PHẨN 2<br />
THỰC TRẠNG VA THỤIB TIỄN VẬN HÀNH<br />
<br />
cơ CHẾ<br />
<br />
GIẢI QUYỄT TRANH CHẨP n A Y THẾ RỐI<br />
VƠI CA C QUAN HỆ THUUNG N IẠ IA VIỆT N AM<br />
<br />
I. THựC TRẠNG c ơ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP<br />
THAY THẾ ĐỐI VỚI CÁC QUAN HỆ THƯƠNG MẠI<br />
ở VIỆT NAM<br />
1. Thực trạng về phưomg thức thương lượng<br />
Trong tranh chấp kừih tế thưcmg mại, thương lượng, tự<br />
thỏa thuận giữa các bên là một hình thức giải quyết không<br />
cần có sự can thiệp của bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào<br />
khác mà do các bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tự bàn<br />
bạc, cân nhắc, thảo luận, đàm phán vói nhau để đi đến cách<br />
giải quyết vụ tranh chấp trên cơ sở đồng thuận của tất cả<br />
các bên.<br />
Bất cứ một sự tranh chấp về kừửi tế - thương mại nào<br />
thì thương lượng bao giờ cũng là biện pháp giải quyết đầu<br />
tiên được các bên lựa chọn, vì nó không gây phiền hà, tốn<br />
kém lại giữ được bí mật, uy túi của nhau trong kứứi doanh<br />
99<br />
<br />
trên thương trường. Đồng thời, khi thương lượng đạt kết<br />
quả thì vụ việc được giải quyết nhanh chóng, dứt điểm<br />
trên cơ sở tự nguyện thi hành của các bên. Chỉ khi nào<br />
biện pháp này không đạt được kết quả mong muốn thì<br />
các bên mới lựa chọn hình thức, cơ chế giải quyết bằng<br />
biện pháp khác. Điều này thể hiện quyền tự do thỏa<br />
thuận, tự do giao kết hợp đồng và tự do định đoạt của<br />
các bên trong giao lưu dân sự nói chung và trong giao<br />
lưu kinh tế - thương mại nói riêng.<br />
Hiện nay, trong lĩnh vực thương mại, thương lượng<br />
được quy định như một phương thức giải quyết tranh chấp<br />
bên cạnh hòa giải, Trọng tài và Tòa án. Điều 317 Luật<br />
thương mại năm 2005 quy định thương lượng giữa các bên<br />
là một trong những hình thức giải quyết tranh chấp. Khoản 1<br />
Điều 14 Luật đầu tư năm 2014 cũng quy định: "Tranh chấp<br />
liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam được giải<br />
quyết thông qua thương lượng, hoà giải..."..<br />
Hiện tại, pháp luật Việt Nam không bắt buộc các bên<br />
phải thương lượng trước khi đưa vụ việc đến cơ quan tố<br />
tụng mà khuyến nghị các bên trước hết nên giải quyết<br />
tranh chấp bằng thương lượng. Điều 9 Luật Trọng tài<br />
thương mại năm 2010 có quy định: "Trong quá trình tô'tụng<br />
Trọng tài, các bên có quỳến tự do thương lượng, thỏa thuận với<br />
nhau ve việc giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Hội đông Trọng<br />
tài hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau ve việc giải quyết<br />
tranh châp". Khoản 2 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm<br />
2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định: "Trong quá trình<br />
giải quyêì vụ việc dân sự, các đương sự có quyen chấm dứt, thay<br />
100<br />
<br />
đôì các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự<br />
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội".<br />
Trong phưong thức thưong lượng, do đặc điểm của<br />
phương thức này là một quá trình đàm phán trực tiếp giữa<br />
các bên liên quan đến trarứì chấp mà không có sự tham gia<br />
của bên thứ ba, là quá trình khép km nên các bí mật không<br />
bị lộ ra ngoài. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị<br />
trường hiện đại, khi dịch vụ tư vấn pháp lý gắn liền với<br />
quá trình giao dịch thương mại, hầu hết các vụ thương<br />
lượng, đàm phán trực tiếp giữa các doanh nghiệp, các công<br />
ty - chủ thể của tranh chấp đều được thông qua chế đỊnh<br />
ủy quyền và chế định đại diện pháp nhân. Các cuộc thương<br />
lượng để tháo gỡ những vướng mắc, bất đồng phát sũih<br />
được thực hiện bởi các luật sư, các doanh nhân, các chuyên<br />
gia trong một số lĩnh vực với nhau. Họ là người đại diện,<br />
người được ủy quyền để đứng ra giải quyết tranh chấp. Do<br />
vậy, trong những trường hợp này, để bảo đảm cho thương<br />
lượng thành công thì cần phải có quy định chặt chẽ về việc<br />
ủy quyền, đại diện và năng lực hành vi của người trực tiếp<br />
tham gia đàm phán. Đồng thời, cũng phải quy định nghĩa<br />
vụ giữ gìn bí mật trong quá trình thương lượng của những<br />
người đại diện, người được ủy quyền này.<br />
Thương lượng là phương thức giản đơn nhất và có thể<br />
đạt hiệu quả cao trong việc giải quyết tranh chấp so với các<br />
phương thức khác nhưng do nhiều nguyên nhân dẫn đến<br />
phương thức này chưa thế phát huy được hết những ưu<br />
điểm của mình. Nguyên nhân khách quan là do các quy<br />
định của pháp luật chưa đầy đủ, thống rửiất và còn lỏng lẻo.<br />
101<br />
<br />
Nguyên nhân chủ quan là do nhận thức, trình độ năng lực<br />
và sự tự giác của các đối tượng áp dụng còn hạn chế,<br />
không tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật. Xét<br />
trong lĩnh vực thưong mại, hầu hết các văn bản quy phạm<br />
pháp luật chuyên ngành điều chủứi việc giải quyết tranh<br />
chấp thương mại đều quy định về phương thức giải quyết<br />
tranh chấp bằng thương lượng giữa các chủ thể. Như trên<br />
đã trình bày, trước đây, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ<br />
án kữứi tế năm 1994 quy định trong đơn khiếu kiện, đương<br />
sự phải trinh bày rõ về quá trình thương lượng giữa các<br />
bên. Luật thương mại năm 1997 và sau này là Luật thương<br />
mại năm 2005 cũng quy định tranh chấp thương mại trước<br />
hết phải được giải quyết thông qua thưcmg lưọng giữa các<br />
bên. Hiện nay, rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật<br />
chuyên ngành trong lĩnh vực thương mại đều quy định ưu<br />
tiên sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp thông qua<br />
thương lượng giữa các bên tranh chấp. Trong thực tiễn,<br />
hầu hết các họp đồng kmh tế, thương mại đều có điều<br />
khoản quy định các bên trong hợp đồng mi tiên áp dụng<br />
phương thức thương lượng đê’ giải quyết các tranh chấp<br />
phát sũìh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Song, do cả<br />
nguyên nhân chủ quan và khách quan, phương thức này<br />
đã không thể hiện được hết các ưu điểm của mình để trở<br />
thành phương thức hữu hiệu nhất.<br />
Trong pháp luật về thương mại của Việt Nam từ trước<br />
tới nay chưa có một văn bản nào quy định những loại tranh<br />
chấp nào thì không được thương lượng. Do đó hên thực tế.<br />
102<br />
<br />
có những tranh chấp phát sừih từ các giao dịch trái pháp<br />
luật thì các bên cũng vẫn thưcmg lượng với nhau.<br />
Hiện nay, thủ tục tiến hành thương lượng cũng đang bị<br />
bỏ ngỏ. Mọi cuộc thương lượng giữa các bên tranh chấp<br />
hoàn toàn mang túứi tự phát, nhiều khi thương lượng thất<br />
bại ngay từ những phút đầu tiên do các bên lúng túng<br />
trong việc sử dụng thủ tục thương lượng.<br />
Thương lượng là hìiứi thức giải quyết tranh chấp kũih<br />
doanh do các bên tranh chấp trực tiếp thực hiện. Phương<br />
thức thương lượng cho phép các chủ thể tranh chấp chủ<br />
động dàn xếp và kiểm soát quá trmh giải quyết tranh chấp.<br />
Tuy rửriên, cho đến nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy<br />
đữửi về hình thức pháp lý của việc ghi lìhận kết quả<br />
thương lượng giữa các bên tranh chấp ưong việc giải quyết<br />
ưanh chấp.<br />
Pháp luật của các quốc gia có nền kmh tế thị trường<br />
phát triển đều quy định hình thức pháp lý của việc ghi<br />
rứìận kết quả thưcmg lượng là biên bản. Nội dung chủ yếu<br />
của biên bản thương lượng phải đề cập các vấn đề sau:<br />
- Những sự kiện pháp lý có liên quan;<br />
- Chính kiến của mỗi bên (sự bất đồng);<br />
- Các giải pháp được đề xuất;<br />
- Những thỏa thuận, cam kết đã đạt được.<br />
Thông thường, khi biên bản thương lượng được lập một<br />
cách hợp lệ, những thỏa thuận trong biên bản thương lượng<br />
được coi là có giá ưị pháp lý như họp đồng và đương nhiên<br />
nó có giá trị bắt buộc đối với các bên. Trong trường hợp kết<br />
quả thương lượng không được một bên tự giác thực hiện vì<br />
103<br />
<br />