Một số danh nhân tiêu biểu của Diễn Châu trong phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX
lượt xem 9
download
Trong những thập niên nửa sau thế kỷ XX (sau năm 1858), Diễn Châu - Nghệ An là nơi sản sinh ra nhiều danh sĩ có đóng góp lớn vào phong trào yêu nước của nhân dân ta. Tiêu biểu có thể kể đến Nguyễn Xuân Ôn và Đinh Nhật Tân hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, chiêu tập binh sĩ dựng cờ khởi nghĩa; Đông các đại học sĩ Cao Xuân Dục cùng con rể là Tế tửu Quốc tử giám Đặng Văn Thụy “làm quan nhân nghĩa ẩn tại triều”, tìm mọi cách giúp...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số danh nhân tiêu biểu của Diễn Châu trong phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX
- Một số danh nhân tiêu biểu của Diễn Châu trong phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX Trong những thập niên nửa sau thế kỷ XX (sau năm 1858), Diễn Châu - Nghệ An là nơi sản sinh ra nhiều danh sĩ có đóng góp lớn vào phong trào yêu nước của nhân dân ta. Tiêu biểu có thể kể đến Nguyễn Xuân Ôn và Đinh Nhật Tân hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, chiêu tập binh sĩ dựng cờ khởi nghĩa; Đông các đại học sĩ Cao Xuân Dục cùng con rể là Tế tửu Quốc tử giám Đặng Văn Thụy “làm quan nhân nghĩa ẩn tại triều”, tìm mọi cách giúp đỡ phong trào yêu nước và phong trào Cần Vương của nhân dân ta nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX... Bài viết góp thêm thêm một vài tư liệu về một số danh nhân tiêu biểu của vùng đất địa linh nhân kiệt này. Trong những thập niên nửa sau thế kỷ XX (sau năm 1858), Diễn Châu - Nghệ An là nơi sản sinh ra nhiều danh sĩ có đóng góp lớn vào phong trào yêu nước của nhân dân ta. Tiêu biểu có thể kể đến Nguyễn Xuân Ôn và Đinh Nhật Tân hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, chiêu tập binh sĩ dựng cờ khởi nghĩa; Đông các đại học sĩ Cao Xuân Dục cùng con rể là Tế tửu Quốc tử giám Đặng Văn Thụy “làm quan nhân nghĩa ẩn tại triều”, tìm mọi cách giúp đỡ phong trào yêu nước và phong trào Cần Vương của nhân dân ta nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX... Bài viết góp thêm thêm một vài tư liệu về một số danh nhân tiêu biểu của vùng đất địa linh nhân kiệt này. Nguyễn Xuân Ôn là một nhà Nho phong kiến mang tinh thần dân tộc sâu sắc, có nhiều đóng góp cho phong trào yêu nước nửa sau thế kỉ XIX. Ông có cách nhìn khác với triều Nguyễn ở cái tâm huyết vì dân, vì nước, có gan đảm trách trước thời cuộc. Năm 1885, Nguyễn Xuân Ôn phất cờ khởi nghĩa giữa lúc cuộc đấu tranh của dân tộc gặp nhiều tổn thất, Trương Định, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu đều đã thất bại. Phất cờ lên lúc đó là lúc dân chúng sau hai chục năm khổ ải, điêu đứng vì cảnh “tối đánh, sớm càn”, không đêm nào được một giấc ngủ yên. Nguyễn Xuân Ôn
- không còn cái may mắn của Trương Định, có dân chúng: “đón ngăn mấy dặm mã (1) tiền, theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại” . Phất cờ lên giữa lúc đó, ông đã xông vào một trận địa đầy cam go, phức tạp, đằng trước, đằng sau, bên tả, bên hữu không còn một chút thuận lợi nào nữa. Ông chỉ có trong tay những phương tiện cũ kĩ, lạc hậu để đối chọi với sức mạnh sắt thép của kẻ xâm lăng. Tình thế tuyệt vọng là vậy, tại sao Nguyễn Xuân Ôn lại dám đứng lên? Không phải là để chết cho vua như Nguyễn Duy Hiệu, không phải vì cái danh dự ngu trung như Nguyễn Duy Dung “nguyện chết rồi cũng làm hồn hộ giá xe vua”, cũng không phải là cách xử thế mực thước của đại thần như Phan Đình Phùng “tự biết lấy càng bọ ngựa mà chống muôn cỗ xe” mong đáp nghĩa của triều đình cơm dày, áo nặng khi chiếu Cần Vương đã phát. Nguyễn Xuân Ôn đã vượt qua cái tầm đạo nghĩa quân thần và đã đứng vào lí tưởng của những Trương Định, Đoàn Trưng với động lực nằm ngoài triều đại. Ông đã như Trần Văn Nhiếp cùng vô số triều thần mong dốc hết tâm can cho cuộc cứu vãn tình thế, hơn Tôn Thất Thuyết, ông chẳng mong gì lòng tốt của nhà Thanh. Nguyễn Xuân Ôn đứng lên không vì ở tiền đồ của nhà Nguyễn, mà là vì cái khát vọng mãnh liệt trong ông: “Tự cổ hưng bang bảo trị quân, tu tri cố bản tại ninh dân” (Xưa nay nước mạnh vua bền, nên biết rằng đó là do biết giúp dân an cư lạc nghiệp). Nhà Nguyễn suy yếu chỉ vì đi ngược lại với quy luật đó. Ông đứng lên không chỉ vì căm thù giặc mà còn vì ngao ngán trước một triều đình đối lập với dân chúng, với nhân tài và những người trung thực. Trong triều đình, những kẻ cầu an chen chúc nhau “khoét lấy một hang thỏ ở triều đình cho bản (2) . Văn chương “điệp trùng” chỉ để lảm nhảm những thứ rỗng tuếch, những thân” giáo điều đã xa với thực tại đất nước. Lời nói của những người trung trực đều bị coi là “kiến sự phóng sinh” để quấy rối họ. Dù thắng, dù bại thì đây cũng là dịp duy nhất để cho Nguyễn Xuân Ôn đứng dậy. Cho nên, từ lâu, ông đã chuẩn bị cho chí lớn, đã sớm dựng căn cứ tụ nghĩa hào kiệt và dân chúng trước khi vua Hàm Nghi
- xuống chiếu Cần Vương. Ông chiêu dân lập trại, khẩn hoang mở rộng trang điền, tạo nên những cơ chế truyền thống vốn đã làm nên sức mạnh vô địch của những Tây Sơn, Lê Lợi, Trương Định là thống nhất lực lượng sản xuất và chiến đấu, sẵn sàng cho việc huy động sức người, sức của, quân lính từ nhà ra chiến trường trong tay một chủ súy. Điều trần của Nguyễn Xuân Ôn trước đó đã bao nhiêu lần nhấn mạnh về việc “vỗ về” dân chúng từ miền ngược đến miền xuôi, huy động trên mọi mặt thì mới làm nên sức mạnh quốc gia. Nhưng nhà Nguyễn đã một mực đối lập với nhà Nho và dân chúng, tăng cường một hệ thống bộ hạ, nịnh trên, ép dưới. Do đó, mâu thuẫn giữa triều đình và nho sĩ là tất yếu và ngày càng quyết liệt. Thực tế đó đã được Nguyễn Xuân Ôn gửi gắm vào trong thơ, có khi là một tiếng vọng xa xôi, có khi là những tuyên ngôn bộc bạch. “Ngọc đường thi tập” là tư thế của một anh hùng đang gánh tất cả thời cuộc trên hai vai của mình, cái tư thế của một Khổng Minh đứng chót vót trên đỉnh cao của quốc dân. “Ngọc đường” không còn nuôi tia hy vọng ở triều đình, không mong gì một nhân tài, một uy lực, một giá trị nào đó của họ mà biết tự tin ở chính mình mà thôi. Đó là cảm hứng đã làm nên hào khí của những bài “Hải văn quân”, “Lưỡng Tấn”. Nguyễn Xuân Ôn đã thể hiện khí phách của lòng tự tin, cả gan đứng mũi chịu sào giữa lúc không còn ai của triều đình, của hoàng tộc là đáng tin cậy nữa: “Thiên địa sinh ngô hữu ý vô” (Trời đất sinh ta có ý gì). Đó là một câu hỏi đầy tự tin để tự cho cái hữu hạn của mình vào cái vô cùng của thời cuộc. Khác với Nguyễn Xuân Ôn, Cao Xuân Dục không hưởng ứng chiếu Cần Vương dựng cờ khởi nghĩa. Ông chọn cho mình một lối đi riêng, vẫn tiếp tục làm quan trong triều đình nhà Nguyễn. Ông làm quan để sử dụng vị trí của mình làm phương tiện, làm cơ hội để gắn bó với thời cuộc khi nước Nam đã vào tay giặc. Cao Xuân Dục làm quan Nam triều, không đi theo chiếu Cần Vương nhưng lại có liên hệ với những nhân vật quan trọng của phong trào này. Khi Nguyễn Xuân Ôn - thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Cần Vương bị bắt, bị giam cầm, rồi mất, Cao Xuân
- Dục đã dành cho ông mối thiện cảm đặc biệt: “Công tri, công phi, sự đại bách niên phương định luận” (Có công ư? Không có công ư? Việc lớn ấy trăm năm sau mới nói được). Cách ngợi ca đầy ẩn ý của cụ Cao đối với lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Cần Vương đã khiến cho người đời càng trân trọng Nguyễn Xuân Ôn hơn. Không chỉ có mối liên hệ với các nhân vật tiêu biểu của phong trào Cần Vương, Cao Xuân Dục còn tích cực ủng hộ, giúp đỡ những nhà yêu nước đầu thế kỉ XIX, trong đó có Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Phong trào Duy Tân đã gây được tiếng vang lớn trong quần chúng nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ XX. Chính vì thế, cụ Phan Chu Trinh đã sớm trở thành mục tiêu của chính quyền thực dân. Năm 1908, cụ bị bắt ở Hà Nội rồi dẫn về Huế xử án. Trong quá trình xét xử, Khâm sứ Trung kì cố gò Phủ phụ chính vào quyết định “trảm quyết”. Nhờ lương tri và dũng khí của các Thượng thư, đặc biệt là Cao Xuân Dục với cương vị Thượng thư bộ Học sung Phụ chính đại thần, đã tuyên bố: “không trảm quyết ngay”. Do đó mà Phan Chu Trinh đã thoát án tử hình. Còn đối với Phan Bội Châu, lãnh tụ nổi bật của trào lưu dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, Cao Xuân Dục cũng đã dành một tình cảm sâu sắc và bảo vệ một cách khôn khéo. Thời kì Phan Bội Châu học trường Giám, ông có bí mật liên hệ với Tiểu la Nguyễn Thành để tích cực bàn bạc chuẩn bị lập hội Duy Tân. Hoạt động của Phan Bội Châu đã bị chính quyền thực dân theo dõi. Cao Xuân Dục đã giúp Phan Bội Châu qua được vòng nguy hiểm. Trong thâm tâm, Phan Bội Châu luôn ngưỡng mộ tài năng cũng như nhân cách của Cao Xuân Dục: “Xét việc thiện không bỏ sót, yêu bậc tài như yêu mình… Chỉ chăm đối đãi kẻ sĩ không nghĩ đến hậu quả nên mọi người đều thi nhau sung sướng được đến ra mắt trước”. Chính tài đức và nhân cách của cụ Cao đã khiến cho Phan Bội Châu vô cùng cảm động: “Ngõ hầu kẻ học trò này được thoả lòng mong mỏi, tài dẫu như gỗ tạp, nhờ ơn khéo uốn nắn mà thành, lòng như hoa Quỳ chung, hướng về thái dương mà mau nở”.
- Một điều thú vị là quan điểm cứu nước của Cao Xuân Dục có sự tương đồng với tư duy của Nguyễn Tất Thành: “Muốn cứu nước không có con đường nào khác là phải duy tân. Không học văn minh kỹ thuật phương Tây thì làm sao duy (3) tân được” . Vậy là tư duy cứu nước của Cao Xuân Dục, một đại thần của triều đình lại không giống cách nghĩ và sự lựa chọn của nhà Nguyễn. Khi Việt Nam đứng trước những thách thức của lịch sử ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thì nhà Nguyễn chìm đắm trong chính sách thủ cựu và tự cô lập nhằm cố gắng bằng mọi cách duy trì chế độ quân chủ chuyên chế lạc hậu và phản động. Dựa vào hệ tư tưởng Nho giáo và đám quan l ại nho sĩ cổ hủ, triều Nguyễn đã thi hành một đường lối hết sức bảo thủ. Nhà Nguyễn đã từng khước từ, cự tuyệt những đề nghị cải cách, khăng khăng duy trì chính sách cai trị cũ. Đồng thời nhà Nguyễn thi hành chính sách “bế quan toả cảng” cấm đoán nhân dân không được giao lưu, tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt là các nước phương Tây. Trong khi đó Cao Xuân Dục - một bậc đại thần, vị tôi trung của triều Nguyễn lại cho rằng “muốn cứu nước, muốn duy tân thì phải học tập văn minh kỹ thuật phương Tây”. Theo Charler Partris: “Cụ Cao Xuân Dục quá thông minh và yêu nước để hiểu rằng nền văn minh Phương Tây đem lại cho đất nước cụ là không thể thiếu được. Cụ biết rằng vào cái thời đại luyện thép và cơ học, những dân tộc sẽ hùng mạnh trong tương lai là những dân tộc thiết lập được một trào lưu mạnh mẽ, thường xuyên có sự trao đổi về trí tuệ cũng như về kinh tế, tư tưởng với các dân tộc khác trên toàn cõi địa cầu và cụ cũng thấy dân tộc nào tự khép mình một cách ngông cuồng trong cảnh cô lập, kiêu căng sẽ không tránh khỏi lâm vào tình trạng suy đồi, thoái hoá và hoàn toàn diệt vong” (4). Dù rất gắn bó với nền văn hoá cũ và bảo vệ văn hoá cũ một cách kiên trì nhưng Cao Xuân Dục đã chào đón ánh sáng từ văn minh phương Tây rọi về như một điều đáng quý. Cũng vì vậy, cụ Cao rất tán thành chí hướng của Nguyễn Tất Thành, học chữ Tây để tiếp cận văn minh phương Tây.
- Những nghĩa cử cao đẹp của Cao Xuân Dục đối với các lãnh tụ của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ nhân cách của một vị quan trọng nghĩa, trọng tài, yêu nước, thương dân. Trong phong trào yêu nước, danh nhân Diễn Châu đã có những đóng góp một cách sinh động: bạo động có, ôn hòa có, ý tưởng duy tân cải cách có. Nguyễn Xuân Ôn dựng cờ khởi nghĩa làm sống dậy tư tưởng yêu nước, thức tỉnh tinh thần “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” trước kẻ thù xâm lược. Cao Xuân Dục, Đặng Văn Thụy yêu nước có tư tưởng ôn hòa hơn, vẫn làm việc cho thực dân và tay sai nhưng bằng mọi cách khéo léo tế nhị để bảo vệ che chở cho những người yêu nước chống chính quyền thực dân. Danh nhân Diễn Châu có những đóng góp cho lịch sử dân tộc ta về các mặt: ngoại giao, quân sự, văn học, lịch sử... Gợi ra điều này để độc giả có dịp tìm hiểu sâu hơn./.
- Chú thích (1[1]),(2) Đảng ủy - UBND xã Diễn Thái (1999), Về danh nhân lịch sử - văn hoá Nguyễn Xuân Ôn, Nxb Hà Nội, tr. 72, tr. 75, tr. 79. (3) Sơn Tùng, Chân dung một con người, tập tài liệu sưu tập. (4) Charles Patris (2002), Ngài Cao Xuân Dục - con người tâm tánh cuộc sống riêng, những người bạn Cố đô Huế (tập 10), Nxb Thuận Hoá. Tài liệu tham khảo 1. Charles Patris (2002), Ngài Cao Xuân Dục - Con người tâm tánh cuộc sống riêng, những người bạn Cố đô Huế (tập 10), Nxb Thuận Hoá. 2. Cao Xuân Dục (2005), Tuyển tập Cao Xuân Dục (tập 5), Đại Nam nhất thống chí, Nxb Văn học. 3. Cao Xuân Dục (1998), Quốc triều chính biên toát yếu (tập 1), Nxb Thuận Hoá. 4. Đảng ủy - UBND xã Diễn Thái (1999), Về danh nhân lịch sử - văn hoá Nguyễn Xuân Ôn, Nxb Hà Nội. 5. Đinh Xuân Lâm (2005), Nhà văn thân yêu nước Nguyễn Xuân Ôn - ngọn cờ đầu của phong trào Cần Vương Bắc Nghệ An cuối thế kỷ XIX, Nxb Nghệ An. 6. Nguyễn Nghĩa Nguyên (1998), Cụ nghè Ôn, giai thoại và truyền thuyết, Nxb Nghệ An. Đinh Văn Hưng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Nhân vật, di tích tiêu biểu thời Trần 1
5 p | 267 | 29
-
Con người văn hóa trong tư tưởng của một số danh nhân dân tộc -1 Phần 2 .
11 p | 126 | 10
-
Triết lý âm – dương qua một số biểu tượng của đạo Cao Đài
6 p | 101 | 8
-
Một số kết quả khảo sát về sự biến đổi của nhân vật thần từ trong thần thoại đến cổ tích thần kỳ Việt Nam
13 p | 58 | 8
-
Tình hình nghiên cứu về thơ ca của các nữ thi nhân trong Toàn Đường thi và Manyoshu
9 p | 83 | 6
-
Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề an sinh xã hội và những giá trị cho Việt Nam hiện nay
4 p | 59 | 5
-
Khó khăn tâm lí của giáo viên tiểu học khi đánh giá bằng nhận xét cho học sinh ở một số trường tiểu học tại thành phố Sơn La
6 p | 94 | 4
-
Khách quan hóa giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam hiện nay
5 p | 43 | 4
-
Trung quốc thời phong kiến
5 p | 135 | 4
-
Tìm hiểu về hư từ "cứ" trong tiếng Việt hiện đại
9 p | 30 | 4
-
Tiếp cận “Chuyện ngõ nghèo” của Nguyễn Xuân Khánh từ góc độ phúng dụ dân tộc
9 p | 20 | 3
-
Hiểu đúng về dạy - học tích cực
8 p | 24 | 2
-
Tư tưởng về thời của chủ tịch Hồ Chí Minh
8 p | 46 | 1
-
Xây dựng tiêu chí đánh giá sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ 5 - 6 tuổi
5 p | 51 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn