Module Giáo viên mầm non 12: Tổ chức các hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm
lượt xem 0
download
Tài liệu "Module Giáo viên mầm non 12: Tổ chức các hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm" nhằm giúp bạn đọc phân tích được cơ sở lý luận của phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; vận dụng kiến thức được trang bị vào đánh giá thực trạng và phát hiện các hạn chế trong tổ chức hoạt động phát triển nhận thức theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động phát triển nhận thức theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong nhóm, lớp tại cơ sở giáo dục Mầm non. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Module Giáo viên mầm non 12: Tổ chức các hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm
- Ths. Trương Bùi Thùy Dương Ths. Trần Thị Thu Hà MODULE (GVMN) 12 TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CHO TRẺ EM THEO QUAN ĐIỂM GIÁO DỤC LẤY TRẺ EM LÀM TRUNG TÂM Quảng Trị, tháng 7 năm 2022 0
- A. MỤC TIÊU Sau khi kết thúc đợt tập huấn moldule, giáo viên đạt được những vấn đề sau: - Phân tích được cơ sở lý luận của phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; - Vận dụng kiến thức được trang bị vào đánh giá thực trạng và phát hiện các hạn chế trong tổ chức hoạt động phát triển nhận thức theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; - Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động phát triển nhận thức theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong nhóm, lớp tại cơ sở giáo dục Mầm non (GDMN) B. MÔ TẢ NỘI DUNG Module 12 “Tổ chức các hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm” gồm các nội dung cụ thể sau: - Đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ em, mục tiêu và kết quả mong đợi theo chương trình GDMN; - Quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong phát triển nhận thức cho trẻ em; - Hướng dẫn tổ chức hoạt động phát triển nhận thức theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm. C. NỘI DUNG CỤ THỂ LÝ THUYẾT (10 tiết) 1. Đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ em, mục tiêu và kết quả mong đợi theo chương trình GDMN 1.1. Đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ hài nhi (từ lọt lòng đến 15 tháng) 1.1.1. Nhận thức cảm tính: Trẻ sơ sinh chưa có tri giác, trẻ chưa tiếp nhận rõ ràng kích thích từ bên ngoài. Trong tuần đầu ở trẻ mới nảy sinh cảm giác, được biểu hiện ở những phản ứng vận động của trẻ - là những phản xạ định hướng. Cho đến tuần thứ sáu, trẻ có thể cảm nhận được một số kích thích từ môi trường bên ngoài, đặc biệt trẻ sớm nhận ra mặt người, đây là một đặc điểm quan trọng của trẻ sơ sinh, biểu hiện nhu cầu về ấn tượng bên ngoài của trẻ. Chĩnh nhu cầu này là cơ sở cho những nhu cầu khác của trẻ như nhu cầu giao tiếp, nhu cầu nhận thức, .. Qua tháng thứ hai, cảm giác từ mắt mới bắt đầu đóng vai trò quan trọng. Trẻ thường nhìn mắt mẹ lúc bú. Đến tháng thứ ba, trẻ nhận ra một hình tổng thể 3 chiều. Ở thời kì này, vai trò của môi miệng vẫn là chủ yếu. Từ tháng thứ ba ở trẻ xuất hiện sự phân tích và tổng hợp phức hợp các kích thích phức tạp. Trẻ bắt đầu tri giác sự vật – những cái có ý nghĩa hơn cả đối với cuộc sống của trẻ, trước hết là mẹ, sau đó là các sự vật khác. Trẻ bắt đầu dùng hai tay để sờ mó đồ vật. Hai bàn tay tạo ra những ẫn tượng xúc giác về đồ vật, giúp cho trẻ biết được vài đặc tính đơn giản của chúng. Đến tháng thứ tư, trẻ bắt đầu nắm lấy đồ vật. Nhiều khi trẻ nắm chắc trong tay một đồ vật lâu, nhưng vẫn chưa làm chủ hoàn toàn hành động nắm. Càng về cuối năm, động tác nắm càng chính xác hơn. 1
- Từ tháng 10 – 11 xuất hiện tri giác nhìn hình dạng và độ lớn, thể hiện sau khi nhìn đồ vật định lấy, trẻ đặt bàn tay phù hợp với thuộc tính của đối tượng. Sự nhận biết được hình thành qua một quá trình kéo dài từ sơ sinh đến 18 tháng với 6 giai đoạn: - Hai giai đoạn đầu là phản xạ, rồi một số vận động được lặp lại thành quen thuộc (chủ yếu ở trẻ sơ sinh và giai đoạn đầu tuổi hài nhi) - Giai đoạn 3: xuất hiện phản ứng quay vòng, một vận động tạo ra một kết quả. - Giai đoạn 4: đang tìm một vật gì, thấy vật đó biến mất trẻ có ý tìm nhưng không có hướng tìm. - Giai đoạn 5: đang tìm một vật gì, thấy biến mất, tìm ngay chỗ mà trẻ thấy đồ vật biến mất. - Giai đoạn 6: dù có thấy hay không thấy đồ vật khi biến mất, trẻ vãn tìm. Tri giác của trẻ liên hệ mật thiết với hành động. Trẻ có thể “tri giác khá” chính xác các thuộc tính, hình dạng, đặc điểm, màu sắc của đối tượng, vị trí của chúng trong không gian khi trẻ cần xác định những thuộc tính đó trong hoạt động thực tiễn vừa sức đối với trẻ. Đến tuổi hài nhi, trẻ bắt đầu tri giác thuộc tính cảu đồ vật xung quanh, nắm được những mối liên hệ đơn giản nhất giữa những đồ vật đó và đã bắt đầu sử dụng các mối liên hệ này trong các hành động chơi nghịch của mình. Tri giác bằng tai phát triển mạnh gắn liền với giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trẻ hai tuổi đã phân biệt được khá tốt âm thanh ngôn ngữ, cũng như âm thanh âm nhạc. Điều này có ý nghĩa quan trọng cho ngôn ngữ phát triển và năng lực âm nhạc được hình thành. 1.1.2. Về trí nhớ: Trẻ mới sinh chưa có trí nhớ, trong năm đầu trẻ tích lũy được một số kinh nghiệm thực tiễn và cảm tính. Cuối năm thứ nhất, tre có khả năng nhớ lại. Ví dụ, trẻ cố tìm vật thể bị mất, quay đầu vè sự vật được gọi tên. 1.1.3. Nhận thức lí tính: Khi mới sinh, trẻ chưa có tưởng tượng và tư duy. Nhận thức của trẻ bắt đầu từ cảm giác và tri giác sự vật, hiện tượng. Hình ảnh đó được lưu giữ trong trí nhớ. Việc nhận thức của trẻ được tiến hành trong quá trình hành động thực tiễn làm cho biểu tượng của trẻ về sự vật, hiện tượng ngày càng rõ ràng, chính xác, đồng thời trẻ còn khái quát kinh nghiệm thu thập được. Cuối tuổi hài nhi, ở nhiều trẻ đã xuất hiện những hành động có thể coi là mầm mống của tư duy. Ví dụ: trẻ kéo rổ để lấy đồ vật đựng trong đó. Như vậy là trẻ biết sử dụng mối liên hệ giữa đối tượng để đạt được mục đích. 1.2. Đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ ấu nhi (15 – 36 tháng) 1.2.1. Nhận thức cảm tính: Đầu tuổi ấu nhi, tri giác của trẻ chưa hoàn thiện, trẻ chỉ nắm một dấu hiệu, thuộc tính nào đó, dựa vào nó để nhận biết đối tượng. Những hành động tri giác được hình thành trong quá trình cầm nắm, chơi nghịch, chưa có ý nghĩa nhận biết đối tượng. Tri giác của trẻ được tinh vi, đầy đủ dần chính là nhờ trẻ được hoạt động với đồ vật, nhất là hành động công cụ và hành động thiết lập các mối tương quan. Trong khi hành động 2
- với một đồ vật nào đó để lĩnh hội được phương thức sử dụng nó thì đồng thời cũng tri giác được kích thước và hình dạng của nó. Từ sự đối chiếu, so sánh những thuộc tính của các đối tượng bằng các hành động định hướng bên ngoài, trẻ chuyển sang so sánh, đối chiếu những thuộc tính của các đối tượng bằng mắt. Một kiểu hành động tri giác mới được hình thành. Trẻ dùng mắt để lựa những đối tượng hay bộ phận cần thiết để hành động được phù hợp ngay mà không cần phải ướm thử như trước đây. Chúng được phát triển mạnh ở trẻ lên 3 tuổi. Hành động định hướng bằng mắt cho phép trẻ tích lũy được khá nhiều biểu tượng về các đối tượng trong hiện thực và được ghi lại trong kí ức, biến thành các mẫu để so sánh với các đồ vật khác trong khi tri giác chúng. Ví dụ: tri giác với đồ vật có hình tam giác, trẻ nói là “giống cái nhà”... Việc tích lũy biểu tượng về thuộc tính các đồ vật tùy thuộc vào mức độ trẻ làm chủ được sự định hướng bằng mắt trong quá trình hành động với đồ vật. Cuối 3 tuổi, các hành động định hướng phát triển mạnh, trẻ có thể hành động theo mẫu người lớn yêu cầu. Tri giác mối quan hệ giữa các âm thanh theo độ cao cũng được phát triển tốt ở trẻ ấu nhi. Cuối 2 tuổi trẻ tri giác bằng tai được tất cả các âm thanh của tiếng mẹ đẻ. Tóm lại, trong suốt tuổi ấu nhi, trẻ có thể tri giác chính xác các thuộc tính hình dạng, độ lớn, màu sắc theo đối tượng, vị trí của chúng trong không gian và có thể so sánh những thuộc tính của đối tượng khác với chúng. 1.2.2. Về trí nhớ: Khi bắt đầu biết đi, trẻ 2 tuổi được tiếp xúc nhiều đối tượng, đồ vật và được sử dụng chúng nên tri thức của trẻ về thế giới xung quanh giàu thêm. Trẻ không chỉ nhận biết tốt mà nhớ lại khá nhiều. Đến 3 tuổi, trí nhớ của trẻ tốt hơn. Trẻ nhớ nhiều hơn, trí nhớ liên hệ chặt chẽ với lời nói. Trên cơ sở trí nhớ vận động, những hành động thực hành bước đầu đã có, tuy chưa bền vững, chưa hoàn chỉnh. Ví du như trẻ nhớ người thân đã gặp từ hôm trước... Ở lứa tuổi này, trẻ nhớ không chủ định. Trẻ không có ý thức buộc mình phải nhớ một điều gì. Trẻ chỉ nhớ những gì hấp dẫn đối với trẻ. Vì vậy, trí nhớ của trẻ không đầy đủ và chính xác, dễ nhớ và cũng hay quên. 1.2.3. Nhận thức lí tính: a. Về tưởng tượng: Ở trẻ 2 tuổi có những biểu hiện đầu tiên của tưởng tượng thể hiện trong các trò chơi có chủ đề của trẻ, trong hứng thú nghe người lớn kể những câu chuyện đơn giản. Trong giai đoạn mới phát triển, tưởng tượng của trẻ còn mờ nhạt, nội dung nghèo nàn, mang tính chất tái tạo thụ động và mang tính chất không chủ định. Trẻ thường lặp lại những hành động đơn giản mà trẻ đã nhiều lần quan sát thấy ở nhà hay ở nhà trẻ. Trẻ khó bổ sung một sự vật nào đó còn thiếu trong trò chơi bằng vật khác mà trẻ nghĩ ra, tưởng tượng ra vật đang cần. Trẻ dễ lẫn lộn tưởng tượng và thực tế. b. Về tư duy: 3
- Sự phát triển tư duy của trẻ bắt đầu từ lúc 2 tuổi, là lúc trẻ biết xác lập mối quan hệ chưa có sẵn giữa các đồ vật để giải quyết nhiệm vụ thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, việc xác lập mối quan hệ đó nhiều khi chỉ là ngẫu nhiên. Điều quan trọng ở tuổi ấu nhi là trẻ học được những hành động xác lập mối quan hệ giữa các đồ vật để giải quyết nhiệm vụ thực tiễn nào đó. Việc đó chỉ có thể thực hiện được trong hoạt động với đồ vật nhờ sự giúp đỡ của người lớn. Việc chuyển từ biết sử dụng những mối liên hệ có sẵn hay những mối liên hệ do người lớn chỉ ra sang biết xác lập những mối liên hệ mới giữa các đối tượng là một bước rất quan trọng đối với sự phát triển tư duy của trẻ em. Đó là dấu hiệu của khả năng “bỗng nhiên hiểu ra” và cũng là dấu hiệu đã làm theo biểu tượng. J. Piaget gọi trí khôn đó là trí khôn cảm giác – vận động hay giác động. Trẻ ấu nhi sử dụng tư duy trực quan – hành động để “nghiên cứu” những mối liên hệ trong thế giới đồ vật xung quanh. Loại tư duy này được hình thành trong quá trình thực hiện bằng hành động trực tiếp với đồ vật, mang tính thử nghiệm, nhiều khi ngẫu nhiên tìm ra cách làm, nhờ sự hướng dẫn của người lớn. Trẻ có khả năng khái quát ban đầu mang tính độc đáo. Trẻ chú ý đến nét bề ngoài của sự vật, hiện tượng và khái quát chúng theo sự giống nhau bên ngoài. Trong sự hình thành những khái quát ban đầu, tức là sự hợp nhất trong óc những đồ vật, những hành động có dấu hiệu bề ngoài giống nhau, thì việc lĩnh hội các từ ngữ giữ vai trò hết sức quan trọng; bởi vì ý nghĩa của từ mà người lớn dạy cho trẻ luôn luôn được dùng với ý nghĩa khái quát. Trẻ dần nhận ra có một tên gọi chung cho nhiều đồ vật có cùng công dụng. Tuy nhiên, đối với những đồ vật có cùng một công dụng nhưng lại có thuộc tính bên ngoài khác nhau thì trẻ rất khó nhận ra. Trong khi hoạt động với đồ vật, đặc biệt khi thực hiện những hành động công cụ, không những trẻ nhận ra các chức năng chung của các đồ vật mà còn nhận ra rằng có nhiều hành động với các công cụ khác nhau nhưng lại có cùng một mục đích. Tóm lại, kiểu tư duy chủ yếu của trẻ ấu nhi là trực quan – hành động. Sự phát triển tư duy của trẻ găn liên với các hoạt động đồ vật, trong đó đặc biệt quan trọng là việc thực hiện những hành động công cụ. Đến cuối tuổi ấu nhi bắt đầu xuất hiện một số hành động tư duy thực hiện trong óc không cần phép thử bên ngoài. Đó là kiểu tư duy trực quan – hình tượng, chỉ sử dụng trong khi giải bài toán đơn giản nhất, còn chủ yếu vẫn sử dụng tư duy trực quan – hành động. 1.3. Đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi) 1.3.1. Nhận thức cảm tính: Cảm giác của trẻ ở lứa tuổi này nhày càng nhạy cảm hơn và chính xác hơn. Ở trẻ đầu tuổi mẫu giáo, tri giác không chủ định là chủ yếu. Trẻ hay tri giác những gì gần gũi, có liên quan đến nhu cầu và hứng thú của trẻ. Do đó, trẻ hay di chuyển chú ý, tri giác tản mạn, không hệ thống. Trong tuổi mẫu giáo, trẻ dần dần tri giác lâu hơn và đầy đủ hơn. Trẻ biết tri giác theo hướng dẫn của người lớn và biết kiểm tra tri giác của mình theo yêu cầu đề ra. Nhờ 4
- vậy, hình ảnh tri giác thực tại xung quanh nảy sinh trong đầu trẻ dần dần có nội dung phong phú và chính xác hơn. Khả năng phân biệt màu sắc, hình dạng của trẻ phát triển qua các độ tuổi. Đầu tuổi mẫu giáo, trẻ phân biệt được màu đỏ, xanh, vàng, trắng, đen và nhận biết được các hình vuông, tròn, tam giác. Các hoạt động sáng tạo của trẻ ngày càng phức tạp, dần dần trẻ lĩnh hội thêm những chuẩn màu sắc và hình dạng. Trẻ mẫu giáo có khả năng nắm sử dụng các chuẩn về màu sắc, hình dạng của sự vật, hiện tượng. Cuối tuổi mẫu giáo, trẻ phân biệt được các màu chính trong quang phổ, nhưng các sắc thái có lẫn lộn (như vàng và cam, xanh da trời và xanh lam ..). Trẻ gọi tên và nhận biết thêm các hình chữ nhật, thang, bầu dục nhưng các dạng trung gian còn khó phân biệt. Nhìn và cảm nhận các thuộc tính về độ lớn của trẻ mẫu giáo được phát triển trên cơ sở lĩnh hội những biểu tượng về quan hệ độ lớn giữa các vật. Các quan hệ này được biểu thị bằng các từ lớn hơn – nhỏ hơn, lớn nhất – nhỏ nhất, ... Vì vậy, trẻ mẫu giáo lĩnh hội được chuẩn độ lớn còn khó khăn. Khả năng lĩnh hội chuẩn độ lớn tăng dần theo độ tuổi. Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo bé chỉ nhận ra mối quan hệ về độ lớn của 2 sự vật khi được tri giác cùng một lúc. Trẻ mẫu giáo nhỡ đã có biểu tượng về mối quan hệ giữa 3 vật. Trẻ mẫu giáo lớn ngoài chuẩn độ lớn, trẻ còn hình thành biểu tượng về chiều dài, chiều cao, chiều rộng, có thể nhận ra độ lớn của các chiều, các góc trong hình. Nghe và cảm nhận các thuộc tính về âm thanh, dưới sự tác động ngôn ngữ của người xung quanh, tai trẻ tinh hơn. Trẻ phân biệt được các dấu hiệu trong tiếng nói, sắc thái âm cảu lời nói. Độ nhảy cảm âm thanh của trẻ có sự khác biệt lớn giữa các cá nhân. Có một số trẻ nhạy cảm thính giác rất cao, có một số trẻ nhạy cảm thính giác kém rõ rệt. Vì vậy, khi tổ chức hướng dẫn các hoạt động giáo dục cho trẻ cần chú ý đến đặc điểm cá biệt để có biện pháp đối xử và chế độ rèn luyện riêng. Trong sự phát triển tri giác nghe, các vận động của tay, chân, toàn thân có ý nghĩa quan trọng. Nó giúp trẻ nhận cảm tốt mối quan hệ giữa các âm và nhịp điệu. Trẻ mẫu giáo 3 tuổi lấy mình “làm gốc” để định hướng trong không gian. Dưới sự hướng dẫn của người lớn, trẻ bắt đầu định hướng đúng tay phải của mình. Những định hướng khác của không gian (trên, dưới, trước, sau) cũng được xác định dựa vào bản thân mình. Hoạt động sáng tạo (ghéo các mảnh gỗ, vẽ, ..) có ý nghĩa lớn trong sự hình thành các biểu tượng về quan hệ không gian giữa các vật và nắm kĩ năng xác định các quan hệ đó. Sự hình thành biểu tượng không gian có liên quan mật thiết với sự lĩnh hội cách diễn đạt bằng lời nói các quan hệ đó. Nó giúp trẻ tách biệt và ghi lại mỗi dạng quan hệ đó (bên trên, bên dưới; đằng trước, đằng sau), trẻ lĩnh hội từng vế một, dựa vào vế này để lĩnh hội vế kia. Chỉ đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ mới xác định hướng không gian không phụ thuộc vào “điểm gốc” của bản thân. Đới với trẻ, định hướng thời gian khó hơn định hướng không gian. Trẻ mẫu giáo bé chưa phân biệt được các buổi trong ngày và chưa hiểu được các từ “bây giờ”, “bao giờ” khác nhau như thế nào. Đến tuổi mẫu giáo lớn, trẻ đã phân biệt được các buổi trong ngày. Khi lĩnh hội các biểu tượng về thời gian trong ngày, trẻ phải dựa vào hoạt động sinh hoạt bản thân trong ngày để định hướng và phân biệt buổi sáng, trưa, chiều, tối. 5
- Các biểu tượng 4 mùa trong năm được trẻ lĩnh hội trong quá trình tìm hiểu các hiện tượng tự nhiên theo 4 mùa. Sự lĩnh hội biểu tượng “hôm qua”, “hôm nay” .. khó khăn đối với trẻ. Trong thời gian dài, trẻ không thể nắm được tính chất tương đối của các biểu tượng đó. Nhờ sự hướng dẫn của người lớn, đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ mới có thể lĩnh hội được các kí hiệu thời gian đó và sử dụng chúng một cách đúng đắn. Trẻ mẫu giáo chưa có khả năng lĩnh hội khoảng thời gian dài như tháng, năm, thế kỉ. 1.3.2. Về trí nhớ: Ở tuổi mẫu giáo bé, trí nhớ không chủ định tiếp tục phát triển. Trẻ ghi lại khá nhiều những ấn tượng một cách không chủ định khi tham gia vào các hoạt động. Trẻ không đặt cho mình nhiệm vụ, mục đích ghi nhớ. Đến tuổi mẫu nhỡ, bên cạnh trí nhớ không chủ định, ở trẻ bắt đầu hình thành trí nhớ có chủ định và phát triển nhanh ở tuổi mẫu giáo lớn. Do điều kiện hoạt động phức tạp hon, yêu cầu của người lớn cao hơn bắt buộc trẻ không chỉ định hướng vào hiện tại mà còn định hướng cả ở tương lại và quá khứ. Lúc đầu, trí nhớ có chủ định của trẻ chưa hoàn thiện. Trẻ nắm được yêu cầu, nhiệm vụ cần ghi nhớ, nhưng trẻ chưa nắm được biện pháp ghi nhớ và chưa biêt làm gì để ghi nhớ tốt. Ở trẻ mẫu giáo, trí nhớ trực quan hình tượng là chủ yếu. Những tài liệu trực quan (sự vật và hình ảnh của nó) được trẻ ghi nhớ tốt hơn so với tài liệu ngôn ngữ. Giai đoạn này, trí nhớ ngôn ngữ bắt đầu hình thành, trẻ nhớ được những từ cụ thể, không nhớ được những từ trừu tượng. Những mô tả có tính chất diễn cảm được giữ lại trong trí nhớ tốt hơn. Ở trẻ 4 – 6 tuổi đã hình thành trí nhớ vận động, biểu hiện ở một số kĩ xảo lao động tự phục vụ, kĩ xảo thể dục, kĩ xảo học tập (cầm kéo, cắt dán, cầm bút vẽ). 1.3.3. Nhận thức lí tính: a. Về tưởng tượng: Dưới ảnh hưởng của giáo dục, kinh nghiệm của trẻ được mở rộng, hứng thú nảy sinh, hoạt động phức tạp hơn, tưởng tượng tiếp tục phát triển trong suốt tuổi mẫu giáo cả về số lượng lẫn chất lượng, không chỉ giảu hơn mà có những nét mới mà lứa tuổi trước đó không có. Đầu tuổi mẫu giáo, tượng tượng tái tạo là chủ yếu, ít có tính độc lập và tính sáng kiến. Tưởng tượng phụ thuộc nhiều vào sự vật, hiện tượng đang tri giác. Trẻ không thể tưởng tượng cái gì khi không có sự vật, hiện tượng trước mắt. Giai đoạn này, tưởng tượng không chủ định là chủ yếu. Cái gì trẻ thích hoặc gây trẻ ấn tượng mạnh mẽ thì tưởng tượng cái đó – tức nó trở thành đối tượng của tưởng tượng. Tưởng tượng của trẻ đầu mẫu giáo thường không ổn định. Cuối tuổi mẫu giáo, tưởng tượng sáng tạo bắt đầu hình thành và phát triển. Tưởng tượng của trẻ có tính độc lập cao, có sáng kiến. Trong khi trẻ chơi, ngay cả trong trường hợp cô đưa ra chủ đề chơi, trẻ cũng không lặp lại một cách máy móc đề tài cô đề ra. Trẻ còn tạo ra những đồ dùng, đồ chơi trong khi chơi. Nội dung tranh vẽ của trẻ phong phú, đa dạng, nhiều vẻ. Câu chuyện tự kể của trẻ phong phú, đa dạng hơn. 6
- Ở cuối tuổi mẫu giáo, tượng tượng có chủ định của trẻ bắt đầu được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển các dạng hoạt động sáng tạo, khi nắm kĩ năng thiết kế và sử dụng ý đồ thiết kế. Trẻ biết tưởng tượng theo mục đích, nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động. b. Về tư duy: Đến tuổi mẫu giáo, tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản. Đó là sự chuyển từ tư duy bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong mà thực chất đó là việc chuyển những hành động định hướng bên ngoài thành hành động định hướng bên trong theo cơ chế nhập tâm. Quá trình tư duy của trẻ bắt đầu dựa vào hình ảnh của sự vật và hiện tượng đã có trong đầu, cũng có nghĩa là chuyển từ kiểu tư duy trực quan – hành động sang kiểu tư duy trực quan – hình tượng. Đầu tuổi mẫu giáo, việc gải các bài toán không thực hiện bằng những phép thử bên ngoài nữa mà thực hiện bằng cả những phép thử ngầm bên trong óc dựa vào những hình ảnh, biểu tượng về đồ vật hay về những hành động với đồ vật mà trước đây trẻ đã làm hay trông thấy người khác làm. Việc chuyển từ tư duy trực quan – hành động sang tư duy trực quan – hình tượng là nhờ vào việc trẻ tích cực hành động với đồ vật. Đây là cơ sở cho hoạt động tư duy được diễn ra ở bình diện bên trong và do hoạt động vui chơi mà trọng tâm là trò chơi đóng vai theo chủ đề, giúp trẻ hình thành chức năng kí hiệu tương ứng của ý thức. Chức năng này được thể hiện ở khả năng dùng một vật này thay thế cho một vật khác và hành động với vật thay thế như hành động với vật thật. Tư duy của trẻ đầu tuổi mẫu giáo (3 – 4 tuổi) có những đặc điểm: - Tư duy của trẻ mẫu giáo bé đã đạt tới ranh giới của tư duy trục quan – hình tượng, nhưng các hình tượng và biểu tượng trong đầu trẻ vẫn còn gắn liền với hành động. - Tư duy của trẻ mẫu giáo bé còn gắn liền với xúc cảm và ý muốn chủ quan. Điều này thể hienj ở chỗ, trẻ chỉ suy nghĩ về những điều mà trẻ thích và dòng suy nghĩ thường bị cuốn hút vào ý thích của riêng mình, bất chấp cả tác động khách quan. Trẻ ở độ tuổi này thường hay hỏi những câu hỏi “tại sao” vì tư duy của trẻ chưa cho phép tìm ra những nguyên nhân khách quan. Mọi trẻ đều nghĩ là do ý muốn của một người nào đó tạo nên. - Trẻ độ tuổi này chưa biết phân tích, tổng hợp, chưa biết một sự vật bao gồm nhiều bộ phận kết hợp thành, chưa xác định được vị trí, quan hệ giữa bộ phận này với bộ phận kia trong một sự vật. Do đó, cách nhìn nhận sự vật của trẻ là lối trực giác toàn bộ, có nghĩa là trước một sự vật nào đó, trẻ nhận ra ngay, chộp lấy rất nhanh một hình ảnh tổng thể, chưa phân ra thành các bộ phận. Đó là cách nhìn nhận đặc trưng của trẻ 3 tuổi. Do trực giác toàn bộ nên trẻ không phân biệt được một số hình dạng tương tự nhưng có vài chi tiết khác nhau khiến chúng khác hẳn dưới con mắt người lớn. Tuy nhiên, trẻ rất hay để ý những chi tiết vụn vặt, bởi những chi tiết ấy đối với trẻ lạ là những tổng thể, những đơn vị. Trẻ không bao quát được khi nhìn một sự vật gồm nhiều chi tiết phức tạp mà chỉ để tâm lần lượt đến từng chi tiết một và không liên kết các chi tiết ấy với nhau thành một tổng thể. Đặc biệt, trẻ không nhận ra những mối liên quan giữa các chi tiết bộ phận trong một sự vật. 7
- Tư duy của trẻ mẫu giáo nhỡ (4 -5 tuổi) có những đặc điểm: - Trẻ mẫu giáo nhỡ tư duy đang trên đà phát triển mạnh khiến đứa trẻ dự kiến được hành động và lập kế hoạch cho hành động của mình. Trẻ đã bắt đầu đề ra cho mình những bài toán nhận thức, tìm tòi cách giải thích những hiện tượng mà mình nhìn thấy được. Trẻ thường “thực nghiệm”, chăm chú quan sát các hiện tượng và suy nghĩ về những hiện tượng đó để rút ra kết luận. Tuy nhiên, những kết luận đó còn ngây ngô, ngộ nghĩnh và nhiều khi còn gây ngạc nhiên cho người lớn. - Phần lớn trẻ ở tuổi mẫu giáo nhỡ đã có khả năng suy luận theo kiểu tư duy trực quan – hình tượng. Trẻ đã có khả năng giải các bài toán bằng “phép thử ngầm trong óc”, dựa vào các biểu tượng, kiểu tư duy trực quan – hình tượng đã bắt đầu chiếm ưu thế. Khi hành động với các biểu tượng trong óc, đứa trẻ hình dung được các hành động thực tiễn với các đối tượng và kết quả của những hành động ấy. Bằng con đường dó, trẻ có thể giải được nhiều bài toán thực tiễn đặt ra cho mình. Tư duy trực quan - hình tượng tỏ ra có hiệu quả khi giải những bài toán trong đó những thuộc tính bản chất là những thuộc tính có thể hình dung được. Đối với những thuộc tính bản chất của sự vặt, hiện tượng ẩn tàng, khó hình dung được, chúng có thể biểu thị bằng từ hoặc những kí hiệu khác. Trong trường hợp này chỉ có thể tìm ra những thuộc tính bản chất bằng con đường tư duy trừu tượng, trẻ chưa có khả năng này. - Tư duy trực quan – hình tượng phát triển mạnh cho phép trẻ mẫu giáo nhỡ giải được nhiều bài toán thực tiễn mà trẻ thường gặp trong đời sống. Tuy vậy, vì chưa có khả năng tư duuy trừu tượng nên trẻ chỉ mới dựa vào những biểu tượng đã có, những kinh nghiệm đã trải qua để suy luận ra những vấn đề mới. Vì vậy, trong khá nhiều trường hợp, chũng chỉ dừng lại ở các hiện tượng bên ngoài mà chưa đi được vào bản chất bên trong. Do đó, nhiều khi trẻ giải thích các hiện tượng một cách ngộ nghĩnh và rất dễ lẫn lộn các thuộc tính bản chất và không bản chất của sự vật, hiện tượng xung quanh. Ví du như khi trẻ vào bệnh viên, thấy ai mặc áo trắng cũng đều gọi là “bác sĩ”. Tư duy của trẻ 5 – 6 tuổi có những đặc điểm: - Đến cuối tuổi mẫu giáo, để đáp ứng nhu cầu nhận thức phát triển mạnh, do vậy, bên cạnh việc phát triển tư duy trực quan – hình tượng vẫn mạnh mẽ, trẻ còn phát triển thêm một kiểu tư duy – hình tượng mới, đó là kiểu tư duy trực quan – sơ đồ. - Kiểu tư duy trực quan – sơ đồ tạo cho trẻ một khả năng phản ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan của bản thân trẻ. Sự phản ánh những mối liên hệ khách quan là điều kiện cần thiết để lĩnh hội những tri thức vượt ra ngoài khuôn khổ của việc tìm hiểu những sự vật riêng lẻ với những thuộc tính sinh động của chúng để đạt tới tri thức khái quát, từ đó mà hiểu được bản chất của sự vật. - Tư duy trực quan – sơ đồ vẫn giữ tính chất hình tượng nhưng hình tượng chỉ còn giữ lại những yếu tố chủ yếu giúp trẻ phản ánh một cách khái quát sự vật. Kiểu tư duy trực quan – sơ đồ biểu hiện một bước phát triển đáng kể trong tư duy của trẻ mẫu giáo. Đó là kiểu trung gian, quá độ để chuyển từ kiểu tư duy hình tượng lên một kiểu tư suy 8
- mới, khác về chất – tư duy logic (hay gọi là tư duy trừu tượng), kiểu tư duy này sẽ tiếp tục được phát triển ở lứa tuổi học sinh. - Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo lớn có khả năng hiểu một cách dễ dàng và nhanh chóng về cách biểu diễn sơ đồ và sử dụng có kết quả những sơ đồ đó để tìm hiểu sự vật. - Ở tuổi mẫu giáo lớn, những yếu tố của kiểu tư duy logic đã có thể xuất hiện, khi trẻ biết sử dụng khá thành thạo các vật thay thế, khi đã phát triển tốt chức năng kí hiệu của ý thức. Trong thời gian này, trẻ bắt đầu hiểu rằng có thể biểu thị một sự vật hay một hiện tượng nào đó bằng các từ ngữ hay kí hiệu khác khi phải giải thích các bài toán tư duy độc lập. - Trẻ mẫu giáo lớn cũng có thể lĩnh hội được một số khái niệm đơn giản trong điều kiện được dạy dỗ đặc biệt, phù hợp với lứa tuổi mẫu giáo. Ở tuổi mẫu giáo đang diễn ra quá trình chuyển tiếp, từ chỗ trẻ chỉ biết những sự vật cụ thể sang sử dụng những chuẩn cảm giác phổ biến là kết quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm cảm tính của bản thân. Chuẩn cảm giác là những biểu tượng do loài người xây dựng, những dạng cơ bản của mỗi loại thuộc tính và quan hệ như màu sắc, hình dạng, độ lớn của các vật, vị trí của chúng trong không gian, độ cao của các âm, độ dài của khoảng thời gian, ... Cuối tuổi mẫu giáo, trẻ lĩnh hội được các chuẩn. Nhờ đó, trẻ tách biệt được trong số các biến dạng muôn màu muôn vẻ những dạng cơ bản của các thuộc tính được dùng làm chuẩn và bắt đầu biết so sánh thuộc tính của sự vật xung quanh với các chuẩn đó. Chính những biến đổi về chất của những tài liệu cảm tính như thế cho phép hoạt động tư duy của trẻ chuyển dần sang một giai đoạn phát triển cao hơn. Tóm lại, tư duy trực quan – hình tượng là loại tư duy cơ bản ở trẻ mẫu giáo. Trẻ 3 – 4 tuổi giải quyết nhiệm vụ bằng những hành động thử nghiệm, chỉ nhận ra kết quả sau khi hành động được thực hiện. Trẻ 4 – 5 tuổi bắt đầu suy nghĩ về nhiệm vụ và phương pháp giải quyết nhiệm vụ trong quá trình hành động. Trẻ dùng những hành động bên trong là những hành động với hình tượng để giải quyết nhiệm vụ trí tuệ. Cuối tuổi mẫu giáo nhỡ và đầu tuổi mẫu giáo lớn xuất hiện tư duy trực quan sơ đồ, trẻ hiểu được hình vẽ sơ đồ vủa các vật. Ở trẻ xuất hiện tiền đề tư duy trừu tượng, biểu hiện ở tư duy trực quan sơ đồ xuất hiện và trẻ biết dùng vật để thay thế. Tuy nhiên, sự phát triển các thao tác tư duy của trẻ, về phân tích và tổng hợp còn đơn giản về nội dung và hình thức, so sánh sự khác nhau tốt hơn sự giống nhau, có khả năng trừu tượng hóa một cách trực tiếp, cảm tính, dựa vào cái trực tiếp trông thấy. 1.4. Mục tiêu phát triển nhận thức và kết quả mong đợi trong chương trình GDMN 1.4.1. Nhà trẻ (từ 3 tháng đến 3 tuổi) [1]: a. Mục tiêu: - Thích tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh. - Có sự nhạy cảm của các giác quan. - Có khả năng quan sát, nhận xét, ghi nhớ và diễn đạt hiểu biết bằng những câu nói đơn giản. 9
- - Có một số hiểu biết ban đầu về bản thân và các sự vật, hiện tượng gần gũi quen thuộc. b. Kết quả mong đợi: - Khám phá thế giới xung quanh bằng các giác quan: + Trẻ từ 3 – 6 tháng: Nhìn theo người hoặc vật chuyển động; Nghe và phản ứng với âm thanh quen thuộc. + Trẻ từ 6 – 12 tháng: Nhìn theo, với lấy đồ chơi có màu sắc sặc sỡ, chuyển động, phát ra âm thanh; Phản ứng với âm thanh ở xung quanh. + Trẻ từ 12 – 24 tháng: Sờ nắn, nhìn, nghe... để nhận biết đặc điểm nổi bật của đối tượng. + Trẻ từ 24 – 36 tháng: Sờ nắn, nhìn, nghe, ngửi, nếm để nhận biết đặc điểm nổi bật của đối tượng. - Thể hiện sự hiểu biết về các sự vật, hiện tượng gần gũi: + Trẻ 6 – 12 tháng: Bắt chước một vài cử chỉ, hành động đơn giản của người thân; Dùng điệu bộ hoặc chỉ tay vào bộ phận của cơ thể, đồ dùng, đồ chơi khi được hỏi. + Trẻ 12 – 24 tháng: Bắt chước hành động đơn giản của những người thân; Chỉ hoặc nói được tên của mình, những người gần gũi khi được hỏi; Chỉ vào hoặc nói tên một vài bộ phận cơ thể của người khi được hỏi; Chỉ/lấy/nói tên đồ dùng, đồ chơi, hoa quả, con vật quen thuộc theo yêu cầu của người lớn; Chỉ hoặc lấy được đồ chơi có màu đỏ hoặc xanh theo yêu cầu hoặc gợi ý của người lớn. + Trẻ 24 – 36 tháng: Chơi bắt chước một số hành động quen thuộc của những người gần gũi. Sử dụng được một số đồ dùng, đồ chơi quen thuộc; Nói được tên của bản thân và những người gần gũi khi được hỏi; Nói được tên và chức năng của một số bộ phận cơ thể khi được hỏi; Nói được tên và một vài đặc điểm nổi bật của các đồ vật, hoa quả, con vật quen thuộc; Chỉ/nói tên hoặc lấy hoặc cất đúng đồ chơi màu đỏ/vàng/ xanh theo yêu cầu; Chỉ hoặc lấy hoặc cất đúng đồ chơi có kích thước to/nhỏ theo yêu cầu. 1.4.2. Mẫu giáo (từ 3 – 6 tuổi) [1]: a. Mục tiêu: - Ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi các sự vật, hiện tượng xung quanh. - Có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán, chú ý, ghi nhớ có chủ định. - Có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề đơn giản theo những cách khác nhau. - Có khả năng diễn đạt sự hiểu biết bằng các cách khác nhau (bằng hành động, hình ảnh, lời nói...) với ngôn ngữ nói là chủ yếu. - Có một số hiểu biết ban đầu về con người, sự vật, hiện tượng xung quanh và một số khái niệm sơ đẳng về toán. b. Kết quả mong đợi: Khám phá khoa học: 10
- Kết quả 3 - 4 tuổi 4 - 5 tuổi 5 - 6 tuổi mong đợi 1. Xem 1.1. Quan tâm, 1.1. Quan tâm đến 1.1. Tò mò tìm tòi, khám xét và tìm hứng thú với các những thay đổi của phá các sự vật, hiện tượng hiểu đặc sự vật, hiện tượng sự vật, hiện tượng xung quanh như đặt câu điểm của gần gũi, như chăm xung quanh với sự hỏi về sự vật, hiện tượng: các sự chú quan sát sự gợi ý, hướng dẫn của Tại sao có mưa?... vật, hiện vật, hiện tượng; cô giáo như đặt câu tượng hay đặt câu hỏi về hỏi về những thay đổi đối tượng. của sự vật, hiện tượng: Vì sao cây lại héo? Vì sao lá cây bị ướt?.... 1.2. Sử dụng các 1.2. Phối hợp các 1.2. Phối hợp các giác giác quan để xem giác quan để xem xét quan để quan sát, xem xét xét, tìm hiểu đối sự vật, hiện tượng và thảo luận về sự vật, tượng: nhìn, nghe, như kết hợp nhìn, sờ, hiện tượng như sử dụng ngửi, sờ,.. để nhận ngửi, nếm... để tìm các giác quan khác nhau ra đặc điểm nổi bật hiểu đặc điểm của đối để xem xét lá, hoa, quả... của đối tượng. tượng. và thảo luận về đặc điểm của đối tượng. 1.3. Làm thử 1.3. Làm thử nghiệm 1.3. Làm thử nghiệm và sử nghiệm đơn giản và sử dụng công cụ dụng công cụ đơn giản để với sự giúp đỡ của đơn giản để quan sát, quan sát, so sánh, dự đoán, người lớn để quan so sánh, dự đoán. Ví nhận xét và thảo luận. Ví sát, tìm hiểu đối dụ: Pha màu/đường/ dụ: Thử nghiệm gieo tượng. Ví dụ: Thả muối vào nước, dự hạt/trồng cây được tưới các vật vào nước đoán, quan sát, so nước và không tưới, theo để nhận biết vật sánh. dõi và so sánh sự phát chìm hay nổi. triển. 1.4. Thu thập 1.4. Thu thập thông 1.4. Thu thập thông tin về thông tin về đối tin về đối tượng bằng đối tượng bằng nhiều cách tượng bằng nhiều nhiều cách khác khác nhau: xem sách tranh cách khác nhau có nhau: xem sách, ảnh, băng hình, trò chuyện sự gợi mở của cô tranh ảnh, nhận xét và thảo luận. giáo như xem và trò chuyện. sách, tranh ảnh và trò chuyện về đối tượng. 11
- Kết quả 3 - 4 tuổi 4 - 5 tuổi 5 - 6 tuổi mong đợi 1.5. Phân loại các 1.5. Phân loại các đối 1.5. Phân loại các đối đối tượng theo một tượng theo một hoặc tượng theo những dấu hiệu dấu hiệu nổi bật. hai dấu hiệu. khác nhau. 2. Nhận Nhận ra một vài 2.1. Nhận xét được 2.1. Nhận xét được mối biết mối mối quan hệ đơn một số mối quan hệ quan hệ đơn giản của sự quan hệ giản của sự vật, đơn giản của sự vật, vật, hiện tượng. Ví dụ: đơn giản hiện tượng quen hiện tượng gần gũi. “Nắp cốc có những giọt của sự thuộc khi được Ví dụ: “Cho thêm nước do nước nóng bốc vật, hiện hỏi. đường/ muối nên hơi”. tượng và nước ngọt/ mặn hơn” giải quyết 2.2. Sử dụng cách 2.2. Giải quyết vấn đề đơn vấn đề thức thích hợp để giải giản bằng các cách khác đơn giản quyết vấn đề đơn nhau. giản. Ví dụ: Làm cho ván dốc hơn để ô tô đồ chơi chạy nhanh hơn. 3. Thể 3.1. Mô tả những 3.1. Nhận xét, trò 3.1. Nhận xét, thảo luận về hiện hiểu dấu hiệu nổi bật chuyện về đặc điểm, đặc điểm, sự khác nhau, biết về của đối tượng sự khác nhau, giống giống nhau của các đối đối tượng được quan sát với nhau của các đối tượng được quan sát. bằng các sự gợi mở của cô tượng được quan sát. cách khác giáo. nhau 3.2. Thể hiện một 3.2. Thể hiện một số 3.2. Thể hiện hiểu biết về số điều quan sát hiểu biết về đối tượng đối tượng qua hoạt được qua các hoạt qua hoạt động chơi, động chơi, âm nhạc và tạo động chơi, âm âm nhạc và hình... nhạc, tạo hình... tạo hình... Làm quen với một số khái niệm sơ đẳng về Toán Kết quả 3 - 4 tuổi 4 - 5 tuổi 5 - 6 tuổi mong đợi 1. Nhận 1.1. Quan tâm đến 1.1. Quan tâm đến 1.1. Quan tâm đến các biết số đếm, số lượng và đếm như chữ số, số lượng như con số như thích nói số lượng hay hỏi về số lượng, thích đếm các vật ở về số lượng và đếm, đếm vẹt, biết sử xung quanh, hỏi: bao hỏi: bao nhiêu? đây là nhiêu? là số mấy?... mấy?... 12
- Kết quả 3 - 4 tuổi 4 - 5 tuổi 5 - 6 tuổi mong đợi dụng ngón tay để biểu thị số lượng. 1.2. Đếm trên các 1.2. Đếm trên đối 1.2. Đếm trên đối đối tượng giống tượng trong phạm vi tượng trong phạm vi nhau và đếm đến 5. 10. 10 và đếm theo khả năng. 1.3. So sánh số 1.3. So sánh số lượng 1.3. So sánh số lượng lượng hai nhóm đối của hai nhóm đối của ba nhóm đối tượng tượng trong phạm vi tượng trong phạm vi trong phạm vi 10 bằng 5 bằng các cách 10 bằng các cách các cách khác nhau và khác nhau và nói khác nhau và nói nói được kết quả: bằng được các từ: bằng được các từ: bằng nhau, nhiều nhất, ít nhau, nhiều hơn, ít nhau, nhiều hơn, ít hơn, ít nhất. hơn. hơn. 1.4. Biết gộp và đếm 1.4. Gộp hai nhóm 1.4. Gộp các nhóm đối hai nhóm đối tượng đối tượng có số lượng tượng trong phạm vi cùng loại có tổng trong phạm vi 5, đếm 10 và đếm. trong phạm vi 5. và nói kết quả. 1.5. Tách một nhóm 1.5. Tách một nhóm 1.5. Tách một nhóm đối tượng có số đối tượng thành hai đối tượng trong phạm lượng trong phạm vi nhóm nhỏ hơn. vi 10 thành hai nhóm 5 thành hai nhóm. bằng các cách khác nhau. 1.6. Sử dụng các số từ 1.6. Nhận biết các số 1 - 5 để chỉ số lượng, từ 5 - 10 và sử dụng số thứ tự. các số đó để chỉ số lượng, số thứ tự. 1.7. Nhận biết ý 1.7. Nhận biết các con nghĩa các con số số được sử dụng trong được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. cuộc sống hàng ngày. 2. Sắp xếp Nhận ra quy tắc sắp Nhận ra quy tắc sắp 2.1. Biết sắp xếp các theo quy xếp đơn giản (mẫu) xếp của ít nhất ba đối đối tượng theo trình tắc và sao chép lại. tượng và sao chép lại. tự nhất định theo yêu cầu. 13
- Kết quả 3 - 4 tuổi 4 - 5 tuổi 5 - 6 tuổi mong đợi 2.2. Nhận ra quy tắc sắp xếp (mẫu) và sao chép lại. 2.3. Sáng tạo ra mẫu sắp xếp và tiếp tục sắp xếp. 3. So sánh So sánh hai đối Sử dụng được dụng Sử dụng được một số hai đối tượng về kích thước cụ để đo độ dài, dung dụng cụ để đo, đong tượng và nói được các từ: tích của 2 đối tượng, và so sánh, nói kết to hơn/ nhỏ hơn; dài nói kết quả đo và so quả. hơn/ ngắn hơn; cao sánh. hơn/ thấp hơn; bằng nhau. 4. Nhận Nhận dạng và gọi 4.1. Chỉ ra các điểm Gọi tên và chỉ ra các biết hình tên các hình: tròn, giống, khác nhau điểm giống, khác nhau dạng vuông, tam giác, chữ giữa hai hình (tròn và giữa hai khối cầu và nhật. tam giác, vuông và khối trụ, khối vuông chữ nhật,....). và khối chữ nhật. 4.2. Sử dụng các vật liệu khác nhau để tạo ra các hình đơn giản. 5. Nhận Sử dụng lời nói và 5.1. Sử dụng lời nói 5.1. Sử dụng lời nói và biết vị trí hành động để chỉ vị và hành động để chỉ hành động để chỉ vị trí trong trí của đối tượng vị trí của đồ vật so của đồ vật so với vật không gian trong không gian so với người khác. làm chuẩn. và định với bản thân. 5.2. Mô tả các sự kiện 5.2. Gọi đúng tên các hướng thời xảy ra theo trình tự thứ trong tuần, các gian thời gian trong ngày. mùa trong năm. Khám phá xã hội Kết quả 3 - 4 tuổi 4 - 5 tuổi 5 - 6 tuổi mong đợi 1. Nhận 1.1. Nói được tên, 1.1. Nói họ và tên, 1.1. Nói đúng họ, tên, biết bản tuổi, giới tính của tuổi, giới tính của ngày sinh, giới tính thân, gia bản thân khi được bản thân khi được của bản thân khi được đình, hỏi, trò chuyện. hỏi, trò chuyện. hỏi, trò chuyện. 14
- Kết quả 3 - 4 tuổi 4 - 5 tuổi 5 - 6 tuổi mong đợi trường lớp 1.2. Nói được tên của 1.2. Nói họ, tên và 1.2. Nói tên, tuổi, giới mầm non bố mẹ và các thành công việc của bố, tính, công việc hàng và cộng viên trong gia đình. mẹ, các thành viên ngày của các thành đồng trong gia đình khi viên trong gia đình khi được hỏi, trò chuyện, được hỏi, trò chuyện, xem ảnh về gia đình. xem ảnh về gia đình. 1.3. Nói được địa chỉ 1.3. Nói địa chỉ của 1.3. Nói địa chỉ gia của gia đình khi được gia đình mình (số đình mình (số nhà, hỏi, trò chuyện, xem nhà, đường phố/ đường phố/thôn, ảnh về gia đình. thôn, xóm) khi được xóm), số điện thoại hỏi, trò chuyện. (nếu có)… khi được hỏi, trò chuyện. 1.4. Nói được tên 1.4. Nói tên và địa 1.4. Nói tên, địa chỉ và trường/lớp, cô giáo, chỉ của trường, lớp mô tả một số đặc điểm bạn, đồ chơi, đồ dùng khi được hỏi, trò nổi bật của trường, lớp trong lớp khi được chuyện. khi được hỏi, trò hỏi, trò chuyện. chuyện. 1.5. Nói tên, một số 1.5. Nói tên, công công việc của cô giáo việc của cô giáo và và các bác công nhân các bác công nhân viên trong trường khi viên trong trường khi được hỏi, trò chuyện. được hỏi, trò chuyện. 1.6. Nói tên và một 1.6. Nói họ tên và đặc vài đặc điểm của các điểm của các bạn bạn trong lớp khi trong lớp khi được được hỏi, trò chuyện. hỏi, trò chuyện. 2. Nhận Kể tên và nói được Kể tên, công việc, Nói đặc điểm và sự biết một số sản phẩm của nghề công cụ, sản khác nhau của một số nghề phổ nông, nghề xây phẩm/ích lợi... của nghề. Ví dụ: nói biến và dựng... khi được hỏi, một số nghề khi “Nghề nông làm ra lúa nghề truyền xem tranh. được hỏi, trò chuyện. gạo, nghề xây dựng thống ở địa xây nên những ngôi phương nhà mới ...” 3. Nhận 3.1. Kể tên một số lễ 3.1. Kể tên và nói 3.1. Kể tên một số lễ biết một số hội: Ngày khai đặc điểm của một số hội và nói về hoạt lễ hội và giảng, Tết Trung ngày lễ hội. động nổi bật của danh lam, thu… qua trò những dịp lễ hội. Ví thắng cảnh chuyện, tranh ảnh. dụ nói: “Ngày Quốc 15
- Kết quả 3 - 4 tuổi 4 - 5 tuổi 5 - 6 tuổi mong đợi khánh (ngày 02/9) cả phố em treo cờ, bố mẹ được nghỉ làm và cho em đi chơi công viên…”. 3.2. Kể tên một vài 3.2. Kể tên và nêu 3.2. Kể tên và nêu một danh lam, thắng cảnh một vài đặc điểm của vài nét đặc trưng của ở địa phương. cảnh đẹp, di tích lịch danh lam, thắng cảnh, sử ở địa phương. di tích lịch sử của quê hương, đất nước. 2. Quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong phát triển nhận thức cho trẻ em 2.1. Thực trạng phát triển nhận thức của trẻ Các kết quả điều tra khảo sát EDI cho thấy: - Giao tiếp và kiến thức chung là lĩnh vực có số lượng trẻ bị thiếu hụt chiếm tỷ lệ cao nhất. - Lĩnh vực ngôn ngữ và nhận thức có số lượng trẻ dễ bị thiếu hụt chiếm tỷ lệ cao xếp thứ ba. - Có 20,5% trẻ dân tộc thiểu số và 6,9% trẻ không là dân tộc thiểu số có thiếu hụt trong lĩnh vực nhận thức và ngôn ngữ. - Có 7,2% trẻ gái và 11,6% trẻ trai thiếu hụt trong lĩnh vực ngôn ngữ và nhận thức. - Trong chương trình GDMN, ngôn ngữ là một lĩnh vực riêng và được nhắc đến trong một mô-đun khác. 2.2. Quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong phát triển nhận thức 2.2.1. Quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm a. Khái niệm: GDMN theo quan điểm lấy trẻ em làm trung tâm là giáo dục dựa trên sở thích, đam mê, thế mạnh và sự quan tâm của từng trẻ. Giáo dục nhằm mang lại sự thấu hiểu, tiến bộ và thành công của mỗi trẻ. [2] b. Bản chất: - “Mỗi đứa trẻ là một cá thể riêng biệt”. - “Mỗi trẻ đều là một người học tích cực”. - “Mỗi đứa trẻ đều có cơ hội được học bằng nhiều cách khác nhau”. GV cần phải hiểu rõ về trẻ để vận dụng các cách thức tổ chức các hoạt động giáo dục hay dạy học phù hợp đáp ứng với sở thích, nhu cầu, hứng thú cũng như khả năng riêng của mỗi trẻ. c. Các bước thực hiện giáo dục “lấy trẻ em làm trung tâm”: - Xây dựng kế hoạch giáo dục (chương trình giáo dục nhà trường). - Tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ. 16
- - Xây dựng môi trường lớp học và trường học. - Đánh giá. d. Giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm cần đảm bảo: - Hứng thú, nhu cầu, khả năng, thế mạnh của mỗi đứa trẻ đều được hiểu, đánh giá đúng và được tôn trọng. - Mỗi đứa trẻ đều có cơ hội tốt nhất có thể để thành công. - Mỗi đứa trẻ đều có các cơ hội để học bằng nhiều cách khác nhau kể cả thông qua vui chơi. e. Nguyên tắc thực hiện giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm: - Xây dựng các kế hoạch giáo dục phù hợp với từng trẻ dựa trên những khả năng, nhu cầu, hứng thú và thế mạnh của trẻ. - Giáo viên và phụ huynh cần đặt niềm tin vào con em mình và tin rằng mọi trẻ đều có thể tiến bộ và phát triển theo cách riêng. - Kết hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau, được áp dụng nhiều nhất thông qua các hoạt động vui chơi. Thông qua vui chơi, trẻ sẽ có nhiều cơ hội khám phá thế giới, sáng tạo và tương tác với bạn bè. - Xây dựng các kế hoạch học tập dựa trên những gì mà trẻ đã được biết và có thể làm được. 2.2.2. Các hoạt động giúp trẻ phát triển nhận thức a. Yêu cầu lựa chọn hoạt động: - Xác định và tổ chức các hoạt động để hỗ trợ các nội dung đã lựa chọn để phát triển nhận thức cho trẻ. - Lựa chọn hoạt động phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhận thức của trẻ và phù hợp với điều kiện ở địa phương. - Lựa chọn các hoạt động phù hợp với cá nhân và với nhóm trẻ. - Yêu cầu đa dạng các hoạt động, không để trẻ ngồi một chỗ quá lâu. - Tổ chức xen kẽ một số hoạt động sôi nổi và hoạt động yên tĩnh khác. - Chú ý đến hoạt động chơi – là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi mẫu giáo. b. Các loại hoạt động: - Hoạt động trong lớp và hoạt động ngoài trời. - Đóng vai. - Chơi với đồ dùng, đồ chơi. - Hoạt động trong các góc (góc đóng vai, góc đọc sách, góc lắp ghép, góc xây dựng, góc thiên nhiên, góc khoa học, góc tạo hình, góc âm nhạc, góc chơi cát, sỏi, nước, vườn cây trong trường). - Sinh hoạt hằng ngày (trước giờ ăn, làm vệ sinh, ăn, uống, dọn dẹp, sinh hoạt trong lớp). c. Vai trò của giáo viên trong phát triển nhận thức cho trẻ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm: - Giúp trẻ phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề; - Hỏi ý kiến và yêu cầu trẻ giải thích ý tưởng của mình. 17
- Điều quan trọng là áp dụng các phương pháp giáo dục theo cách tiếp cận “Giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm” để hỗ trợ trẻ đạt hiệu quả trong học tập và phát triển nhận thức. 2.2.3. Nhóm các phương pháp phát triển nhận thức cho trẻ - Phương pháp trực quan – minh họa: quan sát, minh họa, trình bày vật mẫu, sử dụng hành động mẫu. - Phương pháp dùng lời: hướng dẫn, câu hỏi, đàm thoại, kể chuyện, đọc thơ, hát... - Phương pháp thực hành, trải nghiệm: luyện tập, trò chơi, thí nghiệm, tình huống có vấn đề, mô hình hóa, bài tập, vẽ, nặn, xé, dán… Quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm cũng được thể hiện trong yêu cầu về phương pháp giáo dục mầm non quy định tại Chương trình giáo dục mầm non hiện hành là “Đối với giáo dục nhà trẻ, phương pháp giáo dục phải chú trọng giao tiếp thường xuyên, thể hiện sự yêu thương và tạo sự gắn bó của người lớn với trẻ; chú ý đặc điểm cá nhân trẻ để lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp, tạo cho trẻ có cảm giác an toàn về thể chất và tinh thần; tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tích cực hoạt động giao lưu cảm xúc, hoạt động với đồ vật và vui chơi, kích thích sự phát triển các giác quan và các chức năng tâm – sinh lí; tạo môi trường giáo dục gần gũi với khung cảnh gia đình, giúp trẻ thích nghi với nhà trẻ. Đối với giáo dục mẫu giáo, phương pháp giáo dục phải tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo phương châm “chơi mà học, học bằng chơi”. Chú trọng đổi mới tổ chức môi trường giáo dục nhằm kích thích và tạo cơ hội cho trẻ tích cực khám phá, thử nghiệm và sáng tạo ở các khu vực hoạt động một cách vui vẻ. Kết hợp hài hòa giữa giáo dục trẻ trong nhóm bạn với giáo dục cá nhân, chú ý đặc điểm riêng của từng trẻ để có phương pháp giáo dục phù hợp. Tổ chức hợp lí các hình thức hoạt động cá nhân, theo nhóm nhỏ và cả lớp, phù hợp với độ tuổi của nhóm/lớp, với khả năng của từng trẻ, với nhu cầu và hứng thú của trẻ và với điều kiện thực tế” (Điểm II, khoản C, phần một, Chương trình Giáo dục mầm non, 2021) [1]. 3. Hướng dẫn tổ chức hoạt động phát triển nhận thức theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm 3.1. Đổi mới tổ chức hoạt động giáo dục Theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm, các hoạt động giáo dục được tổ chức theo các bước: - Xác định mục đích; - Xác định yêu cầu của hoạt động theo quan điểm “lấy trẻ em làm trung tâm”; - Thời lượng – thời điểm tổ chức hoạt động; - Cách thức tiến hành; - Đánh giá kết quả tổ chức hoạt động. Đối với hoạt động học của trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi) có một số đổi mới trong các bước tổ chức hoạt động [2]: Về nội dung học: - Các hoạt động giáo dục được thực hiện theo hướng tích hợp và tích hợp theo chủ đề: 18
- + Nội dung trọng tâm + Nội dung tích hợp - Các hoạt động giáo dục phù hợp với trẻ và bối cảnh địa phương, văn hóa, điều kiện thực tế của địa phương, nhà trường và nhu cầu, khả năng của trẻ. + Nội dung giáo dục phù hợp với nhu cầu và sự quan tâm của trẻ, phù hợp với khả năng của trẻ và môi trường sống gần gũi của trẻ (theo thuyết vùng phát triển gần của Vưgotxki) + Nội dung giáo dục phù hợp với điều kiện môi trường giáo dục, cơ sở vật chất, trang thiết bị nhà trường. Về không gian và thời gian học: - Học ở trong lớp - Học ở ngoài lớp: + Học ở ngoài sân trường + Học qua buổi tham quan dã ngoại (ngoài công viên, khu vui chơi, bảo tàng ..) + Học qua các chuyến thực tế tại nông trại Về hình thức tổ chức: - Học theo nhóm - Học cả lớp Về phương pháp: - Học qua chơi - Học qua thực hành trải nghiệm - Học qua thực hiện thí nghiệm - Học qua trao đổi và chia sẻ - Học qua tư duy suy luận Đánh giá kết quả tổ chức hoạt động 3.2. Hướng dẫn tổ chức hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ 12 – 36 tháng 3.2.1. Hoạt động chơi tập có chủ định của giáo viên: a. Đặc điểm: - Là hoạt động mang yếu tố chơi được tổ chức, sắp xếp có mục đích, có khoa học của giáo viên nhằm giúp trẻ tìm tòi, khám phá, luyện tập và phối hợp các giác quan, có nội dung nhẹ nhàng phù hợp với trẻ. - Đảm bảo tích hợp được nội dung luyện tập và phối hợp các giác quan với nhận biết thế giới xung quanh thông qua các hành động, thao tác trực tiếp với đồ vật. - Mang tính chủ động của giáo viên, tập trung chủ yếu vào việc hình thành hay cung cấp những biểu tượng mới, những kĩ năng hay thái độ cần thiết của trẻ trong lĩnh vực giáo dục phát triển nhận thức. - Thời lượng và hình thức tổ chức tùy thuộc vào từng độ tuổi, nội dung giáo dục cụ thể, vào sự hứng thú của trẻ. Thông thường: + Trẻ 12 – 18 tháng khoảng 6 – 7 phút; + Trẻ 18 – 24 tháng khoảng 8 – 10 phút; + Trẻ 24 – 36 tháng khoảng 12 – 15 phút. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn