intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Vấn đề tổ chức thực tiễn của cán bộ cấp huyện ở Điện Biên hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

117
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thắng lợi, cần phải tổ chức thực hiện những mục tiêu mà các nghị quyết của Đảng đã đề ra. Nghĩa là phải hiện thực hóa những yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu mà sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đòi hỏi. Muốn vậy, phải nâng cao hơn nữa hiệu quả, năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và cấp huyện nói riêng. Đây là vấn đề quyết định đến sự thành bại của sự...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Vấn đề tổ chức thực tiễn của cán bộ cấp huyện ở Điện Biên hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Vấn đề tổ chức thực tiễn của cán bộ cấp huyện ở Điện Biên hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Để sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thắng lợi, cần phải tổ chức thực hiện những mục tiêu mà các nghị quyết của Đảng đã đề ra. Nghĩa là phải hiện thực hóa những yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu mà sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đòi hỏi. Muốn vậy, phải nâng cao hơn nữa hiệu quả, năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và cấp huyện nói riêng. Đây là vấn đề quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề đặt ra là có nâng cao được hiệu quả và năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ thì mới có thể hiện thực hóa được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước vào trong đời sống xã hội. Hơn nữa, thông qua quá trình tổ chức thực hiện chủ trương chính sách, nghị quyết của Đảng; pháp luật của Nhà nước vào trong cuộc sống, sẽ không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và cán bộ cấp huyện nói riêng. Vấn đề nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn không chỉ quan trọng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, Trung ương mà còn đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện nhất là cấp huyện miền núi. Bởi vì, đối với miền núi, cấp huyện có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện các chủ trương đường lối, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào trong đời sống ở cơ sở. Vì cơ sở là mắt khâu cuối cùng để kết nối chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước thành một chỉnh thể hoàn chỉnh cho sự phát triển. Đồng thời, cơ sở còn là cấp để kiểm nghiệm tính phù hợp hay chưa phù hợp của các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đối với miền núi phía Bắc nói chung, vai trò
  3. của cấp huyện vô cùng quan trọng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cấp huyện, cũng như việc phát huy hiệu quả tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ cấp huyện nói chung và cán bộ huyện ở Điện Biên nói riêng là vấn đề có ý nghĩa thời sự và rất cấp thiết. Bởi lẽ, đối với các tỉnh miền núi Tây Bắc nói chung, Điện Biên nói riêng, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở còn rất thiếu và yếu. Cho nên cấp huyện vẫn là cấp tiến hành thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Điện Biên trong những năm qua đã và đang góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội của tỉnh, đặc biệt là trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực tiễn các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng; pháp luật của Nhà nước vào trong cuộc sống. Điện Biên là một tỉnh mới được chia tách từ tỉnh Lai Châu (cũ). Do đó, mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... có nhiều biến động. Đồng thời, với việc thành lập một số huyện mới, tỉnh mới tái lập đang đặt ra nhiều vấn đề. Để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, thì vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt của Điện Biên nói chung và cán bộ cấp huyện nói riêng là hết sức to lớn trong việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, việc tổ chức thực tiễn và hiệu quả của nó còn chưa ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh với tất cả vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn: "Vấn đề tổ chức thực tiễn của cán bộ cấp huyện ở Điện Biên hiện nay", làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
  4. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài - Những vấn đề về hoạt động thực tiễn và tổ chức thực tiễn đã được nhiều tác giả trong nước và ngoài nước nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau; cụ thể là: + C.D. Vi-si-an-ni với tác phẩm: Lãnh đạo quản lý, Nxb Thông tin Văn hóa, 1980. + Giáo sư Nguyễn Đức Bình với tác phẩm: Mấy vấn đề về tổ chức thực tiễn, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983. + PGS.TS Nguyễn Hải Khoát với bài: Năng lực tổ chức thực tiễn và việc rèn luyện năng lực tổ chức, Tạp chí Cộng sản, số 4, 1983. + V.G.Apha-na-xép: Lao động của Người quản lý lãnh đạo, Nxb Thông tin Văn hóa, 1991. + PGS.TS Hồ Văn Vĩnh với bài: Nâng cao trình độ năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt hiện nay, Tạp chí Lý luận, số 1, 1994. + TS. Trần Văn Phòng với bài: Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, Tạp chí Lý luận chính, số 3, 2002.
  5. - Đặc biệt là tác giả: Phạm Văn Hai với luận văn thạc sĩ: Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (qua thực tế Long An), 1997 và tác giả Phạm Văn Liên với luận văn thạc sĩ: Vấn đề tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở Ninh Thuận hiện nay (năm 2002). Các tác giả trên đã đề cập đến nhiều vấn đề tổ chức thực tiễn và nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An và Ninh Thuận một cách tương đối có hệ thống và mang tính thực tiễn cao. Tuy nhiên, các công trình này chỉ giới hạn ở cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Long An và Ninh Thuận. Việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta vào tìm hiểu những vấn đề nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở Điện Biên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn là vấn đề cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội Điện Biên. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu - Mục đích của luận văn Trên cơ sở phân tích thực trạng tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Điện Biên, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ này. - Nhiệm vụ của luận văn
  6. + Làm rõ vai trò của tổ chức thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cấp huyện nói chung, cấp huyện ở Điện Biên nói riêng. + Phân tích thực trạng tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Điện Biên cũng như nguyên nhân của thực trạng ấy. + Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Điện Biên. - Phạm vi nghiên cứu + Luận văn không nghiên cứu tất cả những đối tượng cán bộ nói chung, mà chỉ tập trung vào khảo sát, nghiên cứu đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Điện Biên. + Từ việc xác định phạm vi và đối tượng nghiên cứu như vậy, nên luận văn không nghiên cứu đối tượng cán bộ trên góc độ của khoa học xây dựng Đảng, khoa học tâm lý, khoa học chính trị hay ở một bộ môn khoa học khác. Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Điện Biên, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng về vấn đề cán bộ và vai trò tổ chức thực tiễn của người cán bộ nói chung, người cán bộ cấp huyện nói riêng. Đồng thời luận văn kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả của các tác giả đi trước về vấn đề này.
  7. - Luận văn sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như: Phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài Luận văn bước đầu góp phần nhỏ bé vào việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Điện Biên trong giai đoạn hiện nay. Luận văn tập trung vào phân tích kết cấu, vai trò và tầm quan trọng của tổ chức thực tiễn đối với cán bộ cấp huyện trong việc tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội ở địa phương. Đồng thời thông qua đó, luận văn đã từng bước làm rõ được thực trạng tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Điện Biên. Trên cơ sở đó luận văn bước đầu mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện ở tỉnh Điện Biên. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Qua kết quả nghiên cứu của tác giả, luận văn có thể phần nào dùng làm cứ liệu tham khảo trong việc xây dựng, hoạch định chính sách, chiến lược và quy hoạch cán bộ cấp huyện, cấp cơ sở của Điện Biên. - Kết quả đạt được của luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở Trường Chính trị tỉnh Điện Biên. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia làm 2 chương, 4 tiết.
  8. Chương 1 Tổ chức thực tiễn và vai trò của nó trong công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp huyện ở điện biên 1.1. Thực chất của tổ chức thực tiễn và những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực tiễn 1.1.1. Thực chất của tổ chức thực tiễn Thực tiễn bắt nguồn từ tiếng Hy lạp (Pratica) có nghĩa là hoạt động tích cực, chủ động. Trước khi triết học Mác ra đời đã có nhiều quan điểm khác nhau về thực tiễn. Phoi-ơ-bắc coi thực tiễn là những hoạt động có tính chất con buôn, tầm thường. Điđơrô là nhà triết học có tư tưởng khá tiến bộ về thực tiễn cũng chỉ dừng lại ở chỗ cho thực tiễn là những hoạt động thực nghiệm khoa học... C.Mác đã chỉ rõ, nhược điểm căn bản của chủ nghĩa duy vật cũ đó là chủ nghĩa duy vật trực quan. Các nhà triết học duy tâm đã thấy vai trò tích cực, sáng tạo của con người nhưng chỉ giới hạn tính tích cực, sáng tạo đó trong lĩnh vực hoạt động tinh thần. Theo Hêghen, nhà duy tâm khách quan thì thực tiễn là hoạt động có ý chí của tư tưởng. Những nhà duy tâm chủ quan lại cho rằng, hoạt động thực tiễn bị chế định bởi ý chí, bản năng hoặc những nhân tố tiềm thức. Chẳng hạn, nhà triết học người Mỹ W.
