Một số đặc điểm sinh lý, sinh thái loài mây nếp (Calamus tetradactylus Hance)<br />
Thứ ba - 25/01/2011 21:22<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nghiên cứu đặc điểm sinh lý, sinh thái Mây nếp mọc tự nhiên và trồng tại 2 xã Bình Thanh huyện Cao phong,<br />
tỉnh Hoà Bình và xã Kim Ngọc huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Cho thấy Mây nếp là cây chịu bóng nhẹ với<br />
mô đồng hoá dày trung bình từ 76,28 – 78,18% chiều dày lá. Cường độ thoát hơi nước của loài ở hai khu vực<br />
nghiên cứu có trị số ở mức trung bình thấp từ 0,684 – 0,834 gH2O/dm2/h; Hàm lượng diệp lục trong lá của<br />
Mây nếp có trị số trung bình thấp (trong đó hàm lượng diệp lục tổng số dao động từ 3,09 – 3,17 mg/g; tỷ lệ<br />
diệp lục a/b có trị số bằng 1,90 – 1,92); Cường độ quang hợp của Mây nếp đạt mức trung bình từ 1,226 –<br />
1,292 mgCO2/dm2/h. Mây nếp có khả năng chịu nhiệt độ cao, mức độ tổn thương bình quân ở các cấp nhiệt<br />
độ (350C, 400C, 450C, 500C, 550C, 600C) đạt trị số trung bình thấp ( Hoà Bình là 17,07%; Hà Giang là 15,62%).<br />
Do vậy, có thể gây trồng Mây nếp trên nhiều vùng sinh thái khác nhau mà vẫn đảm bảo tỷ lệ sống cao. Mây<br />
nếp là cây ưa ẩm nhưng có khả năng chịu hạn tốt: (1) Sức hút nước bình quân của cây Mây nếp ở mức trung<br />
bình khá (bằng 13,267 – 14,858atm); (2) Hệ số héo của Mây nếp tương đối thấp (bằng 10,090 – 11,759%). Ở<br />
giai đoạn trưởng thành, trong rừng tự nhiên và rừng trồng, Mây nếp có nhu cầu cao đối với các chất dinh<br />
dưỡng khoáng N, OM%, P2O5, Ca2+ Mg2+, tổng kiềm. Vì vậy, khi gây trồng Mây nếp ở những nơi có hàm<br />
lượng các chất này thấp có thể bón bổ sung để tăng sản lượng và chất lượng.<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Nghiên cứu đặc điểm sinh lý, sinh thái loài cây rừng có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất lâm nghiệp. Kết<br />
quả thu được sẽ giúp cho việc xác định bản chất, nguyên lý của các quá trình sinh học trong cơ thể thực vật, đồng<br />
thời làm rõ tác động của những yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây. Đây là cơ sở khoa học<br />
để lựa chọn và cải thiện điều kiện lập địa, đề xuất các biện pháp kỹ thuật nâng cao sản lượng và chất lượng của<br />
rừng trồng. Người ta không thể bảo vệ, phát triển hoặc gây trồng nếu không dựa vào đặc điểm sinh lý, sinh thái của<br />
loài, không biết trồng nó như thế nào, ngay cả khi có giống tốt. Xác định những đặc điểm sinh lý,sinh thái cây Mây<br />
nếp làm cơ sở cho việc phân chia điều kiện lập địa thích hợp cho loài cây này cũng như cho việc đề xuất một số biện<br />
pháp kỹ thuật nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng Mây nếp.<br />
Dưới đây là kết quả nghiên cứu về một số đặc điểm sinh lý và sinh thái loài Mây nếp làm cơ sở khoa học cho<br />
việc xác định hệ thống biện pháp kỹ thuật gây trồng loài cây này.<br />
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
2.1. Vật liệu<br />
Nghiên cứu được tiến hành trên các bụi Mây nếp mọc tự nhiên và trồng tại 2 xã Bình Thanh huyện Cao<br />
phong, xã Kim Ngọc huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang.<br />
2.2. Phương pháp nghiên cứu<br />
(+) Cấu tạo giải phẫu lá mây nếp: Từ mẫu lá, cắt miếng nhỏ tại vị trí 1/3 phía đầu lá và quan sát các chỉ tiêu giải phẫu<br />
lá trên kính hiển vi Olympus BHS ở độ phóng đại 10 và 40.<br />
(+) Cường độ thoát hơi nước: Sử dụng bằng phương pháp cân nhanh.<br />
(+) Sức hút nước: Sử dụng phương pháp đơn giản của USPRUNG.<br />
(+) Khả năng chịu hạn:Xác định lượng nước trong đất tại thời điểm cây bị héo (n) bằng trọng lượng ban đầu (P o) trừ<br />
đi trọng lượng sau khi sấy (Pt) và hệ số khô héo (H%) được tính theo công thức: H%=(n/Po)*100%<br />
(+) Khả năng chịu nóng:xác định theo phương pháp MaxCop<br />
(+) Nhu cầu dinh dưỡng: Mẫu lá sau khi thu thập được phơi khô trong điều kiện nắng nhẹ nhằm hạn chế khả năng<br />
thất thoát các chất khoáng đa lượng.<br />
- Nitơ tổng số trong lá được xác định bằng phương pháp Kjeldan.<br />
- Phospho trong lá được phân tích theo phương pháp so màu quang điện.<br />
- Kali trong lá được xác định bằng phương pháp quang kế ngọn lửa .<br />
- Lipit trong lá được xác định bằng máy phân tích chất béo SOXTHORM<br />
(+) Nhu cầu ánh sáng: Nhu cầu ánh sáng của thực vật được thể hiện thông qua hàm lượng và tỷ lệ sắc tố quang hợp<br />
(chlorophyll) a và b có trong lục lạp được xác định bằng phương pháp so màu trên máy so màu quang điện Spectro<br />
23 RS.<br />
(+) Cường độ quang hợp:được xác định trực tiếp bằng cách đo lượng CO2 mà lá hấp thụ dựa trên nguyên lý C02 hấp<br />
thu tia hồng ngoại. Hàm lượng C0 2 trong một thể tích khí cố định được đo bằng máy phân tích khí hồng ngoại xách<br />
tay (Portable C02 indicator RA – 411) theo phương pháp của S.P.Long và J.E.Hallgrren, 1993).<br />
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
(+) Cấu tạo giải phẫu lá Mây nếp<br />
Lá là một bộ phận rất quan trọng của thực vật, là cơ quan quang hợp, bộ phận thoát hơi nước và trao đổi khí với môi<br />
trường bên ngoài. Bên cạnh đó lá cây còn là chỉ thị của tình trạng dinh dưỡng cũng như mức độ phù hợp của thực<br />
vật với môi trường bên ngoài.<br />
Với Mây nếp, lá của chúng được cấu tạo từ hai lớp cutin bao phủ hai mặt lá, tiếp đến là lớp biểu bì trên và<br />
dưới, phần mô đồng hoá ở lớp giữa tương đối dầy và có màu xanh lục. Đây là loại mô đồng nhất (chỉ 1 loại), đặc<br />
điểm này khác biệt rõ nét với cây 2 lá mầm (thông thường cây 2 lá mầm có 2 loại mô mềm đồng hóa là mô dậu và<br />
mô khuyết).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Kết quả đo đếm độ dầy của từng lớp sau khi quy đổi ra đơn vị mm thu được kết quả ghi trong bảng sau.<br />
Bảng 01. Kết quả giải phẫu lá Mây nếp<br />
BB Cutin <br />
TT Mẫu Cutin trên BB trên Mô ĐH Tổng % MĐH<br />
dưới dưới<br />
1 HG 0,95 8,15 55,61 7,30 0,79 72,8 76,28<br />
2 HB 0,76 6,82 54,14 6,74 0,72 69,2 78,18<br />
<br />
<br />
<br />
Qua bảng kết quả trên cho thấy tầng cutin ở 2 phía tương đối dày, trong đó tầng cutin trên có kích thước dày<br />
hơn so với cutin dưới, sự chênh lệch về độ dày đó phần nào phản ánh lượng ánh sáng mà mặt trên và mặt dưới của<br />
cây nhận được. Nếu so sánh tương tự, giữa biểu bì mặt trên lá với mặt dưới lá của cây cũng thấy có sự biến đổi về<br />
kích thước nhưng không nhiều. Điều này cho thấy khi điều kiện ánh sáng khác nhau và để thực hiện tốt chức năng<br />
bảo vệ, cả lớp cutin và biểu bì lá đều có những thay đổi giống nhau. Khi ánh sáng nhận càng nhiều thì cutin trên<br />
cũng như biểu bì trên đều dày lên để phản bớt nhiệt, giảm bớt đi cường độ thoát hơi nước, tăng chức năng bảo vệ.<br />
Kết quả trên một phần phản ánh rằng, cây Mây nếp có khả năng chống chịu tốt (chịu hạn, chịu nhiệt…) với điều kiện<br />
môi trường.<br />
Chiều dày mô đồng hoá thể hiện tính ưa sáng của thực vật. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mô đồng hoá<br />
có độ dày chiếm từ 76,28% đến 78,18% so với tổng chiều dày của lá cây. Điều này có thể đánh giá Mây nếp ưa sáng<br />
ở mức trung bình khá (mô đồng hoá lớn hơn 80% là cây ưa sáng) (4).<br />
(+)Cường độ thoát hơi nước của Mây nếp<br />
Để xác định được mức độ thoát hơi nước của lá cây trên một đơn vị diện tích trong một khoảng thời gian xác định,<br />
các nhà khoa học đã sử dụng đại lượng cường độ thoát hơi nước. Đại lượng này thường xuyên biến động và phụ<br />
thuộc vào các điều kiện môi trường ở từng thời điểm. Kết quả thí nghiệm cho thấy cường độ thoát hơi nước của Mây<br />
nếp từ hai địa phương có trị số ở mức trung bình thấp: từ 0,684 g H 2O/ dm2/h (Hoà Bình), 0,834 g H2O/ dm2/h (Hà<br />
Giang) và có sự sai khác không rõ rệt. Kết quả này cho phép khẳng định, cây Mây thích hợp với cường độ ánh sáng<br />
vừa phải.<br />
(+) Sức hút nước của tế bào và mô của Mây nếp<br />
Đối với sản xuất lâm nghiệp vấn đề khó khăn nhất là nước tưới cho cây trồng, nhất là những tháng mùa khô,<br />
nguồn nước khan hiếm, không ổn định đã cản trở rất lớn trong việc đưa những loài cây sinh trưởng nhanh vào sản<br />
xuất. Vì vậy, việc xác định nhu cầu nước của cây để từ đó xác định được vùng trồng phù hợp là việc làm hết sức cần<br />
thiết. Với Mây nếp, khả năng hút nước của tế bào và mô cây Mây nếp ở mức trung bình khá: Hoà Bình (14,858atm)<br />
lớn hơn ở Hà Giang (13,267atm). Qua đây có thể đánh giá Mây nếp hút nước trong đất tương đối tốt, thể hiện khả<br />
năng chống chịu của loài trên các vùng sinh thái khác nhau. Kết quả trên một phần nào cho thấy, sự khác biệt về<br />
điều kiện tự nhiên (S = 4.2.0 ở Hoà Bình và S = 2.0.0 ở Hà Giang) đã làm cho cây này có khả năng thích nghi khác<br />
nhau.<br />
Kết quả nghiên cứu với 15 mẫu/1 xuất xứ ở Hoà Bình và Hà Giang cho thấy sức hút nước của nó cao hơn rất<br />
nhiều so với sức hút nước của thực vật thuỷ sinh (cây ẩm sinh) như: rong đuôi chó là 4,13atm, bèo hoa dâu là<br />
3,19atm. Nhưng sức hút nước của Mây nếp lại nhỏ hơn sức hút nước của các cây hạn sinh hay nhóm cây chịu hạn<br />
như phi lao là 19,86atm, cây sơn là 24,08atm (4). Trên cơ sở đó có thể rút ra nhận xét ban đầu là cây Mây nếp thuộc<br />
nhóm cây trung sinh, nhóm cây này sống ở những vùng đất có độ ẩm vừa phải.<br />
(+)Hệ số héo của Mây nếp<br />
Đất là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho thực vật nói chung. Vì vậy, khi bị hạn, khả năng cung cấp nước cho<br />
cây bị hạn chế từ đó làm ảnh hưởng đến tất cả các quá trình sinh lý, sinh hoá diễn ra bên trong cây. Nếu hạn hán<br />
kéo dài, nguồn nước tiếp tục giảm cây sinh trưởng chậm dần và bị chết sau đó. Tuy nhiên, với mỗi loài cây khác<br />
nhau khả năng chống chịu được với điều kiện khô hạn là khác nhau.<br />
Để xác định khả năng chịu hạn của Mây nếp, chúng tôi đã tiến hành xác định hệ số héo - đại lượng được xác<br />
định bằng số % nước còn lại trong đất mà cây không hút được (cây bắt đầu héo) của chúng. Kết quả thí nghiệm<br />
được tổng hợp là H% từ 10,090 (Hà Giang) đến 11,759% (Hoà Bình). Chứng tỏ khả năng chịu hạn của Mây nếp ở<br />
Hoà Bình thấp hơn ở Hà Giang.<br />
Căn cứ vào số liệu khí hậu – thuỷ văn, lượng mưa trung bình năm ở Cao Phong là 1.859,3 mm, lượng mưa<br />
nhiều nhất tập trung vào tháng 8, 9 đạt tới 301,6 – 423,0mm, trong khi đó lượng mưa tháng 1, 2, 12 chỉ đạt 14,6 –<br />
20,6mm. Ở khu vực Bắc Quang có lượng mưa trung bình năm là 1.692mm, lượng mưa nhiều nhất tập trung vào<br />
tháng 7, 8 đạt tới 331,2 – 331,6mm và tháng 2, 12 chỉ đạt 17,8 – 21,5mm (1) .Như vậy, sự phân bố không đều của<br />
lượng mưa ở hai khu vực đã làm cho một số tháng khô hạn có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây. Tuy nhiên hệ<br />
số héo của Mây nếp ở hai khu vực nghiên cứu đạt mức tương đối thấp nên Mây nếp vẫn có thể sinh trưởng phát<br />
triển tốt trên hai khu vực này.<br />
(+) Hàm lượng diệp lục trong lá Mây nếp<br />
Thí nghiệm được lấy mẫu tại hai địa điểm Hoà Bình và Hà Giang. Sau khi phân tích hàm lượng diệp lục từ hai<br />
mẫu trên thu được kết quả ghi vào bảng dưới đây:<br />
Bảng 02: Hàm lượng diệp lục trong lá của Mây nếp<br />
Ca Cb Cab Ca Cb Cab<br />
TT Mẫu Ca/Cb<br />
(mg/l) (mg/l) (mg/g) (mg/g) (mg/g) (mg/g)<br />
1 HG 4,17 2,17 6,34 2,09 1,09 3,17 1,92<br />
2 HB 4,05 2,14 6,18 2,02 1,07 3,09 1,90<br />
<br />
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hàm lượng diệp lục của mẫu Mây nếp ở hai địa điểm có trị số trung bình thấp.<br />
Trong đó hàm lượng diệp lục tổng số của cây Mây nếp có xuất xứ Hà Giang (3,17 mg/g) cao hơn ở Hoà Bình (3,09<br />
mg/g). Trong đó tỷ lệ diệp lục a/b của các loài này ở hai địa điểm cũng ở mức trung bình. Điều này cho thấy Mây nếp<br />
là đối tượng chịu đựng được cường độ ánh sáng vừa phải (cây trung tính). Hàm lượng diệp lục a và b ở các cây<br />
Mây nếp có nguồn gốc khác nhau cũng có sự sai khác. Trong đó cả hai loại diệp lục a và b ở Hà Giang đều đạt trị số<br />
cao hơn ở Hoà Bình. Tuy nhiên, mức độ chênh lệch nhau không nhiều.<br />
Tỷ lệ giữa các loại diệp lục còn thay đổi tuỳ theo nhóm cây, đặc điểm sinh thái…chẳng hạn như lá cây chịu<br />
bóng mỏng hơn, lục lạp to hơn, ít hơn và chứa nhiều chlorophyll hơn so với lá cây ưa sáng. Sự thích nghi với điều<br />
kiện chiếu sáng thể hiện không chỉ ở sự tăng hàm lượng chlorophyll tổng số mà còn thay đổi tỷ lệ các sắc tố trong<br />
lục lạp. Lá cây chịu bóng nhận được ánh sáng khuyếch tán giàu tia sáng sóng ngắn, nên chứa nhiều chlorophyll b.<br />
Đa số cây chịu bóng có hàm lượng chlorophyll tổng số cao, tỷ lệ chlorophyll a/b thấp (≤ 1,4), cây ưu sáng tỷ lệ<br />
chlorophyll a/b cao (5,5), cây trung tính có tỷ lệ bình thường là 1,4 – 3,0. Tỷ lệ giữa diệp lục a/b được đánh giá là khả<br />
năng chịu ánh sáng của thực vật. Theo Libbert (1976), ở thực vật thượng đẳng, diệp lục a làm nhiệm vụ quang hợp,<br />
diệp lục b làm nhiệm vụ góp năng lượng cho diệp lục a quang hợp (1). Do đó quang hợp mạnh hay yếu phụ thuộc<br />
nhiều vào diệp lục a. Với kết quả trên so với tiêu chuẩn cho phép thì trị số đó có thể đánh giá các cây Mây nếp ở hai<br />
địa điểm đều chịu đựng được mức cường độ ánh sáng trung bình. Từ kết quả này chúng ta có thể lựa chọn Mây nếp<br />
trồng dưới tán rừng là phù hợp.<br />
(+) Cường độ quang hợp của Mây nếp<br />
Cường độ quang hợp là đại lượng được đo bằng lượng CO 2 hấp thụ trong quá trình quang hợp trên 1 đơn vị<br />
diện tích là dm2 trong khoảng thời gian là 1 giờ. Cường độ quang hợp khác nhau ở từng loại cây, tuổi cây, từng thời<br />
điểm và phụ thuộc điều kiện môi trường. Cường độ quang hợp là yếu tố quyết định tới năng suất cây trồng, ảnh<br />
hưởng lớn đến khả năng sinh trưởng của thực vật (2).<br />
Sau khi TN đo cường độ quang hợp được kết quả ghi vào bảng sau.<br />
Bảng 03 : Cường độ quang hợp của cây Mây nếp<br />
TT Mẫu I (mgCO2/dm2/h) Đánh giá<br />
Trung <br />
1 Hà Giang 1,126<br />
bình<br />
2 Hoà Bình 1,292 Trung bình<br />
<br />
<br />
<br />
Kết quả tổng hợp trong bảng cho thấy: Cường độ quang hợp của Mây nếp đạt mức trung bình và không có<br />
sự khác biệt nhau rõ rệt giữa hai địa điểm. Ở khu vực Bình Thanh – Cao Phong do có số giờ nắng trung bình là<br />
1.635,7 giờ, khu vực Kim Ngọc – Bắc Quang là 1.070,4 giờ nên cường độ quang hợp của cây Mây nếp lấy mẫu từ<br />
Bình Thanh là lớn hơn ở Kim Ngọc (chỉ lớn hơn 0,166 mgCO 2/dm2/h). Do vậy, trong một thời điểm nhất định có thể<br />
đánh giá sơ bộ tốc độ tăng trưởng của Mây nếp ở hai khu vực là tương đối giống nhau và hoàn toàn phù hợp với tỷ<br />
lệ diệp lục ở trên.<br />
(+)Khả năng chịu nóng của Mây nếp<br />
Nhiệt độ môi trường luôn thay đổi, sự thay đổi về nhiệt độ trong không gian và thời gian tạo ra những nhóm<br />
sinh vật có khả năng thích nghi khác nhau với sự thay đổi nhiệt độ. Sự khác nhau này được thể hiện không những<br />
về mặt hình thái mà còn cả về tập tính sinh hoạt của sinh vật. Tác dụng bất lợi của nhiệt độ cao đối với thực vật là do<br />
trao đổi chất trong tế bào bị phá hoại. Do mỗi tế bào có màng sinh học phía ngoài, chúng có khả năng kiểm soát các<br />
chất độc xâm nhập tự do qua màng, tránh cho tế bào khỏi bị các chất độc gây hại. Nhưng khi nhiệt độ quá cao, làm<br />
phá huỷ màng tế bào thì các chất độc có thể xâm nhập tự do vào trong gây ra tổn thương hoặc gây chết tế bào. Hiện<br />
tượng này được chứng minh bằng TN là xử lý tế bào bằng nhiệt độ cao sau đó cho chúng tiếp xúc với chất độc. Loài<br />
cây nào không chịu được nhiệt độ cao thì màng tế bào bị phá huỷ, chất độc xâm nhập vào, làm cho tế bào bị chết<br />
nhiều hơn. Đề tài đã xác định khả năng chịu nóng của thực vật theo phương pháp Maxcop (4) và thu được kết quả<br />
sau:<br />
Bảng 04: Mức độ tổn thương của lá Mây nếp sau khi xử lý nhiệt (%)<br />
TT Mẫu Mức độ tổn TB<br />
thương <br />
trung bình ở <br />
các cấp <br />
nhiệt độ <br />
(%)<br />
35 40 45 50 55 60<br />
1 HG 3,9 5,5 13,9 15,1 24,9 39,1 17,07<br />
2 HB 2,9 5,4 8,1 14,3 25,9 37,1 15,62<br />
<br />
Kết quả thí nghiệm ở bảng cho thấy: mức độ tổn thương trên lá Mây nếp có sự khác nhau rõ rệt giữa hai khu<br />
vực nghiên cứu, nhưng đều trị số trung bình ở mức thấp. Trong đó mức độ tổn thương của cây Mây Hoà Bình<br />
(15,62%) thấp hơn so với Mây Hà Giang (17,07%), tức là Mây Hoà Bình có khả năng chịu đựng nhiệt độ cao tốt hơn.<br />
(+) Hàm lượng khoáng đạm trong lá Mây nếp<br />
Thực tế cho thấy, khi thiếu hụt một vài nguyên tố khoáng nào đó đều làm cho cây sinh trưởng không bình thường,<br />
thậm chí làm cho cây ngừng sinh trưởng và chết. Để đánh giá nhu cầu dinh dưỡng thì ngoài các phương pháp bố trí<br />
TN ở trên chúng ta có thể xác định hàm lượng khoáng đạm thông qua phân tích các mẫu lá. Kết quả phân tích được<br />
tổng hợp trong bảng 05<br />
Bảng 05: Hàm lượng các chất khoáng - đạm trong lá Mây nếp<br />
TT Mẫ u Nitơ t.số (%) P2O5 t.số(%) K2O t.số (%) Lipit (g/kg lá tươi)<br />
1 HG 1,395 0,266 1,080 17,29<br />
2 HB 2,086 0,346 1,168 24,91<br />
<br />
Hàm lượng photpho của Mây nếp ở Hà Giang đạt trị số trung bình (0,266%), còn cây Mây nếp ở Hoà Bình đạt trị số<br />
cao (0,345%). Do đó nhu cầu về hàm lượng photpho của Mây nếp từ hai khu vực có sự khác nhau, sự biến thiên<br />
hàm lượng photpho trong cây dường như chỉ phụ thuộc vào nhu cầu sinh lý và sinh thái của cây. Mặt khác photpho<br />
còn có vai trò làm tăng tính chống chịu của cây như chịu hạn, chịu nóng…Do vậy với hàm lượng photpho như trên<br />
có thể nói Mây nếp có khả năng chống chịu tương đối tốt với điều kiện môi trường.<br />
Mây nếp ở hai địa điểm đều có hàm lượng kali ở mức tương đối thấp (nhỏ hơn 1,2%). Khi hàm lượng kali nhiều sẽ<br />
làm tăng sự tạo thành các bó mạch, làm tăng độ dài, số lượng sợi, tăng bề dày của các mô làm cho cây cứng cáp<br />
hơn. Kali làm giảm khả năng sử dụng magiê, đồng thời làm tăng sử dụng sắt – một nhân tố quan trọng trong quá<br />
trình tổng hợp diệp lục (5). Mặt khác kali làm tăng hô hấp và là nhân tố quan trọng của hàng loạt các quá trình tổng<br />
hợp trong cơ thể thông qua quá trình quang hợp mà cường độ quang hợp của Mây nếp lại ở mức trung bình. Qua<br />
kết quả phân tích cùng với những nhận xét trên cho thấy, nhu cầu về kali của Mây nếp ở mức trung bình thấp. Do đó<br />
có thể gây trồng Mây nếp ngay trên lập địa có hàm lượng kali ở mức thấp (nghèo kali).<br />
Mỡ và lipit (chất giống mỡ) chứa trong cây thực hiện hàng loạt các chức năng quan trọng trong lớp màng trên bề mặt<br />
của tế bào từ mỡ và lipoproteit, mỡ trong các mô dự trữ…Kết quả nghiên cứu trong bảng trên còn cho thấy, hàm<br />
lượng lipit tính theo gam/kg lá tươi ở cây Mây Hoà Bình (24,91 g/kg) đạt trị số cao hơn ở cây Mây nếp Hà Giang<br />
(17,29 g/kg).<br />
Với những phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy khả năng trao đổi chất của Mây nếp ở mức trung bình khá. Đây<br />
là loài cây dễ tính, có thể sinh trưởng phát triển trên lập địa có hàm lượng chất hữu cơ ở cấp độ trung bình. Điều này<br />
rất có ý nghĩa trong việc gây trồng và nhân rộng mô hình trồng Mây nếp trên nhiều điều kiện lập địa khác nhau.<br />
4. KẾT LUẬN<br />
- Mây nếp là cây chịu bóng nhẹ, đặc điểm này được thể hiện rõ qua 4 chỉ tiêu chính: (1) Mô đồng hoá có độ<br />
dày trung bình(bằng 76,28 – 78,18% chiều dày lá); (2) Cường độ thoát hơi nước của Mây nếp ở hai khu vực nghiên<br />
cứu có trị số ở mức trung bình thấp (từ 0,684 – 0,834 gH 2O/dm2/h); (3) Hàm lượng diệp lục trong lá của Mây nếp có<br />
trị số trung bình thấp (trong đó hàm lượng diệp lục tổng số dao động từ 3,09 – 3,17 mg/g; tỷ lệ diệp lục a/b có trị số<br />
bằng 1,90 – 1,92); (4) Cường độ quang hợp của Mây nếp đạt mức trung bình (bằng 1,226 – 1,292 mgCO2/dm2/h).<br />
- Mây nếp có khả năng chịu nhiệt độ cao,thể hiện rõ qua mức độ tổn thương của lá Mây nếp dưới nhiệt độ<br />
cao. Tại nhiệt độ 600C, mức độ tổn thương là 39,1% (đối với các cây Mây nếp xuất xứ từ Hà Giang), 37,1% (đối với<br />
các cây Mây nếp xuất xứ từ Hoà Bình). Mức độ tổn thương bình quân ở các cấp nhiệt độ (35 0C, 400C, 450C, 500C,<br />
550C, 600C) đạt trị số trung bình thấp (ở khu vực Hoà Bình là 17,07%; ở khu vực Hà Giang là 15,62%). Do vậy, có<br />
thể gây trồng Mây nếp trên nhiều vùng sinh thái khác nhau mà vẫn đảm bảo tỷ lệ sống cao.<br />
- Mây nếp là cây ưa ẩm nhưng có khả năng chịu hạn tốt, thể hiện rõ qua 2 chỉ tiêu: (1) Sức hút nước bình<br />
quân của cây Mây nếp ở mức trung bình khá (bằng 13,267 – 14,858atm);(2) Hệ số héo của Mây nếp tương đối thấp<br />
(bằng 10,090 – 11,759%).<br />
- Ở giai đoạn trưởng thành, trong rừng tự nhiên và rừng trồng, Mây nếp có nhu cầu cao đối với các chất dinh<br />
dưỡng khoáng N, OM%, P2O5, Ca2+ Mg2+, Tổng kiềm. Vì vậy, khi gây trồng Mây nếp ở những nơi có hàm lượng các<br />
chất này thấp có thể bón bổ sung để tăng sản lượng và chất lượng loài cây này.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Lê Đức Diên (1986), Nghiên cứu hàm lượng diệp lục của một số loài cây rừng. Thông báo khoa học, khoa Sinh<br />
học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tập 3. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.<br />
2. Lê Đức Diên, Cung Đình Lượng (1968), Nhu cầu ánh sánh đối với một sộ cây rừng, Thông báo khoa học, khoa<br />
Sinh học – Trường ĐH tổng hợp Hà Nội, Tập 3, NXB khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.<br />
3. Hoàng Đức Cử (1993) Thực tập sinh lý thực vật. Ha Noi University Viet Nam – Holland Cooperation project VH3 –<br />
1993.<br />
4. Nguyễn Như Khanh (1996), Sinh lý học sinh trưởng và phát triển thực vật, Nxb Giáo dục, 1996.<br />
5. Hoàng Minh Tấn và các tác giả (2000), Sinh lý thực vật, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.<br />
6. Vũ Văn Vụ (1999), Sinh lý thực vật ứng dụng. NXB Giáo dục.<br />
7. Long S.P. and Hallgrre E. (1993), ” Measurement of CO 2 assimilation by plant in a field and<br />
laboratory” Photosynthesis and production in a changing enviroment: a fileld and laboratory manual by Hall D.O.<br />
edited, hapman &Hall Publ., London.<br />
Tác giả bài viết: TS. Nguyễn Minh Thanh<br />
Nguồn tin: Kết quả nghiên cứu của luận án Tiến sĩ năm 2010<br />