Luận văn: Xây dựng chiến lược tài chính tại Hợp tác xã TM - DV Toàn Tâm
lượt xem 44
download
Qua tìm hiểu và phân tích mô hình kinh tế tập thể tại TP.HCM mà điển hình là HTX TM DV Toàn Tâm, đại diện một đơn vị bán lẻ trong ngành bán lẻ tại TP.HCM dưới mô hình siêu thị mang thương hiệu Co.opMart chúng ta nhận thấy rằng: mô hình HTX ngày càng được củng cố và phát triển, bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều hạn chế; thị trường bán lẻ tại Việt Nam đang là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế,...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Xây dựng chiến lược tài chính tại Hợp tác xã TM - DV Toàn Tâm
- Luận văn Xây dựng chiến lược tài chính tại Hợp tác xã TM - DV Toàn Tâm
- 1 CHƯƠNG I : ĐẶC ĐIỂM TÀI CHÍNH CỦA HỢP TÁC XÃ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1.1 Tổng quan về HTX thương mại Việt Nam: 1.1.1 Lịch sử hình thành HTX thương mại Việt Nam: Khái niệm về hợp tác xã: Theo luật HTX năm 2003, Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật [1]. Lịch sử hình thành HTX thương mại tại Việt Nam: Thị trường trong nước luôn luôn được coi là cơ sở, nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần tăng GDP trong mọi quốc gia. Ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Hướng về xuất khẩu là đúng, phải khuyến khích mạnh xuất khẩu. Không xuất khẩu được thì không lấy gì để nhập khẩu…, không được coi nhẹ sản xuất trong nước và không được coi nhẹ thị trường trong nước”. Để phát triển kinh tế thị trường trong nước đòi hỏi phải thực hiện nhiều biện pháp với sự đóng góp của nhiều tham số kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, trong đó HTX thương mại (HTX TM) có vai trò rất quan trọng trong phát triển thị trường nội địa. HTX thương mại (hợp tác xã mua bán trước đây) ra đời ngày 15/03/1955 tại Thanh Ba, Phú Thọ, nhằm giảm bớt tình trạng mua rẻ bán đắt để thúc đẩy sự trao đổi hàng hóa giữa nông thôn và thành thị, lợi cho việc khôi phục kinh tế và phát triển sản xuất và hướng nông dân theo lối tương trợ hợp tác có tổ chức, có kế hoạch đồng thời giúp đỡ công nhân cải thiện đời sống”. Từ khi thành lập đến
- 2 nay, HTX thương mại đã trải qua các giai đoạn lịch sử với nhiều biến cố kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, nhưng luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng củng cố và phát triển. Trong thời kỳ nhân dân ta thực hiện hai chiến lược cách mạng (1955-1975), HTX thương mại luôn được tăng cường theo hướng mở rộng thị trường nội địa mà trước hết là thị trường nông thôn, nông nghiệp. Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới quản lý kinh tế do Đảng ta khởi xướng và thực hiện đã tạo cơ hội cho HTX thương mại được lựa chọn: lĩnh vực kinh doanh thương mại và dịch vụ thương mại mà pháp luật không cấm, như vậy HTX thương mại đã trở thành: chủ thể kinh doanh, hạch toán kinh tế độc lập, bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Trong cơ chế kinh tế mới, sự vận động của các tổ chức kinh tế cơ bản nhằm tìm kiếm lợi nhuận và nó cũng đã được đặt ra trực tiếp, sự cạnh tranh nhằm đạt hiệu quả kinh doanh thực sự trở thành vấn đề thường trực trong mỗi HTX thương mại. Vì thế đã có nhiều đơn vị kinh tế tập thể trong ngành thương mại không trụ được nên đã phải tự giải thể. Do vậy, số lượng HTX thương mại từ năm 1986-1996 giảm nhanh. Năm 1994 cả nước còn 403 đơn vị và giảm thấp hơn vào năm 1996. Năm 1996 khi cả nước còn 359 HTX thương mại, thì cũng là năm nhà nước ta ban hành luật HTX, có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Sau khi luật HTX ra đời, kinh tế tập thể nói chung và HTX thương mại nói riêng từng bước có những chuyển động mới, ngày càng đa dạng, phong phú và có những chuyển biến về chất. Năm 2001, Liên minh HTX Việt Nam cho biết cả nước có 373 HTX thương mại, đặc biệt trong đó có 162 HTX thương mại mới thành lập. Từ năm 1996 đến nay, quá trình chuyển đổi, lập mới của HTX thương mại đã được diễn ra trên khắp cả nước, số lượng HTX thương mại tăng lên. Điều đáng lưu ý là chức năng mua, bán để phục vụ nhà nông, kinh tế nông nghiệp, mở rộng thị trường nội của HTX thương mại vẫn được thực hiện với quy mô ngày càng lớn. Hiện nay, HTX thương mại kinh doanh đa dạng, linh hoạt, đây là một trong những nét đặc biệt cần chú ý từ góc nhìn mở rộng thị trường nội địa của
- 3 HTX thương mại. Theo Bộ Thương Mại (07/2001) cho biết: “bên cạnh các HTX thương mại với hoạt động chủ yếu là mua, bán đã có 15,48% HTX kinh doanh dịch vụ, 16,77% HTX kết hợp mua bán và dịch vụ, 7,75% HTX kết hợp thương mại với sản xuất, chế biến, có 7,1% HTX kinh doanh đa ngành”[2]. 1.1.2 Các loại hình hoạt động của HTX tại Việt Nam- điển hình tại TP.HCM: Tính đến tháng 06/2007, cả nước có 17.599 HTX, 39 Liên hiệp HTX trong đó có 8.535 HTX nông nghiệp, 2.354 HTX tiểu thủ công nghiệp, 1.107 HTX giao thông vận tải, 470 HTX thủy sản, 668 HTX xây dựng, 651 HTX thương mại- dịch vụ, 942 quỹ tín dụng nhân dân, 2.678 HTX dịch vụ điện, 76 HTX môi trường và 118 các loại hình khác[12]. Đến nay, các HTX cũ cơ bản đã được chuyển đổi theo các quy định của luật HTX. Các HTX yếu kém tồn tại hình thức, nhiều năm không hoạt động, không có khả năng củng cố được giải thể, nhiều HTX mới được thành lập. Điều tra 1.244 HTX (cuối năm 2006) thuộc tất cả các ngành nghề cho thấy 87,1% có lãi. Theo kế hoạch phát triển kinh tế tập thể từ 2006 đến 2010 mà Chính phủ vừa phê duyệt, Nhà nước sẽ tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mô hình kinh tế này phát triển có hiệu quả, mở rộng quy mô, thành lập Liên Hiệp hợp tác xã, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể sẽ tuân theo quy định của pháp luật về hợp tác xã. Từ nay đến năm 2010, số lượng hợp tác xã sẽ tăng bình quân 7,2% mỗi năm, số lượng xã viên tăng khoảng 7,3%. Tỷ trọng tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tập thể chiếm khoảng 14% GDP cả nước. Một mục tiêu phấn đấu khác là thu nhập bình quân của lao động trong kinh tế tập thể, của xã viên hợp tác xã trong 5 năm tới sẽ tăng gấp đôi so với năm 2005. Chính phủ cũng tạo điều kiện để mô hình kinh tế tập thể được phát triển trên mọi lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương mại, giao thông vận tải, tín dụng,… Theo Liên minh HTX TP. Hồ Chí Minh, hiện nay tại TP.HCM có các loại hình HTX như sau :
- 4 Khối HTX thương mại dịch vụ: Hơn hai thập kỷ qua, hoạt động của hệ thống HTX thương mại- dịch vụ luôn được phát triển củng cố, chấn chỉnh và đổi mới. Toàn thành phố hiện có 88 HTX và Liên hiệp HTX. Không chỉ bán lẻ, phục vụ trực tiếp người tiêu dùng, Liên hiệp HTX và các HTX thương mại - dịch vụ còn trở thành tổng đại lý của nhiều công ty, nhiều hãng trong và ngoài nước, tổ chức bán sĩ cho các cửa hàng, điểm bán, hộ tiêu dùng, hộ tiểu thương. Hàng hóa- dịch vụ của các siêu thị, cửa hàng của các Liên hiệp HTX và các HTX thương mại- dịch vụ luôn luôn đảm bảo số lượng, chất lượng, uy tín với giá cả hợp lý[10]. Khối HTX tiểu thủ công nghiệp- thủ công mỹ nghệ- xây dựng: Sau khi luật HTX được ban hành, tổ chức HTX đã được đổi mới. Hiện nay toàn thành phố có 112 HTX công nghiệp và xây dựng và 431 tổ hợp tác. Trong đó có các ngành nghề sau: Chế biến thực phẩm; dệt và trang phục; chế biến gỗ, mây, tre lá; giấy; nhựa, cao su; kim loại và sản phẩm kim loại; chế tạo động cơ thiết bị, phương tiện vận tải; đồ gỗ gia dụng; xây dựng[10]. Khối HTX vận tải- bốc xếp: Ngày nay, ngành vận tải của thành phố phát triển lớn mạnh và hiện đại, trở thành trung tâm huyết mạch lưu thông hàng hóa- hành khách của khu vực phía Nam, của cả nước, khu vực Đông Nam Á và thế giới. Hiện nay, ngành vận tải- bốc xếp toàn thành phố có 171 HTX vận tải với trên 25.000 xã viên và gần 26.000 đầu xe. Riêng khối khối vận tải hành khách bằng xe buýt có 29 HTX với hơn 1.300 xe[10]. Khối HTX Nông nghiệp: Hiện nay, vùng nông nghiệp và nông thôn TP có 39 HTX. Các HTX vừa làm nhiệm vụ sản xuất, vừa phát triển mạnh chức năng dịch vụ, hỗ trợ cho xã viên và nông dân về vốn, vật tư, kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, còn có hơn 1.031 tổ hợp tác, đa số là tổ hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp.
- 5 Các HTX và các trang trại đang đẩy mạnh sản xuất rau sạch và sữa tươi để cung cấp cho thị trường[10]. Khối HTX quỹ tín dụng: Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn TPHCM theo Luật HTX được đánh giá là một loại hình HTX hoạt động có hiệu quả, phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế của nhân dân lao động nghèo, góp phần phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân. Hiện nay trên địa bàn TPHCM đã thành lập 9 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở với 12.270 thành viên và 4.691.000.000 đồng vốn điều lệ, lãi 1.463.000.000 đồng. Quỹ tín dụng nhân dân là chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân lao động nghèo và các HTX, đáp ứng nhu cầu nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh của thành viên. Quỹ tín dụng nhân dân sẽ tiếp tục mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Ngoài quỹ tín dụng nhân dân, còn có “quỹ trợ vốn xã viên- HTX TPHCM” trực thuộc Liên minh HTX TP.HCM được UBND TP.HCM cấp giấy phép thành lập ngày 13/06/2002 với nguồn vốn hoạt động là 100 tỉ đồng, đây là một loại hình tín dụng nội bộ, đối tượng thụ hưởng là xã viên, tổ hợp tác, HTX, Liên hiệp HTX và người lao động là thành viên của quỹ. Quỹ trợ vốn xã viên HTX- TP.HCM sẽ là người bạn đồng hành, là đơn vị uỷ thác đối với các quỹ tín dụng nhân dân góp phần thực hiện mục tiêu: “đưa kinh tế tập thể thoát khỏi những yếu kém, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới có tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP của nền kinh tế” (Nghị quyết số 13 Ban chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX)[10]. 1.1.3 Khung pháp lý chi phối hoạt động của HTX: luật HTX Luật HTX nước Việt Nam ra đời đầu tiên vào tháng 01/1997 và hiện nay các HTX hoạt động theo Luật HTX năm 2003, Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003 (Luật HTX 2003), Luật này gồm 10 Chương và 52 Điều [1]. 1.1.4 Nguồn vốn của HTX: bao gồm [1] Vốn góp của xã viên Vốn vay
- 6 Vốn công trợ của nhà nước Vốn không chia (vốn tích lũy nội bộ) Vốn hợp tác phát triển, liên doanh liên kết Vốn từ các chương trình phát triển của nhà nước Vốn từ nguồn tiết kiệm 1.1.5 Những hạn chế của các doanh nghiệp HTX: Nguồn vốn: Phần lớn HTX có nguồn vốn nhỏ, khả năng tiếp cận thị trường vốn hạn chế, không thể tiếp cận với các kênh huy động vốn hiện đại như thị trường chứng khoán do luật không cho phép, không được cấp vốn, khả năng tích luỹ vốn yếu. Theo các nhà bán lẻ Việt Nam, phần lớn nhà bán lẻ trong nước là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít và kinh nghiệm kinh doanh hạn chế. Nhiều vị chủ nhiệm HTX tại TP.HCM tỏ ra rất lo lắng trước tình hình hoạt động của đơn vị mình, bởi vì theo Luật HTX hiện hành, doanh nghiệp không được huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu hoặc thực hiện cổ phần hoá như loại hình doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn đầu tư từ xã hội mà chỉ huy động vốn từ các HTX thành viên. Đại diện chuỗi siêu thị bán lẻ Co.opMart, bà Nguyễn Thị Nghĩa (Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigon Co-op) cho rằng vấn đề vốn là một bài toán nan giải, bởi theo bà khi đầu tư vào một siêu thị phải sử dụng rất nhiều vốn (chí ít cũng phải đầu tư từ 50-60 tỷ đồng/siêu thị) và thời gian hoàn vốn kéo dài hàng chục năm. Điều này góp phần tạo ra sức ép cho Saigon Co.op nói riêng và ngành thương mại bán lẻ trong nước nói chung khi nghĩ đến chiến lược phát triển dài hạn. Cũng theo bà Nghĩa, Saigon Co.op dự kiến nhu cầu vốn để xây dựng 35 siêu thị Co.opMart và 3 Trung tâm thương mại cao cấp tại khu vực Hồ Con Rùa, khu Nam Sài Gòn và số 168 Nguyễn Đình Chiểu (Co.opMart Nguyễn Đình Chiểu) đến năm 2010 là 2.000 tỷ đồng. Vì thế, để giải bài toán này, Saigon Co.op xin vay vốn kích cầu đầu tư của TP.HCM, đồng thời xin thành lập công ty cổ phần đầu tư và kinh doanh siêu thị
- 7 Co.opMart để huy động vốn từ nhà đầu tư bên ngoài và chính thức ra mắt ngày 25/04/2007 Cty Cổ Phần Đầu Tư Phát triển SaiGon Co-op (SCID)[11]. Trình độ quản lý lạc hậu, chậm đổi mới, khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật tiên tiến chậm: Theo ông Nguyễn Ngọc Hòa, Tổng giám đốc chuổi siêu thị Saigon Co.op, cái khó nhất hiện nay là đầu tư công nghệ thông tin (IT) cho toàn bộ hệ thống CoopMart. Nhiều năm trước chúng tôi cũng đã đi tham khảo các siêu thị lớn của nước ngoài và thấy rằng họ làm công tác IT rất tuyệt. Biết là cần thiết, nhưng Saigon Co.op cũng phải đến năm 2005 mới có thể đầu tư 1,5 triệu USD để thiết lập hệ thống phần mềm cho toàn bộ chuỗi siêu thị nhưng chỉ ở giai đoạn 1, mở rộng kho, xây dựng trung tâm phân phối hiện đại[11]. Hiện nay, các nhà bán lẻ muốn đầu tư công nghệ phải sử dụng khoản chi bằng 1% doanh thu. Nhưng để có được 1% này là không đơn giản, bởi lãi gộp không nhiều. Thiếu lực và vốn để đầu tư là tình hình chung của nhiều nhà bán lẻ hiện nay. Nhiều doanh nghiệp phải huy động vốn theo hình thức công ty cổ phần, phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng một phần vốn.., riêng Saigon Co.op hoạt động theo cơ chế HTX nên chưa nghĩ đến cách huy động này. Theo Liên minh HTX Thành Phố, về mặt bằng thông tin, ngoài Saigon Co.op đã trang bị khá tốt và hoạt động có hiệu quả (chiếm hơn 40% thị phần hàng hoá trong hệ thống bán lẻ siêu thị toàn thành phố) và HTX vận tải (50-80% khối lượng vận tải hành khách), thì hầu hết các HTX còn lại đều chưa có sự chuẩn bị hoặc mới ở trình độ sơ khai về thông tin mạng. Về chi phí kết nối Internet, hiện nay, có lẻ rất ít các HTX tự mình bỏ ra một khoảng tiền từ 500 đến 700 triệu đồng để có 1 website riêng, trong khi nhờ hệ thống này, các thành viên chỉ phải tốn chừng 30-50 triệu đồng là đã có thể nối mạng. Khi website chính thức hoạt động sẽ có thêm nhiều mảng đào tạo, tuyên truyền[10]. Về nhân sự, khó khăn lớn nhất của các DN bán lẻ hiện nay chính là nguồn nhân lực ở cấp quản lý. Trong mục tiêu mở rộng quy mô của mình, Saigon Co-op dự kiến mỗi năm sẽ mở thêm 10 siêu thị nhưng nếu trước đây mặt
- 8 bằng là khó khăn nhất thì hiện nay nguồn nhân lực trở thành nỗi lo đầu tiên. Sự xuất hiện dồn dập của các đại gia phân phối trên thế giới tại thị trường nội địa đã chính thức châm ngòi cho cuộc cạnh tranh vô cùng quyết liệt tại thị trường nội địa. 1.1.6 Những ưu điểm của mô hình hợp tác xã so với mô hình các doanh nghiệp khác: Xã viên HTX vừa là người góp vốn, vừa góp sức nên mọi hoạt động đều hướng đến lợi ích của tập thể, tinh thần đoàn kết cao. Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ cho mô hình HTX như: hỗ trợ về tài chính, tín dụng, nguồn nhân lực, các chính sách ưu đãi về thuế,… 1.2 Mô hình kinh tế HTX của một số nước Châu Á: Kinh tế tập thể, trong đó kinh tế HTX đóng vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt hiện nay, mô hình HTX đã trở thành lực lượng vững mạnh ở một số nước Châu Á. Tạp chí Công nghiệp giới thiệu một số mô hình phát triển HTX ở các nước này như sau[9]: Tại Ấn Độ: Ở Ấn Độ, tổ chức HTX được ra đời từ lâu và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nước này, trong đó Liên minh HTX quốc gia Ấn Độ (NCUI) là tổ chức cao nhất, đại diện cho toàn bộ HTX ở Ấn Độ. Mục tiêu chính của NCUI là hỗ trợ và phát triển phong trào HTX ở Ấn Độ, giáo dục và hướng dẫn nông dân cùng nhau xây dựng và phát triển HTX. Nhiệm vụ quan trọng của NCUI là công tác đào tạo với hệ thống đào tạo 3 cấp: Viện đào tạo quốc gia có nhiệm vụ đào tạo và cấp bằng cao đẳng về quản lý kinh doanh HTX; Viện đào tạo và cấp bằng trung cấp về quản lý kinh doanh HTX; Trung tâm đào tạo cấp quận, huyện đào tạo cán bộ HTX cơ sở, đào tạo nghề. Do có các chính sách và phân cấp đào tạo hợp lý nên Ấn Độ đã có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, thúc đẩy khu vực kinh tế HTX phát triển và mô hình HTX trở thành lực lượng vững mạnh, tham gia vào hầu hết các hoạt động kinh tế của đất nước.
- 9 Nhận rõ vai trò của các HTX chiếm vị trí trọng yếu trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, Chính phủ Ấn Độ đã thành lập công ty quốc gia phát triển HTX, thực hiện nhiều dự án khác nhau trong lĩnh vực chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản, hàng tiêu dùng, lâm sản và các mặt hàng khác, đồng thời thực hiện các dự án về phát triển những vùng nông thôn còn lạc hậu. Ngoài ra, Chính phủ đã thực hiện chiến lược phát triển cho khu vực HTX như: xúc tiến xuất khẩu, sửa đổi luật HTX, tạo điều kiện cho các HTX tự chủ và năng động hơn, chấn chỉnh hệ thống tín dụng HTX, thiết lập mạng lưới thông tin hai chiều giữa những người nghèo nông thôn với các tổ chức HTX, bảo đảm trách nhiệm của các liên đoàn HTX đối với các HTX thành viên. Tại Nhật Bản: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tổ chức HTX Nhật Bản là nhân tố tích cực, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Các loại hình HTX Nhật Bản bao gồm: HTX nông nghiệp, HTX tiêu dùng. HTX tiêu dùng Nhật Bản phát triển mạnh từ những năm 1960-1970. Liên hiệp HTX tiêu dùng (JCCU) là tổ chức cấp cao của khu vực HTX Nhật Bản. Hiện nay, JCCU có 617 HTX thành viên. Để giúp các tổ chức HTX hoạt động, Chính phủ Nhật Bản đã tăng cường xây dựng hệ thống phục vụ xã hội hóa nông nghiệp, coi nông nghiệp là một trong những hình thức phục vụ xã hội hóa tốt nhất và yêu cầu các cấp, các ngành phải giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho tổ chức này. Đồng thời chính phủ còn yêu cầu các ngành tài chính, thương nghiệp giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, tư liệu sản xuất,… tuy nhiên, không làm ảnh hưởng đến tính tự chủ và độc lập của các HTX này. Tại Thái Lan: Ở Thái Lan, HTX tín dụng nông thôn được thành lập từ lâu. Do hoạt động của HTX này có hiệu quả, nên hàng loạt HTX tín dụng được thành lập khắp cả nước. Cùng với sự phát triển của HTX tiêu dùng, các loại hình HTX nông nghiệp, công nghiệp cũng được phát triển mạnh và trở thành một trong
- 10 những yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước cũng như giữ vững ổn định của xã hội. Năm 2001, Thái Lan có 5.611 HTX các loại với hơn 8 triệu xã viên. Liên đoàn HTX Thái Lan (CLT) được thành lập, là tổ chức HTX cấp cao quốc gia, thực hiện chức năng đại diện, hỗ trợ, giáo dục và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các HTX và xã viên theo luật định. Hiện nay, Thái Lan có một số mô hình HTX tiêu biểu: HTX nông nghiệp và HTX tín dụng. Để tạo điều kiện cho khu vực HTX phát triển và khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan đã ban hành nhiều chính sách thiết thực như chính sách giá, tín dụng nhằm khuyến khích nông dân phát triển sản xuất. Mục tiêu của chính sách giá cả là: đảm bảo chi phí đầu vào hợp lý để có giá bán ổn định cho người tiêu dùng, đồng thời góp phần làm ổn định giá nông sản tại thị trường trong nước, giữ giá trong nước thấp hơn giá thị trường thế giới, khuyến khích xuất khẩu. Với chính sách tín dụng, các xã viên có thể vay vốn tín dụng từ các HTX nông nghiệp, các cơ quan chính phủ, các ngân hàng thương mại để đầu tư vào sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho nông nghiệp. Trong giai đoạn 2002-2004, Chính phủ đã dành 134 tỷ Bạt để cải thiện và phát triển HTX, bao gồm phát triển sản phẩm mới, giống công nghệ sinh học, mở rộng tưới tiêu… Ngân hàng các HTX Nông nghiệp và nông thôn Thái Lan đã dành 2 tỷ Bạt để khuyến khích xã viên các HTX sản xuất – kinh doanh. Ngoài ra, Chính phủ đã thành lập Bộ Nông Nghiệp và HTX, trong đó có 2 vụ chuyên trách về HTX là Vụ phát triển HTX và Vụ kiểm toán HTX. Vụ phát triển HTX đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các HTX thực hiện các hoạt động kinh doanh, nhằm đạt được các mục tiêu do các HTX đề ra; Vụ kiểm toán HTX thực hiện chức năng kiểm toán HTX và hướng dẫn nghiệp vụ kế toán trong công tác quản lý tài chính, kế toán HTX. Hàng năm, Liên đoàn HTX Thái Lan tổ chức hội nghị toàn thể với sự tham gia của các đại diện các cơ quan của Chính phủ liên quan đến tổ chức HTX. Sự hỗ trợ, giúp đỡ của Chính phủ Thái Lan thực sự có hiệu quả trong việc hoạch định các chính sách đối với phát triển khu vực HTX.
- 11 Tại Malaysia: Ở Malaysia, các tổ chức HTX được thành lập từ những năm đầu của thế kỷ XX. Hiện nay, tổ chức HTX đang là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Tổ chức HTX Malaysia (ANGKASA) là tổ chức cấp cao của các HTX Malaysia. ANGKASA có nhiệm vụ hỗ trợ các HTX thành viên về phương thức điều hành và quản lý các hoạt động của HTX bằng cách tư vấn, giáo dục hoặc tổ chức những dịch vụ cần thiết. Hiện nay, ANGKASA có 4.049 HTX các loại với 4,33 triệu xã viên. Sự phát triển vững chắc của các khu vực kinh tế HTX đã thúc đẩy nền kinh tế Malaysia có bước phát triển mới. Các nguyên tắc của HTX được ANGKASA nêu cụ thể như sau: Quản lý dân chủ; Thành viên tự nguyện; thu nhập bình đẳng; phân phối lợi nhuận kinh doanh theo mức độ sử dụng các dịch vụ của các xã viên và mức đóng góp cổ phần của xã viên; hoàn trả vốn theo mức đầu tư; xúc tiến công tác đào tạo phổ cập kiến thức quản lý và KHKT nông nghiệp cho các xã viên. Năm 1992, pháp lệnh đầu tiên về HTX của Nhà nước Malaysia ra đời. Sau đó, năm 1993, Luật HTX ra đời, là khung khổ pháp lý để các HTX hoạt động, đồng thời xây dựng kế hoạch phát triển và đào tạo cán bộ quản lý HTX, củng cố quyền của xã viên cũng như công tác đào tạo xã viên. Luật cũng quy định việc kiểm toán nội bộ và xây dựng báo cáo toàn diện của Ban chủ nhiệm HTX trong đại hội xã viên thường kỳ hàng năm. Đặc biệt, Chính phủ Malaysia đã thành lập Cục phát triển HTX với một số hoạt động chính như: Quản lý và giám sát các hoạt động của HTX; giúp đỡ tài chính và cơ sở hạ tầng để HTX có thể tồn tại hoạt động; xây dựng kế hoạch phát triển HTX, kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý,… Bài học kinh nghiệm cho mô hình HTX tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: Chính phủ Việt Nam nên có những chính sách để hỗ trợ và khuyến khích mô hình kinh tế hợp tác xã phát triển như: thành lập trường giảng dạy về mô hình kinh tế hợp tác xã, thành lập hệ thống ngân hàng dành riêng cho HTX,
- 12 hỗ trợ về tài chính và nguồn nhân lực quản lý cho HTX, Chính phủ tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mô hình kinh tế tập thể phát triển có hiệu quả,… 1.3 Chiến lược tài chính của DN: 1.3.1 Khái niệm về hoạch định chiến lược tài chính: Hoạch định chiến lược tài chính cho doanh nghiệp là xây dựng cho DN một chiến lược tài chính trong một thời gian dài, bao gồm sự kết hợp của các quyết định về chính sách đầu tư, nguồn tài trợ cho kế hoạch đầu tư và chính sách chi trả cổ tức. 1.3.2 Chiến lược tài chính của DN: Tình hình tài chính của các doanh nghiệp trải qua các giai đoạn: khởi sự, tăng trưởng, sung mãn (bảo hòa) và suy thoái. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt giới thiệu từng giai đoạn trong quá trình xây dựng chiến lược tài chính thích hợp cho doanh nghiệp. Giai đoạn khởi sự kinh doanh: Mô hình tổng thể: Giai đoạn đầu của chu kỳ kinh doanh tiêu biểu rõ ràng mức độ cao nhất của rủi ro kinh doanh. Các rủi ro đó chính là khả năng sản xuất sản phẩm mới có hiệu quả hay không; nếu có hiệu quả thì sản phẩm đó có được khách hàng tương lai chấp nhận hay không; nếu được chấp nhận, thị trường có tăng trưởng đến một quy mô hiệu quả đủ cho các chi phí triển khai và đưa sản phẩm ra thị trường không, và nếu tất cả các điều này đều đạt được thì công ty có chiếm được thị phần không? Mức độ rủi ro kinh doanh cao có nghĩa là rủi ro tài chính đi kèm nên được giữ càng thấp càng tốt trong suốt giai đoạn này. Như vậy tài trợ bằng vốn cổ phần là thích hợp nhất, nhưng do mức độ rủi ro tổng thể trong giai đoạn đầu của chu kỳ kinh doanh rất cao, cho nên chỉ có các nhà đầu tư vốn mạo hiểm mới dám chấp nhận đầu tư vào công ty mà thôi. Đương nhiên các nhà đầu tư vốn mạo hiểm này sẽ yêu cầu một tỷ suất sinh lợi rất cao để bù đắp cho những rủi ro cao mà họ phải gánh chịu. Do dòng tiền trong những năm đầu rất thấp (thậm chí
- 13 âm) nghĩa là họ khó có khả năng nhận được cổ tức trong giai đoạn này. Các nhà đầu tư vốn mạo hiểm chỉ kỳ vọng vào phần lãi vốn tức là giá trị cổ phần tăng thêm sau này so với giá trị ban đầu của chúng[4]. Các thông số chiến lược tài chính trong giai đoạn này như sau: Rủi ro kinh doanh Rất cao Rủi ro tài chính Rất thấp Nguồn tài trợ Vốn mạo hiểm Chính sách cổ tức Tỷ lệ trả cổ tức bằng 0 Triển vọng tăng trưởng tương lai Rất cao Tỷ số giá thu nhập(P/E) Rất cao Thu nhập trên mỗi cổ phần(EPS) Danh nghĩa hoặc âm Giá cổ phần Tăng nhanh hoặc biến động cao Giai đoạn tăng trưởng: Mô hình tổng thể Một khi sản phẩm tung ra thị trường một cách thành công, doanh số sẽ bắt đầu tăng nhanh chóng. Điều này không chỉ tiêu biểu cho việc sụt giảm rủi ro kinh doanh chung đi kèm với sản phẩm, mà còn cho thấy nhu cầu điều chỉnh chiến lược của công ty. Trong chiến lược cạnh tranh cần nhấn mạnh đến các hoạt động tiếp thị để bảo đảm doanh số tăng trưởng thoả đáng và để công ty gia tăng thị phần của doanh số đang tăng trưởng này. Các vấn đề mấu chốt trên cho thấy rằng rủi ro kinh doanh dù đã giảm bớt so với giai đoạn khởi sự nhưng vẫn còn cao trong suốt thời gian doanh số tăng trưởng nhanh. Như vậy phải xác định được nguồn tài trợ thích hợp để giữ mức độ rủi ro tài chính thấp, tức là tiếp tục dùng nguồn vốn cổ phần. Tuy nhiên, một khía cạnh quan trọng trong việc quản lý giai đoạn chuyển tiếp từ khởi đầu đến tăng trưởng là các nhà đầu tư vốn mạo hiểm ban đầu chỉ quan tâm đến việc đạt được lãi vốn để có thể tái đầu tư vào nhiều doanh nghiệp mới khởi sự khác. Điều này có nghĩa là cần tìm kiếm thêm các nhà đầu tư vốn cổ phần mới để thay thế các nhà đầu tư vốn mạo hiểm ban đầu và để tiếp tục cung cấp vốn cho các
- 14 nhu cầu trong thời kỳ tăng trưởng cao này. Nguồn vốn hấp dẫn nhất thường là từ việc phát hàng rộng rãi chứng khoán của công ty. Doanh số bây giờ sẽ cao hơn từ đó làm phát sinh các dòng tiền mạnh hơn nhiều so với giai đoạn mới khởi sự. Tuy nhiên, công ty sẽ đầu tư thêm nhiều cho các hoạt động phát triển thị trường và mở rộng thị phần, cũng như các nhà đầu tư cần thiết để theo kịp mức độ hoạt động kinh doanh ngày càng gia tăng. Vì vậy, tiền mặt do kinh doanh phát sinh sẽ cần cho tái đầu tư vào hoạt động kinh doanh, kết quả là tỷ lệ chi trả cổ tức vẫn thấp. Tỷ số giá trên thu nhập (P/E) cao là vì hiện tại thu nhập trên mỗi cổ phần sẽ rất thấp do chính sách chi trả cổ tức thấp trong giai đoạn này. Tuy nhiên, điều này cũng không làm cho các nhà đầu tư vốn cổ phần mới quan tâm lắm, vì đó là chuyện đương nhiên phải đến trong giai đoạn này. Phần chủ yếu nhất trong thu nhập mong đợi của nhà đầu tư là chênh lệch tăng giá cổ phần do chuyển nhượng vốn. Tất cả điều này làm cho P/E trong giai đoạn này khá cao[4]. Các thông số tài chính trong giai đoạn này như sau: Rủi ro kinh doanh Cao Rủi ro tài chính Thấp Nguồn tài trợ Các nhà đầu tư vốn cổ phần tăng trưởng Chính sách cổ tức Tỷ lệ chi trả danh nghĩa Triển vọng tăng trưởng tương lai Cao Tỷ số giá thu nhập(P/E) Cao EPS Thấp Giá cổ phần Tăng nhưng dễ biến động Giai đoạn bảo hòa( sung mãn): Mô hình tổng thể Kết thúc giai đoạn tăng trưởng thường được đánh dấu bằng một cạnh tranh giá cả mạnh mẽ giữa các công ty cạnh tranh vẫn còn năng lực thặng dư đáng kể. Một khi ngành đã ổn định, giai đoạn sung mãn với doanh số cao nhưng tương đối ổn định với biên lợi nhuận hợp lý có thể bắt đầu. Rõ ràng, mức độ rủi ro kinh doanh lại giảm do một giai đoạn phát triển khác bây giờ đã hoàn tất một
- 15 cách thành công, công ty sẽ bước vào giai đoạn sung mãn với một thị phần tương đối tốt do kết quả đầu tư của công ty vào hoạt động tiếp thị trong giai đoạn tăng trưởng. Rủi ro kinh doanh còn lại là thời hạn của giai đoạn ổn định và sung mãn này và việc công ty có thể duy trì thị phần cao của mình trong suốt thời kỳ này hay không. Trọng tâm của chiến lược bây giờ chuyển sang duy trì thị phần và cải tiến hiệu quả hoạt động trong suốt thời kỳ này. Điều này có thể làm cho việc chuyển tiếp giữa tăng trưởng và sung mãn rất khó quản lý. Tuy nhiên, rủi ro kinh doanh giảm làm cho rủi ro tài chính tăng tương ứng qua việc sử dụng tài trợ nợ. Tài trợ nợ bây giờ khá thực tế vì dòng tiền thuần sẽ chuyển sang dương một cách đáng kể, cho phép trả cả lãi lẫn vốn cho nợ vay. Dòng tiền dương và việc sử dụng tài trợ bằng vốn vay sẽ làm khuyếch đại tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Nghĩa là trong giai đoạn này công ty có thể trả cổ tức cao hơn so với các giai trước của vòng đời công ty. Các cổ đông đòi hỏi cổ tức gia tăng vì triển vọng tăng trưởng tương lai thấp hơn nhiều so với giai đoạn trước đây của vòng đời sản phẩm. Cổ tức sẽ cao và tăng nhẹ, nhờ công ty đã chuyển sang giai đoạn ổn định trong suốt giai đoạn này, vì vậy mức cổ tức cao này bù trừ cho tỷ số giá thu nhập thấp. Kết quả là giá cổ phần sẽ ổn định hơn, do nhà đầu tư nhận được lợi nhuận đòi hỏi nhiều qua cổ tức cao hơn là qua lãi vốn như trong các giai đoạn trước[4]. Các thông số chiến lược tài chính của giai đoạn này như sau: Rủi ro kinh doanh Trung bình Rủi ro tài chính Trung bình Nguồn tài trợ Lợi nhuận giữ lại cộng nợ vay Chính sách cổ tức Tỷ lệ chi trả cao Triển vọng tăng trưởng tương lai Trung bình đến thấp Tỷ số giá thu nhập(P/E) Trung bình EPS Cao Giá cổ phần Ổn định trên thực tế với biến động thấp
- 16 Giai đoạn đang suy thoái: Mô hình tổng thể Dòng tiền mặt dương mạnh mẽ trong giai đoạn sung mãn không thể tiếp tục mãi vì cuối cùng nhu cầu sản phẩm sẽ bắt đầu giảm dần. Khi nhu cầu giảm đi các dòng tiền mặt thu vào cũng giảm, một khi doanh số bắt đầu sụt giảm việc tiếp tục chi tiền cho các hoạt động tiếp thị không còn hợp lý nữa. Như vậy, có thể duy trì được dòng tiền thuần trong giai đoạn suy thoái ban đầu bằng cách điều chỉnh chiến lược kinh doanh thích hợp. Bất chấp chiều hướng sụt giảm và cái chết không thể tránh khỏi của sản phẩm, rủi ro kinh doanh đi kèm sẽ được xem là vẫn giảm từ mức độ của giai đoạn sung mãn trước đó. Tuy nhiên, có một yếu tố là chiều dài của giai đoạn sung mãn đã được giải quyết và rủi ro chính còn lại duy nhất là về mặt kinh tế để cho phép doanh nghiệp tồn tại bao lâu nữa. Rủi ro kinh doanh thấp này sẽ được bổ sung bởi một nguồn vốn có rủi ro tài chính tương đối cao. Có thể đạt được điều này bằng một kết hợp chính sách chi trả cổ tức cao với việc sử dụng tài trợ nợ. Thực ra cổ tức chi trả trong giai đoạn này có thể cao hơn lợi nhuận sau thuế do khả năng sử dụng thêm nguồn vốn khấu hao bởi lẽ nhu cầu đầu tư cao không còn cần thiết lắm trong giai đoạn này. Kết quả là cổ tức có thể bằng tổng số lợi nhuận và khấu hao, trong trường hợp này phần chi trả cổ tức thực sự tiêu biểu cho một sự hoàn trả vốn đầu tư cho các cổ đông. Triển vọng tăng trưởng âm được diễn dịch thành một tỷ số giá thu nhập thấp cho các cổ phần và khi kết hợp với chiều hướng đi xuống trong thu nhập mỗi cổ phần đang xảy ra trong giai đoạn này, nó đưa đến một sụt giảm mạnh giá cổ phần. Vì vậy, tài trợ nợ cho một doanh nghiệp đang suy thoái tập trung vào các giá trị cuối cùng có thể thực hiện của tài sản và điều này làm giảm thiểu rất nhiều các chi phí đi kèm các khó khăn tài chính trong tương lai. Việc sử dụng một tỷ lệ tài trợ nợ cao trong một doanh nghiệp đang suy thoái không thực sự mâu thuẩn với lý thuyết, miễn là các giám đốc tài chính nhận thức được vấn đề một cách hợp lý[4].
- 17 Các thông số chiến lược tài chính của giai đoạn này như sau: Rủi ro kinh doanh Thấp Rủi ro tài chính Cao Nguồn tài trợ Nợ Chính sách cổ tức Tỷ lệ chi trả toàn bộ Triển vọng tăng trưởng tương lai Âm Tỷ số giá thu nhập(P/E) Thấp EPS Thấp và giảm dần Giá cổ phần Giảm và tăng trong biến động 1.4 Đặc điểm tài chính của HTX: Theo luật HTX năm 2003, HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác theo quy định của HTX. Về đặc điểm tài chính của HTX được quy định tại Chương V Luật HTX 2003 như sau[1]: Theo điều 31 quy định về vốn góp của xã viên: Khi gia nhập HTX, xã viên phải góp vốn, xã viên có thể góp vốn một lần ngay từ đầu hoặc nhiều lần: mức, hình thức và thời hạn góp vốn do Điều lệ hợp tác xã quy định. Mức vốn góp tối thiểu được điều chỉnh theo quyết định của Đại hội xã viên. Xã viên được trả lại vốn góp khi chấm dứt tư cách của xã viên. Việc trả lại vốn góp của xã viên căn cứ vào thực trạng tài chính của HTX tại thời điểm trả lại vốn sau khi HTX đã quyết toán năm và đã giải quyết xong các quyền lợi, nghĩa vụ về kinh tế đối với HTX. Hình thức, thời hạn trả lại vốn góp cho xã viên do Điều lệ HTX quy định. Theo điều 32 quy định về huy động vốn: HTX được vay vốn ngân hàng và huy động vốn bằng các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
- 18 HTX được huy động bổ sung vốn góp của xã viên theo quyết định của Đại hội xã viên. HTX được nhận và sử dụng vốn, trợ cấp của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước do các bên thỏa thuận và theo quy định của pháp luật. Điển hình tại TP.HCM các HTX có thể tiếp cận quỹ trợ vốn cho xã viên HTX. Ông Nguyễn Duy Hiếu- giám đốc quỹ cho biết: “Quỹ này dựa trên cơ sở tín chấp, tất cả các HTX đều có thể tiếp cận một cách dễ dàng mà không cần phải có tài sản thế chấp. Điều này hết sức quan trọng đối với các HTX có qui mô sản xuất nhỏ, tài sản ít, không thể tiếp cận các nguồn tín dụng ngân hàng. Mặt khác, khi đã không phải thế chấp, các HTX tránh được các thủ tục công chứng tài sản thế chấp nên đã rút ngắn được thời gian hoàn tất quy trình trợ vốn”. Tuy nhiên, nguồn vốn này hiện nay còn quá eo hẹp, chưa thể đáp ứng được những nhu cầu vốn vay quá lớn. Cho nên hiện quỹ chỉ có thể ưu tiên cho những HTX có quy mô sản xuất nhỏ, mức vay của các HTX hiện từ 10 triệu đến 1,5 tỉ đồng. Theo bà Hoàng Thị Khánh, chủ tịch Liên minh HTX TP.HCM, đơn vị chủ quản quỹ này, mức vay này sẽ điều chỉnh dần lên. Nhiều HTX cũng đề nghị kéo dài thời hạn trợ vốn, nguyên nhân là do nguồn vốn này do thành phố cho quỹ trợ vốn cho xã viên HTX vay không tính lãi để trợ vốn cho xã viên và HTX chỉ bó hẹp trong ba năm phải thu hồi. Do đó nguồn vốn này sẽ cạn vốn dần[10]. Điều 33 quy định về vốn hoạt động của HTX Vốn hoạt động của HTX được hình thành từ vốn góp của xã viên, vốn tích lũy thuộc sở hữu của HTX và các nguồn vốn hợp pháp khác. Điều 34. Quỹ của HTX HTX phải lập quỹ phát triển sản xuất và quỹ dự phòng theo hướng dẫn của Chính phủ; các quỹ khác do Điều lệ HTX và Đại hội xã viên quy định phù hợp với điều kiện cụ thể của từng HTX, tỷ lệ trích lập các quỹ do Đại hội xã viên quyết định. Mục đích, phương thức quản lý và sử dụng các quỹ của HTX do Điều lệ HTX quy định.
- 19 Điều 37 quy định về phân phối lợi nhuận như sau: Sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, lãi của HTX được phân phối như sau: Trả bù các khoản lỗ của năm trước (nếu có) theo quy định của pháp luật về thuế Trích lập quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng và các quỹ khác của HTX; chia lãi cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp của xã viên và phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX. Căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh nhu cầu tích lũy để phát triển HTX, Đại hội xã viên quyết định cụ thể tỷ lệ phân phối lãi hàng năm. Đặc điểm tài chính của HTX TMDV Toàn Tâm: Do đơn vị mới được thành lập vào đầu năm 2006 nên nhu cầu vốn để đầu tư mua sắm trang thiết bị rất cao và DN kinh doanh trong lĩnh vực bán lẻ nên nhu cầu về vốn lưu động tương đối lớn và nguồn vốn huy động được thì hạn chế chủ yếu từ vốn góp của xã viên và vốn vay từ ngân hàng (do đặc thù của loại hình HTX là không thể phát hành cổ phiếu hay trái phiếu để huy động vốn trên thị trường chứng khoán như các Công ty cổ phần). Cụ thể như sau[13]: Vốn góp của xã viên: Khi gia nhập HTX, xã viên phải góp vốn (gọi là vốn góp): Điều kiện để trở thành xã viên là CBCNV đang công tác tại Liên hiệp HTX TM Thành Phố hoặc đã nghỉ hưu được tính theo thâm niên công tác và mức độ đóng góp công sức cho Saigon Coop, tối thiểu là 1,5 triệu đồng và tối đa là 60 triệu đồng. Thời điểm, mức góp vốn lần đầu, thời hạn góp đủ vốn đã đăng ký của xã viên: Đối với HTX mới thành lập thì xã viên phải góp vốn lần đầu khi HTX được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đối với HTX đang hoạt động thì xã viên góp vốn lần đầu sau khi Đại hội xã viên thông qua quyết định kết nạp Mức góp vốn lần đầu không thấp hơn 50% số vốn đã đăng ký
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Xây dựng chiến lược kinh doanh cho Công ty Du lịch An Giang giai đoạn 2006 - 2010
74 p | 1778 | 756
-
LUẬN VĂN "XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CHO NHÀ MÁY XAY XÁT TÂN MỸ HƯNG GIAI ĐOẠN 2006 - 2010"
63 p | 996 | 470
-
Luận văn " XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM MỚI CHO CÔNG TY LƯƠNG THỰC THỰC PHẨM AN GIANG "
57 p | 433 | 151
-
Luận văn: Xây dựng chiến lược kinh doanh cho DNTN đang giai đoạn 2008-2014
110 p | 308 | 99
-
Luận văn: Xây dựng chiến lược phát triển Ngân hàng SeABank đến 2015
39 p | 284 | 83
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược kinh doanh sản phẩm thép tại Công ty cổ phần Thép Thái Bình Dương
121 p | 17 | 7
-
Đề án ngành Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược thương hiệu cho Tổng công ty Bưu điện Việt Nam
106 p | 12 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược cạnh tranh giai đoạn 2018 đến 2023 của Công ty cổ phần Địa ốc Foodinco
100 p | 15 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Xây dựng chiến lược kinh doanh của xưởng in - Cục chính trị - Tổng cục kỹ thuật
95 p | 10 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược kinh doanh sản phẩm phần mềm cho Công ty cổ phần Tin học Lạc Việt
102 p | 14 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược kinh doanh của Công ty TNHH TM& ĐT Châu Long đến năm 2023
76 p | 12 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược của Công ty cổ phần Khu công nghiệp Sài Gòn - Nhơn Hội
96 p | 15 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược cho Công ty cổ phần Kỹ nghệ khoáng sản Quảng Nam 2020
106 p | 11 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực tại Đại học Duy Tân đến năm 2020
107 p | 10 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược công ty tại Công ty Công nghiệp Tàu thủy Dung Quất
119 p | 10 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược tại Tổng công ty Sản xuất Đầu tư Dịch vụ Xuất nhập khẩu Bình Định (Pisico)
111 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược phát triển trường tiểu học tư thục Văn Lang - thành phố Buôn Ma Thuột giai đoạn 2015-2020
108 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Xây dựng chiến lược kinh doanh tại Công ty TNHH Thương mại kỹ thuật Phú Nguyên giai đoạn 2020-2025
76 p | 1 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn