intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số giải pháp phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Ngọc Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:50

52
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết trình bày một số giải pháp phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản Việt Nam. Để hiểu rõ hơn, mời các bạn tham khảo chi tiết nội dung bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số giải pháp phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản Việt Nam

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ<br /> TRƯỜNG NỘI ĐỊA CÁC SẢN PHẨM GỖ VÀ<br /> LÂM SẢN VIỆT NAM<br /> TS. NguyÔn M¹nh Dòng<br /> <br /> I. Mở đầu<br /> Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành chế<br /> biến gỗ và lâm sản đã đạt được những thành tựu to lớn cả về<br /> số lượng, chất lượng doanh nghiệp chế biến, kim ngạch xuất<br /> khẩu và thị trường tiêu thụ sản phẩm... Các sản phẩm gỗ chế<br /> biến đang ngày càng trở nên đa dạng hơn, có mẫu mã và chất<br /> lượng sản phẩm ngày càng phù hợp hơn với cả thị trường trong<br /> nước và xuất khẩu. Từ chỗ chỉ tập trung để tái xuất khẩu sang<br /> một nước thứ ba, đến nay, các sản phẩm gỗ chế biến của Việt<br /> Nam đã có mặt ổn định ở trên 120 nước và vùng lãnh thổ trên<br /> toàn thế giới với nhiều doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu sang<br /> các thị trường quan trọng.<br /> Do vậy, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ cũng đang<br /> ngày càng tăng một cách ổn định. Nếu như năm 2000, giá trị<br /> kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ của nước ta chỉ mức<br /> khiêm tốn là 214 triệu đô la Mỹ thì đến năm 2004 kim ngạch<br /> xuất khẩu này đã lần đầu tiên vượt mốc 01 tỷ đô la Mỹ để đạt<br /> giá trị 1,154 tỷ USD và năm 2017 kim ngạch xuất khẩu gỗ và<br /> lâm sản đã chạm mức 8 tỷ USD, tăng 10,2% so năm 2016 và<br /> về trước 3 năm so với kế hoạch đề ra trong Chiến lược phát<br /> triển ngành lâm sản giai đoạn 2006 - 2020. Việt Nam đã trở<br /> thành nước xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ 5 thế giới với<br /> gần 5,0% thị phần thương mại đồ gỗ nội thất thế giới, thứ hai<br /> <br /> 1<br /> châu Á và đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Nói cách khác, chế<br /> biến và xuất khẩu các sản phẩm gỗ và lâm sản đã và đang trở<br /> thành một ngành kinh tế quan trọng, chủ lực trong nền kinh tế<br /> của nước ta. Đây là một ngành kinh tế không những tạo công<br /> ăn, việc làm, đem lại thu nhập cho người lao động mà còn là<br /> một trong những ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn của<br /> nước ta.<br /> Tuy nhiên, vẫn đang tồn tại một nghịch lý là trong khi các<br /> doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản đang ngày càng đẩy mạnh<br /> các hoạt động sản xuất, chế biến sản phẩm xuất khẩu sang các thị<br /> trường khác nhau trên thế giới thì thị trường trong nước với sức<br /> tiêu thụ của hơn 90 triệu người dân có nhu cầu ngày càng tăng<br /> cao, ước tính khoảng 2-4 tỉ USD/năm lại đang bị bỏ ngỏ cho các<br /> doanh nghiệp nước ngoài. Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt<br /> Nam (Vietfores), thị trường trong nước đang bị các sản phẩm gỗ<br /> xuất xứ từ Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan,... chiếm lĩnh. Kết<br /> quả một số cuộc điều tra, khảo sát thị trường của Vietfores gần<br /> đây cho thấy, chỉ có khoảng 20% doanh số tiêu thụ đồ gỗ trong<br /> nước thuộc về các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam, còn lại<br /> 80% thuộc về các sản phẩm của các doanh nghiệp Malaysia,<br /> Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan...<br /> Các loại lâm sản ngoài gỗ như tre, nứa, song mây... (dùng<br /> để lấy sợi); thảo quả, quế, hồi... (dùng làm dược liệu) hoặc<br /> măng tre, nứa... chế biến các loại (làm thực phẩm)... cũng vẫn<br /> trong tình trạng chỉ hướng mạnh đến xuất khẩu. Kim ngạch<br /> xuất khẩu các mặt hàng mây, tre, cói, thảm thường luôn chỉ<br /> duy trì ở mức 200 - 280 triệu USD mỗi năm, chỉ cá biệt có một<br /> vài năm lên đến 400 - 500 triệu USD. Các sản phẩm hàng hóa<br /> như thảo quả, quế, hồi, nhựa thông, mật ong,... cho dù có<br /> <br /> 2<br /> nhiều ưu điểm và lợi thế trên thị trường nội địa, nhưng cũng<br /> chủ yếu được chế biến dành cho xuất khẩu. Số lượng sản phẩm<br /> tiêu dùng cho thị trường nội địa hầu hết là các sản phẩm tự<br /> cung, tự cấp hoặc sản phẩm chất lượng không cao, không xuất<br /> khẩu được hoặc bị các thị trường thế giới trả về. Trong khi đó,<br /> sản phẩm chế biến từ các loại lâm sản ngoài gỗ này của nước<br /> ngoài như sữa ong chúa, sâm alipas... lại được quảng cáo, tiêu<br /> thụ trong nước lại rất rầm rộ, với giá bán khá cao.<br /> Để phát triển thị trường nội địa sản phẩm gỗ và lâm sản<br /> tương ứng với hoạt động xuất khẩu các sản phẩm này, cũng<br /> như tương xứng với tiềm năng của ngành, cần có những hoạt<br /> động phù hợp điều kiện hiện tại, năng lực của các doanh<br /> nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm và cơ sở hạ tầng và các<br /> khâu của chuỗi cung ứng sản phẩm trên thị trường. Việc<br /> nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phát triển thị trường nội địa<br /> là rất cần thiết trong thời điểm hiện nay, khi cả nước đang thực<br /> hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2017 - 2020 nói<br /> chung và ngành lâm nghiệp nói riêng theo Quyết định số<br /> 1819/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc tái<br /> cơ cấu lĩnh vực chế biến, thương mại lâm sản theo hướng nâng<br /> cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.<br /> II. Thực trạng thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và<br /> lâm sản<br /> 2.1. Thực trạng chế biến gỗ và lâm sản<br /> 2.1.1. Thực trạng chế biến lâm sản ngoài gỗ<br /> Khai thác và chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện tại chưa được<br /> quan tâm đúng mức. Do đó chưa hình thành được hệ thống<br /> thông tin được cập nhật thường xuyên về các hoạt động chế<br /> biến lâm sản ngoài gỗ, kể cả chế biến trong nước và nhập<br /> 3<br /> khẩu. Rất khó có thể có được các số liệu cụ thể, chính xác và<br /> cập nhật trong lĩnh vực này. Các sở nông nghiệp và phát triển<br /> nông thôn địa phương do chưa quan tâm thật sự đến lĩnh vực<br /> này nên cũng hầu như không thống kê, lưu trữ các số liệu liên<br /> quan đến hoạt động chế biến lâm sản ngoài gỗ một cách có hệ<br /> thống và cập nhật.<br /> Chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện nay gồm 3 phương thức chủ<br /> yếu là sơ chế sau thu hoạch, chế biến thủ công và chế biến<br /> công nghiệp.<br /> - Sơ chế lâm sản sau thu hoạch, bao gồm những biện pháp<br /> thủ công chủ yếu như phơi khô, sấy khô, ướp muối, ngâm<br /> chua,… để hạn chế tác động của nấm mốc, mục, mọt và thuận<br /> lợi cho quá trình lưu thông.<br /> - Chế biến thủ công chủ yếu là nghề đan lát thủ công mỹ<br /> nghệ mây, tre. Tại một số địa phương đã triển khai được các<br /> công nghệ chế biến ở quy mô hợp tác xã như các công nghệ,<br /> thiết bị chưng cất tinh dầu hồi, quế… song số lượng không<br /> nhiều và chất lượng sản phẩm chưa cao.<br /> - Chế biến công nghiệp hiện tại chỉ sử dụng các lâm sản<br /> ngoài gỗ chủ yếu như tinh dầu, nhựa thông, bột giấy và một số<br /> sản phẩm cao cấp từ mây, tre.<br /> Chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện cũng đang tồn tại 03 hình<br /> thức tổ chức sản xuất là: (i) chế biến tại hộ gia đình (chiếm<br /> chủ yếu), (ii) chế biến trong các hợp tác xã, tổ sản xuất, và (iii)<br /> chế biến trong các doanh nghiệp. Số lượng hộ, cơ sở chế biến<br /> lâm sản ngoài gỗ hiện khó có thể xác định chính xác do chưa<br /> có nguồn thống kê tin cậy.<br /> <br /> <br /> <br /> 4<br /> Nhìn chung, sản phẩm lâm sản ngoài gỗ (kể cả sơ chế và<br /> chế biến) chưa thực sự trở thành hàng hóa, trừ một số sản<br /> phẩm đặc thù thuộc nhóm cây có sợi như các sản phẩm mây<br /> tre, giang đan; sản phẩm nhóm tinh dầu, nhựa....<br /> Có thể nói, công nghệ chế biến lâm sản ngoài gỗ còn rất lạc<br /> hậu. Ngoài các doanh nghiệp chế biến tre, trúc, song, mây, dược<br /> liệu, nhựa thông... của nhà nước có quy mô tương đối lớn và tập<br /> trung, còn các doanh nghiệp chế biến lâm sản ngoài gỗ thuộc các<br /> loại hình sở hữu khác đều có quy mô nhỏ, phân tán, năng lực chế<br /> biến thấp. Chưa công bố được các tiêu chuẩn chất lượng sản<br /> phẩm đối với các sản phẩm đã và đang lưu thông trên thị trường.<br /> Chính vì vậy, nên chất lượng sản phẩm lâm sản ngoài gỗ tham<br /> gia vào thị trường đều không cao. Gần đây, có khá nhiều doanh<br /> nghiệp chế biến tre thành các sản phẩm công nghiệp như ván sàn<br /> tre, tre ép khối, tre ghép thanh... đã đầu tư hệ thống dây chuyền,<br /> thiết bị khá hiện đại từ Trung Quốc nhằm sản xuất ra khối lượng<br /> sản phẩm hàng hóa lớn phục vụ xuất khẩu.<br /> 2.1.2. Thực trạng chế biến gỗ<br /> Tính đến cuối năm 2017, cả nước có khoảng 3.000 doanh<br /> nghiệp chế biến gỗ và nhiều hộ gia đình, cơ sở chế biến gỗ,<br /> nhất là ở các làng nghề. Theo số liệu của Tổng cục lâm nghiệp<br /> và Vietfores, năng lực chế biến gỗ của cả nước ước đạt trên 30<br /> - 35 triệu m3/năm gỗ quy tròn. Đa phần các doanh nghiệp chế<br /> biến gỗ của nước ta là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có đến 47%<br /> tổng số các doanh nghiệp có công suất thiết kế sử dụng dưới<br /> 500 m3 gỗ tròn/năm. Có 21,67% tổng số doanh nghiệp có công<br /> suất thiết kế sử dụng trên 10.000 m 3 gỗ nguyên liệu một năm.<br /> Các doanh nghiệp này hầu hết là các doanh nghiệp có vốn<br /> nước ngoài, doanh nghiệp sản xuất trong hệ thống phân phối<br /> 5<br /> của nước ngoài (ví dụ như IKEA), các tập đoàn chế biến gỗ<br /> trong nước hoặc các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu dăm gỗ<br /> và các doanh nghiệp chế biến ván nhân tạo (MDF, ván<br /> dăm…). Có 11,51% doanh nghiệp có quy mô thiết kế từ 1.000<br /> - 10.000 m3 gỗ nguyên liệu một năm. Đa phần là các doanh<br /> nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, được thiết kế và thành lập từ<br /> khá lâu với công nghệ, thiết bị lạc hậu. Các doanh nghiệp này<br /> có quy mô thiết kế 500 - 1.000 m3 nguyên liệu một năm, chiếm<br /> 19,78% tổng số doanh nghiệp chế biến cả nước.<br /> Phần lớn các doanh nghiệp chế biến gỗ (56,1%) sản xuất<br /> nhiều dạng sản phẩm như gỗ xẻ, dăm gỗ, gỗ mỹ nghệ,… Chỉ<br /> có 8,6% tổng số doanh nghiệp chế biến tham gia chế biến ván<br /> nhân tạo như MDF, ván (gỗ) dán, ván dăm, gỗ ghép thanh…<br /> Đây là ngành chế biến gỗ có nhiều tiềm năng phát triển do tận<br /> dụng được nguồn nguyên liệu là gỗ rừng trồng, nhất là gỗ rừng<br /> trồng khai thác sớm, cũng như một số phụ phẩm của ngành chế<br /> biến và tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, do<br /> là lĩnh vực chế biến mới nên cần có thời gian để các doanh<br /> nghiệp đẩy mạnh đầu tư, nhất là đầu tư công nghệ và thiết bị<br /> chế biến hiện đại vào lĩnh vực này. Có 18,1% doanh nghiệp<br /> chế biến đồ gỗ nội thất và 13,7% tổng số doanh nghiệp đang<br /> chế biến đồ gỗ ngoại thất. Giá trị sản phẩm gỗ tham gia vào thị<br /> trường nội địa khoảng 2,5 tỷ USD/năm.<br /> Xét theo khía cạnh sở hữu thì có đến 81,7% tổng số doanh<br /> nghiệp là thuộc sở hữu ngoài nhà nước (doanh nghiệp dân<br /> doanh), có khoảng 14% là doanh nghiệp FDI, và 4,3% tổng số<br /> doanh nghiệp chế biến gỗ thuộc sở hữu của nhà nước. Đa phần<br /> (80,3%) các doanh nghiệp chế biến gỗ tập trung ở vùng Duyên<br /> hải Nam Trung bộ và vùng Đông Nam bộ.<br /> <br /> 6<br /> 2.2. Thực trạng thị trường nội địa<br /> 2.2.1 Thực trạng thị trường lâm sản ngoài gỗ<br /> Về nguyên liệu: Hằng năm, sản lượng nước ta khai thác và<br /> sử dụng khoảng 50.000 - 100.000 tấn lâm sản ngoài gỗ các<br /> loại. Trong đó, đáng chú ý là một số loại có sản lượng khai<br /> thác lớn và có tiềm năng tre, nứa, trúc... (581.000 cây/năm);<br /> song mây (8.821 tấn/năm)...; nhựa thông (15.000 - 20.000 tấn);<br /> thảo quả (3.000 - 5.000 tấn quả); quế (5.000 - 9.000 tấn); hồi<br /> (3.000 - 8.000 tấn quả); sa nhân (2.000 tấn);..<br /> Về sản phẩm chế biến: trên thị trường nội địa tre, luồng,<br /> vầu... là nhóm sản phẩm chiếm ưu thế vượt trội với khoảng từ<br /> 91,11% đến 95,015 tổng lượng sản phẩm, tùy theo thời gian.<br /> Xếp thứ hai là nứa các loại với tỷ trọng khoảng 4,35% -<br /> 8,07%. Các loại sản phẩm khác chỉ chiếm dưới 1,00% tổng<br /> lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường. Các loại lâm sản<br /> ngoài gỗ chế biến đa phần được tiêu thụ tại địa phương sản<br /> xuất dưới hình thức tự sản, tự tiêu. Chỉ có một số sản phẩm<br /> chế biến có khối lượng lớn được tiêu thụ có tính chất hàng hóa<br /> trên thị trường như măng (măng khô, măng chua, măng ngâm<br /> dấm, măng muối ớt...) với sản lượng khoảng 200.000 -<br /> 250.000 tấn/năm; colopan (chế biến từ nhựa thông) với sản<br /> lượng khoảng 1.000 tấn/năm, chủ yếu cho công nghiệp giấy và<br /> công nghiệp hóa chất và khoảng 100 tấn/năm tinh dầu thông.<br /> Ngoài ra, các loại sản phẩm mây tre đan là nhóm sản phẩm chủ<br /> đạo, chiếm khối lượng lớn trên thị trường nội địa. Các sản<br /> phẩm nhóm này rất đa dạng như các loại khay, đĩa, bình, lọ,<br /> rổ, rá, lẵng hoa, lẵng quả..., nhưng giá trị sản phẩm không cao,<br /> thị trường và mẫu mã sản phẩm lại không ổn định nên khó có<br /> <br /> <br /> 7<br /> thể xác định được cơ cấu sản phẩm cụ thể tham gia vào thị<br /> trường này một cách khả thi.<br /> Về đối tượng sử dụng: Đa phần các sản phẩm mang tính<br /> chất hàng hóa đều sử dụng để xuất khẩu. Thị trường nội địa<br /> hầu hết chỉ là tự sản, tự tiêu trong các chợ truyền thống. Người<br /> sử dụng đều mang tính chất vùng, miền của nơi gây trồng, khai<br /> thác và chế biến. Các siêu thị, trung tâm thương mại lớn đều<br /> không hoặc có rất ít sản phẩm lâm sản ngoài gỗ chế biến. Thị<br /> trường đáng nói nhất đối với nhóm sản phẩm này là thị trường<br /> dành cho khách du lịch. Nguyên nhân là do các sản phẩm này<br /> đều chưa công bố được tiêu chuẩn nên không được chấp nhận<br /> tiêu thụ tại các siêu thị, trung tâm thương mại lớn. Gần đây<br /> một số sản phẩm được phát triển trên phạm vi rộng hơn, nhất<br /> là trên thị trường thương mại điện tử không chính thức nhờ có<br /> sự can thiệp mạnh mẽ của internet, nhất là qua các mạng xã<br /> hội.<br /> 2.2.2. Thực trạng thị trường sản phẩm gỗ<br /> 2.2.2.1. Thị trường theo cơ cấu sản phẩm<br /> Gỗ và sản phẩm gỗ tham gia vào thị trường trong nước bao<br /> gồm một số mặt hàng chính sau:<br /> - Gỗ nguyên liệu: Bao gồm gỗ xẻ, gỗ tròn, gỗ nhân tạo (ván<br /> dăm, ván sợi, ván dán, gỗ ghép thanh...). Các loại sản phẩm<br /> này đều đến từ hai nguồn, khai thác, chế biến trong nước và<br /> nhập khẩu. Trong đó, khai thác từ các nguồn trong nước chiếm<br /> ưu thế cao hơn. Trong giai đoạn 2012 – 2015, cả nước chỉ<br /> nhập khẩu mỗi năm khoảng 4,0 - 4,9 triệu m3 nguyên liệu gỗ<br /> tự nhiên và 400.000 m 3 ván nhân tạo MDF trong tổng số 20 -<br /> 27 triệu m3 gỗ nguyên liệu sử dụng cho chế biến các loại.<br /> Trong năm 2017, theo tính toán của một số cơ quan, tổ chức,<br /> 8<br /> lượng gỗ nhập khẩu đã lên đến khoảng trên 7,5 triệu m 3, kim<br /> ngạch nhập khẩu gỗ là 2,1 tỷ USD và chiếm trên 21% lượng<br /> gỗ nguyên liệu dành cho chế biến của cả nước.<br /> - Sản phẩm đồ gỗ ngoài trời (bàn, ghế ngoài trời): Người<br /> tiêu dùng trong nước ít quan tâm đến các loại đồ gỗ ngoài trời,<br /> trừ một số ít địa phương khu vực phía Nam có sử dụng một vài<br /> loại sản phẩm ít phổ biến như bàn ghế để ở sân, vườn, song lại<br /> chủ yếu được chế biến từ các loại gỗ lũa, gốc cây... Có thể nói<br /> đồ gỗ ngoài trời đúng nghĩa hiện chưa có mặt trên thị trường<br /> nước ta.<br /> - Đồ gỗ nội thất, bao gồm nội thất phòng ngủ (giường, tủ<br /> áo, bàn phấn, bàn trang điểm...), nội thất nhà bếp (bàn ăn, tủ<br /> bếp), nội thất phòng khách (bàn, ghế phòng khách, sofa, kệ<br /> TV, tủ gương, tủ góc...), nội thất văn phòng: Đây là các sản<br /> phẩm chủ yếu trên thị trường trong nước hiện nay.<br /> - Sản phẩm gỗ phục vụ xây dựng, bao gồm một số sản phẩm<br /> chính như cốp pha, xà gồ, cột chống, khuôn cửa, cầu thang...<br /> - Đồ gỗ thủ công mỹ nghệ, bao gồm những sản phẩm như<br /> tượng gỗ, tranh khắc gỗ, khảm trai, tranh ghép gỗ, độc bình,<br /> đồ sơn mài, chạm khắc, các sản phẩm trang trí lưu niệm, quảng<br /> cáo như cốc, chén, đĩa, khay, thìa (muỗng), quạt, lọ, bình,<br /> cung, kiếm, đế lọ, guốc, bài vị, thảm hạt, chuỗi hạt, hộp các<br /> loại, huy hiệu, biểu tượng, biểu trưng, khung tranh, khung ảnh,<br /> phào mỹ nghệ, thuyền buồm mỹ nghệ các loại, mành trang trí,<br /> giá đỡ hàng mỹ nghệ,.... Đôi khi người ta còn xếp một số đồ<br /> nội thất phòng khách thuộc nhóm sản phẩm truyền thống, được<br /> chế biến từ các loại gỗ tốt, gỗ quý vào nhóm này như tràng kỷ,<br /> salon gỗ, tủ góc, tủ thờ, bàn thờ, đôn kỷ, án thư, bàn trà, tủ<br /> chè, tủ chùa, tủ đồng hồ, tủ gương,... vào nhóm này do có độ<br /> 9<br /> cầu kỳ, tinh xảo trong chế biến và các sản phẩm hầu hết đều<br /> được sản xuất từ các làng nghề chế biến gỗ truyền thống.<br /> Trong nhiều trường hợp nhóm sản phẩm này được biết đến<br /> dưới tên gọi là đồ gỗ cao cấp. Nếu tách riêng nhóm sản phẩm<br /> sau ra thì thị phần của nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ khá<br /> hạn chế. Trong khi nếu tính cả hai nhóm thì thị phần của<br /> chúng cũng khá cao, nhất là tại thị trường các địa phương phía<br /> Bắc.<br /> - Các sản phẩm gỗ khác: Nhóm sản phẩm này bao gồm các<br /> sản phẩm như nhạc cụ, đồ chơi trẻ em, vợt cầu lông, vợt<br /> tennis, vợt bóng bàn, gậy chơi bi-da, gậy chăn cừu, ót giầy (cái<br /> đón gót), chân tay giả, dù cán gỗ, chổi cán gỗ, cán chổi sơn,<br /> sản phẩm gỗ mỹ nghệ kết hợp song, mây, tre, trúc, vật liệu<br /> khác,...<br /> - Cơ cấu thị trường của nhóm sản phẩm nội thất<br /> Bàn, ghế là loại sản phẩm chiếm ưu thế trong nhóm đồ gỗ<br /> nội thất với khoảng 56,84% - 66,91% tổng lượng sản phẩm lưu<br /> thông trên thị trường nội địa. Tuy nhiên, nhóm sản phẩm này<br /> đang có xu hướng giảm, nhường chỗ cho loại sản phẩm khác.<br /> Giường, tủ là nhóm sản phẩm có tỷ trọng cao thứ hai trong<br /> nhóm (24,32% - 35,30%) và đang có xu hướng tăng dần đều<br /> trong những năm gần đây. Các sản phẩm khác như kệ các loại,<br /> ván sàn, ốp tường, ốp trần có khuynh hướng ổn định. Kệ các<br /> loại chiếm khoảng 3,46% - 3,81%. Ván sàn cũng ổn định ở<br /> mức 2,71% - 3,04% tổng lượng sản phẩm trong nhóm. Trong<br /> khi đó, tỷ trọng của ốp tường và ốp trần chỉ là 1,15% - 1,36%.<br /> - Cơ cấu thị trường của nhóm sản phẩm phục vụ xây dựng<br /> (khuôn cửa, cầu thang...).<br /> <br /> 10<br /> Bảng 1: Cơ cấu thị trường theo loại hình sản phẩm<br /> Gỗ Gỗ Gỗ<br /> Gỗ<br /> ngoại thủ Gỗ chống<br /> Nă Gỗ và ván<br /> thất và công dăm và lò, cốp Tổng<br /> m nội thất nhân<br /> gỗ xây mỹ bột giấy pha và<br /> tạo<br /> dựng nghệ bao bì<br /> 201<br /> 2<br /> -<br /> Khối<br /> lượng 86.1 34. 9.8 28. 1.191. 321. 1.671.<br /> (m3) 86,88 171,17 53,40 315,00 607,00 442,20 575,65<br /> - Tỷ<br /> trọng (%<br /> so tổng 2,0 0,5 1,6 19,2 100,0<br /> SP) 5,16 4 9 9 71,29 3 0<br /> 201<br /> 3<br /> -<br /> Khối<br /> lượng 100. 43. 11. 91. 795.7 355. 1.398.<br /> (m3) 789,29 255,27 684,50 034,00 96,00 789,60 348,66<br /> - Tỷ<br /> trọng (%<br /> so tổng 3,0 0,8 6,5 25,4 100,0<br /> SP) 7,21 9 4 1 56,91 4 0<br /> 201<br /> 4<br /> -<br /> Khối<br /> lượng 127. 57. 13. 31. 877.8 362. 1.470.<br /> (m3) 961,29 142,77 671,20 261,00 99,10 080,10 015,46<br /> - Tỷ<br /> trọng (%<br /> so tổng 3,8 0,9 2,1 24,6 100,0<br /> SP) 8,70 9 3 3 59,72 3 0<br /> (Nguồn: Dự án điều tra thị trường gỗ và lâm sản nội địa)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 11<br /> Trong nhóm này, các sản phẩm nói chung đều ổn định từ năm<br /> 2012 cho đến nay. Cửa các loại là loại sản phẩm có sự thay đổi<br /> đáng kể theo chiều hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng cao thứ hai<br /> với 34,26% - 38,79%. Khuôn cửa các loại chiếm tỷ trọng cao<br /> nhất với 34,62% - 39,16% tổng số sản phẩm lưu thông trên thị<br /> trường, nhưng đang có chiều hướng giảm. Sự giảm sút này có lẽ<br /> do các loại khuôn cửa thường được làm từ các loại gỗ tốt, quý,<br /> hiếm mà các loại gỗ này đang bị hạn chế khai thác. Thêm vào đó<br /> là sự tăng lên đáng kể của các loại sản phẩm thay thế không sử<br /> dụng gỗ. Cầu thang gỗ chiếm tỷ trọng thứ ba một cách ổn định<br /> với 16,99% - 18,37% tổng lượng sản phẩm trong nhóm. Cuối<br /> cùng là các loại sàn phẩm ốp sàn, ốp tường, chiếm 5,00% -<br /> 5,12% tổng lượng sản phẩm trong nhóm lưu thông trên thị<br /> trường.<br /> - Cơ cấu thị trường của nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ<br /> Nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ là nhóm đa dạng nhất về<br /> chủng loại sản phẩm gỗ chế biến, mặc dù tỷ trọng của nhóm này<br /> không cao. Các loại giường tủ là tiểu nhóm sản phẩm có tỷ trọng<br /> cao nhất và đang có xu hướng tăng trong thời gian gần đây, với<br /> 25,45% - 29,41%. Xếp thứ hai là sản phẩm tượng gỗ với 14,31%<br /> - 14,58%. Đặc trưng của tiểu nhóm sản phẩm này là độ ổn định<br /> tương đối cao. Tiếp đó là các loại áo quan cao cấp với khoảng<br /> trên 13,00%, nhưng cho đến năm 2014, sản phẩm loại này chỉ<br /> còn chiếm khoảng 10,46%. Bàn ghế cao cấp cũng chiếm tỷ trọng<br /> khá và ổn định trong khoảng 12,82% đến 14,55%. Bàn thờ các<br /> loại cũng chiếm tỷ trọng khá với 8,00%, nhưng hiện đang giảm<br /> và chỉ còn chiếm 6,37% tổng lượng sản phẩm lưu thông của<br /> nhóm. Tranh gỗ, tủ chùa, đôn kỷ chiếm khoảng 4,8% đến 6,27%<br /> tùy loại sản phẩm và tùy theo thời gian. Tủ chè, tủ gương cũng<br /> <br /> 12<br /> chỉ chiếm từ 3,32% đến 4,34% tổng lượng sản phẩm trong nhóm<br /> mỗi loại. Cuối cùng là các sản phẩm tượng gỗ, chỉ chiếm 0,18%<br /> đến 0,24% tổng lượng sản phẩm và đang có xu hướng giảm.<br /> Đáng chú ý là án thư, mặc dù là một loại sản phẩm tương đối ấn<br /> tượng trong nhóm này, song trong 3 năm gần đây đã hoàn toàn<br /> vắng bóng trên thị trường nội địa.<br /> 2.2.2.2. Cơ cấu thị trường theo nguồn gốc sản phẩm<br /> Nhìn chung, trên thị trường nội địa, sản phẩm gỗ và lâm sản<br /> sản xuất trong nước chiếm ưu thế hơn các sản phẩm nhập ngoại.<br /> Đây là một kết quả trái với nhận định cảm tính của một số<br /> chuyên gia trong lĩnh vực này.<br /> Xét trên tổng số thì các sản phẩm gỗ nhập ngoại là không<br /> nhiều so với các sản phẩm gỗ sản xuất trong nước để tiêu thụ trên<br /> thị trường nội địa. Tỷ lệ sản phẩm nhập ngoại và sản phẩm gỗ<br /> sản xuất trong nước dao động trong khoảng 1,74% - 2,76%. Tỷ lệ<br /> này dao động tùy thời điểm và chưa có quy luật rõ ràng. Sản<br /> phẩm gỗ ngoại thất và gỗ xây dựng có số lượng sản phẩm ngoại<br /> nhập lớn nhất trong các nhóm đồ gỗ trên thị trường nội địa. Tỷ lệ<br /> giữa sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm sản xuất trong nước của<br /> nhóm này đang ở mức 45,89% - 54,83% và đang có chiều hướng<br /> ngày càng có nhiều sản phẩm ngoại nhập về để tiêu thụ trong<br /> nước. Nếu như tỷ lệ này là 45,89% (năm 2012) thì năm 2013 đã<br /> là 47,67% và năm 2014 tăng mạnh lên 54,83%. Một điều cần lưu<br /> ý là các sản phẩm gỗ thủ công mỹ nghệ lại có tỷ lệ sản phẩm<br /> nhập khẩu khá cao so với sản lượng sản phẩm sản xuất trong<br /> nước (đứng thứ hai) với 34,21% - 44,31%. Tuy nhiên, xu hướng<br /> nhập ngoại các sản phẩm này vào thị trường nội địa đang giảm<br /> khá mạnh từ 44,31% năm 2012 xuống còn 34,21% năm 2014.<br /> Các sản phẩm gỗ nội thất có tỷ lệ sản phẩm nhập ngoại đứng<br /> 13<br /> hàng thứ ba với 7,27% - 17,61%. Tỷ lệ này đang tăng với tốc độ<br /> cao, từ 7,27% năm 2012 lên 17,61% năm 2014. Các nhóm sản<br /> phẩm gỗ còn lại hầu như không có sản phẩm ngoại nhập vào để<br /> tiêu thụ tại thị trường nội địa. Các xu hướng nhập ngoại sản<br /> phẩm đồ gỗ này chứng tỏ khả năng hội nhập cao của nền kinh tế<br /> Việt Nam vào kinh tế thế giới và cũng phần nào cho thấy sự thay<br /> đổi thị hướng của người tiêu dùng trong nước về đồ gỗ theo tốc<br /> độ hội nhập với các sản phẩm chung của thế giới.<br /> 2.2.2.3. Các sản phẩm thay thế đồ gỗ<br /> Hiện đang có nhiều loại sản phẩm thay thế nguyên liệu gỗ<br /> trong chế biến sản phẩm đồ gỗ. Các sản phẩm thay thế tập trung<br /> chủ yếu vào nhóm sản phẩm xây dựng và phục vụ xây dựng.<br /> Trong đó phải kể đến các sản phẩm từ sắt, thép... thay thế cho các<br /> loại cốp pha gỗ truyền thống trong xây dựng, nhất là trong xây<br /> dựng các công trình lớn và các loại chung cư cao tầng. Nhiều loại<br /> vật liệu từ lâm sản ngoài gỗ như tre ép khối, ván sàn tre, nhôm,<br /> kính... cũng được sử dụng ngày càng rộng rãi thay thế cho đồ gỗ<br /> trong việc chế tạo khuôn cửa, cánh cửa, sàn nhà... Các dạng vật<br /> liệu thay thế khác như gỗ nhựa, đồ nhựa... cũng đã và đang dần<br /> thay thế đồ gia dụng làm từ gỗ, lâm sản ngoài gỗ.<br /> 2.2.2.4. Kênh thị trường, chuỗi cung ứng, mạng lưới, hình<br /> thức phân phối các sản phẩm gỗ và lâm sản và đối tượng<br /> tiêu thụ<br /> Khác với xuất khẩu, việc lưu thông, phân phối gỗ và sản phẩm<br /> lâm sản trên thị trường nội địa rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc<br /> vào từng địa phương và từng loại sản phẩm. Tuy nhiên, có thể<br /> thấy rõ là cho đến nay trên thị trường này chưa có những kênh thị<br /> trường và mạng lưới phân phối sản phẩm lâm sản nào hoạt động<br /> có hiệu quả và có tính chất chi phối trên phạm vi cả nước. Hầu<br /> 14<br /> hết các kênh thị trường và mạng lưới phân phối sản phẩm đều là<br /> tự phát, mang tính địa phương và không có khả năng chi phối<br /> một cách tự giác đến nhà sản xuất, khai thác và chế biến.<br /> Theo kết quả điều tra của Dự án “Điều tra, đánh giá thực<br /> trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị trường nội địa về<br /> sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành” do<br /> Tổng cục Lâm nghiệp làm chủ đầu tư, thực hiện năm 2015 –<br /> 2016, cho đến hết năm 2014, cả nước có khoảng 36.688 - 41.660<br /> đơn vị, hộ gia đình và doanh nghiệp (sau đây gọi chung là cơ sở)<br /> ở các hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào mạng lưới phân<br /> phối sản phẩm gỗ và lâm sản. Trong đó, khu vực miền Trung có<br /> số lượng lớn nhất với 18.323 cơ sở phân phối. Tiếp đến là khu<br /> vực miền Bắc với 11.652 cơ sở. Miền Nam hiện tại có 4.841 cơ<br /> sở, còn khu vực Duyên hải miền Trung có 974 và Tây Nguyên có<br /> 898 cơ cở trong mạng lưới phân phối sản phẩm. Trong hệ thống<br /> phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản cả nước các hộ kinh doanh cá<br /> thể chiếm phần đa số với 88% (năm 2014) tổng số doanh nghiệp,<br /> tổ chức và cá nhân tham gia mạng lưới này. Trong khi đó, các<br /> doanh nghiệp nhà nước tham gia phân phối sản phẩm hết sức nhỏ<br /> bé với 0,1% tổng số cơ sở tham gia. Quy mô của các doanh<br /> nghiệp tham gia vào thị trường nội địa cũng hết sức nhỏ bé. Các<br /> doanh nghiệp có quy mô vốn đầu tư dưới một tỷ đồng chiếm số<br /> lượng lớn nhất với 61,09% - 70,04% tổng số doanh nghiệp, cơ<br /> sở. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ 1 đến 5 tỷ đồng chiếm<br /> khoảng 21% - 27%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư càng lớn thì<br /> tỷ trọng trong hệ thống phân phối sản phẩm càng thấp. Chỉ có<br /> 6,44% - 9,70% tổng số doanh nghiệp là có vốn trên 5 tỷ đồng đến<br /> dưới 10 tỷ đồng. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp có vốn đầu tư<br /> trên 10 tỷ chỉ là 2,08% - 2,53%.<br /> <br /> 15<br /> Tính đến năm 2014, cả nước có 14.566 doanh nghiệp, cơ sở<br /> tham gia vào hệ thống phân phối theo các loại sản phẩm gỗ và lâm<br /> sản. Trong đó có 7.974 doanh nghiệp, cơ sở (54,74% tổng doanh<br /> nghiệp, cơ sở) chuyên phân phối sản phẩm đồ gỗ nội, ngoại thất;<br /> 5.343 cơ sở (36,68%) chuyên phân phối đồ thủ công mỹ nghệ; 403<br /> cơ sở (2,77%) phân phối ván dăm và bột giấy; 175 cơ sở (1,20%)<br /> phân phối ván nhân tạo; 440 cơ sở (3,02%) phân phối gỗ chống lò,<br /> cốp pha, bao bì và chỉ có 231 cơ sở (1,59%) cơ sở chuyên phân<br /> phối sản phẩm lâm sản ngoài gỗ. Hình thức doanh nghiệp vừa sản<br /> xuất, chế biến, vừa trực tiếp tham gia phân phối sản phẩm chiếm<br /> đa phần trong các loại doanh nghiệp tham gia vào hệ thống phân<br /> phối sản phẩm, nhất là ở khu vực phía Bắc.<br /> Đối với gỗ nguyên liệu được khai thác trong nước (chủ yếu là<br /> gỗ rừng trồng) được tiêu thụ theo 3 kênh thị trường với đối tượng<br /> tiêu thụ chính sau:<br /> - Kênh 1: Các hộ trồng rừng bán cho các xưởng mộc tại địa<br /> phương (bán lẻ) để sản xuất các loại đồ mộc dân dụng, các đồ nội<br /> thất gia đình như giường, tủ, bàn ghế, cửa... và các sản phẩm<br /> phục vụ xây dựng như cột chống, cốp pha, xà gồ... Kênh thị<br /> trường này phần nhiều mang tính địa phương và tự cung, tự cấp.<br /> Các công ty lâm nghiệp, doanh nghiệp trồng và khai thác ít tham<br /> gia vào mạng lưới phân phối này.<br /> - Kênh 2: Hộ gia đình, liên hộ gia đình, các hợp tác xã, thậm<br /> chí một số doanh nghiệp trồng rừng và khác thác gỗ quy mô nhỏ<br /> bán gỗ cho người thu gom (bán buôn). Người thu gom vận<br /> chuyển và bán lại cho các cơ sở, doanh nghiệp chế biến gỗ.<br /> - Kênh 3: Hộ gia đình, liên hộ gia đình, các hợp tác xã, thậm<br /> chí một số doanh nghiệp trồng rừng và khác thác gỗ bán gỗ cho<br /> các doanh nghiệp, cơ sở chế biến gỗ theo hợp đồng ký giữa các<br /> 16<br /> bên. Các đơn vị có khối lượng gỗ lớn, gỗ có chứng chỉ (FSC,<br /> PEFC...) và một phần gỗ nhập khẩu thường tổ chức tiêu thụ theo<br /> kênh này.<br /> - Kênh 4: Gỗ nhập khẩu, gỗ rừng tự nhiên, gỗ cao su... thường<br /> được tiêu thụ thông qua các chợ gỗ, các phiên đấu giá gỗ. Hiện<br /> phần lớn gỗ cao su đại điền, gỗ nhập khẩu, gỗ rừng tự nhiên khai<br /> thác trong nước, gỗ tịch thu... được phân phối qua kênh tiêu thụ<br /> này. Hầu như các địa phương có lượng tiêu thụ gỗ nguyên liệu<br /> lớn như Bắc Ninh, Nam Định, Bình Định, Đồng Nai,... đều hình<br /> thành các chợ gỗ lớn. Một số doanh nghiệp lớn như TAVIMEX<br /> (Đồng Nai) còn tự tổ chức chợ gỗ của riêng mình nhằm phân<br /> phối gỗ (chủ yếu là nhập khẩu) cho các doanh nghiệp chế biến.<br /> Ngoài ra, các doanh nghiệp chế biến còn trực tiếp nhập khẩu<br /> gỗ nguyên liệu từ nước ngoài về phục vụ cho hoạt động chế biến<br /> của mình. Tuy nhiên, kênh phân phối này không lớn và hoạt<br /> động không thường xuyên.<br /> Đối với sản phẩm gỗ: Có thể nói chắc chắn rằng cho đến nay<br /> trên thị trường nội địa chưa có những kênh phân phối sản phẩm<br /> đồ gỗ nào có quy mô đủ lớn, có ảnh hưởng bao phủ trong phạm<br /> vi khu vực, cũng như cả nước và có hoạt động có hiệu quả. Cũng<br /> đã hình thành một vài chuỗi phân phối sản phẩm của của doanh<br /> nghiệp lớn như “Nhà Xinh”, “Vietmay Home”... nhưng chừng đó<br /> là chưa đủ. Vấn đề đáng lo ngại hiện nay là dù chúng ta có nguồn<br /> cung và nhu cầu đồ gỗ rất lớn, nhưng hệ thống phân phối cho sản<br /> phẩm gỗ trong nước lại chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Một<br /> số doanh nghiệp như Hoàng Anh Gia Lai, Hòa Phát... bước đầu<br /> đã có hệ thống phân phối riêng, nhưng còn nhỏ lẻ về quy mô và<br /> sản phẩm chưa phong phú.<br /> <br /> <br /> 17<br /> Hình thức phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản trên thị trường<br /> nội địa vẫn chỉ là các hình thức phân phối truyền thống. Các hình<br /> thức phân phối sản phẩm hiện đại như chợ điện tử, phân phối sản<br /> phẩm trên mạng internet... đã bắt đầu hình thành, nhưng chủ yếu<br /> vẫn là tự phát, nhỏ lẻ và khó kiểm soát.<br /> Đối tượng tiêu thụ các lọai sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa<br /> khá đa dạng. Cư dân thành thị và tầng lớp có thu nhập cao<br /> thường có xu hướng sử dụng các loại đồ gỗ cao cấp, đắt tiển, đồ<br /> gỗ ngoại nhập,.. trong khi cư dân nông thôn và tầng lớp trung lưu<br /> trở xuống lại thường có xu hướng sử dụng đồ gỗ bình dân, đồ gỗ<br /> từ các loại ván nhân tạo, đồ gỗ chế biến trong nước... Một điểm<br /> chung duy nhất là phần lớn người tiêu dùng hiện nay đang<br /> chuyển dần sang dùng các sản phẩm thay thế đồ gỗ như các loại<br /> đồ nhựa, đồ sắt, nhôm, kính,.., hoặc các sản phẩm từ gỗ phối hợp<br /> với các loại vật liệu khác.<br /> Chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa: Chuỗi<br /> cung ứng sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa theo sơ đồ sau.<br /> <br /> Thông tin về sản phẩm<br /> <br /> <br /> Doanh Doanh<br /> Sản phẩm nghiệp/cơ sở nghiệp/cơ sở Khách<br /> cung ứng phân phối hàng<br /> <br /> <br /> Thông tin về thị trường<br /> Sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 18<br /> a. Về sản phẩm<br /> Theo kết quả điều tra của Dự án “Điều tra, đánh giá thực<br /> trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị trường nội địa về<br /> sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành” thì<br /> tổng lượng sản phẩm thị trường nội địa dao động trong khoảng<br /> 1.500.000 - 3.000.000 m3 gỗ nguyên liệu quy tròn. Trong đó, sản<br /> phẩm sản xuất trong nước dao động trong khoảng 66,7% - 77,8%<br /> tổng lượng sản phẩm tham gia thị trường; phần còn lại là các sản<br /> phẩm nhập khẩu. Điều đó cho thấy, rõ ràng là các sản phẩm gỗ<br /> được sản xuất bởi các cơ sở sản xuất, chế biến gỗ trong nước là<br /> chủ yếu. Tuy nhiên, do đa phần nguyên liệu dùng để sản xuất,<br /> chế biến đồ gỗ tham gia thị trường trong nước là thuộc nhóm gỗ<br /> quý hiếm nên việc khai thác nguyên liệu trong nước khá hạn chế,<br /> chủ yếu là nhập nội từ các nước trong khu vực như Lào,<br /> Campuchia hay các nước thuộc châu Phi. Nhìn chung, sản xuất<br /> đồ gỗ nội địa tiêu tốn nguồn tài nguyên thiên nhiên từ rừng tự<br /> nhiên là chủ yếu. Việc phân phối sản phẩm gỗ nội địa đến người<br /> tiêu dùng thể hiện việc phân bổ nguồn tài nguyên quý hiếm của<br /> xã hội nói chung.<br /> b. Về thông tin<br /> Có thể nói rằng cả thông tin về đơn vị sản xuất, chế biến, thông<br /> tin về chất lượng, mẫu mã sản phẩm... từ nhà sản xuất đến người<br /> tiêu thụ (khách hàng) lẫn thông tin về thị hiếu khách hàng, về biến<br /> động thị trường,.. từ khách hàng đến đơn vị sản xuất, chế biến và<br /> cung ứng, phân phối đều không rõ ràng. Hiện chưa xác định được<br /> cơ chế, cũng như nguồn cung cấp thông tin trong lĩnh vực này.<br /> Đây là vấn để rất quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển<br /> thị trường nội địa một cách bền vững nên cần có sự đầu tư nghiên<br /> cứu, điều tra làm rõ để đề xuất những biện pháp phù hợp.<br /> 19<br /> Nhìn chung, các doanh nghiệp chế biến sản phẩm gỗ nội địa<br /> đều sản xuất theo sở trường, kỹ năng vốn có của mình mà chưa<br /> quan tâm đến nhu cầu thị trường, thị hiếu của khách hàng. Theo<br /> chiều ngược lại, khách hàng cũng chỉ biết mua những sản phẩm<br /> sẵn có trên thị trường mà chưa có được nhiều những tác động của<br /> mình đến nhà sản xuất hoặc cung ứng (trong trường hợp nhập<br /> khẩu). Chính vì vậy, khả năng tiêu thụ sản phẩm khá hạn chế,<br /> khả năng tạo ra đột biến trong sản xuất và về thị trường tiêu thụ<br /> sản phẩm cũng không cao. Mỗi biến động về thị hiếu của người<br /> tiêu dùng hay nhu cầu thị trường thường chậm ảnh hưởng đến<br /> đơn vị sản xuất, cung ứng sản phẩm.<br /> Sự hạn chế về nguồn, cơ chế cung cấp thông tin khiến cho<br /> những cố gắng trong hoạch định chính sách của các cơ quan nhà<br /> nước, xây dựng kế hoạch xúc tiến thương mại, chiến lược phát<br /> triển thị trường thường rất khó khăn do thiếu thông tin và cơ sở<br /> khoa học.<br /> c. Về các đơn vị cung ứng và phân phối sản phẩm<br /> Trong chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ nội địa, các doanh nghiệp<br /> tư nhân chiếm ưu thế với tỷ lệ từ 32,1% đến 35,2% tùy theo thời<br /> điểm. Có điều đáng suy nghĩ là trong khi nhà nước đang khuyến<br /> khích hình thành các doanh nghiệp dân doanh thì tỷ lệ các doanh<br /> nghiệp tư nhân tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ lại có<br /> chiều hướng giảm sút. Tỷ trọng của khối doanh nghiệp này đã<br /> giảm từ 35,2% tổng số doanh nghiệp tham gia trong chuỗi (năm<br /> 2012) xuống còn 32,3% (năm 2014). Tiếp sau đó là các công ty<br /> TNHH, tỷ trọng của khối doanh nghiệp loại này chiếm 24,5% -<br /> 29,2% tổng doanh nghiệp tham gia chuỗi và cũng có chiều hướng<br /> giảm theo thời gian. Các công ty tư nhân chiếm số lượng hàng<br /> thứ 3 với tỷ lệ 15,4% -16,5% và có chiều hướng tăng nhẹ. Các hộ<br /> 20<br /> gia đình có tỷ trọng khoảng 10,3% - 17,0% và cũng có chiều<br /> hướng tăng nhanh theo thời gian. Các doanh nghiệp nhà nước<br /> hầu như không tham gia vào chuỗi cung ứng nhóm hàng gỗ nội<br /> địa. Tỷ trọng của khối doanh nghiêp này chỉ dưới 0,5% và đang<br /> có chiều hướng giảm.<br /> Xem xét về quy mô vốn đầu tư của các đơn vị tham gia vào<br /> chuỗi cung ứng sản phầm gỗ trên thị trường nội địa hiện nay, có<br /> thể thấy hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở tham gia đều có quy mô<br /> vốn đầu tư rất nhỏ. Tỷ lệ doanh nghiệp/cơ sở có vốn đầu tư dưới<br /> 1,0 tỷ đồng chiếm đa số, dao động trong khoảng 86% - 90% tổng<br /> số đơn vị trong chuỗi. Tiếp đến là các đơn vị có quy mô vốn đầu<br /> tư từ 1,0 - 5,0 tỷ đồng, chiếm 10,2% đến 14,0% tổng số đơn vị<br /> tham gia chuỗi. Chỉ có 0,02% tổng số doanh nghiệp tham gia<br /> chuỗi có vốn đầu tư từ 5,0 tỷ đồng đến 10,0 tỷ đồng và không có<br /> doanh nghiệp nào có vốn đầu tư trên 10 tỷ đồng. Điều này cho<br /> thấy, hầu như không thể có doanh nghiệp tham gia vào chuỗi<br /> cung ứng nhóm sản phẩm này có khả năng làm chủ, chi phối và<br /> điều tiết được hệ thống phân phối sản phẩm trong chuỗi cung ứng<br /> nhóm sản phẩm này trên thị trường nội địa.<br /> Đánh giá về các doanh nghiệp tham gia vào việc cung ứng và<br /> phân phối sản phẩm có thể thấy:<br /> - Không có sự khác nhau nhiều về tỷ lệ giữa các nhóm tham<br /> gia vào chuỗi cung ứng theo tính chất thị trường của mỗi nhóm,<br /> ngoại trừ nhóm doanh nghiệp chuyên môi giới tiêu thụ hàng gỗ<br /> thủ công mỹ nghệ.<br /> - Nhóm doanh nghiệp có tỷ trọng lớn nhất trong chuỗi cung<br /> ứng sản phẩm này là nhóm doanh nghiệp vừa cung ứng, vừa<br /> phân phối sản phẩm với 23,2% - 26,0% tổng số doanh nghiệp<br /> tham gia vào chuỗi cung ứng. Điều này phản ánh tình trạng một<br /> 21<br /> cách tương đối rõ ràng tình trạng các doanh nghiệp tham gia vào<br /> chuỗi cung ứng sản phẩm, hàng hóa vừa phải lo sản xuất, vừa lo<br /> cung ứng và tiêu thụ sản phẩm.<br /> - Nhóm doanh nghiệp chỉ phân phối sản phẩm dưới hình thức<br /> đại lý, bán buôn, bán lẻ sản phẩm đứng thứ hai với 24,3% -<br /> 25,2% tổng số doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng, tương<br /> đương với nhóm doanh nghiệp chuyên cung ứng sản phẩm<br /> (20,0% - 24,6%). Tuy nhiên, có sự khác nhau về xu hướng phát<br /> triển giữa hai nhóm này. Trong khi nhóm chuyên phân phối sản<br /> phẩm có xu hướng ngày càng phát triển, số lượng doanh nghiệp<br /> trong nhóm tăng từ 24,3% (2012) lên 25,2% (năm 2014) thì<br /> nhóm doanh nghiệp chuyên cung ứng sản phẩm lại có sự suy<br /> giảm khá rõ ràng, giảm từ 24,6% (năm 2012) xuống chỉ còn<br /> 20,0% (năm 2014). Rõ ràng là có sự chuyển đổi trong chuỗi cung<br /> ứng sản phẩm hàng hóa theo hướng giảm trung gian và tăng khả<br /> năng bán sản phẩm đến người tiêu dùng.<br /> - Nhóm các doanh nghiệp bán lẻ cũng chiếm khoảng 20,4% -<br /> 22,7% tổng số doanh nghiệp tham gia trong chuỗi cung ứng và<br /> thấp nhất trong số các nhóm doanh nghiệp tham gia chuỗi cung<br /> ứng. Mặc dù sự khác nhau về số lượng doanh nghiệp giữa các<br /> nhóm là không lớn, song với tỷ trọng thấp nhất thuộc về nhóm<br /> bán lẻ chứng tỏ khả năng phát triển thị trường là khá hạn chế.<br /> Các tầng lớp trung gian trong chuỗi cung ứng còn khá nhiều làm<br /> hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của sản phẩm. Điều đáng<br /> mừng là số lượng doanh nghiệp trong nhóm bán lẻ cũng đang<br /> ngày càng tăng. Tỷ trọng nhóm doanh nghiệp này tăng đều từ<br /> 20,4% (2012) lên 22,7% (năm 2014). Có thể thấy, thị trường bán<br /> lẻ đồ gỗ nội địa đã và đang có sự khởi sắc trong thời gian gần<br /> đây. Đây cũng là xu thế tất yếu của sự phát triển thị trường đồ gỗ<br /> <br /> 22<br /> và lâm sản trong quá trình hội nhập quốc tế và trong tiến trình<br /> phát triển nói chung của một xã hội đang phát triển theo hướng<br /> thị trường.<br /> - Mặc dù có tỷ trọng thấp nhất trong các nhóm tham gia vào<br /> chuỗi cung ứng song nhóm các cơ sở môi giới sản phẩm đã đang<br /> tăng lên một cách đáng kể. Điều này cho thấy, thông tin giữa các<br /> thành tố trong chuỗi cung ứng, nhất là giữa các doanh nghiệp tiêu<br /> thụ sản phẩm với các doanh nghiệp chế biến, tạo ra sản phẩm đã<br /> được cải thiện.<br /> d. Về khách hàng<br /> Có thể thấy, nhóm khác hàng sản phẩm gỗ trên thị trường nội<br /> địa có một số đặc điểm sau:<br /> - Cơ hội nhận được thông tin về nhà sản xuất, cung ứng... cũng<br /> như chất lượng, thiết kế và mẫu mã sản phẩm hạn chế. Đa phần<br /> họ thực hiện mua sắm sản phẩm theo cảm tính, theo thông tin<br /> truyền tai, không chính thống, mua hàng theo tâm lý đám đông.<br /> - Cơ hội phản ánh thị hiếu, nhu cầu mua hàng hóa của mình<br /> đến các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, cung ứng sản phẩm một<br /> cách chính thống cũng rất hạn chế, nếu không muốn nói là hầu<br /> như không có.<br /> - Nhóm khách hàng là các hộ gia đình chiếm tỷ lệ khá cao,<br /> nhất là các hộ gia đình ở khu vực nông thôn và các hộ gia đình ở<br /> tầng lớp trung lưu trở lên.<br /> - Các khách hàng là cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan nhà<br /> nước cấp địa phương cũng là nhóm khách hàng quan trọng trong<br /> mua sắm đồ gỗ. Họ luôn là đối tượng khách hàng quan trọng của<br /> các đơn vị chế biến đồ gỗ trong khu vực làng nghề. Tuy nhiên,<br /> nhóm khách hàng này chịu ảnh hưởng của các quy định mua sắm<br /> <br /> 23<br /> công từ phía nhà nước, cũng như chịu ảnh hưởng từ tâm lý vốn<br /> không nhất quán, nặng cảm tính của các lãnh đạo đương thời, do<br /> vậy ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, phân phối sản phẩm đồ gỗ,<br /> nhất là đồ gỗ văn phòng không lớn như kỳ vọng của thị trường.<br /> - Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp dân doanh thành<br /> lập trong thời gian gần đây hầu như không phải là khách hàng<br /> trong chuỗi cung ứng này. Lý do là họ chuộng những loại đồ gỗ<br /> đơn giản, rẻ tiền và tiện lợi, đặc biệt là nhóm đồ gỗ ngoại nhập<br /> do đáp ứng được yêu cầu về tính tiện lợi và giá trị sử dụng cao.<br /> Trong khi nhóm sản phẩm đồ gỗ có tính thủ công mỹ nghệ lại<br /> không có được đặc điểm này.<br /> - Khách du lịch nước ngoài cũng là một trong những nhóm<br /> khách hàng khá quan trọng của đồ gỗ nội địa, đặc biệt là đối với<br /> nhóm hàng gỗ thủ công mỹ nghệ với tư cách là các hàng lưu<br /> niệm. Tuy nhiên, nhóm khác hàng này lại đang có nguy cơ sụt<br /> giảm dù lượng khách du lịch đến Việt Nam vẫn tăng do khách<br /> hàng nước ngoài, nhất là các khách hàng đến từ châu Âu, châu<br /> Mỹ hoặc từ các nước phát triển ưa chuộng các sản phẩm thủ công<br /> có hình khối, hoặc đường nét đơn giản, trong khi các sản phẩm<br /> gỗ thủ công mỹ nghệ của Việt Nam lại đa phần là hàng chạm,<br /> khắc với những đường nét hoa văn cầu kỳ, nhiều nét uốn lượng<br /> nên dễ bắt bụi và dễ vướng víu khi trưng bày, sử dụng. Quan<br /> trọng hơn là nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm thường ít được<br /> quan tâm thể hiện trên từng sản phẩm. Mỗi khách du lịch khi<br /> mua một sản phẩm lưu niệm rất quan tâm đến điều này bởi họ<br /> muốn gắn các kỷ niệm đó với những chuyến du lịch của họ tới<br /> những vùng đất mới, nhưng các sản phẩm hàng lưu niệm của<br /> Việt Nam, nhất là sản phẩm của làng nghề đã không thể hiện<br /> được điều đó. Nhiều sản phẩm đồ gỗ trong các làng nghề thường<br /> <br /> 24<br /> gắn với những điển tích Trung Hoa và không có xuất xứ cụ thể<br /> (made in Việt Nam) nên khó thu hút khách du lịch.<br /> III. Chính sách phát triển thị trường nội địa sản phẩm gỗ<br /> và lâm sản<br /> Chính sách của nhà nước đã có những tác động đến thị trường<br /> nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản. Định hướng phát triển thị<br /> trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản cũng đã được thể hiện<br /> qua một số nội dung cơ chế ưu đãi về lưu thông, vận chuyển sản<br /> phẩm gỗ và lâm sản; về xúc tiến thương mại và phát triển thương<br /> hiệu; về thuế và phí trong sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp; và<br /> một số hỗ trợ ưu đãi khác (đất đai, hỗ trợ đầu tư, tín dụng ...).<br /> Tuy nhiên, những chính sách liên quan đến phát triển thị trường<br /> gỗ nội địa nói chung vẫn rời rạc, thiếu đồng bộ, nhiều chính sách<br /> có sự chồng chéo, thậm chí là mâu thuẫn nhau. Bên cạnh đó, có<br /> nhiều nội dung chính sách chưa có quy định đầy đủ về cơ chế hỗ<br /> trợ, khuyến khích các đối tượng sản xuất kinh doanh khi tham gia<br /> thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản; thiếu cơ chế đặc<br /> thù để hỗ trợ tích tụ đất đai, vốn và tín dụng và ưu đãi đầu tư.<br /> Đặc biệt là chưa có chính sách riêng biệt, có giá trị thực thi cao<br /> để tạo ra bước đột phá phát triển ngành chế biến gỗ nói chung và<br /> thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản nói riêng.<br /> Nhóm chính sách về lưu thông vận chuyển gỗ và sản phẩm gỗ<br /> đã xác định được các thủ tục và hồ sơ cần thiết trong quá trình<br /> lưu thông, lưu kho bến bãi; chỉ rõ được quy định về việc xác<br /> minh gỗ đang lưu thông là hợp pháp, quy định cụ thể thời gian<br /> xác minh và trả kết quả. Chính sách đã tạo hành lang pháp lý cho<br /> việc quản lý lâm sản trên thị trường. Tuy nhiên, các chính sách<br /> chưa có sự thống nhất cao trong nội dung quy định, còn sự chồng<br /> chéo nhau, khó khăn cho việc thực thi chính sách. Ngoài ra,<br /> 25<br /> chính sách chưa có hướng dẫn cụ thể việc đổi mới trong quản lý<br /> lưu thông lâm sản.<br /> Trong phát triển thị trường lâm sản gỗ rừng trồng, thiếu chính<br /> sách hỗ trợ phát triển thương hiệu, chương trình xúc tiến thương<br /> mại cho các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, đặc biệt thiếu hoạt<br /> động nghiên cứu phân tích và dự báo thị trường nội địa và quốc<br /> tế của các sản phẩm gỗ rừng trồng.<br /> Nhóm chính sách về thuế, phí trong sản xuất, kinh doanh gỗ và<br /> sản phẩm gỗ đã được ban hành, triển khai và đạt được nhiều<br /> thành quả trong việc khuyến khích phát triển lâm nghiệp. Tuy<br /> nhiên, các quy định về thuế suất, nhập khẩu lâm sản đã thay đổi<br /> liên tục và có sự chồng chéo nhau làm cho các doanh nghiệp và<br /> cơ quan thừa hành gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, bị động<br /> trong kế hoạch sản xuất kinh doanh.<br /> Một số chính sách hỗ trợ khác như chính sách đất đai trong<br /> trồng rừng nguyên liệu, chính sách thuế và phí sử dụng đất trồng<br /> rừng, chính sách đầu tư, tín dụng đã được quy định trong các luật<br /> và một số văn bản. Những chính sách này đã góp phần thúc đẩy<br /> các chủ rừng trồng rừng nói chung và trồng rừng sản xuất nguyên<br /> liệu nói riêng. Tuy nhiên, các chính sách này thường ưu tiên đối<br /> với các chủ đầu tư doanh nghiệp và công ty lâm nghiệp có nguồn<br /> gốc nhà nước và các hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số mà<br /> chưa có những hỗ trợ thực sự đầy đủ cho các đối tượng trồng<br /> rừng sản xuất khác.<br /> Với những khoảng trống chính sách nêu trên, đặt ra yêu cầu<br /> cấp thiết và căn cứ khoa học rõ ràng để xây dựng và ban hành<br /> một văn bản chính sách đặc thù để hỗ trợ phát triển thị trường nội<br /> địa các sản phẩm gỗ và lâm sản, nhằm thúc đẩy thực hiện nhiệm<br /> vụ tái cơ cấu ngành lâm nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế<br /> 26<br /> quốc tế hiện nay.<br /> IV. Dự báo về thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm<br /> sản<br /> 4.1. Dự báo tình hình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam<br /> đến năm 2020 và 2030<br /> Dựa trên tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới và những tác động<br /> của chúng đến phát triển kinh tế của Việt Nam, cuối năm 2015,<br /> Trung tâm Thông tin và Dự báo Quốc gia (NCSEIF) đã xây dựng<br /> 03 kịch bản kinh tế Việt Nam đến năm 2020. Đó là kịch bản<br /> trung bình, kịch bản thấp và kịch bản cao. Trong đó, kịch bản<br /> trung bình, cũng là kịch bản chủ đạo, với nhiều khả năng xảy ra<br /> nhất. Trong đó, giả thiết tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục ổn<br /> định ở mức trung bình 4%. Đầu tư khu vực nhà nước được cải<br /> thiện hơn cả về tốc độ và hiệu quả và giữ vai trò điều tiết nền<br /> kinh tế. Điều hành chính sách có nhiều cải thiện, thủ tục pháp lý<br /> và môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện. Tốc độ tăng đầu tư<br /> trung bình giai đoạn tăng 7%. Mô hình kinh tế phần nào được<br /> chuyển đổi nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế tăng trưởng dựa<br /> vào vốn và nhập siêu. Hệ thống tài chính khá ổn định, điều hành<br /> chính sách tài khóa và tiền tệ tương đối linh hoạt. Các hiệp ước<br /> quốc tế có hiệu lực, giúp đầu tư và xuất khẩu Việt Nam cải thiện<br /> hơn. Khi đó, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2016 - 2020 có<br /> thể đạt mức 6,67%, trong khi lạm phát duy trì ở mức thấp,<br /> khoảng 5%.<br /> 4.2. Dự báo tình hình phát triển thị trường nội địa các sản<br /> phẩm gỗ và lâm sản<br /> Qua nghiên cứu, đánh giá và phân tích các điều kiện phát triển<br /> kinh tế xã hội Việt Nam từ nay đến năm 2020 và định hướng đến<br /> năm 2030 cho thấy, tăng trưởng kinh tế toàn giai đoạn 2016 -<br /> 27<br /> 2020 có thể đạt mức 6,67%, trong khi lạm phát duy trì ở mức<br /> thấp, khoảng 5%. Các nguồn nguyên liệu gỗ và lâm sản cho chế<br /> biến luôn đảm bảo. Tuy nhiên, các loại gỗ tốt, quý hiếm phục vụ<br /> cho hoạt động chế biến đồ gỗ truyền thống, cao cấp của các làng<br /> nghề chế biến gỗ có khả năng giảm sút do chính sách đóng cửa<br /> rừng tự nhiên, hạn chế khai thác, xuất khẩu gỗ tròn, gỗ quý của<br /> nhiều nước trên thế giới, cũng như vậy sẽ kéo theo có sự hạn chế<br /> về nguồn cung. Mặt khác, do nhiều thị trường chính sách mới có<br /> hiệu lực tại các như Hoa Kỳ, EU, Ôxtrâylia... với những quy định<br /> ngày càng khắt khe hơn về việc sử dụng gỗ hợp pháp trong chế<br /> biến đồ gỗ, cùng với đó là các chính sách khuyến khích phát triển<br /> chế biến sản phẩm phục vụ thị trường nội địa nên nhiều doanh<br /> nghiệp chế biến, kinh doanh sản phẩm gỗ sẽ chuyển dần từ hoạt<br /> động chế biến đồ ngoại thất nhằm xuất khẩu sang chế biến đồ gỗ<br /> nội thất, vừa phục vụ thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa.<br /> Các hoạt động gây trồng, khai thác và chế biến lâm sản ngoài gỗ<br /> sẽ được đẩy mạnh một cách chủ động và dài hơi theo các chiến<br /> lược phát triển được hoạch định trước. Thông tin về sản phẩm, về<br /> cơ sở, doanh nghiệp chế biến gỗ cũng sẽ được rõ ràng, thông suốt<br /> và minh bạch hơn. Thị hiếu của người tiêu dùng cũng ngày càng<br /> rõ ràng hơn. Và quan trọng hơn cả là do sự có mặt của các doanh<br /> nghiệp nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị<br /> hiếu thị trường sản phẩm gỗ nội địa có thể sẽ được một số doanh<br /> nghiệp chế biến lớn cả trong và ngoài nước, chú trọng nghiên cứu<br /> và định hướng phát triển theo hướng ưu tiên sử dụng gỗ rừng<br /> trồng trong nước và trình độ công nghệ chế biến hiện có. Theo<br /> sự phát triển này thị trường nội địa sẽ khá sôi động. Cơ cấu sản<br /> phẩm gỗ và lâm sản sẽ có những sự thay đổi rõ nét. Hệ thống<br /> phân phối, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm cũng có sự phát triển<br /> theo hướng tích cực nhờ sự đầu tư của các nước trong khu vực,<br /> 28<br /> của các doanh nghiệp và sự mở cửa thị trường bán lẻ nói chung<br /> của Chính phủ Việt Nam.<br /> V. Đánh giá chung về thị trường nội địa các sản phẩm gỗ<br /> và lâm sản<br /> 5.1. Một số tồn tại, hạn chế<br /> - Các sản phẩm gỗ và lâm sản vẫn chỉ được sản xuất, chế biến<br /> hướng vào thị trường xuất khẩu là chủ yếu, chưa có nhiều doanh<br /> nghiệp chú ý đến thị trường nội địa nên thị trường này chưa phát<br /> triển tương xứng với tiềm năng cả về chuỗi cung ứng, mạng lưới<br /> tiêu thụ, kênh phân phối sản phẩm... lẫn số lượng và chất lượng<br /> các thành tố tham gia vào thị trường.<br /> - Hệ thống phân phối sản phẩm, các kênh phân phối sản<br /> phẩm... hầu hết là tự phát nên vừa nhỏ, lẻ, vừa không hiệu quả và<br /> khó kiểm soát, quản lý để hình thành một thị trường ổn định và<br /> có tính định hướng.<br /> - Có quá nhiều doanh nghiệp, cơ sở tham gia vào thị trường,<br /> nhưng số lượng doanh nghiệp cơ sở chuyên nghiệp và có quy mô<br /> lớn lại không nhiều. Thị trường mang nặng về tự sản, tự tiêu,<br /> nhất là đối với các loại lâm sản ngoài gỗ. Tính chuyên nghiệp của<br /> các doanh nghiệp tham gia vào thị trường không cao.<br /> - Thông tin về thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản<br /> vừa thiếu, vừa yếu, nhất là các thông tin về sản phẩm, thị hiếu<br /> của người tiêu dùng và các thông tin dự báo thị trường khiến cho<br /> năng lực của doanh nghiệp sản xuất, chế biến khó thỏa mãn nhu<br /> cầu thị trường. Cơ cấu và thiết kế sản phẩm chưa thật sự hợp lý<br /> và linh hoạt theo biến đổi của thị hiếu người tiêu dùng.<br /> - Các kênh và hình thức tiêu thụ sản phẩm vẫn chủ yếu là<br /> truyền thống. Thiếu vắng các kênh, hình thức tiêu thụ sản phẩm<br /> hiện đại, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của xã hội.<br /> <br /> 29<br /> - Các phân khúc thị trường chưa được hình thành một cách rõ<br /> ràng và ổn định.<br /> - Thị hiếu của thị trường chưa rõ ràng, chưa được định hướng.<br /> Người tiêu dùng vẫn sử dụng sản phẩm theo tâm lý đám đông.<br /> - Chuỗi cung ứng sản phẩm chưa phát triển. Hệ thống bán lẻ<br /> quá manh mún và thiếu cả cơ sở hạ tầng cũng như công nghệ<br /> thương mại.<br /> - Hệ thống xúc tiến thương mại ở mọi cấp độ đều vừa thiếu<br /> vừa yếu, lại vừa không được chú ý đầu tư, cải thiện.<br /> - Thiếu các cơ chế chính sách chung, cũng như đặc thù, nhất là<br /> các chính sách phát triển rừng trồng gỗ lớn để phát triển thị<br /> trường nội địa tương xứng tiềm năng của ngành.<br /> 5.2. Một số nguyên nhân chủ yếu<br /> - Các doanh nghiệp sản xuất, chế biến có quy mô nhỏ, thiếu<br /> vốn và hoạt động tự phát nên chưa có chiến lược phát triển, nhất<br /> là chiến lược phát triển thị trường nội địa.<br /> - Thị trường nội địa vừa có khối lượng sản phẩm theo mỗi đơn<br /> hàng nhỏ, lại vừa không được ưu đãi về thuế, cũng như các chính<br /> sách hỗ t
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0