ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––

LÊ THỊ HUYỀN CHANG

ĐẶC SẮC VĂN XUÔI MA VĂN KHÁNG QUA MÈO CON NGHỊCH NGỢM VÀ CHÓ BI ĐỜI LƯU LẠC, DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––

LÊ THỊ HUYỀN CHANG

ĐẶC SẮC VĂN XUÔI MA VĂN KHÁNG QUA MÈO CON NGHỊCH NGỢM VÀ CHÓ BI ĐỜI LƯU LẠC, DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội

dung trình bày trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố

trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Lê Thị Huyền Chang

i

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện về

sự hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách nhiệm của thầy

trong toàn bộ quá trình em hoàn thành luận văn.

Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban chủ nhiệm

Khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm

Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luận văn này.

Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động

viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018

Tác giả luận văn

Lê Thị Huyền Chang

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................ 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 6

5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 7

6. Dự kiến đóng góp của luận văn .................................................................... 7

7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 8

NỘI DUNG ......................................................................................................... 9

Chương 1: LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH

SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG .......................................... 9

1.1. Một số vấn đề lý thuyết phê bình sinh thái ............................................... 9

1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái .............................................................. 9

1.1.2. Phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại ........................ 14

1.1.3. Dấu hiệu để nhận biết tác phẩm dưới góc nhìn phê bình sinh thái ... 16

1.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng ................................................. 17

1.2.1. Đời văn Ma Văn Kháng .................................................................... 17

1.2.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng ........................................... 19

1.2.3. Quan niệm của Ma Văn Kháng về văn chương nghệ thuật .............. 22

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 28

Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VỚI THIÊN NHIÊN,

LOÀI VẬT TRONG MÈO CON NGHỊCH NGỢM VÀ CHÓ BI ĐỜI

LƯU LẠC ......................................................................................................... 29

2.1. Tính ẩn dụ trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc......... 29

iii

2.2. Loài vật - thành phần của tự nhiên trong mối quan hệ cộng sinh khác

biệt với con người ........................................................................................... 32

2.3. Các vấn đề nội dung viết về loài vật trong Mèo con nghịch ngợm và

Chó Bi đời lưu lạc .......................................................................................... 38

2.3.1. Khát vọng đồng hóa và hòa hợp trong mối quan hệ con người ........ 38

2.3.2. Ý nghĩa nhân đạo trong quan hệ giữa con người và loài vật ............ 42

2.3.3. Loài vật và con người trong quan hệ nhân quả ................................. 46

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 54

Chương 3: NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG MÈO CON NGHỊCH

NGỢM VÀ CHÓ BI ĐỜI LƯU LẠC ............................................................ 56

3.1. Điểm nhìn trần thuật ................................................................................ 56

3.1.1. Khái niệm về điểm nhìn trần thuật .................................................... 56

3.1.2. Điểm nhìn bên ngoài ......................................................................... 58

3.1.3. Điểm nhìn bên trong .......................................................................... 61

3.1.4. Cái nhìn về loài vật (Nhìn bằng điểm nhìn người kể chuyện, nhân

vật trong truyện, luân phiên điểm nhìn) ...................................................... 63

3.2. Ngôn ngữ kể chuyện ................................................................................ 68

3.2.1. Khái niệm về “Ngôn ngữ loài vật” .................................................... 68

3.2.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong Mèo con nghịch ngợm và

Chó Bi đời lưu lạc ....................................................................................... 69

3.3. Nghệ thuật miêu tả loài vật ...................................................................... 71

3.4. Giọng điệu trần thuật ............................................................................... 88

3.4.1. Khái niệm về giọng điệu trần thuật ................................................... 88

3.4.2. Giọng điệu thương cảm ..................................................................... 90

3.4.3. Giọng điệu phê phán ......................................................................... 90

3.4.4. Giọng điệu trữ tình, triết lý ................................................................ 92

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 94

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 95

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 98

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn xuất sắc của văn học

Việt Nam hiện đại. Ông là một trong những cây bút có công mở đường cho sự

nghiệp đổi mới văn học. Hơn nửa thế kỷ cầm bút với lòng say mê sáng tạo, từ

truyện ngắn đầu tay Phố cụt (1961) đến nay, ông đã có một sự nghiệp văn gồm

hơn tám nghìn trang in, hơn 200 truyện ngắn, 20 tiểu thuyết, 1 hồi ký tự truyện,

2 tập bút ký - tiểu luận phê bình.

1.2. Ma Văn Kháng xuất hiện trên văn đàn với nhiều mảng sáng tác như

hồi ký tự truyện, tập bút ký – tiểu luận phê bình đặc biệt thành công lớn nhất

của ông là ở hai mảng thể loại sáng tác đó là truyện ngắn và tiểu thuyết. Ở

mảng truyện ngắn, chúng ta có thể thấy rõ được ngòi bút khá là điêu luyện về

nghề nghiệp và đã đem lại nhiều vinh quang cho nhà văn ngay từ buổi đầu khởi

nghiệp như truyện ngắn Xa phủ đạt giải nhì trong cuộc viết thi truyện ngắn

1967 – 1968 của Báo Văn nghệ. Không chỉ có như vậy, trong mảng tiểu thuyết

Ma Văn Kháng cũng đạt được rất nhiều giải thưởng cao như Giải thưởng Văn

học Công nhân lần thứ 3 năm 1984 cho tiểu thuyết Mưa mùa hạ; Giải thưởng

Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 cho tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn...

Bằng tài năng của mình, Ma Văn Kháng đã đóng góp rất nhiều khía cạnh mới

cho truyện ngắn cũng như là tiểu thuyết từ cách chọn đề tài, cách dựng truyện.

Song đặc điểm cơ bản cốt lõi nhất trong sáng tác của Ma Văn Kháng là ông

thường đề cập đến các vấn đề sinh thái, về mối quan hệ giữa con người với tự

nhiên. Nhà văn còn đem đến cho độc giả một góc nhìn khá là mới mẻ và độc

đáo đó chính là cách ứng xử của con ngưới với thiên nhiên. Như vậy, một lần

nữa chúng ta càng thấy rõ được vị thế của nhà văn Ma Văn Kháng trong nền

văn học Việt Nam đương đại.

1.3. Phê bình sinh thái là một lý thuyết mới đã được giới nghiên cứu trên

thế giới quan tâm và ứng dụng vào nghiên cứu văn học. Gần đây, lý thuyết này

cũng bắt đầu được ứng dụng trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam và đã có

1

những thành tựu khả quan. Đây là một hướng nghiên cứu mới có nhiều triển

vọng, cho thấy mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, đặc biệt là cách ứng

xử của con người với thế giới tự nhiên và ngược lại. Điều này cũng được thể

hiện rõ trong bối cảnh xã hội hiện nay, trước nhu cầu nóng bỏng của nhân loại

về cải thiện môi trường sinh thái, khát vọng về mối giao hòa vĩnh cửu giữa con

người và thiên nhiên. Chính vì bởi những lý do trên mà chúng tôi lựa chọn đề

tài “Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi

đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái” làm đối tượng nghiên cứu của

mình. Hi vọng, công trình hoàn thành sẽ góp phần khẳng định những đóng góp

mới mẻ của nhà văn Ma Văn Kháng cho dòng văn học Việt Nam hiện đại, đồng

thời qua đó cũng cho thấy hiệu quả của một hướng tiếp cận mới mẻ trong văn học.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Ma Văn Kháng là một nhà văn lớn có những đóng góp đáng kể vào công

cuộc đổi mới của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Với 50 năm cầm bút, nhà

văn Ma Văn Kháng là một trong những người từng trải nghiệm qua nhiều thăng

trầm của cuộc đời và lịch sử dân tộc. Thành tựu của Ma Văn Kháng kết tinh ở cả

2 thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Vì thế, đã có nhiều công trình nghiên cứu,

phê bình và nhận xét về tiểu thuyết và truyện ngắn của ông.

Trong công trình nghiên cứu “Truyện ngắn Ma Văn Kháng và vấn đề thức

tỉnh tinh thần con người vùng cao”, Đào Thủy Nguyên có viết: “Tác giả đi sâu

vào nghiên cứu khẳng định một cách thuyết phục những vấn đề nhân sinh, thế sự,

những thành công đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn từ

trong truyện ngắn viết về đề tài dân tộc và miền núi của Ma Văn Kháng” [40].

Tác giả Nguyễn Nguyên Thanh trong bài viết “Ngày đẹp trời-tính dự báo

về những tình thế xã hội” (Báo Văn nghệ số 21 ngày 23/5/1987) khẳng định:

“Ma Văn Kháng đã khám phá cuộc sống từ những bình diện khác nhau, ông

lách sâu hơn vào ngõ ngách đời sống tinh thần, tìm ra những nguyên nhân và

quy luật khắc nghiệt của tồn tại xã hội” [48]. Như vậy, có thể thấy Ma Văn

2

Kháng là một nhà văn rất tâm huyết khi dùng ngòi bút của mình để phản ánh

lên cuộc sống đời thực.

Lã Thị Bắc Lý đã viết cuốn Chó Bi đời lưu lạc (1994), cuốn sách tạo nên

sự kì thú cho văn học thiếu nhi bởi sức hút tự thân của nó. Trong cuốn sách này

đã có hai câu chuyện: Một câu chuyện cho trẻ em và một câu chuyện cho người

lớn, trẻ em có thể thấy ở đây những sự kỳ thú say mê và người lớn đọc được ở

đây những điều đáng phải suy nghĩ. Tác giả quan niệm viết cho thiếu nhi,

không thể chấp nhận được sự dễ dãi, sự vội vàng. Nó phải là một quá trình ấp

ủ, phải có sự chắt lọc, phải qua sự nhào luyện, biến hóa một cách vật vã mới có

thể ra được chế phẩm.

PGS. TS Lã Nguyên với bài viết: “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều

sâu tâm hồn” (1998) được in trong lời giới thiệu cuốn Truyện ngắn chọn lọc

Ma Văn Kháng, đã có cái nhìn tổng quát truyện ngắn của Ma Văn Kháng. Dựa

vào sắc điệu cảm hứng thẩm mỹ, tác giả chia truyện ngắn Ma Văn Kháng thành

ba nhóm: Nhóm thứ nhất những tác phẩm chủ yếu về đề tài miền núi “những

truyện ngắn thể hiện cái nhức nhối, xót xa, giận mà thương cho sự hoang dã

mông muội của những kẻ chưa thành người và những người không được làm

người”. Nhóm thứ hai chủ yếu là những truyện ngắn viết về đời sống thành thị

trước sự đổi thay của đất nước sau chiến thắng 1975 “những truyện ngắn cất

lên tiếng nói cảm khái thâm trầm trước thế sự hôm nay”. Nhóm thứ ba gắn với

đề tài tính dục “những truyện ngắn thể hiện cảm hứng trào lộng trang nghiêm

trước vẻ đẹp của cuộc đời sinh hoá hồn nhiên”. Tác giả cũng chỉ ra một số đặc

điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng: tính công khai bộc lộ chủ đề,

sự cố ý tô đậm chân dung, tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt

truyện, đưa thành ngữ, tục ngữ vào ngôn ngữ nhân vật… Cũng trong bài viết

này, tác giả đã đưa ra nhận xét: “Ma Văn Kháng là nhà văn của cái đẹp trong

dòng đời sinh hóa bình dị, hồn nhiên, cái đẹp trong niềm hạnh phúc được làm

người với ý nghĩa đích thực của nó chứ không phải là cái gì khác, Ma Văn

Kháng đã cất lên tiếng nói riêng” [39].

3

PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết “Con người giữa dòng xoáy

ham muốn đời thường” đã khẳng định: “Văn xuôi Ma Văn Kháng đang ở đỉnh

cao của phong độ đã hướng ngòi bút chú mục đào sâu, soi lật cặn kẽ, nghiêm

ngặt vào một khía cạnh hiện diện như một thực thể khó nắm bắt trong đời sống

con người hiện đại hôm nay. Đó là sự thúc đẩy, chi phối nhiều khi với một sức

mạnh vô hình, nhưng khắc nghiệt của những ham muốn tiềm ẩn nơi mỗi con

người, hoặc là sự xung đột, va chạm gay gắt về lợi ích giữa những dục vọng

của những cá thể khác nhau”. Đồng thời, trong bài biết này tác giả cũng đưa ra

nhận xét về thế giới nhân vật trong văn xuôi Ma Văn Kháng: “Trong cái nhìn

con người, ông không lý tưởng hóa, tô vẽ nó nhân danh những tín điều cao

siêu. Ông đặt con người vào đúng chỗ đứng của nó trên trần thế, vào giữa xã

hội nhân quần bao bọc lấy nó, và qua ham muốn, ông lần tìm động cơ, lẽ sống

của mỗi con người” [54, tr.269-270].

Ngoài ra còn kể đến nhiều công trình, bài báo tập trung nghiên cứu khám

phá đề cập đến một số phương diện khía cạnh truyện ngắn Ma Văn Kháng như:

- Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Tác giả Đỗ Phương

Thảo, Chuyên luận, Nxb Văn học, 2008.

- “Phong cách văn xuôi miền núi của Ma Văn Kháng”, Phạm Duy Nghĩa,

Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (số 175) tháng 8/2009.

- “Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng”, Nguyễn Ngọc

Thiện, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (số 186) tháng 7/2010.

- “Những người đàn bà của nhà văn Ma Văn Kháng”, Hoài Nam, Văn

nghệ Công an, (số 279), 2016.

Bên cạnh đó, chúng tôi lưu ý một số luận văn, đề tài nghiên cứu tiêu biểu:

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng của Nguyễn Thị

Thanh Nga (2007); Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng

thời kỳ đổi mới của Nguyễn Hải Yến (2010); Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn

Kháng thời kỳ đổi mới của Nguyễn Thị Hồng Thắm (2013)…

Nghiên cứu về văn xuôi Ma Văn Kháng từ góc nhìn phê bình sinh thái cho

đến nay còn ít công trình đề cập đến một cách hệ thống và chuyên biệt. Tuy

4

nhiên, những vấn đề liên quan về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thế

giới loài vật dưới góc nhìn sinh thái học đã được các tác giả ít nhiều quan tâm

đến trong các bài viết, luận văn, luận án, công trình, ý kiến của việc vận dụng

lý thuyết phê bình sinh thái khảo sát thực tiễn của văn học Việt Nam:

Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa (2014) của Nguyễn Đăng

Điệp. Trong bài viết này tác giả đã vận dụng lí thuyết sinh thái để phân tích

biểu tượng vườn trong thơ mới. Tuy nhiên, cũng như tác giả thú nhận, đó là

“những vén mở bước đầu”.

Nguyễn Ngọc Thiện (2015), Văn chương, nghệ thuật và thẩm mỹ tiếp

nhận. Trong cuốn sách này tác giả tập hợp các bài phỏng vấn, nghiên cứu phê

bình trước nay về nhà văn Ma Văn Kháng, với một số danh tác thuộc truyện

ngắn, tiểu thuyết, hồi ký, bút ký - tiểu luận của ông.

Công trình Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 -

2000, Nguyễn Văn Kha nhìn nhận sự thay đổi về quan niệm về con người

trong sự gắn bó với đất đai, hài hòa với thiên nhiên xứ sở.

Phạm Tuấn Anh - Luận án Tiến sĩ Đổi mới khuynh hướng thẩm mĩ trong

văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 đề cập đến một khía cạnh đổi mới của văn

xuôi là việc nhìn nhận con người trong mối quan hệ với tự nhiên.

Trịnh Thùy Dương - Luận văn thạc sĩ Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc

nhìn phê bình sinh thái.

Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh với công trình Con người và tự nhiên

trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái.

Gần đây nhất, có thể kể đến Luận văn thạc sĩ Đặc sắc trong truyện

ngắn về loài vật của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn phê bình sinh thái của

Đào Thị Hồng Phượng.

Có thể nói, dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa

con người và tự nhiên của các tác giả như Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn

Kha, Phạm Tuấn Anh… Nhưng mỗi bài viết lại là một cách nhìn, một cách cảm

nhận, một quan điểm và một suy nghĩ riêng. Ở một góc độ tổng quát, chúng tôi

đã nhận thấy, chủ yếu các tác giả tiếp nhận Ma Văn Kháng trên một bình diện

chung là: Đón nhận và tôn vinh. Tuy nhiên, hiện nay vẫn ít có công trình

5

nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên biệt về mối quan hệ, ứng xử, tương

tác giữa con người với tự nhiên trong văn xuôi của Ma Văn Kháng. Dựa trên

những ý kiến bàn luận và các kết quả đã nghiên cứu về Ma Văn Kháng, chúng

tôi nhận thấy vẫn còn một khoảng trống cần phải lấp đầy để làm hoàn chỉnh

hơn bức tranh toàn cảnh về văn xuôi của ông.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Triển khai đề tài “Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch

ngợm và Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái”, nhằm mục đích:

Làm sáng tỏ các khái niệm lý luận liên quan về phê bình sinh thái và thực

tế nghiên cứu văn học từ góc độ phê bình sinh thái ở Việt Nam. Đồng thời nhận

diện quá trình sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng, từ đó:

- Làm rõ đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong các truyện ngắn và tiểu

thuyết về loài vật của Ma Văn Kháng.

- Sự độc đáo của bút pháp tự sự và phong cách Ma Văn Kháng trong

truyện ngắn và tiểu thuyết viết về loài vật, giúp cho việc giảng dạy ở nhà

trường những tác phẩm về loài vật được sâu sắc hơn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Khảo sát Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và

Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Chúng tôi mong rằng sẽ:

- Góp thêm tiếng nói mới về thế giới loài vật trong các sáng tác của ông,

cũng như có cái nhìn toàn vẹn hơn về quá trình vận động tư tưởng nghệ thuật

của nhà văn.

- Góp phần khẳng định bút pháp, phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng

và sự đóng góp của ông trên văn đàn văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thiên nhiên, thế giới loài vật trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của Ma

Văn Kháng.

6

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Ma Văn Kháng là một cây bút văn xuôi đã khẳng định được vị trí của

mình trên văn đàn cũng như trong lòng công chúng yêu văn chương. Cho nên

trong phạm vi luận văn này, chúng tôi tập trung khảo sát 17 truyện ngắn của

Ma Văn Kháng in trong cuốn Mèo con nghịch ngợm (Nhà xuất bản Hồng Đức -

334 trang - năm 2016); cuốn tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc (Nhà xuất bản Văn

hóa Thông tin, Hà Nội - 300 trang - năm 1999) của Ma Văn Kháng và những

truyện ngắn lẻ khác về loài vật: Bà cụ Cần và bầy chim sẻ...

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu nhằm phù hợp với

đối tượng và mục đích nghiên cứu như:

- Phương pháp phê bình sinh thái học và thi pháp học

- Phương pháp nghiên cứu về tác giả

- Phương pháp khái quát, phân tích, tổng hợp, liên ngành

- Phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê

- Phương pháp phân loại

Vấn đề lý thuyết sinh thái học có liên quan đến một số lĩnh vực khoa học

khác như sinh học, văn hóa…Vì vậy, chính sự vận dụng tổng hợp các phương

pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học giúp chúng tôi soi sáng và làm rõ

các phương diện, khía cạnh của vấn đề lý thuyết phê bình sinh thái và ứng dụng

vào nghiên cứu truyện ngắn và tiểu thuyết của Ma Văn Kháng.

6. Dự kiến đóng góp của luận văn

Luận văn này tập trung tìm hiểu: Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua

Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái.

Do đó, kết quả nghiên cứu của luận văn bước đầu sẽ chỉ ra được sự hòa kết độc

đáo giữa văn chương và sinh thái trong sáng tác của Ma Văn Kháng, cũng như

góp phần cho thấy sự phong phú, đa dạng trong cá tính sáng tạo của một tác giả

văn học Việt Nam đương đại và thấy rõ được giá trị nhân văn của hai tập truyện

trên. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa cung cấp phương pháp luận và

kiến thức văn học cần thiết cho việc tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy ở

7

trường phổ thông. Đồng thời, đây cũng là một cách tiếp cận mới cho các tác

phẩm văn học, mở ra hướng đánh giá giá trị nhân văn của văn học từ góc nhìn

phê bình sinh thái. Hơn thế nữa, kết quả nghiên cứu này cũng là một tiếng

chuông cảnh tỉnh đánh thức cách ứng xử bình đẳng của con người với môi

trường trong xã hội hiện nay.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của

luận văn được triển khai thành 3 chương:

+ Chương 1: Lý thuyết phê bình sinh thái và hành trình sáng tác của nhà

văn Ma Văn Kháng.

+ Chương 2: Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, loài vật trong

Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc.

+ Chương 3: Nghệ thuật tự sự trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời

lưu lạc.

8

NỘI DUNG

Chương 1

LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC

CỦA NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG

1.1. Một số vấn đề lý thuyết phê bình sinh thái

1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái

Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latin là nhà ở, nơi cư trú, bất kì một

sinh vật sống nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học

(ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, được ra đời vào năm 1869 do nhà sinh

vật học người Đức Ernst Haecker đưa ra. Có thể coi ông là người đầu tiên đặt

nền móng cho môn khoa học sinh thái, nghiên cứu về mối tương quan của động

vật với các thành phần môi trường vô sinh.

Phê bình sinh thái manh nha vào những năm 70 của thế kỉ XX. Năm

1974, học giả người Mỹ Joseph W. Meeker cho xuất bản cuốn chuyên luận

Sinh thái học của văn học. Cụm từ “sinh thái văn học” lần đầu tiên được

nhắc đến để chỉ mối quan hệ ảnh hưởng của văn học đối với hành vi nhân

loại và môi trường tự nhiên.

Năm 1978, Wiliam Rueckert trên tạp chí Bình luận Iowa (số mùa đông) có

bài “Văn học và sinh thái học: Một phác thảo thử nghiệm phê bình sinh thái

học”, lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Phê bình sinh thái” với ý nghĩa “kết hợp

văn học và sinh thái học”. Nhà phê bình cho rằng cần phải có cái nhìn về sinh

thái học và phải xây dựng được một hệ thống thi pháp học sinh thái. Trải qua

hơn trăm năm phát triển, sinh thái học đã có rất nhiều định nghĩa cho nên phần

lớn các giới phê bình văn học vẫn chưa biết thực chất phê bình sinh thái học là

gì. Chính vì lẽ đó nên đến năm 1994, trong hội văn học miền tây Blanche và

Sean O Grady đã tổ chức hội nghị bàn tròn gồm khoảng 20 học giả để giới

thiệu khái niệm “Phê bình sinh thái”.

Tháng 6 năm 1995, ASLE lần đầu tiên tổ chức hội thảo khoa học tại

trường đại học Colorado, hội nghị đã nhận được hơn 200 báo cáo. Mọi người

9

thường coi đại hội lần này của ASLE là một tiêu chí đánh dấu sự hình thành

của khuynh hướng phê bình sinh thái.

Năm 1996, tuyển tập Phê bình sinh thái do Cheryll Glolfelty và Harold

From chủ biên được xuất bản. Cuốn sách này đã được công nhận là tài liệu

nhập môn của phê bình sinh thái. Cuốn sách này đã được chia ra làm ba phần:

Phần thứ nhất là phần thảo luận sinh thái học và lý luận văn học sinh thái, phần

thứ hai là phê bình sinh thái của văn học, phần thứ 3 là phê bình của văn học

sinh thái.

Năm 1998, tại Luân Đôn, tuyển tập: Phê bình sinh thái và văn học do nhà

phê bình người Anh R.Kerridge và N.Sammells chủ biên được xuất bản. Có thể

xem đây là một bộ tuyển tập phê bình sinh thái đầu tiên ở Anh. Trong cuốn

sách này gồm 15 chương và cũng phân định rõ thành ba phần đó là Lý luận phê

bình sinh thái, Lịch sử phê bình sinh thái và Văn học sinh thái đương đại. Trong

lời mở đầu cuốn sách R. Kerridge viết: Phê bình sinh thái là “một môn phê bình

văn hóa chủ nghĩa môi trường mới”. “Phê bình sinh thái cần bàn luận về biểu hiện

của môi trường và quan niệm môi trường trong văn học” [13, tr.1].

Năm 2000 cũng là năm phát triển mạnh của phê bình sinh thái, trong

khoảng thời gian này đã xuất hiện những chuyên luận và hàng loạt các tuyển

tập quan trọng. Tháng 6 năm 2000 tại đại học Cork tiến hành hội thảo khoa học

quốc tế đa ngành với chủ đề “Giá trị của môi trường”. Tháng 10 năm đó, tại đại

học Danjiang Đài Loan đã tổ chức hội thảo quốc tế phê bình sinh thái với chủ

đề “Diễn ngôn sinh thái”. Trong hội nghị, giáo sư Gifford đại học Leeds nước

Anh đã kêu gọi học giả các nước: “Đem phê bình sinh thái vào trong giảng

đường đại học” [13].

Năm 2000, trong những chuyên luận phê bình sinh thái tiêu biểu được

xuất bản có chuyên luận Lĩnh vực rộng lớn của nghiên cứu văn học hướng về

tự nhiên của giáo sư Murphy, cuốn sách bàn về văn học sinh thái, trong đó gồm

tiểu thuyết, văn xuôi phi tiểu thuyết và thơ ca. Chuyên luận Chủ nghĩa môi

trường trong văn học Mĩ của Meisel bàn luận về lí luận phê bình sinh thái và

môi trường, phong cảnh, hoang dã…và Bài ca của trái đất của Bate… Khác

10

với trước tác của 9 năm về trước, trong bộ chuyên luận về phê bình sinh thái

này, Bate mở rộng góc nhìn phê bình từ văn học chủ nghĩa lãng mạn, từ cổ đại

Hi La đến toàn bộ văn học phương Tây thế kỉ XX, hơn nữa còn đi sâu bình luận

về lí luận phê bình sinh thái. Giáo sư Kupe đại học Manchester chủ biên

cuốn Văn bản nghiên cứu xanh: từ chủ nghĩa lãng mạn đến phê bình sinh

thái do nhà xuất bản nổi tiếng Routledge xuất bản. Không giống với các học

giả Mĩ, học giả Anh ngay thời kì đầu đã nghiêng hơn về “nghiên cứu xanh” chứ

không phải “phê bình sinh thái”. Cuốn sách này chia làm 3 phần: “truyền thống

xanh”, “lí luận xanh” và “đọc hiểu xanh”. Cũng năm 2000 tập hợp các báo cáo

tại đại hội lần thứ 2 của ASLE được xuất bản với tiêu đề Đọc dưới sự chỉ

đường của tự nhiên: tuyển tập mới về phê bình sinh thái.

Như chúng ta đã biết, tư tưởng cốt lõi của phê bình sinh thái là lấy môi

trường tự nhiên làm trung tâm thay vì con người trong phê bình văn học, nhấn

mạnh sinh mệnh tự nhiên, đạo đức sinh thái. Ý thức sinh thái được thể hiện rõ

trong các sáng tác văn chương vĩ đại của Mĩ Latin như Trăm năm cô đơn, Tình

yêu thời thổ tả (G.G.Marquez), Con quỷ chơi đùa ở miền đất hoang (G.Rosa),

Vương quốc trần gian, Thế kỉ ánh sáng (A.Carpentier)… và được các nhà văn ý

thức một cách có hệ thống cũng như hoàn toàn tự giác trong quan niệm sáng

tạo văn chương.

Bước sang thế kỉ XXI, phê bình sinh thái phát triển sâu rộng hơn. Năm

2001, Buell cho xuất bản cuốn Viết vì thế giới đang lâm nguy: Văn học, văn

hóa, môi trường nước Mỹ và các quốc gia khác. Có thể thấy, phê bình sinh thái

với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học được hình thành

ở Mỹ vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX, tiếp đó xuất hiện ở nhiều nước

trên thế giới. Trong số khá nhiều giới thuyết về thuật ngữ “phê bình sinh thái”

thì cách hiểu của nhà phê bình sinh thái Mỹ - Cheryll Glotfelty được cho là

ngắn gọn nhất: “Phê bình sinh thái là phê bình bàn về mối quan hệ giữa văn

học và tự nhiên”.

Karl Kroeber lại cho rằng: “Phê bình sinh thái không phải đem phương

pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hoặc phương pháp

11

nghiên cứu của bất kỳ khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích văn học. Nó

chỉ dẫn nhập quan điểm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn

học mà thôi” [14, tr.9].

Với tư cách là khuynh hướng phê bình văn hóa văn học, phê bình sinh thái

có nhiệm vụ chủ yếu mang giá trị đặc thù và đặc trưng bản thể luận của nó,

nghĩa là thông qua văn học để thẩm định lại văn hóa nhân loại, tiến hành

nghiên cứu - phê phán những tư tưởng, văn hóa, mô hình phát triển xã hội của

loài người làm ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của nhân loại đối với tự nhiên,

dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường và nguy cơ sinh thái.

Jonathan Levin đã chỉ ra: “Tất cả phương diện văn hóa xã hội của chúng

ta cùng quyết định phương thức độc nhất vô nhị sinh tồn của chúng ta trên thế

giới này. Không nghiên cứu những điều này, chúng ta không thể nhận thức sâu

sắc quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Vì thế, ngoài nghiên cứu

văn học biểu hiện tự nhiên như thế nào, chúng ta tất yếu còn phải dùng rất

nhiều tinh lực để phân tích tất cả các nhân tố văn hóa xã hội quyết định thái độ đối

với con người, đối với tự nhiên và hành vi tồn tại trong môi trường tự nhiên, đồng

thời kết hợp những phân tích này với nghiên cứu văn học” [14, tr.15].

Nhìn chung phê bình sinh thái đã được khá nhiều tác giả trên thế giới quan

tâm và trở thành một xu hướng nghiên cứu văn học có tính chất liên ngành và có

hiệu quả nhất định. Trong xu hướng nghiên cứu này, chủ yếu là các tác giả quan

tâm tới mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên, đặc biệt là thông

qua đó muốn cảnh báo về tình trạng lâm nguy của môi trường tự nhiên trong mối

quan hệ với con người qua những tác động ngược chiều và thuận chiều.

Hiểu một cách đơn giản, phê bình sinh thái nghĩa là không phải đem

phương pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hay phương

pháp nghiên cứu của bất kì khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích văn học.

Mà ở đây, nó chỉ dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào

phê bình văn học mà thôi. Chính vì vậy, với tư cách là một khuynh hướng phê

bình văn hóa văn học, phê bình sinh thái có nhiệm vụ thẩm định lại văn hóa

nhân loại, tiến hành phê phán, nghiên cứu tư tưởng văn hóa, mô hình phát triển

12

xã hội của loài người đã ảnh hưởng như thế nào đến thái độ và hành vi của

nhân loại đối với tự nhiên và điều đó dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường

sinh thái như thế nào.

Đến giữa thập niên 90, phê bình sinh thái đã thực sự trở thành một khuynh

hướng nghiên cứu văn học ở Mỹ và lan ra nhiều nước khác trên thế giới.

Mặc dù phê bình sinh thái là bộ môn khoa học mới đối với các nhà nghiên

cứu nhưng vẫn có thể kể đến những đặc trưng riêng của nó đối với các khuynh

hướng phê bình văn học trước đây. Trước hết, sự xuất hiện của phê bình sinh

thái có ý nghĩa như một đối thoại văn hóa, khi nó đề xuất tư tưởng lấy sinh thái

làm trung tâm thay thế tư tưởng coi con người là trung tâm, là chúa tể. Cho

nên, từ đó con người dần tách khỏi tự nhiên mà quên rằng: “về bản chất, con

người là sản phẩm của tự nhiên” [13, tr.41].

Thứ 2, như là hệ quả của việc định vị tư tưởng triết học sinh thái trung

tâm, các nhà sinh thái luôn tìm kiếm mối quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên hay

giữa văn minh với hoang dã. Từ đó, họ thấy rằng xã hội ngày càng phát triển và

quá trình đô thị hóa ngày càng diễn ra với tốc độ cao thì sự tàn phá của con

người đối với tự nhiên ngày càng khủng khiếp.

Thứ 3, vì nằm ở vị trí giao thoa giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội

nhân văn nên về bản chất, phê bình sinh thái là hướng tiếp cận liên ngành.

Thứ 4, trong môi trường khác nhau thì phê bình sinh thái luôn phải đối

mặt với những mối tương tác, mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên nên bản

thân nó rất khó tạo ra sự chặt chẽ về hệ thống khái niệm như các lý thuyết phê

bình văn học đã thấy trước đây.

Như vậy, trên cơ sở tiếp thu lý thuyết về phê bình sinh thái qua một số bài

báo liên quan đến vấn đề này, cũng như qua việc tìm hiểu những truyện ngắn

của một số nhà văn hiện đại trên thế giới và Việt Nam, đặc biệt là truyện ngắn

của Ma Văn Kháng, chúng tôi nhận thấy đã đến lúc chúng ta cần dành sự quan

tâm hơn nữa đến hướng nghiên cứu này.

13

1.1.2. Phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại

Phê bình sinh thái bắt đầu được nói đến ở Việt Nam trong khoảng vài chục

năm qua. Trước hết, chúng ta có thể nhận rõ ở trong các sáng tác của Nguyễn

Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Cao Duy Sơn…có thể nói rằng Sống mãi với

cây xanh của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn

học sinh thái ở Việt Nam đương đại

Việc nghiên cứu phê bình sinh thái vào trong các tác phẩm văn học Việt

Nam những năm gần đây đang trên đà phát triển và cũng là một vấn đề được

giới chuyên môn, những nhà khoa học quan tâm. Có thể điểm đến một số bài

nghiên cứu về phê bình sinh thái đối với các tác giả tiêu biểu như: thơ Thiền

thời Lí Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du... Ở các công

trình như Phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc, Thi pháp

Truyện Kiều của Trần Đình Sử, “người mở đầu cho Thi học Thiền gia” của

Phương Lựu, Tư tưởng sùng thượng thiên nhiên trong Thơ Nôm Nguyễn Trãi của

tác giả Lê Nguyên Cẩn... [40, tr. 39]. Có thể thấy các nhà nghiên cứu trên về cơ

bản chỉ đưa ra vấn đề con người trong thiên nhiên, ít những công trình nghiên cứu

vận dụng kĩ, sâu trong tác phẩm văn học cụ thể đứng trên góc độ sinh thái học.

Năm 2011, Viện Văn học tổ chức một buổi thuyết trình về phê bình sinh

thái. Karen Thronber sang Việt Nam trong khuôn khổ Hội thảo quốc tế 2011

“Tiếp cận văn học châu Á từ lí thuyết phương Tây hiện đại: vận dụng, tương

thích, thách thức và cơ hội” [42, tr. 41]. Tại Viện Văn học, bà cũng đã có buổi

giảng giới thiệu về Ecocriticism. Bài giảng Ecocriticism của Karen Thornber

tại Viện Văn học vào tháng 3 năm 2011 giới thiệu môt cách tổng quan về bản

chất, ý nghĩa và tiến trình của nghiên cứu văn chương môi trường và sau đó

phân tích 6 điểm cơ bản mà phê bình sinh thái quan tâm [42, tr. 41].

Nguyễn Tịnh Thy trong bài “Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu

trúc” (2013) đã nhìn thấy cảm quan hậu hiện đại biểu hiện rất rõ ở đặc điểm giải

cấu trúc qua những đặc trưng: Cái chết của chủ thể, tính đối thoại...

14

Trong bài “Cần tìm hiểu sự chuyển hướng của phê bình sinh thái” (2015),

Phương Lựu lưu ý viết về phê bình sinh thái đã đưa vấn đề “phê bình sinh thái về

công bằng hoàn cảnh” (thuật ngữ của T.V.Reed) vào tư tưởng học thuật của mình.

Bài giới thiệu “Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn

học”, Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt ( 2016), đã giới thiệu một cách

khái quát về phê bình sinh thái như một khuynh hướng nghiên cứu văn học khả

năng động hiện nay và những hướng nghiên cứu cụ thể của phong trào này.

Trần Thúy Anh trong công trình Ứng xử của người Việt đồng bằng châu

thổ Bắc Bộ qua tục ngữ, ca dao (2011) đã phân tích những phương thức ứng xử

đối với tự nhiên trong tục ngữ, ca dao từ đó đề xuất việc cần xây dựng đạo đức

sinh thái trong việc đối xử với tự nhiên.

Trong bài viết Mùa xuân, sinh thái và văn chương (2013), từ gợi dẫn truyện

ngắn Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp), Huỳnh Như Phương cho rằng “văn

học tham gia vào việc bảo vệ sức khỏe môi trường cũng là bảo vệ chính con

người và những giá trị thuộc về con người”.

Phê bình sinh thái là một khuynh hướng phê bình đang phát triển sôi nổi

khắp nơi, đặc biệt là ở Anh, Mỹ. Đây là một lí thuyết liên ngành, kết hợp giữa

văn học và khoa học, giữa phân tích văn chương và rút ra những cảnh báo về

môi trường. Ở Việt Nam, khuynh hướng nghiên cứu văn chương từ lí thuyết

phê bình sinh thái hiện nay vẫn còn mới mẻ và hạn hữu. Mặc dù số lượng tác

phẩm văn học sinh thái của nước ta còn rất ít, nhưng vấn đề sinh thái với muôn

hình vạn trạng vẫn luôn nhức nhối và được thể hiện đậm nhạt qua từng giai

đoạn. Đặc biệt, những năm gần đây, trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện nhiều

tác phẩm mang thông điệp về nguy cơ tồn vong của sinh loài và môi trường

sống đang dần bị hủy hoại dưới bàn tay vô tình của chính con người.

Chiến tranh suốt ba mươi năm có tính chất hủy diệt (Ruộng đã khô, nhà đã

cháy, thành phố đã tan hoang) đã để lại những tổn thất về môi trường dài lâu

mà con người chưa thể khắc phục ngay được. Những nỗi đau da cam hiện diện

đang bào mòn nhiều thế hệ và đã ngấm ngầm tàn phá môi trường với những

cánh rừng trơ trụi, nhiễm độc đất đai, nguồn nước…

15

Mặt khác, trong vài thập kỷ gần đây dân số tăng nhanh nên nhu cầu về

thức ăn và nơi ở rất lớn. Trong quá trình công nghiệp hóa, con người đã xem

thiên nhiên như là thứ vô tri nên mặc sức khai thác nó, tác động vào nó theo

mục đích riêng mà không tính đến những hậu quả lâu dài về mặt môi trường.

Để đáp ứng nhu cầu dân số ngày một tăng thì kèm theo tài nguyên môi

trường ngày càng bị khai thác một cách ồ ạt, chính điều đó đã đẩy con người

phải đối mặt với những hiểm họa môi trường ngày càng lớn dần. Con người

càng cố gắng để cải thiện cuộc sống thì cũng vô tình lại hủy hoại môi trường

sống của chính mình. Sự tăng trưởng nóng đã khiến môi trường tự nhiên bị đe

dọa, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề của mặt trái văn minh đô thị và

nhận thấy còn quá ít tài nguyên, nguồn thực phẩm, sức khỏe bị đe dọa. Từ đó,

mối lo lắng hiện lên hàng ngày và mang tính toàn cầu về sự suy giảm tới mức

báo động về mỏ quặng, không khí, nước, suy giảm tầng ôzôn, ô nhiễm biển…

Từ đó, có thể thấy mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên đang là

mối quan tâm hàng đầu không chỉ đối với các nhà nghiên cứu mà hầu như đối

với tất cả mọi người đang sống trên trái đất này.

Như vậy, có thể thấy vấn đề đang báo động hiện nay chính là sự suy thoái

nghiêm trọng về mặt sinh thái và cách thức của con người ứng xử với tự nhiên,

sự can thiệp quá mức và “thô bạo” của con người vào giới tự nhiên khiến cho

chúng không đủ sức chịu đựng nên đã dẫn đến sự mất cân bằng và ổn định vốn

có của nó. Hiện nay, ngày càng có nhiều tai biến thiên nhiên xảy ra và đã để lại

những hậu quả vô cùng xấu cho xã hội loài người. Trong đó con người vừa là

thủ phạm gây ra các vấn đề về môi trường và cũng chính con người lại vừa là

nạn nhân của các hiểm họa đó. Bởi vậy, con người cần phải thay đổi cách ứng

xử với tự nhiên để tìm lại sự bình đẳng trong mối quan hệ với tự nhiên để nhằm

đảm bảo sự ổn định cho môi trường sống của chính con người.

1.1.3. Dấu hiệu để nhận biết tác phẩm dưới góc nhìn phê bình sinh thái

Thứ nhất, khi tác phẩm từ bỏ cái nhìn mang tính ẩn dụ về tự nhiên để viết

với ý thức sinh thái. Văn học sinh thái chống lại sự nhân hóa tự nhiên. Khác với

các truyền thống về thế giới tự nhiên, chỉ có một nhân vật xuyên suốt câu chuyện,

16

chỉ có một tiếng nói cất lên sau hình tượng đó, tiếng nói mà con người phú cho.

Ngược lại, trong các truyện sinh thái, bên cạnh thế giới con người là thế giới

muông thú với những tình cảm, tính cách, cá tính… rất riêng. Tự nhiên có sinh

mệnh độc lập, có địa vị bên ngoài tồn tại khách quan với con người.

Thứ hai, văn học sinh thái lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư

tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để xem

xét và biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn

gốc xã hội của nguy cơ sinh thái. Thực chất, mối quan hệ giữa con người và

sinh thái là mối quan hệ cộng sinh, do vậy tác phẩm viết về mối quan hệ giữa

con người và thiên nhiên phải có quan điểm sinh thái. Lấy tư tưởng “sinh thái

là trung tâm” không phải là tư tưởng hạ thấp con người mà thực ra lợi ích của

sinh thái suy cho cùng cũng là lợi ích bền vững của nhân loại. Vấn đề biến đổi

khí hậu, nguy cơ sinh thái là vấn đề của toàn cầu chứ không phải là vấn đề

riêng lẻ của mỗi quốc gia dân tộc.

Thứ ba, cân bằng tự nhiên cũng đảm bảo cho cân bằng xã hội. Đó là lí do

vì sao văn học sinh thái tích hợp với các vấn đề xã hội: giới tính (sinh thái nữ

quyền, chủng tộc, giai cấp, xã hội). Văn học sinh thái chú trọng đến trách

nhiệm của con người đối với tự nhiên, khẩn thiết kêu gọi bảo vệ vạn vật trong

tự nhiên và duy trì cân bằng sinh thái. Văn học sinh thái đưa ra trách nhiệm của

con người đối với tự nhiên thành định hướng đạo đức chủ yếu. Đạo đức không

phải chỉ trong mối quan hệ giữa con người với nhau mà với việc anh ta đối xử

với thế giới xung quanh ra sao. Từ đó nhận diện những mẫu hình nhân cách

mới cho chủ nghĩa nhân văn: con người cần tôn trọng, yêu thương, hòa đồng

với thế giới tự nhiên, thân thiện loài vật để điều chỉnh đạo đức của mình.

1.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng

1.2.1. Đời văn Ma Văn Kháng

Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, người dân tộc Kinh, sinh

ngày 01 tháng 12 năm 1936 tại nhà thương Ái Mỗ, trấn Sơn Lộc, tỉnh lỵ Sơn

Tây cũ. Quê gốc ở làng Kim Liên, thuộc Kẻ Chợ, nay là phường Phương Liên,

quận Đống Đa, Hà Nội. Hiện nay, Ma Văn Kháng ở Quận Ba Đình, Hà Nội.

17

Thoát li tham gia cách mạng từ khi mới 12 tuổi, trưởng thành qua hai cuộc

kháng chiến, thuộc thế hệ nhà văn xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ trước.

Con đường đời, con đường nghệ thuật của ông có những mốc lớn gắn liền với

sự kiện lịch sử của đất nước. Là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên

Hội nhà văn Việt Nam (1974).

Ma Văn Kháng đã tham gia tổ chức thiếu sinh quân ngay từ thời niên

thiếu, rồi được cử đi học ở khu học xá Việt Nam tại Trung Quốc. Năm 1954,

kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại ở Miền Bắc. Theo

tiếng gọi của Tổ quốc, Đinh Trọng Đoàn đã xung phong lên Tây Bắc và được

cử đi dạy học ở Lào Cai. Năm 1960, ông trở về và vào học trường Đại học Sư

phạm Hà Nội I. Năm 1964, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, ông trở lại Lào

Cai dạy học và từng làm Hiệu trưởng trường trung học. Cũng chính tại mảnh

đất Lào Cai - “Miền đất vàng” trong một lần đi công tác ở nông thôn, Đinh

Trọng Đoàn đã làm quen với ông Ma Văn Nho, rồi hai người đã kết nghĩa anh

em, Đinh Trọng Đoàn đã cải tên họ thành Ma Văn Kháng. Bút danh Ma Văn

Kháng chính là để ông ghi nhớ những kỉ niệm không thể nào quên về một thời

tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, không ngại gian khó, lăn lộn với công việc dạy học nơi

bản làng, và bày tỏ niềm tri ân sâu nặng của mình đối với đồng bào các dân tộc

vùng cao, nơi ông đã từng sống và làm việc hơn hai mươi năm, nơi ông coi như

là quê hương thứ hai của mình.

Năm 1967 ông được Tỉnh ủy Lào Cai điều về làm thư ký cho Bí thư Tỉnh

ủy, rồi làm phóng viên, Phó Tổng biên tập báo Đảng bộ tỉnh. Ma Văn Kháng

am hiểu khá tường tận phong tục tập quán của bà con các dân tộc Lào Cai. Sau

ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ năm 1976 đến nay, Ma Văn Kháng về

sống và công tác tại Hà Nội với tư cách một nhà văn, ông từng giữ chức Tổng

biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995, ông là

Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Đảng đoàn - Hội nhà văn Việt Nam khóa IV

và là Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài của Hội.

Như vậy, cả cuộc đời vất vả, nhiều trải nghiệm như Tiễu phỉ, làm thuế,

xây dựng hợp tác xã, làm thư kí, dạy học, viết văn, viết báo… đã để lại dấu ấn

18

trên những trang viết đậm đà mang hơi thở cuộc sống của Ma Văn Kháng. Ở

tuổi ngoài 81 với hơn 50 năm cầm bút, Ma Văn Kháng vẫn luôn say mê sáng

tạo nghệ thuật không ngừng để trở thành một cây bút văn xuôi lực lưỡng mãi

tỏa sáng và luôn giữ được một vị trí quan trọng trên văn đàn Việt Nam với

những đóng góp không nhỏ cho quá trình đổi mới nền văn học dân tộc.

1.2.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng

Là một cây bút văn xuôi lực lưỡng, cần mẫn và sáng tạo nghệ thuật không

ngừng nghỉ. Ông đến với văn học bắt đầu bằng thể loại truyện ngắn. Trong

mảng truyện ngắn thì truyện đầu tiên của Ma Văn Kháng viết về loài vật là

truyện Cỏ cằn (1977). Gần đây có tác phẩm Con Clếch của tôi vốn được thai

nghén ròng rã 60 năm từ hồi tác gỉa ở Bắc Kạn, gần đây mới hoàn thiện đưa in.

Bạn đọc biết đến ông qua những tập truyện ngắn đặc sắc từ Sa Phủ; Ngày

đẹp trời; Heo may gió lộng; Trăng soi sân nhỏ, Ngoại thành… Với hơn 200

truyện ngắn nhưng dường như trong quá trình sáng tác của mình, Ma Văn

Kháng vẫn chưa chịu hài lòng với phạm vi phản ánh của thể loại này. Ông từng

nói: “Cho đến một lúc, tôi nhận ra rằng phải vượt qua cái thời kỳ ấu trĩ, viết

những truyện ngắn kịp thời, rằng chỉ có tiểu thuyết viết theo quy luật của sáng

tạo nghệ thuật mới cho phép tôi chuyển hóa khối lượng vốn sống khá dày dặn

sau nhiều năm tích lũy, cho phép tôi phản ánh hiện thực một cách sâu sắc, cho

phép tôi gửi gắm vào đó những suy nghĩ, những tình cảm, những kinh nghiệm

của cá nhân tôi”.

Ma Văn Kháng bắt đầu sáng tác tiểu thuyết vào cuối những năm 70 của

thế kỷ XX. Lần lượt tiểu thuyết của ông đã gây được tiếng vang lớn, trong đó

có những tác phẩm đã gây xôn xao trong dư luận với rất nhiều những ý kiến

trái chiều nhau.

Tiểu thuyết đầu tay của ông là Gió rừng, chính cuốn tiểu thuyết này đã

mang tính chất thử nghiệm, tập dượt. Bắt đầu từ Đồng bạc trắng hoa xòe đến

nay, hàng chục cuốn tiểu thuyết đã được ông lần lượt cho ra đời và khẳng định

được một vị thế trong nền văn học đương đại Việt Nam. Những cuốn tiểu

thuyết này cũng chính là những đứa con tinh thần mà Ma Văn Kháng đã từng

19

“mang nặng đẻ đau” và sinh thành ra chúng. Trong đó, chúng ta có thể kể đến

tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc. Trong tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc Ma Văn

Kháng nói về giữa cuộc sống bộn bề, bế tắc với biết bao nỗi lo toan cơ cực,

khốn cùng. Chó Bi được nhà văn Ma Văn Kháng khắc họa như là hiện thân của

cái đẹp. Cái đẹp thật sự theo ông là “cái đẹp khi ra đời trong bi tráng, trong đau

đớn, thiệt thòi với tâm thức ngạo nghễ ngẩng cao đầu”. Trải qua bao trầm luân,

lưu lạc, chó Bi như một sợi dây kết nối, xâu chuỗi các sự kiện trong những mối

quan hệ xã hội. Ở đây, có những mảnh đời éo le, bất hạnh nhưng vẫn khao khát

vươn lên bằng sức sống mãnh liệt.

Mặc dù vậy, nhưng điều quan trọng nhất trong những tác phẩm của Ma Văn

Kháng là chúng đều được xuất phát và chắt lọc ra từ tâm hồn, máu thịt của nhà

văn từ khi còn thai nghén, mang nặng cho đến lúc sinh thành với tất cả sự vững tin

về giá trị và đặc biệt là đã sẵn sàng đến với sự tiếp nhận của công chúng.

Ma Văn Kháng có những tác phẩm đã đạt được giải thưởng trong nước và

quốc tế, được dịch ra tiếng nước ngoài trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của

mình như: Sa Phủ; Trăng soi sân nhỏ; San Cha Chải; Gặp gỡ ở La Pan Tẩn;

Ngược dòng nước lũ. Ngoài ra, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn được giải

thưởng Hội nhà văn năm 1984, Ma Văn Kháng còn vinh dự được nhận giải

thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001, Giải thưởng Văn học Đông

Nam Á năm 1998, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.

Dựa vào những đề tài rồi từ những cảm hứng sáng tác của ông chúng tôi

có thể chia quá trình sáng tác của Ma Văn Kháng thành hai giai đoạn:

1.2.2.1. Giai đoạn thứ nhất (Gắn bó với Lào Cai - Miền đất vàng)

Ma Văn Kháng đến với Lào Cai như một cái “duyên” của cuộc đời. Ông

chia sẻ “tôi bị hấp dẫn bởi mảnh đất này, và tôi cảm giác mình có thể làm điều gì

đó ở đây”. Lào Cai - miền đất vàng chính là nơi ông bắt đầu lập nghiệp và cũng

từ chính nơi đây đã bắt đầu xuất hiện bút danh Ma Văn Kháng. Ông nhận ra:

“miền núi cần khám phá cả trong cái nhìn chung của đời sống vừa phải có nét

đặc trưng riêng”. Theo ông: “Cái quy lụât chung cần tồn tại trong cái riêng biệt

cụ thể, độc đáo và cái riêng biệt ấy có nguồn rất sâu xa tự trong lịch sử, địa dư

20

và nền văn hóa dân tộc Lào Cai - một tỉnh có hơn hai mươi dân tộc anh em sinh

sống” [21]. Quan niệm ấy đã trở thành yếu tố quan trọng tạo nên thành công

của Ma Văn Kháng về mảng đề tài dân tộc miền núi.

Những năm tháng sống tại nơi đây đã cùng ăn, cùng lao động sản xuất với

nhau. Các dân tộc đã giúp nhà văn hòa mình vào cuộc sống của họ, giúp ông có

thêm vốn sống sự am hiểu về văn hóa, tập tục của đồng bào miền núi, từ đó đã

tạo cho ông một nguồn cảm hứng viết sâu sắc.

Bằng tình yêu, sự gắn bó với mảnh đất ấm áp tình người đầy biến động, nhà

văn Ma Văn Kháng sáng tác bắt đầu từ truyện ngắn Phố Cụt được in trên trang

nhất của tuần báo Văn nghệ số 136 năm 1961 và sau đó ông liên tiếp cho ra đời

các tập truyện ngắn Xa Phủ (1969), Bài ca trăng sáng (1972), Góc rừng xinh

xắn (1972), Người con trai họ Hạng (1972), Mùa mận hậu (1972) … Những

tập truyện ngắn thời kỳ này của Ma Văn Kháng người đọc sẽ bắt gặp trong

những truyện này hình ảnh về những con người miền núi mộc mạc, giản dị một

lòng theo cách mạng, không quản khó khăn, vất vả. Những tác phẩm viết về đề

tài dân tộc miền núi này của ông mang đậm tính lịch sử - dân tộc.

Ma Văn Kháng khẳng định tên tuổi của mình trong mảng văn xuôi hiện đại

viết về đề tài miền núi nhờ sự không ngừng nỗ lực học hỏi say mê. Ông là một

trong số ít những nhà văn hiện đại của nền văn học Việt Nam thành công khi viết

về mảng đề tài này.

1.2.2.2. Giai đoạn thứ 2 (Trở về Hà Nội trong môi trường đô thị)

Sau khi đất nước hoàn toàn được giải phóng, năm 1976 Ma Văn Kháng rời

Lào Cai trở về Hà Nội hoạt động với tư cách là nhà báo, nhà văn chuyên

nghiệp. Lào Cai mảnh đất ông đã gắn bó hơn 20 năm coi như quê hương thứ

hai của mình, nơi cho ra đời những trang viết đầu tiên đã để trong ông biết bao

kỷ niệm “Xa Lào Cai rồi, nhưng những gì đã cảm hội được trong hai mươi năm

trời, sống cùng đồng chí bạn bè một đời cần lao, giản dị ở vùng đất này của Tổ

quốc, ngày đêm giục giã tôi viết tiếp” [21]. Những ấn tượng về mảnh đất thấm

đẫm tình người, những dư âm của chiến tranh được Ma Văn Kháng gửi gắm

vào các tập truyện Vệ sĩ Quan Châu (1988), Móng vuốt thời gian (2003). Và

21

các tiểu thuyết: Gió rừng; Đồng bạc trắng hoa xòe (1979), Vùng biên ải (1981),

Gặp gỡ ở La Pan Tẩn (2001).

Thời điểm ông trở về Hà Nội vào đúng lúc đất nước bước sang trang mới.

Cuộc sống đô thị diễn ra phức tạp và nhanh chóng. Đứng trước sự thay đổi đó,

con người cũng cần thay đổi cho phù hợp với thực tại. Ma Văn Kháng nhạy

cảm trước hiện thực mới. Ông vẫn gìn giữ những kỷ niệm gắn bó với mảnh đất

Lào Cai đồng thời thêm cảm nhận về những bề bộn lo toan, phức tạp, bon chen

mưu sinh của cuộc sống thành thị. Ông bắt đầu chuyển hướng ngòi bút của

mình vào mảng đề tài thành thị, quan tâm tới những mảnh đời số phận bất

hạnh, những cảnh đời éo le nhưng vẫn khát khao vươn lên bằng sức sống mãnh

liệt. Sáng tác của ông thời kỳ này bắt đầu nở rộ có thể kể đến các tác phẩm xuất

sắc đó là các tiểu thuyết: Mưa mùa hạ (1982); Mùa lá rụng trong vườn (1985);

Đám cưới không có giấy giá thú (1988); Côi cút giữa cảnh đời (1988); Chó Bi,

đời lưu lạc (1992); Ngược dòng nước lũ (1999); Một vùng đất hoang và những

cuộc gặp gỡ (2015); Chuyện của Lý (2012), Chim én liệng trời cao (2017).Và

các tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ (1995), Heo may gió lộng (1992), Nỗi nhớ

mưa phùn (2015), Bông hồng vàng (2015), Mèo con nghịch ngợm (2016)…

Sự thay đổi về đề tài trong sáng tác nghệ thuật của ông đi liền với sự thay

đổi về cảm hứng: từ cảm hứng lịch sử dân tộc ông chuyển sang cảm hứng thế sự

đời tư. Từ cái nhìn về cuộc sống đơn tuyến giờ đây ông đã chuyển sang cái nhìn

về cuộc sống đa tuyến, nhiều chiều con người với tất cả các mặt tốt - xấu, thiện -

ác đan xen lẫn nhau. Sáng tác thời kỳ này của ông thấm đẫm tinh thần nhân bản

về vẻ đẹp tình người, tình đời.

1.2.3. Quan niệm của Ma Văn Kháng về văn chương nghệ thuật

Cả một đời làm nghề và say nghề, nhà văn Ma Văn Kháng đã đi vào dòng

chảy của văn học Việt Nam đương đại như hình bóng một cây đại thụ. Và

những câu chuyện của ông, kể cả đã đi vào trang sách hay chỉ đơn giản là một

câu chuyện trong lúc trà dư tửu hậu, cũng là một bài học về nhân sinh, về cuộc

đời mà ông đã trải nghiệm, đã đi qua. Ma Văn Kháng khởi nghiệp bằng thể loại

truyện ngắn, chính thể loại này đã giúp ông khẳng định được tên tuổi của mình

22

trong nền văn học Việt Nam. Truyện ngắn Phố cụt được in báo năm 1961 đã

mở đầu sự nghiệp văn của ông đến những tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe,

Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời… Nửa thế kỷ cầm bút với 20

cuốn tiểu thuyết và hơn 200 truyện ngắn, nhà văn Ma Văn Kháng đã đi vào lịch

sử văn học Việt Nam như một biểu tượng của cuộc đời lao động viết văn không

mệt mỏi. Những tác phẩm của ông đã đi vào dòng chảy văn học Việt Nam với

những dấu ấn đậm nét. Bằng chính sự miệt mài, cần cù, bền bỉ, chắt chiu từng

giọt tinh túy của cuộc sống cùng với sự am hiểu và một phong cách sáng tạo

độc đáo nên tên tuổi cũng như những tác phẩm của ông đã nhanh chóng được

đông đảo bạn đọc biết đến và chiếm được tình cảm của độc giả.

1.2.3.1. Quan niệm của Ma Văn Kháng về sống và viết

Ra đời, đi dạy học về ngay Lào Cai. Cái thị trấn nơi địa đầu của Tổ quốc

trở thành một cái nôi sinh thành một nhà văn tầm cỡ tương lai. Với Ma Văn

Kháng, đó là một địa danh cao quý: Lào Cai, miền đất vàng. Để từ đó, nhà văn

khai thác mãi, đến cuối đời vẫn chưa vơi cạn “kho vàng” ấy.

Từ truyện ngắn Phố Cụt (1961) đến nay, đã hơn 50 năm mà vẫn còn biết

bao tư liệu, bao con người, bao chuyện đời trên trang giấy. Từ những hiểu biết

ban đầu: “May mắn những hiểu biết đầu tiên ấy lại có điều kiện khơi sâu, mở

rộng hơn...”, “May mắn ở đây có thể là do địa lý chia cách, mà tại đây cảnh

quan địa lý vẫn như còn được đóng gói, giữ nguyên hiện trạng...”, để dẫn đến

điều quan trọng nhất: “May mắn đối với người viết văn, Lào Cai là một vỉa

quặng còn chưa khai phá, Lào Cai - miền đất vàng”. Ma Văn Kháng đã phát

hiện ra cả một vùng thẩm mỹ đặc sắc của đời viết.

Nơi vào đời ấy chính là nơi lập nghiệp của Ma Văn Kháng. Một thời gian,

nhà văn gắn bó với nghiệp dạy học, tiếp đó là nghiệp văn chương. Nhưng văn

chương cũng bắt nguồn từ dạy học, những người thầy cũng đi vào sáng tác của

ông, trong đó dấu ấn rõ nét nhất là tác phẩm Đám cưới không có giấy giá thú.

Ma Văn Kháng đã tâm niệm Sống rồi mới viết. Nhà văn tự sáng tác, tự

suy nghiệm. Để rồi, từ những gom nhặt của hàng chục năm, từ những bài viết

phê bình, tham luận trong nước và ngoài nước, bút ký văn học, được công bố

23

thành những cuốn tiểu luận và bút ký văn học có giá trị trong mấy năm gần

đây, ở buổi hoàng hôn cuộc đời: Phút giây huyền diệu (Hội Nhà văn,

2013), Nhà văn, anh là ai? (Văn hóa, Văn nghệ, 2015).

Như vậy, Sống - Học - Viết đã trở thành một nguyên tắc chủ đạo của một

nhà văn chân chính. Vấn đề chỉ là Sống thế nào? Học thế nào để làm nên mình

khi cầm bút? Về sống như thế nào thì ta cứ theo dõi Ma văn Kháng bộc lộ qua

cuốn hồi ký Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương thì có thể thấy nhà

văn sống hết mình, sống đầy đủ, sống thực sự, sống kĩ lưỡng cuộc sống của

nhân dân. Vừa chân ướt chân ráo nhận nhiệm vụ, cầm súng đi canh gác chống

Phỉ ở cầu Cốc Lếu, nhìn sang thượng nguồn con sông phía Trung Quốc. Dấn

thân vào nghề là chấp nhận những gian nan, vất vả... Chưa nói những cơ cực,

bần hàn sẽ phải nếm trải của thầy giáo ăn gạo kho, chi chút nhúm muối từ miền

xuôi ngược lũ và giấc ngủ chập chờn vì tiếng súng mìn thổ phỉ, tiếng máy bay

địch oanh tạc. Trước mắt hàng ngày là đe dọa nghiệt ngã của an ninh, của cuộc

sống đối mặt với “bệnh tật” nơi “khỉ ho cò gáy”, chốn “rừng thiêng nước độc”.

Đã có lúc ông ngã bệnh vào loại “nan y” thời ấy... sốt rét ác tính”. Rồi “Ba

tháng trời lăn lóc với công việc ở xã. Say sưa và mệt lả”.

Ma Văn Kháng có lẽ hơn người ở đặc điểm là sống kỹ lưỡng. Từ việc nhỏ

nhất về sinh hoạt như đi xếp hàng đong gạo, mua mắm muối, thịt cá thời bao

cấp đến đích thân cùng bè bạn tác nghiệp trên trang viết, trang in, kể cả phát

hành, nghĩa là lăn lộn vất vả từ A đến Z, nhất là những lúc gặp trăm phần khó

khăn trở ngại. Nhà văn luôn ghi chép rất kỹ càng, hỗ trợ cho trí nhớ vốn đã rất

tốt: giá đồng lương, giá cân thịt, mớ rau, bát phở,… kể cả giá “phong bì”, “bữa

tiệc” để “chạy việc” khi cần thiết. Vì giá cả chính là giá trị đồng tiền bát gạo,

mồ hôi, nước mắt.

Văn chương là một công việc mà không phải bất cứ ai cũng có thể làm. Từ

trước tới nay, có rất nhiều nhà văn in rất nhiều sách nhưng không được người

đọc biết và đón nhận, dấu ấn của họ để lại trong tác phẩm mờ nhạt, hời hợt. Để

trở thành nhà văn thành công, được người đọc biết đến nhà văn phải biết quan

sát nắm bắt được những giá trị tinh túy của cuộc sống, vận dụng tài năng của

24

mình để cảm nhận khám phá đưa ra những dự báo về tương lai giúp người đọc

có cái nhìn bao quát hơn về hiện thực cuộc sống.

Ma Văn Kháng tâm sự về nghề văn: “Viết văn là một nghề, nhưng là một

nghề khó học và khó tập rèn ở ngoài sự cố gắng, ở trên sức người. Vì cái hay, cái

sâu sắc, cái độc đáo, nói tóm lại là tất cả phẩm chất quý giá phải đạt được bằng

sự tự nhiên. Sự tự nhiên đó là cái đẹp suốt đời tôi theo đuổi. Tự nhiên, đó là điều

không phải dùng sức lực, ý chí mà có thể đạt được” [24]. Hơn 50 cầm bút cho ra

đời nhiều tiểu thuyết và hàng trăm truyện ngắn nhưng Ma Văn Kháng vẫn khiêm

tốn cho rằng, tuy đã có mấy chục năm trong nghề, vậy mà bây giờ hễ cứ bắt đầu

viết một cái gì lại thấy bồi hồi, run rẩy như trẻ nhỏ tập đi những bước đi đầu đời.

Theo Ma Văn Kháng thì nghề nào cũng đòi hỏi sự khéo léo, tài năng và

trải nghiệm, mỗi nghề đều có hạnh phúc, khó khăn riêng không nghề nào giống

nghề nào. Khi nói về hoạt động sáng tạo văn chương ông xem đó là hoạt động

kiếm tìm cái đẹp của cuộc sống mà không bao giờ có điểm dừng bởi nhà văn

nào cũng muốn khám phá nhiều hơn những gì mình có và thấy. Bằng lòng nhiệt

huyết, trách nhiệm với nghề Ma Văn Kháng không ngừng khám phá ra vẻ đẹp

của cuộc sống dưới mọi góc nhìn và theo đuổi những cảm xúc của mình: “Nhà

văn là kẻ đã bán mình hoàn toàn cho những cơn mê đắm riêng của anh ta. Kể từ

dòng thơ đầu tiên cho đến khổ thơ cuối cùng, một hành trình vất vả vì phải lọc

ra hàng ngàn tấn quặng để có chữ đắt giá mà chỉ có khát vọng nhất thiết và

quyết hoàn thành cái dự định lớn lao, cái đẹp toàn thiện, toàn mỹ theo hình

dung của anh ta”.

Như vậy, những quan niệm và tâm sự trải lòng của Ma Văn Kháng đã giúp

chúng tôi hiểu hơn quá trình lao động văn chương miệt mài của ông trong hơn

nửa thế kỷ qua. Để có được những trang viết đậm tình đời, tình người ông đã

vất vả lao động biết nhường nào. Với số lượng tác phẩm đồ sộ, cùng với nội

dung đặc sắc ông đã thật sự chứng tỏ tài năng của mình “Ma Văn Kháng, một

cây bút xuất sắc trong văn học đương đại Việt Nam” (Trần Đăng Khoa).

25

1.2.3.2. Quan niệm của Ma Văn Kháng về lao động văn chương

Ma Văn Kháng có một số lượng tư liệu ghi chép về vốn sống phong phú,

đồ sộ để phục vụ sáng tác. Ông có một trí nhớ tuyệt vời, ghi vào trí não những

cảm thụ, nhận thức từ thời trai trẻ. Gần như một đời, nhà văn khai thác mãi

chưa vơi cạn cái kho ấn tượng, ký ức, hồi tưởng như còn tươi nguyên cỏ nội,

hoa ngàn, hương rừng, gió núi ở một vùng biên ải. Khi đã bước vào tuổi xưa

nay hiếm, ông vẫn hồn nhiên kể chuyện xưa như tâm hồn cô gái ở vùng cao

trong Truyện của Lý. Năm 2015, vẫn chuyện thầy giáo vùng cao trầm

luân, Người thợ mộc và tấm ván thiên ra đời với bao kỷ niệm tươi rói.

Trong quá trình viết lách, sưu tầm, tích lũy tư liệu ông luôn làm việc với một

thái độ nghiêm túc và khẩn trương. Với Ma Văn Kháng, tạo dựng mảng tư liệu

về sự nghiệp không chỉ là biểu hiện sự quan tâm, công phu lớn mà đó còn là

một kho tư liệu quý giá về đời sống văn học của bản thân. Đây cũng là vốn

sống đặc biệt từ những trang viết.

Qua những tư liệu phong phú về đời sống, tác phẩm, nhà văn tích lũy thêm

được nhiều trải nghiệm sáng tác, những bài học thấm thía về thành công hay

thất bại, những thể nghiệm về lý luận, thực tiễn sáng tác. Cho nên nhà văn được

ví như con ong chăm chỉ hút mật cuộc đời để làm nên hoa trái tinh thần. Trước

hết, đó là những suy nghiệm về triết lý văn chương, về tư tưởng sáng tạo nghệ

thuật. Để từ đó, họ thêm yêu quý, trân trọng, biết ơn bạn đọc qua thời gian, như

người thẩm định sáng giá, minh triết nhất với sự nghiệp văn chương của bản

thân; đó cũng là để phát huy tài năng, tăng thêm sức sống, sức viết cho ngòi bút.

Ma Văn Kháng một đời lao động nghệ thuật miệt mài và được xác định là

nhà văn, người lao động cần mẫn, đam mê, sống hết mình với hoạt động nhân

sinh, đời sống văn chương, văn hóa. Đó cũng chính là hình ảnh rất đáng khâm

phục về một nhà nhân học sống, cộng hưởng với thế giới tâm hồn con người

chân chính của thời đại. Ông có quan niệm nghề văn là một nghề cần học hỏi

suốt đời. Là lớp đi sau, Ma Văn Kháng có cái may mắn hơn các bậc đàn anh

như Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài. Ông được đào tạo chính quy tại khoa

Ngữ Văn, rồi lại được bồi dưỡng một cách bài bản ở trường Nguyễn Du. Tất

26

nhiên, trường Đại học của cuộc đời mới chính là cái nôi sinh thành quan trọng

nhất, để ông trở thành một nhà văn thực sự.

Nhiều năm làm chủ nhiệm Tạp chí Văn học nước ngoài đã giúp nhà văn

có được một vốn tri thức dày dặn, mới mẻ. Ông đã trở thành nhà văn vào hạng

cấp nhận không những về kinh nghiệm sáng tác, mà còn cả về việc tiếp thu

những lý luận sáng tác hiện đại.

Ma Văn Kháng trang bị cho mình thêm phương tiện, vũ khí chiến đấu trên

trường văn, trận bút ở phạm vi toàn cầu; chủ yếu là ở thế giới phương Tây, nơi

có nhiều giải Nobel về văn học. Những chuyến đi nước ngoài cũng là dịp giao

lưu, học hỏi, biết mình, biết người của ông. Trong tham luận tại hội thảo văn

học tại Copenhagen, Đan Mạch vào tháng 8 - 1992, bài viết với nhan đề Thuận

theo người mà không bỏ mình tác giả khẳng định một phương hướng mới là

mở cửa, đón nhận, giao lưu, biết mình, biết người, đó là quy luật tồn tại. Nhà

văn đam mê đọc tác phẩm văn học kinh điển của các nhà văn nước ngoài, cũng

như các tác phẩm văn học cổ điển từ cổ chí kim, để tìm ra những giá trị tinh

tuý, trường tồn với thời gian.

Ma Văn Kháng là một nhà văn rất cẩn trọng, chỉnh chu với những gì đã

viết. Những bài viết của ông được chỉnh sửa rất công phu nhiều lần.

Qua tâm sự, ta thấy rất rõ về sự hình thành một tác phẩm là cả một quá

trình vất vả, cực nhọc vô cùng. Văn xuôi Ma Văn Kháng đã ra đời trong một

cảm thức nghiêm ngặt, một quá trình đúc luyện cẩn thận, tinh vi. Hầu như tất cả

các tác giả khi viết văn xuôi đều phải có bản thảo. Qua quá trình sửa chữa, phần

sơ thảo này mới chuyển thành tác phẩm chính thức, rồi được công bố. Trong

nhiều trường hợp, sự chỉnh sửa còn tiếp tục sau đó qua các lần xuất bản.

Với Ma Văn Kháng, ta có thể nói quá trình cho ra đời tác phẩm là cả một

kỳ công, Ma Văn Kháng có thói quen là luôn sửa rất kỹ bản thảo, với mong

muốn cầu toàn tối đa. Ngay cả khi gửi bản thảo đi, vẫn chưa thật yên tâm. Cùng

chăm lo con chữ, nhưng cách thức lao động chữ nghĩa có khác nhau. Nhà giáo

dạy văn chuyển sang viết văn khá thuận lợi, bởi cùng nghề ngôn ngữ văn học.

27

Cảm xúc dạy văn là cảm xúc thiên về khoa học, còn viết văn chủ yếu là về cảm

quan mỹ học.

Ma Văn Kháng từng nói rằng có lúc ngồi nhìn lại mình, ông không những

ngạc nhiên, nửa thế kỷ mà cứ cặm cụi với con chữ. Mình tự làm khổ mình, tự

giày vò mình, tự làm đau mình, tự đày mình chứ chẳng phải giời đày như người

ta hay nói... Viết nhọc nhằn, cô độc thế đấy, nhưng nếu có kiếp sau, có lẽ ông

vẫn chọn để trở thành một người cầm bút. Ông là một người chữ thực sự. Chữ

nghĩa đã dệt nên một tấm chân dung Ma Văn Kháng, mà sau nhiều thập kỷ,

người ta vẫn tìm đọc. Ông cũng nguyện cả cuộc đời mình phụng sự chữ. Nhà

lao động chữ nghĩa đã trở thành nhà nghệ thuật ngôn từ.

GS Phong Lê thì nói đến ông trong một tác phẩm của mình: “Đặc biệt là

ngôn ngữ, nếu muốn tìm đến sự phong phú của ngôn ngữ - áp cận được vào

thời hiện đại, tôi nghĩ cần đọc Ma Văn Kháng, trước đó là Tô Hoài”. Có lẽ, đó

là bình phẩm khoa học chính đáng nhất dành tặng cho Ma Văn Kháng, người

một đời lao động chữ nghĩa tài năng, đặc sắc hàng đầu hiện nay.

Tiểu kết chương 1

Ma Văn Kháng là nhà văn dân tộc Kinh, sinh ra ở làng Kim Liên - Hà

Nội. Ông rất thành công ở hai thể loại đó là truyện ngắn và tiểu thuyết. Chính

hai thể loại này đã khẳng định được vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam

đương đại và đặc biệt là đã đánh dấu tên tuổi của ông trong lòng bạn đọc. Ở

chương này, chúng tôi làm rõ khái niệm phê bình sinh thái và phê bình sinh thái

trong văn học Việt Nam đương đại. Đồng thời, giới thiệu ngắn gọn vài nét về

cuộc đời sự nghiệp và những quan niệm của Ma Văn Kháng về văn chương

nghệ thuật. Hơn nửa thế kỷ đóng góp cho nền văn học nước nhà, đến nay dù

hơn 80 tuổi tuy sức khỏe có suy giảm nhưng Ma Văn Kháng vẫn không ngừng

đóng góp cho nền văn học đương đại Việt Nam.

28

Chương 2

MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VỚI THIÊN NHIÊN, LOÀI VẬT

TRONG MÈO CON NGHỊCH NGỢM VÀ CHÓ BI ĐỜI LƯU LẠC

2.1. Tính ẩn dụ trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc

Ma Văn Kháng quan niệm: “Nghệ thuật là ẩn dụ. Ẩn dụ là nguồn sống của

tất cả các loại hình nghệ thuật. Tôi không thể viết một cái gì, nếu không thiết

lập được mối quan hệ hữu cơ, giàu tính thẩm mĩ giữa viết cái gì và viết như thế

nào” [26, tr.276]; “bao giờ trong truyện ngắn của tôi cũng ẩn náu ở đâu đó một

bóng hình ẩn dụ (không khí mùa thu, một ánh trăng…) nó là phông màn, nó là

bối cảnh để chuyện diễn ra” [26, tr.208]. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ Đinh Trọng

Lạc cho rằng: “Ẩn dụ thực chất là so sánh ngầm, trong đó vế so sánh giảm lược

đi chỉ còn lại được vế so sánh. Như vậy phép ẩn dụ là phương thức chuyển

nghĩa của một đối tượng này thay cho đối tượng khác” [32, tr.194].

Ẩn dụ tu từ cũng là nét đặc sắc của ngôn ngữ văn xuôi Ma Văn Kháng. Từ

vi mô đến vĩ mô. Từ một hình ảnh nhỏ giàu ngụ ý trong môi trường, cảnh

tượng quen thuộc: Con chó, con ngựa, ổ mối… đến một hình tượng lớn như

nhan đề Mưa mùa hạ, Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa và gần đây

nhất Bóng đêm, Bến bờ.

Ẩn dụ thực chất là cách so sánh ngầm, cách lấy tên gọi của đối tượng này

biểu thị đối tượng kia trên cơ sở mối quan hệ liên tưởng về nét tương đồng giữa

hai đối tượng. Điều đáng nói ở đây là nhiều ẩn dụ mới mang tính sáng tạo vượt

lên những ẩn dụ quen thuộc trong văn học truyền thống.

Với Ma Văn Kháng, ẩn dụ có thể xem như một hiện tượng ngôn ngữ đồng

thời là một hiện tượng tư duy nghĩa là tìm ra nét giống hoặc khác nhau của

những sự vật, hiện tượng. Đó là một cách nghĩ mới về đối tượng, phát hiện bản

chất ẩn giấu của đối tượng. Nói cách khác ở ẩn dụ ta tìm được tính đa nghĩa của

hình ảnh, hình tượng. Tuy nhiên, ở Ma Văn Kháng, tên tác phẩm còn gợi ra

nhiều tầng nghĩa. “Một mình một ngựa” nói rõ cái cô độc, đơn côi về tư thế

hành động, mà hành động ở đây là hành động chiến đấu hiểu theo nghĩa rộng là

đấu tranh. Toàn bộ tiểu thuyết nói lên chủ đề và tư tưởng được thông báo: cái

kiêu hùng mang mặc cảm cô đơn, vừa oai vũ, vừa cô lẻ, cũng là một nét cảm

29

hứng bi tráng trong quan niệm thẩm mỹ của nhà văn. “Bóng đêm” nghĩa là

“Bóng đêm tăm tối, bóng đêm tội lỗi, bóng đêm vô minh”. Có hai bóng đêm

trong cảm giác của Nhâm: “Chúng ta đối mặt với bóng đêm cho cuộc đời mỗi

ngày một tươi sáng lên. Trong màn đêm mờ ẩn lúc này đã dần dần hiện lên mục

tiêu đi tới của ba người công an” [26, tr.258]. Hai nghĩa vừa hiện thực vừa triết

lý trong bóng đêm.

Ẩn dụ mang tính độc đáo cá nhân thể hiện trình độ cao của thông tin nghệ

thuật - ở đây là thông điệp nghệ thuật của nhà văn tài nghệ về phong cách tu từ

Ma Văn Kháng. Ví dụ, “Bóng đêm” ẩn dụ mang ba nghĩa. Bóng đêm tăm tối là

bóng đêm của u minh của cuộc sống lẫn tâm trí tức dốt nát, ngu si. Bóng đêm

tội lỗi là bóng đêm trong cuộc đời, của cuộc đời tức cái hiểm độc, cái tàn ác.

Còn bóng đêm vô minh là tượng trưng cho cái bất khả tri, bất tường, cái còn

phải kiếm tìm, làm sáng rõ. Có hai phạm trù: bóng đêm của cái xấu, cái ác có

nghĩa hiện thực. Còn bóng đêm vô minh thuộc về tư duy triết học. Rõ ràng ở

đây ẩn dụ mang dấu ấn cái mới, cái sáng tạo của nhà văn.

Ma Văn Kháng rất có ý thức và quan niệm chính xác về các thủ pháp nghệ

thuật sử dụng: tu từ nhằm xây dựng ẩn dụ hình ảnh, hình tượng. Nhà văn đã tự

bạch: “Nghệ thuật là ẩn dụ. Chủ đề tư tưởng, nhân vật hiện hình trong trăm

ngàn chi tiết hình tượng hàm chứa…Thậm chí, ẩn dụ nghệ thuật, hình tượng

nghệ thuật có khi còn đến trước, trở thành tiền đề.” Tác phẩm là một minh

chứng: “Những cơn mưa mùa hạ cũng vậy, chúng tạo nên âm hưởng trữ tình

hùng tráng của cuốn sách Mưa mùa hạ. Một khu vườn lá rụng vào mùa khô

cũng chính là cảm hứng, là cái phông nền, là cái giai điệu của cuốn Mùa lá

rụng trong vườn. Một chiều dông gió, một con suối, một khu vườn, những

bông hoa… chúng đã vào các trang văn xuôi của tôi, trở thành các thành tố vô

cùng quan trọng vì chúng vừa là mình vừa là những hình bóng mang tính biểu

tượng có sức tải một ý tưởng nào đó của chủ đề”. Thật vậy, những chi tiết

mang tính ẩn dụ nhiều khi lại chính là cái phần bí ẩn của sáng tạo, theo quan

niệm của nhà văn.

Mở rộng ra, ẩn dụ không chỉ là những phương thức chuyển nghĩa mà còn

là một biện pháp tu từ. Có thể thấy rằng ẩn dụ có mặt khắp nơi trong đời sống

30

thường ngày, không chỉ trong ngôn ngữ mà cả trong tư duy và hành

động”. Chương 12 Con ngựa của Ngược dòng nước lũ có hình ảnh đón, đưa

Hoan là hai con ngựa trắng. Nhưng tên Giàng A Đủa - trùm thuốc phiện, tiễn

Hoan bằng hai con mắt say đờ đã nghĩ: công việc kiếm lợi nhuận bằng việc làm

nguy hiểm với nàng chỉ là một hình thức giải tỏa cơn tự ái, nỗi uất ức. Nó chỉ là

phương tiện của nàng. Nó là con ngựa để nàng cưỡi đi đến đích. Ở đây có ba

con ngựa: con ngựa ngoài đời, con ngựa trong ý nghĩ của Đủa và chắc y có thể

đúng, còn là con ngựa trong đầu óc Hoan. Đó là các tầng ẩn dụ của tư duy.

Tính ẩn dụ trong hai tập truyện Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu

lạc của Ma Văn Kháng là ở chỗ ông tuy viết về loài vật nhưng đằng sau đó lại

muốn chỉ về những vấn đề con người bởi vì loài vật có mối quan hệ với con

người, từ thái độ đối với loài vật thì sẽ bộc lộ rõ được sự đánh giá về con

người. Chẳng hạn như trong truyện ngắn Con chó lạc nhà, đã bộc lộ rõ hai thái

độ đối xử với loài vật, hai mẹ con Hải thì nâng niu, chăm sóc, âu yếm con Dog

bị lạc. Còn những người khác thì dữ tợn, độc ác có những hành động man rợ

với con chó của ông già mù ăn xin đầu đường. Họ đã tìm mọi cách để ném chết

con chó với mục đích ăn thịt nó. Qua đó đã bộc lộ rõ cả sự đánh giá của tác giả

với con vật: “Con người đúng là một con vật tàn ác, nó ăn thịt tất cả con vật

khác” [31, tr. 22]. Trong truyện ngắn Một ngày không được chấm công nhà văn

từng nói “Một ngày không được chấm công chả có lẽ là một ngày vô ích. Chẳng

lẽ là một ngày nhạt nhẽo, chẳng đem lợi ích gì cho ai! Chẳng lẽ chỉ là một ngày

góp phần thỏa mãn tình mẫu tử của mẹ con cún” [31, tr. 255]. Ở đây, ý của nhà

văn muốn nói rằng Một ngày không được chấm công không phải là một ngày vô

ích mà nó rất có ý nghĩa. Ông Thảnh không được chấm công cho buổi làm việc

ngày hôm đó nhưng ông đã cứu được một sinh mệnh cho chú dế con.

Hay là với tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc, trải qua nhiều năm cầm bút, nhà

văn đã hé mở một hiện thực đa chiều qua góc nhìn mới mẻ, sáng tạo. Dưới ánh

xạ của chó Bi, mọi hành động, sự việc trong thế giới con người đều được nhận

định khách quan hơn. Vì thế, Chó Bi, đời lưu lạc không chỉ đơn thuần là câu

chuyện về đời sống phức tạp hôm nay, mà còn là bản hòa ca tôn vinh thế giới

tự nhiên, vẻ đẹp của loài vật. Nên bên cạnh âm hưởng hiện thực phê phán, tiểu

31

thuyết này còn mang tinh thần sinh thái sâu sắc, thể hiện tư tưởng “kính trọng

sinh mệnh” của nhà văn Ma Văn Kháng trong bối cảnh ô nhiễm môi trường,

nhiều cá thể động - thực vật có nguy cơ tuyệt chủng hiện nay.

2.2. Loài vật - thành phần của tự nhiên trong mối quan hệ cộng sinh khác

biệt với con người

Dưới góc nhìn của lý thuyết phê bình sinh thái chúng tôi quan tâm đến

loài vật là thành phần của tự nhiên trong mối quan hệ cộng sinh với con người

để thấy rõ được ý đồ nghệ thuật của nhà văn Ma Văn Kháng. Trước tiên để

nhận diện văn học sinh thái, chúng tôi đặt nó trong cái nhìn so sánh để tìm ra sự

khác biệt. Có sự khác biệt về điểm nhìn, các tác giả viết về tự nhiên dưới một

cảm quan mới - cảm quan sinh thái. Sự khác biệt về điểm nhìn đó, dẫn đến sự

thay đổi quan niệm về tự nhiên,vai trò của tự nhiên có sự thay đổi. Cái ước lệ bị

phá vỡ, thay vào đó là quan niệm về một thiên nhiên tự trị, tồn tại bên ngoài

con người, không còn phụ thuộc vào bàn tay con người. Thiên nhiên có sinh

mệnh độc lập.

Trong kho tàng văn học dân gian của các dân tộc đều có sự tồn tại của bộ

phận truyện kể về loài vật, được gọi là “truyện cổ tích loài vật”. Đây là loại

truyện cổ tích lấy các loài vật (phần lớn là động vật) làm đối tượng phản ánh

chủ yếu. Ở đây, các loài vật được nhân cách hóa một cách hồn nhiên trong trí

tưởng tượng của nhân dân thời cổ. Như vậy, xét về nguồn gốc, truyện về đề tài

loài vật đã được hình thành từ rất sớm.

Khi viết những truyện về loài vật, đối tượng tiếp nhận các tác giả thường

chú ý đến là các em thiếu nhi. Lúc đầu, truyện dành chung cho mọi đối tượng.

Nhưng càng về sau, khi con người đã trải qua thời thơ ấu, mọi hiểu biết của

cuộc sống được nâng cao thì những câu chuyện về loài vật chỉ còn thích hợp

với trẻ em, được trẻ em yêu thích. Vì thế, khi xem xét những thành tựu của

truyện viết về loài vật, chúng tôi không thể không đề cập đến những thành tựu

quan trọng của truyện viết cho thiếu nhi. Trong bước tiến của văn học thiếu nhi,

bóng dáng của truyện loài vật cũng dần dần được hình thành và không ngừng

phát triển. Đồng thời luôn mang đậm tính nhân văn. Chúng ta có thể thấy đâu

đó luôn phảng phất bóng dáng trẻ thơ với những suy nghĩ trong trẻo và thánh

32

thiện, với cái nhìn bao dung và nhân hậu trong những trang viết về đề tài loài

vật. Xuất phát từ những cốt truyện, rồi từ những hình ảnh quen thuộc, ý tưởng

và nội dung, truyện viết về loài vật trong nền văn học mới còn có những bước

phát triển vượt bậc và đạt những thành tựu rực rỡ.

Trước Cách mạng tháng Tám văn học viết về loài vật chủ yếu để nói về

con người, lấy con người làm trung tâm để mô tả, biểu hiện, đánh giá tự nhiên.

Ngoài những sáng tác truyền miệng trong văn học dân gian, văn học viết cho

thiếu nhi nói chung rất ít được coi trọng. Hơn nữa, một thời gian khá dài, văn

học thiếu nhi chủ yếu chịu ảnh hưởng từ những tác phẩm văn học nước ngoài.

Những bài thơ ngụ ngôn của La Phôngten, truyện cổ Grim… được dịch ra tiếng

Việt, không chỉ hấp dẫn các em nhỏ mà ngay cả người lớn cũng bị lôi cuốn

theo. Phần lớn người viết sách lúc bấy giờ đều không có mục đích để phục vụ

các em. Có người viết để đánh dấu mốc bắt đầu bước vào nghề văn, có người

viết để kiếm sống, hoặc cũng có người viết như một kiểu “thử bút”, dò tìm

hướng đi thực sự của mình… Tuy chưa đạt được những thành tựu đáng kể,

nhưng sự xuất hiện của một số nhà văn chân chính như Tú Mỡ, Nguyễn Công

Hoan, Nam Cao, Tô Hoài, cùng với những tác phẩm tương đối lành mạnh được

xem là “tín hiệu” đáng mừng cho quá trình phát triển của văn học thiếu nhi.

Nhìn chung, mảng truyện về loài vật trước Cách mạng tháng Tám cũng ít

ỏi và ít có những thành tựu đáng kể. Theo một số nhà nghiên cứu, bộ phận

truyện cổ tích về loài vật tuy ra đời khá sớm nhưng công việc sưu tầm lại khá

muộn nên bị mất mát nhiều; những truyện còn lại ít nhiều cũng bị pha trộn với

truyện thần thoại. Chính vì lẽ đó, trong nền văn học mới, “ bóng dáng” của

truyện về loài vật bắt đầu xuất hiện một cách mờ nhạt. Trong những ngày đầu

Cách mạng rồi kháng chiến chống Pháp, chỉ có một số nhà văn chuyên nghiệp

thi thoảng có sách viết cho thiếu nhi. Cách mạng tháng Tám thành công, vai trò

của văn học thiếu nhi bắt đầu được nhìn nhận. Nó đã trở thành một bộ phận

quan trọng trong bức tranh văn học toàn cảnh dưới chế độ mới. Đối tượng phục

vụ, phạm vi phản ánh, nội dung, đề tài của nó cũng được mở rộng và có sự tiến

bộ rõ rệt. Trong đó, chúng ta có thể kể đến một số nhà văn có tên tuổi khác

33

cũng nhiệt tình tham gia đóng góp cho văn học thiếu nhi và đạt một số thành

tựu bước đầu như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Xuân Sanh…

Nếu văn học thiếu nhi Việt Nam có độ dài khoảng hai phần ba thế kỷ, thì

lịch sử truyện loài vật cũng có độ dài tương ứng, tác phẩm đầu tiên làm bừng

danh cho nó là Dế mèn phiêu lưu ký (1941) - một tác phẩm luôn luôn có sự

sống trong lòng các thế hệ độc giả ở Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Như

vậy, trong buổi đầu của nền văn xuôi quốc ngữ, không ít người viết có tên tuổi

đã có ý thức gây dựng một dòng truyện viết về loài vật, đáp ứng nhu cầu đông

đảo, không chỉ riêng các em ở lứa tuổi thiếu niên, mà còn các bậc ông bà, cha

mẹ - những đối tượng vốn rất quan tâm đến việc giáo dục con cháu nên người.

Có thể lược kể những tên sách còn lưu lại được: Con mèo mắt ngọc của Nam

Cao ít nhiều đã đi sâu vào tâm hồn trẻ thơ, khiến các em phải suy nghĩ; Vợ cóc,

Con rắn, Cóc tía của Khái Hưng; Hang thuồng luồng, Con rắn trắng của Ngọc

Giao. Giữa những cây bút viết cho thiếu nhi thời đó, Khái Hưng đã nổi lên với

tư cách là một cây bút vừa viết nhiều, vừa viết hay. Các sáng tác của ông chủ

yếu xoay quanh ba thể loại đó là: Truyện cổ tích hiện đại, kịch đồng thoại và

truyện sinh hoạt. Ở mỗi một thể loại thì ông đều tạo được những dấu ấn riêng.

Bên cạnh đó, Tô Hoài viết Dế Mèn phiêu lưu kí, Võ sĩ bọ ngựa, Đám cưới

chuột…dưới hình thức đồng thoại để phản ánh những vấn đề lớn của xã hội.

Nền văn học cho thiếu nhi đã bắt đầu có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để

phát triển từ sau khi miền Bắc được giải phóng, hòa bình được lập lại. Đánh giá

thành tựu văn học thiếu nhi qua mấy năm đầu phát triển, Vân Thanh cho rằng,

các tác giả đã xây dựng được những câu chuyện vui tươi, dí dỏm, có tác dụng

làm phong phú thế giới tưởng tượng của các em. Tuy mảng truyện loài vật có

những bước phát triển nhưng cũng gặp không ít khó khăn, trắc trở. Bắt đầu từ

Văn Ngan tướng công của Vũ Tú Nam bị nghi ngờ là có dụng ý xấu. Tiếp đến,

Cái Tết của mèo con của Nguyễn Đình Thi và Cái mai của Võ Quảng cũng có

những đoạn, những câu bị giới tuyên truyền để ý. Không chỉ riêng mảng truyện

dành cho thiếu nhi mà ngay cả sáng tác của người lớn cũng có sự góp mặt của

mấy con vật gây nên tai tiếng cho tác giả như Con chó xấu xí của Kim Lân,

Con nai đen của Nguyễn Đình Thi, Con hùm con mồ côi của Nguyên Hồng.

34

Tuy nhiên, xét cho cùng thì đây cũng là một thời kì phát triển mạnh của truyện

loài vật. Trước hết là về đội ngũ sáng tác, bên cạnh Nguyễn Huy Tưởng, Tô

Hoài cùng một số cây bút chuyên nghiệp khác, đã xuất hiện một đội ngũ sáng

tác mới với những cây bút đang sung sức như Võ Quảng, Trần Thanh Địch…

Những sáng tác của họ đã đem lại cho truyện loài vật giai đoạn chống Mỹ

nhiều nét mới mẻ. Không chỉ có những người viết chuyên nghiệp, những người

thuộc nhiều ngành nghề khác nhau như các nhà giáo, nhà khoa học, nhà viết sử,

nhà báo, bác sĩ, kĩ sư, nhà sinh vật, nhà địa chất… cũng tham gia sáng tác và

đóng góp thêm những tác phẩm mới rất phong phú, đa dạng.

Nếu như ở chặng đường đầu của quá trình sáng tác, chỉ có một vài tác

phẩm xuất hiện trên báo thì đến nay, khi đất nước được thống nhất và đi lên

con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta có thể thấy số lượng tác phẩm lên tới

hàng nghìn cuốn, gồm những tác phẩm được chọn lọc ở trong nước và ngoài

nước. Bên cạnh số lượng thì về thể loại, đề tài trong truyện cũng rất phong phú,

đa dạng. Đội ngũ nhà văn bắt đầu chú trọng đến đề tài, nội dung phản ánh trong

truyện. Đặc biệt, nghệ thuật viết truyện cũng không ngừng được cách tân, có

khả năng tái hiện muôn mặt của hiện thực cuộc sống. Những truyện về loài vật

ngày càng thu hút đông đảo những người sáng tác: từ những cây bút gạo cội

đến những cây bút trẻ. Bên cạnh một số đề tài, nội dung về cuộc sống khổ sở,

nghèo nàn của con người, ở giai đoạn này, cả đề tài và nội dung trở nên phong

phú, đa dạng, phản ánh cuộc sống mới trong bước đầu xây dựng xã hội mới.

Sau ba mươi năm Cách mạng nền văn học mới ngày càng phát triển trong đó,

mảng truyện viết về loài vật chiếm số lượng tuy không nhiều nhưng nó đã góp

phần làm cho nền văn học nước nhà trở nên phong phú hơn. Không chỉ các em

nhỏ thích truyện về loài vật mà ngay cả người lớn cũng rất thích thú và cũng bị

cuốn hút vào thế giới loài vật ngộ nghĩnh, phong phú ấy.

Như vậy, có thể khẳng định rằng: Thiên nhiên trong văn học trước năm

1986 về cơ bản xuất hiện với hai dạng thức. Thứ nhất, thiên nhiên được nhân

cách hóa. Giống như kiểu của truyện cổ tích loài vật, giải thích một đặc điểm tự

nhiên của loài vật (mắt Giếc đỏ hoe vì khóc nhiều (Mắt Giếc đỏ hoe), giải thích

về chiếc mai của rùa (Bài học tốt - Võ Quảng), hoặc mang dáng dấp của truyện

35

ngụ ngôn: thông qua nhân vật loài vật để rút ra một bài học triết lí, một nội

dung giáo dục (Chuyến đi thứ hai - Võ Quảng, Cái tết của mèo con - Nguyễn

Đình Thi, Cuộc phiêu lưu của Văn Ngan tướng công - Vũ Tú Nam, Dế Mèn

phiêu lưu kí - Tô Hoài… ). Đó là kiểu truyện đồng thoại. Nói chung, ở dạng

thức này, thiên nhiên như là sự ứng chiếu của khách thể (“Mẹ hỏi cây Kơ nia:-

Rễ mày uống nước đâu?- Uống nước nguồn miền Bắc”, Bóng cây Kơ-

nia, Ngọc Anh), thiên nhiên có cùng tiếng nói với con người (“Rừng xà nu ưỡn

tấm ngực ra để che chở cho dân làng”, Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành).

Thứ hai, thiên nhiên xuất hiện như là nền cảnh, là phương tiện để biểu

hiện tính cách, tâm hồn của con người như “Người buồn cảnh có vui đâu bao

giờ”, thể hiện khả năng chinh phục tự nhiên như các truyện bắt sấu, bắt rắn

trong Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam, lấy ong mật, giết heo rừng trong Đất

rừng. Như vậy, văn học trước năm 1975 viết về tự nhiên chủ yếu là để nói về

con người, lấy con người làm trung tâm để mô tả, biểu hiện, đánh giá tự nhiên.

Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1986, các sáng tác văn học chủ yếu là

dành cho thiếu nhi. Trong đó, có mảng truyện viết về loài vật. Điều này đã

chứng minh truyện loài vật đã phản ánh kịp thời hiện thực đời sống đất nước

thông qua những câu chuyện viết cho các em nhỏ. Sau 1975, người viết lại trở

về với thế giới hồn nhiên cây cỏ, đời thường, mở rộng trí tưởng tượng vốn rất

cần thiết với thể truyện này. Trước kia, nhắc đến văn học thiếu nhi trước 1945,

thì chúng ta nghĩ ngay đến Tô Hoài. Truyện loài vật có bước phát triển vượt

bậc từ sau 1986 với những tên tuổi như: Ma Văn Kháng với Chó Bi đời lưu

lạc; Lưu Trọng Văn với Cọp không có răng; Ngôi nhà trong cỏ (Lý Lan)…

Cũng đã góp phần tạo nên một nét riêng trong diện mạo thể loại truyện loài vật.

Có truyện mang đậm chất anh hùng; có truyện đầy chất thơ, gợi ước mơ, sự

thích thú cho người đọc khi nói về cuộc sống con người, về thế giới tự nhiên

huyền bí, về đất nước tươi đẹp. Những tác phẩm này đều hay, giàu ý nghĩa giáo

dục và mang tính nghệ thuật.

Văn học sau cách mạng thì thế giới loài vật được miêu tả như tính cách

vốn có của nó, mang một cảm hứng khác, nó không phải chỉ là nền cảnh, là cái

cớ mà “chúng có sinh mệnh thật sự, có số phận, tính cách, tâm hồn”như nhà

36

văn Mạc Ngôn từng phát biểu “tôi bỗng cảm thấy cỏ cây quanh mình, và cả bò

dê nữa, đều có thể trò chuyện với con người, chúng chẳng những có sinh mệnh,

mà còn có cả tình cảm nữa”.

Thế giới loài vật trong trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng rất phong

phú và đa dạng. Có thể chia loài vật trong tập truyện ngắn của ông làm hai loại:

Thứ nhất là về loài vật hoang dã như con hổ trong các tác phẩm: Mùa săn ở Na

Le; Ông Pồn và chú hổ con. Con chim, con sếu trời có trong các tác phẩm:

Chim di trú vừa bay vừa ngủ; Bát ngát trời xanh. Con sói trong tác phẩm Cỏ

cằn. Con chuồn chuồn trong tác phẩm Con chuồn chuồn. Thứ hai là về gia súc

gia cầm, Ma Văn Kháng tập trung viết nhiều về loài chó như các tác phẩm: Con

chó lạc nhà; Xin lỗi chó Bốp; Ông lão gác vườn và chó Phúm; Con Clêch của

tôi; Một ngày không được chấm công; Chó Phích; Đi làm chậm giờ; Chó Bi

đời lưu lạc. Ngoài ra, ông còn viết về con ngựa có trong các tác phẩm: Ngựa

bất kham; Thương con ngựa già. Con mèo có trong các tác phẩm: Mèo con

nghịch ngợm; Hai anh em nhà mèo; Con meo, con mẻo, con mèo. Vẹt có trong

tác phẩm: Tội nghiệp con vẹt già. Con gà có trong tác phẩm: Cuộc đấu của gà

chọi. Con bò có trong tác phẩm Cỏ cằn. Con dế có trong tác phẩm: Một ngày

không được chấm công. Con cá có trong tác phẩm Tội nghiệp con vẹt già; Mèo

con nghịch ngợm. Con chuột trong tác phẩm Chó Bi đời lưu lạc. Như vậy, mỗi

loài vật được nhà văn khắc họa bằng những chi tiết riêng biệt, có đặc điểm

nhận diện đặc trưng riêng của các nhân vật loài vật này như những cá tính thật

sự chứ không phải bởi một đặc tính riêng nào đó.

Dưới góc nhìn của lý thuyết phê bình sinh thái, chúng tôi quan tâm đến

loài vật là thành phần của tự nhiên trong mối quan hệ khác biệt, cộng sinh với

con người để thấy rõ ý đồ nghệ thuật của nhà văn Ma Văn Kháng. Loài vật là

sản phẩm của tự nhiên có quan hệ với con người, con người lên rừng đem

chúng về thuần hóa thành những vật nuôi gia súc, gia cầm có ích cùng sống với

con người thì gọi là cộng sinh. Như loài chó, loài mèo, loài chim, loài bò, loài

ngựa, loài gà… Chẳng hạn như truyện ngắn Ông lão gác vườn và chó Phúm, bà

vợ ông Tài nhặt được một con chó ở trong rừng rồi đem nó về nuôi, nếu không

có bà thì nó vào miệng con sói, con hùm rồi. Nhưng có những loài con người

37

không thể thuần hóa để sống cùng bởi chúng không đem lại lợi ích thậm chí

gây hại cho con người thì gọi là khác biệt, ví dụ như loài hổ, loài sói, loài

chuột, muỗi. Như trong truyện ngắn Ông Pồn và chú hổ con, ông Pồn nhặt

được nó ở trong rừng, khi nó chỉ là chú hổ con to hơn con mèo một chút, mẹ nó

bỏ đi vì bị thương nặng không còn khả năng bảo vệ con, bố nó thì thường

xuyên lùng sục để ăn thịt nó. Ông đem nó về nuôi và dạy nó cách săn thú, canh

ao, cho đến khi nó lớn, một lần ông đi canh ao thoáng thấy bóng người nó lao

tới vồ ông gây nên cái chết thảm thương. Như vậy, với loài hổ do bản năng

hoang dã vốn có của loài, con người khó có thể thuần hóa.

Như vậy, chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của hoàn cảnh lịch

sử, sự tác động của xã hội đối với sự ra đời và những bước phát triển của truyện

về loài vật nói riêng, văn học thiếu nhi nói chung, khiến nền văn học thiếu nhi

ít nhiều đã gắn bó chặt chẽ với văn học người lớn. Sự phong phú về đề tài, thể

loại cùng với đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp, số lượng tác phẩm có chất lượng,

sự đổi mới ở nội dung và nghệ thuật đã dần dần đưa truyện loài vật đi vào quỹ

đạo chung của sự nghiệp đổi mới diện mạo chung của nền văn học nước nhà.

2.3. Các vấn đề nội dung viết về loài vật trong Mèo con nghịch ngợm và

Chó Bi đời lưu lạc

Qua thế giới loài vật trong hai tập truyện Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi

đời lưu lạc, Ma Văn Kháng thể hiện được cái nhìn nghệ thuật của ông. Cái nhìn

của Ma Văn Kháng là con người không phải ở vị trí thống trị loài vật mà luôn

luôn có một sự gắn kết và hòa hợp giữa con người với loài vật. Từ đó, ta thấy

được sự trân trọng, nâng niu sự tồn tại của các loài vật trong môi trường của nó

hoặc trong cuộc sống gia đình. Chẳng hạn như với con hổ, con chó sói thì ông

chủ trương môi trường sống của chúng là ở rừng với con vật nuôi trong nhà thì

con người phải nâng niu, chăm sóc, cho nó ăn, hay con chó thì trân trọng tình

mẫu tử của chó mẹ với cho con qua tiếng kêu…

2.3.1. Khát vọng đồng hóa và hòa hợp trong mối quan hệ con người

Ma Văn Kháng cũng đã phản ánh thế giới loài vật hòa hợp với con người

trong cuộc sống tương đối nhiều và rõ ràng trong những trang viết của mình.

Đó là những tình cảm thiết tha, tình yêu thiên nhiên tươi đẹp và những rung

38

động trước tình cảm của loài vật. Tuy mỗi truyện ông viết là những câu chuyện

khác nhau nhưng trong đó nhà văn đều gửi gắm khát vọng đồng hóa, hòa hợp

của con người trước loài vật. Bởi tình yêu cuộc sống không chỉ là tình yêu dành

cho con người mà đó còn là tình yêu dành cho loài vật trong thế giới tự nhiên.

Tìm hiểu thế giới loài vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Ma Văn

Kháng thì chúng tôi thấy rõ được cái nhìn của ông. Ma Văn Kháng cho rằng cái

nhìn con người không phải ở vị trí thống trị loài vật mà với ông luôn có một sự

đồng hóa, hòa hợp với loài vật, thể hiện sự trân trọng, nâng niu sự tồn tại của

các loài vật với con người trong môi trường của nó hoặc trong cuộc sống gia

đình. Chẳng hạn như với con hổ, con sói ông chủ trương điều kiện sống của

chúng là ở rừng; con chim sẻ, con ngỗng trời thì luôn ở không gian rộng lớn đó

là bầu trời. Chứ không phải là tìm cách giăng bẫy chúng như thợ săn, không

phải bắt làm món nhậu. Con vật trong gia đình thì phải nâng niu, chăm sóc, cho

nó ăn như Chim sẻ thì bà cụ Cần nâng niu, hằng ngày cho nó ăn. Như vậy, con

người phải hòa hợp với thiên nhiên và môi trường. Trong truyện ngắn Ông lão

gác vườn và chó Phúm chúng ta có thể nhận thấy được là thái độ nâng niu,

chăm bẵm, giỗ giành loài vật như con trẻ của ông bà Tài: “Phúm ơi, Phúm à,

lên ở với ta ăn sung, ở sướng, đất rộng, việc nhiều, tha hồ chạy nhảy… Phúm

à, Phúm ơi, lên với ta, ăn ngon ngủ ấm, đất dài, việc lắm, mặc sức tung hoành.

Mãi con chó mới chịu đi với vẻ miễn cưỡng không che giấu” [31, tr.33]. Qua

đó, chúng ta có thể nhận thấy ông bà tài coi chó Phúm như là đứa trẻ trong nhà

nên ông bà luôn quan tâm, chăm sóc và giỗ giành yêu thương Phúm hết mực.

Trong truyện Con Clếch của tôi, cậu bé Phìn kiên trì nhẫn nại chăm sóc Clếch

coi nó như trẻ con, mới về như đứa trẻ bơ vơ “Dẫu sao nó cũng chỉ là một con

chó, một đứa trẻ nít” [31, tr.257]. Vì Clếch bị chủ bỏ rơi, nó không có cảm tình

với Phỉn vì cậu bé đeo chiếc nanh hổ. Cậu vẫn lấy mật ong, nước đường và chè

cho Clếch ăn hằng ngày vì cậu thương nó và biết nó còn nhớ mẹ lắm, từ lúc

Phỉn bỏ chiếc vòng cổ mắc vào gác bếp Clếch liền quẫy đuôi vui mừng “ánh

mắt trông thật dịu hiền” [31, tr.265]. Có thể thấy loài vật có thể sống chung với con

người trong mọi hoàn cảnh “Rõ ràng là Clếch yên lòng và thích thú với sự an bài

39

nọ. Nó sẵn sàng chấp nhận sống cùng chúng tôi trong một cuộc sống còn nghèo nàn

về vật chất nhưng yên lành, lương thiện và ăm ắp niềm vui chung” [31, tr.280].

Trong truyện ngắn Ông Pồn và chú hổ con thể hiện rõ quan điểm con

người hòa hợp với thiên nhiên của nhà văn Ma Văn Kháng qua cách kể về cuộc

sống của ông Pồn “Ai cũng biết, ông Pồn cư ngụ ở đất này từ hồi đây chỉ là

một vùng mông quạnh, ngoài ông ra, không có bóng người thứ hai. Ở đây, ông

là cơ sở đầu tiên của cách mạng ở tỉnh này. Ở đây ông sống cạnh hươu nai, cáo

cầy, hổ báo. Có lần gặp con hổ cúi đầu uống nước ở suối quá lâu chắn mất

đường đi, ông còn vỗ mông nó, giục: “Uống nhanh lên, lấy chỗ tao đi chứ!”

Ông sống giữa cây cỏ, muông thú. Và cây cỏ, muông thú đối với ông như bạn

bè, hàng xóm chốn làng quê” [31, tr.07].

Trong truyện ngắn Một ngày không được chấm công, nhà văn viết: “Cuộc

sống mỗi ngày một khác lạ, một ồn ào. Trước kia, nơi đây làm gì có đường.

Trước kia, nơi đây chỉ có đầm hồ và cây cỏ. Còn từ ngày có con lộ hai chiều, ở

giữa đạt giải phân cách là một luống hoa chạy dài thì xe cộ ở đâu dồn về nhiều

quá. Còn con đường thì gần như suốt ngày sôi réo dưới bánh những xe lăn. Đến

mức, nhiều hôm ông phải tìm đến vuông cỏ ven hồ may chưa mất đi này để tìm

sự yên tĩnh, để hít thở không khí trong lành, để tĩnh tâm trong tiếng dế kêu và

tiếng cá quẫy” [31, tr.245]. Đôi khi nhà văn đã lắng mình trong cuộc sống hiện

đại để khát khao về với thiên nhiên, hòa nhập với thiên nhiên, để được lắng nghe

âm thanh của loài vật. Trong lòng ông Thảnh rộn rực nỗi lo cho số phận chú dế,

một sinh mệnh nhỏ bé: “Ông mừng đến toát mồ hôi khi nhận ra chú dế vẫn là

chấm nhỏ ti đang bò. Trời! Hàng trăm bánh xe tử thần đã chạy qua khúc đường

này và chú đã thoát chết thì thật là một sự kỳ diệu chưa từng thấy!” [31, tr.246].

Trong những truyện ngắn về con mèo: Mèo con nghịch ngợm; Hai anh em

nhà mèo; Con meo, con mẻo con mèo, nhà văn Ma Văn Kháng đều giành tình

cảm nâng niu, trân trọng, yêu thương hết mực. Chủ nhân của chúng đón nhận

nó bằng tình cảm nồng hậu mặc dù nó chỉ là chú mèo lạc hay được cho từ tay

người hàng xóm, như đón một thành viên mới đến gia đình mình. Bao giờ cũng

là lễ nhập gia, rồi đo đuôi cho đi vệ sinh đúng cách, “thấy mắt mèo em có nhử

là mẹ vội chạy ra cửa hàng thuốc” [31, tr.219], dù mỗi người một việc nhưng

40

họ vẫn luôn để ý chăm sóc hai con mèo rất tỉ mỉ và chu đáo. Trong truyện ngắn

Hai anh em nhà mèo, cảm quan sinh thái của tác giả thể hiện rất rõ nét: “Tại

sao bên con người sống lại có con vật. Như chú khuyển chẳng hạn, chú là chó

rừng đến với con người để dựa cậy cho sự sinh tồn của chú và con người cũng cần

đến nó trong quan hệ tương hỗ vì lợi ích cụ thể của chính mình” [31, tr.218],

“Chao ôi! Cái cảnh tượng êm đềm của gia đình sẽ mất đi một phối cảnh tuyệt

đẹp là có một chú miu. Cái bóng hình chú ngồi tròn thu lu bên cái giỏ ấm tích

hãm nụ vối bên cạnh bà nội thơm lừng mùi trầu cay một đêm đông tít xa trong

kí ức đã thành một phần tử không thể thiếu của bức họa cổ điển đề tài gia đình

rồi” [31, tr.219], “Sống là để chia sẻ để yêu thương. Trong cái guồng quay tít

mù của đời sống hiện đại, xem ra cái giây phút để bộc lộ tâm tình nọ ngày càng

trở nên hiếm hoi. Thành ra, khi sau một ngày làm việc, học hành khẩn trương

trong sự tăng tốc liên miên, mở cửa bước vào căn nhà, cúi xuống xốc chú mèo

lên tay, và âu yếm hỏi chú rằng thế nào, ở nhà có chuyện gì xảy ra không, được

chú dụi đầu vào ngực nũng nịu trong tiếng thở khò khè, hẳn là một nhu cầu

mang đặc trưng nhân tính quá rõ ràng rồi” [31, tr. 219].

Còn trong tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc, ngay từ đầu Bi đã chứng tỏ mình

rất đặc biệt, không phải là một chú chó con hiền lành dễ bảo, khi phản ứng

mạnh bạo với hai mẹ con Toản bằng hành động cắn tay, trốn dưới gầm phản

tuyệt thực, sủa lại mèo Mí. Sự phớt lờ, làm thinh và thách thức mẹ con Toản

khiến cậu bé đặt ra giả thuyết: “Hay là chú định cho tôi một bài học, rằng chớ

có nên vỗ ngực ta đây là loài ưu đẳng nhất thế gian mà coi thường các sinh vật

khác; rằng chú tuy là chó, lại là chó con, nghĩa là thuộc lớp dưới cùng trong

đám động vật chúng sinh hạ đẳng, vốn bị miệt thị và bỉ bai, nhưng cũng không

phải là kẻ dễ bị mua chuộc, mồi chài đâu! Ai người ta cũng có tư cách cả đấy,

ông người ạ!” [23, tr.14-15]. Thái độ của Bi ngầm phát đi tín hiệu giúp chúng

ta hiểu được loài vật và con người luôn bình đẳng với nhau, Bi có một nhận

thức, một tâm hồn của riêng mình. Đây cũng là một cách phản bác, châm biếm

nhẹ nhàng trước thái độ tự tin của con người về khả năng thống trị, chiếm lĩnh

thế giới, để từ đó xem thường các loài vật khác.

41

Như vậy, giữa loài vật và con người có khát vọng đồng hóa và hòa hợp

với nhau vì có cùng môi trường, con người cố gắng thuần dưỡng, chung sống

với loài vật một cách hòa thuận. Nhưng với loài vật không thể đồng hóa như

hổ, sói, chuột, muỗi thì con người phải bảo toàn mạng sống cho mình.

2.3.2. Ý nghĩa nhân đạo trong quan hệ giữa con người và loài vật

Trước đây, khi viết về thiên nhiên, môi trường và loài vật chủ yếu là để

nói về con người, lấy con người làm trung tâm để mô tả, biểu hiện, đánh giá tự

nhiên. Nhưng đến văn xuôi Cách mạng lại mang một cảm hứng khác, loài vật

đã có sinh mệnh thật sự, có tính cách, có số phận. Con người từ bỏ cái nhìn

kiêu ngạo để có cái nhìn bình đẳng với tạo vật, coi vạn vật là một sinh thể độc

lập. Điều này được thể hiện rất rõ trong tập truyện ngắn và tiểu thuyết viết về

loài vật của Ma Văn Kháng. Trong truyện ngắn Chó con lạc nhà tác giả nói:

“Tình yêu thương loài vật là tình cảm nguyên sơ không vụ lợi” [31, tr.23].

Trong truyện ngắn Ông lão gác vườn và chó Phúm nhà văn nói: “Vật và người

quấn quyến với nhau. Vật tăng thêm sức mạnh cho người. Người tỏa phẩm

cách mình vào vật” [31, tr.47]. Trong truyện ngắn Xin lỗi chó Bốp: “Thì ra tình

yêu với loài vật là tình yêu của người có tấm lòng nhân hậu. Nghệ sĩ là người

thấu hiểu trái tim muôn loài” [31, tr.180]. Trong truyện ngắn Con Clếch của

tôi: “ Ông nghiệm rồi. Chó theo chủ. Chủ hung ác, chó hung dữ. Chó tốt bụng,

chó cũng biết điều ơn nghĩa” [31, tr.263]. “Chúng tôi không ăn thịt chó. Người

nào ăn thịt chó không được vào làng chúng tôi. Không phải chúng tôi coi thịt

chó là uế tạp đâu. Mà là vì chúng tôi yêu quý chó”[31, tr.271]. “Chó là con vật

có nghĩa, có tình. Có nó như có bè bạn, nhất là lại ở một làng vùng núi xa xăm

như làng tôi. Con chó giúp đỡ được mình nhiều lắm. Yêu quý nó là tất nhiên

thôi” [31, tr.272]. Trong tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc tác giả nói: “Vật nuôi và

người bao giờ cũng có quan hệ qua lại, luôn gắn bó với đời sống tinh thần và

vật chất của người Việt mình chớ” [23, tr.98]. Tôi đã nghe chuyện về những

con chó yêu quý và hết mực trung thành với chủ “đến mức chủ chết, nó nằm

gác mộ cho chủ đến khi đói khát, chết rục tại chỗ” [23, tr.31]. Đối với chú chó

Shép “khi người chủ của nó bị bệnh nặng. Người ta đưa ông ta ra ga, lên tàu đi

bệnh viện. Con chó tiễn chủ ra ga. Không may, bệnh đã quá nặng, người chủ

42

không bao giờ trở về được nữa. Nhưng con Shép ngày nào cũng ra ga đón chủ.

Năm năm trời ròng rã, cho đến khi già yếu mắt mờ chân chậm và chết vì tai nạn

vào một ngày tháng 12 năm 1942 [23, tr.99]. Nói về sự ân tình, nhân đạo thì

được biểu hiện rõ nhất ở loài khuyển. “Khi nhà nghèo, không có gì ăn nữa,

người chủ đành buộc con chó vào tảng đá ném xuống sông để nó khỏi chết đói,

tội nghiệp! Không may khi lẳng con chó với tảng đá, vô ý để chân quấn vào

dây, người chủ cũng bị ngã xuống nước. Con chó thấy vậy liền tự giải thoát và

bơi lại cứu chủ” [23, tr.100].

Trong mỗi truyện ngắn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, người đọc đều

cảm thấy đắm chìm trong một khung cảnh thiên nhiên của núi rừng như khi tác

giả nói về bản Na Lê “Không ngờ nhạc sĩ Quang và bản Na Lê chúng tôi thành

đôi tri kỉ, tri âm”, “Na Lê là một bức tranh hoang đường hư ảo. Anh yêu khung

cảnh thô bản mập mờ sau những búi mai xanh như khói” [31, tr.65]. Còn trong

truyện ngắn Chim di trú vừa bay vừa ngủ nhà văn Ma Văn Kháng cho chúng ta

cảm nhận được sự tuyệt vời của thiên nhiên mùa thu, sắc thu “Chúng tôi lại

may mắn được gặp mùa thu trọn vẹn, với hình hài nguyên thủy, thuần khiết

nhất của nó!” [31, tr.140].

Thiên nhiên trong truyện ngắn Con Clếch của tôi thì ngập tràn sức sống,

tác giả đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên với vẻ đẹp tươi mới của mừa

xuân trong khu rừng: “Mùa xuân về báo hiệu bằng cây mận, cây sở, cây trẩu

bung nở hoa trắng, đẹp như áo cô dâu. Mùa xuân nhộn nhịp vì tiếng con nai gác,

tiếng chim hót ríu ran… Bầy chó trong làng đón mùa xuân với dáng vẻ phớn phở

khác thường” [31, tr. 296].

Còn thiên nhiên trong tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc thì được nhà văn

nhắc đến trong một khu rừng vào tiết trời mùa thu khô ráo và sáng tươi: “Hoa

chuối thắp những chấm đỏ rửng trên sắc xanh chàm tươi của rừng thẳm…cây

mác mật đứng ở góc rừng, bừng sáng cả không gian những chùm quả tròn,

vàng chóe như chùm nhạc. Mỗi sớm mai, ríu ran những đàn chim má bạc, cành

vàng, ức đỏ, diêm dúa như vũ nữ, lượn vòng qua khu đồi, gọi hồn Bi vào phiêu

lãng. Buổi trưa, bướm tung tăng một dải lụa bạc trắng lóa, ẩn hiện trên mặt suối

sáng long lanh [23, tr.167]. Như vậy, không gian thiên nhiên trong Tiểu thuyết

43

Chó Bi đời lưu lạc giống như là một miền rừng náo nức và trầm tư. “Thiên

nhiên hài hòa, không hời hợt” [23, tr 168]. Như vậy chúng ta có thể thấy khi

viết về rừng, tác giả phóng bút bởi ông có thời gian dài hơn chục năm sống và

làm việc ở Tây Bắc nên ông rất am hiểu về rừng. Vì thế mà mà rất nhiều truyện

ngắn và tiểu thuyết ông viết về con người và thiên nhiên nơi núi rừng. Bởi rừng

là nơi chốn bình yên cho ai đó tìm đến để hít hà cái không khí trong lành, để

quên đi những lo toan bộn bề, ưu phiền của cuộc sống.

Cùng với thế hệ các nhà văn Việt Nam hiện đại nói chung, Ma Văn Kháng

nói riêng, ông đã thoát ra khỏi lối tư duy truyền thống để cảm nhận thiên nhiên

trong sự giao thoa giữa văn hoá Đông - Tây. Ở tác phẩm của ông, có những lúc

chúng ta thấy thiên nhiên hoà điệu tuyệt vời với con người, con người và thiên

nhiên dường như không còn sự ngăn cách nào cho dù là chúng không hòa tan

vào nhau. Điều này có thể thấy con người có thể chủ động trong việc giao hoà

với thiên nhiên. Thiên nhiên có sức quyến rũ và khả năng kì diệu đến vậy thì tại

sao ta lại không biết trân trọng và bảo vệ thiên nhiên để duy trì mối quan hệ hoà

hợp của nó với con người? Đó là một thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm

đến chúng ta. Ngoài nhà văn Ma Văn Kháng ra chúng ta cũng nhận thấy rất rõ

điều này ở những tác giả khác như:

Nhà văn Tô Hoài với tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí, ở đây ông viết về dế

nhưng thực chất là ông đề cao tư tưởng hòa bình giữa con người với con người,

nghĩa là không nên đấu đá với nhau mà phải chung sống thuận hòa.

Còn Nguyễn Đình Thi với truyện ngắn Cái tết của mèo con chúng ta lại

thấy bà cháu nâng niu, chăm bẵm mèo con ăn uống vì thế mèo con chăm bắt

chuột, bảo vệ nhà.

Đến với Vũ Tú Nam khi viết Chuyện phiêu lưu của Văn Ngan tướng công

với ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng cho kẻ hống hách, gây gổ, làm vương, làm tướng

nhưng lại không được tích sự gì, ngạo mạn, hùng hổ với người khác và cuối

cùng phải trả giá.

Như vậy, trong sáng tác của Ma Văn Kháng con người với thiên nhiên,

loài vật luôn có sự gắn kết với nhau. Nó không chi phối toàn bộ tác phẩm của

ông mà chỉ xuất hiện một vài điểm nhưng không vì thế mà mất đi ý nghĩa tiềm

44

ẩn trong nó. Khi hòa mình với tự nhiên, tâm hồn con người thanh tĩnh hơn, tìm

lại cho mình một khoảng lặng tâm hồn, tìm lại cho mình những phút giây thoải

mái để lắng nghe nhạc điệu cuộc sống, lắng nghe nhịp đập trái tim, lắng nghe

tiếng nói của lòng mình, nghe hơi thở của đất trời và hòa mình cùng với thiên

nhiên. Vào những đêm yên tĩnh, tác giả còn lắng nghe thấy được tiếng chân con

nai đạp trên bụi cây đom đóm khô, tiếng rũi đất đào củ của bầy lợn mới rời vú

mẹ. Nhà văn còn miêu tả những cơn gió thu “xao xác như một linh hồn đơn côi,

đưa về tiếng con sói rừng hú gọi bạn…làm cho khung cảnh càng trở lên mênh

mang huyền hoặc” [23, tr.168]. Như vậy, không như các tác giả khác Ma Văn

Kháng tự lựa chọn cho mình một lối viết riêng khi quan sát và miêu tả thiên

nhiên. Dưới góc nhìn phê bình sinh thái khiến cho độc giả phát hiện ra ngay

được sự độc đáo trong cách miêu tả thiên nhiên đó là nhà văn không dùng

nhiều từ mĩ miều, không phô bày chữ nghĩa mà chắt lọc, giản dị, trong sáng và

rất tươi mới.

Ma Văn Kháng đã rất chú ý khai thác mối quan hệ giữa con người và loài

vật khi đặt con người vào lòng thiên nhiên, để mặc cho tự nhiên phô bày vẻ đẹp

và sức quyến rũ của nó. Có lúc con người chìm đắm trong bầu không khí tuyệt

diệu của tự nhiên để rồi chợt nhận ra tự nhiên đẹp biết nhường nào. Từ đó muốn

được tìm về với tự nhiên hoang sơ, muốn chạy trốn khỏi thành phố với ồn ào xe

cộ và khói bụi. Bên cạnh đó, con người với loài vật thể hiện sự nhân ái, bao dung

của mình. Con người luôn luôn có ý thức cải tạo, thuần hóa loài vật để hai bên

cùng tồn tại. Chẳng hạn như nuôi mèo, con người chăm sóc, cho ăn đầy đủ để mèo

bắt chuột để phòng bệnh dịch hạch. Hoặc nuôi chó, coi nó như người bạn trung

thành để nó canh giữ nhà, săn thú dữ bảo vệ chủ trước mọi hiểm nguy chứ không

phải để ăn thịt, như trong các truyện ngắn Con Clếch của tôi; Xin lỗi chó Bốp;

Ông lão gác vườn và chó Phúm; Con chó lạc nhà; Chó Bi đời lưu lạc….

Tóm lại, chẳng ai có thể phủ nhận mối tương quan giữa con người và thiên

nhiên. Nếu không có thiên nhiên thì con người sẽ không thể tồn tại, thế nhưng

nếu không có con người thì thiên nhiên vẫn sinh sôi, nảy nở ra các hệ sinh thái.

Do vậy, chuyện con người phải dựa vào thiên nhiên là điều dễ hiểu.

45

2.3.3. Loài vật và con người trong quan hệ nhân quả

Dưới góc nhìn phê bình sinh thái, Ma Văn Kháng đã quan tâm đến các

vẻ đẹp của thiên nhiên và những giá trị tinh thần của loài vật đối với đời sống

con người, trong đó con người, thiên nhiên và loài vật cùng tồn tại, gắn bó hoà

hợp. Thiên nhiên mang lại cho con người bầu không khí trong lành để con

người được tận hưởng, được gột rửa đi những bụi bặm của cuộc sống xô bồ,

hỗn tạp. Những vẻ đẹp hoang sơ, tinh khiết của thiên nhiên trong truyện ngắn

của Ma Văn Kháng đã đem đến cho người đọc cảm nhận được những khoảnh

khắc thư giãn cho tâm hồn, đồng thời cũng giúp ta thêm yêu thiên nhiên, yêu

cuộc sống hơn. Bằng cảm quan sinh thái nhạy cảm và tinh tế nhà văn đã

khắc họa được vẻ đẹp của thiên nhiên, giá trị tinh thần của loài vật trong mỗi

câu chuyện của mình. Từ đó giúp người đọc thấy được giá trị đích thực mà

loài vật và thiên nhiên mang lại cho cuộc sống con người giúp con người

biết trân trọng và yêu quý thế giới tự nhiên hơn. Có thể thấy, cảm hứng phê

phán từ điểm nhìn sinh thái của nhà văn Ma Văn Kháng trong tập truyện

ngắn và tiểu thuyết về loài vật và con người trong tác động nhân quả thể

hiện rõ ở những khía cạnh sau:

2.3.3.1. Con người trở thành tội đồ với loài vật

Các nhà sinh thái cho rằng căn nguyên của những suy thoái môi trường

mà chúng ta đang gặp phải ngày nay là do chúng ta sống cách biệt với tự nhiên,

giữ khư khư địa vị làm chủ. Thống trị tự nhiên biểu hiện ở tham vọng làm chủ

rồi mặc sức khai thác tự nhiên như thể chỉ có mỗi con người là được phép tồn

tại trên trái đất. Điều này được thể hiện qua hàng loạt chủ đề: săn giết, đào phá,

đối xử tàn ác với vật nuôi. Những huyền thoại về các món ăn khiến cho những động

vật hoang dã bị tiêu diệt. Những con chim sẻ bị bắt vì “ưu điểm duy nhất của chúng

là khi chúng lên đĩa, lúc ấy chúng có tác dụng bổ thận tráng dương” (Bà cụ Cần và

bầy chim sẻ). “Nhất là lúc này, bọn trộm cắp chó mèo hoạt động rất trắng trợn…

các quán thịt mèo - tiểu hổ mọc lên như nấm với kiểu giết mèo không cắt tiết để

ngọt thịt, bằng cách dìm cho nó chết ngạt, rồi cho nó vào máy vặt lông, tiếp đó thui

vàng rồi đem chế biến các món. Bọn sát thủ giết mèo giờ đây còn trơ tráo đến mức

chúng có thể công khai khoe khoang trên thực đơn đủ cách chế biến từ thịt con vật

46

hết xào lăn, xào xả, hấp bóp chanh, hấp ngũ vị, hấp niêu đất đến nướng than, rượu

mận, hết lòng xào ngồng tỏi, óc hấp lá ngải, đến xương mèo, mật mèo ngâm rượu

để trở thành thứ thần dược đại bổ, tối ông uống, sáng bà vừa quét sân vừa hát dân

ca” [31, tr.236 - 237].

Trong mối quan hệ với thiên nhiên, con người có lỗi trong thái độ đối với

loài vật như việc xuất hiện bọn lưu manh chuyên bắt trộm chó. Thủ đoạn của

chúng vừa tinh vi vừa tàn bạo “Khi đám chó con đã bị bắt vãn, bọn ăn cắp chó

bắt đầu tấn công loại chó to, chó dữ. Với loại chó này bọn chúng không từ một

thủ đoạn hung bạo nào. Đập vỡ sọ, phang gẫy lưng, quật què cẳng, miễn là

không còn chống cự lại được và ném được vào bao tải. Có lần, cả bọn bốn năm

đứa, giữa ban ngày ban mặt, hô hoán con chó nọ là chó dại phải đập chết, rồi

vây ép, dồn đuổi con vật ấy xuống một cái ao nhỏ và dùng gạch đá ném cho kỳ

chết [23, tr.79]. Hay là việc anh em Hải và Thắm chứng kiến cảnh man rợ ở

đầu làng Mạ: “một con chó của ông già mù ăn xin đang bơi lóp ngóp cuống

cuồng giẫy đạp trong cơn tuyệt vọng ở giữa ao, xung quanh ao có đến mấy

chục người đàn ông, thảy đều hằm hè dữ tợn và khoái trá, đang thi nhau ném

những cồ đá củ đậu vào con chó. Con vật thân cô thế cô, yếu đuối đang ở giữa

vòng vây của một cuộc hành hình man rợ. Phải nhận cái chết đau đớn trong

một tiếng tru dài thê thảm rồi chìm nghỉm tại chỗ. Và đám người trên bờ thấy

vậy lập tức như một bầy nguyên thủy, nhảy ào xuống nước, lội ào về phía con

mồi” [31, tr.21-22]. Từ đó, nhà văn đã đưa ra nhận xét: “Con người đúng là một

con vật tàn ác, nó ăn thịt tất cả các loài vật khác” [31, tr.22]. “Ông cụ Phù bị

gấu ngựa vồ, ngã dập xuống đất. Con gấu này nặng hai trăm kí, nó ngồi lên

lưng ông cụ, giơ vuốt cào. Ông cụ cắn răng chịu đau, giả vờ chết. Phục sức,

ông cụ vác súng đi. Con gấu đang ăn hạt dẻ. Nhử nó ra để bắn, ông cụ phải thổi

một hơi thuốc lào mù mịt để nó say và mờ mắt. Trời nó to quá! Tám người

khiêng. Chân tay nần nẫn, không thấy ngón đâu. Lọc da, căng lên lửa, mỡ chảy ra

phải lấy gáo múc mới xuể. Mình nó, ba thổ mỡ, hai thổ thịt, ba con lợn tết không

bằng” [31, tr 68].

47

2.3.3.2. Con người trở thành nạn nhân của loài vật

Con người là nạn nhân của thái độ không đúng mức đối với loài vật, nuôi

nó nhưng đối xử không tốt và hậu quả. Chẳng hạn như trong truyện ngắn Xin

lỗi chó Bốp, đối với anh chàng người Mỹ “trong thần thái của Bốp đều thể hiện

ở hai con mắt đầy vẻ cảnh giác và căm hận. Đừng nên nghĩ Bốp không thông tỏ

ngôn ngữ của con người” [31, tr.178], vì Peter luôn mồm khen món thịt chó

ngon. Còn với ông Choan “một khuôn mặt tròn phính, hai con mắt thô lố…

khuôn miệng rộng như mồm cá trê và cái hàm bạnh cóc hạ ông xuống hạng người

cực kỳ dung phàm… một khuôn mặt trẻ con cho tới khi về già” [31, tr.180]. Thấy

ông Choan có ý săn đuổi Huê nên Bốp “nhìn ông bằng con mắt gườm gườm kì

thị” [31, tr.180], Bốp đã đớp cho lão một cái để cảnh cáo không được lại gần và

tán tỉnh cô chủ. Trong truyện ngắn Ngựa bất kham vì say rượu Phềnh đã bán

mất con ngựa ô để đổi lấy con ngựa đất thó “là giống thô lỗ, tợn tạo. Phềnh vừa

giật cương, nó liền ngoẹo ngay đầu lại, chờm môi vào ngón chân trái anh, định

cắn. Anh chửi nó một câu tức thì nó đâm xầm đầu vào bụi lau bên đường, đưa

luôn cả anh vào đám lá lau sắc như dao. Phềnh vừa hét vừa giật cương, bắt nó

lui ra, thì nó hếch đuôi, bật mông lên, hất tung hai vó sau, đá liên tiếp vào

không khí. Không kịp đề phòng, Phềnh ngã ngửa ra sau, lộn mấy vòng suýt rơi

xuống vực, nếu không nắm kịp cái rễ cây thông thòi ra ở bên dệ đường. Nhổm

được dậy thì con đất thó đã phóng lên cái nương ngô trước mắt rồi lăn ra đất,

chổng vó lên khua đạp, hí rầm rĩ. Con quái vật bất kham này, đã xấu mã lại

hung tợn, giờ lại định giở trò điên dại gì nữa đây! Phềnh nhảy qua cây rào

nương, đuổi theo con đất thó, mặt vã mồ hôi, miệng gào uất ức: “Cho mày vào

chảo thắng cố, con nghẽo điên kia” [30, tr.94-95].

Trong tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc, khi thấy ông Mệnh đang có ý định sàm

sỡ, lỗ mãng với mẹ Toản thì “kỳ là, chính lúc đó, Bi ra khỏi khoảng tối gầm phản,

kéo sợi xích căng vút và giống như hôm nào, xồ tới con Xồm, nó bỗng phát ra tiếng

gầm rất giữ tợn…nhìn rõ bốn nốt răng chó sâu hoắm đang phòi máu đỏ ở bắp chân

mình” [23, tr.122]. Nên từ đó trở đi thì Bi “chẳng thể nào quen thân được với ông”.

“Nó hằn học với ông có nhẽ đến suốt đời” [23, tr.123] cho dù ông Mệnh đến nhà

Toản rất nhiều lần, cũng đã xin lỗi mẹ Toản về việc tiêm một mũi phòng dại

48

giá một chỉ vàng, hay cho dù ông Mệnh còn đem cả một gói đầu cá rán đến

cho Bi nhưng “tình thế vẫn chẳng vì thế mà đảo ngược” [23, tr.123]. Còn

một người nữa, cũng như ông Mệnh, rất khó thân thiện với Bi. Người đó chính

là anh Cần - anh cả của Toản. Khi hết hạn tù bốn năm, đúng ngày đúng tháng,

chẳng có sự bảo lĩnh nào của ông Mệnh cả, anh Cần trở về nhà với gia đình.

Với khuôn mặt mệt mỏi và lạnh lùng, lưng cong cong, đầu cúi gập, tóc xòa vai

rồi lại mặc bộ quần áo bà ba lặng lẽ đẩy cổng vào nhà thì Bi “lập tức xồ ra,

nhưng nó bị ngay một cú đá nhà nghề vào mạng mỡ, bắn vào nhà. Tiếp đó, nó

từ gầm phản bắn ra những tràng sủa tức tối và đầy căm hận” [23, tr.134].

Như vậy, thế giới loài vật luôn có quy luật tồn tại riêng của nó, vậy mà

con người đã lợi dụng sức mạnh của mình để làm tổn thương nó, xáo trộn sự

bình yên và ổn định của loài vật. Đòi quyền bình đẳng, đòi ăn vạ khi bị tổn

thương là điều chắc chắn loài vật sẽ làm. Với kỹ năng cùng sự sáng tạo bậc

thầy của mình nhà văn Ma Văn Kháng đã khơi dậy trong lòng người đọc lòng

trắc ẩn và tính nhân văn sâu sắc. Đọc tác phẩm ta thấy động vật còn biết yêu

thương nhau, huống chi con người. Nó cũng có cuộc sống gia đình với vợ,

chồng, con cái của nó. Tại sao con người lại nhẫn tâm vì muốn tìm nguồn vui

cho mình mà làm tổn hại đến những con thú vô tội. Con người không bị tổn

thất gì nếu không giết hại chúng, vậy tại sao con người vẫn hàng ngày, hàng

giờ nhẫn tâm săn đuổi, giết hại những động vật như vậy?

2.3.3.3. Con người trở thành bạn của loài vật

Phê bình sinh thái chuyển từ “con người làm trung tâm” sang “trái đất là

trung tâm”, không phải là thái độ hạ thấp con người mà đề xuất tư tưởng con

người là bạn của loài vật, là bạn của tự nhiên. Phê bình sinh thái yêu cầu tôn

trọng bất cứ sinh mệnh nào (từ con người đến động vật thực vật…) coi tất cả

sinh vật đều có giá trị của riêng mình. Chẳng hạn như truyện ngắn Ông lão gác

vườn và chó Phúm, chó Phúm được bà Tài nhặt từ rừng về nuôi nấng, chăm sóc

từ bé nó như đứa trẻ, nhà cửa ấm áp vui vầy hẳn, lớn lên nó giúp ông canh

vườn tam thất, trở thành trợ lý đắc lực cho ông trong công việc, khi ông Tài suy

sụp bị vợ phản bội Phúm trở thành người bạn tri âm, tri kỉ, cảm nhận được nỗi

đau tinh thần của chủ lại là kẻ cưu mang ông, nâng đỡ, cứu vớt ông. Trong

49

truyện ngắn Con meo, con mẻo,con mèo, nhà văn khẳng định “Con mèo, làm

sao mà lại có thể vắng bóng cái chú sinh vật nhỏ nhắn mềm mại này trong bức

tranh sinh hoạt gia đình ta nhỉ?” [31, tr.236]. Trong truyện ngắn Hai anh em

nhà mèo, Vàng anh và Vàng em “đã trở thành hai thành viên gắn bó với con

người, hai con mèo là hai sinh linh bé nhỏ được sự săn sóc có phần ưu tiên hơn tất

cả mọi người và chẳng vì thế mà có một lời phàn nàn ghen tị nào” [31, tr.220].

Trong truyện ngắn Cỏ cằn, ông Lão Dư đảm nhiệm công việc chăn bò

cho nông trường nuôi bò sữa 20 năm, ông yêu quý các con vật nuôi của mình

và coi chúng như bạn trong cách nói chuyện của ông: “cái ả 85 là chúa hay đi

với ả 13. Một bận hai ả lẻo lên núi Bản Muốn. Tôi đi tìm, nửa đêm lên đến nơi,

thì ra hai ả ăn ham quá” [31,tr.162], “anh cu Vẹo có máu lai nên cao lớn, lưng

nổi một cái u, lang nâu lang đen, sừng không cân, nhưng nhọn, khỏe”. Có lẽ vì

cậy mình to lớn, nên anh cu Vẹo hay đi ăn mảnh” [31, tr.170].

Trong tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc nhà văn đã khẳng định “các con vật

không bao giờ thờ ơ trước tình cảm của con người”. “Chị Trang quý Bi như quý

một đứa con. Đi dạy học về, việc đầu tiên là phải gọi vang tên nó” [23, tr.31].

“Còn Toản thì coi Bi là thằng bạn nhỏ tuổi thân thiết, là chú em út trong

nhà” [23, tr.32]. Như vậy, con người trở thành bạn của loài vật, coi chúng như

thành viên không thể thiếu của gia đình, nó là sợi dây kết nối vô hình giữa con

người với nhau, nó là niềm vui tinh thần cho con người.

Câu chuyện trở nên hấp dẫn, kịch tính khi Bi dấn thân vào cuộc sống

phiêu dạt bên ngoài. Theo chân anh Cần, Bi đến với lâm trường phố O lạ lẫm.

Khởi đầu chuyến đi, lần đầu tiên trong đời Bi được trải nghiệm “hoạt cảnh

truyền sinh của giống nòi” [23, tr.151] với người bạn khác giới “lông trắng, tai

vểnh, vóc dáng thiếu nữ dậy thì thon thả” [23, tr.149]. Song, cảm giác khoan

khoái ấy nhanh chóng vụt tắt, Bi chông chênh trên hành trình bất định. Gia

nhập vào đám quân tứ chiêng tụ hội để đào bới vàng, nhưng “Bi ở ngoài

khúc điệu cuồng loạn của cơn sốt kim tiền kinh thiên. Bi không biết đến

những quy luật thống trị mới đã phát sinh và con người tưởng là đến đây để

tìm kiếm tự do, hóa ra lại là đưa mình vào môi trường khống chế của bạo lực

đồng tiền” [23, tr.161]. Bi cũng “không biết đến cả nội khó nhọc của anh

50

Cần tôi và anh Thái. Họ đào bới rất vất vả mà thu hoạch chẳng được là

bao” [23, tr.161]. Bi “không thể biết được những dị biệt của đời thường.

Không biết cả việc tên Đậu đầu gấu vừa mới chuyển nhà đến sau quả đồi có nhà

Bi ở. Tên lưu manh này có những trang tiểu sử thật là tởm lợm” [23, tr.162]. Bi

càng không hay biết phiên tòa xử tội tên Đậu và những việc xảy ra kế tiếp. Nói

đúng hơn, Bi dửng dưng với cuộc sống hiện thực mà con người đang đối chọi,

hãm hại lẫn nhau. Lí do là bởi Bi đang “ngẩn ngơ như lạc lối vào Thiên

thai” [23, tr.168] trước cảnh đẹp của núi rừng biên giới phía Bắc. Cành hoa

chuối đỏ rửng, cây mác mật vàng chóe như chùm nhạc, đàn chim má bạc ríu

ran mỗi sớm mai, lượn qua khu đồi, gọi hồn Bi vào phiêu lãng. Gạt bỏ ngoài tai

“đám tạp âm của bầy người đang xáo trộn đất đai” [23, tr.168], từ sâu thẳm, ở

mỗi tế bào Bi như được thức giấc. Nỗi nhớ rừng, nhớ đời sống hoang dã chảy

về hiện hữu qua tiềm thức của Bi.

Giống như chó Buck trong Tiếng gọi nơi hoang dã của Jack London, kí ức

về dòng máu sói rừng nguyên thủy trổi dậy trong Bi. Nhưng nếu như Buck bị

bắt cóc trong trang trại của một gia đình giàu có, trở thành chó kéo xe cho

những người đi tìm vàng ở vùng Alaska lạnh giá, được Thornton yêu thương,

rồi ông chủ chết, không còn mối liên hệ nào níu Buck lại với con người, nó bị

cuốn theo tiếng gọi nơi hoang dã, trở thành sói hoang. Thì Bi lại may mắn hơn,

Bi bỏ trốn khỏi chốn rừng thiêng nước độc, số phận hay sự đánh hơi tài tình

“mùi” của người thân đã khéo đưa Bi đến với ông Thuần - bố của Toản, và

được ông đón nhận với tình cảm chân thành qua sự mường tượng những lá thư

mà mẹ con Toản đã gửi cho ông.

Bi tiếp tục cuộc hành trình lưu lạc tứ xứ với ông Thuần - một người “rất

coi trọng sự chan hòa bản thể với thế giới bên ngoài”. Ông Thuần vừa mong

muốn vượt ra khỏi các định luật thông thường bằng trí tuệ, sự sáng tạo, lại vừa

“biết lắng nghe sự phát triển tự thân của các sự vật, coi đó là con đường lớn của

tự nhiên”. Chính vì thế, sau mấy tháng trời sống cùng nhau, “hai thầy trò đã tỏ

ra rất tâm đầu ý hợp”. Ông Thuần có thêm một người bạn cùng chia sẻ buồn

vui sau chuỗi ngày cô đơn trong tù, một trợ thủ đắc lực trong công cuộc sinh

tồn và chăm lo Đảo Khỉ; còn Bi lại vô cùng thích thú, vốn là một con vật hiếu

51

động, gần gũi với thiên nhiên, Bi hăng hái, xông pha cùng ông trên mọi nẻo

đường. Robinson có anh Thứ Sáu da đen, còn bố của Toản lại có Bi đồng hành,

cứu mạng, giúp đỡ. Ngoài tình yêu thương trong sáng, bền chặt, Bi với ông

Thuần còn là cội nguồn của cảm giác yên ổn, không cô độc, đặc biệt, Bi giúp

ông “hòa mình với tự nhiên, một tự nhiên rất dễ đối lập với con người đơn lẻ”.

Phê bình sinh thái luôn đề cao tính chỉnh thể. Ma Văn Kháng đã tạo nên

một bối cảnh hài hòa trong tổng thể tự nhiên, Bi và ông Thuần như “một phần

tử của bức tranh thiên nhiên kì vĩ, ẩn chứa bao quy luật và hiện tượng vô cùng

huyền bí”. Sự xuất hiện của Bi trong hành trình đến với cuộc sống con người

nhắc ta về một vị thần Promete đã đánh cắp lửa đem xuống cho loài người,

chúng ta đã bắt đầu biết “ăn chín uống sôi”, sưởi ấm, xua đuổi bóng đêm và ác

thú. Rồi con người còn biết dùng lửa để truyền hơi ấm và cảm hóa những loài

vật hoang dã khác. Chó rừng đi theo con người khởi nguồn từ những ngày sống

trong rừng già ấy, khi “hành động vô tình của họ: ném đi chút đồ ăn thừa hóa ra

lại có ý nghĩa thật lớn lao”. Dần dần, nhân loại ý thức hơn, “chăm sóc một kẻ

khác loài” như một người bạn đồng hành. Nhờ đó, “không một con vật hung dữ

nào dám mon men đến quấy phá giấc ngủ của con người, đe dọa tính mạng con

người, còn là bởi vì, ở vòng ngoài, cách đống lửa vài bước chân, con người

không tuyển lựa mà có cả bầy vệ sĩ tự nguyện đến bảo vệ giùm, những con chó

rừng có bộ răng sắc nhọn lợi hại, tài chạy vô địch và khôn ngoan nhất hạng”. Qua

hàng ngàn năm, những động vật hoang dã đã đến với con người như một bước

tiến tất yếu của nền văn minh, trở thành những người bạn thân thiết, gắn bó và

tương sinh, tương trợ lẫn nhau.

Trải qua bao thăng trầm, lưu lạc, chó Bi như một sợi dây kết nối, xâu

chuỗi các sự kiện trong những mối quan hệ xã hội. Những mảnh đời éo le, bất

hạnh, những âm mưu, thủ đoạn… được ghép lại tạo thành một câu chuyện sinh

động về con người trong phần đời của một loài vật. Như một quyền năng thiên

định can thiệp vào số phận của gia đình ông Thuần, Bi truy đuổi được kẻ chủ

mưu đưa đến những nghịch cảnh éo le cho những con người lương thiện. Do

đó, hành trình phiêu lưu của Bi cũng là hành trình đi tìm chân lí. Xuất phát từ

tấm lòng nặng trĩu ưu tư, Ma Văn Kháng đã phác thảo bức tranh hiện thực

52

những năm sau Đổi mới với những mặt khiếm khuyết trong đời sống xã hội.

Đồng thời nhà văn còn xác lập một chân lí: “Tự nhiên luôn giữ quyền trừng

phạt mọi sự vượt quá ranh giới”.

2.3.3.4. Con người tha hóa

Con người tha hóa nghĩa là không có thái độ đúng mực đối với loài vật, ví

dụ như việc giết mèo, chó để ăn. Trong truyện ngắn Xin lỗi chó Bốp “Với

William Peter vừa ngật ngà ngật ngưỡng vừa cao hứng búng tay, nháy mắt:

Nhất bạch, nhì vàng, tam khoang… con này được mấy bát? Đúng là giọng điệu,

ngôn từ của những tay sành điệu món cờ tây” [31, tr.176]. “Về khoa ẩm thực

chẳng hạn. Thế giới đâu đã biết tới món đặc sản thịt chó. Đâu đã hiểu được cái

chân lý chứa đựng ở câu ca dân gian này: Sống trên đời ăn miếng dồi chó. Chết

xuống âm phủ biết có hay không? Chà! Cầy tơ bảy món” [31, tr.176-177].

“Bốp đã phải vượt qua một cuộc địa ngục trần gian… phải sống ở cái thế giới

toàn là những điều độc ác ghê rợn rồi. Nhà có năm người đàn ông lớn tuổi và

năm thằng con trai tuổi từ năm đến mười. Chúng vật mẹ Bốp ra làm thịt khi mẹ

Bốp còn đang trong thời kỳ con bú… Còn Bốp là kẻ phải gánh chịu tất cả. Bốp

là thủ phạm duy nhất của tất cả mọi sai sót. Hơn nữa, Bốp là nguyên nhân của

mọi sự thất bại. Một con đề trượt ra khỏi tầm tay. Một canh bạc bị thua. Một

cuộc lừa bịp không thành. Thậm chí một bữa rượu say xỉn. Một cơn đói thuốc

cồn cào điên dại. Đ.mẹ. Chỉ tại mày, lỏi con. Những cú đá bất thần xốc xáo cả

lục phủ ngũ tạng Bốp nối tiếp. Cho đến một ngày, một gã trẻ nhất trong năm gã

đàn ông bừng tỉnh sau một cơn phê thuốc, reo to: Ơ, thằng chó con lớn thành

chó dé rồi, loại này thịt nầm của nó ngon quên chết đấy!” [31, tr.185].

Trong truyện ngắn Con Clếch của tôi phải nói tới Gia - manh, đại úy Đồn

trưởng Phố Ràng, được máy bay Pháp tiếp tế lương thực và vũ khí, Gia - manh

đang hồi sức và nuôi mộng trở lại vùng đất này với âm mưu gây phỉ, tạo nên

các cuộc phản loạn. Gia - manh đã cố tình đẩy tên hạ sĩ (chủ cũ của Rốt - sin)

vào chỗ chết để chiếm đoạt Rốt - sin, nòi Giecs-mani - Đức thượng đẳng. Rốt -

sin lai giống với một chó làng Dao rồi đẻ ra Clếch thì Gia- manh khó chịu.

Trong một lần bị đơn vị bộ đội “Xê độc lập” do chú Nam Hồng - đại đội trưởng

- chỉ huy tổ chức công đồn và truy kích địch trên một rẻo Lạng Sơn - Lao Cai,

53

Gia - manh rút chạy đã bỏ lại Clếch, cố tình chia cắt tình mẹ con loài khuyển.

Gia - manh tàn bạo, độc ác khét tiếng về đánh lính, gậy gộc, roi gân bò, roi điện

lúc nào cũng treo ở tường. Chó Rốt - sin đã nhiều lần ăn đòn roi của hắn, mỗi

lần như thế nó có thể ốm cả tuần rồi mới bình phục được. Khi hai mẹ con Clếch

chưa kịp gặp nhau trong thung lũng cô Tiên thì Rốt - sin đã bị Gia - manh bắn

chết. Vậy là chẳng những chia cắt tình mẫu tử, Gia- manh còn giết chết điểm

tựa tinh thần mà bao lâu nay Clếch mong đợi.

Hay trong truyện ngắn “Ông lão gác vườn và chó Phúm”, tay giám đốc và

một số cán bộ: “giám đốc ngoài năm mươi, tráng kiện, mặt ngắn, mũi tẹt, môi

dày, rất khó xác định tư chất, gần đây rộ lên bao nhiêu là điều ô trọc đeo bám

vào mình, ăn nói bỗ bã, xô bồ” [31, tr.49]; Y nói: “Ông lão, sắp đến ngày

truyền thống của nông trường, hay là ta hạ con chó xồm của ông, làm một bữa

đi” [31, tr.57]. Chẳng hề ghi nhận công lao của Phúm mà chỉ rình ăn thịt.

Tiểu kết chương 2

Hiện nay, vấn đề về tự nhiên hay vấn đề về sinh thái đang là một vấn đề

mang tính toàn cầu, không phân chia biên giới, giai tầng xã hội. Như vậy, văn

học hiện nay cũng cần phải có trách nhiệm với nguy cơ sinh thái, bởi bản thân

văn học cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa tạo nên nguy cơ đó. Do

vậy, vấn đề sinh thái về loài vật không chỉ cần phân tích từ góc độ khoa học,

mà còn cần phân tích từ góc độ văn hoá, thông qua việc cải tạo văn hoá, cải tạo

quan niệm văn học để hạn chế mắc lỗi với tự nhiên và thậm chí chuộc lỗi với tự

nhiên. Ở chương này, chúng tôi làm rõ những phương diện nội dung trong

truyện ngắn về loài vật của Ma Văn Kháng được thể hiện qua 3 phương diện:

Thứ nhất là tính ẩn dụ trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc. Thứ

hai là Loài vật - thành phần của tự nhiên trong mối quan hệ cộng sinh khác biệt

với con người. Thứ ba là Các vấn đề nội dung viết về loài vật trong Mèo con

nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc. Có thể nói Ma Văn Kháng không phải là

người đầu tiên và duy nhất nói về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên,

song điều đáng ghi nhận ở đây là cách nói của ông thể hiện sự mới mẻ, nhẹ

nhàng, sâu sắc và cũng rất quyết liệt. Truyện ngắn và tiểu thuyết của nhà văn

54

dung lượng không dài nhưng lại có sức hút kì lạ, có khả năng tác động mạnh

mẽ đến ý thức con người trước vấn đề sinh thái đang là một trong những điểm

nóng của toàn cầu. Con người theo nhà văn không thể can thiệp thô bạo vào thế

giới loài vật, làm biến đổi những thuộc tính vốn có của giới tự nhiên, chà đạp

lên những vẻ đẹp của tự nhiên, tận diệt tự nhiên, tước đoạt cả quyền được sống

trong môi trường hoang dã của những con thú rừng... Những việc làm ấy của

con người ở mỗi chừng mực nhất định đều đã phải nhận được sự đáp trả thích

đáng của tự nhiên. Nếu biết dừng lại và nhận ra mình có lỗi với tự nhiên thì con

người sẽ được tự nhiên tha thứ, bao dung và che chở. Ngược lại nếu con người

làm tổn thương tự nhiên quá sức chịu đựng của nó thì sẽ bị quả báo một cách

đau đớn. Luật nhân quả không chỉ tồn tại trong mối quan hệ giữa con người với

con người mà nó còn tồn tại trong cả mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.

Đó là quy luật vĩnh hằng của vũ trụ, của nhiều mối quan hệ tự nhiên và xã hội.

55

Chương 3

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG MÈO CON NGHỊCH NGỢM

VÀ CHÓ BI ĐỜI LƯU LẠC

3.1. Điểm nhìn trần thuật

3.1.1. Khái niệm về điểm nhìn trần thuật

Bước đệm đầu tiên của cấu trúc nghệ thuật trong văn bản tự sự đó chính

điểm nhìn trần thuật. Việc tổ chức kết cấu tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào

yếu tố điểm nhìn trần thuật. Nếu ta không tìm hiểu điểm nhìn nghệ thuật thì sẽ

không thể hiểu được tác phẩm văn học một cách sâu sắc. Bởi lẽ khi miêu tả,

trần thuật, nhà văn buộc phải xác định, lựa chọn cho tác phẩm điểm nhìn hợp

lý. Đó chính là khởi nguồn cho việc xây dựng cấu trúc nghệ thuật trong tác

phẩm tự sự. Nó xác định “điểm nhìn tiêu cự hóa” của chủ thể kể chuyện vào

đối tượng trần thuật, vào thế giới hiện thực được hư cấu trong tác phẩm. Điểm

nhìn nghệ thuật trong văn học đã được các nhà lý luận quan tâm, nghiên cứu từ

rất sớm.

Các nhà lý luận, phê bình sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau để gọi tên thuật

ngữ này như là quan điểm trần thuật, cái nhìn trần thuật. Còn ở đây, chúng tôi

đã xem xét vấn đề và thống nhất dùng thuật ngữ điểm nhìn trần thuật.

Theo từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng điểm nhìn trần thuật là “khoảng

cách, góc độ của lời kể đối với cốt truyện tạo thành cái nhìn” [12, Tr.247].

GS. Trần Đình Sử: “Điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức,

quan sát, đánh giá, cảm thụ của chủ thể với thế giới. Nó là các vị trí dùng để

quan sát, cảm nhận đánh giá bao gồn cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể,

cả phương tiện vật lí, tâm lí, văn hóa” [45, tr.129].

Còn nhà lý luận GS. Phương Lựu lại cho rằng: “Nghệ sỹ không thể miêu

tả, trần thuật các sự kiện của đời sống nếu không xác định cho một điểm nhìn

đối với sự vật, hiện tượng nhìn từ góc độ nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ bên

trong hay ra bên ngoài” [33, tr.12].

Hiểu một cách đơn giản nhất, điểm nhìn chính là một phương tiện để

chúng ta có thể tiến đến cái đích tham vọng nhất. Cho dù có sử dụng cách thức

56

nào, phương pháp hay kỹ thuật nào thì mục đích cuối cùng của người sáng tạo

cũng chỉ là độc giả phải đọc.

Như vậy, từ những ý kiến và quan điểm của các nhà lý luận, phê bình trên

thì ta có thể hiểu “Điểm nhìn trần thuật” là vị trí, khoảng cách, góc độ chủ thể

trần thuật dùng để quan sát, miêu tả, đánh giá các đối tượng trần thuật. Bằng tất cả

những phương pháp, kỹ thuật thì chủ thể trần thuật sẽ dẫn dắt người đọc thâm

nhập vào tác phẩm theo các sự kiện, tình huống trong truyện. Người nghệ sĩ sẽ lựa

chọn một điểm nhìn cụ thể hoặc nhiều điểm nhìn đan xen nhau trong mỗi tác

phẩm của mình, nhằm giúp người đọc khám phá cấu tạo nghệ thuật và nhận ra

phong cách của nhà văn.

Như chúng ta đã biết, ở từng thời điểm khác nhau, các nhà nghiên cứu cũng

tiến hành nhiều hình thức phân loại về điểm nhìn.

Theo cuốn Lý luận văn học (GS Phương Lựu chủ biên) điểm nhìn trần

thuật được phân chia dựa trên 2 bình diện:

* Xét về bình diện trường nhìn trần thuật được chia thành 2 loại: trường

nhìn tác giả và trường nhìn nhân vật.

- Trường nhìn tác giả: Người trần thuật đứng ngoài câu chuyện để quan sát

đối tượng. Kiểu trần thuật này mang tính khách quan tối đa cho lời trần thuật.

- Trường nhìn nhân vật: Người trần thuật nhìn sự vật, hiện tượng theo

quan điểm của một nhân vật trong tác phẩm. Trần thuật theo điểm nhìn nhân

vật mang đậm sắc thái tâm lý, chất trữ tình hoặc châm biếm do sự chi phối trực

tiếp bởi địa vị, hiểu biết, lập trường của nhân vật.

* Xét về bình diện tâm lý, có thể phân biệt thành điểm nhìn bên trong và

điểm nhìn bên ngoài:

- Điểm nhìn bên trong: Người trần thuật nhìn thấy đối tượng qua lăng kính

của một tâm trạng cụ thể, dễ dàng tái hiện diễn biến trong tâm hồn nhân vật.

- Điểm nhìn bên ngoài: Chủ thể trần thuật giữ cái nhìn khách quan từ vị trí

bên ngoài có khoảng cách nhất định với đối tượng trần thuật.

Theo Pospelov, điểm nhìn trần thuật được chia làm 2 loại: Trần thuật

khách quan và Trần thuật chủ quan.

57

Theo GS Trần Đình Sử, điểm nhìn trần thuật được chia thành 5 loại:

- Điểm nhìn của người trần thuật, tác giả hay của nhân vật trần thuật và

của nhân vật.

- Điểm nhìn không gian, thời gian.

- Điểm nhìn bên trong, bên ngoài.

- Điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc.

- Điểm nhìn ngôn từ: bản thân mỗi hình thức ngôn từ đã mang một quan điểm.

Tóm lại, mỗi nhà nghiên cứu đều tìm tòi, khai thác những vấn đề điểm

nhìn theo phương thức khác nhau. Vì vậy, khi nghiên cứu tác phẩm thì cần phải

lựa chọn những cơ sở sao cho hợp lý và phù hợp với thực tế. Nên khi nghiên

cứu về điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết Ma Văn Kháng thì

chúng tôi đã lựa chọn phân loại điểm nhìn theo tác giả Phương Lựu đó là chia

ra thành hai loại: Điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài.

3.1.2. Điểm nhìn bên ngoài

Điểm nhìn bên ngoài thì người trần thuật sẽ có cái nhìn khách quan, tỉnh

táo để thuật lại, tả lại các nhân vật và sự kiện. Đồng thời luôn tạo ra khoảng

cách và làm nổi bật những khía cạnh khác nhau của bức tranh xã hội phong phú

đa dạng.

Ở điểm nhìn này, người trần thuật biết hết mọi chuyện đã và đang xảy ra

để tái hiện mọi sự vật hiện tượng được phản ánh một cách khách quan. Ở điểm

nhìn này, các nhân vật được trần thuật từ ngôi thứ ba. Ở vị trí người kể ngôi thứ

ba này dường như người kể có vẻ không liên quan tới câu chuyện nhưng lại

đóng một vai trò rất quan trọng trong tác phẩm. Vì người kể chuyện không chỉ

đóng vai trò là người dẫn chuyện mà còn đảm nhiệm vai trò như là một người

bình luận, phân tích và đánh giá để làm rõ các mối quan hệ trong tác phẩm.

Ma Văn Kháng chọn điểm nhìn bên ngoài để trần thuật câu chuyện một

cách khách quan nhất. Lời kể của nhà văn luôn tỏ ra lạnh lùng, điềm nhiên.

Nhưng ẩn chứa sau sự dửng dưng lạnh lùng đó, người đọc vẫn nhận thấy nỗi

niềm trăn trở băn khoăn day dứt của nhà văn về cuộc sống. Điều này đã được

nhà văn gửi gắm qua lời nhân vật.

58

Nhà văn sử dụng điểm nhìn bên ngoài để cho người đọc thấy rõ được sự

trăn trở sám hối, lương tâm bị dằn vặt áy láy, tìm cách chuộc lỗi như tâm

trạng của thầy Thịnh trong truyện Tội nghiệp con vẹt già. Thầy Thịnh không

mấy cảm tình với “con vẹt dị hình dị tướng, một gã chim bẻm mép láu lỉnh

và láo xược” của ông Hoan: “Cái mào thì sùi lên một đống đỏ sậm như tiết

đọng. Màu lông thì xanh đỏ lòe loẹt, đồng cô đồng cậu, sặc sỡ đến phù

phiếm. Quái dị, nó dùng cái mỏ quặp rắn như đá ngoặc vào cành để leo trèo.

Cũng cái mỏ cong như cái vuốt hổ ấy, nó liên tục cúi xuống giật cái vòng

xích định dở trò tháo cũi xổ lồng. Tiếng kêu của nó thì thô lỗ, gai ngạnh

không mê được. Đã thế lại như ăn phải quả độc ngứa miệng, như một ông

già đa ngôn, đa sự, nó cứ kèng kẹc luôn mồm” [31, tr.194]. Vì nó nhại lại

tiếng con mèo hoang là gọi kẻ thù đến ăn thịt mình nên nó phải chịu cái chết

bi thảm. Nghe tin ấy thầy Thịnh “trong hoài cảm mênh mang và im lặng. Tội

nghiệp con vẹt già! Nhưng chẳng lẽ là thấy đã quá khắt khe, thậm chí hẹp

hòi, thiếu lòng khoan dung, thể tất với nó? Dẫu sao nó cũng chỉ là con vật

đáng thương, rất đáng thương thôi. Nó đã tự hại mình mà không biết. Tội

nghiệp con vẹt già!. Nó thật sự chỉ là một kẻ thụ động xuẩn ngốc, một nạn

nhân đáng thương thôi! Một nạn nhân của chính nó và rất đáng thương thôi!

[31, tr.202].

Từ điểm nhìn bên ngoài, Ma văn Kháng đã tái hiện lại được diễn biến

cuộc đời chú chó Clếch qua ba sự kiện:

Thứ nhất: Sự xuất hiện của Clếch. Quân ta mở chiến dịch biên giới.

Phòng tuyến địch trên suốt một rẻo Lạng Sơn – Lao Cai rung chuyển. Đồn Phố

Ràng do quân ba Gia – manh rục rịch rút chạy. Đơn vị bộ đội còn gọi là Xê độc

lập do Đại đội trưởng Hồng Nam chỉ huy tổ chức công đồn và truy kích bắt

được một con chó Tây “chỉ độ ba tháng tuổi mà chân đã dài ngoẵng. Lông tơ

phủ vàng óng, lưng mờ mờ một vệt đen. Trong khi cái mõm thì dài, chỏm mũi

thì đen sì. Còn đôi tai là hai cái chóp nhọn như hai mũi giáo” [31, tr. 258]. Tiếc

là con chó lại không có thái độ tiếp nhận người lạ, ngoài chú Nam Hồng

“Trong vòng tay ấm áp của chú, được chú vuốt ve, nó lim dim mắt, rên ư ử,

nghe như vừa tủi thân vừa sung sướng” [31, tr.259]. Ở sự kiện này, tác giả cảm

59

nhận được tình cảm của loài vật và tìm được nguyên nhân vì sao Clếch không

cho động vào người: “ Tôi thót mình. Thì ra là Clếch đã đánh hơi thấy mùi hổ

qua cái vuốt hổ tôi vẫn hằng đeo trên cái vòng cổ” [31, tr.264].

Thứ hai: Cậu bé phìn đã mất đi một người bạn thân thiết là con chó Phúm. Song cậu đã được khỏa lấp nỗi buồn ấy bằng việc chăm sóc và huấn luyện con Clếch, giống chó Tây mà Gia – manh đã bỏ lại, bây giờ thì “Nó hoàn toàn thay thế con chó Phúm của tôi. Tôi đi đâu nó theo đấy. Tôi học bài nó ngồi cạnh chân. Tôi ngủ nó nằm dưới gầm giường. Tôi ăn gì nó ăn nấy. Ngô khoai sắn. Chẳng có thịt thà gì. Củ khoai, lát sắn, bắp ngô, hạt dẻ rừng. Chùm hồng bì. Qủa dâu da. Nó là người bạn tâm tình của tôi” [31, tr.285].

Clếch đã giúp cậu bé khỏa lấp nỗi nhớ Phúm, bắt đầu hòa nhập với cuộc sống của làng Tòng Sành họ Bàn, họ nuôi nhiều chó để giữ nhà, chó để đi săn họ không ăn thịt chó. Người nào ăn thịt chó không được vào làng. Không phải họ coi thịt chó là uế tạp đâu. Mà vì chúng họ yêu quý chó. Clếch nhập đàn với bọn chó ở làng Đốm già, Bốn mắt, Vàng, Vện, Phèn, Gio… “Tôi hiểu: thế là Clếch đã được nhập bầy. Bầy chó làng tôi thật có lòng tốt và Clếch bằng việc rúc vú chị Khoang đã tỏ ra là một kẻ tự nguyện yêu quý đồng loại, một đứa con, một thành viên của bầy đàn” [31,tr.276]. Clếch được làm lễ nhập gia và bắt đầu làm các nhiệm vụ như canh vườn tam thất diệt lũ chuột, chiến đấu với bọn diều hâu chuyên bắt gà và bắt đầu tập săn thú trong rừng như con lợn độc. Từ đó, nhà văn đã cho bạn đọc thấy được tập tính và khả năng của loài chó, chúng học việc rất nhanh và rất thông minh.

Thứ ba: Clếch nhận ra mẹ mình qua những tiếng tru trong rừng. Thì ra

“bằng tình mẫu tử thiết tha, Rốt-sin đã lục lọi trong không gian và nhận ra hơi

hướng của con nó, nhà văn cảm nhận được tình mẫu tử của loài vật “Trong

tiếng sủa của nó thấy có niềm thương xót, có nỗi ai oán trước cảnh chia lìa.

Tiếng sủa của nó là lời nhắn gọi trong gió núi mây ngàn tới đứa con bấy lâu xa

cách và nhớ mong” [31, tr.325]. “Và tôi đã nhìn thấy một cảnh tượng mà suốt

đời tôi chẳng bao giờ có thể quên. Từ hai phía, rạch hai đường thẳng, con Clếch

và mẹ nó đang lao vùn vụt lại để gặp nhau. Tình mẹ con như sợi dây bấy lâu bị

cắt rời, nay sắp được nối liền. Chẳng bụi rậm, khe suối, mỏm đá, nào có thể

ngăn cách nổi cuộc gặp gỡ hết sức kì lạ có một không hai nọ. Chẳng một thế

60

lực hắc ám nào có thể gián cách được tình mẫu tử của hai sinh linh nọ trên thế

gian này. Bồi hồi, rưng rưng bao xúc động, tôi muốn gào lên thật to: Clếch ơi.

Thế là Clếch sắp được gặp mẹ rồi. Clếch sẽ được sống trong tình mẹ thân yêu

mà bấy lâu Clếch đã nấu nung mong mỏi” [31, tr.329]. Nhưng khủng khiếp quá

là sự phũ phàng của cái cuộc đời còn đầy những kẻ gian ác này!“ Ôi! Vào cái

giây phút chính bản thân tôi cũng rất nóng lòng mong đợi ấy, bỗng xẩy ra một

việc quá đỗi đau đớn và thương tâm mà tôi đâu có ngờ! Gia-manh, tên sĩ quan

thực dân gian ác đó đang đuổi theo con chó mẹ từ trên núi xuống và đúng lúc

Rốt – sin chỉ còn cách đứa con bấy lâu xa cách và nhớ nhung của nó mươi bước

chân thì y dừng lại, mặt hằm hằm căm giận, rút phắt khẩu súng ngắn đeo ở bên

sườn và nâng lên. Clếch sững ngay lại. Mẹ nó đổ xuống cách nó chừng dăm bước.

Tôi như ngã từ trên cây ba la xuống đất ” [31, tr. 330]. Nhà văn cảm nhận thấy

“Thằng giặc này ác quá. Nó ác cả với con người, với cả con vật” [31,tr. 331].

3.1.3. Điểm nhìn bên trong

Nếu như ở điểm nhìn bên ngoài, người trần thuật kể lại sự kiện với thái độ

khách quan, điềm nhiên lạnh lùng, thì ở điểm nhìn bên trong, khoảng cách giữa

người trần thuật và nhân vật được rút ngắn lại, có khi còn trùng với nhân vật.

Từ góc độ này, người trần thuật có thể thâm nhập vào cảm xúc, suy nghĩ của

nhân vật, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật và trần thuật bằng chính

giọng điệu của nhân vật đó.

Sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của một nhân vật bằng cái nhìn

“nhân vật hóa”. Ở điểm nhìn này, người trần thuật cũng đồng thời là một nhân

vật trong tác phẩm, đứng ở ngôi kể thứ nhất và tái hiện lại những gì bản thân

nhân vật đã trải qua. Ma Văn Kháng sử dụng điểm nhìn bên trong để bộc bạch

suy nghĩ của mình, để thể hiện tình cảm và khám phá chiều sâu tâm hồn phức

tạp của con người. Đọc tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc nhân vật Toản thấy tim

mình đau nhói: “Đời người chẳng biết thế nào mà lần là vậy. Nhưng chẳng lẽ

những kẻ thông minh lại là những con người dễ như hỏng, chẳng lẽ những tài

năng hình sắc đã một thời rạng rỡ và những tình cảm cao quý lại có thể tan biến

nhanh vậy mà chẳng cần có một chút hồi quang, dư âm, dư ảnh? Chẳng lẽ con

người đã phát triển nhân cách tới mức biết được giá trị của mình, dám tự khẳng

61

định mình qua tâm sự ghi trong nhật ký, lại có thể dễ dàng để ngoại cảnh chi

phối mình vậy?” [23, tr.136]. Kết thúc sau một chuyến đi săn cùng anh chàng

phóng viên về. Ông Thuần và Bi trải rơm thành một lớp mỏng để xoải người

xuống nghỉ ngơi. Lúc này ông Thuần đang rơi vào một trạng thái sung sướng

“Ông đang sống trong trạng thái tâm hồn thanh tân vô cùng sung sướng. Ở ông

lúc này là sự hòa điệu, giữa thể xác và tinh thần. Sự hòa hợp bắt đầu từ nơi ông

và thông mở đến bên ngoài. Trong ông, không có lỗi lo âu, sợ hãi. Từ ông, tình

yêu đời mở rộng ra bát ngát” [23, tr.199]. Hay khi nhận ra con tàu Hải Âu của

mình bị đánh cắp năm xưa giờ nó được sơn lại và đổi tên thành Vượt Sóng thì

ông thuần đột nhiên “Có cảm giác người thiếu hụt trọng lượng, nhẹ bênh lên.

Không khí xung quanh ông dãn ra một chút” [23, tr.206].

Ma Văn Kháng sử dụng điểm nhìn bên trong để bộc bạch những suy nghĩ,

tình cảm, nhận thức, thể hiện chiều sâu tâm hồn phức tạp của con người. Khi

Phúm lên nông trường ở cùng với ông Tài. Ông đã nhận ra một điều hệ trọng,

cấp thiết ấy là miếng ăn của Phúm. Cũng là miếng ăn của ông. Ông no là Phúm

no. Ông đói là Phúm cũng đói. Con đường duy nhất bây giờ của ông Tài là lên

gặp giám đốc. Tận tối mịt hôm đó ông lão gác vườn mới từ nông trường bộ

về tới trước lều canh của mình. Ông lão lẳng lặng không nói một câu, nhìn

bát cơm của Phúm vẫn nguyên ông lại giục và quát “Sao không ăn Phúm?”

[31, tr.53]. Con chó cúi đầu, thoáng cái liếm sạch bong đáy bát. Rồi nó nằm

phủ phục cạnh chân ông. Bấy giờ ông lão mới xoa xoa đầu nó, buồn dầu:

“Phúm ơi, Phúm thương ta, thấy ta dốc hết bao gạo, Phúm không nỡ ăn hết xuất

cơm sáng. Nhưng bây giờ ta phải nói thật với Phúm, khó khăn lắm, Phúm à”

[31, tr.53]. Nghĩ mãi không ra, ông Tài đứng dậy quyết định về nhà nói khó với

bà vợ cho vay. Khi về đến cổng nhà ông sung sướng bước vào nhà vì nơi đây

có hương vị quen thuộc của người phụ nữ mà ông suốt đời yêu quý. Nhưng,

than ôi! Trời chẳng có một chút công bằng, trớ trêu quá! Cảm xúc đang bừng

bừng bỗng như đóng băng lại bởi ông nhìn thấy có dấu vết thăm dò của thói

dục tình bừa bãi giữa hai kẻ gian phu dâm phụ. Ông tài quay trở lại con đường

vừa qua, ông chạy như một cơn cuồng phong, lúc này ông có cảm giác “Biến

thành một con ngựa điên lao bừa vào phía trước, bất chấp mọi hiểm nguy trở

62

ngại. Trong ông lúc này có một kẻ rồ dại trấn ngự” [31, tr.55]. Như vậy, tác giả

sử dụng điểm nhìn bên trong để thấy rõ được “con người còn đang vật lộn với

tự nhiên để dành giật lấy miếng ăn cho mình” [31, tr.52].

3.1.4. Cái nhìn về loài vật (Nhìn bằng điểm nhìn người kể chuyện, nhân vật

trong truyện, luân phiên điểm nhìn)

Về bản chất, kể chuyện từ điểm nhìn động vật chỉ là thủ pháp di chuyển

điểm nhìn, đặt cái nhìn của con người vào một vị trí khác. Ở góc độ sinh thái

học, Ma Văn Kháng đã lựa chọn điểm nhìn này để nhằm đưa tiếng nói của tự

nhiên trở thành trung tâm của diễn ngôn sinh thái. Xây dựng điểm nhìn động

vật, ngụy trang cái nhìn của con người từ cái nhìn bên trong của động vật, Ma

Văn Kháng đã đưa ra tiếng nói mới về sinh thái, xuất phát từ sự thay đổi trong

quan niệm về mối tương giao giữa con người với tự nhiên.

Điểm nhìn động vật thường sử dụng trong những tình huống cần khai thác

nội tâm, tâm lý của những nhân vật phi nhân, khi các con vật nghĩ thầm, nói

thầm “Đi một lúc, bỗng ngửi thấy hơi gì quen lắm. Bi đứng lại thì có một con

chó cái rất giống Bi từ trong một cái cổng gạch chui ra. Ôi, mẹ Bi, mẹ Bi thật!

Giống Bi lắm. Bụng mẹ to ộ ệ kềnh càng. Mẹ lại sắp có em bé rồi. Bi nằm ềnh

bên chân mẹ [23, tr.61].

Từ xưa, do khoa học kĩ thuật chưa phát triển nhưng con người đã luôn biết

cách ứng xử của mình với thế giới tự nhiên, xong nhận thức của con người về

thế giới loài vật và thiên nhiên lại có hạn cho nên các thế lực của tự nhiên và

loài vật còn là mối đe doạ lớn của loài người. Cái ác của con người đối với tự

nhiên thường thể hiện ở chỗ con người chỉ quan tâm đến mục đích của mình,

bất chấp cảm nhận của tự nhiên. Cái ác này rõ ràng không thể thuộc vê “thú

tính”, bởi muông thú luôn tôn trọng tự nhiên tuyệt đối. Ma Văn Kháng viết về

loài vật ông chỉ rõ “Thú tính” không chỉ gần với “Nhân tính” mà còn vượt qua

cả nhân tính. Đó là sức mạnh của tình mẫu tử khiến cho mẹ con Clếch (Con

Clếch của tôi), hay con hổ mẹ (Ông Pồn và chú hổ con) suốt đời không ngừng

đấu tranh, giành địa vị an toàn, tôn nghiêm cho con, là lòng hi sinh vì tình yêu.

Bằng việc miêu tả sự cao thượng của loài vật, Ma Văn Kháng đã cho chúng ta

thấy sự thay đổi nội hàm của khái niệm thú tính cũng như chất vấn lại đạo đức

63

của con người, dựa vào tiêu chuẩn đạo đức của tự nhiên. Như vậy, có thể thấy

Ma Văn Kháng lựa chọn điểm nhìn động vật để cắt nghĩa mối tương giao giữa

con người với môi trường sinh thái. Thú tính được đặt bên cạnh nhân tính

không nhằm phân biệt sang hèn, thiện ác mà nhằm tìm kiếm điểm gặp gỡ giữa

con người về thế giới phi nhân.

Dưới góc nhìn phê bình sinh thái, chúng tôi thấy qua tập truyện ngắn và

tiểu thuyết viết về loài vật Ma Văn Kháng đã thừa nhận quyền tồn tại của loài

vật, bảo vệ sự sinh tồn và quyền sống của loài vật. Con người là bạn của loài

vật chứ không phải chúa tể của muôn loài. Con người có thể nghe, cảm nhận và

chia sẻ niềm vui và nỗi đau của loài vật. Niềm vui của loài vật thể hiện qua

hành động khi gặp người chủ mà nó yêu quý như trong truyện ngắn Ông lão

gác vườn và chó Phúm. “Đứng đờ ra ngắm Phúm một lúc, ông Tài mới ngồi

xuống, đưa bàn tay giá lạnh xoa đầu nó. Con chó rít khe khẽ như cảm nhận ân

ưu, ngẩng lên hít hít bàn tay ông chủ” [31, tr.38]. Hay tâm trạng vui mừng của

bầy chó làng Tòng Sành khi hay tin chú Nam Hồng về trong truyện ngắn Con

Clếch của tôi: “Chó cả làng cũng có mặt đủ. Đốm già, chị Khoang, anh choai

Bốn mắt đến muộn. Còn Vằn, Vện, Vá, Mực,Vàng, Phèn, Gio ngồi đứng quanh

sân, ngay từ phút đầu, lốm đốm đủ màu sắc trông như một mảnh thổ cẩm sặc

sỡ, rất vui mắt. Thật ra bầy chó đã quần tụ từ lúc chúng đánh hơi thấy chú

Hồng Nam” [31, tr. 315 - 316].

Các nhà phê bình sinh thái khẳng định rằng “quan điểm coi tự nhiên là

câm lặng, không có tiếng nói cũng chủ yếu cho thấy về sự khước từ lắng nghe

của chính chúng ta chứ không phải là về năng lực giao tiếp của tự nhiên”,

“không đồng nghĩa với việc cho rằng thế giới tự nhiên chỉ là một cái gì hoàn

toàn câm lặng” [41,tr.22]. Soi chiếu vào thế giới loài vật, nhà văn Ma Văn

Kháng đã “đảo lộn” những quan niệm mặc định về những điều vẫn được xem

là độc quyền của loài người để có thể đứng cao hơn tự nhiên, bởi tình cảm,

ngôn ngữ, văn hóa. Nhưng loài vật cũng có ngôn ngữ riêng của nó. Con người

không nghe thấy tiếng nói đó chứ không phải là ngôn ngữ loài vật không tồn

tại. Một số nhân vật có thể nghe thấy tiếng nói của loài vật “Tiếng con dế gáy

ran bờ cỏ. Xâu thời gian thành chuỗi hạt cườm” [31, tr.255]. Con người vẫn

64

thường tự hào mình là loài có ngôn ngữ, vì có ngôn ngữ con người có khả năng

tư duy. Và chúng ta phủ nhận ngôn ngữ của loài vật, cây cối. Các nhà sinh thái

khẳng định: chúng ta cứ tưởng rằng những con vật không có ngôn ngữ, bởi vì

chúng ta không hiểu những tiếng kêu của chúng. Kì thực, muôn loài giao tiếp

bằng ngôn ngữ riêng của nó. Chẳng hạn trong truyện ngắn Con Clếch của tôi,

nhà văn Ma Văn Kháng đã cho bạn đọc thấy được nỗi nhớ con của chó mẹ

được thể hiện qua tiếng tru của nó: “Có nỗi nhớ nào căng đầy, nhức nhối như

nỗi nhớ con…trong đêm tĩnh lặng, tiếng con chó lạ ấy nghe ra còn rõ hơn cả lúc

chiều. Có lúc nó ngắt từng đoạn. Có khi nó liền một hơi, càng về sau càng vuốt

nhọn, nghe rởn cả da người. Trong tiếng nó tru, nó rú, nó rống, lại nghe như thấy

cả nỗi ai oán, u uất, căm nghẹn” [31, tr.312]. “Một bận tôi đi săn, bắt được một

con gấu con. Con gấu mẹ đi tìm con, nó lồng lộn, rú, rống làm tôi phát kinh, làm

cả làng tôi táng đởm kinh hồn. Sau tôi đành phải thả con gấu con đó” [31, tr.325].

Thế giới muôn loài sống chân thật, an nhiên tự tại và tự do hơn loài người.

Con người nhiều khi đem lí trí vào mọi loại tình cảm, lấy cái giả dối làm khuất

lấp sự trong sáng của ngôn ngữ. Đặt con người trong thể đối lập với loài vật,

truyện ngắn của Ma Văn Kháng chạm vào nỗi đau sâu thẳm của nhân loại thời

hiện đại : rời bỏ tự nhiên nghĩa là con người đã rời bỏ bản tính thiện tốt đẹp của

mình. Đặt thế giới loài vật bên cạnh thế giới loài người, ta nhận ra rằng, thế

giới loài vật cũng có tâm hồn và tính cách, lại yêu thương, trái ngược lại với thế

giới loài người luôn đầy bất trắc, xảo trá, lừa lọc. Sự chân thật của muôn loài

thể hiện ngay trong ngôn ngữ như tiếng chim cu gáy “giọng thổ mổ tứ: cu cu cu

cu…cú! cu cu cu cu…cú! Bốn âm cu giọng trầm ấm phát ra tròn trĩnh, nuột nà,

ngọt ngào, đều đặn, tới âm cuối thì vuốt dài thêm chút đỉnh để rồi bất thình lình

hất lên một âm sắc cao vênh, tạo nên một chuỗi hợp âm ngân nga như tiếng

chuông đồng. Ôi, cái tiếng gáy giọng thổ mổ tứ quý hiếm ấm ngọt, dịu hiền và

sâu lắng của con chim!” [31, tr.206]. Sự chân thật của muôn loài thể hiện ngay

trong ngôn ngữ. So sánh với loài vật, tác giả cho thấy nỗi hoài nghi về sự chân

thật trong ngôn ngữ loài người, có thể che đậy trong đó rất nhiều hư ngụy.

Chẳng hạn như trong truyện ngắn Bát ngát trời xanh, ông Khang được

ông Thọ tặng cho con chim cu gáy nhân dịp mừng thọ lên lão 68. Hằng ngày

65

ông chăm sóc nuôi nấng cẩn thận và nó cũng đáp lại bằng những tiếng gáy nuột

nà. Một hôm ông chuyển chim sang lồng rộng hơn vì ông nghĩ chật nó liền

không hót nữa. Sau ông mới vỡ lẽ thì ra cái lồng hẹp làm cho con chim nó bí

bách nó phát tiếng gáy. “Con chim cu có giọng gáy vàng gáy bạc của tôi có khác gì

một tù nhân bị giam hãm trong một xà lim chật chội, ngột ngạt” [31, tr.209]. Thì ra

tiếng hót mà ông ngợi ca, yêu mến lại là “tiếng khóc than ai oán của một số

phận đơn côi trong ngục thất, chịu án cách ly với đồng loại mà thôi!” [31, tr.216].

Đây chính là hành vi “trói buộc vô nhân” của con người. Tác phẩm đã đặt ra

những trăn trở hết sức nghiêm túc về hiện sinh, về tình yêu và cái chân thật, về

niềm hạnh phúc và tự do…mà so với cái bao la của bầu trời và cái an nhiên của

con chim, con người không thể có được. Tạo hóa sinh ra con người và muôn

loài là tốt đẹp và hoàn hảo, chỉ vì con người với lí trí, dục vọng…đã làm khuất

lấp đi vẻ đẹp tự nhiên ấy. Và một khi đánh mất bản lĩnh tự nhiên tốt đẹp, con

người trở nên bất toàn.

Ngày nay, con người văn minh phải biết cảm thông với tự nhiên, đó cũng

là lí do những tổ chức bảo vệ động vật ra đời, để lên án những hành vi trái với

quyền động vật như lấy mật gấu, lấy sừng tê giác, lấy ngà voi… Tại sao việc

cứu lấy các động vật hoang dã lại quan trọng? Bởi vì khi cứu chúng, con người

sẽ có tình người, mà nhân tính lại là cái chúng ta cần có để nhân loại bền vững.

Như vậy, từ quyền con người đến quyền của tự nhiên là bước tiến lớn trên lộ

trình nhân văn hóa con người. Học cách yêu quý muôn loài là cách chúng ta

nuôi dưỡng nhân tính. Con người cảm nhận nỗi đau của con vật như nhận ra

nỗi đau của đồng loại: hai anh em Hải ra đầu làng Mạ chứng kiến cảnh tượng

khủng khiếp “Một con chó đang bơi lóp ngóp ở giữa ao. Xung quanh ao có đến

mấy chục người đàn ông, thảy đều hằm hè dữ tợn và khoái trá, đang thi nhau

ném những cồ đá, củ đậu vào con chó. Con chó chắc đã bị vây hãm quá lâu rồi,

giờ lông da xám xịt một màu, cuống cuồng quẫy đạp, lúc rạch ngang lúc xẻ

dọc, trong cơn tuyệt vọng. Mỗi lần bị trúng một viên đá, con vật lai kêu oắng

một tiếng thảm thiết và ngã dụi xuống nước. Và ở trên bờ, bọn đao phủ lại một

lần hò la inh ỏi. Khốn khổ! Con vật thân cô thế cô, yếu đuối đang ở giữa vòng

vây của cuộc hành hình man rợ. Cuối cùng, cái đến đã phải đến! Một cục đá

66

lớn vừa giáng trúng đầu nó, nó liền giật đứng người dậy, tru một tiếng dài thê

thảm rồi chìm nghỉm tại chỗ…cái Thắm bưng mặt khóc” [31, tr.22]. Trong

những truyện của Ma Văn Kháng, xuất hiện kiểu nhân vật làm đồ tể, bọn sát

thủ giết mèo, bọn trộm cắp chó mèo… Nhưng cảm hứng trong truyện không

phải là chinh phục tự nhiên mà nghiêng về cảm giác chia sẻ nỗi đau thể chất

với những con vật và ông tin rằng tình yêu loài vật sẽ cảm hóa con người.

Mẫu hình nhân cách của người anh hùng chinh phục tự nhiên thuộc về kẻ

chiến thắng, sức mạnh được tôn vinh là sức mạnh thể chất, lí tính. Do vậy bao

giờ nó cũng thuộc về những hình tượng trung tâm. Đạo đức sinh thái trong

truyện ngắn và tiểu thuyết của Ma Văn Kháng hình thành từ những thân phận

bé nhỏ, bên lề. Đó là những con người biết nâng đỡ thế giới tự nhiên bị thương

tổn, đồng cảm với số phận tự nhiên bị chà đạp, biêt lắng nghe những tiếng nói

lạ thường của thiên nhiên, biết sống hài hòa với thế giới xung quanh và gắn kết

với đất đai, muông thú, cỏ cây bằng một tình yêu sâu nặng. Truyện ngắn

Thương con ngựa già, thể hiện thái độ căm phẫn của ông Lang và hai đứa cháu

nội Hiệp, Khúc với gã xà ích thô lỗ, bóc lột triệt để sức lao động của con ngựa,

coi nó như nô lệ của mình, đến mức già nua cũng không tha. Khi con ngựa mệt

vẫn bắt nó đi tiếp, vung roi đánh nó liên tiếp, tới tấp: “Kinh hãi quá là trận đòn

roi. Và đó là những cú đánh của kẻ say máu, cốt để thỏa mãn cái thói hung bạo

có sẵn trong người. Vì đánh chỉ với mục đích là ra oai, là đánh để cho mày

biết cái uy quyền của ông chủ với tên nô lệ. Và do vậy, con vật dưới trận

mưa roi tàn bạo chẳng mấy lúc đã rơi vào trạng thái hoảng loạn, cuống

cuồng giật đùng đùng, lôi chiếc xe theo những đường chạy mỗi lúc một

thêm xiên xẹo, rối rít trên mặt đường” [31, tr.232].

Con người đã nhận ra loài vật có sinh mệnh, tâm hồn, tình cảm, cảm giác,

ngôn ngữ nên đồng cảm với nó. Do vậy, các nhân vật trong truyện thấu cảm với

động vật, chia sẻ cảm giác bị đau với chúng. Trong mối quan hệ với tự nhiên,

đạo đức sinh thái hiện đại đã có sự thay đổi, con người không còn là kẻ chinh

phục mà là những người biết cúi xuống những số phận tự nhiên bị thương tổn,

biết chia sẻ cảm giác bị đau với muôn loài, biết lắng nghe tiếng nói từ vạn vật,

biết chia sẻ và tôn trọng muôn loài. Do vậy, đạo đức sinh thái trong văn học

67

đưa ra đề xuất Chủ nghĩa nhân văn sinh thái: Tư tưởng này không ca ngợi con

người như “chúa tể của muôn loài” mà là thái độ sống bình đẳng, tôn trọng vạn

vật để cùng hướng tới cuộc sống bền vững, yên ổn, hạnh phúc. Từ khẳng định

quyền con người đến quyền của động vật, đánh dấu bước tiến lớn trên lộ trình

văn hóa con người. Dù chúng ta bận tâm bất cứ điều gì của cõi người thì vẫn

phải tiếp xúc với cỏ cây muông thú. Vậy mà trái đất đang lâm nguy, loài vật

dần vắng bóng trong đời sống, con người trở nên bất an trong thời đại văn minh

kĩ trị. Do đó, văn học, nơi bắt đầu của những phản biện với những lối mòn của

tư duy cần cất tiếng nói của sự phẩn tỉnh. Có như vậy, văn học Việt Nam mới

tiếp cận được với những vấn đề khẩn thiết đương đại trong thời đại mà sự

khủng hoảng sinh thái trở thành vấn đề nghiêm trọng toàn cầu.

Chính thiên nhiên và thế giới loài vật đã dạy cho con người bài học làm

người. Hãy đến với thiên nhiên và thế giới loài vật bằng tâm thế hoà hợp chứ

không phải là chinh phục, là khai chiến, là tước đoạt, là chà đạp, là tận diệt.

Truyện ngắn và tiểu thuyết của nhà văn đã rung lên một hồi chuông cảnh báo

về văn hoá của con người trước ứng xử với thiên nhiên và loài vật. Hành vi của

con người cần được điều chỉnh khi tác động vào thiên nhiên và thế giới loài vật,

sao cho hành vi ấy không vượt quá cái ngưỡng, tức sức chịu đựng của nó. Đó là

thông điệp mà Ma Văn Kháng muốn gửi tới độc giả của hôm nay và mai sau

qua các truyện ngắn và tiểu thuyết của ông.

3.2. Ngôn ngữ kể chuyện

3.2.1. Khái niệm về “Ngôn ngữ loài vật”

Giao tiếp ở động vật là hoạt động giao tiếp giữa các loài động vật với

nhau, có thể là các cá thể trong cùng một loài, giữa các cá thể khác loài và việc

giao tiếp giữa động vật với con người thông qua các tín hiệu của động vật gửi

đi những thông tin đến đối tượng.

Khi muốn bộc lộ suy nghĩ của mình, chúng ta sử dụng lời nói. Động vật

cũng có ngôn ngữ riêng của chúng và động vật sử dụng ngôn ngữ của chúng

giống hệt như chúng ta. Tức là chúng cũng nói chuyện với nhau để trao đổi

thông tin.

68

3.2.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi

đời lưu lạc

Trong văn xuôi của Ma Văn Kháng thì ngôn ngữ tả loài vật là một trong

những nét độc đáo nhất. Khi tả về loài vật, nhà văn thường tập trung tả ngoại

hình, tính cách và tiếng kêu của chúng, kết thúc mỗi truyện là những bài học triết lí nhân sinh.

Quan niệm văn học truyền thống thường xem tự nhiên chỉ là công cụ để

biểu hiện cuộc sống con người, là thành tố quan trọng của thi pháp học, là cảm

hứng nghệ thuật của nhà văn. Nên thiên nhiên xuất hiện trong văn chương như

một khách thể tự tại. Các nhà văn thường mượn thiên nhiên để bộc lộ tình cảm,

tư tưởng và làm đòn bẩy nhằm nổi bật chân dung chủ thể con người. Điểm này

hoàn toàn đối ngược với lí thuyết phê bình sinh thái. Các nhà phê bình sinh thái

mạnh mẽ phản đối thái độ xem thiên nhiên là công cụ, là khách thể nêu trên.

Đó là những gì William Ruecker gọi, “văn học sinh thái” tìm hiểu những cách

thức thiên nhiên bị cách li khỏi nhịp điệu phát triển xã hội, im lặng, hoặc xô

đẩy. Nó phải là những diễn ngôn biểu đạt quá trình thao túng thế giới phi nhân

(non - human) trong văn học, và thảo luận cách thức tự nhiên bị đẩy ra “ngoài

lề”, “câm lặng”.

Ở đây, chó Bi trong tiểu thuyết không hề “làm nền” để nổi bật hình ảnh

con người. Trái lại, con người bị mờ dần trước vẻ đẹp thánh thiện, hài hòa của

Bi. Ngòi bút của Ma Văn Kháng luôn tung hứng trong những đoạn nói về loài

chó. “Con chó đã đi vào đời sống người mình. In dấu cả vào văn chương. Chó

đâu có chó sủa không. Chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày” [23, tr.100].

Trở thành ẩn dụ, biểu tượng của bao kinh nghiệm nhân sinh: “Chó chê nhà giột

ra nằm bụi tre. Chó quê đòi ăn mắm mực. Chó ngáp phải ruồi. Chó cậy gần

nhà. Chó cùng cắn dậu. Chó già giữ xương. Hoặc: Làm người thì khó, làm chó thì

dễ. Chó dại theo mùa, người dại quanh năm. Chó gặm xương chó” [23, tr.100].

Những huyền tích xưa được nhắc lại: Những con chó yêu quý và hết mực trung

thành với chủ, đến mức chủ chết, nó nằm gác mộ chủ cho đến khi đói khát, chết

rục tại chỗ. Chính cậu bé Toản cũng đã nhận ra “con vật không vô tình đâu”,

69

nên “vật nuôi và người bao giờ cũng có mối quan hệ qua lại” [23, tr.31]. Nhà

văn nhấn mạnh, “sinh vật nào cũng có ưu thế riêng của nó. Con mèo thì có cái

tài trèo leo, cái nhìn xuyên thấu màn đêm, bộ râu ăngten và bước nhảy vồ tuyệt

diệu. Con khỉ là đấu thủ số một về môn đu, nhảy trên cây, cùng là tài bắt chước

người. Chuột theo cụ Đồ Chiểu, có đến bảy cái tài: leo trèo, nhảy tường, vượt

rào, đào đất, bơi lội” Đề cao thế giới muôn loài, nhà văn đã xây dựng kết cấu

song song giữa con người với tự nhiên. Nhờ lối viết song hành này, Ma Văn

Kháng đã tạo nên sức hấp dẫn khởi phát từ thế giới phi nhân loại (non - human)

với một “thiên nhiên còn bao nhiêu điều ở ngoài tầm hiểu biết của chúng ta”.

Đưa vào tiểu thuyết nhiều yếu tố mang tính tâm linh cũng là cách tác giả

khẳng định sự huyền diệu, kì bí của tự nhiên. Chẳng hạn, giữa lúc mẹ Toản hộc

máu và ngất đi vì đổ vỡ niềm hi vọng nhỏ nhoi tìm tung tích ông Thuần, cũng

là lúc ông Thuần lưu lạc nơi đảo xa chộn rộn cảm giác khó tả và chảy máu

theo. Hay như một đêm, Toản đi học về, bỗng nhiên lốp trước xẹp hết hơi, khi

xuống xe đi bộ khoảng hai bước mới giật mình thấy cái hố sâu đen ngòm ai đào

chưa kịp lấp, chỉ chút nữa thôi cậu sẽ bị ngã và gãy chân. Những dự cảm,

những xung năng giác quan được mở rộng thông qua những tín hiệu đặc biệt từ

tự nhiên để nhà văn nhấn mạnh rằng, “thế giới thật rộng lớn, vũ trụ bao la với

muôn ngàn điều huyền bí, và con người quả thật là một sinh thể vô cùng yểu

nhược, sống thoi thóp lo sợ giữa các áp lực vô hình, không thể biết: có phải thế

chăng?” [23, tr.52].

Hơn nữa, qua nhiều chi tiết nhỏ, Ma Văn Kháng còn hé lộ một sự thực

phũ phàng trong quá trình phát triển của nhân loại. Những bãi vàng khai hoang,

biến bộ mặt của một thị trấn heo hút trở nên sầm uất, nham nhở; hỗn tạp người

thập phương thi nhau đào bới tìm vàng trong lớp mạch sa khoáng chảy ngầm

khiến đất đai “tiều tụy, cằn cỗi, trồng cây gì cũng chẳng lên” [23, tr.159]. Toàn

bộ đám thực vật nguyên thủy, như dương sỉ quần cư đã sạch quang, “không còn

dấu tích”. “Dưới ánh sáng của mặt trời vàng nháng ánh lửa, đất chỉ còn trơ trẽn

những dãy đồi và sơn mạch hùng vĩ đã phong hóa, đá vôi lẫn với đá sỏi” [23].

Và rồi, “bên cỗ máy xúc hiện đại, nguyên chiếc gầu của nó có thể đứng lọt cả

70

hàng chục con người, có giá bằng cả một nhà máy diêm, ta có thể bắt gặp ngay

cả trăm triệu năm trước ở nét lá cây hóa thạch trong mỗi tảng quặng” [22].

Thậm chí, con người đang đe dọa sự sống còn của loài vật bằng chính thành

tựu của mình: “Nhân mổ mấy con chim, ông Thuần phát hiện ra điều rất đau

lòng. Buồng trứng của rất nhiều giống chim đã bị teo, chúng mất khả năng sinh

sản, vì nhiễm phải thuốc trừ sâu” [23, tr.187].

Như vậy, sự trả giá cho những văn minh tiến bộ của nhân loại ngày nay

được đổi bằng việc tự nhiên dần dần biến mất, suy vong. Vì tự nhiên không chỉ

là đối tượng tiếp nhận thụ động những can thiệp của con người, mà còn là một

thành tố quan trọng gắn bó mật thiết trong quá trình chuyển đổi đời sống văn

hóa xã hội. Do đó, tư duy về mối quan hệ “tự nhiên - con người - xã hội” phải

mang tính khoa học, tính thực tiễn và tính nhân văn cao cả. Cụ thể trong quá

trình biến đổi tự nhiên, con người cần có những động thái tích cực nhằm tạo ra

môi trường sống mới vừa phù hợp với bản chất người và phát triển xã hội, vừa

phù hợp với bản chất, sự tồn tại và phát triển của tự nhiên.

Bằng việc đưa ra những cảnh báo về môi trường và nguy cơ sinh tồn của

nhiều loại động - thực vật, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã phản ánh được

tinh thần của phê bình sinh thái như Cheryll Glotfelty từng nhận định: “hầu hết

tác phẩm phê bình sinh thái đều có chung một động cơ: đó là nỗi day dứt về

việc chúng ta đã đi tới thời đại môi trường cạn kiệt, một thời đại mà hậu quả

hành động của con người đang tàn phá hành tinh. Chúng ta đã tới thời đại đó.

Hoặc là chúng ta phải thay đổi chính mình hoặc sẽ phải đối mặt với thảm họa

toàn cầu. Con người đang tàn phá vẻ đẹp tự nhiên và đẩy vô vàn sinh vật đến

bên bờ tuyệt chủng trong cuộc chạy đua điên rồ của chúng ta tới ngày tận thế” [23].

Cho nên, Chó Bi, đời lưu lạc không chỉ cuốn hút trẻ thơ bước vào chuyến phiêu

lưu kì bí với chú Bi mà còn mở ra những bài học mang giá trị giáo dục cao, thức

tỉnh nhận thức của độc giả mọi trang lứa đối với môi trường, sinh vật, tự nhiên.

3.3. Nghệ thuật miêu tả loài vật

Mỗi loài vật được nhà văn Ma Văn Kháng khắc họa bằng những chi tiết

riêng biệt, có đặc điểm nhận diện đặc trưng của các nhân vật loài vật này như

những cá tính thật sự chứ không phải bởi một đặc tính phổ quát nào đó. Nhà

71

văn Ma Văn Kháng miêu tả loài vật với dụng ý là “nhân vật” trong sự gắn bó

với môi trường sống với thiên nhiên. Nhân vật ở đây không chỉ là con người

mà ngay cả con vật dưới góc nhình nhìn phê bình sinh thái của nhà văn cũng là

một “nhân vật” với những tập tính tự nhiên làm thành tính cách của nó. Con

người có tính cách thì loài vật cũng có tính cách qua bản năng và di truyền.

Chẳng hạn như loài khuyển, luôn có bản năng canh giữ chống lại sự xâm nhập

từ bên ngoài, còn loài mèo bản năng là bắt chuột, loài chim là hót ca.

Bằng tài quan sát rất tinh tế và đọc nhiều sách chuyên môn sinh vật học,

nhà văn Ma Văn Kháng đã cung cấp cho độc giả rất nhiều tri thức quý về loài

vật, đồng thời giúp cho con người nâng cao nhận thức của mình với mục đích

cuối cùng là nhằm giúp cho con người luôn sống hòa thuận hơn với loài vật….

Trong tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc nhân vật chính trong tác phẩm là chú

chó Bi, sống trong gia đình Toản từ những ngày còn là “một bụm tơ vàng”, mới

chỉ rời vú mẹ được dăm hôm, “chú còn nguyên dạng một êu con nít bụ bẫm,

thơ dại, với một mẩu thân mình trên bốn cái chân ngắn ngủn và cái đuôi tí xíu

xoáy tít một vòng tròn” [23, tr.7-8]. Nhưng từ đầu, Bi đã chứng tỏ mình rất đặc

biệt, “không phải là một chú chó con hiền lành dễ bảo” khi phản ứng mạnh bạo

với hai mẹ con Toản bằng hành động cắn tay, trốn dưới gầm phản tuyệt thực,

sủa lại chị mèo Mí. Sự phớt lờ, làm thinh và thách thức mẹ con Toản khiến cậu

bé đặt ra giả thuyết: “Hay là chú định cho tôi một bài học, rằng chớ có nên vỗ

ngực ta đây là loài ưu đẳng nhất thế gian mà coi thường các sinh vật khác; rằng

chú tuy là chó, lại là chó con, nghĩa là thuộc lớp dưới cùng trong đám động vật

chúng sinh hạ đẳng, vốn bị miệt thị và bỉ bai, nhưng cũng không phải là kẻ

dễ bị mua chuộc, mồi chài đâu! Ai người ta cũng có tư cách cả đấy, ông

người ạ!” [23, tr.14 - 15]. Qua đó, giúp chúng ta hiểu được loài vật và con

người luôn bình đẳng với nhau qua thái độ của Bi. Như vậy, Bi có một nhận

thức, một tâm hồn của riêng mình.

Bi mang những phẩm chất đáng quý. Với tướng mạo bên ngoài “dáng nằm

rất gọn. Mõm gác lên hai chân trước để song song. Ngực áp đất. Nghe động là

vọt lên ngay”, nhà báo Đạt đã nhận xét, Bi “đủ dũng, nghĩa, vừa có đức nhân,

vừa có trí, có tình chẳng kém gì người” [23, tr.97-98]. Qua trận chiến với con

72

Xồm mà ông Viễn và Xuân Chương bày ra, Bi đã trình diễn cho đám đông thấy

sức mạnh, ý chí và sự tinh khôn của mình. Con Xồm hung hãn, trải đời đã đưa

ra những đòn đánh bạo tàn, hiểm ác khiến đôi lúc Bi bị chèn ép, lấn lướt.

Nhưng nhờ sự động viên, cổ vũ của Toản bên cạnh, Bi được tiếp thêm tinh

thần, một nội lực tiềm ẩn được khơi nguồn, nhân lên gấp bội đã tạo thành một

cú đánh đầu ngoạn mục và hết sức mạnh mẽ. Bi nắm lấy điểm yếu của đối

phương, tận dụng ưu điểm tuổi trẻ tinh nhanh của mình, đánh trả địch thủ đúng

thời điểm và giành chiến thắng trong sự ngỡ ngàng, tức tối của những kẻ chủ

mưu. Sau trận đấu này, Bi trở thành “anh hùng” của xóm, đánh dấu bước

trưởng thành về thể xác và nhận thức của cậu. Cũng từ đó, mọi người vì Bi mà

có cách nhìn khác về mẹ con Toản.

Bi còn là một chất xúc tác lạ kì để Toản nhận ra hoàn cảnh sống bí bách,

lặng thầm, thiếu sinh khí trong ngôi nhà. Trước khi có Bi, Toản không gọi tên

được nỗi trống trải, quạnh quẽ mà gia đình cậu đã và đang phải chịu đựng.

Những trò nghịch ngợm, nô đùa, và cả những lần xông pha bảo vệ chủ của Bi

đã khiến Toản hạnh phúc, có cảm giác an toàn, vui vẻ. Thoạt tiên, Toản tưởng

Bi cũng như mọi con vật khác, nghĩa là nó đến với gia đình cậu “như một ngẫu

nhiên”, “như một sự lắp ghép, thêm thắt vào”. Có biết đâu, Bi đã hòa nhập vào

gia đình, cùng đồng hành, chia sẻ, thậm chí nó “lĩnh đủ mọi rủi ro do số phận

oái oăm đưa đến cho gia đình tôi. Mà nó thì đã có tội tình gì!”. Những màn trả

thù thâm hiểm mà ông Viễn cùng đồng bọn bày ra luôn đẩy Bi vào tình trạng

“thừa sống thiếu chết”, lúc bị trúng bả, lúc bị đánh đập, có lúc bị gán tội oan…

Nhưng bao giờ Bi cũng vượt qua bằng một tình yêu chân thành, chung thủy,

tận tụy với gia đình Toản.

Vẻ đẹp của Bi thật sự nổi bật trong bức tranh phản chiếu với đời sống con

người. Ma Văn Kháng khẳng định, “các con vật không bao giờ thờ ơ trước tình

cảm của con người” [23. Tr.20], còn con người lại đối xử tệ bạc với nhau.

Những nhóm người như Xuân Chương, Viễn cụt, bà Lên, gã y sĩ nửa mùa…

liên tục lợi dụng chức quyền, dùng nhiều thủ đoạn để hãm hại người dân lương

thiện. Đặc biệt, họ đã đẩy gia đình mà Bi sống vào con đường cùng. Ông Thuần

73

cùng con trai đầu bị tù tội, người vợ chịu sự kì thị, xem thường của hàng xóm

láng giềng, đứa con út gánh nhiều thiệt thòi trong học hành.

Sự phản kháng của Bi trước ông Viễn, Xuân Chương, bà Lên không đơn

thuần chỉ là phản ứng tự vệ, bảo vệ gia chủ. Đó còn là sự đả phá của cái đẹp

trước cái xấu, thể hiện tinh thần tỏa sáng của những giá trị thiên lương trong

đời sống phức tạp. Để từ đó, chúng ta ngộ ra nhiều điều ngỡ ngàng, hóa ra, con

người, sinh thể tập trung những cái tuyệt hảo nhất, cũng là con vật ứ đọng

những xấu xa tồi tệ nhất của tự nhiên. Bằng cách này, vô tình Ma Văn Kháng

đã “giải cấu trúc” vị thế con người, phủ định phương châm “người ta là hoa

đất” - vốn xem con người là tinh túy giữa đất trời, là hương hoa tiết ngọc của

thiên nhiên; qua đó nhắn nhủ nếu con người không hoàn thiện mình, con người

sẽ thụt lùi về mặt nhận thức và đạo đức trong tiến trình phát triển của thế giới

muôn loài.

Hay trong Ngựa bất kham nhà văn tả ngoại hình con ngựa của Phềnh đã bị

đánh đổi: “màu đen, nhẵn nhụi như củ tam thất. Con này lông da màu đất thó, đã

thế lại lờm xờm như cái chăn dạ cũ buột lông. Lưng đã dài, lại võng” [31, tr.92].

Còn đây là tiếng kêu của chú chó Clếch: “hết gừ gừ, háu háu, gáu gáu… lại ong

óc… ong óc, thật là đủ trò chó con!” [31, tr.262]. Với ngôn ngữ tả vật sinh

động, nhà văn tạo cho câu chuyện những những triết lí hồn nhiên: “con thú nó là

vậy đấy. Có chỗ nó rất xa con người, có chỗ nó rất gần với giống người” [31, tr.13].

Trong truyện ngắn Ông lão gác vườn và chó Phúm theo nhà văn: “Khuyển

là giống tinh mắt, thính tai, Phúm còn tinh, thính hơn đồng loại. Khuyển là

giống có nghĩa có tình. Phúm cố kết một mối tình bền chặt với ông Tài, hơn

nữa, theo ông đi tuần, Phúm còn học được ở ông tính cẩn thận, lòng hăng say

và trách nhiệm hết mình” [31, tr.46]. Tác giả còn cung cấp cho bạn đọc thông

tin về loài khuyển, chúng không những là bạn mà còn là trợ lý công việc đắc

lực cho người: “Ban đêm, Phúm đi tuần quanh khu vườn hai lần với ông Tài,

một lần mười hai giờ đêm, một lần ba giờ sáng. Ngoài giờ đó, Phúm nằm ngoài

lều, thỉnh thoảng lại nhảo một vòng quanh mấy ô vườn sắp thu hoạch củ. Phúm

tài lắm. Phúm bắt được cả chuột. Phúm đuổi được cả lợn rừng. Mới chưa đầy

74

tháng mà Phúm đã lập được khối công trạng. Phúm đuổi bạt đi một bầy chuột

rừng tràn từ rừng nứa bị cháy trụi về; Phúm phát hiện ra mấy ổ cầy, cáo. Phúm

đánh nhau với rắn hổ mang bành, con này rình ở cửa ô vườn số sáu định mổ

ông Tài. Phúm giúp được ông lão khối việc. Ông lão chẻ củi, Phúm cắp từng

thanh mang vào bếp. Phúm là con thoi chạy đi chạy lại giữa bà Tài và ông Tài.

Phúm có cách phối hợp với ông Tài bắt trộm rất tài. Hễ thấy khả nghi là Phúm

phóng đi tìm ông lão, rồi cắn gấu quần ông lão lôi đi” [31, tr.47].

Trong truyện ngắn Con chó lạc nhà Ma Văn Kháng viết: “Chỉ có tình yêu

mới khơi dậy được bản năng của loài vật. Bà ngoại tôi luôn coi những con chó

con mèo trong nhà như những sinh linh tội nghiệp bé bỏng, đáng được bà yêu

thương bằng tình mẫu tử thực sự. Quẩn quanh bên bà, con mèo con chó tìm

được sự nương tựa và cảm giác yên lành” [31, tr.23].

Nhờ có sự quan sát tinh tế, nhà văn Ma Văn Kháng cho chúng ta thấy rằng

loài chó luôn luôn xung khắc với con hổ, người đeo nanh hổ là chó ghét. Như

anh Cần trong tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc vì sao Bi lại không thích anh Cần,

anh lôi Bi đi mà Bi không chịu vì trên cổ của anh Cần có dây chuyền đeo hình

vuốt hổ. Cũng như cậu bé Phìn trong truyện Con Clếch của tôi mãi mới tìm ra

nguyên nhân vì sao Clếch thù hận mình thì ra vì cậu bé Phìn đeo vuốt hổ ở trên

cổ mà chó ghét mùi hổ nên ghét luôn cả cậu. Điều này cũng từ câu chuyện ông

kể: “Lần ấy ông đi rừng, ăn nhiều mật ong quá, bị say, đang nằm lăn ra ngủ ở

giữa rừng thì có một con hổ đi đến. Để sửa soạn ăn thịt ông, theo thói quen

thoạt đầu cọp ta khạc đờm dãi vào mặt ông cốt để ông mê mệt thêm. Chính là

nghe tiếng nó khạc mà ông tỉnh rượu và thế là ông len lén rút con dao đeo bên

sườn lia một phát trúng cái chân sau của con hổ, khiến chúa rừng giật thột

mình, hốt hoảng bỏ chạy. Còn ông thì sau đó đứng dậy, lững thững đi về làng

trong tâm trạng vô cùng kinh ngạc, vì bỗng nhiên thấy cả bầy chó, con nào con

nấy hễ thấy bóng ông là lủi ngay vào bụi rậm hoặc gầm giường. Chó kỵ mùi hổ

là thế đó!” [31, tr.246].

Hay khi mô tả tiếng tru của loài chó, con chó mẹ muốn thông tin cho chó

con bằng tiếng tru của mình để giúp chó con nhận ra mẹ ở chỗ nào trong truyện

75

ngắn “Con Clếch của tôi”. Hay khi Ma Văn Kháng nói về con lợn rừng độc

“Lợn rừng thường sống từng đàn năm, mười con, nhưng nó thì sống tách biệt,

độc thân. Đi rừng thấy góc nào bị chà sát đến bật cả vỏ thì đích là nó vừa đi

qua. Mùa rét nó biết rũi đất, lót lá khô xuống hố, tha cây cành về phủ trên ổ.

Vết chân nó thì không lẫn với bất cứ con nào, trổ sâu xuống đất mà rõ cả bốn

ngón: hai ngón phía trước, hai ngón bên phía sau. Nó sống thầm lặng, thận

trọng nhưng hung ác lắm. Có bận nó vồ cả vịt con, có lần nó ăn gọn một ổ

trứng gà đang ấp ở sau nhà ông Vảng. Nương sắn nó phá một đêm là tan

tành. Nó là quái vật, nó đã thành tinh, chính nó đã giết cả con chó Phúm

của Phỉn” [31, tr.307].

Nhờ khả năng quan sát rất kĩ lưỡng, phát hiện một cách rất tinh vi và đọc

nhiều sách chuyên môn sinh vật học, Ma Văn Kháng đã cung cấp cho độc giả

rất nhiều tri thức về Hổ. Hổ không hẳn lúc nào cũng là một chúa tể của rừng

xanh, đôi khi Hổ cũng là một tay trợ thủ đắc lực giúp con người rất nhiều việc

và sống rất gần gũi với con người như trong truyện Ông Pồn và chú hổ con

Nhà văn miêu tả: “Ông hổ! Một ông hổ choai. Lông vằn vàng sọc đen như lưỡi

lửa. Đuôi dài. To bằng con bê con...thè lè cái lưỡi đỏ lòm, hai bên trắng ởn hai

chiếc răng nanh, nhọn hoắt” [31, Tr.6 - 7]. Lúc ông đưa nó về sống cùng nó chỉ

là con mèo to. Ông dỗ dành nó, cho nó ăn rồi bảo ở lại với ông giúp ông cùng

đi săn, rồi canh ao cho ông khi có bọn câu cá trộm. Nghe ông nói giường như

hổ con cũng hiểu ý của ông Pồn. Ông chẳng có gì phân cách xa lạ với nó. “Nó

nhập vai trợ thủ cho ông Pồn trong các cuộc săn chỉ sau vài lần tập dượt. Đi săn

nó làm nhiệm vụ của con chó đánh hơi vồ mồi, tìm mồi, đồng thời lại như một

người thợ săn ở những lúc cần phải khiêng vác” [31, tr.11]. Từ hôm đó hổ con

trở thành người canh ao cá cho ông Pồn. “Hổ con nằm trong cái lều canh ao ở

cạnh cây chanh và khóm chuối hột. Hai chân sau soải về sau. Hai chân trước soải

về trước. Đầu thẳng, mắt không chớp, hổ con nhìn cái hồ. Thấy có bóng người

lảng vảng, là nó đứng dậy, cùng ông Pồn đi quanh một vùng hồ” [31, tr.12].

Bên cạnh đó, nhà văn còn nói về loài chim với dụng ý muốn nói tới con

người luôn sống hòa thuận với loài vật hơn như trong truyện ngắn Bát ngát trời

xanh “Ông Tùng có hàng chục loại chim và ông đã dạy được con yểng, con

76

khiếu nói được giọng người. Nhờ ông, chúng tôi biết thêm nhiều điều về các

giống chim. Chẳng hạn, vàng anh có tiếng hót lúc tuyệt diệu như sáo thổi, lúc

rít như tiếng mèo hoang, nên còn được gọi là mèo rừng. Chim ri bé hạt tiêu đáo

để lắm. Chúng ở đâu là thiết lập lãnh địa riêng bất khả xâm phạm ở đó. Chim

bá tích hương sống ở rừng Tai ga vùng Xibêri, để tích trữ lương thực cho mùa

đông, phải tha về tổ bảy mươi ngản hạt bá tích và cất giấu rất khéo. Chim én

mùa đông đi tránh rét, có đêm nó bay liền tù tì được 500 kilomét đường xa.

Con họa mi trống có con mái bên cạnh thì xông vào cuộc chọi với khí thế xung

thiên” [31, tr.210], “Cu có con gáy giọng thổ, giọng còi. Giọng thổ có con thổ

con tiếng gọn ghẽ, thanh thoát, thổ khàn không ngân nga, thổ đồng nghe như

chuông và thổ pha, nửa khàn nửa đồng… Con cu gáy của chúng tôi thuộc loại

thổ đồng tiếng gáy vừa ngân nga như chuông vừa rền như sấm xa. Con này đầu

nhỏ mỏ đinh, mình bắp chuối, tướng mạo, hình vóc, lông vũ đều đạt chuẩn. Hai

vẩy cánh dầy chịu rét tốt lắm… Người chơi chim cả đời mà không có được con

chim vừa ý đâu. Chim quý có khi đem cả con trâu đến đổi cũng chẳng được.

Còn ở bên Châu Âu có tập quán rất lạ là khi nghe tiếng con cu gáy trầm bổng,

người ta vội tìm lấy đồng bạc nắm chặt nó vào lòng bàn tay, như vậy cả năm ấy

sẽ gặp may mắn… Vẹt là loài chim cổ đại, sống dai và thích nghi rất giỏi với

các điều kiện sống. Nó là loài chim thông minh, nhậy cảm” [31, tr.122].

Nhà văn còn đưa đến cho bạn đọc tri thức về nguồn gốc trò chơi chọi gà,

một trò chơi truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam: “Trò chơi này

từ thời vua Hùng dựng nước đã thịnh lắm. Sử sách còn ghi, mười tám đời vua

Hùng, đời nào nhà vua cũng dạy dân cách hồ gà, lập các xới rèn gà, để ra luật

chơi, tổ chức đấu chọi, nâng con gà bới nhặt quẩn quanh lên tầm đấu sĩ có trình

độ công thủ cao cường” [31, tr. 104], “Khâu đầu tiên chọn gà công phu lắm. Gà

chọi có dòng ưu tú của nó, cần biết lai lịch từ lúc nó mới nở. Đến khi thành con

gà vẫn phải xem chân cẳng, màu lông, đuôi cánh, mình mẩy, không chỉ rắn

chắc khỏe mạnh mà còn phải đẹp mã, và oai phong về đường tướng mạo. Ăn

uống là một chuyện. Lại còn phải ấp ủ, bóp nắn, vỗ về, vần vò, tắm rửa, cắt tỉa

lông đuôi, lông cánh. Mắc màn cho nó ngủ qua đêm chống muỗi là việc thường

tình, cũng như dưới chân nó phải có cát rải. Cát để chống ẩm, để nó rũi tắm trừ

77

sâu bọ. Cát có sức mạnh truyền sinh. Cho đến khi nó bắt đầu cất tiếng gáy te te

mới cho ra thử sức. Lúc nó thử sức phải tinh ý, xem sức vóc, cách ra đòn,

miếng cắn, cú đá của nó, có mạnh mẽ hiểm hóc không; được, mới cắt tai khâu

lại vì chỗ này khi vào trận dễ bị thương nhất; lúc ấy con gà mới được coi là qua

vòng tuyển chọn…Trong nhà Tít, có hẳn ba bốn cái nồi cũ lúc nào cũng đầy

nước tiểu nấu với nghệ và bã chè để om bóp cho gà. Om bóp một ngày nghỉ ba

ngày, kỳ cho da nó săn đỏ cứng dầy như tấm mo nang mới thôi. Thức ăn của nó

không cần cầu kỳ… thỉnh thoảng cho nó lạng thịt, hoặc bồi bổ cho nó vài thang

thuốc bắc. Lo nhất là khâu sức khỏe… khả năng miễn dịch kém lắm. Nó bị ho

thì phải ghé miệng vào hút đờm cho nó. Hút cho đến khi tiếng nó gáy trong vắt mới

thôi. Khó khăn vất vả hơn cả là rèn tập miếng đánh cho nó. Luyện gà như luyện võ

sĩ ấy chứ. Vỗ tay, giơ tay lấy cữ từng nấc cho nó tập nhảy, tập mổ” [31, tr.109].

Với sự quan sát tỉ mỉ, kĩ lưỡng tập tính của loài vật, Ma văn Kháng đã làm

giàu cho bạn đọc tri thức về loài mèo, như mặc dù cùng một mẹ sinh ra, giống

hệt nhau về ngoại hình nhưng tính tình hai con mèo có nhiều điểm khác nhau,

Vàng Anh thì hiền, điềm đạm, quấn quýt, gần gũi con người hơn, chỉ ăn một

món là cơm cá, chạy ra cửa quát thì vào ngay. Vàng Em thì bạo tợn và đáo để,

tranh ăn với anh, sinh hoạt thì phóng túng hơn, cá thịt bò hầm, thịt vịt quay

chén tất, ưa động hơn tĩnh, biết bắt gián bắt chuột, vóc hình nhỏ hơn Vàng Anh,

hay lẻn cửa đi chơi. Khác tính nhau mà chẳng bao giờ hai anh em nhà mèo hờ

hững xa lìa nhau hoặc gầm gừ giận dữ nhau, cắn xé nhau: “Quan sát chúng

liếm láp cho nhau, xem chúng ngủ thì mới thấy cái tình thân ái của chúng thắm

thiết biết chừng nào. Ngủ cùng ngủ. Ăn cùng ăn. Chơi cùng chơi. Và nhìn

chúng nô đùa thì mới thấy, mèo là loài vật rất nhiều sáng kiến trong vui chơi.

Một cuộn giấy, một cái hộp, một chiếc túi ni lông cũng có thể trở thành thứ đồ

chơi cả ngày không biết chán của chúng” [31, tr.222].

Có lúc ông nhân cách hóa con vật có cách nghĩ như con người, mô tả đối

xử con vật như con người. Trong truyện ngắn Con chó lạc nhà ông viết: Loài

chó cũng có những ám ảnh như con người qua sự nhân hóa: “Mấy ngày đầu ở

nhà tôi, nó luôn ở trong trạng thái run rẩy kinh hãi, vẻ như run rẩy kinh hãi

trước cái chết nhãn tiền… Khi nằm ngủ thi thoảng nó vẫn ú ớ kêu như bị bóng

78

đè như bị ác mộng” [31, tr.23]. Trong truyện ngắn Con Clếch của tôi, nhà văn

đã nhân hóa sự hòa nhập của Clếch giống như một cuộc trò chuyện với bầy chó

trong làng. Ma văn Kháng miêu tả mèo Kết lớn lên trổ mã như thiếu nữ mới

lớn: “Cái giẻ lau nhôm nhoam ngày nào giờ đã là một khối hình óng ả tròn

mềm, hiện rõ ba màu tam thể trắng, vàng , đen, vừa duyên dáng vừa đài đệ, cao

sang” [31, tr.150], mèo “Kết giờ đây đã là một thiếu nữ thuần thục. Nó ít

nghịch ngợm hơn” [31, tr.156]. Và lúc mèo Kết động dục quằn quại, riết róng,

cuồng loạn: “Ngoău, ngoău, ngoău. Không chỉ là kêu than, con Kết còn rên rỉ,

rống rít, kêu gào thật ai oán thống thiết, thật đau đớn bức bối. Tựa như gan ruột

nó đang bị dùi đâm, dao cắt, móng vuốt cắn xé vậy… Suốt từ nửa đêm tới giờ

là đã hai giờ sáng, Kết vẫn như đang lên cơn kinh giật, vẫn đang lăn lộn trên

mặt sân trong trạng thái càng lúc càng như mê hoảng, điên rồ… Kết còn đang

là nạn nhân khốn khổ của một cơn dục vọng mang hình tích một hồn ma bóng

quỷ ám dày vò… thể hiện ở động tác lăn lộn một cách hoảng loạn… ở cử chỉ

oằn lưng ẹp bụng xuống đất, hếch cặp mông đẩy lên cao rất kỳ quái của nó, ở hai

con mắt nó long lên sòng sọc và bốn bộ móng nó xòe ra cào cạt cạt liên tục xuống

mặt sân. Kết đang ở trong cơn khát cháy. Đang ở trong tình thế bùng nổ. Sôi réo

trong nó lúc này là cơn phóng dục mãnh liệt không đường biên!” [31, tr.156].

Dưới ngòi bút của Ma văn Kháng, đến cả cách chăm chó cũng rất chu đáo

và coi nó như là một đứa con bé bỏng của mình. Khi Bi bị ốm mẹ Toản đã

“Lấy nước ấm rửa ráy cho Bi, bế Bi vào nhà, nương nhẹ đặt Bi xuống nệm

êm... Mẹ nấu cho nó bát cháo hành, tía tô để nó giải cảm. Mẹ lấy dầu xoa khắp

bụng cho nó. Rồi giã gừng, hâm rượu, bọc vào khăn với đồng bạc trắng và túm

tóc rối, đánh dọc sống lưng, hai bên thái dương và chà sát tứ chi nó” [23, tr.51].

Hay là đến cách chăm mèo đẻ rất tỉ mẩn, chu đáo và cẩn thận: “Và đến kỳ

Mướp mãn nguyệt khai hoa thì chị chăm sóc cô nàng mèo như con dâu khi ở

cữ… tuyệt đối không cho người có vía lạ nhìn vào. Mèo con ra khỏi bụng mẹ,

theo quy luật thì mười ngày mới mở mắt. Nếu mẹ mèo đẻ thêm một con thì

thêm một ngày nữa. Thành ra lần này, đến ngày thứ mười lăm, mọi người mới

được ngó vào. Ôi, cả một đống mèo con thịt da còn lẫn lộn nhẽo nhèo đang ngọ

nguậy, mở những con mắt nhỏ ti long lanh! Chúng hăm hở tranh nhau rúc vú

79

mẹ, rồi bú no bú chán thì mặc dầu chân có lẩy bẩy, đứng tại chỗ còn siêu vẹo,

đã lổm ngổm bò đi bò lại, leo lên cả thành ổ, đòi ra ngoài” [31, tr.237-238].

Loài mèo còn rất biết yêu thương nhau như trong truyện ngắn Hai anh em

nhà mèo, chúng bên nhau không biết chán “chúng còn chơi trò ú tim nữa kia,

Thằng em chui tọt vào một cái hộp giấy hở hai đầu. Thằng anh từ xa chạy lại,

không thấy thằng em đâu, leo lên cạnh hộp nghêu ngao gọi. Thằng em thò chân

ra khều cái đuôi dài đang vắt vẻo của thằng anh: Ê, người ta ở đây mà không

biết! Thằng anh giật mình, nhào xuống, ôm cổ thằng em, cắn dứ một miếng.

Thằng em kêu choét một tiếng, lồng ra khỏi miếng khóa cẳng của thằng anh là

vừa gào gọi vừa sùng sục đi tìm. Nó là một thằng sống rất có tình. Nghe tiếng

nó gào gọi thì biết. Cái tiếng gào gọi của nó sao mà da diết sao mà não nùng

nên thằng anh dù đang mải vui ở đâu hay đang say giấc li bì ở góc tủ gầm bàn

nào cũng vội lồng ngay về để gặp lại đứa em thân thương!” [31, tr.222].

Đặc sắc của Ma Văn Kháng chủ yếu là tả và kể để thấy được cái nhìn

động trước sự vận động trong “tính cách” con vật. Ví dụ như truyện ngắn “Con

Clếch của tôi” lúc đầu tiên còn nó đề phòng, sau nó hòa hợp dần với con

người. Lúc đầu cậu bé Phìn tìm mọi cách tiếp cận Clếch “đưa nước đường và

mật ong đến cho nó, nó lại ngỏng cổ ong óc sủa một hồi, xua đuổi tôi. Mà lần

này nghe có vẻ gay gắt hơn. Hết gừ gừ, hau háu, gáu gáu… giờ lại ong óc, ong

óc” [31, tr.262]. Nhưng từ khi cậu bỏ chiếc vòng cổ bằng bạc lủng lẳng cái vuốt

hổ móc vào gác bếp thì “Clếch nhìn lên cái gác bếp, rồi nhè nhẹ quẫy cái đuôi

như vui mừng… ánh mắt trông thật dịu hiền” [31, tr.265].

Truyện ngắn Con chó lạc nhà ban đầu nó tỏ ra rất đề phòng, cảnh giác

“Con chó mang thần thái một người ngay thật, muốn làm quen, muốn tìm nơi

nương tựa để ra khỏi nỗi cô đơn và cơn nhiễu tâm thể hiện ở những cái giật

mình liên hồi” [31, tr. 18]. Qua một đêm nó ăn hết bát cơm và tỏ ra có trách

nhiệm với vai trò kẻ canh gác nhà.

Truyện ngắn Ông lão gác vườn và chó Phúm, ông Tài phải mất thời gian

dài mới thuyết phục, dụ dỗ được Phúm theo mình lên nông trường trông coi

vườn cây thuốc quý - cây tam thất. Lúc mới lên Phúm không quen nằm khóc ăn

vạ, bỏ ăn cơm, sau khi nghe lão Tài dỗ dành liền ăn hết ba bát. Được ông Tài

80

tâm sự chuyện tình ngày xưa cho nghe Phúm như một người bạn đáp lại sau

mỗi câu hỏi là tiếng “Gừ…” Khi bị vợ phản bội, đang lúc ông Tài rơi vào rối

loạn mất phương hướng, rơi xuống một hố sâu bất tỉnh thì Phúm ở bên như

người bạn đồng nghiệp, tiếp sức cho ông “Cùng với cảm giác quen thuộc là hơi

ấm nóng và tiếng rên gừ gừ của một con vật phả vào tâm thức ông, có tác dụng

như một sự tiếp sức. Ông lão Tài hé mắt. Phúm! Ông lão thều thào. Thấy ông

tỉnh, con chó đánh đuôi mừng đến văng vẹo cả mông và rít lên âng ẩng. Con

vật, người bạn đồng nghiệp, kẻ cưu mang ông, lúc này lại là con vật nâng đỡ

ông, cứu vớt ông” [31, tr.56]. Tác giả Ma Văn Kháng cho bạn đọc thấy được

con vật còn có khả năng cảm nhận được nỗi đau của chủ “Con chó hí hửng

phóng lên trước ông để dẫn đường, rồi lát sau, quay trở lại, đi ngang hàng với

ông như để hộ vệ ông” [31, tr.56].

Trong tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc ông đã cho độc giả thấy được tính

cách của Bi được thể hiện rất rõ khi phân biệt được đâu là người tốt đâu là kẻ

xấu muốn hãm hại mình trong quá trình lưu lạc theo anh Cần lên phố huyện O.

Câu chuyện trở nên hấp dẫn, kịch tính khi Bi dấn thân vào cuộc sống phiêu dạt

bên ngoài. Theo chân anh Cần, Bi đến với lâm trường phố O lạ lẫm. Khởi đầu

chuyến đi, lần đầu tiên trong đời Bi được trải nghiệm “hoạt cảnh truyền sinh

của giống nòi” [23, tr.151] với người bạn khác giới “lông trắng, tai vểnh, vóc

dáng thiếu nữ dậy thì thon thả” [23, tr.149]. Song, cảm giác khoan khoái ấy

nhanh chóng vụt tắt, Bi chông chênh trên hành trình bất định. Gia nhập vào

đám quân tứ chiêng tụ hội để đào bới vàng, nhưng “Bi ở ngoài khúc điệu cuồng

loạn của cơn sốt kim tiền kinh thiên. Bi không biết đến những quy luật thống trị

mới đã phát sinh và con người tưởng là đến đây để tìm kiếm tự do, hóa ra lại là

đưa mình vào môi trường khống chế của bạo lực đồng tiền” [23, tr.161]. Bi

cũng “không biết đến cả nội khó nhọc của anh Cần tôi và anh Thái. Họ đào bới

rất vất vả mà thu hoạch chẳng được là bao” [23, tr.161]. Bi “không thể biết

được những dị biệt của đời thường. Không biết cả việc tên Đậu đầu gấu vừa

mới chuyển nhà đến sau quả đồi có nhà Bi ở. Tên lưu manh này có những trang

tiểu sử thật là tởm lợm” [23, tr.162]. Bi càng không hay biết phiên tòa xử tội

tên Đậu và những việc xảy ra kế tiếp. Nói đúng hơn, Bi dửng dưng với cuộc

81

sống hiện thực mà con người đang đối chọi, hãm hại lẫn nhau. Lí do là bởi Bi

đang “ngẩn ngơ như lạc lối vào Thiên thai” [23, tr.168] trước cảnh đẹp của núi

rừng biên giới phía Bắc. Cành hoa chuối đỏ rửng, cây mác mật vàng chóe như

chùm nhạc, đàn chim má bạc ríu ran mỗi sớm mai, lượn qua khu đồi, gọi hồn

Bi vào phiêu lãng. Gạt bỏ ngoài tai “đám tạp âm của bầy người đang xáo trộn

đất đai” [23, tr.168], từ sâu thẳm, ở mỗi tế bào Bi như được thức giấc. Nỗi nhớ

rừng, nhớ đời sống hoang dã chảy về hiện hữu qua tiềm thức của Bi.

Giống như chó Buck trong Tiếng gọi nơi hoang dã của Jack London, kí ức

về dòng máu sói rừng nguyên thủy trổi dậy trong Bi. Nhưng nếu như Buck bị

bắt cóc trong trang trại của một gia đình giàu có, trở thành chó kéo xe cho

những người đi tìm vàng ở vùng Alaska lạnh giá, được Thornton yêu thương,

rồi ông chủ chết, không còn mối liên hệ nào níu Buck lại với con người, nó bị

cuốn theo tiếng gọi nơi hoang dã, trở thành sói hoang. Thì Bi lại may mắn hơn,

Bi bỏ trốn khỏi chốn rừng thiêng nước độc, số phận hay sự đánh hơi tài tình

mùi của người thân đã khéo đưa Bi đến với ông Thuần - bố của Toản, và được

ông đón nhận với tình cảm chân thành qua sự mường tượng những lá thư mà

mẹ con Toản đã gửi cho ông.

Bi tiếp tục cuộc hành trình lưu lạc tứ xứ với ông Thuần - một người “rất

coi trọng sự chan hòa bản thể với thế giới bên ngoài”. Ông Thuần vừa mong

muốn vượt ra khỏi các định luật thông thường bằng trí tuệ, sự sáng tạo, lại vừa

“biết lắng nghe sự phát triển tự thân của các sự vật, coi đó là con đường lớn của

tự nhiên”. Chính vì thế, sau mấy tháng trời sống cùng nhau, “hai thầy trò đã tỏ

ra rất tâm đầu ý hợp”. Ông Thuần có thêm một người bạn cùng chia sẻ buồn

vui sau chuỗi ngày cô đơn trong tù, một trợ thủ đắc lực trong công cuộc sinh

tồn và chăm lo Đảo Khỉ; còn Bi lại vô cùng thích thú, vốn là một con vật hiếu

động, gần gũi với thiên nhiên, Bi hăng hái, xông pha cùng ông trên mọi nẻo

đường. Robinson có anh Thứ Sáu da đen, còn bố của Toản lại có Bi đồng hành,

cứu mạng, giúp đỡ. Ngoài tình yêu thương trong sáng, bền chặt, Bi với ông

Thuần còn là cội nguồn của cảm giác yên ổn, không cô độc, đặc biệt, Bi giúp

ông “hòa mình với tự nhiên, một tự nhiên rất dễ đối lập với con người đơn lẻ”.

82

Phê bình sinh thái luôn đề cao tính chỉnh thể. Ma Văn Kháng đã tạo nên

một bối cảnh hài hòa trong tổng thể tự nhiên, Bi và ông Thuần như “một phần

tử của bức tranh thiên nhiên kì vĩ, ẩn chứa bao quy luật và hiện tượng vô cùng

huyền bí”. Sự xuất hiện của Bi trong hành trình đến với cuộc sống con người

nhắc ta về một thuở hồng hoang. Ấy là từ xưa rất xưa, khi thần Promete đánh

cắp lửa đem xuống cho loài người, chúng ta đã bắt đầu biết “ăn chín uống sôi”,

sưởi ấm, xua đuổi bóng đêm và ác thú. Rồi con người còn biết dùng lửa để

truyền hơi ấm và cảm hóa những loài vật hoang dã khác. Chó rừng đi theo con

người khởi nguồn từ những ngày sống trong rừng già ấy, khi “hành động vô

tình của họ: ném đi chút đồ ăn thừa hóa ra lại có ý nghĩa thật lớn lao”. Dần dần,

nhân loại ý thức hơn, “chăm sóc một kẻ khác loài” như một người bạn đồng

hành. Nhờ đó, “không một con vật hung dữ nào dám mon men đến quấy phá

giấc ngủ của con người, đe dọa tính mạng con người, còn là bởi vì, ở vòng

ngoài, cách đống lửa vài bước chân, con người không tuyển lựa mà có cả bầy vệ sĩ

tự nguyện đến bảo vệ giùm, những con chó rừng có bộ răng sắc nhọn lợi hại, tài

chạy vô địch và khôn ngoan nhất hạng”. Qua hàng ngàn năm, những động vật

hoang dã đã đến với con người như một bước tiến tất yếu của nền văn minh, trở

thành những người bạn thân thiết, gắn bó và tương sinh, tương trợ lẫn nhau.

Trải qua bao thăng trầm, lưu lạc, chó Bi như một sợi dây kết nối, xâu

chuỗi các sự kiện trong những mối quan hệ xã hội. Những mảnh đời éo le, bất

hạnh, những âm mưu, thủ đoạn,… được ghép lại tạo thành một câu chuyện sinh

động về con người trong phần đời của một loài vật. Như một quyền năng thiên

định can thiệp vào số phận của gia đình ông Thuần, Bi truy đuổi được kẻ chủ

mưu đưa đến những nghịch cảnh éo le cho những con người lương thiện. Do

đó, hành trình phiêu lưu của Bi cũng là hành trình đi tìm chân lí. Xuất phát từ

tấm lòng nặng trĩu ưu tư, Ma Văn Kháng đã phác thảo bức tranh hiện thực

những năm sau Đổi mới với những mặt khiếm khuyết trong đời sống xã hội.

Đồng thời nhà văn còn xác lập một chân lí: “Tự nhiên luôn giữ quyền trừng

phạt mọi sự vượt quá ranh giới”.

Trong truyện ngắn Con Clếch của tôi, nhà văn thấy sự vận động trong

“tính cách” con vật, từ một chú chó con non nớt dưới bàn tay chăm sóc của cậu

83

bé Phỉn, cách huấn luyện của chú Nam Hồng, Clếch trở thành chó săn thượng

hạng: đánh nhau quyết liệt với con diều hâu hung ác, diệt lũ chuột ăn trộm tam

thất, bọn cày cáo ăn cắp gà, săn muông thú, giết được con lợn già hung ác ở

thung lũng núi cô Tiên. Mặc dù là giống chó nước ngoài, song từ ngày về ở

làng Tòng Sành họ Bàn, Clếch từ xa lạ biết nhập đàn một cách tự nhiên nhanh

chóng với đồng loại bởi “khuyển vốn là loài vật cực kì thông minh. Chúng

nhận ngay ra những nét đại đồng tiểu dị” [31, tr.274], bằng cách rúc vú chị

Khoang vì nhớ mẹ rồi chơi với bạn nó, anh nó… Đốm già, Bốn mắt, Vàng,

Vện, Phèn, Gio…

Ngoài ra Ma Văn Kháng miêu tả con vật đối với các loại người như: Thiếu

nhi; Người già; Những ông chỉ am hiểu kiến thức về loài vật. Bởi con vật

không nói được như con người, Ma Văn Kháng miêu tả qua tiếng kêu, ánh mắt,

cử chỉ của con vật. Ví dụ như con chó: “Thuộc loại chó ta. Bụng thon, mặt nhẹ.

Tai cúp lông vàng ươm. Bốn chân khoanh trắng như đi bít tất. Lưng khoang

một khoang trắng mờ hình cái yên ngựa. Không có sắc diện hoang dại trên

gương mặt và hai con mắt” [31, tr.18], “Qua bản năng đã phục hồi của nó, mới

thấy rằng con khuyển rất thông minh, sạch sẽ, tinh ý. Nó đánh hơi được xa

hàng trăm mét. Nó rất dễ ăn. Và đêm đêm chẳng ai sai bảo, nó cũng cứ nằm ở

giữa cái sân gạch, chịu giá rét để canh gác nhà cửa” [31, tr. 23]. Đối với ông bà

Tài thì coi con chó Phúm như một đứa trẻ, tranh nhau giành quyền nuôi Phúm

“Thì đấy nhé, cho nó đi với ông, còn gì! Con chó như một đứa trẻ. Nhà cửa ấm

áp vui vầy nó mới ở” [31, tr.41].

Còn với loài mèo thì nhà văn Ma Văn Kháng nói: “Nuôi loài vật nào cũng

phải có duyên, có thần…Nhất là nuôi mèo” [31, tr.154]. Loài mèo dương như

được con người đón nhận với tình cảm ưu ái đặc biệt, từ trẻ nhỏ đến người già:

hai anh em nhà mèo cùng một mẹ sinh ra do cô hàng xóm đem cho có bộ lông

màu vàng chanh rất dịu mát và sang trọng. Vàng lớn bắt được chuột, Vàng Em

mới hai tháng tuổi, về nhà tôi cả nhà thích: Bà nội ôm lễ lạy ông thần thổ công

và đưa vào toilet đo đuôi chỉ cho nó chỗ đi vệ sinh hằng ngày, mẹ bỏ việc soạn

bài tấm tắc: “Con này rồi bắt chuột hay lắm đây!”, em Nhím đang học bài, em

Bầu đang chơi game lồng tới. “Thấy mắt con mèo em có nhử là mẹ vội chạy ra

84

Cửa hàng thuốc mua ngay một lọ Ticoldex. Bữa nào thấy chúng ăn uống uể oải

là bà nội đã lo lắng. Cùng với một nồi cá biển kho riêng cho chúng, mẹ còn đi

siêu thị xách về cả chục hộp cá Hạ Long sốt cà chua làm thức ăn dự trữ cho hai

anh em Vàng. Đã trở thành hai thành viên gắn bó với con người, hai con mèo là

hai sinh linh bé nhỏ được sự săn sóc có phần ưu tiên hơn tất cả mọi người và

chẳng vì thế mà có một lời phàn nàn ghen tị nào” [31, tr.220]. Kĩ năng chăm

sóc con của loài mèo cũng thuần thục lắm: “Hơi động một tí là nó càm con nó

leo lên gác thượng cất giấu. Mà nó càm thế nào mà trông con nó như cái giẻ

con nó không kêu la gì cả chú ạ. Liếm láp con liên tục như là một cách tắm rửa

cho con thì ít ai có thể kĩ lưỡng như thế. Ai đời, đã có bà mẹ nào phải nuôi một

lúc năm đứa hài nhi. Nuôi dậy con mới khéo làm sao. Kìa! Mướp đứng trên

mặt cái đi văng. Năm đứa con nó đứng dưới sàn. Mướp ngó xuống, cất tiếng.

Thì ra nó giục con nó đấy. Hãy nhảy lên đây đi, các con! Con Nhọ biết mẹ

nhún chân, nhưng mới được tới mép đi văng thì đuối sức trượt chân ngã lăn

queo. Không sao! Mướp lại giục. Lần này đến lượt con Mây chiều nhún chân

lấy đà. Cũng lại lăn chiêng ra đất… Một hôm Mướp tha về một con chuột nhắt.

Để con chuột nhắt ở giữa căn buồng… nó dạy con lũ con cách rình mồi, vồ

mồi” [31, tr.238].

Thế giới loài vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Ma Văn Kháng

được nhà văn miêu tả như tính cách vốn có của nó. Mỗi loài vật được khắc họa

bằng những chi tiết riêng biệt, có đặc điểm nhận diện đặc trưng của các nhân

vật loài vật này như những cá tính thật sự chứ không phải bởi một đặc tính phổ

quát nào đó. Con chó Bi, chó Bốp trung thành, có một giác quan đặc biệt trong

việc nhận diện người tốt kẻ xấu (Chó Bi, đời lưu lạc; Xin lỗi chó Bốp). Con chó

Dog biết đề phòng, cảnh giác trước người lạ và khi được hai anh em Hải, Thắm

chăm sóc, nâng niu thì Dog hoàn toàn yên tâm với sự lựa chọn của mình (Con

chó lạc nhà). Còn con chó Phúm lại là một trợ thủ đắc lực cho ông lão gác

vườn tam thất ở nông trường có tài bắt sói, bắt beo, bắt chuột, đánh rắn hổ

mang (Ông lão gác vườn và chó Phúm). Con Clếch lại là người bạn tri kỉ làm

vơi đi khoảng trống nỗi nhớ của Phìn với con chó Phúm đã mất vì con lợn độc,

đồng thời thấy được tình mẫu tử thiêng liêng đáng trân trọng của loài khuyển

85

(Con Clếch của tôi, Một ngày không được chấm công). Con mèo Kết rất khôn

và tinh ranh (Mèo con nghịch ngợm). Tình mẫu tử của loài mèo trong cách

Mướp chăm sóc và dạy lũ con của nó tự lập (Con meo, con mẻo, con mèo). Tình

cảm anh em nhà mèo Vàng luôn liếm láp, chơi trò chơi, âu yếm nhau, chẳng

bao giờ hờ hững, xa lìa nhau (Hai anh em nhà mèo). Con “cá xinh đẹp, hiền từ”

[31, tr.198], thú vị nhất là cách sống trong im lặng khiêm nhường, là “Những

kỳ quan của loài thủy tộc, đỉnh cao của trí tưởng tượng, của thơ siêu linh”

[31, tr.148] (Mèo con nghịch ngợm; Tội nghiệp con vẹt già). Cùng là loài vẹt, trong

Mèo con nghịch ngợm được ngợi ca là “những con vật quý phái” [31, tr. 146],

nhưng trong Tội nghiệp con vẹt già thì vẹt lại là “một gã chim bẻm mép, láu

lỉnh” [31, tr.195], “dở trò nhại những tạp âm ở ngoài đời” [31, tr.198], phải

chịu cái kết vô cùng đáng thương. “Vẹt là loài chim cổ đại, sống dai và thích

nghi rất giỏi với các điều kiện sống. Nó là loài chim thông minh, nhậy cảm”

[31, tr.225]. Chú gà chọi Mộc dũng cảm, kiên cường, gan dạ đã đánh thắng được

“đệ nhất mãnh kê” [31, tr.112]. Con ngựa già khôn ngoan, tinh quái, ranh mãnh,

đầy kinh nghiệm leo dốc (Thương con ngựa già). Chú ngựa ô hai tuổi “hăng

như lửa”, “có bước nhảy truy phong, đã truy bắt kẻ gian thì đố con nào chạy

kịp” [31, tr.85]. Những “Con chim di trú, bay về phương Nam tránh rét khi

mùa đông về, chúng vừa bay vừa ngủ, có thể bay ngày này qua ngày khác để

đến đích được cả vạn cây số” [31, tr.137]. Con chim cu gáy có “Bốn âm cu

giọng trầm ấm phát ra tròn trĩnh, nuột nà, ngọt ngào, đều đặn, tới âm cuối thì

vuốt dài thêm chút đỉnh để rồi bất thình lình hất lên một âm sắc cao vênh, tạo

nên một chuỗi hợp âm ngân nga như tiếng chuông đồng” [31, tr.206]. “Dại ngờ

dại nghệch là con bò”, “Mùa hạ, nhiều cỏ, nó đi ăn mải mê quên cả về” [31, tr.162]

“Con ăn hỗn, con ăn mảnh, con hay chạy láo táo” [31, tr.167]. Một “chú dế

non tơ, gáy ran tối tối chiều chiều, biến thời gian thành chuỗi hạt cườm”

[31, tr.225]. “Trong các giống dã thú bốn chân, thật chẳng có con nào có tốc

độ nhanh, có sức dai bền mà tàn ác quỷ quyệt như con sói. Con sói tập trung tất

cả các thói xấu ghê tởm nhất của thú rừng” [31, tr.165]. Hổ là con thú dữ thành

tinh vì “Nó già lắm rồi. Cõng trâu bắt lợn là chuyện bình thường với nó. Nó

còn giả làm người. Nó còn biết lội xuống suối bắt cá. Năm nào nó cũng vồ

86

người. Ranh ma, lọc lõi, ác độc tới mức nó đã thành tinh” [31, tr.61]. Ở loài hổ

thì chỉ có hổ mẹ biết chăm sóc và bảo vệ con, còn hổ bố chỉ rình ăn thịt con.

“Lũ gà là hiện thân của huyết thống dũng cảm, hàng ngày được kích thích nên

máu sung sát lúc nào cũng ở độ sôi cuồng, đến nỗi bắt gặp cái gì cũng mổ, gặp

chuột là mổ chết chuột, sẵn sàng tử chiến với cả những con cáo già đã thành tinh”

[31, tr.106]. Như vậy, nhà văn Ma Văn Kháng miêu tả hành động, cử chỉ, ngôn

ngữ loài vật mang tính ẩn dụ, nhân hóa giống với con người.

Như vậy, có thể khẳng định rằng thế giới loài vật trong văn xuôi của Ma

Văn Kháng rất đa dạng, trong đó hình ảnh con chó, con ngựa và con hổ, có tần

số xuất hiện cao nhất. Ngoài ra, còn có các con vật khác: con sóc, con gà, con

mèo, con vẹt, con mối. Miêu tả đặc tính con vật như là tiếng kêu của cu gáy:

“cu có con gáy giọng thổ, giọng còi. Giọng thổ có thổ con tiếng gọn ghẽ, thanh

thoát, thổ khàn không ngân nga, thổ đồng nghe như chuông và thổ pha, nửa

khàn nửa đồng” [31, tr.211]. Đây là đoạn văn tả chú chó Clếch ở bản Dao: “ba

tháng tuổi mà chân đã dài ngoẵng. Lông tơ phủ vàng óng, lưng mờ mờ một vệt

đen. Trong khi cái mõm thì dài, chỏm mũi thì đen sì. Còn đôi tai là hai cái chóp

nhọn như hai cái mũi giáo” [31, tr.258]. Viết về con vật, nhưng là cách để nhà

văn nói về con ngừời, về cuộc sống. Ngoài giá trị hiện thực, ngôn ngữ tả vật

của Ma Văn Kháng còn thể hiện sự liên tửởng hết sức phong phú, ví dụ đoạn tả

chú chó bị lạc: “bụng thon, mặt nhẹ. Tai cúp lông vàng ươm. Bốn chân

khoanh trắng như đi bí tất. Lưng lang một khoang trắng mờ hình cái yên

ngựa” [31, tr.18]. Phần lớn các con vật trong truyện của ông được nhân hoá

luôn có ý thức thay đổi bản thân, thay đổi hoàn cảnh để hướng đến một cuộc

sống tốt đẹp và nhân ái hơn (Chó Bi, đời lưu lạc). Ma Văn Kháng đã lựa chọn

một ngôn ngữ và giọng điệu riêng, phù hợp, chính xác để xây dựng hình tượng

con vật. Nhà văn rất chú trọng tính hài hòa giữa ngôn ngữ của vật và ngôn ngữ

người kể chuyện: “cơm ngon lắm đấy chó à. Thắm nói thêm. Mặc con chó vẫn

nằm im trên đống trấu. Nó chỉ đưa mắt nhìn lướt qua bát cơm trộn nước thịt

cùng tóp mỡ xào rau cải” [31, tr.18 - 19]. Ma Văn Kháng sử dụng đại từ nhân

xưng ngôi thứ ba trong giao tiếp của con người để gọi các con vật một cách trìu

mến bằng bác, thím, chị, chú, cô, anh, cậu, mợ, chàng và nàng; khi tỏ ý coi

87

thường nhà văn gọi bằng y, hắn, gã, ả, mụ… Ngoài ra, chúng còn được gọi

bằng cái tên riêng rất đáng yêu: con Mun, con Nhọ, con Vàng, con Mướp, con

Mây chiều (Con meo, con mẻo, con mèo); anh Cún (Một ngày không được

chấm công). Trong các truyện về loài vật của Ma Văn Kháng, giọng điệu và lời

của nhân vật chủ yếu được thể hiện ở các phương diện: từ ngữ, hình ảnh, cách

gọi tên, lời trữ tình ngoại đề: “ôi, con meo con mẻo con mèo. Nghĩ đến con

mèo mà thấy thương quá, thấy nó tội nghiệp quá. Một thân một mình, bé nhỏ, mà

gánh trách nhiệm canh gác thật nặng nề. Con mèo quấn quýt thân thiết. Con mèo

dân dã khôn ngoan chăm chỉ khéo léo” (Con meo, con mẻo, con mèo). Khi miêu tả

con vật, Ma Văn Kháng thường gắn với đặc điểm, tính cách của chúng. Chẳng

hạn, gọi con vẹt là “con vẹt già đáng ghét, con vật ngu xuẩn” [31, tr.197]; con cá

vàng gọi là “con bạch đình hồng, con mây chiều xinh đẹp, hiền từ” [31, tr.198]. Đọc

truyện ngắn Thương con ngựa già, độc giả không khỏi xót xa con ngựa già tội

nghiệp bị vẽ sơn lên người giả làm ngựa vằn và đem ra bờ biển cho khách cưỡi:

“con ngựa màu nâu lam lũ đã bé lại gầy còm và có vẻ đã già yếu rồi. Bộ vó nó

khẳng kheo. Sườn nó gồ ghề mấy dẻ xương. Ngay cả khấu đuôi, nơi vẻ lộng lẫy

của con vật được thể hiện, cũng chỉ là một túm lông xơ xác” [31, tr.228]. Thế

giới loài vật nhẹ nhàng đi vào trang văn của Ma Văn Kháng với tất cả vẻ đẹp tự

nhiên, đáng yêu của nó, những truyện viết về loài vật đã thể hiện tấm lòng nhân

ái của ông. Bằng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị và giọng điệu triết lí hồn nhiên,

nhà văn đã tạo nên tính đa dạng trong phong cách ngôn ngữ văn xuôi của mình.

3.4. Giọng điệu trần thuật

3.4.1. Khái niệm về giọng điệu trần thuật

Tìm hiểu những công trình nghiên cứu về giọng điệu trần thuật của các

nhà nghiên cứu, phê bình văn học, chúng ta thấy có rất nhiều quan niệm về

giọng điệu trong văn chương.

Trong bài nghiên cứu giọng điệu và giọng điệu văn xuôi hiện đại, Lê Huy

Bắc đã cho rằng: “Giọng điệu là âm thanh xét ở góc độ tâm lý, biểu hiện thái độ

buồn, vui, giận hờn, hờ hững…” để phân biệt với “giọng là âm thanh xét ở góc

độ vật lý” [3, tr.67]. Ở đây tác giả đã phân biệt giọng điệu vốn có ở mỗi con

88

người với giọng điệu văn chương. Như vậy, có thể khẳng định rằng giọng điệu

trong văn chương là sự thể hiện thái độ tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ, sở trường,

ngôn ngữ của tác giả, nó gắn chặt với đối tượng giao tiếp và cách thức tổ chức

lời lẽ diễn đạt.

Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng điệu là thái độ tình cảm, lập

trường tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện

hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình

cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay

châm biếm [12, tr.134].

Phan Cự Đệ cho rằng: “Giọng điệu có vai trò quan trọng trong việc tạo

nên phong cách của nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc.

Trong tác phẩm tự sự, giọng điệu trần thuật có vị trí quan trọng. “Giọng

điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác

giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền

cảm cho người đọc” [12, tr.135].

Giọng điệu trần thuật góp phần tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng

truyền cảm cho người đọc. Nhà văn Tsêkhôp đã khẳng định rằng: “Nếu tác giả nào

đó không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả”.

Như vậy, mỗi tác giả lại xem xét giọng điệu ở những khía cạnh khác nhau,

cho dù có xem xét ở một khía cạnh nào đi chăng nữa thì giọng điệu vẫn là một

yếu tố quan trọng không thể thiếu của tác phẩm văn học. Giọng điệu trần thuật

như là một chất keo vô hình để tạo ra sự liên kết chặt chẽ bền lâu giữa nhà văn,

tác phẩm và độc giả. Ngoài ra, giọng điệu còn là một phương tiện để người kể

chuyện đi sâu phản ánh bức tranh hiện thực đời sống của con người. Vì vậy,

mỗi nhà văn luôn nói bằng giọng điệu riêng của mình. Nếu như tìm được giọng

điệu phù hợp thì sẽ giúp cho nhà văn kể chuyện hay hơn, hấp dẫn và lôi cuốn

bạn đọc hơn, đồng thời cũng thể hiện sâu sắc hơn tư tưởng tác phẩm. trong

những tình huống như vậy thì giọng điệu giống như là một “chìa khóa” để giúp

cho nhà văn mở được tác phẩm. Ngược lại, tác phẩm không có giọng điệu thì

tác phẩm thì tác phẩm đó chỉ là những ghi chép một cách dàn trải không tạo

được điểm nhấn của nhà văn.

89

3.4.2. Giọng điệu thương cảm

Trong các sáng tác của mình, ngòi bút của nhà văn luôn đi sâu vào ngõ

ngách số phận mỗi con người để từ đó ông khám phá và phát hiện ra những số

phận đáng thương trong xã hội. Vì thế cho nên truyện của ông còn là những suy

ngẫm đầy xót xa, ngậm ngùi trước thế sự nhân sinh.

Trong Chó Bi đời lưu lạc, Ma Văn Kháng cũng bộc lộ cảm xúc ngậm ngùi

chia sẻ với những nỗi đau và sự ngang trái mà nhân vật phải trải qua. Nhìn thấy

cảnh tượng một người tài hoa nhân cách cao thượng như ông Thuần phải rời

bước khỏi nhà mình trong chiếc còng sắt và trước những ánh mắt ghẻ lạnh

thậm chí còn là khinh bỉ và giễu cợt của mọi người, nhà văn không khỏi nhức

nhối: “Buồn thay cuộc đời. Chẳng lẽ một con người khởi nghiệp và hành trình

thì hùng tráng đẹp đẽ mà kết cục lại nhục nhã thê thảm thế này sao?” [23]. Cảm

xúc ngậm ngùi còn được thể hiện đậm nét qua tâm hồn đa cảm và thâm trầm

của Toản. Khi thấy anh Cần từ một người thông minh tài năng bây giờ trở về

với cái xác không hồn, Toản thấy tim mình đau nhói: “đời người chẳng biết thế

nào mà lần là vậy. Nhưng chẳng lẽ những kẻ thông minh lại là những con

người dễ hư hỏng, chẳng lẽ những tài năng hình sắc đã một thời rạng rỡ và

những tình cảm cao quý lại có thể tan biến nhanh vậy mà chẳng cần có một

chút hồi quang, dư âm, dư ảnh? Chẳng lẽ con người đã phát triển nhân cách tới

mức biết được giá trị của mình, dám tự khẳng định mình qua tâm sự ghi trong

Nhật ký, lại có thể dễ dàng để ngoại cảnh chi phối mình vậy?” [23, Tr.136].

Những câu hỏi “chẳng lẽ” vang lên giống như vết dao cứa cắt tâm hồn Toản.

Đó chính là sự day dứt, ám ảnh của Toản.

Viết về thế sự nhân sinh với giọng điệu xót xa ngậm ngùi, nhà văn đã đề

cập đến thói vụ lợi, sự ích kỷ, hẹp hòi, sự giả dối…Ma Văn Kháng đã chỉ ra rõ

ràng những nỗi đau đó và thể hiện nỗi niềm thế sự nhân sinh. Chính vì thế mà

văn xuôi của Ma Văn Kháng luôn là một giá trị nhân văn sâu sắc.

3.4.3. Giọng điệu phê phán

Với cái nhìn hiện thực bộn bề đa dạng, với trách nhiệm của một cây bút

chân chính, Ma Văn Kháng luôn đi sâu mô tả dòng chảy trong trẻo giữa dòng

sông cuộc sống trong - đục, vừa đi sâu phát hiện nhiều điều bất cập bất ổn trong

90

cuộc sống hôm nay. Để đưa lên trang sách những điều bất cập bất ổn ấy, nhà

văn đã lựa chọn một phương tiện thật hữu hiệu. Đó là giọng điệu hài hước

mang sắc thái mỉa mai phê phán.

Khi xây dựng nhân vật, ngoại hình là yếu tố được nhà văn Ma Văn Kháng

luôn chú trọng tới. Khi nào sử dụng bút pháp tả thực, khi nào sử dụng bút pháp

châm biếm để gián tiếp bộc lộ thái độ của nhà văn về con người, về cuộc đời.

Ông coi thường, khinh bỉ những kẻ tha hóa, những con người ngay ở dáng hình

đã phần nào bộc lộ bản chất xấu xa. Đó chính là Viển, Lên và Xuân Chương.

Ba người nam, nữ, già, trẻ khác nhau nhưng lại hao hao hình sắc, cũng kỳ hình

dị tướng và đầy vẻ gian manh như nhau. “Viển, còn gọi là Viển cụt, hộ pháp

kềnh càng, hai cánh tay khuỳnh khèo như hai cái còng cua, mặt đỏ bứ như

người sung huyết, môi dày, cổ to” [23, tr.75]. Còn Lên “má bánh đúc. Mắt lá

răm. Ngực như hai nắm cơm”. Hay nhân vật Xuân Chương “Tên mỹ miều, thực

tình chỉ là một gã trai đàng điếm. Người gầy lẳng khẳng dáng cò hương, tướng

khỉ, gáy lõm, trán dô, mắt vàng, môi lợt, tiếng nói eo éo” [23, tr.75]. Hay nhắc

đến Đậu thì nhà văn miêu tả với dáng bộ “To ngang quá khổ, vai nổi u, bụng

chảy, râu mép quặp hợp với bộ râu cằm đen nhánh thành một vòng tròn khoanh

cái miệng rộng có thể cắn một nhát hết nửa cái bánh chưng hai lạng, y có dáng

hình một đô vật và bộ mặt lục lâm” [23, tr.156].

Trong truyện Ngựa bất kham khi nhà văn miêu tả về con ngựa của Phềnh

“Con trước màu đen, nhẵn nhụi như củ tam thất. Con này lông da màu đất thó,

đã thế lại lờm xờm như cái chăn dạ cũ buột lông. Lưng đã dài, lại võng. Mông

hếch, nổi hai gờ xương trông như đồ ốm đói” [31, tr.92].

Như vậy, sắc thái giọng điệu châm biếm mỉa mai là một trong những sắc

thái giọng điệu được Ma Văn Kháng sử dụng có hiệu quả trong tiểu thuyết thời

kỳ đổi mới. Nhờ sắc thái giọng điệu này mà những gam màu lạ trong dòng

chảy của cuộc sống hôm nay được tác giả soi chiếu một cách thật tinh tế nhiều

chiều và dễ dàng đưa lên trang sách. Sau tiếng cười, mỗi bạn đọc đều cảm nhận

rõ sự băn khoăn trăn trở của tác giả trước những bất cập bất ổn trong cuộc sống

hôm nay.

91

3.4.4. Giọng điệu trữ tình, triết lý

Giọng điệu trữ tình triết lý là một trong những nét đổi mới từ sau năm

1975 của các nhà văn hiện đại nói chung và Ma Văn Kháng nói riêng khi phải

đối mặt với nhiều vấn đề của đời sống, xã hội. Đặc biệt, khi đọc những truyện

ngắn và tiểu thuyết gần đây của ông thì bạn đọc có thể nhận thấy rõ nhà văn

luôn suy ngẫm về thế thái nhân tình và thể hiện quan điểm cách nhìn của mình

dưới dạng những triết lý có tính khái quát cao. Khi bàn về giọng triết lý trong

truyện ngắn Ma Văn Kháng, nhà nghiên cứu Lã Nguyên từng nhận xét: “Mang

chiều sâu của triết luận nhân bản về đời sống, nội dung xã hội của tác phẩm

Ma Văn Kháng bao giờ cũng vượt ra ngoài ý nghĩa đề tài, chất liệu” [38]. Khảo

sát tập truyện Mèo con nghịch ngợm và cuốn tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc,

chúng tôi nhận thấy hầu hết truyện của ông mang tính triết lý sâu xa. Với tập

truyện ngắn Mèo con nghịch ngợm, mỗi truyện giống như một câu chuyện ngụ

ngôn, kết thúc truyện Ma Văn Kháng thường mượn những câu thơ hoặc ngạn

ngữ để đưa ra những bài học nhân sinh.

Như ta đã biết, nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi

mới hầu hết là những trí thức (nhà giáo, nhà báo, nhà văn, kỹ sư). Những nhân

vật trí thức đích thực của nhà văn luôn là người có học thức uyên thâm, có tâm

hồn tinh tế, nhạy cảm. Chính vì thế, ngoài sắc thái giọng điệu trữ tình thiết tha

sâu lắng, thương cảm thì người đọc còn nhận rõ sắc thái giọng điệu triết lý suy

tư. Giọng điệu này được nhà văn sử dụng khá đậm đặc và có hiệu quả trên từng

trang sách. Sắc thái ấy thường được sử dụng khi nhà văn đề cập đến những vấn

đề phức tạp trong cuộc sống; khi nhân vật đi tìm những giá trị tinh thần đích

thực vĩnh hằng; khi ông bày tỏ những suy tư về tình người, tình đời hoặc khi

nhà văn phân tích lý giải, khái quát một hiện tượng nào đó trong cuộc sống...

Trong Chó Bi, đời lưu lạc, bên cạnh những câu chuyện buồn với bao nỗi

tái tê về thế thái nhân tình, nhà văn còn dành những trang văn đẹp khắc họa

cảm động về tình cảm gắn bó khăng khít giữa người và vật. Những tình cảm

giản dị đó đã làm tan biến đi, xoa đi những vết thương nhức nhối trong cuộc

sống con người lâu nay họ phải gồng mình lên để gánh chịu. Đọc tác phẩm,

người đọc dễ nhận ra nhà văn đã gạn lọc những ngôn ngữ từ hiện thực bộn bề,

92

để tạo nên thứ ngôn ngữ thăng hoa trong dòng cảm xúc. Tình cảm giữa chủ và

vật nuôi, được thể hiện đậm nét qua mối quan hệ của bà Trang, cậu bé Toản với

chó Bi; và đặc biệt là tình cảm của ông Thuần với chú chó được coi là “sứ giả

của tình yêu thương”. Sau một quãng đường dài Bi tình nguyện cùng ông bước

vào cuộc hành trình giữa thiên nhiên vô tận, lần đầu tiên ông cất tiếng gọi chú

chó bằng những tiếng thân yêu: “Bi! Bi! Về đây, Bi ơi… Tiếng gọi ăm ắp yêu

thương đó vang vọng đập vào hai bên bờ vách đá, văng vẳng lan truyền với một

thần lực kì lạ: “con chó phóng xuống phía hạ lưu, nơi có hàng bánh xe nước

quay tới tấp, chuyền lực chuyển động những chiếc chầy giã gạo. Nó đang lội bì

bõm, đùa nghịch với đàn cá ngược dòng và thỉnh thoảng lại cắn hóng cái gì bên

kia suối… giờ đây, Bi vừa thè lưỡi liếm tay ông, vừa áp mũi vào ngửi hít da

thịt, áo quần ông” [23, tr.177]. Đó là một khoảnh khắc kì lạ, tiếng gọi giản dị

nhưng lắng sâu, chất chứa bao yêu thương, mong đợi của ông Thuần làm rung

động cả thiên nhiên vũ trụ. Suối lặng im cả một vùng trời tĩnh lặng như chênh

chao. Bức thông điệp yêu thương như có cánh vút bay lên tới không trung xanh

thẳm, giữa không gian núi rừng hoang vắng. Ma Văn Kháng dùng những từ ngữ

trong sáng vô ngần để diễn tả tình yêu vô bờ của người chủ với chú chó Bi thân

thuộc. Điều này tạo nên sức lắng đọng, êm đềm trong giọng văn Ma Văn Kháng.

Tiểu thuyết Chó Bi, đời lưu lạc chứa đựng rất nhiều suy ngẫm sâu xa của

Ma Văn Kháng về nhân tình thế thái. Để có sự thuyết phục, ông thường đặt nó

vào tình huống cụ thể rồi phân tích, lí giải lập luận và đúc rút thành một nhận

xét tinh tế: “tính nết con người là một mạch ngầm, có điều kiện nó mới bộc lộ

ra hết” [23, tr.144]. Từ sự kiện bộ ba thế lực trong phường tác oai tác quái gây

nên vụ náo loạn trước công viên An Lạc Viên, vu oan cho chó Bi rồi đến dư

luận bị khống chế bởi quyền lực cũng vào hùa cùng với chúng; chúng đẩy mẹ

con Toản vào tình thế bị tách biệt cô lập, Ma Văn Kháng đã đưa ra nhận định

sắc sảo: “hóa ra cuộc sống là một dòng chảy liên tục và con người thì như một

kẻ vô tâm và hèn đớn” [23, tr.87]; “con người chưa bao giờ được sống mà chỉ

mới ao ước sống thôi, nên còn nhiều khát muốn lắm?” [23, tr.7].

Trong truyện ngắn Con meo, con mẻo, con mèo,nhà văn tự nói lên suy ngẫm

của mình: “Ôi, con meo con mẻo con mèo. Nghĩ đến con mèo mà thấy thương quá,

93

thấy nó tội nghiệp quá. Một thân một mình bé nhỏ, mà gánh trách nhiệm canh gác

thật nặng nề. Con mèo quấn quýt thân thiết. Con mèo dân dã khôn ngoan chăm chỉ

khéo léo. Nghĩ đến con mèo như vậy nên thật tình rất căm giận khi nghe thấy câu:

Sát nhân miêu, cứu vạn thử. Giết một con mèo, cứu vạn con chuột. Khi thấy các

quán tiểu hổ mọc lên mỗi lúc một nhiều” [31. Tr.241].

Bên cạnh đó, sự gia tăng triết lí hướng thiện là một biểu hiện căn bản của

ngòi bút Ma Văn Kháng trong mối quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc. Qua khảo

sát văn xuôi của Ma Văn Kháng, chúng tôi nhận thấy trong Chó Bi, đời lưu lạc,

từ “thiện”: xuất hiện nhiều lần.

Như vậy, phải nói rằng Ma Văn Kháng lựa chọn giọng điệu triết lý suy tư

trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới là rất phù hợp với cái nhìn, cách tư duy và hệ

thống nhân vật của tác giả. Chính sắc thái giọng điệu này đã góp phần làm cho

những trang viết của nhà văn có bề sâu trí tuệ, đưa người đọc tới sự cảm nhận

sâu sắc thấm thía nhiều điều từ cuộc sống còn bộn bề, phức tạp hôm nay.

Tiểu kết chương 3

Thông qua việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật, Ma Văn Kháng đã tiếp

cận vấn đề sinh thái trong văn học một cách hiệu quả. Thành công của ông

trong những truyện ngắn và tiểu thuyết này không phải là những trang văn chữ

nghĩa bay bổng mà có thể thấy yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công về nghệ

thuật tự sự trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc của Ma Văn

Kháng đó là: Lựa chọn điểm nhìn, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật

miêu tả loài vật và giọng điệu trần thuật. Về điểm nhìn thì nhà văn chủ yếu sử

dụng điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài và đã có sự luân phiên điểm

nhìn để khám phá tâm lý nhân vật. Về ngôn ngữ trần thuật thì Ma Văn Kháng

sử dụng chủ yếu ngôn ngữ kể chuyện một cách đời thường và giản dị. Bên cạnh

đó, nhà văn còn chú trọng đến nghệ thuật miêu tả loài vật, chính vì nhờ sự quan

sát tỉ mỉ và kĩ lưỡng nên ông miêu tả về loài vật một cách rất chi tiết. Cuối cùng

là giọng điệu, Ma Văn Kháng sử dụng chủ yếu ba giọng điệu chính đó là giọng

điệu thương cảm, giọng điệu phê phán và giọng điệu trữ tình triết lý để phản

ánh chân thực cuộc sống và con người.

94

KẾT LUẬN

Ma Văn Kháng là một nhà văn thuộc trong số hiếm hoi các tác giả thuộc

thế hệ 3X cho đến nay vẫn còn dồi dào sức viết. Ông không ngừng tìm tòi, thể

nghiệm, đổi mới tư duy truyện ngắn và tiểu thuyết cũng như phong cách nghệ

thuật của mình. Như vậy, bằng chính tài năng của mình với những tìm tòi, sáng

tạo trong tác phẩm của mình, Ma Văn Kháng đã thực sự mang đến cho độc giả

những day dứt, trăn trở khôn nguôi trước vấn đề thực tế của cuộc sống. Qua

nghiên cứu Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và Chó

Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái chúng tôi rút ra một số kết luận

sau đây:

1. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn phê bình sinh thái đã được đề cập đến

trên thế giới những năm 70 vủa thế kỷ XX. Ở Việt Nam cũng đã có một số nhà

văn bắt đầu nghiên cứu như Cao Duy Sơn, Nguyễn Minh Châu…Qua xu hướng

nghiên cứu này chúng ta có thể thấy rõ được mối quan hệ tác động hai chiều

giữa con người trong tự nhiên với thế giới loài vật. Đặc biệt phê bình sinh thái

trong truyện ngắn và tiểu thuyết Ma Văn Kháng được hình thành từ tình yêu

thiên nhiên. Nó đi vào văn học như là sự tự ý thức của nhà văn. Phê bình sinh

thái được thể hiện ở cả hai phương diện đó là miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và

lên án những hành vi của con người. Đây là một trong những điểm đặc sắc

chưa được nhiều người nói đến khi nghiên cứu về truyện ngắn và tiểu thuyết

Ma Văn Kháng. Nhà văn đã nắm bắt được vấn đề mang tính thời sự của nhân

loại và khéo léo đưa vào những trang viết của mình để cảnh báo toàn xã hội và

thức tỉnh con người sống thì cần phải có tính nhân văn với môi trường.

2. Mảng viết của Ma văn Kháng về loài vật là sự tiếp nối của các bậc đàn

anh: Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam, Tô Hoài... đã để lại những trang

viết về loài vật rất hấp dẫn và có ý nghĩa đối với người đọc. Dưới góc nhìn phê

bình sinh thái qua những truyện ngắn và tiểu thuyết của ông, chúng tôi có thể

nhận thấy rằng nhà văn viết về loài vật cùng như viết về con người. Chúng là

những sinh mệnh độc lập, Loài vật - thành phần của tự nhiên trong mối quan hệ

95

cộng sinh khác biệt với con người và luôn có sự khát vọng đồng hóa và hòa

hợp trong mối quan hệ con người. Ý nghĩa của những truyện ngắn và tiểu

thuyết viết về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên cho thấy tác giả đã

dành rất nhiều tình yêu cho thế giới tự nhiên. Qua đó Ma Văn Kháng đã đưa ra

một thông điệp khi nói về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên là: Nếu

có thái độ và hành động thân thiện với các loài khác thì cuộc sống của con

người cũng sẽ thay đổi

3. Cái nhìn về nghệ thuật của Ma Văn Kháng tiếp cận được quan điểm

hiện đại mà phê bình sinh thái học đã nêu: Con vật thì phải có mối quan hệ thân

thiết với con người vì vậy mà con người phải biết nâng niu, trân trọng chúng.

Đây không chỉ là vấn đề nhận thức mà là vấn đề đạo đức sinh thái học nghĩa là

không được hủy diệt môi trường, nguồn nước, tàn nhẫn với gia súc trong nhà

hoặc không được tiêu diệt động vật hoang dã. Qua Mèo con nghịch ngợm và

Chó Bi đời lưu lạc nhà văn Ma Văn Kháng đã thể hiện rất rõ một quan niệm đó

là: Con người cần phải có thái độ và hành vi đúng mực trong mối quan hệ với

loài vật. Con người được phép thuần dưỡng loài vật thì cũng không có nghĩa là

được phép can thiệp một cách tàn nhẫn và thô bạo đến bản chất tự nhiên của

nó. Chỉ có như vậy thì con người và loài vật sống hòa hợp với nhau. Đây cũng

như là một hồi chuông đánh thức ý thức trách nhiệm và cảnh tỉnh những hành

vi thô bạo của con người khi chung sống với thiên nhiên.

4. Mỗi tác giả lại mang một phong cách riêng của mình khi cầm bút. Văn

xuôi của Ma Văn Kháng đề cập đến mối quan hệ giữa loài vật và con người ở

nông thôn, miền núi hay đô thị. Điều này được thể hiện rõ trong cách miêu tả

hành động, cử chỉ, ngôn ngữ loài vật vô cùng sinh động rồi giọng điệu đa sắc

màu. Như vậy, có thể khẳng định rằng loài vật là một phần sống không thể tách

biệt đối với con người trong tự nhiên và xã hội. Giờ đây dù tuổi đã cao, nhưng

những khát vọng, cảm xúc thăng hoa đã thôi thúc nhà văn Ma Văn Kháng tiếp

tục cống hiến cho sự nghiệp văn chương nước nhà. Nghiên cứu “Đặc sắc văn

96

xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc

nhìn phê bình sinh thái” đã giúp cho người đọc hiểu hơn về cá tính sáng tạo,

phong cách nghệ thuật của nhà văn.

5. Nghiên cứu khoa học không chỉ là sự tiếp nối và kế thừa mà còn là

những khám phá nhiều điều mới mẻ. Với hướng nghiên cứu văn học từ góc

nhìn phê bình sinh thái, mặc dù là được kế thừa của những người đi trước

nhưng đây là công trình đầu tiên chúng tôi áp dụng vào nghiên cứu sáng tác

của một nhà văn hiện đại. Và đây cũng chính là một thử thách bởi chưa có

nhiều nghiên cứu theo xu hướng phê bình sinh thái nói chung và sáng tác của

Ma Văn Kháng nói riêng. Cũng chính vì lẽ đó, luận văn cũng không tránh khỏi

những thiếu sót nhất định. Hi vọng, chúng tôi sẽ làm rõ những vấn đề này hơn

trong những công trình nghiên cứu tiếp theo khi tìm hiểu sâu rộng hơn về thế

giới loài vật trong văn xuôi Ma Văn Kháng dưới góc nhìn phê bình sinh thái.

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Tuấn Anh, “Văn học Mỹ Latin nhìn từ phê bình sinh thái”, Tạp chí

Văn nghệ Quân đội, tháng 5 năm 2017.

2. Trần Lê Bảo (Chủ biên), Hoàng Duy Chúc, Vũ Minh Tâm, Phạm Thị Ngọc

Trầm (2005), Văn hóa sinh thái - nhân văn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà nội.

3. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí

Văn học số 9.

4. Nguyễn Thị Bình (2003), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư

phạm Hà Nội.

5. Hòa Bình (2014), “Nhà văn Ma Văn Kháng: Biết sống đúng tư cách con

người”, Báo Người lao động (8).

6. Bruno Streit, Đa dạng sinh học, Nxb Tri thức, H., 2011, tr.14.

7. Hồ Thị Minh Chi (2014), Thế giới nhân vật trong sáng tác của Ma Văn Kháng

thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Trường ĐHSP, ĐH Đà Nẵng.

8. Đoàn Tiến Dũng (2016), Ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi Ma Văn Kháng,

Luận án Tiến sĩ, Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

9. Trịnh Thùy Dương (2016), Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình

sinh thái, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóaViệt Nam, Trường Đại

học Sư phạm Thái Nguyên.

10. Nguyễn Đăng Điệp (2014), “Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái học

văn hóa”, Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng, Nxb Văn học, Hà

Nội, Tr 31- 46.

11. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2004), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13. Đỗ Văn Hiếu, “Phê bình sinh thái, cội nguồn và sự phát triển” ,

www.dovanhieu.wordprece.com, ngày 11/08/2013.

98

14. Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn

học mang tính cách tân”, Tạp chí Phát triển Nghiên cứu và khoa học, Đại

học Quốc gia Hồ Chí Minh, số 15, tr 48 - 54.

15. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục.

16. Tô Hoài (1954), Dế mèn phưu lưu kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội..

17. Mai Hoàng, “Nhà văn Ma Văn Kháng: Một đời với chữ” - báo Đà Nẵng

điện tử, http://www.baodanang.vn, ngày 16/11/2015.

18. Hội đồng lý luận, Phê bình văn học, nghệ thuật trung ương (2016), “Lý

luận Phê bình Văn học, nghệ thuật”, (41).

19. Đoàn Trọng Huy (2007), “Ma Văn Kháng - Nhà lao động chữ nghĩa” , Tạp

chí Văn hóa nghệ thuật, (số 391).

20. Dương Thanh Hương (2014), Phong cách tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Luận

án Tiến sĩ Văn học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân

văn, Đại học Quốc gia, Hà Nội.

21. Ma Văn Kháng (1971), “Cuộc sống miền núi và những trang viết của tôi”,

Văn nghệ,(395).

22. Ma Văn Kháng (1972), Mùa mận hậu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

23. Ma Văn Kháng (1999), Chó Bi, đời lưu lạc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

24. Ma Văn Kháng (2003), “Đôi điều thu nhận từ một bậc thầy văn chương”,

Báo Văn nghệ (8).

25. Ma Văn Kháng (2009), Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, Nxb

Hội Nhà văn, Hà Nội.

26. Ma Văn Kháng (2013), Phút giây huyền diệu, (Tiểu luận và bút ký về nghề

văn), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

27. Ma Văn Kháng (2013), Chuyện của Lý, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

28. Ma Văn Kháng (2015), Nhà văn, Anh là ai?, (Tập tiểu luận và bút ký nghề

văn), Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.

29. Ma Văn Kháng (2015), Bông hồng vàng, (Tập truyện ngắn mini), Nxb Dân

trí, Hà Nội.

99

30. Ma Văn Kháng (2015), Nỗi nhớ mưa phùn, (Tập truyện ngắn), Nxb Lao

động, Hà Nội.

31. Ma Văn Kháng (2016), Mèo con nghịch ngợm, Nxb Hồng Đức Hà Nội.

32. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

33. Phương Lựu (chủ biên 2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Phương Lựu (2015), “Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên cứu

văn học”, báo Văn nghệ, số 40.

35. Lã Thị Bắc Lý (1997), “Đọc sách Chó Bi - đời lưu lạc” Tạp chí Tác phẩm mới .

36. Vũ Quang Mạnh (chủ biên, 2011), Môi trường và con người sinh thái học

nhân văn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

37. Vũ Tú Nam (2015), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng,

Hà Nội.

38. Hoài Nam (2016), “Những người đàn bà của Ma Văn Kháng”, báo Văn

nghệ công an (số 279), Hà Nội.

39. Lã Nguyên (1999), “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”,

Tạp chí Văn học (2).

40. Đào Thủy Nguyên (2008), “Truyện ngắn Ma Văn Kháng và vấn đề thức

tỉnh tinh thần con người vùng cao”, In trong Tạp chí Nghiên cứu Văn học,

Viện Khoa học Xã hội.

41. Trần Thị Ánh Nguyệt, (2016), “Thấu cảm với loài vật trong văn xuôi Việt

Nam”, Tạp chí Sông Hương, (22) tháng 12/ 2016.

42. Trần Thị Ánh Nguyệt, Lưu Lê Oanh (2016), Con người và tự nhiên trong

văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Nxb Giáo

dục Việt Nam, Hà Nội.

43. Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), “Khuynh hướng phê bình sinh

thái trong nghiên cứu văn học”, Tạp chí Lí luận phê bình văn học nghệ

thuật, Số 41, Tháng 01, tr37 - 46.

100

44. Hoàng Việt Quân (2013), Nhà giáo - Nhà văn Ma Văn Kháng, (Nghiên

cứu, Phê bình), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

45. Trần Đình Sử (chủ biên 1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục HN.

46. Trần Đình Sử (chủ biên 2008), Lý luận văn học tập 2, Nxb Đại học Sư

phạm HN.

47. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,

Nxb Văn học, Hà Nội.

48. Nguyễn Nguyên Thanh (1987), “Ngày đẹp trời - tính dự báo về những tình

thế xã hội” Báo Văn nghệ, (21), ngày 23-5.

49. Nguyễn Đình Thi (1970), Cái Tết của mèo con, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

50. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, (Nghiên cứu phê

bình), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

51. Nguyễn Ngọc Thiện (2005), Phong cách và đời văn, (Tiểu luận - phê luận),

Nxb Khoa học Xã hội.

52. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lý luận, phê bình và đời sống văn chương,

(Tiểu luận - phê luận), Nxb Hội Nhà văn.

53. Nguyễn Ngọc Thiện (2011), Bóng đêm và nghệ thuật tự sự tổng hợp mới

của Ma Văn Kháng, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam.

54. Nguyễn Ngọc Thiện (2015), Văn chương nghệ thuật và thẩm mỹ tiếp nhận,

(Tiểu luận phê bình), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

55. Chu Thị Thơm (2003), “Nhà văn Ma Văn Kháng: Viết tiểu thuyết là cả một

cuộc đi săn hổ dữ”, Giáo dục và Thời đại (số đặc biệt tháng Tám).

56. Hoàng Thị Thúy (2000), Sáng tác của Ma Văn Kháng từ đầu thập kỷ 80

đến nay, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Vinh.

57. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013), “Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải

cấu trúc”, Văn học hậu hiện đại - lí thuyết và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ

biên, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr 25 - 31.

58. Xuân Tùng (1999), “Ma Văn Kháng - Nhà văn cần có cái tâm”, Báo Hà Nội (17).

101

59. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Viện Văn học ( 2017), Phê bình sinh

thái tiếng nói bản địa - tiếng nói toàn cầu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

60. Lê Kim Vinh (1977), “Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng”,Tạp chí Văn

học (5, 6).

61. Đỗ Ngọc Yên (2013), “Nhà văn Ma Văn Kháng: Người không chỉ mang nợ

với núi rừng”, Báo info.vn, cập nhật 3-7.

102