intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một phân loại của giai cấp trung lưu vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 1 - GS.TS Bùi Thế Cường

Chia sẻ: Nguyễn Thị Thanh Triều | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

74
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày phân bố định lượng của các nhóm, tầng và kiểu bên trong các giai cấp trung lưu ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, dựa trên nguồn số liệu khảo sát thực nghiệm và kết quả phân tích của Đề tài “Chuyển dịch cơ cấu xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một phân loại của giai cấp trung lưu vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 1 - GS.TS Bùi Thế Cường

See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/321178305<br /> <br /> MỘT PHÂN LOẠI CÁC GIAI CẤP TRUNG LƯU VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA<br /> NAM 1<br /> Article · January 2017<br /> <br /> CITATIONS<br /> <br /> READS<br /> <br /> 0<br /> <br /> 27<br /> <br /> 1 author:<br /> Bui The Cuong<br /> Vietnam Academy of Social Sciences<br /> 37 PUBLICATIONS   200 CITATIONS   <br /> SEE PROFILE<br /> <br /> Some of the authors of this publication are also working on these related projects:<br /> <br /> Sociology in countries View project<br /> Civil Society Organizations as Supporters of Authoritarian Rule? A Cross-Regional Comparison (Algeria, Mozambique, Vietnam" (2013-2016)<br /> View project<br /> <br /> All content following this page was uploaded by Bui The Cuong on 21 November 2017.<br /> The user has requested enhancement of the downloaded file.<br /> <br /> MỘT PHÂN LOẠI CÁC GIAI CẤP TRUNG LƯU<br /> VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM1<br /> Bùi Thế Cường2<br /> Tóm tắt<br /> Sau 1975, Việt Nam trải qua những biến đổi cơ cấu giai tầng xã hội rất kịch tính, và điều này<br /> vẫn còn đang diễn ra mạnh mẽ. Bài viết đề xuất một khung phân loại các giai cấp trung lưu<br /> dựa trên nghề, bao gồm sáu nhóm trung lưu, ba tầng trung lưu và hai kiểu trung lưu. Áp dụng<br /> khung phân loại đó, bài viết trình bày phân bố định lượng của các nhóm, tầng và kiểu bên<br /> trong các giai cấp trung lưu ở Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, dựa trên nguồn số liệu khảo<br /> sát thực nghiệm và kết quả phân tích của Đề tài “Chuyển dịch cơ cấu xã hội trong phát triển<br /> xã hội và quản lý phát triển xã hội ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020” (Mã<br /> số KX.02.20/11-15).<br /> Từ khóa: các giai cấp trung lưu, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Việt Nam.<br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Sau 1975, Việt Nam trải qua những biến đổi cơ cấu giai tầng xã hội rất kịch tính, và<br /> điều này vẫn còn đang diễn biến mạnh. Bài viết đề xuất một khung phân loại các giai cấp trung<br /> lưu dựa trên nghề ở Việt Nam. Rồi áp dụng khung phân loại đó xử lý bộ số liệu thực nghiệm<br /> thu thập ở Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, giới thiệu một cơ cấu định lượng các giai cấp<br /> trung lưu ở vùng này.<br /> 2. Nguồn dữ liệu<br /> Nguồn dữ liệu sử dụng là khảo sát thực hiện năm 2015 trong Đề tài cấp Nhà nước<br /> Chuyển dịch cơ cấu xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vùng kinh tế<br /> trọng điểm phía Nam đến năm 2020 (KX.02.20/11-15) do Bộ Khoa học và công nghệ tài trợ.<br /> Dưới đây gọi tắt là khảo sát 2015.<br /> <br /> 1<br /> <br /> Bài in trong Tạp chí Xã hội học. Số 3(139)/2017. Trang 43-51. Hà Nội: Viện Xã hội học Viện Hàn<br /> lâm khoa học xã hội Việt Nam. Phiên bản này khác đôi chút với bản in do biên tập.<br /> <br /> 2<br /> <br /> Giáo sư tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.<br /> 1<br /> <br /> Hai khảo sát Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ năm 2010 chọn mẫu ngẫu nhiên phân<br /> tầng khu vực, theo hướng đại diện cho dân cư vùng Đông Nam Bộ hẹp (không có TPHCM) và<br /> cho dân cư TPHCM. Mẫu khảo sát thứ nhất 1.080 hộ gia đình sống tại 90 khu dân cư thuộc 30<br /> phường/ thị trấn/ xã vùng Đông Nam Bộ hẹp (không có TPHCM). Mẫu khảo sát thứ hai cũng<br /> 1.080 hộ gia đình sống tại 90 khu dân cư thuộc 30 phường/ thị trấn/ xã ở TPHCM. Mỗi hộ<br /> trong danh sách phỏng vấn một người được gia đình xem là đại diện hộ (thường chủ hộ, nhưng<br /> không nhất thiết). Hai khảo sát 2010 thu thập dữ liệu ở thực địa vào tháng 3-5/2010 (Chi tiết<br /> chọn mẫu, xem: Trần Đan Tâm, 2010. Lê Thanh Sang, 2011).<br /> Khảo sát 2015 Đề tài KX.02.20/11-15 dựa trên danh sách địa bàn và hộ gia đình hai<br /> khảo sát 2010 nói trên, nhằm nghiên cứu lặp. Ngoài ra, chọn mẫu theo thủ tục tương tự cho<br /> tỉnh Long An và Tiền Giang để có 720 hộ gia đình tại 20 xã phường thị trấn thuộc hai tỉnh này.<br /> Tổng cộng, khảo sát 2015 cỡ mẫu 2.880 hộ gia đình sống tại 240 địa bàn (ấp, khu dân cư) tại<br /> 80 xã phường thị trấn thuộc 8 tỉnh thành Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong tổng mẫu,<br /> có 2.184 hộ mà đại diện hộ đang làm việc có đem lại thu nhập (chiếm 75,8% tổng số hộ điều<br /> tra). Trong số đó, có 1.041 hộ (bằng 47,7%) mà đại diện hộ được xếp vào nhóm trung lưu theo<br /> khung phân loại trình bày bên dưới. Đây là mẫu phân tích trong bài viết này.<br /> 3. Đề xuất một phân loại các giai cấp trung lưu<br /> Khái niệm, lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về trung lưu trên thế giới có lịch sử<br /> lâu đời, đầy tranh cãi. Trong gần 20 năm qua, xuất hiện nhiều nghiên cứu về trung lưu ở Việt<br /> Nam. Chẳng hạn, thu thập chưa đầy đủ cho xấp xỉ 20 ấn phẩm trong thập niên 2010, gấp 3-4<br /> lần thập niên trước đó: Tống Văn Chung (2011), Van Nguyen-Marshall và cộng sự (2012), Le<br /> Kim Sa (2012, 2015), Nguyễn Đình Tấn (2013a, b, c, d), Nguyễn Cúc (2013), Trần Thị Minh<br /> Ngọc (2013, 2015), Bùi Đại Dũng (2014), Lê Kim Sa và Vũ Hoàng Đạt (2014), Catherine Earl<br /> (2014), Le Thu Huong (2015), Đoàn Minh Huấn và Trần Thị Minh Ngọc (2015), Bùi Thế<br /> Cường và cộng sự (2015), Bùi Thế Cường và Phạm Thị Dung (2015, 2016), Tô Duy Hợp và<br /> Trương Thị Thu Thủy (2016), Đỗ Thiên Kính (2017), Trịnh Duy Luân (2017).<br /> Do mục tiêu và khuôn khổ bài viết, nên ở đây không tổng quan về nghiên cứu chủ đề<br /> này ở Việt Nam. Bài viết cũng không ý định thảo luận về các tranh luận thuật ngữ, nên trong<br /> bài dùng cụm từ “các giai cấp trung lưu” như một khái niệm làm việc, có thể thay thế với thuật<br /> ngữ khác như giai tầng trung lưu, tầng lớp trung lưu, v.v.<br /> <br /> 2<br /> <br /> Trong một cố gắng phân tích trung lưu ở Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2015 nhóm<br /> nghiên cứu của tôi đề xuất một khung phân loại gồm 4 nhóm nghề nghiệp. Đó là: (1) Lãnh đạo,<br /> quản lý Đảng, Nhà nước, đoàn thể xã hội, cơ quan hành chính sự nghiệp trong khu vực Đảng,<br /> Nhà nước, đoàn thể; (2) Lãnh đạo, quản lý công ty trong khu vực tư nhân; (3) Chủ cơ sở kinh<br /> doanh hộ gia đình phi nông nghiệp; (4) Chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, dịch vụ, thương mại<br /> (Bùi Thế Cường, Tô Đức Tú, Phạm Thị Dung, 2015).<br /> Trong một thử nghiệm phân tầng xã hội dựa trên nghề ở Việt Nam, Koichi Fujita và tôi<br /> xây dựng một khung phân loại gồm 19 nhóm nghề (Bui, Cuong The and Koichi Fujita, 2016).<br /> Đó là: (1) Quản lý Nhà nước bậc siêu cao, (2) Chuyên môn bậc siêu cao, (3) Chủ sở hữu tư<br /> nhân phi nông nghiệp bậc siêu cao, (4) Nông dân bậc siêu cao, (5) Quản lý Nhà nước bậc cao,<br /> (6) Chuyên môn bậc cao, (7) Chủ sở hữu tư nhân phi nông nghiệp bậc cao, (8) Nông dân bậc<br /> cao, (9) Quản lý Nhà nước bậc trung, (10) Chuyên môn bậc trung, (11) Chủ sở hữu tư nhân phi<br /> nông nghiệp bậc trung, (12) Nông dân bậc trung cao, (13) Quản lý Nhà nước bậc thấp, (14)<br /> Chuyên môn bậc thấp, (15) Chủ sở hữu tư nhân phi nông nghiệp bậc thấp, (16) Nông dân bậc<br /> trung thấp, (17) Lao động (công nhân) có kỹ năng, (18) Lao động phi nông nghiệp giản đơn,<br /> (19) Nông dân bậc thấp.<br /> Khi phân tích số liệu khảo sát 2015, chúng tôi không đưa 4 nhóm trên cùng (siêu cao)<br /> vào khung phân tích, vì các hộ gia đình mà người đại diện thuộc 4 nhóm đó không rơi vào mẫu,<br /> nên không có ý nghĩa thống kê. Tìm hiểu 4 nhóm ấy cần những khảo sát riêng (so với khoa học<br /> xã hội, báo chí và dư luận đề cập đến các nhóm “siêu cao” nhiều và sinh động hơn hẳn).<br /> Dựa trên khung 19 nhóm nghề nêu trên, trong bài viết này, tôi đề xuất một khung phân<br /> loại các giai cấp trung lưu gồm 6 nhóm (Bảng 1).<br /> Sáu nhóm đó thực chất gồm ba nhóm vị thế kinh tế-xã hội: quản lý Nhà nước, chuyên<br /> môn, và chủ sở hữu tư nhân. Thuật ngữ “quản lý Nhà nước” ở đây gồm những người được xem<br /> là công chức hay viên chức có chức vụ quản lý trong bộ máy Đảng, chính quyền, doanh nghiệp<br /> Nhà nước, đơn vị hành chính-sự nghiệp, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức<br /> chính trị-xã hội-nghề nghiệp, và gồm cả những người tuy không ăn lương chính thức nhưng có<br /> chức vị trong hệ thống chính trị cơ sở và có nhận những khoản phụ cấp nhất định (cấp ủy,<br /> trưởng khu vực cư trú, tổ chức chính trị-xã hội ở cấp cơ sở).<br /> <br /> 3<br /> <br /> Trong mỗi nhóm phân thành ba bậc: cao, trung, và thấp. Bậc của nhóm “Quản lý Nhà<br /> nước” dựa trên bậc hành chính: trên cấp trưởng phòng; tương đương cấp trưởng phòng; chức<br /> vị quản lý dưới cấp trưởng phòng. Bậc của nhóm “Chuyên môn” dựa trên học vấn: trên đại<br /> học; tương đương cao đẳng, đại học; dưới cao đẳng, đại học.<br /> Bậc của nhóm “Chủ sở hữu tư nhân” dựa trên ước tính tổng tài sản hộ gia đình (bất<br /> động sản để ở hay kinh doanh và mọi hình thái động sản như vốn lưu động, tiền mặt, trái phiếu,<br /> cổ phiếu). Ba bậc xếp theo tỷ lệ: 5% hộ bậc cao, 40% hộ bậc trung và 55% hộ bậc thấp, có ước<br /> tính tổng tài sản từ mức cao nhất đến thấp nhấp trong tổng số hộ thuộc nhóm “Chủ sở hữu tư<br /> nhân” (789 hộ). Tỷ lệ trên được ước lượng xấp xỉ theo tỷ lệ ba bậc trong nhóm “Quản lý Nhà<br /> nước, chuyên môn” (6,3%, 40,1% và 53,6%). Không thể phân chia bậc trong nhóm “Chủ sở<br /> hữu tư nhân” dựa trên phân chia bậc theo phân bố tài sản ở nhóm “Quản lý Nhà nước, chuyên<br /> môn”, vì trong nhóm này hầu như không có khuôn mẫu khác biệt về tài sản giữa ba bậc. Kết<br /> quả, “Chủ sở hữu tư nhân bậc cao” gồm 5% hộ có ước tính tổng tài sản cao nhất (lớn hơn<br /> 7.910.000.000 VND). “Chủ sở hữu tư nhân bậc trung” gồm 40% hộ có ước tính tổng tài sản<br /> tiếp theo (lớn hơn 2.000.000.000 VND đến 7.910.000.000 VND). “Chủ sở hữu tư nhân bậc<br /> thấp” gồm 55% hộ còn lại có ước tính tổng tài sản bằng hoặc dưới 2.000.000.000 VND.<br /> Nếu muốn xác định nhóm “Chủ sở hữu tư nhân” dựa trên tiêu chí kinh tế thì nguồn số<br /> liệu gốc cung cấp cơ sở cho ba lựa chọn: tài sản, thu nhập và chi tiêu. Tác giả bài viết chọn<br /> biến số “ước tính tổng tài sản” vì qua phân tích thử, biến số ấy phản ánh khác biệt rõ nét hơn<br /> biến số thu nhập và chi tiêu. Về mặt lý thuyết kinh tế học chính trị, tài sản liên hệ mật thiết hơn<br /> với sở hữu “tư liệu sản xuất” hay “tư bản”, vốn là đặc trưng của “chủ sở hữu tư nhân”. Một số<br /> nhà xã hội học cũng thích dùng biến số “tài sản” hơn. Chẳng hạn, Anthony Giddens và cộng<br /> sự viết: “Một số học giả lập luận, tài sản, chứ không phải thu nhập, là chỉ báo thực cho giai cấp<br /> xã hội, vì nó ít nhạy cảm hơn với những dao động do thay đổi số giờ làm việc, sức khỏe, và<br /> những yếu tố khác, có thể ảnh hưởng đến thu nhập của một cá nhân trong năm đã cho” (Nguyên<br /> văn: “Some scholars argue that wealth, not income, is the real indicator of social class because<br /> it is less sensitive to fluctuations due to shifting work hours, health, and other factors that might<br /> affect one’s income in a given year”. Giddens, 2014: 165).<br /> Kết quả, có khung phân loại 6 nhóm trung lưu như sau:<br /> <br /> 4<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2