HNUE JOURNAL OF SCIENCE<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0035<br />
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 173-184<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
MÔ HÌNH QUẢN LÍ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC<br />
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CHO SINH VIÊN<br />
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM<br />
<br />
Phạm Thị Thuý Hằng<br />
Khoa Tâm lí - Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
Tóm tắt. Bài viết giới thiệu về mô hình quản lí chất lượng hoạt động giáo dục quyền<br />
sở hữu trí tuệ cho sinh viên các trường đại học Sư phạm, trong đó chú trọng đến các<br />
khía cạnh: (1) Chất lượng giáo dục quyền sở hữu trí tuệ ở trường đại học; (2) Các yếu<br />
tố đảm bảo chất lượng giáo dục quyền sở hữu trí tuệ ở trường đại học; (3) Xây dựng<br />
hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục quyền sở hữu trí tuệ ở trường đại học;<br />
(4) Định hướng cơ bản trong quản lí chất lượng giáo dục quyền sở hữu trí tuệ cho<br />
sinh viên các trường đại học sư phạm.<br />
Từ khoá: Quản lí chất lượng, quyền sở hữu trí tuệ, chất lượng giáo dục quyền sở hữu<br />
trí tuệ, quản lí chất lượng giáo dục quyền sở hữu trí tuệ, đại học sư phạm.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Những nghiên cứu về quản lí chất lượng (QLCL) của các nhà nghiên cứu trên thế<br />
giới như Harvey, Green (1993); Bogue, Saunder (1992); Crosby, Juran & Deming (2010);<br />
Everard, Morris & Wilson (2010) thường tập trung nghiên cứu vào bản chất của chất<br />
lượng, QLCL, đưa ra những tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng, thiết kế quy trình QLCL [1, 2].<br />
Trên cơ sở đó, trong thời gian gần đây, việc áp dụng các mô hình QLCL vào lĩnh vực giáo<br />
dục đã được khởi xướng và ngày càng trở thành xu hướng chung trong quản lí giáo dục,<br />
trong đó có thể kể đến các nghiên cứu của Edward Sallis (1992); Gharib, Alfarah (2012);<br />
Bratean, BLates (2013) đã đóng góp tích cực về mặt lí luận và thực tiễn trong công tác<br />
quản lí chất lượng giáo dục (QLCLGD) trong nhà trường. Các nghiên cứu cho thấy nếu<br />
nhà quản lí đề cao vai trò của giáo viên thì chất lượng dạy học trong các cơ sở giáo dục sẽ<br />
tăng lên. Ngoài ra, nhà quản lí giáo dục có nhận thức đúng đắn về chất lượng và QLCL từ<br />
đó đưa ra những chính sách chất lượng phù hợp cho tổ chức mình cũng có vai trò quyết<br />
định chất lượng giáo dục [1, 3-5].<br />
<br />
Ngày nhận bài: 14/2/2019. Ngày sửa bài: 12/3/2019. Ngày nhận đăng: 18/3/2019.<br />
Tác giả liên hệ: Phạm Thị Thuý Hằng. Địa chỉ e-mail: pham_thuyhang2001@yahoo.com<br />
<br />
173<br />
<br />
Phạm Thị Thuý Hằng<br />
<br />
Nghiên cứu về quản lí hoạt động sở hữu trí tuệ (SHTT) ở trường đại học (ĐH) và mô<br />
hình quản lí hoạt động SHTT cũng là một xu hướng nghiên cứu khá phổ biến được các tác<br />
giả trên thế giới quan tâm trong bối cảnh của việc xem xét hệ thống quyền SHTT và<br />
chuyển giao công nghệ từ các tổ chức nghiên cứu và các cơ sở giáo dục đại học. Trong đó,<br />
các nghiên cứu tập trung nghiên cứu các mô hình quản lí hoạt động SHTT tiên tiến,<br />
chuyên nghiệp của các trường ĐH trên thế giới, đóng góp ý nghĩa to lớn về lí luận và thực<br />
tiễn đối với các trường ĐH trong việc định hướng vận dụng bài học kinh nghiệm phù hợp<br />
trong thực tiễn quản lí hoạt động SHTT cho các trường ĐH trên thế giới, tiêu biểu như:<br />
Giorgio (2006); Guo (2007); Wang (2012); Nhóm tác giả Sabrina, Valeria, Aurora,<br />
Henrique (2013) [6]. Có thể thấy rằng, các nghiên cứu trên thế giới đều nhấn mạnh tầm<br />
quan trọng của QLCLGD và quản lí hoạt động SHTT trong trường ĐH. Tuy nhiên, thực<br />
tế nghiên cứu cho thấy QLCL hoạt động giáo dục (HĐGD) quyền SHTT là vấn đề chưa<br />
được chú trọng nghiên cứu, hầu hết các nghiên cứu có liên quan thường thực hiện ở khía<br />
cạnh vĩ mô, do các tổ chức quốc tế và các Bộ giáo dục của các quốc gia thực hiện, áp<br />
dụng chung cho khu vực hay quốc gia; thông thường quan tâm đến nghiên cứu quản lí nội<br />
dung chương trình đào tạo, ít đề cập đến quản lí chất lượng của HĐGD này trong trường<br />
đại học. Thực tiễn cho thấy, hầu như chưa có nghiên cứu xây dựng mô hình QLCL<br />
HĐGD Quyền SHTT cho sinh viên trong các trường ĐH.<br />
Ở Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến quản lí hoạt động SHTT trong trường ĐH<br />
là vấn đề còn khá mới cả về lí luận và thực tiễn, tuy nhiên một số các nghiên cứu đã có<br />
những đóng góp rất quan trọng trong xây dựng mô hình quản lí, khai thác SHTT cũng như<br />
mô tả bức tranh về quản lí SHTT trong trường ĐH từ hoạt động nhận diện, xác định<br />
quyền sở hữu, thống kê và quản lí về mặt hành chính SHTT; hoạt động xác lập và bảo vệ<br />
quyền sở hữu pháp lí SHTT cho đến hoạt động khai thác thương mại SHTT và đề xuất<br />
những biện pháp quản lí hoạt động SHTT trong trường ĐH. Bên cạnh đó, nhiều nghiên<br />
cứu về hoạt động giáo dục và đào tạo về SHTT đã được tiến hành như: Trần Văn Hải<br />
(2007), Lê Văn Hồng (2008), Đoàn Đức Lương (2009), Nguyễn Thị Hồng Vinh (2010)<br />
[7-10]. Các nghiên cứu trên đây đã khái quát hóa và làm rõ những vấn đề lí luận về giáo<br />
dục SHTT và là hướng tiếp cận rõ ràng không chỉ đối với việc giúp SV ý thức hơn trong<br />
việc bảo vệ tài sản trí tuệ của mình, tôn trọng quyền SHTT của người khác, mà tích cực<br />
hơn dưới góc độ mình có thể sử dụng, khai thác gì từ việc bảo hộ quyền SHTT, làm cơ sở<br />
để những ý tưởng sáng tạo được bảo hộ và thương mại hóa trong tương lai. Tuy nhiên,<br />
việc nghiên cứu lí luận và thực tiễn về quản lí chất lượng HĐGD quyền SHTT cho SV<br />
trong trường ĐH vẫn là mảnh đất trống chưa được quan tâm triển khai nghiên cứu tại<br />
nước ta.<br />
Trên cơ sở những kinh nghiệm nghiên cứu thực tiễn đã có về QLCLGD trong nhà<br />
trường và quản lí hoạt động SHTT ở trường ĐH trên thế giới và Việt Nam, bài viết kế<br />
thừa, ứng dụng và phát triển có chọn lọc, đồng thời đề xuất mô hình quản lí HĐGD quyền<br />
SHTT cho sinh viên các trường Đại học Sư phạm (ĐHSP) tại Việt Nam.<br />
174<br />
<br />
Mô hình quản lí chất lượng hoạt động giáo dục quyền sở hữu trí tuệ cho sinh viên…<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Lí luận chung về quản lí chất lượng hoạt động giáo dục sở hữu trí tuệ cho<br />
sinh viên ở các trường đại học sư phạm<br />
2.1.1. Chất lượng hoạt động giáo dục quyền sở hữu trí tuệ cho sinh viên trong<br />
trường đại học sư phạm<br />
* Quyền sở hữu trí tuệ<br />
Tại Việt Nam, quyền SHTT được định nghĩa theo Bộ luật dân sự 2005 [11] và theo<br />
Luật sở hữu trí tuệ 2005 [12] như sau: “là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí<br />
tuệ, bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công<br />
nghệp và quyền đối với giống cây trồng”. Như vậy, theo định nghĩa quyền sở hữu trí tuệ<br />
được hiểu gồm bốn loại: (i) quyền tác giả; (ii) quyền liên quan (đến quyền tác giả); (iii)<br />
quyền sở hữu công nghiệp và (iv) quyền đối với giống cây trồng. Quyền SHTT là quyền<br />
hợp pháp cá nhân, pháp nhân đối với các sản phẩm trí tuệ do con người sáng tạo, đó là<br />
độc quyền được công nhận cho một người, một nhóm người hoặc một tổ chức, cho phép<br />
họ được sử dụng hay khai thác khía cạnh thương mại của một sản phẩm sáng tạo. Quyền<br />
SHTT nhằm bảo vệ người sáng tạo, những nhà sản xuất hàng hóa và dịch vụ trí tuệ khác<br />
nhau bằng cách trao cho họ những quyền bị khống chế và thời hạn để kiểm soát việc sử<br />
dụng những sản phẩm nhằm đảm bảo cho người sáng tạo có thể khai thác giá trị kinh tế từ<br />
các sản phẩm sáng tạo của mình để bù đắp lại công lao sáng tạo.<br />
* Hoạt động giáo dục quyền sở hữu trí tuệ<br />
Khái niệm HĐGD quyền SHTT được hiểu là hoạt động có mục đích, có tổ chức giữa<br />
nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hình thành nhận thức đúng đắn, thái độ phù<br />
hợp và hành vi tôn trọng các sản phẩm trí tuệ (quyền tác giả, quyền liên quan đến tác giả),<br />
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng) do con người sáng tạo; rèn<br />
luyện thói quen bảo vệ tài sản trí tuệ đồng thời khuyến khích hoạt động sáng tạo của SV<br />
trong học tập, nghiên cứu.<br />
Chúng tôi xác định bản chất của HĐGD quyền SHTT là quá trình chuyển hoá một<br />
cách tích cực, tự giác các yêu cầu về việc thực thi Luật SHTT thành hành vi và thói quen<br />
hành vi trong cuộc sống, học tập, nghiên cứu; có ý thức bảo hộ quyền SHTT đối với sản<br />
phẩm trí tuệ của bản thân và không xâm phạm SHTT của người khác, mặt khác có ý thức<br />
loại bỏ những biểu hiện hành vi tiêu cực trong học tập, nghiên cứu như: quay cóp, gian<br />
lận trong thi cử, in sao chép bài giảng, tác phẩm, công trình nghiên cứu khoa học khi chưa<br />
có sự đồng ý của tác giả thông qua quá trình nhà giáo dục tổ chức các hoạt động và giao<br />
lưu cho người được tham gia, trong đó nhà giáo dục đóng vai trò chủ đạo và người được<br />
giáo dục giữ vai trò chủ động.<br />
* Chất lượng hoạt động giáo dục quyền sở hữu trí tuệ cho sinh viên sư phạm<br />
HĐGD quyền SHTT cho SV có chất lượng được chúng tôi hiểu là HĐGD được nhà<br />
trường tổ chức sao cho SV có được nhận thức đúng đắn, thái độ phù hợp và hành vi tích<br />
cực đối với vần đề bảo vệ quyền SHTT, có ý thức tôn trọng SHTT của bản thân và người<br />
khác, đồng thời qua đó khuyến khích hoạt động sáng tạo trong học tập, nghiên cứu và<br />
hình thành nhân cách toàn diện của người giáo viên trong tương lai.<br />
175<br />
<br />
Phạm Thị Thuý Hằng<br />
<br />
Sinh viên được giáo dục các nội dung cơ bản về Quyền SHTT đề biết cách bảo vệ<br />
những thành quả sáng tạo của mình và không xâm phạm tài sản trí tuệ của người khác<br />
cũng như giáo dục cho các công dân tương lai của đất nước hiểu biết về vấn đề SHTT. Có<br />
thể đánh giá chất lượng HĐGD quyền SHTT dựa vào kiến thức về quyền SHTT mà SV<br />
nắm và thái độ đối với việc rèn luyện, trau dồi hành vi thực thi quyền SHTT. Cụ thể, căn<br />
cứ vào đặc điểm của chuyên ngành đào tạo, tính chất riêng biệt lĩnh vực đào tạo và yêu<br />
cầu nghiên cứu của trường có thể mỗi Ngành/Khoa tự chọn cho mình nội dung đặc thù và<br />
nội dung Luật SHTT (Nội dung Luật SHTT bao gồm 6 phần, 18 chương, 222 điều, do đó,<br />
phải lựa chọn nội dung phù hợp với chuyên ngành đào tạo). Từ căn cứ nêu trên, chúng tôi<br />
lựa chọn nội dung Luật SHTT để tổ chức HĐGD quyền SHTT cho SV Sư phạm cụ thể<br />
như sau: (1) Phần thứ nhất – Những quy định chung (điều 1, 2, 3, 4, 7); (2) Phần thứ hai –<br />
Quyền tác giả và quyền liên quan (điều 13, 14, 15, 18, 25, 26, 28, 32, 33); (3) Phần thứ<br />
năm – Bảo vệ quyền SHTT (điều 198, 199) [8]. Về mức độ hiểu biết về quyền SHTT có<br />
thể đánh giá khả năng nắm kiến thức về Quyền SHTT của SV theo các mức độ của thang<br />
đánh giá: Giỏi; Khá; Trung bình; Yếu kém. Cụ thể: Giỏi (SV thực đầy đủ, đúng các yêu<br />
cầu về nội dung kiến thức liên quan đến SHTT); Khá (Thực hiện tương đối tốt yêu cầu về<br />
nội dung kiến thức liên quan đến quyền SHTT); Trung bình (Thực hiện được yêu cầu cơ<br />
bản về nội dung kiến thức liên quan đến quyền SHTT); Yếu kém (Không thực hiện được<br />
yêu cầu cơ bản về nội dung kiến thức liên quan đến quyền SHTT).<br />
Như vậy, tổ chức HĐGD quyền SHTT cho SV có chất lượng phải dựa vào những căn<br />
cứ sau: 1) Tất cả SV các được giáo dục các nội dung cơ bản về quyền SHTT được lựa<br />
chọn phù hợp với SV Sư phạm 2) Đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo gắn với kế hoạch<br />
đào của trường Sư phạm, gắn với lợi ích và thực tiễn hoạt động học tập, nghiên cứu của<br />
SV; 3) SV đạt được mức độ trung bình trở lên về mặt nhận thức về quyền SHTT sau tham<br />
gia HĐGD quyền SHTT làm cơ sở để bồi dưỡng thái độ đúng đắn và rèn luyện hành vi<br />
tích cực trong thực thi quyền SHTT của SV.<br />
2.1.2. Các mô hình quản lí chất lượng giáo dục đại học<br />
Khái niệm CLGD đại học được định nghĩa rất khác nhau ở nhiều nước trên thế giới<br />
tuỳ theo từng thời điểm và giữa những người quan tâm: sinh viên, giảng viên, người sử<br />
dụng lao động, các tổ chức tài trợ và các cơ quan kiểm định; trong nhiều bối cảnh, nó còn<br />
phụ thuộc vào tình trạng phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, đồng thời tính đa dạng<br />
trong cách tiếp cận khái niệm này cũng bắt nguồn từ nội hàm phức tạp trừu tượng và tính<br />
đa diện, đa chiều của khái niệm “chất lượng”. Do vậy, đây được xem là một khái niệm<br />
động, đa chiều, và gắn với các yếu tố chủ quan thông qua quan hệ giữa người và người.<br />
Trong các định nghĩa khác nhau về thuật ngữ CLGD của nhiều tác giả, trong phạm vi bài<br />
viết này chúng tôi sử dụng định nghĩa “chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu” của<br />
Burrows và Harvey (1993) như là một định nghĩa phù hợp nhất đối với giáo dục đại học<br />
của nước ta. Tác giả đề cập đến năm khía cạnh CLGD đại học: chất lượng là sự vượt trội<br />
(hay sự xuất sắc); chất lượng là sự hoàn hảo (kết quả hoàn thiện, không có sai sót), chất<br />
lượng là sự phù hợp với mục tiêu (đáp ứng nhu cầu của khách hàng); chất lượng là sự<br />
đáng giá về đồng tiền (trên khía cạnh đáng giá để đầu tư); và chất lượng là sự chuyển đổi<br />
(sự chuyển đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác) [13, 14].<br />
Định nghĩa của Harvey và Green (1993) đã được nhiều tác giả khác thảo luận, công<br />
nhận và phát triển. Các tổ chức đảm bảo CLGDĐH của Hoa Kỳ, Anh và nhiều nước khác<br />
176<br />
<br />
Mô hình quản lí chất lượng hoạt động giáo dục quyền sở hữu trí tuệ cho sinh viên…<br />
<br />
đang sử dụng khái niệm “chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu”. Sự phù hợp với mục<br />
tiêu có thể bao gồm việc đáp ứng đòi hỏi của những người quan tâm như các nhà quản lí,<br />
nhà giáo hay các nhà nghiên cứu giáo dục đại học. Sự phù hợp với mục tiêu còn bao gồm<br />
cả sự đáp ứng hay vượt qua các chuẩn mực đã được đặt ra trong giáo dục và đào tạo. Sự<br />
phù hợp với mục tiêu cũng đề cập đến những yêu cầu về sự hoàn thiện của đầu ra, hiệu<br />
quả của đầu tư. Mỗi một trường ĐH cần xác định nội dung của sự phù hợp với mục tiêu<br />
trên cơ sở bối cảnh cụ thể của nhà trường tại thời điểm xác định mục tiêu đào tạo của<br />
mình. Sau đó chất lượng là vấn đề làm sao để đạt được các mục tiêu đó.
Một số tổ chức<br />
khác vận dụng khái niệm “chất lượng là sự xuất sắc” để so sánh CLGD đại học giữa các<br />
quốc gia hay giữa các trường ĐH khác nhau. Khái niệm “chất lượng là có giá trị gia<br />
tăng” được vận dụng để khuyến khích các cơ sở giáo dục ĐH quan tâm đến việc không<br />
ngừng nâng cao chất lượng dạy và học.<br />
Các mô hình QLCLGD và đào tạo thế giới có thể đề cập tới như: QLCLGD theo Hệ<br />
thống quản lý ISO 9000: 2015; Tiêu chuẩn ISO 9000: 2015; Cơ sở từ vựng ISO 9000:<br />
2015; QLCLGD theo Mô hình SEAMEO; QLCLGD theo các tiêu chuẩn: EFQM, ABET,<br />
AUN,…; QLCLGD theo Mô hình QLCL tổng thể (TQM). Trong đó, có thể vận dụng các<br />
mô hình QLCL trong QLCLGD và đào tạo tại Việt Nam cụ thể là ở bậc Trung học chuyên<br />
nghiệp, cao đẳng, ĐH như: Kiểm định chương trình giáo dục và đào tạo (TT 04, CV 1075,<br />
768, 769) (AUN-QA 3.0); Kiểm định cơ sở giáo dục (TT 12, CV 766, 767) (AUN-QA<br />
2.0). Trong phạm vi bài viết, chúng tôi đề cập đến ba cấp độ QLCL được nhiều người biết<br />
đến là: Kiểm soát chất lượng (Quality Control), Đảm bảo chất lượng (Quality Assurance)<br />
và QLCL tổng thể (Total Quality Management) và Mô hình các yếu tố tổ chức. Có thể<br />
tóm tắt các mô hình QLCL bằng sơ đồ hình 1.<br />
<br />
Kiểm định/ ISO<br />
<br />
Kiểm định/ISO<br />
QUẢN LÝ CHẤT L ƯỢNG T ỔNG THỂ (TQM )<br />
Thanh tra<br />
ĐẢM BẢO CHẤT L ƯỢNG<br />
CẢI THI ỆN L I ÊN TỤC<br />
KI ỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG<br />
PHÒNG NGỪA<br />
<br />
PHÁT HI ỆN<br />
<br />
Hình 1. Các mô hình quản lí chất lượng giáo dục<br />
- Kiểm soát chất lượng là hình thức QLCL đã được sử dụng lâu đời nhất, được thực<br />
hiện ở khâu cuối cùng trong quá trình đào tạo nhằm phát hiện và loại bỏ toàn bộ hay từng<br />
phần sản phẩm cuối cùng không đạt các chuẩn mực chất lượng (ví dụ không đạt các thông<br />
số kỹ thuật). Đây là quá trình xẩy ra sau khi sản phẩm đã được tạo ra, nên nếu phải loại bỏ<br />
sản phẩm sẽ dẫn đến lãng phí nguyên vật liệu, thời gian và công sức. Với SV, họ còn mất<br />
nhiều cơ hội khác trong khi phải theo đuổi một chương trình học tập nhưng cuối cùng<br />
không được tốt nghiệp [14-16].<br />
177<br />
<br />