  9. James coi kinh nghiệm tôn giáo là thực tiễn tức là những hoạt động tinh thần thuần túy. Như vậy, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm về thực tiễn là ở chỗ, nó tuyệt đối hóa những hoạt động tinh thần, tư tưởng, hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần thuần túy. Như vậy, về thực chất họ đã gạt bỏ vai trò của thực tiễn. Theo C.Mác quan hệ khởi nguyên, đầu tiên của con người đối với giới tự nhiên là quan hệ thực tiễn. Ông viết: "Con người hoàn toàn không bắt đầu từ chỗ ở trong quan hệ lý luận đối với những vật của thế giới bên ngoài... mà tích cực hoạt động" [21, tr. 538]. Như vậy, C.Mác đã khẳng định rằng, con người không ngừng tác động vào thế giới xung quanh, mọi hoạt động của con người, xét đến cùng đều dựa trên cơ sở trao đổi chất và trao đổi năng lượng với thế giới xung quanh. Sự khác biệt căn bản giữa con người với các thực thể tự nhiên là ở chỗ, con người có khả năng nhận thức các quá trình của thế giới khách quan và không ngừng tác động vào thế giới đó để biến đổi, cải tạo nó theo nhu cầu của mình. Sự tác động vào thế giới bên ngoài đòi hỏi phải có sự nhận thức, tức là sự phản ánh tích cực và sáng tạo thế giới đó. Bởi vì, nhận thức là một hoạt động đặc trưng của con người nhưng sự xuất hiện và bản chất của nó chỉ có thể hiểu một cách đúng đắn trong mối quan hệ của nó với thực tiễn. Hay nói cách khác, nhận thức nảy sinh, tác động và phát triển từ thực tiễn và vì thực tiễn của con người. Theo V.I.Lênin, quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. Theo triết học Mác thì thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội phục vụ con người. Trong những năm gần đây ở trong nước và nước ngoài đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu và đề cập tới vấn đề tổ chức thực tiễn và năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ [1], [7], [12], [32], [34], [35]. Có tác giả xem xét nó trong mối quan hệ với tri thức hay trong môi quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan... Dù xem xét ở góc độ nào, khía cạnh nào thì cũng có thể hiểu rằng tổ chức thực tiễn là một
  10. dạng hoạt động của con người nhằm thực hiện một nhiệm vụ nào đó của mình theo mục đích nhất định. Đây là một quá trình hết sức phức tạp, đan xen nhiều dạng hoạt động cụ thể cảm tính khác nhau nhằm đặt ra các mục tiêu cụ thể của con người để thỏa mãn nhu cầu và mục đích của mình. Có thể nói, tổ chức thực tiễn là một qui trình bao gồm các khâu nhận thức về những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, quá trình cụ thể hóa đường lối, nghị quyết thành các quyết định để tổ chức thực hiện; các quá trình huy động, tập hợp lực lượng để thực hiện các quyết định; quá trình kiểm tra, đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm. Khi bàn về tổ chức thực tiễn có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng: Tổ chức thực tiễn là quá trình bao gồm sự liên kết, phối hợp các nhân tố khách quan và chủ quan, các yếu tố vật chất và tinh thần, tri thức và tình cảm, truyền thống và thời đại, trong nước và quốc tế... thành một hệ thống, một chỉnh thể hoạt động nhịp nhàng, cân đối có hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu đã xác định [7, tr. 6]. ý kiến khác lại cho rằng: Tổ chức thực tiễn là quá trình bao gồm sự liên kết, phối hợp các nhân tố khách quan và chủ quan, các yếu tố vật chất và tinh thầ n; truyền thống và thời đại; con người; xã hội và tự nhiên; sức lao động, tư liệu lao động, hoàn cảnh, điều kiện trong nước và quốc tế thành một hệ thống, một chỉnh thể hoạt động nhịp nhàng cân đối, có hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu xác định [27, tr. 64]. Nhìn chung các quan điểm trên có những nhân tố hợp lý nhất định ở chỗ đã đề cập được những nội dung cơ bản của tổ chức thực tiễn. Dựa trên những nhân tố hợp lý
  11. đó, cũng như mục đích nghiên cứu của luận văn, chúng tôi cho rằng: Tổ chức thực tiễn là quá trình liên kết, phối hợp giữa các nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan, các yếu tố vật chất và tinh thần, thành một chỉnh thể thống nhất trong hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội theo mục tiêu đã xác định. Như vậy, tổ chức thực tiễn là phạm trù rộng, song trong khuôn khổ của luận văn, tác giả mạnh rạn tập trung đi vào nghiên cứu vấn đề tổ chức thực tiễn với tính chất là một hệ thống khép kín của các khâu, các quá trình của việc ra quyết định, việc tổ chức thực hiện quyết định, việc kiểm tra thực hiện quyết định và việc tổng kết thực hiện quyết định. Đây là quá trình lôi cuốn hàng triệu người lao động tham gia một cách tự giác và tuân theo những mục tiêu đã định. Tổ chức thực tiễn không chỉ đơn thuần là tổ chức một quá trình kinh tế, chính trị, xã hội mà là cả một quá trình tổ chức thực hiện tổng thể các chương trình, mục tiêu đã định. Do đó, tổ chức thực tiễn là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khoa học quản lý và nghệ thuật lãnh đạo để phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo và những khả năng tiềm ẩn của đông đảo quần chúng nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đặt ra. Đây cũng là nét đặc thù của tổ chức thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Quá trình này phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của chủ thể tổ chức thực tiễn, vào năng lực và phẩm chất của họ. Vì vậy, muốn tổ chức thực tiễn có hiệu quả, chủ thể tổ chức thực tiễn phải biết sử dụng, phát huy tối ưu các điều kiện vật chất, phương tiện, công cụ, các lực lượng xã hội... Vận hành một cách đồng bộ trong quá trình tổ chức thực hiện. Do đó, tổ chức thực tiễn là: "Một qui trình kể từ khi đề ra chủ trương, xác định kế hoạch tiến hành; chuẩn bị điều kiện các mặt; đặc biệt là việc xây dựng bộ máy, lựa chọn cán bộ điều hành; xây dựng cơ chế hoạt động và lề lối làm việc cho đến bước kiểm tra cuối cùng" [27, tr. 65]. Tổ chức thực tiễn có vai trò to lớn là đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Nói cách khác, thông qua tổ
  12. chức thực tiễn những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được hiện thực hóa trong cuộc sống. Bởi vì, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước có hay đến đâu, đúng đến mấy chỉ có thể phản ánh được cái bản chất, cái tổng quát của đời sống xã hội và đang dừng lại ở trên văn bản, giấy tờ. Chỉ có thông qua tổ chức thực tiễn thì những chủ trương, đường lối, chính sách ấy mới được hiện thực hóa trên thực tế. Đúng như cố tổng bí thư Lê Duẩn đã nói: "Sau khi đã có đường lối thì công tác quản lý và tổ chức thực hiện có vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định bản thân vận mệnh của đường lối" [2, tr. 480]. Vào những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX nước ta đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội khá trầm trọng, mọi mặt của đời sống xã hội hết sức khó khăn, sản xuất thì đình đốn, lạm phát tăng nhanh, đất nước bị bao vây cấm vận kinh tế... lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước bị giảm sút, đất nước đặt trong tình thế lâm nguy. Tình hình đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Một trong những nguyên nhân đó là chúng ta chưa tổ chức thực hiện tốt những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn trên thực tế. Chưa tổng kết được những thành công và thất bại trong tổ chức thực hiện để bổ sung, hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách. Nhưng cũng từ những yếu kém ấy, Đảng và Nhà nước ta đã tăng cường tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Xuất phát từ thực tiễn cũng như thông qua tổ chức thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã nắm bắt những sáng tạo của quần chúng nhân dân. Trên cơ sở đó từng bước đổi mới tư duy lý luận và đã đề ra được những chính sách phù hợp với thực tế của nước ta. Qua đó từng bước hình thành tư tưởng và đường lối đổi mới đúng đắn ở nước ta như: Chỉ thị 10- CT/BCT của Bộ Chính trị, chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV về khoán sản phẩm đến người lao động trong nông nghiệp đã thực sự trở thành đòn bẩy khuyến khích người nông dân tham gia sản xuất, nó được ví như là luồng gió mới thổi vào sản xuất nông nghiệp của nước ta.
