LUẬN VĂN:
Vai trò Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
trong việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ chế độ mới ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào), Mặt trận
Lào xây dựng Tổ quốc (trước đây là Mặt trận Lào yêu nước) luôn luôn có vị trí, vai trò cực
kỳ quan trọng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới về mọi mặt của đất nước, vai trò của
Mặt trận càng phải được thể hiện rõ hơn, nhất là trong việc thực hiện và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân các bộ tộc Lào.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một tổ chức đoàn kết thống nhất các tầng lớp
nhân dân trong xã hội Lào; nó vừa là phương thức, vừa là môi trường để nhân dân thực
hiện quyền lực chính trị của mình. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy vai
trò quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để
tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh có tổ chức, huy động tiềm lực to lớn, sáng tạo của
nhân dân trong suốt tiến trình của cách mạng Lào và thực hiện quyền lực của nhân dân
các bộ tộc Lào trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. Báo cáo Chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM) Lào, Đại hội VII đánh giá:
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc và các tổ chức quần chúng đã đóng
góp quan trọng vào việc vận động quần chúng tham gia sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước. Chúng ta rất tự hào thấy rằng truyền thống đại đoàn kết của
khối cộng đồng các bộ tộc trong nước không ngừng được phát huy và quyền
lợi chính đáng của nhân dân các bộ tộc được tăng cường, đời sống của nhân
dân các bộ tộc được cải thiện tốt hơn [43, tr. 16-17].
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị
ở CHDCND Lào (Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể nhân dân). Vì vậy,
sự vững mạnh hay yếu kém của hệ thống chính trị phụ thuộc vào cả hệ thống và vào từng
chủ thể của hệ thống.
Trong quá trình lý giải, cắt nghĩa những nguyên nhân thành công hay chưa thành
công của hệ thống chính trị ở CHDCND Lào, các nhà nghiên cứu thường chú trọng vai
trò lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước nhưng chưa chú ý thỏa đáng đến
vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân - cơ sở chính trị của chính quyền nhà nước.
Đảng có trong sạch vững mạnh, Nhà nước hoạt động có hiệu quả hay không, một phần
lớn phụ thuộc vào cơ sở xã hội của Đảng và Nhà nước có lành mạnh hay không. Vì vậy,
nên đặt ra một cách tiếp cận mới là cùng với nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng
lực hoạt động của Nhà nước trong quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị ở CHDCND
Lào cần chú ý hơn nữa đến vai trò của các tổ chức quần chúng, đặc biệt là vai trò của Mặt
trận Lào xây dựng Tổ quốc. Đây là vấn đề mà hiện nay chúng ta còn chưa chú ý đúng mức
và là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho quá trình xây dựng Đảng, cải cách
hoạt động của bộ máy nhà nước gặp khó khăn, ít tiến triển.
Nhận thức được vấn đề này, tôi chọn đề tài "Vai trò Mặt trận Lào xây dựng Tổ
quốc trong việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào hiện nay"
làm luận văn thạc sĩ chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ở Việt Nam, vai trò các đoàn thể xã hội trong việc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động luôn là vấn đề đặc biệt, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 05-05 do PGS.PTS Hoàng Chí Bảo chủ
nhiệm: "Cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay", Hà Nội, 1992.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 05-10 nghiên cứu về Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân trong quá trình đổi mới của đất nước do TS. Nguyễn Viết Vượng chủ nhiệm
đã xuất bản thành sách: "Các đoàn thể nhân dân trong kinh tế thị trường", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1994.
- "Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở hiện nay", do TSKH
Phan Xuân Sơn chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Liên quan đến đề tài còn có các luận văn:
- "Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh với việc thực thi quyền lực chính trị của
nhân dân lao động", Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Hiền Oanh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2002.
- "Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện
quy chế dân chủ ở xã tại Nghệ An", Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Lan, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
ở CHDCND Lào, vấn đề vai trò của các đoàn thể xã hội trong việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động nói chung được các nhà lãnh đạo đề cập đến một
số khía cạnh mang tính chất chung gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển chế độ
dân chủ nhân dân, thể hiện trong các Văn kiện, Nghị quyết của Trung ương Đảng
NDCM Lào, một số bài đăng trên báo Nhân dân, tạp chí Lào Sangxat và một số tạp chí
của cơ quan Đảng. Cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp
về vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong việc thực hiện quyền lực chính trị
của nhân dân các bộ tộc Lào. Nhưng những công trình đã kể trên đã cung cấp cho tác
giả tư liệu và những gợi ý về phương pháp luận để thực hiện đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu thực trạng hoạt động của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc vị trí, vai trò
của nó trong việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào; từ đó chỉ ra
những nguyên nhân yếu kém, đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của tổ chức này trong việc phát huy và thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ
tộc Lào hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích đó luận văn có nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong hệ
thống tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào.
- Phản ánh tình hình tổ chức và hoạt động của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
trong việc phát huy và thực hiện quyền làm chủ về chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào
trong thời kỳ đổi mới; xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết;
đưa ra được hệ thống những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền
lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong việc thực
hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào trong thời kỳ xây dựng và củng cố
chế độ dân chủ nhân dân hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về quyền
lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời tác giả cũng kế thừa có chọn lọc các
phương pháp nghiên cứu của các công trình và những bài viết của nhiều tác giả khác đã
được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin: chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp logic và lịch sử.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Góp phần khẳng định vị trí, vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong
việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào là tất yếu do những điều
kiện khách quan và chủ quan.
- Đóng góp những ý kiến về giải pháp để khắc phục một số yếu kém còn tồn tại
trong việc phát huy và thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào hiện
nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận, luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Mặt
trận Lào xây dựng Tổ quốc trong việc phát huy và thực hiện quyền lực chính trị của nhân
dân các bộ tộc Lào trong sự nghiệp xây dựng và củng cố chế độ dân chủ nhân dân hiện
nay.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác của ủy ban
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc; có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên
cứu, giảng dạy ở các trường đào tạo cán bộ của nước CHDCND Lào.
7. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương và 6 tiết.
Chương 1
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
trong việc thực hiện quyền lực chính trị
của nhân dân các bộ tộc Lào
1.1. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
trong hệ thống chính trị ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
1.1.1. Vị trí, vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong hệ thống
chính trị ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Trong lịch sử lâu dài hàng ngàn năm của đất nước Lào, nhân dân các bộ tộc Lào
đã làm nên những thành tích lớn lao trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân
yêu mình. Mặt trận Tổ quốc của chúng ta rất tự hào được kế tục và phát huy truyền thống
anh dũng và rực rỡ của ông cha ta. Những thành tích đã đạt được của Mặt trận trong quá
trình lịch sử phát triển của các bộ tộc Lào là to lớn, rất quan trọng và được ghi nhớ công
ơn trong lịch sử của đất nước Lào.
Kể từ cuối thế kỷ thứ XIX, bọn đế quốc thực dân Pháp xâm lược và chiếm lấy
đất nước Lào làm thuộc địa, từ đó ngọn lửa đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào đã nổi
lên ở khắp mọi miền đất nước, đó là quá trình đấu tranh chống ách thống trị ngoại xâm,
dứt khoát không chịu làm nô lệ của nhân dân Lào. Mặc dù cuộc đấu tranh đó không giành
được thắng lợi vì nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân gốc là thiếu sự lãnh đạo của
Đảng (Đảng mác xít). Nhưng cuộc đấu tranh đó là bài học kinh nghiệm quý báu của
truyền thống anh hùng và rực rỡ của nhân dân các bộ tộc Lào.
Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, cuộc sống của nhân dân Lào trở nên cùng
cực, điêu đứng, chính sách độc quyền bóc lột vơ vét kinh tế và chính sách chuyên chế về
chính trị của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ như hai gọng kìm kẹp chặt nhân dân Lào trong
vòng nô lệ, phụ thuộc. Nhân dân các bộ tộc Lào mất hết quyền tự chủ độc lập, không còn
chút quyền tự do, dân chủ nào. Sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân xâm lược Pháp làm phát
sinh và thúc đẩy những mâu thuẫn trong lòng xã hội Lào trở nên ngày càng sâu sắc: mâu
thuẫn giữa dân tộc Lào với thực dân Pháp xâm lược, mâu thuẫn giữa nhân dân Lào (mà trước
hết là nông dân) với bọn đặc quyền, địa chủ phong kiến phản bội làm tay sai của chúng.
Nhưng nhiệm vụ cấp bách đầu tiên là phải đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Mục tiêu dân tộc độc lập và mục tiêu dân chủ gắn liền với nhau. Nhưng vấn đề đặt ra là
lực lượng xã hội nào có thể tổ chức lãnh đạo, dẫn dắt cuộc đấu tranh để dành thắng lợi cuối
cùng.
Thực tế lịch sử đã chứng tỏ rằng, chỉ có giai cấp công nhân và nhân dân lao động
với đội tiên phong của nó là Đảng cách mạng lấy lý luận Mác - Lênin làm kim chỉ nam - là
người lãnh đạo lực lượng xã hội duy nhất làm tròn sứ mệnh lịch sử cao cả đó.
Ngày 03-02-1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương là cột mốc, là bước ngoặt của cách
mạng Đông Dương. Từ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng mác xít chân chính và dưới ngọn cờ
"cách mạng dân tộc dân chủ", cuộc đấu tranh của nhân dân Lào đã bước sang một giai đoạn
mới về chất. Do nhu cầu thực tiễn của cách mạng Lào, năm 1934, "Xứ ủy Ai Lào" của Đảng
Cộng sản Đông Dương được thành lập trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở Lào.
Năm 1941, dưới sự lãnh đạo của "Xứ ủy Ai Lào" đã thành lập "Mặt trận Ai Lào
đồng minh", một tổ chức cách mạng tập hợp đông đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân
yêu nước để đấu tranh giành độc lập, tự do, dân chủ cho đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của "Xứ ủy Ai Lào" (tiền thân của Đảng NDCM Lào) và "Mặt trận
Ai Lao đồng minh", cách mạng Lào kết hợp với cách mạng Việt Nam đã đánh bại thực
dân Pháp. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời (2/9/1945) tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào phát triển tiến liên giành
thắng lợi sau này.
Đến ngày 12/10/1945, bản tuyên ngôn độc lập của Chính phủ lâm thời đã được
tuyên bố trước thế giới về nền độc lập, thống nhất đất nước và quyền tự do, dân chủ của
nhân dân Lào. Nhân dân các bộ tộc Lào từ người mất nước trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh của mình, đó là một sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu thời kỳ
nước Lào giành được chủ quyền sau mấy chục năm thực dân Pháp thống trị.
Nhưng với dã tâm xâm lược, thực dân Pháp trở lại xâm lược Đông Dương lần
nữa.
Trước tình hình đó, với sự lãnh đạo của "Xứ ủy Ai Lào", ngày 20/01/1949 quân
đội "Pa-thết Lào" (quân đội giải phóng nhân dân Lào) đã được thành lập và đến ngày
13/08/1950 Đại hội đại biểu của nhân dân các bộ tộc Lào đã thành lập Mặt trận thống
nhất mang tên "Nèo-Lào-ít-xa-La". Đại hội đã đề ra cương lĩnh chính trị 12 điểm, bầu ra
ban Trung ương Mặt trận "Neo-Lào ít-xa-la" gồm 14 người và Đại hội cử ra Chính phủ Lào
kháng chiến gồm 5 người, ông Hoàng thân Suphanuvông làm chủ tịch Mặt trận, vừa làm
thủ tướng Chính phủ Lào kháng chiến [28, tr. 49]. Lúc đó Mặt trận làm nhiệm vụ như là
Quốc hội, còn Chính phủ Lào kháng chiến như là cơ quan hành pháp. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Mặt trận "Neo-Lào ít-xa-la" đã ra sức tập hợp sự đoàn kết toàn dân thành một
lực lượng hùng mạnh, liên kết đặc biệt với quân đội và nhân dân Việt Nam anh em, liên
kết ba nước Đông Dương, làm tròn sự nghiệp sứ mệnh lịch sử anh dũng như: giải phóng
đất nước mình ra khỏi ách thống trị của thực dân cũ, giành được độc lập tự do cho dân
tộc mình năm 1945.
Sau hiệp nghị Giơ-ne-vơ (1954) về Đông Dương, bọn đế quốc Mỹ, vi phạm hiệp
nghị Giơ-ne-vơ, nhảy vào thay thế thực dân Pháp. Chúng có dã tâm lấy Lào tiếp tục làm
thuộc địa. Đứng trước tình hình đó, yêu cầu cấp thiết là phải tập hợp sự đoàn kết của mọi
lực lượng xã hội rộng rãi hơn trước để đánh thắng đế quốc thực dân mới. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Mặt trận "Nèo-Lào-ít-xa-La" ngày 06 tháng 01 năm 1956 đã đổi
tên thành Mặt trận "Nèo-Lào-Hắc-xạt" (Mặt trận Lào yêu nước). Hoàng thân
Suphanuvông được bầu làm chủ tịch Mặt trận.
Mặt trận Lào yêu nước với chức năng là Nhà nước công nông là chính quyền của
nhân dân, có vai trò to lớn trong việc tổ chức, động viên, giáo dục nhân dân đoàn kết
chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng vững mạnh. Mặt trận còn làm chức năng quản lý
Nhà nước như là một chính quyền ở cấp Trung ương và địa phương. Với chức năng đó,
Mặt trận dưới hình thức chính quyền Nhà nước của cách mạng Lào (tính đặc thù) đã đề ra
những chính sách có tính chất pháp lý để quản lý các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa - xã
hội, an ninh, quốc phòng... bảo đảm cho vùng giải phóng trở thành căn cứ địa cách mạng
vững mạnh. Mặc dù chính quyền cách mạng ngày đó còn rất non trẻ, các chính sách đề ra
đều đơn giản nhưng vì đáp ứng những lợi ích thiết thực cơ bản của nhân dân (hầu hết cán
bộ và nhân dân đều gương mẫu thực hiện), cho nên đã tạo một lòng tin tuyệt đối của dân
đối với cách mạng, với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước năm 1975. Do
đó, Mặt trận Lào yêu nước coi như là một trong những phương thức và môi trường đầu
tiên để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị. Và Mặt trận Lào yêu nước đã làm tròn
nhiệm vụ to lớn của mình là đánh đuổi đế quốc thực dân mới, lật đổ và xóa bỏ chế độ cũ
chế độ phong kiến, xây dựng chế độ mới chế độ dân chủ nhân dân theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Để tập hợp sự đoàn kết toàn dân thành một lực lượng trong việc tổ chức thực
hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong công
cuộc đổi mới toàn diện của Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc của Mặt trận Lào yêu nước
năm 1979 đã đổi tên thành Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc, là một tổ chức kế tục sứ
mệnh lịch sử và truyền thống anh dũng của Mặt trận "Nèo Lào Hắc-xạt" (Mặt trận Lào
yêu nước).
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là thành tố quan trọng trong cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào. Hệ thống chính trị ở CHDCND Lào là hệ
thống chính trị theo mô hình xã hội chủ nghĩa gồm có Đảng, Nhà nước, Mặt trận các đoàn
thể nhân dân và mối quan hệ qua lại giữa chúng nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua Nhà nước và Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân thực
hiện quyền, nghĩa vụ và còn có trách nhiệm tham gia vào các công việc của Nhà nước và xã
hội. Thực chất hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là cơ chế đảm bảo quyền dân chủ của
nhân dân. Quyền lực của nhân dân muốn được thực hiện thì phải có sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị, trong đó có mặt trận là một bộ phận quan trọng. Mặt trận là sức mạnh
tập thể của bản thân nhân dân có tổ chức, là một trong những thành tố cấu thành hệ thống
chính trị vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ".
Trong cơ chế đó chức năng của Mặt trận là động viên nhân dân thực hiện những chủ
trương, chính sách do Đảng và Nhà nước đề ra.
Khi xem xét vị trí của Mặt trận trong hệ thống chính trị phải đặt nó trong mối
quan hệ phối hợp hoạt động với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Sự lớn mạnh
hay yếu kém của tổ chức này đều ảnh hưởng đến tổ chức khác và ảnh hưởng đến sự phát
triển chung của hệ thống chính trị - xã hội của đất nước. Nếu xem nhẹ vai trò của Mặt
trận thì quyền làm chủ của người dân ở cơ sở khó được đảm bảo. Bởi vì, nhân dân không
thể làm chủ một cách trừu tượng hoặc tự phát mà làm chủ những nội dung cụ thể, có các
thể chế đảm bảo, thông qua các tổ chức, các cộng đồng xã hội hoặc hệ thống Nhà nước.
Tóm lại, Mặt trận là một trong những tổ chức thực hiện quyền lực chính trị của
nhân dân, hoạt động của Mặt trận là một phương thức thực thi quyền dân chủ của nhân
dân, thông qua tổ chức này nhân dân các bộ tộc Lào phát huy vai trò của mình trong việc
tham gia bầu cử Quốc hội, xây dựng chủ trương, chính sách pháp luật. Mặt trận Lào xây
dựng Tổ quốc có vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị và xã hội của đất nước. Điều
đó đã được khẳng định tại Điều 7 Hiến pháp nước CHDCND Lào 1991: Mặt trận Lào xây
dựng Tổ quốc, Liên hiệp Công đoàn Lào, Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào, Hội
liên hiệp phụ nữ Lào các cơ quan, tổ chức xã hội là nơi tập hợp đoàn kết và động viên các
tầng lớp nhân dân các bộ tộc tham gia sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên trong
tổ chức mình [42, tr. 5]: "Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, tập hợp ý chí, nguyện vọng của nhân dân, tập hợp khối đại đoàn kết và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân" [45, tr. 3].
1.1.2. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động
- Khái niệm quyền lực chính trị
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã có một giai đoạn lịch sử không
có sự phân chia thành giai cấp, và cũng không có quyền lực chính trị. Đó là xã hội
nguyên thủy. Trong các thị tộc, bộ lạc nguyên thủy, quyền lực công biểu hiện thành các
chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán... tập trung ở quyền lực của Hội đồng công xã và
trao cho người thủ lĩnh thừa hành.
Khi chuyển sang xã hội nô lệ - xuất hiện chế độ tư hữu, hình thành giai cấp và
đấu tranh giai cấp thì quyền lực công (bộ phận cơ bản) được tổ chức thành Nhà nước.
Nhà nước xuất hiện dường như để điều hòa làm dịu mâu thuẫn giai cấp, để các giai cấp
không tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt cả xã hội. Song, cuộc đấu tranh quyền lực nhà nước
lại trở thành vấn đề trung tâm, then chốt trong hoạt động của các giai cấp, các lực lượng
xã hội. Khi một giai cấp đoạt được quyền lực nhà nước và trở thành giai cấp thống trị thì
giai cấp đó sẽ dùng quyền lực nhà nước để thiết lập sự thống trị của mình trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, để đảm bảo thực hiện lợi ích của giai cấp mình và đàn áp lại
sự chống đối của các giai cấp đối lập. Do đó, quyền lực chính trị - quyền lực của giai cấp
thống trị đã xuất hiện trong đời sống xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, là
cội nguồn của quyền lực. Nền sản xuất vật chất và các nguồn dự trữ xã hội do nó tạo ra là
điều kiện để hình thành quyền lực và quyền lực chính trị. Nhân dân lao động là chủ thể
tạo ra các nguồn lực kinh tế, xã hội làm cho nó vận động trong quá trình lao động. Vì
vậy, nhân dân lao động là nguồn gốc xã hội trực tiếp nhất của quyền lực chính trị.
Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân là người chủ chân chính những tư
liệu sản xuất của chế độ công hữu XHCN. Họ không chỉ là lực lượng tiên tiến nhất trong
nhân dân mà lợi ích cơ bản của họ còn thống nhất với lợi ích cơ bản của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Họ là bộ phận trung tâm trong nhân dân, nắm lấy quyền lãnh đạo,
quyền lực nhà nước. Vì vậy, quyền lực chính trị của nhân dân là quyền quyết định của
toàn dân đối với quyền lực nhà nước.
Sức mạnh của cuộc cách mạng XHCN được tạo nên trên nền tảng của liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Con
đường cách mạng của nhân dân lao động đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ thực
hiện mục đích chính trị đến cùng là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc giải phóng lao
động khỏi áp bức bóc lột, tổ chức cuộc sống hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Khi giành được chính quyền, nhân dân lao động sẽ thực hiện dân chủ cho mọi
người lao động. Thông qua hoạt động bầu cử, nhân dân lao động thiết lập nên bộ máy
nhà nước "kiểu mới" của mình để tổ chức và quản lý xã hội. Giai cấp công nhân và nhân
dân lao động thực hiện một nền dân chủ cao hơn các nền dân chủ trước đó, là sự tham gia
rộng rãi của nhân dân vào đời sống chính trị, vào công việc của nhà nước. Đó là nền dân
chủ của số đông mọi người chứ không phải của một số ít người đặc quyền, đặc lợi trong
xã hội. Dân chủ thực sự theo nguyên nghĩa của nó là quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Dân chủ XHCN là hình thức chính trị kiểu mới, trong đó giai cấp công nhân và nhân
dân lao động được giải phóng, trở thành người chủ của xã hội.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã nhìn thấy ở quần chúng nhân
dân là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. Theo các ông, mọi sự kiện lớn
lao trong đời sống xã hội, mọi biến đổi cách mạng xảy ra trong lịch sử sẽ không thể thành
công nếu không có sự tham gia tích cực của quần chúng.
Dân chủ XHCN là một nền dân chủ chân chính, dân chủ của số đông nhân dân
lao động, của đa số dân cư và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Bản chất của dân
chủ XHCN là tất cả quyền lợi thuộc về nhân dân, là thành quả của quá trình hoạt động tự
giác của quần chúng nhân dân. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng dựa trên hệ tư tưởng cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng mới giác ngộ lợi ích giai cấp,
lợi ích dân tộc, mới đấu tranh tự giác trong quá trình thực hiện yêu cầu dân chủ; cũng chỉ
dưới sự lãnh đạo của Đảng mác xít, quần chúng nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả
chống lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì những động cơ, mục đích đi ngược lại lợi ích
của nhân dân.
Trong dân cư, nhân dân lao động chiếm đa số, nên họ là chủ thể của quyền lực
nhà nước. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân có nghĩa là nhân dân làm chủ và kiểm soát
quyền lực về kinh tế, chính trị, xã hội và việc sử dụng những quyền lực ấy nhằm đảm bảo lợi
ích của mình trong đời sống xã hội.
Như vậy "quyền lực thuộc về nhân dân lao động có nghĩa là nhân dân lao động
làm chủ và kiểm soát quyền lực kinh tế - xã hội và việc sử dụng những quyền lực ấy
nhằm đảm bảo lợi ích của mình trong đời sống xã hội" [26, tr. 340]. Muốn thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân lao động thì phải có những hình thức tổ chức thực hiện
đa dạng, thích hợp phải có những cơ quan nhất định hoạt động thường xuyên, là công cụ
đại diện để nhân dân lao động thực hiện có hiệu quả quyền lực của mình. Do đó, dân chủ
trực tiếp và dân chủ gián tiếp được coi là hai phương thức để nhân dân thực hiện quyền
lực chính trị của mình.
Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thành công đã đem lại chính quyền và tư liệu sản
xuất cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xác lập quyền làm chủ của họ về mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa. Nhưng vấn đề quan trọng không chỉ là giành lại những quyền lợi
chính đáng trước đây bị giai cấp thống trị tước đoạt mà nhiệm vụ chủ yếu, nặng nề và vô
cùng khó khăn đặt ra là phải xây dựng một tổ chức xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, bảo
đảm củng cố vững chắc quyền lực chính trị, quyền làm chủ của người lao động.
Do đó, nhiệm vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế trở thành một trọng tâm công
tác của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lênin nói: giờ đây chúng ta phải quản
lý nước Nga, chúng ta phải hiểu rõ rằng muốn quản lý được tất cả, thì ngoài cái tài thuyết
phục, biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn vẫn phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực
tiễn. Đó là nhiệm vụ khó khăn nhất, vì vấn đề là phải tổ chức theo phương thức mới.
"Những cơ sở sâu xa nhất, những cơ sở kinh tế của đời sống của hàng chục triệu con
người" [9, tr. 301].
Kế thừa và phát huy những tư tưởng của Mác, Ăngnghen và Lênin về quyền lực
chính trị và thực thi quyền lực chính trị, Hồ Chí Minh trên nền tảng tư tưởng và truyền
thống phương Đông và bằng thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam đã làm cho hệ quan
điểm mác xít về những vấn đề này được bổ sung thêm những nội dung mới. Từ quan
niệm cho rằng quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức của một
giai cấp để trấn áp một giai cấp khác và mục đích trước mắt của những người cộng sản là
tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp
vô sản phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc. Hồ Chí
Minh khẳng định: Nhân dân Việt Nam phải giành lấy chủ quyền, và vấn đề tiên quyết là
phải xây dựng được một đảng cách mệnh để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lấy chính
quyền. Việc đấu tranh giành chính quyền, gìn giữ và củng cố chính quyền ấy là điều quan
trọng có ý nghĩa cốt tử nhất. Người tuyên bố trong Tuyên ngôn độc lập: "Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do độc lập ấy" [19, tr. 4].
Nói về vấn đề quyền lực trong chế độ mới, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng
định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân,bao nhiêu quyền hạn đều
của dân... chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra" [20, tr. 698].
Tất cả quyền lực trong nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân".
"Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" [21, tr. 515]. Như vậy,
theo Hồ Chí Minh, quyền lực trong nhà nước không phải là quyền lực của cá nhân hay
của bộ máy, mà là của toàn thể nhân dân. Cơ quan nhà nước các cấp chỉ là người chấp
hành mệnh lệnh của quốc dân, chấp hành ý chí của nhân dân. Bộ máy chính quyền nhà
nước do nhân dân bầu ra, vì vậy phải do nhân dân kiểm soát. Cũng như Lênin, chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: Nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ
thì nhân dân mới làm chủ được quyền lực của mình.
Thắng lợi vĩ đại năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào,
mở ra một trang sử mới cho dân tộc Lào, lập nên chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân
"Nhà nước của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là nhà nước dân chủ nhân dân. Mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân các bộ tộc" [46,
tr. 4].
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở CHDCND Lào hiện nay, quyền lực
của nhân dân đã từng bước được xác lập trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quyền lực chính trị của nhân dân trên lĩnh vực chính trị trước hết là:Quyền có
được một nhà nước thật sự của dân. Nhà nước đó do nhân dân bầu ra bằng phổ thông đầu
phiếu. Nhà nước đó phải thật sự là công cụ để thực thi những quyền chính đáng của nhân
dân. Nhà nước đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp và thông qua các tổ chức đại diện của nhân
dân. Nhân dân có quyền tỏ tín nhiệm hay bất tín nhiệm với một bộ phận cơ quan nhà
nước, với các cán bộ, công chức nhà nước làm lợi hoặc làm hại tới lợi ích chính đáng của
nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: "Dân là chủ thì Chính phủ là đày
tớ... nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ" [20, tr. 60].
Quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn là việc mở rộng phạm
vi của người dân tham gia vào công việc nhà nước. Nhân dân có quyền được thảo luận
mọi vấn đề lớn nhỏ có liên quan trực tiếp tới lợi ích chính đáng của mình. Với ý nghĩa
đó, quyền của người dân không chỉ được thực hiện qua các thiết chế đại diện, nó còn
được thực hiện thông qua thiết chế dân chủ trực tiếp, mà xu hướng chung dân chủ trực
tiếp sẽ ngày càng tăng. Chế độ nhất nguyên chính trị, bảo đảm giữ vững định hướng
XHCN, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, bảo đảm cho mọi người dân
quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ pháp luật. Đó cũng là biểu
hiện quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị.
Quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn là quyền giám sát các
hoạt động của nhà nước và hệ thống chính trị. Quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực
chính trị cũng đòi hỏi mọi đại biểu của dân phải được nhân dân bầu ra thật sự dân chủ
mọi công dân không phân biệt thành phần giai cấp, giới tính, nghề nghiệp lĩnh vực hoạt
động hợp pháp đều bình đẳng trước pháp luật.
Việc đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân đòi hỏi phải bảo đảm lợi ích và
quyền lực nhân dân trong lĩnh vực kinh tế và lấy đó làm cơ sở. Mục tiêu, thực chất của
quyền lực chính trị là nhằm thiết lập, duy trì một trật tự bảo vệ và phát triển các lợi ích
mà đảm bảo và trước hết là lợi ích kinh tế cho giai cấp, lực lượng xã hội nắm quyền. Do
vậy, giành giữ chính quyền để có thể thực thi được quyền lực chính trị bao giờ cũng là
mục tiêu trực tiếp, trọng yếu của giai cấp, lực lượng xã hội thống trị về kinh tế. Hơn thế
nữa giai cấp, lực lượng xã hội đó lại thường là lực lượng có đủ điều kiện để dành, giữ và
chi phối quyền lực chính trị. Giai cấp nào thống trị về kinh tế sớm muộn sẽ thống trị về
chính trị và nếu một giai cấp, lực lượng xã hội đã làm chủ về quyền lực chính trị mà
không xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ không thể
duy trì được quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị của nhân dân còn thể hiện trên lĩnh vực xã hội. Bảo đảm
quyền công dân, quyền con người, quyền được bảo vệ về mặt xã hội của mọi công dân,
khắc phục dần sự khác biệt giữa các tầng lớp xã hội, giữa các vùng của đất nước, từng
bước giải phóng con người khỏi những quan hệ xã hội phi nhân tính - đó là những biểu
hiện chủ yếu của quyền lực chính trị của nhân dân trên lĩnh vực xã hội.
Quyền lực chính trị của nhân dân còn bao hàm quyền lực của nhân dân trên lĩnh
vực tinh thần. Việc thực hiện quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực này đòi hỏi giữ vững
định hướng XHCN, bảo đảm phát huy mọi năng lực sáng tạo tinh thần của quần chúng.
Tùy theo những bước tiến đạt được trong quá trình đổi mới, nội dung và mức độ quyền
lực chính trị của nhân dân cũng không ngừng mở rộng và phát huy.
Trong chế độ dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào quyền
lực nhà nước do khối đại đoàn kết toàn dân quyết định mà nòng cốt là khối liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nội dung quyền lực
chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào hiện nay rất phong phú và có thể xét trên các quyền
cơ bản như sau:
+ Quyền tổ chức quyền lực nhà nước. Thông qua ý chí chung của nhân dân, lập
ra Hiến pháp và bầu ra Quốc hội. Hiến pháp quy định những nguyên tắc cơ bản, kết cấu
tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của quyền lực nhà nước và từng cơ quan quyền lực nhà
nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
theo Hiến pháp quy định, Quốc hội thành lập Chính phủ và các cơ quan Tư pháp. Toàn
bộ việc tổ chức quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương và từ cơ sở đều được
quy định bởi pháp luật.
+ Quyền lãnh đạo quyền lực nhà nước. Nhân dân tổ chức ra quyền lực nhà nước
nên phải thực hiện sự lãnh đạo đối với quyền lực đó. Để sự lãnh đạo tập trung và thống
nhất, nhân dân tổ chức ra một đội tiên phong, tổ chức đó là Đảng nhân dân cách mạng Lào.
Điều 3, Hiến pháp nước CHDCND Lào (1991) đã quy định: "Quyền làm chủ đất nước của
nhân dân các bộ tộc được thực hiện và bảo đảm bằng hoạt động của hệ thống chính trị do
Đảng nhân dân cách mạng Lào làm hạt nhân lãnh đạo" [46, tr. 1]. Nhưng để đảm bảo sự
lãnh đạo đó luôn đúng ý nguyện của mình, nhân dân không chỉ tham gia vào quá trình
hình thành và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương mà còn phải thực hiện quyền giám
sát đối với Đảng và Nhà nước.
+ Quyền giám sát quyền lực nhà nước. Để đảm bảo cho hoạt động của nhà nước
luôn xuất phát từ dân và vì lợi ích của dân, nhân dân các bộ tộc phải thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát, kiểm soát cơ quan nhà nước sử dụng quyền do mình ủy thác và kịp
thời điều chỉnh, uốn nắn khi phát hiện có những biểu hiện lệch lạc. Việc làm này thông
qua các tổ chức đại diện và những đại biểu do chính nhân dân bầu ra, qua các tổ chức
chính trị - xã hội của từng bộ phận nhân dân và những quyền làm chủ trực tiếp của từng
công dân; đồng thời thông qua sự tác động của các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội và các
phương tiện thông tin đại chúng buộc nhà nước phải luôn phục tùng chủ quyền tối
thượng của nhân dân các bộ tộc.
+ Quyền chấp hành nhà nước. Nhà nước thực thi quyền lực của nhân dân đã trao
cho nên mỗi người dân đều có quyền tuân thủ quyền lực nhà nước mà không ai có quyền cản
trở. Hơn nữa, làm tròn nghĩa vụ với nhà nước còn chính là quyền lợi của mỗi người dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh (người sáng lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương) đã dạy rằng: Nước ta là
nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì
phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân.
+ Quyền thực hiện quyền công dân. Là công dân của nhà nước, nhân dân có
quyền được đề cử, bầu cử người thay mặt mình và quyền được ứng cử, được bầu cử hay
bổ nhiệm vào các chức vụ của cơ quan nhà nước quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tự do lập hội, họp hội... quyền chất vấn cán bộ, công chức nhà nước và
quyền được nhà nước đáp ứng những điều kiện vật chất và tinh thần đảm bảo cho yêu cầu
tồn tại, phát triển của công dân.
+ Quyền được hưởng thụ quyền con người. Là con người, mỗi người dân đều có
những quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước phải tôn trọng, công nhận quyền tự tổ chức cuộc sống, tự
lựa chọn những giá trị, nghề nghiệp, công việc, nơi ở và làm việc, tự do thể xác và tinh
thần của mọi công dân. Nhà nước có nghĩa vụ không thể thiếu là bảo vệ danh dự và phẩm
giá, lợi ích và sự nghiệp, tính mạng và tài sản của mỗi con người, đồng thời còn phục vụ
các phúc lợi xã hội và dịch vụ công ích... Vì cuộc sống của mỗi người và sự phát triển
của con người.
1.2. Đặc điểm tổ chức của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
1.2.1. Đặc điểm
Xuất phát từ điều kiện lịch sử tự nhiên - xã hội đặc thù của đất nước Lào luôn
phải đấu tranh chống kẻ thù, thiên tai, dịch họa nên cộng đồng dân tộc Lào phải gắn bó
với nhau trong lao động và chiến đấu để dựng nước và giữ nước. Suốt chiều dài lịch sử
hàng ngàn năm của dân tộc đã dạy cho mỗi người trong cộng đồng Lào ý thức được rằng
"Hôm Kăn hau dù, Tẹch mu hau tai" (Chia rẽ thì chết, đoàn kết thì sống). Đồng chí Khăm
Tay Sỉ Phăn Đon chủ tịch Đảng NDCM Lào nhấn mạnh:
Nhìn lại rất rõ lịch sử phát triển đất nước ta, khi nào tinh thần yêu
nước được phát huy cao độ, sự đoàn kết trong nội bộ được thắt chặt thì lúc đó
đất nước ta thịnh vượng, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngược
lại, nếu tinh thần yêu nước không được nâng cao, mất sự đoàn kết trong nội bộ
nhân dân thì lúc đó đất nước ta bị tàn phá chà đạp, nhân dân ta bị áp bức bóc
lột và nghèo khổ [51, tr. 52].
Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (3/2/1930), do nhu cầu thực tiễn
của cách mạng Lào năm 1934 "Xứ ủy Ai Lào" của Đảng cộng sản Đông Dương được
thành lập trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở Lào. Đảng đã nhìn thấy sự cần thiết
tập hợp mọi lực lượng yêu nước đoàn kết xung quanh Đảng chống thực dân xâm lược.
Các giai cấp, các tầng lớp ở Lào đều bị thực dân xâm lược áp bức bóc lột, đều có nguyện
vọng thiết tha chung là giành độc lập cho dân tộc, giải phóng khỏi thân phận bị áp bức
bóc lột. Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương đã chỉ rõ:
Cuộc cách mạng trong một nước thuộc địa và nửa thuộc địa là cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đi đến thắng lợi, có thể và cần phải thành lập một
Mặt trận dân tộc rộng rãi đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội mong muốn được
giải phóng khỏi ách thuộc địa. Do đó, dưới sự lãnh đạo của "Xứ ủy Ai Lao" (tiền thân
của Đảng DNCM Lào) đã thành lập "Mặt trận Ai Lao đồng minh" năm 1941, một tổ
chức cách mạng tập hợp đông đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân yêu nước để đấu
tranh giành độc lập, tự do cho đất nước Lào. Đây là tổ chức Mặt trận đầu tiên, là một
sáng tạo to lớn của cách mạng Lào lúc đó.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Mặt trận không ngừng được củng cố và mở
rộng: Từ tổ chức Mặt trận đầu tiên là Mặt trận Ai Lào đồng Minh (1941) đến Mặt trận
Nèo Lào-ít-xa-la (1950-1956), Mặt trận Nèo Lào -Hắc xạt (Lào yêu nước) (1956-1979)
và Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (1979 đến nay).
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định. Hệ
thống tổ chức của Mặt trận được tổ chức theo 4 cấp hành chính:
+ Cấp Trung ương
+ Cấp tỉnh, thành phố, đặc khu
+ Cấp huyện
+ Cấp cơ sở (làng, bản...)
ở mỗi cấp hành chính có ủy ban Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là cơ quan chấp
hành của Mặt trận cùng cấp, do Đại hội đại biểu Mặt trận cấp đó hiệp thương cử ra, có
trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận. Mặt trận không có hội viên, chỉ có thành
viên nên hoạt động của Mặt trận thực chất là hoạt động của từng thành viên là chủ yếu.
Tính chất này chỉ riêng Mặt trận mới có, các đoàn thể khác không có. ủy ban Mặt trận
các cấp và các tổ chức thành viên tập thể, cá nhân hiệp thương thống nhất chương trình
hành động chung rồi các thành viên tiến hành vận động hội viên, đoàn viên của mình
thực hiện.
Mặt trận là một liên minh chính trị, là khối đại đoàn kết dân tộc. Trong các thời
kỳ khác nhau chức năng nhiệm vụ của Mặt trận có những thay đổi phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng của từng thời kỳ như sau:
- Thời kỳ chống thực dân cũ (1945-1954) Mặt trận Neo Lào - ít-xa- la có nhiệm
vụ tập hợp sự đoàn kết toàn dân để trở thành một lực lượng to lớn, đoàn kết đặc biệt với
quân đội và nhân dân Việt Nam, đoàn kết ba nước Đông Dương, làm tròn sứ mệnh lịch
sử vẻ vang là giải phóng ách thống trị của thực dân kiểu cũ giành lấy độc lập tự do cho đất
nước năm 1954.
- Thời kỳ chống thực dân kiểu mới Mặt trận Lào Hắc xạt (Lào yêu nước) có
nhiệm vụ tập hợp sự đoàn kết toàn dân để đánh thắng đế quốc kiểu mới, lúc này Mặt trận
có vai trò vừa là Quốc hội vừa là Chính phủ kháng chiến hoạt động trên ba mặt: chính trị,
quốc phòng và ngoại giao, thực hiện khẩu hiệu là: hòa bình, độc lập, tự do và thịnh
vượng.
Mặt trận Lào Hắc xạt đã làm tròn sự nghiệp quang vinh của mình là đánh đuổi
thực dân mới, lật đổ và xóa bỏ chế độ cũ, chế độ phong kiến, thiết lập chế độ mới, chế độ
dân chủ nhân dân năm 1975. Khi có Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ) thì chức năng,
nhiệm vụ của Mặt trận có sự thay đổi mà nhiệm vụ chính là tập hợp đại đoàn kết toàn
dân, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng, phát
triển và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng.
- Thời kỳ xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, do nhu cầu đổi mới đất nước của
Đảng, để tập hợp lực lượng toàn dân tham gia thực hiện chiến lược phát triển đất nước và
bảo vệ thành quả cách mạng, Mặt trận Lào yêu nước đã đổi tên thành Mặt trận Lào xây
dựng Tổ quốc năm 1979. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc có ba chức năng là:
+ Kế tục sự nghiệp vẻ vang của Mặt trận Lào ítxala và Mặt trận Lào Hắc xạt.
+ Tổ chức liên hiệp chính trị xã hội
+ Là cơ sở chính trị của chính quyền Nhà nước.
- Nhiệm vụ chính của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc như sau:
+ Tập hợp đại đoàn kết toàn dân, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân các bộ tộc Lào trong việc phát huy và tăng cường sự thống nhất về tư tưởng, chính trị
của toàn dân. Động viên, tuyên truyền giáo dục ý thức làm chủ của dân thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp pháp luật của Nhà nước.
+ Là nơi kết hợp, trao đổi và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên.
+ Tham gia thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
+ Kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu Quốc hội và cán
bộ công chức nhà nước.
+ Tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để trình cơ quan Đảng và Nhà nước.
+ Tham gia bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân dân cùng với Nhà nước bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân các bộ tộc Lào.
+ Tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Lào với nhân dân các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một tổ chức mang tính rộng rãi, đa dạng bao
gồm các dân tộc các tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa
tuổi, mọi vùng của Tổ quốc, người trong Đảng và ngoài Đảng, người đang công tác và
người đã nghỉ hưu, người ở trong nước và người ở nước ngoài, tôn trọng những ý kiến
khác nhau mà không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân
biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau.
Như vậy chế độ sinh hoạt thích hợp nhất của Mặt trận là chế độ hiệp thương dân chủ.
Đây là đặc điểm riêng thể hiện tính đặc thù trong hoạt động của Mặt trận.
1.2.2. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong hệ thống chính trị của đất nước
Lào
Nét đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở CHĐCN Lào là hệ thống chính trị
mang tính giai cấp sâu sắc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính giai cấp và tính dân tộc, nhân
văn. Tính dân tộc có lúc nổi trội nhưng tính giai cấp vẫn là cơ sở, là định hướng. Sự quy
định Mặt trận là thành viên trong hệ thống chính trị là do yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng Lào, là xuất phát từ bản chất của thể chế chính trị dân chủ, mọi quyền
lực thuộc về dân. Điều 2 Hiến pháp nước CHDCND Lào năm 1991 quy định: "Nhà nước
của CHDCND Lào là Nhà nước dân chủ nhân dân. Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, do
nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân các bộ tộc bao gồm các tầng lớp trong xã hội do
công nhân, nông dân và trí thức làm nòng cốt" [46, tr. 4]. Điều lệ của Mặt trận có xác
định "Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một bộ phận trong hệ thống chính trị của chế độ
dân chủ nhân dân ... là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân" [45, tr. 23].
Trong chế độ dân chủ nhân dân, nhân dân thực hiện quyền làm chủ không chỉ
thông qua tổ chức nhà nước mà còn thông qua tổ chức xã hội. Hướng phát triển của nền
dân chủ XHCN và ngày càng phát huy vai trò của các tổ chức xã hội thì Mặt trận có vai
trò quan trọng. Đó là một nét khá độc đáo trong quá trình cách mạng Lào. Một trong
những nguyên nhân thành công của Đảng NDCM Lào là "lấy dân làm gốc", dựa vào dân
và khéo vận dụng các hình thức tổ chức thích hợp của Mặt trận để đoàn kết và động viên
các tầng lớp nhân dân rộng rãi. Có thể nói một cách hình ảnh: Mặt trận là một của ba
chân kiềng trong cơ chế Đảng, Chính phủ và Mặt trận. Mặt trận phát huy được vai trò của
mình càng làm vững thêm các thế kiềng ba chân của cách mạng ở Lào hiện nay.
- Quan hệ giữa Mặt trận với Đảng DNCM Lào vừa là mối quan hệ bình đẳng vừa
là mối quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo "với tư cách vừa là thành viên, vừa là người
lãnh đạo toàn xã hội, Đảng ta phải có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và khuyến khích tổ
chức Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc làm tròn nhiệm vụ của mình" [51, tr. 52]. Trong quan
hệ bình đẳng, Đảng tham gia Mặt trận có nghĩa vụ như mọi thành viên khác, có trách
nhiệm sinh hoạt đầy đủ, thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành
động. Cấp ủy Đảng phải giáo dục Đảng viên gương mẫu thực hiện chương trình hành
động chung khi đã được các tổ chức thành viên thỏa thuận.
Để Đảng lãnh đạo Mặt trận Đảng phải ở trong Mặt trận, Đảng thực hiện vai trò
lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương chính sách Mặt trận đúng đắn, đáp ứng
yêu cầu, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Đảng tiến hành
công tác tuyên truyền, vận động thuyết phục tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của
Đảng viên. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận không ngừng được củng cố và mở
rộng. Đảng có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức cho mỗi
đảng viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho đất nước có hòa bình, độc
lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.
Trong lịch sử đấu tranh giải phóng đất nước cũng như thời kỳ xây dựng và bảo
vệ chế độ mới hiện nay, Mặt trận có vai trò to lớn trong công tác vận động nhân dân tham
gia cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp gắn liền với sự nghiệp của Mặt trận "Nèo Lào-ít-xa-la", thắng lợi vĩ
đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và thống nhất đất nước năm 1975 gắn liền
với sự nghiệp của Mặt trận "Neo Lào-Hắc-xạt". Sau đất nước Lào được giải phóng 1975,
Đảng NDCM Lào tiếp tục lãnh đạo đất nước theo con đường định hướng CNXH. Mặt
trận Lào xây dựng Tổ quốc được kế tục sự nghiệp của Mặt trận "Lào Hắc-xạt" đã góp
phần tích cực vào thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Có thể nói rằng, cả về phương diện lý luận và bài học thực tiễn của cách mạng
thế giới cũng như của Lào đã khẳng định rằng, nguồn gốc chủ yếu sức mạnh của Đảng là
ở mối liên hệ mật thiết với quần chúng, là sự ủng hộ của quần chúng đối với đường lối
chính trị do Đảng đề ra. Bởi vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào" [16, tr.
7].
Để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng luôn đúng đắn, thể hiện đầy đủ ý chí,
nguyện vọng của nhân dân và đảm bảo cho tổ chức, bộ máy và hoạt động của các cơ
quan nhà nước luôn trong sạch thể hiện đúng bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân cần có một cơ chế tổ chức sao cho chủ trương đường lối lãnh đạo của Đảng
phải được sự phản biện, quyền lực nhà nước phải được giám sát. Do vậy, ở nước ta sự
giám sát, phản biện đó là tất yếu thuộc về nhân dân và Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
cũng là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc với Nhà nước CHDCND Lào.
Chính thể của Nhà nước CHĐCN Lào được tổ chức theo hình thức cộng hòa xã
hội chủ nghĩa. Nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực nhà nước và xã hội. Dân là chủ
thì dân cũng có trách nhiệm đối với mọi việc của đất nước, từ kháng chiến, kiến quốc
đến công việc đổi mới, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng lên bộ máy Đảng và Nhà
nước, Mặt trận và đoàn thể các cấp. Là người chủ, nhân dân tổ chức ra hệ thống chính
trị để thực hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước, bằng tổ chức và hoạt động của
Mặt trận, bằng quyền và nghĩa vụ công dân theo luật định.
Khi Đảng chưa giành được chính quyền thì Mặt trận là một tổ chức thống nhất
các tầng lớp nhân dân trong xã hội Lào có vai trò to lớn trong việc tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, vận động đoàn kết nhân dân đấu tranh chống thực dân,
lật đổ và xóa bỏ chế độ cũ, chế độ phong kiến, xây dựng chế độ mới chế độ dân chủ nhân
dân; đồng thời trong nhiều thời kỳ chống Pháp và Mỹ, Mặt trận đã thực hiện chức năng
như là Quốc hội còn chính phủ Lào kháng chiến do Đại hội của Mặt trận cử ra như là
người thi hành. Mặt trận dưới hình thức chính quyền nhà nước của cách mạng Lào đã đề
ra những chính sách có tính chất pháp lý để quản lý các mặt kinh tế chính trị, văn hóa - xã
hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... bảo đảm cho vùng giải phóng 2/3 của đất nước trở
thành căn cứ địa cách mạng vững mạnh.
Khi đất nước được giải phóng (1975) chính quyền đã về tay nhân dân, chức năng
của chính quyền khác với Mặt trận chính quyền Nhà nước từ Trung ương xuống địa
phương là cơ quan quyền lực của nhân dân, thực hiện chức năng tổ chức quản lý xã hội,
quan hệ đối ngoại và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ theo Hiến pháp, pháp luật. Trái lại, Mặt
trận không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, Mặt trận có vai trò là cơ sở vững mạnh
của chính quyền nhân dân, là nơi để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị và quyền làm
chủ của mình.
Là cơ sở vững mạnh của chính quyền nhân dân, Mặt trận các cấp tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền thể hiện ở một số mặt sau:
- Mặt trận tham gia xây dựng Hiến pháp, pháp luật, chủ trương chính sách của Nhà
nước từ Trung ương đến các cấp chính quyền địa phương.
- ủy ban Mặt trận các cấp cùng với các tổ chức thành viên có tránh nhiệm vận
động động viên quần chúng nhân dân tham gia cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội. Tổ chức
hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử Đại biểu Quốc hội.
- ủy ban Mặt trận các cấp giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, Đại biểu dân
cử và cán bộ viên chức nhà nước, đề xuất ý kiến kịp thời về việc đề nghị bãi nhiệm đại
biểu Quốc hội, nếu thấy không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
- ủy ban Mặt trận các cấp tham gia quản lý sản xuất và văn hóa - xã hội phù hợp
với luật pháp và điều lệ của từng tổ chức: Cùng chính quyền cùng các cấp chăm lo và bảo
vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên thành viên và nhân dân thực hiện tốt mọi
chính sách đúng đắn của Nhà nước.
- Tổ chức Mặt trận các cấp đặc biệt là cấp cơ sở đã góp phần rất nhiều tham gia
hòa giải các tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nội bộ gia đình nhằm tạo ra
môi trường, không khí bình ổn, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong nhân dân.
Chính quyền nhân dân có sức mạnh, vượt qua những giờ phút hiểm nghèo và
hiện nay đã và đang phát huy vai trò của mình trong việc củng cố và phát triển chế độ
dân chủ nhân dân... chính là vì có một trong những nhân tố quan trọng là sức mạnh đoàn
kết của toàn dân trong Mặt trận, chính nhờ có chỗ dựa, có cơ sở chính trị là Mặt trận.
Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền là quan hệ phối hợp, bình đẳng, tôn trọng
lẫn nhau cùng thực hiện nhiệm vụ chung theo đúng trách nhiệm và quyền hạn đã được
hiến pháp và điều lệ quy định.
Nhà nước dựa vào Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để phát huy quyền làm chủ
và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực
tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ nhà nước.
Đó cũng là sức mạnh của bản thân nhà nước.
Tổ chức Mặt trận, tổ chức Nhà nước đều là đại diện cho các tầng lớp nhân dân
rộng rãi, thông qua các tổ chức đó nhân dân thực hiện quyền lực chính trị và quyền làm
chủ của mình. Chỉ khác nhau là một bên làm chủ về mặt nhà nước, nắm và thực hiện
quyền lực nhà nước đối với toàn xã hội; một bên làm chủ về mặt xã hội theo tầng lớp
nhân dân, tập hợp và động viên quần chúng.
Mặt trận là chỗ dựa của chính quyền, động viên nhân dân tham gia xây dựng
chính quyền và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Hoạt động của Nhà nước mang tính quyền lực từ trên xuống. Hoạt động của Mặt trận
mang tính chất vận động quần chúng từ cơ sở. Mặt trận chẳng những là chỗ dựa của
chính quyền mà còn sớm giúp chính quyền phát hiện và khắc phục những hiện tượng
quan liêu. Nhà nước là quyền lực còn Mặt trận là lòng dân.
1.2.3. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là liên minh chính trị Đại biểu cho
khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc
Lào
Về khái niệm Mặt trận, theo cách hiểu chung nhất của từ này thì Mặt trận là một
tập hợp các lực lượng các tổ chức, các cá nhân cùng theo đuổi một mục tiêu, một định
hướng một lý tưởng. Theo Từ điển Tiếng Việt 2001, Mặt trận là Tổ chức rộng rãi gồm
nhiều giai cấp, tầng lớp, tổ chức hoặc nhiều nước liên minh với nhau để đấu tranh cho
một mục đích chung (Nxb Đà Nẵng năm 2001). Nói một cách khác, Mặt trận Lào xây
dựng Tổ quốc là một liên minh chính trị của mọi người Lào yêu nước, là một liên minh
chính trị của các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và
tiến bộ của dân tộc để hướng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây
dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều lệ của Mặt
trận Lào xây dựng Tổ quốc có quy định: "Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một bộ phận
trong hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân, là liên minh chính trị rộng rãi, liên
hiệp tự nguyện các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Lào định cư ở nước
ngoài" [44, tr. 2].
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là thành viên chiến lược của hệ thống chính trị
và có vai trò to lớn đã thể hiện trong suốt tiến trình lịch sử của cách mạng giải phóng dân
tộc và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Một trong những mục tiêu
cơ bản của chính trị và cả hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay là xây dựng và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, nền dân chủ với quảng
đại quần chúng nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Nền dân chủ ấy có sự thống nhất về cơ
bản giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại.
Hiến pháp nước CHDCND Lào đã khẳng định: "Nhà nước, nước CHDCND Lào là Nhà
nước dân chủ nhân dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của
nhân dân các bộ tộc, bao gồm các tầng lớp trong xã hội do công nhân, nông dân, và trí
thức làm nòng cốt" [46, tr. 4]. Trong chế độ ta, dân chủ được thực hiện bằng cả hệ thống
chính trị, bao gồm Nhà nước, Đảng NDCM Lào, Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị, xã hội khác.
Hệ thống chính trị do Đảng NDCM Lào (Đảng mác xít) lãnh đạo là cơ chế đảm
bảo quyền lực của nhân dân Lào. Đó là căn cứ lý luận để khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị, với Nhà nước, sự cần thiết phải tập hợp quảng đại quần
chúng nhân dân xung quan Đảng trong tổ chức Mặt trận, khẳng định mục tiêu đổi mới
của cả hệ thống chính trị nói chung và với mỗi thành tố cấu trúc nên hệ thống chính trị
nói riêng, cũng như với Mặt trận là nhằm thực hiện tốt chế độ dân chủ nhân dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân các bộ tộc Lào. Điều đó đặt cơ sở khách quan cho hoạt động
của Mặt trận và cũng là cơ sở để xác định quan hệ giữa Mặt trận với các nhân tố cấu
thành hệ thống chính trị và nội dung lãnh đạo của Đảng với Mặt trận.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một liên minh chính trị, là tổ chức tiêu biểu cho
khối đại đoàn kết toàn dân thể hiện trên những vấn đề sau:
- Mặt trận là nơi quy tụ đại diện tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc,
tôn giáo... thực hiện chức năng tư vấn và giám sát đối với hoạt động của nhà nước và cả
đối với Đảng.
- Mặt trận thật sự là nơi hiệp thương bầu cử các cơ quan quyền lực nhà nước ở
Trung ương và địa phương.
- Mặt trận thật sự có đại diện trong cơ quan quyền lực dân cử (Quốc hội). Các đại
diện ấy do các thành viên của Mặt trận lựa chọn và cử vào danh sách bầu vào cơ quan
quyền lực của dân (Quốc hội).
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một bộ phận quan trọng trong công tác vận
động quần chúng của Đảng. Cách mạng Lào cũng như các nước khác, muốn giành thắng
lợi sau khi có đường lối đúng phải tiến hành tuyên truyền giáo dục, giác ngộ, vận động và
tập hợp quần chúng thành lực lượng có tổ chức để làm cách mạng. Đảng của giai cấp
công nhân phải thực hiện liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác. Sự
liên minh ấy là một tất yếu.
Sau khi đất nước Lào được giải phóng (1975) Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc kế
tục sự nghiệp của Mặt trận Lào "ít xa -lạ" và Mặt trận "Lào Hắc xạt" giữ vai trò to lớn
trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
có được thành tích đó chính là vì Đảng có ý thức sâu sắc về sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là liên minh chính trị, tính chất liên minh chính
trị của Mặt trận vạch rõ đây không phải là một đoàn thể chính trị đơn nhất, không phải là
tổ chức của một nhóm người mà liên minh chính trị của tất cả các lực lượng chính trị
trong nước; tính chất liên minh của Mặt trận được đặt trên cơ sở tất cả các thành viên
cùng chung một mục tiêu cơ bản: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn
minh. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính giai cấp và tính
dân tộc, tính dân tộc luôn rộng rãi và nổi trội, tính giai cấp là cơ sở, là định hướng. Tính
dân tộc biểu hiện từ mục tiêu tập hợp, đối tượng tập hợp đến nguyên tắc tập hợp và hoạt
động của Mặt trận.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc không có hội viên, chỉ có thành viên nên hoạt
động của Mặt trận thực chất là hoạt động của từng thành viên là chủ yếu, Mặt trận Lào
xây dựng Tổ quốc hiện nay gồm có bốn thành viên quan trọng là:
+ Liên hiệp công đoàn Lào (thành lập 1/2/1966) là tổ chức chính trị của giai cấp
công nhân Lào, giai cấp tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời gian qua cũng như hiện nay Liên hiệp công
đoàn Lào đã chú trọng quan tâm xây dựng cả về chất và số lượng đội ngũ công nhân, nông
dân và trí thức trở thành lực lượng nòng cốt của cách mạng Lào, một số hội đoàn trưởng
thành cán bộ nòng cốt của Đảng và nhà nước. Hiện có 24.554 đoàn viên là đảng viên, chiếm
1/5 tổng số đảng viên, có 30.786 đoàn viên công đoàn là đoàn viên Đoàn thanh niên NDCM
Lào, 21.501 đoàn viên là hội viên Hội liên hiệp phụ nữ.
+ Đoàn thanh niên Nhân dân cách mạng Lào (thành lập 14/4/1955) là tổ chức
chính trị của thế hệ trẻ, thế hệ đầy sức sống sẽ tiếp nối sự nghiệp của ông cha, mà đã từng
"rèn luyện trong ngọn lửa chiến tranh cách mạng giải phóng đất nước", là nguồn nhân lực
của đất nước đang phấn đấu thi đua thực hiện "khẩu hiệu: 2 đoàn kết 3 tốt và 4 phát triển"
hiện có khoảng 1.370.000 thanh niên. Trong đó 31.720 đoàn viên là công nhân, 150.000
đoàn viên là nông dân, 42.834 đoàn viên là sinh viên, 18.900 đoàn viên là cán bộ công
chức nhà nước và 47.405 đoàn viên là đảng viên Đảng NDCM Lào.
+ Hội Liên hiệp phụ nữ Lào (thành lập 20/07/1955) hiện có 813.097 hội viên là
tổ chức chính trị đại diện của một nửa công dân cả nước, có nhiệm vụ thực hiện quyết
làm chủ của các chị, các mẹ trong phong trào thi đua "ba tốt" (công dân tốt, phát triển tốt,
gia đình có văn hóa tốt) và trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
+ Đảng NDCM Lào (thành lập 22/03/1955) có 127.430 đảng viên, là tổ chức
chính trị cao nhất của giai cấp công nhân Lào, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân
và nhân dân các bộ tộc Lào. Đảng NDCM Lào là người lãnh đạo duy nhất hệ thống chính
Lào "Đảng vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc".
Ngoài ra còn có Hội cựu chiến binh Lào mới được thành lập năm 2002, là tổ
chức chính trị - xã hội tiêu biểu của "Anh bộ đội giải phóng" đã từng vào sinh ra tử, chiến
đấu hy sinh một phần xương máu cho sự nghiệp giành, giữ và bảo vệ nền độc lập cho Tổ
quốc.
Như vậy, Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một liên minh chính trị của các giai
cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và tiến bộ của dân tộc hướng vào
mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước Lào hòa bình độc lập,
dân chủ, thống nhất và thịnh vượng. Bản chất liên minh chính trị của Mặt trận là "thống
nhất hành động" để xây dựng và bảo vệ đất nước, tổ chức và hoạt động của Mặt trận tiêu
biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết dân tộc do Đảng Nhân dân cách mạng
Lào lập ra và lãnh đạo. Điều lệ của Mặt trận Lào có quy định "Mặt trận Lào xây dựng Tổ
quốc là một bộ phận trong hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân, là liên minh
chính trị rộng rãi, liên hiệp tự nguyện các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người
Lào định cư ở nước ngoài" [45, tr. 2].
*
* *
Thực hiện quan điểm "lấy dân làm gốc" là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết
định sự thành công của cách mạng giải phóng dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước Lào
hiện nay. Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã chú trọng quan tâm đến việc phát huy nhân
tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ rất
quan trọng của Đảng, Nhà nước và Mặt trận. Một khi được làm chủ thì nhân dân sẽ chủ
động, sáng tạo giải quyết những vấn đề sống còn của đất nước, của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trong chế độ dân chủ Nhân dân, nhân dân các bộ tộc Lào thực thi
quyền lực chính trị của mình qua hai phương thức: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp
nhằm phát huy quyền làm chủ của mình. Với tư cách là tổ chức đại diện, hệ thống chính
trị có vai trò bảo đảm việc thực thi quyền lực chính trị của nhân dân, trong đó Mặt trận
Lào xây dựng Tổ quốc có vai trò quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, Mặt trận vừa là phương thức vừa là môi trường để nhân dân thực hiện quyền lực
chính trị của mình.
Chương 2
Thực trạng hoạt động của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong việc thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào
2.1. Một số nét về tình hình kinh tế - xã hội và đổi mới chính trị có liên quan
đến sự hình thành và hoạt động công tác Mặt trận Lào
- Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là một nước nhỏ bé có diện tích tự nhiên là 236.800 km2, dân số năm 2003 là 5.679 ngàn người, nằm ở khu vực trung tâm của tiểu
vùng sông Mêkông mở rộng, là nước duy nhất nằm ở nội địa Đông Nam á có biên giới
giáp với 5 nước trong khu vực:
+ Phía Bắc Lào giáp Trung Quốc với đường biên giới dài 505 km.
+ Phía Tây Bắc Lào giáp Mianma với đường biên giới dài 236 km.
+ Phía Tây Lào giáp Thái Lan với đường biên giới dài 1.835 km.
+ Phía Đông Lào giáp Việt Nam với đường biên giới dài 2.069 km.
+ Phía Nam Lào giáp Campuchia với đường biên giới dài 435 km.
Thủ đô Viêng Chăn là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước,
có cầu hữu nghị qua sông Mêkông và sự khơi thông đường sắt đi qua cây cầu này sẽ nối
Lào với hệ thống đường sắt của Thái Lan ở phía Tây và hành lang Đông - Tây trong kế
hoạch nối Thái Lan qua Nam Trung Lào và Việt Nam ra các cảng nước sâu của Việt Nam
ở phía Đông. Đó sẽ là những điều kiện để phát triển quan hệ kinh tế giữa Lào với Việt
Nam và Thái Lan cũng như các nước trong khu vực và quốc tế. Do vị trí địa lý đặc biệt
của mình, CHDCND Lào được coi như một "Địa bàn trung chuyển" của Đông Nam á lục
địa từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam và ngược lại. Vị trí địa lý này đã thúc đẩy
ASEAN đẩy mạnh hợp tác với CHDCND Lào và là điều kiện thuận lợi để CHDCND Lào
đẩy mạnh quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế.
- Về tình hình kinh tế - chính trị xã hội Lào trước khi giải phóng
Nước Lào là một trong những nước chậm phát triển nhất của thế giới. Nếu nhìn
lại lịch sử phát triển của Lào, thì sự tiến hóa của xã hội Lào chưa vượt qua thời kỳ phong
kiến cát cứ, lại bị phong kiến nước ngoài và chủ nghĩa đế quốc đô hộ gần 200 năm. Vì
vậy, nền kinh tế của Lào về cơ bản là một nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính chất tự
nhiên, nửa tự nhiên, tự cung tự cấp. Nhân dân sống chủ yếu bằng nghề canh tác ruộng rẫy
với những phương tiện thô sơ và năng suất lao động rất thấp. Mặc dù làm ăn rất vất vả
nhưng hàng năm nhân dân vẫn bị thiếu đói, có nơi tình trạng thiếu ăn liên miên, chế độ
"cuồng", "lam" (cuồng nghĩa là nội thất; lam nghĩa là buộc, trói) của phong kiến bóc lột
nông dân tàn tệ càng làm cho họ thêm nghèo khổ.
Suốt thời gian thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và thống trị, nước Lào
luẩn quẩn trong sự lạc hậu về kinh tế. Chúng dựa vào giai cấp phong kiến để đặt ách
thống trị, áp bức bóc lột nhân dân các bộ tộc Lào rất nặng nề, chủ yếu là nông dân lao
động các bộ tộc. Đặc biệt là đế quốc Mỹ, chẳng những không đầu tư được cơ sở sản xuất
như đường sá, thủy lợi... mà còn tiến hành chiến tranh liên miên phá hoại nặng nề nền sản
xuất và đời sống của nhân dân trên phần lớn lãnh thổ đất nước, làm cho cuộc sống nhân
dân vốn đã nghèo khổ lại càng nghèo khổ thêm, giao thông vận tải đi lại rất khó khăn.
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nền kinh tế Lào trở thành
nền kinh tế phụ thuộc. Thực dân Pháp và đế quúc Mỹ chi phối toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Chúng chủ trương xây dựng nước Lào thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của chúng
và vơ vét những tài nguyên quý báu của Lào như gỗ, nông sản, lâm sản... Nhìn chung,
nền kinh tế - xã hội Lào lúc bấy giờ rất lạc hậu, ở nông thôn hàng hóa rất thiếu thốn, nhân
dân thiếu đói, đường sá đi lại rất khó khăn. Nhân dân các bộ tộc phần lớn vẫn sinh sống
bằng phá rừng làm rẫy, hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết khí hậu, làm ăn nặng nhọc, "bán
mặt cho đất, bán lưng cho trời" trong hoàn cảnh ốm đau, bệnh tật, chủ nghĩa thực dân cũ
và mới tiến hành chính sách ngu dân, chia rẽ để thống trị. Trong điều kiện kinh tế - xã hội
như vậy, nhân dân các bộ tộc Lào đã bị trói buộc vào nền kinh tế tự nhiên, nửa tự nhiên,
tự cung tự cấp, trình độ văn hóa rất thấp kém. Giai cấp công nhân quá ít ỏi, chưa được
rèn luyện kỷ luật lao động nghiêm ngặt của nền sản xuất phát triển, chưa được hưởng
thành tựu khoa học, kỹ thuật của thời đại, chưa quen với sản xuất có tổ chức, có quản lý
điều hành bằng kỷ cương pháp luật và cũng chưa hiểu dân chủ và chế độ dân chủ là thế
nào? Quyền lực và quyền lực chính trị là gì? Họ mang nặng phong tục tập quán, coi
thường pháp luật, có tác phong tự do, tùy tiện, tản mạn, cá nhân, cục bộ, địa phương.
Do tình hình kinh tế - xã hội còn thấp kém, lạc hậu, sau khi giải phóng đất nước
(1975), cách mạng Lào chưa đủ điều kiện để đi thẳng lên xây dựng CNXH mà phải xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân định hướng lên XHCN trong tương lai.
Theo "Báo cáo tổng hợp quy hoạch kinh tế - xã hội đến năm 2010" của ủy ban kế
hoạch Nhà nước Lào (năm 2000): Hiện nay nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào phát triển
nông lâm nghiệp, mang nặng tính sản xuất tự nhiên, tự cung tự cấp. Điểm xuất phát thấp,
cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, nghèo nàn lạc hậu. Sự hợp tác với nước ngoài dù đã góp
phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế trong những năm qua, song quy mô và mức độ
còn hạn chế. Các tiềm năng kinh tế chưa được phát huy một cách có hiệu quả, phần lớn
đất, rừng và tài nguyên năng lượng vẫn ở dạng tiềm năng, chưa được đầu tư khai thác và
hiệu quả kinh tế đem lại còn rất thấp.
Qua những năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, tuy đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng với sự cố gắng to lớn của Đảng,
Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào, nền kinh tế của cả nước đã từng bước vượt qua
những thử thách gay gắt và đạt được nhiều thành tựu lớn có ý nghĩa quan trọng. Cơ cấu
kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng nông lâm
nghiệp trong GDP từ 61,2% năm 1990 giảm xuống 51,3% năm 2000; công nghiệp và xây
dựng từ 14,5% tăng lên 22,6%, dịch vụ từ 24,3% tăng lên 26,1%.
Với sự tăng trưởng ổn định và khá cao trong nhiều năm nên mức sống của nhân
dân đã được nâng lên đáng kể: năm 1975 GDP bình quân đầu người chỉ đạt 70 USD/ người/
năm, năm 1995 là 260,6 USD/ người/ năm, năm 2005 là 440USD/ người/ năm.
Nhờ có chính sách mở cửa và luật đầu tư nước ngoài hợp lý nên đến năm 2002
đã thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài có tác động mạnh đến phát triển kinh tế -
xã hội đất nước (102 dự án với số vốn đầu tư 132.318.200 USD) [56, tr. 78].
Tóm lại, nền kinh tế của CHDCND Lào hiện nay là nền kinh tế phát triển theo
định hướng XHCN, nền kinh tế dựa trên sự phát triển cơ cấu kinh tế nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế hợp
tác và các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Yêu cầu số một của việc phát triển
kinh tế là phải tập hợp được mọi lực lượng xã hội vào trong một tổ chức sản xuất nhất
định và Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc đã có thành tích rất lớn trong việc huy động và tập hợp
các lực lượng xã hội vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đặc trưng về xã hội Lào
Lào là một nước có nhiều thành phần dân tộc. Đơn vị cơ sở của mỗi thành phần
dân tộc ở Lào được gọi là "phầu" tương đương với bộ tộc. Cả nước Lào có 49 phầu [29,
tr. 1]. Số lượng đông đảo các phầu và đặc điểm cư trú xen cài chặt chẽ giữa các phầu trên
bình diện toàn quốc, thậm chí có nơi đến từng mường (huyện), bản (làng) tạo nên một
bức khảm dân tộc hết sức phong phú và đa dạng.
Cách mạng Lào đã thành công trong việc diễn đạt tiếng nói chung của cộng đồng
dân tộc Lào bằng cách gọi các phầu Lào theo ba khối: Khối thứ nhất là các phầu Lào ở
dưới thấp, chiếm lĩnh khu vực đồng bằng, thung lũng ven sông hay thung lũng ven chân
núi, "tức là nhóm Lào Lùm đa số chiếm 64% dân số; khối thứ hai là nhóm Lào Thơng ở
các cao nguyên và đồng bằng, chiếm 22% dân số; khối thứ ba là nhóm Lào Xủng sống ở
đỉnh núi, chiếm 14% dân số" [8, tr. 26]. Hiện nay, sau khi đất nước được giải phóng năm
1975, do chính sách của Đảng và Nhà nước Lào, nhân dân các bộ tộc Lào (các phầu) đã
tiến hành sản xuất phát triển kinh tế làm cho các khu vực kinh tế gắn chặt với nhau từ
Bắc đến Nam, từ đỉnh núi đến đồng bằng, từ thành phố đến nông thôn, làm cho ba khối
Lào ngày càng đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng nhau xây dựng Tổ quốc.
Ngay từ thời xa xưa, việc nhận thức sâu sắc đoàn kết dân tộc là nguyện vọng
sống còn của nhân dân các bộ tộc Lào (từ huyền thoại quả bầu đến hiện thực đó là đại
đoàn kết của các bộ tộc Lào sinh động). Người Lào vốn có một ý thức cộng đồng cao,
sống chan hòa trong cộng đồng "như hình thức công xã nông thôn"; họ luôn mong mọi
người sống tốt đẹp, gặp nhiều may mắn để hưởng hạnh phúc, đồng thời đòi hỏi một sự
đối xử công bằng cho tất cả mọi người.
Xã hội Lào trước khi thực dân Pháp vào xâm lược là một xã hội phong kiến
(phong kiến phân tán yếu ớt, chưa tập quyền). Cơ sở kinh tế của xã hội Lào lúc bấy giờ là
nền nông nghiệp trồng lúa nước và làm rẫy ở trình độ lạc hậu, tự cung tự cấp khép kín,
phân tán, ít giao lưu. Trên cái nền kinh tế thấp kém đó, hình thành lên một cấu trúc xã hội
theo kiểu thiết chế phong kiến phương Đông: Vua - quan - thần dân. Khi thực dân Pháp
nhảy vào xâm lược, tuy ít nhiều có làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế- xã hội ở nước Lào.
Song về cơ bản xã hội Lào lúc này vẫn là một xã hội thuộc địa lệ thuộc, dựa trên thiết chế
có tính chất quan liêu, quân phiệt để duy trì ách áp bức, nô dịch của bọn đế quốc bên
ngoài và phong kiến tay sai ở trong nước. Trong một xã hội như thế, con người Lào tất
yếu còn chịu ảnh hưởng khá sâu đậm của những tư tưởng, tập tục phong kiến xa lạ với
các thiết chế dân chủ, xa lạ với những nhu cầu về các quyền cơ bản của con người.
Xã hội Lào trước khi giải phóng là một xã hội phong kiến - nửa thuộc địa. Quá
trình phát triển của nó được diễn ra một cách chậm chạp với một số đặc điểm như: trình
độ phân hóa giai cấp chưa cao, chưa sâu sắc vì nhiều nguyên nhân do lịch sử, địa lý và
kinh tế, hơn nữa, lại bị chế độ phong kiến sơ kỳ thống trị nhiều thế kỷ, tiếp theo là chế độ
thực dân cũ và mới.
Sau khi đất nước được giải phóng năm 1975, Lào đã xây dựng và phát triển chế
độ CHDCND để tạo tiền đề vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và Chính phủ đã cố
gắng tạo mọi điều kiện để biến đổi nhiều mặt trong xã hội và phát triển kinh tế.
- Đặc trưng chính trị và tình hình hệ thống chính trị ở CHDCND Lào hiện nay
Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, xuất hiện khi giai cấp ra đời, ngay từ
đầu đã là một vấn đề nổi bật trong đời sống xã hội. "Chính trị" theo nguyên nghĩa của nó
là những công việc nhà nước hay xã hội, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ các
giai cấp, các dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành,
giữ và sử dụng quyền lực nhà nước [24, tr. 61].
Chính trị là phạm trù rộng lớn. Cái quan trọng nhất trong chính trị, theo Lênin, là
"Tổ chức chính quyền nhà nước", Vì vậy, "chính trị là sự tham gia vào những công việc
của Nhà nước, là việc vạch hướng đi cho Nhà nước, việc xây dựng những hình thức,
nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước [10, tr. 404].
Theo Lênin, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh tế được cô đọng
lại. Điều đó có nghĩa là chính trị của một giai cấp là do địa vị thống trị trong kinh tế sẽ
trở thành giai cấp thống trị xã hội về mặt chính trị. Sự thống trị về kinh tế chỉ được thực
hiện một cách đầy đủ bằng quyền lực của Nhà nước và Nhà nước là công cụ chủ yếu để
đảm bảo quyền lợi cho giai cấp thống trị, trong đó lợi ích kinh tế là cái cơ bản nhất.
Xuất phát từ luận điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng NDCM Lào từ khi
mới ra đời đã vận dụng, tuyên truyền, giáo dục nhân dân các bộ tộc Lào tham gia làm
cách mạng dân tộc dân chủ, từng bước tiến hành đập tan bộ máy nhà nước của bọn phong
kiến - thực dân cũ và mới, giải phóng đất nước, giành chính quyền về tay giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã làm thay đổi tình hình chính trị ở Lào.
Sau hơn 30 năm đấu tranh giành chính quyền của nhân dân các bộ tộc Lào, đến ngày 2-
12-1975, cách mạng Lào đã thành công, toàn bộ chính quyền đã chuyển về tay giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào. Nhân dân các
bộ tộc Lào đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong Báo cáo chính trị
Đại hội V của Đảng NDMC Lào đã nhấn mạnh: "Trong chế độ dân chủ nhân dân, Nhà
nước là của dân, do dân và vì dân; mọi hoạt động của Nhà nước đều nhằm đem lại cơm
no, áo ấm cho nhân dân và làm cho đất nước giàu mạnh" [38, tr. 42]. Đó là bản chất của
chế độ dân chủ nhân dân ở Lào. Trong Chương 1, Điều 2 Hiến pháp đầu tiên của nước
CHDCND Lào (năm 1991) cũng đã ghi rõ: "Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là
Nhà nước dân chủ nhân dân. Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì quyền
lợi của nhân dân các bộ tộc bao gồm các tầng lớp trong xã hội do công nhân, nông dân và
trí thức làm nòng cốt" [46, tr. 4].
Thực tế gần 30 năm xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân ở Lào, nhân
dân các bộ tộc Lào đã và đang tham gia làm chủ đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đánh tan và chống lại kẻ phản động, đập tan mọi âm mưu của kẻ thù, giữ vững an ninh,
trật tự, Tổ quốc. Tình hình chính trị không chỉ được giữ vững và ổn định mà còn được
nâng cao và phát triển một bước nữa trong việc phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong
quan hệ quốc tế, làm cho Đảng và nhà nước Lào ngày càng có uy tín và được sự tín
nhiệm của nhân dân cả nước và quốc tế.
Hệ thống chính trị là thuật ngữ phản ánh cơ cấu tổ chức và quan hệ chính trị của
bất cứ một xã hội nào còn có những giai cấp khác nhau và mỗi xã hội đó bao giờ cũng có
một hệ thống chính trị thích ứng với nó. Xét từ phương diện kết cấu và chức năng, hệ
thống chính trị được hiểu như là một chỉnh thể các tổ chức nhà nước, các đảng phái, các
đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội khác chịu ảnh hưởng lãnh đạo của một chính đảng
của giai cấp cầm quyền, nhằm tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội, duy trì và phát
triển xã hội đó.
Cơ cấu của hệ thống chính trị, một mặt bao gồm các nhân tố chính trị, xã hội như
các tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác. Mặt khác, còn bao gồm
các nhân tố tư tưởng, tinh thần thể hiện dưới dạng những luận điểm chính trị, chuẩn mực
quan hệ... nhằm kích thích hoạt động chính trị. Bởi vậy, hệ thống chính trị không phải chỉ
là sự tập hợp của các nhân tố tổ chức mà còn bao hàm cả nhiều yếu tố quan hệ.
Hệ thống chính trị XHCN là một tổng thể các nhân tố chính trị, bao gồm Nhà
nước, các tổ chức, các đoàn thể chính trị hoạt động theo một cơ chế bảo đảm tập trung
mọi quyền lực thuộc về nhân dân lao động, bảo đảm cho xu hướng và khả năng đi lên
CNXH từng bước trở thành hiện thực.
Chế độ dân chủ nhân dân ở Lào hiện nay "mặc dù chưa hoàn toàn là chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng ngay trong bản thân nó từ đầu đã có những yếu tố XHCN
mà những yếu tố đó giữ vai trò quyết định thế phát triển tiến lên CNXH [37, tr. 28]. Do
đó, hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân ở Lào hiện nay theo Báo cáo của
Đại hội V của Đảng NDCM Lào: "Hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân ở
nước ta gồm: Đảng Nhân dân cách mạng Lào, các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các tổ
chức quần chúng, trong đó Đảng Nhân dân cách mạng Lào là hạt nhân lãnh đạo" [38, tr.
42].
Hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân Lào ra đời, tồn tại và phát triển
là kết quả của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
NDCM Lào. Sự ra đời của nó được quy định bởi những điều kiện chính trị, kinh tế và xã
hội phù hợp với quy luật vận động khách quan của xã hội Lào. Trải qua gần 30 năm xây
dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân ở Lào, đến nay hệ thống chính trị ấy đã đạt
được những thành tựu nhất định, đồng thời cũng đang bộc lộ những mặt yếu kém, không
phù hợp với sự phát triển chính trị, kinh tế - xã hội và hoàn cảnh thế giới hiện nay, cần có
sự bổ sung, đổi mới.
Nhìn chung, sự hoạt động của hệ thống chính trị ở Lào còn trong tình trạng chưa
nhịp nhàng, đồng bộ, còn nhiều mặt hạn chế. Tệ quan liêu đã dẫn đến hình thành một bộ
máy đồ sộ, nhiều tầng lớp, cản trở lẫn nhau. Trong hệ thống, mối quan hệ giữa sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân
khác, giữa mặt tập trung của chính quyền Trung ương và quyền tự chủ năng động của
từng địa phương, từng cơ sở, giữa chủ trương, nghị quyết và việc thực hiện nó trong cuộc
sống... đang còn nhiều trục trặc cần tháo gỡ.
Hiện tượng "nhà nước hóa" tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng trong hệ
thống chính trị đã hạ thấp ý nghĩa của nền dân chủ nhân dân, cản trở việc thực hiện quyền
lực chính trị của nhân dân. Bệnh dân chủ hình thức, tệ quan liêu còn khá phổ biến trong
hoạt động của các tổ chức đảng, Nhà nước và đoàn thể quần chúng. Hệ thống pháp luật
chưa hoàn chỉnh, pháp luật không được thực hiện nghiêm minh, tình trạng vô tổ chức, vô
kỷ luật, cục bộ địa phương vẫn có chiều hướng tăng lên. Tình hình đó khiến cho vai trò
lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước cũng như chức năng của cả hệ thống
chính trị đều bị suy giảm. Lòng tin của một bộ phận trong nhân dân vào chế độ mới bị
giảm sút. Quyền lực chính trị, quyền làm chủ của nhân dân bị hạn chế, thiếu dân chủ.
Sau Đại hội lần thứ IV của Đảng NDCM Lào (năm 1986), Đảng và Nhà nước
Lào đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để phát huy quyền làm chủ nhân dân, mở
rộng dân chủ nội bộ. Vì thế, bước đầu đã tạo ra bầu không khí dân chủ trên mọi lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội và trong những hoạt động của bản thân hệ thống chính trị.
Đổi mới hệ thống chính trị là nhằm đảm bảo cho đời sống xã hội có nhiều dân chủ hơn.
Thực tế mấy năm gần đây cho thấy, các tổ chức Đảng, Nhà nước, tổ chức Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân, trong một số chủ trương và hoạt động đã thể hiện dân chủ hơn, bớt
tập trung quan liêu hơn bằng phương pháp dân chủ như đối thoại, lấy ý kiến nhân dân, trả
lời và giải quyết những điều mà nhân dân nêu ra. Đảng và Nhà nước đã có ý thức tôn
trọng dân, gần dân hơn, vì thế đã kịp thời hiểu được tâm tư nguyện vọng của dân (như
Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị về việc chuyển hướng xuống cơ sở, lấy dân làm gốc;
Chỉ thị số 01 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng tỉnh, thành là đơn vị chiến lược;
huyện, mường là đơn vị kế hoạch và ngân sách; làng, bản là cơ sở tổ chức thực hiện...).
Đồng thời cũng đã chú trọng đến việc bầu cử đại biểu Quốc hội đúng theo nhiệm kỳ. Kể
từ ngày giải phóng đất nước năm 1975 đến năm 2002, đã tổ chức bầu cử đại biểu Quốc
hội 5 lần và bầu được 413 đại biểu (xem phụ lục 5).
Từ đó, trong tổ chức và phương thức hoạt động của các phân hệ hợp thành hệ
thống chính trị bước đầu đã có sự đổi mới, giảm bớt được một phần hiện tượng Đảng bao
biện làm thay công việc của các cơ quan nhà nước. Bộ máy nhà nước cũng bắt đầu tinh
giản, giảm bớt đi những đầu mối trung gian và những bộ phận cồng kềnh nhằm hợp lý
hóa hơn nữa bộ máy quản lý của Nhà nước và bộ máy lãnh đạo của Đảng. Đồng thời
cũng nghiên cứu, đề ra các bộ luật và hiến pháp. Đến năm 2005 ở CHDCND Lào có 58
bộ luật và Hiến pháp (xem phụ lục 6). ở các cấp, các ngành đã có sự tiến hành kiện toàn
tổ chức và giảm được khá nhiều khâu trung gian và đầu mối không phù hợp. Kể từ khi có
Hiến pháp năm 1991 đến nay, về quản lý hành chính địa phương ở CHDCND Lào chỉ
còn 3 cấp: Tỉnh (thành phố), huyện và bản (bỏ cấp xã); và ở nhiều cơ quan, nhiều địa
phương đã và đang áp dụng chế độ kiêm nhiệm (nhất thể hóa).
Bắt đầu từ cuộc cải cách về kinh tế và đổi mới chính trị, với tư cách là một bộ
phận của hệ thống chính trị, tổ chức Mặt trận Lào cũng có sự đổi mới cả tên gọi cũng như
vai trò, chức năng và phương thức hoạt động.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một tổ chức kế tục sứ mệnh lịch sử và truyền
thống anh dũng của Mặt trận Lào ít-xa-la và Mặt trận Lào yêu nước; "là một bộ phận
trong hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân, là liên minh chính trị rộng rãi, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và
người Lào đang định cư ở nước ngoài" [45, tr. 2].
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc có chính sách phát triển truyền thống yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, giác ngộ tinh thần tự lực tự cường, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân, không phân biệt tầng lớp, dân tộc tôn giáo, kể cả người Lào sinh sống ở nước ngoài
có sự ủng hộ, đồng tâm với sự nghiệp đổi mới của Đảng NDCM Lào, cùng nhau thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc làm cho đất nước hòa bình,
độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là
một tổ chức liên hiệp công - nông - trí thức và các tầng lớp xã hội khác để tập hợp quần
chúng nhân dân vào trong một tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt trận có chức năng
phát huy tình đoàn kết toàn dân, tăng cường sự thống nhất về mặt chính trị, tư tưởng của
toàn dân. Mặt trận tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng với Đảng,
Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; vận động nhân dân các bộ
tộc tổ chức thực hiện nghiêm Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, giám sát, kiểm tra hoạt
động của các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước và các đại biểu dân cử.
Sự hình thành và phát triển của tổ chức Mặt trận Lào là do tính tất yếu lịch sử
phát triển của đất nước Lào, do điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc Lào quy
định với chức năng trọng tâm là: tập hợp đại đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống
yêu nước đấu tranh anh hùng của dân tộc, vận động nhân dân cùng tham gia công việc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, trong Văn kiện Đại hội V của Đảng NDCM Lào đã xác
định:
Sự đoàn kết thống nhất là yếu tố quyết định sự trưởng thành và phát
triển của nước ta. Vì thế, chúng ta phải chú trọng tập hợp các tầng lớp nhân
dân, các bộ tộc thành một khối đại đoàn kết thống nhất, một lòng một dạ, phát
huy tinh thần yêu nước, thương nòi của nhân dân các bộ tộc Lào thành một
sức mạnh tổng hợp để thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc [38, tr. 23].
2.2. Các hoạt động của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
2.2.1. Mặt trận tham gia tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
các bộ tộc Lào
Công tác tuyên truyền giáo dục về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước là một công việc đóng vai trò rất quan trọng bởi vì không phải tất
cả mọi người dân đều quan tâm đến vấn đề chính trị khi mà cuộc sống vật chất còn thiếu
thốn, miếng cơm manh áo đang còn là vấn đề bức xúc. Nhiều người dân chưa hiểu đầy đủ
về dân chủ, về quyền, nghĩa vụ công dân, về vị trí là người chủ xã hội mới. Là một nước
thuộc địa nửa phong kiến như Lào, đang xây dựng đất nước theo định hướng chủ nghĩa
xã hội, nên nhận thức về dân chủ, về quyền và nghĩa vụ của công dân còn rất thấp. Nhiều
người dân còn hiểu rằng vấn đề chính trị là việc riêng của Đảng, của Nhà nước, của cán
bộ, đảng viên, còn người dân thì đứng ngoài chính trị. Từ cách hiểu như thế dẫn đến sự
chia rẽ, mất đoàn kết giữa cán bộ, đảng viên với dân thường, ảnh hưởng xấu đến công
việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Với tư cách là một tổ chức cầu nối giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước, Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc cùng với các tổ chức thành viên đã
chú trọng công tác tuyên truyền, vận động thuyết phục nhân dân. Trước hết là tuyên
truyền ý nghĩa và giáo dục truyền thống tinh thần yêu nước gắn liền với yêu chế độ mới,
truyền thống đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau giữa các bộ tộc, coi đó là một trong những yếu
tố quyết định sự trưởng thành và phát triển của đất nước Lào. Trong những năm qua, Mặt
trận Lào xây dựng Tổ quốc đã chú trọng tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
(Nghị quyết 6 khóa V của Ban chấp hành Trung ương Đảng NDCM Lào về công tác dân
tộc trong thời kỳ mới). "Niềm vui lớn nhất là nhân dân các bộ tộc của chúng ta lúc nào
cũng thắt chặt sự đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau như anh chị em ruột thịt, làm cho sự thống
nhất dân tộc ngày càng bền vững" [51, tr. 12]. Sự đoàn kết và thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau giữa các bộ tộc cùng sinh sống trong một làng, bản, không có sự phân biệt chủng
tộc và thực trạng người dân tộc này lập gia đình với dân tộc khác ngày càng tăng lên.
ủy ban Mặt trận các cấp đã thực hiện chức năng giáo dục tư tưởng, hòa giải
những hành động sai trái của nhân dân, đặc biệt là tham gia hòa giải sự thắc mắc của
nhân dân, sự hằn thù giữa các dân tộc thiểu số, giữa các gia đình, xóa bỏ từng bước tư
tưởng dân tộc hẹp hòi, tự kiêu; tham gia hòa giải sự tranh cãi của nhân dân. ủy ban Mặt
trận cấp cơ sở đã tham gia xây dựng cơ sở chính trị và phát triển nông thôn toàn diện
như: sắp xếp phân chia nơi sản xuất, sinh sống trở thành trung tâm phát triển toàn diện;
ổn định đời sống cho nhân dân lập nghiệp, định cư giao đất, giao rừng cho nhân dân sử
dụng như ở tỉnh Bo Li Khăm Xay, tỉnh Luông Pha Băng, tỉnh Xê Koong, tỉnh Viên Chăn
và nhiều tỉnh khác... đã làm cho đời sống nhân dân các bộ tộc cả về vật chất và tinh thần
ở nhiều vùng dân tộc đang được cải thiện, sản xuất hàng hóa ngày càng tăng lên, sự phá
rừng làm nương rẫy, trồng thuốc phiện của một số dân tộc thiểu số ngày càng giảm và ở
nhiều nơi được công bố xóa bỏ được 100%. Công tác giáo dục, y tế được phát triển đến
vùng sâu vùng xa, ở nhiều tỉnh có trường học dân tộc, nhiều làng, bản có trạm y tế, có
nước sạch sử dụng, trẻ em được tiêm vắcxin phòng bệnh. Sự mê tín dị đoan của một số
dân tộc thiểu số từng bước được xóa bỏ; dân tộc AKha ở tỉnh Luông Nâm Tha, U Đôm
Xay đã xóa bỏ phong tục "xiết con sinh đôi", nhân dân vùng Văng Tốt, huyện Sỏn Xay,
tỉnh ạt Ta Pư trước đây có tục lệ người đàn bà có thai khi đến tháng sinh đẻ thì phải một
mình đi đẻ con ở rừng, hiện nay thì được phép đẻ con ở nhà hay trạm xá.
Cuộc vận động tuyên truyền giáo dục về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước của ủy ban Mặt trận các cấp ngày càng rộng rãi, mang lại
hiệu quả tốt hơn, góp phần thiết thực cùng Đảng và Nhà nước giải quyết những nhiệm vụ
quan trọng của đất nước và những vấn đề do cuộc sống của nhân dân đặt ra. ủy ban Mặt
trận các cấp, cùng với các tổ chức thành viên tiếp tục vận động các tầng lớp nhân dân,
các dân tộc, tôn giáo tham gia các phong trào thi đua sản xuất hàng hóa, kinh doanh giỏi,
năng suất cao, chất lượng tốt, giá thành hạ; nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập
khu vực và quốc tế của nền kinh tế nước mình; góp phần khai thác, phát huy tiềm lực của
các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở hạ tầng; xóa đói giảm nghèo, khuyến
khích làm giàu hợp pháp, nâng cao trình độ dân trí và mức sống của các tầng lớp nhân
dân; bài trừ các tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, cùng
nhau thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cuộc vận động toàn dân tham gia tổ chức thực hiện 3 chính sách ưu đãi của
Chính phủ: chấm dứt phá rừng làm nương rẫy, chấm dứt trồng thuốc phiện và xóa đói
giảm nghèo đã được đông đảo nhân dân ủng hộ tham gia rộng rãi, đặc biệt là chính sách
xóa đói giảm nghèo do ủy ban Mặt trận các cấp chịu trách nhiệm vận động quần chúng
nhân dân góp phần tham gia lập "Quỹ phát triển cấp bản" với mục đích là giúp đỡ lẫn
nhau giữa người giàu và người nghèo trong việc sản xuất kinh doanh, giải quyết và giúp
đỡ trong trường hợp gặp khó khăn, ốm đau, giúp đỡ trẻ con có điều kiện học tập. Kể từ
ngày thành lập tháng 10 năm 2003 đến tháng 8 năm 2004 đã có 14 tỉnh, 88 huyện và 674
bản tổ chức thực hiện, có hơn 10.000 hộ gia đình tham gia với tổng số vốn là 2 tỷ 500
triệu kíp (tiền Lào). Quỹ phát triển cấp bản là một tổ chức tiêu biểu nhất trong cuộc vận
động thi đua thực hiện chính sách "xóa đói giảm nghèo" của Chính phủ do Mặt trận cùng
với các tổ chức thành viên sáng lập từ cuối năm 2003 đến nay vẫn còn hoạt động có hiệu
quả và thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào tổ chức này và số tiền vốn đóng góp
ngày càng tăng lên, có một số bản "trong một năm số tiền vốn tăng lên 10 lần" [54, tr. 7].
Thực hiện chính sách tập hợp đại đoàn kết dân tộc, từ năm 2001 - 2004 Mặt trận
Lào xây dựng Tổ quốc kết hợp với chính quyền địa phương đã tổ chức cuộc họp mặt các
già làng, các tộc trưởng, tù trưởng ở các tỉnh Phổng Xa li, U. Đôm - Xay, Bolikhăm xay,
Khăm Muồm, Xa Văn Na khết, Chăm Pa Sắc và Thủ đô Viêng Chăn. Qua hoạt động trao
đổi ý kiến, thuyết phục động viên và dẫn dắt của Mặt trận đã làm cho các già làng, các
tộc trưởng, tù trưởng hiểu được sâu sắc chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, thấy được chức năng vai trò quan trọng của các già làng, các tộc
trưởng, tù trưởng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời cũng thấy rõ
được những âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực phản động nhằm phá hoại đất nước,
phá hoại chế độ mới của chúng ta.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc các cấp đã chú trọng tổ chức thực hiện tốt chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ở Lào. Trong những năm qua, Mặt trận Lào đã phối
hợp hướng dẫn tổ chức Liên hiệp Phật giáo Lào để chuẩn bị tổ chức Đại hội đại biểu Phật
giáo Lào toàn quốc lần thứ V. Đồng thời Mặt trận cũng đã đệ trình Chính phủ công bố áp
dụng Luật điều hành Phật giáo Lào.
Đối với các tôn giáo khác, ủy ban Mặt trận các cấp đã thường xuyên tiếp xúc với
các nhà tu hành, ban lãnh đạo của các tôn giáo, đến tham dự các buổi lễ hội của các tôn
giáo, giám sát hướng dẫn các tôn giáo tổ chức thực hiện đúng nguyên tắc đạo đức của các
tôn giáo, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước đặc biệt là thực hiện Nghị định
của Chính phủ số 92/TTCP về quản lý và bảo vệ hoạt động tôn giáo ở CHDCND Lào.
Trong hoạt động tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, ủy ban Mặt trận
các cấp đã phối hợp, kết hợp chặt chẽ với các tổ chức thành viên như: Đoàn thanh niên
NDCM Lào, Hội liên hiệp Phụ nữ Lào và Liên hiệp Công đoàn Lào, thông qua các tổ
chức đó để giáo dục thuyết phục từng đối tượng hội viên, đoàn viên, lãnh đạo và chỉ đạo
họ tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Liên hiệp Công đoàn Lào (thành lập 1/2/1966) là tổ chức chính trị của giai cấp
công nhân Lào, giai cấp tiêu biểu cho các lực lượng sản xuất tiến bộ đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời gian qua cũng như hiện nay, Liên hiệp
công đoàn Lào đã chú trọng quan tâm xây dựng cả về chất lượng và số lượng đội ngũ
công nhân, nông dân và trí thức trở thành lực lượng nòng cốt của cách mạng Lào, một số
hội viên, đoàn viên trưởng thành trở thành cán bộ nòng cốt của Đảng và Nhà nước. Công
đoàn hiện có 81.967 đoàn viên, trong đó 5.080 đoàn viên làm việc ở khu vực kinh tế tư
nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài, 24.554 đoàn viên là đảng viên
(chiếm 1/5 tổng số đảng viên), có 30.786 đoàn viên công đoàn là đoàn viên Đoàn thanh
niên NDCM Lào, 21.501 đoàn viên là hội viên Hội liên hiệp phụ nữ. Những năm gần
đây, do quá trình chuyển đổi cơ cấu phát triển dịch vụ và có luật đầu tư thích hợp khiến
cho cơ sở sản xuất các ngành, nghề ngày càng phát triển và có xu hướng tăng lên. Do đó
các tổ chức công đoàn ở cơ sở cũng được phát triển và mở rộng, hiện có 1.161 tổ chức
công đoàn cơ sở, trong đó thành lập mới là 363 cơ sở; có 5.290 tổ và thành lập mới 489
tổ [48, tr. 22].
+ Đoàn thanh niên NDCM Lào (thành lập 14/4/1955) là tổ chức chính trị - xã hội
của thế hệ trẻ do Đảng NDCM Lào sáng lập, lãnh đạo và chăm lo rèn luyện. Đoàn thanh
niên là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước. Đoàn được tổ chức hoạt động theo hệ thống 4 cấp: Đoàn cấp cơ sở,
huyện đoàn và cấp tương đương, tỉnh đoàn (thành đoàn) và cấp tương đương, Trung
ương đoàn. Đoàn bao gồm những thành viên tiên tiến, tự nguyện phấn đấu vì sự nghiệp
xây dựng đất nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng. Với mục
đích như vậy Đoàn thực hiện những chức năng cơ bản sau: Một là, Đoàn là đội dự bị tin
cậy của Đảng NDCM Lào, là nguồn bổ sung đảng viên, cán bộ của Đảng, Nhà nước và
các ngành. Đoàn luôn xác định nhiệm vụ của mình là tham gia xây dựng Đảng và là
người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng. Hai là, Đoàn là nơi hội
tụ của thế hệ trẻ, là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, tạo môi trường đưa thanh
nên vào các hoạt động giúp họ rèn luyện và phát triển nhân cách, năng lực của người lao
động mới phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay. Ba là, Đoàn là người đại diện, chăm
lo, bảo vệ quyền lợi của tuổi trẻ, là tổ chức của thanh niên, vì thanh niên. Đến nay giới
thanh niên có khoảng 1.370.000 người. Đoàn có 9.290 tổ chức cơ sở, 24.914 tổ với
31.720 đoàn viên là công nhân, 150.000 đoàn viên là nông dân, 42.834 đoàn viên là sinh
viên, 18.900 đoàn viên là cán bộ công chức nhà nước, và 47.405 đoàn viên là đảng viên
Đảng NDCM Lào. Hiện nay các tổ chức cơ sở của đoàn đã tổ chức thi đua xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc theo khẩu hiệu mới "2 đoàn kết, 3 tốt và 4 phát triển" (đoàn kết trong nội
bộ, đoàn kết quốc tế; con tốt của bố mẹ, công dân tốt của đất nước, người kế tục tốt của
Đảng; tự phát triển gia đình, phát triển tổ chức và phát triển đất nước) [51, tr. 126].
+ Hội liên hiệp phụ nữ Lào (thành lập 20/7/1955) là tổ chức chính trị - xã hội của
giới nữ nhằm tập hợp sự đoàn kết các tầng lớp phụ nữ trong sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc cũng như trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ chế độ mới. Hiện nay, Hội
là tổ chức rộng lớn của phụ nữ Lào. Hội đã tổ chức động viên các tầng lớp phụ nữ cả
nước phát huy truyền thống yêu nước, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, lao
động sáng tạo, đẩy mạnh công cuộc đổi mới xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh. Cơ
cấu tổ chức của Hội có 4 cấp: cấp cơ sở; cấp huyện, cấp tỉnh, thành và cấp Trung ương.
Hoạt động của Hội theo nguyên tắc tập trung dân chủ với mục đích của Hội là hoạt động
vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ, chăm lo sức khỏe bà mẹ và trẻ em, bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của phụ nữ. Trong thời kỳ đổi mới, phụ nữ các cấp
rất hăng hái tham gia vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Hiện nay, Hội
Liên hiệp phụ nữ có 29.126 tổ chức cơ sở với 813.346 hội viên, trong đó 35.769 hội viên
là cán bộ công chức nhà nước (chiếm 38% tổng số cán bộ công chức nhà nước); 17.346
hội viên là đảng viên (chiếm 14% tổng số đảng viên). Để thực hiện chính sách "phát triển
phụ nữ toàn diện", Hội Liên hiệp phụ nữ đã chú trọng tập hợp và vận động phụ nữ Lào
tham gia phong trào thi đua phụ nữ "ba tốt" (công dân tốt, phát triển tốt, gia đình có văn
hóa tốt). Thông qua hoạt động thực tế năm 2002 đã có 33.762 hội viên hoạt động xuất
sắc, có 692 tổ chức hội cơ sở được phong tặng danh hiệu là đơn vị tiêu biểu.
+ Đảng nhân dân cách mạng Lào (thành lập 23/03/1955) có 127.430 đảng viên,
là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân Lào, đại biểu cho lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân các bộ tộc Lào. Đảng NDCM Lào là người lãnh đạo duy nhất hệ
thống chính trị Lào, "Đảng vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận Lào xây dựng
Tổ quốc".
Ngoài ra, còn có Hội cựu chiến binh Lào mới được thành lập năm 2002, là tổ
chức chính trị - xã hội tiêu biểu của "Anh bộ đội giải phóng" đã từng vào sinh ra tử, chiến
đấu hy sinh một phần xương máu cho sự nghiệp giành, giữ và bảo vệ nền độc lập cho Tổ
quốc. Thế mạnh của Hội là ở chỗ các hội viên là những người đã từng trực tiếp tham gia
các cuộc kháng chiến, nhiều người nguyên là sĩ quan trung, cao cấp của quân đội, có
người là thương binh, phần lớn đã được thử thách, tôi luyện trong chiến đấu và đời sống
quân ngũ, hăng hái, nhiệt tình, có kỷ luật hơn hết, và họ là chỗ dựa tin cậy của nhân dân
và chính quyền cơ sở.
2.2.2. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc thực hiện chức năng giám sát hoạt động
của chính quyền, đại biểu dân cư và viên chức nhà nước
Mặt trận Lào Xây dựng Tổ quốc là tổ chức liên minh chính trị, nơi thể hiện ý chí,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo và người Lào đang sinh
sống và định cư ở nước ngoài, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân... Do vậy,
giám sát là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận nhằm thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý xã hội. Mọi quyền lực nhà nước có
được là do sự ủy quyền của nhân dân. Tuy nhiên, sự ủy quyền của nhân dân cho các cơ
quan nhà nước và cán bộ công chức nhà nước là có giới hạn, có điều kiện.
Trên thực tế ở nước Lào cũng như ở nhiều nước khác đang có tình trạng nhân dân
sau khi ủy quyền, đồng thời cũng mất quyền luôn. Hiện tượng người được ủy quyền (cán bộ
dân cử, cán bộ công chức nhà nước) lại lạm quyền, quan liêu, vụ lợi trong khi sử dụng
quyền lực của nhân dân giao phó. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 27/BCT ngày 7/4/2004
về công tác kiểm tra năm 2003 đến 2010 đã cảnh báo: "Một số đảng bộ không thực hiện
chế độ họp hành và không hoạt động chính trị trong nội bộ, dẫn đến hiện tượng tiêu cực
ngày càng tăng lên như: thiếu trách nhiệm đối với công việc, bệnh quan liêu, tham nhũng,
tham ô, lợi dụng chức vụ để kiếm lời" [44, tr. 5].
Điều đó chứng tỏ tình trạng bệnh quan liêu, mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân là rất nghiêm trọng. Để tránh nguy cơ tha hóa, biến chất của cán bộ đảng
viên, biến dạng quyền lực nhà nước và thực hiện quyền làm chủ của mình, nhân dân phải
có quyền sử dụng các cơ quan khác nhau trong hệ thống chính trị để giám sát, kiểm soát
quyền lực nhà nước, trong đó có Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc với tư cách là một bộ
phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Hoạt động giám
sát của Mặt trận nhằm:
- Đảm bảo chủ quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng hợp pháp của nhân dân.
- Tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, của công dân, của
các cộng đồng, các giá trị phổ quát của dân tộc và nhân loại, như công bằng, bình đẳng,
nhân đạo, dân chủ và pháp quyền.
- Đảm bảo quyền lực của nhân dân trong việc tham gia quản lý xã hội, kiểm soát
hoạt động của nhà nước, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ban hành thể
hiện đúng và đầy đủ ý chí nguyện vọng của nhân dân chứ không phải là ý chí, mong
muốn của cá nhân, nhóm người hay lực lượng cầm quyền riêng biệt nào.
- Đảm bảo sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và địa vị pháp lý
của các cá nhân trong xã hội công dân. Qua đó xác lập mối quan hệ hài hòa, bình đẳng về
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của hai bên, nhằm loại trừ xu hướng vô chính
phủ từ phía công dân, cũng như nguy cơ tùy tiện, độc đoán, quan liêu, cửa quyền... từ
phía các cơ quan quyền lực nhà nước, đồng thời phải làm cho cán bộ nhà nước tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
- Đảm bảo sự phân công rành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực thi các quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp trên nguyên tắc quyền
lực nhà nước tập trung, thống nhất, có phân công, phân nhiệm và tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
- Sửa đổi, bổ sung những chính sách, pháp luật không còn phù hợp và kiến nghị
lập pháp, kiến nghị những chính sách mới.
- Hỗ trợ cho công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra của Đảng và Nhà nước nhằm
góp phần xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, làm cho tổ chức của Đảng, bộ máy
nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động ngày càng có hiệu lực, hiệu quả
để lãnh đạo và quản lý tốt mọi mặt của đời sống xã hội theo pháp luật.
Thanh tra và kiểm tra là một trong những công việc lãnh đạo và quản lý xã hội, là
công việc của mọi người với mục đích là tìm cho thấy mặt tích cực và mặt tiêu cực trong
hoạt động của con người. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 27/BCT ngày 7/4/2004 về công
tác kiểm tra từ năm 2003 đến 2010 đã ghi rõ: "Mọi cán bộ, đảng viên, viên chức nhà
nước, dù là ở cương vị nào cũng phải tham gia công tác kiểm tra và chịu sự kiểm tra" [44,
tr. 7], "tạo ra mọi điều kiện để quần chúng nhân dân được sử dụng quyền của mình tham
gia vào công tác kiểm tra, đồng thời cũng phải phát huy vai trò của các tổ chức đại diện
của quần chúng nhân dân như: Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc, đoàn thanh niên, Hội liên
hiệp phụ nữ, công đoàn, thông tin đại chúng... được tham gia mạnh mẽ trong công tác
kiểm tra" [44, tr. 9-10].
Một trong những nhiệm vụ của Mặt trận Lào cũng được ghi rõ trong điều lệ của
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc: "giám sát, kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước, các
đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước. Tập hợp tâm tư nguyện vọng của nhân
dân để kiến nghị với Đảng và Nhà nước" [45, tr. 4]. Trong những năm qua, đặc biệt là từ
đại hội VII đến nay, ủy ban Mặt trận các cấp đã chú trọng thực hiện chức năng nhiệm vụ
giám sát của mình với phương châm là "lấy dân làm gốc". Thông qua những phản ánh
kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của quần chúng nhân dân, ban thanh tra của Mặt trận đã kết
hợp, phối hợp với ủy ban kiểm tra của Đảng và Nhà nước Lào tiến hành hoạt động công
tác kiểm tra, đã thấy và nắm được tình hình tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, nắm bắt được hoạt động của cán bộ đảng viên,
cán bộ dân cử và công chức nhà nước. Đồng thời cũng nắm được những hiện tượng tiêu
cực và những vấn đề buông lỏng cần phải giải quyết; công tác bảo vệ, quản lý cán bộ,
đảng viên ở các cấp chưa nghiêm ngặt, còn quan liêu. Một số đảng ủy không nắm được
những hành động và hoạt động của cán bộ mình, dẫn đến sự đánh giá bố trí không đúng
người, không đúng việc, mất công bằng. Việc giải quyết những hiện tượng tiêu cực trong
đội ngũ cán bộ chưa nghiêm, một số cán bộ không tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước: "Từ năm 1995 đến năm 2002 số cán bộ, đảng viên làm sai trái và bị kỷ luật với
mức độ khác nhau là 467 người. Trong đó bị cảnh cáo 237 người, bị cách chức và di chuyển
chỗ làm việc 39 người, bị khai trừ ra khỏi Đảng 83 người, ra khỏi biên chế nhà nước 64
người và bị tòa án xét xử 44 người" [44, tr. 4].
Công tác hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và
chính quyền nhân dân cấp cơ sở (trưởng làng, trưởng bản) được thực hiện rất tốt. Qua các
cuộc bầu cử cho thấy ý thức làm chủ, tự giác trong việc tham gia xây dựng chính quyền
nhân dân có những bước phát triển đáng mừng. Nhiều nơi nhân dân chủ động giám sát
việc tuân thủ pháp luật bầu cử của các tổ chức phụ trách bầu cử. Một số hành vi vi phạm
pháp luật về bầu cử được phát hiện kịp thời. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa V đạt được
thắng lợi to lớn, bảo đảm dân chủ, đúng luật, an toàn và tiết kiệm. Cuộc bầu cử đã mang
lại ý nghĩa chính trị sâu sắc, đã động viên quần chúng nhân dân, cử tri cả nước thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình, thật sự là ngày hội lớn của toàn dân, là ngày mà dân được
sử dụng quyền lực chính trị, quyền tự quyết để lựa chọn những người có đức, có tài xứng
đáng đại diện cho mình vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Hoạt động giám sát của Mặt trận là phát hiện những lệch lạc những vi phạm hoặc
có dấu hiệu vi phạm ngay từ đầu của các tổ chức và cá nhân để góp ý kiến cụ thể với
người có thẩm quyền hoặc người có trách nhiệm thi hành nhiệm vụ, với cấp ủy Đảng để
tìm cách khắc phục và ngăn chặn sự vi phạm, không để khi sự việc xảy ra mới đề nghị
thanh tra, xử lý. Giám sát là thực hiện tốt hơn nữa quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân,
giám sát là giúp cho chính quyền, cán bộ, công chức nhà nước thi hành đúng chính sách,
pháp luật, phát hiện sớm những vi phạm có thể xảy ra hoặc bắt đầu xảy ra để kịp thời
khắc phục. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc phải kết hợp chặt chẽ với ủy ban kiểm tra của
Đảng và Ban thanh tra Nhà nước giải quyết, xử lý và huy động các tầng lớp nhân dân tích
cực tham gia công tác kiểm tra giám sát, đó là một cách tốt nhất để nhân dân được tham
gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
2.2.3. Một số bài học kinh nghiệm về hoạt động của Mặt trận Lào xây dựng
Tổ quốc trong quá trình thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong quá
trình thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào còn những hạn chế cần
phải khắc phục như sau:
Thứ nhất: Công tác Mặt trận trong sự nghiệp đổi mới là rất quan trọng, nhưng
điều kiện hoạt động tuyên truyền giáo dục, vận động để làm cho nhân dân hiểu biết và
thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước còn hạn chế, chưa áp
dụng được nhiều phương thức đối với từng đối tượng. Chính sách đoàn kết dân tộc ở một
số nơi chưa được thực hiện cụ thể và chưa có hiệu quả, hoạt động thực tế của công tác
Mặt trận còn kẽ hở, chưa chặt chẽ, chưa có luật hoạt động của Mặt trận.
Thứ hai: Với tư cách là người đại diện quyền làm chủ của nhân dân các bộ tộc
Lào, Mặt trận các cấp chưa chú trọng đến công tác giáo dục, động viên các tầng lớp nhân
dân để làm cho họ phát huy được quyền tự chủ trong việc thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng, củng cố tổ chức đảng và chính
quyền nhân dân các cấp. Vì thế, ở nhiều nơi nhân dân vẫn chưa hiểu và sử dụng quyền và
nghĩa vụ của mình. Việc giám sát, kiểm tra của Mặt trận mặc dù đã được ghi rõ trong
Điều lệ của Mặt trận, nhưng thực tế còn là việc rất khó trong hành động. Trong điều kiện
đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp, thì Mặt trận chưa huy động
được đông đảo nhân dân chủ động và tích cực tham gia đấu tranh chống các tệ nạn tham
nhũng, quan liêu, lãng phí, bảo vệ các lợi ích hợp pháp của nhân dân. Mặt trận ở một số
nơi còn né tránh, ngại va chạm, chưa góp phần ngăn chặn có hiệu quả sự gia tăng tệ quan
liêu, tham nhũng, mất dân chủ, các tiêu cực trong đời sống kinh tế và xã hội.
Thứ ba: trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường và sử dụng nhiều thành
phần kinh tế, với tư cách là cầu nối, là nơi tập hợp các lực lượng xã hội thì Mặt trận Lào
xây dựng Tổ quốc chưa khai thác được sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân,
các thành phần kinh tế khác nhau tham gia phát triển đất nước. Mặt trận Lào chưa phối
hợp tốt với các tổ chức thành viên để vận động, huy động khả năng sức lực, vốn đầu tư
của nước ngoài, đặc biệt là người nước ngoài gốc Lào, để góp phần tham gia xây dựng và
phát triển đất nước Lào. Rõ nhất là ủy ban Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc khóa VII (cấp
trung ương) có 116 thành viên mà trong đó chỉ có một thành viên là đại diện cho người
Lào đang sinh sống ở nước ngoài.
Thứ tư: Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ của ủy ban Mặt trận các cấp, các tổ chức
thành viên vẫn còn yếu về năng lực và thiếu về số lượng. ủy ban Mặt trận ở nhiều nơi
chưa quan tâm đúng mức việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Hiện nay ở cấp trung ương có 52
người, ở cấp tỉnh có 5 đến 8 người, ở cấp huyện có 1 đến 2 người và còn một số huyện
không có cán bộ giúp việc. Cán bộ lãnh đạo ủy ban Mặt trận các cấp nhìn chung không
ổn định, ở không ít tỉnh, huyện trong một nhiệm kỳ thay đến hai, ba lần chủ tịch. Đa số là
những người lớn tuổi sức khỏe yếu hoặc có vấn đề về kinh tế - xã hội ở nơi khác thì được
chuyển sang công tác ở Mặt trận để chờ đợi đến tuổi về hưu. Về công tác đào tạo thì chưa
xây dựng được đội ngũ cán bộ chuyên trách chuyên sâu và chuyên lâu, công tác huấn
luyện bồi dưỡng cán bộ chưa có kế hoạch dài hạn, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới.
Mối quan hệ giữa Mặt trận với các đoàn thể và chính quyền địa phương chưa
chặt chẽ, Đoàn thanh niên và Hội liên hiệp phụ nữ chưa phát huy tốt vai trò là cầu nối
giữa quần chúng với Đảng và chính quyền.
Những nguyên nhân về hạn chế:
Nguyên nhân chính của những hạn chế, yếu kém của công tác Mặt trận Lào xây
dựng Tổ quốc hiện nay là do trình độ nhận thức về vị trí, vai trò của công tác Mặt trận
của cán bộ đảng viên, của nhân dân Lào chưa có sự thống nhất. Trong điều kiện chưa có
luật hoạt động của Mặt trận, mặc dù trong Điều lệ của Mặt trận đã ghi rõ: "Mặt trận là tổ
chức liên minh chính trị rộng rãi, là liên hiệp tự nguyện của các tổ chức và các cá nhân
tiêu biểu...". Đồng chí Khăm Tày Sỉ Phăn Đon, Chủ tịch Đảng NDCM Lào, đã có bài
phát biểu tại đại hội VII của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc nhấn mạnh: "Mặt trận là tổ
chức liên hiệp chính trị của toàn dân, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân" [51, tr.
54]. Nhưng trong bài giảng của một cuốn sách do Ban Tuyên huấn Trung ương xuất bản
dùng để tập huấn cán bộ cấp bản, viết rằng: "Tổ chức quần chúng nhân dân ở cơ sở bao
gồm: Mặt trận, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ" [29, tr. 52], nghĩa là tổ chức Mặt
trận và các tổ chức đoàn thể nhân dân có vị trí tương đương nhau, dẫn đến hạ thấp tầm
quan trọng của công tác Mặt trận. Việc tổ chức thực hiện các chính sách Mặt trận còn
nhiều thiếu sót. Nhận thức, năng lực, trình độ tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ Mặt
trận cũng chưa ngang tầm, chưa đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ
cách mạng hiện nay. Tính chủ động, sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm với công việc của
cán bộ Mặt trận chưa đồng đều. Hoạt động của Mặt trận còn gặp khó khăn về phương
tiện, về kinh phí hoạt động, nói chung là các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của Mặt
trận còn nhiều khó khăn. Cán bộ làm công tác Mặt trận còn thiếu về số lượng và yếu về
chất lượng. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là thành viên chiến lược của hệ thống chính
trị, nhưng hoạt động thực tế vẫn còn ở dạng là "công cụ" của Đảng và chính quyền.
Những bài học kinh nghiệm:
Qua hoạt động thực tiễn của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong những năm
qua nhằm thực hiện quyền lực chính trị và phát huy quyền làm chủ của nhân dân các bộ
tộc Lào trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta có thể rút ra được một số
bài học như sau:
1. Để nâng cao tinh thần và phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ở Lào hiện nay, cần làm cho cả hệ thống
chính trị trước hết là Đảng lãnh đạo và từng đảng viên quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo
của Đảng: Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc, là sự sống còn của đất nước,
cho nên, chúng ta phải chú trọng phát huy truyền thống đó thật rộng rãi và bền vững,
đồng thời phải không ngừng chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng
lớp nhân dân, làm cho nhân dân có cơm ăn, áo mặc, có chỗ ở, làm việc và được học hành.
2. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự viện trợ giúp đỡ của Nhà nước đối
với hoạt động của Mặt trận, để Mặt trận thực sự trở thành một tổ chức liên minh chính trị,
liên hiệp tự nguyện, rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân ở trong nước và ngoài nước, là
cơ sở chính trị, đoàn kết phấn đấu vì mục đích tối cao của toàn thể dân tộc. Thông qua
hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình, Mặt trận phải thật sự là nơi tập hợp mọi tổ
chức, mọi cá nhân yêu nước, nơi hội tụ sức mạnh của toàn dân tộc, nơi nhân dân bày tỏ
chính kiến và tham gia các quyết sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nơi gắn kết mối liên
hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Mặt trận vừa là phương thức vừa là
môi trường để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình.
3. Muốn đoàn kết thực sự, muốn khơi dậy sức mạnh của toàn dân, phải thực hành
dân chủ rộng rãi gắn liền với kỷ cương xã hội trên mọi lĩnh vực, trước hết là dân chủ
trong kinh tế và dân chủ từ cơ sở. Dân chủ là giá trị tinh thần của nhân loại, là xu thế của
thời đại, là nguyện vọng thiết tha của nhân dân từ bao đời nay. Ngày nay dân chủ phải trở
thành mục tiêu, thành động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Làm được như vậy mới
củng cố vững chắc và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Thực tế cho thấy ở đâu dân
chủ phát huy thì ở đó khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố vững chắc. Nhưng muốn
có được dân chủ đối với Lào hiện nay phải phát triển giáo dục, tăng cường trình độ dân
trí, coi đó là chìa khóa của dân chủ.
4. ủy ban Mặt trận các cấp phải tổ chức thực hiện tốt phong trào thi đua yêu nước
trên mọi mặt công việc của từng cơ quan, đơn vị, từng địa phương, "thi đua là yêu nước,
yêu nước thì phải thi đua". Trong việc tổ chức thực hiện phong trào đó, những người cán
bộ chủ chốt của các cơ quan, ban, ngành, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo của đảng các cấp
phải làm gương mẫu như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ đi trước, làng nước
đi sau.
5. Tổ chức bộ máy đội ngũ cán bộ Mặt trận ở các cấp cần phải được củng cố và
tăng cường về mọi mặt cả số lượng và chất lượng ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ được
giao, đáp ứng được đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, nhất là cán bộ giúp
việc của Mặt trận ở cấp huyện. Đồng thời cũng phải tăng cường sự phối hợp, kết hợp chặt
chẽ với Đảng ủy,chính quyền nhân dân và các tổ chức thành viên trong hoạt động của
mình, nhằm tạo nên sự nhất trí, thống nhất và đó là sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
*
* *
Kế tục sự nghiệp cách mạng và phát huy truyền thống anh dũng của Mặt trận Lào
ít-xa-la và Mặt trận Lào yêu nước, Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc đã thể hiện vai trò
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, vừa
là phương thức, vừa là môi trường để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị và quyền
làm chủ của mình.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia tuyên truyền giáo dục chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho các tầng lớp nhân dân ý thức được tinh
thần tự lực tự cường, tinh thần yêu nước yêu chế độ mới. Mặt trận các cấp đã tích cực
tham gia xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân, nhất là cuộc bầu cử Quốc hội, bầu cử
chính quyền địa phương cấp cơ sở (trưởng bản, trưởng làng). Mặt trận còn góp phần
tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Tổ chức Mặt trận không ngừng được mở rộng, đội
ngũ cán bộ Mặt trận dù còn ít ỏi về số lượng nhưng đã thể hiện sự vững vàng trong hoạt
động thực tiễn, uy tín của Mặt trận trong quần chúng ngày càng được nâng lên, vai trò
của Mặt trận trong đời sống xã hội từng bước được khẳng định, nhiều chủ trương, phong
trào do Mặt trận phát động, chủ trì đã tạo được chuyển biến sâu sắc trong đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội ở các địa bàn dân cư và được các tầng lớp nhân dân hưởng
ứng ủng hộ rộng rãi.
Bên cạnh những thành tựu đó, hoạt động của Mặt trận vẫn còn tồn tại nhiều hạn
chế và khó khăn cần khắc phục. Hoạt động của Mặt trận chưa có luật bảo đảm, công tác của
Mặt trận vẫn còn không ít những yếu kém, thiếu sót, chưa thật sự phát huy được tính chủ
động, tính sáng tạo của quần chúng. Công tác giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ
quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước và các đại biểu dân cử, mặc dù đã được ghi rõ
trong Điều lệ là một trong những nhiệm vụ của Mặt trận, nhưng hoạt động thực tế quá ít
ỏi, hầu như không được nói đến trong kế hoạch hoạt động của Mặt trận.
Chương 3
Phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu của Mặt trận Lào trong việc
thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào
3.1. Những phương hướng cơ bản của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong
việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động
Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước Lào hiện nay, thời cơ, vận hội và thách
thức, thuận lợi và khó khăn đan xen nhau. Điều đó đặt cho cả hệ thống chính trị nói
chung và Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc cùng với các tổ chức thành viên nói riêng phải
có sự thống nhất cao về nhận thức, đồng tâm hiệp lực, góp phần giải quyết những vấn đề
bức xúc về xã hội củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng và củng cố chế độ dân chủ
nhân dân, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội, phát huy cao độ nội lực vì sự phát triển ổn định
bền vững của đất nước.
Trong thời gian tới, nhiệm vụ chủ yếu của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc mà
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng NDCM Lào đã nêu lên chủ
yếu là "Tổ chức giáo dục tư tưởng - chính trị cho các bộ tộc, các tầng lớp có ý thức giác
ngộ, có lòng yêu nước, biết sử dụng khả năng, kiến thức và vốn liếng của mình vào công
cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc; thực hiện quyền bình đẳng giữa các bộ tộc, khuyến
khích vai trò tích cực của đạo phật trong việc phát huy truyền thống và di sản văn hóa của
dân tộc, giám sát hoạt động của các tôn giáo theo quy chế - pháp luật. Mặt quan trọng
nữa của công tác Mặt trận là thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
tập hợp đoàn kết của đồng bào Lào ở nước ngoài có lòng yêu nước thương nòi hướng về
quê hương, coi đó là nột phần đóng góp vào sức mạnh chung của cả dân tộc" [43, tr. 39].
Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc đã quy
định phương hướng hoạt động của mình là: "Nâng cao tinh thần yêu nước, tập hợp sự
đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng công tác Mặt trận nhằm động viên mọi sức lực
toàn dân tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [51, tr. 30].
Để thực hiện mục tiêu, yêu cầu chủ yếu nêu trên, phương hướng hoạt động của
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc những năm tới là:
3.1.1. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân các bộ tộc Lào trong việc tham
gia xây dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân
Vai trò làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng và bảo vệ nhà nước
pháp quyền, chủ yếu là phụ thuộc trực tiếp vào trình độ trưởng thành của nhân dân, nhất
là trình độ dân trí, trong đó có cả trình độ văn hóa chính trị, pháp luật. Vấn đề nâng cao
trình độ dân trí càng trở nên cấp thiết trong hoàn cảnh của một nước thuộc địa, nửa phong
kiến với số đông dân số còn mù chữ, với những tàn dư, nếp sống, thói quen, ý nghĩ, thành
kiến lạc hậu có gốc rễ từ ngàn năm như Lào. Cho nên việc thực hiện chủ trương "diệt
giặc dốt" là nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám của
Việt Nam thành công, Bác Hồ đã nói: "Nay chúng ta đã giành được độc lập. Một trong
những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí" [18, tr. 28]. ở Lào
sau khi đất nước được giải phóng, Đảng và Nhà nước Lào cũng có chủ trương "lấy cách
mạng tư tưởng văn hóa đi trước một bước, trong đó lấy giáo dục làm trọng tâm" [35, tr.
78].
Từ chủ trương, chính sách đó, nhiều năm qua Đảng và Nhà nước Lào đã có nhiều
biện pháp cụ thể để nâng cao dân trí lên ngang tầm với nhiệm vụ của cách mạng. Nhưng
đến nay, ở Lào nhìn chung, trình độ giáo dục và những điệu kiện sinh hoạt, phát triển
giáo dục của nhân dân còn thấp, một bộ phận lớn dân cư còn mù chữ, khoảng 300.000
người, chiếm 40% số người ở lứa tuổi từ 15 đến 45 [55, tr. 147]. Cả nước có 10.752 làng,
bản, trong đó 2.266 làng, bản chưa có trường học. Vì thế năng lực hoạt động chính trị- xã
hội của nhân dân bị hạn chế, như Lênin nói: người mù chữ đứng ngoài chính trị và đó
chính là mảnh đất tốt sẽ làm nảy sinh và dung túng tệ độc đoán, chuyên quyền trong bộ
máy của Đảng và Nhà nước.
Để nâng cao nhận thức về dân chủ, trước hết phải nâng cao trình độ học vấn,
nâng cao dân trí. Nâng cao trình độ dân trí, xây dựng ý thức pháp quyền cho công dân là
nhân tố quan trọng để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trình độ dân trí thấp, đời
sống nhân dân còn khó khăn là những trở ngại rất lớn đến việc tiếp nhận các thông tin,
các chủ trương, đường lối của Đảng cũng như các chính sách, văn bản pháp luật của Nhà
nước. Thực tế cuộc sống đã chứng minh, trình độ học vấn cao thì sự hiểu biết về các chủ
trương, đường lối của Đảng, cũng như các chính sách văn bản pháp luật của Nhà nước sẽ
thuận lợi.
Muốn nâng cao trình độ dân trí, trước hết là trình độ học vấn cần có chính sách
phù hợp nhằm xóa nạn mù chữ cho nhân dân, phổ cập học vấn phổ thông. Cần có chế độ
khuyến khích vật chất cho người dạy và người học, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Mặt
trận và các đoàn thể phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động để phát động được
phong trào thi đua xóa nạn mù chữ, nâng cao trình độ học vấn trong toàn dân, đặc biệt là
vùng nông thôn và miền núi.
Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân
với Đảng, với Nhà nước, Mặt trận các cấp phải tiếp tục chủ động lấy ý kiến của các tầng
lớp nhân dân tham gia xây dựng các dự án luật và các văn bản quy phạm pháp luật. ở
Lào, nhân dân chưa quen sống với pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật chưa cao. Trong
những năm qua, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng
chưa được quan tâm đúng mức, văn bản pháp luật ít được phổ biến, tuyên truyền hướng
dẫn thi hành và châm đi vào cuộc sống. Các tầng lớp nhân dân, nhất là các dân tộc vùng
sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số rất ít được phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật
trong các trường phổ thông, phần lớn số giáo viên giảng dạy chưa được đào tạo hoặc bồi
dưỡng về kiến thức pháp luật, mặt bằng dân trí nói chung còn thấp kém, nhất là dân trí về
pháp luật. Cho nên Mặt trận các cấp cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng, nhất là các giới do Mặt trận phụ trách và
tập trung vào những vấn đề cấp bách trước mắt, gắn tuyên truyền phổ biến pháp luật với
xây dựng môi trường sống lành mạnh và làm giảm cơ bản các loại tội phạm.
Tổ chức tiếp dân, tiếp nhận những đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân theo
chức năng của Mặt trận; kịp thời nghiên cứu chuyển đơn cùng những kiến nghị giải quyết
những đơn thư khiếu nại của nhân dân. Mặt trận và các tổ chức thành viên nhắc nhở, tác
động, thúc đẩy chính quyền giải quyết nhanh các yêu cầu bức xúc của dân trên tinh thần
dân chủ, công bằng và đúng pháp luật.
Phối hợp với ngành quân sự trong công tác tuyển quân hàng năm, cùng với các tổ
chức thành viên vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, góp
phần củng cố nền quốc phòng toàn dân, tăng cường an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ và phát huy những thành quả cách mạng.
3.1.2. Củng cố đại đoàn kết toàn dân, phát huy nội lực, động viên mọi tiềm
năng của nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
Trong lịch sử, nước Lào cũng như các nước Đông Dương đã thường có kẻ thù
xâm lược và nhiều lần nhân dân nổi dậy chống kẻ ngoại xâm. Điều đó đã đem lại cho nền
văn hóa nội dung đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược thành truyền thống
tốt đẹp.
Truyền thống yêu nước, đoàn kết và đấu tranh anh hùng của dân tộc là một trong
những nguyên nhân cơ bản làm cho nhân dân Lào có khả năng khắc phục được mọi khó
khăn phức tạp để bảo vệ và xây dựng đất nước. Vì vậy trong văn kiện Đại hội VII của
Đảng NDCM Lào đã xác định "Việc tăng cường đoàn kết giữa các bộ tộc, tầng lớp, lứa
tuổi, tôn giáo trong cả nước là nhiệm vụ chiến lược cơ bản, lâu dài của chúng ta" [44, tr.
38].
Mặt trận các cấp cần phải giáo dục tinh thần dân tộc thống nhất, tình đoàn kết
thương yêu đùm bọc giữa các bộ tộc như anh chị em ruột thịt trong một gia đình, thực
hiện quyền bình đẳng, tạo mọi điều kiện cho các bộ tộc có sự phát triển và có cuộc sống
mới ngày càng tốt hơn. Đồng thời cũng nhạy bén và kiên quyết ngăn chặn sự chia rẽ, hằn
thù giữa các bộ tộc, nâng cao ý thức cảnh giác đối với các âm mưu diễn biến hòa bình
của các thế lực thù địch. Tích cực giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Mặt trận các cấp cần tham gia, bổ sung, hoàn thiện chính sách, tạo điều kiện cho
các tầng lớp, các giới đều có thể tham gia vào sự nghiệp đổi mới đất nước; tích cực tranh
thủ các nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn giáo, những người có uy tín trong các dân tộc anh
em, các doanh nhân... tạo sự đồng tình ủng hộ, thực hiện những chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước. Phối hợp, kết hợp chặt chẽ với các thành viên và các tổ chức xã hội khác
trong hoạt động thực tiễn nhằm tăng cường khối liên minh công - nông - trí, nền tảng của
đại đoàn kết toàn dân.
Khuyến khích vai trò tích cực của Phật giáo trong việc phát huy truyền thống và
di sản văn hóa của dân tộc, Phật giáo cũng có ảnh hưởng lớn đối với đời sống tinh thần
của người Lào. Vì nó cũng có những mặt tích cực làm cho con người tôn thờ như: ước
mơ một xã hội công bằng, một xã hội trong đó mỗi người đều làm điều thiện, tránh điều
ác. Nó thể hiện ở trong "Tam tặng kinh" của nhà Phật, có nhiều điều cấm và nhiều điều
nên làm. ủy ban Mặt trận các cấp phải giám sát hoạt động của các tôn giáo theo Nghị
định số 92 của Thủ tướng Chính phủ về công tác quản lý và bảo vệ hoạt động tôn giáo ở
Lào. Đồng thời cũng phải thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước về tập hợp
đoàn kết của đồng bào Lào ở nước ngoài có lòng yêu nước, thương nòi hướng về quê
hương, coi đó là một phần đóng góp vào sức mạnh của cả dân tộc.
3.1.3. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Lào xây
dựng Tổ quốc nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các
bộ tộc Lào
Để tổ chức thực hiện tốt chức năng, vai trò của Mặt trận trong thời kỳ mới, đặc
biệt là để bảo đảm việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào, ủy ban
Mặt trận các cấp phải được kiện toàn theo hướng sau:
- Cần phải có luật Mặt trận càng sớm càng tốt để đảm bảo cho hoạt động của Mặt
trận có chỗ dựa về mặt pháp lý.
- Củng cố, mở rộng ủy ban Mặt trận Lào thật sự tiêu biểu cho khối đại đoàn kết
toàn dân, có năng lực hoạt động thực tế, phát huy trí tuệ của các tầng lớp nhân dân về
những vấn đề quốc kế dân sinh trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước hiện nay.
- Tuyển chọn, bố trí hợp lý, ổn định đội ngũ cán bộ chuyên trách của Mặt trận ở
các cấp, từng bước nâng cao chất lượng tham mưu và năng lực hoạt động thực tiễn. Kiến
nghị với Đảng và Nhà nước có chính sách cụ thể hơn nữa đối với cán bộ Mặt trận.
- Xây dựng quy chế phối hợp, thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên
trong mặt trận và các ban ngành có liên quan, với mục tiêu chung là vì lợi ích của toàn
dân tộc.
- Tăng cường công tác thông tin, thông báo, trao đổi ý kiến, học tập kinh nghiệm
giữa các tổ chức thành viên và các ủy ban Mặt trận các cấp.
- Coi trọng tổng kết thực tiễn, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ Mặt trận hướng mạnh
về địa bàn dân cư và hộ gia đình.
3.2. Những giải pháp chủ yếu
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận nhằm thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân
Để đảm bảo quá trình đổi mới ở CHDCND Lào được diễn ra đúng hướng, thực
hiện được những mục tiêu do các Đại hội Đảng đề ra, nhân tố quan trọng nhất là phải giữ
vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào là hạt nhân đứng ra tập hợp lực lượng thực hiện liên
minh chính trị trong một Mặt trận thống nhất. Đảng nhận sứ mệnh lãnh đạo Mặt trận,
nhưng không phải là đứng trên hay đứng ngoài Mặt trận mà là một thành viên tích cực
nhất của Mặt trận, bình đẳng như mọi thành viên khác. Quan hệ giữa Đảng với Mặt trận
vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ giữa các thành viên của một liên minh chính trị.
Trong quá trình thực hiện quyền lực chính trị (quyền làm chủ) của nhân dân các
bộ tộc Lào, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Lào là tất yếu và cần thiết. Điều đó
đảm bảo cho Mặt trận thực hiện tốt hơn vai trò đại diện cho lợi ích chính đáng và hợp
pháp của các tầng lớp nhân dân, là môi trường để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị
của mình. Xét về thực chất, Đảng thông qua Mặt trận để đoàn kết các giai cấp, tầng lớp,
huy động sức mạnh toàn xã hội vào việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Cho
nên cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận thì mới kịp thời chấn
chỉnh những lệch lạc trong quá trình hoạt động và tổ chức thực hiện của Mặt trận.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là một tổ chức cấu thành hệ thống chính trị có
trách nhiệm lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không những trong quá
khứ, hiện nay mà còn cả trong tương lai. Tuy nhiên, kết quả hoạt động và đóng góp của
Mặt trận Lào trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay vẫn còn hạn chế, lại chịu sự chi
phối và tác động của nhiều nguyên nhân khách quan, trong đó có nguyên nhân trực tiếp là
vai trò và hiệu quả lãnh đạo của Đảng.
Trước yêu cầu đổi mới, công tác Mặt trận phải đổi mới nhanh và phải mang lại
hiệu quả thiết thực hơn. Muốn vậy phải phát huy những kết quả đã đạt được trong những
năm qua, phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Lào.
Để thực hiện yêu cầu này, phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận theo Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị về công tác quần chúng của Đảng trong
thời kỳ mới:
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng (Mặt trận, các đoàn
thể nhân dân, các tổ chức xã hội khác) là lãnh đạo thông qua những chủ trương, chính
sách, phương hướng hoạt động đối với các tổ chức quần chúng nhân dân; thông qua sự
gương mẫu của đảng viên trong hoạt động sinh sống và làm việc; thông qua công tác giáo
dục, thuyết phục, động viên quần chúng nhân dân, chứ không phải lãnh đạo bằng mệnh
lệnh quan liêu. Đảng lãnh đạo bằng cách chỉ đạo, hướng dẫn, coi trọng trao đổi tham
khảo ý kiến với quần chúng nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo đối với Mặt trận, Đảng phải khắc phục hiện tượng bao
biện làm thay dẫn đến gò ép, áp đặt. Trong việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân,
các tổ chức cơ sở đảng cần phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của mình. Cần phải nhận
thức đúng tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ, việc thực hiện quyền lực chính trị để
động viên nhân dân thực hiện phát huy tính sáng tạo, tính làm chủ của nhân dân chứ
không áp đặt hoặc thực hiện hình thức. Các tổ chức cơ sở đảng phải làm tốt vai trò hạt
nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, coi trọng công tác chỉ đạo thực hiện quyền lực chính trị của
nhân dân. Đối với cấp ủy ở cơ sở cần tập trung lãnh đạo Mặt trận, các đoàn thể nhân dân,
chính quyền làm tốt một số việc như sau:
- Thứ nhất: Quán triệt cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về mục đích, nội dung các
Nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc, công tác tôn giáo trong thời kỳ mới,... đặc biệt
là Nghị quyết số 05/BCT về công tác quần chúng của Đảng trong thời kỳ mới.
- Thứ hai: Cung cấp và đảm bảo cho nhân dân được quyền thông tin để nắm
được chủ trương, chính sách, pháp luật, những vấn đề liên quan đến lợi ích của nhân dân,
làm rõ quyền và nghĩa vụ của nhân dân đối với các loại công quỹ phải đóng góp v.v...
- Thứ ba: Động viên nhân dân tham gia đóng góp xây dựng các quy chế, lệ làng
đúng theo Hiến pháp, pháp luật.
- Thứ tư: Tổ chức cho nhân dân tham gia đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng một
cách dân chủ, tránh áp đặt, tạo điều kiện cho nhân dân phát triển kinh tế gia đình, sản
xuất hàng hóa để xóa đói giảm nghèo.
- Thứ năm: Tổ chức tốt việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân trong việc bầu
cử, ứng cử... đặc biệt là việc bầu trưởng bản, trưởng làng.
- Thứ sáu: Chỉ đạo, hướng dẫn Mặt trận cấp cơ sở thực hiện tốt công tác kiểm tra,
giám sát hoạt động của cán bộ đảng viên, cán bộ công chức nhà nước đang sinh sống ở
làng, bản của mình.
- Thứ bảy: Xúc tiến thành lập các tổ hòa giải và việc giải quyết đơn thư của công
dân.
Muốn làm tốt công tác lãnh đạo nói trên của cấp ủy đảng cần phải chỉnh đốn tổ
chức cơ sở đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nhân tố đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền
lực chính trị của mình.
3.2.2. Nâng cao nhận thức và tầm quan trọng của Mặt trận Lào xây dựng Tổ
quốc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay
Nhận thức đúng vị trí, vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc có một ý nghĩa
đặc biệt quan trọng không chỉ liên quan đến Mặt trận mà còn liên quan đến các tổ chức
khác, đặc biệt là Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cũng như
trong hoạt động thực tiễn nhằm xây dựng nhà nước dân chủ của dân, do dân và vì dân.
Vì thế, cần tiếp tục làm cho hệ thống chính trị, nhất là các cấp ủy đảng và chính
quyền cơ sở nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của Mặt trận trong tình hình cách mạng
mới. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông
vững chắc giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, hoạt động theo
nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động, đóng vai
trò giám sát và phản biện xã hội, nhằm phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân
dân được tốt hơn, đảm bảo vững chắc sự lãnh đạo của Đảng.
Là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc
phải được đảm bảo hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, tập hợp nhân dân, phát huy tính
tích cực của dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đại diện cho tiếng nói của nhân dân,
tham gia xây dựng và giám sát sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, hoạt động của chính
quyền, vì lợi ích thiết thân của dân, không xa dân, không hành chính hóa.
Phải có sự nhận thức đúng đắn và thống nhất, sự vận hành đồng bộ cơ chế "Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ". Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là
những thành tố cấu thành hệ thống chính trị (như kiềng ba chân, nếu một chân nào đó
đứng không vững thì sẽ có ảnh hưởng đến chân khác), do đó hoạt động của nó phải gắn
liền với hoạt động của các thành tố khác, tức là phải có sự lãnh đạo của Đảng, sự hợp tác
chặt chẽ của chính quyền theo cơ chế nói trên. Không ngừng phát huy sức mạnh đại đoạn
kết toàn dân là yếu tố quyết định để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh
ủy ban Mặt trận các cấp phải thường xuyên đi sát cơ sở, tiếp cận dân, phối hợp
với chính quyền xem xét giải quyết kịp thời các nhu cầu cần thiết của nhân dân, thực hiện
tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, không phân biệt đối xử về dân tộc, tôn
giáo, trình độ học vấn, người trước đây làm việc dưới chế độ cũ, người Lào định cư ở
nước ngoài. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí trong công
chức chính quyền ở cơ sở, giảm bớt phiền hà trong dân, xây dựng phong cách "trọng dân,
gần dân, hiểu dân, học dân", chính quyền chủ động phối hợp với Mặt trận xây dựng các
dự án, đề án phát triển kinh tế- xã hội thiết thực, hợp với lòng dân, đẩy mạnh công khai
hóa, dân chủ hóa trong đời sống xã hội "tạo mọi điều kiện và thúc đẩy các đoàn thể nhân
dân, quần chúng nhân dân được tham gia xây dựng Đảng, xây dựng cán bộ" [41, tr. 5].
3.2.3. Tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức trong công dân
Sự hiểu biết pháp luật làm tăng cường niềm tin của công dân vào Nhà nước, vào
pháp luật và làm cơ sở định hướng đúng đắn cho các hành vi và hình thành nhân cách
công dân. Công dân tuân thủ pháp luật chính là tuân thủ những quy định pháp lý bảo vệ
lợi ích của bản thân, gia đình và cộng đồng. Công tác giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật
trong công dân ở CHDCND Lào hiện nay cần tập trung vào một số nhiệm vụ sau đây:
Một là, giáo dục pháp luật thông qua giáo dục văn hóa.
Giáo dục văn hóa nói chung, văn hóa pháp luật nói riêng của nhân dân là nhằm
nâng cao năng lực, ý thức dân chủ trong nhân dân. Tuyên truyền và giáo dục pháp luật là
một nhiệm vụ lâu dài, cần kết hợp chặt chẽ giới thiệu, phổ biến pháp luật với giáo dục,
vận động nhân dân học tập và thực hiện pháp luật theo nhiều hướng khác nhau như giáo
dục phổ cập, giáo dục chuyên ngành và giáo dục chuyên luật, trong nhà trường, gia đình
và trong xã hội.
Hai là, giáo dục pháp luật thông qua cac phương tiện thông tin đại chúng.
Thông tin đại chúng có thể được hiểu là những phương tiện truyền tải thông tin
tác động đến mọi đối tượng trong xã hội một cách rộng rãi ở các tầng lớp, các nhóm xã
hội khác nhau. Phương tiện thông tin bao gồm: sách báo, tạp chí, đài phát thanh, đài
truyền hình...
Hoạt động của báo chí có lợi thế hơn trong việc cập nhật thông tin, nhanh nhạy
đến với quảng đại quần chúng nhân dân. Báo chí thu hút được sự quan tâm theo dõi của
đông đảo các tầng lớp nhân dân. Hoạt động báo chí có tác dụng rất lớn trong việc tuyên
truyền, giáo dục, động viên, cổ vũ, tập hợp lực lượng quần chúng. Trong thời kỳ đổi mới,
nhất là lúc mà Đảng và Nhà nước CHDCND Lào đang xây dựng một xã hội mọi công
dân có ý thức sống và làm việc theo pháp luật thì vai trò của hoạt động báo chí càng được
đề cao. Giáo dục pháp luật trong công dân nói chung, các dân tộc thiểu số nói riêng thông
qua hoạt động văn hóa, thông tin báo chí là biểu hiện cụ thể của đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao dân trí pháp lý cho đồng bào các dân tộc ở vùng dân
tộc thiểu số.
Ba là, giáo dục pháp luật thông qua công tác hòa giải ở cơ sở.
Hòa giải những mâu thuẫn, xích mích trong dân làng vốn đã có từ lâu, nó là
truyền thống tốt đẹp của nhân dân các bộ tộc Lào. Khi có những mâu thuẫn phát sinh
trong gia đình, làng xóm thì cần phải có những người có uy tín, có trách nhiệm trong
cộng đồng (đa số là trong tổ chức Mặt trận) đứng ra làm trung gian hòa giải với nhiều
cách, chẳng hạn: nguyên tắc "khẩu phân, khẩu xử" thì tránh được những hậu quả lớn xảy
ra mà vẫn giữ được tình cảm xóm làng. Vì vậy, hòa giải tốt các vụ việc sẽ có tác dụng rất
tốt trong việc giữ vững kỷ cương phép nước và tình làng nghĩa xóm. Hòa giải có thể
được tiến hành nhờ vào uy tín của cá nhân trong cộng đồng hay nhờ vào tổ chức hòa giải
của Mặt trận.
3.2.4. Xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ giữa Mặt trận với đảng ủy, chính
quyền các cấp trong việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân
Sự lẫn lộn chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước đã
xảy ta từ lâu khi Nhà nước Xô viết đầu tiên ra đời. Lúc đó
V.I. Lênin yêu cầu "cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa nhiệm vụ của Đảng (và của
Ban chấp hành Trung ương) với nhiệm vụ của chính quyền Xô viết; tăng thêm tính chủ
động cho cán bộ Xô viết và các tổ chức Xô viết" [17, tr. 75], và cho tới nay, vấn đề đó đã
tỏ ra không mấy đơn giản. Đảng cầm quyền, lãnh đạo xã hội bao hàm nghĩa Đảng có
trách nhiệm quản lý xã hội. Trong lãnh đạo có quản lý, trong quản lý có lãnh đạo. Nhưng
Đảng phải sử dụng quyền lực nhà nước làm công cụ quản lý, chứ Đảng không làm chức
năng thi hành quyền lực nhà nước. Khi nói đến Nhà nước quản lý thì không có nghĩa là
Nhà nước không lãnh đạo. Thông qua việc vạch kế hoạch, các chính sách phát triển kinh
tế - xã hội mà Nhà nước cũng thực hiện sự lãnh đạo xã hội. Sự lãnh đạo này là thống nhất
với sự lãnh đạo của Đảng nhưng bằng Nhà nước và dưới hình thức nhà nước.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội khác, Đảng cũng phải đóng vai trò lãnh
đạo chính trị. Ngược lại, các tổ chức chính trị ấy là lực lượng nòng cốt xây dựng Đảng,
đồng thời là chỗ dựa, là cơ sở chính trị của chính quyền nhà nước.
Ngày nay, trước yêu cầu tập hợp rộng rãi tất cả các tổ chức, các đoàn thể chính
trị - xã hội của nhân dân, vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc được tiếp tục củng
cố. Mặt trận là chỗ dựa, là cơ sở chính trị xã hội của Đảng và của chính quyền nhà nước.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với Mặt trận, đồng thời là một tổ chức thành
viên của Mặt trận. Là một thành viên, Đảng không cho phép mình được "đứng trên" Mặt
trận; quan hệ giữa Đảng với Mặt trận là phải biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa
Đảng với dân.
Trong quan hệ với Nhà nước, Tổ chức Mặt trận hoạt động trên cơ sở tuân thủ
pháp luật, chịu sự điều hành, quản lý của Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước phải đáp ứng
đòi hỏi của các tổ chức chính trị - xã hội, phải hoạt động cho dân và vì dân. ở đây cũng
cần tránh khuynh hướng sai lầm: quan niệm các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt trận) chỉ
là công cụ, chỉ là nơi để huy động, đóng góp, bổ sung sức lực và tài lực cho một phong
trào nào đó do Đảng và Nhà nước phát động. Biến các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt
trận) thành cơ quan thi hành của Đảng và Nhà nước.
3.2.5. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Mặt trận các cấp trong hệ thống
chính trị
Trong tình hình mới, công tác cán bộ cần được dân chủ hóa và công khai hóa với
mức độ cần thiết, đặc biệt trong việc lựa chọn, bố trí cán bộ Mặt trận. Việc bố trí đúng
đội ngũ cán bộ chủ chốt là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu để khắc phục
tình trạng trì trệ, yếu kém hoạt động của công tác Mặt trận. Việc nhận xét, đánh giá, lựa
chọn và bố trí cán bộ nhất thiết phải lắng nghe ý kiến quần chúng và được trưởng thành
trong phong trào quần chúng.
Trước đây người cán bộ Mặt trận thường được bố trí theo yêu cầu công tác của
Đảng. Họ được phái đến để làm công tác quần chúng. Nhiều đồng chí đã làm rất tốt
nhiệm vụ được giao và trở thành những cán bộ chủ chốt của quần chúng, được quần
chúng tín nhiệm. Mặt khác, do uy tín của Đảng mà họ trở thành thủ lĩnh của quần
chúng. Song cách làm ấy cũng nảy sinh tình trạng gò ép, thậm chí có trường hợp áp đặt,
thiếu dân chủ. Bản thân người cán bộ khi được Đảng "cắt đặt" dễ phát sinh tâm lý ỷ lại,
kém sáng kiến, đặc biệt là kém nhạy cảm đối với những yêu cầu bức xúc của quần
chúng. Bệnh quan liêu, hành chính, bao cấp xa rời quần chúng cũng từ đấy mà ra. Ngày
nay, trình độ quần chúng đã được nâng cao, quần chúng đã có quá trình lâu dài đi theo
Đảng, đã trưởng thành trong cuộc vận động dân chủ hóa đời sống xã hội. Quần chúng
có những nhu cầu, lợi ích cũng cần phải có những cán bộ tương ứng, phù hợp. Vì vậy,
một trong những điểm xuất phát để bố trí cán bộ là lựa chọn cán bộ từ trong quần
chúng, được rèn luyện và trưởng thành trong phong trào quần chúng. Có làm thế chúng
ta mới có đội ngũ cán bộ đoàn thể thực sự là những cán bộ của quần chúng
Cán bộ Mặt trận đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện quyền lực chính
trị của nhân dân, cán bộ Mặt trận vừa là đại diện, vừa là người bạn gần gũi nhất với nhân
dân. Muốn tăng cường hiệu quả hoạt đông của công tác Mặt trận, cần phải chú trọng công
tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, tăng thêm về số lượng và chất lượng, đặc biệt là
cán bộ Mặt trận cấp huyện; cần phải tổ chức tập huấn, quán triệt đầy đủ, sâu sắc các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ Mặt trận cấp
cơ sở hiểu rõ về chức năng, nhiệm vụ cụ thể của tổ chức này trong việc tham gia và thực
hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào.
Để khuyến khích những cán bộ tích cực, năng động, hoạt động có hiệu quả, Mặt
trận phải thực hiện tốt chế độ khen thưởng đồng thời cũng phải có biện pháp xử lý đối
với những cán bộ làm sai trái, thiếu trách nhiệm, kỷ luật không nghiêm.
Cán bộ Mặt trận các cấp phải chú ý sửa đổi phong cách làm việc dân chủ. Phong
cách dân chủ thể hiện ở chỗ: lắng nghe ý kiến mọi người, hòa mình với quần chúng, dám
đấu tranh bảo vệ lợi ích của quần chúng, quan tâm đến từng thành viên của tổ chức mình.
Họ phải có phong cách làm việc tỉ mỉ, sâu sát chứ không thể đại khái qua loa. Tổ chức
đoàn thể là tập hợp những người có tâm tư, điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Do đó cán
bộ Mặt trận, đoàn thể phải bớt hội họp để dành thời gian xuống xóm, bản để trực tiếp tiếp
xúc với hội viên, đoàn viên và nhân dân. Có như vậy mới nắm được hoàn cảnh, tâm tư,
nguyện vọng để động viên giúp đỡ, hiểu được những vướng mắc trong tư tưởng của họ để
giải thích, thuyết phục. Cán bộ Mặt trận phải gương mẫu trong việc thực hiện các chủ
trương của làng bản như đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, đóng góp vốn vào quỹ phát
triển bản, thực hiện theo hương ước, quy ước... thì mới thuyết phục được hội viên, đoàn
viên.
3.2.6. Cơ chế đảm bảo chính sách và kinh phí hoạt động thích đáng cho Mặt
trận các cấp
Công tác Mặt trận là công việc tuyên truyền giáo dục, động viên các tầng lớp
nhân dân tham gia thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Thực hiện nhiệm vụ đó cần phải có nguồn kinh phí phục vụ cho công tác in ấn
tài liệu, xuất bản sách vở, các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh truyền
hình, vẽ panô, áp phích để tuyên truyền... cho đến việc khen thưởng để động viên khuyến
khích những cán bộ, nhân dân, những tổ chức thực hiện tốt. Vì vậy, Nhà nước cần có một
khoản đầu tư ngân sách thích hợp cho hoạt động này. Có như vậy mới tạo điều kiện cho
Mặt trận các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Mặt trận các cấp phải thực hiện tốt chính sách tiết kiệm của Nhà nước, đồng thời
cũng phải tự xây dựng đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo luật định để tạo nguồn
thu nhập, huy động vốn của các thành viên và của toàn thể xã hội vào quỹ phát triển của
Mặt trận.
3.2.7. Công tác sơ kết, đánh giá kết quả từng giai đoạn để rút ra những kinh
nghiệm cho thời gian tiếp theo
Trong điều kiện chưa có luật Mặt trận, thì hoạt động của công tác Mặt trận có
nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ
tộc Lào, là công việc "vừa học vừa làm". Có nhiều thành viên, hội viên, đoàn viên hăng
hái, tích cực tham gia hoạt động tuyên truyền, động viên, giáo dục nhân dân tổ chức thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân, nhưng cũng có nhiều người thờ ơ thậm chí gây khó
khăn. Cho nên hàng năm phải tổ chức sơ kết, tổng kết mới tìm ra được hạn chế, chỉ ra
nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra giải pháp để khắc phục trong thời gian
tới; phải khen thưởng, biểu dương những người và đơn vị làm tốt, có thành tích cao.
Đồng thời cũng phải có biện pháp xử lý đối với những người sai trái, vi phạm quyền làm
chủ của nhân dân hoặc lợi dụng dân chủ để gây rối an ninh trật tự. Có như vậy mới tìm
được cách hoạt động tốt nhất, thích hợp nhất và khuyến khích được nhiều người tham gia
công việc của Mặt trận.
Mặt trận, các đoàn thể nhân dân cùng tham gia với đảng ủy, chính quyền tổ chức
sơ kết, tổng kết. Mỗi tổ chức phải chỉ ra được mặt mạnh, mặt yếu, những việc làm được
và chưa làm được để thực hiện tốt hơn. Đồng thời, có kiến nghị lên cấp trên về những
điều cần sửa đổi, bổ sung trong quy chế hoạt động hoặc đề nghị cấp trên hỗ trợ trong đào
tạo cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí v.v...
Kết luận
Trong hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân Lào, Mặt trận Lào xây
dựng Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân có vai trò hết sức quan trọng trong công
tác giáo dục tuyên truyền, động viên và tập hợp quần chúng nhân dân tham gia vào công
cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân các bộ tộc, các
tầng lớp, bảo vệ lợi ích chính đáng theo luật pháp của các thành viên trong tổ chức của
mình. Sự tăng lên và mở rộng các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng là một tất yếu
khách quan, là một trong những biểu hiện của các hình thức văn hóa dân chủ, một sự phát
triển lành mạnh của một chế độ dân chủ.
Quyền lực chính trị của nhân dân thực chất là quyền là chủ và quyền làm chủ của
nhân dân. Quyền lực thuộc về nhân dân là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Dân chủ xã
hội chủ nghĩa theo bản chất của nó phải là nền dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Đó là sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước và xã
hội. Thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa là công cụ để nhân dân lao động thể hiện và thực
hiện quyền lực - quyền làm chủ của mình đối với sự phát triển của xã hội. Hệ thống chính
trị nước CHDCND Lào gồm Đảng NDCM Lào, các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các tổ
chức đoàn thể nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, nhân dân các bộ tộc
Lào đã từng bước xây dựng và hoàn thiện bộ máy thực thi quyền lực của mình. Nhà nước
CHDCND Lào, theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền sẽ ngày càng thực sự là một
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc thực hiện chính sách "đại đoàn kết toàn dân" của
Đảng bằng phương pháp duy trì các quan hệ xã hội lành mạnh giữa các bộ tộc, là nguồn
sức mạnh to lớn để thống nhất các bộ tộc, để tập hợp được các lực lượng xã hội. Từ đó
phát huy tinh thần yêu nước, ý thức tự hào với Tổ quốc, nâng cao tinh thần làm chủ và tự
giác thi hành pháp luật, từng bước khắc phục sự nghèo nàn, lạc hậu, góp phần xây dựng
đất nước ngày một tiến bộ.
Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, tăng
cường vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc trong thời kỳ phát triển mới của đất
nước là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền là yêu cầu
quan trọng đảm bảo cho Mặt trận tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao chất
lượng cán bộ Mặt trận đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực sự đưa công tác Mặt trận ngang với "tầm cao mới và
chiều sâu mới" phải tăng cường hơn nữa vai trò của Mặt trận trong tiến trình xây dựng và
củng cố chế độ dân chủ nhân dân ở Lào hiện nay. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi xin
đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao vai trò của Mặt trận trong tình hình
mới.
Kiến nghị
1. Toàn Đảng, toàn dân cần phải nhận thức cho đúng vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của công tác Mặt trận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Mặt trận là nơi
tập hợp đại đoàn kết toàn dân, là chỗ dựa vững chắc của Đảng và là cơ sở chính trị của
chính quyền nhà nước.
2. Nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho Mặt trận thực sự phát huy được quyền
chủ động thể hiện chính kiến của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân các bộ tộc Lào.
3. Xây dựng quy chế làm việc giữa cấp ủy, chính quyền các ban ngành hữu quan
của chính quyền với Mặt trận và các tổ chức thành viên từ Trung ương đến cơ sở.
4. Phải có Luật Mặt trận càng sớm càng tốt.
Đề tài này là một vấn đề mới, chưa được nghiên cứu nhiều mà khả năng của tác
giả thì có hạn. Vì vậy, khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong được sự
góp ý của các nhà khoa học, các đồng chí, bạn bè để có thể nghiên cứu vấn đề sâu hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1999), Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần
thứ sáu (lần 2), Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị
lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
3. Hoàng Chí Bảo (Chủ nhiệm), Cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong hệ
thống chính trị ở nước ta, Đề tài Khoa học cấp nhà nước KX 05-05.
4. Trường Chinh (1972), Về công tác Mặt trận hiện nay, Nxb Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (2002), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
8. Quế Lai (1985), Tìm hiểu văn hóa Lào, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
9. V.I. Lênin (1971), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
10. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
11. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
12. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) (1994), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội IV Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1997), Đề cương bài giảng công tác Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Hà Nội.
16. Hồ Chí Minh (1976), Về quan điểm quần chúng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
17. Hồ Chí Minh (1976), Vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Phan Xuân Sơn (Chủ biên) (2002), Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ
ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Hồ Văn Thông (1999), Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
24. Từ điển chính trị vắn tắt (1988), Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
25. Viện Khoa học Chính trị (2004), Giáo trình Chính trị học (hệ cao cấp lý luận), Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
26. Viện Khoa học Chính trị (2004), Tập bài giảng Chính trị học (Hệ cử nhân chính trị),
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ biên) (2005), Góp phần đẩy lùi nguy cơ, bảo đảm ổn định và
phát triển đất nước, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
tiếng lào
28. Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng (1997), Lịch sử Đảng
nhân dân cách mạng Lào, Viêng Chăn.
29. Ban Tuyên huấn Trung ương - Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2004), Giáo trình tập
huấn cán bộ cấp bản, Viêng Chăn.
30. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (1979), Một vài kinh nghiệm chủ yếu và một số vấn đề
phương hướng mới của cách mạng Lào, Nxb Viêng Chăn.
31. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (1980), Xây dựng cơ sở vững chắc đưa đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội, Xưởng in Quốc gia, Viêng Chăn.
32. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (1985), Tuyển tập, tập 1, Nxb Viêng Chăn.
33. Chính phủ (1996), Nghị định số 92/ TT của Thủ tướng Chính phủ ngày 5-7 về quản lý và hoạt động tôn giáo ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Viêng Chăn.
34. Chính phủ (1996), Chỉ thị số 08/TT của Thủ tướng Chính phủ ngày 12/10 về tăng
cường chống những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, Viêng Chăn.
35. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III, Viêng Chăn.
36. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV, Xưởng in quốc gia, Viêng Chăn.
37. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1988), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương khóa IV, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn,.
38. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
V, Viêng Chăn.
39. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1992), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa V về vấn đề tôn giáo ngày 30-3, Viêng Chăn.
40. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1992), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa V về công tác dân tộc trong thời kỳ mới, ngày 20-5,
Viêng Chăn.
41. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1993), Nghị quyết số 05/BCT của Bộ Chính trị ngày 10/2 về công tác quần chúng của Đảng trong thời kỳ mới, Viêng Chăn.
42. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Viêng Chăn.
43. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Viêng Chăn.
44. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2004), Nghị quyết số 27/BCT của Bộ Chính trị ngày
07/4 về công tác kiểm tra năm 2003 đến năm 2010, Viêng Chăn.
45. Điều lệ và Chương trình hoạt động của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (2001),
Xưởng in quốc gia.
46. Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (2003), Nxb Quốc gia Lào.
47. Khăm Tày Xỉ Phăn Đon trong sự nghiệp cách mạng dân chủ, bảo vệ và xây dựng đất
nước (1998), Viêng Chăn.
48. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (2002), Củng cố xây dựng cơ sở chính trị, tăng cường vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân, Tài liệu tham khảo, Viêng Chăn.
49. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (1987), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc, Viêng Chăn.
50. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (1996), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc, Viêng Chăn.
51. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (2001), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc, Viêng Chăn.
52. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (2001), Bài phát biểu của đồng chí Xỉ Xá Vạt Kẹo Bun Phăn, ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch ủy ban Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Viêng Chăn.
53. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (2004), Truyền thống và vai trò của Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc, trong thời kỳ mới, (Tài liệu tham khảo), Viêng Chăn.
54. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc (2004), Tổng kết công tác Mặt trận Lào xây dựng Tổ
quốc, Tổ chức tại tỉnh Khăm Muôm, từ ngày 16-18/2.
55. ủy ban Kế hoạch Nhà nước (8/2000), Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Viêng Chăn.
56. ủy ban Kế hoạch và Hợp tác (2004), Thống kê năm 2003, Viêng Chăn.
Phụ lục
Phụ lục 1
Thành viên UBMT Lào xây dựng Tổ quốc các khóa
Năm Nữ Đại hội MT Tổng số thành viên Đại diện tôn giáo Doanh nhân
Đại diện người Lào ở nước ngoài
II 94 6 12 0 0 1987- 1996
III 98 9 10 0 0 1996- 2001
VII 116 15 11 6 1 2001- 2006
Nguồn: UBMT Lào xây dựng Tổ quốc.
Phụ lục 2
Thành viên Mặt trận các cấp năm 2003
- Tổng số thành viên MT các cấp = 48.146 người
- Nữ = 6.627 người
- Cấp trung ương = 116 người
- Cấp tỉnh = 734 người
- Cấp huyện (Mường) = 3.914 người
- Cấp cơ sở (làng, bản) = 43.322 người
Nguồn: UBMT Lào xây dựng Tổ quốc.
Phụ lục 3
Hiện trạng phát triển giáo dục năm 2003
Tổng số Tiểu học THCS THPT
Tổng số trường học (trường) 9.365 8.486 733 146
Tổng số lớp học ( lớp) 34.654 27.580 4.868 2.206
Tổng số giáo viên (người) 41.929 28.571 9.458 3.900
Tổng số học sinh (học sinh) 1.223.609 875.300 229.032 119.286
Nguồn: Bộ giáo dục.
Phụ lục 4
Tình hình giáo dục Đại học và chuyên nghiệp năm 2003
Đơn vị : cơ sở; người
Đại học Viện cấp kỹ Trung thuật
Tổng số cơ sở đào tạo 1 11 40
Tổng số giáo viên 1.019 721 905
Tổng số sinh viên 13.290 18.639 17.814
Nguồn: Bộ Giáo dục.
Phụ lục 5
Ngày bầu cử Quốc hội Lào các khóa
+ Hội đồng nhân dân tối cao khóa I
Ngày thành lập: 2-12-1975
Tổng số đại biểu: 45 người, trong đó nữ: 4.
+ Hội đồng nhân dân tối cao khóa II
Ngày bầu cử: 26-3-1989
Tổng số đại biểu: 79 người, trong đó nữ: 5.
+ Quốc hội khóa III
Ngày bầu cử: 20-12-1992
Tổng số đại biểu: 85 người, trong đó nữ: 8.
+ Quốc hội khóa IV
Ngày bầu cử: 21-12-1997
Tổng số đại biểu: 99 người, trong đó nữ: 21.
+ Quốc hội khóa V
Ngày bầu cử: 24-2-2002
Tổng số đại biểu: 109 người, trong đó nữ: 25.
Nguồn: Tạp chí Quốc hội, số 5, 2004
Phụ lục 6
Tổng số Hiến pháp, Luật được thông qua
trong các nhiệm kỳ Quốc hội
Văn bản thông qua Nhiệm kỳ quốc hội Hiến pháp Luật
Khóa I (1975 - 1989) - 01
Khóa II (1989 - 1991) 01 15
Khóa III (1991 - 1997) - 20
Khóa IV (1997 - 2001) - 10
Khóa V (2001 - 2006) 01 11
Nguồn: Cục nghiên cứu tổng hợp của Quốc hội, 2005