intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luyện thi vào lớp 10 môn Ngữ văn: Đồng chí

Chia sẻ: Thanh Thanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

382
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của "Ngữ văn Luyện thi vào lớp 10: Đồng chí" này gồm vẻ đẹp chân thực, giản dị của người lính thời chống Pháp và tình đồng chí thắm thiết, thiêng liêng. Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn, chất thơ và chất thép trong bài thơ. Những đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luyện thi vào lớp 10 môn Ngữ văn: Đồng chí

Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường<br /> <br /> Đồng chí<br /> <br /> “ĐỒNG CHÍ”<br /> - Chính Hữu<br /> <br /> I. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC<br /> 1. Vẻ đẹp chân thực, giản dị của người lính thời chống Pháp và tình đồng chí thắm thiết, thiêng<br /> liêng.<br /> 2. Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn, chất thơ và chất thép trong bài thơ.<br /> 3. Những đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ.<br /> <br /> II. VỀ NHÀ THƠ CHÍNH HỮU<br /> 1. Con người, cuộc đời<br /> Nhà thơ Chính Hữu (1926 - 2007), tên thật là Trần Đình Đắc, nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục<br /> Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà<br /> văn Việt Nam. Ông sinh tại Vinh (Nghệ An), tuy nhiên, quê của ông lại là huyện Can Lộc nay là huyện<br /> Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Trước cách mạng tháng Tám, Chính Hữu học tú tài (triết học) ở Hà Nội. Năm<br /> 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ Đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống<br /> Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, ông là chính trị viên đại<br /> đội.<br /> 2. Sự nghiệp sáng tác<br /> a. Chính Hữu làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông<br /> không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc.<br /> Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật đợt hai (năm<br /> 2000).<br /> b. Tác phẩm chính:<br /> “Đầu súng trăng treo” (tập thơ, NXB Văn học, 1966)<br /> “Thơ Chính Hữu” (tập thơ, NXB Hội nhà văn, 1997)<br /> “Tuyển tập Chính Hữu” (NXB Văn học, 1998)<br /> <br /> III. HƯỚNG DẪN ĐỌC HIỂU VĂN BẢN<br /> 1. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những cảm xúc<br /> sâu xa và mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Cảm hứng của bài<br /> thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất thơ trong sự bình dị của đời<br /> thường.<br /> Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt<br /> <br /> Tổng đài tư vấn : 0902 11 00 33<br /> <br /> - Trang | 1 -<br /> <br /> Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường<br /> <br /> Đồng chí<br /> <br /> 2. Giá trị tư tưởng – nghệ thuật nổi bật<br /> a. Cơ sở hình thành tình đồng chí<br /> - Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính :<br /> "Quê hương anh nước mặn đồng chua<br /> Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".<br /> "Anh" ra đi từ vùng "nước mặn đồng chua", "tôi" từ miền "đất cày lên sỏi đá". Hai miền đất xa<br /> nhau, "đôi người xa lạ" nhưng cùng giống nhau ở cái "nghèo". Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn<br /> cảnh xuất thân của người lính: họ là những người nông dân nghèo.<br /> - Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát cánh bên nhau<br /> trong hàng ngũ chiến đấu:<br /> "Súng bên súng, đầu sát bên đầu"<br /> Họ vốn "chẳng hẹn quen nhau" nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại với nhau trong<br /> hang ngũ quân đội cách mạng. "Súng" biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, đầu biểu tượng cho lý tưởng,<br /> suy nghĩ. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung<br /> lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.<br /> - Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui:<br /> “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.”<br /> Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên : đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải "chung chăn". Nhưng<br /> chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm<br /> của những người đồng đội để trở thành "đôi tri kỷ".<br /> Đến đây, nhà thơ hạ xuống một giọng thơ thật đặc biệt với hai tiếng : "Đồng chí !" câu thơ ngắn,<br /> cùng với hình thức cảm thán mang âm điệu vui tươi, vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng<br /> định. Hai tiếng "đồng chí" nói lên một tình cảm lớn lao, mới mẻ của thời đại .<br /> => Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí giữa những người<br /> đồng đội. Câu thơ thứ bảy như một cái bản lề khép lại đoạn thơ một để mở ra đoạn hai.<br /> b. Những biểu hiện cảm động của tình đồng đội<br /> - Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn<br /> bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình :<br /> “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,<br /> Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay<br /> Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”<br /> Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương : ruộng nương, gian<br /> nhà, giếng nước gốc đa,... Từ "mặc kệ"cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính. Nhưng sâu xa trong<br /> Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt<br /> <br /> Tổng đài tư vấn : 0902 11 00 33<br /> <br /> - Trang | 2 -<br /> <br /> Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường<br /> <br /> Đồng chí<br /> <br /> lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung<br /> lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.<br /> - Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính :<br /> "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh<br /> Rét run người vừng trán ướt mồ hôi.<br /> Áo anh rách vai<br /> Quần tôi có vài mảnh vá<br /> Miệng cười buốt giá<br /> Chân không giày<br /> Thương nhau tay nắm lấy bàn tay."<br /> Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống pháp<br /> hiện lên rất cụ thể, chân thực : áo rách, quần vá, chân không giày, ...Sự từng trải của đời lính đã cho<br /> Chính hữu "biết"được sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ: người nóng sốt hầm hập đến ướt<br /> cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người. Và nếu không có sự từng trải ấy, cũng không thể nào biết<br /> được cái cảm giác của "miệng cười buốt giá" : trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó<br /> khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Thế nhưng, những người lính vẫn cười trong gian lao, bởi họ có hơi ấm<br /> và niềm vui của tình đồng đội "thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã<br /> chiến thắng cái lạnh ở "chân không giày" và thời tiết "buốt giá". Trong đoạn thơ , "anh" và "tôi" luôn đi<br /> với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu<br /> trúc ấy đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.<br /> (Liên hệ mở rộng : Tình đồng đội trong bài "Những ngôi sao xa xôi" - Lê Minh Khuê.)<br /> 3. Kết tinh cao đẹp nhất của tình đồng chí:<br /> - Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh thơ thật đẹp :<br /> “Đêm nay rừng hoang sương muối<br /> Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới<br /> Đầu súng trăng treo.”<br /> Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính "đứng cạnh bên nhau chờ<br /> giặc tới". Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh<br /> bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút "chờ giặc tới". Tình<br /> đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả...<br /> - Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: "Đầu súng trăng treo". Đó là một hình ảnh thật mà bản thân<br /> Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya:"...suốt đêm vầng trăng từ bầu trời<br /> <br /> Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt<br /> <br /> Tổng đài tư vấn : 0902 11 00 33<br /> <br /> - Trang | 3 -<br /> <br /> Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường<br /> <br /> Đồng chí<br /> <br /> cao xuống thấp dần và có lúc nó như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc,<br /> vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn ; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật...".<br /> - Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa.<br /> + "Súng " biểu tượng cho chiến tranh , cho hiện thực khốc liệt. "Trăng" biểu tượng cho vẻ đẹp yên<br /> bình, mơ mộng và lãng mạn.<br /> + Hai hình ảnh "súng" và "trăng" kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người<br /> lính : chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng<br /> chiến- một nền thơ giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn.<br /> + Vì vậy, câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập thơ - tập "Đầu súng trăng<br /> treo".<br /> + Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính.<br /> 3. Kết luận<br /> Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài thơ đã làm sống<br /> lại một thời khổ cực của ông cha ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ khơi gợi lại những kỷ niệm<br /> đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu<br /> và cảm nhận hết được.<br /> Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đô, đối<br /> ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị<br /> mà có sức ngân vang . Bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng , như là một ngọn lửa vẫn<br /> cháy mãi, bập bùng, không bao giờ tắt, ngọn lửa tháp sáng đêm đen của chiến tranh.<br /> <br /> III. LỜI BÌNH BÀI THƠ<br /> 1. “ĐỒNG CHÍ” (Chính Hữu)<br /> Trong dòng thơ ca về anh bộ đội cụ Hồ, “Đồng chí” của Chính Hữu ghi nhận một thành công xuất<br /> sắc. Giữa lúc chưa phải mọi nhà thơ đã bắt trúng ngay mạch đập của cuộc sống kháng chiến ở những<br /> năm đầu, “Đồng chí” (1948) đã cất lên một tiếng nói mới, chân thực về vẻ đẹp của người Vệ quốc quân,<br /> đã góp phần làm sáng tỏ bản chất và sức mạnh của những người cầm súng “từ nhân dân mà ra, vì nhân<br /> dân chiến đấu”:<br /> “Quê hương anh nước mặn đồng chua<br /> Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá<br /> Anh với tôi đôi người xa lạ<br /> Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau<br /> Súng bên súng, đầu sát bên đầu<br /> Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt<br /> <br /> Tổng đài tư vấn : 0902 11 00 33<br /> <br /> - Trang | 4 -<br /> <br /> Tài liệu: LT vào Lớp 10 môn Ngữ văn- Thầy Phạm Hữu Cường<br /> <br /> Đồng chí<br /> <br /> Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ<br /> Đồng chí!<br /> Ruộng nương anh gửi bạn thân cày<br /> Gian nhà không mặc kệ gió lung lay<br /> Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính<br /> Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh<br /> Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi<br /> Áo anh rách vai<br /> Quần tôi có vài mảnh vá<br /> Miệng cười buốt giá<br /> Chân không giày<br /> Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.<br /> <br /> Đêm nay rừng hoang sương muối<br /> Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới<br /> Đầu súng trăng treo”<br /> (1948)<br /> “Đồng chí” là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những chi<br /> tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một<br /> cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn<br /> độc lập tự do của Tổ quốc.<br /> Toàn bộ tứ thơ của “Đồng chí” phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Ở<br /> đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình – cũng là những đồng đội thân thiết với mình - để<br /> nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm trạng, tình cảm của họ.<br /> “Quê hương anh nước mặn đồng chua<br /> Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”<br /> Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người nông dân mặc<br /> áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được<br /> Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong<br /> quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách<br /> hồn nhiên trong phần mở đầu bài “Nhớ”:<br /> “Lũ chúng tôi<br /> Bọn người tứ xứ<br /> Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt<br /> <br /> Tổng đài tư vấn : 0902 11 00 33<br /> <br /> - Trang | 5 -<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2