  13. Ngày nay, công cuộc đổi mới đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, diễn ra trong điều kiện mới có rất nhiều thuận lợi và khó khăn. Khi mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, trong xu thế hội nhập quốc tế, khu vực hóa, toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến từng quốc gia, dân tộc. Bên cạnh đó, những diễn biến về kinh tế, chính trị trên thế giới vẫn hết sức phức tạp, khó lường. Đất nước ta lại đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đứng trước những thời cơ và thách thức đó, chúng ta không thể tránh khỏi phải đối mặt với những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình hội nhập... Nhiều vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn bức xúc đang đặt ra và đòi hỏi phải có câu trả lời. Do đó, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương phải chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu tổng kết thực tiễn để có câu trả lời nhằm từng bước bổ sung về mặt lý luận mà những vấn đề mới của thực tiễn đã và đang đặt ra. Như vậy, tổ chức thực tiễn là một quá trình rộng lớn, phức tạp, gồm nhiều mặt và tuân theo một qui trình chặt chẽ. Thông qua quá trình tổ chức thực tiễn giúp cho chúng ta nhận thức đầy đủ, sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ tr ương, đường lối, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ đó, mới có thể cụ thể hóa đường lối, chủ trương đó một cách đúng đắn và sáng tạo. Qua đó chúng ta mới tìm được những hình thức mới, phương pháp mới phù hợp với điều kiện và môi trường cụ thể ở địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện. Chính trong quá trình tổ chức thực tiễn chúng ra mới có thể kiểm tra được tính khoa học, chính xác của chủ trương, đường lối, đồng thời giúp cho ta khắc phục những khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót làm cho chủ trương, đường lối đó ngày càng hoàn thiện hơn và phù hợp hơn với cuộc sống của đông đảo nhân dân lao động. Như đã phân tích ở trên, chúng ta thấy tổ chức thực tiễn có vai trò to lớn trong việc hiện thực hóa lý luận, chủ trương, đường lối, chính sách. Tổ chức thực tiễn vừa mang tính lãnh đạo về tư tưởng, vừa mang tính điều hành cụ thể; vừa chỉ đạo phong
  14. trào, vừa lôi cuốn quần chúng nhân dân tham gia, quản lý là hoạt động tổ chức thực tiễn của người lãnh đạo, quản lý. Do đó, hiệu quả của tổ chức thực tiễn là thước đo năng lực lãnh đạo, quản lý, của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Để hiểu rõ vai trò to lớn của tổ chức thực tiễn với công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp huyện thì ta phải tập trung làm rõ quá trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ này. Bất kỳ một quá trình tổ chức thực tiễn nào của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng bao hàm các khâu, các quá trình ra quyết định; tổ chức thực hiện quyết định; kiểm tra việc thực hiện quyết định; tổng kết việc thực hiện quyết định. 1.1.2. Quá trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện trong công tác lãnh đạo, quản lý Muốn hiểu được quá trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, thì trước hết phải hiểu được thực chất hoạt động lãnh đạo, quản lý của người cán bộ cấp huyện là gì. Để làm rõ vấn đề này chúng ta cần phải hiểu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện. Khi bàn về khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng: "Người cán bộ lãnh đạo trước hết phải là người tiêu biểu cho lý tưởng cách mạng, cho lẽ sống; là người có tri thức toàn diện uyên thâm của thời đại mình" [39, tr. 13]. Hay "cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người cán bộ lãnh đạo nhưng lãnh đạo toàn diện, có trọng trách nặng nề nhất, có quyền thay mặt tập thể lãnh đạo giải quyết các vấn đề và chịu trách nhiệm trước tập thể" [39, tr. 139]. Hai quan điểm trên đã đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của người lãnh đạo nhưng chưa thật đầy đủ chưa chỉ ra được những tiêu chí cụ thể. Một số quan điểm khác lại cho rằng:
  15. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ quan trọng nhất trong một tập thể, có quyền ra những quyết định việc chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định [44, tr. 35]. Quan điểm này đã đề cập được đầy đủ và toàn diện hơn về người cán bộ lãnh đạo chủ chốt, đã xác định rõ vị trí, vai trò cũng như quyền hạn và trách nhiệm của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Như vậy, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt là bộ phận quan trọng nhất trong một tổ chức nhất định, họ là người làm công tác lãnh đạo toàn diện, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của một tổ chức hay của cả hệ thống chính trị, nên trách nhiệm của họ rất lớn. Việc xác định cán bộ chủ chốt hay không phải cán bộ chủ chốt phải căn cứ vào chức trách của người cán bộ và đặt nó vào trong mối quan hệ với tổ chức, trong hệ thống chính trị. Bởi vì, người cán bộ ở vị trí này, trong tổ chức này là chủ chốt, nhưng ở cương vị khác, mối quan hệ khác có thể không phải là chủ chốt. Trong cấu trúc của hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta được phân chia thành 4 cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và xã, phường, thị trấn. Theo hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2001) thì cấp huyện là đơn vị hành chính sự nghiệp, là cấp trung gian tạo nên mối liên hệ giữa cấp tỉnh và các đơn vị ở cơ sở (xã, phường, thị trấn). Trong mối quan hệ đó, các đơn vị hành chính cấp huyện đóng vai trò quan trọng. Cấp huyện là cầu nối trong việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thường mang tính định hướng, ở tầm vĩ mô. Nên cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là cấp cuối cùng tổ chức thực hiện. Như vậy, tổ
  16. chức thực tiễn thường và chủ yếu được thực hiện ở cấp cơ sở chứ không phải là ở cấp huyện. Song, trên thực tế thì đôi khi cấp huyện cũng là cấp trực tiếp tham gia vào quá trình tổ chức thực tiễn - khi mà cấp cơ sở còn yếu kém, nhất là ở các tỉnh miền núi của nước ta. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở Điện Biên càng phải thực hiện chức năng tổ chức thực tiễn. Vậy cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là ai? Tại sao họ lại có vai trò to lớn như vậy. Để trả lời cho vấn đề này trước hết ta phải hiểu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là những người có chức vụ quan trọng trong cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chuyên trách ở cấp huyện (Bao gồm các chức danh Bí thư, Phó bí thư, Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; Trưởng, Phó phòng ban, ngành, đoàn thể và tương đương của cấp huyện). Người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện đóng vai trò là khâu trung gian, là cầu nối trong quá trình lãnh đạo, quản lý từ cấp tỉnh xuống cấp cơ sở. Với vị trí, vai trò như vậy hoạt động lãnh đạo, quản lý của người cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện vừa mang tính chất định hướng chung ở địa bàn cấp huyện vừa mang tính thực tiễn cụ thể ở địa bàn cấp xã, phường, thị trấn thuộc huyện. Chúng ta đều rõ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước được thể hiện qua chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật và các biện pháp lớn. Những chủ trương, đường lối, chính sách ấy tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những chủ trương, đường lối, chính sách đó chỉ trở thành hiện thực khi gắn nó với phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân ở cơ sở. Để hiểu rõ bản chất của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và ý thức thực hiện của các địa phương ở cơ sở thì không thể thiếu được vai trò của cấp tỉnh. Không giống như cấp huyện, cấp tỉnh là khâu trung gian giữa cấp Trung ương và cấp huyện nên hoạt động của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh chủ yếu manh tính chất định hướng trên địa bàn tỉnh. Cấp huyện như chúng ta đã rõ là cấp trên trực tiếp của cấp cơ sở. Vì thế, cấp huyện là cấp trực tiếp chỉ đạo, điều hành, quản lý cấp cơ sở thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
  17. sách, pháp luật của Nhà nước cũng như chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh. Điện Biên là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc của Tổ quốc, lại vừa mới chia tách, đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Tỉnh có 6 huyện, một thị xã, một thành phố. Qua khảo sát, tổng số cán bộ chủ chốt cấp huyện của tỉnh là 404 đồng chí (bao gồm các chức danh Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; Trưởng phó phòng và tương đương). Sau khi chia tách tỉnh (2004) hệ thống chính trị cấp cơ sở lại càng mỏng, toàn tỉnh có 88 xã (trong đó có 59 xã đặc biệt khó khăn và là xã biên giới). Qua khảo sát và đánh giá của Tỉnh ủy, hiện nay còn hơn 90% cán bộ cấp cơ sở chưa qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật. Do đó, bộ máy chính quyền ở cấp cơ sở ở Điện Biên vừa thiếu lại vừa yếu. Cho nên trong quá trình tổ chức thực hiện, triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước gặp nhiều khó khăn. Công tác chỉ đạo, điều hành trong phát triển kinh tế - xã hội còn yếu. Cho nên ở Điện Biên cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện vẫn tham gia trực tiếp vào các quá trình tổ chức thực tiễn ở cơ sở, trực tiếp chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Vậy, quá trình tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện được thực hiện như thế nào? * Quá trình ra quyết định Thực tiễn luôn vận động, phát triển và nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải có những biện pháp giải quyết kịp thời. Quá trình đó phụ thuộc rất lớn vào vai trò của người lãnh đạo, quản lý, mà trước hết là phụ thuộc vào các quyết
  18. định của họ. Vì các quyết định này tác động trực tiếp đến mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở địa phương. Quyết định của người lãnh đạo, quản lý có thể tác động theo khuynh hướng thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Để có một quyết định đúng đắn, yêu cầu đặt ra đối với người lãnh đạo, quản lý nói chung là phải bám sát vào thực tiễn địa phương. Chỉ có dựa trên cơ sở tình hình thực tiễn của địa phương thì các quyết định của người cán bộ lãnh đạo, quản lý mới sát hợp, kịp thời và không rơi vào giáo điều. Để quá trình ra quyết định mang tính khách quan và chính xác đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có khả năng thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin một cách nhanh nhạy, kịp thời, chính xác những vấn đề nảy sinh có liên quan đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của địa phương. Khi nắm chắc được thông tin thì người cán bộ lãnh đạo, quản lý mới tổng hợp, phân tích, đánh giá đúng tình hình ở địa phương, lĩnh vực mình phụ trách để tìm đúng nguyên nhân, những khả năng và hạn chế của chúng. Từ đó mới đề ra được các giải pháp để giải quyết vấn đề có hiệu quả. Như vậy, nắm bắt và xử lý thông tin chính xác ảnh hưởng đến chất lượng ra quyết định của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nhờ đó mà quá trình cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chỉ thị, nghị quyết của cấp trên vào địa phương được cụ thể hơn và kịp thời hơn. Vấn đề đặt ra là các quyết định đưa ra phải phù hợp với nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện thực hiện quyết định; phù hợp với điều kiện, môi trường của địa phương. Quyết định của người lãnh đạo, quản lý có thể mang tính trước mắt, có thể mang tính lâu dài. Điều này do yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn địa phương đặt ra. * Quá trình tổ chức thực hiện quyết định Muốn thực hiện các quyết định thì trước hết người lãnh đạo, quản lý phải biết tổ chức bộ máy cán bộ, bố trí và sử dụng cán bộ để tổ chức thực hiện các quyết định này.
  19. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của quá trình tổ chức thực tiễn. Vì vậy, muốn thực hiện quyết định thì tất yếu phải có bộ máy tổ chức và con người. Bộ máy cán bộ ở đây đóng vai trò là lực lượng tổ chức trực tiếp, điều khiển trực tiếp các quá trình tổ chức thực tiễn. Nói tới bộ máy là nói tới con người, bởi con người là chủ thể của bộ máy. Mà ở đây là các cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân. Chính họ đóng vai trò là chủ thể trong quá trình tổ chức thực tiễn. Họ và người định đoạt sự thành bại của các quyết định. Như vậy, nếu không có bộ máy và con người tổ chức thực hiện thì sẽ không có quá trình tổ chức thực tiễn. Do đó, các quyết định sẽ không thực hiện được. Trên cơ sở căn cứ vào nội dung và mục đích của việc ra quyết định người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải lựa chọn cán bộ và sử dụng họ nhằm hoàn thành tối ưu các quyết định đã được đề ra. Vì vậy, trong công tác bố trí cán bộ phải tùy việc mà bố trí người. Có như vậy thì trong quá trình tổ chức thực hiện mới phát huy, khai thác hết tiềm năng của họ. Việc tổ chức bộ máy, bố trí và sử dụng cán bộ thực hiện các quyết định có phát huy được năng lực và đạt được kết quả hay không phụ thuộc rất lớn vào vai trò tổ chức của người cán bộ, lánh đạo, quản lý. * Quá trình kiểm tra việc thực hiện quyết định Quá trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyết định là một khâu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình tổ chức thực tiễn. Nó quyết định đến tính khách quan, khoa học của vấn đề tổ chức thực tiễn. Mặt khác, nó bảo đảm tính định hướng, tính hiệu quả của quá trình thực hiện quyết định. Đồng thời nó góp phần hạn chế được những khiếm khuyết, sai lầm có thể xảy ra trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyết định là một mắt xích không thể thiếu trong quá trình tổ chức thực tiễn. Đây là nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên của
  20. người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình tổ chức thực tiễn. Đảng ta đã chỉ rõ: "Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo" [3, tr. 123]. Vì vậy, chỉ có thông qua kiểm tra, bằng kiểm tra việc tổ chức thực hiện các quyết định người lãnh đạo, quản lý mới nắm bắt, đánh giá được bản chất, mức độ, phạm vi của vấn đề mà mình đã quyết định. Trên cơ sở đó kịp thời đôn đốc thực hiện, điều chỉnh những sai lệch, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình tiến hành triển khai, thực hiện để hoàn thành được mục tiêu đã đặt ra. Khi quyết định đã được thông qua, bộ máy và con người đã được bố trí thì trọng tâm của tổ chức thực tiễn được chuyển sang kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn, tổ chức thực hiện. Như V.I. Lênin đã nói: kiểm tra là kiểm tra người và kiểm tra việc, kiểm tra là một việc tất yếu thường xuyên liên tục, kể từ khi chuẩn bị ra quyết định. * Tổng kết việc thực hiện quyết định Quá trình tổng kết rút kinh nghiệm việc tổ chức thực hiện các quyết định của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện là vòng khâu cuối cùng của một chu trình tổ chức thực tiễn. Đồng thời, nó cũng là sự mở đầu vòng khâu mới của chu trình tổ chức thực tiễn tiếp theo. Có tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện các quyết định thì người lãnh đạo, quản lý mới có cái nhìn tổng thể từ việc ra quyết định đến việc tổ chức thực hiện các quyết định một cách hoàn chỉnh. Qua đó mới đánh giá được toàn diện những thuận lợi, khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp tiếp theo cho tổ chức thực tiễn. Mặt khác, thông qua tổng kết rút kinh nghiệm mà người lãnh đạo, quản lý đánh giá được đúng năng lực, trình độ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ thuộc quyền mình quản lý. Trên cơ sở đó cách sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ và sử dụng cán bộ hợp lý hơn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0