VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LINH

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020

HÀ NỘI - năm

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LINH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ TƯỜNG VY

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội

trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh” là

công trình do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê Tường

Vy. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Linh

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH

SỰ VIỆT NAM ................................................................................................ 8

1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng pháp luật

hình sự đối với tội trộm cắp tài sản ............................................................... 8

1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự ..................................................... 8

1.1.2 Đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự ....................................................... 9

1.2. Nội dung của áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản ............ 11

1.2.1. Định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản ............................................ 11

1.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản ................................ 15

1.3. Cơ sở của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản .... 18

1.3.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản .............................................................. 18

1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản ............................................ 19

1.3.3. Cấu thành tăng nặng của Tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật hình sự năm

2015. ................................................................................................................ 21

1.4. Các yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm

cắp tài sản ....................................................................................................... 22

1.4.1. Yếu tố pháp luật .................................................................................... 22

1.4.2. Chất lượng của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự ............................... 25

1.4.3. Sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan .................................. 25

1.4.4. Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc, cơ quan thông

tin đại chúng .................................................................................................... 25

Chương 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI

TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN PHÚ .................... 28

2.1. Khái quát tình hình áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn quận Tân Phú .......................................................................... 28

2.1.1. Khái quát về quận Tân Phú ................................................................... 28

2.1.2. Tình hình áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn quận Tân Phú ..................................................................................... 28

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản .... 36

2.2.1. Thực tiễn định tội danh ......................................................................... 36

2.3. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận

Tân Phú .......................................................................................................... 40

2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm

cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú ....................................................... 48

2.3.1. Những mặt làm được: .......................................................................... 48

2.3.2. Những mặt thiếu sót, hạn chế: .............................................................. 49

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong định tội danh và quyết định hình

phạt về tội Trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú ............................... 51

Chương 3 NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT

VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN PHÚ ..... 56

3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội

trộm cắp tài sản ............................................................................................. 56

3.2. Các giải pháp đảm bảo chất lượng áp dụng đúng pháp luật hình sự

đối với tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 60

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật ............................................................................. 61

3.2.2. Các giải pháp khác ................................................................................ 65

KẾT LUẬN .................................................................................................... 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

TNHS : Trách nhiệm hình sự

TAND : Tòa án nhân dân

TTHS : Tố tụng hình sự

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

QĐHP : Quyết định hình phạt

ADPL : Áp dụng pháp luật

CTTP : Cấu thành tội phạm

ADPL : Áp dụng pháp luật

ADPLHS : Áp dụng pháp luật hình sự

VKS : Viện kiểm sát

CQĐT : Cơ quan điều tra

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Số lượng số vụ và bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản bị đưa ra

xét xử trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Tân Phú từ

năm 2015 đến năm 2019 ............................................................................... 31

Bảng 2.2. Tỷ lệ tội trộm cắp tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu

trên địa bàn quận Tân Phú từ năm 2015 đến năm 2019 ........................... 32

Bảng 2.3: Mức hình phạt Tòa tuyên bị cáo về tội trộm cắp tài sản ......... 35

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở nước ta, quyền sở hữu là một quyền con người quan trọng, đã được

quy định và bảo hộ trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật ở các lĩnh vực:

hình sự, hành chính, dân sự...Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu được bảo

vệ và quy định rõ thông qua các quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ

luật hình sự (BLHS) đồng thời là một trong những nhóm tội được quy định sớm

nhất trong pháp luật hình sự của nước ta. Trong những năm gần đây, chính sách

mở cửa của Đảng và Nhà nước ta đã thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, văn

hóa, xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói chung và quận Tân Phú nói

riêng, thu hút nhiều các dự án đầu tư từ nguồn vốn trong và ngoài nước, giải

quyết vấn đề việc làm, an sinh xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của người

dân không ngừng được nâng lên. Nhưng bên cạnh đó, sự phân hóa giàu nghèo

và sự xâm nhập văn hóa độc hại, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội ngày càng

tăng… đang làm cho tình hình trật tự an toàn xã hội trở nên hết sức phức tạp, là

điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tội

trộm cắp tài sản nói riêng, gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của

Nhà nước, tổ chức và công dân đồng thời gây mất an ninh trật tự.

Theo thống kê từ năm 2015 đến năm 2019, tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn quận Tân Phú ngày càng diễn biến phức tạp về phương thức, thủ đoạn, mức

độ liều lĩnh, táo bạo và độ tuổi người phạm tội ngày càng trẻ hơn…, làm giảm

lòng tin của quần chúng đối với pháp luật và gây ra tâm lý bất an trong cộng

đồng dân cư, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Mặc dù các

cơ quan chức năng đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, nhất là

việc phát hiện và làm hạn chế các nguyên nhân làm phát sinh tội trộm cắp tài

sản song chưa đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, thực tiễn điều tra, truy tố và

1

xét xử đã cho thấy những bất cập, khó khăn trong việc xác định đối tượng tác

động của tội phạm, một số dấu hiệu định tội, các dấu hiệu định khung tăng

nặng, giảm nhẹ…của những người tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế, có vụ

định tội danh chưa chính xác, quyết định hình phạt ít nhiều còn mang tính chủ

quan. Trong khi đó, việc áp dụng pháp luật hình sự nói chung và áp dụng pháp

luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản vẫn còn nhiều hạn chế nhưng đến nay

vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn mới về các tội xâm phạm sở hữu trong đó

có tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ Luật hình sự năm 2015 dẫn đến

thực tế áp dụng quy định về các tội này chưa thống nhất giữa các cơ quan tố

tụng.

Để khắc phục những bất cập trong quy định của pháp luật hình sự và đề

xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự

về tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Phú cũng như trên phạm vi cả nước. Học

viên đã lựa chọn đề tài: "Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

từ thực tiễn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh" làm đề tài Luận văn Thạc

sĩ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện nay ở nước ta, vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp

luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng luôn là đề tài thu hút sự quan

tâm của các nhà khoa học và có những bài viết có giá trị, có thể kể đến một số

công trình khoa học, bài viết, đề tài sau:

2.1. Nhóm (các luận văn, luận án tiến sĩ luật học):

- Luận án tiến sỹ luật học “Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các

cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam” của tác giả Chu Thị

Trang Vân, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009;

- Luận án tiến sỹ luật hoc “Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng

chống tội này ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Văn Hùng, Đại học Luật Hà Nội,

2

2007;

- Luận văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Lê Thị Bình, Học viện Khoa học xã

hội, 2018;

- Luận văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản do người nước ngoài thực hiện

từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Thị Bích Liên, Học viện

Khoa học xã hội, 2016;

2.2. Nhóm (các sách chuyên khảo)

- GS.TSKH. Lê Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh,

Chương I - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật,

Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007;

- GS.TSKH. Lê Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh,

Phần 2, Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Nxb. Công

an nhân dân, Hà Nội, 2000;

- PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý luận về định tội danh và

hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999;

- PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội xâm phạm sở hữu,

Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể tác

giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003;

- ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội

phạm, Tập II - Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002;

2.3. Nhóm (sách giáo trình, bài viết)

- Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2012), Giáo trình “Luật hình sự Việt Nam-

Phần Các tội phạm”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

- Võ Khánh Vinh (2013), “Lý luận chung về định tội danh”, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội;

- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội,

3

Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2010;

- Phạm Văn Beo (2010), “Luật hình sự Việt Nam-Quyển 2 (Phần các tội

phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Cần Thơ.

- Dương Tuyết Miên (2007), “Định tội danh và Quyết định hình phạt”

của Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

- Và các bài viết “Tội danh và việc chuyển hóa các tội phạm trong Bộ

luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, Tạp chí Luật học, số

6/2004;“Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở

hữu” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh, Tạp chí Công an nhân dân, số 4/2008;

“Một số vấn đề chú ý khi áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT ngày

25/12/2001, hướng dẫn xử lý các tội xâm phạm sở hữu”, của tác giả Nguyễn

Ngọc Anh, Tạp chí Công an nhân dân, số 4/2002…

Qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo trên đã cung cấp cho tác giả một

lượng kiến thức cơ bản về các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài

sản nói riêng, đặc biệt là là vấn đề áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội

phạm. Tuy nhiên, do các công trình nghiên cứu trên có thời gian khá lâu, cũng

như một số công trình chỉ nghiên cứu một hoặc vài khía cạnh của tội trộm cắp

tài sản nên hiện nay việc nghiên cứu áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm

cắp tài sản mà đặc biệt là trên địa bàn cụ thể như quận Tân Phú thì vẫn còn bỏ

ngỏ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu :

Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống những vấn đề lý

luận, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn quận Tân Phú. Trên cơ sở đó, chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại

trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản để đưa ra những

kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và những giải pháp áp dụng

4

đúng các quy định của BLHS Việt Nam về tội trộm cắp tài sản tại quận Tân

Phú cũng như trên toàn quốc.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Làm rõ những vấn đề

lý luận và pháp luật về khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng

pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Đánh giá thực

trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân

Phú; qua đó tìm ra những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật.

Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp nhằm áp dụng pháp luật đúng về tội trộm

cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật cũng như việc áp

dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung nghiên cứu: Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự trải dài

xuyên suốt toàn bộ các giai đoạn tố tụng hình sự từ giai đoạn điều tra, tuy tố,

xét xử đến giai đoạn thi hành án. Tuy nhiên do điều kiện nghiên cứu có giới hạn

nên luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động

áp dụng pháp luật hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Trong đó tác giả chỉ

tập trung nghiên cứu hoạt động định tội danh và hoạt động quyết định hình phạt

đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là hai hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nổi bật nhất và quan trọng nhất

của giai đoạn xét xử sơ thẩm.

- Về thời gian : Luận văn nghiên cứu trong thời gian 05 năm từ năm

2015 đến năm 2019

5

- Về địa bàn : Luận văn nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật hình sự

đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin và

tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà

nước ta về tội phạm và hình phạt với tội trộm cắp tài sản.

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phép duy

vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm, hình phạt,

về cải cách tư pháp, về đấu tranh phòng chống tội phạm; đường lối xử lý các tội

xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng, luận văn sử dụng

một số phương pháp nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề

tương ứng như lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, quy nạp, diễn

dịch…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn góp phần làm rõ thêm các vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật

hình sự, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài

sản từ thực tiễn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.

Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt

là Tòa án nhân dân quận Tân Phú trong việc định tội danh và quyết định hình

phạt để ứng dụng vào xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án trộm cắp

tài sản nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra các kiến nghị tiếp tục

hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến áp dụng pháp luật hình sự

đối với tội trộm cắp tài sản, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm nói chung, việc bảo vệ các quyền tài sản của tổ chức và

công dân nói riêng, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật trong

giải quyết vụ án hình sự.

6

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung của luận văn gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng pháp luật đối với

tội Trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam

Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn quận Tân Phú

Chương 3: Những giải pháp nhằm áp dụng đúng pháp luật về tội Trộm cắp

tài sản trên địa bàn quận Tân Phú

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG PHÁP

LUẬT ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng pháp luật hình sự

đối với tội trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự

Ở bất cứ một hình thức Nhà nước nào thì pháp luật luôn là một công cụ

để đảm bảo cho một xã hội pháp triển ổn định, khi đặt ra những quy phạm pháp

luật, Nhà nước ta mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội,

đáp ứng lợi ích của nhân dân lao động và sự tiến bộ xã hội. Khi các chủ thể

thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong đời sống thực tế thì mục đích của áp

dụng pháp luật đã đạt được. Áp dụng pháp luật (ADPL) là một hình thức thực

hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc tổ

chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện trong những quy định pháp luật để ra

các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp

luật. Dựa vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật thì thực hiện pháp

luật bao gồm các hình thức sau:

- Tuân thủ pháp luật: Là việc thực hiện pháp luật, mang tính chất thụ

động và thể hiện dưới dạng "hành vi không hành động" Việc các chủ thể pháp

luật tự kiềm chế là những xử sự thụ động, tự ghép mình vào tập thể, xã hội, đặt

lợi ích quốc gia, lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, lợi

ích của bộ phận cục bộ đồng thời pháp luật cũng quy định mọi tổ chức và công

dân không được thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội, không được

xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người khác. Bên cạnh đó, pháp

8

luật cũng bắt buộc mọi tổ chức và công dân phải làm một việc nào đó vì lợi ích

chung và tùy theo hoàn cảnh cụ thể.

- Chấp hành pháp luật: Là hành vi hành động được thực hiện một cách chủ

động và tích cực, các chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình với hành

động tích cực, là cơ sở pháp lý để đánh giá thành tích, phẩm chất tốt đẹp và

danh dự của công dân, tổ chức, cán bộ công chức nhà nước.

- Sử dụng pháp luật : Là một hình thức thực hiện pháp luật trong đó các

chủ thể pháp luật thực hiện quyền và tự do pháp lý của mình (thực hiện những

hành vi mà pháp luật cho phép).

- Áp dụng pháp luật: Là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền căn cứ

vào các quy định pháp luật hiện hành để đưa ra quyết định có tính cá biệt nhằm

điều chỉnh quan hệ xã hội theo mục tiêu cụ thể.

Như vậy, nếu như tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp

luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thực hiện thì áp dụng

pháp luật chỉ được thực hiện thông qua hoạt động của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền, được xem như để bảo đảm đặc thù của Nhà nước cho các quy

phạm pháp luật được thực hiện một cách có hiệu quả trong đời sống xã hội. Do

đó, có thể đưa ra khái niệm: ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật đặc

biệt, là một hoạt động thực tiễn pháp lý nhằm cá biệt hóa những quy phạm

pháp luật vào các trường hợp tương ứng đối với các chủ thể pháp luật cụ thể,

mang tính tổ chức - quyền lực do nhà nước thông qua những thiết chế của nó

thực hiện

Từ những phân tích trên có thể rút ra một định nghĩa khoa học về

ADPLHS là một dạng của ADPL nói chung, được hiểu là một hoạt động thực

tiễn pháp lý, là quá trình nhằm cá biệt hóa những quy phạm PLHS vào các

trường hợp cụ thể đối với người đã thực hiện hành vi mà nhà nước coi là tội

9

phạm, mang tính tổ chức - quyền lực nhà nước và được thực hiện theo một

trình tự đặc biệt do pháp luật tố TTHS quy định.

1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự

ADPLHS là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt và có những đặc

điểm chung của các dạng ADPL, đó là:

Thứ nhất, hoạt động ADPLHS là sự tham gia của nhà nước với tư cách là

một tổ chức quyền lực công nên điều này làm cho hoạt động ADPLHS có đặc

điểm là hoạt động mang tính tổ chức-quyền lực và do nhà nước thông qua

những cơ quan có thẩm quyền tiến hành. Cụ thể theo quy định của BLTTH năm

2015 bao gồm các cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trong

mối tương quan giữa nhà nước-pháp luật và ADPL thì pháp luật là công cụ,

phương tiện để nhà nước thực hiện các chức năng của mình, ngoài ra nhà nước

bằng việc ADPL để thực hiện những mục tiêu mà pháp luật đặt ra, các chủ thể

ADPL có thẩm quyền phải nhân danh ý chí của nhà nước mà không được nhân

danh ý chí chủ quan của mình. Trong mối quan hệ này, pháp luật mang tính

khách quan ngay cả đối với những chủ thể có thẩm quyền áp dụng nó thì quyền

của chủ thể ADPLHS bị giới hạn đến mức tối thiểu, họ chỉ có một quyền duy

nhất là phải chuyển hóa một cách chính xác các quy định của pháp luật hình sự

vào từng quan hệ xã hội cụ thể.

Thứ hai, hoạt động ADPLHS điều chỉnh cá biệt, cụ thể các quan hệ

xã hội khi có sự kiện phạm tội do nó là hoạt động giải quyết trực tiếp

những vấn đề thực tế. Nói đến ADPL là nói đến tính cụ thể và ADPLHS

cũng như vậy, chỉ diễn ra trong các trường hợp rất cụ thể, trong những

quan hệ pháp luật rất cụ thể. Khi pháp luật hình sự được vật chất hóa vào

đời sống xã hội thì nó luôn có tính xác định về mặt chủ thể- áp dụng đối

với ai, áp dụng cho quan hệ xã hội nào, áp dụng ở đâu, áp dụng khi nào, áp

dụng quy phạm nào của hệ thống pháp luật hình sự.

10

Thứ ba, ADPLHS là một hoạt động được tiến hành với những thủ tục được

quy định chặt chẽ bởi pháp luật TTHS, nghĩa là việc ADPLHS không thể tiến

hành một cách tùy tiện mà phải được diễn ra trên cơ sở, trong những điều kiện

và theo những thủ tục nhất định do pháp luật quy định, đó là thủ tục tố tụng

hình sự.

Thứ tư, ADPLHS là một hoạt động mang tính sáng tạo. Tính sáng tạo

trong ADPLHS chính là sự đòi hỏi sự sáng tạo của các chủ thể trong quá trình

áp dụng vì pháp luật hình sự có tính khái quát cao còn thực tế thì phong phú và

đa dạng nên đòi hỏi các chủ thể ADPL phải sáng tạo (trong khuôn khổ của pháp

luật) khi chuyển hóa những quy định của pháp luật vào đời sống. Ở phạm vi

rộng, sáng tạo là thuộc tính chung của việc thực hiện pháp luật, bởi thực hiện

pháp luật nói chung và ADPLHS nói riêng là hoạt động tích cực của các chủ thể

pháp luật chuyển hóa pháp luật thành các xử sự cụ thể nên ở những chủ thể

khác nhau việc chuyển hóa cũng khác nhau nhưng vẫn trong khuôn khổ pháp

luật cho phép.

1.2. Nội dung của áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản

Là hoạt động nhằm vật chất hóa những quy định của PLHS nên nội dung

của ADPLHS phụ thuộc vào chính PLHS, nghĩa là PLHS quy định điều gì thì

việc áp dụng PLHS sẽ cá biệt hóa những quy định đó trong những quan hệ xã

hội và các chủ thể cụ thể. Việc áp dụng PLHS khi được chuyển hóa vào thực tế

cũng chính là việc chuyển hóa các nội dung về tội phạm và hình phạt vào các

trường hợp cụ thể thành hai nội dung tương ứng là định tội danh và QĐHP.

1.2.1. Định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản

Trong lý luËn h×nh sù, viÖc ¸p dông c¸c quy ph¹m ph¸p luËt h×nh sù

® îc hiÓu lµ mét qu¸ tr×nh ®a d¹ng vµ phøc t¹p ® îc tiÕn hµnh qua c¸c

giai ®o¹n nhÊt ®Þnh nh : gi¶i thÝch ph¸p luËt h×nh sù, x¸c ®Þnh hiÖu lùc cña

v¨n b¶n ph¸p luËt vÒ kh«ng gian vµ thêi gian, ®Þnh téi danh, quyÕt ®Þnh

11

h×nh ph¹t… Trong ®ã, ®Þnh téi danh lµ mét trong nh÷ng giai ®o¹n c¬ b¶n,

mét trong nh÷ng néi dung cña qu¸ tr×nh ¸p dông ph¸p luËt. §Þnh téi cßn lµ

tiÒn ®Ò, c¬ së cho viÖc ¸p dông c¸c quy ph¹m ph¸p luËt h×nh sù kh¸c vµ

ph¸p luËt tè tông h×nh sù.

NÕu chóng ta hiÓu r»ng BLHS ®¸nh gi¸ vÒ mÆt ph¸p lý cña Nhµ n íc

®èi nh÷ng hµnh vi nguy hiÓm cho x· héi, viÖc thùc hiÖn téi ph¹m lµ thùc

hiÖn hµnh vi nguy hiÓm cho x· héi ®· bÞ ph¸p luËt h×nh sù cÊm, th× ®Þnh téi

danh chÝnh lµ x¸c ®Þnh sù phï hîp cña hµnh vi nguy hiÓm cho x· héi ®·

® îc thùc hiÖn víi c¸c dÊu hiÖu cña mét cÊu thµnh téi ph¹m t ¬ng øng

® îc quy ®Þnh trong ph¸p luËt h×nh sù.

Hiện nay trong khoa học hình sự Việt nam, có nhiều quan điểm về khái

niệm định tội danh, điển hình như sau:

Theo TS Phạm Văn Beo: Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp lý

sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được

thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định

trong Bộ luật hình sự [6, tr.5]

Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh : Định tội danh là việc xác định và ghi

nhận về sự pháp lý phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội

cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy

định trong quy phạm pháp luật hình sự [39, tr. 9-10]

TS. Dương Tuyết Miên cũng đưa ra quan điểm của mình : Định tội danh

là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định

của pháp luật để xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì

đó là tội gì, theo điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đây là quá trình

xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [19, tr.9]

12

Như vậy, tùy vào cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu của mỗi tác giả

mà đưa ra các quan điểm khác nhau về khái niệm định tội danh. Tuy nhiên, các

quan điểm đều có điểm chung ở chỗ định tội danh là xác định sự phù hợp giữa

các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu

của CTTP tương ứng với quy định trong BLHS

Tổng hợp các quan điểm nêu trên, có thể đưa ra khái niêm : Định tội

danh là quá trình chuyển hóa nội dung quy định tội phạm của BLHS bằng cách

xác nhận sự phù hợp (đồng nhất) đầy đủ và chính xác giữa hành vi nguy hiểm

cho xã hội cụ thể đã được thực hiện trong thực tế với các dấu hiệu của một

CTTP cụ thể tương ứng được quy định trong Phần các tội phạm của BLHS và

trong những trường hợp cần thiết phải xác định sự phù hợp với các quy định

trong Phần chung của BLHS.

Trong khoa học pháp lý hình sự, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái

niệm định tội danh nhưng hầu hết đều thống nhất định tội danh là hoạt động

ADPLHS. Do đó, định tội danh cũng được xác định là bước thứ nhất của quá

trình chuyển hóa những quy định của PLHS vào việc giải quyết những vụ án cụ

thể.

Khi định tội, chủ thể phải lấy các quy định của BLHS làm căn cứ duy

nhất để so sánh với hành vi phạm tội đã được thực hiện trên thực tế từ đó phải

xác định được hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không. Để xác

định được vấn đề này thì ngoài các yếu tố khác, chủ thể định tội phải căn cứ

vào Phần chung và Phần các tội phạm của BLHS. Tiếp theo của việc xác định

tội danh thì chủ thể định tội phải xác định khung hình phạt cần áp dụng đối với

người phạm tội để xác định khung hình phạt tăng nặng hay giảm nhẹ, trước hết

hành vi của người phạm tội phải thỏa mãn các dấu hiệu đặc trưng của cấu thành

cơ bản được quy định trong điều luật.

13

Trong lĩnh vực pháp luật, định tội danh có nghĩa là lựa chọn một quy

phạm pháp luật mà nó đề cập tới trường hợp cụ thể nào đó, những quy phạm

pháp luật hình sự phần các tội phạm quy định TNHS đối với mỗi hành vi phạm

tội phải dựa trên những nguyên tắc, điều kiện được nêu ra trong các quy phạm

phần chung còn bản thân quy phạm pháp luật phần chung lại không có ý nghĩa

nếu thiếu quy phạm pháp luật phần riêng.

Định tội danh là việc chuyển hóa nội dung quy định về tội phạm của luật

hình sự vào đời sống xã hội thông qua việc giải quyết những vụ án hình sự, từ

khi khởi tố (mở) vụ án cho đến khi ra được bản án (có hiệu lực pháp luật). Đây

là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của TTHS. Trong đó, định tội

danh ở giai đoạn xét xử của Tòa án giữ vị trí trung tâm, có tính chất quyết định,

ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có

liên quan. Do đó, việc định tội danh trong hoạt động xét xử của Toà án có ý

nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý to lớn. Một người được Tòa án xác định là vô

tội có nghĩa là họ được khôi phục toàn bộ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của

mình, kể cả những quyền đã bị hạn chế trong quá trình xét xử và tiền xét xử.

Ngược lại, một người bị Tòa án xác định là có tội có nghĩa là họ sẽ phải chịu

TNHS về tội phạm mà họ đã thực hiện. Như vậy, về mặt chính trị-xã hội, định

tội danh đúng là biểu hiện của thực hiện đúng CSHS của Đảng và Nhà nước

được thể hiện trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, loại

trừ khả năng kết án oan người vô tội. Định tội danh không đúng sẽ góp phần

xuyên tạc bức tranh thực tế của tình hình tội phạm, tác động tiêu cực đến việc

soạn thảo và thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Định tội danh đúng

là một đảm bảo cho việc làm sáng tỏ một cách có căn cứ khách quan tình trạng,

mức độ và khuynh hướng của tình hình tội phạm cũng như tình hình các loại tội

phạm cụ thể trên các vùng lãnh thổ cũng như trên phạm vi toàn quốc. Về mặt

pháp lý, định tội danh đúng là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình

14

giải quyết TNHS với người thực hiện tội phạm, là một bảo đảm cho việc thực

hiện nguyên tắc pháp chế XHCN, tạo cơ sở pháp lý cho việc quyết định một

hình phạt cũng như áp dụng các biện pháp pháp lý hình sự khác công bằng

Như vậy, định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản là một hoạt động

nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự được thể hiện trên cơ sở xác

định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội

thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu

thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một

cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015

1.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Khái niệm quyết định hình phạt (QĐHP) là một trong những khái niệm

cơ bản và quan trọng của Luật hình sự Việt Nam, xác định hành vi nào là nguy

hiểm cho xã hội, xâm phạm tới khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, từ đó

đưa ra các biện pháp cưỡng chế phù hợp nhất đối với người phạm tội. Vì vậy,

có thể khẳng định QĐHP là cầu nối, là một mắt xích quan trọng giữa tội phạm

và hình phạt. Như vậy, QĐHP là giai đoạn của ADPLHS được Tòa án thực hiện

ngay sau việc định tội, định khung hình phạt.

Hiện nay pháp luật hình sự Việt Nam chưa có một văn bản chính thức để

định nghĩa cụ thể về khái niệm QĐHP, khái niệm này chỉ được nghiên cứu dưới

độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà chưa được quy định trong hệ

thống văn bản pháp lý hình sự có tính chất chính thống. Trong khoa học luật

hình sự khái niệm về QĐHP đã được nhiều nhà nghiên cứu về luật hình sự đưa

ra. TS. Lê Văn Đệ đưa ra định nghĩa về QĐHP: "Quyết định hình phạt là sự lựa

chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định

để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [10, tr. 161]. Dưới góc độ của luật tố

tụng hình sự, TS Chu Thị Trang Vân đưa ra khái niệm "Quyết định hình phạt là

một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, là

15

việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định

trong luật hình sự tương ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với

người phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội" [36, tr. 55]. Trong giáo trình

Luật hình sự Việt Nam của khoa luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thì định

nghĩa: "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt hình cụ thể

(bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể

trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội" [8, tr. 317]... Tóm

lại, phần lớn các tác giả đều có chung quan điểm về QĐHP như sau: Quyết định

hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được

quy định trong BLHS tương ứng với một CTTP cụ thể để áp dụng đối với

người phạm tội. Như vậy, tiếp cận từ khía cạnh pháp lý (tiếp cận theo nghĩa

hẹp) thì quyết định hình phạt là việc Tòa án nghiên cứu để đưa ra quyết định

hình phạt với hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Từ khía cạnh bản chất là

hoạt động áp dụng PLHS thì QĐHP được hiểu ở nghĩa rộng thì việc QĐHP có

nội dung là cả việc áp dụng các biểu hiện khác của TNHS, chứ không đơn

thuần chỉ là hình phạt. Khi QĐHP, Tòa án phải căn cứ vào : (1) Căn cứ vào quy

định của BLHS; (2) Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi; (3) Căn cứ vào nhân thân người phạm tội; (4) Căn cứ vào tình tiết giảm

nhẹ và tăng nặng TNHS.

Có thể nói, căn cứ quyết định hình phạt là cơ sở pháp lý để Tòa án QĐHP

tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,

là điều kiện cần thiết để khắc phục tình trạng tùy tiện, thiếu tính thống nhất khi

quyết định hình phạt đồng thời đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý của

hoạt động QĐHP.

Do đó, khi QĐHP, Hội đồng xét xử trên cơ sở xác định hành vi phạm tội

của bị cáo để quyết định một mức hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo

đã gây ra nguy hiểm cho xã hội nhằm đảm bảo mục đích của hình phạt, đảm

16

bảo tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật đối với người phạm tội bị kết

án góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền con người và công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm nói chung.

Như vậy, QĐHP đối với tội trộm cắp tài sản là hoạt động của Tòa án

trong việc cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân

thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS để lựa chọn loại

hình phạt và mức hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ

sung, trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội.

QĐHP có vai trò vô cùng to lớn trong cả quá trình hoạt động tố tụng của

các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các hoạt động tố tụng

trước đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố kể cả việc tranh tụng tại phiên tòa) sẽ

không có ý nghĩa nếu Tòa án không làm tốt việc QĐHP. Mọi trường hợp

QĐHP không đúng đều không đạt được mục đích của hình phạt trong thực tiễn

mà còn làm nảy sinh những phản ứng tiêu cực, tâm lý chống đối, không tin

tưởng vào tính công minh của pháp luật…từ phía người bị kết án và dư luận xã

hội.

Đối với Nhà nước, mục đích của hình phạt là cơ sở để xây dựng hệ thống

hình phạt bao gồm các loại hình phạt khác nhau và các chế định liên quan đến

hình phạt... Đây chính là những căn cứ pháp lý quan trọng cho việc QĐHP. Tuy

nhiên, để quyết định được một hình phạt đảm bảo tính công minh, đúng pháp

luật, phù hợp với lợi ích xã hội còn đòi hỏi các Thẩm phán và Hội thẩm nhân

dân phải luôn nhận thức đúng đắn về mục dích của hình phạt và mục đích của

việc áp dụng hình phạt trong những trường hợp cụ thể.

Trong mọi trường hợp, mục đích của hình phạt chỉ thực sự đạt được khi

việc quyết định hình phạt đảm bảo tính công minh, có căn cứ, đúng pháp luật để

hình phạt được tuyên có khả năng vừa đạt được mục đích trừng trị, vừa đạt

được mục đích giáo dục người phạm tội. Điều đó có nghĩa là ngoài việc tuân

17

thủ các quy định về QĐHP, Hội đồng xét xử phải xem xét một cách khách quan

các mục đích của hình phạt để không coi nhẹ hay nhấn mạnh riêng mục đích

nào. Nếu có bất kỳ vi phạm trong việc xem xét mục đích của hình phạt cũng

dẫn đến việc quyết định hình phạt không chính xác. Cụ thể là việc xem nhẹ mục

đích giáo dục, coi trọng mục đích trừng trị sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt

quá nặng, hình phạt trong trường hợp này sẽ chỉ làm cho người bị kết án thù

ghét pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật, nảy sinh tâm lý chống đối và

không có ý thức tự cải tạo, giáo dục. Ngược lại, việc xem nhẹ mục đích trừng

trị, coi thường pháp luật, không tích cực giáo dục, cái tạo mà còn không đủ khả

năng để ngăn ngừa những người khác phạm tội. Khi quyết định một hình phạt

đúng pháp luật, công bằng và hợp lý đối với người phạm tội thì đó sẽ là tiền đề,

là điều kiện cho việc đạt được mục đích của hình phạt, tức là có tác dụng trừng

trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa người đó phạm tội mới và giáo

dục những người khác. Ngược lại, khi Tòa án QĐHP không đúng pháp luật,

không công bằng và không hợp lý thì những mục đích nói trên sẽ không thể đạt

được. Như vậy, việc nhận thức đúng về mục đích của hình phạt là cơ sở đầu

tiên giúp chúng ta nhận thức đúng những căn cứ QĐHP và từ đó Tòa án có thể

quyết định một hình phạt đúng đắn, công bằng và hợp lý đối với người phạm

tội. Nếu đạt được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội thì đương

nhiên hình phạt cũng phát huy được tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung, góp

phần hình thành ý thức tự giác tuân thủ pháp luật, tính tích cực, chủ động tham

gia đấu trnah phòng, chống tội phạm ở các thành viên khác trong xã hội.

1.3. Cơ sở của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

1.3.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Tội trộm cắp tài sản, theo quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 chỉ quy

định "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị..." mà không nêu rõ

18

các dấu hiệu pháp lý cụ thể. Vì vậy, đã có nhiều quan điểm về khái niệm tội

trộm cắp tài sản, điển hình như sau :

Theo TS. Phạm Hồng Hải thì "Tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi

lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác..." [38, tr. 219]

Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa thì "Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút

chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý" [12, tr. 283]

Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội định

nghĩa: "Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có

chủ..." [35, tr. 33]

Như vậy, từ các định nghĩa tội trộm cắp tài sản nêu trên cho thấy các tác

giả đều có quan điểm đặc trưng của tội trộm cắp tài sản là lén lún chiếm đoạt tài

sản của người khác.

Từ thực tiễn cũng như trên cơ sở các quan điểm khoa học pháp lý được

thống nhất từ trước đến nay, chúng ta có thể đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài

sản như sau:

Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng

thủ đoạn lén lút, lợi dụng sơ hở của bị hại, do người có năng lực chịu trách

nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý

1.3.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

Theo quy định về tội trộm cắp tài sản tại Điều 173 BLHS năm 2015 thì

tội trộm cắp tài sản có các dấu hiệu pháp lý như sau:

1.3.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản

Khách thể trực tiếp của tội trộm cắp tài sản là xâm phạm đến quan hệ sở

hữu, cụ thể là xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá

nhân gây thiệt hại về tài sản cho người bị trộm cắp

Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải được thể hiện

dưới dạng vật chất cụ thể có giá trị và giá trị sử dụng. Theo quy định của Bộ

19

luật dân sự thì tài sản bao gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền về tài sản. Vật

trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản nếu nó nằm trong sự chiếm

hữu của con người, là sản phẩm do con người làm ra và chưa bị chủ tài sản hủy

bỏ. Tiền bao gồm tiền Việt Nam và tiền nước ngoài đang được lưu hành trên thị

trường. Đối với giấy tờ có giá chỉ là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu khi

nó vô danh, riêng quyền về tài sản không phải là đối tượng tác động của tội

trộm cắp tài sản.

1.3.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác được xem là hành vi

khách quan của tội trộm cắp tài sản, được thực hiện một cách lén lút, bí mật đối

với người quản lý tài sản với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người

quản lý tài sản hoặc lợi dụng vòa hoàn cảnh khách quan như khác như chen lấn,

xô đẩy nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý

tài sản không biết. Đối với tài sản bị chiếm đoạt phải có trị giá từ hai triệu đồng

trở lên, trường hợp tài sản bị chiếm đoạt trị giá dưới hai triệu đồng thì phải có

thêm các dấu hiệu được quy định tại các điểm a,b,c,d,đ khoản 1 Điều 173

BLHS năm 2015. Giữa hành vi trộm cắp tài sản và hậu quả là thiệt hại về vật

chất phải tồn tại mối quan hệ nhân quả.

1.3.2.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

Cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác, chủ thể của tội

trộm cắp tài sản là chủ thể thường. Bất kỳ người nào đủ tuổi và có năng lực

trách nhiệm hình sự đều có thể trở thành chủ thể của tội trộm cắp tài sản. Người

phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về

tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khản 1 và khoản 2 Điều 1733

BLHS năm 2015 do đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng và tội phạm

nghiêm trọng.

1.3.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

20

Tội trộm cắp tài sản được thực hiện do lỗi cố ý, mục đích của người

phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản là

dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích

chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục

đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm

khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm

cắp tài sản nếu mục đích đó không cấu thành một tội phạm độc lập.

1.3.3. Cấu thành tăng nặng của Tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật hình sự

năm 2015.

Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 được

chia thành bốn khung hình phạt, cụ thể như sau:

- Khung 1 (khoản 1): Có mức hình phạt là cải tạo không giữ đến 03 năm

hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm

tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan.

- Khung 2 (khoản 2): Có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Được áp

dụng đối với một trong các trường hợp sau đây: Có tổ chức; Có tính chất

chuyên nghiệp; Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới

200.000.000 đồng; Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; Hành hung để tẩu

thoát; Tài sản là bảo vật quốc gia; Tái phạm nguy hiểm.

- Khung 3 (khoản 3): Có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Được áp

dụng đối với một trong các trường hợp sau đây: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ

200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

- Khung 4 (khoản 4): Có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, được áp

dụng đối với một trong các trường hợp sau đây: Chiếm đoạt tài sản trị giá

500.000.000 đồng trở lên; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt

tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

21

1.4. Các yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật hình sự đối với tội

trộm cắp tài sản

Việc ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản chịu ảnh hưởng bởi những

yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Ta có thể xem xét nó từ nhiều góc độ khác

nhau. Cụ thể:

1.4.1. Yếu tố pháp luật

Pháp luật là cơ sở quan trọng hàng đầu để ADPL hình sự đối với tội trộm

cắp tài sản. Vì vậy, Nhà nước phải ban hành cho được một hệ thống pháp luật

"cần" và "đủ" để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động xét xử của

Tòa án nhân dân về tội trộm cắp tài sản, cụ thể các yêu cầu đó là:

Một là, Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, các đạo

luật, Pháp lệnh cho đến các nghị định, thông tư đều phải được các cơ quan có

thẩm quyền của Nhà nước ban hành đồng bộ nên các quạn hệ phát sinh trong

hoạt động ADPL của Tòa án, Nhà nước phải kiểm soát được, qua đó có thể bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân; công bằng xã hội

được thực thi đồng thời không làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội và yêu cầu quản lý xã hội của Nhà nước.

Hai là, Các quan hệ phát sinh từ ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản thì

Tòa án nhân dân, Nhà nước phải xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng để xác định những

quan hệ nào phải được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của Nhà nước và

điều chỉnh ở loại văn bản quy phạm nào (như Luật hay Pháp lệnh, Nghị định...).

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói

riêng, bao gồm cả các Điều ước quốc tế mà Nhà nước Việt nam đã tham gia,

khi được hoàn thiện, thống nhất sẽ là điều kiện thuận lợi cho Hội đồng xét xử

áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án được nhanh chóng và chính xác hơn.

Ngược lại, các quy phạm pháp luật hình sự được ban hành không dựa trên các

22

quy luật khách quan, không phản ánh được quy luật đấu tranh phòng ngừa tội

phạm sẽ dẫn đến hoạt động áp dụng PLHS không có hiệu quả.

Ba là, Công tác tổng kết thực tiễn, hướng dẫn đường lối xét xử của Tòa

án nhân dân tối cao phải được thực hiện thường xuyên, có hiệu quả vì thực tiễn

hoạt động áp dụng pháp luật khá phong phú đa dạng, phức tạp ở mỗi địa

phương trên toàn quốc, do đó muốn việc áp dụng pháp luật được đồng bộ,

thống nhất trong phạm vi toàn quốc thì hoạt động giải thích, hướng dẫn áp dụng

thống nhất pháp luật và công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử là yếu tố có ảnh

hưởng rất lớn đối với hoạt động xét xử. Nếu thực hiện tốt công tác tổng kết kinh

nghiệm xét xử và giải thích hướng dẫn áp dụng pháp luật cụ thể, chi tiết giúp

công tác xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phục vụ ngày càng đạt

chất lượng hiệu quả cao hơn.

Bốn là, Bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong

hoạt động xét xử. Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 23 BLTTHS năm

2015 đã khẳng định nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật được thể hiện ở hai khía cạnh:

- Độc lập với các yếu tố bên ngoài là khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi

xét xử, Thẩm phán và Hộ thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều

tra của Cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện kiểm

sát. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét,

thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng,

tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả các chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại

phiên tòa. Nguyên tắc độc lập còn đòi hỏi sự độc lập của hội đồng xét xử với

các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân, không bị chi phối bởi bất

kỳ ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác

động vào các thành viên của Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử theo ý chỉ

chủ quan của mình.

23

- Độc lập với yếu tố bên trong là khi xét xử các thành viên của Hội đồng

xét xử độc lập với nhau trong nghiên cứu hồ sơ, xêm xét đánh giá chứng cứ và

đưa ra kết luận sự việc phạm tội, người phạm tội, mức hình phạt mà không bị

phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Chỉ

có thành viên của Hội đồng xét xử mới được tham gia nghị án. Hội thẩm nhân

dân biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của

vụ án phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số. Người có

ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu

trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc

lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật.

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật để

giải quyết vụ án mà không được áp đặt ý chí chủ quan của mình.

1.4.2. Chất lượng của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự

Con người là chủ thể của mọi hoạt động, vì vậy trong hoạt động

ADPLHS đối với các tội trộm cắp tài sản thì yếu tố con người luôn là một trong

những yếu tố quan trọng nhất. Theo quy định của pháp luật thì Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân là những chủ thể áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của

Tòa án nhân dân, họ là nhân tố chính để quyết định hiệu quả xét xử của ngành

Tòa án nhân dân nói chung và là nhân tố quyết định nhất đối với việc ADPLHS

đối với tội trộm cắp tài sản. Do đó cần rà soát, sắp xếp tổ chức cán bộ, bố trí

cho những Thẩm phán có năng lực thực sự xét xử những vụ án khó, phức tạp;

thường xuyên đào tạo, tập huấn chuyên sâu cho các Thẩm phán về nghiệp vụ

xét xử nói chung và nghiệp vụ xét xử hình sự đối với tội trộm cắp tài sản nói

riêng nhằm không ngừng để họ được nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ

xét xử đồng thời phải cập nhật kịp thời những sửa đổi, bổ sung của pháp luật,

sử dụng thành thạo công nghệ tin học để phục vụ công tác chuyên môn. Đối với

Hội thẩm nhân dân cần lựa chọn những người có trình độ pháp luật và hiểu biết

24

về xã hội, nhiệt tình công tác và có phẩm chất đạo đức tốt. Khi trình độ năng

lực chuyên môn của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân hạn chế sẽ dẫn đến

không làm rõ được bản chất thực tế của sự việc, không hiểu được nội dung mà

pháp luật quy định dẫn đến áp dụng pháp luật sai gây ra tình trạng oan, sai, bỏ

lọt tội phạm. Bên cạnh đó, Thư ký Tòa án cũng đóng vai trò quan trọng đối với

quá trình áp dụng pháp luật, với nhiệm vụ của mình là người chuẩn bị hồ sơ,

ghi chép biên bản phiên tòa…nếu Thư ký thực hiện không tốt vai trò của mình

sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình nhận định, đánh giá những vấn đề trong vụ

án của Hội đồng xét xử.

1.4.3. Sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan

Tòa án là trung tâm của hoat động tư pháp, tuy nhiên Tòa án không thể

thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình nếu không có sự phối hợp của các cơ

quan hữu quan, đặc biệt là sự phối hợp với Công an, Viện kiểm sát, chính

quyền địa phương, các cơ quan đoàn thể, các tổ chức, cá nhân trong việc phát

giác, tố cáo người phạm tội và hành vi vi phạm pháp luật để giải quyết các vụ

án được nhanh chóng, đúng pháp luật góp phần cải tạo, giáo dục người phạm

tội và tuyên truyền pháp luật tới mọi dân. Do đó, việc phối hợp chặt chẽ giữa

các cơ quan, ban ngành hữu quan góp phần bảo đảm sự phân công, phối hợp có

hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước với nhau trong ADPLHS đối với tội trộm

cắp tài sản của Tòa án nhân dân, góp phần làm rõ hơn sự thật liên quan đến việc

xác định đúng người, đúng tội, đúng bản chất sự việc.

1.4.4. Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc, cơ quan

thông tin đại chúng

Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, công tác

xây dựng, tổ chức thực hiện nói chung và áp dụng pháp luật trong ADPLHS đối

với tội trộm cắp tài sản nói riêng ngày càng thu được những thành quả quan

25

trọng góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác xét xử đối với tội trộm cắp

tài sản.

Mặt trận tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,

đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, tập hợp,

phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng

thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội. Thông qua hoạt động giám sát, Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam sẽ kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm,

khuyết điểm, kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.

Ngoài ra, các cơ quan thông tin đại chúng cũng đóng góp vai trò to lớn

trong việc bảo đảm áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản, giúp

cho việc phổ biến giáo dục pháp luật được thực hiện trên phạm vi rộng lớn,

bằng nhiều hình thức phong phú, phù hợp với từng đối tượng và địa bàn. Mặt

khác, thông qua các thông tin của báo chí, các cơ quan thông tin thì việc

ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản được khách quan hơn, thu thập được ý

kiến của nhiều chuyên gia cũng như dư luận xã hội thông qua sự phản ánh đa

chiều nhằm áp dụng pháp luật hình sự một cách chuẩn xác hơn, tránh tình trạng

oan sai trong hoạt động ADPL.

26

Tiểu kết Chương 1

Từ kết quả nghiên cứu chương 1, tác giả rút ra kết luận sau:

- ADPLHS là một dạng của ADPL nói chung, được hiểu là một hoạt

động thực tiễn pháp lý, là quá trình nhằm cá biệt hóa những quy phạm PLHS

vào các trường hợp cụ thể đối với người đã thực hiện hành vi mà nhà nước coi

là tội phạm, mang tính tổ chức - quyền lực nhà nước và được thực hiện theo

một trình tự đặc biệt do pháp luật tố TTHS quy định.

- Làm rõ được hai nội dung của ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản đó

là định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản và QĐHP đối với tội trộm cắp tài

sản. Đây là hai giai đoạn quan trọng, cơ bản của ADPLHS

- Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng

thủ đoạn lén lút, lợi dụng sơ hở của bị hại, do người có năng lực chịu trách

nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý

- Các yếu tố tác động đến chất lượng áp dụng hình phạt đối với tội trộm

cắp tài sản bao gồm Yếu tố pháp luật; Chất lượng của cán bộ áp dụng pháp luật

hình sự; Sự phối hợp của các cơ quan hữu quan; Vai trò của Đảng cộng sản

Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc, cơ quan thông tin đại chúng.

Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản

được nghiên cứu trong chương 1 là tiền đề và cơ sở cho việc xem xét, đánh giá

thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận

Tân Phú

27

Chương 2

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN PHÚ

2.1. Khái quát tình hình áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn quận Tân Phú

2.1.1. Khái quát về quận Tân Phú

Quận Tân Phú thành lập ngày 02 tháng 12 năm 2003 theo Nghị định số

130/2003/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ. Quận Tân Phú là

một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, tại thời điểm thành lập,

quận Tân Phú có 1.606,98 ha diện tích tự nhiên và 310.876 nhân khẩu bao gồm

toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các Phường 16, 17, 18, 19, 20; 110,23

ha diện tích tự nhiên và 23.590 nhân khẩu của Phường 14; 356,73 ha diện tích

tự nhiên và 26.414 nhân khẩu của Phường 15 thuộc quận Tân Bình.

Địa giới hành chính quận Tân Phú: Đông giáp quận Tân Bình; Tây giáp

quận Bình Tân; Nam giáp các Quận 6, Quận 11; Bắc giáp Quận 12.

Dân số của quận Tân Phú tính đến ngày 15/6/2016 là 474.389

người.Quận Tân Phú phân chia thành 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các

phường: Tân Sơn Nhì, Tây Thạnh, Sơn Kỳ, Tân Quý, Tân Thành, Phú Thọ Hòa,

Phú Thạnh, Phú Trung, Hòa Thạnh, Hiệp Tân, Tân Thới Hòa.

Với địa hình trên, quận Tân Phú tiếp giáp nhiều địa bàn, thuận lợi cho

việc trao đổi, buôn bán, bên cạnh những yếu tố tích cực, những thành tựu đã đạt

được thì mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự gia tăng dân số nhanh với tỉ lệ

dân nhập cư ngày càng lớn gây khó khăn trong công tác quản lý con người và

quản lý xã hội đã làm cho tình hình tội phạm trên địa bàn quận Tân Phú diễn

biến hết sức phức tạp, trong đó có tội trộm cắp tài sản.

2.1.2. Tình hình áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

28

trên địa bàn quận Tân Phú

Trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án nhân dân quận Tân

Phú đã xét xử rất nhiều vụ trộm cắp tài sản với nhiều bị cáo. Theo số liệu thống

kê của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, từ năm 2015 đến năm 2019 cho chúng ta

nhận biết bức tranh tổng thể về tình hình tội trộm cắp tài sản trong những năm

gần đây

Bảng 2.1. Số lượng số vụ và bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản bị đưa ra

xét xử trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Tân Phú từ

năm 2015 đến năm 2019

STT Loại 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng 5

năm tội

phạm Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị

cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ

1 Trộm 89 74 96 57 83 47 68 60 99 79

cắp

317 435 tài sản

2 Lạm 4 6 4 4 1 1 2 2 0 0

dụng

tín

nhiệm

chiếm

đoạt

11 13 tài sản

3 14 19 19 20 11 12 6 7 4 4 Lừa

đảo

chiếm

54 62 đoạt

29

tài sản

4 Cưỡng 0 0 3 7 1 1 3 5 0 0

đoạt

tài sản 7 13

5 Cướp 54 73 47 68 41 57 37 74 34 47

giật

tài sản 213 319

Khác 9 15 6 16 4 7 9 21 5 8 33 67 6

Tổng 160 202 15 211 115 161 104 177 103 158

635 909 3

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân quận Tân Phú

Bảng 2.2. Tỷ lệ tội trộm cắp tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên

địa bàn quận Tân Phú từ năm 2015 đến năm 2019

Loại tội phạm 2015 2016 2017 2018 2019 Tổng 5 ST

năm T

Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị

vụ cá vụ cá vụ cá vụ cá vụ cá vụ cá

o o o o o o

1 Trộm cắp tài 49. 44. 48. 45. 49. 51. 45. 38. 58. 62. 49. 47.

85 sản 00 06 37 50 57 55 19 41 25 66 92

% % % % % % % % % % % %

2 Lạm dụng tín 2.5 2.9 2.6 1.9 0.8 0.6 1.9 1.1 0 0 1.7 1.4

nhiệm chiếm 0 7 1 0 7 2 2 3 % % 3 3

đoạt tài sản % % % % % % % % % %

3 Lừa đảo 8.7 9.4 12. 9.4 9.5 7.4 5.7 3.9 3.8 2.5 8.5 6.8

chiếm đoạt tài 5 1 42 8 7 5 7 5 8 3 0 2

30

sản % % % % % % % % % % % %

4 Cưỡng đoạt 0 0 1.9 3.3 0.8 0.6 2.8 2.8 0 0 1.1 1.4

tài sản % % 6 2 7 2 8 2 % % 0 3

% % % % % % % %

5 Cướp giật tài 33. 36. 30. 32. 35. 35. 35. 41. 33. 29. 33. 35.

sản 75 14 72 23 65 40 58 81 01 75 54 09

% % % % % % % % % % % %

6 Khác 6.0 7.4 3.9 7.5 3.4 4.3 8.6 11. 4.8 5.0 5.2 7.3

0 2 2 8 8 5 5 86 5 6 0 7

% % % % % % % % % % % %

Tổng 10 10 10 10 10 10 10 10 10 10 10 10

0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

% % % % % % % % % % % %

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân quận Tân Phú

31

Biểu đồ 2.1. Cơ cấu xét xử tội trộm cắp tài sản so với các tội trong nhóm

xâm phạm sở hữu

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân quận Tân Phú.

32

Biểu đồ 2.2. Cơ cấu số bị cáo bị xét xử của tội trộm cắp so với tổng số bị

cáo các tội xâm phạm sở hữu

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân quận Tân Phú

Qua số liệu trên cho thấy, từ năm 2015 đến năm 2019 Tòa án nhân dân quận

Tân Phú đã xét xử tổng cộng 635 vụ án hình sự với 909 bị cáo đối với nhóm tội

xâm phạm sở hữu. Trong đó, tội trộm cắp tài sản xét xử 317 vụ với 435 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 49,92% vụ án và 47,85% bị cáo); tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản xét xử 11 vụ với 13 bị cáo (chiếm tỷ lệ 1,73% vụ án và 1,43% bị

cáo); tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xét xử 54 vụ với 62 bị cáo (chiếm tỷ lệ

8,50% vụ án và 6,82% bị cáo); tội cưỡng đoạt tài sản xét xử 07 vụ với 13 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 1,10% vụ án và 1,43% bị cáo); tội cướp giật tài sản xét xử 213 vụ

với 319 bị cáo (chiếm tỷ lệ 33,54% vụ án và 35,09% bị cáo); tội khác xét xử 33

vụ với 67 bị cáo (chiếm tỷ lệ 5,20 % vụ án và 7,37% bị cáo). Nếu sắp xếp theo

thứ tự từ cao đến thấp thấy rằng: Tội trộm cắp tài sản với 317 vụ, 435 bị cáo;

Tội cướp giật tài sản với 213 vụ, 319 bị cáo; Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với

54 vụ, 62 bị cáo; các tội khác với 33 vụ, 67 bị cáo; Tội lạm dụng tín nhiệm

33

chiếm đoạt tài sản với 11 vụ, 13 bị cáo; Tội cưỡng đoạt tài sản với 07 vụ, 13 bị

cáo.

Cụ thể số lượng án hình sự Tòa án nhân dân quận Tân Phú xét xử về tội

trộm cắp tài sản hàng năm như sau:

Năm 2015 xét xử 79 vụ với 89 bị cáo; Năm 2016 xét xử 74 vụ/ 96 bị cáo;

Năm 2017 xét xử 57 vụ/ 83 bị cáo; Năm 2018 xét xử 47 vụ /68 bị cáo; Năm

2019 xét xử 60 vụ/99 bị cáo. Qua số liệu trên cho thấy, trong thời gian từ năm

2015 đến năm 2019 số lượng các vụ án Tòa án nhân dân quận Tân Phú xét xử

về tội trộm cắp tài sản tăng giảm không đều qua các năm nhưng có xu hướng

tăng: Năm 2015 là 79 vụ, từ năm 2016 đến năm 2018 có sự giảm nhẹ nhưng

đến năm 2019 lại gia tăng.

Bảng 2.3: Mức hình phạt Tòa tuyên bị cáo về tội trộm cắp tài sản

Tù có thời hạn

Giai đoạn 2015 đến Phạt Án Từ 7 năm Dưới 3 Từ 3 năm 2019 tiền treo đến 15 năm đến 7 năm năm

Số bị 1630 889 396 88 245 12 cáo

100% 54,54% 24,29% 5,40% 15,03% 0,74% Tỷ lệ

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân quận Tân Phú

34

Biểu đồ 2.3 thể hiện tỉ lệ phần trăm mức hình phạt Tòa tuyên bị cáo về tội

trộm cắp tài sản

Nguồn: Văn phòng Tòa án nhân dân quận Tân Phú

Theo bảng 2.3 số liệu thống kê của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, mức

án đã xét xử đối với bị cáo về tội trộm cắp tài sản như sau:

Từ năm 2015 đến 2019, không có bị cáo nào bị Tòa tuyên hình phạt cải

tạo không giam giữ. Trong số 1630 bị cáo thì có 889 bị cáo, Tòa xử phạt tù

dưới 3 năm, chiếm tỷ lệ 54,54%; 396 bị cáo, Tòa xử phạt từ 3 năm đến 7 năm

chiếm tỷ lệ 24,29%; 88 bị cáo, Tòa xử phạt từ 7 năm đến 15 năm chiếm tỷ lệ

5,40%; 245 bị cáo được Tòa cho hưởng án treo chiếm tỷ lệ 15,03%, hình phạt

tiền 12 bị cáo chiếm tỷ lệ 0,74%. Như vậy, hình phạt tù dưới 03 năm chiếm tỷ

lệ cao nhất, tiếp là mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, mức hình phạt tù từ 07

năm đến 15 năm, Tòa cho hưởng án treo và hình phạt tiền chiếm tỷ lệ thấp.

Qua tổng hợp số liệu trên thấy rằng, số lượng các vụ án về tội trộm cắp

tài sản xảy ra trên địa bàn quận Tân Phú đang có xu hướng gia tăng cho thấy

các biện pháp phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú trong

những năm vừa qua còn chưa hiệu quả, đòi hỏi cần phải hoàn thiện các quy

định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về tội

35

trộm cắp tài sản trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội

trộm cắp tài sản nói riêng

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

2.2.1. Thực tiễn định tội danh

Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú

trong những năm vừa qua cho thấy đa số các tòa án đều định tội danh đúng, xét

xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai, bỏ lọt

người phạm tội.

Tuy nhiên thực tiễn định tội danh vẫn còn thiếu sót nhất định cụ thể như

sau:

Có sự nhầm lẫn giữa tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đọat tài

sản, chiếm giữ trái phép tài sản giữa các cơ quan tố tụng, điển hình:

Vụ án thứ nhất : Đào Văn Thắng là nhân viên bảo vệ của công ty TNHH

dịch vụ bảo vệ Long Hải phụ trách an ninh và quản lý giờ ra vào cổng của nhân

viên trung tâm tiệc cưới Hera số 70 đường N1, phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú.

Khoảng 8 giờ ngày 19/8/2018, Huỳnh Vũ Khanh (nhân viên nhà hàng Hera)

điều khiển xe gắn máy biển số 63H4-1729 vào gửi xe tại tầng hầm Trung tâm

tiệc cưới Hera và có lấy thẻ xe (dạng thẻ từ). Sau đó, anh Khanh đến bàn của

Thắng để quẹt thẻ nhận ca rồi đi vào làm việc. Lúc này, Khanh để quên thẻ gửi

xe và chìa khoá xe trên bàn của Thắng. Thấy vậy, Thắng nảy sinh ý định chiếm

đoạt xe máy của Khanh nên lấy thẻ gửi xe và chìa khoá xe của Khanh cất vào

trong bàn làm việc.

Khoảng 10 giờ cùng ngày, sau khi bàn giao ca trực, Thắng rủ Toàn (chưa

rõ lai lịch) cùng chiếm đoạt xe gắn máy của Khanh thì Toản đồng ý. Sau đó,

Toản điều khiển xe gắn máy hiệu Airblade, màu sơn đỏ - đen, biển số: 59T1 –

156.13 đến chở Thắng đi vào tầng hầm bãi xe của trung tâm tiệc cưới Hera. Tại

đây, Thắng đưa thẻ gửi xe và chìa khoá xe của Khanh cho Toản để Toản lấy xe

36

máy biển số 63H4-1729 của Khanh chạy ra ngoài, còn Thắng thì điều khiển xe

máy của Toản. Sau đó, cả hai mang xe gắn máy biển số 63H4-1729 đến trước

số 267 Bình Long, phường Bình Hưng Hoà A, quận Bình Tân bán cho anh Trần

Hải Dương được 1.500.000 đồng, chia nhau tiêu xài.

Qua định giá, xe gắn máy biển số 63H4-1729 trị giá 10.000.000 đồng"

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Trong vụ việc này khi anh Khanh gửi xe

và được giao cho 01 thẻ từ đã phát sinh hợp đồng dân sự gửi giữ tài sản. Anh

Khanh có trách nhiệm cất giữ thẻ từ, xuất trình khi lấy xe nhưng do anh Khanh

làm mất thẻ từ nên Thắng nhặt được và cùng Toàn dùng thẻ từ lấy xe. Lúc này

anh Nhân kiểm soát xe ra đã quẹt thẻ, thấy trùng khớp đã cho Toàn lấy xe. Đối

với Toàn, do được Thắng đưa cho thẻ từ nên đã công khai dùng thẻ từ lấy xe ra

mà không cần thực hiện hành vi gian dối nào. Ngay sau khi nhặt được thẻ xe,

Thắng biết rõ là xe của anh Khanh nhưng không trả lại cho anh Khanh mà đã rủ

Toàn công khai lấy xe ra khỏi bãi giữ xe mang đi bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi

của Thắng và Toàn có dấu hiệu của tội "Chiếm giữ trái phép tài sản" quy định

tại Điều 176 Bộ luật hình sự năm 2015.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Khi phát hiện anh Huỳnh Vũ Khanh để

quên chìa khóa xe và thẻ gửi xe trên bàn của mình, Đào Văn Thắng đã nảy sinh

ý định chiếm đoạt xe của anh Khanh nên lấy chìa khoá và thẻ gửi xe cất giấu.

Sau đó, do sợ bị phát hiện nên Thắng đã đưa chìa khóa xe và thẻ gửi xe của

Khanh cho Tòan để Toản vào lấy đem ra ngoài. Hành vi của Thắng và Toàn có

dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản

Theo quan điểm của tác giả thống nhất với quan điểm thứ hai vì khi Đào

Văn Thắng thấy anh Huỳnh Vũ Khanh bỏ quên chìa khóa và thẻ từ thì lúc này

Thắng đã có ý định chiếm đoạt xe gắn máy của anh Khanh nên Thắng liền lén

lút lấy chìa khóa và thẻ xe cất giấu vào tủ để chiếm đoạt xe gắn máy trên. Tuy

Thắng không là người trực tiếp lấy trộm xe gắn máy của anh Khanh nhưng

37

Thắng đã cung cấp chìa khóa và thẻ xe để Toàn lấy trộm xe, như vậy hành vi

của Thắng và Toàn đã lén lút đối với chủ sở hữu xe là anh Khanh để chiếm đoạt

xe gắn máy trên rồi cả hai mang đi bán lấy tiền tiêu xài. Như vậy, mục đích của

Thắng và Toàn là bán xe gắn máy chiếm đoạt được để lấy tiền tiêu xài nên hành

vi của Thắng và Toàn có đủ dấu hiệu của tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại

Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015

Nếu là tội chiếm giữ trái phép tài sản thì mục đích chỉ chiếm giữ cho

bằng được tài sản. Theo dấu hiệu của tội chiếm giữ trái phép tài sản thì chủ sở

hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản phải có yêu cầu trả lại tài sản nhưng

người chiếm giữ không chịu trả. Trong trường hợp này anh Khanh không có

yêu cầu trả lại xe gắn máy cho đến khi phát hiện bị mất.

Vụ án thứ hai: Hồ Như Long và Hoàng Kim Thuận là bạn, cùng thuê và ở

phòng trọ số 10 lầu 3 nhà số 23/46A-46B Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây

Thạnh, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 19h30 ngày 16/5/2018,

lợi dụng lúc anh Hoàng Kim Thuận đang ngủ, Long đã đi đến chỗ anh Thuận

nằm, dùng tay phải lấy chìa khóa xe gắn máy hiêu Yamaha Exciter biển số

78M1-11488 và giấy đăng ký xe cùng thẻ giữ xe để trong ốp lưng điện thoại đi

động rồi đi xuống bãi giữ xe của khu trọ lấy xe gắn máy trên. Khi Long đưa thẻ

xe cho chủ nhà trọ tên Hà Ngọc Lâm, do thấy Long có thẻ xe, khớp đúng biển

số nên chủ nhà trọ cho Long lấy xe ra ngoài. Sau khi lấy được xe Long chạy

đến tiệm cầm đồ Huy Hân địa chỉ số 38B Phan Huy Ích, phường 15 quận Tân

Bình do anh Nguyễn Xuân Bảo làm chủ, cầm với giá 20.000.000 đồng.

Theo định giá, xe gắn máy hiêu Yamaha Exciter biển số 78M1-11488 trị

giá 37.000.000 đồng.

Quá trình điều tra vụ án này đã có các quan điểm như sau :

Quan điểm thứ nhất : Hành vi của Hồ Như Long phạm tội Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản vì khi anh Hoàng Kim Thuận gửi xe gắn máy vào bãi giữ xe thì

38

chiếc xe lúc đó thuộc quyền quản lý của nhân viên bảo vệ trông giữ xe. Khi

Long lấy trộm chìa khóa và thẻ xe để đưa cho nhân viên giữ xe nhằm đánh lừa

nhân viên để lấy tài sản

Quan điểm thứ hai : Hành vi của Hồ Như Long phạm hai tội là tội trộm

cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi của Long bao gồm hành vi

lén lút lấy chìa khóa xe gắn máy và giấy đăng ký xe cùng thẻ giữ xe đã cấu

thành hành vi trộm cắp tài sản. Còn hành vi dùng chìa khóa xe và thẻ giữ xe đó

để lừa bảo vệ giữ xe lấy xe ra ngoài nhằm chiếm đoạt đã cấu thành tội Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản. Do đó, Long phải chịu trách nhiệm về cả hai tội là tội trộm

cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Quan điểm thứ ba: Hành vi của Hồ Như Long phạm tội trộm cắp tài sản vì

Long đã có hành vi lén lút đối với chủ sở hữu là anh Hoàng Kim Thuận để lấy

trộm chìa khóa và thẻ xe nhằm chiếm đoạt xe gắn máy.

Tại bản án số 60/2019/HSST ngày 20/5/2019 của Tòa án nhân dân quận

Tân Phú, Hội đồng xét xử đã tuyên Hồ Như Long phạm tội “Trộm cắp tài sản”

theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015, xử phạt Long 01 năm tù.

Qua vụ án thấy rằng, xem xét hành vi thứ nhất, Long lợi dụng sơ hở của

anh Thuận đã lén lút chiếm đoạt thẻ xe và chìa khóa xe gắn máy. Để lấy được

tài sản, Long đã thực hiện một cách kín đáo, che giấu chủ sở hữu. Hành vi này

thỏa mãn dấu hiệu "lén lút" của tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra, dấu hiệu thứ hai

trong cấu thành tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu chiếm đoạt, được thể hiện ở việc

Long đã dịch chuyển được tài sản (xe gắn máy) ra khỏi sự kiểm soát của chủ sở

hữu, cho nên tội phạm được coi đã hoàn thành. Đối với hành vi thứ hai, Long

dùng thẻ giữ xe và chìa khóa xe (chiếm đoạt của anh Thuận) vào bãi giữ xe của

khu nhà trọ để lấy xe ra rồi mang đi tiêu thụ, cho thấy không thỏa mãn dấu hiệu

của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. bỏi lẽ khi chủ xe gửi xe vào bãi xe của khu

nhà trọ thì một hợp đồng gửi giữ đơn giản đã được xác lập, vé xe là sự giao kết

39

hợp đồng giữa chủ xe và người giữ xe. trong khi đó, người trông giữ xe chỉ

nhận lại vé, kiểm tra sổ ghi trên chiếc xe có đúng với số ghi trên vé xe và xem

có đúng là loại vé do mình phát hành hay không. Đối chiếu với nội dung vụ án

cho thấy hành vi thứ hai của Long (dùng vé gửi xe và chìa khóa vào bãi đưa xe

ra ngoài rồi mang đi tiêu thụ cũng thỏa mãn dấu hiệu lén lút chiếm đoạt tài sản

của người khác trong cấu thành tội trộm cắp tài sản. Dấu hiệu lén lút ở đây cần

được hiểu là không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi

này xảy ra đồng thòi người phạm tội có thể vẫn thể hiện sự công khai với những

người khác xung quanh. Trong thời điểm Long đưa xe gắn máy ra khỏi bãi giữ

xe của khu trọ thì Long vẫn công khai với người bảo vệ có trách nhiệm soát vé.

Như vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt thẻ giữ và chìa khóa xe của Long là tiền đề

phát sinh hành vi thứ hai-dùng thẻ giữ xe và chìa khóa xe để lấy xe ra ngoài đi

tiêu thụ. Do đó, hành vi của Long đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Bản

án sơ thẩm tuyên Hồ Như Long phạm tội "Trộm cắp tài sản" là đúng quy định

của pháp luật.

2.3. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

quận Tân Phú

Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

quận Tân Phú là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn một

số thiếu sót về quyết định hình phạt, cụ thể:

Một là: Xác định sai khung hình phạt. Là trường hợp Tòa án đã xét xử

người đó đúng với tội họ thực hiện nhưng lại xác định sai khung hình phạt

chẳng hạn bị cáo đó lẽ ra phải xét xử ở khung cơ bản nhưng lại xét xử ở khung

tăng nặng và ngược lại, điển hình:

Vụ án Lê Nhật Trường phạm tội "Trộm cắp tài sản" là một ví dụ chứng

minh hành vi phạm tội đã đủ yếu tố CTTP và định tội đúng nhưng lại đánh giá

sai tình tiết định khung dẫn đến định sai khung hình phạt

40

Nội dung vụ án như sau: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 27/7/2016 Lê Nhật

Trường cùng các nhân viên của công ty chuyển nhà Đức Thịnh đến nhà số 14 lô

A chung cư Gò Dầu 2, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú để dọn dẹp nhà

theo yêu cầu của chị Nguyễn Ngọc Phường. Trong lúc đang thu dọn, Trường

phát hiện cửa phòng của chị Phường ở lầu 1 không khóa, trong phòng có 01 túi

xách màu đỏ của bà Lâm Thị Phụng (mẹ của chị Phường) để ở cửa phòng nên

Trường nảy sinh ý định trộm cắp. Trường liền lén lút mở túi xách ra lấy trộm

13.000.000 đồng bỏ vào người rồi tiếp tục làm việc.

Tại Bản án số 59/2017/HSST ngày 28/4/2017 của Tòa án nhân dân quận

Tân Phú tuyên Trường phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm b khoản 2 Điều

138 BLHS năm 1999 (với tình tiết định khung là phạm tội có tính chất chuyên

nghiệp) và xử phạt Trường 03 năm 06 tháng tù

Ngày 22/5/2017 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có quyết

định kháng nghị số 35/QĐ-VKS-P7 kháng nghị một phần bản án sơ thẩm theo

hướng sửa bản án sơ thẩm, xét xử bị cáo Trường theo khoản 1 Điều 138 BLHS

năm 1999.

Tại Bản án số 362/2017/HSPT ngày 25/7/2017 của Tòa án nhân dân thành

phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân

dân thành phố Hồ Chí Minh áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 xử

phạt Lê Nhật Trường 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Qua vụ án trên thấy rằng, từ năm 2002 đến năm 2012 bị cáo Trường có 05

lần phạm tội bị đưa ra xét xử nhưng có 02 lần bị cáo phạm tội với các tội danh

khác nhau và đến năm 2015 bị cáo Trường đã được xóa án tích đối với các bản

án xét xử trước đó. Đến năm 2016, tuy bị cáo đã 03 lần phạm tội "Trộm cắp tài

sản" nhưng khi phạm tội bị cáo có nghề nghiệp làm thuê. Theo quy định tại

điểm a,b tiểu mục 5.1 mục 5; Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày

12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: Chỉ áp

41

dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" khi có đầy đủ các điều

kiện sau: Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân

biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình

sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án

tích; Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết

quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Như vậy, căn cứ vào quy định

này thì hành vi của bị cáo Lê Nhật Trường vẫn chưa thỏa mãn yếu tố cấu thành

tình tiết định khung hình phạt "Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp". Do đó,

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trường theo điểm b khoản 2 Điều 138 BLHS

năm 1999 đã gây bất lợi cho bị cáo.

Hai là: Bỏ sót tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hinhf

phạt.

Vụ án Từ Thanh Tường và đồng phạm phạm tội “Trộm cắp tài sản” chứng

minh cho sai sót trên. Vụ án có nội dung: Từ Thanh Tường, Võ Trịnh Văn Ni,

Nguyễn Thanh Phúc, Nguyễn Chí Kiệt quen biết nhau từ trước, Tường và Phúc

đều là nam giả nữ. Do cần tiền tiêu xài, Tường cùng Ni, Phúc cùng Kiệt đã thực

hiện hành vi trộm cắp tài sản với thủ đoạn giả gái bán dâm. Khi thỏa thuận đưa

khách nam vào khách sạn, lợi dụng khách vào trong toilet để tắm, áo quần có tài

sản để bên ngoài thì Tường, Phúc lén lút trộm cắp tài sản của khách (bóp tiền, điện

thoại di động…) chạy ra ngoài khách sạn để Ni, Kiệt dùng xe máy chở tẩu thoát.

Tường với Ni, Phúc với Kiệt thống nhất tiền và tài sản trộm được sẽ bán lấy tiền

chia theo tỉ lệ 70% và 30%. Kết quả điều tra xác định Tường, Ni, Phúc, Kiệt thực

hiện các vụ trộm cắp tài sản cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ ngày 09/02/2019, Nguyễn Thanh Phúc điều

khiển xe mô tô chở Từ Thanh Tường đến ngã tư Bình Long – Lê Thiệt. Đến

khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, anh Trần Đạt Thành thỏa thuận mua dâm Từ

Thanh Tường với giá 250.000 đồng. Anh Thành chở Tường đến khách sạn Hồng

42

Hạnh tại số 45 Thoại Ngọc Hầu, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú thuê phòng

202. Nguyễn Thanh Phúc chạy xe máy theo phía sau đứng bên ngoài chờ sẵn. Tại

phòng 202, lợi dụng lúc anh Thành vào nhà vệ sinh tắm, Tường lục quần áo của

anh Thành lấy được 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro và số tiền

2.100.000 đồng sau đó chạy ra khỏi khách sạn để Phúc chạy xe chở Tường tẩu

thoát. Ngày 10/02/2019, Tường và Phúc mang chiếc điện thoại trộm được đến cửa

hàng điện thoại Nhật Quang, số 1601 Đường 3/2, phường 16, Quận 11 bán cho

Phạm Văn Bảy thu được 2.000.000 đồng. Số tiền có được Tường chia cho Phúc

1.200.000 đồng còn 2.900.000 đồng Tường giữ tiêu xài cá nhân. Theo định giá, 01

điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro trị giá 1.800.000 đồng

Vụ thứ hai: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 10/4/2019, Võ Trịnh Văn Ni điều

khiển xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 59H1-917.01 đến nhà của Từ Thanh

Tường tại 40D Hoài Thanh, phường 14, Quận 8. Ni chở Tường đến trước số 332

Bình Long, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú để tìm khách mua dâm. Khoảng

21 giờ 00 cùng ngày, Tường gặp anh Phạm Huỳnh Việt Long. Cả hai thỏa thuận

mua dâm với giá 250.000 đồng. Long chở Tường đến khách sạn Hồng Hạnh thuê

phòng 202. Ni chạy theo phía sau đứng bên ngoài khách sạn chờ. Khi vào phòng,

anh Long cởi quần áo, điện thoại và bóp tiền để bên ngoài rồi vào nhà vệ sinh.

Thấy vậy, Tường liền lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S và bóp tiền

bên trong có 3.050.000 đồng thì bị bắt giữ cùng tang vật. Theo định giá, điện thoại

di động hiệu Oppo F1S trị giá 2.000.000 đồng

Vụ thứ ba: Khoảng 20 giờ ngày 09/02/2019, Nguyễn Thanh Phúc điều

khiển xe mô tô chở Từ Thanh Tường đến ngã tư Bình Long – Lê Thiệt. Đến

khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, anh Trần Đạt Thành thỏa thuận mua dâm Từ

Thanh Tường với giá 250.000 đồng. Anh Thành chở Tường đến khách sạn Hồng

Hạnh tại số 45 Thoại Ngọc Hầu, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú thuê phòng

202. Nguyễn Thanh Phúc chạy xe máy theo phía sau đứng bên ngoài chờ sẵn. Tại

43

phòng 202, lợi dụng lúc anh Thành vào nhà vệ sinh tắm, Tường lục quần áo của

anh Thành lấy được 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro và số tiền

2.100.000 đồng sau đó chạy ra khỏi khách sạn để Phúc chạy xe chở Tường tẩu

thoát. Ngày 10/02/2019, Tường và Phúc mang chiếc điện thoại trộm được đến cửa

hàng điện thoại Nhật Quang, số 1601 Đường 3/2, phường 16, Quận 11 bán cho

Phạm Văn Bảy thu được 2.000.000 đồng. Số tiền có được Tường chia cho Phúc

1.200.000 đồng còn 2.900.000 đồng Tường giữ tiêu xài cá nhân. Theo định giá, 01

điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro trị giá 1.800.000 đồng.

Ngoài ra, các bị can Từ Thanh Tường, Nguyễn Thanh Phúc, Nguyễn Chí

Kiệt, Võ Trịnh Văn Ni còn khai nhận với cùng thủ đoạn như trên:

Từ đầu tháng 3 đến đầu tháng 4 năm 2019 (không nhớ rõ ngày), Phúc và

Kiệt đã 01 lần lấy 350.000 đồng của 01 khách (chưa rõ lai lịch) tại khách sạn

Hoàng Yến và 03 lần khác lấy trộm tài sản của các khách mua dâm (chưa rõ lai

lịch) tại khách sạn Hồng Hạnh với tài sản chiếm đoạt lần lượt là 350.000 đồng,

800.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung. Đối với hiếc điện thoại hiệu

Samsung Phúc và Kiệt đem đến cửa hàng Nhật Quang bán cho Phạm Văn Bảy với

giá 1.500.000 đồng.

Tại Bản án số: 89/2019/HSST ngày 30/7/2019 của Tòa án nhân dân quận

Tân Phú, Hội đồng xét xử nhận định: “Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn

Thanh Phúc và Từ Thanh Tường đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản

nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều

52 Bộ luật hình sự…

Tuy nhiên, cũng xem xét các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn

năn hối cải nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo theo điểm s khoản 1

Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 khi lượng hình. Riêng bị cáo Từ Thanh

Tường đã khắc phục hậu quả, bồi thường cho người bị hại và người bị hại đã

làm đơn bãi nại cho bị cáo nên xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo

44

theo điểm b khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Võ Trịnh Văn Ni phạm

tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên xem xét giảm nhẹ cho bị

cáo theo điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự...”

Hội đồng xét xử đã tuyên Nguyễn Thanh Phúc, Từ Thanh Tường,

Nguyễn Chí Kiệt, Võ Trịnh Văn Ni phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1

Điều 52 BLHS năm 2015 xử phạt Nguyễn Thanh Phúc 02 năm tù;

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51,

điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 xử phạt Từ Thanh Tường 01 năm tù

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 xử

phạt Nguyễn Chí Kiệt 01 năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm

2015 xử phạt bị cáo Trị Võ Văn Ni 09 tháng tù.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Võ Trịnh Văn Ni, Nguyễn Chí Kiệt và

Từ Thanh Tường có đơn kháng cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt. Riêng

bị cáo Nguyễn Thanh Phúc không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng

nghị

Tại Bản án số 549/2019/HS-PT, ngày 19/11/2019 Tòa án nhân dân thành

phố Hồ Chí Minh chấp nhận một phần kháng cáo của Nguyễn Chí Kiệt, Võ

Trịnh Văn Ni. Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1

Điều 51 BLHS năm 2015 xử phạt Nguyễn Chí kiệt 09 tháng tù; Áp dụng khoản

1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm

2015 xử phạt bị cáo Võ Trịnh Văn Ni 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Áp

dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1

Điều 52 BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Từ Thanh Tường 01 năm tù.

Qua vụ án trên thấy rằng, hầu hết các quyết định của Tòa án nhân dân

quận Tân Phú là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, về phần nhận định đối

45

với bị cáo Nguyễn Chí Kiệt chưa đúng vì trong vụ án này Kiệt chỉ thực hiện

hành vi phạm tội một lần vào ngày 10/4/2019, còn lời khai đối với các lần trộm

cắp từ tháng 3 đến tháng 4/2019 do chưa xác định được bị hại, đang tiếp tục

điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51

BLHS 2015 là có thiếu sót. Tuy nhiên, qua lời khai cho thấy nhân thân của bị

cáo Kiệt không tốt, chỗ ở chưa ổn định nên không đủ điều kiện được hưởng án

treo. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã giảm một phần hình phạt cho bị cáo Kiệt

nhưng không cho hưởng án treo là có căn cứ.

Đối với bị cáo Võ Trịnh Văn Ni mới phạm tội lần đầu và thuộc trường

hợp ít nghiêm trọng nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51

Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng. Tuy nhiên, bị cáo Ni có nhân thân tốt, có

nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian tại ngoại bị cáo

đã chấp hành tốt quy định của pháp luật, bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc

cho bị cáo được hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên không cần thiết cách ky bị

cáo ra khỏi xã hội cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo. Do đó, Tòa án cấp

phúc thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo kèm

thời gian thử thách là đúng theo quy định của pháp luật.

Qua bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Tân Phú cho thấy, Hội

đồng xét xử chưa đánh giá đúng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,

nhân thân người phạm tội để áp dụng cho các bị cáo, từ đó đưa ra mức hình

phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội.

Ba là : Tổng hợp hình phạt không đúng, điển hình vụ án Lê Thị Thanh

Tâm phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Nội dung vụ án như sau: Ngày 10/8/2017 Lê Thị Thanh Tâm thực hiện

hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe gắn máy biển số 51U1-4744 trị giá 7.000.000

46

đồng của chị Hoàng Thị Minh Huyền tại trước số 70 Lê Niệm, phường Phú

Thạnh, quận Tân Phú.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú ra

Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối Tâm. Đến ngày 14/10/2017 Tâm tiếp tục thực

hiện hành vi lén lút lấy trộm chiếc xe mô tô biển số 52T7-0637, trị giá

8.000.000 đồng của anh Huỳnh Văn Hài tại địa bàn quận Bình Tân thì bị bắt

quả tang. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân ban hành các quyết

định tạm giữ, tạm giam để điều tra từ ngày 15/10/2017.

Tại Bản án số 183/2017/HSST ngày 09/11/2017 của Tòa án nhân dân

quận Bình Tân áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều

46; khoản 2 Điều 60 BLHS năm 1999 xử phạt Lê Thanh Tâm 09 tháng tù, cho

hưởng án treo về tội "Trộm cắp tài sản". Đồng thời Tòa án nhân dân quận Bình

Tân trả tự do cho bị cáo ngay tại tòa.

Ngày 10/11/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú thực

hiện lệnh bắt tạm giam bị can để điều tra vụ án xảy ra ngày 10/8/2017.

Tại Bản án số 23/2018/HSST ngày 14/3/2018 Tòa án nhân dân quận Tân

Phú xử phạt Lê Thị Thanh Tâm 12 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản",

đồng thời chuyển 09 tháng tù cho hưởng án treo theo Bản án số

183/2017/HSST ngày 09/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân thành 09

tháng tù giam và tổng hợp hình phạt, buộc Lê Thị Thanh Tâm chấp hành 21

tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2017.

Ngày 25/3/2018 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị

Bản án sơ thẩm số 23/2018/HSST ngày 14/3/2018 của Tòa án nhân dân quận

Tân Phú theo hướng sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm về phần tổng hợp

hình phạt buộc bị cáo Lê Thị Thanh Tâm phải chấp hành song song mức hình

phạt 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2017 tại Bản án hình sự sơ thẩm

số 23/2018/HSST ngày 14/3/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú và mức

47

hình phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm

06 tháng kể từ ngày 09/11/2017 tại Bản án hình sự sơ thẩm số 183/2017/HSST

ngày 09/11/2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí

Minh đã chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí

Minh

Qua vụ án trên thấy rằng, hành vi phạm tội của bị cáo Tâm tại địa bàn

quận Tân Phú xảy ra trước nhưng xét xử sau, còn hành vi phạm tội của bị cáo

Tâm tại địa bàn quận Bình Tân xảy ra sau nhưng xét xử trước, do đó Tòa án

nhân dân quận Tân Phú tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Tâm chấp hành hình

phạt chung cả hai bản án là 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2017 là

không đúng quy định pháp luật vì bị cáo Tâm không phạm tội trong thời gian

thử thách. Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2018/HSST ngày 14/3/2018 ngày

14/3/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú đã vi phạm khoản 5 Điều 65

BLHS năm 2015 và Điều 7 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013

của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

2.4. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú

2.4.1. Những mặt làm được:

Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, công tác giải quyết án hình

sự của Tòa án nhân dân quận Tân Phú đã góp phần quan trọng vào việc phân

hóa tội phạm với một chính sách nhất quán và rõ ràng: Nghiêm trị đối với

những bị cáo chủ mưu, cầm đầu, ngoan cố chống đối, khoan hồng với những bị

cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Vì vậy việc áp dụng pháp luật hình sự

về các tội phạm nói chung và tội trộm cắp nói riêng của Tòa án nhân dân quận

Tân Phú trong những năm qua đã đạt được những kết quả nhất định.

48

Từ năm 2015 đến năm 2019 Toà án nhân dân quận Tân Phú đã xét xử các

vụ án trộm cắp tài sản không để xảy ra oan, bỏ lọt tội phạm, án hủy, sửa được

hạn chế tối đa. Nhìn chung áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân quận

Tân Phú đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp

pháp của người phạm tội khi tham gia tố tụng. Việc Áp dụng pháp luật về nội

dung đã bảo đảm xét xử đúng tội danh và áp dụng hình phạt tương đối phù hợp.

Đây là những ưu điểm cơ bản của Toà án nhân dân quận Tân Phú trong áp dụng

pháp luật xét xử các vụ án trộm cắp tài sản.

Số lượng vụ án trộm cắp tài sản Tòa trả hồ sơ để điều tra bổ sung không

nhiều, tuy nhiên quá trình nghiên cứu hồ sơ các Thẩm phán đã phát hiện, trao

đổi kịp thời với Kiểm sát viên để khắc phục các thiếu sót. Công tác chuẩn bị xét

xử cũng được các Thẩm phán chú trọng nên không có trường hợp nào bị hoãn

phiên tòa vì lý do thành phần Hội đồng xét xử không đảm bảo hoặc người tham

gia tố tụng không đúng quy định. Các sai sót, hạn chế chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong

tổng số các bản án về tội trộm cắp tài sản là tội phạm có tính phổ biến nên

những người tiến hành tố tụng do áp dụng thường xuyên nên đều nắm vững các

các dấu hiệu pháp lý của tội này nên đa số áp dụng đúng quy định, bảo đảm

không làm oan người vô tội, hạn chế thấp nhất tình trạng xét xử sai, phát huy

được tính giáo dục, phòng ngừa tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói

riêng.

2.4.2. Những mặt thiếu sót, hạn chế:

Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, hoạt động áp dụng PLHS cũng

còn một số thiếu sót nhất định. Mặc dù những thiếu sót này không gây ra những

hậu quả nặng nề như việc buộc một người vô tội phải chịu TNHS song không vì

thế mà nó ít nghiêm trọng hơn. Những quy định của pháp luật hình sự (PLHS)

và tố tụng hình sự (TTHS) không chỉ là những mô hình pháp lý thuần túy mà

còn quy định cả tiến trình chuyển hóa những mô hình pháp lý này thành những

49

quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể nên những thiếu sót dù thuộc bất cứ dạng nào

xét đến cùng cũng bắt nguồn từ việc vi phạm những quy định của pháp luật. Về

cơ bản, những thiếu sót trong quá trình áp dụng những quy định cụ thể về tội

phạm và hình phạt có thể được khái quát hóa như sau:

Định tội danh sai

Định tội danh sai trong thực tiễn áp dụng PLHS là việc Cơ quan điều tra

(CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án nhân dân (TAND) đã định tội danh

không đúng với hành vi phạm tội đã thực hiện. Có lẽ đây là sai lầm phổ biến

hơn trong các sai lầm liên quan đến định tội danh. Về mặt lý luận, sai lầm này

có thể được khái quát hóa là trường hợp một người thực hiện một tội phạm nhất

định nhưng CQĐT, VKS và TAND lại cho rằng hành vi mà người đó thực hiện

lại phù hợp với CTTP khác, ví dụ điển hình được nêu trong vụ án "Đào Văn

Thắng" ở trên thể hiện rõ vấn đề này.

Quyết định hình phạt quá nặng

QĐHP quá nặng không phải là trường hợp phổ biến trong thực tiễn xét

xử. Tuy nhiên như đã được phân tích ở phần trên, việc QĐHP theo chiều hướng

tăng nặng đối với người phạm tội, không phù hợp với những yêu cầu của các

căn cứ QĐHP là điều hết sức nguy hiểm. Tại bản án số 59/2017/HSST ngày

28/4/2017 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, việc Tòa quyết định sai hình

phạt theo khoản 2 đối với Lê Nhật Trường đã gây bất lợi cho bị cáo nên bản án

phúc thẩm đã xét xử về khung nhẹ hơn khung cấp sơ thẩm đã xét xử, giảm mức

hình phạt cho bị cáo từ 03 năm 06 tháng tù xuống còn 02 năm tù.

Quyết định hình phạt quá nhẹ

QĐHP quá nhẹ là trường hợp ngược lại của trường hợp QĐHP quá nặng.

Trong thực tế, những sai lầm của Tòa án thuộc loại này được tổng kết cho thấy

đa phần là QĐHP quá nhẹ cho người phạm tội. Chẳng hạn:

50

Nội dung vụ án như sau: Khoảng 14 giờ ngày 13/02/2019, Vũ Trọng

Nghĩa đã có hành vi trộm cắp 01 xe gắn máy hiệu Honda Blade biển số 68T1-

372.81 trị giá 15.000.000 đồng của chị Vũ Tuyết Nhi tại số 130 Vườn Lài,

phường Tân Thành, quận Tân Phú.

Về nhân thân bị cáo Nghĩa có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản được xóa

án tích.

Tại bản án số 73/2019/HSST ngày 08/5/2019 của Tòa án nhân dân quận

Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh, áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1

Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vũ Trọng

Nghĩa 06 tháng tù

Theo quan điểm của tác giả, mức hình phạt Tòa tuyên như trên là quá

nhẹ, chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm về hành vi phạm tội của

bị cáo.

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong định tội danh và quyết

định hình phạt về tội Trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú

Định tội danh và quyết định hình phạt là một quá trình phức tạp, để định

tội danh và quyết định hình phạt đúng không chỉ đòi hỏi phải có một hệ thống

hệ thống pháp luật hoàn chỉnh mà cần phải có đội ngũ cán bộ công tác trong

hoạt động áp dụng pháp luật hình sự “vừa hồng, vừa chuyên”. Thực tiễn cho

thấy có rất nhiều bản án công minh, khách quan, toàn diện, xét xử đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, tuy nhiên bên cạnh đó cũng có không ít các bản án sai

lầm trong quá trình áp dụng PLHS. Quá trình nghiên cứu, tác giả đã tổng hợp

nguyên nhân của những khó khan, vướng mắc, sai lầm trong định tội danh và

quyết định hình phạt như sau:

Một là: Các văn bản hướng dẫn về các tội xâm phạm sở hữu nói chung

và tội trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS năm 2015 chưa rõ ràng cụ thể,

còn nhiều bất cập, vướng mắc nhưng chưa được hướng dẫn, giải thích hoặc có

51

hướng dẫn nhưng nằm rải rác trong các văn bản khác nhau dẫn đến khó khăn,

lúng túng trong áp dụng pháp luật hình sự, chẳng hạn như:

- Tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 BLHS 2015 không mô tả dấu

hiệu của hành vi khách quan gây khó khăn cho việc xác định đúng tội danh dẫn

đến khó phân biệt rõ hành vi với một số tội có dấu hiệu cấu thành gần giống

nhau, ví dụ như tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản…

- Một số tình tiết để xác định dấu hiệu định tội trộm cắp tài sản chưa rõ

ràng, chưa có hướng dẫn cụ thể, ví dụ như “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh,

trật tự, an toàn xã hội” quy định tình tiết này mang tính đánh giá, tùy nghi của

các cơ quan áp dụng pháp luật, trong thực tế tình tiết này rất ít khi được áp dụng

vì đây là tình tiết được quy định để định tội danh ở khoản 1 Điều 173 BLHS

năm 2015 khi người chiếm đoạt tài sản của người giá trị dưới 2.000.000 đồng,

nhưng để xác định như thế nào là gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an

toàn xã hội thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến mỗi cơ quan tố tụng,

người áp dụng pháp luật có cách đánh giá khác nhau, vì vậy để áp dụng tình tiết

này để định tội danh thì người áp dụng pháp luật rất cân nhắc và thực tế tình tiết

này cũng rất ít khi được áp dụng để định tội danh trộm cắp tài sản.

Khoản 2 Điều 173 BLHS quy định tình tiết “Hành hung để tẩu thoát” là

tình tiết định khung tội trộm cắp tài sản đồng thời cũng là tình tiết để xác định

chuyển hóa tội phạm từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp giật tài sản, để xác

định trường hợp này, chúng ta căn cứ vào hướng dẫn tại mục 6 phần I của

Thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày

25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các

tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 quy định, tuy nhiên hướng dẫn này

còn nhiều bất cập khi áp dụng trong thực tế đặc biệt là vấn đề chuyển hóa tội

phạm. Tại tiểu mục 6.2, mục 6 phần I của Thông tư liên tịch 02/2001 quy định

“Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được

52

tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội

tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại

hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không

phải là “hành hung để tẩu thoát” mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội

cướp tài sản”, quy định này gây khó hiểu bởi vì sau khi chiếm đoạt được tài sản

thì người phạm tội bị giành lại tài sản thì trong trường hợp này người phạm tội

dung vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm “giữ cho được tài sản và

tẩu thoát” chứ không phải “chiếm đoạt cho được tài sản” vì hành chiếm đoạt

lúc này đã thực hiện xong.

Hai là: Khung hình phạt được quy định trong BLHS nói chung và Điều

173 BLHS năm 2015 nói riêng tương đối rộng - tức là có khoảng cách khá lớn

từ mức tối thiểu đến mức tối đa của một loại hình phạt, vì vậy việc QĐHP đúng

trong rất nhiều trường hợp là hết sức khó khăn để có thể xác định một cách

chính xác mức hình phạt cụ thể đối với hành vi phạm tội

Ba là: Trong những năm gần đây, mặc dù năng lực chuyên môn của đội

ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ngày càng được nâng cao nhưng vẫn chưa

đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ hiện nay, nhất là trong tình hình tội phạm ngày

càng nhiều, phức tạp, tính chất mức độ ngày càng nguy hiểm. Bên cạnh đó, ý

thức trách nhiệm của một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chưa cao, khi được

phân công giải quyết vụ án đã không nghiên cứu kỹ hồ sơ, không nghiên cứu

các quy định mới của BLHS năm 2015 và các văn bản có liên quan đến giải

quyết vụ án, không xem xét toàn diện các chứng cứ trong vụ án, chỉ chú trọng

lời khai của người thực hiện hành vi phạm tội mà không chú trọng lời khai của

người bị hại, người làm chứng hoặc ngược lại, trong một số vụ án các tài liệu,

chứng cứ còn nhiều mâu thuẫn nhưng không được kiểm tra, đánh giá kỹ nên

dẫn đến xác định không đúng các tình tiết định tội, định khung cũng như quyết

định phạt không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội.

53

Bốn là: Số lượng án hình sự nói chung và án trộm cắp tài sản nói riêng

trên địa bàn quận Tân Phú ngày càng tăng và phức tạp nên cần nhiều người để

thực hiện nhiệm vụ xét xử cũng như cần nhiều thời gian để nghiên cứu hồ sơ,

tuy nhiên biên chế hàng năm của các cơ quan tố tụng luôn thiếu đồng thời họ

còn phải kiêm nhiệm nhiều khâu công tác khác, them vào đó cơ sở vật chất còn

thiếu thốn không đảm bảo điều kiện làm việc cho cán bộ công chức, phương

tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác chưa đáp ứng yêu cầu, do đó đã ảnh hưởng

đến chất lượng áp dụng pháp luật hình sự nói chung, áp dụng pháp luật hình sự

đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng.

54

Tiểu kết Chương 2

Qua khái quát tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn quận Tân Phú, thành

phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019 theo số liệu báo cáo thống kê

cũng như qua thực tiễn xét xử của TAND quận Tân Phú thấy rằng số lượng án

trộm cắp tài sản ngày càng tang, tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao.

Tuy nhiên, với đội ngũ cán bộ công chức có trình độ chuyên môn vững và tinh

thần ý thức trách nhiệm cao nên đã đạt được nhiều kết quả trong hoạt động áp

dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản, được thể hiện qua hầu hết

các bản án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xử oan người vô

tội, không bỏ lọt tội phạm, các quyết định hình phạt đúng pháp luật đã góp phần

quan trọng vào việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninhh chính

trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

cá nhân, của tổ chức. Bên cạnh đó, từ thực tiễn cho thấy còn nhiều khó khăn,

vướng mắc và sai lầm trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

trộm cắp tài sản. Do đó, đã có trường hợp bỏ lọt tội phạm, xử đúng tội danh

nhưng sai khung hình phạt, quyết định hình phạt chưa đúng quy định pháp luật.

Nguyên nhân của những hạn chế trên là do pháp luật hình sự còn nhiều quy

định chưa rõ ràng nhưng chưa có văn bản hướng dẫn; năng lực chuyên môn

nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của một số cán bộ áp dụng pháp luật còn hạn

chế…

Chính vì những thực trạng và nguyên nhân nêu trên là lý do để chúng ta

nghiên cứu và đưa ra các yêu cầu cũng như giải pháp nhằm áp dụng pháp luật

đúng về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Phú sẽ được trình bày ở

Chương 3 của Luận văn.

55

Chương 3

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI

TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN TÂN PHÚ

3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội

trộm cắp tài sản

Áp dụng pháp luật nói chung và ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản nói

riêng một cách đúng đắn có ý nghĩa vô cùng quan trọng để pháp luật đi vào

cuộc sống. Để đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự trong giai đoạn xét xử

đối với tội trộm cắp tài sản đòi hỏi có tính nguyên tắc xuất phát từ:

Thứ nhất, yêu cầu bảo đảm thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp

năm 2013 và Bộ luật hình sự về quyền con người và quyền cơ bản của công

dân

Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng… là

những quyền cơ bản của con người được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013

của nước ta đồng thời Hiến pháp năm 2013 là căn cứ pháp lý cao nhất để bảo vệ

quyền con người còn pháp luật hình sự cụ thể hóa việc bảo vệ quyền con người

và quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định theo đó các quyền

và tự do cơ bản của con người với mục tiêu và quan trọng nhất là tiếp tục phát

huy dân chủ, bảo đảm chủ quyền nhân dân, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền

con người. Hiến pháp năm 2013 quy định chủ thể quyền không chỉ là công dân

mà quyền của con người, của mọi người. Như vậy, những quyền được quy định

trong Hiến pháp không chỉ công dân Việt Nam mà tất cả mọi người, mỗi người

với tư cách thành viên xã hội, người nước ngoài có mặt trên lãnh thổ Việt Nam

cũng được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo đảm.

56

BLHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 đã quy định: “Bộ luật hình

sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ

xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng

giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự

pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo

pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.” Quy định này đã khẳng

định bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một trong những nhiệm vụ

quan trọng của luật hình sự. BLHS năm 2015 đã quy định nhiều vấn đề thể hiện

tinh thần nhân đạo sâu sắc như tuổi chịu trách nhiệm hình sự, các biện pháp áp

dụng kèm theo miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi, tha tù trước thời hạn có

điều kiện,…những vấn đề này khi được áp dụng trên thực tiễn thì chúng sẽ đi

vào cuộc sống.

Thứ hai, yêu cầu cụ thể hóa được chủ trương chính sách của Đảng và

Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống đối với tội trộm cắp tài sản

Lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền với các yêu cầu và đặc điểm

của nó từ các Nhà nước tư sản đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào điều kiện

Việt Nam: Nhà nước pháp quyền mà chúng ta xây dựng là nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Xuất phát từ việc xác định Nhà

nước pháp quyền phải là một nhà nước có hệ thống pháp luật minh bạch, hoàn

chỉnh, đồng bộ, khả thi, có chất lượng, mọi công dân sống, làm việc theo pháp

luật. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến xử lý tội phạm nói

chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng bằng cách đã đề ra nhiều chủ trương, chính

sách nhằm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm này và được thể hiện

qua hàng loạt các Nghị quyết, các văn bản pháp luật, trong đó có BLHS với

những quy định mới về tội trộm cắp tài sản cho phù hợp với thực tiễn.

Thứ ba: Yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

57

Cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa luôn là nội dung được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt

quan tâm. Thời gian qua, hoạt động cải cách tư pháp đã đạt được nhiều thành

tựu quan trọng, đạt đến những bước phát triển mới, tạo nên những tiền đề và

cũng là những thách thức lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, đòi hỏi phải có những

điều chỉnh mang tính cải cách đối với tư pháp hình sự từ nhiệm vụ, thẩm quyền

của các chủ thể tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bên cạnh đó,

công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập về hệ thống hình phạt trong

BLHS, chính sách hình sự...Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt

động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu;

trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm

chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp

nên vẫn còn xảy ra tình trạng xét xử chưa đúng tội danh và quyết định hình phạt

còn mang tính chủ quan.

Trước tình hình trên nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện

công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới thì công tác tư pháp trong thời gian tới phải ngăn ngừa có hiệu quả

và xử lý kịp thời nhằm bảo vệ trật tự kỷ cương, bảo đảm và tôn trọng quyền dân

chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân đồng thời Nghị quyết

08-NQ/TW của Bộ chính trị cũng đã chọn cải cách Tòa án là khâu đột phá trong

cải cách tư pháp, bảo đảm toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và

nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của toà án sơ thẩm và toà án phúc

thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử. Nghị quyết 49-NQ/TW về cải cách

tư pháp được triển khai theo 4 định hướng cơ bản: hoàn thiện thể chế hình sự,

dân sự, thủ tục tư pháp; cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ

trợ tư pháp mà trung tâm là tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân

58

chủ; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp,

nhất là cán bộ có chức danh tư pháp; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Vì vậy, việc đẩy mạnh

cải cách tư pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa vẫn đang được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết.

Thứ tư: Yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu của lịch sử, quá trình hội nhập

đã tác động mạnh mẽ mối quan hệ quốc tế và nhiều mặt đời sống xã hội của đất

nước, là điều kiện, cơ hội, động lực cho sự phát triển ổn định, lâu dài và bền

vững của nước ta. Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình hội nhập quốc tế

thì nước ta phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó có sự gia

tăng về tội phạm tổ chức xuyên quốc gia…Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải

xác định chính xác những hành vi phạm tội, xác định đúng tội danh, quyết định

hình phạt đúng và xử lý kịp, nghiêm minh những tội phạm đó đồng thời phải

đảm bảo phù hợp với các thỏa thuận mà nước ta đã ký kết nhằm bảo vệ pháp lý,

bảo vệ an ninh, trật tự trong nước và tạo điều kiện mở rộng hội nhập quốc tế.

Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi mức độ cam kết tham

gia hội nhập ngày càng cao về phạm vi và mức độ hội nhập. Vì vậy, phải chủ

động xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện khuôn khổ hành lang pháp lý trong nước

để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động hợp tác quốc tế trong phòng

chống tội phạm đồng thời hỗ trợ và tận dụng tốt nhất các cơ hội, điều kiện quốc

tế mà tiến trình hội nhâp quốc tế mang lại.

Thứ năm: Yêu cầu của thực tiễn

Trong thời gian qua, hoạt động ADPLHS đối với tội Trộm cắp tài sản nói

riêng của ngành Tòa án nhân dân quận Tân Phú đã đạt được nhiều kết quả, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, lợi ích Nhà nước góp

phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính tri, trật tự an toàn xã hội, đáp

59

ứng được phần nào yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Đa số các Thẩm

phán làm công tác xét xử có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt,

có bản lĩnh chính trị vững vàng và tinh thần trách nhiệm cao trong công tác,

thông qua hoạt động áp dụng pháp luật đã phần nào phát hiện ra những thiếu sót

bất cập của pháp luật hình sự và pháp luật khác có liên quan để đóng góp ý kiến

kịp thời để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với yêu

cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử tội

Trộm cắp tài sản nói riêng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, sai sót do lỗi chủ

quan của Thẩm phán. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố

tụng, đặc biệt cơ quan Toà án là phải kịp thời khắc phục những hạn chế trong

hoạt động xét xử, đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật đạt chất lượng, đạt hiệu

quả cao để pháp luật ngày càng đi vào cuộc sống, củng cố lòng tin của nhân dân

vào đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

3.2. Các giải pháp đảm bảo chất lượng áp dụng đúng pháp luật hình

sự đối với tội trộm cắp tài sản

Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo

tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020, đòi hỏi phải có những giải pháp khắc phục những tồn tại và hạn chế

trong ADPLHS nói chung và ADPLHS đối với tội Trộm cắp tài sản nói riêng

của pháp luật hiện hành nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự góp phần

nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn.

Để bảo đảm chất lượng ADPLHS của Tòa án nhân dân trong giai đoạn

xét xử đối với tội Trộm cắp tài sản thì cần phải tiến hành nhiều giải pháp đồng

bộ và những giải pháp này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành cơ chế

vận hành thúc đẩy hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

60

tố tụng trong hoạt động ADPLHS. Vì vậy, tác giả đưa ra một số các giải pháp

như sau:

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật

Trước hết để áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội Trộm cắp tài sản

cần hoàn thiện hai bộ luật lớn là Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự

nhằm tạo nền tảng vững chắc cho việc áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ

quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân.

* Đối với Bộ luật hình sự:

Bộ luật hình sự năm 2015 là cơ sở pháp lý cho phong trào đấu tranh,

phòng chống tội phạm và có nhiều nội dung mới phù hợp với tình hình, giai

đoạn phát triển của đất nước, tuy nhiên bước đầu áp dụng nên cũng còn một số

khó khăn, vướng mắc liên quan đến định tội danh và quyết định hình phạt đối

với tội trộm cắp tài sản. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự và ban

hành các văn bản hướng dẫn để áp dụng thống nhất.

Thứ nhất: Đối với tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS năm 2015) quy

định: "Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ...". Điều luật cho

thấy chỉ nêu tên tội phạm mà không mô tả dấu hiệu của hành vi khách quan

trong cấu thành tội phạm. Do đó, đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và có

sự nhầm lẫn trong xác định tội danh giữa tội trộm cắp tài sản với một số tội

khác đã được nêu trong Chương 2. Do đó, việc bổ sung, sửa đổi theo hướng mô

tả rõ ràng hành vi phạm tội trộm cắp là hoàn toàn cần thiết đảm bảo phân biệt

giữa tội trộm cắp tài sản với một số tội khác trong BLHS. Như vậy, có thể xây

dựng mô hình cấu thành tội phạm cơ bản ở Khoản 1 Điều 173 BLHS như sau:

"Người nào dùng thủ đoạn lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác hoặc tạo ra sự sơ

hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản mà bí mật chiếm đoạt tài sản đang

do người đó quản lý có giá trị từ..."

61

Với hướng sửa đổi này, hành vi khách quan trong cấu thành tội trộm cắp

tài sản được phản ánh đầy đủ, rõ ràng bản chất của tội trộm cắp tài sản với các

dấu hiệu đặc trưng đó là: Thủ đoạn phạm tội được thể hiện một trong hai dạng,

hoặc là lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác hoặc là tạo ra sự sơ hở, mất cảnh giác của

người quản lý tài sản; Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi

chiếm đoạt tài sản một cách bí mật, lén lút đang do người khác quản lý, trong

đó lén lút, bí mật chỉ tính chất của hành vi chiếm đoạt thuộc phạm trù ý thức

chủ quan của người phạm tội là che giấu việc thực hiện hành vi chiếm đoạt của

mình đối với người quản lý tài sản; Hậu quả về giá trị tài sản chiếm đoạt được

cũng là một dấu hiệu bắt buộc được phản ánh trong cấu thành tội phạm.

Thứ hai: Cần nghiên cứu sửa đổi theo hướng thu hẹp khoảng cách mức

hình phạt trong hình phạt tù có thời hạn.

Theo quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 mức hình phạt tù có thời

hạn tối thiểu là 06 tháng và tối đa là 20 năm. Tuy nhiên, trong điều luật quy

định khoảng cách hình phạt cách nhau quá xa, ví dụ Khoản 3 của Điều luật quy

định mức hình phạt từ 07 năm đến 15 năm đồng thời việc quy định ở Khoản 1

của Điều luật mức hình phạt tối đa là 03 năm nhưng tối thiểu của Khoản 2 thì

chỉ có 02 năm dẫn đến việc có trường hợp người bị kết án ở Khoản 1 chịu mức

hình phạt nặng hơn người bị kết án ở Khoản 2. Việc quy định khung hình phạt

quá rộng thì việc áp dụng hình phạt sẽ không có sự thống nhất cao, đôi khi còn

theo cảm tính của Hội đồng xét xử dẫn đến có trường hợp là có lợi cho người bị

kết án, có trường hợp lại bất lợi cho người bị kết án, không đảm bảo tính công

bằng trong Luật hình sự Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu để thu hẹp khoảng

cách các khung hình phạt theo hướng bổ sung thêm các khung hình phạt mới là

nhu cầu cấp thiết để việc áp dụng hình phạt được thống nhất và bảo đảm tính

công bằng trong pháp luật hình sự Việt Nam.

62

Thứ ba: Cần ban hành các văn bản hướng dẫn, giải thích các dấu hiệu

pháp lý để phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội, vì giữa các cơ quan tiến

hành tố tụng thường có các quan điểm khác nhau về định tội danh giữa các tội

này như: giữa tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm

dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản.

Thứ tư: Điều 173 BLHS năm 2015 bổ sung thêm tình tiết “Gây ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn, xã hội” là tình tiết định tội, tuy nhiên

tình tiết này mang tính đánh giá nên có nhiều cách hiểu khác nhau và rất khó

xác định, do đó cần phải hướng dẫn để áp dụng thống nhất

Thứ năm: Hướng dẫn rõ hơn về chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang

tội cướp tài sản cũng như phân biệt với tình tiết “Hành hung để tẩu thoát”. Tuy

vấn đề này đã được hướng dẫn tại mục 6 phần I của Thông tư liên tịch

02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc

hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở

hữu” của BLHS năm 1999 nhưng nội dung hướng dẫn chưa đầy đủ, rõ ràng và

cụ thể đồng thời trong khi chúng ta đang áp dụng BLHS năm 2015 nhưng

hướng dẫn này thì áp dụng cho BLHS năm 1999. Do đó, cần thiết phải thay thế

thông tư mới cho phù hợp với quy định tại BLHS năm 2015 đồng thời để tránh

mâu thuẫn trong nhận thức cần phải hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn, dễ

hiểu, dễ áp dụng và tránh chồng chéo, trong đó có tổng hợp và kế thừa những

nội dung đúng, phù hợp trong các văn bản hướng dẫn cũ.

Thứ sáu: Khoản 5 Điều 173 BLHS quy định hình phạt tiền là hình phạt

bổ sung, tuy nhiên trên thực tế việc áp dụng còn mang tính tùy nghi, chưa thống

nhất trong từng vụ án và tùy vào cách đánh giá của từng Thẩm phán, có trường

hợp Hội đồng xét xử không cân nhắc đến khả năng tài chính của người phạm

tội dẫn đến áp dụng hình phạt tiền chưa đúng với tính chất là hình phạt bổ sung.

Do đó, cần có hướng dẫn cụ thể áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền

63

trong những trường hợp nào được áp dụng để thể hiện tính nghiêm minh của

pháp luật đồng thời tạo sự thống nhất giữa quy định tại phần chung và phần các

tội phạm cụ thể trong BLHS năm 2015.

* Đối với Bộ luật tố tụng hình sự:

Giới hạn xét xử của Tòa án được quy định tại Điều 298 BLTTHS năm

2015 có những điểm mới so với bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đó là ngoài

việc Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát

đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội

mà VKS đã truy tố thì Tòa án còn có thể xét xử về tội danh nặng hơn. Quy định

này của BLTTHS năm 2015 phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và tinh thần cải

cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết của Bộ chính trị đồng thời

cũng tháo gỡ không ít khó khăn trong thực tiễn xét xử của Tòa án, bảo đảm sự

độc lập của Tòa án trong xét xử. Như vậy, quy định này đã mở rộng giới hạn

xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, quy định này đã bộc lộ bất cập sau:

Trong trường hợp Tòa án xét xử bị cáo về một tội danh nặng hơn Quyết định

truy tố của VKS và tội danh nặng hơn này không thuộc thẩm quyền xét xử của

Tòa án cấp huyện thì Tòa án ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung cho VKS

đã truy tố để chuyển VKS có thẩm quyền truy tố về tội danh nặng hơn theo quy

định tại khoản 1 Điều 274 BLTTHS năm 2015. Trường hợp, nếu VKS đã truy

tố không đồng ý thay đổi tội danh, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và không

ban hành quyết định chuyển vụ án lên VKS cấp trên có thẩm quyền mà trả lại

hồ sơ cho Tòa án cấp huyện thì Tòa án cấp huyện sẽ xử lý như thế nào trong khi

Điều 275 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định giải quyết tranh chấp về thẩm quyền

xét xử giữa các TAND cấp huyện trong cũng một tỉnh và giữa các TAND cấp

huyện của các tỉnh khác nhau, giữa các TAND cấp tỉnh khác nhau, Tòa án quân

sự cấp quân khu, giữa TAND và Tòa án quân sự mà không quy định thẩm

quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử khi VKS cấp huyện không

64

đồng ý thay đổi tội danh nặng hơn và không chuyển vụ án lên VKS cấp trên để

truy tố theo thẩm quyền. Do đó, cần phải có hướng dẫn cụ thể trong trường hợp

này để Tòa án cấp huyện dễ thực hiện.

3.2.2. Các giải pháp khác

Một là: Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức

cán bộ áp dụng pháp luật

Con người luôn là trung tâm của mọi mối quan hệ xã hội, là chủ thể xây

dựng pháp luật và cũng là chủ thể áp dụng pháp luật, do đó ngoài hệ thống pháp

luật hình sự hoàn thiện thì năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán bộ

áp dụng pháp luật là một trong những nhân tố, điều kiện quan trọng hàng đầu để

áp dụng pháp luật đúng. Vì vậy, tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định

nhiệm vụ "Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh", với tinh

thần thực hiện chủ trương cải cách tư pháp trong những năm qua đã có sự

chuyển biến rõ rệt về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ ADPLHS, đáp ứng

được yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi mới và đáp ứng được yêu cầu

của thực tiễn. Trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là

những chủ thể có trách nhiệm chuyển tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong

pháp luật vào đời sống xã hội thông qua việc giải quyết các vụ án hình sự liên

quan trực tiếp đến lợi ích thiết thân của con người cụ thể. Nếu như "lực" đó

được thể hiện đầy đủ, khách quan, đúng đắn và chính xác qua hoạt động lập

pháp và lập quy nhưng hệ thống chuyển tải nó không tốt thì lực đó không đi vào

cuộc sống và không trở thành hiện thực. Nói khác đi, hoạt động tư pháp là hoạt

động ADPL liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích thiết thân của con người.

Đó là các quyền được tôn trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,

tự do cá nhân, tài sản... Thực tiễn xây dựng bộ máy nhà nước cho thấy, hệ

thống tư pháp hiện nay ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu thời đại, chưa

65

đảm đương được đầy đủ vị trí, vai trò nói trên, hệ thống tư pháp chưa thực sự là

một hệ thống vận dụng và ADPL thành thạo. Trong không ít trường hợp quyền

lực nhà nước bị biến dạng qua hoạt động cụ thể của các cơ quan có thẩm quyền

ADPL. Do đó uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật giảm sút trong dư luận

của quần chúng. Công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ ở một số

chưa đáp ứng yêu cầu, nguồn cán bộ còn hạn chế, các quy trình thực hiện còn

thể hiện sự lúng túng, hình thức, chưa thực chất, hiệu quả. Công tác thi tuyển,

bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Thẩm phán còn chậm. Vì vậy, tiếp tục đổi mới, cải cách

các cơ quan TPHS theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do

dân và vì dân đòi hỏi các chủ thể áp dụng pháp luật như Thẩm phán, Hội thẩm

phải nâng cao năng lực áp dụng PLHS và đề xuất, kiến nghị sáng kiến đổi mới

và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì con người, cho con người đối với đội ngũ

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Để nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất

đạo đức của đội ngũ cán bộ ADPLHS về tội trộm cắp cần áp dụng các biện

pháp sau:

Thứ nhất, Nắm vững và quán triệt nghiêm các quan điểm của Đảng về

xây dựng đội ngũ cán bộ theo định hướng Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh

công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuân thủ các quy định của Luật tổ chức

TAND năm 2014 và ban hành thêm các văn bản hướng dẫn công tác tuyển

chọn, bổ nhiệm, quy chế thi tuyển đối với Thẩm phán.

Thứ hai, tăng cường đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn

nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Tòa án, Thẩm phán trong ADPL. Thường xuyên

mở các lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng, cập nhật các văn bản pháp luật hình sự;

tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật hình sự, đặc biệt liên quan đến

ADPLHS về tội trộm cắp tài sản cho cán bộ Tòa án, Thẩm phán tham gia; tạo

điều kiện thuận lợi và động viên, khuyến khích cán bộ, Thẩm phán học tập nâng

cao trình độ, mở các phiên tòa trực tuyến, phiên tòa rút kinh nghiệm về hình sự

66

đặc biệt là phiên tòa xét xử về tội trộm cắp tài sản, tăng cường học hỏi kinh

nghiệm, kỹ năng xét xử về tội trộm cắp tài sản, quan trọng nhất là chính bản

thân người ADPL phải có tinh thần tự giác học tập, nâng cao kiến thức, trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ.

Hai là : Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan chức

năng

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử các vụ án hình sự nói chung,

vụ án trộm cắp tài sản nói riêng không chỉ phụ thuộc vào Tòa án mà còn phụ

thuộc vào hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Vì vậy, cần có sự

phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật mà đặc biệt là các cơ quan:

Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhằm nâng cao chất lượng giải

quyết án hình sự, đảm bảo định tội danh đúng, tránh oan sai. Trong thời gian

qua, các cơ quan tiến hành tố tụng của quận Tân Phú đã xây dựng và ban hành

quy chế phối hợp trong giải quyết án hình sự; định kỳ hàng tháng, quý tổ chức

các cuộc họp liên ngành để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và

thống nhất hướng xử lý đối với những vụ án có quan điểm khác nhau về áp

dụng pháp luật... Tuy nhiên, bên cạnh đó sự phối hợp giữa các cơ quan tiến

hành tố tụng có lúc chưa thật sự chặt chẽ, tình trạng Tòa án trả hồ sơ để điều tra

bổ sung còn nhiều, vẫn còn để xảy ra các vụ án bị hủy, sửa. Vì vậy, các cơ quan

tiến hành tố tụng gồm Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải nghiêm

chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật về mối quan hệ phối hợp, các quy

chế phối hợp giữa các ngành trong giải quyết án hình sự góp phần nâng cao

chất lượng giải quyết các vụ án hình sự, bảo đảm định tội danh và quyết định

hình phạt đúng; phối hợp tổ chức các phiên tòa trực tuyến, các phiên tòa rút

nghiệm về tội trộm cắp tài sản đáp ứng các tiêu chí đề ra nhằm tạo điều kiện

cho các cán bộ ADPL học hỏi, trau dồi kiến thức chuyên môn, nâng cao kỹ

năng xử lý các tình huống và điều hành phiên tòa, nâng cao kinh nghiệm và

67

trình độ nhận thức, áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự, đặc biệt là trong

định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản.

Ba là: Tăng cường tổng kết thực tiễn định tội danh và quyết định hình

phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Tại khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: "Tòa án nhân

dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống

nhất pháp luật trong xét xử" và tại khoản 3 Điều 20 Luật tổ chức TAND năm

2014 quy định, TAND tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn "Tổng kết thực tiễn xét

xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử". Tổng

kết thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt nhằm nêu lên những trường

hợp định tội, quyết định hình phạt đúng, chính xác đồng thời phát hiện những

khó khăn, vướng mắc trong định tội danh và quyết định hình phạt để kiph thời

tìm ra những biện pháp khắc phục và rút kinh nghiệm trong quá trình áp dụng,

giải quyết những trường hợp tương tự, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Do đó,

TAND tối cao cần tăng cường tổng kết thực tiễn định tội danh và quyết định

hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản, nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, góp

phần nâng cao giải quyết án nói chung, đảm bảo định tội danh và quyết định

hình phạt đúng.

Bốn là: Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra nhằm đảm bảo chất

lượng trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân

Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; quản lý cán bộ, tăng

cường kỷ luật công vụ gắn với kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm những cán

bộ, thẩm phán có vi phạm đồng thời giám sát các bản án, quyết định của Tòa án

nhân dân các cấp có dấu hiệu oan sai, thiếu tính thuyết phục...nhằm phát hiện

kịp thời các sai sót đó để kiến nghị sửa chữa hoặc hủy bỏ kịp thời nhằm hạn chế

những tác hại gây ra cho xã hội.

68

Bốn là : Đổi mới công tác xét xử của Tòa án theo hướng thực hiện dân

chủ, mở rộng tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở tuân thủ triệt để Hiến pháp và

pháp luật

Mở rộng tranh tụng tại Tòa án sẽ giúp cho việc xét xử của Tòa án nhân

dân các cấp nâng cao chất lượng khi ban hành bản án, tránh oan, sai trong hoạt

động tố tụng đồng thời giúp cho đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

nâng cao kỹ năng nghề nghiệp trong quá trình tiến hành xét xử các vụ án nói

chung, vụ án trộm án trộm cắp tài sản nói riêng. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày

022/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhấn

mạnh việc đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử theo hướng xác định rõ hơn vị trí,

quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố

tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất

lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động

tư pháp; đặc biệt khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Với yêu cầu đó, Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015 đã bổ sung " Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm" vào

hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng. Đây là tư tưởng, quan điểm cos

tính chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và đã được cụ thể trong các thủ tục

tố tụng nói chung, thủ tục nói riêng, bởi xét xử được coi là hoạt động trọng tâm

của toàn bộ hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử công khai, bảo đảm cho

những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình

bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, góp phần khắc phục tình trạng

để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm.

Năm là : ADPL trong hoạt động xét xử của Tòa án phải gắn với nhiệm vụ

tuyên truyên, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.

Việc Tòa án ADPL trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự nói chung

và các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng không chỉ để trừng trị người phạm tội,

69

minh oan người vô tội mà thông qua đó để giáo dục người phạm tội thành

người có ích trong xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và tôn trọng các quy tắc

của cuộc sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mà quan trọng hơn là thông qua đó

phát huy tính giáo dục và răn đe đến các thành viên trong xã hội để thực hiện

tốt việc phòng ngừa chung, tránh các hành vi vi phạm pháp luật góp phần làm

giảm số vụ việc vi phạm pháp luật và tội phạm.

Sáu là: Đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp

Việc bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị làm việc cho

cán bộ Tòa án nhân dân, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc

tế ở nước ta hiện nay đang là vấn đề lớn, hệ trọng và phức tạp. Bên cạnh thuận

lợi cũng có nhiều khó khăn, trở ngại, vì vậy, rất cần có sự đồng thuận của các

cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, phải rất quyết tâm và coi đó là nhiệm

vụ chính trị của toàn hệ thống thì mới có thể thực hiện thành công nhiệm vụ

quan trọng này. Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục bám sát các chủ trương của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, có quyết tâm chính trị cao trong công tác chỉ

đạo xây dựng phương án tăng cường cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện và trang

thiết bị làm việc cho Tòa án nhân dân các cấp, tập trung kinh phí và rà soát, xác

định trọng điểm đầu tư xây dựng mới hoặc sữa chữa cải tạo trụ sở làm việc cho

các Tòa án nhân dân. Phối hợp với các cơ quan, bộ, ngành chức năng xây dựng

các định mức, tiêu chuẩn phòng làm việc, trang thiết bị, phương tiện cho từng

chức danh cán bộ theo đặc thù Tòa án. Phát triển việc ứng dụng công nghệ

thông tin vào các hoạt động của tòa án theo hướng tạo sự đồng bộ và hiện đại

hóa về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị; hệ thống các phần mềm ứng dụng chuyên

biệt của Tòa án có đủ về số lượng với công nghệ hiện đại, thuận tiện, dễ sử

dụng, bảo đảm phục vụ cho việc chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành của lãnh đạo tòa

án nhân dân các cấp chủ yếu thông qua hệ thống mạng máy tính, đáp ứng các

yêu cầu về công khai hoá, minh bạch hóa các hoạt động của Tòa án nhân dân.

70

Bên cạnh đó, Nhà nước ta cần phải có chính sách tiền lương, phụ cấp, chế độ ưu

đãi tương xứng, phù hợp và phải trang bị công cụ, phương tiện, cơ chế bảo vệ

cho cán bộ định tội danh và quyết định hình phạt đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán

để họ có thể đảm bảo cuộc sống, yên tâm công tác, thực hiện tốt nhiệm vụ mà

Đảng và Nhà nước giao đồng thời cần có chế độ khen thưởng xứng đáng đối

với cán bộ tư pháp có thành tích trong hoạt động ADPLHS nhằm tạo động lực

để mọi người cùng chung tay vào sự nghiệp đấu tranh, phòng chống tội phạm.

71

Tiểu kết Chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt ở

Chương 1 và kết quả đánh giá hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt

từ thực tiến xét xử tại TAND quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn

từ năm 2015 đến năm 2019 ở Chương 2 thì Chương 3 của Luận văn đã đưa ra

các yêu cầu để bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng như yêu cầu

bảo đảm thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp và BLHS về quyền con

người và quyền cơ bản của công dân; yêu cầu cụ thể hóa được chủ trương chính

sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản;

yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay; yêu cầu của xu thế hội nhập

quốc tế và yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, tác giả đã đề xuất và phân tích một

số giải pháp đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt đúng.

Bên cạnh đó, giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm

chất đạo đức của cán bộ ADPLHS cũng là một trong những giải pháp quan

trọng để định tội danh và quyết định hình phạt đúng. Đây là giải pháp mang

tính lâu dài nhưng phải kịp thời vì con người là chủ thể xây dựng pháp luật và

cũng là chủ thể áp dụng pháp luật.

Đối với các nhóm giải pháp khác như: Nâng cao hiệu quả công tác phối

hợp giữa các cơ quan chức năng; Tăng cường tổng kết thực tiễn định tội danh

và quyết định hình phạt; Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra nhằm đảm bảo

chất lượng trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân;

Đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp cũng không kém phần quan

trọng trong việc bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng.

72

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, tội trộm cắp tài sản ở quận Tân Phú đang gia

tăng, ngày càng diễn biến phức tạp về phương thức, thủ đoạn, mức độ liều

lĩnh... Do đó, việc ADPLHS của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với loại tội

phạm này gặp nhiều khó khăn, vì vậy nghiên cứu một cách cơ bản hoạt động

ADPLHS trong giai đoạn xét xử đối với tội trộm cắp tài sản của Tòa án nhân

dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực

tiễn sâu sắc. Áp dụng pháp luật là một quá trình gồm nhiều giai đoạn khác

nhau, trong đó định tội danh và quyết định hình phạt là các giai đoạn quan

trọng, cơ bản của quá trình đó. Bởi lẽ, định tội danh là tiền đề, cơ sở cho việc áp

dụng các quy phạm pháp luật hình sự khác và pháp luật tố tụng hình sự còn

quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn biện pháp trách nhiệm hình sự cụ

thể áp đụng đối với người phạm tội trên cơ sở các căn cứ pháp luật quy định

nhằm đạt được mục đích của hình phạt. Do đó, việc nghiên cứu những lý luận

chung về định tội danh và quyết định hình phạt một cách có hệ thống và toàn

diện là vấn đề rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án án hình

sự và có vai trò quan trọng trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền của

nước ta. Luận văn đã nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn để đánh giá một cách

khách quan trong hoạt động ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản của Tòa án

nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019

chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân, tồn tại và những vướng mắc

trong quá trình ADPLHS đối với các vụ án trộm cắp tài sản.

Qua nghiên cứu hoạt động ADPLHS của TAND quận Tân Phú, thành

phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 thấy rằng, hoạt

động ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản của Tòa án chủ yếu do Hội đồng xét

xử áp dụng tại phiên tòa, theo thủ tục tố tụng hình sự, kết quả đạt được thể hiện

73

qua các bản án. Trong những năm qua, hầu hết hoạt động ADPLHS của Tòa án

nhân dân quận Tân Phú đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, thực hiện tốt

chức năng, nhiệm vụ xét xử các vụ án trộm cắp tài sản, thể hiện qua nhiều bản

án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xử oan người không

phạm tội, không bỏ lọt tội phạm góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho phát triển

kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều khó

khăn, vướng mắc và xảy ra sai lầm trong định tội danh và quyết định hình phạt

như xác định đúng tội danh nhưng sai khung hình phạt; có sự nhầm lẫn giữa tội

trộm cắp tài sản với một số tội; quyết định hình phạt không phù hợp do bỏ sót

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; sai lầm trong về quyết định biện pháp

chấp hành hình phạt; tổng hợp hình phạt không đúng. Mà thực trạng này xuất

phát từ nhiều nguyên nhân như bất cập từ các quy định pháp luật, hạn chế từ

chính đội ngũ cán bộ ADPLHS, điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu, chưa đáp

ứng đủ nhu cầu thực tế…

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về ADPLHS cũng

như qua đánh giá thực tiễn ADPLHS về tội trộm cắp tài sản thông qua các hồ

sơ vụ án, các bản án hình sự về tội trộm cắp tài sản của TAND quận Tân Phú,

tác giả đã đưa ra các yêu cầu và các giải pháp để bảo đảm định tội danh và

quyết định hình phạt về tội trộm cắp tài sản đúng. Tác giả mong rằng đó sẽ là

những ý kiến góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, góp phần áp dụng đúng

trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt nhằm nâng cao chất lượng

giải quyết án hình sự, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, tác giả đã rất cố gắng để

Luận văn hoàn thiện và đạt chất lượng tốt nhất. Tuy nhiên, do đây là công trình

nghiên cứu đầu tiên của tác giả nên Luận văn không tránh khỏi những hạn chế,

74

thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các Quý thầy

cô, các bạn học viên và của các đồng nghiệp để luận được hoàn thiện hơn.

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Ngọc Anh (2002) “Một số vấn đề chú ý khi áp dụng Thông tư

liên tịch số 02/2001/TTLT ngày 25/12/2001, hướng dẫn xử lý các tội xâm phạm

sở hữu”, Tạp chí Công an nhân dân, số 2, tr. 16-18.

2. Nguyễn Ngọc Anh (2009) “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình

sự về các tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Công an nhân dân, số 4, tr.22-26

3. Bộ Chính trị (2002) Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà

Nội.

4. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng

và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến

năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.

6. Phạm Văn Beo (2010) Luật hình sự Việt Nam-Quyển 2 (Phần các tội

phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Cần Thơ.

7. Lê Thị Bình (2018) Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã

hội.

8. Lê Cảm (chủ biên) (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại

học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

9. Lê Cảm (chủ biên) (2003) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam-Phần các

tội phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

10. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2004) Định tội danh: Lý luận, hướng

dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

11. Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật

76

hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

12. Nguyễn Ngọc Hòa (2004) “Tội danh và việc chuyển hóa các tội phạm

trong BLHS Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 6, tr.50-53

13. Nguyễn Ngọc Hòa - Lê Thị Sơn (2006) Từ điển pháp luật hình sự,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

14. Nguyễn Ngọc Hòa (2015) Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

15. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003) Nghị quyết số

02/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.

16. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2006) Nghị quyết số

01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.

17. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2013) Nghị quyết số

01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân

tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo.

18. Hoàng Văn Hùng (2007) Trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống

tội này ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.

19. Trần Thị Bích Liên (2016) Tội trộm cắp tào sản do người nước ngoài

thực hiện từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ, Học viện

Khoa học xã hội.

20. Đỗ Ngọc Lợi (2011) Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt theo BLHS năm 1999, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học luật

Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Dương Tuyết Miên (2007) Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb

lao động xã hội, Hà Nội.

77

22. Đoàn Tuấn Minh (2010) Phương pháp định tội danh và hướng dẫn

định tội danh đối với các tội phạm trong BLHS hiện hành, NXb Tư pháp, Hà

Nội.

23. Đinh Văn Quế (2000) Bình luận khoa học BLHS năm 1999- Phần

chung, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh

24. Đinh Văn Quế (2006) Bình luận khoa học BLHS năm 1999-Phần các

tội phạm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh

25. Quốc Hội (2013) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Quốc Hội (2014) Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb Lao động, Hà

Nội.

27. Quốc Hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

28. Quốc Hội (2017) Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm

2017, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

29. Tòa án nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản án

số 60/2019/HSST ngày 20/5/2019.

30. Tòa án nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản án

số 59/2017/HSST ngày 28/4/2017.

31. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản án số

362/2017/HSST ngày 25/7/2017.

32. Tòa án nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản

án số 89/2019/HSST ngày 30/7/2019.

33. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản án số

549/2019/HSPT ngày 19/11/2019.

34. Tòa án nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản

án số 119/2017/HSST ngày 16/8/2017.

78

35. Tòa án nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản

án số 11/2017/HSST ngày 10/01/2017.

36. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản án số

183/2017/HSPT ngày 24/4/2017.

37. Tòa án nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh (2018) Bản án

số 23/2018/HSST ngày 14/3/2018.

38. Tòa án nhân dân tối cao-Viện kiểm sát nhân dân tối cao-Bộ Công an-

Bộ tư pháp (2001) Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-

BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhâ dân tối cao, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, Bộ Công an, Bộ tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy

định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm

1999.

39. Trịnh Quốc Toản (1999) Một số vấn đề lý luận về tội danh và hướng

dẫn bài tập về định tội danh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005) Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, tập II. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Chu Thị Trang Vân (2003), “Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình

phạt từ phương diện là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa

án”, Khoa học, (chuyên san Kinh tế-Luật), (4).

42. Chu Thị Trang Vân (2009) Hoạt động áp dụng pháp luật hính sự của

các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật

học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

43. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2012) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam-

Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

44. Võ Khánh Vinh (2013) Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

45. Võ Khánh Vinh (2014) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam-Phần chung,

79

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

80