LUẬN VĂN: Vai trò của pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 84
download
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, tại Kỳ họp thứ VIII ngày 28/10/1995, Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân; ngày 21/5/1996 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành “Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính”, đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân. Những quy định này gọi là những quy định về tố tụng hành...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Vai trò của pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam hiện nay
- LUẬN VĂN: Vai trò của pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam hiện nay
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thể chế hóa chủ trương của Đảng, tại Kỳ họp thứ VIII ngày 28/10/1995, Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân; ngày 21/5/1996 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành “Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính”, đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân. Những quy định này gọi là những quy định về tố tụng hành chính. Các văn bản pháp luật trên là cơ sở pháp lý cho việc xác lập một thiết chế mới - thiết chế được nhiều nhà khoa học pháp lý coi là một “biểu hiện” đặc trưng của nhà nước pháp quyền, thể hiện chế độ trách nhiệm qua lại giữa công dân với nhà nước, bảo đảm thực hiện quyền công dân và pháp chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước thông qua thủ tục tố tụng với những nguyên tắc dân chủ, công khai, bình đẳng. Ngoài ra, các quy định này còn trao cho công dân một công cụ mới để thực hiện quyền khiếu nại đối với CQNN, cán bộ của CQNN. Thể hiện một bước tiến mới của nhà nước ta trong việc tạo ra các điều kiện về mặt pháp luật để chủ động hội nhập quốc tế. Kể từ khi được ban hành, các quy định của pháp luật tố tụng hành chính đã phần nào khẳng định vai trò của mình trong việc giải quyết tranh chấp hành chính, đóng góp vào công cuộc cải cách nền hành chính, cải cách tư pháp, buộc các cơ quan hành chính nhà nước phải tự nâng cao năng lực, hoàn thiện thủ tục và phương thức quản lý xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của mình. Tuy nhiên, trên thực tế thì các vụ án được khởi kiện tại tòa án hành chính chiếm một số lượng không lớn so với tổng số các vụ khiếu kiện hành chính, hoặc có khởi kiện thì vì lý do này, lý do khác, như chưa qua thủ tục khiếu nại tại cơ quan hành chính, vụ việc không thuộc thẩm quyền của tòa án, đã hết thời hiệu khởi kiện, nên tòa án không thụ lý giải quyết. Các văn bản tố tụng hành chính quy định về trình tự, thủ tục còn chưa phù hợp với đặc thù của tố tụng hành chính; cơ chế, chính sách đối với Tòa án nói chung, Tòa hành chính nói riêng còn có những điểm chưa hợp lý, nên còn để xảy ra tình trạng Thẩm phán “e ngại” khi giải quyết các vụ án hành chính. Một số cơ quan hành chính, cán bộ công chức hành chính có
- QĐHC, HVHC bị khởi kiện do không hiểu rõ hoặc không tôn trọng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính đã không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính, làm cho thiết chế Toà hành chính không thể thực hiện đầy đủ được vai trò bảo vệ quyền công dân mà Đảng và Nhà nước mong muốn khi thành lập ra nó. Trước tình hình trên, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ: “khắc phục tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm gây khó khăn, chậm chễ trong công việc và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của Tòa hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính”. Sau đó, Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã tiếp tục khẳng định: “Nghiên cứu mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính để góp phần khắc phục tình trạng trì trệ trong công tác giải quyết khiếu kiện hành chính hiện nay”. Việc thành lập Toà hành chính là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu đề ra, chưa thể hiện đầy đủ vai trò của mình trong thực tiễn. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề vai trò của pháp luật tố tụng hành chính là rất cấp thiết hiện nay. Đặc biệt hiện nay, dưới góc độ lý luận vấn đề vai trò của pháp luật tố tụng hành chính đã có nhiều công trình khoa học, bài viết trên các sách báo pháp lý, nghiên cứu ở các khía cạnh về mối quan hệ tương quan giữa pháp luật tố tụng hành chính với một số lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu vai trò của nó đối với nền hành chính nhà nước hoặc đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, c ơ quan và tổ chức trong giải quyết tranh chấp hành chính, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về vai trò của pháp luật tố tụng hành chính. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Vai trò của pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu liên quan tới vai trò của
- pháp luật tố tụng hành chính như: “Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta” – GS.TS Nguyễn Duy Gia (chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm1995 – các tác giả phân tích những vấn đề lý luận, các quan điểm, nguyên tắc tổ chức Toà án hành chính ở Việt Nam;“Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Lê Bình Vọng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tác giả phân tích vị trí của tài phán hành chính trong nền hành chính quốc gia và sự cần thiết phải thiết lập hệ thống toà án hành chính ở Việt Nam; “Tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Đinh Văn Mậu và PTS. Phạm Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, các tác giả phân tích những vấn đề chung về tài phán hành chính và vấn đề xác định thẩm quyền của toà án hành chính; “Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính”- Nguyễn Thanh Bình, Luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, 2003, trên cơ sở lý luận về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án nhân dân, tác giả nghiên cứu thực trạng thẩm quyền của tòa án và đề xuất các phương hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của tòa án; “Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam”- TS. Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, nghiên cứu về vị trí, vai trò của thiết chế toà hành chính trong cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam hiện nay; “Số chuyên đề về Tòa hành chính và việc giải quyết khiếu kiện của tổ chức, công dân”- Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 12/2001 đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về toà hành chính và pháp luật TTHC. Nghiên cứu về vấn đề này còn có các bài viết như: “Một số nguyên tắc đặc thù trong tố tụng hành chính”- PTS. Đặng Quang Phương, tạp chí Quản lý nhà nước, số 1/1998, tác giả phân tích các nguyên tắc đặc thù của tố tụng hành chính Việt Nam; “Một số khía cạnh của việc nâng cao hiệu suất hoạt động của Tòa hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính”- TS. Vũ Thư, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/2003, trên cơ sở phân tích một số bất cập trong nội dung của pháp luật TTHC, tác giả đã đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của toà hành chính; Bài viết “Thủ tục tố tụng hành chính” trong cuốn Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay của tác giả Vũ Thư – nghiên cứu sự hình thành con đường giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam từ 1945 đến nay; “Cải cách hệ thống tài phán hành chính bảo đảm thực
- hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”- Lê Hồng Sơn, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2003, vận dụng cơ sở lý luận vai trò của tài phán hành chính tác giả đã kiến nghị một số giải pháp về mô hình tổ chức và phạm vi thẩm quyền, đối tượng xét xử nhằm nâng cao vai trò của toà án hành chính ở Việt Nam hiện nay. Những công trình nói trên chỉ nghiên cứu ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác hay chỉ đề cập tới những vấn đề có liên quan tới vai trò của pháp luật TTHC, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống cả về mặt lý luận và thực tiễn về vai trò của pháp luật TTHC. Vì vậy, có thể nói rằng đây là lần đầu tiên vai trò của pháp luật TTHC được tiếp cận dưới góc độ lý luận Nhà nước và pháp quyền một cách toàn diện, có hệ thống cả về phương diện lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật TTHC trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, trên cơ sở đó, xây dựng những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC. Trên cơ sở mục đích đặt ra, luận văn có nhiệm vụ: - Trình bày khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của pháp luật TTHC và nêu lên vai trò của pháp luật TTHC. - Phân tích những tiêu chí để đánh giá vai trò của pháp luật TTHC. - Trình bày một số vấn đề về pháp luật TTHC của một số nước trên thế giới và sự vận dụng nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC Việt Nam. - Nêu lên quá trình hình thành phát triển của pháp luật TTHC Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế về vai trò của pháp luật TTHC ở Việt Nam hiện nay. - Nêu lên những quan điểm và đề xuất những giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của pháp luật TTHC trên cơ sở phân tích, đánh giá nội dung cơ bản của pháp
- luật tố tụng hành chính hiện hành ở Việt Nam (các quy định về tổ chức Tòa hành chính, quyền khởi kiện VAHC tại tòa án của công dân, thẩm quyền và quyền hạn của Tòa hành chính, một số vấn đề về thủ tục tố tụng trong giải quyết VAHC); hình thức của pháp luật TTHC; thực tiễn thực hiện pháp luật TTHC trong những năm qua. Trên cơ sở phân tích thực trạng vai trò của pháp luật TTHC từ đó rút ra những kết luận làm cơ sở cho việc đề ra những quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò pháp luật TTHC. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hành chính. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện bởi các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn giải, lịch sử. 6. Những điểm mới của luận văn - Lần đầu tiên luận văn phân tích những cơ sở lý luận về vai trò của pháp luật TTHC để chứng minh cho quan điểm đúng đắn của Đảng về việc nâng cao vai trò của Tòa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. - Lần đầu tiên luận văn đã đánh giá có tính hệ thống về quá trình phát triển của pháp luật TTHC, đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật TTHC ở Việt Nam hiện nay. - Đặc biệt, đây cũng là lần đầu tiên luận văn đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của pháp luật TTHC. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn đã đóng góp một số vấn đề lý luận về vai trò của pháp luật TTHC có thể giúp cho các nhà hoạch định chính sách, nhà lập pháp, những người làm công tác nghiên cứu, làm công tác xét xử án hành chính có thêm một phần thông tin lý luận về vai trò của pháp luật TTHC, từ đó đóng góp vào việc xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong các trường chuyên luật và không chuyên luật, cho học viên đang học tập trong hệ
- thống các trường chính trị, cho những người quan tâm nghiên cứu về pháp luật TTHC và vai trò của pháp luật TTHC. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương 7 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhiệm vụ của pháp luật tố tụng hành chính 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật tố tụng hành chính Để nghiên cứu một cách đầy đủ và chính xác về khái niệm pháp luật TTHC trước tiên cần nghiên cứu khái niệm TTHC. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước (hoạt động hành chính nhà nước) là hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước mà chủ yếu là các cơ quan hành chính Nhà nước tác động chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý, để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, nhằm bảo đảm chấp hành Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, tổ chức chỉ đạo mọi hoạt động của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội. Tính chất chấp hành của hoạt động quản lý nhà nước thể hiện ở chỗ tuân thủ đúng các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước, được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện pháp luật. Tính chất điều hành thể hiện ở chỗ các chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền, triển khai các quy định của Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và
- Nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước bảo đảm cho các quy định này đi vào cuộc sống. Trong quá trình hoạt động chấp hành, điều hành, chủ thể quản lý hành chính nhà nước có quyền nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện các HVHC, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay mệnh lệnh cụ thể, buộc đối tượng bị quản lý có liên quan phải thực hiện. Chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan nhà nước (chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước); cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền; các tổ chức và cá nhân được nhà nước trao quyền quản lý hành chính nhà nước trong một số trường hợp nhất định, do pháp luật quy định. Khách thể quản lý hành chính nhà nước là trật tự quản lý hành chính nhà nước, do các quy phạm pháp luật hành chính quy định. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước thường biểu hiện ở hai nhóm hành vi cơ bản là: hoạt động ban hành các văn bản quản lý nhà nước và thực hiện các hành vi hành chính. Hoạt động ban hành các văn bản quản lý bao gồm: - Hoạt động ban hành các văn bản quy phạm hành chính (hay còn gọi là hoạt động lập quy), đây là loại văn bản do các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự chung. - Hoạt động ban hành các văn bản áp dụng pháp luật hay còn được gọi là các văn bản cá biệt, hoạt động này do các CQNN có thẩm quyền, các cá nhân, tổ chức được Nhà nước trao quyền tiến hành, các văn bản cá biệt này được ban hành trên cơ sở quy định của pháp luật, được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể, về một vấn đề cụ thể. Hoạt động thực hiện các HVHC được biểu hiện ở hai hình thức: - Hình thức hành động, tức là làm một việc theo chức trách do pháp luật quy định. Hành động có thể là hợp pháp hoặc không hợp pháp. - Hình thức không hành động - không làm một việc trong quá trình thực thi công vụ, bao gồm: không hành động hợp pháp (không làm một việc pháp luật ngăn cấm) và không hành động bất hợp pháp (không làm một việc pháp luật buộc phải làm). Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, thông qua hoạt động ban hành
- QĐHC hoặc thực hiện HVHC, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước vì các lý do khác nhau, có thể gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc tổ chức (đối tượng quản lý) dẫn đến việc cá nhân, tổ chức khiếu kiện yêu cầu chấm dứt, bồi thường thiệt hại, tạo nên sự tranh chấp hành chính giữa nhà nước với công dân hoặc tổ chức. Và dù muốn hay không Nhà nước phải thiết lập các cơ quan và ban hành các quy định pháp luật tạo cơ sở pháp lý để xem xét và giải quyết những tranh chấp này. Như vậy, hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính là hoạt động gắn liền với hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nó xuất hiện như là một hiện tượng lịch sử, gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của nhà nước và pháp luật. Khi có hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì sẽ có sự xem xét, phán quyết về các hoạt động đó. Tuỳ thuộc vào truyền thống pháp luật của mỗi nước, quan điểm chính trị - pháp lý của giai cấp cầm quyền, sự xem xét, phán quyết hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thực hiện bởi nhiều phương thức, do các CQNN khác nhau thực hiện, trong đó có sự xem xét, phán quyết thông qua hoạt động xét xử của Toà án. Mục đích của giải quyết tranh chấp hành chính là bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trước sự xâm phạm bởi các QĐHC, HVHC của các cơ quan, công chức nhà nước trong khi thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước, qua đó bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện còn được gọi là giải quyết khiếu nại hành chính. Chủ thể giải quyết khiếu nại là các cơ quan hành chính nhà nước; đối tượng bị khiếu nại là các QĐHC, HVHC trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý hành chính xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khiếu nại; hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật hành chính quy định hay còn gọi là thủ tục hành chính. Hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính do toà án độc lập với cơ quan hành chính nhà nước thực hiện được gọi là hoạt động xét xử hành chính. Chủ thể xét xử tranh chấp hành chính là các toà án, hoạt động xét xử tranh chấp hành chính phát sinh khi có đơn khởi kiện của cá nhân, tổ chức và tuân theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp luật TTHC quy định; đối tượng xét xử hành chính là các QĐHC, HVHC bị công dân, tổ chức khởi
- kiện. Để giải quyết các tranh chấp hành chính kịp thời, đúng pháp luật thì các Toà án phải tiến hành giải quyết theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Mặt khác, sau khi đã có bản án, quyết định của toà án thì việc thi hành bản án, quyết định đó cũng phải tuân thủ những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Những trình tự, thủ tục này được gọi là thủ tục tố tụng hành chính. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có quyền khởi kiện các QĐHC, HVHC tại toà án khi có căn cứ cho rằng các QĐHC hoặc HVHC đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình sau khi đã thực hiện việc khiếu nại theo thủ tục hành chính mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc đã hết thời hạn do pháp luật quy định mà khiếu nại vẫn không được giải quyết. Sau khi nhận được đơn khởi kiện, nếu xét thấy thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì toà án thụ lý và tiến hành giải quyết theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Như vậy, tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân theo trình tự do pháp luật quy định trong việc giải quyết vụ án hành chính tại toà án. Hiện nay trong các sách báo pháp lý có hai thuật ngữ được sử dụng để chỉ hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính tại toà án là "tài phán hành chính" và "tư pháp hành chính" . Tài phán hành chính là thuật ngữ được dịch từ các sách báo pháp lý của nước ngoài và cũng chưa được hiểu một cách thống nhất. Hiện nay có ba quan điểm khác nhau về khái niệm tài phán hành chính: - Quan điểm thứ nhất cho rằng: "Tài phán hành chính theo nghĩa hiện đại được hiểu là quyền phán xét, xử lý của cơ quan hành chính đối với các tranh chấp cũng như các vi phạm trong quản lý nhà nước" [20, tr.3]. - Quan điểm thứ hai cho rằng tài phán hành chính là: "xét xử các khiếu kiện hành chính của dân đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính và hoạt động tư vấn"[22,
- tr.16]. - Quan điểm thứ ba cho rằng tài phán hành chính là: + Hoạt động xem xét và giải quyết các khiếu nại hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; + Hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính do Toà án nhân dân thực hiện; + Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan, cán bộ có thẩm quyền [55, tr.104]. Nhìn chung, hầu hết các công trình nghiên cứu trên các sách báo pháp lý nước ta đều nghiên cứu tài phán hành chính với nội dung là hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính của toà án, dưới góc độ này thì tài phán hành chính đồng nhất với TTHC. "Tư pháp hành chính" là thuật ngữ dùng để chỉ "hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính bởi hệ thống Toà án hành chính" [20, tr.6]. Theo cách phân tích ngữ nghĩa thì tư pháp hành chính được hình thành từ hai khái niệm "tư pháp" và "hành chính", Nói đến tư pháp hành chính là nói đến lĩnh vực xét xử các tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước với công dân (cơ quan, tổ chức) trong quan hệ pháp luật hành chính, được thực hiện bởi toà án theo thủ tục tư pháp [46, tr.23]. Tóm lại, các khái niệm tài phán hành chính, tư pháp hành chính xét ở một góc độ nào đó đều được hiểu là hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính giữa công dân với CQNN được thực hiện bởi toà án theo thủ tục tư pháp nhất định. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đề cập tới hai khái niệm này nhằm qua đó làm rõ hơn khái niệm TTHC đã nêu trên. * Khái niệm pháp luật tố tụng hành chính Theo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, pháp luật là một hiện tượng lịch sử vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội, chỉ phát sinh, tồn tại, phát triển trong xã hội có giai cấp, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước, nhằm duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Cũng giống như bất cứ một kiểu pháp luật nào trong lịch sử, pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng có chức năng tổ chức, điều chỉnh nhằm thiết lập, duy trì trật tự xã hội và chức
- năng bảo hộ, trọng tài nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội, giải quyết các tranh chấp và xung đột xã hội, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Tố tụng hành chính là một lĩnh vực của đời sống xã hội, nó bao gồm toàn bộ những hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, nên phát sinh rất nhiều quan hệ, như giữa Tòa án với các tổ chức, cá nhân khi họ khởi kiện các VAHC; quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án trong quá trình giải quyết các VAHC..v.v. Do vậy, đòi hỏi pháp luật phải quy định địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các chủ thể trong từng giai đoạn của tố tụng hành chính; quy định trình tự, thủ tục khởi kiện, thụ lý VAHC; trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; trình tự, thủ tục thi hành án hành chính. Để thực hiện trình tự giải quyết tranh chấp hành chính đòi hỏi nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật nhằm xác định một số vấn đề như: mô hình tổ chức cơ quan xét xử hành chính, hình thức tố tụng của việc xét xử, phạm vi các tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền của toà án hành chính... Có thể nói, pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hành chính phải điều chỉnh các vấn đề sau: - Mô hình tổ chức toà án hành chính, việc xác định mô hình tổ chức toà án hành chính phụ thuộc vào các yếu tố, điều kiện như: quan điểm chính trị - pháp lý của giai cấp cầm quyền, truyền thống pháp luật của mỗi quốc gia và tính chất, đặc điểm của các tranh chấp hành chính. - Mối quan hệ phát sinh giữa các chủ thể được trao quyền lực nhà nước để thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm giải quyết vụ án hành chính. Đó là quan hệ giữa Toà án với Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử hành chính; quan hệ giữa các thành viên hội đồng xét xử với nhau. - Mối quan hệ phát sinh giữa các chủ thể tiến hành tố tụng với các chủ thể tham gia tố tụng. Đó là mối quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký toà án với những người tham gia tố tụng như các đương sự và đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch... - Mối quan hệ giữa các đương sự với nhau tại phiên toà hành chính nhằm bảo đảm cho các bên tranh tụng công khai và dân chủ tại phiên toà.
- Từ những phân tích trên có thể đi tới khái niệm pháp luật tố tụng hành chính như sau: Pháp luật tố tụng hành chính là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp hành chính tại toà án nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân. * Đặc điểm của pháp luật tố tụng hành chính Pháp luật tố tụng hành chính là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam nên nó cũng mang những đặc điểm chung của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trước hết, pháp luật TTHC có tính quy phạm, nó chứa đựng những quy tắc xử sự của con người, đó là những chuẩn mực để đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hoạt động tố tụng hành chính; các quy tắc xử sự trong TTHC cũng có tính bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về hoạt động tố tụng hành chính. Ngoài ra là một bộ phận trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên pháp luật TTHC cũng có đặc trưng riêng, khác biệt so với các lĩnh vực pháp luật khác như: pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính, pháp luật tố tụng dân sự, kinh tế, lao động. Những đặc trưng đó thể hiện cụ thể như sau: Một là, pháp luật tố tụng hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp hành chính, loại tranh chấp nảy sinh từ các quan hệ pháp luật hành chính, mang tính chất mệnh lệnh, phục tùng, trong đó các chủ thể quản lý hành chính nhà nước có quyền đơn phương ban hành các QĐHC hoặc thực hiện các HVHC có tính chất bắt buộc đối với các đối tượng bị quản lý hành chính. Việc ban hành các QĐHC hoặc thực hiện HVHC có thể trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng bị quản lý và gây ra các tranh chấp trong quản lý hành chính nhà nước. Khác với các hoạt động tố tụng hình sự, dân sự hoạt động tố tụng hành chính không xác định tội danh và hình phạt hoặc xác định quyền, nghĩa vụ dân sự của công dân mà chỉ xác định tính hợp pháp của QĐHC hoặc HVHC bị khởi kiện do đó bên bị kiện trong VAHC luôn luôn là các cơ quan, hoặc cá nhân có thẩm quyền thực hiện việc ban hành các QĐHC hoặc thực hiện HVHC. Hai là, pháp luật TTHC Việt Nam quy định quá trình giải quyết VAHC phải trải qua
- hai giai đoạn có mối liên hệ mật thiết với nhau, được gọi là giai đoạn "tiền tố tụng" và giai đoạn "tố tụng". - Giai đoạn tiền tố tụng: đây là giai đoạn khiếu nại hành chính được các cơ quan nhà nước thực hiện theo pháp luật về khiếu nại và thủ tục hành chính, là thủ tục bắt buộc trước khi thực hiện việc khởi kiện VAHC tại toà án. - Giai đoạn tố tụng: là giai đoạn giải quyết VAHC tại toà án, do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật TTHC. Ba là, pháp luật TTHC quy định tố tụng hành chính là “tố tụng viết” mà theo đó chứng cứ các bên đưa ra trong tố tụng hành chính được trao đổi công khai, các bên có nghĩa vụ chứng minh bằng văn bản. Do các tranh chấp chủ yếu là việc xác định tính hợp pháp của QĐHC, HVHC bị khởi kiện nên nguyên tắc “tố tụng viết” đòi hỏi mọi sự tranh luận, giải trình giữa các bên phải được thể hiện bằng văn bản. Do vậy, giai đoạn xác minh, thu thập chứng cứ đặc biệt được coi trọng, toàn bộ hồ sơ vụ kiện cũng như căn cứ pháp luật cho việc giải quyết tranh chấp phải được chuẩn bị khá hoàn chỉnh trước khi mở phiên toà. Bốn là, pháp luật TTHC quy định các bên đương sự (bên kiện và bên bị kiện) trong tố tụng hành chính bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ tố tụng, không theo kiểu quan hệ "mệnh lệnh - phục tùng" bất bình đẳng như trong quan hệ hành chính bị tranh chấp hay như trong quá trình giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc hiến định "mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật", việc ghi nhận nguyên tắc bình đẳng trong tố tụng hành chính được thể hiện trong các giai đoạn tố tụng và việc bảo đảm thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án về việc giải quyết VAHC. 1.1.2. Nhiệm vụ của pháp luật tố tụng hành chính Pháp luật tố tụng hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết VAHC tại toà án, nhằm tạo ra cơ chế pháp lý để mở rộng dân chủ, bảo đảm cho cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước sự xâm phạm từ phía các hoạt động hành chính của các CQNN. Để đạt được mục
- đích này thì pháp luật TTHC có những nhiệm vụ sau: Một là, quy định đối tượng, thẩm quyền và quyền hạn xét xử hành chính của toà án - Đối tượng xét xử hành chính: đối tượng xét xử hành chính của toà án là những quyết định hành chính và hành vi hành chính bị cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức khởi kiện. Quyết định hành chính trong khoa học pháp lý được xác định trước hết là những quyết định do các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, những người có thẩm quyền trong bộ máy đó, cũng như các cơ quan nhà nước khác ban hành, có liên quan tới hoạt động hành chính, tổ chức công tác nội bộ của các cơ quan đó, thậm chí quyết định hành chính còn do cả các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội ban hành khi được nhà nước trao quyền. Quyết định hành chính được các nhà khoa học pháp lý chia thành ba loại dựa vào tính chất pháp lý của chúng, bao gồm: quyết định quy phạm, quyết định chủ đạo và quyết định cá biệt cụ thể. Về mặt lý luận thì cả ba loại quyết định này đều có thể không hợp pháp và có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức và đều có thể bị đình chỉ, hay bãi bỏ theo quy định của pháp luật. Về hình thức thể hiện, quyết định hành chính có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức như: văn bản, nói, viết, ám hiệu, tín hiệu, trong đó hình thức văn bản có tính xác thực, chính xác hơn cả và các quyết định hành chính quan trọng bao giờ cũng được thể hiện dưới hình thức văn bản. Quyết định hành chính là đối tượng xét xử của toà án theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là: các quyết định hành chính bằng văn bản của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng quốc hội, cơ quan nhà nước ở địa phương, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể (Điều 4, khoản1). Để thực hiện các quyết định hành chính, các dịch vụ hành chính theo yêu cầu của công dân, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết phải thực hiện những HVHC khác nhau. Việc thực hiện các hành vi hành chính không những là quyền mà còn là nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận của cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện các HVHC, đòi hỏi phải thực hiện theo đúng pháp luật, khi không thực hiện
- HVHC theo đúng quy định của pháp luật có thể gây thiệt hại cho công dân và gây khiếu kiện. Như vậy, HVHC bao gồm: hành động hoặc không hành động; hành vi hành chính có thể bị khiếu kiện có thể là hành vi hành chính lạm quyền, hành vi hành chính vô quyền, hành vi chậm trễ trong công vụ gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức. - Về thẩm quyền xét xử hành chính của tòa án có hai loại: + Thẩm quyền xét xử hành chính theo lãnh thổ của toà án: hiện nay theo quy định của pháp luật thì Toà hành chính là một bộ phận của Toà án nhân dân, được tổ chức theo cấp hành chính, việc phân định thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân các cấp dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là: thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo cấp xét xử (căn cứ vào tiêu chí cơ quan ban hành QĐHC hay thực hiện HVHC). Nhằm bảo đảm tính nhanh chóng, kịp thời trong xét xử hành chính, phù hợp với trình độ, ý thức pháp luật của thẩm phán nói riêng và toàn xã hội nói chung, pháp luật TTHC nước ta đã áp dụng cả hai nguyên tắc này vào việc phân định thẩm quyền của Toà án các cấp. + Thẩm quyền xét xử hành chính theo loại việc của toà án: hoạt động quản lý hành chính nhà nước rất phong phú, đa dạng, do nhiều cơ quan nhà nước thực hiện trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, văn hoá - xã hội, chính trị và các quyền, tự do công dân. Quyết định hành chính, hành vi hành chính do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành hoặc thực hiện trên các lĩnh vực đó trái pháp luật có thể gây thiệt hại tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, do đó, các tranh chấp hay khiếu kiện hành chính rất nhiều và đa dạng. Tuy nhiên, không thể đưa tất cả các tranh chấp hành chính đó vào xét xử tại toà án. Việc xác định phạm vi các loại tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền của toà án được căn cứ bởi các yếu tố: Kinh nghiệm xét xử hành chính của toà án; trình độ, năng lực xét xử của thẩm phán; pháp luật cần thiết để làm căn cứ cho việc xét xử của toà án... - Quyền hạn của toà án khi xét xử vụ án hành chính: Quyền hạn của toà án khi xét xử vụ án hành chính có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, nó bao gồm toàn bộ các quyền mà pháp luật trao cho toà án với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng để tham gia vào các giai đoạn giải quyết VAHC. Theo nghĩa hẹp, nó là phạm vi nội dung các phán quyết mà toà án đưa ra khi xét xử VAHC. Theo nghĩa hẹp thì quyền hạn của toà án khi xét xử VAHC phụ thuộc vào cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, sự phân
- công rành mạch giữa hoạt động xét xử của toà án với hoạt động quản lý hành chính nhà nước, bảo đảm không để hoạt động xét xử của toà án cản trở hoạt động quản lý hành chính nhà nước hoặc chồng chéo chức năng giữa tòa án với các cơ quan thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, pháp luật đòi hỏi các QĐHC, HVHC phải thoả mãn cả yêu cầu về tính hợp pháp và tính hợp lý. Vì vậy, phạm vi quyền hạn của toà án khi xét xử các VAHC được giới hạn phán xét về các thuộc tính trên của QĐHC, HVHC. Hai là, quy định về các chủ thể trong tố tụng hành chính Trong tố tụng hành chính có hai nhóm chủ thể là chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng, bao gồm: toà án, viện kiểm sát, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký tòa án, các đương sự, người đại diện do đương sự uỷ quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Để quá trình giải quyết VAHC khách quan, đúng pháp luật thì pháp luật TTHC phải quy định quyền và nghĩa vụ tố tụng cho các chủ thể trên, bảo đảm cho các chủ thể tiến hành tố tụng độc lập trong tố tụng, được áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật về giải quyết VAHC; tham gia vào quá trình giải quyết vụ án một cách dân chủ và bình đẳng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Ba là, quy định một trình tự tố tụng hợp lý để giải quyết vụ án hành chính, phù hợp với tranh chấp hành chính Để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi pháp luật phải có quy định cụ thể về các bước tiến hành hoạt động tố tụng từ khởi kiện, thụ lý VAHC đến thi hành bản án, quyết định của tòa án, đồng thời phải quy định chặt chẽ về thời gian thực hiện các hành vi tố tụng, các hình thức xử lý đối với việc vi phạm quy định về thời gian thực hiện hành vi tố tụng. Bốn là, quy định rõ các khái niệm trong tố tụng hành chính, tránh sự mập mờ gây hiểu lầm hoặc hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Đặc biệt là các khái niệm về QĐHC, HVHC là đối tượng khiếu kiện hành chính, các khái niệm về tính hợp pháp của QĐHC...
- Năm là, pháp luật tố tụng hành chính phải xác lập một cơ chế rõ ràng, bảo đảm cho các phán quyết của toà án được thi hành trong thực tế Thi hành án hành chính là một gíai đoạn quan trọng trong quá trình TTHC, nó là giai đoạn mà kết quả của cả quá trình giải quyết tranh chấp hành chính được thực hiện trên thực tế, bảo đảm được công bằng xã hội, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các CQNN, các tổ chức và công dân. Vì vậy, để đạt được mục đích trên, đòi hỏi pháp luật TTHC phải quy định một cách rõ ràng, đầy đủ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng như trình tự, thủ tục thi hành những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án về VAHC. 1.2. Vai trò của pháp luật tố tụng hành chính và những tiêu chí đánh giá 1.2.1. Vai trò của pháp luật tố tụng hành chính Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật TTHC có các vai trò của pháp luật nói chung, ngoài ra do có đối tượng điều chỉnh riêng, có nhiệm vụ riêng, nên pháp luật TTHC có những vai trò riêng như: pháp luật TTHC có vai trò là phương tiện thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng đối với hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính bằng toà án; là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình TTHC; là phương tiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và là phương tiện bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động hành chính nhà nước. Thứ nhất, pháp luật tố tụng hành chính có vai trò là phương tiện thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng về tố tụng hành chính Khiếu kiện hành chính là một thuật ngữ mới xuất hiện vào giữa thập kỷ 90 của thế XX, nó được sử dụng trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, cùng với quá trình cải cách nền hành chính nhà nước trong đó có đổi mới công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Thuật ngữ khiếu kiện hành chính mới chính thức trở thành thuật ngữ pháp lý, được sử dụng trong các văn bản pháp luật trong khoảng thời gian gần đây. Khái niệm này ngày càng được sử dụng phổ biến khi đề cập đến hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là
- cải cách một bước nền hành chính" đã nhấn mạnh "Đẩy mạnh việc giải quyết khiếu kiện của dân...xúc tiến việc thiết lập hệ thống Toà án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính". Thuật ngữ "khiếu kiện" lần đầu tiên được sử dụng trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Theo quy định của Pháp lệnh này thì người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại toà án để yêu cầu giải quyết sau khi đã khiếu nại lần đầu tại cơ quan hành chính nhà nước mà không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu đó. Giải quyết khiếu kiện hành chính là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của bất cứ một quốc gia nào, tuỳ thuộc vào các quan điểm chính trị - pháp lý của mỗi quốc gia. Hiện nay, trên thế giới tồn tại phổ biến cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính: vừa do chính các cơ quan hành chính thực hiện vừa do toà án hành chính độc lập với cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm và có nhiều biện pháp ghi nhận việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, với mục tiêu xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản, có tính chất chính trị - pháp lý của công dân, một hình thức biểu hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của Đảng, Nhà nước và Hồ Chủ tịch thì quyền khiếu nại, tố cáo có mối quan hệ chặt chẽ với các quyền, nghĩa vụ cơ bản khác của công dân, chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các quyền ấy. Việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo là cơ sở cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của công dân, nó chính là phương tiện để công dân đấu tranh chống lại các hành vi trái pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là quyền dân chủ trực tiếp, một chế định của nền dân chủ trực tiếp để thông qua đó nhân dân thiết thực tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Quan điểm, đường lối của Đảng về công tác giải quyết khiếu kiện hành chính được thể chế hoá thành các quy phạm pháp luật về thanh tra, pháp luật về xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo như: Pháp lệnh quy định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân năm
- 1981, Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991, Luật khiếu nại ,tố cáo năm 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) và nhiều văn bản khác. Tuy nhiên, những văn bản quy phạm pháp luật này mới chỉ là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thông qua thủ tục hành chính. Trong quá trình phát triển đất nước, cùng với tiến trình dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội, vai trò của nhà nước ngày càng lớn trong việc giải quyết công việc của dân và trong tổ chức, điều hành ngày càng bộc lộ nhiều thiếu sót, các vụ việc khiếu nại, tố cáo ngày càng phát triển về nội dung, đa dạng về lĩnh vực, số lượng vụ việc ngày càng tăng, đặc biệt là các khiếu nại về hành chính, do đó đòi hỏi việc giải quyết khiếu kiện hành chính của công dân phải được nâng cao cả về chất lượng, đa dạng về phương thức, nhanh chóng và kịp thời về thời gian. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng ta đã khởi xướng đường lối đổi mới đất nước, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới kinh tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới này được Đảng ta từng bước hoàn thiện qua các kỳ đại hội lần thứ VII, VIII, IX. Đặc biệt, tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 8 (khoá VII) về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính" Đảng ta đã khẳng định: " ây dựng nhà nước xã hội chủ X nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và lợi ích của nhân dân". Trên cơ sở đó, Đảng ta đã chỉ rõ: " ẩy Đ mạnh việc giải quyết các khiếu kiện của dân, soát xét, bổ sung và thể chế hoá các chính sách, trước hết đối với các lĩnh vực mà dân khiếu kiện nhiều như những tranh chấp về nhà, đất...Xúc tiến việc thiết lập hệ thống toà án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính". Thể chế hoá quan điểm này, tại kỳ họp thứ VIII, Quốc hội khoá IX ngày 28/10/1995 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức toà án nhân dân, trong đó quy định Toà
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: “Vai trò của văn hoá doanh nghiệp trong quản lý và thực trạng văn hoá doanh nghiệp ở Việt Nam”
79 p | 674 | 242
-
Luận văn: “Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta’’
57 p | 532 | 170
-
Luận Văn: Vai trò của chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gà nói riêng trong phát triển kinh tế
77 p | 1102 | 115
-
Luận văn: VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚ LƢƠNG TỈNH THÁI NGUYÊN
105 p | 357 | 108
-
Luận văn: Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay
108 p | 687 | 100
-
LUẬN VĂN:Vai trò của ngân hàng trung ương trong nền kinh tế thị trường
40 p | 434 | 94
-
Luận văn: Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con ở các gia đình đô thị hiện nay
51 p | 385 | 43
-
Luận văn: Vai trò của kiểm toán độc lập trong việc kiểm tra,kiểm soát các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
27 p | 203 | 42
-
Luận văn: Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế Việt Nam
32 p | 192 | 40
-
LUẬN VĂN: Vai trò của lao động trong phát triển kinh tế Việt Nam
37 p | 170 | 31
-
LUẬN VĂN: VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC ĐỐI VỚI VIỆT NAM.
52 p | 152 | 30
-
LUẬN VĂN: Vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới đến nay
15 p | 163 | 27
-
LUẬN VĂN: Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước
20 p | 135 | 27
-
LUẬN VĂN: Vai trò của đầu tư trong việc thúc đẩy kinh tế
47 p | 127 | 20
-
Luận văn: Vai trò của y tế học đường trong hỗ trợ trẻ vị thành niên có khó khăn về tâm lý
42 p | 109 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam: Vai trò của quân và dân miền Đông Nam Bộ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1975-1979)
144 p | 27 | 14
-
Luận văn Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động Du lịch nước ta 1
77 p | 103 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và Nhân văn: Vai trò của khoa học - Công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở thành phố Đà Nẵng hiện nay
102 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn