh ra đời của tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau: Tôi viết tập
truyện này vào khoảng năm 1954, khi vừa từ chiến khu ra và về Sài Gòn sống.
Lúc đó, tôi ở một căn nhà thuê trên đường Ngô Gia Tự. Tự dưng thấy một thôi
thúc mãnh liệt là phải viết những chuyện về vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên
và trải qua một phần trai trẻ. Viết để người Sài Gòn, người xứ khác hiểu về miền
Tây Nam bộ và viết cũng vì để kiếm tiền sống [33].
96
Văn hóa một dân tộc là sự tổng hợp, sự giao thoa của văn hóa nhiều
vùng miền khác nhau. Nói đến văn hóa Việt Nam không thể không kể đến văn
hóa Nam bộ - văn hóa của một lớp ngƣời tiên phong khẩn hoang mở rộng bờ
cõi về phía Nam, văn hóa của những con ngƣời tồn tại trong thiên nhiên khắc
nghiệt. Nói khác hơn, văn hóa Nam bộ là sự tổng hợp về thái độ sống, cách cƣ
xử của ngƣời miền Nam trƣớc thiên nhiên và trƣớc những quan hệ xã hội
xung quanh. Hàng năm ngƣời dân đều tổ chức lễ hội ở đình làng gọi là lễ Kỳ
Yên cầu cho mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt, là dịp để ngƣời ta hội hè,
đƣa ra những câu thai đố (Ngôi mộ chôn đứng). Nó làm cho mối quan hệ làng
xóm bền chặt hơn, mang tính cộng đồng hơn. Đình làng là nơi thờ cúng thành
hoàng, tức là những bậc tiền hiền có công khai khẩn đất hoang hay giúp đỡ
ngƣời dân trong làng. Những đình làng Nam Bộ không chỉ thờ cúng thành
hoàng mà còn thờ cúng những vị anh hùng dân tộc, hay các vị thần của tự
nhiên. Ông Hƣơng cả Ban ở rạch Cái Cau khẳng khái xác định trƣớc tên quan
tham biện chủ tỉnh rằng đình làng này thờ ông Nguyễn Trung Trực - ngƣời
mà nhà nƣớc Lang Sa xem là kẻ phản loạn (Con ngựa đất). Chứng tỏ trên dải
đất miền Nam, những ngƣời anh hùng chống Tây luôn đƣợc suy tôn trở thành
những ngƣời đáng trọng vọng và đƣợc thờ cúng ở đình làng (Miếu bà chúa
xứ). Chính vì có cách nhìn về xã hội nhƣ thế nên ngƣời Nam bộ rất trọng tình
nghĩa, để mở rộng lòng mình với tất cả mọi ngƣời. Họ yêu thƣơng san sẻ với
tất cả mọi ngƣời lạ, tức là hiếu khách “vì nghĩa tình bà con quen thuộc, sớm
tối có nhau, lúc hoạn nạn vui sƣớng. Ở đời, anh với tôi đây, đều phải giữ nhân
tính… Tứ hải giai huynh đệ là vậy đó” [52, 352]. Hiếu khách, nhƣng nếu vị
khách này không biết lễ, họ sẵn sàng cho kẻ bất lễ kia một bài học ở đời (Đại
chiến với thầy Chà).
Sống chan hòa với tự nhiên, nói nhƣ Tƣ Đức trong truyện Sông Gành
Hào: Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng là gì. Tôi tin trời, tin Phật, thờ cha kính
mẹ, quý mến ông bà già cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông sấu. Đất có
Thổ Công, sông có Hà Bá [52, 801], nên dân Nam Bộ thƣờng trƣớc khi làm
97
công việc gì cũng cúng thánh thần. Đó là một nét văn hóa tâm linh rất đẹp. Sống
“tâm linh” nên ngƣời Nam bộ rất coi trọng chuyện thờ cúng ma chay ngay khi
còn sống. Ngƣời ta thƣờng chuẩn bị cho hậu sự bằng cách xây kim tỉnh để đón
nhận sự ra đi một cách bình thản tự nhiên nhƣ cậu Hai Tân trong truyện Hai mẹ
con. Đó cũng là một cách trả hiếu. Hay trong truyện Cậu Bảy Tiểu cái chết của
ông hƣơng trƣởng Tạc có thể giúp ta thấy đƣợc phong tục cúng kiếng tang ma
của ngƣời miền Nam. Dân chúng tụ họp, chừng vài chục người, giết heo, uống
rượu, đánh trống, đờn cò. “Theo quan niệm chết là đến một thế giới khác nên họ
ít khóc kẻo người chết đau lòng. Đó là một đám tang bình thường. Còn nếu là
đám tang lớn bài bản thì phải như đám tang của ông cai tổng Hanh” (Xóm Cù
Là). Bên cạnh quan tài, một số gia nhân, quết thành bột mịn, đem trộn với cháo
nếp. Họ dùng thứ “xi măng” ấy trét vào đáy quan tài, nơi mấy tấm ván ráp với
nhau. Trong đáy hòm, còn đổ thêm một lớp tòng chỉ (nhựa thông). Hằng trăm
cái kèn đã cuốn sẵn chất đống. Kèn là những gói giấy bên trong chứa gòn. Gòn
là chất rút nước, thứ nước từ xác chết xảy ra khi bị biến chất… [52, 892]. Trong
việc chọn ngày để chôn cất cũng phải xem cho thật kỹ. Bởi vì trong ngày tốt có
giờ xấu, ngày xấu nhưng nếu động quan nhằm giờ tốt thì mọi sự bằng an [52,
893], dƣới quan tài ông cai tổng cũng đốt liên miên nào “vàng bạc, nào bạch
đàn, huỳnh đàn”, còn trƣớc quan tài, đỉnh lƣ trầm tỏa khói, bức ảnh ông cai tổng
đƣợc chƣng trên bàn thờ. Qua làn khói ngƣời ta thấy dƣờng nhƣ bức ảnh biết
cƣời, biết nhăn nhó… mờ mờ nhân ảnh.
Trên đây là cách khám phá những biểu hiện của văn hóa, phong tục
Nam bộ trong Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam,qua đó cũng cho ta thấy
đƣợc cái phong vị độc đáo của vùng đất này. Càng khẳng định thêm giá trị
bền vững lâu dài của tác phẩm.
3.2.4. Thể hiện văn hóa ứng xử
Văn hóa Nam Bộ mà cụ thể là văn hóa miệt U Minh thể hiện trong
Hương rừng Cà Mau hiện ra khá rõ nét với hai thể ứng xử chủ yếu mà ta có
thể cảm nhận đƣợc là thể ứng xử trƣớc tự nhiên và trƣớc xã hội.
98
Với tự nhiên, tất cả chúng ta đều biết rằng tự nhiên là yếu tố quyết
định đến cuộc sống của con ngƣời. Với ngƣời miền Nam thì yếu tố sông nƣớc
quyết định tất cả. Hầu nhƣ trong truyện ngắn nào của Sơn Nam, yếu tố nƣớc
cũng tồn tại. Ta thấy nƣớc giúp ích con ngƣời nhiều thứ trong cuộc sống, và
ngƣời dân cũng nƣơng theo nó mà uyển chuyển cho cuộc sống của chính
mình. Ở Nam Bộ có hệ thống nƣớc ngập mặn, nƣớc ngập phèn chua nhƣng
cũng có thứ nƣớc ngọt đáng giá. Nó hình thành nên những nghề nghiệp,
những dụng cụ, những sản vật và địa danh cách nói liên quan đến nƣớc.
Nƣớc là khởi nguồn của sự sống nhƣng vào mùa bão lũ nó lại trở
thành nỗi kinh hoàng chết ngƣời. Khắp không gian đầy nƣớc làm đảo lộn
cuộc sống của ngƣời nông dân: tìm nơi cao ráo mà ở, trâu bò không có cỏ ăn
phải chết, ngƣời chết thì không có chỗ chôn. Trong Một cuộc biển dâu, thằng
Kim ôm xác cha mà nƣớc mắt tuôn xuống, khóc không ra tiếng đất đâu mà
chôn? Tứ bề là nước. Có hai cách: một là xóc cây tréo ở giũa đồng rồi treo
lên mặt nước, chờ khi nước giựt mới đem chôn lại dưới đất. Như vậy mất
công lắm. Diều quạ hoành hành. Chi bằng bó xác lại rồi dằn cây, dằn đá mà
neo dưới đáy ruộng. Chính trong sự gian khổ gần nhƣ là tận cùng ấy, con
ngƣời mới tìm ra đƣợc những cách ứng phó: nƣớc cao thì cất nhà sàn, không
địa táng đƣợc thì thủy táng... Tuy nhiên, không phải thiên nhiên lúc nào cũng
khắc nghiệt mà còn có những lúc xinh đẹp, dịu dàng nhƣ những bức tranh
trong Cây huê xà, Chuyện rừng tràm. Chính những bức tranh thiên nhiên ấy
đan xen nhƣng khắc nghiệt đã hình thành ở ngƣời nông dân những kinh
nghiệm quý giá. Họ biết gần nhƣ tất cả những qui luật sinh tồn của tự nhiên.
Từ cái cách con ong đi kiếm mồi đến từng con cá, con rắn, con rùa... Hiểu
thiên nhiên, ngƣời Nam bộ mới sinh ra đủ thứ nghề để tồn tại, để tận dụng
hiệu quả những điều đƣợc ban tặng từ đất mẹ rừng già. Từ công việc đầu tiên
là làm ruộng họ tìm đến những nghề khác nhau. Ngƣời U Minh học đƣợc
cách làm ruộng có lẽ từ ngƣời Khmer truyền lại chăng? Cái nghề làm ruộng lò
Bom với giếng lúa Xom Cà Ma độc đáo. Đấy đúng là kiểu nông nghiệp hoàn
99
toàn dựa vào thiên nhiên. Đầu tiên họ dùng phảng chặt đứt rễ cho gốc trôi liều
biều hai tháng nữa, nước giựt xuống, cỏ đã thúi, trở thành loại phân tốt, rải
đầy trên mặt đất. Hai tháng nữa, tức là tháng hai, tháng ba âm lịch, trời nắng
cháy. Vợ chồng Tư Cồ sẽ trở lại đốt cỏ. Rồi gieo lúa giống, loại lúa Xom Cà
Ma từ lúc gieo đến lúc trổ bông là bốn tháng (Ruộng Là Bom). Sau đó, họ bỏ
không cho đến ngày thu hoạch. Cách làm ruộng độc đáo ấy không kém gì với
nghề len trâu có một không hai ở mảnh đất Việt Nam. Cách ngƣời ta lùa hàng
trăm con trâu lội bì bõm giữa biển nƣớc tìm nơi khô ráo để sinh tồn qua mùa
nƣớc lũ cũng thấy đƣợc cái bản lĩnh mạnh mẽ của con ngƣời trƣớc thiên nhiên
vĩ đại. Và đƣơng nhiên văn hóa Nam bộ còn gắn liền với nhiều nghề nghiệp
khác. Từ những nghề nhẹ nhàng nhƣ giăng bắt cá, săn chim, đàn bàng làm
thành những chiếc nóp (mà không ai đan giỏi nhƣ ngƣời Khmer). Đến những
nghề nguy hiểm hơn nhƣ bắt rùa, bắt rắn, bắt cá sấu, bắt cọp... Những cái
nghề mà chuyện sinh nghề tử nghiệp là điều bình thƣờng. Dù có chua xót
nhƣng ngƣời ta vẫn phải chấp nhận, nhƣ chuyện của Năm Điền là một ví dụ.
Ngƣời ta mất bao nhiêu công sức để trị đƣợc rắn, để nó không dám cắn mình
khi lại gần. Nghe lời xúi của cha con Lài tìm mọi cách để lấy thông tin về bài
thuốc từ ngƣời yêu. Nó thuộc lòng rất rõ năm vị: ngải mọi, nƣớc chanh, á
phiện, sừng đinh, cây huê xà mà thầy Hai Rắn thƣờng dùng. Vậy mà con gái
chết, Năm Điền chết gây đỗ vỡ tình yêu, gây sự đau lòng trong thầy Hai Rắn.
Nhƣ vậy có thể nói, với tự nhiên con ngƣời không nhƣ ngƣời phƣơng
Tây là tìm mọi cách để chinh phục, chế ngự mà ngƣợc lại, ngƣời Nam bộ
trong Hương rừng Cà Mau hoàn toàn dựa vào cuộc sống linh động của mình
so với thiên nhiên để tồn tại, giống nhƣ sự uyển chuyển của nƣớc vậy.
Về văn hóa ứng xử trong cộng đồng xã hội, cũng do điều kiện thiên
nhiên qui định nhƣng không hoàn toàn rặc Nam Bộ. Ta có thể thấy rõ ràng
nhất qua niềm đam mê buổi đầu của cƣ dân là thích xem hát bội. Bởi vì sao?
Phần lớn cƣ dân miền Trung khi vào khai phá Nam bộ thì đã ở tuổi trung
niên, lứa tuổi mà văn hóa cá nhân đã định hình một cách rõ nét, khó thay đổi
100
trong một thời gian ngắn nên hình thức xem hát bội cũng là một cách họ nhớ
về công cha, nhớ về quê hƣơng qua những lớp hát, những tuồng xƣa tích cũ
mà mình đã từng biết đến. Thế nên dù xóm Khoen Tà Tưng mới có hai mươi
căn chòi lá” lại gặp những yêu cầu gắt gao nhƣ “phải nuôi cơm toàn ban nam
nữ. Phải cất rạp sẵn cho mấy ổng hát, lại phải hát giữa vùng cọp beo nhưng
họ vẫn nhiệt tình, xông xáo đốn tràm để làm nhà hát, làm nơi ở, làm chiến lũy
phòng chống cọp, cá sấu để rồi đêm đêm ngồi trên xuồng nhái giọng những
Điêu Thuyền, Đổng Trác...
Thế nhƣng, khi ngƣời lớn còn chuộng cái cổ xƣa thì lớp trẻ bắt đầu
sáng tạo nên cái mới: đó là cải lƣơng. Đó là một đóng góp của văn hóa Nam
bộ cho văn hóa dân tộc. Nó khơi nguồn đầu tiên từ bản vọng cổ Dạ cổ hoài
lang và các nhóm đờn ca tài tử. Nó là một đặc sản nghệ thuật vùng sông nƣớc
khi giọng hát ngọt ngào vang lên vừa dài, vừa mềm mại nhƣ là đang bồng
nềnh trên sóng nƣớc. Nhƣ chiếc xuồng ba lá xuôi dòng khi đƣa những con
sóng li ti vỗ vào hai bên bờ sông quê.
Tiếng đờn ca vọng cổ xuất hiện đầu tiên là tiếng đàn tri ân của A Lầu
một ngƣời bạn Hoa và một ngƣời bạn Việt. Đó là tiếng đờn tri âm, tri kỉ khi họ
đều cùng hoàn cảnh khốn khó nhƣ nhau Mình là nghệ sĩ nghèo gặp nhau làm ăn
thất bại, cười hát, đầu đội trời chân đạp đất mà! (Hội ngộ bến Tầm Dƣơng)
Đến ông già xay lúa đến từ hòn Cổ Tron cũng xênh xang nhịp phách
cùng với đám anh em, bạn bè dần lâu ngày ông mãi ở tận phƣơng xa. Chính
những buổi đờn ca tài tử ấy mà những lớp lang, những bản rắn... dần dần đƣợc
phát triển thêm và hình thành một loại hình nghệ thuật định cao: Cải lƣơng.
Hình ảnh cả đoàn cải lƣơng lƣu diễn khắp miền sông nƣớc là một hình ảnh phổ
biến và rất tự nhiên trở thành một nét văn hóa tiêu biểu. Đặc biệt “gánh hát”
nào có nhiều đào kép nổi tiếng thì ngƣời ta lại càng nô nức đi xem. Đêm ấy, tôi
về quê Rạch Giá, vừa bước xuống bến chợt nghe tiếng trống inh ỏi, giọng
quảng cáo phát ra từ máy phát thanh “Đoàn Hoa Cúc tối nay hân hạnh ra mắt
101
khán giả một điệu tuồng... Rạp ở gần bến xe, tuy còn sớm nhưng khán giả quen
đã chen chúc vào xin chương trình mua vé (Ngƣời tình cô đào hát)
Ngoài cải lƣơng, cuộc sống của ngƣời dân Nam bộ không bao giờ
vắng lời ca, tiếng hát: hát trên đồng ruộng, hát trong những buổi trà dƣ tửu
hậu, hát trên sông rạch để quên đi cái mệt nhọc của công việc (Con Bảy đƣa
đò). Ngoài ra, ngƣời Nam Bộ còn có một cách hát khác rất đặc trƣng là nói
nhƣ Vân Tiên. Đây là một hình thức diễn xƣớng dân gian bày tỏ tâm tƣ tình
cảm của mình trƣớc thời cuộc, trƣớc nhân tình thế thái. Với câu thơ mở đầu
bất hữu Trước đèn xem truyện Tây Minh. Nó ngoài việc diễn tả nhƣ trên còn
là một cách để truyền hào khí lại cho con cháu mai sau. Nhƣ ông Tử Đạt
trong Miếu bà chúa xứ: Mình ở đây nghèo nhưng mà vui. Nhiều đêm tôi nằm
nói thơ Vân Tiên một mình mà không thấy buồn. Tôi đứng nhìn trời đất đồng
ruộng ở ngoài. Tối thui vậy mà vui quá”. Còn ông già mù ở Rộc Lá, nơi đất
thập đầy những rau muống, cóc, kẽn, ô rô và cá được dân trong xóm gọi là
ông Vân Tiên, đêm đêm ngồi trước mũi thuyền giăng câu và ngâm nga thơ cụ
Đồ Chiểu! (Ngƣời mù giăng câu)
Trong Hương rừng Cà Mau, một kiểu sinh hoạt tinh thần phong phú nữa
là ra thai đố. Mƣợn ca dao, hò vè làm câu hát đố, gợi ý trả lời khái quát nhất. Thi
thai đố thƣờng diễn ra ở đồng miếu, hội hè nơi đông ngƣời dự. Ngƣời đáp phải
giải nghĩa câu trả lời của mình tƣơng ứng với tục ngữ trong câu thai.
Năm ngoái, hội Kì Yên ở đình làng có người đáp được câu thai như
vậy: Ví dầu tình bậu muốn thôi. Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Xuất dụng
đó là. Đó là... cây pháo, pháo đốt thì nổ lớn, đó là gieo tiếng dữ. Pháo tan xác
luôn, khói bay mù mịt. Đó là... cho rồi bậu ra (Tình bậu muốn thôi)
Khi giải đƣợc câu thai đố, ngƣời cầm trịch đánh một tiếng “beng”
thế là ngƣời giải đố cũng hãnh diện với mọi ngƣời về sự thông minh
(Ngôi mộ chôn đứng)
Trƣớc thiên nhiên khắc nghiệt, ngƣời nông dân Nam Bộ dù có những
tay giang hồ hảo hớn hay những lƣu dân hiền lành tìm miền đất mới để sinh
102
cơ lập nghiệp thì dễ yêu thƣơng đoàn kết với nhau. Đó là cách sống hòa hợp
trong nghĩa tình nƣơng tựa giữa ba dân tộc Kinh –Hoa – Khmer. Chẳng hạn ở
Xóm Cù Là, sau khi ông cai tổng Hanh mất thì mọi ngƣời đến, mỗi kẻ mỗi
việc lo cho đám tang đƣợc chu toàn, hay sự đồng cảm giữa ba con ngƣời
nghèo khổ trong Hội ngộ bến Tầm Dương.
Sông nƣớc qui định cuộc sống của ngƣời Nam bộ nên nơi giao
thƣơng mua bán của vùng nông khác những nơi khác: đó là chợ nổi. Từ hình
thức manh nha đầu tiên trong truyện Con heo đất khi ông bà Hƣơng Trƣởng
Neo xuống tàu đã thấy dƣới đó bán đậu phộng, bán thức ăn. Cụ thể hơn qua
truyện Thằng điếm vô danh:
Để cung cấp nhu cầu ghe xuồng qua lại, nhiều người bày ra hình
thức mua bán lưu động, bán chè cháo, bán bánh canh, giao hàng tận ghe
xuồng hoặc nhà của thân chủ. Tiệm tạp hóa cũng được tổ chức theo chiến
thuật lưu động gọi là ghe “trà vải”. Dưới ghe ngoài hai món trà tàu và vải bô
còn đủ thứ đường, đậu, tương chao, kim chỉ, đèn cầy, hộp quẹt, củ hành, đậu
phộng, kẹo, bánh in. Ai muốn mua thì cứ gọi to. Ghe trà vải liền cặp bến để
phục vụ tận tình và khi tạm biệt, chèo trên sông nước, chủ ghe trà vải lại rao
hàng một hồi tù nghe não ruột.
Hiện nay, ở các ngã năm, ngã bảy sông lớn, ngƣời ta vẫn họp chợ
nổi trên sông hoặc bán mặt hàng gì chỉ cần treo lên một cây sào là ngƣời ta
đều biết. Đó quả là một nét văn hóa đặc biệt của mảnh đất phƣơng Nam.
Hàng năm ngƣời dân đều tổ chức lễ hội ở Đình làng gọi là lễ Kì Yên
cầu cho mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt, là dịp để ngƣời ta hội hè, đƣa
ra những câu thai đố (Ngôi mộ chôn đứng). Nó làm cho mối quan hệ làng
xóm bền chặt hơn, mang tính cộng đồng hơn, mang tính cộng đồng hơn. Đình
làng là nơi thờ cúng thành hoàng, tức là những bậc tiền hiền có công khai
khẩn đất hoang hay giúp đỡ ngƣời dân trong làng.
Những đình làng Nam Bộ không chỉ thờ cúng thành hoàng mà còn
thờ cúng những vị anh hùng dân tộc hay các vị thần của tự nhiên. Ông hƣơng
103
cả Ban ở rạch Cái Cau khẳng khái xác định trƣớc tên quan tham biện chủ tỉnh
rằng đình làng này thờ ông Nguyễn TrungTrực – ngƣời mà nhà nƣớc Lang Sa
xem là kẻ phản loạn (Con ngựa đất). Chứng tỏ trên dãy đất miền Nam, những
ngƣời anh hùng chống phƣơng Tây luôn đƣợc suy tôn trở thành những ngƣời
đáng trọng vọng thờ cúng ở đình làng.
Chính cách nhìn về xã hội nhƣ thế nên ngƣời Nam Bộ rất trọng tình
nghĩa, để mở rộng lòng mình với tất cả lòng mình với tất cả mọi ngƣời. Họ
yêu thƣơng san sẻ với mọi ngƣời, kể cả ngƣời lạ, tức là hiếu khách Vì nghĩa
tình bà con quen thuộc, sớm tối có nhau lúc hoạn nạn cũng như vui sướng. Ở
đời, anh với tôi đây đều phải giữ nhân tính – Tứ hải giai huynh đệ là vậy đó.
Hiếu khách, nhƣng nếu vị khách này không biết lễ, họ sẵn sàng cho kẻ bất lễ
kia một bài học ở đời (Đại chiến với thầy Chà)
Sống chan hòa với tự nhiên, nói nhƣ Tƣ Đức trong truyện Sông
Gành Hào: Tôi chưa hiểu tiếng tín ngưỡng là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ
kính cha mẹ, quí mến ông bà già cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông
sấu. Đất có thổ công, sông có Hà Bá nên dân Nam Bộ thƣờng trƣớc khi làm
công việc gì cũng cúng thánh thần, đó là một nét văn hóa tâm linh.
Sống tâm linh nên ngƣời Nam Bộ rất quan trọng chuyện thờ cúng
ma chay ngay khi còn sống, ngƣời ta đã chuẩn bị sẵn cho hậu sự sau này bằng
cách xây kim tỉnh – đón nhận sự ra đi một cách bình thản, tự nhiên nhƣ cậu
Hai Tân trong truyện Hai mẹ con. Đó cũng là một cách trả hiếu. Hay nhƣ
trong truyện Cậu Bảy Tiểu, cái chết của ông hƣơng trƣởng Tạc có thể giúp ta
thấy đƣợc phong tục cúng kiến, tang ma của ngƣời miền Nam. Dân chúng tụ
họp, chừng vài chục người, giết heo, uống rượu, đánh trống, đờn cò”. “Theo
quan niệm chết là đến một thế giới khác nên họ ít khóc kẻo người chết đau
lòng. Đó là một đám tang bình thường. Còn nếu là đám tang lớn bài bản thì
phải như đáng tang của ông cai tổng Hanh (Xóm Cù Là)
Tìm hiểu về vùng đất và con ngƣời Nam bộ trong Hương rừng Cà
Mau chúng ta không thể bỏ qua việc đi sâu khám phá con ngƣời và thiên
104
nhiên nơi đây mà còn phải biết cách dẫn dắt ngƣời đọc trở về với văn hóa của
một thời khẩn hoang ở mảnh đất U Minh này. Ông già Nam Bộ của chúng ta
với giọng kể ngọt ngào, tâm tình, tha thiết nhƣ mời gọi con ngƣời đến mảnh
đất Cà Mau để rồi cùng đồng cảm chia sẻ, với những con ngƣời nơi đây. Họ
chân chất dễ gần gũi bởi họ mang trong mình một thứ ngôn ngữ đặc sệt Nam
bộ cũng góp phần tạo nên phong cách của nhà văn. Với tƣ cách là một nhà
văn, Sơn Nam còn đƣợc biết đến với tƣ cách một nhà khảo cứu uyên bác,
không có gì lạ khi ta thấy Hương rừng Cà Mau đầy ấp những thông tin về
phong tục, văn hóa miền Tây Nam Bộ. Tất nhiên, Sơn Nam không chỉ làm cái
việc kể về văn hóa, phong tục một cách bàng quan. Đằng sau mỗi trang viết,
ta luôn đọc thấy một tấm lòng thiết tha với cội nguồn dân tộc.
3.3. Tiểu kết
Trong giao tiếp hàng ngày, các đơn vị từ ngữ địa phƣơng đƣợc ngƣời
Nam Bộ sử dụng tự nhiên và thƣờng xuyên. Còn khi giao tiếp với ngƣời các vùng
khác, ngƣời Nam Bộ cũng có thể vẫn dùng những từ ngữ địa phƣơng, không phải
là do ngƣời nói không nắm hiểu và uốn nắn đƣợc theo cách phát âm chuẩn mực
chung, mà là do nhu cầu muốn qua đó thể hiện tình cảm hoặc tâm lí địa phƣơng.
Còn trong tác phẩm văn học, thực hiện chức năng biểu hiện, từ ngữ địa phƣơng
đƣợc sử dụng là để phục vụ cho việc mô tả, thể hiện những tính cách và hoàn
cảnh điển hình trên khu vực địa phƣơng. Viết Hương rừng Cà Mau, Sơn Nam đã
sử dụng các lớp từ mang màu sắc địa phƣơng Nam Bộ nhƣ dùng danh từ riêng, từ
xƣng hô, từ chỉ sông nƣớc và từ khẩu ngữ để miêu tả cảnh vật thiên nhiên, cuộc
sống và con ngƣời Nam Bộ hết sức sinh động. Đọc Hƣơng rừng Cà Mau và các
tác phẩm khác của Sơn Nam, chúng ta cảm nhận chất Nam Bộ đậm đặc cả trong
nội dung và hình thức thể hiện của tác phẩm.
105
KẾT LUẬN
1. Nam Bộ là một vùng đất có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi, thiên
nhiên ƣu đãi, có bề dày lịch sử với những giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần
vô cùng phong phú, tạo nên một bản sắc riêng so với các vùng khác. Từ lâu,
đất và ngƣời Nam Bộ là một nguồn đề tài phong phú hấp dẫn. Tuy có nhiều
nhà văn ở các miền khác nhau của đất nƣớc khai thác đề tài này, nhƣng sự
đóng góp nổi bật vẫn thuộc về các nhà văn của đất Nam Bộ. Yếu tố sông
nƣớc đã in dấu rất đậm trong tác phẩm của họ. Tác phẩm Hương rừng Cà
Mau của Sơn Nam mang đậm tính phong tục, thể hiện đƣợc những đặc thù
trong cách ứng xử, lối sống, cách nghĩ và tình cảm của ngƣời dân miền Nam
ở buổi đầu đi khẩn hoang, mở đất. Môi trƣờng sống đƣợc phản ánh trong tác
phẩm hết sức đặc thù của Nam Bộ gây đƣợc sự ngạc nhiên thích thú cao độ
cho độc giả cả nƣớc.
2. Ngôn ngữ Nam Bộ thể hiện trong các truyện ngắn của Sơn Nam là
thứ ngôn ngữ vừa gần gũi vừa xa lạ bởi tính ý nhị tinh tế. Từ các cách nói đó,
phong cách Nam Bộ, thiên nhiên Nam Bộ, con ngƣời, văn hóa Nam Bộ hiện
ra rất rõ với nét phóng khoáng, nhân hậu nghĩa tình, cái tình của những con
ngƣời cùng cảnh ngộ trong việc khai khẩn vùng đất mới với nhiều khó khăn
gian khổ chống chọi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Các lớp từ ấy đã thể
hiện tính bình dân, uyển chuyển, tinh tế pha chút hóm hỉnh, ngang tàng rất
đặc trƣng của con ngƣời Nam Bộ.
Truyện ngắn của Sơn Nam sử dụng ngôn ngữ thuần chất Nam Bộ, cả
trong ngôn ngữ dẫn truyện đến ngôn ngữ nhân vật. Số lƣợng từ ngữ Nam Bộ
đƣợc dùng trong tác phẩm khá lớn. Đặc điểm này góp phần tạo nên một văn
phong rất Nam Bộ ở Sơn Nam mà thật sự ông đã là một nhà văn Nam Bộ rặt.
Từ đó, giá trị của tác phẩm đã đƣợc khẳng định và góp phần tạo thƣơng hiệu
tốt cho văn chƣơng Nam Bộ trên văn đàn Việt Nam đƣơng đại.
P1
Bảng 1: Thống kê danh từ riêng chỉ người
Truyện Cách gọi tên nhân vật
Chức + Tên Thứ + Tên
Tên + đặc điểm cá nhân
Anh hùng rơm Ăn to xài lớn
Tư Hạnh Tám Thẹo Bảy Út
Bà đầm Phô-xi-đông
Bà vợ thứ 10 Bác vật xà bông Tư Hít Hai Kéo Hai Tước
Bắt sấu rừng U Minh Hạ Tên Lén. Thầy giáo Trích Thằng Tây già Ông già Hiệt Ông Tây Đầu Đỏ Tây kiểm lâm Bác Vật X (ông Bác Vật)
Bốn cái ngu
Bức tranh con heo Năm Hên Tư Hoạch Tư Hưng Hai Kiểm
Cái tổ ong Cái va li bí mật Ba Lê Hai Khoánh Ông chủ Tân Hương trưởng Neo
Cao khỉ U Minh
Cậu Bảy Tiểu
Hai Khị Tư Hoành Bảy Tiểu Sáu Cường
Cây Huê Xà Hương trưởng Tạc Huyện hàm M. Ông quan tư Ca-rê. Hương than Túc
Tư Rắn Năm Điền Tư Hem Chiếc ghe “ngo” Ông Đốc phủ
Chuyện năm xưa Chuyện rừng tràm Lục cụ Tăng Liên Tú tài Sông
Tư Hưng Hai Đẹt Bảy Vĩnh Tư Cần
P2
Con Bảy đưa đò
Con heo khịt Cụ Sử Hoành. Cụ Tòng Hiên
Con ngựa đất Con rắn Con rắn ri Voi Con sấu cuối cùng Con trích ré Cô út về rừng Đại chiến với thầy chà Đảng “Cánh buồm đen” Cai tổng Hy Cai tổng Báu Ông hương Cả Ba Thầy Ngọc Cò Lơ Hia Cậu Quỳnh Thầy Chà
Đảng xăm mình Hai Cháy Năm Tự Mười Hy Sáu Kiến Năm Hên Năm Pho Sáu Bộ Tư Hiền Năm Bùn Năm Lập Tư liệt
Đóng gông ông thầy Quít Đồng thanh tương ứng Hương ấp Thum Ông Tây Lơ Pheo Trạng Trình Thầy Quít
Đơn Hùng Tín chào đời Giấc mơ ngoài bãi tha ma Hai con cá Quan Chánh soái Năm Kiểu
Hai mẹ con Hai ông già Hộ bộ Hoàng Văn Ninh Hoàng tử Cảnh Hoàng tử Nhựt Bà chủ Mẹo
Hai Tân Mười Bạch Tư Nếp
Hai viên ngọc Năm Hến
Hương quản Cò Thầy giáo Chích Hương cả An Quan hai Phẹt năng Hội đồng Tần Hương tuần Hay
Hai Lượng Hết thời oanh liệt Hòn Cổ Tron Hội ngộ bến Tầm Dương Hồn người trong ly rượu Ông xã Tư Hương Ông chủ Hai Thầy bùa Xiêm Chệt Kỵ
P3
Hương rừng Kho vàng Kiểm Lưu
Miễu bà Chúa Xứ Mối tình Đầm Lai Một cuộc biển dâu Một kiểu anh hùng Tư Lập Năm Tự Tư Hí Lục Che Tư Đạt Hai Tâm Hai Tích
Mùa “len” trâu Ngày mưa đầu mùa Hội Đồng Hai Cai Tổng Ba
Ngôi mộ chon đứng Tư Đinh Tư Lịch Hai Cọp
Hương cả Ban Hội đồng Tân
Người bạn triệu phú Người mù giăng câu Người tình của cô đào hát Nhứt phá sơn lâm
Chín Tiễn Tư Bình Thủy
Ông Bang Cà Ròn Ông già xay lúa Tư Én Hai Cờ Đỏ Tư Chân Xương
Ruộng là bom Cậu xã Nê Chánh Soái
Sông Gành Hào Tháng chạp chim về Thằng Điếm vô danh Thơ núi Tà Lơn Tình bậu muốn thôi Kiểm lâm Rốp Hai Don Tư Cồ Tư Đút Hai Kim
Tình nghĩa giáo khoa thư Xóm Cù Là Tư Có Cai tổng Trần Hanh Tư Tề Ông Trạng nguyên Ông Nghè Thầy Hai
Cặp rằng Hực Năm Tiết Ba Lự
Yêu cho được
P4
Bảng 2: Bảng thống kê danh từ chỉ địa danh
Tên làng xóm Sông rạch Vùng
Truyện Anh hùng rơm Bình An
Ăn to xài lớn
Tân Bằng Xóm Đình
Rạch giá. Sài gòn. Sóc Trăng Châu Đốc U Minh Thượng Côn Đảo Rạch giá Gia Long Phú Xuân Long Xuyên Sài gòn
Bà đầm Phô-xi-đông Bà vợ thứ 10 Bác vật xà bông Vịnh Xiêm La
Bắt sấu rừng U Minh Hạ Khánh Lâm Ngã ba Đình
Sóc Xoài Xẻo Bần Trà Vinh. Hậu Giang Bến Tre U Minh Hạ Kiên Giang Rạch giá Gò quao Cà Mau
Sông Ông Đốc Rạch Cái Tàu Sông Cái Đầm Sấu Lung Sấu Bàu Sấu Rạch Cà Bơ He Bốn cái ngu Bức tranh con heo Cái tổ ong Thạch Hoà
Rạch giá Cà Mau Sài Gòn Rạch Giá Cái va li bí mật
Cao khỉ U Minh Xóm Rạch Giồng Hòn Móng Tay Gành đá trắng
U Minh Đan Mạch Sài gòn Huế
P5
Cậu Bảy Tiểu Cây Huê Xà Làng Đông Thái King xáng
Rạch Thuồng Luồng
Chiếc ghe “ngo” Chuyện năm xưa Rạch thứ ba
Chuyện rừng tràm Kinh mười lăm
Con Bảy đưa đò Xóm Vàm
Rạch cái Mau Kinh xáng Lái Hiếu Vịnh Xiêm la Vàm Cái Cau Kinh Xáng
Con heo khịt Xóm Ngã Bát Rạch ruộng
Con ngựa đất
Rạch giá Rạch giá Cà Mau. Núi ông Cấm Rạch giá. U Minh Cần Thơ Cà Mau Bình Thới Rạch giá. Cần thơ. Rạch giá Hậu giang Cần thơ Bình Thuỷ Phong Điền Ba Láng Sa Đéc Cái Răng Ngã Bát Bình Thới Hậu giang U Minh
Rạch cái Cau Vịnh Xiêm La Kinh Xáng
Con rắn Con rắn ri Voi Con sấu cuối cùng Con trích ré Cô út về rừng Ngã Ba Đình Làng Long Tuyền Rạch Bình Thuỷ
Sông cái lớn
Vịnh Xiêm La
Đại chiến với thầy chà Làng Đông Thái Xóm Đình
Gò Quao Cần Thơ Sài gòn Canh đền Bình Thuỷ Ấn Độ Miên Lèo Tà Keo (Cao Miên) U Đông
P6
Đảng “Cánh buồm đen” Hòn đá bạc Rạch Cóc
Đảng xăm mình (Xiêm) Núi Cô Tô Núi Dài Thất sơn Kiên giang Cà Mau Hà Tiên Rạch giá Sài gòn
Làng Đông Hưng Rạch xẻo Quao Vịnh Xiêm la Rạch Thuồng Luồng Vịnh Xiêm la Xóm Tà Lốc
Đóng gông ông thầy Quít Đồng thanh tương ứng
Đơn Hùng Tín chào đời
Rạch giá Kiên giang Hà Tiên Tiền giang Hậu giang Châu đốc
Giấc mơ ngoài bãi tha ma Hai con cá
Sườn Hòn tre Thôn An Hòa
Hòn tre Mũi Hà bá Đảo Phú quốc
Hai mẹ con Xẻo Rô
Hai ông già Hòn Tre Sông cái
Hai viên ngọc
Xóm Lê trì Mỹ Lâm Ba thê Xóm bánh tằm Rạch giá Phú quốc Cây da quét mộ Xiêm Hải Nam Rạch giá Cà Mau Nam kì Lục tỉnh Sài gòn Bến tre An Nam Mã Lai Nam Dương Bình thuận Khải tường Sài gòn Huế
P7
Cầu đúc
Hát bội giữa rừng
Anh nhơn Hà tiên Gò vấp Rạch giá Hậu giang Vũng Liêm Vĩnh Long
Hết thời oanh liệt
Rạch Khoen Tà Tưng Sông Hà Lạc Sông Cái lớn Sông Cái Rạch Cái Cam Rạch Cái Bân Vàm Xẻo Gừa
Xóm Khoen Tà Tưng Xóm Tà Lốc Tân Bằng Cán Gáo Rau dừa Cái nước Phong Điền
Hòn Cổ Tron Làng Đông Hưng Vịnh Xiêm La
Hòn Rái Hòn Nam Du Hòn Mẫu Hòn Dài Hòn Cổ Sơn Hòn Móng Tay Hòn Sơn Rai
Bến Tầm Dương Cần Thơ Vĩnh Long Rạch giá Cà Mau Gò Quao Quảng Nam Quảng Ngãi U Minh Bảy Núi Tà Lơn Trà Ban Hải Nam Triền Châu Phước Kiến Sơn Đông Hòn Cổ Tron Lai Sơn Châu Thành Rạch Giá Cao Miên Miệt Hóc Môn Miệt Long Hưng Rạch Giá Cà Mau Côn Nôn Tàu
Hội ngộ bến Tầm Dương Hồn người trong ly rượu
Làng Tây Yên (Chợ Gò Quao) Xóm cán Gáo Hương rừng Đảo Bòn Bon U Minh Hạ
P8
Xóm Tân Bằng
Kho vàng Sông Trèm Trẹm Vịnh Xiêm La
Chợ Sóc Xoài Gò cây Thị
Miễu bà Chúa Xứ Mối tình Đầm Lai Gò Mã Lạn Đìa Gừa
Thuận Hòa Tây Sơn Ba Thê Rạch giá Long Xuyên Bảy Núi Châu Đốc Cao Miên Ấn Độ Ba Tư Châu Thành Gò Quao U Minh Tây Phương Âu Châu Long Xuyên Một cuộc biển dâu
Rạch giá Một kiểu anh hùng Đại Ngãi Sông Hậu Giang Cù Lao Ông Chưởng
Mùa “len” trâu Làng Xích Hòa Chợ Phước Thiện
Sông Hậu Kinh Xáng
Ngày mưa đầu mùa
Linh Quỳnh Rạch giá Hà Tiên Cà Mau Sài Gòn - Làng Đông Yên
Gò Quao
Ngôi mộ chon đứng Người bạn triệu phú Sông Dịch Rạch Thứ Tư Rạch Thứ Năm Sông Cầu Ông Lãnh An Khê
Người mù giăng câu Miễu Ông Tà Mương Vàm
Đình Cái Dầu
Người tình của cô đào hát
Nhứt phá sơn lâm
Bình Định Rộc Lá Tây Sơn Vùng An-Sác Lo-ren Hóc Môn Rạch Giá Sài Gòn Cần Thơ Long Xuyên
P9
Ông Bang Cà Ròn Chợ Sóc Xoài
Ông già xay lúa
Hà Tiên Cà Mau Phú Quốc Vĩnh Long Rạch giá Hà Tiên Xiêm La Đường Bàng U Minh Rạch giá
Ruộng là bom Sông Gành Hào Tháng chạp chim về Làng Đông Thái Chợ Xẻo Ró Hòn Cổ Tron
Thằng Điếm vô danh Xóm Sậy Níu Biển Hồ Sông Hậu Sông Cái Lớn
Thơ núi Tà Lơn
Tình bậu muốn thôi
Sài Gòn Rạch giá Cần Thơ Cà Mau Sài Gòn Tam Giang Năm Căn Cao Miên Vĩnh Kim Vũng Liêm
Tình nghĩa giáo khoa thư Xóm Cù Là Núi Tà Lơn
Xóm Cà Bây Ngọp Ngã Tư Làng Mỹ Lâm
Rạch Cà Bây Ngọp Rạch giá Cầu Kè Triều Châu Xứ cù là Miến Điện Xiêm La Sài Gòn Phú Quốc
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyên An (2001), “Phác thảo văn chương Nam bộ”, Nhà văn, (11).
[2] Thương Trầm Hoàng Anh (2009), Khảo sát biến thể biến âm Nam bộ trong truyện
ngắn của Sơn Nam, Luận văn Đại học Sư phạm Văn, Trường Đại học Cần Thơ.
[3] Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Khai (1994), Từ điển
phương ngữ Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
[4] Lê Đình Bích (2004), “Đi tìm bản sắc văn hóa Nam bộ qua hệ thống định
vị địa danh-ngôn ngữ”, Ngữ học trẻ, tr.278-281.
[5] Hoàng Trọng Canh (2001), Nghiên cứu đặc điểm lớp từ địa phương Nghệ Tĩnh,
Luận án Tiến sĩ ngôn ngữ học - ĐH KHXH & NV Hà Nội.
[6] Hoàng Trọng Canh (2009), Từ địa phương Nghệ Tĩnh – về một khía cạnh
ngôn ngữ - văn hóa, Nxb KHXH.
[7] Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
[8] Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[9] Nguyễn Thị Hồng Chuyên (2010), “Ngôn ngữ người kể chuyện trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư”, Tạp chí ngôn ngữ và đời sống, (1+2)
(171+172), 73-78.
[10] Nguyễn Phú Cường (2007), “Đặc trưng phương ngữ Nam bộ qua Hương
rừng Cà Mau của Sơn Nam”, Ngữ học trẻ, tr.301-305.
[11] Trần Phong Diều (2007), “Hình tượng sông rạch trong truyện ngắn Sơn Nam”,
http://www.vannghesongcuulong.org.vn.
[12] N.A.Đ (2008), “Nhà văn Sơn Nam”, http://www.tienphong.com.vn.
[13] Trần Thanh Giao (2006), “ “Xỉn” từ đâu ra?”, Nhà văn, (3), 150-151.
[14] Vũ Minh Giang (2006), Lược sử vùng đất Nam bộ - Việt Nam, Hội khoa
học Lịch sử Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
[15] Trần Mạnh Hảo (2004), “Sơn Nam – Dề lục bình Nam bộ”,
http://www.nhandan.com.vn.
[16] Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa,
NXB Giáo dục.
[17] Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, NXB trẻ, Thành
Phố Hồ Chí Minh.
[18] Lê Trung Hoa (2005), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam bộ, NXB Khoa
học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
[19] Lý Tùng Hiếu (2009), “Vùng văn hóa Nam bộ: Định vị và đặc trưng văn hóa”,
http://blog.yume.vn.
[20] Nguyễn Hữu Hiệp (2006), “Cần giữ gìn sự trong sáng vốn có của ngôn ngữ
Nam bộ”, http://www.vannghesongcuulong.org.vn.
[21] Lê Minh Hùng (1998), “Phương ngữ Nam bộ trong hoạt động giao tiếp
ăn, uống”, Ngữ học trẻ, tr.35-37.
[22] Trần Đức Hùng (2008), Từ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ,
Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
[23] Lê Phú Khải (nhiều tác giả) (2009), Đó là Sơn Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[24] Cao Huy Khanh (1970), “Sơ khảo 15 năm văn xuôi miền Nam 1955 – 1969”,
Khởi hành, (74).
[25] Vũ Khiêu (2010), “Góc nhìn mới về văn hóa vùng đất mới”,
http://www.phapluat.vn.
[26] Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[27] Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam bộ, những khác biệt về từ
vựng ngữ nghĩa so với phương ngữ Bắc bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[28] Trần Thị Ngọc Lang (2009), “Chức năng văn hóa-xã hội của tiếng Việt ở
Nam bộ”, Tạp chí ngôn ngữ, (số 5)(240), tr.26-31.
[29] Huỳnh Lứa (chủ biên, 1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, Nxb Tp
Hồ Chí Minh.
[30] Sơn Nam (1992), Văn minh miệt vườn, NXB văn hóa.
[31] Sơn Nam (2005), Nói về miền Nam- cá tính miền Nam- Thuần phong mỹ
tục Việt Nam, NXB trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[32] Sơn Nam (2006), Tìm hiểu đất Hậu Giang và lịch sử đất An Giang,
Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[33] Sơn Nam (2007), Biên khảo Sơn Nam Nói về miền Nam, Cá tính miền
Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[34] Sơn Nam (2007), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[35] Sơn Nam (2009), Hương rừng Cà Mau, tập 1,2,3, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[36] Nguyễn Văn Nở (2000), “Cách xưng hô trong ca dao trữ tình Đồng bằng
sông Cửu Long”, Ngữ học trẻ, tr.317-320.
[37] Bùi Mạnh Nhị (1994), “Đặc điểm ngôn ngữ ca dao - dân ca Nam Bộ”,
Tạp chí ngôn ngữ, (1).
[38] Hoài Phương (2004), “Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1975
đến nay - Thành tựu và những điều trăn trở”, Tạp chí nhà văn, (11),63-67.
[39] Võ Phiên (2004), “Văn học miền Nam tổng quan”, tienve.org.
[40] Phạm Phú Phong (2009), “Lời “đề từ” trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”,
http://vienvanhoc.org.vn.
[41] Lê Phương (2008), “Vĩnh biệt nhà văn Sơn Nam”, http://www.dantri.com.vn.
[42] Lữ Phương (1974), “Văn học nghệ thuật các thành thị miền Nam và con
đường phát triển của nó”, Văn nghệ, (553-554).
[43] Vũ Tiến Quỳnh (biên soạn, tái bản có bổ sung, 1998), Phê bình, Bình
luận văn học: Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Sơn Nam, Nxb Văn nghệ,
Tp. Hồ Chí Minh.
[44] Nguyễn Sáng (1974), “Ý nghĩ nhỏ về truyện ngắn miền Nam”,
Tạp chí văn học, (4), 41.
[45] Trịnh Sâm (2003), Đi tìm bản sắc tiếng Việt, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
[46] Vương Hồng Sến (1993), Tự vị tiếng Việt miền Nam, Nxb Văn hóa.
[47] Chu Văn Sơn (2008), “Vĩnh biệt nhà văn Sơn Nam”,
http://www.vietnamnet.com.vn.
[48] Phạm Văn Sỹ (1975), Văn học giải phóng miền Nam 1954 – 1970,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
[49] Trần Hữu Tá (1994), Khuynh hướng văn học yêu nước tiến bộ trong các thành
thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975, Luận án phó Tiến sĩ khoa học Ngữ văn.
[50] Đào Tăng (2009), Đi và sống với Sơn Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[51] Hồ Tĩnh Tâm (2004), “Cá tính và bản lĩnh văn xuôi Nam bộ”, Nhà văn,
(10), 60-63.
[52] Hồ Tĩnh Tâm (2005), “Từ phương ngữ Nam bộ đến sáng tạo văn bản
thành văn”, Tham luận tại hội thảo khoa học về văn hóa văn nghệ dân
gian đồng bằng sông Cửu Long lần thứ nhất, Trường Đại học Cần Thơ.
[53] Nguyễn Tài Thái (1997), “Mô hình “Anh ấy-ảnh” trong phương ngữ Nam bộ”,
Ngữ học trẻ, 47- 49.
[54] Nguyễn Tài Thái (2001), “Mô hình “Nhìn lại việc dùng từ địa phương
trong văn học Nam bộ qua một thế kỉ”, Ngữ học trẻ, tr.469-474.
[55] Nguyễn Kim Thản (1983), Tiếng Việt của chúng ta, Nxb Tp Hồ Chí Minh.
[56] Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”,
Tạp chí văn học, (2)(266), 13-17.
[57] Dương Thanh (2008), “Bản sắc nước mắm, cá kho không bao giờ phai”,
http://www.e-thuvien.com.
[58] Chiêm Thành (2004), “Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long: một khu vực
văn xuôi có nhiều đặc sắc”, Nhà văn, (10), tr.51- 54.
[59] Võ Tiến Thành (2009), “Sơn Nam – cây đại thụ của Văn học, Văn hóa
Nam bộ”, Xưa và Nay, (337).
[60] Nguyễn Q. Thắng (1998), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
[61] Huỳnh Công Tín (1996), “Tiếng Việt và vấn đề phân vùng phương ngữ”,
Ngữ học trẻ, tr.30-33.
[62] Huỳnh Công Tín (1997), “Về một số hiện tượng ngôn từ của phương ngữ
Nam bộ trong tiến trình chuẩn hóa tiếng Việt”, Ngữ học trẻ, 65-68.
[63] Huỳnh Công Tín (1998), “Tính chất bán phương ngữ của phương ngữ Sài Gòn”,
Ngữ học trẻ, tr.27-31.
[64] Huỳnh Công Tín (2006), Cảm nhận bản sắc Nam bộ, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
[65] Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam bộ, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
[66] Lê Minh Tôn (2007), “Đặc trưng phương ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư”, Ngữ học trẻ, 401-405.
[67] Anh Vân (2006), “Nhà văn Sơn Nam mừng thọ 81 tuổi”,
http://www.avanvnexpress.net.
[68] Nguyễn Như Ý, Đặng Ngọc Lệ, Phan Xuân Thành (1999), Từ điển đối
chiếu từ địa phương, Nxb Giáo dục.