intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lý do bán kháng sinh không có đơn tại cơ sở bán lẻ thuốc qua quan điểm của người bán lẻ thuốc tại một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam

Chia sẻ: Lang Liêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

8
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tiến hành tìm hiểu lý do người bán thuốc bán kháng sinh không có đơn cơ sở bán lẻ thuốc thông qua nghiên cứu định tính. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm chi tiết hơn nội dung nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lý do bán kháng sinh không có đơn tại cơ sở bán lẻ thuốc qua quan điểm của người bán lẻ thuốc tại một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam

  1. Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN
  2. TẠP CHÍ DƯỢC HỌC PHARMACEUTICAL JOURNAL ISSN 0866 - 7861 ISSN 0866 - 7861 7/2020 (Số 531 NĂM 60) 7/2020 (No 531 Vol. 60) MỤC LỤC CONTENTS NGHIÊN CỨU - KỸ THUẬT RESEARCH - TECHNIQUES Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN ●● VƯƠNG MỸ LƯỢNG, ĐỖ THỊ HỒNG GẤM, ●● VƯƠNG MỸ LƯỢNG, ĐỖ THỊ HỒNG GẤM, NGUYỄN THU MINH, CẨN TUYẾT NGA, NGUYỄN THU MINH, CẨN TUYẾT NGA, ĐÀO ĐÀO XUÂN CƠ, NGUYỄN GIA BÌNH, ĐẶNG XUÂN CƠ, NGUYỄN GIA BÌNH, ĐẶNG QUỐC QUỐC TUẤN, VŨ ĐÌNH HÒA, NGUYỄN TUẤN, VŨ ĐÌNH HÒA, NGUYỄN HOÀNG HOÀNG ANH (B), NGUYỄN HOÀNG ANH: ANH (B), NGUYỄN HOÀNG ANH: Vancomycin Khảo sát thực trạng hiệu chỉnh liều thông qua dosage adjustment via therapeutic drug giám sát nồng độ vancomycin huyết thanh trên monitoring in patients with renal replacement bệnh nhân lọc máu tại Khoa Hồi sức Tích cực, therapies in the Intensive Care Unit of Bach Mai Bệnh viện Bạch Mai 3 Hospital (Hanoi, SRV) 3 ●● LÊ THỊ LAN ANH, TRẦN THỊ THANH HÀ, ●● LÊ THỊ LAN ANH, TRẦN THỊ THANH HÀ, LÊ MINH TRÁC, NGUYỄN THÀNH HẢI: LÊ MINH TRÁC, NGUYỄN THÀNH HẢI: Phân tích hiệu quả của việc sử dụng surfactant Effectiveness of the surfactant therapy in trong điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh treatment of respiratory distress syndrome tại Trung tâm Chăm sóc & Điều trị sơ sinh, Bệnh (RDS) in anfants at the National Hospital of viện Phụ sản Trung ương 8 Obstetrics and Gynecology 8 ●● NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THÚY, LÊ THU THỦY, ●● NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THÚY, LÊ THU THỦY, NGUYỄN THỊ THU HÀ, NGUYỄN HOÀNG ANH, NGUYỄN THỊ THU HÀ, NGUYỄN HOÀNG NGUYỄN THANH BÌNH, ĐỖ XUÂN THẮNG: ANH, NGUYỄN THANH BÌNH, ĐỖ XUÂN Lý do bán kháng sinh không có đơn tại cơ sở THẮNG: Exploring the reasons for dispensing bán lẻ thuốc qua quan điểm của người bán lẻ antibiotics without prescription in community thuốc tại một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam 12 pharmacies of some Vietnamese provinces: drug seller’s perspective 12 ●● NGUYỄN THỊ MINH THUẬN, LÊ THỊ THANH THÙY: Đánh giá hiệu quả của methotrexat dạng ●● NGUYỄN THỊ MINH THUẬN, LÊ THỊ THANH tiêm bắp đơn liều trong điều trị thai ngoài tử cung 21 THÙY: Treatment efficacy of single-dose intramuscular injection of methotrexate for ●● PHAN LÊ HIỀN, HÀ MINH HIỂN: Nghiên cứu xây ectopic pregnancy 21 dựng quy trình định lượng đồng thời l-menthol và methyl salicylat trong gel thuốc bằng phương ●● PHAN LÊ HIỀN, HÀ MINH HIỂN: Development of pháp sắc ký khí cột “wide-bore” 26 an a wide-bore column chromatography method for simultaneous detemination of L-menthol and ●● VÕ QUỐC ÁNH, NGUYỄN ANH VŨ: Đánh giá methyl-silicate in pharmaceutical gels 26 ảnh hưởng của pH, ánh sáng và sục khí nitơ đến động học phân hủy của methylcobalamin trong ●● VÕ QUỐC ÁNH, NGUYỄN ANH VŨ: Impacts of dung dịch 30 pH, light and nitrogen purging on the degradation kinetics of methylcobalamin in solution 30 ●● NGUYỄN THỊ NGỌC VÂN, NGUYỄN HUỲNH KIM NGÂN, ĐÀM THỊ KIM THOA, NGÔ NGỌC ●● NGUYỄN THỊ NGỌC VÂN, NGUYỄN HUỲNH YẾN: Xây dựng quy trình định lượng đồng thời 6 KIM NGÂN, ĐÀM THỊ KIM THOA, NGÔ NGỌC phẩm màu có trong nước giải khát bằng phương YẾN: Simultaneous determination of six water- pháp HPLC-DAD 35 soluble dyes in refreshment beverages by high- performance liquid chromatography (HPLC-DAD) 35 ●● LÊ NGUYỄN PHÚC HIỀN, HUỲNH NGỌC THỤY: Xây dựng quy trình định lượng acid ●● LÊ NGUYỄN PHÚC HIỀN, HUỲNH NGỌC ursolic trong rễ mạch môn (Radix Ophiopogonis THỤY: Determination of ursolic acid in japonici) bằng phương pháp UPLC - PDA 39 Ophiopogon japonicus by UPLC - PDA 39
  3. l Mục lục ●● NGÔ DUY TÚY HÀ, LÊ THỊ THÙY TRANG, ●● NGÔ DUY TÚY HÀ, LÊ THỊ THÙY TRANG, TRƯƠNG PHƯƠNG, ĐẶNG THỊ LOAN: TRƯƠNG PHƯƠNG, ĐẶNG THỊ LOAN: Tổng hợp và khảo sát hoạt tính kháng Synthesis and antibaterial, antifungal bioactivity nấm – kháng khuẩn của một số dẫn chất of some 5-methoxybenzimidazol-2-thion 5-methoxybenzimidazol-2-thion 44 derivatives 44 ●● TRẦN MINH NGỌC, NGUYỄN THỊ LÊ, Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN ●● TRẦN MINH NGỌC, NGUYỄN THỊ LÊ, NGUYỄN THỊ PHƯƠNG, LÊ THỊ KIM VÂN, NGUYỄN THỊ PHƯƠNG, LÊ THỊ KIM VÂN, PHẠM QUỐC SỰ, NGUYỄN DUY THUẦN, PHẠM QUỐC SỰ, NGUYỄN DUY THUẦN, HOÀNG LÊ SƠN: Xây dựng phương pháp định HOÀNG LÊ SƠN: Quantification of four active lượng đồng thời một số hoạt chất trong cao chiết compounds in the liquid extracts of Compound nước bài thuốc Hạ mỡ NK bằng sắc ký lỏng hiệu herbal remedy HAMO NK by HPLC - DAD 50 năng cao kết hợp detector DAD 50 ●● TRẦN THỊ ANH THƠ, DƯƠNG THỊ HỒNG ●● TRẦN THỊ ANH THƠ, DƯƠNG THỊ HỒNG NHUNG, NGUYỄN THỊ LẬP: Non-viral vector NHUNG, NGUYỄN THỊ LẬP: Hệ thống vector systems in cancer gene therapy 55 không có nguồn gốc virus trong trị liệu gen bệnh ung thư 55 ●● NGUYỄN ĐỨC CƯỜNG, NGUYỄN CHÍ ĐỨC ●● NGUYỄN ĐỨC CƯỜNG, NGUYỄN CHÍ ĐỨC ANH, PHẠM TIẾN ĐẠT, ĐẶNG QUANG ANH, ANH, PHẠM TIẾN ĐẠT, ĐẶNG QUANG ANH, NGUYỄN THANH BÌNH, ĐỖ QUYÊN, NGUYỄN NGUYỄN THANH BÌNH, ĐỖ QUYÊN, NGUYỄN THẠCH TÙNG: Study on formulation of topical THẠCH TÙNG: Nghiên cứu xây dựng công thức pain-relieving patches of capsaicine 0.025% 62 bào chế miếng dán giảm đau tại chỗ capsaicin ●● NGUYỄN ĐỨC THIỆN, NGUYỄN THỊ HIỀN, 0,025 % 62 NGUYỄN THỊ MINH HIẾU: Creating Raman ●● NGUYỄN ĐỨC THIỆN, NGUYỄN THỊ HIỀN, spectrum database for some common excipients NGUYỄN THỊ MINH HIẾU: Xây dựng cơ sở dữ of pharmaceutical industry 66 liệu phổ Raman chuẩn của các tá dược nguyên liệu dùng trong sản xuất ●● NGÔ THỊ TUYẾT MAI, TRẦN THỊ TUYẾT 66 NHUNG, PHẠM XUÂN PHONG, TRƯƠNG ●● NGÔ THỊ TUYẾT MAI, TRẦN THỊ TUYẾT THỊ THU HIỀN, HỒ BÁ NGỌC MINH, ĐẶNG NHUNG, PHẠM XUÂN PHONG, TRƯƠNG TRƯỜNG GIANG, HỒ ANH SƠN: Effect of THỊ THU HIỀN, HỒ BÁ NGỌC MINH, ĐẶNG the GK1 Capsules on some hematological, TRƯỜNG GIANG, HỒ ANH SƠN: Đánh giá ảnh biochemical and histopathological parameters in hưởng của viên nang GK1 trên một số chỉ số Chronic Kidney Disease mouse model 75 huyết học, sinh hóa và mô bệnh học của chuột suy thận thực nghiệm 75 ●● ĐỖ THỊ NGỌC LAN, NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN HẢI ĐĂNG, NGUYỄN THỊ THU ●● ĐỖ THỊ NGỌC LAN, NGUYỄN MINH CHÂU, MINH, ĐỖ HOÀNG GIANG, NGUYỄN TIẾN NGUYỄN HẢI ĐĂNG, NGUYỄN THỊ THU ĐẠT, TRỊNH VĂN LẨU: Isolation and purification MINH, ĐỖ HOÀNG GIANG, NGUYỄN TIẾN of 9,10-dimethoxycathin-6-one from the roots ĐẠT, TRỊNH VĂN LẨU: Nghiên cứu chiết xuất, phân lập và tinh chế 9,10-dimethoxycathin-6-on of Eurycoma longifolia Jack for establishment of từ rễ cây bá bệnh (Eurycoma longifolia Jack) để its reference compound 81 thiết lập chất chuẩn 81 ●● VŨ VĂN TUẤN, NGUYỄN VĂN MINH, VŨ THỊ ●● VŨ VĂN TUẤN, NGUYỄN VĂN MINH, VŨ THỊ TRÂM, TRẦN TRỌNG BIÊN: Development TRÂM, TRẦN TRỌNG BIÊN: Nghiên cứu hệ hai of an aqueous two-phase system (ATPS) as pha thân nước ứng dụng trong tinh chế rutin từ solvent for purification of rutin isolated from the dịch chiết nụ hòe 84 flowerbuds of Styphnolobium japonicum (L.) 84 2 TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60)
  4. l Nghiên cứu - Kỹ thuật tỉ lệ tử vong và tỉ lệ các biến chứng – di chứng về sau điều trị RDS với ba yếu tố ảnh hưởng phát hiện được cho trẻ, kể cả khi trẻ đã xuất viện. là cân nặng lúc sinh, sinh mổ và xuất hiện biến cố bất Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng lợi trong quá trình điều trị. đến kết quả điều trị RDS ở trẻ sơ sinh, gồm các yếu Tài liệu tham khảo tố liên quan đến thai nhi, đến người mẹ, đến cuộc đẻ 1. Cherif Ahmed, Hachani Chadlia, et al. (2008), “Risk và hồi sức sau sinh cho trẻ. Trong nghiên cứu này, factors of the failure of surfactant treatment by transient 17,6% trẻ sơ sinh không đạt được hiệu quả điều trị Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN intubation during nasal continuous positive airway pressure in RDS, trong đó cho thấy cân nặng lúc sinh càng thấp preterm infants”, Am. J. of Perinatology, 25 (10), pp. 647-652. càng tăng nguy cơ không đạt hiệu quả điều trị. Sinh 2. Fidanovski Duško, Milev Vladislav, et al. (2005), mổ giúp giảm nguy cơ không đạt hiệu quả điều trị “Mortality risk factors in premature infants with respiratory 66% so với sinh thường. Do đó, quản lý thai nghén distress syndrome treated by mechanical ventilation”, Srpski và dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai là rất quan trọng Arhiv Za Celokupno Lekarstvo, 133 (1-2), pp. 29-35. để hạn chế nguy cơ sinh non, sinh ngạt, … Ở trẻ xuất 3. Phạm Trung Kiên và CS. (2017), “Kết quả phương pháp hiện biến cố bất lợi, nguy cơ không đạt hiệu quả điều INSURE trong điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ đẻ non tại trị tăng 5,97 lần. Vì vậy, việc làm giảm biến cố bất lợi Bệnh viện Sản nhi Bắc Ninh năm 2017”, Tạp chí Khoa học có ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả điều trị RDS. Tuy ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, tập 33 (số 2), tr. 106-114. nhiên, xuất hiện biến cố bất lợi không chỉ phụ thuộc 4. Ma Christopher Cheng-Hwa, Ma Sze (2012), “The role vào điều trị surfactant mà còn là sự kết hợp của các of surfactant in respiratory distress syndrome”, The Open phương pháp cấp cứu, hỗ trợ và điều trị khác như: Respiratory Medicine J., 6, pp. 44. hỗ trợ hô hấp, chống nhiễm khuẩn, nuôi dưỡng, v.v… Các yếu tố tiên lượng khác cũng nằm rải rác ở một 5. Sardesai Smeeta, Biniwale Manoj, et al. (2017), số mô hình khá tốt theo phân tích BMA nhưng không “Evolution of surfactant therapy for respiratory distress syndrome: past, present, and future”, Pediatric Research, 81 nằm trong mô hình tối ưu nhất nên chúng tôi đã (1-2), pp. 240. không đưa vào phân tích hồi quy Cox. Cùng với hạn chế của nghiên cứu hồi cứu bị thiếu dữ liệu ở một số 6. Sweet D., Bevilacqua G., et al. (2007), “European tiêu chí, có thể gây ra hạn chế của mô hình trong việc consensus guidelines on the management of neonatal tìm ra các biến tiên lượng quan trọng có ảnh hưởng. respiratory distress syndrome”, J. Perinat Med., 35 (3), pp. 175-86. Kết luận 7. Sweet David G., Carnielli Virgilio, et al. (2019), Sử dụng surfactant giúp cải thiện các chỉ số lâm “European consensus guidelines on the management of sàng, cận lâm sàng trên trẻ sơ sinh mắc RDS. Nghiên respiratory distress syndrome–2019 update”, Neonatology, cứu có 17,6% trẻ sơ sinh không đạt được hiệu quả 115 (4), pp. 432-450. (Ngày nhận bài: 06/5/2020 - Ngày phản biện: 18/5/2020 - Ngày duyệt đăng: 22/6/2020) Lý do bán kháng sinh không có đơn tại cơ sở bán lẻ thuốc qua quan điểm của người bán lẻ thuốc tại một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam Nguyễn Thị Phương Thúy1*, Lê Thu Thủy1, Nguyễn Thị Thu Hà1 Nguyễn Hoàng Anh2, Nguyễn Thanh Bình1, Đỗ Xuân Thắng1 Bộ môn Quản lý & Kinh tế dược, Trường Đại học Dược Hà Nội 1 2 Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc Trường Đại học Dược Hà Nội * E-mail: thuy_ntp@hup.edu.vn Summary As dispensing antibiotics without prescription is a widespread practice worldwide, particularly in developing countries, especially so frequent in Vietnam, … drug sellers of community pharmacies in 4 provinces of Vietnam (Ha Noi, Phu Tho, Ho Chi Minh, Can Tho) were investigated to reveal their real views on the reasons 12 TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60)
  5. l Nghiên cứu - Kỹ thuật for such practice by in-depth interviews. 18 drug sellers were inquired with a semi structured interview guide. All interviews were audio-recorded, transcribed verbatim, then coded and analysed by Nvivo 7.0 software and by two researchers independently. The drug sellers reported several factors affecting them to dispense antibiotics without prescription. Their belief was selling non-prescription antibiotics brings benefits to both customers and pharmacy business, as well. Drug sellers showed their trust in their ability sufficient to dispense antibiotic without prescription, in case being unsupervised and unobstructed. Moreover, they were affected by many additional factors from customers, doctors and other drug sellers in community. Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN Keywords: Antibiotics non-prescription, drug sellers, qualitative study Đặt vấn đề không có đơn tại cơ sở bán lẻ thuốc thông qua nghiên Đề kháng kháng sinh đang trở thành vấn đề y tế cứu định tính. Kết quả nghiên cứu hy vọng giúp cung toàn cầu với ước tính đến năm 2050 có thể là nguyên cấp thông tin ban đầu cho nhà quản lý và hoạch định nhân gây tử vong cho 10 triệu người mỗi năm. Tổ chính sách trong việc đề xuất giải pháp cải thiện tình chức Y tế thế giới đã phát động chiến dịch hành động trạng bán kháng sinh không có đơn hiện nay. về phòng chống kháng thuốc với thông điệp “Không Đối tượng và phương pháp nghiên cứu hành động hôm nay, ngày mai không có thuốc” [12]. Kháng kháng sinh là hiện tượng tự nhiên, tuy nhiên Đối tượng nghiên cứu sử dụng kháng sinh không hợp lý, trong đó bán kháng Người bán thuốc tại nhà thuốc, quầy thuốc đạt sinh không có đơn góp phần thúc đẩy nhanh hơn quá tiêu chuẩn GPP tại địa bàn 4 tỉnh, thành phố: Hà Nội, trình này. Vì vậy nhằm tìm kiếm giải pháp can thiệp Phú Thọ, Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh. hiệu quả, trên thế giới nhiều nghiên cứu được thực Phương pháp nghiên cứu hiện để khám phá việc bán kháng sinh không có đơn Thời gian nghiên cứu: Thu thập dữ liệu từ tháng của người bán lẻ thuốc. Kết quả cho thấy nhu cầu, áp 3 đến tháng 5 năm 2017. lực của khách hàng, thiếu nhận thức về kháng sinh, Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu định tính tiếp lợi ích kinh tế, thiếu thực thi pháp luật là một số yếu cận dựa trên lý thuyết nghiên cứu nền tảng (Grounded tố dẫn đến việc bán kháng sinh không đơn [2, 5, 8, 10, 11]. theory), thu thập dữ liệu thông qua phỏng vấn sâu Tại Việt Nam, thực trạng kháng sinh bán không người bán lẻ thuốc nhằm mô tả lý do người bán thuốc đơn tại cơ sở bán lẻ thuốc diễn ra ở mức đáng báo bán kháng sinh không có đơn. động được phản ánh trong nhiều nghiên cứu trước Mẫu nghiên cứu đây [3 ,4 ,9]. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu này tập trung đánh giá thực trạng bán kháng sinh không Đối tượng tham gia phỏng vấn sâu được lựa chọn đơn và chỉ được ghi nhận tại một địa phương đơn lẻ. có chủ đích, dựa trên nguyên tắc đa dạng hóa mẫu. Trong khi các nghiên cứu về nguyên nhân người bán Dữ liệu thu thập với cỡ mẫu được xác định dựa trên thuốc có hành vi bán kháng sinh không đơn chưa nguyên tắc bão hòa thông tin, khi không có chủ đề được quan tâm đúng mức. Vì vậy, trong giai đoạn mới nổi lên. Nghiên cứu được thực hiện phỏng vấn đầu tiên, nghiên cứu này được thực hiện với mục sâu 18 người bán lẻ thuốc tại 11 nhà thuốc, 7 quầy tiêu tìm hiểu lý do người bán thuốc bán kháng sinh thuốc, với đặc điểm như sau: Đặc điểm Số lượng Đặc điểm Số lượng Đặc điểm Số lượng Giới tính Trình độ Địa bàn Nam 3 Đại học 5 Hà Nội 6 Nữ 15 Cao đẳng 6 Phú Thọ 4 Tuổi Trung cấp 7 TP. Hồ Chí Minh 4 < 30 8 Vị trí công việc Cần Thơ 4 31-50 6 Người phụ trách chuyên môn 3 Kinh nghiệm > 51 tuổi 4 Nhân viên 11 ≤ 5 năm 6 Chủ đầu tư 4 > 5 năm 12 Thu thập dữ liệu am hiểu lĩnh vực dược cộng đồng và phương pháp Thu thập dữ liệu thông qua hướng dẫn phỏng vấn định tính. sâu bán cấu trúc. Các cuộc phỏng vấn sâu kéo dài Phân tích dữ liệu từ 30 đến 60 phút, có ghi âm và ghi chép, thực hiện Tất cả các cuộc phỏng vấn sâu được gỡ bởi nghiên cứu viên có kinh nghiệm từ 5 năm trở lên, băng, kiểm tra, nhập dữ liệu, mã hóa. Phân tích TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60) 13
  6. l Nghiên cứu - Kỹ thuật theo phương pháp quy nạp. Dữ liệu được phân tích Các lý do khiến người bán thuốc bán theo chủ đề, thực hiện độc lập bởi 2 nghiên cứu viên kháng sinh không có đơn có kinh nghiệm. Dữ liệu phỏng vấn sâu được nghiên Tất cả người bán thuốc tham gia phỏng vấn sâu cứu viên mã hóa và gán nhãn một cách độc lập nhằm đã thừa nhận thường “tự cắt và tự kê đơn” kháng đảm bảo tính nhất quán, nhóm các đơn vị phân tích sinh cho khách hàng nhiều hơn bán theo đơn của tạo các chủ đề. Sử dụng phần mềm Nvivo 7.0 để bác sĩ. Kết quả các cuộc phỏng vấn sâu cho thấy có quản lý và hỗ trợ phân tích dữ liệu. nhiều lý do khiến người bán thuốc thực hiện hành vi Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN Kết quả nghiên cứu bán kháng sinh không có đơn (KSKĐ) (hình 1). Cụ thể như sau: Niềm tin về lợi ích của hành vi bán KSKĐ (cho khách hàng; cho nhà thuốc/quầy thuốc) Năng lực thực hiện hành vi Thực hiện hành vi (có khả năng thực hiện, không bị giám sát/ cản trở) bán kháng sinh không có đơn Yếu tố thúc đẩy/tăng cường từ bên ngoài (Khách hàng, người bán thuốc khác, bác sĩ) Hình 1. Lý do bán kháng sinh không có đơn qua quan điểm của người bán thuốc Người bán thuốc có niềm tin về lợi ích “các nước khác không dùng kháng sinh như nhà khi thực hiện bán kháng sinh không có đơn mình, bởi vì người ta sạch, chứ không như môi Người bán thuốc bán kháng sinh không có đơn trường Việt Nam nhà mình, sao mà không nhiễm bởi họ có niềm tin rằng kết quả hành vi này mang lại khuẩn” – (NBT6). lợi ích cho khách hàng và cho nhà thuốc, quầy thuốc. “Mình bán thuốc thông thường, nhiều khi không Cụ thể như sau: có kháng sinh nó cũng không khỏi nên là nhiều khi Lợi ích cho người bệnh khỏi bệnh khi cũng phải phá rào”- (NBT11). thực hiện bán kháng sinh không đơn Lợi ích cho bệnh/triệu chứng của người bệnh Kháng sinh được người bán thuốc (NBT) xem là không bị tiến triển xấu hơn “đầu tay”, có vai trò quan trọng điều trị nhiều bệnh Ngoài ra, các cuộc phỏng vấn sâu cho thấy người bởi nó có “tác dụng diệt khuẩn, nếu trong trường hợp bán thuốc tin rằng nếu không sử dụng kháng sinh có nhiễm virus nó phòng bội nhiễm cho bệnh nhân” - thể dẫn đến nguy cơ diễn biến bệnh xấu hơn, khó (NBT18). Hầu hết người bán thuốc phản ánh trong khăn cho điều trị sau đó, đặc biệt ở bệnh nhân có thói trường hợp nhận thấy người bệnh có “nhiễm khuẩn quen sử dụng kháng sinh trước đây. đơn giản” hoặc “viêm nhiễm” cần thiết phải sử dụng “Bệnh nhân bây giờ họ uống rất nhiều lần, thế nên kháng sinh, khi đó thực hiện bán kháng sinh không họ đã quen với cái kháng sinh đấy thì khi không có đơn nhằm giúp người bệnh khỏi bệnh. kháng sinh không giải quyết được vấn đề, sẽ không Những bệnh nhân có nhiễm khuẩn không đi khám điều trị được bệnh và bệnh sẽ không thuyên giảm mà ... nhiễm khuẩn đơn giản thôi, nếu như không có còn tăng lên”-(NBT9). kháng sinh thì sẽ không thể khỏi được ... Vết thương nhỏ có chảy máu, nhiễm khuẩn hô hấp, ho lâu ngày, Lợi ích cho khách hàng tiết kiệm thời gian, nếu không cho kháng sinh làm sao diệt khuẩn được chi phí đi khám bác sĩ để người ta khỏi - (NBT6). Việc bán kháng sinh không có đơn mang lại lợi “Kháng sinh điều trị được rất là nhiều bệnh, chứ ích cho khách hàng, giúp tiết kiệm thời gian đi khám không phải nó chỉ điều trị một bệnh nghiêm trọng, hầu bác sĩ và chi phí khám, chụp chiếu hoặc xét nghiệm. như là bệnh gì viêm nhiễm là mình có thể dùng đến “Dược sĩ hoặc là nhân viên nhà thuốc biết cách kháng sinh” - (NBT 8). tư vấn dùng kháng sinh thì chi phí đấy (khám, xét Nếu chỉ bán thuốc mà không có kháng sinh thì nghiệm, chụp chiếu) người ta sẽ không mất nữa – không khỏi bệnh được vì một số người cho rằng (NBT6). 14 TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60)
  7. l Nghiên cứu - Kỹ thuật “Mình tiết kiệm cho bệnh nhân từ tiền xét nghiệm rồi Lợi ích cho nhà thuốc, quầy thuốc không bị đến tiền công đi khám và cả thời gian khám” – (NBT2). mất khách hàng Ngoài ra, một số người bán thuốc cho rằng việc Mối quan hệ giữa người bán thuốc và khách hàng họ tự lựa chọn thuốc điều trị cho người bệnh cũng bản chất là mối quan hệ cung - cầu nên khi khách được xem là phương án tiết kiệm hơn so với sử dụng hàng đến nhà thuốc có nhu cầu điều trị khỏi bệnh đơn của bác sĩ. hoặc khi khách hàng có yêu cầu tự sử dụng kháng “Thông thường mình cắt 3-5 ngày thì khoảng 50 sinh, những người bán thuốc tin rằng nếu từ chối Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN đến 100 nghìn. Bác sĩ bây giờ kê đơn ít nhất vào hiệu không bán thì kết cục là nhà thuốc không có khách thuốc cũng phải 400 đến 500 nghìn” - (NBT7). và bị mất khách hàng. Bên cạnh đó, do có sự cảm thông với bệnh nhân “Lý do cơ bản nhất là nếu không bán kháng sinh nghèo, khả năng chi trả hạn chế nên người bán thuốc thì không có khách, bị mất khách” - (NBT8). sẵn sàng bán kháng sinh không có đơn. Kinh nghiệm thực tế của một dược sĩ đại học chia “Những người nghèo người ta làm gì có tiền để đi sẻ rằng thời gian đầu mở nhà thuốc đã thực hiện khám, để bác sĩ kê đơn cho đâu” – (NBT1). hạn chế “tự kê” kháng sinh và kết quả khiến cho nhà Lợi ích cho nhà thuốc/quầy thuốc có doanh thu, thuốc bị mất khách hàng. Do đó thực hành này không lợi nhuận khi bán kháng sinh không đơn được tiếp tục duy trì. Lợi ích thương mại đóng vai trò quan trọng ẩn sau “Trước đây khi mới mở nhà thuốc thì mình cũng hành vi bán kháng sinh không đơn. Một số người bán quan niệm muốn hạn chế lạm dụng thuốc kháng sinh thuốc luôn tìm cách tự chỉ định kháng sinh để tăng cho bệnh nhân và kết quả là mất hết cả khách. Họ doanh thu cho nhà thuốc mặc dù việc thực hành là cho rằng nhà này điều trị kém” – (NBT18). không phù hợp bởi nếu không có kháng sinh thì một Lợi ích cho người bệnh có hiệu quả điều trị “đơn” trong một lần bán sẽ có lợi nhuận thấp. nhanh hơn do có kháng sinh, từ đó tăng uy tín “Mình tự điều trị cho bệnh nhân mà không có cho nhà thuốc/quầy thuốc kháng sinh … mà mình kê thuốc đơn giản thì đứng Bên cạnh đó, hầu hết người bán thuốc được về mặt kinh tế là không có. Anh chỉ có kê cho người phỏng vấn cho rằng tâm lý của người bệnh đến nhà ta thuốc bổ phổi, trị giá cho cái đơn đấy khoảng sáu thuốc là mong muốn điều trị khỏi bệnh nhanh và điều bảy chục, chia lãi suất của đơn không được nhiều”- trị “nhanh khỏi” đồng nghĩa với việc nhà thuốc “bán (NBT6). thuốc tốt”. “Thường là người Việt Nam lúc nào cũng “Không có kháng sinh thì bạn không đủ chi phí chỉ muốn luôn, ngay, nhanh khỏi và tiết kiệm tiền” đâu. Một liều cảm cúm bây giờ bạn cắt người ta được - (NBT7). Đây là một trong những yếu tố giúp nhà ba chục (nghìn) và bây giờ thêm mấy viên kháng sinh thuốc, quầy thuốc tăng uy tín và tính cạnh tranh với vào bạn thêm được hai ba chục nữa khoảng sáu bảy nhà thuốc, quầy thuốc khác. chục. Đấy kinh tế nó như thế” –(NBT16). “Nếu không cho dùng kháng sinh thì rất lâu khỏi Kháng sinh luôn là mặt hàng quan trọng, chiếm tỷ và khách hàng sẽ nói là nhà này bán thuốc không trọng doanh thu cao trong nhà thuốc. được tốt và không quay lại nữa” - (NBT8). “Kháng sinh phải quyết định 20% trong cái sự tồn Nếu tuân thủ quy định bán thuốc kháng sinh tại của nhà thuốc” - (NBT6). theo đơn thì nhà thuốc sẽ khó tồn tại “Một tháng em có thể bán được 30 - 40 triệu tiền Người bán thuốc mong muốn được bán thuốc kháng sinh, lãi được khoảng 10%, 10% của 30 - 40 theo đơn nói chung và kháng sinh theo đơn nói riêng triệu nó cũng là vấn đề rồi” – (NBT4). bởi như vậy trách nhiệm về an toàn khi sử dụng Một số người bán thuốc khác cho rằng kháng sinh thuốc thuộc về bác sĩ. Công việc bán thuốc trở nên không đem lại lợi nhuận nhiều như thực phẩm chức đơn giản hơn, doanh số cao hơn, ít trách nhiệm hơn năng, nhưng khi đồng ý bán kháng sinh không đơn so với “tự chỉ định” điều trị cho khách hàng. cho khách hàng thì có thể khách hàng mua thêm “Thực ra là nói bán theo đơn là sướng nhất, bán các thuốc khác như “thuốc bổ hoặc thực phẩm chức theo đơn trách nhiệm ít. Đơn thuốc rõ đấy rồi, cứ thế năng” sẽ tăng thêm doanh thu. mà bán. Ai cũng muốn là bán theo đơn. Thứ nhất là “Bán kháng sinh lợi nhuận không thể bằng thực doanh số cao, thứ hai là an toàn” - (NBT10). phẩm chức năng. Nhưng người ta mua kháng sinh Tuy nhiên với thực trạng hiện nay số lượng đơn để điều trị ho người ta còn có thể mua những cái đến nhà thuốc là rất ít. “Đơn của bác sĩ mà bệnh khác của mình ví dụ như thuốc bổ hoặc là thực phẩm nhân mua theo đơn thì rất là hiếm, một ngày có được chức năng. Tăng doanh thu chẳng hạn nên là cứ bán 1, 2 đơn thôi” – (NBT13). Trong khi hầu hết người thôi” - (NBT15). bán thuốc cho biết họ gặp nhiều áp lực về chi phí TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60) 15
  8. l Nghiên cứu - Kỹ thuật duy trì hoạt động nhà thuốc và sự cạnh tranh trong “Thế nhà em chỉ bán cảm cúm thống thường thôi, kinh doanh, nếu nhà thuốc chờ đơn thuốc để bán hạ sốt, đi ngoài à? Mà bây giờ thuốc đi ngoài trong kháng sinh theo đúng quy định thì rất nhiều nhà thuốc danh mục thuốc kê đơn cũng có thuốc không được sẽ phải đóng cửa, do ngoài kháng sinh còn rất nhiều bán. Ví dụ như là nhóm giảm đau thường, co thắt cơ mặt hàng khác ở nhà thuốc phải bán theo đơn. trơn, đau bụng kinh mà không được bán. Mà đây chỉ “Nếu mà (chỉ bán kháng sinh khi có đơn) thì chắc là những bệnh thông thường. Tại sao mình lại không phải đóng cửa 2/3 thật ... Không phải mỗi kháng sinh, được điều trị, mà như thế này thì thà mình đi làm việc Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN kể cả những cái thuốc người ta đánh dấu là phải có khác còn hơn, tội gì phải mất công, mất sức ở đây đơn mới được bán quá là nhiều” - (NBT5). làm gì. Nên là xây dựng danh mục thuốc không kê Người bán thuốc cho rằng bản thân có năng đơn em thấy chưa có hợp lí ở chỗ đấy. Nhiều cái rất lực thực hiện (có khả năng thực hiện và tin rằng bất cập” – (NBT10). hành vi không bị cản trở, giám sát) Người bán thuốc có kinh nghiệm tự dùng Người bán thuốc cho rằng bản thân có đủ kháng sinh điều trị hiệu quả cho nhiều khách kiến thức để tư vấn và chủ động bán kháng sinh hàng với triệu chứng bệnh tương tự trước đây không có đơn Yếu tố kinh nghiệm của người bán thuốc khi tự Về khả năng tự chỉ định kháng sinh cho người điều trị cho người bệnh có liên quan đến hành vi bán kháng sinh không đơn. Với những trải nghiệm tự điều bệnh, hầu hết người bán thuốc cho rằng bản thân trị của bản thân khi dùng kháng sinh cho khách hàng có đủ kiến thức, khả năng “xác định”, “chẩn đoán” khỏi, lần sau khách hàng có triệu chứng bệnh tương các bệnh “viêm nhiễm” để chủ động bán kháng sinh tự, người bán thuốc sẽ tiếp tục bán kháng sinh mà không có đơn. Ngoài ra họ còn có khả năng lựa chọn không cần yêu cầu người bệnh đi khám bác sĩ. Theo kháng sinh với nhiều hoạt chất đa dạng, thậm chí thời gian, việc bán kháng sinh khi gặp triệu chứng cả việc thay đổi kháng sinh liên tục cho người bệnh. bệnh tương tự trước đây đã trở thành thói quen. Đây là tiền đề quan trọng khiến họ quyết định tự bán “Người ta thấy lần trước cho (kháng sinh), thấy kháng sinh không cần đơn của bác sĩ. khỏi rồi thì tiếp tục cho uống thế, (người bệnh) lại “Thường thì tất cả các trường hợp bệnh của viêm khỏi”- (NBT11). đường hô hấp là mình xác định, theo khả năng của “Đa phần các em automatic (tự động) lấy kháng mình chẩn đoán thì nếu có viêm nhiễm thì mình sẽ sinh theo thói quen khi gặp ca bệnh tương tự trước điều trị bằng kháng sinh” – (NBT12). đây” – (NBT9). “Đa phần khi mà đã có viêm nhiễm, mình cảm thấy Một số người bán thuốc đã được khách hàng có vi khuẩn trên đường hô hấp thì sẽ dùng kháng sinh phản hồi về kết quả tự điều trị kháng sinh là hiệu quả cộng kháng viêm để giải quyết vấn đề”. “Cefuroxim, và an toàn, khiến họ yên tâm và cho rằng trước khi cefpodoxim, au 1 g, au 625 (amoxicillin/acid clavulanic), bán đã khai thác thông tin của người bệnh nên nhận cefixim, levo (levofloxacin). Nói chung ở đây cũng thức rằng việc làm này là đúng. đủ kháng sinh. Đa phần mình kết hợp, cũng thay đổi “Hiệu quả và an toàn của thuốc (kháng sinh) đã kháng sinh liên tục” - (NBT9). được người khác phản hồi nên mình cảm thấy yên Một số người bán thuốc tin rằng việc tự điều trị tâm. Trước khi bán mình cũng hỏi rồi đấy … mình kháng sinh của bản thân cho khách hàng là phù hợp, nghĩ cái đó là mình đúng”- (NBT16). thậm chí là tương tự với điều trị của bác sĩ. Người bán thuốc cho rằng kháng sinh đã bán “Bác sĩ cũng điều trị giống như vậy thôi” - (NBT17). không có đơn không tạo ra nhiều nguy cơ với “Khi em bán kháng sinh không đơn, thì em sẽ bán người bệnh, cộng đồng những loại kháng sinh có lợi cho bệnh đó, vẫn chữa Hành vi bán kháng sinh không có đơn cũng được bệnh đấy, chắc chắn là chữa được bệnh đấy. Nó xuất phát từ nhận thức và kinh nghiệm của người sẽ phù hợp với mặt bệnh của người ta” - (NBT5). bán thuốc về hậu quả của hành vi còn chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, một số người bán thuốc có trình độ Người bán thuốc cho rằng thuốc kháng sinh mà họ đại học dược cho rằng danh mục thuốc không kê đơn điều trị không gây nhiều nguy cơ với người bệnh, ít hiện nay được xây dựng là chưa phù hợp, có quá ít gặp tác dụng không mong muốn. Nếu có gặp thì tần thuốc. Nhiều thuốc điều trị các bệnh thông thường suất rất thấp. như giảm co thắt cơ trơn, đau bụng kinh cũng không “Thật ra bán nó (kháng sinh không có đơn) đã có trong danh mục thuốc không kê đơn mà người bán mấy chục năm nay rồi, có vấn đề gì đâu” - (NBT6). thuốc được phép bán. Nếu chỉ bán đúng các thuốc “Kháng sinh mà dùng lâu dài về sau thì em chưa không kê đơn thì dược sĩ đại học sẽ không muốn làm biết nhưng hiện tại thì em chưa gặp trường hợp nào việc tại nhà thuốc. bị dị ứng” - (NBT5). 16 TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60)
  9. l Nghiên cứu - Kỹ thuật Người bán thuốc có nhận thức trải nghiệm về “Chưa có ai phản đối. Tính đến giờ phút bây giờ là kháng sinh đường uống mà họ bán là kháng sinh đơn 15 năm, chưa có ai phải bảo là tôi không uống kháng giản, “dòng nhẹ”, ít tác dụng không mong muốn. sinh đâu” - (NBT6). “Những kháng sinh nhẹ, ít tác dụng phụ, hầu như “Chưa bao giờ bị chủ nhắc là tại sao em kê kháng là uống cũng chẳng sao. Mọi người uống cũng sẽ sinh, tại sao em kê kháng sinh không có đơn” - rất ít gặp tỉ lệ 1/10000 tức là có 1 trên 10000 người (NBT6). uống bị thôi. Mình nói với người ta luôn thực ra các Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN Người bán thuốc nhận định rằng giám sát của này cũng là theo cơ địa, cũng ít người bị. Mình bán cơ quan quản lý chưa chặt chẽ những dòng nhẹ như là amox hoặc là cepha thì em Một vấn đề được người bán thuốc nhận định là thấy là hầu như chưa có ai gặp, bán mấy năm rồi cơ quan quản lý giám sát chưa chặt chẽ và khó kiểm cũng chẳng thấy có” - (NBT9). soát việc bán kháng sinh không có đơn hàng ngày do Thêm vào đó, một số người cho rằng tác dụng phụ việc kiểm tra chủ yếu được tiến hành dưới hình thức nghiêm trọng chỉ xảy ra khi người bán thuốc dùng sai thủ công và chỉ diễn ra trong thời gian ngắn nhất định. hoặc kết hợp bữa bãi. Nếu họ lựa chọn kháng sinh “Có một quyển sổ gọi là sổ theo dõi bán kháng và kết hợp đúng thì khách hàng không thể xảy ra sinh. Nhưng mà cái đấy chỉ theo dõi được những tác dụng phụ nghiêm trọng, nếu có chỉ là những biểu trường hợp có đơn thôi, có đơn thì chị mới vào sổ. hiện nhẹ. Còn không có đơn thì lấy gì mà vào sổ. Cái trường “Thường chỉ gặp những cái tác dụng phụ rất là thông hợp em nhập vào bao nhiêu, em bán ra bao nhiêu thường thôi. Buồn nôn hoặc bồn chồn thế thôi. Trong người ta không kiểm soát được” - (NBT10). trường hợp mình dùng sai thuốc, hoặc mình kết hợp linh tinh thì những trường hợp đấy xảy ra chứ còn bình “Có nhắc nhở chứ, nhưng mà làm sao họ theo chị thường mình kết hợp đúng, tác dụng phụ của nó cũng cả ngày để kiểm tra được. Đa phần họ đến kiểm tra không thể mạnh được” - (NBT7). thì họ đến chốc lát thôi” - (NBT5). Mặt khác, người bán thuốc có nhận thức hạn chế “Do không quản lý được, đúng là đang dễ thật” - về tác hại của hành vi bán kháng sinh không đơn, cụ (NBT18). thể là kháng kháng sinh. Tuy nhiên, theo họ mức độ Người bán thuốc chưa từng bị phạt vì bán đề kháng kháng sinh còn “nhẹ nhàng”, chỉ ảnh hưởng kháng sinh không đơn người bệnh, không ảnh hưởng đến bản thân người Một số người bán thuốc cho rằng khi đến nhà bán thuốc. thuốc kiểm tra, người quản lý cũng bỏ qua lỗi này do “Em nghĩ là kháng kháng sinh đang còn nhẹ nhàng khó triển khai quy định bán kháng sinh theo đơn trên thôi, còn chưa đến phức tạp lắm” – (NBT8). thực tế. Hành vi vi phạm, nếu có cũng chỉ bị cơ quan “Mình có uống đâu mà mình ảnh hưởng [kháng quản lý chỉ nhắc nhở và chưa áp dụng chế tài xử thuốc]. Mình chỉ là người bán thôi” - (NBT11). phạt. Đây là yếu tố khiến cho hành vi bán kháng sinh Người bán thuốc còn cho rằng họ có khả năng giảm không có đơn được diễn ra dễ dàng. bớt kháng thuốc bằng cách thay đổi kháng sinh giữa “Bản thân người đi kiểm tra người ta cũng biết là các lần sử dụng, mang lại hiệu quả điều trị cho khách cái đấy khó thực hiện … thì người ta cũng coi như là hàng quen. mắt nhắm mắt mở thôi” - (NBT10). “Khách quen thì em không bao giờ cho dùng một “Chưa bao giờ phạt vì lý do như thế (bán kháng loại kháng sinh, em thay đổi kháng sinh … Mình thay sinh không đơn” - (NBT6). đổi kháng sinh như thế, kháng sinh cũ mình đã dùng Yếu tố tăng cường từ bên ngoài (khách hàng, thì nó sẽ không bị kháng thuốc hay là nhờn thuốc, người bán thuốc khác, bác sĩ) thúc đẩy người dùng lại nó vẫn hiệu quả. Cái đấy em bán hàng nhiều bán thuốc bán kháng sinh không đơn em rút ra kinh nghiệm như thế”- (NBT12). Người dân có thói quen đến nhà thuốc/quầy Không ai phản đối khi bán kháng sinh thuốc, ngại đi khám bác sĩ (mất thời gian, chi phí) không có đơn trừ trường hợp bệnh nghiêm trọng Theo ý kiến một số người bán thuốc, đa số các Theo phản ánh của tất cả người bán thuốc, nhiều trường hợp mà họ tự điều trị với kháng sinh hoặc năm nay người dân có thói quen đến nhà thuốc mặc đồng ý bán kháng sinh không đơn khi khách hàng dù được khuyên đến bệnh viện trong một số trường yêu cầu thì chưa từng bị phản đối từ phía khách hợp, nhưng đa số bệnh nhân có tâm lý ngại không đi hàng, người chủ, ngoại trừ cơ quan quản lý có nhắc khám trừ trường hợp bệnh nặng. Điều này là cơ hội nhở. Điều này tạo điều kiện cho việc bán kháng sinh thuận lợi để người bán thuốc tự chỉ định kháng sinh không có đơn của người bán thuốc không bị cản trở. điều trị cho khách hàng. TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60) 17
  10. l Nghiên cứu - Kỹ thuật “Bao nhiêu năm nay mọi người đều quen ra hiệu lại cho người bán thuốc phải bán kháng sinh. Mặc thuốc người ta có thể mua được kháng sinh, nên là dù được tư vấn không cần thiết sử dụng kháng sinh những cái bệnh thông thường, nặng thì không nói, khi “chưa có dấu hiệu nhiễm khuẩn” hoặc “bệnh nhẹ” người ta vẫn quyết định ra nhà thuốc mua chứ không nhưng khách hàng không đồng ý. Yêu cầu người bán đi viện” - (NBT5). thuốc phải bán kháng sinh để khỏi nhanh. Hơn nữa, người bán thuốc có quan điểm là khách “Bây giờ dân trí cũng rất cao, họ không như hồi hàng có nhiều trải nghiệm không tốt với việc đi khám xưa chỉ gì dùng đấy. Bệnh nhân bây giờ thường chỉ Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN bệnh như mất thời gian chờ đợi, xếp hàng, chi phí định luôn cho mình ... Người ta cứ thích dùng kháng khám chữa bệnh cao, mà đôi khi cũng chưa chắc sinh và người ta chỉ định lại cho mình, ngược lại mình khỏi bệnh. có giải thích là không có dấu hiệu nhiễm khuẩn và “Đi khám nhiều lần rồi cũng chưa chắc khỏi đâu không có gì nặng thì bác không nên dùng kháng sinh, mà tiền khám, chi phí cũng cao lắm, mỗi lần vào tiền nhưng người ta vẫn cứ dùng” - (NBT14). triệu là ít, mà chờ xếp hàng lâu. Nói chung là bệnh “Đa phần khách hàng nam thường nói là cho anh nhân chắc là cũng đi khám nhiều rồi nên là có định kháng sinh mạnh vào cho nó nhanh (khỏi)” - (NBT5). kiến về khám, nên là người ta cũng không có tư duy Nhiều bệnh nhân tự điều trị kháng sinh theo kinh đi khám nhiều trừ khi bệnh quá nặng, và hơn nữa nghiệm bởi đã từng khám bác sĩ, nên khi gặp lại các người ta không có thời gian” - (NBT3). triệu chứng cũ thì bệnh nhân tự dùng kháng sinh để Phần lớn khách hàng đến mua thuốc uống. không có đơn “Bệnh nhân bảo là đi khám rồi cũng thế, cũng Một số người bán thuốc cho biết khi có vấn đề kháng sinh, chống viêm – (NBT3). về sức khoẻ, người dân thường đến nhà thuốc đầu Hầu hết người bán thuốc sẵn sàng bán kháng tiên để kể bệnh và mua thuốc điều trị bởi người dân sinh không có đơn nếu khách hàng yêu cầu bởi như tin tưởng quầy thuốc coi nơi đây như là “bệnh viện”, vậy người bệnh đã quen với thuốc và đã từng sử vì vậy phần lớn khách hàng đến mua thuốc không dụng trước đó. có đơn. Với niềm tin này, người bán thuốc có cơ hội “Cũng có gặp nhiều khách hàng yêu cầu bán cho để tự điều trị cho người bệnh trong các trường hợp kháng sinh, có nghĩa là họ đã quen và biết sử dụng cần sử dụng thuốc kháng sinh, đặc biệt các bệnh nhẹ thuốc này nên chị bán thôi” – (NBT1). thường gặp như viêm họng, cảm cúm bởi hiếm khi có Một số bác sĩ phòng khám bán thuốc đơn thuốc với trường hợp này. Một số người bán thuốc bất bình về việc hiện nay “Thật ra bây giờ người dân Việt Nam mình ít khi đi một số bác sĩ phòng khám, kê đơn và tự ý bán thuốc khám bệnh viện lắm, cảm giác người ta vẫn tin tưởng kể cả thuốc kháng sinh tại phòng khám, nên các nhà quầy thuốc, khi mà đi vào quầy thuốc như đi vào một thuốc cạnh tranh bằng cách tự bán vì tin rằng không cái bệnh viện ấy” - (NBT7). có đơn đến nhà thuốc. “Đa số là đến nhà thuốc là viêm họng, cảm cúm “Bên phòng mạch vừa bán thuốc vừa khám thì là chính và những trường hợp đấy đa số phải dùng nhà thuốc lấy đâu ra đơn nữa” –(NBT11). kháng sinh, lẽ ra phải có đơn nhưng kiếm được đơn Người bán thuốc tại nhà thuốc, quầy thuốc trong trường hợp đấy là quá ít” - (NBT5). khác cũng bán kháng sinh không đơn Khách hàng thiếu nhận thức về việc sử dụng Một vấn đề khác người tham gia phỏng vấn sâu kháng sinh phải theo đơn của bác sĩ. đề cập là các nhóm thuốc chuyên khoa như tim mạch, Theo quan điểm của một số người bán thuốc, huyết áp có thể từ chối bán khi không có đơn nhưng khách hàng thiếu nhận thức về việc sử dụng kháng điều này rất khó với kháng sinh bởi khách hàng dễ sinh phải theo đơn của bác sĩ, khi được yêu cầu phải dàng mua được ở một nhà thuốc khác. có đơn nếu mua kháng sinh khách hàng có thái độ “Mình không bán thì người ta cũng đi ra nhà khác tiêu cực với người bán thuốc. người ta mua. Mình không thể từ chối được. Những “Họ chưa có ý thức khi mà có bệnh phải đi khám bác ví dụ như mình đã nói liên quan đến tim mạch, huyết sĩ và sử dụng kháng sinh theo đơn của bác sĩ” - (NBT2). áp có thể mình từ chối được còn sử dụng kháng sinh “Chị muốn uống kháng sinh thì em không bán đâu, thì rất khó” - (NBT14). chị phải có đơn. Chắc chắn là người ta sẽ bỏ đi và Phần lớn người bán thuốc có thái độ tiêu cực mắng lại mình luôn, mắng trước mặt mình luôn đấy” là nếu chỉ mình thực hiện đúng quy định thì không -(NBT3). thể thay đổi được thực trạng xã hội mua kháng sinh Khách hàng có thói quen tự điều trị với kháng không có đơn hiện nay sinh, yêu cầu kháng sinh để khỏi nhanh “Chỗ nào cũng thế. Không bán thì người ta có Theo ghi nhận của người bán thuốc, khách hàng thể sang chỗ khác người ta mua được. Một mình hiện nay đã thay đổi so với trước đây, “chỉ định” ngược chị hoặc là một mình những cái quầy trên này thì 18 TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60)
  11. l Nghiên cứu - Kỹ thuật không thể nào thay đổi thực trạng của cả cái xã hội thời gian và chi phí không phải đi khám bác sĩ, đặc này được” - (NBT5). biệt là với bệnh nhân không có khả năng chi trả. Yếu Một lý do khác được đề cập là người bán thuốc tố này cũng đã được ghi nhận khi phân tích nguyên gặp khó khăn khi thuyết phục, giải thích cho khách nhân dược sĩ tại Sudan bán kháng sinh không có đơn hàng “không có đơn, không bán thuốc kháng sinh” cho khách hàng [11]. Hơn nữa, người bán thuốc có nên họ không còn cách nào khác là bán kháng sinh quan điểm nếu điều trị không có kháng sinh thì lâu không có đơn cho khách hàng. khỏi bệnh hoặc bệnh tiến triển xấu hơn, khách hàng Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN “Bây giờ mà bảo không có đơn, không bán thuốc nghĩ rằng “nhà này bán thuốc kém”, để lại hậu quả mất kháng sinh mà phải giải thích cho bệnh nhân là cả khách hàng, tương tự kết quả nghiên cứu của Abdul một vấn đề, vấn đề khó lắm đấy” - (NBT13). Hadi (2016) [6] và Do Thi Thuy Nga (2010) [4]. Vì vậy, lợi ích thương mại mang lại cho nhà thuốc là động cơ Bàn luận quan trọng dẫn đến hành vi bán kháng sinh không đơn Nghiên cứu định tính nhằm hiểu rõ nguyên nhân được ghi nhận trong nghiên cứu này, tương tự kết quả việc kháng sinh được bán không đơn chỉ ra trong một của nhiều nghiên cứu trước đây [4, 5, 7, 8, 11]. Trên thực số nghiên cứu trên thế giới [2, 5, 8, 11, 13] đã được chúng tế, nhà thuốc không chỉ là địa điểm chăm sóc sức tôi lựa chọn trong giai đoạn đầu của thiết kế nghiên khỏe ban đầu cho người dân trong cộng đồng, mà cứu kết hợp, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, còn là môi trường kinh doanh, thu nhập chính của khi thực trạng bán kháng sinh không đơn ở mức nhiều người bán thuốc. Việc bán kháng sinh không đáng báo động. Đối tượng tham gia phỏng vấn sâu đơn đóng góp đáng kể vào doanh thu và lợi nhuận là người bán thuốc tại một số địa phương đã giúp cho nhà thuốc, bất chấp thực hành là không đúng chúng tôi hiểu chi tiết hơn về lý do họ thực hiện hành quy định hoặc lạm dụng kháng sinh. Thậm chí một vi, để từ đó xây dựng khung lý thuyết và bộ công cụ số người bán thuốc có nhận định tiêu cực rằng với cho nghiên cứu tiếp theo. Kết quả đã xác định có số lượng đơn thuốc nhận được hàng ngày, tuân thủ nhiều lý do khiến người bán thuốc thực hiện hành vi đúng quy định chỉ bán kháng sinh khi có đơn sẽ khiến bán kháng sinh không đơn, bao gồm yếu tố thuộc về nhà thuốc không thể tồn tại được trong môi trường người bán thuốc (niềm tin về lợi ích, năng lực thực cạnh tranh như hiện nay. hiện hành vi) và yếu tố tăng cường, thúc đẩy từ bên Thứ hai, người bán thuốc cho rằng bản thân có khả ngoài (khách hàng, người bán thuốc khác, bác sĩ). năng bán kháng sinh không đơn và tin rằng hành vi Thức nhất, người bán thuốc có niềm tin về lợi ích không bị cản trở, giám sát bởi cơ quan quản lý. Đa số mang lại cho khách hàng và cho nhà thuốc khi bán người bán thuốc tin rằng họ có thể “tự chỉ định” và lựa kháng sinh không có đơn. Trước hết, khi khách hàng chọn kháng sinh phù hợp khi điều trị cho khách hàng, có vấn đề sức khỏe đến nhà thuốc, người bán thuốc tương đồng với quan điểm ghi nhận tại Ả rập xê út [6]. cho rằng kháng sinh bán không đơn sẽ giúp khách Thêm vào đó, với những kinh nghiệm sử dụng kháng hàng khỏi bệnh hoặc cải thiện triệu chứng hiện tại. sinh khi điều trị cho khách hàng trong quá khứ đã cho Điều này, có thể xuất phát từ việc người bán thuốc thấy có “hiệu quả” nên khi gặp triệu chứng bệnh tương hiểu không đúng lợi ích kháng sinh mang lại trong điều tự người bán thuốc sẽ tiếp tục tự chỉ định kháng sinh. trị các bệnh “nhiễm khuẩn đơn giản”, “viêm nhiễm” Quan ngại hơn, họ còn cho rằng thực hiện việc này là mà họ tự chẩn đoán như “nhiễm trùng hô hấp, sốt, đúng và điều trị các bệnh lý như đã trở thành thói quen. ho hoặc cảm cúm” không cần thiết sử dụng kháng Bên cạnh đó, kết quả đã ghi nhận người bán thuốc có sinh. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên trải nghiệm rằng bán kháng sinh không có đơn là biện cứu định tính tại Ấn Độ cho thấy người bán thuốc pháp điều trị không gây nhiều nguy cơ, tương đối an cung cấp kháng sinh không hợp lý cho bệnh như cảm toàn với hầu hết người bệnh tương tự như kết quả cúm, ho, đau họng, phần lớn nguyên nhân do vi rút nghiên cứu của Mahmoud (2018) [13]. Người bán thuốc [2] . Thậm chí, nghiên cứu của chúng tôi đã nghi nhận có kinh nghiệm rằng khi bán kháng sinh không đơn rất được một số người bán thuốc có quan điểm với các ít gặp tác dụng không mong muốn, nếu có thì chỉ là biểu bệnh do vi rút cũng cần điều trị kháng sinh bởi“kháng hiện nhẹ thông thường có thể chấp nhận được, khác sinh giúp phòng bội nhiễm” và môi trường dễ nhiễm với các thuốc chuyên khoa như tim mạch, tăng huyết khuẩn của Việt Nam không giống các nước khác, vì áp có thể gây ra tác dụng bất lợi nghiêm trọng. Bởi các vậy với “bệnh thông thường nếu không có kháng sinh kháng sinh được người bán thuốc bán không đơn là sẽ không khỏi”. Đây có thể do niềm tin của người dòng “nhẹ” nên an toàn cho người bệnh. Một lý do quan bán thuốc cho rằng kháng sinh là thuốc “đầu tay”, là trọng khiến hành vi bán kháng sinh diễn ra là người bán thuốc quan trọng trong điều trị nhiều bệnh lý thường thuốc tin rằng không có cản trở hoặc giám sát cơ quan gặp ở cộng đồng. Do vậy người bán thuốc sẽ đáp quản lý còn lỏng lẻo, tương đồng với kết quả nghiên ứng nhu cầu điều trị, giúp người bệnh tiết kiệm được cứu định tính tại Ethiopia [5], Sudan [11] và Ai cập [7]. TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60) 19
  12. l Nghiên cứu - Kỹ thuật Thứ ba, việc bán kháng sinh không đơn được Tài liệu tham khảo thực hiện khi xuất hiện nhiều yếu tố thúc đẩy xuất 1. Aris Widayati (2015), “Beliefs about the use of phát từ sự ảnh hưởng của những người khác bao nonprescribed antibiotics among people in Yogyakarta city, gồm khách hàng, người kê đơn, những người bán Indonesia: A qualitative study based on the theory of planned thuốc khác. Lý do nổi bật được đề cập là tất cả những behavior”, Asia-Pacific J. of Public Health, 27 (2), pp. 402 - người bán thuốc khác đều bán kháng sinh không đơn 413. do đó họ không thể từ chối bán kháng sinh bởi người 2. Barker Anna et al (2017), “What drives inappropriate Trung tâm DI&ADR Quốc gia - Tài liệu được tải miễn phí tại CANHGIACDUOC.ORG.VN bệnh có thể mua ở các nhà thuốc khác [5, 6]. Đáng antibiotic dispensing? A mixed-methods study of pharmacy lưu ý, người bán thuốc cho biết khách hàng thường employee perspectives in Haryana, India”, BMJ Open, 7 (3), không sẵn sàng đi khám trừ khi bệnh nặng, thậm chí pp. 1-7. trường hợp người bán thuốc thuyết phục [5, 7]. Đáng 3. Dat Van Duong Colin William Binns, Truyen Van Le, chú ý, một số khách hàng chủ động yêu cầu phải có (1997), “Availability of antibiotics as over-the-counter drugs in kháng sinh khi tự điều trị hoặc thiếu nhận thức về pharmacies: A threat to public health in Vietnam”, Trop. Med. việc sử dụng kháng sinh phải theo đơn của bác sĩ là Int. Health, Vol. 2, No. 12, pp. 33 - 39. những yếu tố khách quan thúc đẩy người bán thuốc 4. Do Thi Thuy Nga, et al. (2014), “Antibiotic sales in rural cung cấp kháng sinh không đơn. Hơn nữa, một số and urban pharmacies in northern Vietnam: an observational người bán thuốc cho rằng bác sĩ phòng khám bán study”, BMC Pharmacology and Toxicology, 15:6, pp. 01-10. thuốc nên nhà thuốc phải cạnh tranh khách hàng với 5. Gebretekle et al (2016), “Exploration of over the counter chính phòng khám, do đó người bán thuốc “phá rào” sales of antibiotics in community pharmacies of Addis Ababa, tự chỉ định thuốc kê đơn nói chung và kháng sinh nói Ethiopia: pharmacy professionals’ perspective”, Antimicrobial riêng. Bác sĩ phòng khám kê đơn và tự bán thuốc Resistance and Infection Control., 5:2, pp. 1-7. vượt ra ngoài quy định, khiến ngày càng có ít đơn 6. Hadi M. A., et al. (2016), “Community pharmacists’ đến nhà thuốc [5]. knowledge, attitude, and practices towards dispensing Nghiên cứu của chúng tôi còn một số hạn chế antibiotics without prescription (DAwP): a cross-sectional nhất định. Bản chất của phương pháp là lựa chọn survey in Makkah Province, Saudi Arabia”, Int. J. Infect. Dis., chủ đích người tham gia phỏng vấn sâu nên nghiên 47, pp. 95-100. cứu không có tính khái quát hóa cho toàn bộ người 7. Kotb Maryam Elbagoury Marwan et al (2018), “Sale of bán thuốc. Chúng tôi đã cố gắng lựa chọn mẫu đa Antibiotics without Prescriptions in Alexandria, Egypt”, J. of dạng và áp dụng nguyên tắc bão hòa thông tin trong Pure and Applied Microbiology, 12 (1), pp. 287-291. nghiên cứu định tính. Nội dung phỏng vấn giữa người 8. Moham ed Ezzat Khamis e et al (2017), “Perspectives bán thuốc tại các vùng miền khác nhau cũng chưa có of pharmacy staff on dispensing subtherapeutic doses of điều kiện phân tích sâu hơn. antibiotics: a theory informed qualitative study”. Int. J. Clin. Pharm., pp. Kết luận 9. Nguyen T. K. Chuc, et al. (2001), “Management of Kết quả phỏng vấn sâu người bán thuốc tại nhà childhood acute respiratory infections at private pharmacies in thuốc, quầy thuốc trên địa bàn 4 tỉnh, thành phố đã Vietnam”, The Annals of Pharmacotherapy, Vol. 35, pp. 1284- phát hiện có nhiều nguyên nhân đa dạng liên quan 1288. đến hành vi bán thuốc bán kháng sinh không đơn. 10. Saengcharoen W. Chongsuvivatwong V. (2008), Người bán thuốc có niềm tin về lợi ích bán kháng “Factors influencing dispensing of antibiotics for upper sinh không đơn mang lại cho khách hàng, cho lợi respiratory infections among Southern Thai community ích thương mại của nhà thuốc. Người bán thuốc cho pharmacists”, J. of Clinical Pharmacy and Therapeutics, 33 rằng họ có khả năng thực hiện hành vi và tin rằng (2), pp. 123-129. không bị giám sát, cản trở. Yếu tố tăng cường xuất 11. Salim A. M. and Elgizoli B. (2016), “Exploring the phát từ khách hàng, bác sĩ, những người bán thuốc reasons why pharmacists dispense antibiotics without khác đã thúc đẩy việc bán kháng sinh không có đơn. prescriptions in Khartoum state, Sudan”, Int. J. Pharm. Pract., Những phát hiện của nghiên cứu này là cơ sở xây 25 (1), pp. 59-65. dựng khung lý thuyết về yếu tố ảnh hưởng đến hành 12. WHO (2014), Antimicrobial resistance: Global report vi bán kháng sinh không có đơn của người bán thuốc on surveillance 2014. tại nhà thuốc, quầy thuốc, đồng thời là cơ sở khoa 13. Mansour A. Mahmoud et al (2018), “Community học ban đầu gợi ý cho các giải pháp can thiệp phù pharmacists perspectives about reasons behind antibiotics hợp nhằm hạn chế thực trạng bán kháng sinh không dispensing without prescription: a qualitative study”, đơn tại Việt Nam hiện nay. Biomedical Research, 29 (21), pp. 3792-3796. (Ngày nhận bài: 16/4/2020 - Ngày phản biện: 23/4/2020 - Ngày duyệt đăng: 22/6/2020) 20 TẠP CHÍ DƯỢC HỌC - 7/2020 (SỐ 531 NĂM 60)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2